Lỗi quá, lại để min nhắc nhở! Bá cáo min, nguồn của Tạp chí Lịch sử quân sự, em không nhớ số mấy, năm nào nữa ạ!
Em xin post nốt, được không min?7. Lực lượng vũ trang nhà Trần (1226-1499)Nhà Lý suy tàn, nhà Trần nối ngôi lập nên triều đại Trần kéo dài gần 300 năm.
Để đối phó với nạn nhiễu loạn trong nước có từ cuối đời Lý và mối đe doạ của đế chế Nguyên-Mông, nhà Trần đặc biệt chú ý đến xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị đất nước sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược.
Quân đội Trần được cải cách nhanh chóng và kiên quyết. Hầu hết các tướng lĩnh phục vụ trong triều đại Lý đều bị thải loại và thay vào đó là các tướng lĩnh thuộc dòng dõi tôn thất nhà Trần. Binh sĩ thuộc lực lượng Cấm quân dưới triều Lý cũng được thay thế bằng các đinh tráng đồng hương, thân thuộc nhà Trần để tăng độ tin cậy và sự trung thành với một triều đại mới.
Nhà Trần đã gọi nhiều đinh tráng vào quân đội thường trực làm tăng nhanh lực lượng vũ trang chính quy, tăng khả năng huy động nhân lực cho quân đội khi có chiến tranh.
Về mặt cơ cấu tổ chức, nhà Trần đã dần hoàn thiện được cơ cấu tổ chức, biên chế, chất lượng và chú trọng nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, cũng như trang bị kỹ thuật quân sự.
Nhà Trần về cơ bản vẫn duy trì nguyên tắc tổ chức quân đội như thời Lý: Thân quân đối với quân thường trực chuyên nghiệp và Sương quân đối với lực lượng bán chuyên nghiệp.
Lực lượng quân thường trực chuyên nghiệp bao gồm quân Cấm vệ, quân Các lộ và quân Vương hầu.
Quân Cấm vệ được xây dựng theo hướng chính quy để làm nhiệm vụ bảo vệ vua, triều đình ở kinh đô và thái thượng hoàng ở quê hương nhà Trần, đồng thời sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước khi có chiến tranh xảy ra.
Bộ phận trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ vua, thái thượng hoàng và triều đình được lựa chọn theo một tiêu chuẩn rất chặt chẽ và khắt khe để bảo đảm độ tin cậy tuyệt đối với nhà Trần. Lực lượng này, thường chỉ tuyển từ các đinh tráng khoẻ mạnh nhất, biết võ nghệ thuộc con em họ Trần ở quê hương (lộ Thiên Trường) và ở những địa phương có công giúp họ Trần (các lộ Long Hưng, Trường Khoái, Trường Yên, Kiến Xương).
Bộ phận thứ hai của quân Cấm vệ được gọi là Du quân, có nhiệm vụ canh gác vòng ngoài kinh thành, được tuyển chọn từ những đinh tráng khoẻ mạnh ở một số địa phương.
Trong những năm đầu nhà Trần biên chế, tổ chức quân Cấm vệ thành 6 quân, mỗi quân gồm 2 vệ (tả, hữu). Sau đó (khoảng năm 1267), quân Cấm vệ được biên chế thành các quân và đô. Mỗi quân biên chế 30 đô, mỗi đô biên chế 80 người.
Đến đời Phế Đế (1377-1388), quân Cấm vệ biên chế tổ chức gồm khoảng 20 quân và 5 đô độc lập.
Chỉ huy mỗi quân, vệ là một võ tướng, mỗi đô là một chánh (phó). Trong mỗi đô có một số chức quan nhỏ để giúp việc như theo dõi tình hình và đảm bảo hậu cần.
Quân Cấm vệ thuộc quyền quản lãnh của Thượng thư sảnh do Đại hành khiển đứng đầu, từ năm 1342, thuộc quyền quản lãnh của Khu mật viện do Hành khiển tri khu mật viện đứng đầu.
Quân Cấm vệ cũng được thích trên trán ba chữ như dưới triều Lý “Thiên tử quân”, nhưng từ 1323 trở đi thì chỉ có quân sĩ thuộc các đô Cấm vệ độc lập mới được thích trên trán quân hiệu của mình.
Quân Các lộ (quân địa phương) là tổ chức vũ trang mới được hình thành dưới triều Trần, nhiệm vụ chính là bảo vệ địa phương, công cụ quyền lực của bộ máy chính quyền nhà nước ở các lộ. Tổ chức hành chính quốc gia dưới triều Trần gồm 12 lộ, mỗi lộ có 1 quân và 20 đô phong đoàn để giữ gìn an ninh và trật tự an toàn cho địa phương.
Những vị trí quan trọng, triều đình cho phép biên chế lực lượng vũ trang địa phương được nhiều hơn nơi khác theo quy định chung (ví như lộ Sơn Nam có tới 4 quân, lộ Hải Đông có 2 quân). Đứng đầu tổ chức quân sự của mỗi lộ là một viên Tổng quản.
Quân Vương hầu dưới thời nhà Trần phát triển mạnh, triều đình cho phép mỗi vương hầu được tổ chức một đội quân riêng lên tới 1.000 người (theo quy chế do triều đình ban hành năm 1254, gấp đôi quân số thời Lý).
Lực lượng bán chuyên nghiệp gọi là Sương quân (còn gọi là quân Tứ sương) được tổ chức ở kinh đô và các địa phương trong cả nước, hệ thống biên chế tổ chức trong các đơn vị Sương quân gồm có các đô, mỗi đô biên chế 10 ngũ, mỗi ngũ có số lính từ 5-8 người. Quân lính biên chế trong lực lượng này sau mỗi thời hạn làm nhiệm vụ canh gác vòng ngoài thành hoặc phục dịch được luân phiên trả về các gia đình để làm ruộng tự túc, khi cần lại gọi vào quân ngũ, như chính sách “ngụ binh ư nông” dưới thời Lý (kết hợp nghĩa vụ binh dịch với sản xuất tự túc của các đinh tráng, khi cần nhà nước lại huy động bổ sung vào các sắc lính).
Nhà Trần lần đầu tiên trong lịch sử đã thực hiện chế độ đăng ký đinh tráng (như một kiểu đăng ký nghĩa vụ quân sự ngày nay) cho tất cả các đinh tráng, để khi có chiến sự sẵn sàng huy động được nhanh nhất lực lượng bổ sung cho quân đội.
Đăng ký đinh tráng theo ba hạng: thượng, trung, hạ (tương đương như nhất, nhì, ba) và tuỳ theo tính chất của mỗi đơn vị và loại quân mà gọi bổ sung. Ví dụ như hạng thượng (nhất) gồm những đinh tráng là người thuộc dòng dõi họ Trần ở quê hương, được gọi bổ sung cho các đơn vị Cấm quân mang phiên hiệu Thiên, Thánh, Thần; đinh tráng đăng ký ở hạng trung (nhì) bổ sung cho các đơn vị thuộc đội quân các lộ, còn đinh tráng đăng ký ở hạng hạ (ba) gọi sung vào quân các đơn vị làm nhiệm vụ bảo đảm hay phục vụ như chèo thuyền, khuân vác…
Nguyên tắc (đường lối chỉ đạo) xây dựng lực lượng vũ trang dưới thời nhà Trần là “quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa” (số lượng ít nhưng phải tinh nhuệ). Để thực hiện được nguyên tắc này, nhà Trần đã cho mở các trung tâm huấn luyện quân sự ở nhiều nơi để huấn luyện tướng lĩnh, thực hành binh pháp, rèn luyện võ nghệ, thường xuyên duyệt đội ngũ, điển hình là trung tâm Giảng Võ đường ở kinh thành Thăng Long (Hà Nội).
Trước khi đưa quân đội vào chiến đấu, nhà Trần thường triệu tập quân về một nơi để “tổng diễn tập” nhằm thống nhất quân lệnh, cách đánh, hiệp đồng chiến đấu.
Quân đội Trần là quân đội đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam có được một hệ thống lý luận quân sự thống nhất trong toàn quân với các bộ binh thư có giá trị như: Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư do Trần Quốc Tuấn, người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài soạn thảo để toàn quân học tập.
Quân Trần đã có sự phát triển lực lượng thuỷ binh khá mạnh, với đội thuyền chiến lên tới hàng ngàn, mỗi thuyền chiến biên chế từ 50-60 người gồm có lính chèo thuyền và lính trực tiếp chiến đấu.
Quy mô lực lượng thuyền chiến của Quân đội Trần khá lớn, được phân thành các loại, như Đại chiến thuyền (thuyền lầu, thuyền chở quân đổ bộ…); Trung thuyền (các thuyền đối thuỷ, để chống chọi với thuỷ quân địch); và Khinh thuyền (các loại thuyền nhỏ làm nhiệm vụ trinh sát liên lạc).
Trang bị của Quân đội Trần chủ yếu vẫn là “vũ khí lạnh” như cung nỏ, gươm, giáo, lao, mộc đồng thời đã có bước phát triển mới, các đơn vị thuỷ binh được trang bị hoả khí hình ống, tương tự như hoả đồng, hoả tiễn của thời kỳ sau.
Quân đội Trần đã có sự chuyển hoá thành hai lực lượng (binh chủng) chủ yếu là bộ binh (chiến đấu trên bộ) và thủy binh (chiến đấu trên sông, biển). Nhưng sự chuyển hoá này chưa cao, nhìn chung vẫn là một quân đội tác chiến hỗn hợp thủy-bộ, quân đội cơ động chủ yếu vẫn bằng thuyền.
Quân đội Trần có số quân cao nhất vào thời kỳ có chiến tranh chống quân Nguyên-Mông xâm lược nước ta lần thứ hai (1284) khoảng 300.000 người.
Lực lượng vũ trang thời Trần đã từng ba lần đánh tan các đạo quân Nguyên Mông xâm lược nước ta vào những năm 1258, 1285 và 1287-1288, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
8. Lực lượng vũ trang nhà Hồ (1400-1407)Quân đội nhà Hồ thực chất là quân đội Trần chuyển sang, đã được Hồ Quý Ly-người nắm hầu hết quyền hành nhà Trần 30 năm cuối của triều đại này-cải cách một cách mạnh mẽ.
Cùng với những cải cách mạnh bạo trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội, Hồ Quý Ly rất chú trọng tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, đẩy mạnh xây dựng quân đội để đề phòng sự xâm lăng của đế chế phong kiến phương Bắc.
Quân đội Hồ được tổ chức thành hai lực lượng: quân triều đình và hương quân. Hồ Quý Ly bãi bỏ quân của các vương hầu (lực lượng vũ trang địa phương) được tổ chức dưới thời nhà Tiền Lê, nhà Lý và nhà Trần.
Quân Triều đình đóng ở kinh đô và các lộ trong cả nước. Được biên chế và tổ chức thành các đơn vị như quân, vệ, đội. Tuỳ theo tính chất và nhiệm vụ cụ thể, mỗi quân biên chế gồm 4 vệ hoặc 6 vệ; mỗi vệ biên chế gồm 16 đội, mỗi đội biên chế có 18 người. Nhưng các đơn vị trung quân thì được biên chế đến 20 đội, còn đại quân tới 30 đội.
Quân triều đình được tổ chức thành hai lực lượng bộ binh và thuỷ binh như dưới thời nhà Trần song được chuyên hoá sâu hơn, đã đặt các chức chỉ huy chuyên hoá hai loại quân này, như thuỷ quân tướng và bộ quân tướng. Nhưng sự chuyển hoá này vẫn chưa đạt tới mức độ phân chia thành hai binh chủng rõ rệt. Nhìn chung quân đội Hồ vẫn là một quân đội hỗn hợp thuỷ-bộ, trong đó quân thuỷ ngoài chức năng tác chiến thuỷ-bộ còn làm nhiệm vụ cơ động cho quân triều đình bằng các đội thuyền binh.
Hương quân, còn gọi là Hương binh (bán vũ trang), đóng quân ở các làng xã, nhưng lực lượng này không được tổ chức chặt chẽ, triều đình chỉ định những người có chức sắc tại địa phương để trông coi.
Nhà Hồ thực hiện chế độ đăng ký nhân khẩu từ 2 tuổi trở lên và đăng ký dân đinh từ 15-60 tuổi trong cả nước. Lực lượng quân triều đình lúc cao điểm lên tới trên 200.000 người (1402).
Trang bị quân đội Hồ như thời Trần; riêng quân thuỷ được trang bị một số thuyền chiến lớn, trong đó có một số thuyền gắn súng thần cơ-một loại vũ khí đúc bằng đồng hoặc sắt, có nhiều cỡ, cỡ lớn để trên giá đỡ đặt trên hai bánh xe thuận tiện cho cơ động gọi là súng thần công, loại nhỏ mang vác vai hay trên giá gỗ gọi là súng hoả mai; đạn của loại súng này hình cầu làm bằng đá, gang đúc hoặc đồng, nạp phía trên miệng súng, uy lực công phá lớn có khả năng xuyên phá và sát thương cao.
Quân đội Hồ đã bị tan rã trước cuộc tấn công xâm lược nước ta của quân Minh vào năm 1407.