Người thuyền trưởng Tàu không số và 6 lần vượt biển
[/b][/u]
TPCN - Cả phố một thời gian dài không ai biết trong một ngõ nhỏ ở thành phố Hải Phòng có vị thuyền trưởng từng 6 lần cùng đồng đội đưa những con tàu không số, đưa vũ khí vào Nam an toàn góp phần làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển. Tháng 9/1964, Hoàng Hữu là thuyền phó tàu 154 - loại tàu 100 tấn, vỏ sắt hai đáy do xưởng 3 Hải quân đóng để thực hiện nhiệm vụ vận tải hàng hoá chi viện cho chiến trường miền Nam.
Để đảm bảo bí mật, tất cả cán bộ, chiến sỹ trên tàu đều mang bí danh. Tàu có cấu tạo hai đáy, ra tới hải phận quốc tế, giả làm tàu đánh cá.
Trên tàu gài thuốc nổ với 4 hệ thống phá tàu, tùy tình hình cụ thể để bảo toàn tính mạng cán bộ chiến sỹ cũng như bí mật phương tiện vũ khí đạn dược.
Chuyến đầu tiên vượt biển của CCB Hoàng Hữu vào ngày 16/10/1964, mang tên “Nguyễn Văn Trỗi”, gồm 2 tàu 154 và 167 của Đoàn vận tải B. Tàu khởi hành lúc 1 giờ đêm, lấy “hàng” ở bến Bính Đồng, Thủy Nguyên, Hải Phòng.
Sau đó tàu ra Bãi Cháy, hiệu chỉnh thành “tàu không số”. Thời điểm đó chưa có tên gọi đường Hồ Chí Minh trên biển. Trên tàu có 42 cán bộ chiến sỹ, thuyền trưởng là đồng chí Đinh Đạt người Quảng Ngãi (đã hy sinh), chính trị viên Nguyễn Văn Đức người Bến Tre, thuyền phó số 2 là Đỗ Bé - sau này là Cảng trưởng cảng Ba Son.
Trên tàu chở các loại vũ khí như tiểu liên, súng trường và tên lửa bộ binh… tất cả được giấu dưới đáy tàu thứ nhất. Trong đáy tàu thứ hai dùng ngư lưới cụ nguỵ trang súng 12 li 7, ĐKZ, bom chìm, khói mù để sẵn sàng chiến đấu.
Tất cả cán bộ chiến sỹ đều ăn bận đồ bà ba. Tàu hóa trang giống hệt như một tàu đánh cá, đi qua một cảng của Trung Quốc để tiếp thêm dầu và lấy thêm bánh mỳ, táo lê… rồi ra vùng hải phận quốc tế. Vận tốc khoảng 10 hải lý/h, 14 ngày lênh đênh, gần như cả tàu say sóng.
Riêng CCB Hoàng Hữu không sao. Nhiều lần gặp tàu địch nhưng chúng đều bị “lừa” đây là tàu cá. Tàu cập vào bến giữa Trà Vinh và Bến Tre, chui vào lạch rộng, nước sâu.
Từ chỉ huy đến chiến sỹ đều mừng rơi nước mắt, không chỉ vì 100 tấn vũ khí đạn dược đã lên bờ trót lọt mà vì đã tìm ra lộ trình trên biển cho những chuyến hàng sau.
Khi trở về, để đủ tải, tàu chở dừa nước, có buồng dừa nhiều quả nặng tới năm, bảy chục cân. Đến Thuỷ Nguyên, để giữ bí mật, nửa đêm phải đem dừa quả chôn xuống bãi sông. Bây giờ những nơi đó đã trở thành rừng dừa là thế!
Chuyến thứ hai khởi hành 3/1965, vào Cà Mau. Nhiều lần tàu địch áp mạn soi mói, các “ngư dân” trên tàu cũng đã sẵn sàng quyết tử cùng với con tàu nhưng rất may địch không phát hiện được gì nên đã bỏ đi. Chuyến này cũng trót lọt 100 tấn vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường.
Chuyến thứ ba xuất phát 10/1965, vào Năm Căn, có đặc công nước đi cùng. Xin nói thêm, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tàu không số được chia thành nhiều nấc, mỗi nấc là một phương án tác chiến.
Đơn cử, giao hàng xong, về an toàn là hoàn thành 100%, mang hàng vào, giao hàng an toàn nhưng không ra được là hoàn thành 50%. Và còn một nấc nữa, vào nhưng không cập bến phải thả hàng ngoài bãi cũng là đạt yêu cầu.
Lần thứ ba này, tàu của CCB Hoàng Hữu bị địch vây rát quá đành phải thực hiện phương án thả hàng khi cách bờ Năm Căn khoảng 4 hải lý. Thả hàng ngoài biển cũng là một nghệ thuật của các đơn vị tàu không số. Cứ 5 hòm đạn xuyên với nhau bằng dây ni lon.
Mỗi kiện hàng có buộc một phao tròn bằng nhựa sơn màu trắng lớn hơn ấm chiếc chuyên nước. Chuyến ấy tàu thả gần hết 100 tấn vũ khí đạn dược. Ngay đêm đó tổ đặc công nước đi trên tàu đã ở lại cùng với lực lượng địa phương lặn xuống mò phao chuyển lên thuyền nhỏ đưa vũ khí đạn dược vào bờ.
Chuyến thứ tư khởi hành đầu năm 1966, CCB Hoàng Hữu đã là thuyền trưởng. Lần này, tàu chở hàng loại mới. Vẫn đi theo lộ trình cũ. Tình hình mỗi ngày mỗi khó khăn nguy hiểm hơn. Phía địch có 4 trạm ra đa quét gần như kín mặt biển.
Cùng với tàu tuần tiễu, máy bay trinh sát quần đảo đêm ngày, trực thăng có lúc bay cách mặt biển chỉ 20 m. Chuyến này ngoài vũ khí, tàu còn chở các tướng lĩnh quân đội vào chiến trường: 2 sĩ quan cấp tướng và 3 sĩ quan cấp tá. Tàu đóng cửa, kéo bảy tám lớp vải che.
Còn duy nhất một cửa tròn nhỏ để thuyền trưởng chỉ huy. Có những lúc trên hải phận quốc tế, hai tàu địch ép hai mạn sườn, thậm chí gọi đúng tên cũng phớt lờ. Trên tàu gài hết kíp nổ cùng với 4 hệ thống phá, sẵn sàng xoá mọi dấu vết khi tình hình xấu xảy ra.
Khoảng nửa đêm tàu đã cập vào khu vực Bến Tre, đưa an toàn số cán bộ cao cấp và vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường. Đây là một nhiệm vụ nặng nề nhất và cũng thành công nhất!
Chuyến thứ 5 xuất phát vào tháng 4/1968, lần này đi bằng tàu nhỏ nhanh, lộ trình sát bờ, chở 7 tấn hàng do thuyền trưởng trực tiếp lái. Lần này, “hàng” chủ yếu là tên lửa bộ binh, thuốc nổ cực mạnh, sức công phá rất lớn.
Đội hình có 2 tàu do CCB Hoàng Hữu làm phân đội trưởng kiêm thuyền trưởng tàu số 1, tàu số 2 do thuyền trưởng Võ Đán lái. Lái tàu này đòi hỏi có sức khoẻ rất tốt.
Tàu chạy với tốc độ 80 hải lý/h, cột nước cao tới 25 m. 15h chiều ăn cơm, 18h tàu ở Long Châu, 23h tàu đã “bay” đến Cù Lao Chàm (Đà Nẵng), giao hàng xong ra ngay, sáng đã về tới căn cứ Đồ Sơn. Sau một đêm bay trên biển, người khỏe như Hoàng Hữu mà vẫn mỏi mệt rã rời, lên bờ tưởng như không bước đi được nữa.
Những chuyến vận tải kiểu “đặc công” như thế, đã cung cấp kịp thời vũ khí đặc biệt cho chiến trường, góp phần tạo lên những cơn “bão lửa” dội xuống căn cứ Chu Lai, Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn... làm cho kẻ địch kinh hồn bạt vía.
Chuyến thứ 6 đi vào cuối năm 1968, vẫn bằng phương tiện tàu nhỏ nhanh, chuyến này vào Quy Nhơn, chở tên lửa bộ binh, chất nổ mạnh, tiểu liên, súng ngắn giảm thanh trang bị cho biệt động…
Đây cũng là chuyến đi cuối cùng của thuyền trưởng Hoàng Hữu. CCB Hoàng Hữu cho biết, không thể kể hết được những nguy hiểm, khó khăn của những người chiến sỹ trên tàu không số.
Song bằng tinh thần quả cảm, mưu trí sáng tạo, trong lịch sử oanh liệt của những con tàu không số Hải quân Việt Nam đã có nhiều tàu, nhiều chuyến vượt biển thành công.
Tiêu biểu như tàu của đồng chí Đỗ Bé, 18 lần hoàn thành nhiệm vụ, góp phần chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam vũ khí đạn dược, tạo lên một huyền thoại đường mòn trên biển.
CCB Hoàng Hữu đã về hưu được 30 năm. Cả phố một thời gian dài không ai biết trong ngõ nhỏ này có một thuyền trưởng tàu không số - một thuyền trưởng mưu trí, dũng cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc.
Đến thăm gia đình CCB Hoàng Hữu, chúng tôi không khỏi xúc động trước những tấm gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh quên mình của các chiến sỹ trên tàu không số và nỗi đau mất mát trong chiến tranh của gia đình ông.
Người anh trai duy nhất của CCB Hoàng Hữu đã hy sinh trong chiến dịch Điện Biên Phủ và người con trai của CCB Hoàng Hữu cũng đã hy sinh trong cuộc chiến đấu trên chiến trường Cămpuchia.
Cả hai cuộc chiến tranh đã đi qua bao nhiêu năm rồi nhưng đến bây giờ, gia đình vẫn ông chưa tìm được phần mộ của những người thân yêu dấu của mình.
Ghi chép của Lã Quý Hưng
[/i]
(Theo báo “Tiền phong chủ nhật 24/12/2006)
[/i]