Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 08:58:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến đấu tự nguyện  (Đọc 56983 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #40 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2009, 04:13:54 pm »


Hướng chủ yếu là Nam đường, hướng phối hợp là Bắc đường 19. Lực lượng chủ yếu là tiểu đoàn 6. Dự bị, cơ động là tiểu đoàn 5. Nhiệm vụ cụ thể của các đơn vị:

- Tiểu đoàn 6: Đại đội 61, trong đêm N, rạng sáng N2, sau khi lực lượng đặc công tập kích, đánh chiếm chốt Cây Rui của một đại đội Nam Triều Tiên, vào chốt giữ, được chi viện hỏa lực của trung đoàn, chặn cắt giao thông tiếp tế của địch tại đỉnh đèo An Khê.

Tiểu đoàn 6 thiếu đại đội 61, tổ chức hai chốt giao thông gồm:

Chốt tại cao điểm 384, do đại đội 62 đảm nhiệm; chốt tại Cống Hang Dơi do đại đội 63 đảm nhiệm. Sở chỉ huy (vị trí chỉ huy) của tiểu đoàn 6 triển khai phía Nam núi Cây Rui, sau đó cơ động xuống phía Nam đường 19 đèo An Khê để chỉ huy trong thời gian cắt đường.

Đại đội đặc công (sư đoàn tăng cường): Đêm N rạng sáng N2, tập kích đại đội Nam Triều Tiên đóng tại núi Cây Rui, sau đó bàn giao trận địa cho đại đội 61 chốt giữ. Công binh trung đoàn và tiểu đoàn 6, rạng sáng N2 đánh sập Cống Hang Dơi, sau đó làm lực lượng cơ động, cùng đại đội 63 đánh địch phản kích, giữ vững chốt Hang Dơi, cắt đứt vận chuyển tiếp tế của địch qua đèo An Khê.

- Tiểu đoàn 5 làm lực lượng dự bị, cơ động cùng với các trận địa hỏa lực của trung đoàn, chiếm lĩnh khu vực núi Ông Bình, sẵn sàng phối hợp với tiểu đoàn 6, đánh địch phản kích, giải tỏa đường 19 tại đèo An Khê đến cầu Suối Vối, phía Đông thị trấn An Khê (Gia Lai).

Đối với trung đoàn 12, đây là lần đầu tiên làm nhiệm vụ đánh giao thông, cắt đường 19 với yêu cầu rất cao: Cắt đứt mọi sự vận chuyển tiếp tế của địch từ vùng đồng bằng lên Tây Nguyên, thời gian dài ngày, trong điều kiện xa sự chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp của sư đoàn.

Về phía địch: Do vị trí hết sức quan trọng của tuyến đường 19 đối với sự sống còn của các lực lượng đồn trú và hệ thống chính quyền của địch ở vùng cao nguyên; đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã bố trí tại đây (chủ yếu tại đèo An Khê xuống xã Bình Nghi trên trục đường 19) cả một sư đoàn thiện chiến “Mãnh Hổ” và nhiều tiểu đoàn bảo an, bảo vệ. Khi cần chúng có thể tung các trung đoàn chủ lực cơ động lên giải toả. Cuộc chiến đấu ở đây sẽ diễn ra ác liệt giữa lực lượng giữ chốt, cắt đường của bộ đội ta với lính Nam Triều Tiên, từ trên các chốt dọc đường đèo tiến công xuống và từ phía Đông tấn công lên phản kích, giải tỏa.

Thời điểm trước khi mở màn chiến dịch, thế và lực giữa ta và địch trên khu vực này rõ ràng không cân sức. Tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía địch.

Để chuẩn bị cho nhiệm vụ, ngay từ những tháng cuối năm 1971, đầu năm 1972, trung đoàn đã có một thời gian chuẩn bị khá chu đáo. Đến tháng 3 năm 1972, với sự nỗ lực của tất cả các đơn vị, được sự giúp đỡ chỉ đạo của bộ tư lệnh, các cơ quan sư đoàn, trung đoàn 12 đã cơ bản hoàn thành công tác chuẩn bị. Đặc biệt là tiểu đoàn 6 vừa hoạt động thường xuyên, vừa chuẩn bị mọi mặt cho nhiệm vụ. Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đã động viên toàn bộ chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên nỗ lực cao nhất cho nhiệm vụ chiến đấu sắp tới. Tất cả những nhu cầu về lương thực, đạn dược, khí tài và cả những vật liệu để xây dựng trên trận địa... từ căn cứ xa hàng chục km, vượt qua núi cao, rừng rậm, được đưa đến tuyến tập kết. Không thể nào tính hết được bao nhiêu tấn cơ sở vật chất phục vụ cho chiến đấu của một tiểu đoàn tăng cường, trong thời gian hàng tháng trời. Tất cả được vận chuyển bằng đôi vai và đôi chân của bộ đội. Từ cán bộ tiểu đoàn đến người chiến sĩ; từ lực lượng trực tiếp chiến đấu đến đội ngũ nhân viên chuyên môn và cơ quan, tất cả đều là lực lượng vận tải và sau này, tất cả đều là những “Dũng Sỹ” kiên cường trụ bám trên đường 19...

Đầu năm 1972, sau Tết nguyên đán, Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Trị Thiên - Bắc Kontum và Bình Long; đồng thời các mặt trận trên toàn chiến trường miền Nam ra sức hoạt động phối hợp để “chia lửa” với các chiến trường chính. Mặt trận B3 và vùng đồng bằng Khu 5 bắt đầu hưởng ứng, phối hợp.

Mở đầu chiến dịch Xuân Hè năm 1972, trên đường quốc lộ số 19, là trận tập kích của đại đội đặc công ta vào chốt Cây Rui.

Chốt Cây Rui nằm trên một ngọn đồi phía Nam đỉnh đèo An Khê, do một đại đội lính Nam Triều Tiên chốt giữ. Đứng ở cao điểm 638, phía nam núi Cây Rui, có thể quan sát hầu như toàn bộ đèo An Khê, cả phía đông và phía tây. Hệ thống vật cản tại chốt là 4 lớp rào kẽm gai, xen kẽ mìn sát thương bộ binh. Bên trong là công sự kiến cố. Chi viện cho chốt Cây Rui là hệ thống hỏa lực được tổ chức chặt chẽ. Ngoài các trận địa hỏa lực bắn thẳng và cầu vồng trên các chốt thuộc dãy núi Ông Bình và các đồn bót dọc đường đèo, còn có các trận địa pháo ở Đồn Phó, Vĩnh Thạnh, An Xuân tỉnh Bình Định và thị trấn An Khê, tỉnh Gia Lai có thể chi viện bất cứ lúc nào.

Từ khi sang Việt Nam, trên chiến trường khu 5, lính Nam Triều Tiên đã bị quân ta tiến công không những lúc chúng đi càn quét, và cả khi chúng đóng quân trong căn cứ. Tháng 12 năm 1966, trung đoàn bộ binh 1, thuộc sư đoàn 2 quân khu 5, đã tiêu diệt một tiểu đoàn tăng cường lính Nam Triều Tiên trong công sự vững chắc tại đồi Tranh, xã Quảng Thạnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 10-1-1967 một lực lượng của sư đoàn 2 tiêu diệt tiếp một đại đội lính Nam Triều Tiên tại An Điềm bằng chiến thuật phục kích. Bọn chỉ huy thường tuyên truyền xuyên tạc rằng: Nếu Việt Cộng bắt sẽ bị moi gan, mổ bụng, chặt đầu, nên lính Nam Triều Tiên rất ngoan cố, không để bị bắt sống, lại càng không chịu đầu hàng. Nếu bị bắt sống, chúng sẽ tự tử. Đến nay, lịch sử Việt Nam còn ghi đậm nét tội ác của lính Nam Triều Tiên, dưới thời tổng thống Păk Chung Hy đối với nhân dân ta ở tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên và nhiều nơi khác.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #41 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2009, 04:15:25 pm »


Đêm ngày 9-4 tất cả các lực lượng làm nhiệm vụ chiến đấu tại đèo An Khê của trung đoàn bộ binh 12 đã triển khai xong kế hoạch. Một tình huống bất ngờ xảy ra: đại đội đặc công tiếp cận chốt Cây Rui bị lộ ngay tại lớp hàng rào kẽm gai đầu tiên, không thực hiện được đánh chốt địch bằng “mật tập”.

Cuộc chiến đấu ác liệt trên đường đèo An Khê bắt đầu tại núi Cây Rui, một bộ phận lính Nam Triều Tiên ra khỏi căn cứ, triển khai giữa các lớp hàng rào, làm công sự bằng bao cát, cố thủ. Ngay từ sáng sớm 10-4, những trận mưa bom, bão đạn đã dội xuống xung quanh núi Cây Rui. Điểm cao 638 rung chuyển.

Từ ngày 10-4 trở đi, trên núi Cây Rui có hai đại đội: đại đội 61 của ta và đại đội lính Nam Triều Tiên. Địch trong chốt, có công sự vững chắc, có hàng rào kẽm gai xen kẽ mìn sát thương bộ binh; Các mỏm đồi đối diện, phía Bắc đường 19 có các chốt có thể chi viện trực tiếp cho chúng ở chốt Cây Rui bằng bộ binh và hỏa lực. Các trận địa pháo ở Đồn Phó, Vĩnh Thạnh, An Xuân kết hợp với hỏa lực hai bên đường đèo, tạo thành lưới lửa ken dày xung quanh chốt Cây Rui.

Đại đội 61 của ta trong đêm 9-4, do tình huống đặc công bị lộ, như đã nói ở trên, công sự chưa hoàn chỉnh; ngay từ ngày đầu tiên đã bị tổn thất bởi đạn pháo và máy bay địch oanh tạc.

Lực lượng trực tiếp tiếp xúc với chốt địch đã phải chiến đấu bằng lựu đạn, tiểu liên. Dưới sự chỉ huy của tham mưu trưởng tiểu đoàn Nguyễn Hữu Thông, đại đội trưởng Nguyễn Hữu Tài và chính trị viên Ninh Văn Xá, đại đội 61 đã bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân Nam Triều Tiên, giữ vững trận địa đến ngày thứ 7. Núi Cây Rui - điểm cao 638, nơi đại đội 61 đang chốt giữ, ngày 9- 4 còn là rừng già, cây cối rậm rạp; sau một ngày chiến đấu ác liệt bom, đạn địch cày xới tan hoang, biến quả đồi thành một màu đỏ quạch. Từ đây, chốt Cây Rui đã đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca bất diệt, là niềm tự hào của quân và dân tỉnh Bình Định, Quân khu 5 và của trung đoàn bộ binh 12, sư đoàn Sao Vàng. Đã có nhạc sĩ sáng tác bài hát về chốt Cây Rui “Như hình ảnh Ngô Mây đã in vào vách núi... Chiến sỹ Cây Rui vẫn lăn mình trong bão đạn...”.

Địch chưa chiếm lại được chốt Cây Rui của ta thì đường 19 chưa thể thông suốt được. Chốt Cây Rui của ta vẫn hiên ngang đứng đó, như cái gai trước mắt đối với binh lính Nam Triều Tiên. Chúng tập trung mọi cố gắng đánh chiếm.

Các lực lượng “tinh nhuệ” của địch được điều đến thay quân. Chúng căng vải đỏ, ném hỏa mù phân tuyến cho máy bay, pháo binh tiếp tục dội bom, đạn xuống, hết đợt này đến đợt khác. Dứt bom, pháo, bộ binh địch ào ạt xung phong lên chốt của ta. Cuộc chiến đấu càng lúc càng quyết liệt. Địch cố đẩy bật lực lượng của ta ra khỏi chốt; ta quyết bám trụ, đẩy lực lượng của chúng xuống sườn đồi. Hai bên đã diễn ra những trận đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê, bằng súng và tay không.

Có nhiều gương chiến đấu của bộ đội ta vô cùng dũng cảm1. Xung quanh chốt Cây Rui, xác giặc ngổn ngang, song đại đội 61 của ta, quân số cũng vơi đi nhiều...

Các đợt tấn công lên chốt bị thất bại, ngày 23-4 địch đã sử dụng đến vũ khí hoá học. Từ các trận địa pháo, đạn hơi cay của địch đã bao trùm lên trận địa của đại đội 61, bọn Nam Triều Tiên đeo mặt nạ phòng độc lại ào ạt tấn công lên chốt. Tham mưu trưởng Thông, đại đội trưởng Tài lần lượt hy sinh. Phó đại đội trưởng Vũ Xuân Quỳnh lên thay thế. Đến ngày 24-4, đại đội 61 chỉ còn lại quân số bằng một tiểu đội. Vũ Xuân Quỳnh, sau khi đã tiêu diệt được nhiều hỏa điểm của địch đã anh dũng hy sinh. Song, những người còn lại vẫn hiên ngang giữ vững trận địa trong khói lửa mịt mù...

Tại cao điểm 384, ngay từ ngày 10-4, địch đã sử dụng hỏa lực bắn phá dồn dập trong điều kiện đại đội 62 của ta chưa xây dựng được công sự hoàn chỉnh. Sau các đợt bom, pháo, bộ binh địch tấn công lên chốt của ta với cường độ và quy mô ngày càng tăng.

Ngày 18-4, địch đã dùng đến 2 tiểu đoàn, từ phía bắc và phía đông ào ạt tấn công lên cao điểm. Đại đội 62 kiên cường trụ bám, đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, tiểu đoàn phó chính trị Đề, đại đội trưởng Đồng Xuân Soạn và 8 chiến sĩ vẫn không rời trận địa, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng trên cao điểm 384...

Ở chốt thứ ba - Cống Hang Dơi: Cống Hang Dơi nằm gần chân đèo An Khê về phía Đông, thuộc phần đất của tỉnh Bình Định. Xung quanh phía Bắc và Nam có các chốt của địch như Chóp Vung, điểm cao 231, Hòn Kiềng Nam đường 19, các cao điểm thuộc sườn phía Nam dãy núi Ông Bình, khống chế. Phía Đông là ấp Vườn Xoài, và cao điểm 105. Cống Hang Dơi lọt thỏm vào giữa, nằm trong tầm bắn có hiệu quả của các loại hỏa lực của địch. Đại đội 63 đã thiết lập điểm chốt ngay tại Cống Hang Dơi. Đêm 9, rạng sáng 10-4 lực lượng công binh đã đánh sập một phần Cống Hang Dơi. Cũng như cụm chốt Cây Rui và cao điểm 384, sáng 10-4 địch đã tiến hành phản kích, giải tỏa, nhằm khôi phục lại cống đã bị ta đánh sập và đang chốt giữ.

Phối hợp với đại đội 61 ở chốt Cây Rui, đại đội 62 ở cao điểm 384, đại đội 63 và đại đội công binh ở Cống Hang Dơi, dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Nguyễn Việt Trì, chính trị viên Hoàng Sinh Tùng, trung đội trưởng Nhâm Xuân Tải và Nguyễn Đình Tấn... đã đánh lui nhiều đợt phản kích giải tỏa của bộ binh và xe tăng địch từ hướng Đông tấn công lên. Ngay trong ngày đầu tiên bộ đội ta đã diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy 4 xe tăng, xe thiết giáp và một máy bay lên thẳng.
_______________________________________
1. Sư đoàn Sao Vàng - Nxb. Quân Đội Nhân Dân - Hà Nội 1984.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #42 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2009, 04:16:14 pm »


Sau những trận đầu tiên, thua đau, địch như con thiêu thân, tung hết tiểu đoàn này đến tiểu đoàn khác; có máy bay, pháo binh và xe tăng yểm trợ đã mở nhiều đợt tấn công vào cống Hang Dơi. Từ ngày 10 đến 17-4 cuộc chiến đấu tại cống Hang Dơi đã diễn ra vô cùng ác liệt, địch tập trung lực lượng tấn công dồn dập vào cống Hang Dơi. Giữa bốn bề khói lửa mịt mù, chốt Hang Dơi vẫn giữ vững. Từ cán bộ đến chiến sĩ, từ lực lượng chiến đấu đến lực lượng phục vụ đều tiêu diệt được địch, lập công xuất sắc; kiên cường giữ chốt. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Phương Nam với 2 loạt đạn tiểu liên diệt 2 tên lính Nam Triều Tiên ngay trước cửa cống 3 mét; Tiểu đội trưởng Hà Sỹ Hạ, một xạ thủ súng B41, trong nhiều trận đánh phục kích giao thông trước đây, vì trình độ “thiện xạ”, được giao nhiệm vụ “chuyên trách”, đánh chặn đầu, đã bắn cháy nhiều xe vận tải quân sự của địch. Dù mục tiêu ở cự ly xa 500 - 1.000 mét Hạ đều bắn trúng. Lần này, tại cống Hang Dơi, Hạ đã bắn liên tiếp 9 quả đạn B41 diệt nhiều hỏa điểm và xe tăng, xe thiết giáp của địch; Chiến sĩ thông tin Nguyễn Kiên Cường, ngoài nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, Cường đã cùng đồng đội đẩy lui nhiều đợt tấn công của địch và bắt sống được một tù binh Đại Hàn khi chúng đột nhập vào cống Hang Dơi. Tổ chiến đấu của trung đội trưởng Nhâm Xuân Tải bắn cháy 3 xe thiết giáp, bẻ gẫy hoàn toàn một mũi tấn công của địch... và còn rất nhiều, rất nhiều gương chiến đấu dũng cảm, từ đại đội trưởng Nguyễn Việt Trì, chính trị viên Hoàng Sinh Tùng đến các chiến sĩ; lợi dụng ưu thế về địa hình có lực lượng tiêu diệt địch trước công sự, có lực lượng cơ động đánh tạt sườn... làm cho đội hình địch bị rối loạn. Kể cả những trận đánh giáp lá cà, địch vẫn bị áp đảo bởi tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của cán bộ chiến sĩ ta.

Cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt, xác giặc chết ngổn ngang dọc đường đèo. Lực lượng chi viện cho chúng cũng đang bị ta kìm giữ ở khắp nới. Các trận địa pháo bị ta chế áp. Tin vui chiến thắng của quân ta từ mặt trận Tây Nguyên, mặt trận Quảng Trị, Đông Nam Bộ và nhiều nơi khác bay về càng động viên khích lệ bộ đội, nâng cao khí thế quyết tâm diệt giặc lập công, đánh bại mọi cuộc phản kích giải tỏa của địch, giữ vững trận địa. Đặc biệt, tin sư đoàn hoạt động ở Bắc tỉnh Bình Định tiêu diệt gọn chiến đoàn đặc nhiệm số 40 ở Hòn Bồ, (19-4) giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân làm nức lòng cán bộ, chiến sỹ trung đoàn 12.

Huyện ủy Gia Lai, huyện ủy Bình Khê, tỉnh Bình Định, huy động mọi lực lượng, phục vụ trung đoàn 12 chiến đấu. Bất chấp bom, pháo và bộ binh địch phản kích, cản đường, từng đoàn dân công, các đội xung kích phục vụ hoả tuyến,... mang lương thực, thực phẩm đến tận trung đoàn. Những gùi sắn, chuối, rau...của đồng bào các dân tộc tỉnh Gia Lai, cũng được gửi đến cho chiến sĩ. Đó là sự cổ vũ, nguồn động viên to lớn của nhân dân đối với cả trung đoàn 12.

Đêm 20-4-1972, mười ngày sau khi mở chiến dịch, trung đoàn 12 nhận được điện của khu ủy và quân khu ủy khu 5 gửi xuống: “Nhiệt liệt khen ngợi cán bộ, chiến sỹ trung đoàn 12, đã chiến đấu rất dũng cảm. Địch ở Tây Nguyên đang khốn đốn. Chúng sẽ còn cố sức giải toả đường số 19. Cuộc chiến đấu sẽ quyết liệt dữ dội hơn. Các đồng chí hãy nêu cao quyết tâm, công sự phải vững chắc hơn, đánh địch phải linh hoạt hơn, để làm chủ mặt đường triệt để hơn...”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ quốc phòng, trực tiếp điện thẳng cho trung đoàn bộ binh 12, khen ngợi: “Các đồng chí đã đứng vững như bàn thạch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giai đoạn đầu cắt đường số 19, phối hợp với chiến trường chung...”.

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, nguyên tư lệnh mặt trận B3 lúc đó cũng gửi điện: “Cảm ơn chiến sỹ trung đoàn bộ binh 12 đã anh dũng cắt đường số 19, phối hợp với chiến trường chung...”.

Đối với binh lính Nam Triều Tiên, từ khi sang chiến trường Việt Nam “đánh thuê”, đây là lần đầu tiên, lực lượng của Sư đoàn “Mãnh Hổ” - Đại Hàn đóng chốt nơi đây đã bị tổn thất nặng nề. Lực lượng còn lại ở trên các chốt không dám bung ra khỏi công sự, vũ khí, đạn dược, lương thực bị tiêu hao, không được tiếp tế, bổ sung. Lính chết không lấy được xác, lính bị thương không chuyển đi được. Đường bộ bị cắt, đường không bị khống chế. Tình cảnh vô cùng bi đát đối với binh lính Nam Triều Tiên. Ở chính quốc, Tổng thống Pắc Chung Hy bị chỉ trích gay gắt, nhân dân Hàn Quốc phản đối quyết liệt. Bọn địch ở Tây Nguyên rất khốn đốn, vì không được tiếp tế. Tại đèo An Khê, địch tập trung mọi cố gắng giải tỏa; ta kiên quyết cắt đứt tiếp tế của địch. Vì vậy cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt.

Tại cống Hang Dơi, và chân đèo, thuộc phần đất tỉnh Bình Định nơi có một bộ phận đại đội 63 chốt giữ, một toán lính Đại Hàn 5 - 6 tên, trong đó có một tên mang máy ảnh, từ dưới chân đèo đột nhập vào cống này. Khi chúng vừa vào bên trong, lực lượng ta tiêu diệt được mấy tên và bắt sống 2 tên. Anh em đưa chúng vào trong cống để đưa về tuyến sau, trước mắt khai thác chúng để phục vụ cho chiến đấu ở đây, sau đó mới bàn giao cho sư đoàn. Nhưng một tên cương quyết không chịu đi. Anh em trói, cho lên cáng khiêng, nó lăn xuống đất đập đầu tự tử. Tên còn lại đưa được về phía sau. Cơ quan địch vận đem máy ghi âm và cho phiên dịch tiếng Hàn Quốc xuống, giải thích chính sách của mặt trận, vận động nó kêu gọi lính đầu hàng, phản chiến. Tiểu đoàn đã cho ghi âm, phát trên loa phóng thanh, trên các chốt dọc đường 19. Tên tù binh này, sau đó được ta phóng thích.

Trung đoàn nhận định, thế nào địch cũng tập trung mọi khả năng, giải toả bằng được đường số 19. Trước hết chúng sẽ đánh chiếm Cây Rui, uy hiếp cống Hang Dơi đang bị đại đội 63 chiếm giữ.

Trung đoàn trưởng trung đoàn 12 quyết định, rút bớt một số chốt phụ để tăng cường lực lượng bảo vệ Cây Rui. “Còn Cây Rui thì cống Hang Dơi còn đứng được, còn cắt được đường”. Trận địa hỏa lực di chuyển vào gần Cây Rui để chi viện có hiệu quả hơn cho lực lượng giữ chốt.

Từ ngày 23 đến tối ngày 24-4, tài núi Cây Rui đã diễn ra những trận chiến đấu vô cùng ác liệt giữa lực lượng còn lại của đại đội bộ binh 61 với lính Đại Hàn.

Trước tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ đại đội 61, trận địa ta vẫn đứng vững. Song, đại đội bộ binh 61, chiều 24-4 chỉ còn lại 5 đồng chí, dưới sự chỉ huy của chính trị viên đại đội Ninh Văn Xá; cũng là lúc lực lượng cơ động của tiểu đoàn lên tiếp sức. Tại cống Hang Dơi, đại đội 63 và công binh, sau những đợt phản kích ác liệt của địch, đại đội trưởng Nguyễn Việt Trì, chính trị viên Hoàng Sinh Tùng lần lượt bị hy sinh; Trung đội trưởng Nhâm Xuân Tải lên thay thế... Trung đội trưởng hy sinh, chiến sĩ lên thay thế… và cuộc chiến đấu tại chốt Hang Dơi vẫn tiếp tục.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #43 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2009, 04:18:30 pm »


Đêm hôm ấy, sau 14 ngày chiến đấu ác liệt, đường 19 hoàn toàn bị cắt đứt tại đèo An Khê, trung đoàn bộ binh 12 được lệnh chấm dứt đợt 1, chuẩn bị cho đợt 2, với cách đánh sở trường của mình “phục kích vận động”, tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh của địch trên đường 19, tiếp tục biến đoạn đường này thành lò thiêu cháy mọi cơ sở vật chất hậu cần tiếp tế lên Tây Nguyên của chúng. Ngày 25-6 tại phía Tây đèo An Khê dưới sự chỉ huy của trung đoàn trưởng Nguyễn Duy Thương và chính ủy Lê Huẩn đã diễn ra trận đánh phục kích vận động phá hủy đoàn xe vận tải 35 chiếc, có 10 xe tăng, xe bọc thép, diệt và bắt 318 tên, bắn rơi 3 máy bay, ghi thêm chiến công mới trong lịch sử truyền thống của trung đoàn bộ binh 121.

Trong trận này, tiểu đoàn 6 là lực lượng chủ công, cùng với các trận địa hỏa lực của trung đoàn, bố trí phía nam đường 19, từ suối Vối đến chân núi Cây Rui (phía đông thị trấn An Khê). Tiểu đoàn 5 là lực lượng đối diện, bố trí phía bắc đường 19.

Trong một trận phục kích vận động khác cũng trên đường số 19, trung đoàn bộ binh 12 đã tiêu diệt và phá hủy 54 xe quân sự của địch vận chuyển tiếp tế lên Tây Nguyên, trên đoạn đường từ xã Bình Nghi lên Đồn Phó2.

Cuộc chiến đấu diễn ra trong suốt thời gian 18 ngày đêm trên đường 19, đèo An Khê của trung đoàn bộ binh 12, sư đoàn Sao Vàng thật oanh liệt. Trung đoàn bộ binh 12, thiếu tiểu đoàn 4 đã phải chiến đấu với sư đoàn “Mãnh Hổ” thiện chiến, trang bị đầy đủ, trực tiếp là trung đoàn 24 và nhiều tiểu đoàn bảo an, có máy bay, pháo binh và xe tăng yểm trợ. Cán bộ chiến sĩ trung đoàn 12 đã thể hiện ý chí sắt đá, lòng dũng cảm vô song, khí phách anh hùng, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, quyết không rời trận địa.

Thắng lợi của trung đoàn bộ binh 12 trên đường 19, trong chiến dịch Xuân 1972, một lúc đã hoàn thành được hai nhiệm vụ: Cắt đứt hoàn toàn sự tiếp tế của địch từ vùng đồng bằng lên Tây Nguyên, trong một thời gian khá dài; làm cho lực lượng của chúng trên chiến trường cao nguyên vô cùng khốn đốn; đồng thời ta đã kìm chân sư đoàn “Mãnh Hổ” và một bộ phận quân đội Sài Gòn tại đây tạo điều kiện cho sư đoàn 3 giành thắng lợi lớn ở chiến trường bắc Bình Định, giải phóng nhiều vùng quan trọng. Sư đoàn “Mãnh Hổ” bị thiệt hại nặng trên đường 19, đã phải nằm tại chỗ, “án binh, bất động” cho đến ngày cuốn cờ về nước.

Trước khi triệt thoái khỏi chiến trường Việt Nam, tại đỉnh đèo An khê, chúng đã dựng bia để gọi là tưởng niệm những tên lính đã chết tại đây. Trên tấm bia mang dòng chữ “Nơi đây quân đội Nam Hàn đã đánh những trận đẫm máu với trung đoàn 12 Bắc Việt để bảo vệ lãnh thổ chính thể Việt Nam Cộng hòa”.

Gần đây đầu năm 2004, trước khi qua đời, thiếu tướng Lê Huẩn, nguyên chính ủy trung đoàn 12, trong những năm 1971-1972, kể lại rằng: Có một đoàn làm phim viết sử của Hàn Quốc sang Việt Nam tìm hiểu những trận đánh trên đường 19 đầu năm 1972, họ cũng gọi là “các trận đánh ở Cây Rui” và nói rằng: Trong lịch sử quân đội Hàn Quốc có ghi “Đây là trận đánh đẫm máu nhất của lính Nam Hàn ở Việt Nam, trung đoàn 24 của sư đoàn Mãnh Hổ có 1150 binh sĩ chết, bị thương, bị bắt...”. Tấm bia do quân đội Đại Hàn dựng lên ở đỉnh đèo An Khê, sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đã bị ai đó đập phá. Tuy nhiên, sự tích anh hùng của trung đoàn 12, đánh cắt giao thông trên đường 19 trong chiến dịch xuân năm 1972 đã đi vào lịch sử và mãi mãi là niềm tự hào của cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 3 Sao Vàng, của quân dân tỉnh Bình Định và Quân khu 5.

Trong những ngày cả nước ta tổ chức kỷ niệm lần thứ 30, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, một tổ làm phim của đài truyền hình KBS Hàn Quốc, được sở ngoại vụ TP.HCM giới thiệu đến gặp tôi và một số đồng chí đã trải qua những năm chiến đấu với binh lính Hàn Quốc tại đường số 19 - Quân khu 5, xin được cung cấp một số tình hình về sư đoàn “Mãnh Hổ”. Họ cho biết thời tổng thống Pắc Chung Hy đã lừa dối nhân dân Hàn Quốc, bưng bít sự thật về quân đội của họ tham chiến ở Việt Nam. Họ phải đi tìm sự thật. Song, dù có nói lên điều gì đi chăng nữa, họ cũng không thể hiểu một cách đầy đủ về sự thất bại thảm hại của sư đoàn mang tên “Mãnh Hổ”, một trong những đơn vị được cho là thiện chiến nhất của đội quân đồng minh với Mỹ trên chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên, tôi cũng đã nói với họ rằng: “Nhân dân Việt Nam không bao giờ quên những đau thương, mất mát do quân đội các nước gây ra cho đất nước này. Cảm ơn nhân dân Hàn Quốc - những người yêu chuộng hoà bình, đã đấu tranh phản đối nhà cầm quyền dưới thời Pak Chung Hy làm tổng thống, đã đem quân sang chiến trường Việt Nam, tiếp tay cho Mỹ. Ngày nay, Hàn Quốc là một trong những quốc gia đầu tư vào Việt Nam lớn nhất. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đang trên đà phát triển tích cực. Mong rằng lịch sử quân đội Hàn Quốc không lập lại ở Việt Nam một lần nữa!...”.

Đối với thế hệ chúng ta, thiết nghĩ, nên xây dựng tại đỉnh đèo An Khê một công trình lịch sử - văn hóa, chí ít cũng là một tượng đài liệt sĩ, ghi danh những cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đã chiến đấu, hy sinh tại đây, để các thế hệ mai sau được biết đến những chiến công oanh liệt, góp phần giải phóng Tây Nguyên dẫn đến chiến dịch Hồ Chí Minh, mùa xuân năm 1975.
__________________________________________
1, 2. Sư đoàn Sao Vàng - Nxb. QĐND - Hà Nội 1984.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #44 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:00:02 pm »


SAU HIỆP ĐỊNH PARIS

Cuối năm 1972, chính quyền Sài Gòn liên tục xua quân nống ra đánh phá vùng giải phóng của ta. Trên địa bàn tỉnh Bình Định, lực lượng chủ lực quân đội Sài Gòn có sư đoàn 22 bộ binh và hai liên đoàn biệt động số 4 và số 6. Nhưng lực lượng địa phương quân khá đông. Trước khi hiệp định Paris được ký kết, địch tung lực lượng ra vùng giải phóng của ta, tranh thủ chiếm đất, giành dân. Nống ra đến đâu, chúng cắm cờ và xây dựng đồn bót đến đó. Do thất bại nặng nề trên khắp các chiến trường miền Nam, và sau thắng lợi của quân và dân ta ở miền Bắc trong “chiến dịch Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng, buộc đế quốc Mỹ phải quay lại ngồi vào bàn hội nghị và ký kết hiệp định Paris với ta vào ngày 27 tháng 1 năm 1973. Hội nghị Paris kéo dài gần 5 năm với trên 350 cuộc họp công khai và bí mật, Đảng ta đã rất khéo kết hợp đường lối quân sự với chính sách ngoại giao, buộc đế quốc Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Chiến lược chiến tranh cục bộ của chúng bị thất bại hoàn toàn. Đây là thắng lợi có ý nghĩa cực kỳ quan trọng của quân và dân ta, mở ra thời cơ chiến lược mới, có lợi cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam.

Lúc bấy giờ nhiều người nghĩ rằng: Sau khi hiệp định Paris được ký kết, Việt Nam sẽ có hòa bình, sẽ không còn những cuộc hành quân càn quét bằng bộ binh, xe tăng của địch như trước, sẽ không phải nằm ngủ dưới hầm vì máy bay, pháo binh của chúng. Thế nhưng, trước và sau hiệp định Paris, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu càng ngoan cố hơn, chúng mở những đợt hành quân quy mô trên cả ba vùng chiến lược, hòng thu hẹp vùng giải phóng của ta. Lúc đầu quy mô nhỏ, sau đó quy mô lớn diễn ra không gian rộng, kéo dài rất ác liệt.

Trước tình hình đó trên địa bàn 2 tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi, sư đoàn bộ binh 2 cùng vời sư đoàn bộ binh 3 (chủ yếu trung đoàn 12), Quân khu 5, nhanh chóng đánh chiếm một số mục tiêu trên khu vực tiếp giáp giữa 2 tỉnh: Phía bắc Bình Định từ khu vực Chương Hòa đến Tam Quan; thuộc huyện Hoài Nhơn, phía nam tỉnh Quảng Ngãi, từ xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ) đến đèo Bình Đê phía nam Sa Huỳnh, tạo nên thế liên hoàn giữa hai tỉnh hàng chục km, có cảng biển Sa Huỳnh và Trường Xuân. Đồng thời kiên quyết bảo vệ vùng giải phóng, và những địa bàn có tính chiến lược của giai đoạn sau hiệp định Paris đối với chiến trường khu 5: đó là Hiệp Đức (Quảng Nam), Ba Tơ (Quảng Ngãi), Hoài Ân (Bình Định).

Tình hình tư tưởng lúc bấy giờ diễn biến theo hai chiều hướng. Thứ nhất, tỏ ra rất lạc quan. Vấn đề này có lý do của nó. Khi thời gian hiệp định có hiệu lực, trên chiến trường nói chung hầu như im tiếng súng. Chúng ta có quyền tận hưởng những ngày tháng thanh bình đầu tiên sau bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ, ác liệt.

Tại các ranh giới giữa hai bên, đã ấn định những địa điểm và thời gian để đại diện hai phía gặp nhau. Nhân dân được đi lại giữa hai vùng. Đây là một thời điểm vô cùng quý giá để chúng ta có điều kiện hoàn thiện thêm về nhiều mặt, phòng ngừa phía bên kia tráo trở, phá bỏ Hiệp định.

Những người đã trải qua các giai đoạn lịch sử của đất nước, ắt hẳn đã quá hiểu bản chất của kẻ thù. Không một ai có ảo tưởng chút nào về hòa bình sau khi Hiệp định Paris ký kết.

Song, những gì đã đem lại cho chúng ta cái không khí yên bình là một thực tế hiển nhiên mà chúng ta đang tận hưởng trên chiến trường vừa mới im tiếng súng. Trong lòng người lính luôn cảm thấy lâng lâng, tựa như không khí của những ngày sau hòa bình được lập lại trên miền Bắc vào năm 1954.

Bộ đội đã bắt đầu chuyển xuống vùng đồng bằng, đóng quân trong nhà dân, xây dựng nơi ăn, ở, nơi hội họp, giao ban, bắt đầu duy trì nề nếp sinh hoạt chính quy huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Trong các vùng dân cư đông đúc, chợ búa, trường học đã mở trở lại. Tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng rõ ràng là cuộc sống về vật chất cũng như tinh thần của quân và dân các nơi này được cải thiện đáng kể.

Cuộc sống nhộn nhịp ở các vùng giải phóng của ta đã có tác động nhất định đối với binh lính ngụy quyền Sài Gòn. Thời gian này chúng ta lại đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tiến công đối phương bằng công tác binh vận. Đây là một mũi tiến công sắc bén vào tinh thầu chiến đấu của lực lượng phía bên kia.

Chiều hướng thứ hai, chủ yếu là các lực lượng trực tiếp tiếp xúc với địch. Tuy rằng so với những năm trước đây, cuộc chiến đấu có “nhẹ” bớt, song không khí chiến tranh vẫn bao trùm lên trên hết. Cái yên tĩnh ở đây giống như ở vùng mắt bão, giống như khoảng lặng giữa hai đợt chiến đấu, làm cho mỗi bên cảnh giác hơn, sẵn sàng chiến đấu cao hơn.

Tại tỉnh Bình Định, địa bàn do sư đoàn bộ binh số 3, Quân khu 5 đảm nhiệm, luôn sôi động. Bọn lính bảo an, dân vệ, biệt động và cả lính Cộng hòa nống ra vùng giáp ranh xung quanh Du Tự, núi Chéo, cầu Giáo Ba, quận lỵ Hoài Ân. Ở huyện Hoài Nhơn chúng nống lên các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Sơn dãy cao điểm 209, khu vực tiếp giáp với tỉnh Quảng Ngãi. Tại huyện Phù Mỹ chúng nống ra các xã Mỹ Hiệp, Mỹ Trinh, Mỹ Lộc... Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, địch cũng nống ra hầu hết vùng giáp ranh thuộc các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ... và nhiều nơi khác.

Đánh địch nống lấn là một giai đoạn không kém phần quyết liệt. Giữa ta và địch đã có phân tuyến. Mỗi bên đều có những nỗ lực, cố gắng giữ đất, giành dân, mở rộng vùng kiểm soát.

Khác với những năm 1966 - 1967, khi quân Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, điều kiện chưa cho phép chúng ta chiến đấu để giữ đất, giành dân. Từ năm 1972, nhất là từ sau ngày hiệp định Paris được ký kết, quân ta có đủ khả năng đánh bại những cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Lực lượng ta phát triển rộng khắp. Với thế bố trí chiến lược mới trên toàn miền, cho phép lực lượng vũ trang ta ở đâu đánh đó. Bộ đội chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích tiến công địch khắp nơi. Địch căng ra lo đối phó trên phạm vi toàn miền, chúng vấp phải khó khăn muôn thuở là tập trung được chỗ này thì hở chỗ khác, tập trung trên tuyến tiếp xúc với ta thì các vùng ven, nông thôn và vùng rừng núi bị bỏ trống. Vì vậy ở những nơi ta có sơ hở, mất cảnh giác, chúng cho quân nống lấn sâu vào vùng kiểm soát của ta; những nơi ta đề phòng, triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu thì địch dùng chiêu bài hòa hợp và gặp nhau theo định kỳ giữa hai bên. Đây là một thủ đoạn vô cùng nham hiểm của địch, nhằm “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu” của ta.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #45 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:00:39 pm »


Tại tỉnh Bình Định, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt nhất giữa ta và địch là xung quanh núi Du Tự, huyện Hoài Ân và dọc trục đường số 2 huyện Hoài Nhơn. Hai nơi này có một vị trí hết sức quan trọng đối với hệ thống phòng thủ cơ bản của địch trên quốc lộ số 1. Mất Du Tự là mất quận Hoài Ân, làm cho hệ thống phòng thủ của địch từ đèo Phú Cũ trở vào sẽ bị rúng động. Mất trục đường số 2 sẽ mất khu thị tứ Tam Quan, cảng Sa Huỳnh và thị trấn Bồng Sơn sẽ bị uy hiếp. Trên địa bàn các nơi khác cũng tương tự như phía tây các huyện Đức Phổ, Mộ Đức, Bình Sơn, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) hoặc Tam Kỳ, Duy Xuyên, Thăng Bình, và huyện Hoà Vang sát thành phố Đà Nẵng.

Trên chiến trường Khu 5, đồn bót địch mọc lên như nấm sau cơn mưa. Cách mạng miền Nam đã sang trang mới. Chúng ta đã buộc được đế quốc Mỹ ký kết Hiệp định Paris, thực hiện được quyết tâm “đánh cho Mỹ cút khỏi Việt Nam”, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và tay sai. Những sư đoàn hùng mạnh nhất của Mỹ và các nước đồng minh phải cuốn cờ về nước. Tại chiến trường Liên Khu 5, sư đoàn kỵ binh bay (không vận) số 1, hai sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ số 1 và 3, sư đoàn American, sư đoàn số 4 và 25 đánh vùng núi, hai Lữ đoàn dù Mỹ, sư đoàn Mãnh Hổ, Rồng Xanh, Bạch Mã Nam Triều Tiên và nhiều đơn vị thiện chiến khác của Mỹ và đồng minh lần lượt rút khỏi nước ta. Đây là thắng lợi vĩ đại của cả dân tộc, của đường lối chiến lược quân sự Việt Nam, là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương và là thắng lợi của phe Xã hội Chủ nghĩa và của loài người tiến bộ.

Như vậy là tình hình trên chiến trường sau khi Hiệp định Paris được ký kết, đã tạo ra hai vùng một cách rõ rệt, có ranh giới rõ rệt. Tuy nhiên, cái ranh giới đó có chỗ “lồi”, có nơi “lõm” do kết quả tạo nên của mỗi bên trước ngày Hiệp định Paris có hiệu lực. Nhưng nhìn chưng, trên chiến trường vùng đồng bằng khu 5, quân ta đã áp sát đường quốc lộ số 1, uy hiếp các mục tiêu then chốt của địch, như sân bay, thị trấn, thị xã, và các căn cứ quân sự. Theo quy luật của chiến tranh, đến một lúc nào đó, địch buộc phải tập trung, co cụm để bảo vệ các thị xã, thị trấn; tạo cho ta thời cơ để tiến hành những trận đánh tập trung tiêu diệt lớn sinh lực địch trong căn cứ hoặc khi ra phản kích giải tỏa, phá vỡ hệ thống phòng thủ cơ bản của chúng, làm thay đổi cục diện trên chiến trường có lợi cho ta.

Trước tình hình diễn biến có lợi và mau lẹ trên chiến trường, bước sang năm 1973, ta mở đợt hoạt động đánh địch nống lấn, trước và sau hiệp định Paris, nhằm mở rộng, củng cố và giữ vững vùng giải phóng, tiến tới thực hiện quyết tâm cuối cùng “đánh cho ngụy nhào” giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thời cơ chiến lược vô cùng quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của quân và dân ta đã đến.

Vì vậy, đầu năm 1973 sư đoàn 3 được tăng cường trung đoàn bộ binh số 141, và cũng từ đây về sau, trung đoàn bộ binh 141 thuộc biên chế chính thức của sư đoàn. Trước mắt, sư đoàn nhanh chóng đánh chiếm các điểm cao xung quanh quận lỵ Hoài Ân, điểm cao 174 phía Nam sông Lại Giang, đồng thời áp sát sân bay Thiết Đính, thị trấn Bồng Sơn, bao vây, cô lập quận lỵ Hoài Ân, buộc quân chủ lực Sài Gòn bung ra phản kích để ta có điều kiện tiêu diệt lớn sinh lực của chúng. Đây là một chủ trương rất sáng suốt và kịp thời của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5.

Trung đoàn bộ binh số 12 từ phía nam tỉnh Bình Định, đường số 19 cũng cơ động về huyện Hoài Nhơn. Tiểu đoàn 6 chúng tôi cũng được lệnh cơ động từ phía nam đường 19 về huyện Hoài Ân. Chỉ có trung đoàn bộ binh số 2, chủ công của sư đoàn, đang giấu mình ở huyện Hoài Ân sẵn sàng ra tay, đánh những trận quyết định, tiêu diệt lớn quân địch.

Một vấn đề đặt ra được nghiên cứu, bàn luận ở sư đoàn Bộ binh 3 và cơ quan Quân khu là: Binh lính Mỹ rút khỏi miền Nam, trên chiến trường chỉ còn lính Sài Gòn. Đó là thời cơ chiến lược cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ chính quyền tay sai. Nhưng thời cơ để ta giải phóng từng vùng, từng tỉnh và thành phố phải trên cơ sở tiêu diệt lớn sinh lực, làm tan rã về tổ chức của những đội quân chủ lực của chúng. Về tương quan lực lượng trên chiến trường, liệu áp lực của quân ta có đủ sức để buộc quân chủ lực địch ra phản kích, tạo thời cơ cho ta tiêu diệt lớn sinh lực chúng? Đây là vấn đề thuộc về nghệ thuật chiến dịch, buộc địch phải hành động theo ý định của ta, trong điều kiện ta đã đủ mạnh.

Tại quận lỵ Hoài Ân, trung đoàn bộ binh 141, do đồng chí Cảo, trung đoàn trưởng chỉ huy, là trung đoàn mới chuyển về từ stư đoàn bộ binh số 2, quân khu 5, và tiểu đoàn 6 trung đoàn bộ binh 12, tiến hành đánh chiếm cao điểm 305 phía đông nam Du Tự, và một loạt các cao điểm khác. Ở phía đông ta đánh chiếm cao điểm 174 chia cắt chúng ở cầu Vợi, trên đường quốc lộ số 1. Quận lỵ Hoài Ân nằm dưới tầm hỏa pháo của quân ta, bị cô lập hoàn toàn. Muốn tồn tại, địch phải tiến hành phản kích. Hoặc là bỏ huyện lỵ Hoài Ân. Điều này đồng nghĩa với việc sư đoàn số 3 của ta sẽ tràn qua đường quốc lộ số 1 chia cắt Phù Mỹ, Phù Cát, Hoài Nhơn. Và như vậy, hệ thống phòng thủ của địch tại tỉnh Bình Định sẽ nhanh chóng bị phá vỡ.

Trực tiếp chi viện cho quận lỵ Hoài Ân là căn cứ Gò Loi, một căn cứ vững chắc nhất tại đây đã bị quân ta chia cắt, vây ép. Bắt buộc sư đoàn 22 chủ lực Sài Gòn phải ra phản kích để cứu vãn tình thế. Tình hình trên các chiến trường tại các tỉnh thuộc Khu 5 cũng ở trong trạng thái như vậy.

Tháng 3-1973, trước yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, theo đề nghị của sư đoàn 3, Quân khu 5 quyết định bổ nhiệm tôi làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 thuộc trung đoàn bộ binh 12, chính trị viên là đồng chí Trần Sỹ Mỹ. Anh Trần Hữu Biền, chính trị viên tiểu đoàn lên cơ quan chính trị trung đoàn 12, anh Lê Hoài, tiểu đoàn trưởng đi nhận công tác khác.

Hơn một năm trước đây, tôi chia tay với anh em tiểu đoàn ở phía Nam đường số 19 trong tình hình chiến dịch mùa xuân năm 1972 vừa mở màn với hy vọng sẽ có ngày được gặp lại. Sau hơn một năm học tập ở trường Quân chính Quân khu 5, tôi đã tiếp thu được nhiều kiến thức cần thiết và bổ ích. Hôm được quay về với đội ngũ để tiếp tục chiến đấu, tôi cảm thấy ước mơ của mình đã được toại nguyện, nên rất phấn khởi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #46 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:01:22 pm »


Về với trung đoàn bộ binh 12, được gặp lại những đồng chí, đồng đội thân thương, những chiến sĩ gái trai của quê hương Bình Định rất đỗi thân quen đã cùng nhau chia ngọt, xẻ bùi trên chiến trường đường số 19, lòng tôi vô cùng xúc động. Tôi nhớ tới các đồng chí nữ như: Trương Thị Sen, Trần Thị Hướng, Mai Thị Trọng, Huỳnh Thị Tâm, Nguyễn Thị Hảo và biết bao nữ đồng chí khác đã hy sinh cả tuổi xuân của mình, theo sát trung đoàn trên khắp chiến trường. Tình cảm đồng chí, anh em trong cuộc đấu tranh này đã để lại trong tôi những dấu ấn khó quên, những tình cảm mến yêu, trân trọng. Gặp nhau, tôi nghĩ thầm: “Không biết ngày mai, khi chiến tranh kết thúc, cuộc đời họ sẽ thế nào? Liệu họ có thể sống được cho đến cái ngày cuối cùng của chiến tranh?”.

Tôi về đến huyện Hoài Ân cũng là lúc tiểu đoàn 6 vừa cơ động từ phía nam đường số 19 sang. Tôi cùng với Ban chỉ huy tiểu đoàn bắt tay vào công tác triển khai nhiệm vụ. Tình hình xung quanh huyện lỵ Hoài Ân lúc này rất sôi động, tiểu đoàn 6 được giao nhiệm vụ xây dựng cụm điểm tựa trên dãy cao điểm 305, đông nam quận lỵ Hoài Ân.

Các đơn vị xây dựng công sự trận địa vững chắc và đưa các loại hỏa lực lên điểm cao. Địch đóng ở đồi Du Tự nằm dưới tầm hỏa lực của ta. Dưới sự chi viện tối đa của máy bay, pháo binh, địch đã tiến hành phản kích quyết liệt, quyết đẩy lực lượng của ta khỏi những cao điểm bao quanh chi khu quận lỵ Hoài Ân. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Trên các ngọn đồi xung quanh quận lỵ Hoài Ân không còn một gốc cây, ngọn cỏ. Toàn bộ được phủ lên một lớp đất bột lội đến mắt cá chân. Bom, pháo dội xuống liên tục. Giữa các đợt bắn phá, bộ binh địch lại nối nhau lên phản kích. Ta với địch giành giật nhau từng mỏm đồi.

Qua kinh nghiệm của những năm trực tiếp chiến đấu với lính bộ binh Mỹ, tại đây bộ đội ta đã áp dụng chiến thuật “vận động tiến công kết hợp chốt”. Trên các điểm cao, lực lượng chốt của ta được bố trí rất ít nhưng tinh. Dựa vào công sự vững chắc, tiêu diệt địch trước trận địa; kết hợp với lực lượng cơ động đẩy lùi nhiều đợt phản kích của địch.

Trung đoàn bộ binh 141 được tăng cường tiểu đoàn 6 làm nhiệm vụ chốt giữ trên các điểm cao. Trung đoàn bộ binh 2 là lực lượng cơ động đánh những trận tiêu diệt cả chiến đoàn địch ra phản kích. Nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của sư đoàn 3 đã thành công tại huyện Hoài Ân. Đó là bằng mọi cách điều được quân chủ lực Sài Gòn thoát ra khỏi căn cứ đi vào những trận địa đã được ta chuẩn bị sẵn để tiêu diệt lớn sinh lực của chúng. Quận Hoài Ân là nơi được ta giải phóng hoàn toàn và đầu tiên của tỉnh Bình Định. Sư đoàn Bộ binh 3 thọc thẳng xuống đường số 1. Có đơn vị xuống đến xã Mỹ Thọ, Mỹ Thắng huyện Phù Mỹ, sát với biển.

Tại huyện Hoài Nhơn, một huyện đồng bằng thuộc tỉnh Bình Định, nơi nổi tiếng về những rừng dừa bát ngát, những cánh đồng lúa tốt phì nhiêu. Tuy bị địch kìm kẹp trong những năm chiến tranh, nhưng lại là nơi có phong trào du kích lên mạnh, có những “kho” lương thực cung cấp cho bộ đội trong những năm tháng ngặt nghèo nhất. Đến xã Hoài Châu, huyện Hoài Nhơn, dọc theo những cồn cát trắng xóa chạy dài vào đến xã Hoài Hảo là những “kho” lương thực, thực phẩm đủ cung cấp 2 - 3 tiểu đoàn nhận một lúc. Nhân dân từ trong các ấp chiến lược thu mua nào gạo, nào đường, sữa, đồ hộp, thuốc men... gom góp lại, ngụy trang, đi qua những trạm kiểm soát của địch, đưa lên chôn giấu dưới những cồn cát để hàng đêm bộ đội từ trên căn cứ xuống nhận. Đúng như lời Bác Hồ đã dạy:

Dễ trăm lần không dân cũng chịu.
khó vạn lần dân liệu cũng xong!

Trên trục đường số 2, từ sau ngày ký Hiệp định Paris, địch đưa 2 liên đoàn biệt động số 4 và số 6 cùng với lực lượng bảo an, dân vệ đóng chốt trên một tuyến dài 4 - 5 km từ thôn Bình Đê đến thôn An Quý, xã Hoài Châu; thôn Cự Tài, xã Hoài Hảo... thiết lập một phòng tuyến ngăn chặn không cho quân ta tiến xuống quốc lộ số 1. Ở phía bắc tỉnh Bình Định chúng cho quân chiếm đồi 9, đồi 10, dãy cao điểm 209 (nơi tiếp giáp giữa hai tỉnh Bình Định - Quảng Ngãi). Mỗi nơi, một đại đội lính biệt động hoặc bảo an trấn giữ.

Sau khi quận lỵ Hoài Ân được giải phóng, tiểu đoàn 6 được lệnh rời khỏi trung đoàn bộ binh số 141 về đội hình trung đoàn bộ binh 12 chiến đấu trên địa bàn phía tây huyện Hoài Nhơn (trên trục đường số 2 thuộc hai xã Hoài Châu và Hoài Hảo).

Đội hình trung đoàn 12 lúc này do trung đoàn trưởng Lê Văn Thái chỉ huy, chính ủy là đồng chí Trần Hữu Biền, được bố trí thành “khu vực phòng ngự” tại ba xã phía tây Bắc huyện Hoài Nhơn. Hai tiểu đoàn phòng ngự phía trước, đối đầu với hai liên đoàn biệt động và nhiều đại đội bảo an, dân vệ; tiểu đoàn 4 đứng tại khu vực Bình Đê, nhà thờ Quy Thuận, đối diện với mục tiêu Đồi 9, Đồi 10, phía tây thị tứ Tam Quan. Tiểu đoàn 6 được bố trí cuối xã Hoài Châu, giáp với xã Hoài Hảo, đối diện với hai đại đội biệt động đóng chốt ở thôn An Quý và Cự Tài. Tiểu đoàn 5 là lực lượng cơ động của trung đoàn, bố trí đầu đường số 3, đường này chạy song song với đường số 2. Sở chỉ huy trung đoàn đứng ở nơi tiếp giáp xã Hoài Châu và Hoài Sơn. Lúc bấy giờ, giữa vùng đồng bằng và giáp ranh, bố trí đội hình một trung đoàn theo nguyên tắc “hai trước, một sau” trong chiến đấu phòng ngự là rất lý tưởng. Có nhiều ý kiến cho rằng, trong tư tưởng chỉ đạo tác chiến của ta không có khái niệm “phòng ngự”? Trên chiến trường lại càng không có “hành động phòng ngự”. Điều đó không thể phủ nhận. Tuy nhiên, chúng ta không phòng ngự một cách đơn thuần, thụ động, mà phải thể hiện được tư tưởng tiến công trong chiến đấu phòng ngự. Trong đơn vị chiến thuật hoặc chiến dịch, có lực lượng lợi dụng vào hệ thống công sự, vật cản kết hợp với hệ thống hỏa lực để tiêu diệt địch trước trận địa, đồng thời có lực lượng cơ động tiến công vào bên sườn và phía sau đội hình địch để tiêu diệt chúng. Trong cuộc chiến tranh này chúng ta thường áp dụng chiến thuật “vận động tiến công kết hợp chốt”. Trong thành phần chiến thuật, có lực lượng “phòng ngự” (chốt), có lực lượng tiến công. Lực lượng tiến công thường chiếm ưu thế về nhiều mặt.

Chiến thuật “vận động tiến công kết hợp chốt” đã tỏ ra có hiệu quả, và đã được chứng minh trong thực tế chiến đấu trên chiến trường.

Trong thời điểm sau Hiệp định Paris, chúng ta có một thời gian ngắn dừng lại để củng cố về mọi mặt, chỉ tiến công địch bằng công tác “địch vận”.

Việc trung đoàn bộ binh 12 bố trí đội hình như đã nói ở trên là hoàn loàn phù hợp với tình hình và nhiệm vụ địa bàn ở phía Tây huyện Hoài Nhơn. Với thiện chí ta không chủ động tiến công đối phương sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực, nhưng không để bị động khi đối phương tiến công ta.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #47 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:02:04 pm »


Cuộc chiến đấu tại huyện Hoài Nhơn, sau ngày ký Hiệp định Paris không kém phần ác liệt. Chứng tỏ, kẻ thù vô cùng ngoan cố. Đúng như câu dân gian ta thường nói: “Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay”, đó cũng là bản chất của kẻ thù. Câu thơ sau đây, do địch rải truyền đơn xuống xã Hoài Châu đã nói lên tính chất quyết liệt của cuộc chiến đấu giành và giữ đất giữa ta và địch:

Mười phần chết bảy, còn ba,
Chết hai, còn một, vẫn ra Đồi Mười!

Đồi Mười là ngọn đồi ở xã Hoài Châu, giáp với thị tứ Tam Quan, nằm cạnh Đồi 9, có địa thế rất hiểm yếu, quyết định sự tồn tại của khu thị tứ Tam Quan của địch. Nếu chiếm được Đồi 10 sẽ khống chế được Tam Quan và đường quốc lộ số 1. Đồng thời sẽ phá vỡ được hệ thống phòng ngự của địch dọc trục đường số 2. Vì vậy, ở đây, cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra hàng ngày giữa ta và địch. Nhà thờ Quy Thuận là một công trình đồ sộ, có tháp chuông cao ngất, nằm ở phía tây Đồi 10 đã bị bom pháo địch san bằng. Địch đã dùng xe tăng mở nhiều đợt tấn công vào đây, nhưng bị đánh bật ra, phải tháo lui. Ngày nay, dấu vết của nhà thờ Quy Thuận chỉ còn trơ lại những trụ bê tông, nhô lên khỏi mặt đất 2 đến 3 tấc.

Xã Hoài Châu được tuyên dương là xã Anh hùng cũng xuất phát từ những trận chiến đấu kiên cường ở đây suốt hàng chục năm. Trong các trận đánh, nhân dân sát cánh cùng bộ đội chiến đấu bảo vệ làng mạc, ruộng đồng suốt những năm tháng ác liệt nhất của chiến trường Khu 5, với khẩu hiệu nổi tiếng “Một tấc không đi, một ly không rời!”. Hình ảnh những người mẹ, ngườì chị xã Hoài Châu cùng với đội quân tóc dài, chặn đầu xe tăng giặc, những tiểu đội du kích sát cánh với bộ đội chủ lực chiến đấu bảo vệ ruộng đồng, làng mạc; chị Hai Nhạn, xã Hoài Châu dành những giọt sữa của con thơ để tiếp sức cho thương binh; những đêm dưới tầm pháo địch, nhân dân ở đây đào hầm, tiếp tế, tải thương giúp bộ đội và còn nhiều hình ảnh đẹp đẽ, cảm động, luôn in đậm nét trong ký ức người lính sư đoàn 3 Sao Vàng.

Để góp phần cùng quân và dân đánh bại âm mưu nống lấn của địch, giữ vững và phát triển thực lực cách mạng ở các vùng giải phóng; ngay từ đầu 1973, trên chiến trường Khu 5, hầu hết các đơn vị chủ lực đã tràn xuống đồng bằng, phối hợp cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích, đánh chiếm các đồn bót địch mới được thiết lập từ sau ngày ký kết Hiệp định Paris, xóa bỏ các “vết da báo”, mở rộng vùng giải phóng.

Tiểu đoàn 6 được giao nhiệm vụ xóa sổ hai đại đội địch nống lên đóng chốt tại thôn An Quý, xã Hoài Châu và thôn Cự Tài, xã Hoài Hảo. Hai căn cứ này nằm về phía đông trục đường số 2. Tiểu đoàn 4 tiêu diệt một đại đội địch nống lên đóng chốt tại phía đông nhà thờ Quy Thuận, phía tây Đồi 10.

Trước ngày hiệp định Paris có hiệu lực, địch cho một đại đội biệt động quân, thuộc Liên đoàn Biệt động số 6, càn quét lên trục đường số 2, đóng chốt lại ở thôn Cự Tài, xã Hoài Hảo, thuộc huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Chúng đóng trên một gò đất, mỗi bề rộng khoảng 200 - 250 mét. Ba mặt Bắc - Đông - Nam là ruộng bao bọc. Phía tây giáp với làng mạc. Dân ở đây đã bị dồn vào ấp chiến lược từ lâu. Gò đất, cao hơn mặt ruộng khoảng 1 mét, chúng ủi đất, đắp thành bờ bao như chiếc vành khăn. Trên bờ đất là các lô cốt bằng bao cát và các ụ súng. Trung tâm bót địch như cái lòng chảo, có các chiến hào chạy ra tiền duyên. Bên ngoài bờ bao là 3 lớp rào kẽm gai kết hợp với mìn sát thương bộ binh.

Trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh 12 Lê Văn Thái, trực tiếp giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 6: “bằng bất kỳ giá nào cũng “nhổ” bằng được mục tiêu này!”.

Đêm 22 tháng 5, tôi tổ chức một bộ phận cán bộ và trinh sát đi điều nghiên, được du kích xã dẫn đường, băng qua làng mạc không người, tiếp cận mục tiêu. Cũng như các cứ điểm khác, ban đêm trong mục tiêu không một tiếng động. Địch ở đây rất cảnh giác, đề phòng. Chúng tôi tiềm nhập trên hai hướng: Hướng tây tiếp giáp với làng mạc ăn ra đến đường số 2, nên địch đề phòng nhiều nhất. Hướng này chúng tôi dự kiến là hướng tiến công thứ yếu. Hướng bắc, phải vượt qua một khoảng ruộng khô, khoảng 50 mét sẽ đến lớp rào đầu tiên. Chúng tôi chọn hướng này là hướng chủ yếu. Tuy phải vượt qua ruộng, nhưng đội hình có thể tiếp cận một hàng dọc, men theo bờ ruộng, bảo đảm bí mật được.

Các cán bộ đang ngồi quan sát, thì một đồng chí trinh sát cảnh giới bị vướng quả mìn chiếu sáng. Ánh lửa bùng lên, chúng tôi nằm rạp xuống đất. Địch trong bót bắn ra như vãi đạn. Mười, mười lăm phút sau súng im bặt, chúng tôi lùi dần ra ngoài. May mắn không có thương vong. Ngày 23 và 24 tháng 5, chúng tôi gài trinh sát và du kích bám sát, theo dõi diễn biến của địch. Tiểu đoàn tiến hành làm công tác tổ chức, chuẩn bị. Trong cuộc họp đảng ủy mở rộng sáng 23 tháng 5, sau khi phân tích đánh giá tình hình, chúng tôi thấy rằng:

Về phía địch: Do bị tiến công liên tục trên chiến trường, mất chỗ dựa vào sự chi viện của binh lính Mỹ, nên trong các cứ điểm, địch tăng cường mức độ công sự chắc chắn hơn. Cụ thể ở cứ điểm Cự Tài, chúng có lợi thế, dựa vào bờ bao, lô cốt, ụ súng để chống trả lực lượng tiến công của ta, trong khi ta hoàn toàn ở trên mặt đất. Tuy nhiên, trung tâm cứ điểm địch có nhiều u bất lợi, nếu ta bám vào được bờ bao thì địch hoàn toàn nằm dưới tầm hỏa lực của ta. Chướng ngại vật tuy có ba lớp rào và mìn xen kẽ, nhưng hàng rào ở đây còn đơn giản, chiều sâu ngắn, khoảng 10 - 15 mét, nếu bí mật tiếp cận và chế áp hỏa lực trước cửa mở tốt, ta có khả năng khắc phục nhanh chóng. Đặc biệt, từ khi Mỹ rút quân, tinh thần binh lính địch dao động mạnh, sức chiến đấu sa sút. Khi có nguy cơ bị tiêu diệt, có khả năng chúng sẽ tháo chạy hoặc đầu hàng.

Về tình hình của tiểu đoàn 6: Trải qua những năm chiến đấu trên chiến trường, tiểu đoàn luôn luôn giáp mặt với mọi đối tượng, từ lính bộ binh, xe tăng Mỹ, đến lính Nam Triều Tiên; chiến đấu với địch bằng nhiều hình thức: đánh tập kích, đánh vận động, đánh cầu có địch canh giữ, đánh phục kích giao thông trên những địa bàn vô cùng gian khổ và ác liệt, đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiểu đoàn đã có một bề dày lịch sử oanh liệt như đã nói ở những phần trên. Cán bộ chiến sĩ đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, được trưởng thành trong thực tế chiến đấu. Tiểu đoàn 6 không những là lá cờ đầu của trung đoàn bộ binh 12 mà còn là ngọn cờ tiêu biểu của sư đoàn bộ binh số 3.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #48 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:04:33 pm »


Về phương án chiến đấu, sau khi cân nhắc, chúng tôi quyết định: hướng đột kích chủ yếu từ hướng bắc. Lực lượng sử dụng một đại đội. Hướng thứ yếu, không đột kích từ phía tây mà chuyển lực lượng trên hướng này xuống đón lõng ở hướng đông. Với lý do trên hướng này ta mới phát hiện có con đường từ trong cứ điểm địch chạy xuống. Khi bị tiến công mạnh, có thể chúng sẽ tháo chạy theo hướng này. Phía tây chỉ triển khai trận địa cối 82 và 120mm.

Quyết tâm và kế hoạch chiến đấu, nhanh chóng được trung đoàn chuẩn y và được đem ra “Đại hội quân nhân” thảo luận.

Cũng như những trận tiến công vào căn cứ địch trước đây, trong trận này, chúng tôi tổ chức một tiểu đội mở đường qua các chướng ngại vật, được trang bị mìn định hướng ĐH10 và bộc phá ống. Ngoài hỏa lực chi viện chung, hai bên cửa mở bố trí hai khẩu pháo không giật ĐKZ75, ĐKZ82 và súng máy 12,7 mm để tiêu diệt lô cốt đầu cầu và chế áp các hỏa điểm, trực tiếp chi viện cho lực lượng mở cửa bằng “bộc phá liên tục”.

Đêm 24 tháng 5, trời không trăng, nhưng sao lấp lánh. Chúng tôi tổ chức một tổ trinh sát và một tổ thông tin đi trước, rải “lộ tiêu” 1, cho đội hình tiểu đoàn theo sau vào tiếp cận.

23 giờ, các trận địa hỏa lực đã triển khai xong. Lực lượng mở cửa đã đưa được mìn định hướng vào ngay sát hàng rào ngoài cùng. Lực lượng đánh “bộc phá liên tục” nằm một hàng dọc ép sát bờ ruộng. Trong cứ điểm im phăng phắc. Địch đã bí mật rút đi rồi chăng? - Tôi tự hỏi - Bỗng ở trên bờ bao có tiếng lính đập muỗi, rồi một ánh lửa lóe lên. Lính gác hút thuốc! Tôi yên tâm. Đến đây, trận đánh coi như đã thắng lợi được một nửa.

Đồng chí liên lạc đã “moi” cho tôi một công sự tròn như cái miệng thúng, sâu hơn một mét, vừa đủ cho một người ngồi, gần khẩu ĐKZ75. Phía sau tôi, đồng chí chiến sĩ thông tin còn rất trẻ mang máy bộ đàm cũng đang hì hục moi đất làm công sự. Nhìn anh em làm việc miệt mài, lòng tôi vô cùng thương cảm. Cảm ơn những bà mẹ đã sản sinh ra những người con tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, không quản ngại hy sinh gian khổ. Ai có thể biết được, trong đêm nay sẽ có những người phải ngã xuống trước làn đạn của kẻ thù để cho thế hệ mai sau mãi mãi sống trong hoà bình?

Đúng 24 giờ, tôi ra lệnh nổ súng.

Cùng lúc với tiếng nổ của quả mìn định hướng 10 kg xé nát màn đêm, hai khẩu ĐKZ bắn sập ngay lô cốt đầu cầu. Tiếp đến là các loại hỏa lực bắn thẳng, hỏa lực cầu vồng rót vào bót địch. Ánh chớp lóe lên trong màn đêm, tiếng nổ ầm ầm không ngớt, vang lên cả một vùng...

Lực lượng mở cửa, ôm bộc phá lao lên, phá nốt hai lớp rào còn lại. Một đồng chí bộc phá viên bị thương đứt một chân khi lao lên lô cốt đầu cầu do trúng mảnh đạn ĐKZ của ta...

Bộ đội ào ạt xông lên bám vào bờ bao. Địch hoàn toàn bị tê liệt. Lực lượng xung kích của ta nhanh chóng phát triển sang hai bên và thọc sâu vào trung tâm đồn địch. Phần lớn địch bị tiêu diệt. Số còn lại theo đường mòn tháo chạy xuống phía đông, bị lực lượng đón lõng của ta bao vây, tiêu diệt nốt... Đơn vị làm chủ hoàn toàn trận địa. Pháo địch bắn xung quanh, nhất là hướng tây, nơi trước đây dự kiến hướng thứ yếu của trận đánh.

Hiểu rõ bản chất thâm độc của địch, khi đã hoàn toàn mất trận địa, chúng có thể dùng máy bay, pháo binh bắn thẳng vào đồn để hủy diệt. Sau khi đã thu dọn xong, tôi ra lệnh cho bộ đội nhanh chóng rời trận địa.

Vừa ra đến đường số 2 khoảng 1 km, tôi được tin đồng chí Hoàng Công Nghiêm, đại đội trưởng bị hy sinh trong trận địa. Anh em đã khiêng xác đồng chí ra vị trí khẩu ĐKZ75 trước cửa mở và chôn vội đồng chí xuống công sự đặt súng máy 12,7 mm. Tôi bàng hoàng cả người. Không chần chừ, tôi kéo theo đồng chí trợ lý chính trị tiểu đoàn và một tổ vận tải, vượt qua làn đạn pháo địch chạy vội trở lại moi đất đem xác đồng chí Nghiêm ra.

Đồng chí Hoàng Công Nghiêm, là người con của quê hương xứ Nghệ, vừa mới đi học về, được bổ nhiệm làm đại đội trưởng. Đồng chí chỉ huy đại đội đột kích vào bót địch, chiến đấu gan dạ, tác phong nhanh nhẹn và đầy trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.

Để khôi phục lại tuyến ngăn chặn trên trục đường số 2, sau khi ta đánh chiếm cứ điểm Cự Tài, ngay sáng hôm sau, ngày 25-5, liên đoàn biệt động số 6 của địch tung lực lượng lên giải tỏa chiếm lại. Điều đó nói lên rằng: sau khi quân Mỹ rút đi, cuộc chiến đấu trên chiến trường tuy có giảm đáng kể về quy mô, nhưng tính chất của nó vẫn còn rất quyết liệt. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch không thể giải quyết trong một sớm, một chiều.

Trưa ngày 25-5, đồng chí trung đoàn trưởng trung đoàn 12 gửi cho tôi bức điện:

Gửi tiểu đoàn 6:

Nhanh chóng ổn định đơn vị về mọi mặt, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. 11 giờ 30 trưa nay, tôi xuống làm việc cụ thể.

Lai Văn Thế
2.

Quyết tâm đánh thiệt hại nặng liên đoàn biệt động số 6 của địch, tiểu đoàn 6 được giao nhiệm vụ tập kích tiếp cứ điểm Cự Tài trong đêm 25 rạng sáng 26-5, lúc địch vừa chiếm lại.

Chúng tôi thấy, tuy tiểu đoàn vừa mới đánh chiếm cứ điểm này đêm 24-5, bộ đội có một số thương vong, vật chất trang bị chưa bổ sung kịp; nhưng đây là thời cơ tốt nhất - địch vừa mới lên chiếm lại chưa được một ngày, công sự, vật cản chưa được khôi phục, tinh thần binh lính còn hoang mang, dao động.
_________________________________________
1. Ban đêm, đề phòng bị lạc đường, ta thường làm lộ tiêu màu trắng để rải trên đường cho bộ đội thấy, đi đúng đường dành cho từng đơn vị.
2. Lai Văn Thế: nói lái, tức là Lê Văn Thái (trung đoàn trưởng Trung đoàn 12 (để giữ bí mật).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #49 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 08:06:16 pm »


Đối với bộ đội ta, khí thế đang lên. Sau thắng lợi vừa qua, anh em rất phấn khởi và thông thạo địa hình. Tiểu đoàn hạ quyết tâm với Thường vụ Đảng ủy và Chỉ huy Trung đoàn là sẽ hoàn thành nhiệm vụ.

14 giờ cùng ngày, tôi phái ngay một tổ trinh sát đi bám địch. Đồng thời gấp rút chuẩn bị hành quân. Kế hoạch tiến công lần này, về phương án cơ bản như lần trước. Theo nhận định của chúng tôi, địch chưa thể khôi phục lại cửa mở, có chăng chỉ gài được một ít quả mìn. Vả lại chúng cũng không thể ngờ được quân ta sẽ tiến công tiếp trong đêm nay. Do đó, đối với ta vẫn còn yếu tố bất ngờ.

18 giờ, bộ đội đã tập kết ở trục đường số 2 xã Hoài Châu, tiếp giáp với xã Hoài Hảo. Trong khi đang chờ trinh sát về báo cáo, cán bộ các đại đội tranh thủ hội ý, kiểm tra lại trang bị và nhắc lại công tác hiệp đồng với bộ đội.

20 giờ vẫn chưa thấy trinh sát về báo cáo. Sốt ruột quá. Xung quanh tôi, bộ đội thì thầm bàn tán. Pháo địch thỉnh thoảng bắn từng loạt lên trục đường số 2, tiếng nổ nghe rất gần. Có tiếng quát tháo của một cán bộ nào đó khi nghe chiến sĩ của mình nói chuyện lớn tiếng một chút.

Bỗng 2 đồng chí trinh sát lôi về hai tên lính biệt động mặc quần áo rằn ri. Đồng chí tổ trưởng trinh sát dẫn hai tên lính địch đến ngay chỗ tôi:

- Báo cáo thủ trưởng! Bọn em bắt được hai thằng này! Chúng em vừa mới bám vào một căn hầm trong vườn của dân đã bỏ đi, thì hắn từ dưới hầm chui lên. Chúng em chĩa súng vào hắn và nói nhỏ: “Giơ tay lên, chống cự, tao bắn!”. Chúng nó ngoan ngoãn làm theo. Chúng em tước súng và hỏi: “Dưới hầm còn có ai nữa không?”, chúng nó lắc đầu và xin tha tội chết!

Chúng tôi khai thác ngay hai tên tù binh. Chúng khai: “Đại đội tôi được lệnh lên chiếm lại cứ điểm Cự Tài, bị các ông đánh chiếm tối hôm qua. Sau khi giải quyết đem số bị chết về, chúng tôi phân tán vào trong làng, dựa vào hầm hào của dân để ẩn nấp thì bị các ông bắt!”.

Trong cứ điểm Cự Tài hiện có bao nhiêu lực lượng? - Tôi hỏi.

- Dạ! ở trỏng có rất ít, hầu hết phân tán ra xung quanh, trong làng đề phòng các ông pháo kích, hoặc đánh chiếm lại!

Nếu ngay bây giờ chúng tôi tấn công cứ điểm Cự Tài, thì đột kích vào hướng nào là tốt nhất? - Tôi hỏi tiếp.

Tên tù binh trả lời:

- Ở trong cứ điểm rất ít người, chỉ có một tiểu đội. Còn toàn bộ đều nằm bên ngoài. Nếu chỉ huy tôi biết tôi mất tích, thì có thể họ sẽ rút hết về dưới đường số 1 trong đêm nay!

Thấy tên tù binh nói có lý và có vẻ thật thà, tôi điện báo cáo trung đoàn trưởng, và đề xuất ý kiến: đêm nay ta chưa tiến công vội. Ngày mai sẽ nắm tình hình, quyết định sau.

Trung đoàn trưởng nhất trí.

Phải nói rằng, phân đội trinh sát của tiểu đoàn 6 do đồng chí tiểu đội trưởng Lê Anh Kiên chỉ huy, có những chiến sĩ thật tuyệt vời. Họ không chỉ thể hiện ý chí dũng cảm, bình tĩnh, trong trường hợp diễn ra đêm nay, mà cả quá trình chiến đấu trên trục đường 19 và nhiều nơi khác. Họ thực sự là tai, mắt của người chỉ huy. Họ là những người thường xuyên mặt giáp mặt với kẻ thù, thường xuyên xa đơn vị, độc lập xử trí nhiều tình huống gay cấn, nguy hiểm.

Tôi thầm nghĩ: “Nếu không bắt được hai tên tù binh này, đêm nay, khi tiến công vào cứ điểm Cự Tài thì không biết sự thể sẽ ra sao?”.

Lo sợ bị ta tiến công, nhất là sau khi biết được hai tên lính biệt động bị “mất tích”, địch không dám đóng tại Cự Tài nữa. Ban ngày chúng lên càn quét, chốt lại; ban đêm rút xuống đường quốc lộ số 1.

Như vậy, trên tuyến ngăn chặn ở trục đường số 2, địch đã bị xóa sổ hai cứ điểm là Cự Tài và Quy Thuận. Tiểu đoàn 6 xóa sổ cứ điểm Cự Tài. Tiểu đoàn 4 xóa sổ cứ điểm Quy Thuận. Trên tuyến này chỉ còn lại cứ điểm của một đại đội địch, đóng ở thôn An Quý, thuộc xã Hoài Châu, nằm ở đoạn giữa hai cứ điểm trên.

Trung đoàn trưởng trung đoàn 12 giao cho tiểu đoàn 6 nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm này. Tiểu đoàn 6 nhận lệnh trước hết, vì cứ điểm An Quý nằm trong phạm vi đảm nhiệm của tiểu đoàn, thứ đến là trung đoàn tin tưởng tiểu đoàn 6 sẽ hoàn thành được nhiệm vụ.

Khác với cứ điểm Cự Tài, cứ điểm địch đóng ở thôn An Quý hoàn toàn nằm trong làng mạc. Bốn phía là vườn tược đã bỏ hoang, vì nhân dân ở đây đã bị địch dồn vào thị trấn Bồng Sơn, và các ấp chiến lược. Cây cối trong làng bị chất độc hóa học giết chết. Chỉ còn cỏ tranh và lau lách, lớp này chết, lớp khác lại mọc lên, tốt hơn. Ở đây phong trào du kích phát triển mạnh. Chúng tôi được anh chị em du kích dẫn đường vào sát hàng rào dây thép gai. Cứ điểm địch có 3 lớp rào và mìn sát thương bộ binh bao bọc. Lác đác trong khu vườn vẫn còn một số công sự hầm kèo1 của nhân dân, có thể còn sử dụng được.

Phạm vi cứ điểm An Quý cũng gần bằng cứ điểm Cự Tài. Nhưng các lô cốt, ụ súng tiền duyên rất khó phát hiện, vì địa hình bằng phẳng, có nhiều vật che khuất. Đứng cách căn cứ khoảng 50 mét, chỉ thấy được cột anten cao vút cùng với những ngọn tre đung đưa trước gió Thông thường trung tâm thông tin nằm bên cạnh mục tiêu chủ yếu - vị trí chỉ huy của địch. Vì vậy, quá trình “bắn chuẩn bị” chúng tôi sẽ tập trung hỏa lực cầu vồng bắn vào đó.

Đánh giá được những mặt yếu của địch ở đây, trận đánh này, chúng tôi tổ chức đột kích một mũi từ hướng tây bắc - còn hướng thứ yếu, đông bắc thì chỉ làm nhiệm vụ “dương công” - nghĩa là cùng nổ súng tiến công, nhưng không đột phá vào cứ điểm của địch. Mục đích là để phân tán sự đối phó của chúng và hình thành thế tiến công bên sườn và phía sau, làm cho địch tan rã mau chóng - Phương pháp mở cửa qua bãi vật cản vẫn dùng mìn định hướng và bộc phá liên tục. Trung đoàn tăng cường cho tiểu đoàn 6 một khẩu đội cối 120 mm.
__________________________________________
1. Hầm Kèo: Là một kiểu hầm tránh pháo, hình chữ A, được cấu trúc 1/2 ÷ 2/3 âm dưới đất.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM