Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:17:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hậu trường chính trị phía sau cuộc chiến Đông Dương  (Đọc 76787 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:26:13 pm »



Tên sách: Hậu trường chính trị phía sau cuộc chiến Đông Dương
Tác giả: Tường Hữu
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 2003
Số hoá: ptlinh, Sao Vàng


LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Tập sách "Hậu trường chính trị phía sau cuộc chiến Đông Dương" được biên soạn có chọn lọc các sự kiện chính trị xảy ra trong thời kỳ Pháp, Mỹ nhảy vào can thiệp và gây ra cuộc chiến ở Việt Nam và Đông Dương nói chung. Tập sách là sự tiếp nối, mở rộng cuốn "Những điều ít được biết về cuộc chiến tranh Việt Nam 1945-1975" đã được Nhà xuất bản Công an Nhân dân ấn hành năm 2002.

Tác giả Tường Hữu, một nhà báo kỳ cựu từng là cộng tác viên chuyên theo dõi mảng thời sự quốc tế của Hãng tin AFP và Đài truyền hình Pháp trong thập niên 1960-1970. Có điều kiện tiếp xúc nhiều nguồn tư liệu phong phú từ sách báo nước ngoài, tác giả đã tập hợp, dịch và biên soạn các tư liệu với sự thận trọng, khách quan cần thiết. Tuy nhiên sách vẫn chứa đựng một số lập luận, quan điểm chủ quan của người viết, có tính tham khảo, mong bạn đọc hiểu và góp ý phê bình để nội dung sách ngày càng tốt hơn.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc
.
Nhà xuất bản Công an Nhân dân
« Sửa lần cuối: 15 Tháng Mười, 2020, 09:26:57 pm gửi bởi Giangtvx » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #1 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:27:02 pm »

BƯỚC XÂM LẤN ĐẦU TIÊN CỦA QUÂN PHIỆT NHẬT VÀO VIỆT NAM
.

Do hốt hoảng, Toàn quyền Catroux tự ý nhượng bộ quá nhiều những yêu sách của Nhật nên bị Pétain cách chức và được Decoux thay thế. Decoux dùng hạm đội uy hiếp buộc Catroux phải lập tức chuyển giao quyền cho ông chứ không được tiếp tục trì hoãn

Ngày 3.9.1939, đệ nhị thế chiến bùng nổ trước tiên tại mặt trận Âu châu giữa Đức Quốc xã của Hitler một bên, và Anh - Pháp - Ba Lan bên kia.

Giữa năm 1940, Anh - Pháp thất trận đầu tiên, ngày 10.6.1940, quân Đức Quốc xã tiến vào thủ đô Paris, cùng ngày với lời tuyên chiến của nước Ý phát xít của Mussolini với Anh-Pháp để đòi chia chiến lợi phẩm với Đức.

Cùng ngày, tại Hà Nội, vị Toàn quyền Dông Dương lúc bấy giờ, đại tướng Catroux nhận được những dấu hiệu, theo đó, quân đội Nhật đang chiếm đóng tất cả những thành phố lớn Trung Quốc đang chuẩn bị mở hai cuộc tấn công vào bờ biển Bắc-Việt bằng đường biển, song song với một cuộc dàn quân từ tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) bằng đường bộ qua biên giới Bắc - Việt trong vùng Lạng Sơn, lợi dụng sự bất lực của chính quốc Pháp trong việc tiếp cứu Đông Dương thuộc Pháp, sau ngày một phần lãnh thổ Pháp bị quân Đức chiếm đóng.

Cùng lúc, Bộ Tham mưu Nhật lập lại những lời đe dọa và lên án việc Pháp cho phép vận chuyển vũ khí Mỹ bán cho Tưởng Giới Thạch qua hải cảng Hải Phòng rồi xuyên qua lãnh thổ Bắc - Việt để đưa sang Vân Nam qua cửa khẩu Lào Cai, bằng con đường sắt Hà Nội - Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Nhật buộc Pháp phải đóng cửa biên giới Hoa - Việt.

Trước mối đe dọa này, Toàn quyền Catroux, ngày 16.6.1940, quyết định cấm chỉ việc vận chuyển xăng dầu qua lãnh thổ Đông Dương cho Trung Quốc và lập tức thông báo biện pháp này cho phía Nhật qua vị Đại sứ Pháp tại Tokyo.

Cũng vào thời điểm này, Anh cũng đã phải đóng cửa biên giới Miến Điện - Trung Quốc tiếp theo sau đòi hỏi cua Nhật. Nhưng đã quá trễ: tối ngày 19.6.1940, Catroux nhận được tối hậu thư của Nhật buộc Pháp đóng cửa biên giới cho những cuộc vận chuyển xăng, xe vận tải cùng vũ khí, quân trang, bằng đường bộ cũng như đường sắt, và còn đòi Pháp phải để cho quân đội Nhật đặt các trạm kiềm soát tại các khu vực biên giới để theo dõi sự tuân thủ việc cấm chi các vụ buôn lậu vũ khí qua biên giới Việt - Trung. Nhật còn nhấn mạnh là Pháp phải trả lời chấp nhận yêu sách của Nhật ngay sáng hôm sau 20.6.1940.

Lúc bấy giờ, Toàn quyền Catroux tạm bị cắt đứt liên lạc với chính quyền do sự tan rã của quân đội Pháp, và chính quyền chủ bại Pétain đang sắp thay thế nội các P.Reynaud chủ chiến, để chấm dứt chiến tranh.

Nhật yểm trợ yêu sách của họ bằng việc cho di chuyển hạm đội dọc theo bờ biển Trung Hoa hướng về phía Hai Phòng. Toàn quyền Catroux trong tình thế khó khăn này không kịp chờ đợi chỉ thị từ chính quốc, đành phải chấp nhận đòi hỏi của Nhật.

Ngày 21 và 24.6, vị tân Bộ trưởng Thuộc địa trong chính phủ Pétain vừa được thành lập, đánh công điện khiển trách Catroux đã tự ý chấp thuận yêu sách của Nhật.

Ngày 25.6, Catroux đánh điện về chính quốc khẩn thiết yêu cầu để cho ông "tự do nhận định tình thế dễ hành động kịp thời", nội các Pétain họp và quyết định triệu hồi Catroux và chỉ định Đô đốc Decoux, Tư lệnh Hải quân Pháp tại Viễn Đông lên thay thế.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #2 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:28:06 pm »

Toàn quyền Catroux trì hoãn trao quyền cho Decoux, người kế nhiệm
.

Phái bộ Quân sự Nhật kiểm soát việc đóng của biên giới do tướng Nishihara cầm đầu gồm nhiều sĩ quan của bộ binh và hải quân Thiên Hoàng Nhật đặt chân tới Việt Nam ngày 29.6, và cùng đi với thiếu tá Thiébaut tùy viên quân sự pháp tại Tôkyo.

Từ 28 giờ qua, những tin tức đầu tiên về việc tướng Catroux bị cách chức và được đô đốc Oecoux thay thế đã truyền đến Nhật và Đông Dương, nên ngay sau khi đến Hà Nội, Phái bộ Nhật đòi tiếp xúc với Decoux, tân Toàn quyền, nhưng vì Catroux bận việc tại Sài Gòn nên chưa chuyển giao quyền cho Decoux. Phía Nhật đành phải đợi Catroux trở về Hà Nội ngày 30.6, ngày này, các cuộc thương thuyết đề cập ngay đến việc thiết lập những trạm kiểm soát Nhật tại Móng Cái, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Cai và Hải Phòng.

Để tạo ra một không khí hòa dịu, tướng Catroux tự đơn phương quyết định đóng cửa biên giới Bắc-Việt theo hướng Trung Quốc - Đông Dương và có một hành động tượng trưng, cho lệnh tháo gỡ một đoạn đường sắt tại biên giới trong tỉnh Lào Cai...

Trên nguyên tắc, Catroux không có thẩm quyền thương thuyết với Phái bộ Nhật, vì lệnh triệu hồi và trao quyền lại cho Decoux đã có từ ngày 25.6 và đến ngày 30.6, ông đã nhận được một công điện của Bộ trưởng Thuộc địa, ông Rivière, ra lệnh cho ông phải chuyển giao ngay quyền hành cho Decoux và trở về Pháp trong thời gian ngắn nhất để nhận nhiệm sở mới và luôn những lời khiển trách.

Nhưng tướng Catroux tìm mọi cách hoãn lại ngày rời bỏ chức vụ Toàn quyền và chỉ đúng 25 ngày sau ông mới chịu trao quyền lại cho Decoux dưới sự đe dọa dùng vũ lực của Decoux qua những họng súng đại bác của soái hạm Lamotte Picquet.

Đô đốc Decoux xác nhận trong quyển hồi ký của ông là cuộc chuyển giao quyền hành này diễn ra trong một không khí không có gì tốt đẹp, nếu không nói là rất căng thẳng. Vàsau đó thay vì bay trở về Pháp trình diện với chính phủ Pétain, tướng Catroux bí mật liên lạc với De Gaulle và nhà cầm quyền Anh tại Singapour.

Trong ba tuần lễ đầu đặt chân tới Bắc Việt, Phái bộ Nhật xử sự như trên một lãnh thổ mà họ đã chiếm được, nên họ lập tức bắt tay vào một chiến dịch tuyên truyền và gián điệp, chú tâm quan sát những kho chứa vũ khí và quân trang Mỹ đang chờ được chuyển sang Trung Quốc nhưng từ nay bị cấm chỉ nên bị giữ lại tại chỗ.

Ngay những ngày đầu tháng 7.1940, tướng Nishihara đòi tướng Catroux thỏa mãn 4 điều kiện sau đây:

1. Nhường lại cho Nhật những quân nhu Mỹ đang chờ được chuyển sang Trung Quốc cho Tưởng GiớiThạch.

2. Việc tiếp tế lương thực và đạn dược cho đạo quân Nhật đang chiếm đóng trong tỉnh Quảng Tây, qua ngã Bắc-Việt, do quân đội Nhật thực hiện.

3. Quân đội Nhật được quyền gửi thương bệnh binh Nhật đến các bệnh viện Bắc Việt để được săn sóc.

4. Quân Nhật được quyền mượn đường trong lãnh thổ Bắc Việt để tiến sang tỉnh Vân Nam nhằm tấn công quân của Tưởng Giới Thạch.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #3 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:30:12 pm »

Mặc dù chưa nhận được chỉ thị nào của chính phủ Pétain, tướng Catroux cho phía Nhật biết là ông sẵn sàng cho phép Nhật tự do tiếp tế thực phẩm cho quân Nhật trong tỉnh Quảng Tây và việc chữa trị thương bệnh binh Nhật tại các bệnh viện Bắc-Việt.

Nhưng Catroux bác bỏ điều kiện để Nhật được tự do chuyển quân trên lãnh thổ Bắc-Việt để tấn công Trung Quốc vì vậy là xâm phạm chủ quyền của Pháp, nhưng ông sẵn sàng trù liệu một sự hợp tác quân sự sâu rộng hơn với Nhật. Và để cho Nhật vận chuyển đạn dược và cả việc di tản các binh sĩ Nhật tại Quảng Tây sang vùng đồng bằng Bắc-Việt nếu chính phủ Nhật cam kết tôn trọng chủ quyền của Pháp tại Đông Dương và trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ngoài khơi bờ biển Việt Nam, và rút quân khỏi đảo Hải Nam (Trung Quốc).

Tướng Nishihara đề nghị với Catroux một cuộc liên minh quân sự
.

Chính phủ Pétain ngày 12.7 ra lệnh cho Catroux đình chỉ mọi cuộc thương thuyết và chuyển giao quyền hành của Decoux.

Ngay khi Phái bộ Nhật đến Hà Nội, một khu trục hạm và một tàu gỡ mìn Nhật đến bỏ neo ngoài khơi Hải  Phòng, và một chiến hạm Nhật khác tiến vào căn cứ Bayard tại Quảng Châu Loan, một nhượng địa của Trung Quốc cho Pháp, ở biên giới Việt-Trung. Kể từ thời điểm này, các tàu chiến Nhật tự do ra vào hai cảng này mà không cần xin phép nhà cầm quyền Pháp, bất chấp sự phản đối của phía Pháp. Mặt khác, hai phi trường Hà Nội và Hải Phòng phải tiếp nhận mà không được thông báo trước, những phi cơ quân sự Nhật viện cớ thực hiện những chuyến bay để liên lạc với Phái bộ Nhật.

Trong cuộc thảo luận tay đôi duy nhất diễn ra ngày 19.7, giữa Catroux và Decoux trước khi chính thức bàn giào quyền hành, Catroux khuyên Decoux có một thái độ cương quyết hơn đối với người Nhật, vì ông nhìn nhận là đã sai lầm khi nhượng bộ quá nhiều trước người Nhật mà không được người Nhật đáp trả lại một cách tương xứng.

Ngay sau ngày nhậm chức, Decoux tỏ ra có lập trường cương quyết hơn vị tiền nhiệm của ông trong các cuộc thảo luận với phía Nhật, nên không khí trở nên căng thẳng và dẫn tới cuộc chiến ngắn ngủi Pháp-Nhật tại vùng Lạng Sơn từ 22.9 đến 25.9.1940.

Lạng Sơn bị quân Nhật đánh chiếm, với tổn thất khá nặng của cả đôi bên qua con số thương vong nhiều ngàn người. Sau biến cố này, Toàn quyền Decoux nhận thức là một cuộc đối đầu trực tiếp với quân đội Nhật chỉ dẫn tới sự kết thúc chủ quyền của Pháp tại Đông Dương mà thôi nên ông đành đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác trong khi vẫn hết sức cố gắng hạn chế những yêu sách của Nhật trên mọi lãnh vực.

Nhưng Decoux không mấy thành công trong các nỗ lực giảm thiểu những tham vọng về lãnh thổ của phe quân phiệt Nhật, nhất là sau ngày Hitler xua quân tấn công vào lãnh thổ Liên Xô ngày 22.6.1941 và gặt hái được những chiến thắng vang dội trong những tháng đầu của cuộc chiến Đức-Liên Xô. Điều này càng khuyến khích Nhật nhanh chóng tiến về phía Nam và buộc Pháp chấp nhận cho Nhật đưa quân xuống miền Nam Việt Nam qua tối hậu thư ngày 22.1.1941, sự việc này bị phản ứng quyết liệt của Mỹ và châm ngòi cho cuộc chiến tại Thái Bình Lương giữa Nhật và Hoa Kỳ
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #4 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:31:02 pm »

NHỮNG PHỨC TẠP TRONG MỐI QUAN HỆ THỜI CHIẾN GIỮA PHÁP - MỸ VÀ NHẬT TẠI VIỆT NAM

Đường lối ngoại giao của Decoux đối với sự chiếm đóng của Nhật

Tháng 6.1940, liên quân Anh-Pháp đại bại trước quân Đức Quốc xã tại mặt trận Tây Âu khiến Thống chế Pháp Pétain phải chấp nhận sự đầu hàng với Hitler. Lợi dụng sự suy yếu cua Pháp, chính phủ Nhật lập tức buộc Toàn quyền Catroux lúc bấy giờ phải chấp nhận những nhượng bộ lớn về mặt quân sự, kinh tế.

Chỉ còn liên lạc được với chính quốc bằng vô tuyến điện, tướng Catroux buộc lòng phải tự nhận lấy trách nhiệm trong các cuộc thương nghị đầy khó khăn với tướng Nishihara, Trưởng Phái bộ Quân sự Nhật tại Hà Nội.

Để ngăn chặn những nhượng bộ quá đáng của Toàn quyền Catroux, chính phủ Pétain tại Vichy lập tức gửi công điện cho Catroux ra lệnh ngưng các cuộc thương thuyết đang diễn ra tại Hà Nội. Và ngày 25.6 đã quyết định ngưng chức Catroux, triệu hồi ông về Pháp và bổ nhiệm Đô đốc Decoux, Tư lệnh Hạm đội Pháp tại Thái Bình Dương lên thay thế, vì cho rằng Catroux đã vượt quyền hạn của ông và còn để lộ ý định sẽ thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào chính phủ Pétain tại chính quốc để ngã theo De Gaulle, người đang mưu toan thành lập một chính quyền lưu vong tại Anh để tiếp tục cuộc chiến chống lại Hitler.

Quả thật, ngày 20.7.1940 Catroux sau khi cố trì hoãn ngày chuyển giao quyền hành cho Decoux, đã rời Sài Còn bay sang Singapour, và thay vì bay về Pháp để nhận những chỉ thị mới của Pétain, nhưng với sự trợ giúp của nhà cầm quyền Anh tại Singapour, ông đã chuyển sang phi cơ của Anh để bay thẳng đến thủ đô Luân Đôn gia nhập hàng ngũ của De Gaulle.

Catroux tự đặt mình dưới.sự lãnh đạo của De Gaulle, một người mới được thăng cấp thiếu tướng chỉ có một tháng, trong khi Catroux mang cấp bậc đại tướng 5 sao, nghĩa là trên biển De Caulle ba cấp bậc trong quân đội.

De Gaulle từ ngày tự mình đứng lên nhận lấy trách nhiệm trước lịch sử là duy trì cuộc chiến chống Đức, đảm nhận một vai trò chính trị nên không lệ thuộc vào cấp bậc trong quân đội, cũng như đại tá Nasser tại Ai Cập hay đại úy Koong Le tại Lào sau này.

Ngay sau ngày nhậm chức, Decoux thi hành một đường lối đối ngoại dựa vào bốn điểm chính sau đây:

a) Kiêng nể, tránh gây phật lòng Anh - Mỹ, những đối thủ của Đức - Ý - Nhật. 

b) Giữ hoàn toàn trung lập trong cuộc chiến tại Thái Bình Dương.

c) Duy trì sự bình yên tại biên giới Việt-Trung, nghĩa là cố tránh va chạm với chính quyền Tưởng Giới Thạch.

d) Bảo vệ bằng mọi phương tiện, chủ quyền hành chính tại Đông Dương trong tay người Pháp.

Trong suốt 5 năm cầm quyền tại Đông Dương, Decoux lần lượt tiếp xúc với 4 vị đại Sứ Nhật và 6 vị đại diện toàn quyền, và độ hai chục vị lãnh sự Nhật, mà nhân vật đáng ngại nhất là Đại sứ Yoshizawa, một nhà ngoại giao đầy bản lĩnh và kinh nghiệm, ông này đến Hà Nội nhậm chức tháng 10.1941, khi ông đã 75 tuổi với bề dày kinh nghiệm trên lãnh vực ngoại giao, sau khi đã từng là đại sứ tại Pháp và tại Indonesia.

Với dáng người thấp, ăn nói rất thận trọng, tướng đi rón rén, miệng luôn hút xì gà như Churchill, nhà ngoại giao từng trải này quá hiểu biết để thừa thấy trước sự thất trận của Nhật trước các cường quốc Đồng Minh, ông cũng thấy trước là quân đội Nhật rồi cũng sẽ làm cuộc đảo chính quân sự lật đổ chủ quyền của Pháp tại Đông Dương nên cuối năm 1944 ông xin từ nhiệm để khỏi phải nhúng tay vào một hành động phản bội lời cam kết của Nhật hoàng là tôn trọng chủ quyền của Pháp tại Đông Dương.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #5 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:31:48 pm »

Các quan hệ giữa Pháp và Nhật luôn căng thẳng trong suốt thời gian cuộc chiến Thái Bình Dương. Vị đại sứ toàn quyền Yoshizawa ngay sau ngày Nhật tuyên chiến với Anh - Mỹ ngày 8.12.1941, cho Toàn quyền Decoux biết là từ đây, tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến các cuộc hành quân, bắt buộc phải thương thảo với Bộ Tư lệnh Quân đội Nhật nên nhà ngoại giao lỗi lạc phải nhường bước cho các nhóm quân phiệt Nhật.

Những vụ rắc rối giữa nhà cầm quyền Pháp và quân đội chiếm đóng Nhật thường xảy ra và là một mối đe dọa thường xuyên cho chủ quyền hành pháp của người Pháp. Vị Trưởng Phái bộ liên lạc Nhật, tướng Tyo, người lên thay thế tướng Sumita tháng 10.1941 là một con người có nhiều cá tính trái ngược, vừa hung bạo vừa có tình cảm, vừa là một vị tướng quân phiệt vừa là một thi sĩ, thích sưu tập đồ cồ, vừa đáng ghét và đáng mến.

Tướng Tyo tin chắc quân đội Nhật là thiện chiến nhất thế giới, và ông ta trả giá sự sai lầm này tại Okinawa, khi thấy sư đoàn mà ông chỉ huy trong cố gắng bảo vệ hòn đảo này, bị quân Mỹ tiêu diệt dưới những trận mưa bom, khiến ông đành phải mổ bụng tự sát theo kiểu võ sĩ đạo để khỏi bị rơi vào tay quân Mỹ.

Ngày 14.10.1942, sau một vụ va chạm mạnh giữa các quân nhân Pháp và Nhật, tướng Tyo gửi đến Toàn quyền Decoux một công hàm đầy tính đe dọa, đổ lỗi cho Pháp là đã có hành động xúc phạm đến danh sự của quân đội Thiên Hoàng, và cho biết là từ giờ phút ấy, Bộ Tư lệnh tự cho mình có quyền bắt giữ những quân nhân hay thường dân Pháp có những hành động gây hấn với người Nhật.

Nhưng thực ra, lời đe dọa này chưa bao giờ được thi hành cho tới ngày đảo chính 9.3.1945, và cho tới ngày này, bộ tư lệnh Nhật vẫn để cho các cơ quan tư pháp Pháp đem ra xét xử những công dân Nhật phạm pháp trên lãnh thổ Đông Dương, cũng như đối với tất cả những kiều dân ngoại quốc sinh sống tại phần đất thuộc địa này của Pháp.

Một sự việc đáng được ghi nhận trong các quan hệ Pháp - Nhật lúc bấy giờ là tính cách của các nghi lễ ngoại giao được áp dụng trong cuộc thăm viếng Hà Nội ngày 19.4.1943 của Bộ trưởng Aoki, đặc trách các quốc gia Đại Đông Á. Phái bộ ngoại giao Nhật viện lẽ đây là một nhân vật cao cấp nhất từ trước tới giờ đặt chân tới Hà Nội nên Toàn quyền Decoux phải đích thân đến Tòa Đại sứ Nhật tại Hà Nội gặp Bộ trưởng Aoki rồi sau đó ông này mới đáp lễ bằng một cuộc thăm viếng Phủ Toàn quyền.

Nhưng Pháp cho phía Nhật biết là vị Toàn quyền Đông Dương là người đại diện cao nhất của Pháp tại Đông Dương, lãnh thổ thuộc chủ quyền của Pháp, nên ở cương vị này, ông chỉ tiếp những vị thượng khách tại Phủ Toàn quyền chứ không có bổn phận dời gót đến thăm một vị khách quí nào.

Sau những cuộc điều đình gay go, hai bên đi đến thỏa thuận là ngay khi đến Hà Nội, Bộ trưởng Aoki sẽ đến Phủ Toàn quyền gặp Decoux trong một cuộc thăm viếng nhã nhặn, rồi ngay buổi chiều hôm ấy, Decoux sẽ đến Tòa Đại sứ Nhật, với tư cách riêng để dự một tiệc trà do ông đại sứ Nhật tổ chức để có một cuộc thảo luận riêng với ông Bộ trưởng Nhật.

Cuối tháng 11.1944, Đại sứ Yoshizawa cho Decoux hay là ông sẽ trở về nước luôn và sẽ được Đại sứ Matsumoto thay thế. Ông này sẽ nhận lấy trách nhiệm thực hiện cuộc đảo chính lật đổ chủ quyền của Pháp tại Đông Dương 3 tháng sau, vào lúc sự thất trận của Nhật trước các cường quốc Đồng Minh đã hiện rõ, để xóa bàn cờ Đông Dương và góp phần không nhỏ cho công cuộc tranh đấu giành lại độc lập cho các dân tộc Đông Dương.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #6 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:32:30 pm »

Đệ nhị thế chiến lan tới Việt Nam như thế nào?


Ngày 10.6.1940, quân Đức tiến chiếm Paris, thủ đô của Pháp, liên quân Anh Pháp tan rã và chỉ một tuần lễ sau, quân Pháp buông súng đầu hàng. Khai thác sự thất thế của Pháp, ngày 19.6.1940, đại tướng Catroux, Toàn quyền tại Đông Dương, nhận được từ vị đại sứ Pháp tại Tokyo (Nhật) một công điện cho biết chính phủ Nhật vừa gửi tối hậu thư cho Pháp, buộc nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương phải trong vòng 24 tiếng đồng hồ, đóng cửa biên giới Việt-Trung, cũng như Pháp phải chấp nhận một sự kiểm soát của Nhật nhắm vào việc đóng cửa biên giới bởi những viên chức chuyên môn của Nhật.

Dưới áp lực quá nặng của Nhật, nhà cầm quyền Pháp tại chính quốc cầu cứu với Mỹ, nhờ nước này gây áp lực ngoại giao với Nhật và cung cấp vũ khí cho người Pháp tại Đông Dương. Việc này thất bại, vì Mỹ chưa kịp chuẩn bị đầy đủ để tham chiến nên cho Pháp biết là họ sẽ không thể làm gì để giảm bớt áp lực của Nhật cả và khuyên Pháp cố giảm bớt những yêu sách của Nhật và Mỹ cũng không phiền trách Pháp về nhtĩng nhượng bộ có thể phương hại đến Mỹ lúc bấy giờ.

Toàn quyền Catroux trước đó có yêu câu Mỹ giao cho ông số máy bay mà chính phủ Pháp đã đặt mua và đã thanh toán tiền để ông tăng cường lực lượng bố phòng, trong khi chính quốc Pháp đã đầu hàng Đức nên không cần đến số phi cơ này. Nhưng chính phủ Mỹ từ khước giao số máy bay này vì biết Catroux sẽ để số chiến cụ này sẽ rơi vào tay Nhật, kẻ thù sắp tới của Mỹ.

Đầu tháng 4.1940, khi tình hình chiến sự tại Pháp trở nên nguy kịch, Thủ tướng Pháp Paul Reynaud đã đánh điện cầu cứu tới Tổng thống Mỹ Roosevelt để yêu cầu Mỹ tham chiến và can thiệp với Mussolini để ngăn chặn tuyên chiến với Pháp. Tổng thống Roosevelt trả lời Thủ tướng Pháp là Mỹ không thể tuyên chiến với Đức trong một tương lai gần được vì chưa kịp chuẩn bị về mặt quân sự cũng như dư luận, mà chỉ hứa gia tăng sự cung cấp vũ khí cho Anh-Pháp.

Trước sự từ khước trợ giúp của Mỹ, hai vị Toàn quyền Pháp Catroux rồi Decoux đành nhượng bộ những yêu sách của Nhật, chấp nhận các yêu sách quân sự của Nhật.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #7 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:33:14 pm »

Mỹ phớt lờ thiện chí hòa bình của Thủ tướng Nhật Konoye


Ngày 22.6.1941, quân Đức tấn công vào lãnh thổ Liên Xô và trong 5 tháng đầu đạt được những thắng lợi lớn vì quân Liên Xô thiếu chuẩn bị. Lợi dụng sự thắng thế của phe Đức-Nhật, Nhật đưa ra những yêu sách mới với Toàn quyền Decoux tại Đông Dương ngày 22.7.1941:

“Pháp phải chấp thuận cho Nhật đổ bộ 50.000 quân lên Vũng Tàu ngày 30.7.1941, cho không quân Nhật sử dụng phi trường Tân Sơn Nhất, Biên Hòa và Sóc Trăng, trong mục đích mở những cuộc tấn công xuống phía Nam, nhắm vào Mã Lai, Singapour của Anh”.

Toàn quyền Decoux cũng đành phải nhượng bộ để cho quân Nhật tiến xuống Nam-Việt. Nhận thấy nguy cơ của cuộc tiến quân của Nhật, Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ mới có phản ứng quyết liệt trước ý đỏ xâm lăng của người Nhật.

Sự hiện diện của quân Nhật tại Sài Gòn đe dọa trực tiếp các thuộc địa Anh tại Đông Nam Á, nên Thủ tướng Anh Churchill nói với Tổng thống Mỹ Roosevelt:

"Tôi muốn Mỹ tuyên chiến lập tức với Đức và Nhật và không nhận được viện trợ vũ khí Mỹ trong 6 tháng còn hơn là nhận được gấp đôi vũ khí Mỹ mà không có sự tuyên chiến của Mỹ".

Churchill thừa biết Roosevelt gặp khó khăn với Quốc hội Mỹ trong việc thuyết phục Quốc hội Mỹ cho phép ông tuyên chiến. Nhưng để an ủi và làm cho Churchill đỡ sốt ruột, Roosevelt nói với Churchill:

“Có thể tôi phải mất một thời gian nữa mới thuyết phục Quốc hội Mỹ chấp nhận một sự tuyên chiến, nhưng tôi ngấm ngầm có những hành động chiến tranh, như cho quân chiếm đóng đảo Ái Nhĩ Lan (Island), ra lệnh cho tàu chiến Mỹ nổ súng vào các tàu ngầm Đức để tự vệ, ra lệnh cấm vận các mặt hàng chủ yếu như xăng dầu, máy móc dụng cụ, sắt thép, phong tỏa các tài sản của Nhật được ký gửi tại các ngân hàng Mỹ. Mất nguồn tiếp tế xăng dầu, quân lực Nhật sẽ bị tê liệt”.

Bằng những biện pháp cứng rắn trên, cộng thêm yêu sách buộc Nhật rút quân khỏi Đông Dương và Trung Quốc, Tổng thống Mỹ đẩy Nhật vào tình thế phải tuyên chiến với Mỹ chớ Mỹ khỏi cần phải tuyên chiến trước với Nhật, và Roosevelt đã thành công.

Nhận thức mối hiểm nguy khi phải gây chiến với Mỹ, một cường quốc đông dân và nhiều tài nguyên hơn mình gấp bội, các lãnh tụ Nhật e ngại tìm cách hòa hoãn với Mỹ, chấp nhận trong bước đầu, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Thủ tướng Nhật Konoye còn đề nghị bay sang Honolulu (lãnh thổ Mỹ) gặp Tổng thống Roosevelt để cố đạt được một sự thỏa thuận nhằm cứu vãn hòa bình, nhưng Roosevelt cương quyết bác bỏ đề nghị đầy thiện chí của Hoàng thân Thủ tướng Konoye, một chính khách được xem là ôn hòa.

Roosevelt đã có chủ tâm tham chiến để chặn đứng bước xâm lăng của trục Đức-Ý-Nhật. Điều kiện nặng nề nhất mà Mỹ đưa ra cho Nhật để Mỹ bỏ cấm vận là buộc Nhật rút hết quân đang chiếm đóng tại các thành phố lớn như Bắc Kinh, Nam Kinh, Hán Khẩu, Quảng Châu v.v... mà quân Nhật đã phải hy sinh hàng trăm ngàn sinh mạng để đánh chiếm được từ ngày 7.7.1937, nghĩa là từ hơn bốn năm qua trong một cuộc chiến không tuyên bố với Trung Quốc. Làm theo điều kiện này quả là một sự đầu hàng rõ rệt của Nhật trước Mỹ, điều mà phe quân phiệt Nhật không thể nào chấp nhận được.

Roosevelt còn buộc Nhật giải tán chính phủ Uông Tinh Vệ bù nhìn mà Nhật cho dựng lên tại Nam Kinh để đối đầu với chính phủ kháng chiến Tưởng Giới Thạch được Mỹ thừa nhận và viện trợ để chống lại Nhật.
Qua những điều kiện quá khắt khe trên, Mỹ thừa rõ là Nhật không thể nào chấp nhận được và bắt buộc phải mở một cuộc đột kích vào các căn cứ lớn của Mỹ đề chiếm thượng phong, và như vậy là trước dư luận Mỹ và thế giới, Nhật ra tay trước và trở thành kẻ gây chiến chớ không phải Mỹ, và Mỹ phải tự vệ mà thôi.
Người Mỹ trước cuộc đột kích vào Trân Châu Cảng, đã nắm được mật mã của Bộ Ngoại giao Nhật nên dù biết trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng, mà cố ý lờ đi để chịu đòn. Thâm ý của nhà cầm quyền Mỹ là đặt Quốc hội và nhân dân Mỹ trước một hành động quân sự của Nhật gây tổn thất nặng nề về sinh mạng cho người Mỹ, sự việc này khiến dân chúng và Quốc hội quyết tâm đứng lên tiêu diệt kẻ thù Nhật để trả đũa.

Từ đầu tháng 12.1941, lò thuốc súng sắp bùng nổ trên Thái Bình dương vì lập trường giữa Mỹ và Nhật xung khắc quá rõ rệt, và các cuộc chuẩn bị chiến tranh diễn ra ráo riết giữa hai bên. Các nhà ngoại giao Mỹ và Nhật bàn giao nhiệm vụ lại cho phe quân sự để ngăn ngừa một hành động chiến tranh của đối phương. Và người Nhật, được xem là yếu thế hơn, nên phải ra tay trước.

24 tiếng đồng hồ trước giờ G, giờ phát súng đầu tiên khai hỏa, sáng ngày 6.12.1941, hai đoàn tàu chiến Nhật gồm 35 chiếc tàu chở quân, 8 tuần dương hạm và 20 khu trục hạm xuất phát từ các cảng Sài Gòn, Cam Ranh, Hải Phòng kéo neo tiến về phía Nam trên đường đánh chiếm Mã Lai, Tân Gia Ba. Nhiều hạm đội khác cũng cùng lúc tiến về các mục tiêu khác như Phi Luật Tân, Indonesia, còn riêng hạm đội chủ lực đột kích Trân Châu Cảng thì đã lên đường từ ngày 26.11, mười ngày trước, vì mục tiêu ở quá xa.

Mờ sáng ngày 7.12.1941, chiến cuộc bùng nổ trên khắp các mặt trận.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #8 vào lúc: 24 Tháng Mười Một, 2009, 05:34:55 pm »

Dội bom Tokyo xong, phi cơ Mỹ đáp khẩn cấp xuống chiến khu của Mao Trạch Đông

Bị tổn thất nặng nề sinh mạng và chiến cụ tại Trân Châu Cảng, hải quân Mỹ dù đã mất đi toàn bộ 8 thiết giáp hạm nòng cốt, sẵn nuôi chí phục thù. Tạm gác lại những cuộc hành quân lớn để ngăn chặn các cuộc đổ bộ của quân Nhật lên Phi Luật Tân do Mỹ bảo vệ, tân Tư lệnh Hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương được lệnh chuẩn bị một hành động trả đũa nhắm thẳng vào thủ đô Tokyo cua Nhật.

Mặc dù những phương tiện còn lại rất hạn chế do tổn thất quá lớn tại Trân Châu Cảng, tướng Himitz gom góp lại được hai chiếc tàu sân bay Enterprise và Hornet thoát nạn nhờ vắng mặt tại Trân Châu Cảng, và vài chiếc tuần dương hạm và khu trục hạm hộ tống để thành lập một hạm đội đặc nhiệm lãnh nhiệm vụ bất ngờ dùng phi cơ oanh kích thủ đô Tokyo.

Cái khó là làm thế nào bí mật đưa hạm đội đến gần chính quốc Nhật mà không bị người Nhật phát hiện và còn phải cho phi cơ cất cánh từ trên hai mẫu hạm, khi còn cách Tokyo một khoảng cách khá gần để các phi cơ Mỹ sau khi dội bom, còn đủ xăng để bay thoát về căn cứ trên hai mẫu hạm; hoặc bay thẳng qua lãnh thổ Trung Quốc thuộc vùng đóng quân của Bát lộ Quân của Mao Trạch Đông, một đồng minh của Mỹ.

Việc bay trở về các tàu sân bay Mỹ không được đặt ra, vì ngay sau khi cho phóng đi các phi đội tấn công, hạm đội Mỹ phải lập tức quay đầu 180 độ và mở hết tốc độ để cốt chạy thoát sự săn đuổi của hải và không quân Nhật, vì hạm đội Mỹ đã bị phát hiện.

Bộ Tư lệnh Mỹ thấy phải sử dụng những phi cơ ném bom có tầm hoạt động xa của lục quân như loại B.25 mới có thể thực hiện những phi vụ loại này. Mỹ lập tức tuyển dụng những phi công chuyên lái oanh tạc cơ B.25 và ráo riết huấn luyện cho họ phải làm cách nào cho phi cơ cất cánh chỉ sau hơn 200 mét lấy đà, vì đường băng trên tàu sân bay chỉ hơn 200 mét, trong khi loại B.25 này phải cần đến một đường băng trên 300 mét trên mặt đất mới cất cánh được.

Việc ráo riết tập luyện cho phi công B.25 cất cánh trên đường băng ngắn đòi hỏi một thời gian nên kế hoạch đột kích Tokyo bằng phi cơ chở trên mẫu hạm phải dời lại đến trung tuần tháng 4.1942. 

Ngày 1.4.1942, mười sáu chiếc oanh tạc cơ to lớn của lục quân được đưa lên chiếc tàu sân bay Hornet, và được đặt dưới sự chỉ huy của đại tá Doolittle. Sáng hôm sau, ngày 2.4, mẫu hạm Hornet, được sự hộ tống của hai tuần dương hạm Hashville và Vincennes trang bị đại bác 203 và 150 ly và một đội khu trục hạm chống tàu ngầm ra khơi.

Cuộc hành quân này được giữ bí mật tuyệt đối, các lính thủy và phi công Mỹ không hay biết mục tiêu của cuộc hành quân này. Chỉ khi gần đến bờ biển Nhật, vị hạm trưởng chiếc Hornet mới tập trung binh sĩ trên boong tàu và dùng loa cho các binh sĩ trên tàu rõ:

"Chúng ta đang đưa các oanh tạc cơ của lục quân đến gần bờ biển Nhật để dội bom xuống thủ đô Tokyo Nhật để trả đũa cuộc đột kích Trân Châu Cảng".

Các quân nhân Mỹ trên mẫu hạm, đặc biệt là các phi công của lục quân hò reo vang dội, mừng rỡ được dịp đi trả mối hận Trân Châu Cảng mặc dù họ thừa rõ mối nguy hiểm lớn khi phải bay vào không phận thủ đô Nhật để dội bom, nhưng họ hy vọng là yếu tố bất ngờ có thể hạn chế mức nguy hiểm phần nào. Tinh thần chiến đấu của thủy thủ đoàn chiếc Hornet rất cao là do quyết tâm phục hận của họ sau vụ Trân Châu Cảng đã khiến hơn 3.000 binh sĩ Mỹ thương vong.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #9 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2009, 07:51:42 pm »

Ngày 8.4.1942, chiếc tàu sân bay Mỹ thứ nhì Enterprise do Đô đốc W.Halsey chỉ huy, cùng với đoàn chiến hạm hộ tống, rời Trân Châu Cảng hướng về nước Nhật để kết hợp lực lượng với chiếc Hornet lập thành Hạm đội đặc nhiệm số 16, tất cả được đặt dưới sự chỉ huy của Halsey, ông này đang có dưới tay 2 tàu sân bay, 4 tuần dương hạm, hai đội khu trục hạm và 2 tàu chở dầu tiếp tế nhiên liệu.

Tất cả những phi cơ hải quân của chiếc Hornet đều được cất giấu dưới hầm, nhường boong tàu để làm chỗ đậu cho 2 phi đội oanh tạc cơ B.25 có tầm hoạt động xa của lục quân. Còn chiếc mẫu hạm Enterprise chở theo những phi cơ trinh sát và săn giặc để do thám và bảo vệ hạm đội chống lại các phi cơ địch.

Ngày 17.4.1942, hạm đội sau khi được tiếp tế xăng dầu, tách ra khỏi các khu trục hạm và tàu chở dầu, chỉ còn được sự bảo vệ của các dàn đại bác của các tuần dương hạm và của những toán phi cơ tuần tiều bay chung quanh. Từ giờ phút này, hạm đội chiến đấu Mỹ mở hết tốc lực tiến đến gần hòn đảo Hondo của Nhật để tấn công Tokyo.

Đô đốc Halsey có ý định đưa hạm đội đến cách bờ biến Nhật dưới 100 cây số để các phi công của lục quân có đủ nhiên liệu bay đến dội bom Tokyo rồi sau đó vượt qua biển Nhật Bản để đáp xuống các phi trường của kháng chiến quân Trung Quốc ở miền Bắc nước này.

Tuy nhiên, tình thế buộc Halsey phải sửa đổi kế hoạch. Trước rạng đông ngày 18.4, các “radar" Mỹ phát hiện những mục tiêu không thể xác định, ông ta chờ mặt trời lên, rồi cho phóng lên những máy bay trinh sát, ít lúc sau đó, các máy bay này trông thấy một tàu tuần Nhật và cho là họ đã bị tàu Nhật phát hiện, nên lập tức đánh điện cho tuần dương hạm Nashville đến đánh chìm tàu địch này, trước khi nó kịp báo động về Tổng hành dinh Nhật.

Đô đốc Halsey nghĩ rằng người Nhật đã được thông báo về sự hiện diện của ông và như vậy là ông mất đi yếu tố bất ngờ, nên dù đang còn cách bờ biển khá xa, đến 150 hải lý cách nơi được dự định để cho phi cơ cất cánh, và nếu ông tiến đến đúng nơi đã được dự định, hai tàu sân bay cực kỳ quí giá của ông có thể bị các phi cơ Nhật đặt căn cứ trên bộ đuổi theo kịp để đánh chìm, như trường hợp hai thiết giáp hạm Anh Prince-of-Wales và Repulse ngày 10.12.1941 bị phi cơ Nhật cất cánh từ phi trường Sóc Trăng đánh chìm ngoài khơi bờ biển Mã Lai chỉ 3 ngày sau khi chiến tranh bùng nổ trên Thái Bình Dương qua vụ Trân Châu Cảng.

Nếu Halsey và Doolittle quyết định cho phi cơ bay đi tấn công ngay để hy vọng còn có được yếu tố bất ngờ, thì các oanh tạc cơ Mỹ sẽ bay đến Tokyo giữa trưa, và sẽ khó đến được các phi trường Trung Quốc vì không còn đủ xăng. Hai chỉ huy trưởng Mỹ cân nhắc giữa những nguy hiểm phải chấp nhận, với những lợi ích quân sự và tâm lý mà Mỹ đạt được khi trút được hàng tấn bom xuống thủ đô Nhật ngay giữa ban ngày, sự việc này nâng cao tinh thần quân dân Mỹ giữa lúc quân Nhật vừa tiến vào chiếm thủ đô Manila của Phi Luật Tân và buộc Đại tướng Mỹ Mc.Arthur phải bỏ chạy khỏi hòn đảo cuối cùng Bataan.

Halsey và Doolittle không ngần ngại chọn con đường tấn công đầy mạo hiểm: đại tá Doolittle mạnh dạn bước lên chiếc oanh tạc cơ đầu tiên, cất cánh dẫn đường cho hai phi đội B.25 lúc 8 giờ 30 sáng, cùng trực chỉ Tokyo, trong khi Halsey ra lệnh cho hạm đội quay mũi lại nhanh chạy thoát về hướng căn cứ Mỹ, với tốc độ tối đa 25 hải lý mỗi giờ.

Ba trong số các oanh tạc cơ Mỹ nhận nhiệm vụ tấn công 3 thành phố lớn Kobe, Osaka và Hagoya ở Đông-Nam Tokyo. Tất cả số còn lại, bay thật thấp để tránh bị phát hiện và bay tới thủ đô Nhật lúc giữa trưa, ngay giờ tan sở, các công nhân viên chức rời nhiệm sở đi dùng cơm trưa, thì hàng loạt bom Mỹ rơi xuống đầu họ, một hành động trả thù cho vụ Trân Châu Cảng bốn tháng trước, ngay giữa lúc quân Anh - Mỹ đang thối lui trên khắp các mặt trận.

Một số bom Mỹ rơi trúng những cơ xưởng sản xuất đạn dược, nhà máy phát điện gây ra những đám cháy lớn, lực lượng phòng không Nhật bị bất ngờ chỉ phản ứng yếu ớt, kém hiệu quả. Các phi cơ Mỹ sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lập tức tháo chạy ra phía bờ biển Nhật, về hướng Tây Bắc Trung Quốc như đã được dự định, sau khi gây kinh hoàng cho người dân tại thủ đô Nhật.

Một chiếc B.25 Mỹ bắt buộc đáp xuống lãnh thổ Nga, một số khác đáp được an lành xuống vùng chiến khu thuộc Hồng Quân Trung Quốc của Mao Trạch Đông, nhiều chiếc khác rơi xuống những điểm cách xa nhau. Trong số 80 phi công tham gia cuộc đột kích này, có 9 người tử trận. Một người thiệt mạng khi nhảy dù ra khỏi máy bay, bốn người chết đuối khi phi cơ rơi xuống biển, một người khác chết trong một trại tù binh Nhật, và ba người khác là các trung úy Dan Hallmark, Will Farrow và Harold Spatz bị Nhật bắt cầm tù rồi bị một tòa án Nhật kết tội “chống lại nhân loại" và bị đem ra xử bắn, vì tội ném bom giết thường dân.

Cuộc không kích lần đầu tiên xuống thủ đô Nhật của không lực Mỹ là một đòn tâm lý đánh vào Bộ Tổng Tư lệnh Nhật. Chiếc tàu tuần Nhật trước khi bị tàu Mỹ đánh chìm, đã kịp thông báo với thượng cấp sự hiện diện của hạm đội Mỹ. Nhưng, người Nhật không tin là các oanh tạc cơ hạng nặng Mỹ có thể cất cánh từ một đường băng ngắn trên tàu sân bay. Một số tướng lãnh Nhật nghĩ rằng các phi cơ Mỹ bay đến từ đảo Midway, cách Tokyo 2.300 hải lý về phía Đông Tokyo.

Đại tá Doolittle cùng với số 71 nhân viên phi hành Mỹ còn sống, được người Trung Quốc và người Nga săn sóc sức khỏe trước khi giao lại cho không lực Mỹ. Đại tá Doolittle và toàn bộ số sĩ quan thuộc cấp đều được đặc cách thăng một cấp bậc. Riêng Doolittle, sau nhiều chiến công khác đã kết thúc cuộc chiến với cấp bậc đại tướng không quân, giống như trung tá Eisenhower từ cấp bậc trung tá ngày khai chiến 7.11.1941 đã thăng cấp đại tướng năm 1945.

Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM