Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:12:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Thăm dò
Câu hỏi: Khi khởi nghĩa Lý Bí nổ ra, Phạm Tu ở độ tuổi nào?
Thanh niên (>30 tuổi) - 1 (20%)
Trung niên - 1 (20%)
Cao niên (>60 tuổi) - 3 (60%)
Tổng số phiếu: 5

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nhà nước Vạn Xuân và một số câu hỏi ở thời kỳ này  (Đọc 83507 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
phuongcacanh
Thành viên

Bài viết: 1


« Trả lời #60 vào lúc: 17 Tháng Tám, 2010, 08:36:53 pm »

Phạm Duy Trưởng là tôi đấy. Muốn tìm hiểu thêm về đề tài này mời các bạn sang bên Wikipedia tiếng Việt, bên đó tôi cũng là thành viên: Phuongcacanh và có viết một số bài liên quan đến chủ đề này.
Logged
thapbut
Thành viên
*
Bài viết: 158


WWW
« Trả lời #61 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2010, 03:26:54 pm »

Một điều mà chúng ta nhận thấy Triệu Túc cha của Triều Quang Phục được coi là thủ lĩnh ở Chu Diên. Thế nhưng có nhiều tài liệu chép Chu Diên ở vùng Đan Phượng ngày nay.
Nhưng năm 545 Lý Bí cầm quân chống giặc lại ở Chu Diên sau đó mới rút về phòng tuyến Tô Lịch. Do vậy nhiều người cho rằng Chu Diên là vùng Hải Dương, Hưng Yên ngày nay.
Như vậy có thể khẳng định Triệu Quang Phục không có quê ở Đan Phượng mà sẽ ở vùng châu thổ phía bắc sông Hồng.
Điều mà nhiều người nhầm có Chu Diên gắn liền với Đan Phượng có thể thời xa xưa (Hai Bà Trưng) Chu Diên rộng và có thể trùm đất Đan Phượng ngày nay.
Tuy nhiên năm 545 Lý Bí hành quân chống giặc đã sát cánh cùng tướng trẻ Triệu Quang Phục và đã để lại nhiều dấu ấn ở Thái Bình ngày nay. (Chính điều này khiến nhiều người nhầm tưởng Lý Bí quê ở Thái Bình tỉnh)
Và thần tích ở Cổ Trai, Hưng Hà, Thái Bình chép vị tướng trẻ lúc này là Tả tướng

http://baothaibinh.com.vn/19/186/Dung_co_trai_cho_dat_nuoc_Van_Xuan_.htm

Dựng Cổ Trai cho đất nước Vạn Xuân

Cách bến đò Tịnh Xuyên trên sông Luộc đỏ nặng phù sa chảy qua địa phận Thái Bình không xa là làng Cổ Trai, xã Hồng Minh huyện Hưng Hà. Nơi đây còn ghi dấu tích một thời liệt oanh của đất nước, khi Vua Tiền Lý (Lý Bí) về Cổ Trai dựng biệt đồn, lập nên nước Vạn Xuân. Thời gian trôi đi kéo theo bao biến cố, thăng trầm. Chỉ còn lại trong ký ức người dân Cổ Trai về một thời vàng son đất nước. Cụm di tích đình đền Cổ Trai xã Hồng Minh là một minh chứng sinh động ghi dấu một thời rực rỡ, hào hùng của dân tộc. Nào đâu ranh giới Chu Diên vùng đất cổ, nào đền Tịnh Thủy là nơi tưởng niệm Kim Xa, Mỹ Hy với hành cung Lỗ Giang thời Trần với biệt cung của Khâm Từ và Tuyên Từ Thái Hậu. Đâu rồi dấu vết An Lăng, tẩm điện của Vua Trần Anh Tông, Trần Cao Tông... Cổ Trai ôm vào lòng tất cả, cho dù năm tháng tàn phai, nhưng những dấu ấn đẹp đẽ về một thời hùng oai của đất nước vẫn còn in dấu quanh ta. Kiến trúc của đình Cổ Trai gồm năm gian. Nóc đình đắp lõng hoa chanh, đao đắp rồng chầu, phượng mớm, bảy chạm tứ quý, tứ linh, các vì mái chạm đấu sen, long chầu, hổ phục, liên quy, phượng vũ, hai tòa cửa võng chạm lõng bong kênh có đủ long - li - quy - phượng, cuốn thư, đại tự, câu đối sơn son, thếp vàng. Các đồ tế khí còn lưu giữ được gồm: ngai, khám thờ vua hai, ba tầng cửa võng, bát bửu, chấp kích được sơn son, thếp vàng cẩn thận. Trong đình vẫn còn trwo những bức trướng bằng gấm, nỉ đỏ có thêu kim tuyến; các kiệu bát cống có đủ 10 rồng...Ngọc phả còn ghi: "Một ngày, Lý Nam Đế và tả tướng quân hành quân đến Cổ Trai, trông thấy địa thế tốt, dân chúng no đủ, phong tục tốt đẹp liền thiết lập biệt đồn...". Theo các tài liệu nghiên cứu của các sử gia và một phần Ngọc phả, thần tích của làng Cổ Trai xã Hồng Minh (Hưng Hà), từ năm 250 – 543 (sau Công Nguyên), Giao Châu rơi vào tình trạng bất ổn, bị nhiều nước tranh giành, xâu xé. Khoảng gần 300 năm, Giao Châu lần lượt thuộc các nước Tấn (năm 250 - 420); Tống (năm 420 - 478), Tề (năm 479-502), Lương (năm 502-557). Bị cai trị, đời sống người dân Giao Châu vô cùng cơ cực. Thời nhà Lương cai trị, đánh thuế rất nặng nề, có đến hàng trăm thứ thuế, dân nghèo thậm chí phải bán vợ, đợ con để đóng thuế. Chính sách cai trị của nhà Lương là phân biệt giữa hai tầng lớp sĩ tộc (quan lại người Hán mới được cử sang Giao Châu) và hàn môn (gốc người Hán nhưng đã di cư đến Giao Châu nhiều đời) trong việc bổ nhiệm các chức quan địa phương. Điều nó dẫn đến sự bất mãn trong lớp hàn môn, nảy sinh xu hướng liên kết ngày càng mạnh giữa họ với những hào trưởng người Việt chống bọn quan lại sĩ tộc. Lại thêm nạn tham quan ô lại, các nhà thế tộc giàu có, địa chủ hoành hành, bóc lột của cải, chiếm đoạt ruộng đất khiến cho dân chúng nổi lên chống đối khắp nơi.  Lý Bí (Lý Bôn) người quê Thái Bình, xuất thân là một hào trưởng địa phương có tài văn võ song toàn là một ví dụ điển hình. Đầu năm 542, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí, đã nổ ra chống lại ách đô hộ của nhà Lương. Lý Bí, nhân lòng oán hận của dân dâng trào đã liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền đất Giao Châu  (nước Việt Nam xưa), đồng thời dấy binh chống nhà Lương. Theo sử cũ của Việt Nam ghi: "thủ lĩnh Chu Diên (vùng Đan Hoài, nay thuộc ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí đã đem quân theo trước tiên, Phạm Tu cũng là một tướng tài của Lý Bí từ buổi đầu khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa thành công rất nhanh. Phải đối đầu với cuộc khởi nghĩa có sự liên kết giữa các địa phương, Tiêu Tư (thứ sử Giao Châu) khiếp hãi, không dám chống cự chạy trốn về Việt Châu (bắc Hợp Phố) và Quảng Châu. Cuộc khởi nghĩa nổi dậy từ tháng một năm 542, không quá 3 tháng nghĩa quân đã chiếm được châu thành Long Biên (Bắc Ninh). Sau những giờ phút kinh hoàng buổi đầu, chính quyền nhà Lương lập tức có phản ứng đối phó. Tháng 4 năm 542 vua Lương sai thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, thứ sử La Châu là Nịnh Cư, thứ sử An Châu là Lý Trí, thứ sử ái Châu là Nguyễn Hán, từ hai phía bắc - nam Giao Châu cùng tiến đánh nghĩa quân Lý Bí. Cuộc phản kích này của giặc Lương đã hoàn toàn thất bại. Từ đồng bằng (Bắc Bộ Việt Nam ngày nay), Lý Bí đã kiểm soát được tới vùng Đức Châu (Hà Tĩnh) ở phía nam và vùng bán đảo Hợp Phố (Quảng Châu) ở phía bắc. Thất bại nặng nề vua Lương lại sai thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng điều khiển binh mã đi đánh Lý Bí vào mùa đông năm ấy. Bọn này dùng dằng không chịu tiến quân, lấy cớ mùa xuân lam chướng, xin đợi mùa thu hẵng khởi binh song vẫn bất đắc dĩ phải động binh (tháng 1 năm 543). Chủ động đánh giặc, nghĩa quân Lý Bí tổ chức một trận tiêu diệt lớn ngay trên miền cực bắc Châu Giao. Trăm trận, trăm thắng. Đến năm 544, nhằm tháng giêng, ông tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, lấy tên nước là Vạn Xuân thể hiện mong muốn  xã tắc lưu truyền đến muôn đời. Lý Nam Đế cho dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Phong Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều đứng đầu tướng văn, Phạm Tu đứng đầu tướng võ. Lý Nam Đế còn sai dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ- Hà Nội) lấy tên là chùa Khai Quốc. Chùa Khai Quốc là tiền thân của chùa Trấn Quốc, trên đảo Cá Vàng (Kim Ngư) ở Hồ Tây Hà Nội. Sử cũ ghi: "Năm 548, Lý Nam Đế mất. Sự nghiệp của Lý Nam Đế đã được Lý Thiên Bảo (anh của Lý Nam Đế) và Triệu Quang phục đứng ra gánh vác chống lại nhà Lương. Theo các tài liệu nghiên cứu của các sử gia, tại Trung Quốc (năm 557), Trần Bá Tiên lật đổ nhà Lương, tự phong Hoàng Đế dựng nên nhà Trần. Trong lúc tình hình phương Bắc rối loạn, Giao Châu bị bỏ ngỏ, Triệu Quang Phục dần chiếm lại được lãnh thổ Giao Châu, giành quyền tự trị, xưng Vương (Triệu Việt Vương). Năm 555, Lý Thiên Bảo mất, một viên tướng cùng họ là Lý Phật Tử lên thay thế. Từ năm 557 trở về sau Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử tranh giành quyền lực, hai bên giao tranh nhiều lần bất phân thắng bại, phải kết thông gia để giảng hoà. Đến 571, Lý Phật Tử bất ngờ đánh úp Triệu Quang Phục, thâu tóm toàn bộ quyền lực, rồi tự xưng là Nam Đế để tiếp tục kế nghiệp Vạn Xuân của Lý Bí trước đó. Sử cũ thường gọi là Hậu Lý Nam Đế. Cũng theo sử cũ thì ở Trung Quốc vào năm 589, Dương Kiêu diệt nhà Trần, lập nên nhà Tuỳ, xưng là Tuỳ Văn Đế, thống nhất Trung Quốc. Năm 602, nhà Tuỳ triệu Lý Phật Tử vào triều yết kiến. Phật Tử chống lệnh, kiên trì giữ đất Giao Châu. Nhà Tuỳ đem quân sang đánh. Quân của Nam đế Lý Phật Tử thất bại trứơc quân nhà Tuỳ. Nước Vạn Xuân bị rơi vào tay nhà Tùy bắc phương sau 60 năm độc lập. Sử cũ thường gọi thời kỳ này là thời kỳ "Tiền Lý" để phân biệt với nhà Lý về sau.  Theo sử cũ ghi: Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17-10-503). Lý Bí 5 tuổi thì cha mất, 7 tuổi thì mẹ qua đời. Ông đến ở với chú ruột. Tương truyền, có một vị Pháp tổ thiền sư lỡ độ đường, trông thấy Lý Bí đang chơi đùa cùng lũ trẻ, vẻ mặt khôi ngô, tuấn tú, người này liền xin Lý Bí đem về chùa nuôi dạy. Sau hơn 10 năm rèn sách chuyên cần, lại được vị thiền sư gia công chỉ bảo nên Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp. Nhờ có tài văn võ kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Cũng theo sử cũ, Lý Bí đã từng ra làm quan cho nhà Lương, nhưng do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác, nên ông bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ. Tù trưởng ở Chu Diên (Hải Dương ngày nay) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, hết sức phục tài đức của Lý Bí nên đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Năm 541, thứ sử Giao Châu Tiêu Tư vô cùng tàn bạo nên bị người dân oán giận. Cùng thời điểm ấy, biên ải có giặc Lâm Ấp quấy phá. Nhân dân Giao Châu lâm vào tình thế rất khổ cực. Lý Bôn làm quan cho chính quyền đô hộ nhưng bất bình nên bỏ về quê (Thái Bình nay) chiêu mộ nghĩa quân. Tinh Thiều, một người giỏi văn chương, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan, nhưng nhà Lương chỉ bổ cho chức "Quảng Dương môn lang", nên bỏ về Giao Châu theo Lý Bôn. Sử cũ cho rằng, lúc bấy giờ ông làm chức giám quân ở châu Cửu Đức (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), liên kết với hào kiệt mấy châu đứng lên chống lại nà Lương đều "nhất hô, bá ứng". Quân của Lý Bôn đánh cho Tiêu Tư thua chạy về Quảng Châu và chiếm lấy Long Biên. Tháng 12 năm 542, vua Lương sai Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng sang trả thù. Thứ sử Quảng Châu không đồng ý nhưng Tiêu Tư vẫn thúc giục tràn sang. Tử Hùng đi đến Hợp Phố, quân lính mười phần chết đến quá nửa, thành đám tàn quân, tan rã dần. Đến năm 543, tháng 4, vua Lâm Ấp xâm chiếm quận Nhật Nam, Lý Bôn sai Phạm Tu đánh tan địch ở Cửu Đức.

Theo các sử gia thì việc Lý Bôn đặt tên nước là Vạn Xuân, tự xưng là Hoàng Đế, định niên hiệu, lập một triều đình riêng ngang hàng với nước lớn phương Bắc là sự khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc và sự bền vững muôn đời của đất trời phương Nam. Tưởng nhớ Lý Nam Đế, người anh hùng dân tộc mở đầu nền độc lập, tự chủ của đất nước, nhân dân nhiều nơi lập đền thờ ông theo nghi lễ thờ vua. Tính riêng ở miền Bắc có hơn 200 đền, miếu thờ Lý Bí và các tướng của ông. Làng Cổ Trai vẫn còn đền, miếu thờ Vua Tiền Lý (Lý Bôn) và Tả Tướng quân Triệu Quang Phục. Cách ngôi đền thờ vua Tiền Lý khoảng 200 mét là khu miếu cổ, cạnh đó là đền Quốc Mẫu, tương truyền nơi đây thờ phu nhân Tướng quân Triệu Túc...Người dân làng Cổ Trai cũng dựng đền, đình thờ Lý Bí, coi ông là Thành Hoàng làng. Đình, đền Cổ Trai được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia.

Bài và ảnh: LÊ QUANG VIỆN

(Tài liệu tham khảo: - Tiên Hưng phủ chí.

- Ngàn năm đất và người Thái Bình. - Tư liệu của cố GS Trần Quốc Vượng.)


« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười Hai, 2010, 03:35:59 pm gửi bởi thapbut » Logged
thapbut
Thành viên
*
Bài viết: 158


WWW
« Trả lời #62 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2010, 02:44:01 pm »

Đoạn cuối của bài viết cho ta một số thông tin: Triệu Quang Phục là Tả tướng, Mẹ Triệu Quang Phục được lập đền thờ và gọi là Quốc Mẫu tại mảnh đất Hưng Hà giáp ranh với Hưng Yên-Chu Diên xưa.
Triệu Quang Phục đã là Tả Tướng sau năm 545 (khi Phạm Tu đã hy sinh), nên về Cổ Trai ông là đại tướng chỉ huy cánh quân chặn giặc ở biển phía Thái Bình, Nam Định
Còn Triệu Túc cũng chỉ huy cánh quân phía Lục Đầu Giang (Chu Diên), Lý Bí đã đi thị sát hai trận địa này và trực tiếp chỉ huy đánh Trần Bá Tiên ở Chu Diên.
Về sau Triệu Túc hy sinh, nhưng chưa thấy có nơi nào còn đền thờ ông.
Mẹ Triệu Quang Phục được lập đền ở Cổ Trai, là Quốc Mẫu vì bản thân Triệu Quang Phục là vua. Nhưng việc lập đền thờ Bà ở Cổ Trai có thể nói lên quê hương Bà ở đó, hay Bà là người cũng đã cùng con trai hành quân chống giặc ở đất này. Có thể Bà có công lao lớn trong việc chuẩn bị chống giặc nên đã được lập đền thờ riêng.
Cổ Trai có điều gì gắn bó với Triệu Quang Phục giống như Dạ Trạch chăng?
Logged
bachviet18
Thành viên

Bài viết: 4


« Trả lời #63 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2012, 09:51:40 am »

Kính chào bạn Tháp bút và các anh dòng họ Phạm.
Hôm nay có ít tư liệu và thông tin về Sĩ Nhiếp cùng họ Phạm muốn chia sẻ với các anh.

Câu đối ở cổng đền Sĩ Nhiếp tại thôn Tam Á – Thuận Thành – Bắc Ninh:
Khởi trung nghĩa công thần tâm kì / bỉ hà trường thử hà trường / an đắc lục bách tải di dung năng nhiếp Lâm Ấp
Thị sự nghiệp văn khoa cử tích / trị diệc tiến loạn diệc tiến / tối củ tứ thập niên chính sách chửng biểu Giao Châu.


 

Tạm dịch:
Với tấm lòng trung nghĩa công thần, việc này việc kia đều bền, sáu trăm năm đức khoan dung để lại giúp dựng cơ đồ Lâm Ấp.
Nhờ sự nghiệp văn hóa khoa cử cũ, thời bình cũng như thời loạn, bốn mươi thu qui củ chính sách làm rạng tỏ Giao Châu.


Câu đối này có một thông tin rất lạ: đức độ để lại của Sĩ Nhiếp đã giúp cai quản nước Lâm Ấp 600 năm. Phải hiểu việc này thế nào đây? Thái thú Giao Châu Sĩ Nhiếp thì có liên quan gì đến người Lâm Ấp?

Xem lại sử chỉ thấy có Toàn thư, Ngô Sĩ Liên bình về Sĩ Nhiếp:
"Tục truyền rằng sau khi vương chết đã chôn, đến cuối thời nhà Tấn đã hơn 160 năm, người Lâm Ấp vào cướp, đào mộ của vương, thấy mình mặt vẫn như sống, cả sợ lại đắp lại, người địa phương cho là thần, làm miếu để thờ gọi là "Tiên Sĩ Vương". Có lẽ là khí tinh anh không nát, cho nên thành thần vậy".

Chuyện này thật rối rắm. Người Lâm Ấp vào đào mộ Sĩ Nhiếp, sau đó đền thờ lập tại đó lại ghi “lòng khoan dung của Sĩ Nhiếp giúp Lâm Ấp tồn tại 600 năm”.

Theo chính sử Lâm Ấp lập quốc từ Khu Liên vào khoảng năm 137-138 (hoặc 187-190). Sau đó họ bên ngoại của Khu Liên là họ Phạm kế nghiệp. Họ Phạm trị vì Lâm Ấp tới năm 757, tiếp theo là thời gian của Hoàn Vương. Như vậy Lâm Ấp là quốc gia đã tồn tại khoảng 600 năm, cai trị bởi Khu Liên và họ Phạm.

Như đã biết Sĩ Nhiếp có thể mang họ Phạm. Đây là thông tin mang tính quyết định cho phép suy đoán:
-    Chữ “nhiếp” trong câu đối trên cho thấy thực ra tên Sĩ Nhiếp chỉ là một danh hiệu với nghĩa kẻ sĩ nhiếp chính, rất phù hợp với ghi chép về công trạng của Sĩ Nhiếp gồm góp phần giáo hóa Nho học và an trị Giao Châu trong 40 năm đầu thời Tam Quốc. Sĩ Nhiếp không phải là họ Sĩ.

-    Sĩ Nhiếp mang họ Phạm, chính là tiền nhân của các vị vua Lâm Ấp họ Phạm sau này. Việc người Lâm Ấp ra Luy Lâu đào mồ Sĩ Nhiếp 160 năm sau thực ra là họ đi tìm mồ mả tổ tiên, “bốc mộ” cha ông và lập đền thờ. Người ngoài không hiểu chuyện nên “tục truyền” là người Lâm Ấp thấy sợ mà lấp mộ lại.

Xem lại con đường sự nghiệp của Sĩ Nhiếp được chép trong Toàn thư:
"Đinh Mão, năm thứ 1 [187], (Hán Trung Bình năm thứ 4). Vương có ba em trai tên là Nhất, Vĩ và Vũ. Bấy giờ Thứ sử Chu Phù bị giặc Di giết chết, châu quận rối loạn, vương bèn dâng biểu cử Nhất làm Thái thú Hợp Phố, Vĩ làm Thái thú Cửu Chân, Vũ làm Thái thú Nam Hải. Vương độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người.”

Thời điểm anh em Sĩ Nhiếp làm thái thú các châu cũng chính năm “giặc Di” Lâm Ấp giết thứ sử Chu Phù và là năm Khu Liên lập nước Lâm Ấp. Nước Lâm Ấp theo cách hiểu ngày nay là vốn là huyện Tượng Lâm của quận Nhật Nam, nổi dậy giết thứ sử Giao Chỉ bộ. Ấy vậy mà trong lúc thứ sử Giao Chỉ bộ bị giết thì thái thú Giao Châu là Sĩ Nhiếp lại vẫn sống đoàng hoàng, thậm chí còn đang lo dạy học và được người địa phương kính trọng.

Giải thích làm sao đây khi cả bộ Giao Chỉ bị người Lâm Ấp tấn công, giết thứ sử mà anh em nhà họ Sĩ lại "an trị" được vùng này? Thậm chí danh sĩ các nơi còn kéo về tụ họp như chưa hề có chuyện Lâm Ấp đánh giết thứ sử. Chỉ có thể hiểu được nếu anh em nhà họ Sĩ đã "thông đồng" với người Lâm Ấp, hoặc chính anh em Sĩ Nhiếp là người Lâm Ấp đã nổi dậy chiếm các quận ở Giao Chỉ năm 187.

Nói cách khác Sĩ Vương mang họ Phạm, là tổ tiên người Lâm Ấp. Chính vì vậy các vị vua Lâm Ấp họ Phạm luôn cố gắng tấn công ra Bắc nhằm đòi lại vùng đất của cha ông. Điển hình là chuyện Phạm Dương Mại đã sai sứ xin nhà Nam Tống cho được lĩnh quản Giao Châu. Nếu không phải tổ tiên họ Phạm đã từng làm chủ Giao Châu thì sao Phạm Dương Mại lại có thể đưa ra đề nghị hoang đường như vậy?

Cho đến khi nhà Tùy diệt Lâm Ấp, họ Phạm vẫn không ngừng chí "Bắc tiến", đã tham gia khởi nghĩa của Mai Thúc Loan và Phùng Hưng. Phạm Thị Uyển là Mai hoàng hậu, đã chống quân Đường và hy sinh bên dòng Tô Lịch. Phạm Miện, Phạm Huy là tướng của Phùng Hưng.

Long biên hầu Sĩ Nhiếp và Long biên hầu Phạm Tu cùng là họ Phạm, cùng có quan hệ với Lâm Ấp. Phải chăng hai vị này là một?

Xin xem thêm: http://báchviệt18.vn/
Logged
spirou
Thành viên
*
Bài viết: 44


Genpei


« Trả lời #64 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2012, 04:15:47 pm »

Nhà em cũng họ Phạm đây, nhưng mà đọc bài trên em thấy cái lý luận sao mà chán quá là chán. Họ Phạm của các vua Lâm Ấp là phiên âm từ từ Varma trong tiếng Sanscrit mà ra. Nước Lâm Ấp có nhiều triều đại khác nhau, nhưng đa số ông nào lên cũng có từ Varma kèm theo, thành ra từ Varma không chắc đó là họ mà có khi chỉ là tôn hiệu cao quý dành cho vua mà thôi.

Mà chắc gì nhà Ngô dễ dàng cho 1 ông Lâm Ấp làm quan cai trị xứ Giao Châu.
Logged
bachviet18
Thành viên

Bài viết: 4


« Trả lời #65 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2012, 03:22:36 pm »

Chỉ vì vẫn giữ quan niệm Lâm Ấp là Chiêm Thành của người Chăm nên mới thắc mắc như trên. Ở đây nói Lâm Ấp là một quốc gia của người Việt, do họ Phạm người Việt thành lập vào thời đầu Tam quốc. Còn tiền thân của Hoàn Vương - Chiêm Thành là nước Hồ Tôn, một nước có từ thời Hùng Vương chứ chẳng phải đợi đến lúc Khu Liên nổi dậy mới có.

Thông tin từ chính gia phả họ Phạm cho biết họ Phamh của Lâm Ấp chính là người Việt: http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=23476

" Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành ( con Lý Thân-Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu ( gọi là xứ Lâm ấp)-tức là Nam Trung bộ ngày nay.
Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trc CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Viêt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay). Đến đời vua họ Phạm thứ 19 là Phạm Chí bị tướng nhà Tuỳ là Lưu Phương bất ngờ đột kích, cướp phá đô thành Châu Sa, vơ vét của cải , châu báu cùng 18 pho tượng vàng của 18 vua họ Phạm, khiến Phạm Chí và con là Phạm Trung chạy ra các vùng hải đảo quanh đảo Côn Lôn để cầu cứu, được 3, 4 vạn viện binh về cùng Mai Thúc Loan và cha con Phùng Hưng, Phùng An , diệt được quan quân nhà Đường và lập Mai Thúc Loan làm Bố Cái Đại vương, tức Mai Hắc đế (766)
Thấy xứ Lâm ấp phải lo chống đối với nhà Đường ở phía Bắc, nên thừa cơ hội này, người Chà Và (Java, Inđônêxia ngày nay) gồm các bộ tộc Dừa và bộ tộc Cau kéo sang xâm chiếm xứ Lâm ấp và lập nên Vương quốc Chiêm Thành vào năm 705. Phạm Chính, con của Phạm Trung, cháu nội cuả Phạm Chí, khi thất bại trở về, đành phải chịu nhận vùng đất quanh thành Châu Sa làm xứ tự trị của dòng họ Phạm. Hiện nay, tại núi An Điềm, xã Bình Chương, huyện Bình Sơn , còn có đền thờ vị Triệu tổ họ Phạm là Đại lang Phạm Duy Hinh. "
Logged
spirou
Thành viên
*
Bài viết: 44


Genpei


« Trả lời #66 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2012, 08:49:49 pm »

Nói chung, nghiên cứu cổ sử không bao giờ dùng gia phả vì tính thiếu chính xác. Ngay như đoạn trích dẫn này đã thấy nản rồi:
" Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành ( con Lý Thân-Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu ( gọi là xứ Lâm ấp)-tức là Nam Trung bộ ngày nay..."

Logged
thapbut
Thành viên
*
Bài viết: 158


WWW
« Trả lời #67 vào lúc: 01 Tháng Ba, 2012, 03:35:56 pm »

Rất cám ơn ý kiến đóng góp của các bạn.
Tuy nhiên suy luận của bạn bachviet18 có nhiều điều phải xem xét cho kỹ. Nhưng có nhiều điều thì tôi thấy không hợp lý vì:
Sỹ Nhiếp sống đời Hán, mất thế kỷ III, Phạm Tu sống sau đó 3 thế kỷ, mất giữa thế kỷ VI (cách nhau khoảng 300 năm) hai người này không thể là 1 người. Nhưng xét theo luân hồi theo quan điểm về cụ Hoàng Mười trên blog Phạm Viết Đào thì lại có thể?
Sỹ Nhiếp là người họ Phạm Trung Quốc, còn đến nay chúng tôi chưa thấy có tài liệu nào xác định Phạm Tu là người phương Bắc hay Lâm Ấp. Chính Phạm Tu là người cầm quân đánh tan quân Lâm Ấp, lúc đấy có thể vua-"Phạm" Lâm Ấp (không phải họ Phạm) cầm quân. Nhiều lần ông cầm quân chống lại quân nhà Lương nên là người đầu tiên có chiến công "Phá Bắc, Bình Nam", về sau có Phạm Cự Lượng, Lý Thường Kiệt,... có chiến công "Phá Tống, Bình Chiêm". Vị Đại tướng như vậy khác hẳn với Vương - Sỹ Nhiếp không hề động binh.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #68 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2012, 10:20:30 am »

Cứ theo cái gia phả kia thì từ thời HV người Việt đã có họ, đã có tổ chức bộ máy nhà nước cùng lề luật y choang TQ rồi. Vậy mà tới thời Mã Viện bình Hai Bà xong vẫn kêu là luật Việt khác luật Hán ít nhất 10 điều, Hai Bà Trưng và tướng lĩnh chẳng có họ tên gì giống kiểu TQ cả...

Vậy là sao?
Logged
thapbut
Thành viên
*
Bài viết: 158


WWW
« Trả lời #69 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2013, 08:56:39 pm »

Năm 2012 phát hiện 2 cổ vật được đặt vào năm 601 ở chùa Thiền Chúng thuộc Dịch Bảng huyện Long Biên, đất Giao Châu. Cho thấy chùa này gần trung tâm chính trị thời bấy giờ là thành Long Biên.
Dịch Bảng lại được cho là Đình Bảng ngày nay do vậy nghi vấn thành Long Biên có thể ở trong vùng Đình Bảng đang ngày một rõ hơn. Có lẽ chùa Thiền Chúng chính là chùa Lục Tổ?

http://www.dch.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=436&c=%2062
“Bài minh tháp Xá Lị.
Trước ngày Ất Sửu (tức ngày 15), tháng Tân Hợi (tháng 10), năm Tân Dậu niên hiệu Nhân Thọ năm thứ nhất (năm 601), nước Đại Tùy. Hoàng đế kính cẩn dựng ngôi bảo tháp và đặt Xá Lị tại chùa Thuyền Chúng (Thiền Chúng) thuộc huyện Long Biên đất Giao Châu để phổ độ cho muôn cõi sinh linh.
Cùng nguyện cầu cho Thái tổ Vũ Nguyên hoàng đế, hoàng hậu Nguyên Minh, chư vị hoàng đế, hoàng hậu, thái tử, con, cháu, thân thích trong hoàng tộc, tất thảy quần thần, thứ dân, chúng sinh trong cõi "lục đạo, tam đồ", Khẩn na la - Bát bộ chúng... đời đời, kiếp kiếp đều được theo Phật nghe Pháp, thoát li khổ ải, hưởng quả phúc lành.
Sắc cho pháp sư Đại đức Tuệ Nhã, Vũ kỵ uý Khương Huy, Bộ Lại dựng tháp và an vị xá lợi trong tháp".

http://www.vinhanonline.com/index.php?option=com_content&view=article&id=562:su-van-hanh-932-1025&catid=95&Itemid=278
Theo Thiền Uyển Tập Anh, Vạn Hạnh Thiền sư họ Nguyễn, người thuộc châu Cổ Pháp, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức(nay là làng Đình Bảng, Bắc Ninh)
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Sáu, 2013, 09:03:50 pm gửi bởi thapbut » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM