Bổ sung:
1. Hoàng đế: Lý Nam Đế (503-548)
2. Thái phó: Triệu Túc (phó vương)
Hoàng thất:
3. Lý Thiên Bảo(499-555)-anh Lý Bí
4. Lý Xuân)-em Lý Bí
5. Lý Hùng-em Lý Bí
6. Lý Phật Tử-cháu Lý Bí
(người này khá giống Lý Phục Man, có thể là anh em thân thích)
7. Đứng đầu Ban Văn: Tinh Thiều
8. Đứng đầu Ban Võ: Phạm Tu(476-545); có tài liệu cho ông là Thái sư, có phải chính ông là thầy dạy văn võ cho Lý Bí từ thưở hàn vi?
Trong Ban Võ có các tướng:
9. Triệu Quang Phục (?-571) (con Triệu Túc, sau là Triệu Việt Vương)
10. Phạm Tĩnh (con Phạm Tu, sau là Tướng quốc của Lý Phật Tử)
11. Lý Phục Man ở Yên Sở, Hoài Đức
12. Phùng Thanh Hòa (528-?) ở Phùng Xá, Thạch Thất
13. Vương Công Hiển ở An Tràng, Hải Phòng
14. Tiền tướng quân Phạm Khanh (510-547) thờ ở Đền Mỹ Thành, Mỹ Lộc, Nam Định
15. Trung quân Đô úy Phạm Nguyên (510-547)thờ ở Đền Mỹ Thành, Mỹ Lộc, Nam Định
16. Phạm Thị Toàn thờ ở Xã An Ninh nay là An Bình, Nam Thanh, Hải Dương
17. Phạm Công thờ ở Đình Đào Lâm, xã Đoàn Tùng, Thanh Miện, Hải Dương
18. thái tử Mạnh, thờ ở Đình Đào Lâm, xã Đoàn Tùng, Thanh Miện, Hải Dương
19. Hoàng Công Bỉnh thờ ở Đình Đào Lâm, xã Đoàn Tùng, Thanh Miện, Hải Dương
20. Vũ Công Tạo thờ ở Đình Đào Lâm, xã Đoàn Tùng, Thanh Miện, Hải Dương
21. Lôi Công ở An Cước, Nam Định
22. Trương Hống anh em họ Trương là tướng dưới quyền Triệu Quang Phục
23. Trương Hát
24. Chu Hạo hiệu là Phi Bồng tướng quân
(Đền Sinh còn có tên là đền Thánh Phi Bồng ở vùng núi thôn An Mô, xã Lê Lợi, cách đền Sinh chừng 700m về phía Bắc là đền Hoá. Đền thờ Chu Hạo, tự Phúc Uy, hiệu là Phi Bồng tướng quân, có công phù Lý Nam Đế đánh giặc Lương ở thế kỷ VI)
25. Chỉ huy sứ đại tướng Trình Đô (502-545)
26. Tam Cô
(Ngôi đình chung của hai thôn Yên Bệ và Yên Vĩnh, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Đình thờ Trình Đô và Tam Cô là 2 vị tướng của Lý Nam Đế, có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương, bảo vệ đất nước Vạn Xuân đầu thế kỷ VI. Hai ông quê ở quận Cửu Chân (Thanh Hoá). Vì chưa có con trai nên Trình Đoan (bố Trình Đô) đem con người em tên là Tam Cô về nuôi, sau đó mới sinh ra Trình Đô. Ông sinh vào giờ Sửu ngày 13 tháng Mười năm Nhâm Ngọ (502). Ông được Lý Bí phong làm chỉ huy sứ đại tướng quân. Ông đã từng đi kinh lý qua Yên Bệ, Yên Vĩnh, thấy phong cảnh đẹp bèn lập trại đón quân để phò vua chống giặc. Vào mùa hạ năm 545, trong trận chiến với quân Lương, quân Trình Đô tan vỡ, ông hy sinh trên dòng sông Lễ Khê (vùng Hoài Đức ngày nay).
Đình Hai Thôn có thể ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, khi tín ngưỡng thờ thành hoàng phát triển rầm rộ ở các vùng quê. Đình được tu sửa lớn vào năm Duy Tân 4 (1910) gồm nghi môn, sân đình, nhà tiền tế, nhà đại bái, hậu cung. Đây là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cả làng xã trong những dịp lễ hội làng quê.
Hàng năm, đình tổ chức lễ hội vào ngày 4, 12, 13 tháng Giêng và 15/6, 13/10. trong các dịp này, nhân dân thường tổ chức các trò vui chơi, giải trí mang ý nghĩa lịch sử. Ngôi đình Yên Bệ - Yên Vĩnh còn lại đến nay là một di tích hiếm hoi có liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lý Bí và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương vào thế kỷ VI ở vùng Hà Nội, Hà Tây. Đình đã được xếp hạng là di tích lịch sử vào năm 1989.)
theo:
http://www.vietgle.vn/27. Đàm Hựu Quốc
(Đình xã Đại Lai, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, thờ Đàm Hựu Quốc đời Tiền Lý Nam Đế. Ông kết nghĩa anh em với Lý Thiên Bảo, theo làm tướng cho Lý Phật Tử đem quân đi đánh Triệu Quang Phục).
28. Phả Lượng
29. Phả Hồng
30. Phả Chí
(Ngôi đình của thôn Đồng Quan Nội, xã Quang Trung, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đình thờ 4 thành hoàng là Thiên Ân Đại Vương và 3 anh em họ Phả huý là Lượng, Hồng và Chí. Các vị là những danh tướng có công phò Lý Nam Đế đánh giặc Lương hồi thế kỷ VI.)
...