Nghĩa quân nhà ta chắc mới, súng pháo còn ít và còi. Minh triều lấy được bí quyết súng nhà ta, tưởng thế là to. Tiếc nhất là không ghè chết được con quỷ tầng địa ngục thứ 18 là Trương Phụ.
Em nhớ là đã đọc trong 1 tài liệu (tài liệu cổ, tin tưởng được, không phải wiki
) có nói Đặng Dung đã 1 lần đột kích thành công vào thuyền chỉ huy của Trương Phụ. Nhưng rủi ở chỗ ông không có lệnh truy nã nên không biết mặt hắn và Trương Phụ đã chuồn mất. Quá tiếc. Hồi đó nếu Đặng Dung chặt được 1 gươm vào cổ con quỷ già đó thì có lẽ ông đã không phải cảm hoài :
"vận khứ anh hùng ẩm hận đa"Minh sử và thực lục đều nói đến chiện này. Ngoài ra, đại sự ký cũng có nói đến. Thằng dịch hạch ấy sống dai thế chứ.
Trương Phụ là con của Trương Ngọc, chiến hữu của Chu Nguyên Chương, tâm phúc của Yên Vương Chu Lệ. Sau Chu Lệ diệt cháu, chiếm triều rồi thiên đô về Bắc Kinh. Các bằng hữu của Trương Ngọc, những đại tướng khai quốc, đều bị Chu Nguyên Trương tận diệt, nhiều người chết cả 3 họ 9 họ. Trương Ngọc nhờ được theo Yên Vương mà sống.
Con cáo già Trương Phụ thực ra không phải là một viên tướng giỏi. Hắn có biệt tài là Chu Lệ không bao giờ nghi ngờ cả. Thông thường, đi viễn chinh, cầm nhiều quân, thường bị Chu Lệ nghi. Thời Minh lập quốc đến Chu Lệ, thường khi đánh to đến 20-30 vạn quân thì vua đã thân chinh, có gì đem đi hết chỉ để ở nhà đám hậu cần, vì nghi kỵ nhau, nhưng Trương Phụ cầm 80 vạn quân viễn chinh An Nam, đây là cuộc xâm lược lớn nhất trong lịch sử Đại Việt. Đáng tiếc là "họ hồ chính sự phiền hà", thật ra là hủ nho nhà ta đang chế bai các "biến pháp" của nhà Hồ. Đáng tiếc nữa là ngà Nguyễn về sau xin Minh Sử viết lại bóp méo thời kỳ này trong Khâm Giám, nhà Nguyễn đê hèn thế nào thì không cần nói.
Thằng quỷ Trương Phụ thiếu đầu óc, tiến hành chống nghi ngờ theo một phương án khác. Nó giết sạch dân vùng nó chiếm được và chả ai nghi nữa. Đánh dân Miêu Choang, hắn vây chặt, đầu độc tất cả các nguồn nước. Theo báo cáo của nó thì 3 phần dân Miêu Choang chết 2, còn một phần chắc tự tử rồi. Để dập tắt một nước, ví như Miêu Choang, hắn không đánh được quân, nhưng đem giết sạch dân. Biện pháp "Mưu phạt tâm công" của hắn là giết dân "xác chất thành núi, ruột quấn thành cây to, rán người lấy mỡ..." rồi chi tiền mua vui để "nhiều người mổ bụng người chửa cắt tai hài nhi lĩnh thưởng"... để khủng bố tinh thần. Không phải là tướng giỏi, hắn không lĩnh những vị trí chủ chốt của chiến dịch, trận đánh... nhưng chiến dịch An Nam thì trời khiến chủ tướng chết trên đường hành quân và hắn lên thay.
Tuy nhiên, số nó cũng đến ngày tàn.
Trương Phụ bắt rất nhiều dân các vùng bị chiếm, toàn người anh tài đẹp trai, đem thiến rồi đưa về dâng Chu Lệ ở Bắc Kinh. Thế nhưng những người này quá anh tài, dần thâu tóm quyền hành và những kẻ như Trương Phụ không còn đường sống. Số thông thường của chúng là chinh chiến liên miên cho đến khi chết xó nào đó, không có quân công thì liệu hồn với đám hoạn quan. Đám hoạn quan trước là nô lệ của hắn, nay đã ngoi lên lắm chính quyền vì quá nhiều người giỏi, như Trịnh Hòa (Đại Lý), Nguyễn An (Đại Việt). nếu không có quân công thì những kẻ như Trương Phụ chả có việc gì làm ở Triều, và theo quy luật nước Tầu, sẽ giống các chiến hữu của Chu Nguyên Chương.
Đến khi Chu Lệ chết, các tù binh và hoạn quan càng ngoi lên tợn. Lúc này, Hồ Nguyên Trừng đã bỏ thái độ bất hợp tác không nộp lý lịch (19 năm ông bất hợp tác, 1407-1426, lúc này Minh Sử bắt đầu ghi ông là "Hoàng Tử Nước An Nam", chứ không phải loằng ngoằng "em của con giặc đầu đảng" như trước), chức tước của Nguyễn An đã khá cao theo tiến trình xây dựng thành Bắc Kinh (Nguyễn An là một trong những kiến trúc sư chủ chốt, theo nhiều nhà ngâm kứu, là kiến trúc sư trưởng). Sau cuộc thiên đô về Bắc Kinh, thì những tù binh người Việt theo Hồ Nguyên Trừng đã có Đại An Nam Doanh, Tiểu An Nam Doanh, Giao Chỉ Doanh, Hỏa Khí Doanh (gần nơi chôn Hồ Nguyên Trừng và có thể là nhiều tù binh nữa), và quan hệ chặt chẽ với đoàn quân hiện đại nhất thế giới là Thần Cơ Doanh của Liễu Thăng. Tù binh sau cuộc thiên đô không còn là thân phận nô lệ nữa, mà bằng tài năng của mình, đã là một thế lực mạnh, cùng đám hoạn quan-cũng là nô lệ, thao túng triều đình. Hồ Nguyên Trừng đã lãnh đạo xây dựng đại công nghiệp luyện sắt của Tầu, hùng mạnh nhất thế giới lúc đó. Nguyễn An chỉ huy đại công trường lớn nhất thế giới xây thành Bắc Kinh, Trịnh Hòa chỉ huy hạm đội lớn nhất trong lịch sử tầu buồm... Con của Chu Lệ ngo nghoe, liền bị Tuyên Đức (cháu) băm nhừ 9 ngàn người, thế là dần dần đám chiến binh trở thành nô lệ của gươm đao, cãi bướng là bị băm.
Đến khi trương phụ 75 tuổi là 1449. Lúc này Hồ Nguyên Trừng đã khuất núi (1446) trên cương vị Công Bộ Thượng Thư, chỉ huy toàn bộ công nghiệp, bao gồm chế tạo vũ khí, đắp thành xây cung, đào kênh trị thủy.... Con Hồ Nguyên Trừng nối cha làm Tả Thị Lang (thứ trưởng bộ công). Điều đó cho thấy, tù binh và nô lệ Đại Việt có cha con Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An chiếm vị trí chủ chốt lâu dài, và cái bộ công hoàn toàn bị người Việt thôn tính, là một đồng minh lớn nhất của đảng phái hoạn quan, vốn cũng là nô lệ. Mấy đảng phái xuất thân nô lệ này bắt đảng của Trương Phụ thành nô lệ của vũ khí.
1449, thì những kẻ bắt nô lệ năm xưa nay trở thành nô lệ của chiến tranh, như đã nói. Trương Phụ là một trong 5 trụ quốc mà Tuyên Đức để lại cho Anh Tông. Năm 1427, Trương Phụ cũng cương quyết phản đối việc rút khỏi Giao Chỉ, điều đó cho thấy, ngay từ đó hắn đã mắc vào vòng nô nệ của dao kiếm, ngừng đánh là thất nghiệp rồi tiến đến số phận của cha ông thời Chu Nguyên Chương. Nhà Minh không thể đánh Giao Chỉ, khi mà tướng giỏi nhất của Chu Lệ là tư lệnh Thần Cơ Doanh Liễu Thăng đã chết trận, cùng hàng loạt các quan võ văn cao cấp nhất (có đến 2 đời Binh Bộ Thượng Thư). Lúc đó, phản đối dừng đánh Giao Chỉ là điều !!!! có lẽ, Trương Phụ biết thế là ngu, nhưng buộc phải làm, nếu hắn ở nhà thì không biết ngày nào Hồ Nguyên Trừng ra tay băm. Và đến năm 1949, khi mà Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An, Trịnh Hòa... cùng đám tù binh + hoạn quan nô lệ càng ngày càng vững thế, thì Trương Phụ và thế lực càng ngày càng bị trói chặt vào dao kiếm. Tuy là một trong 5 đại thần, nhưng Trương Phụ hầu như bị tước hết quyền. Anh Tông là con một bà phi không tên tuổi, nhưng được Thái Hậu nuôi dựng làm con trưởng, lên ngôi lúc còn nhỏ và Trương Phụ bám vào váy Thái Hậu mà giữ mạng.
Cái gì đến sẽ phải đến. Trương Phụ buộc phải ra trận khi đã 75 tuổi. Anh Tông lên thay Tuyên Đức, thế của hoạn quan càng mạnh. Rồi Thái Hậu khuất núi năm Năm 1442, Thái giám Vương Chấn chuyên quyền. Trong khi đó, đám tù binh người Việt đã trở thành xương gân của nền công nghiệp luyện kim lớn nhất thế giới trung cổ, hoà mình vào xã hội tầu. Và cái xã hội tầu ấy ngày đêm lo một là làm ăn, hai là mưu kế tước quyền của mấy lão tướng vừa già vừa thừa vừa nhiều kẻ thù, để lại thì họa chiến tranh hại dân. Tất nhiên là nghĩ kế kiểu tầu, không tước được thì giết, không giết được 1 người thì giết 3 họ, không giết 3 họ thì giết 9 họ. Trong thế đó, ai cũng có thể thấy, không phải 2 đời trụ quốc, mà đến 20 đời trụ quốc cũng khó mà sống. Cái bộ công tù binh của Hồ Nguyên Trừng và "bộ chính trị đảng Thái giám" có quan hệ thân mật lâu đời, xuất phát từ thời cùng là nô lệ. Minh Sử còn ghi, thời tiền tệ phá sản, đời sống Hồ Nguyên Trừng và các đệ tử thiếu thốn, các Thái Giám đã tâu xin cho ông được cấp lộc toàn bằng gạo để tránh "lương nhà nước gạo chợ đen".
Minh Sử ghi Trương Phụ kiên quyết phản đối việc đánh Thát Đát, nhưng không những không thể phản đối, mà lại bị nhét quyền tư lệnh vào tay. Lần này đi đánh Thát Đát, Trương Phụ cáo già đem cả vua đi, cũng là một kế có ích, vì không như thế thì có thể đã bị giết 9 họ.
Trận đánh rất tuyệt vọng, chắc chắn đó là một hành động chạy chốn chính trị rất thê thảm. Vua tôi đem 5 vạn quân đi. Nếu so số thì Thát Đát kém hơn, số quân chỉ hơn một vạn. Nhưng cần biết rằng, Chu Lệ thường đem 50 vạn đi Mạc Bắc Viễn Chinh đánh Thát Đát, để đối với khoảng 3 vạn Nguyên Mông Cổ thuần chủng, và con số 5 vạn chỉ là con số quá tuyệt vọng, 1/5 yêu cầu.
Thát Đát từng bị kẹp đánh tơi tả, phía Nam là Minh Triều của Chu Lệ, bắc là dòng khác của Mông Cổ (Ngõa Thứ Bộ 瓦刺部). A Lỗ Thai vua Thát Đát đã dùng độc chiêu, hàng Chu Lệ, làm Chu Lệ và Ngõa Thứ Bộ tẩn nhau chí tử. Cuối cùng thì Thát Đát không giết được Chu Lệ nhưng cũng trói được một chú vua tầu.
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1307.msg20872#msg20872Đoàn quân vừa ra khỏi Bắc Kinh 1 ngày thì bị phục kích tại Thổ Mộc và hết chuyện. Trương Phụ bị quân Thát Đát băm ngoài trận, Anh Tông bị cầm tù, kết thúc giai đoạn Nguyên bị Minh đì, và cũng kết thúc giai đoạn quân sự hùng mạnh ngắn ngủi của nhà Minh. Có thể nói, trương phụ là viên tướng tàn bạo nhất, sống cũng lâu nhất, và cũng chứng minh cho hậu thế rõ nhất cái nguyên lý của đạo phật. Hắn bắt hàng triệu người tài làm nô lệ, cuối cùng, những con người tài năng đã bắt hắn làm nô lệ. Từ đây, nhà Minh co vòi trong Vạn Lý Trường Thành. May cho nhà Minh là Nguyên bị Mãn Thanh đang lớn đì, nhưng cái giá phải trả là sau khi chén Nguyên thì Thuận Trị chén nốt Minh Triều.
Thật là đáng tiếc, số nhà Vịt sao lúc ấy buồn thế, chém nó một nhát có phải hả đôi chút thù.
--------------
Những chuyện thao túng triều đình nhà Minh của hoạn quan thì nhìn đời Minh Anh Tông thấy rõ. Hoạn quan quá nhiều ý kiến xuất sắc, và những cái bóng bông để chơi của họ khổ sở thế nào, cho dù có làm hoàng đế trung hoa.
Năm 1449 thì Hoạn Quan đã là vua tầu. Hoạn Quan thái giám Vương Chấn khiến Anh Tông đi đánh Thát Đát. Điều này sẽ làm cho các thứ mạt vận như Trương Phụ khổ sở đến chết. Thắng thì chả được gì hơn, thua thì bị băm 3 họ 9 họ. Không đi không được vì sẽ theo con đường bạn bè Chu Nguyên Chương cả. Tuy nhiên, trời tính vẫn hơn người tính. Trương Phụ cáo già bơm vá thế nào Anh Tông mới 22 tuổi máu lên thân chinh.
Anh Tông bị giam. Nhưng Hoạn Quan ở nhà cũng chả lợi gì thêm. Vu Khiêm đưa em Anh Tông là Cảnh Tông lên, phong Anh Tông làm Thái Thượng Hoàng, coi như phế. Và thế là Vu Khiêm ngoi lên quyền trụ quốc, thế chỗ thái giám Vương Chấn.
Tuy nhiên, thái giám Vương Chấn lại chuyển bại thành thắng. Thát Đát dùng Anh Tông đi đánh Bắc Kinh 1 lần rồi trả, từ đấy Nguyên Minh hòa thuận (Minh còn sức và hùng khí đâu mừ đem ra chơi nữa, việc hai nước hoàn thuận thì chỉ tổ thêm phần đe dọa bọn võ tướng). Anh Tông trở thành bạn của vua Thát Đát trong thời gian 1 năm bị giữ ở đây, việc thả ông đảm bảo hòa bình lâu dài, và cũng đảm bảo các thế lực quân sự điên cuồng như Trương Phụ không còn cơ hội để nắm đại quyền. Nhưng việc Anh Tông về đe dọa vị trí của Vu Khiêm, thế là Anh Tông bị Vu Khiêm giam 7 năm. Tuy nhiên, cuối cùng thì Hoạn Quan Tào Cát Tường cũng đem Anh Tông lên ngôi, phế Cảnh Tông, chém Vu Khiêm.
Và thái giám lại đến thời thịnh.
----------------------
Thật ra thì lũ tướng tàn bạo như Trương Phụ cũng như các tướng đã đánh Vịt năm 1979, không có đất sống ngoài lưng ngựa (và trong da ngựa). Cuộc sống muôn đời nẩy nở, những tù binh, nô lệ bị hoạn đã xây thành bắc Kinh hoành tráng, công nghiệp luyện sắt hùng mạnh, cuộc sống lớn lên ở viễn phương trong cảnh tù đầy. Cuộc sống mới dần dần đè chết Trương Phụ, dù có trụ quốc mấy đời thì thế lực của hắn chỉ càng ngày càng còi cọc, trời cho hắn được hưởng thọ để nhìn thấy ngày hắn không còn cơ hội để sống.
Hắn càng thiến hoạn, chinh phạt, giết chóc thì chính những "chiến lợi phẩm" càng nhiều, càng mạnh và hắn càng không thể tìm đất yên thân. Chuyện năm 1449 có thể coi là hành động tuyệt vọng, sản phẩm của chính "chiến lợi phẩm" không làm thì chết. Có lẽ, con cáo già Trương Phụ là kẻ sống dai nhất trong các tướng, nhưng sống lâu thấy khổ nhiều, đến lúc này thì hắn còn gì để đối lại với đám tù binh và hoạn quan hơn 40 năm trước. Trong khi đó, không chỉ Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An, Trịnh hòa, mà nhiều thế lực mới muốn hắn chết, chết càng kỹ càng tốt.
Mà làm thì cũng chết. Chỉ tiếc là không tru diệt được 27-81 họ nhà nó.
Đây là một sự nghiệp lớn mà Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An và các tù binh, nô lệ khác làm được. Hơn 40 năm sau khi bị bắt, từ thân phận nô lệ, cuối cùng họ đã làm kẻ thù rơi đầu. Giai đoạn thịnh trị của các thế lực này còn kéo dài.
Cuối đời, Hồ Nguyên Trừng đón sư Trí Thâm và vài sư vãi từ An Nam sang, lập chùa Tú Phong, dựng bia ký, tâu xin sắc chỉ. Có lẽ, chùa là nơi các nô lệ bị hoạn người Việt lui tới, cũng có thể đến tu, và chắc chắn là nơi gửi nắm tro tàn nơi đất khách của họ.
Còn 17 ngàn tù binh Đại Việt thì hòa mình vào xã hội trung hoa, trở thành chủ chốt trong nền công nghiệp luyện sắt khổng lồ thời Minh, đến nay thành Bắc Kinh cổ kính vẫn còn những tên phố, tên ngõ như trên. Khi Trương Phụ rơi đầu, Nguyễn An cùng những thợ thuyền và kiến trúc sư khác đã hoàn thành phần lớn việc xây thành Bắc Kinh và ông đang chỉ huy việc trị thủy, ông mất trên đường đi trị thủy Hoàng Hà năm 1453. Con Hồ Nguyên Trừng tiếp tục nắm phần luyện sắt, rèn đúc súng, Công Bộ Tả Thị Lang, chỉ huy con cháu của 17 ngàn tù binh Đại Việt, cho đến khi về hưu năm 1470, lúc đã 70 tuổi. Hỏa Khí Doanh, nơi họ sinh sống, nay ở ngoại thành Bắc Kinh. Nhiều thợ luyện rèn ở đây và con cháu sau tản đi đến nhiều vùng công nghiệp quan trọng thời Minh.
Trịnh Hòa vanh danh với những bản đồ hải hành, ông là hoạn quan nô lệ thành đạt trước khi Chu Lệ sai Trương Phụ đánh An Nam, thành công của ông đã mở ra tiền lệ, cho những nô lệ hoạn quan như Nguyễn An được lên chức tước lớn, để mong có ngày báo thù, ông cũng là mắt xích quan trọng của "bộ chính trị đảng hoạn quan". Ngày nay, 100 người trên thế giới này biết Trịnh Hòa chắc chưa đến 1 người biết Trương Phụ. Trịnh Hòa mất năm 1433, 62 tuổi, lúc này đám hoạn quan nô lệ đã thịnh, nhưng ông không kịp nhìn thấy kẻ sát nhân khát máu rơi đầu.