Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:41:00 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến đấu tự nguyện  (Đọc 56972 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:06:46 pm »


Ngày 27-5-1973, Tiểu đoàn 6 đã hoàn thành công tác chuẩn bị. Trên hướng chủ yếu, một đại đội bộ binh, được trang bị một quả mìn định hướng 10 kg, hai ống bộc phá dài 1,20 m và một tổ máy thông tin, vô tuyến và hữu tuyến, một tổ trinh sát cùng với du kích bảo đảm cho đội hình vào chiếm lĩnh đúng vị trí và thời gian quy định. Tiểu đoàn cử đồng chí Nguyễn Sương, trợ lý tác huấn cùng đi với đại đội trên hướng chủ yếu để giúp đỡ và nắm tình hình kịp thời báo cáo tiểu đoàn.

Trên hướng dương công, có một tổ du kích dẫn đường và phối hợp chiến đấu. Trong những năm chiến đấu trên chiến trường Khu 5, chúng tôi luôn luôn được sự giúp đỡ tích cực của lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích. Chiến đấu ở vùng đồng bằng, bộ đội địa phương và dân quân du kích đóng vai trò rất quan trọng trong các hoạt động của bộ đội chủ lực.

Cũng như trong trận tiến công cứ điểm Cự Tài, hai bên đội hình mở cửa, chúng tôi bố trí hai khẩu ĐKZ75 và súng máy 12,7 mm.

Tôi và đồng chí chính trị viên Trần Sỹ Mỹ, lợi dụng căn hầm tránh pháo của dân, ở phía sau hướng chủ yếu cách lớp rào ngoài cùng khoảng 50 mét, làm vị trí chỉ huy. Phía sau vị trí chỉ huy tiểu đoàn là đại đội dự bị và trận địa cối 120 mm và 82 mm. Nói chung tất cả các thành phần trong đội hình chiến thuật tập kích địch trong căn cứ đều được tổ chức đầy đủ theo nguyên tắc.

22 giờ, trước lúc xuất phát vào vị trí triển khai tôi điện báo cáo trung đoàn trưởng. Đồng chí cho biết, theo tin cơ sở tình hình trong cứ điểm không có gì thay đổi. Đồng chí căn dặn cần chú ý kiểm tra, phát hiện và dò gỡ mìn thật an toàn, khi vào chiếm lĩnh phải thận trọng để bảo đảm yếu tố bí mật bất ngờ. Đồng chí không quên chúc tiểu đoàn hoàn thành nhiệm vụ.

Nghe xong, tôi trao máy điện thoại cho đồng chí chính trị viên tiểu đoàn gặp chính ủy trung đoàn và gọi đồng chí trợ lý thông tin đến.

- Đồng chí kiểm tra lại 2 quả pháo hiệu màu đỏ và hai quả màu xanh giúp tôi! Tôi nói.

Đồng chí trợ lý thông tin đáp “rõ” rồi chạy đi ngay, đến đại đội đột kích trên hướng chủ yếu.

Đến 22 giờ 30 phút, đội hình bắt đầu xuất phát. Trên các hướng đều có trinh sát và du kích dẫn đường. Tôi cảm thấy yên tâm và rất tự tin.

Pháo địch vẫn bắn cầm canh. Tuy đã quen với tiếng pháo nổ, nhưng có những quả pháo bay rít trên đầu, nổ rất gần, chúng tôi vẫn cứ bị giật mình. Nhiều lúc, nghe tiếng rít, theo phản xạ tự nhiên, bộ đội ta cứ nằm rạp xuống đất. Vẫn biết rằng, khi nghe tiếng rít của đạn pháo, tức là đạn đã bay qua và nổ ở nơi khác, nhưng người lính không thể chống lại phản xạ tự nhiên được.

Sau một tiếng rưỡi đồng hồ, bộ đội mới đến được vị trí triển khai. Do trong vườn của dân đã có một số hầm tránh pháo, nên đỡ được công việc làm công sự. Chỉ cần kiểm tra mìn, đề phòng địch gài lại. Từ đây tổ thông tin hữu tuyến bắt đầu kéo dây điện thoại tới đại đội đột kích và trận địa cối. Vì đã chiến đấu nhiều, nên anh em thông tin rất thành thạo công việc. Họ vừa nhanh nhẹn, vừa bí mật. Sở chỉ huy trung đoàn ở quá xa, nên trung đoàn phái một tổ thông tin vô tuyến tăng cường cho tiểu đoàn, về chuyên môn hoàn toàn do trung đoàn nắm và trang bị.

24 giờ, hướng đột kích chủ yếu gỡ được hai trái lựu đạn và một quả mìn chiếu sáng của địch. Trận địa cối 120 mm và 82 mm triển khai xong và sẵn sàng nhả đạn. Chỉ có hướng “dương công” chưa nắm được, vì không kéo theo dây điện thoại. Chúng tôi qui định chỉ dùng phương tiện thông tin vô tuyến, nhưng khi nổ súng mới được mở máy liên lạc.

Đêm cuối tháng, trăng lên muộn. Những ngọn gió từ vùng biển thổi vào mát rượi. Trong vườn, lá khô bay xào xạc. Những cây tre cọ vào nhau kêu cót két. Nhờ thế những động tác của bộ đội tiếp cận, phát ra tiếng kêu cũng được xóa đi. Bỗng một loạt súng tiểu liên từ trong cứ điểm bắn ra làm chúng tôi giật mình... Tôi nhấc máy điện thoại, thổi vào tổ hợp, nói nhỏ:

- Cho gặp đồng chí Sương!

Đầu dây bên kia, đồng chí Sương cầm máy

- Súng nổ ở đâu u đấy? - Tôi hỏi

- Súng trong cứ điểm bắn ra, nhưng nó bắn về hướng của lực lượng “dương công”! - Đồng chí Sương báo cáo.

24 giờ 45 phút, đại đội trưởng trên hướng chủ yếu báo cáo:

- Báo cáo thủ trưởng, tổ mở cửa đã cố định xong mìn định hướng, tất cả đã sẵn sàng!

- Đồng chí kiểm tra lại dây điện, máy điểm hỏa! Trường hợp điểm hỏa điện không nổ thì lên giật nụ xùy. Hoả lực ĐKZ và cối sẽ bắn ngay sau tiếng mìn của đồng chí! - Tôi nhắc lại hiệp đồng cho đại đội đột kích.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:07:28 pm »


Đúng 01 giờ ngày 28-5, tôi ra lệnh nổ súng.

Một tiếng nổ “ầm” của quả mìn định hướng kế tiếp là hai khẩu ĐKZ với 2 luồng lửa, xé màn đêm, bao trùm lên mục tiêu là ụ súng đầu cầu. Ba khẩu cối 120 và 82 mm tập trung hỏa lực vào khu thông tin. Những ánh chớp lóe lên kèm theo tiếng nổ liên tục.

Sở chỉ huy tiểu đoàn nhộn nhịp hẳn lên. Các chiến sĩ thông tin vô tuyến gọi đi các hướng, nhắc đầu bên kia giữ vững liên lạc. Những anh mới “vào nghề” không thuộc hết mật mã, nhiều câu cứ phải nói “toạc móng heo”.

Đại đội đột kích báo cáo:

- Quả mìn định hướng đã “quét sạch” hai lớp rào, tôi đang cho đánh nốt hàng rào cuối cùng.

Trong khi tôi đang chỉ huy thì đồng chí Trần Sỹ Mỹ, chính trị viên tiểu đoàn xuống động viên đại đội dự bị sẵn sàng bước vào chiến đấu.

Đại đội đột kích báo cáo:

- Cửa mở đã xong, bộ đội đang lên đánh chiếm đầu cầu, đề nghị cho cối bắn vào trung tâm và cho ĐKZ bắn xa ra hai bên cửa mở!

Tôi nghĩ thầm: “Có lẽ ảnh hưởng của trận tiến công cứ điểm Cự Tài hôm trước, một đồng chí bị gãy một chân do ĐKZ của ta bắn lúc anh em xung phong lên đánh chiếm đầu cầu, đã tác động làm cho bộ đội ngần ngại hỏa lực của ta chăng?”

Song, bây giờ mà gọi điện thoại cho 2 khẩu ĐKZ “có trời mới nghe được”. Lỗ tai của xạ thủ đã bị điếc đặc. Chỉ có trận địa cối thì không ảnh hưởng gì. Tôi chỉ thị cho trợ lý pháo đến ngay chỗ hai khẩu ĐKZ truyền đạt mệnh lệnh cho pháo chuyển làn.

Sau 05 phút đại đội đội kích mở xong cửa. Đến phút thứ 06 thì đã chiếm được “đầu cầu”.

Địch chống trả quyết liệt. Đã có một đồng chí hy sinh, hai đồng chí bị thương, anh em đã đưa ra cửa mở. Đồng chí trợ lý chính trị dẫn một tổ vận tải và y tá lên đón và đưa ra phía sau. Tôi ra lệnh cho lực lượng “dương công”, tiến công vào phía sau cứ điểm địch, đồng thời trao đổi với đồng chí Mỹ cho điều đại đội dự bị lên gần cửa mở.

Sau 25 phút chiến đấu, đại đội đột kích chiếm được hai phần ba cứ điểm địch về bên trái, dồn chúng xuống một góc cứ điểm trên hướng đông nam.

Địch phản ứng dữ dội. Các trận địa pháo, từ hướng “nhà thờ” bắn đến, cối từ đường quốc lộ 1 bắn lên. Đạn nổ xung quanh nghe chát chúa. Lại thêm một số chiến sĩ bị thương. Đồng chí Nguyễn Sương báo cáo:

- Địch đang co cụm ở phía đông nam, dựa vào công sự, chiến hào chống trả. Muốn đánh sang đó, anh em phải qua một bãi trống, chiến hào ở đây bị đứt quãng. Một số đồng chí vượt qua, bị thương phải quay lại. Đề nghị tiểu đoàn cho lực lượng dự bị vào tiến công từ cánh phải sang phối hợp để dứt điểm!

- Tôi đồng ý! Đồng chí phổ biến cho anh em phối hợp!

Đại đội dự bị được tung vào trận đánh ngay sau đó. Các chiến sĩ tiến dọc theo chiến hào tiền duyên bên phải cửa mở, phối hợp với đại đội hai đột kích từ cánh trái. Lực lượng “dương công” nổ súng vào phía sau cứ điểm, cùng tiến công vào ba phía. Ít phút sau, ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Hai phát pháo hiệu màu đỏ được bắn lên. Sở chỉ huy trung đoàn, qua pháo hiệu biết được tiểu đoàn 6 đã làm chủ cứ điểm của địch. Số địch sống sót chạy xuống hướng đông nam. Các trận địa cối của tiểu đoàn chuyển sang bắn chặn. Ta tiêu diệt được 35 tên địch tại chỗ, thu trên 20 súng các loại.

03 giờ sáng, tiểu đoàn tổ chức lui quân. Trên đường bị địch bắn pháo dữ dội. Đồng chí Nguyễn Sương “lãnh trọn” một quả cối 81 mm của địch, hy sinh.

Đồng chí Nguyễn Sương là một cán bộ tham mưu hăng hái, có nhiều kinh nghiệm. Năm 1964, khi tôi mới nhập ngũ, đồng chí đã là một cán bộ tiểu đội trưởng cùng trang lứa với đồng chí Võ Tùng, Trần Đình Liệu và nhiều đồng chí khác. Sinh ra và lớn lên trên quê hương Bà Trưng, Bà Triệu (Thanh Hóa), bản chất thật thà, tác phong nhanh nhẹn, vui tính và không bao giờ tự ái khi bị anh em kê kích, trêu chọc... Đồng chí mất đi là một tổn thất lớn của tiểu đoàn tôi...

Đầu năm 2004, tôi có dịp đi qua huyện Hoài Nhơn, về xã Hoài Châu với ý định tìm mộ Nguyễn Sương. Mặc dù, đồng chí và nhiều đồng chí khác hy sinh trong thời gian này được chôn cất chu đáo, nhưng cảnh vật nơi đây, sau 30 năm đã nhiều thay đổi. Tôi chưa tìm lại được. Tôi không hiểu là, gia đình đã đưa đồng chí về quê hay chưa?

Như vậy, đến giữa năm 1973, trong một thời gian rất ngắn, trên địa bàn trung đoàn bộ binh 12, đã xóa sổ 3 đại đội địch, đóng chốt ở 3 cứ điểm, phá vỡ tuyến ngăn chặn của địch dọc trục đường số 2, trên một tuyến dài gần 10 km, không những bảo vệ vững chắc vùng giải phóng phía tây huyện Hoài Nhơn, mà còn cùng với các đơn vị trong sư đoàn 3 tràn xuống vùng đồng bằng ven biển thuộc huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, uy hiếp căn cứ Trà Quang, Bình Dương của sư đoàn 22 chủ lực Sài Gòn, thị trấn Bồng Sơn, sân bay Phù Cát và nhiều mục tiêu quan trọng khác tại tỉnh Bình Định.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:07:58 pm »


Khác với thời kỳ quân Mỹ chiếm đóng, những năm 1973 - 1974, tại hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi, nhân dân các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Đức Phổ (Quảng Ngãi), Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước (Bình Định) không chịu vào ấp chiến lược, vẫn bám trụ trên quê hương, tham gia du kích hoặc đấu tranh trực diện với địch. Khẩu hiệu địch vận của ta trong thời gian này là: “Mỹ thua về Mỹ, còn binh sĩ về đâu?” hoặc là: “Súng Mỹ, lòng ta”. Các địa phương tổ chức một hệ thống làm công tác địch vận từ xã lên đến huyện, tỉnh. Trong mỗi trận chiến đấu đều kết hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và quân dân du kích. Đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, làm cho địch bị tê liệt, mất sức chiến đấu, chính quyền của chúng mất hiệu lực. Các nhà văn nhà thơ theo sát chúng tôi suốt chiều dài lịch sử chiến tranh giải phóng miền Nam. Nhiều đồng chí có mặt trong những năm đấu tranh chống địch nống lấn, như nhà văn Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Chí Trung, Bùi Thị Chiến, Nguyễn Thị Bắc Hà và nhiều anh chị em khác. Hình bóng và khuôn mặt thân thương, quen thuộc của họ luôn là nguồn động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ sư đoàn Bộ binh 3 Sao Vàng, thời gian ấy!

Tại những vùng chiến tranh ác liệt, rất nhiều người dân tạm sống trong vùng địch kiểm soát, nhưng vẫn tìm cách tiếp tế lương thực cho bộ đội. Sau thời gian tạm yên, có người trở về, nhà cửa bị bom đạn địch đánh phá tan hoang. Họ lại dựng lều ngay bên cạnh hố bom để ở. Nhưng trong lòng vẫn tin tưởng ngày toàn thắng đã đến gần. Chiến tranh đã tạo cho con người thêm dày dạn trong bom đạn ác liệt của kẻ thù, gắn bó với quê hương, xem thường cái chết và luôn khao khát được sống trong hòa bình.

Từ khi ký Hiệp định Paris, Mỹ rút quân về nước. Trên chiến trường, quân đội Sài Gòn bị thua liên tiếp. Vùng giải phóng không ngừng được mở rộng, chính quyền cách mạng ngày càng được củng cố vững chắc.

Tiểu đoàn 6 cùng với đội hình trung đoàn được lệnh phát triển xuống đồng bằng ven biển từ xã Hoài Thanh đến xã Hoài Hương (huyện Hoài Nhơn) vào đến xã Mỹ Thắng - Mỹ Thọ (huyện Phù Mỹ).

Huyện Hoài Ân được giải phóng. Đội hình sư đoàn 3 chiếm lĩnh một vùng rộng lớn của tỉnh Bình Định, chia cắt, cô lập các mục tiêu then chốt, như thị xã Quy Nhơn, sân bay Phù Cát, thị trấn Bồng Sơn, căn cứ Đệ Đức, Thiết Đính và Trà Quang của sư đoàn 22 Cộng Hòa. Sư đoàn 3 đã có trung đoàn bộ binh 12 ở Đông đường quốc lộ số 1, hai trung đoàn ở phía tây là trung đoàn bộ binh số 2 và số 141. Địch phải co vào trong các căn cứ. Hầu hết các huyện giáp ranh và các huyện vùng đồng bằng, ban ngày nhân dân đi lại tự do. Ban đêm bộ đội, du kích di chuyển từ vùng này sang vùng khác, từ phía tây xuống phía đông đường số 1, tấp nập như trẩy hội.

Để tạo thế liên hoàn, vững chắc, nhiệm vụ trước mắt của sư đoàn 3 là “giải quyết” một số mục tiêu dọc trục đường số 1, gồm núi Nùng, đèo Nhông, đèo Phú Cũ tiến tới bao vây, cô lập các căn cứ còn lại của địch, phối hợp với các lực lượng vũ trang quân khu, mở chiến dịch quy mô lớn giải phóng tỉnh Bình Định khi có thời cơ mới. Thời gian lúc này, “một ngày bằng hai mươi năm”.

Kế hoạch tác chiến của chiến dịch Mùa Thu năm 1974, được mở đầu bằng trận tiến công đánh chiếm núi Nùng, tiến tới đánh chiếm Đèo Nhông, cắt đứt hoàn toàn đường số 1, buộc sư đoàn 22 Cộng hòa ra phản kích để ta tiêu diệt lớn sinh lực của chúng.

Núi Nùng và Núi Chóp Vung (Đèo Nhông) đều nằm trên trục đường quốc lộ số 1, thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Núi Nùng nằm cạnh đường số 1 về phía Tây; đèo Nhông nằm cạnh đường số 1 về phía đông. Hai quả núi cách nhau khoảng một km, có độ cao tương đương, gần 200m so với mực nước biển.

Phía bắc là đèo Phú Cũ (đã đề cập đến ở phần trước); phía nam là ấp Diêm Tiêu. Thứ tự từ hướng bắc vào: Phú Cũ, đèo Nhông, núi Nùng, Diêm Tiêu, tạo nên thế liên hoàn trong hệ thống phòng thủ cơ bản của địch dọc theo đường số 1, khống chế trên một đoạn đường dài 20km, nối liền hai huyện Phù Cát và Hoài Nhơn. Chi viện cho các mục tiêu trên, chủ yếu là sư đoàn 22 Cộng hòa, có các căn cứ ở Đệ Đức, Trà Quang ở hướng Bắc, An Sơn ở hướng Nam.

Về tình hình sư đoàn 3: giữa năm 1974, trung đoàn bộ binh 12 xuống hoạt động phía đông huyện Phù Mỹ, bao gồm các xã Mỹ Thắng, Mỹ Quang, Mỹ Thọ và đã chiếm lĩnh hoàn toàn dãy núi “Mẹ bồng con”, Đông đường số 1, đối diện với núi Nùng và đèo Nhông. Sư đoàn 3 (thiếu trung đoàn bộ binh 12), triển khai tại huyện Hoài Ân: trung đoàn bộ binh 141 bảo vệ vùng giải phóng và làm dự bị. Lực lượng chủ yếu tiến công núi Nùng là trung đoàn bộ binh số 2 và tiểu đoàn 5 thuộc trung đoàn bộ binh số 12. Tiểu đoàn 6 được giao nhiệm vụ tiến công, đánh chiếm đèo Nhông.

Tình huống tác chiến bây giờ là đánh địch theo mệnh lệnh, vì sự phát triển quá nhanh trên chiến trường. Tiến công địch không có sự chuẩn bị hoặc chuẩn bị gấp. Mọi tình huống giờ đây đến rất nhanh và qua đi rất nhanh. Nếu xử trí chậm, có khi chủ động sẽ trở nên bị động, lúng túng và mất thời cơ thuận lợi.

Đêm 22-7-1974, chúng tôi tiến hành đi trinh sát mục tiêu đèo Nhông. Sườn đồi phía đông dốc chừng 60 độ, hỏa lực bắn thẳng rất khó bố trí. Ở đây có hai lớp rào kẽm gai bùng nhùng, rải theo sườn đồi. Tôi và hai đồng chí trinh sát vừa bò lên đến lớp rào thứ nhất, một đồng chí trinh sát đạp lên một cục đá to bằng quả bóng, cục đá lăn xuống theo sườn đồi nghe lộc cộc... Địch trên đỉnh đồi ném lựu đạn xuống, nhưng lựu đạn cũng lăn xuống dưới chân đồi nổ chát chúa. Địch bắn mãi rồi cũng phải im lặng, không gian bốn bề trở lại yên tĩnh. Gió biển thổi vào mát lạnh. Từ đèo Nhông nhìn xuống biển xã Mỹ Thọ và Mỹ Thắng thấy vô số những ngọn đèn nêông hắt ra từ những tàu thuyền đánh cá, sáng rực cả một vùng trời.

Đêm nay các đơn vị thuộc sư đoàn 3 cũng tung trinh sát, cán bộ đi nghiên cứu, chuẩn bị cho những trận chiến đấu ngày mai, có thể diễn ra xung quanh núi Nùng, trên đường quốc lộ số 1 từ đèo Phú Cũ đến đèo Nhông, ấp Diêm Tiêu. Trung đoàn bộ binh 12 đang xây dựng trận địa phòng không xung quanh dãy núi “Mẹ bồng con”, và nhiều nơi khác. Có ai hiểu được rằng trong đêm tối mịt mùng, trên chiến trường có biết bao nhiêu con người đang lặn lội trong sương gió, chuẩn bị khẩn trương cho những trận đánh ác liệt sẽ diễn ra sau đó mấy tiếng đồng hồ...

Sáng 23-7, chúng tôi đã trinh sát xong mục tiêu đèo Nhông. Trận địa cối và ĐKZ75 dự kiến bố trí ở sườn đông nam, cách đỉnh đèo Nhông khoảng 400 mét. Trận địa ĐKZ gần mục tiêu hơn và bắn theo “tà dương”. Đội hình đột kích trên hai hướng: đông - đông nam, chủ yếu và phía nam, thứ yếu.

Theo hiệp đồng, cối 120 mm của sư đoàn, từ phía tây đường số 1 chi viện cho chúng tôi trong thời gian “bắn chuẩn bị”, bắn trực tiếp lên đỉnh Chóp Vung. Xem ra thì cũng “mạo hiểm”. Bởi lẽ, đội hình đột kích của chúng tôi ở Đông đường số 1, hỏa lực chi viện của sư đoàn ở phía tây đường số 1, thông tin liên lạc bằng phương tiện vô tuyến. Giữa hỏa lực và đội hình xung lực có phần đối diện nhau, những điều “tối kỵ” trong chiến đấu. Song, sau này khi tiến công mục tiêu mọi việc đều tốt đẹp.

Đêm 27 rạng sáng 28/7/1974, trung đoàn bộ binh 2, được tăng cường tiểu đoàn 5 trung đoàn bộ binh 12, được sự chi viện bằng pháo binh của sư đoàn, thực hành tiến công đánh chiếm núi Nùng, tiêu diệt một đại đội địch đóng chốt ở đây. Lập tức, liên đoàn biệt động số 4 từ căn cứ Trà Quang, dựa vào đèo Phú Cũ và đèo Nhông ra phản kích hòng chiếm lại núi Nùng. Suốt ngày 28 và sang ngày 29/7 diễn ra những trận chiến đấu ác liệt xung quanh núi Nùng và trên đoạn đường hơn một km, từ đèo Nhông đến ấp Diêm Tiêu giữa lực lượng cơ động của ta với liên đoàn biệt động số 4 của địch. Liên đoàn biệt động bị tiêu diệt gần hết.

Đúng lúc đó, đêm 29 tháng 7 tiểu đoàn 6 áp sát đèo Nhông, 0 giờ 30 phút (ngày 30-7) dưới sự chi viện trực tiếp của hỏa lực, tổ bộc phá leo lên sườn, mở qua hai lớp rào kẽm gai. Sau ít phút hỏa lực bắn chuẩn bị, trận địa cối 120 mm của Sư đoàn từ phía tây đường số 1 bắn lên đỉnh đèo Nhông làm nổ tung một kho đạn của địch. Đạn nổ dữ dội, miểng bay văng ra xung quanh sườn đồi, lửa khói bốc lên sáng rực. Đạn địch trong kho nổ hết, hai hướng bộ đội ta xông lên. Hầu hết, địch trong căn cứ bị chết. Lực lượng của chúng đóng dưới sườn đồi, bỏ chạy về phía bắc đường số 1. Ta làm chủ hoàn toàn đèo Nhông, thu toàn bộ vũ khí. Địch chết 14 tên tại chỗ.

Cuộc phản kích hòng chiếm lại núi Nùng của địch bị thất bại, đèo Nhông bị ta đánh chiếm, địch ở đèo Phú Cũ bỏ chạy. Ta làm chủ hoàn toàn đường số 1 nối liền các huyện Hoài Nhơn - Phù Mỹ - Phù Cát.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:08:41 pm »


TRỞ LẠI ĐƯỜNG SỐ 19

Sau những thất bại nặng nề trên khắp các chiến trường, thế và lực của địch ngày càng suy yếu, không còn những ngày đưa quân đi nống lấn và làm mưa, làm gió như trước đây. Chúng phải co vào trong các căn cứ lớn.

Trong những năm vừa chiến đấu, vừa xây dựng và củng cố lực lượng, đến nay ta có thể phối hợp mở nhiều chiến dịch, tiến công địch đồng thời trên phạm vi toàn miền Nam, từ đồng bằng sông Cửu Long đến miền Đông Nam bộ; từ Tây Nguyên đến đồng bằng ven biển miền Trung.

Tại vùng đồng bằng miền Trung, sau khi ta đã giải phóng hàng loạt mục tiêu, trung đoàn bộ binh 12 được lệnh quay lại chiến trường cũ là đường số 19 để chuẩn bị phối hợp với mặt trận B3, Tây Nguyên.

Các năm trước, khi lực lượng ta chưa được phát triển cao, cứ sau mỗi chiến dịch hoặc các đợt chiến đấu tập trung, các đơn vị chỉ để lại một bộ phận duy trì hoạt động thường xuyên. Còn đại bộ phận rút về căn cứ để chỉnh huấn chính trị, huấn luyện quân sự bổ sung quân số và trang bị rồi lại hoạt động tiếp. Điều này đã thành quy luật, không thể làm khác được. Vì thế mà sau các chiến dịch, kẻ địch lợi dụng lúc ta hết lương thực, đạn dược, lực lượng bị tiêu hao, điên cuồng phản kích. Một số mục tiêu ta vừa mới giải phóng, bị địch “líp” lại, đã gây không ít khó khăn cho phong trào cách mạng của quần chúng ở một số địa phương.

Nhưng từ năm 1973 đến đầu năm 1975, bộ đội giải phóng đến đâu, kết hợp với phong trào đấu tranh của quần chúng, trụ lại ở vùng đồng bằng chiến đấu cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Tháng 10 năm 1974, Quân khu 5 triệu tập cán bộ từ trung đoàn trở lên về dự hội nghị tổng kết, đánh giá tình hình từ sau ngày ký kết Hiệp định Paris. Đoàn cán bộ của sư đoàn 3, do đồng chí Trần Bá Khuê, sư đoàn trưởng dẫn đầu. Đoàn bao gồm thủ trưởng 4 cơ quan sư đoàn, các đồng chí chỉ huy về quân sự, chính trị của các đơn vị trực thuộc.

Cùng đi với đoàn cán bộ của sư đoàn bộ binh 3 về Quân khu dự hội nghị quân chính, có cả một số nhà văn, nhà thơ quân đội, như anh Nguyễn Chí Trung, chị Bùi Thị Chiến, anh Nguyễn Trí Huân... Tất cả trên ba mươi người. Khi đi ra Quân khu, hoàn toàn đi bộ; nhưng khi quay về được đi bằng ô tô, theo một nhánh đường Trường Sơn. Anh em chúng tôi thường gọi là “đường dây Trung ương”.

Ngày ấy, các chiến trường trên toàn miền đang đi vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Nhu cầu cung cấp về lực lượng, binh khí kỹ thuật, lương thực, đạn dược rất lớn. Đoàn 559 bộ đội Trường Sơn đã nỗ lực phi thường mở rất nhiều nhánh đường, từ trục đường chính Đông Trường Sơn, Tây Trường Sơn đến các địa bàn trên chiến trường Nam bộ, miền Đông Nam bộ và Liên khu 5. Ở Quân khu 5, chúng tôi đã có thể nhận gạo, đạn... của miền Bắc tại các vùng giáp ranh đồng bằng với miền núi.

Anh Nguyễn Tiến Trình (mật danh của đồng chí Đoàn Khuê) Phó Tư lệnh Quân khu cũng đi với đoàn cán bộ sư đoàn 3 để chỉ đạo triển khai nhiệm vụ sắp đến.

Trước đó, Đảng bộ Quân khu đã họp Đại hội lần thứ ba (từ ngày 15 đến 27-12-1973) quán triệt nghị quyết XXI của Trung ương Đảng, đề ra phương hướng nhiệm vụ của Quân khu trong tình hình mới.

Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 5 chủ trương mở một đợt hoạt động mạnh, nhằm tiêu diệt một số cứ điểm chi khu, quận lỵ, phá vỡ từng hệ thống phòng ngự cơ bản của địch... Hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương và phong trào nổi dậy của quần chúng phá thế kìm kẹp của địch.

Chủ trương của quân khu, phù hợp với quy luật chiến tranh trong tình hình mới. Từ chỗ đánh nhỏ, phân tán, kết hợp ba thứ quân để phát triển lực lượng ngày càng lớn mạnh, đến hình thành những chiến dịch, những đợt hoạt động, với hàng loạt những trận đánh vang dội. Vừa tiến công địch bằng quân sự, vừa xây dựng và phát triển thành phong trào nổi dậy của quần chúng, đấu tranh chính trị trực diện với địch, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh của chúng. Địch bị tiêu diệt ngoài công sự lúc đi càn quét, nống lấn, giải tỏa, phản kích ngày càng nhiều. Đến lúc chúng phải co cụm trong các căn cứ để phòng ngự, chống đỡ, nhằrn bảo toàn lực lượng. Đến lúc này, trên chiến trường tất yếu sẽ dẫn đến những trận đánh tập trung của quân ta, tiêu diệt sinh lực, phá vỡ thế phòng ngự của địch, đưa cuộc chiến tranh sang bước ngoặt mới, mang tính quyết định thắng lợi chiến tranh, như chiến dịch Điện Biên Phủ, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trong chiến tranh chống Pháp trước đây.

Tôi cũng được triệu tập về Quân khu dự hội nghị và được phân công báo cáo chiến lệ về trận tiến công đánh chiếm đèo Nhông trước hội nghị. Chúng tôi hiểu được phần nào về tầm quan trọng của cuộc họp cán bộ ở quân khu lần này.

Những ngày dự hội nghị Quân chính ở Quân khu 5 thực sự rất bổ ích đối với tôi. Qua báo cáo sơ kết của cơ quan Quân khu và các Tư lệnh chiến trường, tôi thấy được một cách khái quát cục diện chiến trường toàn miền nói chung, trên chiến trường Liên khu 5 nói riêng, đã nâng cao được tầm nhìn về chiến cuộc, chiến dịch và triển vọng vô cùng sáng sủa đang tiến gần của cách mạng giải phóng miền Nam.

Sau cuộc họp, chúng tôi thấy phấn chấn, nôn nao. Ai cũng muốn về nhanh đơn vị để triển khai các kế hoạch.

Trên đường đi, anh em trong đoàn thường hay trêu chọc tôi với chị Bùi Thị Chiến - nhà văn. Thế rồi, sau khi bế nạc hội nghị ở Quân khu, trước khi về đơn vị, tôi nhận được mấy dòng ngắn ngủi của Bùi Thị Chiến - Chiến viết rằng: “... Em vẫn còn giữ mãi cái nhìn và nụ cười gần gũi của anh!...”. Cảm ơn Bùi Thị Chiến, chúng mình tạm chia tay, về lại chiến trường, nơi đang rất cần đến chúng ta...

Trên đường về đơn vị, anh Biền cho tôi biết: Quân khu đã quyết định bổ nhiệm tôi làm cán bộ trung đoàn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:09:17 pm »


Cuối năm 1974, tôi nhận quyết định Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn bộ binh 12. Khi tôi về đây, anh Lê Văn Thái, trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Trọng Di, chính ủy. Trước đó, anh Nguyễn Duy Thương, trung đoàn trưởng, anh Lê Huấn, chính ủy. Hai anh được điều về sư đoàn nhận nhiệm vụ mới.

Cả sư đoàn bộ binh 3 được lệnh chuyển hướng hoạt động phía Nam tỉnh Bình Định - chiến trường đường số 19, với nhiệm vụ:

* Tiêu diệt lần lượt toàn bộ các cứ điểm chốt bảo vệ đường 19, từ chi khu quận lỵ An Khê tỉnh Gia Lai đến chi khu quận lỵ Phú Phong tỉnh Bình Định. Cắt đứt hoàn toàn đường 19, chủ yếu đèo An Khê, từ cầu Vườn Xoài đến Suối Vối

* Kéo sư đoàn 22 Sài Gòn ra phản kích, giải tỏa để tiêu diệt, không cho chúng tăng viện lên Tây Nguyên theo đường 19 và tiêu diệt địch từ Tây Nguyên theo đường 19 xuống Quy Nhơn, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy, giải phóng vùng đồng bằng. Quân khu tăng cường cho sư đoàn bộ binh 3 lữ đoàn công binh 40 mở đường cho cơ giới cơ động từ Nam Quảng Ngãi vào đến huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định.

* Sư đoàn còn được bổ sung trung đoàn pháo xe kéo gồm một tiểu đoàn lựu pháo 122mm, một tiểu đoàn pháo nòng dài 85mm, một tiểu đoàn pháo phòng không 37mm. Sư đoàn mở một con đường cho xe, pháo cơ động từ huyện Hoài Ân đến huyện Vĩnh Thạnh.

Tháng 12 năm 1974 sư đoàn đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị. Đầu tháng hai, năm 1975, tại huyện Vĩnh Thạnh, Bộ tư lệnh sư đoàn báo cáo quyết tâm với đồng chí Chu Huy Mân, tư lệnh Quân khu 5. Sư đoàn xác định nhiệm vụ cho các đơn vị như sau:

* Trung đoàn bộ binh 12 được tăng cường một đại đội pháo 85 mm, 3 khẩu; một đại đội cối 120mm, 2 khẩu và được pháo binh sư đoàn chi viện, có nhiệm vụ lần lượt tiêu diệt các cứ điểm chốt của địch hai bên trục đường 19 từ cao điểm 105 đến núi Cây Rui, bao gồm cao điểm 105, Chóp Vung, đồi RaĐa (tức Hòn Kiềng), Mâm Xôi, Cây Rui và các chốt sườn phía Nam dãy núi Ông Bình, bắc đường 19. Cắt đứt hoàn toàn đoạn đường đèo An Khê. Khi có thời cơ tiến công giải phóng chi khu quận lỵ An Khê. (Ba khẩu pháo 85mm, sau đó được kéo lên đặt ở sườn Nam dãy núi Ông Bình, ngắm bắn trực tiếp xuống các cứ điểm của địch ở đồi Mâm Xôi, Hòn Kiềng, Chóp Vung, Cây Rui...)

* Trung đoàn bộ binh 141 được pháo binh, pháo phòng không sư đoàn trực tiếp chi viện, đêm N tấn công tiêu diệt cụm cứ điểm của tiểu đoàn Bảo An địch ở Truông Ổi, ấp Vườn Xoài (chân đèo An Khê tại tỉnh Bình Định). Sau đó cùng với trung đoàn bộ binh số 2 đánh địch phản kích ở khu vực này.

* Trung đoàn bộ binh số 2 là lực lượng cơ động của sư đoàn, nhiệm vụ chủ yếu là đánh địch phản kích, tăng viện ở khu vực Truông Ổi, ấp Vườn Xoài. Khi có thời cơ phát triển tiến công xuống hướng Quy Nhơn.

Đây là đợt hoạt động tập trung, nằm trong chiến dịch tấn công của quân khu 5 nói riêng, trên toàn chiến trường nói chung của sư đoàn bộ binh 3, có sử dụng đến pháo xe kéo đầu tiên từ sau ngày thành lập sư đoàn. Pháo 85 mm nòng dài, khi đưa lên điểm cao, vào gần mục tiêu trong tầm bắn 1 km, ngắm bắn trực tiếp, xác suất trúng mục tiêu rất cao, địch trong công sự không chịu nổi.

Trước khi chiến dịch mở màn, tháng 2 năm 1975, tại Sở chỉ huy sư đoàn ở huyện Vĩnh Thạnh, sư đoàn tổ chức giao nhiệm vụ và phổ biến kế hoạch hiệp đồng cho các đơn vị. Tại hội nghị cán bộ lần này thể hiện quyết tâm rất cao, bàn bạc rất kỹ, niềm vui lộ rõ trên khuôn mặt của từng người. Tình hình như vậy là đã rõ. Chiến tranh đã tạo cho con người khôn lên, nhạy bén hơn và kinh nghiệm hơn trong thực tế chiến đấu. Những người trong cuộc thường có những nhận định về thời thế trên từng phạm vi của mình rất sát với tình hình thực tế đã diễn ra và sẽ diễn ra. Ở đây, vào thời điểm này, chúng tôi đã cảm nhận được một sự thay đổi lớn lao về diễn biến tình hình trên chiến trường, về tương quan lực lượng giữa ta và địch... Trước đây, trên quốc lộ 19 này chỉ có trung đoàn bộ binh 95 đảm nhiệm đánh giao thông trên đoạn đèo Mang Giang, trung đoàn bộ binh 12 đảm nhiệm đoạn đèo An Khê. Dù mặt trận B3 mở chiến dịch ở Tây Nguyên, cũng vẫn là hai đơn vị trên làm nhiệm vụ phối hợp cắt đường 19. Nay Quân khu 5 và Bộ tổng tham mưu quyết định điều cả sư đoàn bộ binh 3, mở chiến dịch cắt đường 19. Điều đó cho thấy mục đích và tầm quan trọng của nhiệm vụ cắt giao thông lần này mang tầm vóc lớn lao. Cắt đứt đường 19 lần này là thực hiện chia cắt chiến lược có liên quan đến chiến trường miền Nam, là cắt đứt mọi sự liên hệ giữa vùng cao nguyên với vùng đồng bằng của địch.

Tiểu đoàn 6 lại vượt đường 19 sang địa bàn quen thuộc năm xưa. Nhưng lần này với một khí thế hoàn toàn khác trước. Trung đoàn 12 (thiếu tiểu đoàn 6) và một số đơn vị của sư đoàn (chủ yếu là pháo binh) chiếm lĩnh toàn bộ dãy núi Ông Bình, đưa pháo vào gần, lên cao để chế áp toàn bộ các cứ điểm của địch hai bên đường đèo trong phạm vi 9 km đường 19; đồng thời, kìm chế các trận địa pháo của địch ở Truông Ổi, Đồn Phó, cao điển 105... Việc đưa pháo vào gần, lên cao đã được Quân khu 5 đưa ra sau khi đúc kết kinh nghiệm của sư đoàn bộ binh 2 ở Quảng Nam - Đà Nẵng, của lữ đoàn 52 và trung đoàn 22 ở Ba Tơ, Gia Vụt, Minh Long, hoặc ở quận lỵ Hoài Ân của sư đoàn bộ binh 3, v.v...

Tiểu đoàn 6 sang phía nam đường 19 lần này, kéo luôn đường dây điện thoại từ sở chỉ huy trung đoàn ở bắc đường, luồn qua các cầu cống trên đường 19 sang phía nam. Đây là việc mà từ trước đến giờ chưa làm được. Tất cả mọi tình huống đều được xử trí mau chóng từ đơn vị cơ sở phân đội lên đến trung đoàn, sư đoàn và ngược lại. Đây là một thành công trong công tác bảo đảm của ngành thông tin liên lạc.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:10:35 pm »


Đầu năm 1975, sư đoàn bộ binh 3 đã triển khai xong trên mặt trận phía nam tỉnh Bình Định, trọng điểm là đường quốc lộ số 19. Bộ chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm chọn Tây Nguyên là hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong chiến dịch tổng lực mùa xuân 1975. Tất nhiên, lúc đó đâu có ai biết được. Mọi người chỉ phán đoán theo quy luật là mặt trận B3 mở chiến dịch, chúng tôi có nhiệm vụ cắt đường 19 để phối hợp.

Trước khi trận “điểm huyệt” then chốt vào Buôn Ma Thuột nổ súng vào ngày 10-3-1975, trên chiến trường toàn miền nói chung, trên chiến trường Quân khu 5 nói riêng, ta đã tiến công đồng loạt các mục tiêu căn cứ hành quân, chi khu quân sự của địch ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và các tỉnh cũ ở nam Đắc Lắc, đưa lực lượng áp sát các sân bay, thị xã và các thành phố lớn như Đà Nẵng, Chu Lai, Tam Kỳ, vào đến thị xã Quy Nhơn, kìm chân các sư đoàn, lữ đoàn chủ lực địch, không cho chúng chi viện lên chiến trường Tây Nguyên, sẵn sàng đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu của địch khi có thời cơ đến.

Một sự phối hợp tiến công trên toàn chiến trường miền Nam, buộc địch phải căng lực lượng ra đối phó. Tạo nên sự bất ngờ về chiến dịch mang tính chiến lược đối với Tây Nguyên nói chung và trận đánh Buôn Ma Thuột nói riêng. Phối hợp với Trung đoàn bộ binh 95, thuộc Quân khu 5, trung đoàn 12, nằm trong đội hình Sư đoàn 3, chốt chặt đường 19, đoạn đường đèo An Khê. Dưới sự chi viện của hỏa lực pháo binh Sư đoàn từ phía Bắc đường 19, trung đoàn 12 cùng các đơn vị đã đánh chiếm một loạt các cứ điểm từ Cây Rui xuống Mâm Xôi, Hòn Kiềng, Chóp Vung, cao điểm 105 phía Đông đèo An Khê và các chốt sườn phía Nam dãy núi Ông Bình. Trung đoàn bộ binh 141 đánh chiếm Truông Ổi, ấp Vườn Xoài, góp phần không nhỏ vào thắng lợi trên chiến trường Tây Nguyên.

Tại cứ điểm Hòn Kiềng, còn gọi là đồi RaĐa, địch có một đại đội. Phía bắc có con suối Dầu chảy qua. Phía bắc suối Dầu là đường 19 chạy ngoằn ngoèo theo sườn dãy núi Ông Bình để lên đỉnh đèo An Khê. Phía nam cứ điểm Hòn Kiềng là rừng liên hoàn. Có thể nói, ít có trận đánh nào có được yếu tố về địa hình thuận lợi như ở đây. Phía bắc đường 19, trận địa ĐKZ75 của trung đoàn 12 bố trí trên sườn núi Ông Bình, ngắm bắn trực tiếp vào cứ điểm ở Hòn Kiềng theo tà âm. Tiểu đoàn 6 sử dụng một đại đội, từ hướng nam, mở qua ba lớp rào kẽm gai, tiến công lên Hòn Kiềng. Sau khi mở xong cửa mở, bộ đội xung phong lên đánh chiếm. Hầu hết địch ở đây bị tiêu diệt. Số sống sót chạy xuống suối Dầu thoát thân. Trận này ta chỉ bị thương một đồng chí, do đạn cối 81mm của địch, đồng chí Đặng Thành Kính, tiểu đoàn phó, tiểu đoàn 6. Hòn Kiềng bị ta đánh chiếm. Bọn địch ở cứ điểm Chóp Vung gần đó bỏ chạy xuống cao điểm 105.

Ngày 4 - 3, tiểu đoàn 4 trung đoàn bộ binh 12, từ sườn phía nam dãy núi Ông Bình đã tiến công đánh chiếm một lúc ba điểm chốt của địch ở phía bắc đường đèo An Khê và chốt lại ở đỉnh đèo. Chốt Cây Rui ở gần đó phải tháo chạy. Trong thời điểm ta tiến công, địch đã tăng cường lên đường 19, (chủ yếu tập trung tại đèo An Khê xuống đến huyện Bình Khê) trung đoàn 47 thuộc sư đoàn 22 cộng hòa cùng với liên đoàn bảo an số 927, thiết lập hệ thống chốt dày đặc để bảo vệ trục đường 19. Chỉ tính riêng 10 - 15 km đèo An Khê, từ núi Cây Rui xuống cống Hang Dơi và cao điểm 105 có từ 12 - 15 điểm chốt. Hầu hết các chốt của địch đều chiếm lĩnh trên điểm cao. Tuy nhiên, do đặc điểm về địa hình ở đây, có khi ta chỉ cần đánh chiếm một số mục tiêu then chốt thì toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch sẽ bị rung động. Thực tế đó là khi tiểu đoàn 4 đánh chiếm 3 điểm chốt sườn phía nam núi Ông Bình, bắc đường 19 thì chốt Cây Rui phía nam đỉnh đèo tháo chạy, và khi tiểu đoàn 6 đánh chiếm Hòn Kiềng thì Chóp Vung gần đó tháo chạy xuống cao điểm 105. Tại cao điểm 105 có sở chỉ huy nhẹ của trung đoàn 47 và tiểu đoàn bảo an số 209 chiếm giữ. Mỗi khi trên đường đèo bị ta tiến công, địch thường kéo pháo lên khu vực cao điểm 105 để chi viện cho lực lượng của chúng. Ngày 8 - 3, tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 47 của địch đóng ở ấp Vườn Xoài bị tiểu đoàn 3, trung đoàn bộ binh 2 của ta đánh chiếm lần 2, chúng cũng dựa vào cao điểm 105 làm bàn đạp để phản kích, chiếm lại.

Sau khi đánh chiếm Hòn Kiềng, tiểu đoàn 6, trung đoàn bộ binh 12 cơ động xuống, áp sát cao điểm 105 (mỏm phía tây); tiểu đoàn 2 trung đoàn bộ binh 2 phối hợp tiến công mỏm phía đông. Ngày 10 - 3 hai tiểu đoàn ta đã đánh chiếm và làm chủ dãy cao điểm 105. Mất cao điểm 105, mọi cuộc phản kích hòng chiếm lại ấp Vườn Xoài của địch đều bị thất bại. Tình hình diễn ra từ Đồn Phó xuống xã Bình Tường cũng tương tự. Quân ta đã lần lượt đánh chiếm hầu hết hệ thống chốt bảo vệ giao thông đường 19 của địch. Ta đã đạt được 2 mục tiêu là cắt đứt giao thông tiếp tế của địch lên Tây Nguyên và loại khỏi vòng chiến đấu trung đoàn 47 sư đoàn 22 Cộng hòa và liên đoàn Bảo an số 927. Tình hình trên khu vực tác chiến cho thấy, tuy địch tập trung một lực lượng khá lớn (từ 8 - 10 tiểu đoàn bộ binh, 3 chi đoàn xe tăng, thiết giáp), thiết lập một hệ thống chốt kết hợp với cơ động để bảo vệ đường 19; song lực lượng của chúng bị dàn mỏng trên một tuyến (dọc trục đường 19) dễ bị chia cắt, khi bị ta đánh chiếm những mục tiêu then chốt, có ý nghĩa về chiến dịch, chiến thuật, cộng với tinh thần đang hoang mang, dao động thì toàn bộ hệ thống phòng thủ của chúng sẽ mau tan rã.

Rạng sáng ngày 17-3-1975, trung đoàn bộ binh 12 tiến vào An Khê diệt và bắt gần hai ngàn tên địch, thu 1500 súng, có 6 khẩu pháo 155 và 105 mm, 2 cối 106,7 mm, 6 xe tăng, xe bọc thép và nhiều quân trang, quân dụng, góp phần giải phóng hoàn toàn tỉnh Gia Lai1.

Đây là trận đánh tập trung của trung đoàn bộ binh 12, được hỏa lực pháo binh và pháo phòng không của sư đoàn chi viện. Trung đoàn đã hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ ở khu vực đường 19. Cao nguyên bị thất thủ, đường số 19 bị cắt đứt, đường 21 cũng bị ta chặn đánh tại đèo Khánh Dương, đèo Phượng Hoàng, buộc địch phải chọn đường số 7 (là con đường về Củng Sơn đã bỏ từ lâu) hòng tháo chạy xuống tỉnh Phú Yên, nhưng đã bị các lực lượng của ta vận động đánh tơi bời không thoát được. Một bộ phận địch từ tỉnh Kontum, Gia Lai, băng rừng hòng tháo chạy xuống Quy Nhơn bị ta đánh tan tác ở hai đoạn đường đèo Mang Giang và An Khê.
____________________________________
1. Sư đoàn Sao Vàng-Nxb. QĐND - 1984.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:11:06 pm »


THAM GIA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH

Cuộc chiến tranh nào dù sớm hay muộn cũng có ngày kết thúc. Thế hệ chúng tôi vinh dự được tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đầu năm 1975, ta mở chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, những thất bại liên tiếp trên các chiến trường gây tâm lý hoang mang, hoảng loạn đối với địch. Diễn biến trên chiến trường Tây Nguyên làm cho chính quyền trung ương của Nguyễn Văn Thiệu thêm lúng túng. Cuộc tháo chạy chiến lược của địch khỏi Tây Nguyên sau khi bị mất Buôn Ma Thuột, đã tác động mạnh mẽ đến hệ thống phòng thủ của địch trên toàn chiến trường miền Nam nói chung, các tỉnh duyên hải miền Trung nói riêng.

Khí thế tiến công của quân ta mạnh như chẻ tre. Anh em lính vận tải, mang đạn từ phía sau ra phía trước, khiêng cáng thương binh dọc đường cũng bắt sống được tù binh. Dọc đường địch bỏ lại xe, pháo, mũ mão, giày dép, áo quần, súng đạn ngổn ngang.

Trước đây không lâu, bộ đội chúng tôi còn đi thu nhặt từng khẩu súng, từng quả lựu đạn để tính thành tích thu chiến lợi phẩm. Nay thì thu không xuể, mà toàn là những trang bị vũ khí, phương tiện tối tân, hiện đại như xe tăng, thiết giáp, pháo hạng nặng... Địch vừa tháo chạy vừa ngăn chặn ta từng bước. Ngăn chặn để tháo chạy, đó là sức chiến đấu của kẻ chiến bại, một đội quân khi đã vỡ thế trận, đã mất hết tinh thần thì sức kháng cự còn được bao nhiêu trước sự tiến công như vũ bão của quân ta?

Dọc đường tiến quân, truy kích địch, chúng tôi tổ chức lực lượng dập tắt các ổ đề kháng của chúng để tiến về phía trước. Phía sau giao cho lực lượng tại chỗ và cơ quan hậu cần, kỹ thuật, thu dọn chiến trường. Hai trung đoàn bộ binh số 2 và 12 phối hợp tiến công dọc theo trục đường quốc lộ số 19 xuống Diêu Trì, Quy Nhơn và căn cứ huấn luyện An Sơn của sư đoàn 22 địch.

Cuối tháng 3 năm 1975, sau khi trung đoàn bộ binh 12 hoàn thành nhiệm vụ trên đường 19, tôi được điều động sang trung đoàn bộ binh 2, vẫn cương vị là phó trung đoàn trưởng. Chỉ huy trung đoàn 2 lúc này là đồng chí Đoàn Mai Ngữ, quyền trung đoàn trưởng, thay đồng chí Vũ Quang Trắc đi công tác. Chỉnh ủy trung đoàn là đồng chí Nguyễn Văn Chước, Phó chính ủy là anh Lê Văn Quýt.

Địa bàn chiến lược Tây Nguyên bị mất, trục đường quốc lộ số 1 từ Trị Thiên Huế đến tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa bị cắt nhiều khúc. Các mục tiêu địch ở các thành phố, thị xã bị đánh chiếm, bị cô lập. Tại chiến trường Nam Bình Định, ta đã làm chủ hoàn toàn các huyện Vĩnh Thạnh, Bình Khê, Vân Canh, Tuy Phước... Và chiếm lĩnh tuyến An Sơn - Diêu Trì - Phú Tài - Quy Nhơn.

Toàn bộ sư đoàn 3 tiếp tục tiến công, truy kích địch vào phía nam.

Trên đường tiến quân, các đơn vị ta, lúc thì cơ động trên trục đường quốc lộ số 1, khi thì băng rừng, đón đầu địch, vượt lên phía trước để nâng cao tốc độ tiến công. Đến thị trấn Ninh Hòa, thuộc tỉnh Khánh Hòa, nơi ngã ba đường quốc lộ số 1 và 21, chúng tôi vừa dừng lại củng cố đội hình, thì được lệnh tiến công tiếp.

Khi đội hình chiến dịch đến huyện Du Long tỉnh Ninh Thuận, địch đã thiết lập tại đây tuyến ngăn chặn phía Bắc thị xã Phan Rang, sân bay Thành Sơn.

Thị xã Phan Rang và sân bay Thành Sơn thuộc tỉnh Ninh Thuận. Phía Bắc và Tây Bắc là huyện lỵ Du Long và ấp Bà Râu, địch đã thiết lập tuyến phòng thủ hình vòng cung để bảo vệ Phan Rang, sân bay Thành Sơn - phía Đông có cảng biển Ninh Chữ. Khi nguy cơ bị tiêu diệt, địch có thể tháo chạy ra hướng biển. Trong thời điểm hiện tại, địch ở Phan Rang có liên đoàn biệt động số 6, lữ đoàn dù số 3, sư đoàn không quân số 6, trung đoàn 22 mới được khôi phục lại và lực lượng địa phương quân.

Sư đoàn bộ binh 3 Quân khu 5 được tiền phương Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ tiến công giải phóng thị xã Phan Rang trong điều kiện thời gian chuẩn bị gấp. Sư đoàn được tăng cường trung đoàn bộ binh 25, Tây Nguyên. Trong quá trình tiến công, sư đoàn được tăng cường một tiểu đoàn xe tăng - thiết giáp của quân đoàn 2 để nâng cao tốc độ tiến công. Như vậy đánh vào thị xã Phan Rang có tất cả 4 trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh hỗn hợp (gồm pháo 85, 105, 155 mm) 36 khẩu, cối 120mm, 16 khẩu, ĐKZ 75mm 16 khẩu và một tiểu đoàn pháo cao xạ 37mm 12 khẩu.

Sư đoàn tổ chức 3 mũi. Mũi thứ nhất tiến công đánh chiếm ấp Bà Râu từ hướng tây và tây bắc sau đó tiến ra đường số 1 và đường sắt. Đây được xác định là hướng chủ yếu, không đột phá chính diện theo trục đường số 1, mà từ căn cứ Bác Ái tiến công vào ấp Bà Râu, bên sườn trái hệ thống phòng thủ của địch ở Phan Rang. Mũi này do trung đoàn bộ binh số 2 đảm nhiệm. Mũi thứ hai tiến công tiêu diệt quận lỵ Du Long, do trung đoàn bộ binh 12 đảm nhiệm. Mũi thứ ba tiến công vào sân bay Thành Sơn do trung đoàn bộ binh 25 được tăng cường tiểu đoàn pháo 85 và tiểu đoàn pháo cao xạ 37 mm đảm nhiệm. Trung đoàn bộ binh 141 làm nhiệm vụ thọc sâu vào núi Quýt - cảng Ninh Chữ, chặn đường rút lui của địch ra biển. Phối hợp với các mũi tiến công lên thị xã Phan Rang.

Trải qua chặng đường dài, hành quân truy kích địch từ Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, đêm 13 tháng 4 năm 1975, đội hình sư đoàn 3 đã vào đến tuyến tiếp giáp với địch phía Bắc thị xã Phan Rang. Sở chỉ huy trung đoàn 2 chúng tôi đã triển khai trên sườn núi đá phía tây - bắc ấp Bà Râu. Đứng ở đây, ta có thể thấy rõ được rìa ấp phía Bắc, nơi đối diện với đội hình tiến công của quân ta. Những ánh chớp, kèm theo tiếng nổ xuất hiệu liên tục trên các hướng. Địch kéo pháo ra đặt trên đường số 1, bắn như điên, như dại dọc đường và những nơi chúng nghi có quân ta tiếp cận.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:13:00 pm »


5 giờ sáng ngày 14-4, lực lượng của trung đoàn bộ binh 2 đã áp sát ấp Bà Râu. Pháo binh ta đang chế áp mãnh liệt vào thị xã Phan Rang, sân bay Thành Sơn. Lúc này, sở chỉ huy trung đoàn có anh Đoàn Mai Ngữ, trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Chước, chính ủy, anh Lê Văn Quýt, phó chính ủy và tôi. Chúng tôi hội ý chớp nhoáng và phân công nhau đi xuống các mũi, các hướng.

Lúc 9 giờ 30 ngày 14-4-1975, trung đoàn 2 nổ súng tiến công ấp Bà Râu. Tôi theo một mũi tiến công từ phía tây vào ấp. Vừa từ ngoài đồng ruộng khô bước vào bờ hào rìa ấp đã thấy xác hai tên lính mặc quần áo rằn ri, nằm đè lên nhau, vắt qua bờ ấp, bên cạnh một hố đất cháy xám. Có thể mấy tên địch chết do một quả B40 của bộ đội ta khi tiến công vào ấp. Trung đoàn bộ binh 2 làm chủ hoàn toàn ấp Bà Râu, tiến ra đường quốc lộ số 1 và đường tàu hỏa. Súng nổ dữ dội, khắp nơi. Cuộc chiến đấu quyết liệt với địch từ quận lỵ Du Long dọc theo đường số 1, trên các điểm cao phía đông đường của các lực lượng sư đoàn 3 kéo dài đến tối.

Tuyến phòng thủ của địch Du Long - ấp Bà Râu - Thành Sơn, cơ bản bị đập tan. Để nâng cao tốc độ tiến công ngày 15 tháng 4, Bộ tăng cường cho sư đoàn một tiểu đoàn xe tăng của quân đoàn 2.

Cánh cửa phía bắc đã mở, quân ta tiến công như vũ bão vào thị xã Phan Rang - sân bay Thành Sơn. Ngày 16-4-1975 tỉnh Ninh Thuận được hoàn toàn giải phóng. Toàn bộ lực lượng địch ở đây bị quân ta tiêu diệt, bắt sống, tan rã. Ta thu toàn bộ máy bay, trên 30 chiếc tại sân bay Thành Sơn, hàng chục khẩu pháo các loại và các phương tiện chiến tranh khác của địch.

Phải nói rằng: Địch chọn tuyến ấp Bà Râu - Du Long làm lá chắn trong hệ thống phòng thủ Phan Rang - Tháp Chàm là rất lợi hại. Trên hướng chính diện, chúng dựa vào chi khu quận lỵ Du Long, dọc phía đông quốc lộ số 1 vào Phan Rang có dãy cao điểm khống chế. Địch hoàn toàn chiếm địa hình có lợi tại khu vực này. Phía tây, liên hoàn với ấp Bà Râu, xung quanh đối diện với đội hình tiến công của ta là cánh đồng trống, tiếp đến là tuyến chiến hào rìa ấp. Chính vì thế mà đã gây không ít khó khăn cho ta trong quá trình đột phá tiến công.

Sư đoàn bộ binh 3, sau khi cùng với các lực lượng của chiến dịch, tiến công giải phóng thị xã Phan Rang, được giao nhiệm vụ quân quản, tổ chức tuyên truyền, vận động quần chúng, ổn định trật tự, lùng sục tàn binh địch và thu dọn chiến trường - một nhiệm vụ khá phức tạp trong tình hình lúc đó.

Được nhân dân báo tin: ở vườn chuối, dọc con mương nước phía tây, thị xã Phan Rang có một toán địch đang lẩn trốn. Chúng tôi phái ngay một đại đội thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn 2 đến bao vây, lùng sục. Quả nhiên, sau một hồi tìm kiếm, một tổ ba đồng chí, gồm Loan, Mưu, Quân, do đồng chí Loan làm tổ trưởng, bắt gọn Bộ chỉ huy tiền phương quân khu Ba của địch tại khu vực Bửu Sơn; trong đó có thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, tư lệnh vùng 3 chiến thuật, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn không quân số 6, một đại tá cố vấn quân sự Mỹ và hàng chục sĩ quan cấp tá khác1.

Ngay lập tức, tin trung đoàn 2 bắt được tướng ngụy và cố vấn Mỹ được báo cáo lên Bộ tư lệnh chiến dịch.

Chúng tôi đưa bộ ba tướng, tá này vào một ngôi nhà bỏ trống tại thị xã Phan Rang. Cùng lúc, trên bầu trời chiếc máy bay trinh sát (L19) quần lượn nhiều vòng, có lẽ chúng đang cố gắng tìm hai tên tướng ngụy và cố vấn Mỹ để giải thoát. Nhưng vô vọng. Các loại súng phòng không của ta bắn lên. Chiếc máy bay bay vút lên cao rồi chuồn thẳng vào phía nam.

Ba tên sĩ quan cao cấp bị bắt thuộc Bộ tư lệnh quân đoàn Ba của quân đội Sài Gòn vừa được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phái ra lập tuyến phòng thủ ở Phan Rang để bảo vệ Sài Gòn từ xa. Chúng tôi đang khai thác hai tên tướng ngụy để phục vụ cho chiến đấu trước mắt, thì nhận được điện của Bộ tư lệnh sư đoàn, đưa ngay tù binh về Bộ tư lệnh chiến dịch.

Trong tình hình hiện nay, việc bắt gọn được tên cố vấn Mỹ và cả bộ tư lệnh phòng thủ của địch trên hướng tiến công chủ yếu vào mục tiêu chiến lược cuối cùng là Sài Gòn - Gia Định, là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong ý đồ tiếp theo của quân ta.

Sự việc diễn ra bất ngờ, đến nỗi khi chúng tôi báo cáo lên cấp trên, Bộ tư lệnh và cơ quan chiến dịch chưa tin, chỉ thị xuống cho sư đoàn thẩm tra lại. Khi đã được khẳng định tin này, từ Bộ tư lệnh sư đoàn đến Bộ tư lệnh và cơ quan tiền phương Bộ tổng tham mưu đều vui mừng và xúc động không sao tả hết.

Ngay lập tức, tin sư đoàn 3 bắt được cố vấn Mỹ và Bộ chỉ huy phòng thủ của địch tại Phan Rang - được báo cáo lên Tổng tư lệnh - Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đồng thời tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn chỉ thị cho sư đoàn 3:

* Canh giữ tù binh chặt chẽ, không để chúng trốn thoát.

* Chấp hành nghiêm chỉnh chính sách đối với tù binh, cho ăn uống tử tế, động viên chúng an tâm.

* Tổ chức lực lượng tin cậy, áp giải ra Bộ.

Đêm hôm đó (16/4) sư đoàn 3 nhận được điện khẩn của Bộ Tổng tham mưu với nội dung phải đưa và hộ tống những tù binh sau đây ra Hà Nôi:

1, Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi.

2, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.

3, Đại tá cố vấn Mỹ

4, Đại tá Lã Xuân Thu (Lữ trưởng lữ dù số 3)

Bộ sẽ thông báo và ra lệnh cho các đơn vị đang hành quân trên đường số 1 giúp đỡ và tạo điều kiện cho sư đoàn 3 đưa tù binh ra Hà Nội an toàn và nhanh nhất.

Sau đó, Đại tướng tổng tư lệnh cũng gửi điện khẩn cho sư đoàn và dặn thêm: “Cầm bức điện này để tiện giao dịch trên đường”.

Sư đoàn đã tổ chức 2 chiếc xe và 12 đồng chí trinh sát, cảnh vệ được lựa chọn kỹ, do đồng chí Võ Khắc Vẽ, trưởng ban trinh sát sư đoàn trực tiếp chỉ huy, đi ra Hà Nội an toàn, theo đúng kế hoạch.
___________________________________________
1. Ký ức Sư đoàn 3 - Tập 2 - Nxb. QĐND - 2005: Xem bài “Chúng tôi bắt tướng nguỵ thế nào” của Nguyễn Văn Quân - trang 288.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:15:05 pm »


Ngày 26-4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu với quyết tâm là “Thần tốc, táo bạo, giải phóng Sài Gòn trong thời gian ngắn nhất - trước mùa mưa”.

Đúng với tư tưởng chỉ đạo là “Thần tốc”, trên đường hành tiến, chúng tôi gặp bất cứ phương tiện gì thì sử dụng ngay phương tiện đó để tiến lên phía trước, chạy đua với thời gian. Các loại xe của nhân dân đều được trưng dụng để chuyển quân. Nhân dân lúc ấy sẵn sàng giúp đỡ bộ đội. Chúng tôi chỉ cần ghi cho họ mấy dòng chữ: “Người này đã giúp đỡ quân giải phóng trên đường tiến công địch”. Họ rất vui mừng và tự hào, vì được giúp đỡ cách mạng. Quân ta tiến công như vũ bão trên khắp các mặt trận hướng về Sài Gòn.

Phòng tuyến Phan Rang bị thất thủ, địch dồn mọi lực lượng lùi về cố thủ tại Xuân Lộc - Đồng Nai và thị xã Bà Rịa. Trong khi đó, trên các hướng, quân ta đang nỗ lực tiến về Sài Gòn. Lực lượng của địch căng ra, lo đối phó, không chi viện được cho nhau.

Sư đoàn bộ binh số 3, thuộc Quân khu 5 trong cánh quân duyên hải tiến công giải phóng thị xã Phan Rang. Từ đây sư đoàn nằm trong đội hình Quân đoàn 2, đảm nhiệm tiến công địch trên hướng đông nam Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Khi đội hình sư đoàn 3 tập kết tại Rừng Lá, quân đoàn 4 đã làm chủ khu vực Trảng Bom, theo quốc lộ 20 tiến công đánh chiếm ngã ba Dầu Dây. Sân bay Biên Hòa bị chế áp. Phòng tuyến bảo vệ Sài Gòn trên hướng Bắc, dọc quốc lộ 1 mà địch tập trung mọi cố gắng thiết lập tại Xuân Lộc đã bị chia cắt bởi 2 cánh quân ta: Phía đông nam là quân đoàn 2, phía tây là quân đoàn 4 và có nguy cơ bị bao vây từ hướng Bà Rịa, Xuyên Mộc. Sư đoàn 18 và các lực lượng địch tại Xuân Lộc vô cùng hoang mang, tuyệt vọng. Chúng dồn mọi khả năng trong bước đường cùng hòng ngăn chặn bước tiến công của quân ta, tạo cơ hội cho Sài Gòn di tản. Vì vậy cuộc chiến đấu ở đây vẫn không kém phần quyết liệt.

Những ngày này, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, cực Nam Trung bộ và Nam bộ vô cùng sôi động.

Không chịu nổi trước sức mạnh tiến công của quân ta, ngày 21 tháng 4, sư đoàn 18, lữ đoàn Ky binh thiết giáp, 1 liên đoàn biệt động và các lực lượng khác của địch tháo chạy khỏi Xuân Lộc. Tỉnh Long Khánh được hoàn toàn giải phóng.

Đội hình Quân đoàn 2 trong chiến dịch Hồ Chí Minh hướng đông nam Sài Gòn gồm có: Sư đoàn bộ binh 304, 325, 3, lữ đoàn pháo binh, lữ đoàn pháo cao xạ, lữ đoàn xe tăng.

Tư lệnh Quân đoàn Nguyễn Hữu An và chính ủy Lê Linh giao nhiệm vụ cho sư đoàn 3 như sau:

“Sư đoàn 3 được tăng cường một đại đội xe tăng T54 (5 chiếc); một đại đội pháo 130 mm (4 khẩu); một đại đội pháo phòng không 100mm (4 khẩu) có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tỉnh Phước Tuy (nay là Bà Rịa) và thành phố Vũng Tàu. Sau đó sẵn sàng ra giải phóng một số đảo như Cần Giờ, Côn Sơn, khi có lệnh. Hiệp đồng chặt chẽ với sư đoàn bộ binh 325 quân đoàn 2 bên cánh phải ở Long Thành, Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ...”

Quyết tâm của đảng ủy và bộ tư lệnh sư đoàn 3 được xác định như sau: Tập trung mọi lực lượng của sư đoàn và lực lượng tăng cường, trước mắt tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, giải phóng tỉnh Phước Tuy. Mục tiêu chủ yếu là dinh tỉnh trưởng, trường hạ sĩ quan Vạn Kiếp, nhanh chóng chiếm giữ cầu Cỏ May, tạo thế để tiến công tiếp xuống thành phố Vũng Tàu.

Nhiệm vụ tiếp theo là tiến công giải phóng Vũng Tàu.


Nhiệm vụ của các đơn vị:

* Trung đoàn bộ binh 141, được tăng cường đại đội xe tăng, được cụm pháo binh sư đoàn chi viện, tiến công trên hướng chủ yếu của sư đoàn, tiêu diệt và làm tan rã quân địch ở thị xã Bà Rịa, nhanh chóng phát triển chiếm cầu Cỏ May. Mục tiêu chủ yếu là dinh tỉnh trưởng. Sau đó làm lực lượng dự bị, sẵn sàng bước vào chiến đấu, giải phóng thành phố Vũng Tàu.

* Trung đoàn bộ binh 12 được chi viện hỏa lực của cụm pháo binh sư đoàn, tiến công tiêu diệt chi khu quận lỵ Đức Long, huyện Đất Đỏ, phát triển đánh chiếm chi khu quận lỵ Long Điền, khu căn cứ của sư đoàn 18 địch ở Phước Tỉnh. Sau đó cơ động đánh chiếm thành phố Vũng Tàu bên cánh trái của sư đoàn.

* Trung đoàn bộ binh số 2, giai đoạn trước mắt làm lực lượng dự bị của sư đoàn, giai đoạn tiếp sau làm lực lượng chủ yếu, tiến công theo trục đường số 51, giải phóng thành phố Vũng Tàu.

Ngày 28 tháng 4, lực lượng quân đoàn 3 Sài Gòn cùng với các lữ đoàn xe tăng thiết giáp, các lữ đoàn thủy quân lục chiến lùi về thiết lập tuyến ngăn chặn Hố Nai - Biên Hòa - Long Bình, trực tiếp bảo vệ Sài Gòn từ hướng đông và đông bắc.

Ngày 29 tháng 4, trên các hướng khác, các binh đoàn chủ lực của ta cùng đồng loạt tiến công, hình thành thế bao vây và tiến dần đến mục tiêu cuối cùng là Sài Gòn - Gia Định. Hướng bắc, Quân đoàn 1 đã tiến đến sông Bé, vượt qua các tuyến phòng thủ của địch, áp sát đến Lái Thiêu. Hướng tây bắc, Quân đoàn 3 đánh chiến căn cứ Đồng Dù, trường huấn luyện Quang Trung (Hóc Môn). Hướng tây nam, đoàn 232 cũng đã giải phóng thị xã Hậu Nghĩa và tiến đến vùng ven thành phố1.

Trên hướng Bắc - Đông Bắc Sài Gòn, Quân đoàn 4 đã phá vỡ được tuyến ngăn chặn Hố Nai - Long Bình, chế áp mãnh liệt sân bay Biên Hòa. Trên hướng của Quân đoàn 2, quân ta tập trung mọi cố gắng tiến công vào căn cứ Nước Trong, trường huấn luyện thiết giáp. Ở đây địch chống cự quyết liệt. Một cánh quân tiến công đánh chiếm thị trấn Long Thành, mở đường thọc xuống Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, Cát Lái.
_____________________________________
1. Lịch sử Quân đoàn 4 - Nxb. QĐND 6/2004.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:15:42 pm »


Tại thị xã Bà Rịa, tàn quân của sư đoàn 18 Sài Gòn, lữ đoàn Kỵ binh thiết giáp 3 từ Xuân Lộc rút về, cùng với lính dù, lính thủy quân lục chiến, tập trung tại căn cứ huấn luyện Vạn Kiếp chống trả quyết liệt. Trung đoàn 141 được tăng cường 5 chiếc xe tăng cùng trung đoàn bộ binh 12, phải đột phá liên tục vào thị xã Bà Rịa. Hai xe tăng của ta đã bị bắn cháy, bắn hỏng ngay trước cửa ngõ chính từ hướng bắc vào thị xã. Khoảng 19 - 20 giờ ngày 27-4-1975, tôi đi qua đây thấy một số đồng chí của ta hy sinh bên cạnh những chiếc xe tăng bị bắn cháy, chưa được chuyển đi. Thật xót xa, trước thắng lợi hoàn toàn gần kề, chiến sĩ ta vẫn còn phải ngã xuống...

Trước sức tiến công mãnh liệt của 2 trung đoàn bộ binh 12 và 141 thuộc sư đoàn 3, đến 21 giờ, sư đoàn 3 đã làm chủ thị xã Bà Rịa, căn cứ Vạn Kiếp. Sở chỉ huy sư đoàn, trung đoàn 141, trận địa pháo và xe tăng triển khai tại thị xã Bà Rịa. Hai trung đoàn 2 và 12 nống ra hướng đông nam thị xã. Trung đoàn bộ binh 12 nống ra hướng biển Long Hải, trung đoàn 2 tiến đến đầu đường số 51 Bà Rịa đi Vũng Tàu. Toàn bộ địch còn lại tại thị xã Bà Rịa tháo chạy xuống Vũng Tàu. Chúng đã đánh sập cầu Cỏ May và thiết lập tại đây một ổ đề kháng tại mố cầu phía nam, hòng làm chậm bước tiến của quân ta.

Nhiệm vụ của sư đoàn 3 lúc này là nhanh chóng đánh chiếm thành phố Vũng Tàu, vu hồi, chặn địch từ Sài Gòn tháo chạy theo đường biển. Do đó, tiến công đánh chiếm Vũng Tàu càng sớm càng tốt. Nhưng tại cầu Cỏ May, địch dựa vào sông Cỏ May chống trả quyết liệt.

Trong quá trình tiến công đánh chiếm thị xã Bà Rịa, trung đoàn bộ binh 141 báo cáo: “Đã đánh chiếm được cầu Cỏ May!”. Nhưng không phải. Đó là chiếc cầu nhỏ, trước cầu Cỏ May. Còn cầu Cỏ May đã bị địch phá sập trước khi rút chạy khỏi thị xã Bà Rịa.

Phía bên kia cầu (hướng Vũng Tàu) địch có khoảng một tiểu đoàn và hàng chục xe tăng - xe thiết giáp. Chúng xếp thùng khuy, đổ đầy cát, dựa vào sông Cỏ May làm thành trận địa phòng ngự mạnh, chống trả quyết liệt.

Ngày 28 - 4, tiểu đoàn 3, do tiểu đoàn trưởng Lê Đình Như và chính trị viên Nguyễn Văn Hùng, tổ chức tiến công nhiều lần, không thành công. Ta thương vong cao. Khu vực này, địa hình trống trải, đường độc đạo, hai bên sình lầy. Khi thủy triều lên, nước mênh mông; khi thủy triều xuống, lầy lội. Địa hình chật hẹp, không có chỗ để triển khai binh hỏa lực. Tiểu đoàn phải dừng lại.

Lúc này theo kế hoạch ban đầu, tập trung lực lượng tiến theo đường 51 xuống Vũng Tàu sẽ bị chậm trễ. Trước tình hình đó, thường vụ đảng ủy sư đoàn họp. Sau khi phân tích tình hình, nhất trí thay đổi quyết tâm ban đầu: Chuyển hướng tiến công chủ yếu sang hướng trung đoàn bộ binh 12 dọc theo bờ biển, phía đông đường 51. Tuy khó khăn, phức tạp, nhưng hoàn toàn chính xác. Việc cần phải triển khai gấp là cơ động cụm pháo binh sư đoàn (thiếu) gồm: một tiểu đoàn lựu pháo 155mm, một tiểu đoàn pháo 130 mm, một tiểu đoàn (thiếu) pháo chống tăng 85 mm và tiểu đoàn (thiếu) pháo cao xạ 37 mm xuống hướng trung đoàn bộ binh 12 ở khu vực Phước Tĩnh.

Tư lệnh sư đoàn, đồng chí Trần Bá Khuê bổ sung nhiệm vụ cho các đơn vị qua điện thoại, trước hết là trung đoàn 12:

* Trung đoàn bộ binh 12, do đồng chí Đới Ngọc Cầu, trung đoàn trưởng chỉ huy, từ đông nam thị xã Bà Rịa, vượt qua cửa biển Long Hải, tiến theo bờ biển xuống chiếm bãi Thùy Dương, phát triển đến ngọn Hải Đăng, chặn địch tháo chạy ra biển, vu hồi vào trung tâm thành phố.

* Trung đoàn bộ binh số 2 nhạnh chóng khắc phục để vượt qua cầu Cỏ May, tiến công đánh chiếm Núi Lớn, khu vô tuyến viễn thông, phát triển xuống Bãi Trước, làm chủ dọc đường ven biển đến tòa Bạch Dinh, khách sạn Palas.

* Trung đoàn bộ binh 141 dùng một tiểu đoàn đánh chiếm núi Nưa, trung đoàn thiếu một tiểu đoàn làm lực lượng dự bị.

Đồng chí Phó tư lệnh tham mưu trưởng sư đoàn Nguyễn Duy Thương cùng với chủ nhiệm pháo binh và một số cán bộ cơ quan sư đoàn xuống trực tiếp chỉ huy, và chỉ đạo giúp đỡ trung đoàn bộ binh 12 vượt qua cửa biển Long Hải (Phước Tĩnh). Các anh hạ quyết tâm vượt qua cửa biển bằng hai phương pháp:

* Một, bằng bí mật.

* Hai, nếu bị lộ, địch ngăn chặn thì dùng sức mạnh hỏa lực để vượt qua.

Tình hình ở phía bên kia (hướng Vũng Tàu) chủ yếu chúng ngăn chặn ta tiến công theo trục đường 51. Hướng bờ biển có nhiều sơ hở và nhất là chúng đang trong thời kỳ tan vỡ, tinh thần dao động mạnh.

Trung đoàn bộ binh 12 đã huy động trong nhân dân được 40 chiếc thuyền, mỗi chiếc chở được hơn một trung đội bộ binh, có cả hỏa lực đi cùng. Nhân dân ở đây rất nhiệt tình giúp đỡ, nếu không trung đoàn bộ binh 12 không thể nào vượt qua được một cửa biển rộng gần 1 km. Điều đó, nói nên rằng, không những nhân dân các tỉnh Liên khu 5 đã nuôi nấng, giúp đỡ sư đoàn 3 gần 10 năm chiến đấu trong những năm ngặt nghèo nhất, mà đồng bào ở dưới vùng kiểm soát của chế độ Mỹ - Ngụy từ bao năm nay cũng náo nức, vui mừng khi được góp sức cùng với quân giải phóng trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM