To ChienVVậy hả. Thế ra là ngòi nổ áp điện. Cái tinh thể đó thì nhiều. Ngòi áp điện được áp dụng nhiều trên các vũ khí chống tăng.
Mình không hiểu Vịt đã sản xuất được đầy đủ đạn B41 chưa. Cái kiểu coi dự án nghiên cứu cũng như mâm cỗ, mỗi người nhón tí thì sản xuất máy bắn đá cũng không xong. Hiện tại một số nước được chuyển giao công nghệ B41, nhưng không hiểu có sản xuất được đầy dủ không.
Ngòi nổ có một mạch điện nhỏ, gồm một dây dẫn ở tâm đạn và lấy vỏ đạn làm một dây dẫn. Điều quan trọng nhất đối với RPG bắn đầu đạn lõm có lẽ là vấn đề điểm hỏa. Nếu điểm hỏa sớm, đạn nổ ngay trên các lưới chắn, vách chắn. Nếu điểm hỏa muộn, tầm của liều lõm không đúng. B41 yêu cầu điểm hỏa chính xác đến phần vạn giây, khá cao.
To bác MiG.Đồ tầu thì chính nó chế bai. Sau 1979, nó chán cái của nó quá nên mới cải tiến thành kiểu 1984, nhưng cũng chưa bao giờ hay ho cả, rùi nó sớm thay bằng kiểu 1989, cũng hàng nhái nhưng không nhái RPG-7. Thiết kế RPG-7 không những phải đạt yêu cầu chiến đấu cao mà phải rẻ. Yêu cầu chiến đấu là điều hơi khó kiếm khi nhái, bởi đây là kinh nghiệm chiến trường. B41 có độ tin cậy cao đạt được bởi hai thứ, một là đường đạn chính xác và nhiều thuận lợi để xạ thủ bắn trung, như thước ngắm. Hai là đạn có khả năng diệt mục tiêu cao. Đạn B41 có góc mở rộng, điều này làm nó không phụ thuộc nhiều vào góc chạm như M72, nhưng lại yêu cầu thời điểm điểm hỏa quá cao, 1/vạn giây. Đây là điểm khó khăn.
Vị trí, kích thước, mũ chụp... của đầu sinh điện, kích thước dây, kích thước kíp... đều được thử nghiệm kỹ. Việc thay đổi vị trí đặt dây, kích thước dây một chút là thay đổi trị số điện dung-điện cảm dẫn đến thời điểm nổ không đúng, điều này làm giảm tỷ lệ phá hủy mục tiêu khi bắn đã trúng. Việc thử nghiệm những cái này yêu cầu khá gay gắt với trình độ và trang bị của người thiết kế.
Đạn Tầu kém chính xác nên nó làm đầu đạn nhẹ hơn, đạn ngắn lại, liều phóng nhỏ đi, để giảm chiều dài đuôi đạn (chống lệch gió ngang) và tăng tốc độ đầu đạn (tăng xác suất bắn trúng). Thật ra, 1979, Tầu đạt hiệu quả trúng thấp vì một phẩn bởi súng, một phần bởi xạ thủ tồi. Hiệu quả trúng đã thấp, hiệu quả nổ cũng thấp, đây mới là bắn công sự chơi, chưa có xe tăng. Vì đạn ngắn lại nên tốc độ quay trong nòng thấp, đạn chỉ đạt độ chính xác ở tầm thấp. Đồng thời, sức xuyên cũng tồi hơn nhiều. Sức xuyên tồi hơn do đạn bé hơn và điểm hỏa tồi. Nhắc lại một chút, ta chưa dùng tăng đánh nhau ở biên giới phía Bắc đâu nhé, chỉ là công sự bán kiên cố thôi.
Còn biên giới Tây Nam
?? Thôi, không bàn nữa, đổ cho đầu pốt bằng trái nho là được. Chỗ này đầy đủ tăng, súng, đạn, người vân vân vân tầu, nên đổ hết cho Kiểu 69 tầu hơi oan. Tuy không đổ, nhưng nhắc lại điều kiện chiến tranh: nhiệt đới cây rậm rì, địch vô cùng nhiều Kiểu 69, ta vưỡn chưa đủ B41, tăng pháo na ná nhau, ta hơn máy bay. (Nhưng không ai lái máy bay đánh B41 hay Kiểu 69 cả).
Mình cũng không hiểu Kiểu 69 có bắn được đạn B41 không. Chí ít là có kiểu 69 nguyên thủy không bắn được một vài đạn Kiểu 69 sau này. Nhưng theo mình, có thể bắn được chăng nữa cũng không nên bắn vì liều B41 to hơn.
Đồ tầu xuất thì nhìn Iraq mà xem, phần lớn các xe tăng cháy ở đó là đồ tầu đấy. Thậm chí có những con Kiểu 69 bị đạn AP bắn.
Trang bị và dùng ở Vịt.Tiến tình trang bị B41 có vẻ như chậm. Đến năm 1966, các sư đoàn mạnh đã có súng này, nhưng rất ít. Số lượng B41 lúc này còn thấp hơn cả số lượng ĐKZ. Đến sau năm 1970, số lượng B41 bắt đầu tăng lên, nhưng cho đến hết Kháng chiến chống Mỹ thì trong các đơn vị chính quy chủ lực Trung ương, chỉ một phần là B41, vân chủ yếu à B40. Đến năm tớ đi lính, sư đoàn 325 luyện quân vẫn còn 1/2 B40. Nhưng các sư đoàn cơ giới mạnh đã tranh bị đồng loạt B41, có vẻ như tiến trình thay thế B40 thành B41 gần ngang RPD thành RPK. Có vẻ như đến gần năm 2000 thì mới hết B40. (Cái này lại hỏi cụ Đoành rùi).
Các sư đoàn mạnh có vẻ như được thay thế vũ khí mới đồng loạt năm 1979, khi chuẩn bị phản công tầu. Nhưng trận phản công không xảy ra, lũ thân tầu thế nào mà lại nhận điều đình của chúng, để chúng rút quân. Quân tầu biết chắc chắn là ta không phản công, liền tụ tập dân chúng chăng cờ hoa vẫy chào ầm ỹ "đoàn quân chiến thắng" trở về. Vừa thoát chết về bên kia biên giới là chúng ngoạc mồm chửi ta ngay, bọn mất dậy. Như vậy, vào năm 1979 và quá trình đánh nhau to trước sau gai đoạn này, quân ta thua kém pốt, Tầu vũ khí này. Tầu tất nhiên không thể chế tạo được B41 như ý, nhưng thời điểm này, các kiểu súng B41 bắn đạn B40 hay các kiểu Kiểu 69 chắc chắn là tốt hơn B40 phổ biến trong quân ta. Trước đây, hồi ở lính tớ cũng đã được nghe kể, các anh thường gọi là Bxx, ví như B63 gì đó, cũng có thể là B69. Các đơn vị tiền tuyến sau năm 1979 có thể được trang bị đồng loạt B41, nhưng chiến tranh cả hai biên giới 1979 thì chưa.
Quân ta sử B41 thì thôi rồi.
Ở ta, ban đầu, vào khoảng thời điểm Mỹ đổ quân vào miền nam thì súng chủ yếu vẫn là B40. Chúng ta cũng trang bị B40 như là hỏa lực tiểu đội, mỗi tiểu đội có một "trung liên cá nhân" như RPD (sau là RPK) và một phóng lựu B40.
Tác dụng như dã pháo, bắn trái phá tầm gần sát thương.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ta thiếu hẳn loại phóng lựu sát thương như "cối cá nhân M79". B40 nếu đảm nhiệm vai trò "dã pháo tiểu đội", bắn trái phá chống bộ binh gặp nhiều trở ngại: không mang được nhiều đạn và rất khó khăn khi cung cấp nhiều loại đạn ra chiến trường. Ta cũng đã tự sản xuất đạn B40 nổ phá sát thương, nhưng ít gặp. Do đó, quân ta cả chính quy và địa phương, trang bị phổ biến "dã pháo" cối cá nhân M79, vai trò này của B40 lu mờ. Sau này, B41 cũng vậy.
Tuy nhiên, trong các tình huống cần "dã pháo B41", quân ta sử cũng rất sáng tạo. Phương pháp phổ biến là ngắm bắn sao cho đạn nổ trước địch, liều nổ định hướng quét theo đất đá làm mảnh sát thương, hoặc bắn vào vách đá, thường dầy, văng ra hàng khối mảnh sát thương. Số lượng mảnh kiểu này còn chụm hơn cả mìn Claymore. Về sau, quân giới nhà ta cũng chế ra chú mìn định hướng kiểu Việt Nam. Mìn này góc chụm giống như viên đạn súng pháo không giật chống tăng chứ không mở rộng hẳn như Claymore, nó cũng được đặt sát đất để kéo theo đất đá cùng mảnh vốn có. Mìn này có từ đánh Mỹ, đến đánh Tầu thì dùng rộng rãi, trông như viên đạn B41 (lại hỏi bác Đoành xem còn cái ảnh nào không).
Công dụng lớn nhất của B41 trong quân ta là dùng chống công sự, công sự kiên cố (như lựu pháo, howitzer) hay chống tăng (anti tank gun).
Chỉ Bazzoka và vài khẩu sơn pháo đã công phá những vòng đai lô cốt quanh Việt Bắc, quanh Đồng Bằng, ở Điện Biên... đủ thấy ba cái lô cốt lằng nhằng khiếp sợ B41 thế nào. Trước đây, quân ta dùng chủ yếu B40 và ĐKZ, chắc là loại SPG-9 Tầu hay BM-10 Liên Xô nhẹ hơn. B40 thì có nhược điểm như đã nói, dễ dàng bị chặn bởi lưới, vách đơn giản. ĐKZ thì quá nặng, súng cộng đồng, đại bác không giật mà. Hồi tớ đi lính, vưỡn còn trang bị thế này. Một tiểu đoàn có một trung độ 3-4 khẩu ĐKZ-82mm (cái này không rõ là gì, trông thì giông giống BM-10). Một trung đoàn có một đại đội ĐKZ-75mm, cái này thì chính là SPG-9. Với công sự, như đã nói, tầm bắn hiệu quả của B41 tăng lên đến 500 mét và hơn nữa. Điều này chính là điểm Liên Xô tính đến khi thiết kế B41 sau những chiến tranh Triều Tiên, Kháng chiến chống Pháp... Tầm bắn hiệu quả khi diệt công sự của B41 vượt qua tầm bắn hiệu quả của những súng bộ binh cầm tay, kể cả đại liên. Nếu chỉ tính riêng về tầm bắn thì B41 chỉ thua kém trọng liên 12,7mm và nhường ĐKZ khi đối đầu trực diện khẩu này. Nhưng lợi thế hơn của B41 so với ĐKZ là luồn sâu, đánh hiểm, ví như các góc chết, hướng phụ của công sự...Nếu so với thời đánh Pháp, mỗi đại đội mang 9 B41, một trung đoàn công đồn mang cả trăm khẩu, 200-300 đạn thì đồn tây nát bét. Chính vì vậy, trong kháng chiến chống Mỹ không thấy đồn bốt dày đặc như hồi 9 năm. Sức xuyên thì không bàn, tất cả các loại công sự nổi kiên cố nhất ở Vịt đều bị B41 làm thịt tuốt tuột. Một nhược điểm của B40 là bị chặn lại bởi các lưới đơn giản, phải nhường ĐKZ. Các lưới này đến sau những năm 1970 vắng bóng cùng chiến thuậT "thiết xa vận".
Khác với đánh Pháp, đánh Mỹ, địch không dựng đồn rải ra, mà phải tạo thành chiến tuyến như Đường 9 Quảng Trị đến Cửa Việt (hàng rào Mac). Cả phòng tuyến dài, hàng rào, vành đai trắng... rộng nhiều chục km, dài cũng hàng chục hàng trăm km. Các cứ điểm không phân tán khắp phòng tuyến mà co cụm, được một lực lượng hỏa lực khổng lồ hỗ trợ. Chúng ta biết sau chiến tranh, ngụy đứng 3 thế giới về máy bay, mà toàn máy bay ném bom. Pháo định cũng loại hàng nhiều nhất nhì ba thế giới, chưa kể Mỹ. Riêng 1972, Mỹ ném xuống hàng rào này 420 ngàn tấm bom... Khủng khiếp như vậy, nhưng ở vùng núi thì hàng rào này chưa bao giờ dựng lên được, Tây Quảng Trị, Nam Lào luôn là hậu phương của Miền Nam, công này phần lớn ở B41. Hồi đó, rừng chưa bị chặt trụi thùi lụi như bi giờ, "
rừng che bộ đội, rừng vây quân thù". Trong phim
Cuộc chiến 100 ngàn ngày, đạo diễn chọn một đoạn phim tư liệu miêu tả những hiểm họa mà xe tăng Mỹ gặp, một chiếc xe tăng phải vượt qua một quãng đường rừng nhiệt đới, thậm chí, tầm nhìn rút xuống còn có một mét. Mà kể cả trong điều kiện rừng bị chặt trụi như ngày nay, hay miền đồng bằng không có rừng, thì chỉ cần những hố, mô đất, tảng đá, gốc cây, bụi lúp xúp, bờ ruộng, căn lều, tòa nhà hay lỗ cống đều có thể trở thành ổ bắn B41 hiệu quả. Ở tầm 350 mét, kính ngắm, lưới tính cho phép bắn trúng mục tiêu đường kính 1 mét khi điều kiện tốt (vòng tròn xác suất một nửa đạn rơi vào trong, đo xa sai số 20%). Khi có gió khá mạnh hay tốc độ chuyển động ngang của địch cao chẳng hạn, khả năng trúng ở viên đạn thứ 2,3... vẫn rất cao (độ lệch chỉ 10 mét). Như vậy, với mục tiêu đứng yên 350 mét, một xạ thủ huấn luyện tốt bắn B41 chính xác vào những chỗ hiểm trên xe tăng ở tất mọi hướng. Sau Làng Vây, có lẽ quá ấn tượng PT-76 trước M72, Mỹ đã chọn thiết kế giáp trước M1 có độ nghiêng rất giống PT-76, điều này gây khó khăn kha khá cho các xạ thủ Trung Đông và Nam Á sau này khi bắn phía trước, nhưng ơn Thánh Ala, du kích không khoái lắm phòng ngự bảo vệ trận địa, bắn trực diện. Còn ở Việt Nam, giáp M48, M60 thì chỉ có cái khiên là gây kho khó cho B41 một diện tích bé tí tẹo.
Điều này cũng giải thích rõ rệt sự phá sản của
Thiết Xa Vận dùng M113, xe này giáp mỏng, hỏa lực yếu xìu (mới là APC, chưa là IFV). Tầm chiến đấu của xe này là tầm súng bộ binh, nằm trong tầm bị B41 thịt. Nếu như thời Vạn Tường, quân ta phải men theo mương rãnh, đê, lũy tre... mang B40 áp sát xe địch trong tầm 150 mét, thì sau này, B41 khừ chết M113 ở tầm 500 mét, vì con xe này là một mục tiêu rất to, giáp mỏng và dựng đứng, tầm này lớn hơn tầm hiệu quả của lính bộ binh đi M113 bắn M16. M113 là xe tiểu đội, trước đây hơn phân B40, chỉ thua ĐKZ, nhưng ĐKZ lại là vũ khí tiểu đoàn, điều này giải thích sự phá sản của
Thiết Xa Vận đầu những năm 1970 khi B41 phổ biến dần với vai trò "
lựu pháo" và "
pháo chống tăng" cấp tiểu đội.
Các chiến thuật "bám thắt lưng địch mà đánh", nâng cao tỷ lệ B41 thành "tổ săn tăng", bắn một mục tiêu từ nhiều hướng để bù sai ước lượng... đã được quân ta áp dụng rộng rãi từ đánh Mỹ. Huyphuc đã được nghe kể về một trận đánh tăng cường B41 đến cấp tổ 3 người (một tiểu đội có 3-4 khẩu, 20-30 đạn), tiêu diệt gọn cả tiểu đòan xe bọc thép và xe tăng địch. Chiến thuật phục kích nghi binh thừa kế Bazooka đánh tây. Trong phim "Cuộc chiến 10 ngàn ngày", còn đoạn phim tư liệu, đáng tiếc là không rõ B40 hay B41, bắn cháy M113 khi xe này đang lao rất nhanh. Mong mỏi mãi anh em bót lên những trận đánh hay hay cho xôm, mà các bác lười quá đấy, những trận đánh ấy nhiều vô kể.
Đánh Biên giới Bắc 1979 thì ta chưa dùng tăng. Vũ khí chống tăng chủ yếu là ĐKZ và B41. Hồi mình đi lính vẫn còn dẫy xe tầu dài đằng đẵng ở Đình Lập, mấy năm sau mới bán sắt vụn. Một nhóm xe địch xông vào được Cao Bằng, chả hiểu thế nào bị bắt sống
. Ở Lào Cai, có chuyện buồn cười, một tiểu đoàn chốt giữ chặn đánh cả mũi tiến quân địch, vẫn bị kiểm điểm vì hiệu quả kém (mũi tiến công này là một trong hai mũi chủ lực của địch: Lào Cai và Lạng Sơn).
Cũng không hiểu sao, hồi đánh Mỹ dài đằng đẵng nhưng Mỹ không hề nghĩ đến chuyện chống B41. Có lẽ chán quá chăng
?? Đức thiết kế cho Mỹ con MBT70, có nhiều giáp phụ chống B41 tốt lắm, nhưng Mỹ nó chán không dùng. Thế nên đến nay M1 vẫn cháy đều. Thực chất, mãi sau này mới có đạn B41 như PG-7VR hai tầng chống ERA, giáp rỗng, giáp hộp... Mỹ nó làm giáp hộp hồi đó thì ta cũng quá đau đầu chứ chẳng chơi. Tuy nhiên, có vẻ như người Mỹ không hiểu lắm về qua học chiến đấu của Lục Quân. Sau chiến tranh, Mỹ xuất bản cuốn "Soviet Anti tank Grenade Launcher. UNITED STATED ARMY TRAINING AND DOCTRINE COMMNAD. 20010803 107, November 1976", nhưng chứa đựng nhiều đánh giá chủ quan sai lầm. Ngay cả ảnh chụp các tư thế bắn mẫu của lính Mỹ cũng không đúng yếu lĩnh.
Sau năm 1971 thì Mỹ ngụy chỉ co cụm, không dám tung tăng ra đánh lớn nữa. Chiến thuật Thiết Xa Vận thực ra chết nghéo từ 1969-1970. Đến Đường 9 Nam Lào, ho he lần cuôí, nhưng đây không phải là "thiết xa vận" trong bình định, mà là cuộc chiến của binh chủng hợp thành chính quy, có lẽ là chiến dịch tấn công chính quy duy nhất Mỹ ngụy tổ chức được. Thật ra, trận này là một trận nướng quân, Thiệu động viên các tướng, đánh lấy Sê-pôn vài ngày rồi về. Lấy tiếng để thầy Thiệu bên Mỹ xin được tiền viện trợ Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Kinh nghiệm chiến trường cho quân ngụy thấy, đánh vào Tây Quảng Trị là điều không thể.
Khẩu súng gọn nhẹ góp phần lớn vào việc làm chủ vùng rừng núi.
Tuy nhiên, thời diểm này cũng thể hiện một điều, M41 nói riêng và súng chống tăng không điều khiển nói chung đã có kẻ đứng trên. Với địa hình trống trải vành đai trắng, ta đã phải dùng xe tăng. Còn năm 1972, lần đầu tiên ta đã dùng đạn chống tăng có điều khiển B72. Tầm bắn của đạn này vượt trội, khả năng diệt tăng cao gấp đôi pháo 100mm, 115mm... trên xe tăng hồi đó.
Có ai biết nguồn gốc bức ảnh này không nhỉ
?
Đạn cháy-sát thương tầu. Iraq đây. Không biết đạn này đến đây từ bao giờ, hay là anh tầu anh ấy đi đêm với du kích Iraq.
Ha mat và súng Yasin, mộ kiểu B40, cho vào đây vì nhiều báo chí phương Tây nhầm là giống B41. Điều đáng nói, súng này được Palestin chế tạo đấy, cả súng lẫn đạn.
B41 đến nay vẫn là niềm tự hào, 30 năm sau khi rút khỏi Việt Nam, Mỹ tậu B41 cho Afgan. Tiến trình thay xe M113 bằng IFV của ngay quân chính quy Mỹ cũng rất chậm. Ở đây, đội M113 Mỹ-ngụy Afgan mang "dã pháo", "lựu pháo", "pháo chống tăng" B41.
Lính Mỹ và đồng minh, ngày đêm luyện tập.