PHẦN BA – HẢI QUÂN VÀ PHÒNG VỆ BỜ BIỂN
I. Lực lượng thuộc Hạm đội 71. Lực lượng tàu sân bay công kích (Attack Carrier Striking Force)Lực lượng hàng không mẫu hạm công kích (Lực lượng đặc biệt 77 – Task Force 77) của Hạm đội 7 bao gồm các hàng không mẫu hạm, các chiến hạm hộ tống và không quân của Hạm đội 7, có nhiệm vị tiến hành các hoạt động đánh phá các mục tiêu ở miền Bắc VN và Lào cũng như chi viện cho lục quân Mỹ và đồng minh ở miền Nam VN. Lực lượng 77 thường xuyên có ít nhất từ 2-3 hàng không mẫu hạm trực chiến, triển khai ở khu vực Dixie (Dixie Station) từ 1965 ở ngoài khơi Khánh Hoà và đến tháng 5/1966 di chuyển tới khu vực Yankee (Yankee Station) nằm ngoài khơi Đà Nẵng.
Trong thời gian từ 1965 – 1975 đã có tổng cộng 17 hàng không mẫu hạm luân phiên tham chiến ở VN:
- USS Bon Homme Richard.
- USS Constrellation.
- USS Coral Sea.
- USS Intrepid.
- USS Oriskany.
- USS Enterprise.
- USS Forrestal.
- USS Hancock.
- USS Ranger.
- USS Kitty Hawk.
- USS Franklin D. Roosevelt.
- USS Ticonderoga.
- USS America.
- USS Shangri – La.
- USS Saratoga.
- USS Midway.
- USS Independence.
2. Lực lượng đặc biệt thủy bộ (Amphibious Task Force)Lực lượng thủy bộ (Lực lượng đặc biệt 76 – Task Force 76) của Hạm đội 7 có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động đổ bộ, đột kích, chi viện… dọc bờ biển. Lực lượng 76 chỉ huy 2 đơn vị Thường trực đổ bộ và đổ bộ đặc biệt (Amphibious Ready Group and Special Landing Force - ARG/SLF). Mỗi nhóm gồm 1 cụm lực lượng thường trực đổ bộ (ARG) gồm 3-4 tàu đổ bộ các loại và 1 cụm lực lượng đổ bộ đặc biệt (SLF) gồm 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến và 1 tiểu đoàn trực thăng.
ARG/SLF Alpha gồm cụm lực lượng 76.4 (ARG) và cụm lực lượng 79.4 (SLF).
ARG/SLF Bravo gồm cụm lực lượng 76.5 (ARG) và cụm lực lượng 79.5 (SLF).
Các đơn vị ARG/SLF hoạt động từ 1965 đến 9/1969 thì ngừng sau khi các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đã được đưa vào chiến đấu trong đất liền.
3. Cụm lực lượng các tuần dương hạm – khu trục hạm (Cruiser – Destroyer Task Group)Cụm lực lượng các tuần dương hạm – khu trục hạm (Cụm lực lượng đặc biệt 70.8 – Task Group 70.8 ) có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động bắn phá các mục tiêu trên vùng bờ biển Bắc VN cũng như chi viện cho lục quân Mỹ và đồng minh ở miền Nam VN. Cụm lực lượng 70.8 bắt đầu hoạt động từ tháng 10/1966, vào thời kỳ cao điểm có khoảng 20 chiến hạm trực chiến. Cụm lực lượng 70.8 được phối thuộc cả một số tàu của Hải quân Hoàng gia Australia và ở một vài giai đoạn còn được tăng cường thêm 1 thiết giáp hạm.
4. Lực lượng hỗ trợ hậu cần (Logistic Support Force)Lực lượng hỗ trợ hậu cần (Lực lượng đặc biệt 73 – Task Force 73) có nhiệm vụ vận chuyển, bảo đảm hậu cần, hỗ trợ cho các hoạt động tác chiến của Hải quân.
5. Không quân Lực lượng không quân của Hải quân triển khai ở VN từ 1965-1975 có tổng cộng 28 tiểu đoàn tiêm kích, 52 tiểu đoàn cường kích và 4 tiểu đoàn trực thăng. Trong đó có 1 tiểu đoàn tiêm kích và 1 tiểu đoàn cường kích của Thủy quân lục chiến.
Các đơn vị không quân được tổ chức trong 15 liên đoàn không quân (1, 2, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 14, 15, 16, 17, 19, 21), bố trí trên các hàng không mẫu hạm của Hạm đội 7.
II. Lực lượng Hải quân Mỹ ở VN (US Naval Force, Vietnam)1. Lực lượng giám sát bờ biển (Coastal Surveillance Force)Lực lượng giám sát bờ biển (Lực lượng đặc biệt 115 – Task Force 115) thành lập 3/1965 làm nhiệm vụ tuần tiễu vùng bờ biển miền Nam VN, phối hợp với hải quân VNCH. Tổ chức của Lực lượng 115 gồm 2 liên đội phòng vệ bờ biển và 2 liên đội duyên hải:
- Liên đội phòng vệ bờ biển số 1 (Coast Guard Squadron 1), thành lập 1965, gồm các phân đội phòng vệ bờ biển 11 (An Thới), 12 (Đà Nẵng), 13 (Cam Lộ), trang bị 16 tàu WBR.
- Liên đội phòng vệ bờ biển số 3 (Coast Guard Squadron 3), thành lập 1967-1968, trang bị 15 tàu WHEC.
- Liên đội duyên hải số 1 (Coastal Squadron 1), thành lập 1965, gồm các phân đội duyên hải 11 (An Thới), 12 (Đà Nẵng), 13 (Cam Lộ), 14 (Cam Ranh), 15 (Quy Nhơn), 16 (Chu Lai) trang bị 84 tàu PCF làm nhiệm vụ tuần tra gần bờ.
- Liên đội duyên hải số 3 (Coastal Squadron 3), thành lập 3/1967 trang bị tàu PG.
Lực lượng 115 giải thể cuối 1970, chuyển giao trang bị cho hải quân VNCH.
2. Lực lượng tuần tra sông (River Patrol Force)Lực lượng tuần tra sông (Lực lượng đặc biệt 116 – Task Force 116) thành lập 12/1965 có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động tuần tra trên sông và chấm dứt hoạt động 12/1970. Tổ chức của Lực lượng 116 gồm 5 liên đội, mỗi liên đội gồm 2 phân đội 10 tàu PBR.
- Liên đội 51: Cần Thơ/Bình Thủy.
- Liên đội 52: Sa Đéc, Vĩnh Long.
- Liên đội 53: Mỹ Tho.
- Liên đội 54: sông Nhà Bè.
- Liên đội 55: Đà Nẵng.
Ngoài ra Lực lượng 116 cũng được một bộ phận không quân hỗ trợ gồm tiểu đoàn trực thăng tấn công nhẹ số 3 trang bị UH-1B và tiểu đoàn cường kích nhẹ số 4 trang bị OV-10 vũ trang.
3. Lực lượng cơ động đường sông (Mobile Riverine Force) Lực lượng cơ động đường sông (Lực lượng 117 – Task Force 117) được thành lập 2/1967, kết hợp giữa lực lượng tàu chiến của Hải quân và lực lượng của lữ đoàn 2, sư đoàn bộ binh số 9 Mỹ. Tổ chức của Lực lượng 117 gồm 2 nhóm cơ động đường sông với 4 giang đoàn, chia thành 8 phân đội được trang bị khoảng 30 tàu chiến và tàu vận tải trên sông:
Nhóm cơ động đường sông Alpha gồm 2 giang đoàn xung kích 9 và 11.
Nhóm cơ động đường sông Bravo gồm 2 giang đoàn xung kích 13 và 15.
Sau khi sư đoàn bộ binh số 9 rút quân khỏi VN, đến 8/1969 Lực lượng 117 giải thể, chuyển giao trang bị cho hải quân VNCH.
4. Công binhCác đơn vị công binh của Hải quân Mỹ được đặt dưới sự chỉ huy của lữ đoàn công binh công trình HQ số 3, trung đoàn công binh công trình HQ 30 và 32. Tổng cộng 22 tiểu đoàn công binh Hải quân đã lần lượt đưa lực lượng sang VN. Công binh của Hải quân Mỹ được bố trí chủ yếu ở Vùng I, tại các căn cứ Đà Nẵng, Chu Lai, Huế - Phú Bài, Đồng Tâm và Quảng Trị.
-----------------------------
Tài liệu tham khảo:Marolda, Edward J,
By Sea, Air and Land: An Illustrated History of the U.S. Navy and the Sea War in Southeast Asia, Department of the Navy - Naval Historical Center.
Shelby L. Stanton,
Vietnam Order of Battle: A Complete Illustrated Reference to U.S. Army Combat and Support Forces in Vietnam 1961-1973, U.S News Books, Washington D.C.
US Naval Force in Vietnam © Richard A. Rinaldi, 2008