B41 cả về sử dụng, thiết kế đều đơn giản, rất dễ làm nhái. Nhưng đạt được như B41 thật thì khó lắm. Tớ chỉ lấy một ví dụ dễ hiểu, cái này là đồ "
đại cổ" chứ không như B41 thuộc loại "
trung cổ" như B41. Đấy là pháo chống tăng
Đ-44 85mm.
Pháo
Đ-44 85mm được thiết kế trong
Thế Chiến 2, cùng với nó là phiên bản đặt trên xe tăng T-34 85mm mà nhà ta dùng kha khá.
Đ-44 85mm được thiết kế như là
pháo tiền tuyến,
đa năng nhưng ưu tiên
một năng, cái
năng được ưu tiên ấy đảm bảo cho nó sống sót để thực hiện các
năng khác, cái
năng số một đó là chống tăng. Khác với pháo chống tăng chuyên nghiệp,
Đ-44 cũng có thể dễ vận chuyển theo lính để dùng như
dã pháo[ cổ bắn đạn sát thương, cũng có thể câu cầu vòng từ xa theo phần tử như
dã pháo hiện đại-
pháo gọi, cũng có thể bắn đạn xuyên phá chống công sự như
lựu pháo-
pháo tấn công. Thế hệ tiếp theo của
Đ-44 là
Đ-30 122mm, pháo đa năng tiền tuyến.
Để ưu tiên cái năng chống tăng, pháo có bộ giá hãm đẩy về như một pháo chống tăng chuyên nghiệp, có tính năng giống pháo trên tăng. Những bộ phận này đảm bảo yêu cầu bắn rất chính xác của pháo. Ở trên đã nói đến lợi thế của việc bắn chính xác, thậm chí bắn chính xác của phát thứ 2, 3, n... Khi xe tăng địch bị bắn phát đầu xong mà không chết, thông thường là trận đấu tay bo vì địch đã phát hiện ra ta, ai bắn trúng, trúng chỗ hiểm trước là sống sót.
Ở đây chỉ nói đến cái hãm của pháo chống tăng
Đ-44. Cái hãm này là loại hãm kiểu lỗ tiết lưu được điều chỉnh theo hành trình, đảm bảo lực hãm đều nhẹ. Nhưng nó được thiết kế đặc biệt để không hãm khi đạn đang bắn trong nòng, điều này đảm bảo nòng không tác động lên giá pháo lực nào quá khác so với điều kiện đứng yên, đảm bảo giá pháo không đổi hướng máng pháo khi đạn đang bắn. Điều này hơi tế nhị, nó cùng được thiết kế với
AK-47, cơ chế khác biệt nhưng yêu cầu giống hệt. Cái yêu cầu quá khắt khe của những chiến binh được các nhà thiết kế
Đ-44 thỏa mãn bằng một biện pháp đơn giản đến mức nó không được biết đến như một "chi tiết" nào đó. Người ta hút hết không khí ra khỏi mãy hãm đã lắp xong rồi mới đổ đầy chất lỏng vào hãm, rồi lại lấy bơm hút ra một lượng chính xác, rồi đóng vào trước khi tháo van bơm ra. Trong máy hãm khi đó có một khoảng trống tạo bởi hơi của chính chất lỏng, không lẫn không khí. Buồng hơi này dễ dàng co thể tích lại bằng không hay tăng lên chỉ bởi năng lượng nhỏ, nó không hãm pháo khi
đạn xuyên tăng đang cần
nòng pháo cái chức năng
ray phóng chính xác.
Mình tình cờ đọc một cuốn sách (giáo khoa) tầu. Người ta giải thích sai hoàn toàn về cấu tạo trên. Người ta nói rằng, buồng trống trên được dùng để chống dãn nở chất lỏng khi bắn nhiều nóng lên.
?? . Cũng có thể buồng chân không trong hãm
Đ-44 có chức năng đấy, nhưng điểm giải thích của tầu làm lính tầu chế tạo và sửa chữa
Đ-44 sai. Họ đổ đầy dung dịch máy hãm vào, lắc lắc mấy cái để nó với đi rồi đóng nắp lại. Cái buồng không khí thể tích thuộc loại "lắc lắc" ấy có thể làm ở đâu cũng được, chỉ bằng cái cốc cái phễu, không cần bơm, vòi chân không phức tạp... nhưng làm sai đường chuyển động của nòng pháo, giá pháo. Những điểm này "không quan trọng lắm", "ai cũng chế được"... Để chứng minh chất lượng của chúng cần kinh nghiệm chiến trường của Thế chiến 2, cần những máy ghi được đồ thị gia tốc, tốc độ, vị trí, nhiệt độ, áp suất.... chính xác trong chu kỳ phần ngàn phần vạn giây, cần một số lượng lớn chuyên gia và tiền thử nghiệm nghiên cứu, và cần chất lượng khổng lồ của những chuyên gia dẫn đầu. Những điểm đó thì tiền nhiều cũng không mua được, người biết thì người ta không mất công đâu giải thích cho các "
lão sư cù lăng của chẻo" tiên ông tiên chỉ.
Thật đáng buồn, điều về hãm
Đ-44 trên lại được truyền đến chuồng Vịt. Không hiểu các chuyên gia pháo tốt nghiệp
Pen-da (Пенза) có truyền lại những đúng đắn cho ai không, nhưng trong một cơ quan nghiên cứu quan trọng thì quan điểm tầu phổ biến, được các "
lão sư cù lăng củ chẻo" truyền bá, vì uy của các "
lão sư cù" này nên điều đó chuyển thành tiên đề, miễn bàn luận. Mình hơi lạ, tìm những sách liên quan đến vấn đề này thì thấy sự việc còn đi xa hơn nhiều. Không chỉ riêng sách về
Đ-44 mà còn là sách chuyên môn về hãm, đồ thị và thuật giải đều sai, nếu triển khai đúng các phương pháp tính đó trên máy tính thì sẽ ra kết quả âm, vì cái sai rất lớn, sai về phần "
toán đố", phần đặt công thức, chứ không phải phần giải phương trình. Nhưng một điều lạ, rất nhiều sách vở sao lại điều đó và luận văn luận án các chú các anh đều áp dụng công thức đó rồi đưa ra cái hình đồ thị... giống sách. Tìm hiểu nữa, mới phát hiện rằng, các "
lão sư cù" 60-70 năm sống trên đời chưa từng biết viết chương trình máy tính, nhưng đặt ra cái "
tiên đề kết quả tính toán". Tức là, phần
toán đố họ sai về buồng chân không, coi như không có buồng đó. Nhưng xuất phát từ quan điểm buồng chân không của họ, họ đặt tính toán cũng sai, sai to, dẫn đến kết quả âm.
Một điểm hài hước, do không hiểu được điều đó nên khá khá ý kiến đánh giá cơ cấu piston trôi của lựu pháo cao cấp hơn
Đ-44 ? Cơ cấu piston trôi không thể hút chân không vì mất chất lỏng, khí nén từ đẩy về thoát vào dung dịch hãm. Không chỉ đánh giá hãm lựu pháo và hãm pháo chống tăng không đâu. Một số ý kiến nghiêm chỉnh chê cơ cấu hãm và đẩy của
Đ-44 hơi ... phức tạp cồng kềnh, không một ai đánh giá ưu điểm tối quan trọng của pháo tiền tuyến có trên
Đ-44, đó là máy nó thụt ra rồi co vào rất nhanh, giảm hẳn khả năng hỏng pháo khi bị bắn đạn trái phá hay sát thương (đấu dã pháo ,
Đ-44 và
Đ-30 đều dùng được với tư cách dã pháo tầm xa). Để có điều đó thì một cái vỏ giáp sẽ nặng nề cồng kềnh hơn nhiều. Giải thích những ưu nhược điểm kiểu đó cho nhiều người khó khăn không khác gì giải thích về giải tích cho sinh viên nhóm bột nhóm cháo, lớp lá lớp mầm.
Đấy không phải là một điểm cá biệt. Mình tiếp tục tìm hiểu về các loại súng không giật được họ tính toán thì giật mình phát hoảng. Họ dùng thuật giải áp suất đồng đều của lựu pháo cổ để tính súng không giật. Mà đặc trưng của thuật giải súng không giật là vận tốc và áp suất không đồng đều. Thậm chí, phương pháp phóng khí động ngược cũng được tính bằng thuật giải tĩnh của lựu pháo cổ. Mà tiên đề của phương pháp lựu pháo cổ là áp suất và vận tốc khí đồng đều, tức không thể có hiệu ứng khí động ngược, hiệu ứng đẩy khí động ngược dựa vào sự thay đổi vận tốc và áp suất.
Mở ngoặc lại một chút, phương pháp khí động ngược là phương pháp bắn không giật hiệu quả cao nhất, khí thuốc sinh ra từ buồng đốt phía sau áp suất cao, qua một tuye tăng tốc giảm áp chuyển động về phía trước, đập vào đít đạn tăng áp giảm tốc, quay lại phía sau qua một tuye khác giảm áp tăng tốc. Lực đẩy súng về sau của tuye buồng đốt được cân bằng với tuye thoát. Toàn bộ ưu thế, hiệu quả, hiệu ứng.v.v.v của phương pháp này là áp suất, vẹctor tốc độ thay đổi liên tục.
......,
Quá khủng luôn, những điểm đó đã tồn tại không biết từ bao giờ, nhưng ít ra là 20 năm !!!!
Hóa ra, có một thời, trí thức tầu ai nghiên cứu, khám phá... thì bị đi chăn bò hết (đấy là những người còn sống sót)
?. Ở lại các nơi làm sách vẽ pháo là những đại trí thức đã chứng mình rằng: chin sẻ cần chết để người đủ ăn, băm nhỏ
lò cao lò
mac-tanh đưa vầ các làng xã để toàn dân làm gang thép sẽ thắng
Tư Bản Hổ Giấy và
Liên Xô Xét Lại. Văn hóa của đám đó thì dạng cực giầu có, hàng triệu chữ cho một cái đánh rắm của Mao, tung hô rắm Mao quý bằng vạn nước hoa Pháp hàng hiệu (có một cái chuông ở Bắc Kinh, trước chỉ đánh khi có sự kiện văn hóa kha khá, sau chỉ dùng để đánh khi có thơ Mao).
Nguyên nhân thế này. Sau 1949, các lực lượng hiểu biết tiến bộ Tầu được Liên Xô giúp đỡ đã xây dựng công nghiệp, khoa học, kỹ thuật tầu với tốc độ trên chóng mặt. Từ một quân đội
sâu quảng, rách rưới 1949 đã phát triển rực rỡ. Đến 1959-1960, Tầu đã trang bị phổ biến AK-47, RPD, SKS và B-40 (đều là kiểu 56), cũng như đãn đóng được
MiG-19 (động cơ Liên Xô) và đang xây dựng dây chuyền đóng
MiG-21 (cũng ta cần hiểu,
MiG-21 được thiết kế năm 1956, đến 1958 mới đưa vào trang bị).
Đáng ra, Mao hay ai đó phải nắm phát triển mới lưu mới và lớp người mới, nhưng những người lãnh đạo tầu đã sợ mất chỗ đứng, họ sợ những công nhân và kỹ sư vẽ pháo vẽ súng này. Những người này đáng thương quá, các kỹ sư và công nhân này không hề có ý định tranh chỗ ai và cũng không hề có cái gì để thực hiện việc tranh chõ ai nếu có muốn?
. Thế là Mao đập chết những công nhân lành nghề, trí thức, như người tầu thường cẩn thận đập chết những gì có thể đập chết được, không biết có cần đập hay không.
Và thế là, nước tầu có một nền khoa học nông dân "
diệt chim sẻ", "
toàn dân làm gang thép". Cái nền khoa học đó đã giải thích buồng chống hãm của Đ-44 bằng "dãn nở". Tầu chưa nhận được nhiều khoa học kỹ thuật sau một số năm quá ngắn, ngoài các phương pháp sửa chữa, thực hành chế tạo... nhưng đã tống cổ các thầy mình đi.
Có thể, phần đông dân tầu vẫn tin rằng
tận diệt chim sẻ là sai khoa học, vậy nên phải có những luận cứ khoa học xác thực, uyên thâm, quảng bác, phải có
vũ khí tư tưởng vĩ đại dùng làm
phương pháp nghiên cứu tối ưu việt. Phương pháp đã có, đó là "
phàm là",
phàm là ai bênh chim sẻ, thiết kế
lò cao, lò
mac-tanh, lò luyện kim bột là chống nhân dân hết,
Hồng Vệ Binh đến đập chết ăn thịt. Thế là khoa học luôn đúng. Mở ngoặc rằng, chính thời điểm tầu băm lò cao ra đưa về thôn xóm, bên Liên Xô và Đông Đức đang phát triển
luyện kim bột, phương pháp làm nên cách mạng luyện kim ngày nay.
Một ví dụ hài hước về tầu "
toàn dân làm gang thép" là cái
FC-1,
First ChiNa Fighter, máy bay chiến đấu đầu tiên của người Trung Quốc. Chuyện thế này, sau khi Liên Xô rút về thì tầu có dầy chuyền đóng
MiG-21 dở dang, nhưng họ cũng chế được bản
MiG-21 rút ngắn chức năng năm 1964. Chuyện cái
MiG-21 tầu đó nhái đến đâu thì xem
FC-1 rõ hơn. Sau
MiG-21, bọn
xét lại Liên Xô nó đưa ra
MiG-23, dây là máy bay chiến đấu thế hệ mới, điểm hoàn toàn khác
MiG-21 là máy bay này quan sát, dẫn bắn bằng điện tử,
fire beyond vision,
FBV. Trong khí đó
MiG-21 là dogfight, máy bay ngắm bắn bằng mắt thường (hay radar nhưng quan sát màn hình mắt thường), góc bắn nhỏ 30 độ, tầm ngắn. Sức mạnh
MiG-21 dựa vào độ linh hoạt, nhỏ gọn... còn thế hệ sau sức mạnh dựa vào cái đồ điện tử lớn chứa trong khoang mũi. Tầu chế ra con
J-7 caỉ tiến có cửa hút gió sau như
MiG-23, có khoang mũi rộng. Nhưng không có phần điều áp trong cửa hút gió và đồ điện nhét trong khoang mũi như
MiG-23, đồng thời dùng động cơ áp suất thấp cho máy bay tấn công mặt đất ( nay loại này dùng làm động cơ đạn có điều khiển có cánh chống hạm). Năm 1985, tình cảm Mỹ tầu ấm áp, lúc đó Tầu rửa hờn cho Mỹ, hai mặt gọng kìm, quyết tâm bóp chết con vịt cồ đã từng đá ngã Mỹ, Mỹ lấy làm khoái lắm. Sau 20 năm bay với cái mũi rỗng, tầu định sắm đồ điện
Grumman tổng giá $550 000 000. Nhưng tầu đen, đánh mãi vị chẳng ngã, lại còn đá lại tầu nhục nhã. Thế rồi xảy ra bị
Thiên An Môn, Mỹ ức vì chẳng được gì trong cái thằng
tầu sâu quảng, mới làm lạnh cái tình đương nồng đượm. Cương trình cancel, Tầu thông báo lý do thông thường, hàng quá đắt. Cái máy bay đáng lý ra đời có tên dự định là Siêu-7 "
Super-7". Thời gian tình đượm trước
Thiên An Môn được báo chí quân đội tầu gọi là thời "
tạm hòa hoãn với phương Tây". Trong thời điểm đó, Tầu cũng đi lại với Israel, nước đang chào hàng khắp nơi hàng công nhhiệp quân sự. Một mẫu đồ điện mới được ký kết rồi cũng bị làm lạnh tình cảm (đồ công nghiệm quân sự các nước Israel, Đài, Hàn... có nhiều thành phần hàng Mỹ, phải tuân theo thái độ và luật lá Mỹ). Tiếp sau đó là Liên Xô đổ, Tầu tìm cách cải tiến
J-7 lần nữa, nhưng các kỹ thuật viên Liên Xô cũ lắc đầu, họ khuyên tầu nên thiết kế lại cái mới đi. Sau rất nhiều nỗ lực, có lẽ ngày nay
J-7 mũi to đã có đồ điện, dự định bán cho Pakistan (bị cả Nga Mỹ cấm vận vũ khí), được đặt tên kêu hơn cả siêu là
FC-1. Tuy nhiên, cái mẫu máy bay đó, 40 năm tuổi tầu, gần 50 năm tuổi Nga Mỹ đã quá cổ mà Pakistan đã ấm tình đồng chí với Mỹ.