Cuộc đồng khởi kì diệu ở miền Nam Việt Nam 1959-1960
macbupda:
Sang năm 1958, phong trào đấu tranh chính trị và binh vận kết hợp võ trang tự vệ, diệt ác trong toàn tỉnh tiếp tục phát triển rộng mạnh.
Ngày 23/4/1958 đơn vị Thất Sơn thuộc Trung đoàn Lê Quang Vinh diệt đồn Vĩnh Điền bằng kì tập kết hợp nội ứng. Sau trận này bọn đồn bót và tề điệp ở vùng biên giới Hà Tiên co lại, cơ sở của ta hoạt động mạnh mẽ.
Trong thời kì này, nhân dân ta phá “khu trù mật” của địch ở thị trấn Dương Đông huyện đảo Phú Quốc, nhân dân phục vụ cho đồng chí Nguyễn Duy Khánh diệt tên quận trưởng Nguyễn Việt Nghĩa, một tên phản bội từng sát hại 38 cán bộ, đảng viên ở Phú Quốc. Sau khi diệt tên quận trưởng Nghĩa và một số tên tề xã, ấp, phong trào của nhân dân Phú Quốc chuyển lên mạnh mẽ.
Hoạt động vũ trang tuyên truyền diệt ác phá kìm cũng phát triển ở Sóc Trăng và Cần Thơ nhưng không đồng đều, mạnh mẽ như ở Rạch Giá, Cà Mau.
Ở Sóc Trăng, lực lượng vũ trang tỉnh diệt một đơn vị biệt kích nổi tiếng ác ôn và tên quận trưởng Phước Long.
Lực lượng vũ trang Cần Thơ thì liên tiếp diệt hai quận trưởng Ô Môn.
Một hình thái đấu tranh mới xuất hiện tại tỉnh Cà Mau nơi có phong trào võ trang tuyên truyền diệt ác trừ gian mạnh nhất lại có căn cứ rừng U Minh: Làng Rừng.
Đầu năm 1958 khi Mỹ Diệm phát động cái gọi là phong trào bảo vệ hương thôn đồng thời đưa lữ đoàn phòng vệ Tổng thống phủ làm nòng cốt hỗ trợ cho sự càn quét của “bảo vệ hương thôn”, quân địch đã gây nên phong trào khủng bố tràn ngập.
Trước tình hình đó, các đảng bộ đã chủ trương giải thoát cho các gia đình cách mạng bị địch dồn vào sát đồn bót để kiểm soát, truy ép, đàn áp. Thanh niên nhiều xã lập thành từng nhóm, từng tổ vũ trang tìm nơi có địa hình thuận lợi tự động tổ chức chiến đấu chống lại quân thù. Một số chiến sĩ bộ đội, du kích cũ không chịu nổi kìm ép của quân thù cũng lập chòi tránh né. Các trung đội của bộ đội Đinh Tiên Hoàng, Ngô Văn Sở đều đã có căn cứ trong rừng. Trong khi đó Xứ ủy do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư đã đồng ý cho vùng Nam U Minh đến rừng đước Năm Căn được nổi dậy chống giặc.
Tỉnh ủy Cà Mau do đồng chí Vũ Đình Liệu làm Bí thư đã quyết định tổ chức Làng Rừng. Hàng vạn dân có sự chỉ đạo của các xã ủy nổi dậy kéo vào rừng U Minh, rừng đước Năm Căn, các khu lõm lập nên các làng để tránh giặc, đánh lại giặc. Không chịu sống dưới sự khủng bố tàn sát của địch, nhân dân công khai không thừa nhận sự cai trị của cơ quan Mỹ Diệm, kéo vào dựng làng riêng, tổ chức kháng chiến.
Mười lăm Làng Rừng chính thức với 20 ngàn dân cùng nhiều làng rừng khác với khoảng 10 ngàn dân được lập nên trong và quanh rừng U Minh kéo xuống phía Nam, Đông Nam đến rừng đước Năm Căn. Các làng rừng được bố trí chặt chẽ để đánh lại quân địch càn quét, chặn bọn bảo vệ hương thôn vào càn phá.
Trong các Làng Rừng, nhân dân đùm bọc tương trợ nhau, khi lập làng các gia đình đem gạo, muối đủ ăn nhiều tháng. Vào làng thì tổ chức đánh cá, bắt tôm, săn thú, chăn nuôi, trồng trọt những cây ngắn ngày. Nhân dân dựng trạm xá, dừng trường, tổ chức học chữ, hoạt động văn hóa, văn nghệ, tổ chức cuộc sống đồng bào nói “theo chủ nghĩa xã hội”.
Các đội du kích được tổ chức, mỗi Làng Rừng của huyện Trần Văn Thời có từ 40 đến 60 du kích. Các làng đều có lò rèn, tổ vũ khí, có làng có 3 tổ. Quân địch mới mon men ở ngoài bìa rừng, chưa bao giờ đi sâu được vào làng. Làng Rừng vùng đước địch không đốt được. Làng Rừng U Minh, ta khai mương rãnh đề phòng cháy rừng. Các Làng Rừng đều có ban quản trị hoăc ban tự quản do chi bộ Làng Rừng lãnh đạo.
Khi có Làng Rừng tổ chức lãnh đạo của đảng bộ xã cũng thay đổi. Nơi tổ chức thành hai chi bộ, nơi 3 chi bộ. Chi bộ A Làng Rừng là chi bộ công khai, chi B lãnh đạo ở làng cũ nơi ta duy trì một số dân ở lại và khu dinh điền hay khu trù mật. Nơ tổ chức 3 chi bộ có thêm chi bộ vũ trang.
Làng Rừng là căn cứ cho ta xây dựng và rèn đúc vũ khí, là bàn đạp cho cán bộ bộ đội, du kích tỏa ra hoạt động vũ trang tuyên truyền, đánh địch. Với Làng Rừng liên hệ chặt chẽ với làng cũ ta tạo thế hỗ trợ lẫn nhau giữa vùng tranh chấp, vùng địch kèm với vùng căn cứ. Nhờ vậy mà phong trào cách mạng phát triển. Làng Rừng ngày một rộng, một đông đến năm 1959 đã lên đến hàng chục vạn người.
Các Làng Rừng là các làng độc lập tự do đầu tiên công khai dựng nên trong vùng Mỹ Diệm cai trị. Làng Rừng tiếng là tránh địch nhưng chứa đựng tư tưởng tiến công lớn. Đây là sự nổi dậy của nhân dân chống lại chính quyền địch, lập vùng tự do do chính mình quản lí, lập căn cứ địa, xây dựng lực lượng, làm bàn đạp tiến công quân thù. Với việc xây dựng Giải phóng quân - các đơn vị Ngô Văn Sở, Đinh Tiên Hoàng và đưa các lực lượng hoạt động vũ trang tuyên truyền đây là mô hình: lực lượng vũ trang tuyên truyền và căn cứ địa để chuẩn bị khởi nghĩa.
Năm 1978 khi thăm Minh Hải đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Khi địch lê máy chém đi khắp miền Nam đưa sự tàn bạo của phát xít cùng cực thì ở Minh Hải này có hàng chục vạn thanh niên vào rừng U Minh. Một không khí cách mạng lại bùng lên, chính thực tế đó của Minh Hải đã giúp cho Trung ương thấy rõ cần phải và có thể phát động quần chúng vùng dậy đấu tranh”(1).
Tháng 10/1958, Xứ ủy triệu tập Hội nghị tại PhnômPênh. Trước sự phản ánh của các Liên Tỉnh ủy về sự hình thành “túi bất hợp pháp” ở các nơi, đồng chí Bí thư Xứ ủy Nguyễn Văn Linh giải đáp; “Trước tình hình này, trên cơ sở các lõm không hợp pháp, cho quần chúng nổi dậy vũ trang tự vệ, vũ trang đánh địch, tuyên truyền vũ trang. Lập làng rừng, những lõm chính trị có vũ trang, đó là những căn cứ cách mạng, căn cứ vũ trang diệt ác, tề, điệp, đánh địch chung quanh những căn cứ này”(2).
(1)Minh Hải 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975), NXB Mũi Cà Mau.
(2)Tây Nam Bộ 30 năm kháng chiến (1945-1975), Sách đã dẫn - tr372.
macbupda:
Bước sang năm 1959, do sự phát triển của phong trào cách mạng ở miền Nam, cơ quan Mỹ Diệm lại gia tăng đàn áp, khủng bố.
Ngày 23/3/1959, Ngô Đình Diêm tuyên bố tình trạng chiến tranh ở miền Nam.
Ngày 6/5/1959, Diệm ban hành luật 10/59.
Ngày 3/7/1959, Diệm đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật.
Địch lê máy chém đi khắp nơi chặt đầu người cách mạng. Phong trào bảo vệ hương thôn lại nổi lên hoành hành, nơi nơi không khí khủng bố tràn lan.
Ngày 17/5/1959 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc chổng đạo luật phát xít 10/59, nhận định: “Sở dĩ địch phải dùng đến lực lượng quân sự quy mô, dùng chinh sách phát xít công khai trắng trợn như đạo luật vừa rồi để dối phó vói phong trào quần chúng vì địch đang thất bại hoàn toàn về chính trị. Địch đã bị động toàn bộ và ta tùy từng lúc, từng nơi có bị động đối phó, nhưng đứng trên toàn cục thì ta lại chủ động”(1).
Chỉ thị đề ra “Phát động phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ, rộng rãi đồng thời từng từng nơi, từng lúc phát triển hoạt động vũ trang tuyên truyền, làm thất bại chính sách đàn áp khủng bố chính quyền dộc tài phát xít Mỹ Diệm, đẩy chúng vào thế bị động, cô lập hơn nữa về chính trị. Chú ý khẩu hiệu kinh tế thết thực, hình thức mang tính chất cách mạng càng mạnh mẽ càng có lợi. Trong những trường hợp cần thiết, lực lượng vũ trang tuyên truyền có thể tiêu diệt từng bộ phận gian ác của địch”(2).
Tháng 8/1959, Liên tỉnh ủy miền Tây bàn về việc thi hành chỉ thị chống luật phát xít 10/59 đã quyết định chọn tỉnh Cà Mau và huyện An Biên (Rạch Giá) làm thí điểm lãnh đạo quần chúng nổi dậy khởi nghĩa. Đồng chí Trần Văn Bỉnh, Phó Bí thư Liên Tỉnh ủy trực tiếp tới tỉnh Cà Mau làm điểm thí điểm để lãnh đạo phong trào.
Trên cơ sở phong trào cách mạng của quần chúng mạnh mẽ, có lực lượng vũ trang là Tiểu đoàn Ngô Văn Sở, Đinh Tiên Hoàng và Làng Rừng, co sơ sở ta mạnh trong lòng địch, lại được đồng chí Trần Văn Bỉnh thông báo là Trung ương Đảng đã cho vũ trang khởi nghĩa, Tỉnh ủy Cà Mau phát động quần chúng khởi nghĩa.
Tỉnh ủy Cà Mau ra hiệu triệu kêu gọi nhân dân đứng dậy từ ác diệt gian, đánh đổ chính quyền Mỹ Diệm. Bản hiệu triệu vết:
“Cờ đỏ sao vàng tạm khuất bóng ở Miền Nam là do Mỹ Diệm phá hoại hiệp định Giơnevơ, phá hoại hiệp thương tổng tuyển cử. Chúng đem quân đội cảnh sát càn quét, giết hại đồng bào ta. Chúng cướp lại ruộng đất của chúng ta, chúng bắt con từ cha, vợ li khai chồng, chúng tàn sát dân ta, đập đầu người yêu nước, đem máy chém chặt đầu phanh thây người cách mạng. Chúng đem giết chóc đau thương đến với mọi gia đình.
Hỡi đồng bào, bấy lâu ngậm đắng nuốt hờn, đã đến lúc chúng ta phải vùng dậy. Chúng ta không thể sống dưới cảnh khủng bố, đàn áp, bị bắt, bị giết lúc nào không hay, sống nay chết mai.
Quân địch hung hăng tàn bạo nhưng sức mạnh chúng chỉ bề ngoài như bèo bọt trên mặt nước.
Đồng bào chiến sĩ hãy đứng lên!
Có súng cầm súng, có dao cầm dao, có gì cầm nấy, quyết diệt hết tụi gian ác, đập ta chính quyền vô đạo bạo ngược.
Hỡi thanh niên “bảo vệ hương thôn”, các bạn đừng để bọn cảnh sát ác ôn kìm kẹp các bạn, buộc các bạn đập đầu chính người thân các bạn. Hãy quay roi, gậy lại trói chúng nó, đập bể đầu chúng nó, những kẻ đã chém giết cha mẹ, bà con, cô bác chúng ta, đánh đúng những kẻ thù thật sự của các bạn, của nhân dân.
Hỡi đồng bào chiến sĩ hãy đứng lên!
Đất nước ta có bao nhiêu vị anh hùng cứu quốc, sự tích Tổng khởi nghĩa tháng Tám, kháng chiến chống Pháp còn đây, ngọn Hòn Khoai còn đó thì truyền thống quật cường bất khuất của nhân dân Bạc Liêu - Cà Mau đời đời bất diệt.
Tỉnh ủy Bạc Liêu - Cà Mau”(3).
Lời kêu gọi xúc động mạnh mẽ lòng dân, đáp ứng nguyện vọng bức xúc của đồng bào như nắng hạn gặp mưa rào. Toàn dân Cà Mau - Bạc Liêu như bể dầu nóng bỏng được châm ngọn lửa tiến công đã sục sôi bùng cháy, nổ bùng, điểm khởi từ U Minh, Đầm Bà Tường.
Huyện Trần Văn Thời do đồng chí Nguyễn Văn Đáng (Tư Hườn) làm Bí thư được chọn làm huyện điểm. Đồng chí Phan Ngọc Sến (Mười Kỷ) Phó Bí thư tỉnh ủy, Trưởng ban quân sự Tỉnh trực tiếp chỉ đạo ở đây.
Trận đầu là trận Vàm Cái Tàu xã Khánh An đêm 25 rạng 26 tháng 8 năm 1959. Bộ đội Đinh Tiên Hoàng do các đồng chí Năm Tân, Tám Lực chỉ huy kết hợp với lực lượng xã Khánh An được hai cơ sở binh vận làm nội ứng dẫn đường đánh vào nhà đồn trưởng và trại lính. Trận đánh kết thúc nhanh chóng. Ta diệt một số, một số tên chạy thoát có đồn trưởng Nho, ta bắt sống 12, thu 57 súng, nhiều thùng đạn và lựu đạn.
Theo tiếng phát loa của cách mạng, nhân dân trống mõ, đèn đuốc, gậy cộc kéo đến mtítinh rầm rộ, tỏa đi vây bắt hỏi tộ những tên tay sai địch ra xét xử. Đồng bào trong khu trù mật Vàm Cái Tàu nổ dậy đốt sạch khu kéo về làng cũ. Lửa cháy khu tập trung sáng rực.
Chặn đánh một đại đội thủy quân lục chiến càn quét vào Cây Bàng, diệt nhiều tên, lấy súng, bộ đội Đinh Tiên Hoàng tiến công vào dinh điền Đồi Đức Mẹ diệt gọn một đại đội, bắt sống nhiều tên. Ta chiếm phá luôn khu dinh điền kiểu mẫu của Ngô Đình Diệm. Thuốc men, cụng cụ, xuồng ghe ta chở ba ngày không hết. Ta lấy được rất nhiều gạo chia cho đồng bào.
Các xã Trần Văn Thời: Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây, Phong Lạc giải phóng hoàn toàn. Khánh An, Nguyễn Phích, Khánh Lâm giải phóng về cơ bản. Toàn huyện chỉ còn chi khu Rạch Ráng, đồn Sông Đốc, khu trù mật Khai Quang, khu dinh điền Khánh Lâm.
Huyện Cái Nước do các đồng chí Sáu Toàn, Sáu Vui làm bí thư và Phó Bí thư bắt đầu khởi nghĩa ở Phú Mỹ, Đầm Bà Tường, Lương Thế Trân. Đồng chí Vũ Đình Liệu (Tư Bình) Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo ở đây.
Tại Phú Mỹ, đội võ trang huyên với 20 súng máy, 130 mã tấu kéo đến nhập với 200 cây mã tấu của xã cùng đơn vị Ngô Văn Sở cùng nhân dân họp míttinh trong khi đội du kích bao vây đồn Vàm Đình. Nhân dân vùng dậy với khí thế dậy trời, tỏa ra đi bắt, trừng trị những tên ác ôn, đưa đi giáo dục những tên khác. Ta giải phóng hàng loạt bảo vệ hương thôn. Gậy gộc, dây, roi, đèn pin ném xuống muốn đầy một khúc kinh Bà Tường.
Quân thủy quân lục chiến đi ba tàu cây từ Đường Ven qua Mang Rổ, đến kinh Mười Hổ bắt anh Thời thương binh và anh Năm Tiến phụ trách căn cứ. Một đơn vị Ngô Văn Sở cùng du kích Tân Hưng bố trí phục kích ở Mang Rổ. Ta bắn chết và bị thương 31 tên, thu 1 tàu, 1 trung liên, 1 tôm xơn, 1 các bin, nhiều súng trường và thùng đạn, giải thoát được anh Thời.
Trận Mang Rổ đánh bọn thủy quân lục chiến, diệt nhiều địch, lấy tàu, lấy súng chấn động mạnh mẽ trong địa phương.
(1)Chỉ thị của Ban bí thư Trung ương về việc chống luật 10/59 của địch. Lưu trữ tại Văn phòng Trung ương Đảng.
(2)Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc chống luật 10/59 của địch. Lưu trữ tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng - Hà Nội.
(3)Minh Hải 30 năm chiến tranh giải phóng, Sách đã dẫn - tr 126, 127.
macbupda:
Ở Lương Thế Trân đồng chí Sáu Toàn vừa nhận ở Tỉnh các bản Hiệu triệu về liền phát động xã Lương Thế Trân - Thạnh Phú nổi dậy. Có nội tuyến dẫn vào, đội võ trang tuyên truyền xã với 10 chiến sĩ cùng nhân dân nổi dậy diệt đồn Cái Nhum trong 5 phút, giết 5 tên, bắt số 7 tên. Một tiểu đội biệt kích địch từ Rau Dừa tới bị một đơn vị Ngô Văn Sở phục kích bắt sống.
Trận đánh đồn Chà Là tiêu diệt đại đội bảo an Triệu Quang Phục là một trận tập kích bất ngờ kết hợp với nội ứng. Nội tuyến ta có anh Hai Đen và ba nòng cốt. Đồng chí Sáu Vui Phó Bí thư Huyện ủy tập hợp 33 đồng chí phân nửa là xã ủy viên, chia làm ba cánh ngụy trang trong ba ghe chuối bất ngờ xung phong vào chính diện và bọc hậu, xuyên hông. Anh Hai Đen đưa ngay khẩu trung liên cho lực lượng xung phong phát triển. Ta đâm lê diệt Tên đồn trưởng. Binh lính: bộ phận ra hàng, bộ phận hoảng hốt vứt súng xuống sông chạy tán loạn. Ta thu 33 súng: 1 súng cối, 1 trung liên, 4 tôm xơn, 9 các bin, 3 phóng lựu… Địch chết 6, bị bắt 20.
Nhân dân khởi nghĩa làm chủ hầu hết các xã. Bọn đồn, tề xã hoang mang bỏ chạy. Địch chỉ còn đồn ở biệt khu Bình Hưng, Vàm Đình, Chà Là (đóng lại) và một số đồn điền trên lộ xe Cà Mau - Năm Căn.
Tại huyện Ngọc Hiển, cuộc khởi nghĩa do đồng chí Tư Chờ (Huỳnh Kim Tấn) Bí thư Huyện ủy lãnh đạo kết hợp với Đại đội 1 Ngô Văn sở. Cuộc đấu tranh ở đây rất găng từ khi ta giết quận trưởng Nhung. Một tiểu đoàn chủ lực càn quét liên tục kết hợp với tên quận trưởng Thăng đi khủng bố trả thù.
Ở Tạ An Khương, nhân dân nổi dậy cùng du kích bắt toàn bộ tề ấp, tề xã ác ôn, xếp thứ tự từng hàng theo mức tội ác. Từ các ấp nhân dân kéo đến, đi đầu là các gia đình có người bị chúng sát hại, đầu đội bát hương thờ tử sĩ. Cuộc nổi dậy biến thành cuộc tố cáo tội ác giặc, gây căm thù quân cướp nước, bán nước. Ta trừng trị những tên gian ác nhất, đưa đi giáo dục những tên chưa đáng tội chết. Một số khá đông được nhân dân giáo dục, thả tại chỗ.
Ở Tân Duyệt, nhân dân nổi dậy diệt ác ôn ở ấp rồi kéo về vây đồn chi khu Đầm Dơi.
Ở Tân Thuận, nhân dân toàn xã nổi dậy, trống mõ, vũ khí thô sơ, ống tre, khí đá cùng một đơn vị Ngô Văn Sở tước vũ khí dân vệ ở ấp tân Bình, bao bó đồn Tân Đức suốt 7 ngày đêm liền. Trước sức mạnh áp đáo của quần chúng, quân địch đầu hàng. Ta bắt 15 tên, thu 15 súng.
Trong cao trào nổi dậy, đồn Cái Keo khởi nghĩa. Cán bộ ta vận động cả trung đội địch diệt chỉ huy và ác ôn, phá đồn bốt mang toàn bộ súng đạn, quân trang quân dụng rút về rừng Tân Thuận.
Ta phá tan khu dinh điền Tân Duyệt, đánh khu trù mật Cây Tàn, có tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 32 bảo vệ.
Ngày 12/11/1959, để đối phó với phong trào nổi dậy của quần chúng, địch phải điều tiểu đoàn 3 Bác Ái của Phủ Tổng thống tới chi viện. Tiểu đoàn Bác Ái là tiểu đoàn “con cưng” của Phủ Tổng thống. Binh lính của tiêu diệt đều gọi Ngô Đình Diệm bằng “anh Ba” và được Diệm tặng cho mỗi người một quả lựu đạn Mỹ MK2 đặt trong hộp để bảo vệ Tổng thống.
Tiểu đoàn 3 Bác Ái đóng quân ở ấp Thanh Tùng, cho một đại đội theo tàu đi vòa Kinh Năm. A phục kích ở Bến Dựa trên sông Cái Ngay, diệt gọn đại đội này và một tiểu đội bảo an dẫn đường, chiếm toàn bộ chiếc tàu. Ta bắt sống 50 tên, thu 133 súng: có 1 súng cối, 12 trung liên, 4 máy thông tin PRC10, rất nhiều đạn, lựu đạn MK2. Bên ta, 5 đồng chí hi sinh.
Trận Bến Dựa (12/11/1959 là trận đánh tiêu diệt địch gọn nhất, lớn nhất, lấy nhiều vũ khí nhất trong khởi nghĩa ở Đất Mũi, thúc đẩy mạnh phong trào tiến công và nổi dậy trong toàn tỉnh.
Sau trận Bến Dựa, ta phá tan khu trù mật Cây Tàn, khu trù mật ông Định.
Đúng ngày 6.1.1960, một đơn vị Ngô Văn Sở (vượt 20km đường biển) tiến công tiêu diệt một trung đội địch giải phóng Hòn Khoai. Triếp đó du kích địa phương cùng nhân dân tổng khởi nghĩa diệt và bám sát các đồn tề xã Viên An, Tân Ân.
Toàn huyện Đầm Dơi, địch chỉ còn chi khu tân Duyêt và hai đồn Năm Căn và Nhưn Miên.
Tại huyện Thới Bình, đồng chí Hai Phước Bí thư Huyện ủy vừa mang một bao cà roòng bản Hiệu triệu từ cứ của Tỉnh ủy về phổ biến cho các xã thì lập tức cao trào diệt ác phá kìm nổi lên ở Biển Bạch, Trí Phái, Tân lộc. Sáu Thi 17 tuổi cùng một lão nông “ôm hè” bắt lính ngụy lấy súng. Thanh niên nam nữ bảo vệ hương thôn quay lại bắt cán bộ liên đội, trung đội “phong trào”, giải tán các tổ chức địch lập ra. Ta diệt nhiều tên tề xã, tề ấp ác ôn.
Đồn Hai Ngó có cán bộ ta lãnh đạo bên trong, khởi nghĩa về với nhân dân cả trung đội. Anh Lê Minh Hoàng cùng du kích giả trang dân công, dùng búa tạ diệt đồn Giữa (Tân Lộc).
Ngày 11.11.1959, quân địch phản kích, đưa một tiểu đoàn thủy quân lục chiến, một đại đội bảo an, kéo theo 300 bảo vệ hương thôn tiến công ta ở Đồng Sậy. Một trung đội Đinh Tiên Hoàng cùng du kích lợi dụng địa hình phức tạp phá càn. Ta diệt gần trăm tên địch, thu nhiều súng trong trận và sau đó còn mò được trong cây cỏ dưới nước. Bên ta có 6 chiến sĩ hi sinh.
Địch tan trận càn, phong trào nổi dậy của quân ta và dân Thới Bình càng mạnh. Ta bao vây các đồn địch còn lại ở Huyện Sử, Cầu số 6 Tân Lộc.
Đến cuối quý 1 năm 1960, ở Cà Mau đã nắm quyền làm chủ hầu hết nông thôn, phá banh 4 khu trù mật, 4 dinh điền. Địch chỉ còn biệt khu Bình Hưng. Vùng giải phóng Cà Mau nối liền với các huyện Giá Rai, Phước Long (Sóc Trăng) và An Biên, Vĩnh Thuận (Rạch Giá) cũng đang nổi dậy. Trong nổi dậy khởi nghĩa của Cà Mau, ta vừa biết dựa vào lực lượng quần chúng, vừa sử dụng lực lượng vũ trang, vừa sử dụng lực lượng binh vận phối hợp. Liên Tỉnh ủy đánh giá: tình hình phát triển quá nhanh và rộng, vượt qua sự ước lượng của Tỉnh ủy và Liên Tỉnh ủy.
Liên Tỉnh ủy quan tâm đến việc giữ thế hợp pháp của quần chúng. Tuy nhiên trong thực tiễn đấu tranh và qua Làng Rừng, quần chúng tự sắp xếp trong gia đình ai đi, ai ở, ai sống họp pháp, ai sống bất hợp pháp. Ta tiến hành tổ chức các đoàn thể quần chúng lập chính quyền tự quản xã, ấp do Nông hội phụ trách, tổ chức sản xuất lập ấp và xã chiến đấu bảo vệ xóm làng.
macbupda:
Điểm chỉ đạo thí điểm thứ 2 của Liên Tỉnh ủy miền Tây là An Biên (Rạch Giá).
Tại Rạch Giá, trong cuộc họp tháng 8 năm 1959, Tỉnh ủy do đồng chí Lâm Văn Thê làm Bí thư đã quyết định chuyển hướng đấu tranh: từ đấu tranh chính trị kết hợp võ trang tự vệ, diệt ác chuyển hẳn sang đấu tranh chính trị và võ trang song song. Trước mắt vừa đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận vừa đẩy mạnh hoạt động võ trang. Lực lượng võ trang từ phân tán diệt từng tên gian ác chuyển lên tập trung diệt đơn vị và đồn bốt. Từ đó tạo thế mới và lực mới để tiến tới võ trang khởi nghĩa, phá banh thế kìm kẹp của địch, nhất là kìm kẹp ở cơ sở, giành lại uyền làm chủ đại bộ phận nông thôn.
Cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1959, các huyện ủy, cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng và lực lượng võ trang khẩn trương kiện toàn tổ chức. Mọi vũ khí sẵn có đem trang bị cho các cấp. Tổ công trường tỉnh thành lập. Trước mắt có thể sửa chữa súng máy, súng trường, sạc đạn, làm lựu đạn, súng ngắn, dụng cụ phẫu thuật… Tỉnh ủy cũng chỉ đạo cho hai đơn vị Ngô Văn Sở và Lê Quang Vinh đánh một số trận diệt đơn vị, đồn bốt và chi khu để hạ uy thế địch, kết hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giành quyền làm chủ từng phần, từng khu vực quan trọng, tạo ra thế mới và niềm tin mới.
Về nhiệm vụ làm điểm cho Liên Tỉnh ủy, đồng chí Lâm Văn Thê đề nghị Liên Tỉnh ủy cho đánh tiểu khu Xẻo Rô. Đồng chí Phạm Thái Bường đồng ý nhưng nhắc phải chắc thắng, lưu ý phát động quần chúng nổi dậy, kết hợp diệt ác phá kìm các xã chung quanh và lấy tiền ở chi khu.
Hai đơn vị Ngô Văn Sở, Lê Quang Vinh đang đứng tên các địa bàn trọng yếu, có tinh thần chiến đấu, công tác và tổ chức kỉ luật rất tốt, liên hệ mật hiết với nhân dân và cơ sở. Quân số mỗi đơn vị có trên dưới 300 người, trong đó hơn một phần ba là đảng viên, các đại đội đều có chi bộ và chi đoàn. Mỗi đơn vị có bốn đại đội bộ binh và một đơn vị trinh sát đặc công, được trang bị chủ yếu là súng trường, vài khẩu trung liên, mìn và vài chục quả lựu đạn. Cán bộ tiểu đoàn đã kinh qua tác chiến trong kháng chiến chống Pháp.
Ngày 10.9.1959, đồng chí Nguyễn Tấn Thanh (Chín Cửu) Phó Bí thư Tỉnh ủy đến đơn vị Ngô Văn Sở (trực tiếp giao nhiệm vụ diệt chi khu Kiến An (Xẻo Rô).
Nhờ sự giúp đỡ của Đảng bộ và nhân dân xã Đông Yên, sau mười ngày đơn vị Ngô Văn Sở đã hoàn thành công tác trinh sát, các công tác chuẩn bị và phương án chiến đấu.
Địch trong chi khu có một đại đội bảo an, một trung đội dân vệ, một liên đoàn thanh niên cộng hòa, một lũ chỉ điểm chìm nổi và năm con chó săn. Ta tổ chức một lực lượng trực tiếp chiến đấu gồm 50 cán bộ chiến sĩ được lựa chọn, trang bị trung liên, súng trường và đa số là mã tấu.
Đêm 20.9, toàn bộ lực lượng chiến đấu đã vào được bên trong chi khu. Gần đến giờ nổ súng thì cơ sở báo tin là quận trưởng Lâm Quang Quận ra tỉnh chưa về. Đơn vị ta quyết định hão cuộc tiến công. Khi lui quân, ta xóa các dấu vết để đảm bảo bí mật.
Đêm 23.9, đặc công cắt rào mở đường cho bộ binh tiếp cận mục tiêu.
Đúng 0 giờ 5 phút ngày 24 tháng 9 năm 1959, tiếng súng trung liên phát lệnh cho toàn đơn vị xung phong. Các mũi nhọn nhanh chóng và đồng loạt chiếm các mục tiêu. Ngay trong những phút đầu tổ đặc công đã bắt sống Lâm Quang Quận. Tổ binh vận phát loa kêu gọi binh lính, sĩ quan hoặc đầu hàng hoặc chạy về phía chợ là hướng an toàn. Bị đánh bất ngờ, nhiều tên ác ôn đã bị diệt ngay từ đầu, quân địch trong chi khu rố loạn vội vã đầu hàng. Sau 15 phút chiến đấu ta đa chiếm lĩnh toàn bộ chi khu, giết chết trên 50 tên, bắt sống trên 50 tên, thu trên 50 súng gồm trung liên và trường tự động (garăng, cácbin), thu một số vàng và tiền.
Ta mở cửa trại giam, giải toát hơn 100 người bị chúng giam giữ. Ta dẫn quận trưởng Lâm Quang Quận ra chợ, tuyên án xử tử và cố ý đánh rơi một cuốn sổ tay trong đó có ghi tên những tên ác ôn ở quận và chi khu là cơ sở của ta. Sau đó địch thanh lọc 18 tên còn lại của dặc khu An Phước.
Nhân dân ba xã An Biên: Đông Yên, Tây Yên, Tây Thái nổi dậy, đánh mõ vang trời, uy hiếp tiht địch, giải tán tề, giải tán tổ chức thanh niên công hòa rồi kéo nhau về ruộng vườn cũ.
Hôm sau 25.9, hàng chục gia đình binh sĩ kéo đến tề xã, chi khu, đòi bồi thường nhân mạng chồng con, vận động binh lính rời bỏ hàng ngũ địch.
Trận đánh chi khu Xẻo Rô có tiếng vang lớn trong và ngoài nước. Báo Le Monde (Thế giới) của Pháp đưa tin và bình luận, cho đây là sự kiện báo hiệu sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm(1).
Đối với khu vực Sóc Trăng, Cần Thơ, Liên Tỉnh ủy chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang tự vệ, chống địch càn quét, đồng thời tiến hành tuyên truyền vũ trang, diệt ác, phá kìm, khôi phục và phát triển lực lượng cách mạng.
Ngày 19.5.1959, đội tuyên truyền vũ trang của ta đột nhập thị xã Cần Thơ, đồng thời quần chúng các huyện Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp và Kế Sách nổi dậy, sôi sục đấu tranh, làm rung động hệ thống cai trị của địch. Riêng nông dân Phụng Hiệp đòi giảm được 20 ngàn giạ lúa tô.
Tại Sóc Trăng, Phó bí thư Liên Tỉnh ủy Nguyễn Thành Thơ xuống chỉ đạo nổi dậy để xem sự đối phó của địch ra sao.
Ta vũ trang diệt ác, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá khu trù mật Cổ Cò ở Mỹ Xuyên.
Ngày 04.11.1959, đội bảo vệ của Liên Tỉnh ủy do đồng chí Tư Mau chỉ huy kết hợp với du kích xã hóa trang kì tập, diệt đồn tề xã ở cù lao Phong Nẫm, một đồn trên kinh xáng Cái Côn và đồn An Lạc Thôn tại thị trấn Cái Côn, diệt một số ác ôn, thu 16 súng. Cù lao Phong Nẫm địch bỏ hơn 20 ngày sau mới dám đóng lại. Đội bảo vệ Liên tỉnh ủy còn phục kích diệt một đại đội địch ở Đại Thành (Phụng Hiệp) khi địch phản ứng đi càn.
Đến cuối quý I năm 1960 vùng giải phóng Cà Mau - U Minh đã được khôi phục một phần lớn và Liên Tỉnh ủy miền Tây đã có kế hoạch xây dựng thành căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
(1)Tây Nam Bộ 30 năm kháng chiến (1945-1975), Sách đã dẫn, tr.385.
macbupda:
Tại khu vực Cù lao Sa - Vĩnh - Trà
Khu vực cù lao Sa Vĩnh Trà nằm giữa hai con sông, sông Tiền và sông Hậu, là thuộc địa bàn của hai tỉnh: Vĩnh Long và Trà Vinh, thuộc liên tỉnh ủy miền Tây. Các huyện Lai Vung, Lấp Vò, Châu Thành, và thị xã Sa Đéc nhập về tỉnh Vĩnh Long.
Nói về thời gian tháng 6.1955, khi Ngô Đình Diệm cho quân chính quy tiến công vào lực lượng giáo phái Hòa Hảo của Năm Lửa ở Cái Vồn, lực lượng Hòa Hỏa bị đánh tan tác. Ta vận động kêu gọi lính Hòa Hảo mang súng quay về với nhân dân.
Thực hiện chủ trương của Liên Tỉnh ủy, Tỉnh ủy, Cần Thơ(1) kịp thời lãnh đạo, duy trì lực lượng vũ trang Hòa Hảo chống Mỹ Diệm. Tỉnh ủy Cần Thơ đưa cán bộ đảng viên vào nắm chặt lực lượng Hòa Hảo vừa quay về với nhân dân, lấy danh nghĩa là Liên quân giáo phái chống Mỹ Diệm. Lực lượng này lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 77 do ông Phan Văn Thục (là cơ sở ta trong lực lượng Năm Lửa) làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Quang Hân - bí thư xã Đông Thành làm chính trị viên. Năm 1956, Tiểu đoàn 77 đổi tên là Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo. Cũng năm 1956, đồng chí Nguyễn Quang Hân bị địch bắt. Đảng điều động đồng chí Nguyễn Văn Chính (Nguyễn Ký Ức) làm chính trị viên.
Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo gồm 5 đại đội, hoạt động vũ trang tuyên truyền trong vùng ven sông Hậu, là vùng có đông đồng bào theo đạo Hòa Hảo, cán bộ chiến sĩ hòa nhập làm dân, sinh hoạt hằng ngày, đọc kinh, xá, như một tín đồ Hòa Hảo.
Liên Tỉnh ủy miền Tây chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền của Đảng mang tên Lực lượng giáo phái chống Mỹ diệm, lấy Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo làm nòng cốt, phát triển thêm hai tiểu đoàn (thực chất hơn một đại đội) lấy tên là Đinh Tiên Hoàng và Phan Đình Phùng. Ông Phan Văn Thục được phong là tư lệnh Lực lượng giáo phái chống Diệm ở miền Tây và được điều về Cần Thơ nhận công tác. Liên Tỉnh ủy cũng điều hai Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng và Phan Đình Phùng sang Cần thơ. Một phần của Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo ở lại Vĩnh Long.
Nói về binh lính Hòa Hảo Năm Lửa khi bị quân Ngô Đình Diệm tấn công đã có cánh chạy về Tầm Vu (Mỹ Thuận), có cánh chạy về Đông Thành, Song Phú, Ngãi Tứ (Tam Bình và Trà Ôn). Có cơ sở cách mạng cùng nhân dân vùng Đông Thành, Song Phú, Ngãi Tứ vận động giúp đỡ họ. Kết quả một số về với gia đình, một số xin về nông thôn dựa vào dân, vào cách mạng chống lại Mỹ Diệm. Huyện ủy Trà Ôn kịp thời lãnh đạo đồng bào các xã Ngãi Tứ, Bình Ninh, Loan Mỹ tương trợ, giúp đỡ đồng bào Hòa Hảo đang hoạn nạn tản cư về xã mình.
Huyện ủy Trà Ôn (đóng tại Ngãi Tứ) quyết định thu số vũ khí của lính Hòa Hảo bỏ lại chôn giấu ở trong bưng. Suốt tám tháng tìm kiếm, chi bộ Ngãi Tứ tìm được 9 ghe súng mà lính Hòa Hảo chôn giấu. Số súng này sau đó trang bị cho tiểu đoàn Lý Thường Kiệt.
Phần còn lại của Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo để lại cho Vĩnh Long thì binh lính Hòa Hảo cũ lần lượt rời ngũ. Tỉnh ủy chọn lọc các đồng chí Vệ quốc đoàn cũ và thanh niên nòng cốt cùng với cán bộ cốt cán của ta đưa vào trước đây thành lập tiểu đoàn vũ trang tuyên truyền của Tỉnh. Tháng 8.1957 tại Kinh Mười Thới, xã Tân Quới (Bình Minh) tỉnh ủy Vĩnh Long chính thức xác định là lực lượng vũ trang cách mạng lấy tên là Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt do đồng chí Nguyễn Văn Bế làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Ký Ức làm chính trị viên. Biên chế tiểu đoàn gồm 4 đại đội.
Tỉnh ủy Vĩnh Long giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt trong lúc mới thành lập như sau:
- Tuyên truyền, vạch trần âm mưu, tội ác của Mỹ Diệm đối với lực lượng giáo phái, tăng cường đoàn kết, củng cố xây dựng lực lượng giáo phái để kháng chiến.
- Vũ trang tuyên truyền nâng cao tinh thần yêu nước, giác ngộ cách mạng trong đồng bào tôn giáo.
- Diệt ác, hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng.
Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt về hoạt động ở vùng Hòa Hảo thuộc hai huyện Bình Minh và Lấp Vò, nơi mà trong kháng chiến chống Pháp, ta chưa gây dựng được cơ sở cách mạng. Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn bám vào dân, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân, không những lmà công tác vận động tuyên truyền mà còn giúp đỡ nhân dân trong cuộc sống. Tình quân dân ngày càng gắn bó. Quan hệ quần chúng nói chung và tín đồ Hòa Hảo nói riêng đố với cán bộ chiến sĩ ngày càng mật thiết. Có những tín đồ Hòa Hảo hỏi thẳng cán bộ chiến sĩ ta: “Mày nói thiệt đi, mày có phải là Cộng sản không? Vì lực lượng vũ trang của Hòa Hảo cũng không đối xử tốt với tín đồ và lễ độ như chúng mày”. Có lúc cán bộ chiến sĩ đến mượn nhà để ở, chủ nhà hỏi: “Mày là Cộng sản hay Hòa Hảo, nếu Hòa Hảo thì tao không cho, còn mày là Cộng sản thì ở mấy đứa, ở bao lâu cũng được”(2).
Đồng bào Hòa Hảo làm hầm bí mật nuôi chứa cán bộ, giấu tài liệu cả dưới khánh thờ Huỳnh giáo chủ. Nhiều nơi, đồng bào chẳng những nuôi chứa mà còn hướng dẫn, giúp đỡ bộ đội hoạt động, diệt ác, trừ gian. Có nơi đồng bào còn tự giác hướng dẫn ta diệt từng tên ác ôn một.
Quá trình bám vùng Hòa Hảo, Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt đã xây dựng, phát triển cơ sở, giới thiệu cho địa phương phát triển đảng viên, xóa nhiều ấp “trắng cơ sở Đảng”.
Vùng sâu cảu các xã Mỹ Thuận, Tân Quới, Thạnh Lợi, Phong Hòa (Bình Minh), Phú Long (Châu Thành), Hoà Thành, Long Hưng, Long Hậu, Tân Phước (Lấp Vò) đến năm 1958 đã hình thành vùng lõm kháng chiến. Cán bộ, bộ đội, du kích thường dựa vào vùng này để bung về các địa phương hoạt động.
Hoạt động của Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt trong vùng Hòa Hảo đã như một cuộc cách mạng biến đổi một vùng “trắng” thành vùng căn cứ của cách mạng.
(1)Trước dây vùng Cái Vồn thuộc địa phần tỉnh Cần Thơ.
(2)Lịch sử tỉnh Vĩnh Long (1732-2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, trang 294.
Navigation
[0] Message Index
[#] Next page
[*] Previous page