Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:00:28 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Về làng  (Đọc 21156 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #10 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 11:44:46 am »

SỨC MẠNH MỚI

   Trời đã sáng rõ. Nhâm quay lại, chỉ thấy hơn chục người đi sau. Anh chột dạ:
   - Anh em đâu hết rồi?
   - Dạ, chắc còn rửa chân đằng sau.
   - Hứ, rửa hoài…

   Nhâm muốn gắt một hồi, nhưng nín được, chỉ chép miệng. Anh đang lộn ruột lên đây.
   Anh dẫn bốn chục thanh niên mới rút dưới vùng biển lên chiến khu theo Quân giải phóng, từ nửa đêm đến giờ đi một hơi không nghỉ. Ai lại truyền lệnh ra phía sau: “Bám sát cự ly chạy mau qua quốc lộ”, được hai người biết nhắc lại nhưng cắt cụt dần đi, đến câu thứ ba chỉ gật đầu: “ừ, nghe rồi”, thế là đâm đầu chạy bỏ mặc đằng sau hú gọi inh cả. Tổ bảo vệ chạm súng một lần với bọn biệt kích, anh em thanh niên chạy láo nháo may không việc gì, Nhâm phải tìm dẫn về từng người một. Rồi qua sông, ngót chục cậu không biết bơi, dân vùng biển mà kỳ cục vậy chớ, anh phải gói áo quần vào nilông làm phao dìu sang. Rồi không dép, đau chân: “Em mừng quá, nghe đập cửa chạy ra liền quên xỏ dép”. Rồi đi giữa đồng trống cứ bật lửa hút thuốc, làng tề nổi trống mõ rầm trời lên, đồn bảo an nó giã cho mấy chục quả cối phải nằm bẹp xuống ruộng nước. Thôi thì đủ tam khoanh tứ đốm !

   Bóng người trong sương hiện nhấp nhô, ho, nói chuyện, cười hơ hớ nữa. Nhâm lắc đầu:
   - Ngán các ông tướng. Lộ hết hành lang bí mật của người ta. Đi mau, im lặng. Kìa truyền xuống!
   Tiếng ồn lại tăng gấp đôi, chen cả tuồng và vọng cổ:
   - Nè, biểu im lặng mà cứ làm om.
   Trên bước đường ảm đạm phiêu lưu có một mình ai thui thủi chiếc thân... ơ... tàn!
   - Cái gì, có truyền không?
   - Đừng nói chuyện nữa bớ chư khanh!

   Đến vùng ta làm chủ rồi. Con đường bí mật luồn qua những bụi ngũ sắc, lau, mua, tránh những trận địa chông bẫy dài hàng cây số. Nhâm thở phào nhẹ nhõm. Đến đây đã xa đồn bót và làng tề, máy bay rà tìm cũng không ăn thua, chỉ còn lo đại bác câu theo thôi. Cơn bực mình hơi nguôi, anh để ý tìm chỗ sạch và kín cho anh em nghỉ một chút. Chính anh cũng mệt đuối, tai bùng nghe không rõ, mồ hôi nhỏ giọt dưới cái cằm đầy râu. Bụng anh đau quặn từng lúc, mùi chua ợ khan bốc lên cổ.

   Tiếng xì xào sau lưng to dần lên:
   - Chắc gần tới Đà Lạt.
   - Đường này qua Mên chớ Đà Lạt đâu.
   - Úi, đỉa bay ơi, đỉa trên cạn!
   - Ngu lắm, vắt đó. Bứt cái lá mua nhám mà bắt.

   Nhâm nhếch mép cười. Thật đúng là trẻ con, mới đi xa biển hơn chục cây số đã lo sắp hết đất xông xáo. Anh rẽ sang một bãi cỏ khuất bên phải:
   - Dừng lại nghỉ, tản ra phòng đại bác.

   Đám thanh niên tỏa rộng, bẻ lá lót ngồi, cười đùa, kéo xuống suối rửa mặt. Nhâm dựng khẩu tiểu liên, quấn một điếu thuốc. Đến giờ anh mới kịp nhìn kỹ những người mới rời gia đình theo Cách mạng. Cậu ngồi bên anh mặt trắng nhợt phờ phạc, mặc sơmi trắng bết bùn trước ngực và cái quần tây vải sọc ngắn trên mắt cá, đang chăm chú bóp chân. Đôi giày đinh đá bóng và đôi tất sặc sỡ vất bên cạnh. Cậu ta cười ngượng nghịu:
   - Cháu nghe nói Cộng sản... à quên, Cách mạng ở trên núi cũng đá banh giỏi lắm. Cháu tên là Cảnh chú à.

   Một anh chàng tóc tém đít vịt quay lại, cười nhe hai cái răng bọc vàng hóa học láu táu chen vào:
   - Ở dưới đó người ta đồn Cách mạng đi ô tô, ở rừng mà thắp đèn điện uống nước máy. Thiệt vậy không anh?
   - Làm gì có!
   - Thấy chưa, em đã nói mà! Em hỏi cán bộ kỹ rồi, nó không tin cứ mang giày đinh theo. Ưng đi tàu bay giấy hoài. Em ở dân vệ mới ra, còn đôi giày vải thiệt tốt cũng bỏ lại.

   Nhóm bốn năm người ngồi bên phải trông ra làm ăn, khỏe và giản dị hơn. Một cậu mặc bộ bà ba đen vá vai, bàn tay bàn chân rất to và chai sần từng mảng, nói rủ rỉ:
   - Tôi mới ở tù về được năm ngày là nhảy liền. Nghĩ tức cười, muốn sắm ba lô mà sợ lộ, khi đi phải xách cái giỏ mây của vợ đây nè anh! Đến tấm choàng đi mưa cũng thiếu.

   Anh em xúm quanh Nhâm, kể bi bô, thỉnh thoảng lại suỵt nhau nói khẽ, hay chặn nhau khi quen miệng gọi bọn tề bằng ông, Cách mạng bằng Việt cộng hay cộng sản.

   - Ba em chắc bây giờ đang báo cáo dưới trụ sở. Lần trước anh Bảy em nhảy, các ông hội đồng... bọn nó bắt dỡ nhà quy khu, má em la om sòm: “Thuế cử tri một năm bảy tám trăm bạc, rồi quỹ nuôi dân vệ, quỹ an ninh đủ thứ, vậy mà các ông bỏ chạy, để cho Việt cộng phá cửa vô bắt mất con tôi, còn tới hăm dọa cái gì nữa trời!”. Lần đó  nó chịu, lần này chắc khó lòng...

   - Đi lính Cách mạng, xin nghỉ phép thăm nhà được không anh?
   - Cái gậy họ có chịu vót tròn đâu, để bốn cạnh như cây thước đánh đau thấy bà nội...
   - Nhà mình năm nay đói. Mới tháng giêng đã chạy gạo từng bữa.
   - Thôn cháu Cách mạng mới bắt thanh niên hai lần, đâu chục người.
   - Sao lại bắt?
   - Thì cũng quen nói vậy... Các chú tới chuyến nữa, thanh niên theo hết, lứa quân dịch 39 còn đến trên ba chục đứa. Bọn nó sốt ruột lắm, đợi hoài không thấy Cách mạng về.

   Nhâm lơ đãng nghe anh em tranh nhau nói như bù lại một đêm ngậm tăm đi vội, như trút hết những lo ngại cuối cùng. Anh bồi hồi nhớ lại mười ba năm về trước... Quê anh ở vùng tạm chiếm, nhà anh bị Pháp đốt tới bảy lần, anh dựng xong cái lều thứ tám mới mang khăn gói vào vừng tự do xin theo bộ đội, cũng một đêm không trăng luồn qua vùng tề như đêm qua. Đánh hơn chục trận, rồi anh đau dạ dày phải về quê, nắm một tiểu đội du kích. Hòa bình đến. Anh cưới vợ, dựng nhà lần thứ chín, tiếp tới bị bắt đi tù. Bây giờ quê anh vẫn là vùng tạm chiếm, nhà anh vừa rồi lại bị đốt, anh lại khẩu súng trên vai đi chiến đấu, chỉ khác là anh yếu hẳn so với trước vì đòn tra tấn, vì cái dạ dày nhiều lúc làm tình làm tội anh trên những chặng đường dài hành quân. Nếu không có thân thể anh mòn đi và tâm hồn anh dày dạn vững chắc hơn, anh có thể tưởng cuộc đời mình vừa xoay đủ một vòng mười ba năm, nay trở lại chỗ đầu tiên, và trong đám thanh niên ngồi đây có thằng Nhâm trẻ con mới lớn lên ngồi nhìn ngơ ngác, anh duỗi tay ra là vỗ vai được nó.

   Cảnh khẽ đập vào đầu gối Nhâm khiến anh giật mình:
   - Chú buồn ngủ hả chú?
   - Ờ , không, không...
   - Chú ngủ một giấc, bọn cháu gác cho. Các chú đi miết, tài gì không mệt.

   Nhâm cười, hơi cảm động. Thanh niên họ mạnh thật, nghỉ một lúc, rửa mặt chải đầu xong coi tỉnh táo ngay. Anh đứng dậy vặn lưng rắc rắc, đùa:
   - Cái sự gác xách chắc các chú giỏi. Mấy năm gác “chống cộng giữ làng” rồi mà.
   - Dạ, cái đó thì có. Bỏ gác một đêm là học tố Cộng thêm bảy ngày. Em công tác cơ sở hai năm nay rồi, em gác chỗ nào các anh vô chỗ đó.
   - Hì hì... cũng kỳ thiệt, mới đánh mõ om sòm la “Cộng về”, bây giờ thành Việt cộng rồi.
   - Bốn chục đứa này xách súng về đủ giải phóng xã Yên Hải đó nghe. Các anh ở xa tới vây ác ôn dân vệ, không biết mặt bị sẩy luôn, chớ bọn em thì đố sót đứa nào. Đường ngang ngõ tắt đâu cũng thuộc lòng. Lên chiến khu được lãnh súng liền anh hè? Phải lãnh thứ thiệt tốt, nghe anh?

   Nhâm gật đầu cho anh em khoái một ít, tuy biết súng không kiếm đâu ra cho đủ ngay. Khi anh mới nhập ngũ cũng hăng, xốc nổi và nhiễm lối ăn mặc nói năng ở vùng địch như họ. Đứng giữa lứa trai mười tám đôi mươi má còn lông tơ, anh mới thấy mình đã già cả tuổi lẫn tính nết. Anh muốn tìm mấy câu đùa bỡn để anh em dễ gần dễ thân, mà nghĩ mãi không ra. Suốt mấy năm hoạt động bí mật anh đã quen lầm lì, cân nhắc từng câu nói thầm. Anh bùi ngùi đưa tay xoa cái cằm lởm chởm một lớp râu cứng như bàn chải, tự nhủ: “Mình già thiệt rồi, còn gì nữa…” . Tre già măng mọc. Bộ đội sau kháng chiến đi tập kết sạch trơn, đã có lứa thiếu nhi lớn lên cầm súng đánh giặc tiếp. Bốn mươi chàng trai này là những tảng đá còn bọc rêu, sau cơn lửa rừng sẽ đen bóng lại. Khi đã bớt vụng về khờ dại, khi trường học lớn của Cách mạng đã rèn họ thành những chiến sĩ lão luyện, họ mỉm cười nhìn lớp đàn em mới đến sau nữa: “Hồi trước mình cũng lớ ngớ như các chú em, bị anh Nhâm la hoài. Về sau anh Nhâm hi sinh trong trận giải phóng Yên Hải... Mẹ cha, quên, ảnh bị thương chớ không chết, bây giờ về công tác đâu đó”. Dân tộc Việt Nam không thể hết người, nên Cách mạng miền Nam không bao giờ kiệt sức. Nguồn sức mạnh mới từ trong lòng dân từng đợt từng đợt đổ tuôn vào cuộc đấu tranh lâu dài, như đất giữ nước mưa rỉ mãi từng giọt, góp thành sông lớn không hề cạn. Con sông xói mòn những quả núi đá, húc tung những đê đập chắn ngang, mở đường ra tới những đại đương mà Nhâm chưa được thấy nhưng biết rằng rộng và đẹp vô ngần.

   Nhâm xốc khẩu súng lên vai. Giọng anh đổi khác đi, gần như dỗ ngọt:
   - Ráng bám sát hử, còn vài tiếng nữa thôi. Tôi đi sau.
   Từng người một diễu qua, vai mang tay xách lòng thòng, cười với Nhâm rồi nhìn xuống đất coi chừng vắt bám. Nhâm bỗng nhớ đến một cảnh ngồ ngộ: con gà mái xòe đôi cánh che kín cả bầy con lau nhau. Anh muốn có đôi cánh rộng như vậy...

12-1961
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #11 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 11:47:43 am »

CHÔNG BA LÁ

   Cái nghề vợ chồng trẻ mới ra ở riêng, hễ đêm nằm với nhau là chuyện trò rủ rỉ không bao giờ xong. Toàn những chuyện vui vẻ cả. Nhưng suốt ba đêm vừa qua, cô Bính nhất định nằm quay lưng lại chồng, hết lời dằn vặt, day dứt, than thở. Từ khi bà con trong làng nổi lên chống lại Mỹ - Diệm, cô Bính vừa mừng vừa sợ thấp thỏm, định bụng để chờ coi ra sao. Chị em rủ vào Phụ nữ giải phóng, cô không dám vào. Mỗi lần mít tinh cô tìm cớ tránh mặt, bất đắc dĩ phải đi thì lấp ló tít đằng sau, nhắm chừng sắp đến lúc hô khẩu hiệu hay kéo biểu tình là cô lủi biến. Cô sợ Cách mạng yếu, nay mai địch lên lập lại hội đồng, truy bắt sạch ráo những người “liên quan Việt cộng”. Đến khi anh chồng xung phong vào du kích thì cô hoảng hồn thật sự. Cô van cô khóc, cô giận dỗi bỏ cơm, cô dọa đập đầu vào cột nữa, anh  chồng vẫn cứ lì lì ra, xách mác vác chông đi bố phòng với đội. Sự bất quá tam, đêm thứ tư này cô định làm tan hoang một trận đây.

   Cô sịt mũi, rên rỉ:
   - Anh một lòng một dạ không thương, vậy sáng mai tôi về ở luôn bên má. Cách mạng hơn không sao, lỡ thua thì lính quốc gia họ đánh lên, gia đình ủy ban với du kích họ riếng cổ đốt nhà hết. Không tội gì chết chìm theo anh. Yên phận làm ăn như người ta thì sao, cứ ách giữa đàng quàng vô cổ Cách mạng ép buộc gì đâu mà anh...
   - Về thì về.
   - Anh đuổi tôi, anh dứt khoát, thiệt không?
   - Không đuổi, không dứt. Lão bỏ mình thì có.

   Đang giận nghẹn cổ, cô Bính lại suýt phì cười. Đâu lại có cái lối gọi vợ bằng “lão”, xưng “mình”, kỳ khôi quá, để rồi phải cằn nhằn vài dạo cho ảnh bỏ đi. Cơn tức cười đã qua, cô lại bắt chước cái giọng đay nghiến của má mỗi khi cãi với ba cô:
   - Vậy chia của ra, tôi về nhà má tôi làm ăn.
   - Không cần chia. Cứ gánh heo lùa trâu đi hết.
   - Đồ đạc thì sao?
   - Sức lão lấy được gì cứ lấy. Khiêng nhà khiêng ruộng, khiêng cả cái hầm tránh pháo theo. Đã nói hết nước, hết cái rồi, không nghe thì thôi, ngủ!

   Đến cơ sự này thì cô chịu, không biết nói gì thêm. Cô nghĩ lan man một lúc. Lý lẽ đã cạn rồi, nước mắt khóc mãi cũng cạn nốt. Cô xoay sang cách khác, kéo anh chồng về chuyện làm ăn:
   - Thôi để trâu lại anh giữ. Mai đi cày đám ruộng chỗ gốc xoài hử, người ta cấy gần xong còn anh cứ lo súng với chông miết. Ăn cơm vay cày ruộng rẽ mà cứ đua đòi.
   - Ừ, để đó rồi cày.
   - Mai, chớ để tới bao.
   - Mai mắc vót chông.
   - Nghỉ vài bữa đã. Cơm nhà áo vợ, đi lo việc đâu đâu. Tới khi có con thì chết đói.

   Anh chồng cười khì một tiếng, quàng tay ôm cô:
   - Vợ mới cưới đã đòi bỏ, con kiếm đâu ra. Người ta đi cấy lấy công, tôi nay đi cấy hàng chông giữ làng... Nè, lão ở nhà vót chông cho mình đi cày hử? Đồng ý chưa?
   Ảnh nói như giỡn, còn cô Bính nghe phát sợ lạnh người. Cô biết chồng có nghĩ mới nói. Ảnh đã nói thì nhất định xảy ra cái chuyện lạ thế này: dù cô cãi chày cãi cối đến đâu mặc lòng, cuối cùng không hiểu vì sao cô vẫn cứ thấy chồng cô nói đúng, rồi cô vui vẻ làm theo. Ấy vậy mới nguy chứ. Cô đang sợ liên quan với du kích, ảnh lại muốn kéo cô vào du kích luôn sao?

   Cô hất tay chồng ra, gắt lu loa:
   - Chặt đầu tôi thì chặt, tôi không rờ tới thứ đó. Vợ anh anh coi không bằng cây chông, tệ chưa trời?
   - À cái đó tùy lòng.
   Anh ngáp mạnh một cái, kéo chiếu trùm đầu. Cô Bính tủi thân muốn khóc như mọi đêm, nhưng không ra nước mắt, chỉ sụt sịt hờ. Cô quờ tay giật chiếu, mếu máo:
   - Cả đời tôi có thấy cây chông bao giờ mà bắt tôi vót.
   - Hửửử? Cái gì nữa?
   - Tôi không vót được. Đời thuở nhà ai vót đũa còn không xong…
   - Ờ, thôi, không ép.

   Anh bắt đầu ngáy phì phò. Cô Bính định thúc cùi tay vào sườn chồng cho đỡ tức, nhưng không nỡ. Sức người chứ phải sức trâu đâu. Ảnh ngày đi cắm chông, đêm đi gác đi tuần, dầm mưa lạnh nổi da gà, mấy đêm nay lại bị cô dằn dỗi mãi chỉ chợp mắt được vài tiếng đồng hồ. Hai tối liền cô bỏ không nấu cơm, ảnh về lẳng lặng xách nồi đi nấu, phải như người khác không thương vợ thì đã miệng chửi tay đánh, cạn tàu ráo máng rồi đó. Ảnh ít nói, mà nói như cóc cắn đừng hòng chuyển. Một năm bảy tám bận ôm chiếu đèo gạo đi học tố Cộng, nó đánh cho hộc máu miệng, bây giờ biểu thôi việc Cách mạng đời nào ảnh chịu nghe. Mà cũng may Cách mạng nổi lên sớm, không nó chụp đầu ảnh đi quân dịch rồi. Lại thêm kỳ thuế ngân sách xã sắp đến, gia đình bốn cử tri đang lo không kiếm đâu ra 480 đồng mà nộp, bây giờ hết lo... Ờ mà quên, nhắc tới xã mới nhớ, cái số mẫu tư công điền làm rẽ vừa gặt, hội đồng không thu được tô, chẳng biết Cách mạng có thu không, hơn trăm ang lúa chứ ít đâu. Nhờ trời Cách mạng để cho nhà mình ăn thì quanh năm không phải ghế khoai, còn dư sắm sửa nữa... Mấy lần cô định hỏi chồng chuyện đó, nhưng mỗi khi ảnh bước về nhà cô chỉ lo cằn nhằn cho ảnh bỏ du kích, mà quên hết mọi sự. Cô sốt ruột lay chồng:
   - Nè anh, ngủ gì dữ vậy. Số lúa công điền bây giờ sao?
   - Ờ ờ... cái gì? Khổ lắm, ngủ đi.
   - Anh khổ, tôi lại sướng gì. Cái số trăm mốt ang lúa công điền có phải nộp không?
   - Khổ lắm, nộp cho ai? Lão cứ ngồi xó bếp không chịu đi mách tin, ủy ban đã nói rồi mà, mai kia còn chia ruộng nữa chớ… È hèm, sáng mai nhớ dậy sớm nấu cơm mình ăn đi cày. Lão ở nhà vót được bao nhiêu thì vót, khúc cau già với bốn cây tầm vông mình chẻ sẵn đó, coi kiểu chông ba lá mà làm. Nữ già nữ trẻ người ta hoạt động rầm rầm... còn lão nay chạy mai khóc… không biết xấu...

   Anh nói câu cuối cùng lúng búng trong miệng như ngậm cháo, rồi ngủ thiếp đi, coi như mọi việc đã đâu vào đấy yên ổn cả. Cô Bính lật mình nằm ép vào chồng cho ấm, lim dim mắt cười một mình. Người gì mà như khúc gỗ lăn đâu ngủ đó, cứ muốn đấm nhẹ cho vài đấm... Cô không dám ước tới chuyện chia ruộng, nghe nó xa vời quá. Còn số lúa nông điền chưa biết các ông ủy ban tiên bố ra sao, nhưng cũng chỗ dân nghèo cả chắc họ cũng có ý bênh vị. Mà chồng cô lại vô du kích, không ưu điểm cho du kích thì cô kiện tới trên thượng cấp chớ đâu có chịu lép. Vậy là khỏi lo cái nạn giáp hạt tháng ba ngày tám. Chỉ còn ráng giữ cho Mỹ - Diệm đừng về cai trị được nữa, rồi vợ chồng chí thú làm ăn, chẳng mấy lúc mà mở mày mở mặt với người ta. Hờn dỗi mãi cũng xấu hổ, lỡ anh chồng nổi điên lên bỏ ruộng hoang mạ héo thì đến phải ăn mày.

   Sáng mai cô sẽ dậy sớm nấu cơm cho chồng đi cày như mọi hôm. Cái sự để bỏ nhau thì cũng dọa già vậy chứ ai nỡ. Rồi... rồi có lẽ cô ở nhà vót chông. Cô không vót thì chồng cô vót. Không xay lúa thì phải ẵm em không lẽ để cho chồng ngày đi cày đêm vót chông, đá còn đổ mồ hôi nữa là người. Chông ba lá, kiểu gì lạ vậy hè? Nghe nói lính quốc gia sợ thứ đó lắm, nên họ không dám về lập lại chánh quyền, lấy trăm mốt ang lúa tô của vợ chồng cô. Đành vậy chứ biết sao, mai vót thử coi, chắc cũng không khó mấy. Đã “liên quan Việt cộng” thì cả mấy xã này liên quan hết. Mà ai cũng vót chông như cô thì bọn địch nhát như thỏ đế đố dám lên mà truy liên quan!

12-1961

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #12 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 11:50:11 am »

“CON ĐĨ”

   Đoàn biểu tình non bảy trăm người đeo băng tang kéo đến cách thị trấn Gò Bàn vài trăm thước thì bị chặn đường.

   Bốn chiếc G.M.C ù ù chạy tới cầu Gò Bàn, đỗ thành hàng dọc. Bọn lính đội mũ sắt và mặc chiến phục kaki loang lổ nhảy xuống, đặt đại liên giữ đầu cầu, tản ra thành vòng cung bên bờ sông. Chiếc xe bọc sắt đứng tại chỗ nổ máy gừ gừ, một khối thép vuông góc xanh bóng sẵn sàng chồm tới đè nghiến những người dân tay không. Chừng hai phút sau, một chiếc xe Gíp mở hết máy lái vèo ra khỏi thị trấn phóng tới cầu, suýt cán bẹp mấy tên lính đứng gác bên dãy ô tô, phanh rít như người nghiến răng, xốc bụi bay mù. Đám sĩ quan và hạ sĩ quan đang đi lại hò hét dàn quân theo đội hình chiến đấu đều dừng lại, đứng nghiêm chào. Một đại úy hiến binh cao gầy đội mũ lưỡi trai đỏ từ trên xe Gíp bước xuống, lơ đãng đưa tay lên vành mũ chào lại, rồi lộp cộp đi lên đầu cầu. Hắn nheo một bên mắt, hơi khịt mũi tỏ vẻ bực dọc. Chỉ có một đám dân tẹp nhẹp mà bọn quận hốt hoảng báo lên tỉnh là Việt cộng kéo biểu tình võ trang cướp quận, đông tới chục ngàn, rõ thật trông gà hóa cáo. Hắn giạng hai chân, chống hai tay cạnh hông, nói không to lắm nhưng chắc gọn, đĩnh đạc:

   - Dân chúng nghe đây! Lệnh của trung tá tỉnh trưởng thiết quân luật trong toàn tỉnh này, cấm mọi sự tụ họp đi lại. Tôi hẹn ba phút các người phải giải tán, nếu không sẽ dùng biện pháp quân sự. Ba phút thôi, nhớ đó!

   Hắn nghe tiếng mình dội lại trên cầu, và chợt thấy thu thú. Trương Phi một mình chặn cầu Trường Bản, một tiếng thét đủ xua quân Tào. Đây hắn không cần thét nữa. Hắn tin rằng tất cả oai phong của con người hắn, từ giọng nói, dáng đi, đến mỗi cử động nhỏ đều được tập trước từ lâu để toát ra vẻ rắn đanh lạnh lùng rất Ănglê, cũng đủ cho bọn dân quê kia lạnh buốt xương.

   Những hàng người mặc quần đen đeo băng trắng bên kia cầu chùn lại. Số người đi sau sốt ruột tràn rộng ra kín hai vệ đường, chen lên nhìn, lật nón lá ra quạt. Các bà cụ dẫn đầu bị lấn tới phải tiến thêm mươi bước nữa, nói truyền ra sau: “Đứng lại đã, lão đại úy Tòng kia nè”. Vài chị ôm con mọn hơi tái mặt, liếc ngang tìm đường sẵn. Ai chứ thằng Tòng nhất định nó bắn bừa, bọn lính quét súng máy trên cao thì nó tự tay ấn nòng súng thấp xuống cho dân chết gối lên nhau... Tiếng lào xào nổi lên to dần. Một tiếng gắt cáu kỉnh: “Cứ ào tới, ông nội nó không dám bắn”. Tấm biểu ngữ vải đen chữ trắng chùng chình một lát, giờ lại căng rộng đi lên, phơi rõ ràng hàng chữ: “Yêu cầu chánh quyền thả ngay hai mươi mốt người bị bắt oan, trừng trị bọn đốt nhà giết dân”. Đoàn biểu tình tiến từng bước chậm, hàng ngang thu hẹp, như người đấu võ vừa lựa thế bước tới vừa ngó chừng đối thủ. Ba bước, năm bước, mười bước... Đại úy Tòng không cựa quậy, nắng trưa chiếu bật màu mũ đỏ như lửa trên đầu hắn, cái cấp hiệu ba bông mai vàng trên cổ áo hắn lấp láy: Thà hắn quát tháo dọa dẫm còn không đáng ngại bằng cái vẻ cứng đờ như tượng đá ấy. Hắn chỉ hô một lệnh ngắn và rõ:
   - Đại độộội, chuẩn bị tác xạ!

   Một loạt tiếng lên đạn rắc rắc sau lưng và hai bên hắn. Nhưng lại có những tiếng thầm thì gì đó không nghe rõ. Hắn không quay lại nên không thấy đám mũ sắt bắt đầu nhốn nháo, cả các sĩ quan cũng đưa mắt tìm nhau, có người nhăn mặt.

   Bên kia cầu, tấm biểu ngữ lại đứng yên. Dòng người sùng sục như thác nước húc phải đập. Những tiếng văng tục lộn xộn. Một ông già râu bạc, quần xắn quá gối và khăn trắng vắt vai, cất giọng khàn khàn kêu to:
   - Nhơn dân chúng tôi xin tới quận bầy tỏ nguyện vọng chớ có gì đâu. Đề nghị quý ông cho đi.

   Không có tiếng trả lời. Mấy bà cụ bịt khăn tang cầm những cuộn giấy tròn đi tới:
   - Đơn đây, mời ông đại úy coi rồi để cho bà con lên quận. Con cái bọn tôi cũng đi lính quốc gia, anh em bộ đội đây biết hết...
   - Người đầu tiên bước lên cầu sẽ bị bắn chết!

   Tiếng loa giữa hàng biểu tình bật rền, tiếng hô rầm theo rung nền cầu xi măng: “Anh em binh sĩ kiên quyết không khủng bố nhân dân và gia đình binh sĩ”. Viên đại úy chỉ hơi máy môi trước những nắm tay rào rào giơ lên:
   - Còn một phút!

   Từ phía đuôi đoàn biểu tình, một bóng áo đỏ lách men vệ đường đi lên trên đầu. Một người đàn bà nhỏ nhắn, còn trẻ. Chị không đội nón, chít cái khăn tang trên mái tóc uốn quăn bọc lưới trông lạ mắt, mặc áo nhung đỏ sẫm và quần ni lông trắng ống chật may kiểu thành thị, đi dép cao su hai quai cánh bướm, chỉ giống đám đông nông dân ở cái băng vải trắng đeo trên tay áo trái. Chị len đến chỗ tấm biểu ngữ, kéo tay ông già râu bạc, nói nhanh:
   - Bác để cháu lên thử, bác Sáu.
   - Cúc hả? Lên làm gì?
   - Nói với nó. Cháu quen thằng Tòng.

   Ông già nhìn trừng trừng vào mặt chị, hơi cau mày, rồi gật:
   - Thôi cháu lên. Mà... nè, không phải mình lạy lục nó đâu nghe. Cháu thay mặt cho bà con đó.

   Chị Cúc không đáp. Câu dặn bóng gió của bác Sáu khía vào lòng chị một vết đau mới. Bác vẫn chưa tin chị. Hay thôi, đừng lên nữa, lỡ nó bắt bà con lại thêm ngờ chị. Nhưng chị đã làm gì cho bà con tin cậy đâu... Nghĩ quanh quẩn vậy, chị tách khỏi hàng biểu tình lúc nào không biết, chỉ cảm thấy mang máng rằng bên chị không còn những cùi tay những vai chen chúc nữa. Mắt chị thấy thấp thoáng những trụ xi măng bên thành cầu lùi về phía sau, và cái mũ hiến binh đỏ hiện ra to dần. Chị đọc lẩm nhẩm trong miệng như học bài: “Hỡi anh em sĩ quan và binh sĩ... hỡi anh em sĩ quan và binh sĩ...”.

   Tiếng rì rào hai bên bờ sông tắt hẳn. Đoàn biểu tình và bọn lính cùng nín thở nhìn theo cái bóng nhỏ đang liều lĩnh đi qua cầu, tới trước mặt đại úy Tòng khét tiếng hung dữ. Tòng bỏ bàn tay phải chống nẹ, nắn chuôi súng ngắn, rồi từ từ buông thõng cánh tay vì ngạc nhiên. Cúc à? Cúc thật rồi. Đúng người vợ lẽ của ty trưởng công an tỉnh vừa bị ám sát, nay Cúc là nhân viên “công an chìm”. Sao Cúc hiện ra đây? Hắn buông thõng luôn cánh tay trái, vẫn giạng hai chân thành một thế đứng lúng túng, đợi Cúc đi đến.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #13 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 11:52:00 am »

*
*    *

   Hồi đình chiến, Cúc là một nữ sinh lớp 8 ở vùng tự do, con một ông giáo nghèo. Mới mười tám tuổi mà chị đẹp nổi tiếng, đến hàng chục anh bạn học, bộ đội, cán bộ gửi thư nói xa rồi lại nói gần. Chị như con bướm lượn chọn hoa nhởn nhơ, không từ chối ai mà cũng không nhận lời ai. Mãi đến khi bộ đội và cán bộ Cụ Hồ rút đi gần hết chị mới hứa với một anh bộ đội trẻ tuổi hai năm về sẽ cưới. Nói cho đúng thì chị mới mến anh chàng rụt rè dễ thương ấy chứ chưa hẳn đã yêu, nhưng trong khi xúc động kẻ ở người đi chị không kịp đắn đo nữa, để cho anh hôn một cái trên má, tặng anh một chiếc khăn tay thêu hai chữ lồng vào nhau. Có vậy thôi. Ngay sau lúc tiễn đưa, chị nằm trằn trọc lại hối đã quyết định quá gấp, một lời nói một gói vàng, đáng lẽ lúc ấy đừng hẹn hò gì mà hơn, sau hai năm thống nhất chị có thể chọn một người xứng đáng hơn nhiều...

   Cái chế độ Mỹ - Diệm vạn ác mà chị mới biết qua sách báo đã hiện lên ở quê chị, có thể sờ thấy được, và chính nó quơ tay nắm lấy chị trước. Trường học vẫn mở với hiệu trưởng và thầy giáo mới, nhưng chị không đủ tiền trả thêm hai trăm bạc học phí mỗi tháng, phải thôi học về dạy tư quàng quấy, rồi đi buôn. Chung quanh chị cả một đám sĩ quan, công chức, thanh niên du đãng xúm lại ve vãn, và chị thấy rằng người tầm thường nhất trong số con trai tìm đến chị hồi trước vẫn tốt hơn hẳn kẻ khá nhất trong số tán tỉnh chị ngày nay. Tình thương nhớ nhung đối với những người tập kết, đối với quãng đời thiếu nhi và thanh niên cháu Bác Hồ dần dần đúc lại trong hình ảnh anh bộ đội rụt rè dễ thương kia. Tình yêu ngấm sâu mãi trong lòng chị, người yêu vắng mặt trở thành tượng trưng cho tất cả những gì chị yêu quý nhất nay không còn nữa. Chị như người sốngmãi dưới mặt trời nên không thấy ánh sáng là quý, có khi còn kêu chói kêu nóng, đến khi rơi vào hầm tối mới khát khao ngửa mặt đón một tia nắng nhỏ còn lại. Qua những lần học tố cộng, bị hăm dọa, mua chuộc, cưỡng bức nữa, chị vẫn nhất định khai mình là gái có chồng, không lấy thằng chi trưởng thông tin quận đang giở mọi trò buộc chị làm vợ hắn.

   Sau khi ký kiến nghị đòi hiệp thương, chị bị khai thác năm lần, mỗi chuyến “đi cung” về phải nhờ chị em lấy kéo cắt áo vì sưng mình cởi không ra, má chị bán ruộng cho uống thuốc bắc mới lại người. Đến kỳ đấu tranh tổng tuyển cử chị khiếp không dám dính vào, lại nhận được một lá thư người yêu bí mật ném vào nhà, chị đọc mãi đến thuộc lòng. Chỉ mấy ngày sau chị bị bắt giam nhà lao tỉnh: một bàn tay nào đã viết thư giả, chị không nhớ nét chữ anh ấy nên mắc lừa, không mang thư lên trình chánh quyền, can tội “liên hệ với cộng sản Bắc Việt”. Chính thằng chi trưởng thông tin bố trí việc đó, hắn rắp ranh đứng bảo lãnh cho chị ra tù để ép chị lấy hắn. Nhưng miếng mồi lại lọt qua tay kẻ khác. Thằng ty trưởng công an tỉnh để ý chị trong một buổi hắn ngồi khán cung. Chị được lệnh “biệt phái sang phục vụ bên ty”, ngay đêm đầu bị đánh thuốc mê và hiếp. Chị định treo cổ tự vẫn, rồi nghĩ thương má thương em có thể bị vạ lây chị lại thôi, phần nữa còn mong gặp người yêu, anh hiểu lòng chị xí xóa bỏ qua cho thì may, bằng không cũng được thấy chút thống nhất rồi hãy liệu lấy thân.

   Sắc đẹp của chị trở thành tai họa. Chị bị hiếp đến có chửa. Thằng Mậu tiếc chị đẹp nên không vứt trả vào nhà lao như những người khác hắn đã hiếp. Chị không còn đường lui nữa. Mặt mũi nào về ở nhà mẹ với đứa con hoang, hi vọng nối lại tình yêu cũ cũng hết, đứa con xinh xắn bắt chị phải sống nuôi nó, chị đành ở lại thị xã làm vợ ba thằng Mậu. Hắn mê chị, nuông chiều chị, thuê nhà cho chị ở riêng, dẫn chị đi khoe với các bạn như khoe món đồ chơi đắt tiền, nhưng mỗi lần nghi chị có tình ý với ai hắn đánh nhừ tử.

   Sau bốn năm sống lối me Tây ở thành phố, chị thay đổi hẳn. Chị biết pha cốc tai lối Mỹ và uốn lưỡi nói những câu chào mời tiếng Anh, biết chọn kiểu áo khêu gợi nhất và màu phấn nổi da nhất, biết vuốt ve hoặc đanh đá để nắm chắc thằng Mậu trong tay và buộc hắn đem về cho chị đến hai phần ba số lương tháng khá lớn, chưa kể những món bổng kếch sù mà chỉ có ngành công an mới kiếm nổi. Bước chân vào hội chợ là chị được bầu ngay làm hoa hậu, có khi không cần lên sân khấu nữa. Những chiều thứ bảy. xe hơi đủ các kiểu xếp hàng dài trên phố Ngô Đình Khôi: các quan khách Việt Nam và Âu Mỹ đến dự vũ hội ở nhà riêng của chị số 172 phố ấy, cầu mong được nhảy với chị một bài và ghé tai chị tán tỉnh vài câu. Đại úy Tòng cũng một thời là “thần tử của Bà hoàng 172”. Bầu không khí ăn chơi xa hoa vây quanh chị Cúc, chị nhiễm nó như nghiện thuốc phiện trắng, không hít thở nó không sống nổi.

   Nhưng, nỗi nhớ tiếc ngày xưa từng lúc lên cơn nhức buốt trong chị như cây gai xóc nằm mãi đấy, những lúc ấy chị rót uống liền liền ba bốn ly rượu mạnh, cười sằng sặc, nhào vào tay một thằng sĩ quan Mỹ nào đó nhảy một bài phốctờrết quay cuồng điên loạn, để bớt nghe tiếng thì thào bên tai: “Con đĩ, con đĩ...”. Hai tiếng ấy chị nghe khi về thăm nhà trong bộ “y phục kim cương” bằng nilông trắng nạm những đường chấm lân tinh lập lòe, trên xe hơi của chồng. Má chị đá mèo quèo rế, chửi xa xôi những đứa trốn chúa lộn chồng. Mấy đứa em không nhận bánh chị cho, đứng thập thò nhìn rồi cười hi hí với nhau: “Cái đầu ổ quạ bay à”. - “Không, đội rế đó chứ”. Bà con quay mặt nhổ nước bọt: “Con đĩ!”. Trong làng cũng có hai cô gái nghèo bỏ đi Sài Gòn làm đĩ, nhưng bà con không khinh ghét như đối với chị. Họ nói: “Bọn kia về làng còn biết xấu hổ, không như con Cúc cứ vênh cái mặt vợ lẽ ác ôn. Con đĩ…”. Hai tiếng ấy trở nên một ám ảnh kinh khủng như những tiếng búa đóng nắp quan tài trong mùa dịch tả, càng kinh khủng vì chính chị thấy chị thực sự là con đĩ mất rồi. Chị không đủ can đảm dứt bỏ cái nghề đĩ quý phái này vì sợ thằng Mậu trả thù, sợ mất con, sợ phải sống giữa những người khinh ghét chị, sợ lam lũ cực nhọc. Đôi lúc dằn vặt đau đớn quá, căm giận thằng Mậu quá chị đâm liều, chửi lại số phận và trả thù chồng bằng cách đột ngột gọi điện thoại cho một người bạn chồng nào đó đến ngủ với chị vài giờ, rồi sau khi đuổi nhân tình đi chị ôm đầu khóc như hóa rồ: “Đã làm đĩ thì đĩ cho luôn!”. Đại úy Tòng đã một lần được hưởng lối báo thù tuyệt vọng của chị. Hắn tưởng chinh phục được chị, biết đâu rằng chị chỉ dùng hắn để cắm sừng lên đầu chồng. Khi bị thuyên chuyển đi xa, hắn tiếc mãi...

   Đứa con chị ốm vài ngày rồi chết. Ít lâu sau, thằng Mậu bị Cách mạng bắn vỡ đầu, bỏ xác lại với tờ cáo trạng gài trên ngực. Chị khóc con mà không khóc chồng, trước sau chị vẫn coi hắn là thằng cai ngục của chị. Chị không phải vợ chính thức nên không được lãnh tiền cấp dưỡng quả phụ, các gia đình trong “Hội tiết nghĩa” bị bức bách mãi mới bỏ ra cho chị tất cả được vài ngàn. Chị không đủ tiền trả nợ, phải bán hết đồ đạc và tư trang, “cung điện của Bà hoàng 172” tan biến như bọt xà phòng. Thằng ty phó công an già ngoài năm mươi đến gạ gẫm chị lấy lẽ hắn, nhưng mặc cả trước cẩn thận rằng hắn không chu cấp cho chị được rộng tay như thằng Mậu. Chị chống cằm ngồi nghe hắn nói, lơ đãng nghĩ đến một cái nhãn máy hát vẽ con chó ngồi nghe tiếng chủ trong đĩa. “Ừ, bọn kia ve vãn mình cùng một giọng với nhau như đĩa hát quay nhiều lần, còn mình thì khác gì con chó...”. Chị không từ chối hẳn, mà hẹn về thăm nhà ít lâu sẽ trở ra thị xã. Lão ty phó giao luôn cho chị làm cộng tác viên công an, đặt bí danh là C.172, đưa chị hai mẫu báo cáo tình hình Việt cộng địa phương và ngoài lai in sẵn, trả chị tháng lương đầu tiên chín trăm đồng, hẹn mỗi lần báo cáo sẽ có thưởng riêng. Chị ngửa tay nhận để đủ tiền mua vé xe về làng. Chị không định làm gián điệp, cũng không định làm gì hết, chỉ cảm thấy chán ngấy, chán tất cả.

   Trên chiếc xe hàng chật và hôi, chị kê cái vali nhỏ ngồi đọc lại cuốn “Đồi thông hai mộ”. Nên uống thuốc độc chết như Mỹ Dung hay đi tu như Bích Liên? Uống thuốc độc thì dễ, một ống vêrônan hay gácđênan là đủ, lúc nào uống cũng được, vội gì. Còn đi tu quên hết việc đời cũng hay, nhưng khi chán đời và chán cả tu hành nữa thì làm sao? Chị mong ước một sự tình cờ nào đó giúp chị thoát khỏi bế tắc, như chiếc xe này nhào xuống hố sâu chẳng hạn. Nhưng xe vẫn chạy đều, chỉ bị khám xét nhiều lần, chị ghé vào đồn công an hay trạm gác hé cho xem cái thẻ bọc nhựa bằng ngón tay của ty công an là được mời lên xe đi tiếp. Về cách làng năm cây số, đường bị phá nát, chị xuống xe xách vali kéo bộ về nhà theo các bà đi chợ.

   Làng chị đổi khác nhiều. Chính quyền Mỹ - Diệm bị diệt, những cuộc mít tinh biểu tình lớn sùng sục ngày đêm, chông hầm chông bãi giăng kín quanh làng như mạng nhện. Du kích đưa chị vào gặp Ủy ban Mặt trận, chính ông chú ruột làm chủ tịch. Chị khai là thất nghiệp phải về ở với má, không làm gì cho địch. Ông chú cười mũi: “Mày không làm gián điệp thì ai vô đó nữa?”. Ủy ban cho chị ở làng, nhưng buộc đi đâu phải xin giấy phép, cấm tiếp xúc với người lạ mặt. Chị về nhà. Má chị biết chị về mà không để phần cơm, chị ngửa nón đi mua gạo về tự nấu lấy. Chị trải chiếu nằm đất vì các em chị không chịu cho ngủ chung, nói đốp chát: “Lỡ chị mắc bệnh gì lây qua bọn tôi thì sao”. Cái hố ngăn cách chị với người thân đã sâu quá rồi. Cũng may đêm ấy chị mệt đến đờ đẫn nên đặt lưng xuống là ngủ say, không kịp nghĩ quẩn nữa. Sáng sau chị dậy sớm, vác cuốc ra vườn đánh luống trồng khoai. Bà má thấy vậy mới nấu cơm cho ăn, bà đoán đứa con gái hư hỏng đã có chiều thay đổi sau khi mắc nạn. Thực ra chị Cúc vẫn còn phân vân chưa biết nên chết, nên đi tu, hay trở ra thị xã thả xuôi những năm sống còn lại cho tới đâu thì tới. Chị hành hạ thể xác mình đến mệt lả để đỡ phải nghĩ, thế thôi.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #14 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 11:55:19 am »

   Nhưng rồi hơi thở lớn của Cách mạng ngấm vào chị ngày một ít. Chị đọc sách báo mới, dự mít tinh nghe kể chuyện đấu tranh như uống từng lời, ban đầu chỉ vì tò mò ham lạ, về sau vì lòng mến phục nảy nở dần. Chị tưởng sống lại những ngày sôi nổi nhất trong kháng chiến, hồi đó chị còn tóc xõa thơ ngây... Chị không dám nhớ lại quá khứ vì tủi thân và ghê tởm cho mình. Chị vẫn sống một mình khép nép như người câm điếc, cố thu hình thật nhỏ lại để không ai chú ý đến chị. Chị định nộp giấy tờ công an chìm, khai hết với Ủy ban, nhưng sợ bị căn vặn nghi ngờ thêm nên còn chần chừ để đấy. Mặt khác chị cũng tính toán phòng khi quân địch càn lên, chị sẽ lấy giấy tờ đó làm bùa hộ thân và che chở cho gia đình chị có thằng em trai vào du kích. Thấy nữ thanh niên nô nức đi học bình dân, tập du kích, chị lén nhìn theo đầy xót xa thèm khát, nhưng không dám ngó lâu sợ bị nghi là rình mò. Nhiều đêm chị ngồi nấu cám heo đến khuya để nghe thiếu nhi tập hát ở nhà bên, chị lẩm nhẩm hát theo và cười một mình thích thú khi thuộc được một bài hát mới.

   Phong trào nhân dân như cơn xoáy lốc khuấy động tâm hồn chị đến tận đáy sâu, đánh bạt đi những ý nghĩ yếu hèn, thức tỉnh lòng ham sống yêu đời của chị. Người nữ thanh niên kháng chiến đã sống dậy phá lớp vỏ của “Bà hoàng 172” do bốn năm đồi trụy dệt nên. Chị sẽ làm lại cuộc đời, chị mới hăm bốn tuổi.

   Má chị giận mấy ngày đầu, rồi con vẫn là con, bà đâm thương chị hơn các em một chút để bù lại những lúc hắt hủi. Các em lờ chị lâu hơn, cuối cùng đâu lại vào đấy cả, chỉ trừ thằng em thứ ba ở du kích vẫn nghiêm khắc đòi chị lập công chuộc tội, nó nói rành rọt là tội bỏ chồng tập kết lấy lẽ ác ôn, cướp tiền mồ hôi nước mắt của dân nghèo vung phí như rác, “nhảy đầm cả với ác ôn Mỹ”. Chị cúi đầu không dám cãi, nó nói tàn nhẫn mà đúng, còn may nó chưa biết hết sự thật về chị. Bà con trong làng đã bớt lạnh nhạt đối với chị, không ai nhắc tới hai tiếng “con đĩ” ngày trước nữa. Người hiểu chị nhất là bác Sáu già hàng xóm, hồi trẻ bác lăn lộn đủ nghề nên dễ thông cảm với nỗi khổ khác biệt của chị hơn, thường khuyên nhủ chị như người cha rộng lượng.

   Trận càn lớn đổ úp xuống vùng giải phóng lại một lần nữa đảo lộn tất cả những dự định xây dựng tương lai của chị. Riêng làng chị bị một trung đoàn chính quy do một thiếu tá Mỹ chỉ huy thọc vào. Quân giải phóng và du kích đánh suốt mấy ngày đêm, sau bị một tiểu đoàn dùng trực thăng đổ bộ sau lưng nên phải rút vào rừng bắn tỉa. Gia đình chị cũng như dân làng đều ở lại đấu tranh chống khủng bố, riêng chị sợ bị Cách mạng nghi ngờ nên xách cái vali nhỏ lánh vào trong rừng theo số thanh niên tránh bắt lính. Địch đóng lại trong thôn năm ngày, vấp phải nhân dân chống cự giằng co nên không dồn dân lập ấp chiến lược được, chỉ bắt hú họa hai mươi mốt người mà chúng nghi là gia đình cán bộ Cách mạng và du kích đem về treo đánh, lùa hơn chục trâu bò, đốt bảy cái nhà trước khi rút.

   Chị Cúc trở về làng sau trận càn, thấy nhà mình ra tro, má và các em nhỏ bị bắt giải đi mất. Em trai chị bị thương gãy tay trong khi chống càn đã được đưa về bệnh xá. Chị trơ ra không khóc, chỉ thấy tê dại cả đầu óc và thân thể. Ủy ban đến an ủi, chị vâng dạ sơ qua, nhưng bác Sáu tới sau một câu nói vô tình mà chị không thể quên: “Không lẽ cứ để bọn nó làm khổ cháu miết vậy sao?”. Trong khi chị loay hoay thu dọn ít lúa và nồi niêu còn sót, một ý nghĩ chợt đến: “Cái bọn ác ôn Mỹ cầm quân đánh phá làng chị, đốt nhà chị, bắt gia đình chị, bắn em chị gãy tay, có thể mới hôm nào ôm chị nhảy đầm trong phòng khách 172 Ngô Đình Khôi chăng? Cũng mấy thằng Mỹ đó chăng?”. Chị đứng sững, rồi nhếch mép cười như người loạn trí, cười rất lâu.

   Đêm ấy chị che cái nong ngồi bên đống cột kèo lổng chổng còn cháy ngún, nghĩ đủ chuyện. Dần dần những kỷ niệm cũ kéo trở về xếp lớp đều đặn như chị đang xâu lại chuỗi cườm của những năm tháng qua, và chị thấy hạt nào cũng tuyền màu đen nặng trĩu đau xót cả. Đời chị còn gì nữa, còn gì nữa? Một con số không tròn xoay, trống rỗng. Chị ôn lại những ước mơ của tuổi mười tám. Nào chị có dám màng đến những gì cao xa đâu. Chị muốn học có nghề để nuôi thân nuôi má, muốn chung thủy với người chị yêu, muốn sống yên lành và có ích trong tình thương của gia đình họ mạc. Nhưng bọn nó đã chà đạp tan nát hết những ước mơ nhỏ bé của chị, từ cô nữ sinh xinh tươi và yêu đời bọn nó đã vùi mãi dập mãi chị xuống thành con đĩ dơ dáng dại hình, thành con gián điệp chui luồn như rắn độc, đến nay lại cố phá không cho chị làm lại cuộc đời. Những bộ mặt chó sói chặn hết các ngả đường chung quanh chị, hẹn nhau không cho chị trở lại nên người. Chị vò hai tờ mẫu báo cáo của thằng ty phó ném vào lửa. Con đĩ là đủ nhục rồi, đừng làm con gián điệp C.172 nữa, đã sa xuống hố bùn còn cố ngụp sâu mãi. Cuốn “Đồi thông hai mộ” in giấy quý cũng bốc cháy luôn. Tự tử à, đi tu à, nếu ai bị thất vọng cũng tự tử với đi tu hết, thì bọn nó vỗ bụng mà cười... Nỗi căm giận ghê gớm từ từ nhóm lên trong lòng chị, lửa hừng hực cháy trong lồng ngực chị, những chấm lửa li ti chạy khắp thân chị đau nhức, chị muốn cắn muốn xé ngay một thằng nào đó cho đỡ tức. Không lẽ cứ để bọn nó hành hạ miết vậy sao? Không lẽ cứ để bọn nó làm khổ miết vậy sao?

   Chị khóc lặng lẽ bên đống lửa một mình, đến khi anh em du kích đi tuần đến lay gọi chị, dỗ chị vào nghỉ trong cái chòi tranh của bà con mới dựng giúp cho chị. Đến sáng chị xé vải trắng chít khăn tang, ra dự lễ truy điệu những người hi sinh trong chống càn, rồi theo bác Sáu đi biểu tình lên quận. Hai mắt chị khô, hơi sưng và chạy những tia máu đỏ ngầu.

   Giờ đây chị xăm xăm đi tới trước mũi đại liên của thằng đại úy Tòng. Chính chị không hiểu vì sao chị thanh thản quá, đầu phơi phới nhẹ không. Miệng chị lẩm nhẩm đọc câu kêu gọi binh lính, nhưng trong óc chị có một câu hát ru con chao đi chao lại, rất xa lạ với cảnh chạm trán ác liệt đang diễn ra bên ngoài. Câu hát của má lắc nôi ru con bé Cúc hồi xưa: “À, ơ... Cầm dao cắt miếng tóc mai, hòa vô chén huyết có hai đứa mình. Uống rồi thề nguyện đinh ninh, ai mang ơn nấy mắc ai bạc tình nấy mang...”. Chị hát ru lại con mình, và sau khi con chết chị còn hát mãi câu ấy một mình tuy nó không ăn nhập gì với cuộc đời đẫm nước mắt của chị nhưng gợi chị nhớ đến những gì thật ngây thơ trong trắng như đứa con chị đã mất, như tuổi xuân chị đã mất.

   Đại úy Tòng sừng sờ nhìn chị đi tới. Khuôn mặt gái một con trắng mịn đầy đặn đang đến gần, dưới nắng trưa càng đỏ hồng lồ lộ. Dáng đi hấp tấp nhưng vẫn óng ả như khi lượn trong phòng khách 172 Ngô Đình Khôi. Hắn thoáng nghĩ: “Cúc vẫn đẹp mê hồn, đẹp rất Tây phương. Và tất cả pho tượng Vệ nữ ấy là của mình...”. Theo thói quen lâu ngày, hắn khép hai chân lại, mỉm cười, và suýt nữa hắn bước tới đón Cúc nếu không sực nhớ đến cuộc biểu tình. “À, tuyệt diệu, cô nàng đi theo biểu tình để nắm tình hình. Một người đàn bà thông minh hiếm có”. Hắn nháy mắt để tỏ vẻ hiểu và phục tài Cúc. Nhưng hắn còn một chút phân vân: “Cúc đã nên thoát thân về ty công an luôn chưa, hay còn có thể quay lại ở chung với Cộng sản ít lâu nữa để theo dõi thêm?”. Muốn khỏi bị hớ, hắn lên giọng quát phủ đầu:
   - Chị này muốn chết sao? Kiến nghị của cộng đâu, trình đây coi thử.

   Hắn đưa tay, đoán chắc Cúc sẽ trao cho hắn một tờ kiến nghị, trong đó gài sẵn một mảnh giấy ghi tên những người cầm đầu cuộc biểu tình cần bắt ngay. Nhưng Cúc dừng lại cách hắn chừng năm bước, bật kêu lanh lảnh:
   - Hỡi anh em sĩ quan và binh sĩ!

   Hắn như bị đấm giữa trán, ngó ra bàn tay vẫn chìa tới trước. Rồi hắn vụt hiểu sang cách khác. Cúc bị lộ, bị cộng sản bắt đi theo, đẩy lên thương lượng với hắn, làm bia đỡ đạn cho Cộng, làm kế mỹ nhân. Chắc hẳn hàng chục mũi súng đang bí mật chĩa sẵn vào lưng Cúc, nên cô nàng sợ khiếp, phải đọc những câu đã học thuộc lòng ở nhà. Có thể gia đình Cúc bị bắt làm con tin. Gớm thật, bọn Cộng hiểm độc quá thể. Hắn vạch rất nhanh một kế hoạch giải thoát cho Cúc, trừng trị thẳng tay và chớp nhoáng. Cúc đang kêu gọi quân đội đừng khủng bố dân. Đại úy Tòng để mặc Cúc đấy, quay lại nói nhỏ:
   - Hạ sĩ Trung đâu? Lại đây, mau. Đem ngay tiểu đội mày tới đây, dàn hàng ngang... Ngu lắm, dàn bịt kín đầu cầu hễ chị kia chạy qua thì đứng né hai bên, chị qua lọt rồi bọn bay đứng ráp lại thành hàng rào, xả súng bắn luôn. Hiểu chưa, What an ass! (Đồ con lừa!) Bắn bọn Cộng, chớ sao lại bắn chị ta...

   Chị Cúc không để ý đến đại úy Tòng đang xếp lính sau khẩu đại liên. Chị đọc hết bài binh vận ngắn trước mấy trăm con mắt đang sửng sốt nhìn chị dưới vành mũ sắt xanh xám. Chị nói thêm những điều chị nghĩ lâu nay, giọng oán trách như nói với đám người thân mà khờ dại:
   - Đó anh em nghĩ kỹ coi, bọn Mỹ ở đâu tới nó bắt anh em đốt nhà mình, đánh đập bắn giết ba má mình, nhốt bà con mình vô ở tù trong ấp chiến lược, anh em cũng cúi đầu mà nghe sao? Cứ chịu làm đầy tớ cái bọn khát máu tanh lòng đó sao? Đàn ông con trai đâu mà kỳ cục vậy; tôi như anh em tôi đập đầu hết bọn khỉ đột chớ không có để. Nó cũng người mình cũng người…

   Tiếng rì rầm trong bọn lính to dần, không rõ là tán thành hay bực tức. Một người buột miệng: “Nè chị kia...”. Bốn năm tiếng suỵt tiếng ồ chặn hẳn lại. Những lời gay gắt của người đàn bà quất vào đám lính mũ sắt, gây một cơn náo động kỳ lạ. Vừa lúc ấy đại úy Tòng bước tới trước mặt chị Cúc, đột ngột hét: “Con kia, câm họng”. Chị giật mình quay lại. Tòng nói nhỏ và nhanh qua kẽ răng:
   - Cúc nghe anh dặn đây. Chạy ngay ra chỗ xe anh, nói sốp phơ lái về trước. Chắc bọn Cộng không dám bắn theo đâu. Nếu nghe súng nổ sau lưng, Cúc nằm sấp xuống, nhớ chưa, nằm im đó. Anh sẽ quật chết hết bọn kia. Chuẩn bị... kìa Cúc mau lên em, đừng sợ...

   Chị Cúc trừng mắt nhìn hắn. Đến bây giờ chị mới nhớ ra mình đứng trước đại úy Tòng, người bạn chồng đã ôm chị nhảy những bài rumba rất khó và ghé tai chị tán tỉnh nhiều lần, cầu xin “cái ân huệ cao nhất của Bà hoàng 172”. Một con quỷ ham tiền ham sắc, giết người tới số trăm. Một trong những bộ mặt chó sói vây quanh không cho chị sống.. Vào lúc khác có thể chị mềm dẻo nói với hắn đòi thả hai mươi mốt người bị bắt, nhưng lúc này đầu chị nóng rực như lò than, chị say máu ngà rồi. Chị giơ tay chỉ thẳng vào mặt Tòng:
   - Anh em nghe thằng Tòng nói gì không? Nó biểu tôi chạy đi để nó bắn chết hết bà con...

   Tòng lắp bắp:
   - Điên à? Đừng nói bậy nữa, chạy mau!
   Chị nghĩ nhanh: “Mất chánh trị. Mình khiêu khích nó rồi. Lỡ nó bắn mấy trăm bà con...”. Nhưng chị không tự chủ nổi, chị vẫn chửi sa sả:
   - Thằng Tòng muốn giết đồng bào, anh em thấy chưa? Chút nữa nó hô bắn đó, để coi anh em có nỡ cầm súng Mỹ bắn vô bà con mình không? Để coi anh em có còn là người mình hay biến ra người Mỹ hết rồi? Để coi anh còn biết tình nghĩa máu mủ hay hết trơn lương tâm rồi?

   Đại úy Tòng chợt hiểu hết: Cúc đã theo Cộng, dẫn cộng đi đấu tranh, đang đứng vạch tội hắn. Hắn gầm lên: “Đồ đĩ, tao giết mày!”. Hắn sải chân bước tới, tay trái túm vai chị, tay phải quật một cái tát như đập búa. Chị loạng choạng ngã quỳ xuống đất, một bên áo rách toạc, trên mặt hằn những đầu ngón tay đỏ sẫm. Bên kia cầu dội tới ầm ầm tiếng hô của đoàn biểu tình: “Phản đối đánh đập người vô tội! Kiên quyết không cho bắt người vô tội! Giữ lại bớ bà con!”. Bảy trăm người đằng sau đang tiếp sức cho chị, nâng chị lên. Chị đứng dậy, nghiến răng xô mạnh vào ngực Tòng, mạnh đến nỗi hắn bật lùi, va phải hàng lính sau lưng. Câu chửi của thằng Tòng vừa xé lại vết thương thầm kín của chị chưa liền da hẳn. Chị tức đến điên cuồng. Chị gạt tóc xõa trên mặt, bíu hai tay run lật bật vào thành cầu, trợn trừng đôi mắt đỏ và sáng chói. Chị kêu hổn hển:
   - Đồ Việt gian... đồ đầy tớ Mỹ... chủ mày tới đây tao cũng xé nát mặt ra... Bộ mày dám đánh tao à? Mày dám chửi tao à? Tao khổ sở điêu đứng, tao lỡ sống lỡ chết, tao tan nát cuộc đời cũng tại thầy trò bọn mày. Ừ, tao làm đĩ. Tao làm đĩ cũng bán một cái thân tao thôi. Còn mày làm chó ngao cho Mỹ mày bán cả đồng bào, mày bán nước, mày bán nước...

   Một loạt tiếng rú thất thanh trước mặt và sau lưng chị. Thằng Tòng vừa rút súng ngắn, bật khóa hãm, chĩa vào ngực chị. Chị chỉ kịp thấy nòng súng đen nẩy nẩy trên tay hắn, phụt khói liên tiếp, không rõ mấy tiếng. Chị bị đánh túi bụi giữa ngực. Nền cầu xi măng trắng xám tròng trành đập nhào vào mặt. Chị mở miệng định kêu, máu nóng hổi ộc lên đầy cổ, thoảng mằn mặn. Chị quẫy mạnh, lật nghiêng người, quờ bàn tay cào cấu nền cầu nhám, thở phì một búng bọt máu ra mũi. Tiếng ù ù vang to trong tai chị. Thánh thót đâu đó một câu hát ru con rất quen thuộc chao đi chao lại theo nhịp bàn tay đưa nôi êm và chậm, trong khi thân thể chị tê dần, rã dần, tan thành bụi. Một tiếng nấc cuối cùng. Chị tắt thở.

   Cơn sấm sét nổ bùng trên cầu Gò Bàn sau mấy phát súng châm ngòi. Đoàn biểu tình ùa tới xốc cái xác chị Cúc, gào thét, chửi rủa. Đại úy Tòng hô lệnh bắn chưa dứt, một người lính đã quật báng súng tomxơn xuống đầu hắn, thọc mũi súng vào bụng hắn ghì cò hết một băng đạn, thịt và ruột văng từng mảnh tung tóe. Mấy sĩ quan và hạ sĩ quan đâm đầu chạy vào xóm, mấy chục người đeo súng và tay không len ngược dòng biểu tình đi về phía vùng giải phóng. Xác chị Cúc đặt trên tấm ván cửa, sáu người khiêng trên vai, vượt lên trước tấm biểu ngữ vải đen. Bảy trăm đồng bào biểu tình ùa qua chiếc xe bọc sắt và hàng ô tô bỏ chơ chỏng, kéo vào thị trấn Gò Bàn như thác đổ trong tiếng hô khẩu hiệu rung trời.

5-1962

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #15 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:44:50 pm »

TRONG ĐÁM MÍA

   - Thằng Út làm gì đó?

   Út vừa trong đám mía rút ra, bị tiếng nạt bất ngờ, giật mình đến thót bụng. Chết cha, lộ mất rồi. Út co giò định chạy. Lão Sáu bước tới gần:

   - Bộ ăn cắp mía tao hả? Tao nói má mày đánh cho nhừ xương.

   Út bình tĩnh lại ngay. Ừ, dễ gì lộ đâu. Mình phải tự nhiên chớ. Lão dân vệ này còn lên mặt lắm, nghi ai lão đi báo cáo liền. Vẫn nghịch ngợm như mọi ngày, Út nhảy tót lên lưng trâu, cãi to tiếng:

   - Thèm mía thì xin mía lựa mà ăn, tôi nghèo chớ không trộm cắp của ai. Tôi đi đồng chút cũng la.

   - Mới bữa trước tao tìm ra dấu bẻ, không mày thì ai vô đó?

   - Chú không tin tôi thề chú nghe. Đứa nào bẻ mía chú thì cái cổ mang gông, tay cầm lóng mía, vừa đi vừa hít, cái đít chịu đòn. Chú ưng bụng chưa?

   Út giật mũi cho trâu đi, tay vỗ hông trâu, miệng hát nghêu ngao: “Cầu bơ cầu bất cầu bần, có ông ăn mía một lần tới nửa cây. Ăn rồi tiếc đắng tiếc cay...”. Cái đầu hớt trọc lắc qua lắc lại coi rất bướng.

   Lão Sáu càu nhàu, xốc lại khẩu súng săn một nòng, kéo sụp cái mũ vải xuống trán, rúc vô đám coi thử. Đám mía rộng non mẫu, lâu nay lão chưa đi thăm. Dấu chân Út còn in trên đất xốp, thiệt, sâu lắm. Nhất định nó ăn cắp cả vác mía, đem cho lũ chăn trâu xúm lại nhai rồi nhổ nước vô nồi, tập nấu đường chớ không vừa gì. Cái trò ấy lúc nhỏ chính lão cũng làm nhiều nên biết rõ. Lần này bọn bay chết.

   Đến chỗ đất cứng, vết chân Út biến mất. Vẫn không có dấu bẻ mía. Lão Sáu gỡ một túm lá móc vào quai súng, đi một quãng nữa rồi quay ra. Chân lão giẫm phải một chỗ lún. Lão hất lá mía khô phủ đất, thấy dấu đào còn mới. Lão ngồi xuống, lấy khúc cây xoi thử.

   - Chú Sáu!

   Lão ngoảnh cổ lại. Út chui theo lúc nào đang đứng sau lưng lão, mặt hơi tái:

   - Ra mà coi, trâu ăn lúa chú ê hề kia.

   - Trâu nào ăn tao bắt đền gấp mười... Mày ăn cắp gì đem chôn đây, tao biết.

   Mũi cây chạm phải cái gì cứng, cạch một tiếng. Út giẫm chân, bật kêu như khóc:

   - Chú không được đào, không được mà.

   - Cái thằng ngang thiên nghịch địa, mày cấm tao hả?

   - Tôi cấm chú đó!

   - À, cái hộp gì đây, mẹ cha... Út, mày đứng đó. Bắt quả tang đồ ăn trộm, thấy chưa?

   Út quát lên:

   - Của Cách mạng đó, chú lấy chú chết!

   Lão Sáu rụt tay như phỏng lửa, ngó Út trân trân. Út đang bậm môi, trợn mắt, coi dữ quá. Nó nói thiệt chớ không chơi. Mới mười bốn tuổi, mặt bấm ra sữa, dám theo Việt cộng à? Chôn mìn hay lựu đạn đây? Lão thấy rờn rợn, nhưng vẫn nạt ra oai:

   - Của ai thì của, tao giải về hội đồng cái đã. Đứng yên, hễ chạy tao bắn chết. Cha chả, dám xưng cộng sản nữa chớ!

   - Tôi nói chú biết, chú bắt tôi thì chú đứt cái đầu.

   Lão Sáu đứng phắt dậy, ngó quanh nhớn nhác, cởi súng ra cầm tay. Rõ ràng Việt cộng về làng rồi. Về ban ngày hẳn hoi như vậy chắc phải đông. Phần lão bị Việt cộng đuổi chạy một lần đứt hơi văng đạn rớt mũ, lão khiếp lắm.

   Thấy lão đứng tần ngần, Út bước đến moi đất, rút lên một cái hộp nhôm tròn, loại hộp sữa bột. Út mở hộp lấy ra một cuộn giấy, giơ lên nói dằn giọng:

   - Truyền đơn đây nè. Truyền đơn Cách mạng đây nè. Chú có giỏi cứ bắt tôi về hội đồng đi, tối nay Cách mạng họ vây cả làng, họ bắt chú ra chặt cái đầu vầy nè.

   - Úi mẹ!

   - Chú về không được nói với ai, nghe chưa?

   - Nghe rồi... Vậy chớ mày... mày gặp ai?

   - Không biết.

   - Có bộ đội không?

   - Chu chao, bộ đội thì cả trăm cả ngàn. Thôi chú đi ra ngoài. Chú ra đi!

   Lão Sáu ngập ngừng xách súng, quay lui.

   Tới thằng con nít cũng theo Việt cộng, thì cả làng theo hết còn gì nữa. Lão không sợ gì thằng Út mà sợ cái số trăm số ngàn ở đâu trong bóng tối đằng sau lưng nó. Trứng gà không nở riêng một con, mà nở cả ổ một lần. Đâu cũng nghe Việt cộng nổi dậy, đánh quốc gia chạy re có khói có ngời, đi tới đâu dân theo tới đó. Dân vệ chín trăm bạc lương chớ mấy, mà có ngày chết không kịp ngáp... Lão lạnh toát cả người, đầu gối nhủn ra. Chung quanh cái làng này chắc Việt cộng cũng nằm chật rồi, họ cho thằng Út đi dò tin tức, rồi họ đổ ra vây làng, nắm đầu hết ba đứa dân vệ. Chao ôi! Phải như có giấy tờ gì của họ, đưa ra nói ngọt chắc họ không giết đâu. Ừ, chỉ cần một tờ truyền đơn bỏ sẵn trong mình, một tờ thôi...

   Lão dừng một phút, mồ hôi đổ lấm tấm trên trán. Rồi lão đút cây súng vào bụi, hớt hải luồn trở lại chỗ Út, bước như chạy. Chết, nó đi đâu rồi, nó núp đâu rồi? Lão nghe tiếng sột soạt phía tay trái, vội rúc miết về phía đó, suýt đâm sầm vào Út đang tìm chỗ chôn cái hộp. Lão ngửa bàn tay, vừa thở vừa nói lập cập:

   - Út à cho... cho chú xin một tờ truyền đơn. Chú xin một tờ thôi. Em ưng ăn mía cứ mặc sức bẻ ăn, hay để chú lựa cây ngon cho. Nè, tờ xấu xấu cũng được em à.

6-1962
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #16 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:48:37 pm »

LỬA ĐÊM

   Bác Tám Sành nằm nửa mê nửa tỉnh trên phản. Tiếng thình thịch từ dưới đất dội lên rõ dần, to dần, nghe âm nặng và lộn xộn. Bác nghĩ chập chờn: “Sấm đất đâu trên nguồn... Nhà nào giã gạo. Không, ai đào cái gì, đông người. Nó bắt đào mương ban đêm nữa sao? Hay bà con tưởng mình chết, đào hố chôn?”. Bác mở mắt chỉ thấy tối đen, hơi hoảng. “Mình mù rồi à? Sao mau vậy?”. Bác gượng kêu ú ớ. Bác gái đang ngồi ngủ gật trên chõng, giật mình đứng dậy khêu đèn, hỏi dồn:

   - Ba nó khỏe chưa? Uống nước không? Dậy ăn miếng cháo hử?

   - Đỡ rồi... Đào cái gì?

   Bác gái ngơ ngác tưởng chồng nói sảng:

   - Gì đâu. Ba nó đang đào mương bị cảm nắng, họ khiêng vô bóng cây, vắt nước rau má đổ không tỉnh. Sợ quá chừng là sợ, không biết... Đang khi không ba nó ngã ngửa ra, sùi bọt mép coi dữ dằn... Vậy mà ông trung úy còn nói ba nó giả bộ chớ cảm kiếc gì...

   Thấy vợ bắt đầu mếu máo, bác Tám gắt khàn khàn:

   - Tao đã chết đâu mà khóc kể? Hỏi ai đào gì bịch bịch vậy?

   Bác gái ngó ra cửa, rồi đến ngồi bên chồng thì thào:

   - Cách mạng đó. Họ về chụp đầu hết ban trị sự ấp. Rồi họp dân lại biểu vạch tội. Đồng bào cứ xói vô ông ấp trưởng nói lu bù, khiếp quá. Bắt lão đó đem đi mất rồi, cũng đáng đời. Bây giờ đang lấp mương phá rào.

   - Ai phá?

   - Dân chớ ai. Mệt đừ cả ngày, vậy chớ sợ oai Cách mạng cũng đi hết. Ba nó mệt nghe chi chuyện đó. Súc miệng rồi ráng ăn miếng cháo hành cho ra mồ hôi hử?

   Bác Tám bật “hứ” một tiếng trong mũi, không rõ ra gắt vợ hay muốn nói gì. Bác to khỏe, đen thui, tóc lốm đốm tiêu muối, râu cằm râu mép nhổ trụi cho gọn, cả ngày cạy răng không ra được một tiếng cười, ngó mặt bác lì lì đố ai đoán ra bác đang vui hay buồn, đang nghĩ gì trong óc. Vợ bác sợ bác như hùm tuy chưa lần nào bác đánh vợ cả, chỉ vì người non nghĩ hay sợ người cả nghĩ.

   Bác lim dim mắt nằm một lát, rồi chống tay ngồi dậy:

   - Má nó pha bát nước. Đưa tao cái rựa.

   - Ba nó đi đâu. Nằm liệt giường từ chiều tới giờ rồi.

   - Tôi trình với mấy ông Cách mạng, họ nói đau cứ ở nhà...

   - Cãi ngang à?

   Bác gái nín thinh ngay, nhưng cũng không đi lấy rựa, chỉ ngồi xuống chân cột kể lể, sụt sịt. Bác Tám uống một hơi cạn bát nước, đứng lên, lại lảo đảo ngồi xuống phản. Chân tay bác rã rời nhấc không nổi, trong đầu bác một hòn cân lăn qua lăn lại, ngọn đèn nổ ra thành vô số đốm vàng xoay lộn. Mới một buổi cảm nắng mà bác kiệt sức vậy sao, mọi ngày bác vẫn nổi tiếng lực điền, gánh lúa gãy đòn càn, cày ngã vài đôi trâu là thường. Bác níu cái nẹp phên, đứng dậy được. Bác bước tới bếp rút cái rựa, tiện tay bốc một củ gừng, cắn nửa củ nhai giập rồi ngậm trong miệng cho ấm. Thấy bác đẩy cửa ra đi, bác gái vừa thút thít vừa chạy theo quàng vội cái khăn rằn vào cổ chồng, nhét hộp dầu cù là vào túi chồng, cằn nhằn mấy câu nữa, nghe chồng “hừ” một tiếng lại im, đứng trong cửa lau mắt.

   Gió đêm từ trên nền trời đầy sao quạt thông thốc xuống mặt bác Tám. Bác tỉnh người dần, đầu nhẹ hơn. Tiếng cuốc lấp mương nổi to hẳn, tới lấp vây khắp chung quanh bác, thêm tiếng chặt tre chan chát, tiếng kéo gai sồn sột, mới nghe tưởng chừng địch vẫn ốp dân xây ấp chiến lược cả đêm khuya. Ngày làm đêm phá. Ban ngày ồn hơn vì thêm bọn lính hò hét, chó sủa gà kêu, ô tô rồ máy đi về. Giờ đây chỉ có tiếng cuốc rựa dồn dập, nhanh gấp đôi gấp ba cái nhịp điệu xây ấp ban ngày.

   - Ai? Đứng lại!

   Bác Tám chưa kịp trả lời, một bóng người đã nhô trước mặt. Mũi súng đen hạ xuống:

   - Ủa, ba! Đau không nằm, ra đây làm gì?

   - Cái thằng, làm tao hoảng hồn. Ra coi bộ đội chút.

   - Hồi nãy hốt cũng gọn ba à. Bọ đội đang phá đường sắt dưới kia. Mai đánh gắt đó.

   Thằng con bác cười hề hề, xin bác điếu thuốc, rồi lại kẹp súng đi tuần. Nó ở đội Thanh niên diệt Cộng, lại là du kích bí mật của Cách mạng lâu nay. Bác Tám cũng được gặp cán bộ vài lần, còn vợ bác phải để ngoài không cho biết gì hết vì nhát gan như thỏ, nhằm chừng địch đánh ba roi là nhớ gì khai nấy ráo.

   Bác Tám dò dẫm đi ra lớp công sự ngoài. Dãy bụi tre rậm quanh làng đã bị chặt trụi đem rào ấp, chỉ còn mớ gốc thấp và những cây măng nhu nhú nép vào bên các thân dừa như khiếp sợ. Những bóng đen vác tre gánh chông chạy qua lại trên đường ruộng, kêu nho nhỏ: “Né ra, tránh, chông đây... coi chừng đụng tre”. Bác lội hẳn xuống ruộng tránh người. Chân bác đạp lên một bụi lúa còn đứng, bác vội rụt lại, quờ hai ngón chân kẹp gốc lúa kéo dựng lên. Rồi bác chợt nhớ ra tất cả ruộng lúa mé trong rào đã bị xéo nát hết rồi còn đâu. Bụng bác nổi cồn cào, bác đi vội tới chỗ ruộng mình.

   Suốt bốn ngày qua địch kéo về hai đại đội và bắt đầu toàn xã trên ba ngàn người tới xây ấp chiến lược Đồng Dừa. Mẫu hai lúa của bác Tám đang phơi đòng bị lớp rào ngoài xén mất hai sào, cái mương thứ nhất nuốt thêm ba  sào nữa, rồi lớp rào thứ hai mới chớm dựng lên đã ngoạm gần hết sào rưỡi. Thằng ấp trưởng còn bắt dân vót thêm chông để cắm xuống cái mương thứ hai sắp đào, mỗi cử tri thêm một ngàn chông loại ba gang tay, ngày làm công sự đêm vót chông cho kịp. Nếu không phá ấp thì non nửa số ruộng của bác còn lại sẽ mất trụi, mùa này bác sạch vốn trắng tay, và các mùa sau chưa biết mướn đâu ra ruộng mà cấy, đến hột lúa nhổ râu cũng phải đi mót ruộng người.

   Ban ngày chính bác đào cái mương rộng năm thước Tây trên ruộng mình. Mỗi nhát cuốc vập xuống bụi lúa như một nhát dao băm trên thân bác. Bác thấy dân làng đang tự tay đan cái rọ khổng lồ để rúc vào trong cho địch giam đói. Bác thấy bác đang đào hố chôn mình, chôn vợ con mình. Ruộng gần phá nát, ruộng xa bỏ trắng thì lấy gì mà ăn mà hòng sống. Có lúc bác chống cuốc đứng ngây ra, tưởng mình chiêm bao, ai đời tay mình cày cấy rồi tay mình chém cây lúa măng tơ như vậy.

   Thằng ấp trưởng cầm cái roi gõ trên nón bác: “Nè, muốn đi học lớp ù lì hả?”. Bác lại cúi mặt bổ từng nhát cuốc nặng nề giết lúa. Bốn thằng Mỹ tới chụp ảnh, lay từng cây cọc, suỵt chó cho rúc thử qua rào, bắt nhổ mấy chục ngàn chông cắm lại cho đúng kiểu. Bác nổi điên muốn bửa một đai cuốc trên những cái mặt lông lá nhăn nhở kia, nhưng nén lại được không làm liều, chỉ vừa cuốc vừa rủa thầm cho đỡ tức: “Tao đào mả cha mày lên đây Mỹ nè. Tao rạch mặt mẹ mày nè, tới đây mà chụp...”. Ngay các ông già đầu trắng như thúng bông cũng chưa hề nghe nói tới thứ giặc nào phá hại như Mỹ - Diệm bây giờ. Hồi kháng chiến Tây nó đóng đồn kia, tới mùa cho xe cóc đi xéo lúa, nhưng bộ đội với du kích đánh, dân gặt đêm, mười phần còn thu được sáu bảy. Bọn Mỹ - Diệm cũng giữ y cái đồn cũ, chỉ bớt đi một lá cờ tam tài còn lại cờ ba que, nó không thèm phá từng mùa lúa nhốt từng người dân nữa, mà bắt dân phá hẳn ruộng cho hết tiệt chỗ cấy trồng, tháo đòn tay nhà làm rào nhất cả mấy ngàn dân, tàn ngược đến vậy là cùng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #17 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:51:02 pm »

   Ruộng bác đây rồi. Khúc mương bác đào giờ bà con đã lấp gần xong, ném gai tre gai dứa xuống phủ đất lại, còn chông thì nhổ cho du kích đi cắm chống càn. Mấy chục người đang bổ cuốc hối hả trên nền đất xám. Một mảng sẫm màu còn lại chỗ góc bờ kia. Những cây lúa sống sót vẫn nghiêng thân phơi đòng trong ánh sao trắng bạc, gặp gió vẫn nổi cái tiếng lào xào quen tai và thân thiết để mừng bác Tám tới thăm. Bác ngồi xuống đất đưa tay mơn những ngọn lúa tội nghiệp cho lá cọ vào tay ngưa ngứa, như vuốt tóc bầy trẻ mồ côi. Mới cách bốn ngày đồng lúa còn trải rộng dưới nắng, chiều chiều hương lúa tỏa nồng vào xóm như nhà ai nấu xôi mới…

   Một tiếng “pắc” trên đồn. Đốm lửa đỏ lừ bay vút lên, thả rơi sau đuôi những chấm lả tả, bùng ra thành cái đèn dù sáng chói mắt, lắc lư soi xuống. Trên mặt ruộng hiện rõ những khúc rào nhổ chưa xong còn khấp khểnh như hàm răng rụng dở, những đống tre dựng to sù. Bác Tám nằm nép vào bờ ruộng, nín thở đợi đạn đại liên bay veo vèo trên đầu hay những quả cối rít dài đâm bổ xuống. Cái đèn dù hạ thấp, ngả sang màu vàng, lụi dần. Không có gì cả. Chúng nó ngủ gật, hay người lính gác nào đó trông thấy mà không muốn báo động. Cảnh chợ đêm không đèn lại diễn ra, rộn rịp hơn, gấp hơn. Tiếng cuốc lấp mương bật rào rào như hàng trăm quả tim cùng đập vội sau mấy phút nguy hiểm. Một bóng đen xắn quần quá gối để lộ hai chân trắng lốp đến lay vai bác Tám, hổn hển nói giọng con gái:

   - Nè, thanh niên ra đây ngồi à. Lại nhổ giùm khúc rào chút, chôn sâu quá đi.

   Con nhỏ lầm bác với người khác. Bác lẳng lặng cầm rựa đến chỗ rào. Chân tay bác đã chắc lại gần như lúc thường, chỉ còn đầu bác choáng váng và hâm hấp sốt. Khúc rào này giao cho thanh nữ phá, thêm mấy cậu du kích đi cắm chông về thấy họ phá chậm cũng sà vào giúp, súng đeo trên lưng. Những câu ghẹo câu đáp thì thào bay qua lại, bên nữ ỷ đông nên nói táo tợn, dồn cho bên nam đuối dần.

   - Lính Lệ Xuân vụng òm, được cái đánh mõ la làng là giỏi. Cách mạng vô đập mõ, còn cầm đũa bếp gõ cột nhà...

   - Tết mới đi lính cho nó. Còn hơn Thanh niên cộng hòa xếp hàng chào cái đáy quần ba sọc của con đĩ Lệ Xuân.

   - À, à, gớm cái miệng...

   - Hát nữa chớ. Nè: “Toàn dân biết ơn Ngô tổng rống! Tổng rống! Tổng rống!”. Hí hí hí.

   - Hồi chiều chính tay các mụ rào chỗ này. Ăn cây nào rào cây đó, chổng mông lên chôn rào giờ nhổ không lên...

   Các cô ồ ạt đập lại không kịp thở:

   - Ăn gì? Ăn roi ba cạnh, uống nước ớt nước vôi.

   - Chớ không ăn lương diệt Cộng tháng ba trăm như các anh còn nói điệu bắn súng cho quận ném lựu đạn cho xã.

   - Thanh niên các anh không có Cách mạng về thì bỏ chó chê. Phải lập công chuộc tội nghe chưa? Dạ đi!

   - Anh Quỳ đó hả? Bọn tôi cấm con Thìn không được nhận đơn anh rồi đó. Bắn chết ba thằng địch mới cho nộp miếng trầu đi hỏi. Giết một Mỹ mới cho cưới.

   - Thôi thôi tôi lạy các mụ. Bớt cái miệng lại, nó động cho ít chục bắp chuối bây giờ.

   Bác Tám không nói gì. Đám trẻ lúc nào cũng cười giỡn được, còn bác chẳng bụng dạ đâu mà đùa. Bác lay những đoạn tre rào dài bơn năm thước nguyên cây, nhổ bật lên, vác dựng thành đống. Mười lăm đồng bạc một cây tre chạy rụng tóc mới mua được vài chục tre làm nhà, mà nó đếm từng bụi tre ghi sổ rồi bắt chặt nộp hết, thiếu gì dỡ đòn tay tháo kèo nhà bù thêm cho đủ số. Bây giờ lại phải cố đốt cho sạch, nghĩ đã ngược đời chưa!

   Bác lay một cây tre tới chục lần, nhổ không lên. Bác để đó, luồn tay kéo cây khác. Cũng vậy. Bác sực nhớ khúc rào này gần cổng, thằng ấp trưởng bắt chôn cái loại tre chứa mấy khúc nhánh dưới gốc như ngạnh lưỡi câu. Bác nghiến răng bạnh quai hàm, lay mạnh hơn, rồi đu hẳn mình lên cây tre, đánh vật nó như với thằng địch lì lợm, quật đổ nó xuống. Cây tre ngã nạy lên một mảng đất to, bác thấy đau nhói một cái trong mình, chỗ nào không biết.

   Lứa trẻ mới lớn lên họ chưa bén rễ vào đất quê hương cho mấy, không phải như lớp già đã thuộc hết từng gốc mít, từng mảnh ruộng. Đất Đồng Dừa này nuôi bảy đời nhà bác Tám Sành rồi đây, từ thuở ông tiền hiền tới vỡ ruộng khai mương đến nay kể đã dư hai trăm năm. Đất nuôi người và người giữ đất, đuổi giặc to giặc nhỏ không nhớ bao nhiêu lần. Bác bước mỗi bước là giẫm trên vết chân của tổ tiên đã sống trước bác, mồ mả còn xếp dãy ngoài kia. Bác lớn lên, mồ hôi nước mắt rưới xuống đất ngày một nhiều. Tới hồi kháng chiến, bác gặt đêm trúng đạn bị thương, máu chảy trên ruộng lúa, rồi tiếp tới thằng Cả nhà bác hi sinh trong chống càn, đất lại ngấm thêm ít nhiều máu mủ của bác. Một ngày nào đó bác sẽ nhận phần vài thước đất cuối cùng, nằm xuống cho đất ấp ủ, nhường chỗ cắm lúa lại cho con cháu giữ lấy mà kiếm miếng ăn. Trăm ngàn sợi dây thương yêu như vậy níu bác Tám vào quê cha đất tổ. Đất đã thành một phần da thịt của bác. Bác đau cái đau của đất Đồng Dừa bị cào xé, những cọc tre có ngạnh móc xuống đất kia là những lưỡi câu của địch móc vào mình bác... Những ý nghĩ ấy thoảng rời rạc trong đầu bác Tám không rõ nét, chỉ gộp lại thành một nỗi uất ức dồn ứ trong ngực bác cồm cộm khó thở, mỗi lúc một sôi lên. Bác đã say như con nhà võ uống rượu mã tiền, không biết mệt nữa. Bác xô ngã từng hai ba cây rào một lần. Một mũi chông ở chân rào nhổ còn sót chợt cứa vào bắp chân bác chảy máu, bác túm lấy nó bẻ vụn.

   Đám thanh nữ bật lên nói xì xào, ngồi bệt xuống đất kéo ống quần lau mặt, thở phì phò:

   - Xong rồi bà con. Về các chị, mai còn lên đồn. Hai tay muốn rụng, con mắt cứ đòi sập cửa xuống.

   - Mệt mệt đừ, vậy mà thiệt sướng chị em hè!

   - Xì, con gái nói vô duyên...

   Mấy cậu du kích lấy rựa chẻ tre khô làm củi mồi, tiếp tục gây chiến:

   - Giao cho giống cái ở lại đốt hử?

   - À thanh niên mất tinh thần. Chị em tôi xung phong nhận liền. Đưa súng đây!

   - Còn lâu. Mai bọn này đánh long trời lở đất, mời quốc gia ăn kẹo đồng. Hễ đoàn quân búi tóc không dám đấu tranh thì...

   - Thì các anh ra níu kéo lính đồn được không? Phụ nữ đánh giặc được, biểu tình được, binh vận được. Thanh niên chỉ được cái vác súng đi nghêu ngao. Thua chưa, ê ê thua chưa?

   Các cô cười khúc khích, đi lượm hết những nắm chông bỏ rải rác xếp vào thúng đem về cắm thêm ngoài đường lớn. Anh em du kích vác đến những bó rơm khô sửa soạn đốt. Hết việc rồi. Bác Tám nhập vào đám đông, lầm lũi đi vào làng theo con đường ruộng trắng mờ, giẫm trên những đoạn mương đã lấp đất lổn nhổn. Đèn trong nhà bác còn cháy leo lét. Chắc vợ bác ngủ rồi, bốn ngày phơi nắng xây ấp đến sức bác còn đuối nữa là đàn bà. Bác đứng nán lại chỗ ngõ nhìn ra đồng, đợi nổi lửa.

   Tiếng loa đột ngột dội lên. Bác Tám nhận ra giọng anh Sảng người cùng xóm, tuy anh cố rặn ra giọng nói ồm ồm, nhân danh bộ đội giải phóng cấm đồng bào không được ra chữa cháy. Ngoài ruộng, mười bốn cái bật lửa cùng xòe một lần: Lửa bén rơm khô cháy lem lém, bốc rất mau. Mười bốn đống rào tre khô lẫn tre tươi, mỗi đống to bằng năm sáu cây rơm gộp lại, chỉ trong một phút đã cháy rừng rực. Bác Tám ngoảnh cổ vào nhà hét vợ:

   - Dậy báo động mau lên. Xách mõ xuống hầm mà đánh.

   Tre bắt đầu nổ, ban đầu từng tiếng lẻ tẻ, về sau dồn dập túi bụi như một trận đánh lớn dùng toàn súng trường và lựu đạn. Những bó đuốc khổng lồ bốc luồng lửa lên cao hơn hai ngọn tre, cột khói xoáy tròn thành cây nấm cao bốn năm chục thước, tàn lửa lấp lánh trong ánh đỏ bay thốc lên trời, đổ về phía đồn. Cánh đồng rộng không bị mấy lớp rào chắn ngang nữa bật sáng màu xanh tươi như phơi dưới nắng, trong khi trời đêm vẫn giăng màn đen kịt: một cảnh bình minh kỳ lạ. Bóng cây chạy dài trên mặt ruộng, quẫy như rắn. Những mái tóc dừa cau trên đầu bác Tám cũng chói rực lên, xao động. Tiếng chó sủa lạc giọng, gà tưởng mặt trời mọc nổi lên gáy, tiếng mõ nổi rân ran trong các thôn, tất cả bị chìm lấp trong tiếng tre nổ mỗi lúc một dữ dội. Bác Tám ngây người ra. Chưa bao giờ bác thấy cảnh gì hùng vĩ đến vậy. Chưa bao giờ bác sướng đến vậy. Bác muốn reo muốn hét muốn nhảy lên, muốn chạy ra tắm ánh lửa đốt rào, nhưng chỉ đứng cười lặng lẽ. Tiêu ấp chiến lược rồi. Tháo cũi sổ lồng rồi. Đố mày trói voi bỏ rọ được Mỹ - Diệm ơi!

   Các mái nhà lợp tôn trên đồn hiện ra trắng lấp lánh. Bác Tám không nghe tiếng súng máy nổ, chỉ thấy những đường lửa tua tủa vọt xuống chân đồn. Súng cối nữa. Tắc tắc pình pình, đạn bùng trắng lóa phía bên kia đồn, chỗ sườn đồi khuất tối. Ra nó sợ Quân giải phóng đánh đồn, đốt rào cho sáng dễ bắn. Các đồn xa cũng bắt đầu rống ằng ặc. Một vầng sáng đỏ lừ vừa nổi lên phía xã dưới. Mé sau dẫy đồi, một quầng sáng nữa hưng hửng. Vậy ta đốt khắp nơi à? Bác Tám bật cười ra tiếng. Ánh lửa soi rõ nụ cười trên khuôn mặt khắc khổ, lâu lắm bác mới được một lần cười vui. Chung quanh bác, vô số mặt trời nhỏ đang mọc trong đêm đen của miền Nam trước khi rạng đông bùng lên hẳn.

   Bác Tám chợt nghe một tiếng xé vải đâu đó. Chớp lòe trước mắt bác, đất nảy mạnh hất bác ngã nhào. Chúng nó bắn vào làng sáu quả cối 81 liên tiếp rồi ngừng. Bà con xúm khiêng bác vào nhà. Anh y tá của bộ đội giải phóng tới băng hai vết thương nhẹ trên vai và đùi bác, hẹn đến sáng sẽ cho khiêng về bệnh xá huyện.

   Vợ bác lại ngồi bên giường kể lể suốt nửa giờ liền:

   - Đau ốm không chịu phận đau ốm còn ra chỗ bom đạn, trời ơi là trời! Tánh nết gì tức ói vậy chớ, chẳng đời nào nghe ai một câu. Qua được lần này nữa tôi mới nói cho, cứ làm hùng làm hổ một mình rồi hết bệnh đến bị thương, để khổ cho vợ con…

   Bác Tám từ nãy vẫn mở mắt nằm im, nghĩ cái gì lung lắm, khuôn mặt lì lì không động, chỉ một mạch máu đập nhấp nhô chỗ mang tai, dưới mái tóc hoa râm. Đến giờ bác quay đầu nhìn vợ, “hừ” một tiếng trọng mũi. Vợ bác im xo lảng đi. Bác gọi con trai tới dặn:

   - Mày báo cáo với các ảnh, đừng đem tao về bệnh xá, tốn cơm tốn thuốc Cách mạng. Mai sớm mày kêu đồng bào xúm khiêng tao xuống đồn bắt nó bồi thường, cùng lắm cũng bắt nó chữa. Nó không nhận cũng cứ ném ào tao lại đó, chớ dại khiêng về nghe. Còn gì nữa cứ để tao đối đáp với nó cho. Tháo hết băng bó của anh em ra cho khỏi lộ.

   Thấy vợ lau mắt xì mũi liên tiếp, bác lại gắt:

   - Lè nhè hoài, tao còn sống đã đòi làm đám hả? Cái quân giặc chỉ có đập vô mặt nó, bộ khóc lóc mà nó thương mình sao… Hừ, mạng tao dai như đỉa, bao nhiêu thứ giặc tao còn qua được, dễ gì bọn nó ăn được tao mà khóc!

8-1962

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #18 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:54:12 pm »

HAI ANH EM

   Đến bốn giờ sáng cái lô cốt cố thủ ở góc đồn vẫn quét đại liên ra, từng chùm đạn lằng nhằng vạch những nan quạt lửa xòe rộng trên đầu xung kích. Những bóng mũ chỏm tròn nhô lên lại thụp xuống, đạn tốc tốc cào đất rạch tường vôi sát bên cạnh. Tiếng loa binh vận bị súng địch cắt vụn : “Anh em binh sĩĩĩ… súng xuống ra hàng sẽ…. chỉ huy ngoan cố…”. Nhiều người gọi hối hả trong các góc tối:

   - Tập trung lựu đạn mau. Chậm như rùa!

   - Báo cáo, trung liên bị nghẹt.

   - Cam đâu? Đồng chí Cam!

   Cam nhổm đít, xách khẩu Lơben dài thòng chạy tới chỗ tiểu đội trưởng Lục. Một loạt tiểu liên rắc rắc vãi tới. Lục túm vai Cam kéo ngã sấp xuống, vừa kịp tránh đạn. Cả tiểu đội dồn sau bức tường gạch, thở hồng hộc.

   - Dại quá, sao không bò thấp xuống?

   - Dạ tôi quên.

   - Mìn nổ thì xung phong liền, Cam hử.

   - Dạ.

   - Rõ, chứ dạ cái gì.

   - Rõ.

   Cam vừa thở vừa lắp thêm đạn vào súng, sờ ngón tay xem đầu nòng có bị nhét đất không, rồi bò ra góc tường chọn chỗ nằm bắn. Cam mới ở vùng sâu lên chiến khu vào Quân giải phóng được hai tháng, không ngờ đánh nhau lần đầu lại gặp một trận công đồn lớn thế này. Lúc mới vào bố trí ngoài rào thép gai, trống ngực Cam đập dữ, đến nỗi Lục phải vỗ lưng nói nhỏ: “Đừng sợ, dũng cảm lên em”. Thực tình Cam không sợ chết, chỉ hồi hộp ngứa ngáy thế nào, bụng mót đái, tay chân cứ giậm giựt, thỉnh thoảng rùng mình một cái. Quả bộc phá đầu tiên nổ xong Cam trở lại bình tĩnh ngay, cứ bám theo Lục, anh nằm bắn thì Cam nằm bắn, anh xung phong thì Cam chạy theo cái bóng mũ sùm sụp cài mẩu vỏ cây mục lập lòe đằng trước là tránh được chông, thép gai, đạn địch đạn ta bắn xối xả.

   Một vầng trắng lóa bùng lên, đất quẫy dưới ngực Cam, tiếng nổ muốn bưng cái đầu, mấy mảnh đá vụn quất trên vai Cam xé toang một mảnh áo lụa. Anh Lục hét, nghe tiếng nhỏ tí:

   - Xung phooong!

   Cam xách súng chồm lên trong khói, tai ù loạn xạ như cả bầy ong rúc vào trong. Mấy cái bóng lảo đảo đi ra, giơ hai tay. Cam co tay trái định cho một đấm, nhưng nén được, chỉ chửi: “Mẹ cha ba thằng ngoan cố.” Tiếng Lục reo hò trong lô cốt:

   - Thằng Mỹ chết nhăn răng bay ơi! Sĩ quan nó dồn cục trong này, hèn gì không chịu hàng ngay.

   Bốn người túm bốn góc tấm vải bạt khiêng ra khỏi lô cốt một cái xác. Trong ánh sáng đùng đục như nước gạo, Cam thấy một thằng Mỹ cởi trần, mặc quần sáu túi, đi chân không, nằm ngoẹo đầu. Cam nhìn rướn theo, trong cái tò mò còn điểm một chút sợ sệt từ dưới vùng địch mang lên chưa gột hết. “À, lông xoắn nó mọc đen thui cả ngực cả bụng. Nó nằm trông ngắn hơn khi nó đứng”. Cam nghỉ qua loa vậy rồi đi coi cái đồn mới làm chủ, quên khuấy luôn thằng Mỹ đã chống cự đến cùng. Cam qua lại lăng xăng, cười hì hì một mình, tống một báng súng giữa cái mặt thằng Diệm lồng kính, nhảy lên ô tô ngồi chỗ lái nhún mấy cái, xỏ chân vào đôi giày da kéo lệt sệt vài bước rồi bĩu môi đá vung mỗi nơi một chiếc. Lục ở đâu nhô ra, cau mày:

   - Đừng lấy tầm bậy, kỷ luật chiến lợi phẩm đâu? Cầm cây garăng với nịt đạn đây, bỏ khẩu sào vịt vô đống cho dân công mang đi. Ưng bụng chưa hả chú em?

   Cam chụp lấy khẩu trường Mỹ tự động như sợ ai giành mất. Đang lúi húi thắt nịt đạn vào mình, Cam nghe gọi nhỏ:

   - Anh Tý!

   Cam sửng sốt quay lại. Ai kêu đúng tên Cam ở nhà mà giọng thật quen. Anh em Giải phóng vẫn qua lại nhốn nháo, có ai đâu. Cái nịt đạn rộng quá, phải rút bớt vài nấc đã... Cam cúi xuống sửa nịt, lại nghe:

   - Em ở đây nè, anh!

   Sau cái xe commăngca có tiếng sột soạt. Một cái đầu bù thò ra, tới một cổ áo xanh xám vấy máu. Cam lên đạn một tiếng xoảng, chĩa súng nạt:

   - A, thằng này núp chống cự. Ra hàng mau! Lì sớm chưa!

   - Dạ em ra, em ra.

   - Em em gì, đồ ngoan cố!

   - Lạy anh đừng bắn. Khoan! Sửu đây, anh đừng bắn.

   - Ủa, thằng Sửu!

   Tên lính cộng hòa đứng trước mặt Cam, máu mũi chảy nhỏ giọt xuống ngực, hai tay lẩy bẩy cố giơ thật cao như tập thể dục, chính là thằng Sửu em ruột Cam. Khi ở nhà ai cũng nói hai anh em giống nhau như lột, cũng thân hình gầy dong dỏng, đôi tai xòe to, cái mũi hếch, như cùng đúc một khuôn. Các ông già bà lão gọi lầm hai đứa với nhau mãi...

   Sửu trố mắt nhìn anh nó đội mũ vải chỏm tròn, mặc bộ bà ba đen rách hở vai, đeo cái nịt đạn Mỹ rộng quá thòng gần đến háng, đang đứng sững chĩa súng vào ngực nó, lắp bắp:

   - Mày... mày bị thương à?

   - Dạ không. Bị hơi nổ tức ngực sơ sơ.

   - Ngồi xuống đó. À khoan, để tao trói đã.

   Sửu co ro ngồi xuống góc cột, đưa ống tay áo quệt máu mũi, rồi gục mặt khóc òa lên, hai vai rung mạnh theo tiếng nấc. Đang tháo cuộn dây dừa, Cam ngừng tay chớp chớp mắt, gắt:

   - Khóc cái gì, im, làm như đòi mẹ vậy nữa! Sao bây giờ mới ra?

   - Dạ... khi nãy tối quá... em... em sợ các ảnh bắn lầm.

   - Biểu đừng khóc mà lại! Ra chỗ tù binh kia, nghe giải thích rồi thả cho về, không đánh không giết đâu mà sợ. Nè, ba má ra sao?

   - Họ bắt dỡ nhà vô ấp chiến lược gần chợ rồi anh à. Anh đi được hai ngày, họ đưa giấy...

   - Thôi, để đó đã.

   Cam bối rối bỏ đi nơi khác, tay vẫn nắm một đầu dây kéo lòng thòng sau lưng mà không biết. Lúc này không tiện nói nhiều. Một đằng nó là tù binh không thể chuyện trò vui vẻ được, một đằng nó lại là em mình. Cam hiểu bụng nó lắm, nhưng dịu ngọt thì khó coi, trói nó lại không nỡ, thôi để anh em khác nói chuyện với nó. Tay Cam khuân từng thùng đạn từng bó súng mà bụng nghĩ linh tinh chẳng ra đầu ra đũa gì, khi thấy nực cười, khi lại nao nao muốn chảy nước mắt. Đáng lẽ Tý và Sửu cùng phải đi quân dịch một lần, nhưng gia đình giằng co kêu xin hoãn dịch, sau xã bắt hai đứa phải đi một, đứa nào tùy ý Sửu chịu đi, để anh ở nhà tìm liên lạc với Cách mạng rồi cùng trốn. Cam bắt mối được gửi mấy lá thư báo nhà cháy, ba sắp chết, má ốm nặng nhưng mãi không thấy em trả lời. Để lâu sợ lộ, nhân gặp chuyến rút thanh niên Cam phải nhảy trước. Ai ngờ hôm nay em cầm súng bắn anh, anh bắt trói em như vầy. Mặt Cam bốc nóng hừng hực. Phải lúc đang xung phong thì cứ báng súng bửa đầu bọn chỉ huy ác ôn. Bây giờ Cam chỉ biết chửi một câu quen miệng: “Mẹ cha cái bọn ngoan cố!”.

   Cam giở gói cơm nắm ăn vài miếng đỡ đói, bỗng đứng ngây ra: “Thằng Sửu có bắn anh em mình không hè? Hai người hi sinh, năm sáu người trúng đạn bị thương nặng nhẹ khi đánh đồn, có viên đạn nào của thằng Sửu không? Phải hỏi cho ra lẽ. Nếu nó bắn thì... thì...”. Cam nuốt vội miếng cơm, xăm xăm đi ra khỏi kho đạn. Rồi đột ngột tất cả những buồn giận thương tủi cùng đổ dồn đến một lần, mắt Cam ướt nhòa không thấy gì nữa. Cam bước nép vào bên cửa nhà kho vắng, khóc thút thít một hồi mới nhẹ người, cố khóc thật khẽ để anh em qua lại không nghe tiếng.

   Đợi hai mắt ráo hẳn, Cam mới trở lại chỗ nhà chứa xe. Sửu còn ngồi yên dựa cột nhìn anh em Giải phóng đang hì hục lắp cái lốp mới vào xe commăngca, như đứa trẻ ưa coi người lớn làm việc. Cam phát cáu:

   - Sửu, ra tập trung với tù binh mau. Nói không nghe hả, có phải ở nhà đâu mà... Đi đi!

   Sửu ngẩng đầu, máu khô dính loang lổ trên cái má tròn. Nó rụt rè:

   - Anh cho em theo với. Em thưa với cấp chỉ huy rồi.

   - Gì nữa?

   Sửu nói hấp tấp như sợ bị lôi đi nửa chừng:

   - Anh cho em theo Cộng... theo Cách mạng với. Em theo liền, đi đánh giặc lập tức đây nè. Cực lắm, nhục nhã lắm, anh không tin nữa thì em liều mạng, anh bắn thì bắn. Bao lần tìm đường nhảy, mà không nhảy được. Mà cũng tại anh nữa chớ, hẹn bắt liên lạc rồi đi với nhau, anh lại không đợi. Anh lo được phần anh, anh bỏ anh đi một mình…

   - Tại mày còn đổ tại ai? Tao viết bốn lá thư liền, bày đặt đủ chuyện để mày đòi về phép sao mày không về? Đúng địa chỉ mày KBC 4352, quân số mày 297.508 chớ trật à?

   Sửu cũng nổi nóng cự lại:

   - Thì nó có phát thư cho đâu. Xé đốt sạch trơn từ trên sư đoàn. Phải như anh chịu khó tới tận nơi mà nói, hay tìm người gởi thơ tay thì đến nỗi gì?

   Cam ngớ ra, không cãi được nữa. Tiểu đội trưởng Lục đến sau Cam lúc nào, cất giọng ồm ồm:

   - À, thằng nhỏ xin vô Giải phóng còn đây. Đồng chí Cam quen nó à?

   - Thằng Sửu đó anh à, thằng em tôi kể chuyện bữa trước đó.

   - Ủa... mà thiệt, hai đứa ngó như đẻ sanh đôi. Khi nãy đại đội hỏi kỹ rồi, đợi thử trên quyết định ra sao. Dẫn nó ra rửa mặt đi, nhớ giáo dục chút hử.

   
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #19 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:55:28 pm »

Cam xách súng dẫn em ra thùng nước sau bếp, cởi bọc đeo lưng lấy cho nó cái sơmi vải rằn ở nhà mang theo hồi trước hai đứa vẫn mặc chung. Cam định hỏi xem cô Liễu xóm trên đã nhận trầu cau nhà ai chưa, nhưng thấy không phải lúc nên quay sang kể cho Sửu nghe chuyện mình. Chợt nhớ ra, Cam nghiêm giọng hỏi:

   - Hồi đêm mày có bắn không?

   - Có.

   - Sao lại bắn hử? Bắn trúng ai?

   - Em gác xe, đang ngồi ngủ thì nghe một cái rầm ngoài rào. Em rúc xuống dưới xe nằm một chặp rồi mới nhớ, em bắn hai phát vô bánh xe cho xì hết hơi. Sợ thằng Mỹ lên xe chạy mất uổng. Khi nãy em báo cáo, ông chỉ huy của anh vô coi lốp xe, tháo khẩu garăng ra đếm đạn nữa, ông gật đầu ừ ừ trong miệng.

   - À, ra vậy. Cũng khá.

   Cam hí hửng như chính mình đã bày cho em phá xe Mỹ. Vậy chắc ăn quá rồi, anh em nhất định được ở chung đơn vị. Cam dặn nhỏ em:

   - Anh Lục giỏi lắm, hay thương bọn trẻ mình. Có điều mày ở với tao phải giữ gìn, đừng kêu Cách mạng là Cộng sản cộng phỉ, Mỹ - Diệm là quốc gia, anh em người ta cười. Mà ai dặn cái gì cũng đừng dạ, cứ “rõ” một tiếng thiệt to hử. Mày “rõ” thử tao nghe... ừ, vậy đó. Chải đầu cho gọn cái đã.

   Cam hăm hở dẫn em vào sân đồn, coi như một chiến sĩ mới trong tiểu đội rồi. Tiểu đội trưởng Lục đứng đợi sẵn một tay cầm bao gạo nhỏ, tay kia xách khẩu cácbin. Cam mở to mắt, nghĩ: “Chà, sang quá, thằng Sửu được phát cácbin kia à. Các ảnh thương nó nhỏ...”. Lục khịt mũi lúng túng, khoác dây súng lên vai mình, nói mấy câu khiến Cam ngẩn người:

   - Nè em nhớ... trước sau gì em cũng theo đằng mình, đừng ngại hử. Trên giải quyết bây giờ em đi học đã. Không, không, không phải cái kiểu học tố Cộng đâu, việc gì xanh mặt đi vậy. Học vài ngày cho biết địch biết ta rồi mới làm Cách mạng được chớ. Còn bốn năm người xin nhập ngũ như em cũng cho đi học hết, xong rồi ai muốn về thì về, ai theo Cách mạng thì giả đò giữ lại điều tra thêm. Làm vậy nó khỏi khủng bố gia đình, em hiểu chưa? Thôi, gạo đây, lấy gói áo quần rồi ra trước cổng, họ đang đợi kìa.

   Sửu không nói gì, xách bao gạo và ôm gói áo quần lủi thủi đến chỗ hơn trăm tù binh đang xếp hàng trên góc sân bay. Cam đứng sững nhìn theo em. Nắng sớm chiếu le lói trên lưng nó, nó mặc sơmi trông càng mảnh khảnh, nhỏ hẳn lại. Nó mới mười tám tuổi đầu...

   Một chiếc bà già quần vè vè xuống thấp dần, nghiêng nghé dòm, sắp gọi tới cả bầy khu trục và ném bom. Sáu khẩu 105 ly nổ ì ùm suốt đêm, ngừng vài tiếng lúc mờ sáng, giờ lại giã gần hơn, dựng những cột khói trắng bên cạnh những đống lửa đốt rào ấp chiến lược còn cháy rần rật dưới xóm. Chiếc xe commăngca và ba chiếc GMC chở súng đạn giấy tờ chất đống, lắc lư nghiến bẹp những chai lọ và thùng rỗng vất ngổn ngang trên sân đồn, bóp còi pin pin bò ra cổng.

   Cam đứng né sang bên rào cho xe đi, tiện tay bẻ mấy cành lá ngụy trang thêm, rồi lẳng lặng bước theo tiểu đội trưởng Lục xuống đường lớn tập hợp. Phải đi đánh viện gấp, nó lên ba tiểu đoàn, mấy chục thằng Mỹ chỉ huy, có thể thêm một tiểu đoàn đổ bộ bằng trực thăng. Hôm nay Cam chiến đấu không có Sửu. Mai kia nó sẽ vác súng đi bên Cam, nhưng giờ đây em Cam còn là tù binh, là thằng lính địch bị ta bắt sống sau trận công đồn ác liệt... Cam vững hơn rồi, không chảy nước mắt nữa, nhưng trong tim Cam vẫn rơi rơi hoài những giọt chì nấu lỏng. Ai gói đứa em tội nghiệp của Cam vào bộ áo quần Mỹ; bắt nó bắn lại Cam? Mỹ, Mỹ nữa, đâu cũng Mỹ, cái gì cũng Mỹ trong cái đồn ghê tởm này. Một tấm lưới Mỹ đang bọc kín anh em Cam suốt bảy tám năm nay, cuốn dần vào chỗ chết. Cam thoát ra ngoài, nay đến em Cam lọt lưới theo, còn bao nhiêu bạn cùng lứa tuổi với anh em Cam đang giãy giụa trong đó! Bao nhiêu người đau khổ vì đế quốc Mỹ trên trái đất này đang lắng nghe tiếng súng thắng trận của Cách mạng miền Nam ta!

   Trong một loáng Cam vụt cảm thấy hết sự hung ác của bọn đế quốc giấu tay lẩn mặt. Những bài học và những chuyện mắt thấy tai nghe về đế quốc Mỹ đột ngột ngấm sâu vào lòng Cam cùng một lần sau cuộc gặp gỡ éo le sáng nay, cũng như một ánh chớp trong đêm vừa soi bật lên bộ mặt trừng trợn của con cọp tô vẽ trước cổng đình mà hằng ngày Cam chăn trâu thường nhìn nhưng chưa xem kỹ. Cam sẽ bắn nát đầu con cọp Mỹ. Cam còn lờ mờ thấy thêm rằng mười mấy phát súng đầu tiên trong đời Cam nổ vào kẻ thù đêm qua còn mang những ý nghĩa nào đó rất cao rất đẹp mà bây giờ Cam chưa hiểu hết nhưng chắc chắn ngày sau Cam sẽ hiểu dần, khi tay đã chai và tuổi đã chín trong chiến đấu.

   Đầu ngửng cao trong ánh nắng, đôi mắt nghiêm và nặng trĩu suy nghĩ, Cam vác súng đi theo tiểu đội trưởng Lục về phía quân địch mạnh gấp mười lần đang ồ ạt tràn tới.

9 - 1972





Hết
Logged
Trang: « 1 2   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM