magiang
Thành viên
Bài viết: 53
|
|
« Trả lời #64 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2009, 05:07:12 pm » |
|
Xin post bài viết "Đường Hồ Chí Minh trên biển: Diệu kỳ con đường mang tên Bác" của tác giả Nguyễn Bá trên báo "Cà Mau online"
Chuyến mở đường lịch sử trên biển mang tên Bác Hồ vĩ đại của Cà Mau khởi hành chiều 1/8/1961 từ bến Cá Mòi - mũi Cà Mau, do đồng chí Bông Văn Dĩa (Thuyền trưởng - Bí thư chi bộ) cùng thủy thủ đoàn gồm 7 người: Tư Phước, Năm Tân (Năm Kỷ), Sáu Dũng, Bảy Cựa, Ba Thành, Tư Đáng, Tư Quang. Chuyến đi do một bộ phận trực thuộc Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Đạo (Bảy Đường) và đồng chí Nguyễn Thanh Trầm (Tư Lưới) tổ chức. Đồng chí Phan Ngọc Sến - Mười Kỷ (Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau) thay mặt Khu ủy và Tỉnh ủy trực tiếp giao nhiệm vụ, xuống tận bến tiễn đưa Tàu vượt qua giông tố (vì phải đi ngoài khơi, cách bờ cự ly cho phép 300 cây số, để xa tầm quan sát dầy đặc của địch), tới cửa Nhật Lệ - Quảng Bình chiều tối ngày 7/8/1961. Chỉ 6 ngày xuyên biển, ngư phủ - chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa Bông Văn Dĩa đã nối liền Nam Bắc bằng chiếc ghe gắn máy (có buồm) trong niềm vui khôn xiết của Bác Hồ, của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bộ Tổng tham mưu, Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam. Chiếc ghe thần thánh ấy mang ý chí và tấm lòng Cà Mau ra Hà Nội, gắn lại sợi dây cách bức hơn nửa thập kỷ - từ ngày ta tập kết quân ở bến sông Ông Đốc chuyến cuối cùng (8/2/1955). Chuyến đi bước ngoặt, nối liền bắc - nam Đón nhận các đồng chí vào lòng miền Bắc, ngày 11/8/1961, người đầu tiên là đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều cán bộ cao cấp khác, cùng trao đổi tình hình nhiệm vụ và chuẩn bị cho những chuyến vận chuyển vũ khí Bắc - Nam, tạc vào lịch sử vệ quốc anh hùng. Ngày 10/4/1962, Trung ương cử Trung tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh cùng đồng chí Đoàn Hồng Phước (Đoàn 125 Hải quân Việt Nam) tổ chức chuyến trở về Nam (với chiếc ghe cũ, được gia cố lại) cùng thủy thủ đoàn gồm 6 người: Bông Văn Dĩa, Năm Kỷ, Tư Phước, Sáu Dũng, Bảy Cựa và Hai Tranh (đoàn Trà Vinh, cũng ra Bắc nhận vũ khí như Cà Mau, nhưng được điều qua đoàn Cà Mau về Nam lần đó). Thuyền trưởng Hai Dĩa ghi nhớ mệnh lệnh và mật hiệu, mật mã của Bộ Tư lệnh hải quân và chỉ thị của Trung ương gởi cho Khu ủy Khu 9, Tỉnh ủy Cà Mau (phải nhớ, không được ghi chép giấy bút, tuyệt đối giữ bí mật). 7 giờ sáng ngày 15/4/1962, ghe chở sứ mạng của Tổ quốc chiến đấu, vượt qua cù lao Thu. Ngày 18/4/1962 vào đến cửa Vàm Lũng - Rạch Gốc, xã Tân Ân an toàn. Một trung đội có vũ trang do đồng chí Phan Văn Nhờ (Tư Mau, sau là Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân) chỉ huy đến đón ghe đồng chí Hai Dĩa từ miền Bác trở về. Các anh Mười Khẩn (Bí thư Khu ủy), Tư Bình, Bảy Thạng, Mười Kỷ và nhiều anh khác trong Khu ủy, Quân khu ủy đến nghe đoàn thủy thủ báo cáo. Từng chi tiết nhỏ nhất đến ý kiến chỉ đạo của Trung ương được tất cả tiếp nhận từng lời, trân trọng và vui sướng đến trào nước mắt. Tây Nam Bộ và Nam Bộ kiên trung Thành đồng Tổ quốc như lớn mạnh hơn lên, dù chưa nhận vũ khí ngay trong chuyến này - chuyến sứ giả. Trở về tọa độ cũ xóm Cái Xép, xã Viên An, đồng chí Bông Văn Dĩa cùng đồng chí Bảy Đường, Tư Mau bàn tính cách tìm bến trung chuyển (nơi thích hợp đổ vũ khí do Hải quân Việt Nam - Đoàn tàu 125 chuyển vào) để từ đó phân phối các nơi. Lưu danh bến vàm lũng Chuyến đi tìm bãi bến này gồm 4 đồng chí: Hai Dĩa, Tư Mau, Hai Tranh và Sà Vĩnh (đảng viên, gốc Thái Lan), khởi đi chiều 19/5/1962 - ngày sinh của Bác. Đến nhiều hải đảo gần xa khắp vịnh Thái Lan (Thổ Chu, Hòn Ông, Hòn Bà, Nam Du, Hòn Nồm, Hòn Chuối, Hải Tặc...) nhưng không có nơi nào hội đủ yêu cầu làm bến trung chuyển của ta. Thế nên, theo đề xuất của đồng chí Bông Văn Dĩa, ban lãnh đạo nhất trí chọn Vàm Lũng (thuộc rạch Kiến Vàng, xã Tân Ân).
Cửa Lũng được thăm dò lại, đo đạc độ sâu, chiều rộng khi nước lớn, ròng, rông, kém. Độ che phủ, độ dầy của cây rừng, an toàn dân cư, thói quen săn bắn, đánh cá, mua bán của ghe xuồng các nơi... Nói chung Lũng là bến lý tưởng, được chọn làm bến 1 (Giá Lồng Đèn gần đó là bến 4). Khu ủy báo cáo Trung ương bến này. Các đồng chí Tư Đức (Nguyễn Văn Phán), Ba Hòa, Sáu Toàn (Chung Thành Châu), Bảy Đường... trực tiếp xuống bãi, chuẩn bị nơi ăn ở, kho bãi và thành lập Ban chỉ đạo. Đồng chí Bông Văn Dĩa lại được Trung ương gọi đích danh ra Hà Nội để bàn việc vận chuyển. Lại một chiếc ghe 6 tấn (gắn máy và buồm) rời Vàm Lũng ngày 26/7/1962 (với 6 người: Hai Dĩa, Sáu Danh, Sáu Thông, Năm Kỷ, Bảy Cựa, Sà Vĩnh). Đồng chí Hai Dĩa làm Bí thư chi bộ với 3 đảng viên trong thủy thủ đoàn là Năm Kỷ, Sáu Danh và Sà Vĩnh. Chuyến này cũng gặp giông bão dữ dội, ghe nhỏ yếu lại không có hải đồ và la bàn, phải vượt đối thủ thiên nhiên cường bạo. Phải thắng biển bằng lý tưởng cách mạng và tài đi biển truyền đời của người Cà Mau - "đi đến nơi, về đến chốn" như lời chúc của Võ Đại tướng. Đêm 1/8/1962 ghe tới Nam Định, lại gặp đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư, báo cáo tận tường về đặc điểm Vàm Lũng và đồng chí Bông Văn Dĩa nhận nhiệm vụ kẻ đường thần tốc hành quân cho Đoàn 125 Hải quân Việt Nam. Một đội vận tải đặc nhiệm được thành lập gồm: Lê Văn Một (Út Một) - thuyền trưởng, Năm Sao - máy trưởng, Tư Bé - máy phó, Hai Sơn, Ba Hùng (đoàn Bến Tre), Sáu Lai, Sáu Rô (người tập kết), Thanh Đen (Bà Rịa), Ba Thành, Năm Kỷ và Hai Dĩa (đoàn Cà Mau); Tám Kết (đoàn Trà Vinh). Mười hai chiến sĩ ưu tú được chọn cho chuyến vận chuyển vũ khí về Nam đầu tiên - do đồng chí Hai Dĩa làm Bí thư chi bộ. Bình minh ngày 20/10/1962, ngày đánh dấu sự kiện lịch sử tuyệt đẹp này. Anh hùng Bông Văn Dĩa viết từ 2/10/1980: "8 giờ đêm 11/10/1962, chúng tôi rời bến Đồ Sơn - Hải Phòng đi theo đường kẻ trên bản đồ. Đến đảo Hải Nam thì gặp gió mùa đông bắc thổi mạnh, nên phải đi theo đường kẻ số 2. Đi đến Hòn Đồ phía cù lao Thu thì máy trục trặc, chúng tôi phải thả trôi một đêm để sửa máy, nhưng vẫn không chạy mau được như cũ. Đến 6 giờ ngày 16/10/1962, tàu chúng tôi vào Lũng (ấp Rạch Gốc, xã Tân Ân), gặp đoàn xuồng của đồng chí Tư Đức (Nguyễn Văn Phán). Gặp nhau rất mừng rỡ. Khi tàu lọt vô tới cửa Lũng thì tôi lập tức báo tin vui cho Đoàn 125 Hải quân và Trung ương biết là chúng tôi tới nơi an toàn. Đưa tàu vào đến nơi quy định là rạch Chùm Gọng, đậu xong, lập tức cho người của ta đem ghe xuồng tới bốc sang hàng (tức vũ khí), cộng chung 35 tấn". Nối dài con đường huyền thoại Một chuyến đi trót lọt "đến nơi đến chốn an toàn" nhờ trí tuệ và công sức của cả lực lượng Dân Chính Đảng và Hải quân Việt Nam cả hai khu vực bến bãi hai đầu Nam - Bắc, với sự phối hợp nhịp nhàng chưa từng thấy... Chương mở đầu sử tích coi như suôn sẻ. Thật ra không phải chỉ nhẹ nhàng, đơn giản như những dòng sử ta từng viết. Thực tế chiến trường bấy giờ cam go, gian khổ, hiểm nguy không sao phục hiện được. Ngoài bão tố mà phương tiện ta bé nhỏ, còn tàu chiến, hải thuyền và các loại máy bay trinh sát biển, các hạm đội lớn nhỏ của giặc neo đậu từng chùm như thành phố ở khắp vùng biển. Hạm tàu Ma-đốc, Mixway với 170 tàu tuần, phóng lôi, tuần dương hạm lớn nhỏ cộng với 5.000 hải thuyền, chúng khả dĩ kiểm soát từng thước biển. Thế mà ta vượt qua tất cả. Kỳ diệu thay, con đường mang tên Bác Hồ vĩ đại trên biển - vận chuyển vũ khí Bắc - Nam. Khơi dòng bởi chuyến đầu trót lọt, Trung ương lập tức cho 3 tàu theo con đường mà đồng chí Bông Văn Dĩa đã vạch và đã đi thành công. Việc tiếp đón 3 tàu sau vào Lũng cũng chu đáo, an toàn. Hàng trăm tấn vũ khí ngời thép xanh hân hoan xếp vào kho bến, chờ phút ra trận với chiến sĩ giải phóng quân khắp chiến trường Tây và Đông Nam Bộ, chiến trường Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Bến Tre, Vĩnh Long, Rạch Giá, Đồng Tháp... Từ kho Biện Nhạn (thuộc xã Viên An Đông, huyện Ngọc Hiển) tỏa đi khắp nơi…./.
|