Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:54:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc đồng khởi kì diệu ở miền Nam Việt Nam 1959-1960  (Đọc 88513 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #90 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2010, 07:40:27 am »

Trong đợt 14.9.1960 đội bảo vệ của Liên Tỉnh ủy phối hợp với du kích và đội bảo vệ của Huyện ủy Kế Sách, biên chế thành 2 đại đội do đồng chí đội trưởng đội bỏ vệ của Liên Tỉnh ủy chỉ huy, hóa trang kì tập bức hàng chi khu Cái Công (quận Phong Thuận) và đánh phá 4 đồn khác của huyện Kế Sách, diệt 6 ác ôn, giải tán 9 ban tề xã, thu 65 súng, giải phóng 4 xã: Phong Nẫm, An Lạc Thôn, Ba Trinh, Thới An Hội.

Hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng củng cố và xây dựng 117 chi bộ (còn 18 xã chưa có chi bộ), phát triển 220.000 hội viên nông hội, thanh niên và phụ nữ(1).

Tại Vĩnh Long, đêm 14 tháng 9 năm 1960 đồng khởi bùng lên trong toàn tỉnh. Quần chúng khắp các xã trong tỉnh đồng loạt nổi dậy với đủ loại vũ khí gậy gộc, giáo mác, súng tự tạo “giả” cùng du kích và cơ sở nòng cốt, trống mõ vang dậy đi truy lùng ác ôn, giải tán liên gia, tề ấp, nổi bật nhất là các xã vùng sâu của các huyện như Mỹ An Hưng, Tân Mỹ, Bình Thanh Trung, Long Hưng, Hòa Thành, Hội An Đông (Lấp Vò)…

Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt đánh diệt bọn dân vệ xã Phong Hòa (Bình Minh), đánh tiêu hao nặng đồn Giống Nổi (Hòa Tân - Châu Thành), đánh quân tăng viện từ chi khu Đức Tôn vào An Khánh, đánh tiêu hao đồn Kinh Mới, đánh thiệt hại nặng một tàu sắt của địch. Tiểu đoàn kết hợp với quần chúng làm chủ 3 xã Phước Long, Hòa Tân, An Khánh và một số vùng ở các xã Phú Hựu, An Nhơn, Tân Thuận đông (Châu Thành). Quần chúng nổi dậy quét sạch tề điệp ở các xã Mỹ An Hưng, Tân Mỹ, Hòa Thành, Long Hưng, Tân Dương, Tân kHánh Tây, Vĩnh Thanh (Lấp Vò). Chỉ trong vài ngày lập hai lõm căn cứ quan trọng của hai huyện Châu Thành và Lấp Vò.

Cùng với vùng điểm của tỉnh, trong đêm 14.9.1960, hầu hết các vùng nong thôn trong tỉnh, nhân dân đều nổi dậy.

Tại Tam Bình, được sự hỗ trợ của du kích, quần chúng nhân dân trong toàn huyện nổi dậy diệt ác, quét tề điệp, vây đồn, giải phóng nông thôn. Tiếng trống mõ vang dậy, băng cờ khẩu hiệu rợp trời. Trên sông Cái Ngang nhân dân làm bè gắn hình nộm Diểm thả trôi sông. Tin ta diệt ác ôn, đánh chiếm đồn bót làm cho bọn định ở xã ấp lo sợ. Một số ra thú tội, một số tên ngoan cố ở các xã Ngãi Tứ, Bình Ninh, Loan Mỹ ban đêm phải sang huyện lị Trà Ôn ngủ.

Trên sông Cái Ngang, Ba Kè, Ngãi Tứ, Bình Ninh, Loan Mỹ, ta giải phóng được nhiều ấp. Một số tên tề ấp xã bỏ chạy lên Vĩnh Long, Sài Gòn.

Cũng trong đêm 14.9.1960 tại xã An Đức (Châu Thành) ta tổ chức cho cơ sở gỡ đồn Ngã ba Long Hiệp, chặn đường giao thông Liên tỉnh lộ 7 Vĩnh Long - Trà Vinh, tổ chức diệt một số tên ác ôn, kêu gọi tề xã, tề ấp ra thú tội. Ở Lộc Hòa ta cũng diệt một tên phản động.

Tại Chợ Lách - Cái Nhum, du kích, đồng bào và nội ứng bên trong lấy đồn Phú Phụng giữa ban ngày, thu nhiều súng đạn diệt và bắt sống một số tên ác ôn. Lực lượng vũ trang và cán bộ địch tình cùng đông đảo quần chúng trang bị mã tấu, dao phay, nổi dậy phá kìm, diệt ác ôn, giải phóng nhiều xã ấp ở bờ Nam sông Cỏ Chiên và cù lao Chợ Lách: Phú Phụng, Đông Phú, Bình Hòa, Phước Mỹ, Mỹ An, Hòa Tịnh, Bình Phước, Chánh Hội, Nhơn Phú.

Tại Vũng Liêm, lực lượng du kích các xã Hiếu Thành, Trung Ngãi, Tân An Luông cùng quần chúng nhân dân trên 9 xã toàn huyện đã đồng loạt nổi dậy bao vây đồn bót, diệt ác, truy lùng địa chủ ngoan cố, giải tán bộ máy kìm kẹp của địch, gỡ bảng tố cộng, xé cờ ba que, đốt sổ điền bạ, giải tán tề ấp.

Tại Trà Ôn đồng bào các xã Tích Thiện, Hòa Bình, Vĩnh Xuân, Xuân Hiệp đồng loạt nổi dậy, giải tán tề ngụy, diệt ác ôn, treo băng cờ biểu dương khí thế cách mạng.

Ngày 20.11.1960, Tỉnh ủy mở một cuộc biểu tình lớn tại trung tâm đầu não của địch. Cuộc biểu tình trên 8.000 người tham dự, bao gồm lực lượng quần chúng ở huyện Châu Thành và thị xã Vĩnh Long (có trên 600 cốt cán), tuần hành trên đường phố Vĩnh Long đòi tra lại chồng, con, em bị bắt đi quân dịch, tố cáo một số đồn bót đã bắn phá bừa bãi vào nhà cửa, ruộng vườn và thường dân vô tội. Trước khí thế của cuộc đấu tranh, tỉnh trưởng Vĩnh Long Lê Văn Phước phải thả 30 thanh niên vừa bị bắt lính và hứa bồi thường thiệt hại.

Đến cuối năm 1960, toàn tỉnh Vĩnh Long đã phá rã 273 bộ máy kìm kẹp của địch ở nông thôn, giải phóng hoàn toàn 3 xã, giải phóng cơ bản 30 xã trong tổng số 73 xã.


(1)Tây Nam Bộ 30 năm kháng chiến (1945-1975). Tháng 12.2000, tr394-401.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #91 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2010, 07:42:23 am »

Tại Trà Vinh ngày 14.9.1960, ngọn lửa đồng khởi đồng loạt nổ ra trên hầu hết các xã trong tỉnh. Tỉnh lấy ba xã Mỹ Long, Hiệp Mỹ, Hiệp Thành huyện Cầu ngang làm ba xã điểm của phong trào nổi dậy.

Ở Xã Mỹ Long, 02 giờ sáng ngày 14.9.1960, lực lượng biểu tình thị uy từ các ấp ồ ạt kéo vào giữa tiếng trống mõ, tiếng hô khẩu hiệu vang trời, tập trung họp mít tinh nhanh chóng bao vây tấn công đồn tề xã với khí thế tiến công cách mạng ngút trời. Tề xã, dân vệ chống cự quyết liệt, chúng bắn vào quần chúng làm chết ba người, bị thương hàng chục người nhưng quần chúng không hề nao núng. Sang ngày thứ hai, các gia đình binh sĩ đi đầu, du kích và nhân dân vừa tiếp tục tiến công vừa kêu gọi binh lính địch trở về với nhân dân. Hoảng sợ trước sức mạnh nhân dân vùng dậy, tề xã và dân vệ đồn MỹLong tan rã, đầu hàng. Cùng thời gian nhân dân Hiệp Thạnh, Hiệp Mỹ cùng nổi dậy tiến công địch bằng sức mạnh ba mũi giáp công. Sáu giờ chiều 15.9.1960, đồn Hiệp Thạnh đầu hàng. Đêm 15.9 địch ở đồn Hiệp Mỹ rút chạy. Ta vây bắt gọn từ sáng 16.9. Ba xã hoàn toàn giải phóng. Ta thu trên 100 súng.

Được sự cổ vũ trực tiếp của ba xã điểm, các xã của huyện Cầu Ngang, Ngũ Lạc, Trường Long Hòa, Long Vĩnh… nổi dậy giành quyền làm chủ.

Ở huyện Càng Long, đúng 24 giờ đêm 14.9.1960 toàn huyện nhất tề nổi dậy trống mõ vang trời lùng bắt tề ấp, xã, trưởng khu. Ở Phương Thanh du kích đánh nhanh chiếm đồn Láng Thé địch không kịp trở tay, bắt 17 dân vệ thu 17 súng. Ta kết hợp binh vận lấy ba đồn lẻ và đồn tề xã Tân An thu 22 súng. Xã An Trường ngay đêm đầu phá banh khu trù mật Lò Co. Hai  xã giải phóng hoàn toàn, các xã khác giải phóng phần lớn,.

Địa phương quận huyện Càng Long - trung đội B9 (Bê nớp)  ra đời. Một đại đội bảo an tính chiếm lại Tân An bị đội quân tóc dài và gia đình binh sĩ vô hiệu hóa. Một đại đội khác tiếp viện bị B9 cùng du kích diệt toàn bộ, 23 tên chết, một số đầu hàng, ta thu 22 súng(1).

Ở huyện Cầu Kè, đêm 14.9, dòng người nổi dậy cuồn cuộn, đuốc sáng rực trời, trống mõ liên hồi, võ trang gậy gộc, mã tấu, súng tự tạo, súng giả cùng du kích lùng bắt tề điệp, bao vây đồn bót. Ta kì tập lấy đồn Bắc Sa Ma kết hợp nội tuyến lấy đồn tề Thạnh Phú, đồn Nhà thờ Tân Hòa, uy hiếp rút hai đồn Trà Mẹt, Ô Tưng, bao vây bắn phá hai đồn Nhà thờ Trà Mi. Hàng ngàn dân đi bộ, đi thuyền kéo biểu tình về quận lị buộc địch án binh bất động để các xã rảnh tay diệt địch. Bảy ngày đầu đồng khởi Cầu Kè giải phóng 3 xã, 10 ấp, xóa số 12 đồn tề xã, thu trên 60 súng. Một tháng sau, ta tiêu diệt đồn Bến Cát giải phóng xã An Phú Tân(2).

Lực lượng vũ trang tỉnh: Tiểu đoàn 501 đánh địch, bao vây đồn bót, hỗ trợ cho phong trào, nổi bật là trận Ninh Quới, trận Lồ Ồ diệt hai đại đội bảo an.

Phối hợp với phong trào nổi dậy ở nông thôn, ngày 15.9.1960, 12.000 người các xã lân cận cùng 2.000 đồng bào thị xã tổ chức đìi địch chấm dứt khủng bố, đàn áp, đòi phải thả những người bị bắt.

Ngyà 20.9.1960, nhân ngày lễ Dôlta, trênn 20.000 đồng bào Khmer với 2.000 sư sãi kéo vào thị xã Trà Vinh đòi quyền lợi dân sinh dân chủ, chống khủng bố, đàn áp,. Địch đưa quân đến chặn các ngả đường, bắn vào đoàn biểu tình làm 10 người chết, hơn 100 người bị thương. Đồng bào và sư sãi không nao núng, khép chặt đội ngũ, kiên quyết đấu tranh, đưa đơn kiến nghị, buộc tên tỉnh trưởng phải nhận yêu sách, đòi bồi thường tính mạng cho người bị hại.

Ngày 4.10.1960, một cuộc đấu tranh quy mô lớn hơn lại nổ ra tại thị xã Trà Vinh, 40.000 đồng bào nông thôn, có 5000 đồng bào thị xã hưởng ứng, đòi Mỹ - Diệm chấm dứt hành quân, chống bắt lính, đòi cải tổ chính quyền…

Sau ba tháng đồng khởi, Trà Vinh giải phóng hoàn toàn 12 xã, 14 ấp, giải phóng cơ bản 6 xã và 15 ấp khác. Chính quyền tự quản ở cơ sở được thành lập lấy tên là Ủy ban giải phóng.

Tính từ ngày 23 tháng 08 năm 1959 đến cuối năm 1960, Tây Nam Bộ đã:

Giải phóng   159 xã với   1.200.000 dân
Tranh chấp   41 xã với    300.000 dân
Còn bị kìm   160 xã với    1.300.000 dân

Ta diệt và làm tan rã 20 ngàn tên địch, thu khoảng 5000 súng các loại.

Trong đấu tranh ác liệt, Đảng bộ miền Tây phát triển trên 3 nghìn đảng viên mới, móc nối 2.751 đảng viên điều lắng. Đến cuối năm 1960, toàn Đảng bộ đã có 7.951 đảng viên, 250 chi bộ, tập hợp được nửa triệu vào các đoàn thể cách mạng.

Về lực lượng vũ trang, Liên Tỉnh có 2 tiểu đoàn chủ lực. Mỗi tỉnh có 1 tiêu diệt và một trung đội trợ chiến. Các huyện có đại đội địa phương, xã có trung đội và ấp có tiểu đội du kích.


(1)Huyện ủy Càng Long: Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và quân dân huyện Càng Long anh hùng (1930-1975), 2000. Tr 140-146.
(2)Huyện ủy Cầu Kè: Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và quân dân huyện Cầu Kè anh hùng (1930-1975), 2001. Tr220-230.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #92 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2010, 07:44:43 am »

Phong trào tiến công và nổi dậy ở vùng rừng núi Khu V

Phong trào khởi nghĩa từng phần trên toàn miền Nam nhất là Chiến thắng Tua Hai tác động mạnh mẽ đến Khu V và vùng Cực Nam Trung Bộ.

Tháng 4 năm 1960, Liên Khu ủy V mở Hội nghị Liên Khu ủy mở rộng. Sau khi phê phán tư tưởng rụt rè, hữu khuynh không dám tiến công địch, Hội nghị quyết định mở rộng hoạt động vũ trang trong toàn Liên Khu, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang, nhanh chóng xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ đị vững mạnh, chỗ dựa cho cuộc kháng chiến ttrong Liên Khu và phát động nhân dân miền núi vũ trang vùng lên chống địch, khôi phục và phát triển phong trào ở đồng bằng, chú ý công tác đô thị. Nghị quyết chỉ rõ: “Mạnh dạn phát động quần chúng ở căn cứ miền núi vũ trang chống địch càn quét. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang tập trung của Tỉnh, Khu, khẩn trương xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ địa vững chắc để làm cho dựa cho đồng bằng”(1).

Thực hiện chủ trương của Liên Khu ủy, toàn Quân khu đã khẩn trương tổ chức xây dựng được 12 đại đội đặc công và 2 đại đội bộ binh. Các tỉnh cũng xây dựng đặc công và bộ binh. Riêng hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức mới thành lập.

Tháng 7.1960, Liên Khu ủy quyết định mở đợt đấu tranh chính trị kết hợp với quân sự trong toàn khu và giao cho Liên Tỉnh 3 đánh trận mở đầu.

Ở Liên tỉnh 3 lúc này, Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết tháng 4.1960 của Liên Khu ủy đã được phổ biến rộng rãi, các địa phương đang ra sức xây dựng phát triển lực lượng, nhất là lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa miền rừng núi, sẵn sàng mở đường lên Nam Tây Nguyên để góp phần soi mở đường hành lang chiến lược Bắc - Nam. Nhưng tình hình ở đây đến giữa năm 1960 vẫn còn rất khó khăn nhất là về vũ khí. Số vũ khí chôn lại sau Hiệp định Giơnevơ, cái thì bị địch khui hầm lấy, cái thì bị địch ủi phá xây dựng khu dinh điền chồng  lên, chỉ còn lại một ít nhưng bảo quản không tốt, chôn dấu quá lâu, súng rỉ đạn lép. Lãnh đạo các cấp trăn trở. Nhân dân căm thù Mỹ Diệm cao độ, hướng về cách mạng chờ lúc vùng dậy.

Trước tình hình bức xúc đó, các đồng chí lãnh đạo tỉnh Bình Thuận vào Nam Bộ học tập khởi nghĩa và xin giúp đỡ về người và vũ khí. Xứ ủy Nam Bộ, Ban Quân sự miền Đông cho 10 khẩu súng có 1 trung liên chiến lợi phẩm của Tua Hai và cử đồng chí Bảy Thành, một người tham gia trận đánh Tua Hai ra giúp Bình Thuận.

Qua khởi nghĩa của Tua Hai và phong trào đồng khởi của miền Đông Nam Bộ, Tỉnh ủy Bình Thuận nhất trí cao chọn chi khu quân sự Hoài Đức và khu dinh điền kiểu mẫu Bắc Ruộng  để tấn công phá ác kìm kẹp, phát động quần chúng nổi dậy bung về rừng núi xây dựng căn cứ.

Đêm 31 tháng 7 năm 1960, đơn vị 2/9 với quân số khoảng một trung đội (27 quân sự và 5 cán bộ chính trị địa phương) dùng chiến thuật đặc công luồn sâu ém sẵn, bất ngờ nổ súng tấn công địch. Sau 2 giờ chiến đấu ta đã hoàn toàn làm chủ chi khu Hoài Đức và phá tan khu dinh điền Bắc Ruộng, diệt và bắt trên 300 tên địch, làm tan rã 180 thanh niên Cộng hòa, thu trên 250 súng các loại có 12 trung liên, giải thoát 40 tù chính trị. Trên 5000 đồng bào dân tộc nổi dậy kéo nhau về rừng núi. Thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh quân khu của địch trong báo cáo gửi cấp trên ngày 5 tháng 9 năm 1960 đã phải thốt lên: “trận Tua Hai Tây Ninh và chi khu Hoài Đức - Bắc Ruộng là thất bại chua cay của quân lực Việt Nam Cộng hòa”(2).

Chiến thắng Hoài Đức - Bắc Ruộng ngày 31 tháng 7 năm 1960 mở đầu đợt hoạt động quân sự do Liên Khu ủy V phát động, mở ra một bước ngoắt mới cho Bình Thuận và vùng Cực Nam Trung bộ từ thế tránh lánh, co thủ giữ gìn lực lượng, tiến lên tiến công nổi dậy đều khắp.

Tháng 8 năm 1960, lực lượng vũ trang Liên Tỉnh 3 tiến công tiêu diệt đồn Ma Ty, Tà Lú (Bác Ái - Ninh Thuận). Phối hợp với lực lượng vũ trang, du kích, thanh niên chiến đấu và nhân dân Bác Ái Đông bao vây đồng Suối Dầu. Sau ba ngày bị ta vây ép, toàn bộ lực lượng địch bỏ đồn tháo chạy. Hơn 3000 đồng bào trong khu vực đã nổi dậy phá banh khu tập trung trở về làng cũ.

Tháng 9 năm 1960, lực lượng vũ trang Bình Thuận tiến công tiêu diệt các đồn Bố Lan, Gia Lê, Thác Ngựa. 5000 dân trong các đồn Bố Lan, Gia Lê, Thác Trại nổi dậy phá tan hệ thống kìm kẹp của địch kéo về buôn rẫy cũ.

Tháng 2 năm 1960, lực lượng vũ trang Bình Thuận tiến công tiêu diệt đồn Bầu Trắng (khu Lê Hồng Phong), giải phóng trên hai vạn dân.

Cũng tháng 12 năm 1960, lực lượng vũ trang Liên Tỉnh 3 đột nhập thị trấn Ba Ngòi (Khánh Hòa) và chặn đánh thiệt hại nặng một đại đội ứng viện từ Nha Trang vào.

Sau các đòn tiến công quân sự và các cuộc nổi dậy phá khu tập trung của đồng bào miền núi, vùng căn cứ địa cách mạng ở Cực Nam Trung Bộ được mở ra liên hoàn trong 23 xã với trên 30 ngàn dân thuộc sáu huyện: Anh Dũng, Bác Ái (Ninh Thuận), Khánh Sơn, Vĩnh Sơn (Khánh Hòa), Tánh Linh, Di Linh (Bình Thuận).

Trên địa bàn Tây Nguyên, từ tháng 9 năm 1960, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, các cuộc nổi dậy rời làng cũng liên tiếp nổ ra.

Trong các đêm liền 20, 21, 22, 23 tháng 10 năm 1960, một bộ phận đặc công Quân Khu cùng lực lượng vũ trang Kon Tum diệt cứ điểm Măng Đen, Măng Bút, phục kích đánh địch trên đường số 5, diệt 7 xe quân sự và một đại đội du kích lên giải tỏa cho Măng Đen. Nhân dân nổi dậy páh banh các khu tập trung, trở về làng cũ làm ăn và xây dựng chính quyền cách mạng.

Phía Bắc Kon Tum, lực lượng vũ trang Quân Khu tiêu diệt một loạt đồn bót, khu dồn ở huyện Đắc Lây (Huyện 40) trong đó có đồn Đắc Tả.

Đồn Đắc Tả do một đại đội bảo an đóng giữ. Đây còn là nơi đứng chận của sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn 42 ngụy để chỉ huy yểm trợ cho chiến dịch “Thượng du vận” ở Bắc Kon Tum. Đêm 20.10.1960, một trung đội học viên trường quân sự tỉnh và 5 chiến sĩ đặc công Quân Khu tiến công đồn Đắc Tả, diệt 45 tên địch, có tên thiếu tá trung đoàn trưởng Trung đoàn 42, bắt 20 tên, thu 45 súng các loại, giải tán 1400 phu làm đường bị địch bắt giữ. Bị đòn đau, địch đưa Tiểu đoàn 10/42 ra phản kích hòng chiếm lại đồn. Ta tổ chức phục kích diệt 19 tên, thu 10 súng.

Có bộ đội hỗ trợ, du kích thoát li bao vây, bức rút đồn Oay Rài xã Đắc Nông sát biên giới Việt Lào.

Nhân dân nổi dậy giải phóng một vùng rộng lớn phía Bắc tỉnh Kon Tum. Địch phải co cụm quanh các cứ điểm lớn, quận lị và thị xã.

Phối hợp với Kon Tum, ngày 23 tháng 10 năm 1960, lực lượng vũ trang tỉnh Gia Lai tiến công tiêu diệt đồn Can Nác, sau đó đánh chiếm khu dinh điền Lệ Thanh. Nhân dân Huyện 4, Huyện 5 nổi dậy phá tan hệ thống kìm kẹp của địch, giải phóng một vùng rộng lớn từ Chư Pông, Đức Cơ đến An Khê nối liền với vùng giải phóng Kon Tum.

Ở Đắc Lắc, đêm 27 tháng 10 năm 1960, lực lượng vũ trang tỉnh đánh đồn Plây Lốc, Ea  Nu, Ea Thu, hỗ trợ nhân dân vùng Đông Bắc và thị xã Buôn Ma Thuột nổi dậy giành quyền làm chủ.

Tỉnh Lâm Đông, các đội vũ trang công tác dựa vào các bàn đạp Kdòn, Tờ La, Bờ Ga, tiến lên hướng Blao, Di Linh, mở rộng cơ sở ở Nam Bắc đường 20. Một số đội công tác từ Tà Nội, Gia Hon tiến lên hướng Tây và từ Phước Bình tiến lên hướng Đà Lạt, xây dựng cơ sở ở Đông Man, Đa Tạo, Đa Cháy.

Phải đến tháng 5 năm 1961, lực lượng vũ trang Liên Tỉnh 3 mới tiến công tiêu diệt được quận lị Đơn Dương (Drăn - Tuyên Đức). Trong khi đó, lực lượng vũ trang Bình Thuận tiến công tiêu diệt chi khu quận lị Di Linh trên Quốc lộ 20.


(1)Trịch Nghị quyết Liên Khu ủy Liên Khu V tháng 4.1960 - Tài liệu lưu trữ tại Phòng Khoa học Quân sự Quân khu V.
(2)Theo Trung tá Nguyễn Đức Tấn trong tập Chiến thắng Tua Hai và phong trào Đồng khởi của miền Đông Nam Bộ. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Trang 336-338.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #93 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2010, 07:45:11 am »

Cùng với phong trào nổi dậy của đồng bào Tây Nguyên, nhân dân vùng núi các tỉnh ven biển cũng tiến công vào bộ máy kìm kẹp của địch.

Ở Quảng Nam, ngày 13 tháng 3 năm 1960, nhân dân nóc Ông Tía với 11 tự vệ và 30 gia đình đã nỏi dậy dùng rựa chém chết cả tiểu đoàn bảo an đóng trong làng, đốt trụ sở ngụy quyền rồi dời vào rừng sâu, tổ chức bố phòng chống địch càn quét. Năm ngày sau, địch đưa một đại đội càn vào làng Chúng đốt sạch nhà cửa, phá hết hoa màu trên rẫy. Nhưng khi địch tiến sâu vào hướng làng mới, chúng vấp phải chông thò, nhiều tên chết và bị thương, phải rút lui. Theo gương nóc Ông Tía, 10 làng khác của huyện Phước Sơn cũng tổ chức đấu tranh bất hợp pháp, rào làng, bố phòng, tạo thế liên hoàn đánh địch.

Nổi dậy ở nóc Ông Tía là cuộc nổi dậy có vũ trang đầu tiên ở miền núi Quảng Nam, tuy quy mô không lớn, song nó là cái mốc quan trọng mở đầu thời kì đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang của tỉnh để mở rộng căn cứ địa cách mạng, xây dựng và phát triển lực lượng. Ở đồng bằng lực lượng vũ trang tuyên truyền và bộ đặc công diệt tên Hường, chi phó công an huyện Đại Lộc, tên Quý chi trưởng công an quận Hiếu Đức và tổng đoàn dân vệ xã Xuyên Phú huyện Duy Xuyên.

Tháng 9 năm 1960, được sự hỗ trợ của đội vũ trang công tác huyện Tam Kỳ, nhân dân Kỳ Sang nổi dậy, diệt ác, giải phóng thôn Tú Mỹ. Đây là thôn đầu tiên ở đồng bằng tỉnh Quảng Nam được giải phóng.

Cùng thời gian này, tỉnh Quảng Nam được trên bổ sung cán bộ khung của một tiểu đoàn. tỉnh đã vận động thanh niên ở vùng địch kiểm soát ra xây dựng thành 5 đại đội, mỗi đại đội khoảng 30 người. Ngay sau khi thành lập, hai đại đội H20, H30 phối hợp với lực lượng vũ trang của Quân Khu tiến công tiêu diệt đồn Ga Lâu (huyện Hiên) và đồn Sáu (huyện Giằng) diêt 4 trung đội địch, thu nhiều vũ khí.

Ngày 20 thán 9 năm 1960, lực lượng vũ trang tỉnh cùng đội vũ trang công tác huyện tiến công quận lị Hiệp Đức, diệt một đại đội bảo an, thu toàn bộ vũ khí.

Đến cuối năm 1960, vùng căn cứ miền núi Quảng Nam căn bản đã được giải phóng, gần 40.000 dân giành được quyền làm chủ.

Ở Quảng Ngãi, sau khởi nghĩa Trà Bồng, địch tập trung đánh phá ác liệt khắp các căn cứ miền núi từ Ninh Thuận đến Quảng Nam. chỉ trong 3 tháng đầu năm 1960, chúng đã mở 52 cuộc càn quét từ một đại đội đến hai tiểu đoàn. Chúng kết họp lùng sục, đốt phá làng với bao vây kinh tế, triệt phá mùa màng, địch đã làm cho nhân dân vùng căn cứ Quảng Ngãi và Ninh Thuận phải điêu đứng. Nhiều nơi, nhà cửa bị chúng đốt sạch, chỉ còn một số thôn, nóc nằm sâu trong núi. Có nơi địch đốt đi đốt lại hàng chục lần. Hàng ngàn gia đình ở vùng thấp, vùng giáp ranh bị địch chà xát phải chạy  lên vùng cao.

Được sự cổ vũ của phong trào Đồng khởi ở Nam Bộ, nhân dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi càng bền gan chiến đấu. Lợi dụng địa thế hiểm trở của rừng núi, với đủ loại vũ khí thô sơ, đồng bào Thượng đã làm thất bại các cuộc càn quét của địch, giữ vững buôn làng giải phóng.

Đêm 15 tháng 10 năm1960, Đơn vị 339 tiến công quận lị Trà Bồng. Địch ở các đồn Đá Líp, Tà Lạt, Eo Chim hoảng sợ bỏ chạy. Nhân dân nổi trống mõ, tù và, phèng la, đốt đuốc truy tìm ác ôn, thu vũ khí. Cùng thời gian, Đơn vị 89 và du kích huyện Sơn Hà đánh đồn Hà Thành, diệt một đại đội bảo an. Đơn vị 299 va du kích các huyện Ba Tơ, Minh Long tập kích đồn Long Xuân diệt một đại đội địch. Thừa thắng nhân dân các xã vùng thấp nổi dậy diêt ác phá kìm, giành quyền làm chủ.

Đến cuối năm 1960, Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi vẫn đứng vững. Vùng giải phóng mở rộng bao gồm 54 xã.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #94 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2010, 07:46:23 am »

Ở Bình Định, du kích tập trung của huyện miền núi Vân Canh tháng 3 năm 1960 đã đánh một đoàn tàu địch. Anh em có sáng kiến mở ốc các thanh tà vẹt rồi dùng dây mây bện để kéo đường ray. Khi đoàn tàu quân sự địch đến đoạn Mục Thịnh, bốn chiến sĩ du kích dồn sức kéo bật thanh đường ray, làm đầu tàu và 16 toa lao xuống vực, làm chết 100 tên lính ngụy, phá hủy hàng trăm tấn hàng.

Tháng 6 năm 1960, Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ họp chủ trương: “Phát động phong trào chiến tranh du kích mạnh mẽ ở miền núi nhằm củng cố, bảo vệ và mở căn cứ địa, đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, phát động quần chúng diệt ác, trừ gian, khôi phục, phát triển cơ sở và xây dựng các lõm đồng bằng lên một bước mới, lấy hai lực lượng vũ trang tập trung itnhr, huyện và các đội vũ trang công tác, đẩy mạnh hoạt động vũ trang hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng”(1).

Ngày 2 tháng 9 năm 1960, tại xã Tư Cở Rộng huyện Vĩnh Thạnh, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của Tỉnh lấy tên 2/9 gồm 35 đồng chí đã ra đời.

Hai mươi ngày sau, ngày 23.9.1960, đơn vị ra quân trận đầu, đánh vào trụ sở ngụy quyên xã Hoài Tân huyện Hoài Nhơn, cách quận lị Bồng Sơn 4km về phía Bắc, do một trung đội dân vệ đóng giữ. Sau 30 phút nổ súng, toàn bộ trung đội địch bị bắt gọn, ta thu 22 súng. Trận đánh nhanh gọn, không xa một quận lị ở đồng bằng, đã làm cho bọn địch trong vùng lo sợ. Cùng trong đêm 23.9.1960, phân đội đặc công của Tỉnh phối hợp với đội vũ trang huyện Hoài Ân tập kích trụ sở ngụy quyền xã An Nghĩa, bắt gọn một trung đội dân vệ, thu 25 súng.

Đối phó với các cuộc tiến công bất ngờ của ta ở Hoài Nhơn, Hoài Ân, tháng 11.1960, địch mở cuộc càn quét thảm sát đẫm máu ở Đá Bàn (An Lão). Chúng đã giết 32 người dân. Cuối tháng 12.1960, địch lại đưa một tiểu đoàn lính H’rê từ Quảng Ngãi vào càn quét, cướp bóc, đốt phá các xã An Dân, An Lạc, An Vịnh (An Lão). Đơn vị 2/9 phục kích ở Đất Dài, diệt một tiểu đội, buộc chúng phải rút lui.

Được đơn vị 2/9 hỗ trợ, nhân dân nổi dậy phá khu tập trung Gò Nĩ (Đất Dài), giải phóng vùng phía Tây sông An Lão.

Tháng 11 năm 1959, thấu suốt tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương, Tỉnh ủy Phú Yên quyết định: đẩy mạnh đấu tranh trên cả hai vùng đồng bằng và miền núi với các hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp và bất hợp pháp. Xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, lực lượng bán vũ trang xã, chuẩn bị điều kiện để khi có thời cơ thuận lợi thì nổi dậy khởi nghĩa.

Tháng 12.1959, Trung đội B95, trung đội vũ trang đầu tiên của Tỉnh, quân số 33 cán bộ, chiến sĩ thành lập. Ngày 16.12.1959, đơn vị ra quân trận đầu, đánh đồn Trà Khê (huyện Sơn Hòa) diệt một trung đội dân vệ thu 25 súng, hơn 1000 viện đạn, 30 lựu đạn.

Đầu năm 1960, B95 phát triển thành ba trung đội. Các huyện cũng tổ chức các đội vũ trang công tác.

Ngày 14.8.1960 Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên họp, chủ trương: đẩy mạnh vũ trang để hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng ở vùng đồng bằng.

Tháng 11.1960, lực lượng vũ trang Tỉnh mở đợt hoạt động nhằm giải phóng vùng cao nguyên huyện Sơn Hòa. Mở đầu đợt, đội vũ trang công tác hỗ trợ cho nhân dân xã Phước Tân nổi dậy diệt ác ôn, xóa bỏ chính quyền địch ở cơ sở, lập ban tự quản. Tiếp theo Phước Tân, nhân dân các làng Quang Hiển, Tân Vinh, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ nổi dậy xóa bỏ chính quyền ngụy, lập chính quyền tự quản.

Đến cuối năm 1960, miền Tây huyện Sơn Hòa căn bản được giải phóng. 13.000 dân thoát khỏi ách kìm kẹp của Mỹ ngụy. Vùng căn cứ được mở rộng liên hoàn bảo đảm hành lang từ Phú Yên vào Khánh Hòa.

Trong thời gian này, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh “phải chọn những tên đầu sở để diệt“ nhằm “đánh dập đầu rắn, bắn trúng đầu cọp, diệt một thằng làm rung cả bọn”, huyện Tuy Hòa đã chọn những tên ác ôn khét tiếng làm đối tượng hành động. Tổ diệt ác của huyện đã đột nhập vào nhà tên Nguyễn Y Chi cảnh sát quận, bắn chết hắn ngay trên giường ngủ. Tên Nguyễn Ân ấp trưởng ác ôn xã Hòa Xuân thì bị trừng trị khi cùng đồng bọn trên đường về ấp Lạc Long.

Việc trừng trị các tên trong huyện đã làm địch hoang mang, quần chúng phấn khởi. Khí thế cách mạng của quần chúng lên cao. Tỉnh ủy quyết định lấy xã Hòa Thinh (Tuy Hòa) làm thí điểm phát động nhân dân đánh đổ chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. Đêm 22.12.1960 cuộc nổi dậy tiến công địch giành chính quyền đã nổ ra. Có trung đội trưởng dân vệ làm nội ứng cho ta, trong đêm ta diệt tên trung đội phó ác ôn, bắt sống cả trung đội dân vệ, đột nhập vào nhà bắt tên phó đại diện xã, tổ chức nhậu bắt gọn cả hội đồng xã. Quần chúng nổi dậy cùng lực lượng vũ trang kéo về trụ sở xã họp mít tinh, tuyên bố xóa bỏ ngụy quyền tay sai, lâp chính quyền tự quản.

Đồng khởi ở Hòa Thịnh giành thắng lợi nhanh gọn. Đây là xã đầu tiên ở đồng bằng tỉnh Phú Yên giành được chính quyền bằng quân sự, chính trị kết hợp với binh vận. Tiếp theo Hòa Thinh, các xã Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Mỹ của huyện Tuy Hòa, vũ trang nổi dậy diệt ác phá kìm, xóa bỏ chính quyền địch, lập chính quyền tự quản xã thôn, tổ chức lực lượng du kích và các đoàn thể cách mạng của quần chúng.

Cùng với Tuy Hòa, nhân dân các huyện trong tỉnh Phú Yên nổi dậy, giành quyền làm chủ ở nhiều nơi. Phú Yên là lá cờ đầu củ các tỉnh Trung Trung Bộ thực hiện nỏi dậy khởi nghĩa ở vùng đồng bằng.

Đến cuối năm 1960, nhân dân các dân tộc ở miền núi Khu V đã diệt và bức rút 55 đồn, bót, cứ điểm địch, diệt và làm tan rã 40 trung đội địch, phá tan hàng chục khu tập trung dân lớn. Tính cả Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng, quân và dân Khu V đã phá tan bộ máy ngụy quyền, giành quyền làm chủ ở 3.200 thôn trong tổng số 5.721 thôn. Căn cứ cách mạng Khu V được mở rộng dọc phía đông Trường Sơn nối với các căn cứ Tây Nguyên. Gần nửa triệu dân được giải phóng.


(1)Nghị quyết Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ Bình Định, tháng 6.1960, tài liệu lưu trữ tại Ban Nghiên cứu  Lịch sử Đảng Bình Định.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #95 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2010, 06:54:52 am »

Đồng khởi vào đô thị Sài Gòn

Những tháng cuói năm 1957, cơ quan đầu não lãnh đạo Sài Gòn và Gia Định bị tổn thất nặng nề. Đồng chí Trần Quốc Thảo Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn bị địch bắt và sát hại trong nhà tù. Đồng chí Nguyễn Trọng Tuyến Bí thư Tỉnh ủy Gia đình bị địch phát hiện hầm bí mật đã anh dũng hi sinh.

Vùng ven Sài Gòn là một trong những trọng điểm địch đánh phá quyết liệt nhất. Trên mảnh đất Củ Chi ngoại thành diễn ra hằng ngày những cuộc moi gan, mổ bụng, bắt người bỏ bao bố dìm xuống nước.

Thực hiện chủ trương diệt ác để bảo vệ cán bộ và cơ sở cách mạng, trên đường phố Sài Gòn tiếp tục diễn ra những vụ nổ lựu đạn trừng trị những bọn tay chân đắc lực của Diệm Nhu và cả người Mỹ ở: quán rượu Thanh Xuân, Bến Ngô Quyền, Vườn Chuối, đường Cống Quỳnh. Nhật kí Lầu Năm Góc Mỹ kể lại: Ngày 10.10.1957, một quả bom ném vào tiệm cà phê ở Chợ Lớn, làm bị thương 13 người, ngày 22.10 trong 3 vụ đánh bom tại Sài Gòn, 13 người Mỹ đã bị thương(1). Ở ngoại thành, những cuộc diệt ác diễn ra nhiều hơn ở thị xã Gia Định, ở các quận tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn, Củ Chi, Duyên Hải.

Ở Củ chi, các đội vũ trang 3 đến 7 người xuất hiện trên khắp các xã. Ở Thủ Đức, hầu hết các nhà ở xã An Phú đều đã sắm gậy và dây trói để chống địch cướp đất.

Phong trào đấu tranh chính trị trong năm 1958 vẫn tiếp tục sôi nổi. Mở đầu là cuộc đấu tranh của 144 xí nghiệp ngày 28.1.1958 đòi tiền lương các ngày nghỉ. Một tháng sau, ngày 28.2.1958, công nhân hãng dầu Caltex bãi công 10 ngày chống lại việc chủ trương đánh đập thợ thuyền.

Tháng 3.1958 nổ ra phong trào hưởng ứng công hàm ngày 7.3.1958 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi chính quyền miền Nam Việt Nam đề nghị trao đổi buôn bán, tạo điều kiện thuận lợi đi đến hòa bình thống nhất đất nước. Chỉ trong một tháng, ở Sài Gòn - Chợ Lớn đã có trên 100 cuộc tọa đàm, mít tinh bàn về quan hệ bình thường Bắc - Nam, thống nhất Tổ quốc.

Ngày 1.5.1958, giữa lúc địch đang tiến hành các chiến dịch tố cộng Nguyễn Trãi và Hồng Châu đánh vào ngoại ô Sài Gòn và miền Đông Nam Bộ, gần 500.000 công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động rầm rộ xuống đường biểu tình đòi giải phóng nạn thất nghiệp, đòi bảo vệ hàng nội hóa, sản xuất nội địa.

Đầu năm 1959, Sài Gòn Gia Định lại sôi sục biểu tình mít tinh lên án chế độ Mỹ Diệm gây ra vụ thảm sát tù nhân ở Phú Lợi.

Phong trào đấu tranh chống văn hóa nô dịch, đòi dùng tiếng Việt ở bậc đại học, đòi sửa đổi chương trình giáo dục, cải cách dân chủ trong nhà trường đã thu hút trên 300.000 học sinh sinh viên của 45 trường học ở Sài Gòn và miền Nam. Nhiều giáo vụ, cha mẹ học sinh đã nhập cuộc.

Sau khi ban hành Luật 10.59, địch đưa máy chém về tận xã ấp. Máy chém đặt giữa các chợ Trung Hòa, Tân An Hội. Tên quận trưởng Bình Tân tàn ác đã chỉ huy mổ bụng, moi gân trên 280 người. Xã Tân An Hội, An Nhơn Tây… đã chứng kiến không biết bao nhiêu vụ chặt đầu, mổ bụng chiến sĩ và đồng bào. Cho đến năm 1959, ở Củ Chi đã có 500 người bị moi gan mổ bụng, 600 người bị dồn vào bao bố cột đá dìm xuống sông, 150 người bị buộc vào sau xe ô tô kéo trên đường đá.

Chưa lúc nào Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định bị tổn thất và khó khăn bằng lúc này. Nhiều đồng chí lãnh đạo từ Khu ủy, Tỉnh ủy đến Quận ủy, Huyện ủy bị bắt, hi sinh. Các Ban chấp hành Đảng bộ Gò Vấp, Tân Bình, Hóc Môn coi như đã lột xác, lập đi lập lại nhiều lần. Đến lúc này toàn bộ số đảng viên của Hóc Môn ở lại 100 người chỉ còn 1. Chín xã của Gò Vấp chỉ còn lại 1 đảng viên bám trụ. Tỉnh Gia định chỉ còn 1 chi bộ Tân Phú Trung. Khu ủy Sài Gòn chỉ còn đồng chí Huỳnh Tấn Phát, trên phải điều động đồng chí Võ Văn Kiệt từ miền Tây lên làm Bí thư Khu ủy.

Tự thân thực tế đã trả lời cho mọi đảng bộ: không có con đường nào khác là phải võ trang và không thể chỉ vũ trang tự vệ.

Tháng 5 năm 1959, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh Gia Định được thành lập trên đất Củ Chi, lấy phiên hiệu là C13. Quân số chỉ 20 người, hầu hết là cán bộ, đảng viên, vũ khí có 2 tiểu liên, 1 các bin, 1 súng trường.

Tháng 12 năm 1959, một tổ của C13 phục kích trên quốc lộ chặn đánh một xe Jeep, chém chết tên đại úy và tên lái xe thu 1 tôm xơn và 1 colt 12 li. Ít ngày sau, C13 lại phục kích ở sở cao su Bến Đu (An Nhơn Tây) diệt gần 1 trung đội địch, thu 14 súng.

Cũng vào tháng 12 năm 1959, tại Củ Chi trung đội vũ trang đầu tiên của khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành lập với 2 tiểu đội, mang tên Cao - Hòa - Bình. Một hầm bí mật 70 súng do đồng chí Hồng Đào Bí thư Huyện ủy Hóc Môn chỉ đạo chôn giấu trước đây được moi lên. Các xã trong huyện Củ Chi gấp rút tổ chức tự vệ mật, sắm sửa vũ khí.

Tại Rừng Sác, Đại đội 12 được tập trung, quân số 32, 34 súng. Lấy Rừng Sác làm căn cứ nhưng thường hoạt động là Nhà Bè và Nam Bình Chánh.

Đầu năm 1960, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Tỉnh ủy Gia Định hợp nhất thành Khu Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư. Lực lượng vũ trang cũng được thống nhất. Đại đội tập trung đầu tiên của Khu vẫn mang phiên hiệu C12 nhưng đã có 3 tiểu đội, vũ trang 3 trung liên còn là tiểu liên, súng trường. Nhân dân ngoại thành phấn khởi cho con em đi xây dựng lực lượng vũ trang, lập ấp chiến đấu, làm chông mìn, khôi phục các cơ sở tự chế vũ khí thời chống Pháp. Trong nội thành, một mặt mạnh dạn đưa cán bộ từ các nơi “cấy” vào, mặt khác chọn người tại chỗ đưa ra ngoài, mở lớp đào tạo cấp tốc.


(1)Nhật kí Lầu Năm Góc. Tập 1 quyển 2. Sách đã dẫn. Trang 245.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #96 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2010, 06:56:27 am »

Ngày 26 tháng 01 năm 1960 nổ ra trận Tua Hai tiếng pháo đầu nổi dậy. Gia Định phát động nhân dân nổi dậy trong điều kiện địa bàn cận thị. Đã xảy ra hàng loạt vụ trừng trị ác ôn ở Tân Tạo, Tân Nhựt (Bình Chánh), Tân An Hội (Củ Chi)…

Hạ tuần tháng 2 năm 1960 một số vùng nông thôn Gia Định nổi dậy. Huyện ủy Củ Chi phát lệnh: “Nhất tề đứng dậy, phá rã nông thôn”. Tiếng tù và, tiếng trống mõ, tiếng khua mâm thau thùng thiếc, tiếng ống nói lan truyền khắp nông thôn. Đồng bào xông vào các nhà thông tin đập phá, xé ảnh Diệm, xé cờ ba que, xé khẩu hiệu địch. Hàng ngàn đồng bào biểu tình trên Lộ 7, Lộ 17. bọn tề ấp Bàu Tròn bỏ chạy. Truyền đơn, biểu ngữ cách mạng xuất hiện khắp nơi. Ở các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Gò Vấp, Duyên Hải, Thủ Đức, Dĩ An… đều có nổi dậy.

Các đội vũ trang đã hỗ trợ đắc lực cho nổi dậy. Ở Củ Chi ta phục kích diệt một tiểu đội dân vệ ở Bến Đu (An Nhơn Tây), thu 10 súng. Ở Thủ Đức, tiểu đội vũ trang tuyên truyền 12 người ở Tân Đông Hiệp, Tăng Nhơn Phú… mở rộng hoạt động ra 5 xã. Ở Hóc Môn, tiểu đoàn vũ trang 12 người hoạt động ở Tân Thạnh Đông, Bình Mỹ, Trung An. Ở Duyên Hải, Đội C12 hoạt động sang cả Nhà Bè, võ trang tuyên truyền, cảnh cáo tề xã, phá khu trù mật, vận động lương thực.

Du kích đã sáng tạo nhiều mưu mẹo tấn công địch. Tự vệ xóm Cây Bài xã Phước Vĩnh An (Củ Chi) cải trang đám rước dâu, chiếm bót địch. Tự vệ Trung An (Củ Chi), tự vệ thị trấn Cần Giờ chiếm bót bằng tấn công kết hợp nội ứng. Tự vệ xã Nhuận Đức và Phú Hòa Tây phối hợp uy hiếp bót cầu Bến Mương làm cho tiểu đội dân vệ ở đây bỏ chạy. Tự vệ Xuân Thới Thượng (Hóc Môn) được dân hướng dẫn đến bắt địch tại nhà. Tự vệ Cần Thạch (Duyên Hải) trà trộn với dân, phục kích chặn xe, bắt gọn bọn ác ôn.

Bộ đội tập trung C13 ở Củ Chi, tháng 2 năm 1960 tập kích diệt đồ An Hòa, đồn Tân Thạnh Tây thu 20 súng. Từ tháng 3 đến tháng 5 diệt liên tiếp các đồn dân vệ Trung Hòa, An Nhơn Tây, nhà làng Bến Mương.

Qua đợt đầu nổi dậy lực lượng chính trị có lực lượng vũ trang quần chúng hỗ trợ, đến cuối tháng 3 năm 1960, ở nông thôn Gia Định, quần chúng đã giải phóng về cơ bản hai xã Phú Mỹ hưng, Nhuận Đức và một số ấp của các xã An Nhơn Tây, Trung Lập ở phía Bắc Củ Chi. Ở các huyện khác, ta làm chủ từng phần ở nhiều ấp và một số xã hẻo lánh.

Ngày 22 tháng 4 năm 1960, Xứ ủy chỉ đạo phải trên cơ sở nhận thức đúng tương quan lực lượng, tính chất giai đoạn, khó khăn thuận lợi mà thực hiện đường lối đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng bộ phận… từ đó có chương trình hành động kiên quyết, linh hoạt, sáng tạo, thận trọng kết hợp nhuần nhuyễn ba thế công khai, nửa công khai, bí mật, ba hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp, bất hợp pháp… Trong giai đoạn hiện nay, cần đảm bảo cho phong trào quần chúng ở thế hợp pháp thì mới giữ được thế chủ động tấn công địch.

Giữa năm 1960 Khu ủy mở nhiều lớp đào tạo cán bộ cho phong trào đô thị và nông thôn. Ban vận động thanh niên được chính thức thành lập.

Cuộc đồng khởi trên toàn miền, cuộc nổi dậy ở nông thôn ngoại thành tác động mạnh mẽ đến nội đô Sài Gòn, trước hết là gây niềm phấn khởi trong mọi tầng lớp nhân dân đang muốn thay đổi chế độ tập đoàn phát xít gia đình trị Ngô Đình Diệm. Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương đẩy mạnh phong trào chính trị nội thành, trung tâm hành động là một chiến dịch tấn công dư luận rộng rãi, chĩa mũi nhọn vào chính quyền độc tài gia đình trị, trong khi vẫn nêu cao những khẩu hiệu dân sinh dân chủ, sát đòi hỏi thiết thân của quần chúng lao động.

Tháng 1 năm 1960, thanh niên Sài Gòn treo lá cờ đỏ búa liềm ở chợ Bến Thành đã cổ vũ khí thế đồng bào bước vào một năm mới. Ngay từ đầu năm, công nhân các hãng Shell, Standard, Socony, công ti điện nước, Nha công quản chuyên chở công cộng, lái xi tắc xi, hãng giày Bata, đấu tranh buộc bọn chủ phải trả cho công nhân hàng triệu đồng.

Các cuộc đấu tranh của các tầng lớp dân nghèo thành thị, trí thức, học sinh, tiểu chủ, tư sản dân tộc, văn nghệ sĩ, kí giả… không thành đợt lớn, nhưng đi sâu vào từng khía cạnh của đời sống hằng ngày, có tác dụng vạch trần chế độ Mỹ Diệm, góp phần đẩy chúng vào thế cô lập. Điểm hình như việc chống lệnh đốt pháo vào tết 1960, Diệm cấm đốt pháo ở nội thành, trong dó có cả công chức, trí thức, tư sản… Việc làm này gây thêm tức giận trong nhân dân.

Học sinh, sinh viên chống chế độ thi cử khắc nghiệt, đòi dạy tiếng Việt ở bậc đại học, đòi mở thêm trường lớp cả nội ngoài thành. 119 trong tổng số 121 luật sư ở Sài Gòn và Huế kí kiến nghị lên án luật 102 của Diệm (luật khống chế giới luật sư, hạn chế tự do của họ). 118 giáo sư các trường công tư Sài Gòn phản đối Mỹ Diệm bắt bớ giáo sư và đóng cử nhiều trường tư với lí do: “Không thi hành đúng luật pháp”.

Những biến động chính trị trên thế giới lúc này: Sinh viên nổi loạn ở Hàn Quốc, quân đội nổi loạn ở Thổ Nhĩ Kỳ, biểu tình ở Nhật Bản… càng kích thích phong trào chống đối chính quyền ở miền Nam.

Cuối tháng 4 năm 1960, nhóm Carravelle đưa ra tại khách sạn Carravelle một bản “tuyên ngôn” chỉ trích chính phủ Việt Nam. Họ phê phán là “nhân dân không được hưởng tự do dưới chế độ cộng hòa”, các chính sách của chính quyền “gây ra tình trạng chán nản và oán giận trong dân chúng”, “bầu cử thì phản dân chủ”, “nguyện vọng dân chúng bị chửi bới và chà đạp”. Về chính quyền thì “quyền lực hữu hiệu thức tế tập trung vào trong tay một thành viên vô trách nhiệm của “gia đình”, “bộ máy hành chính vốn đã ì ạch, lại sắp trở thành tê liệt trong toàn dân”. Quân đội thì : “bề đảng, phe cánh’, “chia rẽ quân nhân trong cùng một đơn vị”, “gieo rắc ngờ vực giữa các bạn bè”, “mù quáng phục tùng những người lãnh đạo làm tiêu chuẩn đề bạt”. Điều này tạo ra những tình thế cực kì nguy hiểm, như vụ xảy ra mới đây ở Tây Ninh (Tua Hai). Về kinh tế xã hội “nhiều người không có việc làm, không có nhà để ở, không có tiền”, “hàng ngàn người bị huy động làm công việc kiệt sức, bị buộc phải rời bỏ công ăn việc làm của họ, nhà cửa và gia đình họ để tham gia xây dựng những “thị trấn nông nghiệp” nguy nga nhưng vô dụng khiến họ phát ngấy và bất bình, do đó làm cho nỗi oán giận của dân chúng trầm trọng thêm”.

Họ cảnh cáo Tổng thống là dân chúng “sẽ quét sạch nỗi ô nhục cùng với cả những bất công bao quanh họ và đè nén họ”. Họ “rung cuộc báo động trước cơn nguy hiểm sắp xảy ra, đe dọa chính phủ”(1).

Mười tám người kí tên vào “tuyên ngôn” thì 11 người đã từng làm bộ trưởng, bốn người đã từng giữ những cương vị cao cấp khác trong chính phủ của Diệm. Điều đó nói rõ sự rạn nứt trong chế độ Diệm là nghiêm trọng.

Tháng 7 năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ quyết định các Khu “đồng khởi” từ ngày 24 tháng 09 năm 1960.

Để chuẩn bị cho đợt đồng khởi mạnh mẽ  và đồng đều hơn đợt một, các huyện đẩy mạnh tốc độ xây dựng lực lượng vũ trang và hoạt động vũ trang để hỗ trợ cho quần chúng vùng lên giành quyền làm chủ.

Bình Tân lập nhóm vũ trang tập trung đầu tiên, ba người một súng lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 301.

Ở Thủ Đức, Dĩ An, Huyện ủy thành lập đơn vị tập trung đầu tiên có 5 người lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 500, đồng thời xây dựng căn cứ ở rừng Bảy Mẫu và ở Bình Hòa. Theo phương châm đánh nhỏ mà chắc ăn, Tiểu đoàn 500 đã đánh thắng liền hai trận thu 5 súng, phát triển lực lượng lên 12 người có súng đầy đủ. Tiểu đoàn 500 lại tập kích đồn Bình Phước, diệt 3 tên, bắt 3 tên, thu 14 súng. Sau trận này, Tiểu đoàn 500 phát triển lên trung đội.

Ở Duyên Hải, Ban cán sự huyện lập đơn vị vũ trang tập trung, ra quân trận đùa ở Giồng An, sau đó đánh ở Giồng Cháy, thu 6 súng.

Các huyện khác: Gò Vấp, Hóc Môn, Nhà Bè,… đều thành lập lực lượng võ trang địa phương, trước mắt làm nhiệm vụ võ trang tuyên truyền diệt ác.


(1)Những đoạn trong ngoặc kép là trích ở bản tuyên ngôn của nhóm Carravelle: Nhật kí Lầu Năm Góc Tập I, quyển 2, sách đã dẫn, tr.214-221.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #97 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2010, 06:57:29 am »

Đợt 2 đồng khởi diễn ra sớm hơn quy định, vào tháng 8 năm 1960, kéo dài đến cuối năm.

Đêm mở màn, trên hầu khắp nông thôn Gia Định, nông dân đốt đuốc kéo đi hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Mỹ”, “Đả đảo Ngô Đình Diệm”. Gò Vấp, Hóc Môn từ 4 giờ chiều dân chúng đã đánh trống, gõ mỡ, khua thùng, nổ khí đá rền thôn xóm. Lực lượng vũ trang cùng bà con nông dân tự vũ trang “súng bập dừa”, gậy tầm vông, đầu quân dây trói, kéo đi rải truyền đơn, treo cờ, dán khẩu hiệu, đưa thư cách mạng gửi gia đình binh sĩ ngụy, phát loa kêu gọi nhân dân nổ dậy.

Trước khí thế quần chúng, tề xã, tề ấp và cả binh lính ngụy co rúc trong đồn bót. Nhiều ác ôn bị trừng trị. Nhiều tên van lạy xin tha tội chết.

Ở Bình Tân, tề ở nhiều ấp bỏ chạy hoặc xuống nước đi tìm ta xin lỗi, phân trần. Dân vệ ở Bót 13, bót Cầu Chùa bỏ trốn. Nhân dân Tân Nhựt nổi dậy bắt xử tử tên Ranh ác ôn, gài mìn giết tên Bảy, bắt sống tên Cang. Ta cài được người vào lực lượng thanh niên chiến đấu nên đã phối hợp trong ngoài tấn công làm tan rã lực lượng này.

Ở Duyên Hải, nhân dân cùng lực lượng vũ trang nổi dậy đốt cháy trụ sở hành chính xã Lý Nhơn, diệt nhiều tên ác ôn có nợ máu.

Tháng 9 năm 1960, đồng chí Võ Văn Kiệt chỉ đạo tổ chức du kích bí mật hoạt động “có miếng mà không có tiếng”.

Tháng 10 năm 1960, Ban Quân sự Khu ủy Sài Gòn - Gia Định được thành lập do đồng chí Nguyễn Hồng Đào phụ trách.

Ở Bình Tân, tháng 10 năm 1960, có thêm súng, Tiểu đoàn 301 đánh thắng trận đầu, phục kích đánh tiểu đội dân vệ gần bót ấp Giồng xã Xuân Thới Thượng diệt 6 tên, thu 4 súng. Tiếp đó, đồng chí Tư Râu được ta cài vào trại huấn luyện Quang Trung đã vận động một số binh sĩ ngụy mang ra 4 khẩu cácbin. Có thêm súng Tiểu đoàn 301 phát triển lên 1 tiểu đội 12 người do đồng chí Phạm Văn Hai làm tiểu đội trưởng. Cuối tháng 12.1960, quan theo dõi nắm được sơ hở địch, cả tiểu đội đã đột nhập vào chỗ địch ngủ, đập chết lính gác giật được 8 súng trường.

Ở Nhà Bè, ngày 8 tháng 11 năm 1960, Đại đội 306 đã đánh chiếm đồn Rạch Đỉa thu một số súng. Ngày 27 tháng 12 năm 1960 “Đại đội 306” cùng du kích Long Thới đánh phản kích một đại đội ngụy (thuộc Tiểu đoàn Bạch hổ) ở Mương Chuối, diệt 40 tên. Ở các xã Tân Qui, Tân Thuận, Phú Mỹ, Phú Xuân, du kích và tự vệ mật hoạt động ngầm, phá kìm cũng quyết liệt. Chỉ riêng mấy tháng cuối 1960, tại xã Tân Thuận, 30 tên lính, tề xã ác ôn đã bị tiêu diệt hoặc cảnh cáo.

Ở Thủ Đức, du kích và bộ đội địa phương đánh 11 trận, diệt 153 tên địch. Trong trận chống càn ở bưng Sáu Xã, hai tiểu đội của Tiểu đoàn 500 đã lợi dụng địa hình cầm cự với hai tiểu đoàn địch suốt ba ngày, diệt 72 tên, thu 10 súng. Bên ta hi sinh 2. Tiếp sang năm 1961 là trận bộ đội cải trang dân thường, bất ngờ đột nhập vào vùng địch bắt sống tên đại tá ngụy Hoàng Thụy Nam và tên cố vấn Mỹ Hetz giữa ban ngày, cách đồn địch khoảng 100 mét. Vừa tác chiến Tiểu đoàn 500 vừa vận động nhân dân đánh du kích, có súng dùng súng, không súng thì dùng dao rựa diệt địch lấy súng. Chỉ một thời gian ngắn, 20 tên ác ôn khét tiếng đền tội. Đơn vị còn hoạt động võ trang tuyên truyền trên tuyến đường xe lửa, đường xe hơi, đường sông, cửa ngõ vào thành phố. Nghe danh lực lượng, khí thế quần chúng lên cao, kẻ thù lo sợ.

Tháng 10 năm 1960, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương xây dựng lại lực lượng vũ trang nội đô. Nhiều cán bộ quân sự ở trong nội đô trong dó có các đồng chí Đỗ Tấn Phong, Lê Tấn Quốc đã được mời ra căn cứ để bàn kế hoạch  thực hiện. Tháng 12 năm 1960 để chào mừng sự ra đời Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, đồng chí Lê Tấn Quốc cùng đồng chí Mười Lãng là người của ta cài vào làm nhân viên phục vụ trong Golf Club gần ngã ba Chú Ía (Gò Vấp) đã mang hai quả mìn hẹn giờ 14kg, bí mật luồn theo một cống nước đặt vào nhà ăn câu lạc bộ. Đúng theo kế hoạch, hai quả mìn đã nổ, giết tại chỗ và làm bị thương hàng chục cố vấn Mỹ và chư hầu. Từ đó lực lượng vũ trang nội thành xây dựng và phát triển.

Cuối năm 1960, sau hai đợt nổi dậy và đồng khởi, ở vùng ven Sài Gòn, có bốn xã phía Bắc Củ Chi: Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Trung Lập được hoàn toàn giải phóng và 20 xã khác giải phóng một phần. Huyện nào cũng có các “lõm căn cứ” để các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy và lực lượng võ trang đứng chân và làm bàn đạp tiến công địch. Đó là các căn cứ Hố Bò, Rừng Làng, Xóm Bưng ở Củ Chi, Kinh Xáng ở Bình Tân, An Phú Đông ở Gò Vấp, bưng Sáu Xã ở Thù Đức, Bình Mỹ ở Hóc Môn, Đông Hòa ở Dĩ An, Hiệp Phước ở Nhà Bè. Riêng Củ Chi có bốn xã giải phóng ở phía Bắc tiếp giáp với các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, vừa rộng rãi vừa có thể liên hoàn với căn cứ ở Xứ ủy Nam Bộ nên được Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chọn làm căn cứ Khu ủy(1).

Những tháng gần cuối năm 1960, những thắng lợi đảo ngược tình thế của phong trào Đồng khởi đã khơi sâu thêm mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Diệm. Gia đình Ngô Đình Diệm và các thế lực không ăn cánh đã hầm hè thanh toán lẫn nhau. Ta nêu khẩu hiệu “đòi bầu cử lại tổng thống”, “Ngô Đình Diệm phải từ chức”. Đây là sách lược cô lập thêm chế độ gia đình Ngô Đình Diệm, chĩa mũi nhọn vào chế độ tay sai đắc lực của Mỹ.

Chủ trương của ta mở rộng tập hợp chính trị rộng lớn, cô lập chính quyền gia đình trị Ngô Đình Diệm được đồng bào tiếp nhận nhiệt liệt. Trên các đường phố Sài Gòn, đồng bào tuần hành hô vang khẩu hiệu đả đảo chính quyền Diêm, đòi thành lập chính quyền liên hiệp, đòi đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam.


(1)Lịch sử lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh (1945-1995). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998. Trang 202-204.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #98 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2010, 07:02:32 am »

Ngày 11 tháng 11 năm 1960 nổ ra cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm mà người cầm đầu là đại tá Nguyễn Chánh Thi - một sĩ quan thân tín bậc nhất của Diệm, chỉ huy trưởng quân dù lực lượng cơ động chiến lược của Việt Nam Cộng hòa. Ban lãnh đạo đảo chính còn có Hoàng Cơ Thụy, trung tá Nguyễn Triệu Hồng, trung tá Vương Văn Đông. Quân đảo chính với lực lượng chính là ba tiểu đoàn dù, có sự yểm hộ của xe tăng đã chiếm các vị trí xung yếu: Bộ Tổng tham mưu, Nha Tổng giám đốc, công an, cảnh sát, trụ sở Quốc hội, nhà Bưu điện Trung ương, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh và bao vây cả Dinh Độc Lập.

Trước áp lực quân sự của phe đảo chính, Diệm đã phải tuyên bố quyết định giải tán chính phủ hiện thời và triệu tập các tướng lĩnh quân đội Việt Nam Cộng hòa để thành lập một chính quyền chính phủ lâm thời. Song ngay sáng hôm sau (12.11.1960), trong lúc phe đảo chính đang hi vọng ở sự thỏa hiệp của Diệm, thì Sư đoàn 7 từ Biên Hòa đã kéo về Sài Gòn, cứu nguy cho Diệm. Những đơn vị thủy quân lục chiến và thiết giáp ngày hôm qua theo phe đảo chính, nay ngả về phía Diệm. Phe đảo chính dần dần tan rã. 18 sĩ quan làm đảo chính vội vã lên máy bay chạy trốn sang Campuchia.

Cuộc đảo chính tuy thất bại, song nó minh chứng hùng hồn cho sự khủng hoảng chính trị sâu sác trong nội bộ chính quyền Diệm. Nó là hồi chuông báo hiệu sự suy tàn của chế độ độc tài, tàn bạo do Mỹ dựng lên chỉ biết dựa vào đàn áp để thống trị nhân dân.

Chế độ Diệm đã đi vào thời kì khủng hoảng và cô lập.

Hơn một năm Đồng khởi đấu tranh chống chế độ độc tài thực dân kểu mới của Mỹ và chế độ độc tài tàn bạo do Mỹ dựng lên, nhân dân miền Nam đã nổi dậy đồng loạt trên quy mô rộng lớn ở khắp nông thôn vào cả vùng ven đô thị thủ đô của giặc, đã đánh sập bộ máy cai trị địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ đại bộ phận nông thôn: 865 trên 1193 xã của Nam Bộ, 3200 trên 6721 thôn của Khu 5, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính trị đòi dân sinh, dân chủ và hòa bình ở thành thị, thức tỉnh những người lừng chừng và cả những người trước đây tôn sùng Diệm, đào sâu thêm mâu thuẫn nội bộ của địch thêm trầm trọng gay gắt(1).

Cuộc Đồng khởi không chỉ đánh sập bộ máy ngụy quyền cơ sở mà cùng với nói là các tổ chức chính trị, xã hội do Mỹ Diệm dựng lên ở nông thôn cũng tan rã theo. Lực lượng vũ trang nồng cốt của chế độ Diệm dao động, nhụt ý chí, rạn nứt, đến cả nhứng đơn vị được Diệm coi là trung thành nhất đã nổi lên đảo chính đánh đổ Diệm.

Trong báo cáo gởi Kennơdi Tổng thống Mỹ vừa mới trúng cử, Cục Tình báo Trung ương Mỹ đã thú nhận: “Một thời kì hết sức nghiêm trọng đối với tổng thống Ngô Đình Diệm và Việt Nam Cộng hòa đã ở ngay truóc mặt. Trong sáu tháng cuối 1960 tình hình an ninh trong nước vẫn tiếp tục ngày càng xấu đi và nay đã lên tới mức nghiêm trọng… Trên một nửa toàn bộ vùng nông thôn ở phía Nam và Tây Nam Sài Gòn cũng như một số vùng ở phía Bắc đã nằm dưới quyền kiểm soát rất lớn của Việt Cộng”(2).

Trên cơ sở thắng lợi của phong trào Đồng khởi của nhân dân miền Nam, ngày 20 tháng 12 năm 1960, tại xã Tân Lập huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, đảng phái, các tôn giáo, các dân tộc miền Nam đã họp Đại hội thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Đại hội thông qua chương trình 10 điểm mà nội dung cơ bản như Tuyên ngôn của Mặt trận nêu rõ: “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam chủ trương đoàn kết tấ cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và nhân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc”.

Đại hội kêu gọi: “Tất cả hãy đứng lên, tất cả hãy đoàn kết lại. Hãy xiết chặt hàng ngũ chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm”(3).

Cùng với sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam là sự công khai hóa Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng thành lập.

Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam là kết quả của phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam chống Mỹ Diệm mà đỉnh cao là thắng lợi của cuộc Đồng Khởi (1959-1960). Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng và mong đợi của nhân dân. Đánh giá sự kiện này, Hồ Chủ tịch đã nói: “Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện nay trong cuộc đấu tranh anh dũng chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm, đồng bào ta ở miền Nam cũng có “mặt trận dân tộc giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó, có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”(4).

Thắng lợi của Đồng khởi 1959-1960 thật vĩ đại. Nó đã “giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới Mỹ”(5). Nó “đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra khắp miền với sự khết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự”(6).


(1)Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975. Tập II, Chuyển chiến lược. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, trang 330.
(2)Nhật kí Lầu Năm Góc, Tập 1, VNTTX 1971, Trang 85.
(3)Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1961, trang 9.
(4)Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ hai. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, trang 349.
(5)Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 21 (10.1973).
(6)Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970. Trang 51.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #99 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2010, 07:08:27 am »

KẾT LUẬN

Cuộc Đồng khởi từ mùa thu năm 1959 đến cuối năm 1960 nổ ra là một bất ngờ lớn đối với đế quốc Mỹ. Mới vào cuối mùa hè năm 1959, Đại sứ Durbrow và Tướng Williams đã cam đoan với Ủy ban đối ngoại Thượng Nghị viện Mỹ rằng nền an ninh nội bộ của Nam Việt Nam không hề bị đe dọa nghiêm trọng và rằng bây giờ hơn lúc nào hết, Nam Việt Nam ở vào tư thế tốt hơn để đối phó với xâm lược từ miền Bắc. Thế mà đùng một cái Khởi nghĩa Cà Mau, Khởi nghĩa Trà Bồng và trận Giồng Thị Đam, Gò Quảng Cung nổ ra từ đầu mùa thu năm 1959. Đến tháng 1 năm 1960 đến lượt trận Tua Hai vang động và đồng khởi nổ ra trên hàng loạt tỉnh Kiến Phong, Bến Tre, Kiến Tường, Long An…

Nhật kí Lầu Năm Góc ghi rằng: “Ngay từ đầu năm 1960 nhiều bộ phận cả dân sự lẫn quân sự thuộc phái quốc gia đã nhận thức rõ ràng rằng sự tiến triển từ xấu đến tồi tệ và nếu như không làm gì để kết thúc quyền lực tuyệt đối của Diệm thì cuối cùng cộng sản sẽ giành được chính quyền với sự giúp đỡ hoặc ít nhất là với sự đồng tình của dân chúng”.

Đầu năm 1961, trong Chỉ thị về phương hướng nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam ngày 31.1.1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: “Thời kì tạm ổn định của chế độ Mỹ Diệm đã qua và thời kì khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu, các hình thức du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện mở đầu cho một phong trào cách mạng ngày càng rộng lớn”.

Tháng 3 năm 1960, các tham mưu trưởng liên quân Mỹ (JCS) bắt đầu vạch ra kế hoạch chống nổi dậy để cứu vãn tình thế. Kế hoạch được đệ trình tháng 1.1961 lên Tổng thống Kennơđi trước khi lên nhậm chức. Mười ngày sau khi lên cầm quyền, Kennơđi tăng thêm 41 triệu đô la viện trợ cho Nam Việt Nam để Diệm chấp nhận chương trình chống nổi dậy.

Thắng lợi của cuộc Đồng khởi 1959-1960 là hết sức to lớn làm đảo ngược tình thế ở miền Nam, đánh đòn chí tử vào chủ nghĩa thực dân mới Mỹ và chính quyền cảnh sát tay Mỹ, buộc Mỹ Diệm từ chỗ liên tục mở các chiến dịch tố cộng diệt cộng đã phải chuyển sang thế bị động đối phó với phong trào nổi dậy dâng lên cao trào của nhân dân miền Nam. Thắng lợi của cuộc Đồng khởi tạo nên một bước ngoặt đưa phong trào đấu tranh cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển mạnh sang thế tiến công.

Nguyên nhân của cuộc Đồng khởi thật rõ ràng. Đó là do chính sách xâm lược dân chủ kiểu mới của Mỹ và sự độc tài tàn bạo cảu chính quyền gia đình trị tay sai Mỹ.

Đế quốc Mỹ là người đầu tiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đã nhân điều kiện hòa bình nảy vào Việt Nam, hất cẳng Pháp và áp đặt chính sách thực dân kiểu mới Mỹ lên đầu lên cổ nhân dân miền Nam. Đalét là cha đẻ của Hiệp ước SEATO đặt Nam Việt Nam, Lào, Campuchia trong ô bảo hộ của nó để kiếm cớ can thiệp vào Đông Dương. Với tiền “viện trợ” Mỹ, với vũ khí Mỹ, với sự “cố vấn” của Mỹ chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành đàn áp, khủng bố, tàn sát nhân dân trong các chiến dịch tố cộng diệt cộng đẫm máu… Trăm tội ác gây nên là do đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế lúc ấy giờ. Kẻ thù chủ yếu của nhân dân Việt Nam đế quốc Mỹ còn ghê tớm và nguy hiểm hơn nhiều so với thực dân Pháp. Vì vậy, nhân dân Việt Nam, đã từng đánh Pháp, đuổi Nhật vùng lên làm Cách mạng tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp đưa thực dân Pháp đến việc thất bại ở Điện Biên Phủ, nhân dân ấy quyết vì độc lập, tự do, vì thống nhất Tổ quốc mà vùng lên lật đổ ách thống trị trá hình của đế quốc Mỹ.

Chính quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên thì lại độc tài, tàn bạo, thực hiện các quốc sách làm mất lòng dân, đối lập với nhân dân. Cải cách điền địa lại khôi phục quyền chiếm hữu ruộng đất, thu tô của địa chủ, tước ruộng đất mà cách mạng đã chia cho nông dân. Lầu Năm Góc mà còn nói: “Ngay về lí thuyết toàn bộ chương trình cải cách của Diệm cũng kém xa những gì Việt Minh đã làm về cải cách ruộng đất”. “Một trong những thất bại chủ yếu của Diệm là ở chỗ ông không có khả năng làm như thế nào để tranh thủ lòng trung thành của nông dân chiếm 90% dân số”. Về chính sách dinh điền, lập khu trù mật thì “toàn bộ chương trình làm cho người nông dân phẫn nộ. Họ căm ghét nạn lao dịch… Họ ghê sợ phải bỏ nhà cửa thân yêu của tổ tiên”. “Lòng căm phẫn của nông dân đối với Diệm gắn liền với sự căm phẫn đối với Mỹ”.

Còn các chiến dịch tố cộng diệt cộng lại biến thành cuộc hủng bố tàn sát nông dân. Trong hơn hai năm 1955-1958 địch giết hại 68.800 người, bắt giam 466.000, tra tấn thương tật 680.000 là bằng chứng đẫm máu địch đã đánh vào nhân dân. Nhật kí Lầu Năm Góc ghi nhận rằng: “Đối với người nông dân nói chung, Việt Minh được khâm phục rộng rãi khắp miền Nam như những anh hùng dân tộc, và do đó Chính phủ Nam Việt Nam đã phạm một sai lầm chiến thuật rất to lớn là kết tội bừa bãi tất cả Việt Minh là cộng sản… Do chính sách nông thôn của mình, Chính phủ đã tạo ra một không khí công phẫn tiếp thêm cho nông dân về chính trị, làm cho họ quy về chống lại Chính phủ, ủng hộ Việt Cộng và cho phép cộng sản tồn tại qua những cuộc đàn áp kịch liệt của chính phủ và thậm chí còn tuyển mộ được trong thời gian đó”. “Chiến dịch tố cộng đã làm kinh hoàng những người nông dân Việt Nam và làm cho dân chúng căm ghét chế độ”. “Con người Diệm hầu như cô lập với tầng lớp nông dân”,… không lãnh đạo được nông dân, “Ngô Đình Diệm cũng không lãnh đạo được dân chúng ở thành thị hoặc giới trí thức. Diệm đã lần lượt làm xa lánh những phe phái chính trị trong xã hội miền Nam và cho đến cuối năm 1960 thì chế độ của ông ta như còn dựa trên nền tảng nhỏ bé và đang tan rã của bộ máy quan liêu và những người Bắc di cư”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM