Theo ông Trần Việt Bắc:
1. An Nam Long Biên thành , Phụng Thiên, Quảng Đức , Thọ Xương An Nam Long Biên thành (安 南 龍 翩 城): Xin trình ra một vài tài liệu có sẵn để độc giả dễ bề tham khảo:
Theo ĐVSKTT, quyển 1, trang 161, thì Sĩ Nhiếp … “…làm thái thú Giao Châu…, đóng đô ở Liên Lâu (tức là Long Biên)3 .” Tuy nhiên ghi chú số 3 cùng trang viết là: “Liên Lâu: cũng thường đọc là Luy Lâu, ở Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc (NV: ngày nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ), nay còn di tích thành, theo nhiều nhà khoa học, thành Liên Lâu không phải là Long Biên”.
Theo ANCL của Lê Trắc, trang 5: “Tôn Quyền thấy Giao Chỉ ở xa, bèn chia Giao Châu, đặt Quảng Châu và dời quận trị của Giao Châu qua Long Biên” (NV: Rời quận trị từ Luy Lâu sang Long Biên ).
Theo KĐVSTGCM, Tiền biên, quyển 2 có ghi chú như sau: “Long Uyên: Tức là Long Biên, tên hiệu về đời Hán, thuộc quận Giao Chỉ, trị sở của quận về thời Đông Hán.
Theo sách Thủy kinh chú, nhà Hán, năm Kiến An thứ 13 (208), khi mới đắp thành, có giống giao long lượn đi lượn lại ở hai bên bờ sông; nhân thế đổi gọi là Long Uyên. Nhà Lý đóng kinh đô ở đấy, đổi tên là Thăng Long; nhà Trần, nhà Lê cũng đóng kinh đô ở đấy cả. Bây giờ là tỉnh thành Hà Nội”.
Ghi chú trong ĐVSKTT, quyển 1, trang 179 viết: “Vị trí của thành Long Biên đến nay vẫn chưa xác định được, có thể ở vùng gần thị xã Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc”. Ông Lê Quí Đôn trong sách Vân Đài Loại Ngữ của (ấn bản của nhà sách Tự Lực) do Phạm Vũ, Lê Hiền dịch và chú giải), trang 151 viết: “76. Điạ thế nước ta… Kinh đô ở Long Biên, giữa khoảng hai phủ Thường Tín và Quốc Oai, tây bắc tựa nhiều núi, đông nam ngăn sông lớn, trên bến dưới thuyền là nơi đô hội. Chính tây là các phủ Lâm Thao, Đoan Hùng, Đà Dương và hai xứ Tuyên Quang, Hưng Hoá; chính bắc là một xứ Thái Nguyên, …. Phía tây có các phủ Ứng Thiên (ND: nay là Ứng Hoà ), Quảng Oai; phía bắc có các phủ Thuận An, Từ Sơn; phía đông có ba phủ, hai phủ Hồng (Thượng Hồng, Hạ Hồng) và Nam Sách, ruộng đất phì nhiêu; phía Nam có các phủ Tiên Hưng, Khoái Châu, Lý Nhân, Thiên Trường (sau là Xuân Trường), Kiến Xương, Thái Bình, Nghĩa Hưng, …”. Tuy nhiên trang 169 viết: “Sách Đông Hán chí chép. … 5. Giao -chỉ 12 thành: Long-biên; Liên-lâu; An-định; Câu-lậu; Mê-linh, Khúc-dương, Bắc-đái, Kê-từ, Tây-vu, Chu-diên, Phong-khê. … Đời xa, sự tích mai một; các thành, huyện xưa, nay không biết ở những xứ sở nào, dấu cũ không còn mấy. Chỉ có Long-biên là trị sở Giao-châu đời Hán, tức kinh đô ngày nay. Còn Phong-khê ở đất Yên-lãng. … . Một mình Sĩ Vương giữ Giao-châu được trọn vẹn, đóng đô ở Liên-lâu tức Long-biên.” Trang 170 viết: “Nhà Tấn bình được nhà Ngô, đặt ra Giao-châu bộ, thống trị 7 quận, 5 huyện: … 2. Giao-chỉ thống trị 14 huyện: Long-biên, Câu-lậu, Vọng-hải, Liên-lâu, Tây-ngọ, Vũ-ninh, Chu-diên (nay là Yên-lãng), Khúc-dương, Giao-hưng, Bắc-đái, Kê-từ, An-định, Nam-định, Hải-bình.” Trong đoạn đầu, có lẽ ông Lê Quí Đôn đã nói về vị trí của Liên Lâu thay vì Long Biên, mặc dù ông chắc cũng biết Long Biên và Liên Lâu là hai thành khác nhau.
Năm 541, thành Long Biên được Lý Nam Đế đặt làm kinh đô của nước Việt (quốc hiệu là Vạn Xuân). Phỏng đoán là vùng thị xã Bắc Ninh ngày nay (tham khảo từ "Đất nước Việt Nam qua các đời", trang 72-74, Đào Duy Anh). Năm 548, Triệu Việt Vương cũng đóng đô ở Long Biên, sau đó ông dời đô sang Vũ Ninh (NV: theo ghi chú trong ĐVSKTT thì Vũ Ninh thuộc huyện Quế Võ ( do hai huyện Quế Dương và Võ Giàng gom lại) thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Rồi nước Việt lại rơi vào vòng Bắc thuộc, dưới sự cai trị của An Nam Đô Hộ phủ, trị sở đặt ở Long Biên. Năm 825 trị phủ rời về thành Đại La thuộc huyện Tống Bình, là Thăng Long sau này ( Hà Nội ngày nay), từ đó, thành Long Biên mới không được dùng làm kinh đô. Long Biên ngày nay là tên một quận, được tách ra từ quận Gia Lâm. Đây không phải là vị trí của Long Biên thời Bắc thuộc.
Vậy "An Nam Long Biên thành" trong ĐVQTLĐ là Thăng Long thời Lý Trần, trung tâm thành phố Hà Nội ngày nay.
http://www.bienkhoi.com/so-44/Dai%20Viet%20Quoc%20Tong%20Lam%20Do%20-%20TranVietBac.pdfĐại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ (ĐVQTLD)
Việt Sử Tân Biên, quyển 2, trang 394, sử gia Phạm Văn Sơn đã viết về Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ như sau:
“-
Là bản-đồ nước ta do hai Đại-tướng nhà Minh, Chinh-nam tướng-quân kiêm Quốc-công Mộc-Thạnh và Tân-binh-hầu Trương-Phụ phác-họa trong niên-hiệu Vĩnh-Lạc (1403-1424).
- Là bản-đồ nước ta gồm đủ sông núi và vị trí các quận, huyện cùng thị-trấn dưới đời Trần (thế kỷ XIII).
- Là bản-đồ đã được quâm Minh đặc-biệt xử-dụng trong suốt thời-kỳ chinh-phục và đô-hộ nước ta dưới đời Hồ, Hậu Trần và trong giai-đoạn chiến-tranh với Bình-Định vương Lê-Lợi. Đến đời Gia-Long (1802), một số tên trong các địa-hạt hành-chính trong bản-đồ nay đã thay đổi. Ngày nay miền Bắc nằm dưới chế-độ mới, bộ mặt cũ và tên tuổi các xóm làng, Thành-thị ở đây cũng lại thay đổi phen nữa cũng như đời sống chính-trị của nhân-dân vậy.
- Tài-liệu rất quý này đã do bạn Thái-Văn-Kiểm có nhã-ý gởi tặng, tác-giả Thành-thực cảm-ơn.”
Việt Sử Tân Biên ,trang 395.