;DMình cũng gửi bản "bào chữa" cho ông vua này trên Thế Giới Mới trong 2 số 752 - 753 (9/2007) với tiêu đề:
LÊ LONG ĐĨNH VÀ NỖI OAN LỊCH SỬ
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, Lê Long Đĩnh được coi là hoàng đế tàn bạo, dâm dục nhất; nhắc đến ông người ta nghĩ ngay đến hình ảnh một hôn quân, bạo chúa. Thế nhưng lịch sử dường như quá thiên lệch khi chỉ nói nhiều đến tội lỗi và những hành vi càn rỡ, hiếu sát mà ít nhắc đến công tích của ông. Ngoài ra cái chết của hoàng đế Lê Long Đĩnh dẫn đến sự kết thúc của vương triều Tiền Lê còn bao phủ bởi những nghi vấn chưa được giải đáp thoả đáng.
Lê Long Đĩnh (986 - 1009) là con trai thứ 5 của vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn), mẹ là Chi hậu Diệu Nữ. Năm Nhâm Thìn (992) Lê Long Đĩnh được vua cha phong làm Khai Minh Vương cử đi trấn giữ châu Đằng (nay là huyện Kim Động, Hưng Yên). Năm Ất Tị (1005) vua Lê Đại Hành mất để lại di chiếu nhường ngôi cho con trai thứ 3 là Lê Long Việt nhưng Lê Long Việt chưa kịp đăng quang thì người anh thứ 2 là Đông Thành Vương Lê Long Tích và người em thứ 6 là Trung Quốc Vương Lê Long Kính đem quân tranh ngôi, các bên đánh nhau đến 8 tháng mới phân thắng bại. Trung Quốc Vương thua chạy, trốn về trại Phù Lan (nay thuộc Mỹ Hào, Hưng Yên) còn Đông Thành Vương chạy vào đất Cử Long (nay thuộc Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá), đến cửa biển Kỳ La (nay thuộc Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) thì bị giết. Trong cuộc nổi loạn này Lê Long Đĩnh cũng tham gia nhưng Lê Long Việt “lấy tình cùng mẹ không nỡ giết, nên tha cho” (Đại Việt sử ký toàn thư). Sau khi bình ổn được nội loạn, Lê Long Việt chính thức lên ngôi, làm vua mới được 3 ngày thì bị “Long Đĩnh sai hung thủ ban đêm trèo tường vào trong cung giết chết” (Đại Việt sử ký toàn thư). Lê Long Đĩnh giết anh cướp ngôi, bầy tôi đều chạy trốn, chỉ có Điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác vua mà khóc, Long Đĩnh khen là trung nghĩa nên phong cho làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, ông còn đặt thụy hiệu cho người anh xấu số của mình là Trung Tông hoàng đế.
Theo như những ghi chép của sách sử, mùa đông năm Ất Tị (1005) Lê Long Đĩnh lên ngôi, bắt đầu những năm tháng làm vua với nhiều điều bạo ngược. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua tính thích giết người, phàm người bị hành hình hoặc sai lấy cỏ gianh quấn vào người mà đốt để cho lửa cháy chết, hoặc sai tên kép hát người Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn, dao cùn xẻo từng mảnh để cho không được chết chóng... Đi đánh dẹp bắt được thù thì giải đến bờ sông, khi nước triều rút, sai người làm lao dưới nước, dồn cả vào trong ấy, đến khi nước triều lên thì ngập nước mà chết; hoặc bắt trèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ, người rơi xuống chết…Phàm bò lợn muốn làm thịt thì tự tay vua cầm dao chọc tiết trước rồi mới đưa vào nhà bếp sau. Từng róc mía ở trên đầu sư Quách Ngang, giả lỡ tay lưỡi dao trượt xuống đầu nhà sư cho chảy máu, rồi cả cười. Hoặc nhân yến tiệc giết mèo cho các vương ăn, ăn xong lấy đầu mèo giơ lên cho xem, các vương đều sợ, vua lấy làm thích. Mỗi khi ra chầu, tất sai bọn khôi hài hầu hai bên, vua có nói câu gì thì người nọ người kia nhao nhao pha trò để cười, để cho loạn lời tâu việc của quan chấp chính. Lại lấy con thạch sùng làm gỏi, bắt bọn khôi hài tranh nhau ăn”.
Theo như trên thì Lê Long Đĩnh chỉ ham sắc dục, giết chóc, những công việc triều chính đều bỏ bê, không quan tâm đến. Sự thực có đúng như vậy không?
• CÔNG TRẠNG ĐÁNG GHI NHẬN:
Các sách sử nhất là những tác phẩm được viết trong thời gian gần đây đều chỉ tập chung chỉ trích, phê phán những tội lỗi của vua Lê Long Đĩnh mà cố tình bỏ qua, không nhắc đến những việc làm có ích lợi cho dân cho nước, những công trạng dù không nhiều nhưng ông đã làm được trong thời gian ở trên ngôi báu.
- Về đối ngoại, Lê Long Đĩnh vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với nhà Tống như thời trị vì của các đời vua trước. Mối quan hệ này được xây dựng sau khi quân Tống bị đại bại năm Tân Tị (981) do đó với nước ta nhà Tống tỏ thái độ mềm dẻo, không dám làm căng, sợ rằng sinh chuyện binh đao. Chính vì thế có thể nói việc đối ngoại thời Lê Long Đĩnh đã đạt được một số thuận lợi đáng kể, thậm chí nhà Tống còn e dè chỉ sợ làm mất lòng ông. Tháng 8 năm Đinh Mùi (1077) vua Tống phong cho Lê Long Đĩnh làm Giao chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân tiết độ sứ. Năm Kỷ Dậu (1009) vua sai sứ đem biếu nhà Tống con tê ngưu, “vua Tống cho là con tê ngưu ấy từ xa đến, không hợp thuỷ thổ, muốn trả lại nhưng sợ trái ý vua, sai đợi cho sứ nước ta về rồi đem thả ra bãi biển. Vua lại xin áo giáp, mũ trụ trang sức bằng vàng. Vua Tống bằng lòng cho. Vua lại xin cho thông thương với Ung Châu, nhưng vua Tống chỉ cho thông thương với Liêm Châu và trấn Như Hồng thôi" (Đại Việt sử ký toàn thư).
- Về đối nội, dưới triều Lê Long Đĩnh bộ máy nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện mô phỏng theo quan chế của nhà Tống. Vua vừa là người giải quyết mọi công việc chính trị, vừa là quan toà tối cao, vừa là thủ lĩnh quân sự. Năm Bính Ngọ (1006) Lê Long Đĩnh “đổi lại quan chế và triều phục cho các quan văn võ và tăng đạo theo đúng như nhà Tống” (Đại Việt sử ký toàn thư). Như vậy việc học tập xây dựng thiết chế chính quyền phong kiến theo triều đại phương Bắc không phải bắt đầu từ thời Lý mà đã được đặt nền móng vào cuối thời Tiền Lê và Lê Long Đĩnh chính là người đầu tiên áp dụng. Một vấn đề quan trọng nữa mà triều Tiền Lê tiến hành là tập trung quyền lực trên một lãnh thổ nhất định, dẹp yên các thế lực chống đối, các lực lượng cát cứ để quy tụ tính thống nhất quốc gia. Các cuộc đánh dẹp, chinh phạt phản loạn được các vua Tiền Lê thực hiện nhiều lần. Riêng thời Lê Long Đĩnh cầm quyền, ông đã 6 lần trực tiếp dẫn quân chinh chiến.
+ Lần thứ nhất, đó là vào cuối năm Ất Tị (1005) ngay sau khi lên ngôi, Lê Long Đĩnh đi dẹp bạo loạn giữa các anh em, giết chết Trung Quốc Vương (Lê Long Kính), bức hàng Ngự Bắc Vương (Lê Long Cân) và Ngự Man Vương (Lê Long Đinh). “Từ đấy về sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả” (Đại Việt sử ký toàn thư).
+ Lần thứ hai, khi vừa dẹp xong cuộc nổi loạn của các anh em thì vua nghe tin giặc Cử Long tiến công đánh chiếm đến cửa biển Thần Đầu (Ninh Bình) bèn dẫn quân đi đánh.
+ Lần thứ ba: Vào năm Mậu Thân (1008) Lê Long Đĩnh đi đánh châu Đô Lương (nay thuộc Hàm Yên, Tuyên Quang) và châu Vị Long (nay thuộc Chiêm Hoá, Tuyên Quang).
+ Lần thứ 4: Cũng trong năm Mậu Thân (1008) vua lại dẫn quân đi đánh Án Động (nay không rõ ở đâu).
+ Lần thứ 5: Vào cuối năm Mậu Thân (1008) đi đánh Hoan Châu (Nghệ An ngày nay) và châu Thiên Liễu (nay không rõ ở đâu).
+ Lần thứ 6: Khi ấy là mùa thu tháng 7 năm Kỷ Dậu (1009) Lê Long Đĩnh đem quân đánh các châu Hoan Đường và Thạch Hà (nay thuộc Hà Tĩnh).
Công việc bình định của triều Tiền Lê qua các hoạt động quân sự, về cơ bản đã xác lập được quyền lực chính trị của triều đình phong kiến trung ương, kiểm soát được một phần lãnh thổ rộng lớn. Đặt nền móng ban đầu cho các triều đại sau tiếp tục hoàn thành xây dựng một chế độ phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh.
Để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển đi lại, vừa phục vụ mục đích quân sự, vừa giúp lưu thông buôn bán được thuận lợi, Lê Long Đĩnh tiếp tục cho mở đường, đào kênh như dưới thời vua cha. Đầu năm Kỷ Dậu (1009) vua theo lời tâu của đô đốc Kiển Hành Hiến đã xuống chiếu cho quân dân Ái Châu (Thanh Hoá) đào kênh, đắp đường và lập ụ bia để ghi số dặm đường từ cửa quan Chi Long (nay thuộc Nga Sơn, Thanh Hoá) đến sông Vũ Lung. Tại đây Lê Long Đĩnh còn cho đóng thuyền, đặt đò ở Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung để chở người qua lại.
Tháng 7 cùng năm vua lại sai Phòng át sứ Hồ Thù Ích đem 5.000 quân của châu Hoàn Đường (Nghệ An) sửa chữa đường từ châu ấy đến cửa biển Nam Giới để đi lại cho tiện.
Lĩnh vực văn hoá tư tưởng cũng được Lê Long Đĩnh quan tâm đến, năm Đinh Mùi (1007) vua “sai em là Minh Xưởng và Chưởng thư ký Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu nhà Tống, dâng biểu xin cửu kinh và kinh Đại Tạng. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Trong đó Đại Tạng là bộ kinh lớn của Phật giáo, còn cửu kinh là chín bộ sách kinh điển của Nho giáo Trung Quốc bao gồm: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu kinh, Luận ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ.
Các hoạt động văn hoá dân gian thời kỳ này cũng rất phát triển, triều đình phong chức ưu bà cho một số nghệ nhân để dạy cung nữ, binh lính múa hát. Trong lễ hội, những cuộc thi đấu vật, đua thuyền… diễn ra sôi động, thậm chí có những cuộc thi được coi là nghi thức quốc gia. Những chính sách văn hoá tiến bộ thời Tiền Lê đã làm nảy nở những nét văn hoá đặc sắc mang tính dân tộc đậm nét, khơi thông mạch nguồn văn hoá để phát triển rực rỡ hơn trong những giai đoạn sau này.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng Lê Long Đĩnh đã thực hiện được một số công trạng đáng ghi nhận trong thời gian làm vua, chứ không phải chỉ toàn bỏ bê chính sự, suốt ngày lao vào ăn chơi hưởng lạc và làm những việc tàn bạo.