1 bài khác nói về quân Anh ở VN:
http://www.globusz.com/ebooks/LuisSilva/00000013.htmCuộc chiến VN của nước Anh
Suốt 35 năm qua, các cuộc chiến tranh ở Đông Dương đã thu hút sự chú ý của toàn thế giới trong suốt những năm cuối của thế kỉ 20. Cuộc chiến 9 năm thất bại của người Pháp (1945-1954), cuộc can thiệp cũng không thành công của người Mỹ, chấm dứt năm 1973 tới cuộc xung đột ở CPC bắt đầu bằng chiến dịch tiến công của VN năm 1978 vẫn thường được nhắc đến với cái tên Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Về mặt lịch sử, đã thiếu mất một, vì cuộc chiến đầu tiên ở Đông Dương sau Thế chiến 2 là cuộc xung đột ngắn ngủi nhưng quan trọng xảy ra trong thời kỳ chiếm đóng của quân Anh ở Sài Gòn 1945-46. Cuộc xung đột nhỏ này đã trực tiếp lấy đi 3000 sinh mạng và làm bị thương một số lớn, nó cũng dẫn đến một tình huống thú vị là quân Anh chiến đấu bên cạnh những kẻ thù cũ của mình, quân Nhật.
Tháng 7/1945, tại Postdam, Đông Đức, các nhà lãnh đạo Đồng minh quyết định chia đôi Đông Dương ở vĩ tuyến 16, cho phép Tưởng Giới Thạch giải giáp quân Nhật ở phía bắc, trong khi Huân tước Louis Mountbatten tiếp nhận sự đầu hàng ở phía nam. Để thực hiện nhiệm vụ này, Huân tước Mountbatten, Tổng tư lệnh lực lượng Đồng minh ở Đông Nam Á cho thành lập Ủy ban kiểm soát Đồng minh để tới Sài Gòn và lực lượng quân sự gồm 1 sư đoàn bộ binh mang tên Lực lượng lục quân Đồng minh ở Đông Dương thuộc Pháp (ALFFIC). Họ có nhiệm vụ thiết lập trật tự ở khu vực quanh Sài Gòn, giải giáp quân Nhật, hỗ trợ nhân đạo cho các tù nhân Đồng minh.
Quan tâm chính của Ủy ban kiểm soát là giải thể từ từ Bộ tổng chỉ huy quân đội Hoàng gia Nhật ở Đông Nam Á và đồng thời hỗ trợ nhân đạo cho tù nhân chiến tranh. Do vậy thiếu tướng Douglas D. Gracey được bổ nhiệm đứng đầu ủy ban và lữ đoàn 80 do chuẩn tướng D. E. Tauton chỉ huy thuộc sư đoàn Ấn Độ số 20 xuất sắc của ông sẽ là lực lượng ALFFIC đi cùng tới VN.
Cuối tháng 8/1945, lực lượng chiếm đóng Anh đã sẵn sàng khởi hành tới nhiều nơi ở Đông Nam Á, và một số đã trên đường khi đại tướng Douglas MacArthur gây nên 1 sự náo động ở Bộ tư lệnh Đông Nam Á khi không cho phép việc đóng quân cho tới khi cá nhân ông ta tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Tokyo, thực tế đã được ấn định vào 28/8, nhưng 1 cơn bão đã trì hoãn nó đến 2/9.
Sự náo động do MacArthur đã gây ra hậu quả ghê gớm, các tù nhân Đồng minh trong các trại tù binh của Nhật phải tiếp tục sống trong điều kiện kinh khủng thêm một thời gian, và đồng thời sự trì hoãn trước khi quân Đồng minh tới đã tạo điều kiện cho những nhóm cách mạng nổi lên lấp khoảng trống quyền lực đã tồn tại ở Đông Nam Á từ khi Nhật tuyên bố đầu hàng ngày 15/8. Người hưởng lợi chính ở Đông Dương là CS, kiểm soát hoàn toàn Việt Minh, mặt trận dân tộc chủ nghĩa do Hồ Chí Minh lập ra năm 1941. Ở Hà Nội và Sài Gòn, họ giành chính quyền bằng cách loại trừ hoặc đe dọa những kẻ chống đối.
Trong khi Đồng minh công nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, nước Mỹ chống lại việc giao lại Đông Dương cho họ, nhưng không có sự thù địch chính thức nào của Mỹ tới VM-CS. Mặc dù nguyện vọng độc lập rất lớn đối với người VN, có sự hoài nghi rằng mục tiêu của CS hướng tới những điều rộng hơn. Họ giành được quyền lực từ những phương pháp cứng rắn.
Lễ tiếp nhận đầu hàng của MacArthur cuối cùng đã cử hành chính thức trên chiến hạm USS Missouri ngày 2/9, và 3 ngày sau những đơn vị quân y Đồng minh đầu tiên được thả dù xuống các trại tù binh. Trong những ngày tiếp theo 1 đơn vị tiền trạm gồm các nhân viên hỗ trợ và bộ binh hộ tống tới Sài Gòn để thăm dò tình hình và báo cáo lại; ngày 11/9, 1 lữ đoàn được không vận từ Hmawbi, Miến Điện tới Bangkok. Khi các đơn vị tiền trạm Đồng minh tới Sài Gòn, họ thấy mình ở trong tình thế kì dị là được hoan nghênh nhiệt tình và canh gác bởi quân Nhật và VM vũ trang. Lí do những binh sĩ này được vũ trang là vì 6 tháng trước (ngày 9/3) họ đã tước vũ khí và tống giam quân Pháp do quân Nhật e ngại 1 cuộc đổ bộ của quân Mỹ vào Đông Dương sau khi Manila thất thủ và không tin tưởng người Pháp.
Khi Gracey tới nơi ngày 13/9, ông ta ngay lập tức nhận ra tính nghiêm trọng của tình hình. Hỗn loạn, cướp bóc và giết người lan rộng, chính quyền của Sài Gòn đã sụp đổ và 1 nhóm cách mạng do CS đứng đầu đã nắm quyền lỏng lẻo. Ngoài ra, do quân Nhật vẫn còn được trang bị đầy đủ, họ sợ rằng quân Nhật có thể phá hoại các vị trí Đồng minh. Hơn nữa, Gracey hầu như không liên lạc được với cấp trên ở Miến Điện, do bộ phận thông tin Mỹ đã bất ngờ bị chính phủ Mỹ rút đi vì lí do chính trị; đó là một tổn thất không thể sửa chữa trong nhiều tuần.
Gracey viết, trừ khi nhanh chóng làm điều gì đó, sự hỗn loạn sẽ còn tệ hơn. Tình hình nghiêm trọng hơn do VM không thể kiểm soát được hết vài nhóm đồng minh của mình. Vì vậy người Pháp đã thuyết phục được Gracey trang bị lại cho 1 trung đoàn bộ binh thuộc địa đang bị giữ làm tù binh (1 hành động vượt quá thẩm quyền của ông ta mà Mountbatten đã ra lệnh). Gracey cũng đồng thời cho phép 1000 tù nhân Pháp được vũ trang. Số này cùng với trung đoàn bộ binh thuộc địa (RIC) số 5 mới thành lập sau đó đã có thể đánh bật VM khỏi các vị trí ở Sài Gòn. Gracey thấy đây là cách nhanh nhất để người Pháp lập lại quyền kiểm soát ở Đông Dương, trong khi cho phép ông ta thực hiện nhiệm vụ giải giáp và hồi hương quân Nhật.
Gracey gặp phải 1 vấn đề khác; quan hệ với Mountbatten chưa bao giờ dễ dàng. Một ví dụ tương tự xảy ra khi Gracey tới tháng 9, ông ta đưa ra tuyên bố thiết quân luật và tuyên bố mình phụ trách toàn bộ Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở vào nam. Mountbatten về phía mình cũng đưa ra tuyên bố Gracey chỉ có thẩm quyền bảo đảm an ninh những khu vực then chổt. Bản tuyên bố công bố ngày 21/9, và mặc dù Tổng tư lệnh Mountbatten phản đối, Hội đồng tham mưu trưởng và Bộ Ngoại giao ủng hộ Gracey.
Trong những ngày tiếp theo, Gracey dần dần tháo gỡ quyền kiểm soát của VM ở Sài Gòn, thay thế lính gác của họ ở những vị trí quan trọng bằng lính Anh và sau đó giao cho quân Pháp. Nguyên nhân là vì VM sẽ không đời nào giao lại trực tiếp cho quân Pháp mà họ căm ghét. Ngày 23/9, Sài Gòn đã lại nằm trong tay người Pháp và VM chỉ giữ không đầy nửa tá vị trí quan trọng. Người Pháp giành lại quyền kiểm soát Sài Gòn ngày hôm đó khi các tù nhân Pháp cũ đã được biên chế trong quân đội cùng binh sĩ trung đoàn 5 thuộc địa lật đổ VM trong 1 sự biến hầu như không đổ máu với 2 lính Pháp chết và không có người VN nào thương vong.
Đêm 24 rạng 25, người VN phản ứng, 1 đám đông hung dữ (không do VM kiểm soát) bắt cóc và tàn sát 1 số lớn đàn ông, phụ nữ và trẻ em Pháp và Pháp-Việt. Ngày 25 VM tấn công và đốt cháy khu chợ trung tâm thành phố, trong khi 1 đơn vị khác tấn công sân bay Tân Sơn Nhất. Cuộc tấn công bị lính Gurkha đẩy lùi với 1 lính Anh và 6 lính VM bị chết. Quân Anh giờ đã ở trong tình trạng chiến tranh, điều mà Mountbatten đã cố tránh.
Trong những ngày tiếp theo, các đơn vị vũ trang VM đụng độ với các toán tuần tra Anh-Ấn, VM chịu tổn thất cao dần trong mỗi trận chiến. Quân Anh là những người chuyên nghiệp và kinh nghiệm cao chỉ vừa mới kết thúc cuộc chiến với Nhật; nhiều sĩ quan và binh sĩ có kinh nghiệm về an ninh và chiến tranh du kích ở Ấn Độ và chiến trường Tây Bắc. Về phía bên kia, VM mặc dù dũng cảm những vẫn còn đang phải học cách chiến đấu.
Đầu tháng 10, Gracey đàm phán với VM và đi đến thỏa thuận ngừng chiến. Ngày 5, đại tướng Philippe Leclerc, viên sĩ quan cao cấp Pháp tới Sài Gòn nơi ông ta cùng binh lính được đặt dưới sự chỉ huy của Gracey. Tuy nhiên, ngày 10/10, tình trạng hòa hoãn tạm thời với VM bị phá vỡ khi 1 cuộc tấn công không bị khiêu khích trước nổ ra nhằm vào toán công binh Anh đang kiểm tra đường nước gần sân bay Tân Sơn Nhất. Phần lớn bọn họ bị giết hoặc bị thương. Gracey chấp nhận thực tế là với quy mô xung đột việc đầu tiên cần làm là lập lại trật tự ở những khu vực quan trọng trước khi tiến hành hồi hương quân Nhật. Vào lúc này lực lượng của ông ta đã được tăng cường lữ đoàn bộ binh thứ hai, lữ đoàn 32 do chuẩn tướng E. C. V. Woodford chỉ huy. Gracey triển khai lữ đoàn 32 tới khu vực ngoại thành phía bắc Sài Gòn gây nhiều khó khăn là Gò Vấp và Gia Định. VM rút khỏi khu vực trước áp lực của lực lượng này, gồm cả đơn vị thiết giáp yểm trợ của tiểu đoàn kỵ binh nhẹ Ấn số 16.
Các phi vụ Spitefire trinh sát cho biết các ngả đường dẫn vào Sài Gòn đều bị chặn: VM đang cố bao vây thành phố. Ngày 13/10 sân bay Tân Sơn Nhất bị VM tấn công 1 lần nữa, lần này đặc công của họ đã vào cách tháp chỉ huy trong vòng 275m. Họ gần như đã đến cửa trạm radio trước khi cuộc tấn công bị lính Ấn và Nhật đẩy lùi. Trong khi VM rút lui, quân Nhật được lệnh truy kích cho tới nửa đêm thì mất dấu.
Đến giữa tháng 10, đã có 307 VM bị giết bởi quân Anh-Ấn và 225 bởi quân Nhật, gồm cả 80 xác VM bỏ lại ở Đà Lạt. Trong 1 trường hợp, quân Nhật đẩy lùi cuộc tấn công vào sở chỉ huy của họ ở Phú Lâm, giết được 100 VM. Thương vong của quân Anh, Pháp, Nhật thấp. Ngày 17, lữ đoàn thứ ba, lữ đoàn 100 dưới quyền chuẩn tướng C. H. B Rodham tới Đông Dương.
VM tiếp tục tấn công các vị trí chủ chốt ở Sài Gòn. Đó là nhà máy điện, bến cảng và sân bay bị đánh lần thứ ba, thậm chí cả các trạm bơm nước. Sài Gòn trở nên tối đen vào ban đêm, do những tiếng súng, lựu đạn, pháo cối đã trở nên quen thuộc khắp thành phố. Không thể phá vỡ được tuyến phòng thủ Sài Gòn, VM tăng cường chiến thuật bao vây. Trong thời gian này, những đơn vị Pháp mới tới được giao nhiệm vụ phá vỡ vòng vây trong khi các cuộc tuần tra dữ dội của quân Anh không cho VM ổn định lại.
Ngày 25/10, bằng chứng duy nhất về sự can thiệp trực tiếp của LX trong khu vực xuất hiện, khi lính tuần tra Nhật bắt được 1 cố vấn Nga ở Thủ Dầu Một. Anh ta được giao cho trung tá Cyril Jarvis, chỉ huy tiểu đoàn bộ binh Gurkha 1/1 ở Thủ Dầu Một. Jarvis cố gắng tra hỏi nhưng vô hiệu, do vậy kẻ xâm phạm được giao lại cho Surete, cơ quan điều tra tội phạm của Pháp (tương đương CID), từ đây anh ta biến mất khỏi lịch sử. (
Ngớ ngẩn, rõ ràng đây chỉ là 1 lính lê dương người Nga đào ngũ. Dễ hiểu vì sao tay này lại “biến mất”).
Ngày 29/10, quân Anh tổ chức 1 đơn vị mạnh làm nhiệm vụ đẩy VM ra xa Sài Gòn. Lực lượng này được gọi là Gateforce theo tên người chỉ huy, trung tá Gates của tiểu đoàn biên phòng 14/13. Gateforce gồm các đơn vị bộ binh, pháo binh, thiết giáp Ấn và 1 tiểu đoàn bộ binh Nhật. Trong quá trình hoạt động, họ giết được khoảng 190 địch; trong 1 lần ở Xuân Lộc, phía đông Sài Gòn, quân Nhật giết được 50 VM khi họ tấn công bất ngờ 1 đơn vị VM đang luyện tập.
Ngày 18/11, 1 đơn vị Gurkha lên đường tới Long Kiên (?), phía nam Sài Gòn để giải cứu các con tin Pháp ở đây. Họ phải quay lại giữa đường vì gặp sức chống cự mạnh của VM. Vài ngày sau 1 lực lượng lớn hơn được cử đi. Theo lính Gurkha, họ đã thấy lính Nhật đào ngũ chỉ huy vài đơn vị VM. Trong cuộc hành quân này, cuộc xung phong duy nhất bằng kukri (dao Nepal) xảy ra. Theo 1 trung đội trưởng Gurkha, tại 1 địa điểm họ bị cầm chân bởi 1 đơn vị VM kiên quyết cố thủ trong 1 lô cốt Pháp cũ. Lính Gurkha mang bazooka đến và phá tung cửa, và rồi không hề do dự, họ xông vào trong lô cốt và tấn công những người phòng ngự bằng dao. Họ tới Long Kiên ngày hôm đó những không thấy con tin nào, tuy nhiên khoảng 80 VM đã bị giết.
Đầu tháng 12, Gracey đã có thể giao lại khu ngoại ô bắc Sài Gòn cho quân Pháp, khi lữ đoàn 32 bàn giao lại cho sư đoàn bộ binh thuộc địa số 9 dưới quyền đại tướng Valluy. Ngày Noel, lữ đoàn 32 lên đường tới Borneo. Rất nhiều trong số những lính Pháp mới tới là cựu thành viên Marquis (quân kháng chiến Pháp), không quen thuộc với luật lệ quân sự. Rất nhiều người cũng mang tư tưởng phân biệt chủng tộc đối với dân châu Á như một số người Mỹ thế hệ sau đó. Hai vấn đề đó khiến Gracey phải viết 1 bức thư phàn nàn tới đại tướng Leclerc. Trong đó Gracey cũng phê phán những người Pháp có thái độ coi thường những binh lính Ấn của ông ta.
Ngày 3/1/1946, trận đánh lớn cuối cùng giữa quân Anh và VM diễn ra. Khoảng 900 quân VM tấn công doanh trại tiểu đoàn 14/13 ở Biên Hòa. Trận đánh diễn ra suốt đêm, và khi kết thúc khoảng 100 VM đã bị giết mà quân Anh không chịu tổn thất nào. Phần lớn thương vong của VM là do hỏa lực súng máy dữ dội.
Giữa tháng 1, VM bắt đầu từ bỏ các hoạt động tấn công lớn vào quân Anh, Pháp và Nhật. Họ bắt đầu áp dụng phương pháp mà sau này trở nên quá phổ biến: phục kích, tập kích và ám sát; trong khi quân Anh, Pháp, Nhật không ngừng tuần tiễu và tiến hành càn quét. Đây là cuộc chiến tranh hiện đại trái quy ước đầu tiên và mặc dù VM có thừa nhân lực để chống đỡ lâu dài, họ trên thực tế đã bị đánh bại bở 1 đội quân chuyên nghiệp không lạ lẫm gì với nông thôn hay rừng rậm châu Á.
Đến cuối tháng, lữ đoàn 80 bàn giao lại cho quân Pháp và lữ đoàn 100 được rút về Sài Gòn. Gracey rời bằng máy bay ngày 28. Trước khi đi, ông ta kí giao quyền chỉ huy lực lượng Pháp cho Leclerc. Ngày 30/3, 2 tiểu đoàn Anh-Ấn cuối cùng rời VN. Chỉ còn 1 đại đội của tiểu đoàn 2/8 Punjab ở lại bảo vệ Ủy ban kiểm soát Đồng minh ở Sài Gòn, và đến 15/5 rút đi, nhiệm vụ đã hoàn thành 1 ngày trước khi quân Pháp bắt đầu đảm nhiệm việc hồi hương lính Nhật.
Trong cuộc chiến VN của người Anh, thống kê thương vong chính thức là 40 lính Anh-Ấn chết, tổn thất của quân Pháp và Nhật cao hơn một chút. Về phía đối phương, 2700 VM bị giết, nhưng con số thực có thể cao hơn, tuy nhiên căn cứ vào khả năng VM mang đi những người chết và bị thương của mình, con số chính xác có thể không bao giờ biết được. Khoảng 600 bị quân Anh giết, còn lại do quân Pháp và Nhật. Chuỗi dài các cuộc chiến Đông Dương đã bắt đầu với 1 thắng lợi của phương Tây. Không may, 4 thập kỉ giao tranh đẫm máu sẽ dẫn tới thất bại của 2 cường quốc vẫn còn nằm phía trước.