dongadoan
Administrator

Bài viết: 7256
Cái thời hoa gạo cháy...
|
 |
« Trả lời #21 vào lúc: 04 Tháng Tư, 2008, 08:52:31 pm » |
|
II. Giao Châu ngoại vực kí là đáng tin cậy.
Trong phần này chúng tôi tiến hành phân tích về Giao Châu ngoại vực kí trên hai phương diện: một là về địa danh trích dẫn; thứ hai về thông tin lịch sử cũng như hệ thống tư liệu được sử dụng để nhằm tìm rõ tính xác thực của văn bản.
+ Về mặt địa danh: trong Giao Châu ngoại vực kí quyển 36 – 37, có dẫn các địa danh là huyện Vũ Ninh, huyện Bình Đạo. Mà theo Thủy Kinh chú thích, hoặc Thủy Kinh chú tập thích đính ngoa thời Thanh thì các huyện cũng thuộc Giao Châu.
- Về huyện Vũ Ninh, theo Dư địa quảng kí舆地广记quyển 38 được soạn bởi Âu Dương Mấn 欧阳忞thời Tống cho biết rằng: “Vũ Bình huyện bản Đông Hán Phong Khê huyện địa, Ngô trí Vũ Ninh huyện cập lập Vũ Bình quận. Tấn dĩ hậu nhân chi, hậu cải huyện, viết Vũ Định, Tùy thuộc Giao Châu”, nghĩa là: Vũ Bình huyện vốn là đất thuộc huyện Phong Khê thời Đông Hán, đến thời Ngô đặt Vũ Ninh huyện cùng lập quận Vũ Bình. Nhà Tấn về sau theo đó, sau đổi tên huyện thành Vũ Định. Thời Tùy thuộc Giao Châu. Huyện Phong Khê thành lập khi Mã Viện đánh Trưng Trắc, Trưng Nhị mà lập nên (xem Cựu Đường thư, quyển 41), đồng thời cho biết: “Phong Khê Vọng Hải huyện tịnh thuộc Giao Chỉ quận”, nghĩa là: Huyện Phong Khê, Vọng Hải đều thuộc quận Giao Chỉ (Hán Thư quyển 25, của Phạm Hoa được Lý Hiền chú).
- Về huyện Bình Đạo, theo 元和郡縣志 Nguyên Hòa quận huyện chí quyển 38 thì: Ngô thời khai vi Vũ Bình quận lập Bình Đạo huyện thuộc chi, Tùy Khai Hoàng thập niên phế huyện thuộc Giao Châu”, nghĩa là: huyện Bình Đạo thuộc quận Vũ Bình thời Ngô, thời Tùy năm Khai Hoàng thứ 10 năm (năm 590) phế bỏ huyện, cho thuộc vào Giao Châu.
- Về Giao Châu, theo Dư địa quảng kí quyển 38 Quảng nam lộ Hóa ngoại châu viết về An Nam: “Tần thuộc Tượng quận, Hán thuộc Nam Việt, Nguyên Đỉnh lục niên lập Giao Chỉ quận, Đông Hán Kiến An bát niên kiêm lập Giao Châu, trị Long Biên”, nghĩa là: thời Tần thuộc Tượng Quận, Hán thuộc Nam Việt, Nguyên Đỉnh năm thứ 6 (năm 111 Tcn) lập quận Giao Chỉ, đến năm Kiến An thứ 8 (203) nhà Đông Hán lập Giao Châu, trị sở ở Long Biên. Đồng thời sách trên cũng viết: “Đại Nghiệp sơ, châu phế phục lập Giao Chỉ quận”, nghĩa là: năm đầu Đại Nghiệp (nhà Tùy 605) phế bỏ châu lập lại quận Giao Chỉ.
Từ các nhận định trên có cho biết huyện Bình Đạo cũng như huyện Vũ Ninh đều thuộc quận Vũ Bình thời Ngô và đều thuộc vào Giao Châu. Về địa danh, con người và sự kiện của Giao Châu Ngoại vực kí là hoàn toàn phù hợp với sự chuyển mình lịch sử trong tương quan so sánh với Sử Kí, Tiền, Hậu hán thư của Trung Quốc cho đến Việt Sử lược, An nam chí lược, Đại Việt Sử kí toàn thư, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục của Việt Nam. Như thế có thể nhận định: Giao Châu ngoại vực kí viết sau thời Ngô (năm 229 – 280) và cho đến thời Ngụy mà Lịch Đạo Nguyên trích dẫn trong Thủy kinh chú (trước khi Lịch Đạo Nguyên chết năm 529).
+ Về mặt sử liệu: theo Giao Châu ngoại vực kí trong Thủy Kinh chú quyển 37 thì nhà Thục thôn tính Lạc Vương và truyền ngôi cho con là Thục An Dương Vương. Sau đó, nhà Thục bị Nam Việt Triệu Đà tiêu diệt (bao gồm cả đất của Lạc vương mà nhà Thục đã xâm lược) cho đến năm Lộ Bác Đức đánh Nam Việt 111 Tcn thì hai sứ giả đã cung cấp toàn bộ dân số cũng như điền bạ của hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Đồng thời, Giao Châu ngoại vực kí trong Thủy Kinh chú quyển 36 cũng viết: 交州外域记曰从日南郡南去到林邑国四百馀里Giao Châu ngoại vực kí viết: Tòng Nhật Nam quận nam khứ, đáo Lâm Ấp quốc, tứ bách dư lí – Giao Châu ngoại vực kí viết: từ quận Nhật Nam đi về phía nam đến nước Lâm Ấp là hơn 400 dặm”. Thủy Kinh chú quyển 36 còn trích:交州外域记曰九德县属九真郡在郡之南与日南接 “Giao châu ngoại vực kí viết: Cửu Đức huyện thuộc Cửu Chân quận, tại quận chi nam dữ Nhật Nam tiếp” nghĩa là: Giao Châu ngoại vực kí viết: Huyện Cửu Đức thuộc quận Cửu Chân, ở phía nam của quận tiếp giáp với Nhật Nam.
Vậy, căn cứ cùng với đoạn trích trong Thủy Kinh chú quyển 36 cũng như quyển 37 thì lãnh vực của Giao Châu bao gồm các quận từ Cửu Chân trở ra Giao Chỉ và tiếp giáp quận Nhật Nam, phía nam là nước Lâm Ấp.
Như thế, việc hai sứ giả cấp dưới của Lữ Gia đã nắm vững dân số (khẩu bạ) cùng với sự tiếp giáp địa chính Nhật Nam, Lâm Ấp mà Giao Châu ngoại vực kí đã dẫn chính là bằng chứng rõ ràng nhất còn trên văn bản cả ngàn năm qua về việc nước Nam Việt bao gồm cả các quận Giao Chỉ - Cửu Chân mà nay là vùng từ Thanh Hóa trở ra của Việt Nam.
Tạm kết:
Bước đầu chúng tôi dẫn giải địa danh, nhằm lý giải việc An Dương Vương và Triệu Đà đánh nhau trên đất Giao Chỉ, và việc nhà Triệu thắng An Dương Vương nhà Thục có tính chặt chẽ của chứng cứ lịch sử. Thế mà, Sử gia Lê Mạnh Thát cho rằng “không có việc Đà diệt họ An Dương Vương” (Lục Độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, trang 196). Qua phân tích trên chúng tôi thấy rằng, tư liệu về Giao Châu trong bốn báo cáo là đáng trân trọng trong tương quan so sánh với sử học Việt Nam cũng như Trung Quốc. Do đó những kiến giải về An Dương Vương và Triệu Đà cũng như đất Giao Châu của bốn tài liệu sử học: Giao Châu ngoại vực kí, Quảng Châu kí, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện là những sử liệu đáng tin cậy trong nghiên cứu Sử Việt.
Chúng tôi sẽ tiếp tục trao đổi về Lịch sử Việt trong những chuyên luận sau. ---------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo: 1.Dư địa quảng kí, Âu Dương Mấn soạn, trong Tứ Khố toàn thư, Văn Uyên các, Thượng Hải nhân dân xuất bản xã. 2. Sử Kí – Hán, Tư Mã Thiên soạn, Tống, Bùi Nhân tập giải, Đường – Tư Mã Trinh sách dẫn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa, Trung Hoa thư cục, tháng 1 năm 1999. 3. Hán Thư – Ban Cố soạn, Nhan Sư Cổ chú, Trung Hoa thư cục xuất bản tháng 2 năm 1999. 4. Thủy kinh chú – Bắc Ngụy, Lịch Đạo Nguyên, Hoa Hạ xuất bản xã tháng 1 năm 2006. 5. Thủy Kinh chú tập thích đính ngoa, 40 quyển, Thẩm Bính Tốn soạn thời Thanh. 6. Nguyên Hòa quận huyện chí, Lý Cát Phủ soạn năm Đường Nguyên Hòa thứ 8 (813) gồm 40 quyển. 7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản dịch của Viện Sử học (in lần 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
Phụ chú các đoạn trong Thủy Kinh chú quyển 37: Đoạn 1: Nguyên văn: 交州外域记曰:越王令二使者典主交阯九真二郡民后汉遣伏波将军路博德讨越王路将军到合浦越王令二使者赍牛百头酒千锺及二郡民户口簿诣路将军乃拜二使者为交阯九真太守诸雒将主民如故交阯郡及州本治于此也州名为交州. Dịch nghĩa: Giao Châu ngoại vực kí viết: Việt vương lệnh cho hai sứ giả quản chủ dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân. Nhà Hậu Hán sai tướng là Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức đánh Việt Vương. Lộ tướng quân đến Hợp Phố. Việt Vương lệnh cho hai sứ giả đem trâu trăm con, rượu nghìn vò cùng hộ khẩu danh bạ của dân 2 quận đến cho Lộ tướng quân. Nên mới cho hai sứ giả làm Thái thú Giao Chỉ, Cửu Chân. Các Lạc tướng vẫn làm chủ dân như cũ. Quận Giao Chỉ đến thành Châu vốn từ đó, mà tên Châu là Giao Châu.
Đoạn 2: Nguyên văn: 《交州外域记》曰:交阯昔未有郡县之时,土地有雒田。其田从潮水上下,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯,主诸郡县。县多为雒将,雒将铜印青绶。后蜀王子将兵三万,来讨雒王、雒侯,服诸雒将,蜀王子因称为安阳王。后南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人,名皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人。南越王知不可战,卻军住武宁县。按《晋太康记》县属交趾。越遣太子名始,降服安阳王,称臣事之。安阳王不知通神人,遇之无道,通便去,语王曰:能持此弩王天下,不能持此弩者亡天下。通去,安阳王有女名曰眉珠,见始端正,珠与始交通。始问珠,令取父弩视之。始见弩,便盗以锯截弩讫,便逃归报越王。南越进兵攻之,安阳王发弩,弩折,遂败。安阳王下船,迳出于海。今平道县后王宫城见有故处。 Dịch nghĩa: Giao Châu ngoại vực kí viết: Giao Chỉ xưa khi chưa có quận huyện, đất đai có ruộng gọi là Lạc điền. Ruộng đó theo nước triều lên xuống. Dân khai khẩn trên ruộng đó lấy lương thực, do đó mà gọi là Lạc dân. Đặt ra Lạc vương, Lạc hầu, làm chủ các quận huyện. Huyện phần nhiều là các Lạc tướng. Lạc tướng mang ấn đồng đai xanh. Sau đó con Thục Vương đem 3 vạn quân đánh Lạc vương, Lạc hầu, thu phục Lạc tướng. Con Thục vương nhân đó mới xưng là An Dương Vương. Sau Nam Việt vương Úy Đà đem quân đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân, tên là Cao Thông là thủ hạ phụ tá, làm cho An Dương Vương một cái nỏ thần, bắn một phát giết 300 người. Nam Việt vương biết không thể đánh thắng. Mới cho quân đóng ở huyện Vũ Ninh. Theo Tấn Thái Khang kí huyện thuộc Giao Chỉ. Việt (vương) sai Thái tử tên là Thủy hàng phục An Dương Vương, xưng bề tôi mà thờ. An Dương Vương không biết (Cao) Thông là thần nhân, đối đãi không có đạo lí, (Cao) Thông mới bỏ đi, mà nói với vua rằng: “có thể giữ đuợc nỏ đó thì làm vua thiên hạ, nếu không giữ được nỏ thì mất thiên hạ”. Thông đi, An Dương vương có con gái tên là Mỵ Châu, thấy Thủy là người đoan chính, Châu với Thủy thông giao. Thủy mới hỏi Châu muốn xem nỏ của cha. Thủy thấy nỏ, trộm lấy mà cưa nỏ, rồi trốn về báo với Việt vương. Nam Việt tiến binh đánh, An Dương vương đem nỏ bắn, nỏ gãy, bị thua trận. An Dương Vương xuống thuyền, chạy trốn ra biển. Nay ở hậu vương cung thành huyện Bình Đạo còn thấy nền cũ.
|