Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:27:28 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa  (Đọc 72330 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 25 Tháng Mười Hai, 2009, 11:13:23 pm »



Tên sách: Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Tác giả: Lưu Văn Lợi
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 1995
Số hoá: ptlinh, chuongxedap


LỜI NÓI ĐẦU

Từ Hội nghị các ngoại trưởng Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) tại Manila tháng 7 năm 1992 đến Hội nghị SEAPOL ba khu vực tại Bangkok tháng 12 năm 1994, các đại biểu đều lo lắng về tình hình an ninh của Biển Đông và trao đổi ý kiến về sự hợp tác trong khu vực.

Trong khu vực này có hai vấn đề lớn nổi lên: vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và vấn đề hợp tác trước hết là về khai thác tài nguyên. Các đại biểu đều cho rằng nếu không giải quyết được vấn để chủ quyền thì khó mà giải quyết được vấn đề hợp tác khai thác tài nguyên. Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền, phức tạp là vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Ba năm lại đây, cùng với việc giải quyết vấn đề Campuchia, việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một nhân tố ổn định quan trọng đối với Đông Nam Á. Việt Nam không chỉ mở rộng quan hệ với các thành viên của ASEAN mà Việt Nam đã trở thành quan sát viên của ASEAN, vấn đề trở thành thành viên chính thức của ASEAN chỉ còn là vấn đề thời gian, vì điều kiện đã chín muồi.

Giữa Việt Nam và Trung Quốc quan hệ các mặt đang phát triển, đang có những cố gắng từ cả hai phía để giảm bớt bất đồng, từng nước giải quyết các tranh chấp giữa hai nước. Vì lợi ích của hai nước, nên và cần tính việc giải quyết cuộc tranh chấp về hai quan đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong bồi cảnh thuận lợi đó, Nhà xuất bản CÔNG AN NHÂN DÂN trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn “CUỘC TRANH CHẤP VIỆT - TRUNG VỀ HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA” của ông Lưu Văn Lợi, một nhà nghiên cứu quen thuộc. Trên cơ sở những tài liệu tịch sử vững chắc, xuất phát từ những tiêu chuẩn được chấp nhận của luật pháp quốc tế, tác giả đã bình tĩnh, khách quan phân tích lập trường của cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc để đánh giá khả năng, phương hướng giải quyết vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa.

Chúng tổi hy vọng cuốn sách sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa vì lợi ích của hai nước Việt - Trung, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á.

NHÀ XUẤT BẢN
CÔNG AN NHÂN DÂN
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Mười, 2020, 06:32:59 am gửi bởi Giangtvx » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2009, 04:40:57 pm »


CHƯƠNG I
DANH NGHĨA LỊCH SỬ CỦA
TRUNG QUỐC VỀ TÂY SA VÀ NAM SA
1


Trong văn kiện ngày 30 tháng Giêng năm 1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nêu một số tài liệu cổ để chứng minh Tây Sa, Nam Sa từ lâu đã là lãnh thổ Trung Quốc.

Năm 1988, một nhóm nhà nghiên cứu Trung Quốc do ông Hàn Chấn Hoa chủ trì đã xuất bản cuốn Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hội biên tổng hợp những sử liệu cổ về Tây Sa, Nam sa. Đây là kết quả sự hợp tác của hơn hai mươi cơ quan, đơn vị nghiên cứu, học viện, trường đại học, thư viện, bảo tàng quốc gia và bảo tàng địa phương, các cơ quan hành chính Hải Nam, tham khảo, thu thập và trích dẫn tới 17.000 điển trong sách báo, tài liệu Trung Quốc và nước ngoài. Gần đây lại rộ lên một loạt bài mới của nhiều tác giả Trung Quốc về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa.

Từ ông Hàn đến các tác giả khác đều dùng tư liệu cổ để chứng minh Tây Sa, Nam Sa từ lâu đã là của Trung Quốc.

Cơ sở lập luận của Trung Quốc về danh nghĩa lịch sử của họ trong vấn đề Tây Sa và Nam Sa là nhưng sử liệu cổ từ đời Tam Quốc (220 - 265) đến đời Thanh (1644 -1911), chủ yếu là những tài liệu sau đây:

- Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn đời Tam Quốc nói về những điều lạ của các xứ phương Nam

- Phù Nam truyện của Khang Thái đời Tam Quốc nói về việc ông đi sứ Chân Lạp.

- Dị Vật chí của Dương Phù đời Đông Hán (25 – 220) nói về những điều lạ (cũng là ở ngoài nước).

- Vũ Kinh Tổng yếu do Tăng Công Lương, Đinh Độ đời Tống soạn, được Tống Nhân Tổng đề tựa.

- Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi đời Tống (1178); chủ yếu chép về các nước vùng Đông Nam Á. Trong đoạn Giao Chỉ dương (biển Giao Chỉ, tên cổ của Việt Nam) có nói đến Trường Sa và Thạch Đường.

- Chư Phiên chí của Triệu Nhữ Quát, đời Tống (1225), mô tả về nước ngoài. Có đoạn nói đến Thiên lý Trường Sa, Vạn lý Thạch Đường như phương vị để định vị đảo Hải Nam như Chiêm Thành, Chân Lạp.

- Đảo Di chí lược của Vương Đại Uyên đời Nguyên (1349) mô tả địa thế, khí hậu, sản vật, phong tục của hàng trăm nước ngoài Trung Quốc. Vạn lý Thạch Đường được chép thành mục riêng như các nước khác.

- Đông Tây Dương Khảo (1618) của Trương Nhiếp và Vũ Bị chí (1628) của Mao Nguyên Nghĩ nói về con đường từ Trung Quốc đi Ấn Độ Dương.

- Hải Quốc văn kiến lục của Trần Luân Quýnh đời Thanh ghi chép những điều tai nghe mắt thấy về nước ngoài từ Đông Á, Đông Nam Á đến Tây Âu. Vạn lý Trường Sa, Thiên lý Thạch Đường được nói tới trong đoạn nói về Việt Nam trên tuyến đường từ Hạ Môn đi Quảng Nam (Việt Nam).

- Hải Lục của Dương Bính Nam đời Thanh (1820) chép về 99 nước và khu vực trên thế giới thời đó, kể cả một số nước Châu Âu, Châu Mỹ. Vạn lý Trường Sa, Thiên lý Thạch Đường được nói đến trong đoạn chép về Java. Bản đồ bán cầu đính theo ghi Trường Sa, Thạch Đường ở khu vực Đông Nam Á.

- Hải quốc Đồ chí của Ngụy Nguyên đời Thanh (1848) ghi chép về nước ngoài và những việc liên quan đến nghề hàng hải.

- Doanh Hoàn chí lược của Bành Ôn Chương đời Thanh (1848) chép về địa lý thế giới. Trường Sa, Thạch Đường không vẽ vào bản đồ Trung Quốc (Hoàng Thanh nhất thống dư địa đồ) mà vẽ vào vùng Đông Nam Á (Nam Dương các đảo đồ).
______________________________________
1. Tức là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, theo cách gọi của Trung Quốc.
    Chương này viết theo tài liệu nghiên cứu nhan đề “Về bằng chứng lịch sử của Trung Quốc đối với hai quần đảo ở Biển Đông”, do đồng chí Phạm Kim Hùng, chuyên viên cao cấp Bộ Ngoại giao biên soạn tháng 12 năm 1993. Phụ lục bằng Trung văn cũng do đồng chí Kim Hùng cung cấp.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2009, 04:41:41 pm »


Nếu kể thêm các sách trích dẫn thì tới hàng trăm cuốn. Số sách từ đời Tống về sau nhiều hơn sách đời trước. Không có cuốn nào nói trực tiếp đến Tây Sa, Nam Sa, không có cuốn nào nói Trung Quốc có chủ quyền các đảo thuộc Tây Sa, Nam Sa. Một số sách nói đến những địa danh như Thiên lý Trường Sa, Vạn lý Thạch Đường, Thiên lý Thạch Đường, Cửu Nhũ Loa Châu mà tác giả suy diễn hoặc giả thiết là chỉ Tây Sa, Nam Sa.

Các sách được nêu chủ yếu là loại sách địa chí và hàng hải liên quan các nước ngoài Trung Quốc. Một vài cuốn nói về hoạt động của ngư dân Trung Quốc ngoài biển. Có vài cuốn do những người thật sự đi biển viết hoặc kể lại như: Tinh Sai thắng lãm của Phí Tín, Doanh Nhai thắng lãm của Mã Hoan, hai người đã đi theo Trịnh Hòa “Hạ Tây Dương”. Hải Lục do Dương Bính Nam đời Thanh ghi theo lời kể của Tạ Thanh Cao (1765-1821), một thủy thủ Trung Quốc đã làm việc nhiều năm trên các tầu nước ngoài và thông thạo các đường biển ông đã đi qua và các nước vùng Đông Nam Á. Có vài cuốn do những người đi sứ ở vùng Đông Nam Á viết như Phù Nam truyện của sứ giả nhà Ngô là Khang Thái đi Phù Nam, Chân Lạp phong thổ ký của sứ giả Chu Đạt quan nhà Nguyên ghi chép tuyến đường biển từ Ôn Châu sang Chân Lạp, Hải Quốc Quảng ký của Thận Phàn thường chép hành trình Ngô Huệ đời Minh đi sứ Chiêm Thành, Tùy Thư chép việc Thường Tuấn, sứ giả nhà Tùy, đi qua Biển Đông. Các cuốn khác đều do những người không thật sự qua Biển Đông nhưng đã ghi chép theo những điều “văn kiến” (nghe và thấy). Loại sách này được soạn ra theo phương pháp của tác giả Trương Nhiếp khi viết Đông Tây Dương Khảo: hỏi những người từ phương xa tới (thủy thủ, lữ khách) gặp ở bến cảng.

Các tác giả Trung Quốc khi nghiên cứu phải nghiên cứu tất cả các sách ít nhiều liên quan đến Tây Sa, Nam Sa là tất nhiên, nhưng là nhà khoa học họ còn phải thấy mặt hạn chế của các sử liệu đó và loại bỏ những điều không đúng. Rất tiếc rằng hình như họ trích dẫn tất cả cái gì tìm được và trong khá nhiều trường hợp họ đã tùy tiện suy diễn, sắp xếp lại. Thí dụ Phù Nam truyện chỉ viết: “Trong Trướng hải có bãi san hô, dưới bãi là đá tảng san hô mọc trên đó”, nhưng ông Hàn Chấn Hoa chú giải đây là quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Dị Vật Chí chỉ ghi: “Kỳ đầu Trướng Hải nước nông, có nhiều từ thạch, thuyền lớn nước ngoài đóng đai sắt không qua được” nhưng ông Hàn cho rằng Trướng hải là biển Nam Trung Hoa “gồm các đảo Nam Hải” (Biển Nam Trung Hoa rộng hơn 3.400.000 km2, Trướng Hải là toàn bộ biển đó hay một vùng nào của biển đó?) và Kỳ đầu (đá ngầm) là “đá ngầm của các đảo Nam Hải”. Nam Duệ di vật chí viết thế kỷ thứ nhất chỉ nói đến việc ngư dân Trung Quốc bắt được rùa biển, đồi mồi, Hoàng Châu ký chỉ nói “người xưa bắt cá trong biển được san hô” nhưng ông Phan Thạch Anh lại kết luận là người Trung Quốc đã “khai phá và kinh doanh sớm nhất” các đảo Nam Hải, tuy rằng hai cuốn sách đó chỉ nói biển chung chung mà không nói rõ biển nào. Đông Tây Dương khảo viết Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo cách huyện Văn Xương 100 dặm (50 km). Nhưng người ta lại khẳng định đó là vùng biển Tây Sa (cách đó mấy trăm km). Chư Phiên chí chỉ viết: “Hải Nam là Châu Nhai, Đảm Nhĩ đời Hán” nhưng ông Hàn lại chú giải “chỉ đảo Hải Nam ngày nay và các đảo tùy thuộc của các đảo Nam Hải” để cố gắn với Tây Sa, Nam Sa. Vũ Kinh tổng yếu nói về Quảng Nam Đông lộ (Quảng Đông ngày nay) có một đoạn nói về việc vua Tống đặt dinh lũy thủy quân tuần tiễu và một đoạn khác nói về tuyến đường biển từ Quảng Châu đến Ấn Độ, nhưng Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại gắn hai đoạn làm một để kết luận rằng thủy quân Trung Quốc thời đó đã đi “tuần biển Tây Sa”. Tuyền Châu phủ chí chép chuyện tướng Ngô Thăng “từ Quỳnh Nhai qua Đồng Cỏ, Thất Châu Dương, Tứ Cánh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm, đích thân đi tuần”, căn cứ các địa danh thì đây là đi tuần quanh đảo Hải Nam nhưng Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại kết luận là ông Ngô đã đi “tuần tiễu Tây Sa”.

Nhân một số sách cổ có nói đến Cửu Nhũ Loa Châu, Vạn lý Thạch Đường, Vạn lý Trường Sa, Thiên lý Thạch Đường, Thất Châu Dương, Thất Châu Sơn, họ cố giải thích Thất Châu Dương, Thất Châu Sơn là quần đảo Tây Sa, còn các địa danh khác là Đông Sa, Trung Sa, Nam Sa.

Địa danh Thất Châu Dương, Thất Châu Sơn thường được nhắc đến trong các lộ trình từ Nam Trung Quốc đi Việt Nam, Chiêm Thành rồi xuống phía Nam. Trong Hải ngũ, Hoàng Trung đời Minh (1536) nói rõ:

- “Vạn lý Thạch Đường nằm ở phía Đông hai biển Ô Trư và Độc Trư”. Ô Trư là hòn đảo phía Đông đảo Thượng Xuyên, Hạ Xuyên, huyện Vạn Ninh tỉnh Quảng Đông. Độc Trư là hòn đảo ở vùng biển Đông Nam đảo Hải Nam.

- “Vạn lý Trường Sa ở Đông Nam Vạn lý Thạch Đường, tức là bãi cát nổi của các nước Man Di phía Tây Nam”.

Theo tác giả Vạn lý Thạch Đường ở đây là những bãi cát dài của “các nước Man Di phía Tây Nam”. Ông Hàn đã bỏ mấy từ các nước Man Di và cho đây là Tây Sa và Trung Sa của Trung Quốc mặc dầu khi ông chú giải cuốn Đảo Di Chí lược của Vương Đại Uyên, ông đã nói Vạn lý Thạch Đường chỉ cả 4 quần đảo Đông, Tây, Trung và Nam Sa, khi ông chú giải cuốn Tổng Hội Yếu đời Tống ông đã cho Vạn lý Thạch Đường là quần đảo Trung Sa. Như vậy ngay ông Hàn cũng chưa rõ Vạn lý Thạch Đường là gì, là Trung Sa, là Tây Sa, là cả hai hay là cả bốn quần đảo? Ông Hàn đã tự mâu thuẫn với mình!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2009, 04:49:54 pm »


Cuốn Chỉ Nam Chính pháp soạn cuối đời Khang Hy đã viết: “Nếu quá Thất Châu, đi về phía Đông bẩy canh, thì thấy Vạn lý Trường Sa... cho thuyền đi một ngày thấy Ngoại La trước mặt. Về phía Đông bẩy canh đó là Vạn lý Thạch Đường...

Trung Hoa thư cục tại Bắc Kinh nam 1961, khi giới thiệu cuốn Thuận Phong tương tống và cuốn Chí Nam chính pháp có ghi:

“Vạn lý Thạch Đường: từ hải cảng Tân Châu của An Nam ra ngoài khơi cách đảo Hào bối 7 canh về phía Bắc hoặc từ Ngoại La đi về phía Đông, đều có thể đến được Vạn lý Thạch Đường tức là ở phía Đông Bắc Bình Định, Việt Nam ngày nay. Rất ngờ đó là Nam Bộ quần đảo Tây Sa ngày nay.

“Vạn lý Trường Sa: Ở Đông Nam đảo Hải Nam chỉ cách phía nam đảo Đại Châu có 7 canh, đó phải là Bắc Bộ quần đảo Tây Sa”.


Theo ông Phan Thạch Anh, triều Tống lấy các tên Thạch Đường, Thiên lý Thạch Đường, Vạn lý Thạch Đường để gọi quần đảo Nam Sa. Ông ta lại mâu thuẫn với ông Hàn.

Học giả Groenevelt dịch giả truyện Sử Bật, cho rằng Vạn lý Thạch Đường là bãi ngầm Macclesfield hiện nay còn chìm dưới nước mà Bắc Kinh gọi là quần đảo Trung Sa.

Thiên lý Thạch Đường, Vạn lý Thạch Đường, Vạn lý Trường Sa... là cái gì? Rõ ràng chưa đủ căn cứ khoa học để kết luận.

Còn Cửu Nhũ Loa Châu ở đâu?

Vũ Kinh Tổng yếu, trong khi ghi lộ trình biển từ Đồn Môn Sơn đến Ấn Độ, đã chỉ cụ thể: “Từ Đồn Môn Sơn dùng gió đông đi về phía Tây Nam 7 ngày đến Cửu Nhũ Loa Châu, ba ngày nữa đến Bất Lao Sơn…” Đồn Môn Sơn là Tây Bắc Cửu Long (Hồng Kông). Như thế là Cửu Nhũ Loa Châu nằm trên đường đi Bất Lao Sơn (tức cù lao Ré của Việt Nam) và từ Đồn Môn Sơn đi Bất Lao Sơn mất 10 ngày.

Trong Cổ kim đồ thư biên Chương Hoàng đời Minh nói đường từ Hương Sơn Quảng Đông sang Chiêm Thành, Xiêm, qua Thất Châu Dương, đến biển Việt Nam (Ngoại La Sơn) mất 10 ngày.

Trong Hoàng Hoa Tứ đạt chí, Giả Thẩm (730 - 805) đời Đường đã viết: “Từ Quảng Châu đi đường biển 200 dặm về phía Đông Nam đến Đồn Môn Sơn, dong buồm đi về phía Tây 2 ngày đến Cửu Loa Thạch, đi 2 ngày nữa đến Tượng Thạch, đi 3 ngày nữa về phía Tây Nam đến Chiêm Bất Lao Sơn...”. Tức là từ Quảng Châu đến Bất Lao Sơn mất 9 ngày. Nhìn lộ trình ven biển truyền thống của Trung Quốc, thì Cửu Loa Thạch ở đây là nhóm 7 đảo Thất Châu ở Đông Bắc đảo Hải Nam và Tượng Thạch là đảo Đại Châu ở Đông Nam đảo Hải Nam. Cửu Nhũ Loa Châu cách Bất Lao Sơn 3 ngày phải là một điểm giữa đảo Đại Châu và cù lao Ré (Bất Lao Sơn) của Việt Nam và trên con đường ven biển từ Hải Nam xuống phía Nam. Nếu Tượng Thạch là Tây Sa như ông Hàn chú giải thì không thể từ Đồn Môn Sơn đi Tây Sa trong 4 ngày được.

Theo Giả Thẩm (đời Đường), Tăng Công Lương (đời Tống), Mao Nguyên Nghi, Chương Hoàng, La Nhật Cảnh (đời Minh), Trần Luận Quýnh (đời Thanh) con đường ven biển xuống phía Nam từ Quảng Châu đi hoặc từ Triết Giang, Phúc Kiến đi vẫn là một: Đồn Môn Sơn, nhóm 7 đảo Thất Châu, đảo Đại Châu hay Độc Trử Sơn, cù lao Ré của Việt Nam, đảo Dương Dữ (tức cù lao Xanh của Việt Nam), Linh Sơn (tức Mũi Đại Lãnh của Việt Nam), Xích Khản Sơn (vùng Gò Đất Đỏ thuộc Bình Thuận), Côn Lôn Sơn (tức đảo Côn Lôn của Việt Nam), đảo Pulau Tioman (Đông bán đảo Mã Lai), Đông Trúc Sơn (trên đảo Pulau Aor ở Đông Bắc Singapore).

Thế Trịnh Hòa đi đường nào xuống Nam Dương, Tây Dương?

Theo Trương Nhiếp, tác giả cuốn Đông Tây Dương khảo, có hai con đường giao thông giữa Trung Quốc và Đông Nam Á: Đông Dương Châm lộ đi qua Moluca, Bornéo, Philippin và Đài Loan, còn Tây Dương Châm lộ đi theo duyên hải miền Trung Việt Nam, Mã Lai, Sumatra và Java. Trịnh Hòa đã tới được Tổ Lộc, Lũ Tống (Philippin), Bột Nê (Bornéo), chắc là theo Đông Dương Châm lộ. Còn Tây Dương Châm lộ là theo bờ biển Việt Nam, Chiêm Thành đi xuống. Bản đồ trong Vũ Bị chí của Mao Nguyên Nghi đã ghi rõ:

Qua Đông Trúc Sơn thuyền đi theo hướng Tý Sửu, rồi đơn quý, đến Côn Lôn Sơn ở phía ngoài. Từ phía ngoài Côn Lôn theo hướng Quý Sửu 15 canh thì đến Xích Khản Sơn, rồi theo hướng Sửu Cấn, rồi đơn Cấn. Từ Linh sơn theo hướng Nhâm tý, rồi đơn Nhâm 5 canh thì đến trước Dương Dữ, rồi Hảo Bối Sơn. Từ đảo Hảo Bối theo hướng Nhâm tý 7 canh thì đến đảo Ngoại La ở phía ngoài. Từ phía trong đảo Ngoại La theo hướng Quý Sửu rồi đơn quý 21 canh thì đến trước đảo Độc Trứ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2009, 04:50:21 pm »


Tóm lại, theo chính các sử liệu cổ mà Trung Quốc đã viện dẫn, người ta thấy:

1. Chỉ có khoảng một chục cuốn sách nói đến con đường biển từ Quảng Châu đi xuống nam Nam Hải hoặc đến các nơi gọi là Vạn lý Trường Sa, Thiên lý Thạch Đường v. v... Nhưng số sách trích dẫn không liên quan gì đến Tây Sa, Nam Sa và sự hiểu biết của nhân dân Trung Quốc về các quần đảo đó ít nhất cũng gấp 3, 4 lần. Người đọc không thể không đặt câu hỏi: Tại sao nêu nhiều sách không cần thiết thế? Phải chăng để cố tạo một bề dày lịch sử cho một vấn đề chưa đủ bằng chứng hay để làm rối vấn đề khiến người ngoại quốc không biết đâu là hư đâu là thực?

Vấn đề địa danh cổ của Tây Sa, Nam Sa không thể giải quyết bằng cách khẳng định không căn cứ hay suy diễn dễ dàng để sớm kết luận từ lâu đời người Trung Quốc đã biết đến những nơi ngày nay gọi là Tây Sa, Nam Sa và đã đặt tên cho từng đảo, bãi, có đảo mang tên vua quan Trung Quốc, có đảo mang tên tướng Trịnh Hòa hoặc tùy tướng của ông ta v.v... Nhưng nếu việc đặt tên có từ sớm thế, người ta không hiểu tại sao cho đến năm 1935, trên bản đồ của Trung Quốc những đảo, bãi chính hoặc mang tên quốc tế phiên âm (như Amphitrite là An-phi-thổ-lai-đức, Crescent là Khắc-lắc-sinh-đức, Lincoln là Lâm-khẳng, Pattle là Bát-đao-la, Đido là Đài Đô, Bombay là Mạnh Mãi, Triton là Thổ-lôi-đông, Duncan là Đăng Khánh...) hoặc dịch nghĩa của tên quốc tế (như North reef là Bắc Tiêu, Money là Kim Ngân, Antilope là Linh Dương, West island là đảo Tây Sa...). Thậm chí quần đảo Đông Sa cũng còn mang tên Pratas phiên âm. Ngay tên Nam Sa lúc đầu còn là quần đảo Nam Uy, rồi quần đảo Đoàn Sa...

2. Tất cả các tác giả đều cố khẳng định rằng Tây Sa, Nam Sa thuộc đảo Hải Nam để kết luận rằng cực Nam của Trung Quốc là hai quần đảo đó. Nhưng nhiều tài liệu lại nói ngược lại.

Trong cuốn Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư, biên soạn năm 1905, xuất bản năm 1906 đoạn tổng luận về Trung Quốc viết rõ ràng: “Phía Nam từ vĩ độ Bắc 18013’, tận cùng là bờ biển Nhai Châu đảo Hải Nam; phía Bắc đến vĩ độ Bắc 53050’, tận cùng là chỗ gặp nhau giữa sông Hắc Long Giang và sông U-xu-ri; phía Tây đến kinh tuyến 42011’, tận cùng là núi Tùng Lĩnh. Nam Bắc gồm hơn 36 vĩ độ, rộng hơn 7.100 dặm, Đông Tây gồm hơn 61 độ, dài hơn 8.800 dặm. Diện tích 32.605,156 dặm vuông, chiếm 1/4 châu Á, 1/10 lục địa thế giới, lớn hơn cả Châu Âu”. Điều đó hoàn toàn phù hợp với Hoàng Thanh trực tỉnh toàn đồ đời vua Đông Trị (1862), và Hoàng Thanh nhất thống dư địa tổng đồ đời Quang Tự (1894), những bản đồ chính thức, đều không vẽ các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Trong Quảng Đông dư địa đồ đời Quang Tự (1897), do Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuần đề tựa, có Quảng Đông toàn tỉnh dư địa tổng đồQuỳnh châu phủ đồ cũng không vẽ bất cứ quần đảo nào ở Biển Nam Hải, phù hợp với lời dẫn ghi giới hạn “cực Nam” của lãnh thổ Trung Quốc là “mũi núi ngoài cảng Du Lâm Nhai 1809’10’’.

3. Dù tài liệu trực tiếp nghèo nàn, người ta sẵn sàng tin rằng nhân dân Trung Quốc sớm biết có các đảo san hô trong Nam Hải vì từ lâu họ có nghề đi biển và đánh cá biển. Không có tài liệu nào nói họ đã chiếm hữu một đảo nào. Nhưng biết khác với chiếm hữu. Ai cũng hiểu chỉ có biết thôi không thể xác lập chủ quyền lãnh thổ. Cuộc tranh luận kéo dài về vấn đề quyền ưu tiên phát hiện, sự tranh giành Canada giữa Cabot, người đã đi dọc bờ biển xứ này, và Cartier, người đã thám hiểm xứ này, sự kình địch giữa người Pháp De Brazza và người Bỉ Stanley về Conggo, việc triệu tập Hội nghị Berlin năm 1885 để quy định các nguyên tắc về thể thức cho vấn đề chiếm hữu một đất vô chủ chứng tỏ chỉ phát hiện không chưa đủ, còn phải chiếm hữu và củng cố sự chiếm hữu đó bằng việc thật sự thực hiện các chức năng Nhà nước, liên tục và hòa bình.

Một phái đoàn thật sự của Nhà nước như phái đoàn của Thái giám Trịnh Hòa có danh nghĩa, có một hạm đội hùng mạnh, cũng không chiếm hữu bất kỳ đảo nào trong biển Đông cũng như trong Ấn Độ Dương, nói gì đến những người đánh cá Hải Nam cách đây 2000 năm chỉ có thể ra biển cả trong những tháng không có giống tố, càng khó có điều kiện với tới quần đảo Nam Sa cách Hải Nam hơn 1.000 km. Sự thật là đến đời Bắc Tống (960-1127) người Trung Quốc mới dùng kim chỉ nam làm la bàn để đi biển.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:27:34 pm »


CHƯƠNG II
DANH NGHĨA PHÁP LÝ
CỦA TRUNG QUỐC VỀ TÂY SA VÀ NAM SA


Mặc dầu khi đi ngược dòng lịch sử 2000 năm các tác giả Trung Quốc không nói đến vấn đề phát hiện và chiếm hữu hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa, họ cố chứng minh rằng Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện quyền quản hạt từ xưa tại các đảo đó.

Năm 1932, Trung Quốc đặt mốc thời gian về chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa là năm 1909 khi đô đốc Lý Chuẩn đổ bộ chớp nhoáng lên vài đảo của quần đảo này; năm 1956 - 1959, khi quân đội Trung Quốc chiếm phần phía Đông của quần đảo Tây Sa, họ lại đẩy lùi thời gian chủ quyền về thế kỷ XV; năm 1975 họ đặt mốc chủ quyền vào thế kỷ X; năm 1988 họ lại đẩy ngược lên thế kỷ IV. Điều làm người ta ngạc nhiên là đối với một lịch sử thực hiện quản hạt dài 2000 năm Bộ Ngoại giao Trung Quốc chỉ đưa ra được 3 sự kiện để chứng minh chủ quyền đối với các đảo Nam Hải. Và 3 sự kiện ấy cũng chỉ liên quan tới các đảo Tây Sa, hoàn toàn không có sự kiện nào liên quan tới các đảo Nam Sa. Để bổ sung chỗ yếu đó, ông Hàn và ông Phan nêu thêm một số sự kiện sản xuất khác, kể cả những “văn vật” được lưu lại trên đảo Bắc Tử (tức North East Cay) như mộ của hai ngư dân đời Thanh.

Những bằng chứng mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc và các tác giả Trung Quốc đưa ra tóm tắt như sau:


1 - Quần đảo Nam Sa đã được sáp nhập vào đảo Hải Nam từ năm 789

Khi chú giải phần giới thiệu đảo Hải Nam trong cuốn Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát, ông Hàn Chấn Hoa viết: “Thiên lý Trường Sa, Vạn lý Thạch Đường ngay từ đời Tống đã thuộc phạm vi quản hạt của Quỳnh Quân (Hải Nam), Quảng Nam Tây Lộ, các đảo Nam Hải từ năm Trinh Nguyên thứ 5 đời Đường (789) trở đi thuộc phạm vi quản hạt của Trung Quốc”. Ông Phan Thạch Anh thì viết: “Sử liệu tỏ rõ thời gian sớm nhất Trung Quốc thực hiện việc quản hạt quần đảo Nam Sa có thể ngược dòng tới năm Trinh Nguyên thứ 5 triều Đường. Triều đình bấy giờ đặt quần đảo Nam Sa dưới sự quản hạt của phủ Quỳnh Châu”. Thật ra Chư phiên chí chỉ nói sau khi quân Đường đánh chiếm và bình định xong đảo Hải Nam, họ đã sắp xếp lại các huyện thuộc đảo Hải Nam, tách Quỳnh Sơn ra khỏi Châu Nhai và lập thành quận. Sử liệu chỉ có thế thôi, không có chuyện nhập các đảo Nam Hải vào Hải Nam.


2 - Đời Tống đã cử thủy quân đi tuần tiễu quần đảo Tây Sa.

Văn kiện năm 1980 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc và ông Hàn Chấn Hoa đều nêu sự kiện này.

Để chứng minh việc này, văn kiện Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đưa ra một đoạn trích từ cuốn Vũ kinh tổng yếu, một cuốn sách về chính sách quân sự của nhà Tống và do vua Tống Nhân Tổng (1023 - 1063) đề tựa:

“Triều đình Bắc Tống lệnh cho quân nhà vua ra trấn giữ, đặt dinh lũy thủy sư tuần biển” ở Quang Nam (tức Quảng Đông ngày nay), “đóng tàu chiến đao ngư”, “từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam 7 ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu”. Sau đoạn trích này, họ khẳng định: “Cửu Nhũ Loa Châu tức quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó chứng tỏ triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa vào phạm vi cai quản của mình”“Hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra vùng quần đảo Tây Sa”. Toàn văn đoạn này trong Vũ kinh tổng yếu như sau:

“Quận Nam Hải thuộc Quảng Châu, là đất Bách Việt xưa, đều do người Man, người Đản cư trú. Từ đời Hán về sau được sáp nhập vào quận huyện. Đời Đường đặt làm Thanh hải quân tiết độ. Bản triều dẹp Lưu Sương rồi đặt làm phương trấn thành một nơi đô hội, nắm binh giáp, dẹp giặc mười sáu châu, khống chế các nước ngoài, có lợi về việc thuyền buôn đến tụ hội, người Man người Hán ở lẫn lộn.

“Sai quân nhà vua ra trấn giữ. Đặt dinh lũy thủy sư tuần biển ở hai cửa biển Đông và Tây, rộng 280 trượng cách Đồn Môn Sơn 200 dặm. Đóng tầu chiến đao ngư. Nơi đó, phía Đông nam đến biển cả 40 dặm, phía Đông đến Huệ Châu 420 dặm, phía Tây đến Đoàn Châu 240 dặm, phía Nam đến An Châu 750 dặm, Bắc đến Thiều Châu 250 dặm. Đường biển về phía Đông Nam 400 dặm, đến Đồn Môn Sơn 20 dặm, nước nông ngày có thể đi 50 dặm, rộng 200 dặm.

“Từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày đến Bất Lao Sơn (địa giới Hoàn Châu), lại đi về hướng Nam 300 dặm đến phía Đông Lăng Sơn (có nước ngọt). Về hướng Tây Nam đến các nước Đại thực, Phật Sư Tử, Thiên Trúc, không thể tính được hành trình”.


Chỉ cần so sánh đoạn trích dẫn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc và toàn văn đoạn này của Vũ Kinh Tổng yếu cũng dễ dàng nhận thấy:

- Việc đặt dinh lũy thủy sư tuần biển ở hai cửa biển Đông và Tây, do cắt xén và sắp xếp lại, đã được gắn với hành trình đi Cửu Nhũ Loa Châu để kết luận rằng “hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa” (người ta giải thích Cửu Nhũ Loa Châu như thế). Sự thật nguyên văn hoàn toàn không nói gì đến việc đi Cửu Nhũ Loa Châu.

- Hành trình nêu trong nguyên văn là từ Đồn Môn Sơn theo ven biển đến Việt Nam, Chiêm Thành và các nước Ấn Độ Dương, Nhưng người ta đã cắt đoạn đuôi đi để coi như là hành trình chỉ đến Cửu Nhũ Loa Châu.

Như vậy không có chuyện nhà Bắc Tống đặt Cửu Nhũ Loa Châu (mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho là quần đảo Tây Sa) dưới quyền quản hạt của mình và việc “tuần tra quần đảo Tây Sa” của hải quân Trung Quốc.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:29:13 pm »


3 - Thời nhà Nguyên, Trung Quốc đã đo đạc thiên văn “quá Chu Nhai”, tức phía Nam đảo Hải Nam.

Đúng là Nguyên Sử có viết về vấn đề “đo đạc thiên văn” của đế quốc Nguyên:

“Việc đo đạc thiên văn bốn biển gồm 27 nơi, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam quá Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc, là một việc mà cổ nhân chưa từng làm được”.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng đây là một hành động thực hiện chủ quyền. Ông Hàn cho rằng “cương vực đời Nguyên bao gồm các đảo Nam Hải không những phái quan chức đến quần đảo Tây Sa đo đạc mà còn đặt cơ sở thiên văn, thực hiện chủ quyền ở đây”.

Theo bản đồ Nguyên quốc trong cuốn Lịch đại cương vực biểu của Duan Changyi đời Thanh, cương giới Trung Quốc thời Nguyên phía Đông đến bán đảo Liêu Đông, phía Tây đến đầu nguồn sông Hoàng Hà, phía Bắc đến sa mạc Go-bi, phía Nam đến đảo Hải Nam. Cao Ly, Thiết Lặc, Nam Hải đều nằm ngoài biên giới của Trung Quốc thời bấy giờ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với lời tâu của Quách Tử Kính là bờ cõi nay đã rộng lớn hơn đời Đường cần phải quan trắc thiên văn bốn biển để làm lịch mới. Bốn biển là vượt ra ngoài bờ cõi, không phải là Thiên hạ, là trong bờ cõi.

Sự việc rành rành như vậy nhưng các tác giả Trung Quốc cho rằng nơi nhà Nguyên đã quan trắc thiên văn là thuộc cương vực nhà Nguyên. Đo đạc theo một chương trình khoa học đâu phải là xác lập chủ quyền lãnh thổ! Từ 1873 đến 1876, tầu hải dương của Anh Challenger đã đi 69.000 hải lý trên tất cả các biển trên thế giới. Theo quan điểm của Trung Quốc, có lẽ tất cả các biển đó đều là của Anh. Ông Hàn còn khẳng định sau đó Trung Quốc đã “đặt cơ sở thiên văn” 1. Không biết các ông quan được phái đến cơ sở này đã làm những gì? Hàng ngày vác gậy đo bóng mặt trời hay theo dõi tình hình địa chấn với cái máy động đất của Trương Hành? Khi sự thật được miêu tả quá cả bản thân sự thật thì đó là sự dối trá!


4 - Sử Bật đời Nguyên đã đi qua Thất Châu Dương, Vạn lý Thạch Đường.

Nguyên Sử chép Sử Bật được phái đi đánh Gia-va năm 1293:

“Tháng 12 Bật mang 5.000 người, hội chư quân, xuất phát từ Tuyền Châu, gió to sóng lớn, thuyền chòng chành, quân sĩ mấy ngày không ăn được. Qua Thất Châu Dương, Vạn lý Thạch Đường đến địa giới Giao Chỉ, Chiêm Thành.

Tháng Giêng năm sau (1294) đến các cù lao Đông Đổng, Tây Đổng, Sơn Ngưu rồi qua đại dương mênh mông, đến đóng quân ở đảo Kan-lan, Ka-ri-ma-ta, Kou-lan, đẵn gỗ, đóng xuồng để đi vào”. Lúc trở về Bật đi mất 68 ngày thì về đến Tuyền Châu, quân sĩ chết hơn 3.000 người.


Năm 1975 ông Sử Lệ Tổ đã nêu tên Sử Bật và coi đây là một bằng chứng chứng minh từ thời Tống, Nguyên, vùng biển phụ cận các đảo Nam Hải đã được đặt vào phạm vi cương giới biển của Trung Quốc. Như vậy cuộc viễn chinh của Sử Bật đã được biến thành một cuộc tuần tra trên biển. Ông Phan Trạch Anh cũng nói “từ đời Nguyên trở đi thủy quân Trung Quốc đã đặt quần đảo Nam Sa vào phạm vi tuần phòng của mình”, nhưng chỉ nói chung chung, không căn cứ, rằng Sư Bật đã dẫn Thủy quân đến Vạn lý Thạch Đường.

Còn nếu muốn chứng minh con đường của Sử Bật thì đó là làm việc thừa vì Chính Nguyên Sử đã chỉ rõ con đường đó đi qua Thất Châu Dương, Vạn lý Thạch Đường rồi đến Giao Chỉ, Chiêm Thành theo con đường ven biển. Ông Hàn Chấn Hoa chỉ muốn mượn chuyện Sử Bật để khẳng định lại rằng Thất Châu Dương là Tây Sa, Vạn lý Thạch Đường là Nam Sa.
_______________________________________
1. Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hội biên của Hàn Chấn Hoa, Sđd.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:29:54 pm »


5 - Tướng Ngô Thăng đời Thanh đã đi tuần vùng biển Tây Sa.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc, - và ông Hàn Chấn Hoa nhắc lại, - nêu sự kiện tướng Ngô Thăng “đi tuần biển” vùng Tây Sa.

Cuốn Tuyên Châu phỉ chí viết:

“Từ Quỳnh Nhai, qua Đông Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm, đích thân đi tuần”.

Trong thời gian làm Phó tướng Quảng Đông 1710 - 1712, tướng Ngô Thăng đã đặt quan tổng binh về biển, tìm cách bắt cướp, chống giặc ở vùng Kim Môn, Hạ Môn, Bành Hồ, Đài Loan. Đoạn trích trên đây là con đường tuần tra do đích thân ông tiến hành. Các nơi ông đi qua đều là những điểm nằm ở vùng duyên hải đảo Hải Nam và cuộc tuần tra đó là chung quanh đảo Hải Nam.

Cuốn “Quảng Đông dư địa đồ thuyết” của Lý Hàn Chung in năm 1909 nói càng rõ hơn nhiệm vụ và giới hạn của những cuộc tuần tra đó: “Biên giới trên biển ngày nay lấy phía Nam đảo Hải Nam làm giới hạn, bên ngoài là Thất Châu Dương, Đô đốc thủy quân Quảng Đông đi tuần đến đó là quay trở về”.


6 - Năm 1909, đô đốc Lý Chuẩn đã đổ bộ lên vài đảo của quần đảo Tây Sa để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc.

Theo lệnh của Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn, đô đốc Lý Chuẩn dẫn ba chiếc pháo thuyền Phục Ba, Thám Hăng, Quảng Kim đi “thị sát” vùng biển quần đảo Tây Sa. Ngày 6 tháng 6-1909, đoàn tầu đến quần đảo, đổ bộ lên đảo Phú Lâm (Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng), treo cờ, bắn súng, thăm một vài đảo khác rồi về thẳng Quảng Châu.

Khi đó Triều đình nhà Thanh sắp suy sụp, bên ngoài bị các cường quốc chèn ép đòi thêm quyền lợi, bên trong bị phong trào cách mạng tăng cường hoạt động nhằm giành lấy chính quyền. Năm 1907, Nhật Bản chiếm mất quần đảo Đông Sa. Cuộc biểu dương chớp nhoáng lực lượng ở vài đảo Tây Sa nhằm xoa dịu tinh thần quần chúng đang sôi sục đòi một chính sách kiên quyết đối với các cường quốc. Vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cho đến trước khi đô đốc Lý Chuẩn đến Tây Sa, trong suốt mấy trăm năm Chính phủ Trung Quốc mặc nhiên thừa nhận Tây Sa (tức Hoàng Sa) là của Việt Nam, thậm chí có lần cứu giúp đội viên đội Hoàng Sa đi khai thác Hoàng Sa bị nạn năm 1753 và quan huyện Văn Xương thuộc Quỳnh Châu (Hải Nam) đã làm công văn trao trả Chúa Nguyễn ở Phú Xuân.

Việc đột nhiên thay đổi thái độ về Tây Sa và cuộc hành quân của đô đốc Lý Chuẩn chứa đựng một âm mưu lâu dài: chiếm lấy Tây Sa và cả Nam Sa khi Trung Quốc có thời cơ. Thời cơ đó là năm 1956 khi Pháp rút khỏi Đông Dương, và quân Việt Nam ở Sài Gòn chưa kịp ra thay thế quân Pháp ở phần Đông của quần đảo Hoàng Sa. Thời cơ đó là năm 1974 sau khi Mỹ ký với Trung Quốc thông cáo chung Thượng Hải, để Trung Quốc rảnh tay chiếm nốt phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa. Thời cơ đó là năm 1988 khi Việt Nam đang phải đối phó với cuộc chiến tranh bằng pháo binh ở biên giới phía Bắc và cuộc bao vây của các lực lượng thù địch quốc tế, mở đầu sự phát triển xuống Biển Đông.

Như vậy, thực chất cuộc hành quân năm 1909 là một sự xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực khi quần đảo Hoàng Sa từ lâu đã thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:32:35 pm »


7 - Chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa, Nam Sa đã được sự công nhận rộng rãi trên quốc tế.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa đã được sự công nhận của:

- Nhiều Chính phủ (kể cả Việt Nam),

- Các tổ chức chuyên môn quốc tế,

- Nhiều bách khoa toàn thư và bản đồ nhiều nước1.

Không cấn thiết đi sâu vào vấn đề công nhận của các tổ chức chuyên môn quốc tế, của các bách khoa toàn thư và các bản đồ vì đây không phải là vấn đề chính. Các điều lệ của các tổ chức chuyên môn quốc tế như Hàng Không, Khí Tượng, Bưu Điện... đều quy định rõ ràng rằng các quyết định của họ tuyệt đối không bao hàm ý nghĩa công nhận chủ quyền của một nước đối với một lãnh thổ nào. Có một vài bách khoa toàn thư, một vài bản đồ ghi Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc nhưng cũng có những sách, bản đồ khác ghi là của Việt Nam hay không ghi về nước nào cả. Riêng về bản đồ, các luật gia coi trọng trước hết những bản đồ đính theo hiệp ước, còn các bản đồ khác chỉ có giá trị tham khảo.

Phần này chủ yếu nhằm đi sâu vào vấn đề sự công nhận của các Chính phủ có liên quan.

Cho đến năm 1939, các đảo Hoàng Sa, Trường Sa vẫn do Pháp, thay mặt nước Việt Nam, thực hiện chủ quyền. Chính phủ Trung Quốc đôi lần nêu chủ quyền của họ nhưng khi Pháp đề nghị đưa vấn đề ra Tòa án trọng tài họ lại khước từ. Từ 1939, quân đội Nhật Bản đã chiếm cả hai quần đảo cho đến khi họ buộc phải rút đi.

Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà lãnh đạo Mỹ, Liên Xô, Anh (Franklin D. Roosevelt, Stalin, Winston Churchill) đã ba lần gặp nhau tại Téhéran, Yalta, Potsdam đề bàn về những vấn đề chỉ đạo chiến tranh, vấn đề hợp tác trong và sau chiến tranh. Tổng thống F.D. Roosevelt, Thủ tướng W.Churchill và Thống chế Tưởng Giới Thạch cũng đã bí mật họp tại Cairo để bàn về kết thúc chiến tranh với Nhật Bản và việc giải quyết những vấn đề lãnh thổ Châu Á bị Nhật Bản chiếm đóng. Đây là những cuộc họp cấp cao cực kỳ quan trọng để chiến thắng chủ nghĩa phát xít, và chuẩn bị tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn.

Đối với các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, đặc biệt quan trọng là vấn đề những lãnh thổ bị Nhật Bản chiếm đóng. Tại Cairo, Mỹ, Anh, Trung Quốc đã ra một bản Tuyên bố trong đó có đoạn nói rõ ràng:

“Mục đích của ba nước này là Nhật Bản phải bị loại khỏi tất cả các quần đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật Bản đã cướp đoạt, chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của Trung Hoa như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại Trung Hoa dân quốc” (Tuyên cáo Cairo ngày 26-11-1943).

Các nhà quan sát nhận thấy ngay rằng Bản Tuyên bố hoàn toàn không đề cập đến số phận của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc nhận là lãnh thổ của họ. Thống chế Tưởng Giới Thạch đích thân tham dự cuộc họp thượng đỉnh này và cùng Tổng thống Mỹ, Thủ tướng Anh bàn bạc trong bốn ngày, không thể không nêu vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa khi nêu vấn đề các lãnh thổ khác bị mất về tay Nhật Bản. Nhưng trong bản Tuyên bố Cairo mà ba vị lãnh đạo đã nhất trí thông qua, không có bảo lưu hay tuyên bố riêng nào của Trung Quốc về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Điều đó chứng tỏ không có vấn đề trao hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc.

Trong Tuyên cáo Postdam ngày 26-7-1945, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, Anh và Trung Quốc đã khẳng định rằng “các điều khoản của Tuyển bố Cairo sẽ được thi hành” và Liên Xô sau khi tuyên chiến với Nhật, đã tham gia bản Tuyên cáo Potsdam.

Trong bản Tuyên bố ngày 4-12-1950, Ngoại trưởng Chu Ân Lai cho rằng căn bản chính cho một hòa ước với Nhật Bản là Tuyên bố Cairo, Thỏa ước Yalta, Bản Tuyên cáo Potsdam và cách chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đã đầu hàng2.
______________________________________
1. Văn kiện ngày 30-1-1980 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Sđd.
2. Tuyên bố ngày 4-12-1950 của Ngoại trưởng Chu Ân Lai, People’ Chian số 12 ngày 16-12-1950.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:33:30 pm »


Ngày 12-7-1951 Anh - Mỹ đưa đề nghị dự thảo Hòa ước với Nhật Bản. Cả Bắc Kinh và Đài Bắc đều không được mời dự hội nghị San Francisco. Ngày 15-8-1951, Ngoại trưởng Chu Ân Lai sau khi bình luận về từng vấn đề một của dự thảo Hiệp ước đã tuyên bố: “quần đảo Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa và đảo Nam Uy lúc nào cũng là lãnh thổ Trung Quốc” 1.

Tại San Francisco 51 đại biểu các nước đều đòi giải quyết vấn đề Hoàng Sà và Trường Sa theo đúng Tuyên bố Cairo và thỏa ước Potsdam. Đại biểu Liên Xô A.Gromyko đưa ra đề nghị trao cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng đề nghị này bị bác đi bởi 48 phiếu và 1 phiếu trắng. Đại biểu Việt Nam, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố: “Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu là lãnh thổ Việt Nam”, không một đại biểu nào phản đối hay bảo lưu. Cuối cùng Hòa ước với Nhật Bản được ký ngày 8 tháng 9 năm 1951 trong đó điều 2, điểm 7 nêu rõ:

“Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi đối với Paracels và Spraly” (tức Hoàng Sa và Trường Sa).

Ngày 28-4-1952, Nhật Bản và Đài Loan ký hòa ước trong đó điều 2 nêu rõ:

“Điều 2: - Hai bên nhìn nhận là theo điều 2 hòa ước với Nhật Bản ký ngày 8-9-1951 tại San Francisco ở Hoa Kỳ, Nhật Bản đã từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi liên quan tới Đài Loan (Formose) và Bành Hồ (Pescadores) cũng như quần đảo Spraly và Paracels”.

Như vậy trong chiến tranh thế giới thứ hai cũng như sau đó, các cuộc họp quốc tế quan trọng nhất có nhiệm vụ giải quyết vấn đề lãnh thổ Châu Á bị Nhật Bản đoạt được hoặc chiếm đóng, trong đó có sự tham gia của người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc đều không trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Đương nhiên nó phải trở lại Pháp và Việt Nam, những người chủ đã quản lý nó cho đến khi Nhật chiếm đóng.

Rõ ràng không có cái gọi là “sự công nhận quốc tế rộng rãi”. Chính vì Tuyên bố Cairo quá rõ ràng mà trong văn kiện ngày 30-1-1980 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc người ta hoàn toàn không nói gì đến tuyên bố đó, và cũng không có gì để nói về nội dung Hòa ước San Francisco ngoài câu chuyện vô vị ông cựu ngoại trưởng Nhật Bản Otarakicaxuô không xác nhận trong văn bản chính thức quốc tế mà xác nhận trong một tập bản đồ thế giới rằng 4 quần đảo là của Trung Quốc.

*
*   *

Các nhà chức trách Trung Quốc đã đưa ra nhiều sách cổ trải dài trên 2000 năm, trong đó có vài cuốn là chính thức, còn là sách địa chí, hàng hải. Cái kết quả đầu tiên họ đạt được là gây một ấn tượng sâu sắc về sự phong phú, đa dạng, nhưng cái kết quả mà họ mong muốn là thuyết phục người đọc lại chưa đạt. Có thể rút mấy nhận xét sau đây:

1 - Trong một vụ tranh chấp về đất vô chủ nhiều và rải rộng như hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, việc xác định địa danh và vị trí mỗi đảo bãi là cần thiết, những số tư liệu của Trung Quốc và các kết luận của các tác giả Trung Quốc không cho phép rút một kết luận nào có sức thuyết phục.

2 - Tư liệu nói nhiều đến những hiểu biết về biển, về đi biển của nhân dân Trung Quốc, nhưng không cung cấp được những tài liệu chắc chắn, cụ thể về việc Trung Quốc đã phát hiện được hai quần đảo hay một số đảo của hai quần đảo, đặc biệt là không cho biết họ đã chiếm hữu đảo nào, thế nào, lúc nào.

3 - Những bằng chứng về việc cai quản các đảo đã đưa ra chủ yếu là liên quan đến Tây Sa, và mấy sự kiện gọi là “tuần tra biển”, “thực hiện chủ quyền” là do sự cắt xén, sắp xếp tài liệu do đó không có giá trị. Về Nam Sa chỉ có vài chi tiết lặt vặt.

4 - Ba Hội nghị lớn trong và sau chiến tranh thế giới thứ hai (Hội nghị Cairo, Hội nghị Potsdam, Hội nghị San Francisco) đã bác bỏ một cách có hệ thống việc trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.

5 - Cuộc “thị sát” của đô đốc Lý Chuẩn năm 1909, việc chiếm Hoàng Sa năm 1956 và 1974 và các đảo bãi trong quần đảo Trường Sa năm 1988, 1992, 1993 chỉ là những hành động dùng vũ lực trong quan hệ với các nước khác, trái với luật pháp quốc tế và các nguyên tắc của Liên Hợp quốc Theo luật quốc tế hiện hành, việc chiếm đóng bằng vũ lực như thế là bất hợp pháp và không mang lại thẩm quyển lãnh thổ.
______________________________________
1. Tuyên bố ngày 15-8-1951 của Ngoại trưởng Chu Ân Lai.
Logged
Trang: 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM