Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 11:54:22 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ  (Đọc 118970 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #80 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2008, 08:09:14 pm »

Chúng ta đánh vào các nơi có dự trữ nhiều tranh bị kỹ thuật của địch, triệt phá phương tiện chiến tranh, đánh các sân bay, căn cứ hải quân, cơ sở vật chất hậu cần của chúng. Đây là sức mạnh, là “chỗ cậy” của những đội quân đi xâm lược, nhất là đối với đội quân viễn chinh Mỹ ở nam Việt Nam.

Trên hướng chính là các thành thị, chúng ta kết hợp chặt chẽ cách đánh của lực lượng tinh nhuệ (biệt động đặc công) từ trong trung tâm sào huyệt địch với cách đánh của các đơn vị chủ lực từ ngoài vào. Chúng ta kết hợp những mũi tiến công của lực lượng xung kích với những cuộc nổi dậy của quần chúng tại chỗ, vùng kế cận và những vùng nông thôn đông dân.

Đồng thời phải phân tán kéo chủ lực địch ra các chiến trường ta có chuẩn bị, thu hút giam chân và tiêu hao, tiêu diệt chúng. Chúng ta đã thành công trong việc kéo địch ra Khe Sang và đường số 9, hình thành một mặt trận đánh tiêu diệt lớn quân Mỹ. Làm như vậy để kẻ địch không phán đoán được ý định chiến lược của ta và tạo điều kiện cho các chiến trường khác nhất là các thành thị thực hành tiến công và nổi dậy. Đây cũng là một đòn tổng công kích, một hướng tiến công có lựa chọn của bộ đội chủ lực.
_____________
   
1. Binh thư yếu lược, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr. 171.

Phải giữ được bí mật tới cùng và chọn thời điểm hết sức bất ngờ đối với địch.
Thực tế gần hai năm đọ sức với quân viễn chinh Mỹ cho ta thấy: chúng thường luôn luôn bị bất ngờ với ta. Nhưng ta tạo bât ngờ cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy lần này là điều rất mới và khó hơn nhiều.

Phải kết hợp ba mặt quân sự, chính trị và ngoại giao trong điều kiện  lực lượng quân sự, chính trị của ta và đối sách lực lượng quân sự hai bên lúc đó, cách đánh này mới đạt hiệu quả chiến lược cao, tác động đến ý chí quân địch nhanh hơn, mạnh hơn tại chiến trường miền Nam và ngay cả trên nước Mỹ.
   
Phải nói rằng so với trước đây, cách suy nghĩ chiến lược này thực sự là một sáng tạo lớn trong tư duy quân sự. Đó là tư duy quân sự mới trong chỉ đạo chiến lược.
   
Nhưng muốn làm được điều đó, phải nghiên cứu giải quyết một loạt vấn đề rất phức tạp. Làm sao đưa được lực lượng người và vũ khí với quy mô lớn như vậy ém sẵn, lót sâu ngay sát sào huyệt địch, nơi được bảo vệ vòng trong, vòng ngoài dày đặc. Làm sao phát động được nhân dân kịp thời nổi dậy kết hợp với tiến công quân sự để nhanh chóng  đè bẹp sức phản kháng của địch. Làm thế nào giữ được bí mật hàng loạt địa bàn hoạt động trong khi cùng một lúc phải triển khai dồn dập, khẩn trương mọi công tác chuẩn bị cho một cuộc tổng tiến công và nổi dậy quy mô rộng lớn khắp miền Nam.
   
Trước hết la phải dựa vào nền móng vững chắc nhất của cách mạng và kháng chiến là nhân dân . Ta làm được, vì có thế làm chủ ở ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị. Mà có được như vậy là phải trải qua một quá trình vận động cách mạng nhiều năm từ trước đó. Đảng ta đã dày công xây dựng cơ sở cách mạng, cơ sở quần chúng đứng trong vùng sâu của địch kể cả trong những gia đình có quan hệ với chính quyền và quân đội nguỵ. Ta có vùng làm chủ sát nách địa bàn đóng quân và xen kẽ trong hệ thống căn cứ dày đặc của quân viễn chinh Mỹ. Đó là trận địa mạnh của chiến tranh nhân dân: trận địa lòng dân có tổ chức. Đó cũng chính là chỗ nhờ cậy của ta. Bí quyết “lấy dân làm gốc” là đây.
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #81 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2008, 08:13:01 pm »

Từ tháng 9, nhất là trong tháng 12 năm 1967 cả đến trung tuần tháng 1 năm 1968, đại diện lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường miền Nam Bộ (gồm cả cực Nam Trung Bộ), khu 5, mặt trận Tây Nguyên, Trị Thiên, mặt trận đường số 9 lần lượt ra báo cáo tình hình, thảo luận bổ sung kế hoạch chiến lược ở chiến trường mình. Đặc biệt, đại diện của Trung ương Cục miền Nam đã ra làm việc ba lần. Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí bí thư thứ nhất Lê Duẩn tham gia trực tiếp và cho nhiều ý kiến chỉ đạo quan trọng trong những cuộc họp nghe báo cáo và bàn bạc với cấp chỉ đạo các chiến trường.
   
Đầu tháng 12 năm 1967, Bộ chính trị Trung ương Đảng ta họp ra nghị quyết “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định”, đề ra nhiệm vụ trọng đại và cấp bách là: “động viên những nỗ lực lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”. Đó là nội dung Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 khoá III (tháng 1-1968) của Trung ương Đảng ta.
   
Cho tới ngày 21 tháng 1 năm 1968, mới chính thức quyết định thời gian bắt đầu khởi sự vào đúng đêm giao thừa Tết Mậu thân 1968.

*
*   *
   
Theo chỉ thị của Bộ chính trị, Quân uỷ Trung ương, cấp lãnh đạo và bộ tư lệnh các chiến trường khẩn trương tiến hành các công tác chuẩn bị để tạo lực, tạo thế cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, trong đó đặc biệt coi trọng công tác vận tải, bổ sung quân số và tăng cường trang bị vật chất, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang, nhất là các đơn vị chủ lực và binh chủng đặc biệt.
   
Từ cuối tháng 7 đến hết tháng 11 năm 1967, cán bộ cao cấp và trung cấp và trung cấp toàn quân lần lượt dự tập huấn. Qua học tập, cán bộ đã quán triệt tình hình nhiệm vụ, nhất trí và tin tưởng vào quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, thống nhất cả về tư tưởng và cách đánh.
   
Tháng 8 năm 1967, cuộc vận động “ nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, được triển khai trong toàn quân. Các sư đoàn thuộc lực lượng cơ động chiến lược được kiện toàn tổ chức, huấn luyện “chiến đấu hiệp đồng binh chủng và học tập chính trị, sẵn sàng lên đường tác chiến.
   
Việc chuẩn bị cơ sở hậu cần kỹ thuật cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy được chú trọng đặc biệt. Đoàn vận tải chiến lược Trường Sơn chấn chỉnh tổ chức, cải tiến công tác chỉ huy quản lý khâu vận chuyển. Cơ quan đoàn bộ được kiện toàn gọn nhẹ, hoạt động có hiệu suất cao. Do đó, tuy số quân chỉ tăng 30%, xe máy bổ sung mới đủ bù vào số bị tổn thất do máy bay địch đánh phá ác liệt, nhưng khả năng vận chuyển của đoàn tăng gấp ba lần so với mùa khô trước.
   
Trên tuyến vận tải hậu phương miền bắc, ta mở chiến dịch vận tải mùa mưa năm 1967 nhằm chủ động chuẩn bị sớm chân hàng cho đoàn vận tải chiến lược vào nam. Mặc dù máy bay, tàu chiến địch đánh phá ráo riết, thời tiết không thuận, chiến dịch đã hoàn thành vượt mức về tiếp nhận  hàng viện trợ từ ngoài vào, về vận chuyển hàng vào tuyến tền phương, chuyển quân và chuyển thương binh, bệnh binh.
   
Tháng 9 năm 1967, Chính phủ triệu tập hội nghị phòng không nhân dân miền Bắc, Hội nghị đã kiểm điểm rút kinh nghiệm các  mặt công tác tổ chức, báo động, đào hầm hố, che phòng, sơ tán, cứu chữa và khắc phục hậu quả địch đánh phá bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất, giữ gìn lực lượng sẵn sàng đối phó  với các bước leo tháng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
   
Các địa phương còn chuẩn bị sẵn sàng cả về tư tưởng và tổ chức đề phòng tình huống không quân Mỹ có thể đánh phá hệ thống đê điều của ta.
   
Quán triệt ý định và nhiệm vụ phải thực hiện, không để lỡ thời cơ, ngay sau thắng lợi mùa khô 1966-1967, quân và dân miền Nam đã khẩn trương làm những bước chuẩn bị cần thiết cả lực lượng và thế trận để tiến lên giành thắng lợi lớn lao.
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #82 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2008, 08:20:20 pm »

Trước hết, bước chuẩn bị tích cực nhất là phát triển thế chủ động tiến công, nhằm đẩy  địch lún sâu hơn nữa và thế phòng ngự bị động. Lực lượng chủ lực của ta đẩy mạnh tác chiến theo phương hướng tiến lên tiêu diệt gọn chiến đoàn, trung đoàn, lữ đoàn nguỵ. Chúng ta chuyển sang đánh mạnh vào các vùng ven và cả bên trong thị trấn, thị xã, đẩy mạnh hoạt động của các đội biệt động, đặc công trong các thành phố, làm cho hậu phương địch ngày càng thêm rối loạn, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh đấu tranh chính trị. Chú trọng phát triển cơ sở chính trị và vũ trang trong vùng đô thị, tạo hành lang và bàn đạp cho tiến công và khởi nghĩa đô thị khi có thời cơ. Trong vòng 3 tháng trước Tết Mậu Thân 1968, ta đã thu được hàng loạt chiến thắng giòn giã, trong đó có các chiến thắng Đắc Tô (Tây Nguyên), Hậu Nghĩa, Cái Bè (Mỹ Tho), Bà Chiểu (Tây Ninh), Quế Sơn (Quảng Nam), Phú Lộc (Thừa Thiên)... tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Khối chủ lực cơ động của cả quân Mỹ và quân nguỵ phải điều lực lượng đối phó với hàng loạt hoạt động đánh vừa và nhỏ liên tục của quân và dân miền Nam ta, nên chúng lâm vào tình trạng phân tán, căng thẳng thường xuyên.
   
Các quân khu tại miền Nam đã khẩn trương thực hiện việc tổ chức lực lượng, chuẩn bị chiến trường để đấp ứng những yêu cầu mới của trận quyết chiến lịch sử sắp đến. Quân khu Trị Thiên tổ chức lại để khu trực tiếp chỉ đạo các huyện, điều cán bộ bổ sung các huyện, nơ phong trào quần chúng còn yếu, phát triển mạnh cơ sở chính trị ở nội thành, ngoại thành Huế. Ngoài trung đoàn 6 chủ lực, quân khu Trị Thiên được tăng cường thêm trung đoàn 9 (sư đoàn 304) và sau ngày nổ súng tổng tiến công được tăng thêm trung đoàn 3 (sư đoàn 324) và trung đoàn 18 (sư đoàn 325).
   
Thành nội Huế thành lập đoàn đặc công K.1, K.2 củng cố và phát triển 14 đội biệt động.
   
Quân khu 5 tổ chức rút kinh nghiệm về chỉ đạo chỉ huy kết hợp công kích với khởi nghĩa đô thị, nhằm nâng cao hơn nữa khả năng tác chiến tập trung đánh tiêu diệt của bộ đội chủ lực, hiệu suất chiến đấu của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Các địa phương tổ chức dân quân, tự vệ thành từng đại đội đưa ra phái trước hình thành khối 2-3 đại đội, nhằm tiến đánh các quận lỵ, thị trấn.
   
Quân khu 7 và quân khu Sài Gòn - Gia Định hợp nhất và phân chia bàn thành 6 phân khu 1 . Bố trí lực lượng, kể cả chủ lực miền thành 5 mũi tiến công vào nội đô Sài Gòn. Phân khu 6 (các quận nội thành) có 11 đội đặc công, biệt động tổ chức thành  3 cụm: đông, nam và bắc. Các phân khu khác có 4-6 tiểu đoàn mũi nhọn hướng vào nội đô để phối hopự và tiếp ứng cho các đội đặc công, biệt động. Bộ đội chủ lực miền được tăng thêm lực lượng 1 làm nhiệm vụ tién công và ngăn chặn các sư đoàn Mỹ và quân nguỵ ở hướng bắc, tây - bắc và đông Sài Gòn bảo đảm phía sau cho các lực lượng biệt động tổ chức thành cụm được phân công đánh vào một số mục tiêu cơ quan đầu não của Mỹ và nguỵ quyền.

____________
   
1. Phân khu 1: Trảng Bàng, Dầu Tiếng, Bết Cát, Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp. Phân khu 2: Đức Hoà, Đức Huệ, Bến Thủ, Tân Bình, Bình Chánh. Phân khu 3: Châu Thành, Tân Trị, Cần Đước, Cần Guộc, Nhà Bè. Phân khu 4: Vũng Tàu, Bà Rịa, Nhơn Trạch. Phân khu 5: Tân Uyên, Phú Giáo, Lái Thiêu, Dĩ An, Thủ Đức. Phân khu 6: các quận nội thành.   

Các quân khu 6,8 và quân khu 9 tổ chức thêm nhiều tiểu đoàn và đại đội tỉnh, huyện bằng cách tập trung lực lượng dân quân tự vệ, động viên thêm tân binh và bố trí hướng vào các mục tiêu trọng điểm của quân khu. Hướng hoạt động của các chiến trường này là thực hiện tiến công quân sự kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của đồng bào ở các thành phố, thị xã, thị trấn, kết hợp hai chân, ba mũi cùng tiến công địch, mở rộng quyền làm chủ ở nông thôn.
   
Trên toàn miền diễn ra một khí thế phấn khởi, sôi nổi chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, nhằm tạo nên một bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhân dân vùng tạm chiếm chuyển gạo lên căn cứ và nhận vũ khí, thuốc nổ về cất dấu ở vùng ven sát thành phố, thị xã và ngay trong các thị xã, thị trấn bằng các con đường hợp nhất và bí mật cùng cán bộ và cơ sở nội thnàh tiến thành các mặt công tác tổ chức, chuẩn bị, cho quần chúng nổi dậy khởi nghĩa.
   ____________
   
1. Bộ đội chủ lực miền được tăng  cường thêm trung đoàn 88 của mặt trận Tây Nguyên, Trung đoàn 568 và 6 tiểu đoàn bộ binh, 2 trung đoàn pháo, 4 tiểu đoàn súng cối 82 ly, 2 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn và 1 đại đội thông tin, 2 đoàn đặc công, 1 đại đội súng phun lửa....   
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #83 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2008, 08:26:18 pm »

Tháng 9 năm 1967, đại hội anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng lần thứ hai họp, tuyên dương 47 anh hùng, cổ vũ toàn dân toàn quân thừa thắng xông lên giành thắng lợi to lớn hơn nữa, kiên quyết đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.
   
Quy mô chuẩn bị toàn miền, toàn diện rộng lớn trên nhiều hướng. Thế nhưng chúng ta đã giữ được bí mật, khiến cho Bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ không phát hiện, không nghĩ tới và đánh giá đúng được ý định chiến lược và kế hoạch hành động của ta.

Trong bối cảnh tình hình chuẩn bị khẩn trương và nô nức đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã  phác hoạ triển vọng thắng lợi và đề ra nhiệm vụ cho quân và dân cả nước trong mùa xuân 1968 qua lời chúc mừng năm mới của Người gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước ngày 1 tháng 1 năm 1968:
      
               
“Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
      Thắng trận tin vui kắp nước nhà
      Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
      Tiến lên, toàn thắng ắt  về ta!”.
            
         
*  *
*

Ta chủ trương mở hoạt động lớn ở mặt trận đường số 9, Khe Sanh, xem đó là một trong những mặt trận của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1968, là một đòn chính của bộ đội chủ lực ta nhằm thu hút quân cơ đông của Mỹ, tiêu diệt một bộ phận, vây hãm và giam chân tiêu hao chúng tạo thế cho các chiến trường khác, nhất là Sài Gòn - Huế - Đà Nẵng tiến công và nổi dậy thắng lợi.

Ngày 6 tháng 12 năm 1967, bộ tư lệnh và đảng uỷ mặt trận đướng số 9, được đặt dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ tổng tư lệnh và Quân uỷ Trung ương. Đây là lần đầu tiên mặt trận đường số 9 tập trung một lực lượng lớn, có nhiều binh chủng tham gia 1.

Để thu hút và giữ chân lực lượng địch, ta nổ súng tiến công trước và Khe Sanh, và hầu hết các vị trí địch trên đường số 9 trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 1 năm 1968. tướng Mỹ Oét-mo-len vội vã tăng cường lực lượng chống giữ và cho không quân ném bom dữ dội Khe Sanh và khu vực giới tuyến. Bộ chỉ huy Mỹ ở nam Việt Nam và cả Nhà trắng, Lầu năm góc Mỹ hết sức chăm chú theo dõi diễn biến của mặt trận Khe Sanh. Giới nghiên cứu chiến lược  Mỹ và Bộ quốc phòng Mỹ tính tới khả năng ta có thể tập trung lực lượng tạo ra “một cái giống như Điện Biên Phủ” ở Khe Sanh. Cách đánh ở đây rất quyết liệt giống như cách đánh ở Điện Biên Phủ làm cho địch cho rằng ta sẽ tiêu diệt Khe Sanh, dứt điểm ở Khe Sanh như Điện Biên Phủ.

Ta đã tiêu diệt cứ điểm Làng Vây ngày 7 tháng 2 năm 1968, quét địch ra khỏi Huội San, giải phóng miền tây Hương Hoá, bảo vệ vững chắc hành lang chiến lược của ta. các đơn vị chủ lực ta đã thực hiện bao vây đánh dấu và uy hiếp mạnh mẽ Khe Sanh, khiến cho sau 170 ngày đêm bị vây hãm, lính thuỷ đánh bộ Mỹ bị tiêu hao nặng, đã buộc phải bỏ Khe Sanh rút chạy trong ngày 9 tháng 7 năm 1968.

Trong suốt một thời gian dài nhiều tháng, mặt trận đường số 9 đã giam chân một nửa lực lượng của Mỹ (17/33 lữ đoàn) thu hút sự chú ý của địch ra vùng giới tuyến, buộc chúng phản phân tán lực lượng trên nhiều khu vực chiến trường. Hành động này của ta đã góp phần tạo nên yếu tố bất ngờ và điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta ở các mặt trận khác trên toàn miền tiến công quân địch, đặc biệt trong quá trình diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.
_____________
   
1. Gồm 4 sư đoàn và 1 trung đoàn bộ binh, 1 đoàn và 5 đội đặc công, 4 trung đoàn và 1 tiểu đoàn pháo binh, 3 trung đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 4 đại đội xe tăng, 1 đại đội súng phun lửa.
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Tư, 2008, 08:38:21 pm gửi bởi thanhlong » Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #84 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2008, 08:31:32 pm »

Trên chiến trường nước bạn Lào, từ ngày 12 đến ngày 27 tháng 1 năm 1968, quân đội Pa-thét Lào và quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch Nậm Bạc thắng lợi 1. Chiến thăng Nậm Bạc có ý nghĩa to lớn, toàn diện cả về quân sự và chính trị đối với cách mạng Lào cũng như đối với thời gian ngắn, địch bị mất 1/3 lực lượng cơ động chiến dịch, chiến lược, làm cho lực lượng so sánh thay đổi nhanh chóng có lợi cho cách mạng Lào, giải phóng một vùng chiến lược quan trọng. Chiến thắng này đi trước và phối hợp nhịp nhàng với cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền nam.

Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968, các lực lượng vũ trang và nhân dân miền Nam đã mở đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đặc biệt là ở sài Gòn, Huế và các đô thị khác ở miền Nam.

Tại Tây Nguyên, ta đồng loạt tiến công và nổi dậy ở Buôn Ma Thuột, Plây-cu, Kon-tum. Chiến trường đồng bằng khu 5, ta đồng loạt tiến công Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang. từ đêm 31 tháng 1 năm 1968, những địa phương còn lại của khu 5 (như Quảng Nam, Quảng Ngãi....) bắt đầu cuộc tiến công và nổ dậy cùng với các thành phố Sài Gòn, Huế và các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, cực nam Trung Bộ.
____________

   1. Nậm Bạc là một huyện thuộc  tỉnh Luông Pra-bang, vùng Tây - Bắc thượng Lào, tiếp giáp với hậu phương Tây Bắc nước ta . Kết quả của chiến dịch : loại khỏi chiến đấu 3.189 tên địch, tiêu diệt 6 tiểu đoàn, đánh thiệt hai 5 tiểu đoàn khác, thu 1.349 súng các loại, phá 9 pháo 105mm, 2 sơn pháo 75,12 máy bay, bắn rơi 1 máy bay T-28 và 1 máy bay lên thẳng, giải phóng khu vực Nậm Bạc có trên 1 vạn dân,  quét sạch các ổ phỉ, thu hồi toàn bộ vùng bị địch lấn chiếm từ giữa năm 1966.

Hầu hết các mục tiêu quan trong của địch đều bị quân và dân ta tiến công. Bốn tư lệnh quân đoàn, 11/11 bộ tư lệnh sư đoàn, hầu hết các ban chỉ huy tiểu khu, lữ đoàn Mỹ, 45 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần địch bị đánh. Nhiều nơi bị đánh đi đánh lại nhiều lần, trong đó có những sân bay lớn như Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, Đà Nẵng, Chu Lai và nhiều tổng kho lớn như Long Bình, Nhà Bè, Liên Chiểu, Đà Nẵng, Chu Lai, Phú Bài, Huế, Plây-cu, Buôn Ma Thuột, Quy Nhơn, Sóc Trăng....

Ta đã đánh vào hầu hết các thành phố, thị xã lớn ở miền Nam, làm chủ nhiều nơi trong nhiều ngày, nhiều giờ. Tại thành phố Đà Nẵng, một đơn vị của ta tiến công đánh thẳng vào bộ tư lệnh quân đoàn . Quân ta bị chặn lại ở hàng rào ngoài của sở chỉ huy quân đoàn địch, không thực hiện được kế hoạch như đã định. Ở Huế, ta đã đồng loạt tiến công nhiều mục tiêu trong thành phố, chiếm khu Đại Nội, làm chủ thành phố 25 ngày đêm, tổ chức đánh hàng trăm trận phản kích của địch, đạt mục tiêu và hoàn thành thắng lợi lớn nhiệm vụ của địa phương trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.

Đặc biệt là tại Sài Gòn, ta đã đồng loạt tiến công nhiều cơ quan đầu não của Mỹ và chế độ nguỵ gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Oa-sinh-tơn và tạo nên tiếng vang mạnh mẽ  trên thế giới.

Ngay giờ phút đầu, các đội đặc công, biệt động thành phố đã nổ súng đánh địch và chiếm giữ nhiều giờ đại sứ Mỹ, một phần dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu quân đội nguỵ ở cổng số 4 và số 5, đài phát thanh Sài Gòn. Cũng đêm đó, du kích, các nhóm vũ trang và các tổ chức quần chúng cách mạng  chiếm lĩnh các xóm lao động. Các tiểu đoàn mũi nhọn và địa phương tiến công và làm chủ trại thiết giáp “Phù Đổng”, trại pháo binh “Cổ Loa” phá huỷ nhiều pháo và xe cơ giới, xưởng quân cụ, chiếm trung tâm huấn luyện Quang Trung, một vài khu vực phía tây sân bay Tân Sơn Nhất, phá một số máy bay, làm chủ nhiều ngày  khu Bình Hoà, ngã ba Cây Thị, trường nữ quân nhân Sài Gòn.... Ta làm chủ khu vực giáp ranh giữa các quận 5, 6, 10 và 11,8, khu Minh Mạng, Ấn Quang, khu chợ Thiếc, khu cầu chữ Y, Cầu Muối, Bầu Sen, Hàng Xanh, Thị Nghè, Trương Minh Giảng.... Nhân dân nổi dậy ở nhièu nơi như quận 7,8, ngã ba Hàng Xanh, ngã năm Bình Hoà, chợ Trần Quốc Toản, khu vực trường đua Phú Thọ, Gò Vấp, Cầu Tre, Phú Lâm....
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #85 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2008, 08:41:58 pm »

Sát nách Sài Gòn, các tỉnh lỵ Biên Hoà, Tây Ninh đều bị quân ta tiến công dồn dập.

Ở đồng bằng Nam Bộ, các mũi tiến công quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng trên quy mô lớn đã phá rã phần lớn bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng hầu hết vùng nông thôn cho tới sát thị xã, thị trấn. Ta đã làm chủ một số ngày các thị xã Cà Mau, Trà Vinh, Mỹ Tho, Bến Tre, An Giang, chiếm một số mục tiêu trong các thị xã khác như Kiến Phong, Kiến Tường, Vĩnh Long, Cần Thơ, Bạc Liêu, Kiến Giang...

Trong cuộc tiến công vào thành phố, thị xã, thị trấn, bộ đội ta đã được sự ủng hộ và đón tiếp nồng hậu của nhân dân. Những anh em bị lạc đơn vị hoặc bị thương được nhân dân che chở, nuôi dưỡng tận tình và tổ chức đưa về căn cứ.

Phối hợp với cuộc tiến công vào đô thị của lực lượng vũ trang nhân dân và du kích, đồng bào nổi dậy diệt ác, trừ gian, giải tán dân vệ, giành quyền làm chủ xã, buôn, làng. Ở nhiều nơi, lực lượng chính trị quần chúng tổ chức thành đội ngũ, kéo vào thị xã, thị trấn, sẵn sàng cùng nhân dân tại chỗ nổi dậy giành chính quyền (Quảng Ngãi, Buôn Ma Thuột, Bến Tre, Mỹ Tho).

Nhưng do tiến công quân sự của ta chưa đủ mạnh, chưa đủ sức thu hút, ngăn chặn, kiềm chế địch, hệ thống tổ chức chỉ huy của địch từ trên xuống dưới tuy bị đòn choáng váng nhưng chúng đã nhanh chóng khôi phục lại và ra sức đối phố quyết liệt, đẩy lùi các cuộc tiến công, dùng bom đạt thẳng tay đàn áp quần chúng tay không . Chiến sĩ và đồng bào ta tổn thất  lớn. Đặc biệt nhiều đơn vị, tổ, đội đặc công, biệt động, mũi nhọn của cuộc tiến công vào hệ thống đô thị đã chiến đấu cực kỳ dũng cảm kiên cường, hy sinh đến người cuối cùng, vì thắng lợi của trận quyết chiến lịch sử này.

Mục tiêu khởi nghĩa ở các địa phương không đạt. Trên thực tế không có tổng khởi nghĩa. Sau này, dư luận Mỹ và phương Tây phân tích đánh giá nói rõ thêm rằng cuộc khởi nghĩa đô thị không thành công, không chỉ vì hoả lực điên cuồng của Mỹ, mà còn vì những điều kiện tiến quyết về chính trị chưa xuất hiện và vì những người cảm tình với cách mạng, tuy rất nhiều, nhưng chưa sẵn sàng.

Tuy nhiên, trong lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trừ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 toàn thắng sau này, chưa có cuộc động binh và huy động lực lượng quần chúng nào có quy mô lớn và khí thế cao như những ngày Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Ta đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ và quân nguỵ, làm tan dã từng mảng lớn quân đội tay sai 1 .

Ta đã giải phóng được nhiều thôn, ấp, phường, đường phố gồm 120 vạn dân 2 .
_____________
         
1. Gần 15 vạn quân nguỵ và 4 vạn ba nghìn binh lính Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu, 20 vạn quân nguỵ đào rã ngũ trong những ngày Tết, một khối lượng rất lớn phương tiện chiến tranh của chúng bị phá huỷ, trong số đó có đến 1.368.000 tấn vật tư chiến tranh, chiếm 34% dự trữ vật tư chiến tranh của địch.
         
2. Chỉ trong vòng 20 ngày đầu tháng 2 năm 1968, ta phá thêm được 1.500 ấp/ 2.300, giành quyền làm chủ xây dựng chính quyền cách mạng, mở rộng và củng cố hậu phương của ta.
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #86 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2008, 08:46:31 pm »

Trong khi lực lượng Mỹ - nguỵ, quân chư hầu lên tới 1 triệu 20 vạn quân1, nắm trong tay những phương tiện chiến tranh hiện đại, đứng chân trên những căn cứ được phòng thủ vững chắc, thì quân và dân miền nam ta tiến công vào tận những căn cứ đầu não của chúng trên toàn miền, giành được thắng lợi to lớn vẻ vang chưa từng có.
         
Chúng ta đã tiến hành các bước chuẩn bị rất công phu, đã chọn thời điểm Tết Nguyên đán là lúc địch có nhiều sơ hở, đã giữ được bí mật trong suốt quá trình chuẩn bị, nên đã tận dụng được và phát huy cao độ yếu tố bất ngờ. Dư luận chính giới Mỹ đã xác nhận, “trong cuộc chiến tranh đó tạo ra quá nhiều sự bất ngờ, không có sự bất ngờ nào làm cho mọi người sửng sốt nhiều hơn cuộc tiến công Tết, đặc biệt là cuộc tiến công tiêu biểu nhằm vào đại sứ Hoa Kỳ, một cơ quan đã từng tuyên bố quá nhiều lần tình hình tồi tệ nhất đã qua rồi”2 .
           
Và tướng Mỹ Oét-mo-len đã nghĩ rằng trận Điện Biên Phủ của Hoa Kỳ là căn cứ Khe Sanh..... nhưng trận Điện Biên Phủ thật sự lại là  cuộc tiến công vào Tết Mậu Thân 3 .
           
Chỉ trong vòng vài tuần lễ, chúng ta đã thắng lớn buộc địch phải co lực lượng về giữ các thành phố, thị xã, bảo vệ các căn cứ chủ yếu của chúng và tổ chức phản kích quyết liệt để giành lại những mục tiêu bị quân cách mạng đánh chiếm.
______________

         1. Chưa tính 12 vạn quân Mỹ gián tiếp tham chiến, gồm 22 sư đoàn, 18 trung đoàn, 278 tiểu đoàn.
         2. Michael Maclear: “Việt Nam: The ten thousand day war (Cuộc chiến tranh nười ngàn ngày”, Thames Methuen, New York, 1981, tr. 427.
         3. Leslie Gelb, Richard Betts: Một trường hợp mỉa mai trong chiến tranh Việt Nam: Guồng máy điều hành công việc của Mỹ đã có hiệu quả.

         
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 chứng tỏ rằng quân và dân miền Nam chẳng những có thế trận vững chắc ở rừng núi, nông thôn, đồng bằng, mà còn có khả năng đưa chiến tranh vào tận những cơ quan đầu não quan trọng nhất của Mỹ - nguỵ tại các thành thị, gồm cả Sài Gòn - Chợ Lớn.
         
Trong suốt hai tháng đầu Xuân Mậu Thân (từ 30 tháng 1 đến cuối tháng 3 năm 1968) liên tục tiến công quân địch trên khắp miền Nam, quân và dân miền Nam đã tỏ ra có sức chiến đấu bền bỉ. Giới cầm quyền Oa-sinh-tơn đã kinh ngạc trước sức mạnh tiềm tàng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.
         
Sau đó, chiến sự tạm lắng xuống. Chúng ta tranh thủ thời gian chấn chỉnh, củng cố lực lượng để chuẩn bị tiến hành những đợt hoạt động tiến công mới.

Ngày 24 tháng 4 năm 1968, Bộ chính trị Đảng ta đã họp và nhận định rằng bước đầu thực hiện cuộc tổng tiến công và nổi dậy, ta đã thu được thắng lợi to lớn và toàn diện tạo nên một bước ngoặt mới để tiến lên giành thắng lợi quyết định cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Bộ chính trị đề ra phương hướng nỗ lực nhằm động viên toàn Đảng, toàn dân, phát triển tiến công toàn diện, đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp.

Trong khi đó, quân địch vẫn tiếp tục bị hãm trong tình trạng lúng túng, bị động đối phó. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn thừa nhậ rằng sau “đòn choáng váng”, phía Mỹ bị “bối rối trong một thời gian”.

Sau khi đến miền nam Việt Nam để đánh giá tình hình tại chỗ rồi về Mỹ, ngày 27 tháng 2 năm 1968, tướng Uy-lơ, chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ xác nhận rằng phía Mỹ và chế độ nguỵ bị tổn thất nặng phải tiếp tục ở vào thế thủ, nằm phòng giữ các thành phố và thị trấn, trong khi “chương trình bình định nông thôn bị đẩy lùi nghiêm trọng”.
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #87 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2008, 08:49:51 pm »

Từ nửa tháng 3 năm 1968 trở đi, do áp lực của phía ta giảm dần, quân Mỹ và quân nguỵ tranh thủ mở một số cuộc hành quân giai toả  nhằm đẩy lực lượng ta ra xã vùng chung quanh các thành phố, thị trấn và dùng không quân đánh phá ác liệt các đường hành lang vận chuyển của chúng ta.
Quân và dân miền nam mở đợt tiến công thứ hai bắt đầu từ ngày 4 tháng 5 năm 1968. Mặc dù hai phần ba lực lượng Mỹ và toàn bộ lực lượng tổng trù bị quân nguỵ đã được tập trung về cố thủ tại các thành phố lớn, nhất là chung quanh Sài Gòn., quân và dân  ta đã đánh vào 30 thành phố, thị xã, 70 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, 27 bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn, 40 sân bay, kho tàng quan trọng..... Ta đã đánh mạnh tại Sài Gòn, tiến công vào Tổng nha cảnh sát, toà đô chính, khu nhà ở đại sứ quán Mỹ, dinh thủ tướng nguỵ, đài phát thành, đài vô tuyến truyền hình, bám trụ đánh phản kích, tiếp tục gây cho địch nhiều thiệt hại.

Phối hợp chặt chẽ với Nam Bộ, quân và dân khu 5, Tây Nguyên tiến công vào các thành phố, thị xã như Đà Nẵng, Hội An, Quảng Ngãi, Đà Lạt, Phan Thiết, trong những ngày 4 và 5 tháng 5 năm 1968. Quân và dân Quảng Nam đánh bại cuộc hành quân giải toả của địch ven sông Thu Bồn từ ngày 5 đến ngày 24 tháng 5 năm 1968.

Trên chiến trường Trị Thiên, đường số 9, sau khi rút khỏi Huế, ta vừa tiếp tục vây hãm thành phố Huế và cụm quân Mỹ ở Khe Sanh vừa đánh chặn các cuộc hành quân của Mỹ và quân nguỵ do sư đờn 1 kỵ binh bay của Mỹ làm nòng cốt tại vùng đồng bằng và rừng núi, đặc biệt ở khu vực đường số 9 và thung lũng A Sầu.

Cuộc tiến công đợt hai đã gây cho địch thêm một số thiệt hại và chứng minh rằng quân và dân ta có khả năng tiến công vào những nơi cố thủ chủ yếu của Mỹ - nguỵ trên toàn lãnh thổ miền Nam ngay trong những điều kiện chúng đã tập trung lực lượng về bảo vệ và đối phó.

Tại nước Mỹ, nội bộ chính quyền Gion-xơn càng thêm phân hoá, chia rẽ sâu sắc hơn. Luận điệu “thua chỉ vì bất ngờ” và lực lượng phía ta “đã bị kiệt quệ” mà giới cầm quyền Mỹ đưa ra nhằm bào chưa cho thất bại của họ trong dịp Tết Mậu Thân và nhằm thúc giục tổng thống Giôn-xơn “kiên nhẫn hơn nữa” đã bị bác bỏ.

Từ giới cầm quyền Oa-sinh-tơn đến công chúng Mỹ đều được đặt trước một thực tế: tiềm lực kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta dồi dào, phía ta có thể liên tục bổ sung cho những tổn thất, khôi phục sức chiến đấu để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi lớn hơn.
Tháng 8 năm 1968, Bộ chính trị Trung ương Đảng họp và quyết định tiếp tục “đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa” làm cho địch thất bại trên chiến trương, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ”.

Thực hiện chủ trương trên của Bộ chính trị, quân và dân miền nam khẩn trương mở đợt tiến công thứ ba từ ngày 17 tháng 8 đến ngày 30 tháng 9 năm 1968 đánh đồng loạt vào 27 thành phố, thị xã, hơn  100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, 17 sân bay, 3 kho và 6 bộ tư lệnh sư đoàn của địch. Ở Sài Gòn, ta tiến công nhà quốc hội và Bộ trưởng tham mưu nguỵ, đồng thời tiến công vào một loạt căn cứ địch như lữ đoàn 2, sư đoàn 25 ở Trảng Lớn, Tum, đài truyền tin của Mỹ ở núi Bà Đen, căn cứ Mỹ ở Chà Là, Bến Củi, vị trí sư đoàn 1 bộ binh Mỹ ở Lộc Ninh,....

Ở Nam Bộ, ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phá huỷ nhiều phương tiện  chiến tranh. Ở khu 5, tại Đà Nẵng ta đánh bộ chỉ huy đặc khu, đại phát thanh, sân bay, căn cứ địch ở núi Non Nước, bán đảo Sơn Trà, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, đánh thiệt hại 2 trung đoàn cơ động nguỵ, một bộ phận sinh lực của sư đoàn A-mê-ri-cơn Mỹ. Ở mặt trận đường số 9, bắc Quảng Trị, trong hơn 5 tháng, ta đã tiến công Khe Sanh 4 đợt liên tục: từ ngày 21 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1968: tiêu diệt chi  khu quân sự Hương Hoá và cứ điểm Làng Vây; từ ngày 8 tháng 2 đến ngày 31 tháng 3: vây hãm cụm cứ điểm Tà Cơn; tháng tư, đánh bại cuộc hành quân giải vây mang tên “ngựa bay” của sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ ; từ tháng 5 đến ngày 9 tháng 7 năm 1968 tiếp tục vây hãm và đánh quân địch rút chạy.
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #88 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2008, 01:41:40 pm »

Quân Mỹ đóng ở khu vực Khe Sanh lên đến gần 1 vạn, gồm 4 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, các lực lượng pháo binh, thiết giáp và bảo đảm phục vụ cùng hàng vạn quân khác sẵn sàng và không quân, kể cả máy bay chiến lược B52. Tướng Oét-mo-len đã nhiều lần nhấn mạnh vị trí quan trong của khu vực Khe Sanh, xem đây là chiếc lá chắn bảo vệ sườn phía tây các thị trấn Đông Hà, Quảng Trị và hành lang dọc bờ biển đến Huế, đồng thời cũng là một bàn đạp thuận lợi để từ đấy quân Mỹ có thể uy hiếp hành lang vận chuyển bắc nam của chúng ta. Mặt khác, ông còn xem đây là địa điểm đọ sức trực diện giữa một bộ phận chủ lực của ta và địch để phía Mỹ chứng minh với thế giới rằng “không thể có một Điện Biên Phủ” đối với quân đội viễn chinh Mỹ tại miền nam Việt Nam. Thế nhưng, trước áp lực mạnh mẽ của quân ta, lực lượng Mỹ chiếm đóng khu vực Khe Sanh ngày càng lâm vào tình cảnh khốn quẫn và đứng trước nguy cơ thật sự có thể bị tiêu diệt. Cuối cùng, ngày 26 tháng 6 năm 1968, Bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ phải ra thông báo rút bỏ căn cứ Khe Sanh. Quân ta tuy có bộ phận bám sát chặn đánh bọn địch rút chạy bằng đường bộ, khống chế sự vận chuyển bằng đường không, song  do nắm tình hinh địch không chắc, vây không chặt, kế hoạch đánh địch rút chạy chuẩn bị chưa tốt, nên đã để lỡ thời cơ tiêu diệt thêm quân Mỹ. Đến ngày 9 tháng 7 năm 1968, ta hoàn toàn giải phóng Khe Sanh1 .

Tại mặt trận đướng số 9 bắc Quảng Trị, chúng ta đã điều địch đến một khu vực chiến trường mà ta đã chuẩn bị sẵn chỗ đứng chân vững chãi dựa vào hậu phương miền bắc. Ta đã đưa vào đây những lực lượng cần thiết để vây hãm và đánh cho quân địch bọ tổn thất nặng.

Lần đầu tiên trong cuộc chiến tranh Việt Nam, trong một cuộc đọ sức diện đối diện giữa một bộ phận quân chủ lực ta và một phần chủ lực thuộc quân đội viễn chinh Mỹ, tại một địa điểm do phía Mỹ tự dấn thân vào, họ đã phải công khai chịu thua và rút chạy. Viễn  cảnh bị đánh bại về quân sự tại Việt Nam đã hiện ra rõ nét trước mắt giới cầm quyền Oa-sinh-tơn và giới quân sự Mỹ.

Phải rút chạy khỏi Khe Sanh, tuyến phòng thủ đường số 9 của Mỹ và quân đội nguỵ đã bị vỡ trên một mảng lớn từ Lao Bảo đến Cà Lu khoảng 40 ki-lô-mét. Sáng kiến “căn cứ hoả lực” mà tướng Oét-mo-len đề xuất đã không vượt được qua bước thử nghiệm thực tiễn, đã làm lung lay tận nền móng chiến lược phòng ngự của Mỹ tại miền nam Việt Nam. Đặc biệt thất bại của quân viễn chinh Mỹ tại Khe sang đã diễn ra trong bối cảnh thất bại chung của Mỹ và nguỵ quyền trên lãnh thổ miền nam trước những đòn liên tiếp của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và các đợt tiến công tiếp theo.
_____________
         
1. Kết quả sau 170 ngày tiến công vây hãm và đánh quân địch rút chạy khỏi Ke Sanh, ta đã tiêu diệt 17.000 tên địch (có 13.000 tên Mỹ), bắn rơi và phá huỷ 480 máy bay, 120 xe quân sự, 65 đại bác và súng cối cỡ lớn, 55 kho, thu hành ngàn súng các loại, hàng trăm tấn đồ dùng quân sự và lương thực, giải phóng hoàn toàn quận Hương Hoá với 1 vạn dân.

Tình hình chiến sự tại miền nam đến ngày 30 tháng 9 năm 1968 đã đạp tan ảo tưởng chuyển bại thành thắng của Oa-sinh-tơn, từ Giôn-xơn đến những cố vấn “diều hâu” của tổng thống Mỹ, đẩy họ phải đi đến một chuyển hướng chiến lược đối với cuộc chiến tranh Việt Nam.

Sau khi Giôn-xơn quyết định chuyển hướng từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” tại miền nam Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra trong thư gửi Giôn-xơn ngày 20 tháng 7 năm 1967, được các tướng Uy-lơ, Tay-lơ, Oét-mo-len và đô đốc Sác-pơ (tư lệnh quân đội Mỹ ở vùng Thái Bình Dương) tán thành, kiến nghị: “tiến hành một đường lối kết hợp quân sự, chính trị một cách tích đánh, đúng mức, để đạt một kết quả có thể chấp nhận được trong thời gian hợp lý ở nam Việt Nam”. Thời gian hợp lý đó là thời gian đã được tính toán trong kế hoạch ba giai đoạn mà tướng Oét-mo-len đã thảo ra, tức là từ hai đến hai năm rưỡi (từ giữa năm 1965 đến giữa hoặc cuối năm 1967) để vào cuối giai đoạn ba, sau khi đánh bại lực lượng kháng chiến của ta, quân viễn chinh Mỹ và chư hầu sẽ bắt đầu rút khỏi miền nam Việt Nam.

Thế nhưng, đúng vào lúc thời hạn được dự kiến cho chiến thắng đó đã kết thúc thì cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta bùng nổ. Điều đó đã chứng minh rằng sau “thời gian hợp lý” từ hai năm đến hai năm rưỡi mà Oa-sinh-tơn đã tính toán đó, sức mạnh quân sự và chính trị của quân và dân ta tại miền nam Việt Nam chẳng những không bị đè bẹp mà trái lại đã phát triển đến một trình độ mới trên toàn miền.
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
thanhlong
Thành viên
*
Bài viết: 199



« Trả lời #89 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2008, 01:47:23 pm »

Thời gian chiến lược đã không nghiêng về phía quân đội viễn chinh Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 đã gây nên cơn choáng váng đột ngột trong giới cầm quyền Oa-sinh-tơn đẫn đến cuộc đảo lộn nghiêm trong trên sân khấu chính trị nước Mỹ vào giữa năm 1968 và tạo ra một bước ngoặt, một cục diện mới của chiến tranh tại Việt Nam. Khả năng của quân và dân ta vạch kế hoạch chuẩn bị và thực hiện đến những chi tiết cụ thể cuộc tiến công và nổi dậy trên quy mô rộng lớn toàn miền và với sức mạnh như thế đã làm cho giới cầm quyền nước Mỹ bàng hoàng kinh ngạc.

Trong nội bộ chính quyền Giôn-xơn mâu thuẫn giữa nhóm chủ trương tiến hành chiến tranh đến cùng và nhóm chủ trương tìm lối thoát quan thương lượng hoặc qua một biện pháp dung hoà nào đó càng trở nên gay gắt hơn. Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trong nhân dân Mỹ có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ và sâu rộng trên toàn lãnh thổ nước Mỹ.

Những đòn đau và hiểm giáng xuống quân đội viễn chính Mỹ gây cho Mỹ và nguỵ quyền những thiệt hại nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm đảo lộn thế trận chiến lược của chúng, đẩy chúng càng đi sâu vào thế phòng ngự bị động. cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền nam ta đã đồng thời gây nên một cơn chấn động trong giới cầm quyền Oa-sinh-tơn làm lung lay ý chí của những người cầm đầu Nhà trắng và Lầu năm góc. Thắng lợi chiến lược rất cơ bản của chúng ta thu được trên chiến trường miền Nam đã tác động mạnh mẽ đến quyết tâm của những cơ quan đầu não của đế quốc Mỹ tại Oa-sinh-tơn chỉ đạo cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Điều này có ảnh hưởng quan trọng đến sự chuyển biến thái độ của một số người trong chính quyền Giôn-xơn và đến những quyết định của họ.

Nhà sử học Mỹ Ga-bơ-ri-en Côn-cô đánh giá: “ cuộc tiến công của cách mạng đã thành công với mức độ trọng yếu trong tất cả các mục tiêu lớn ban đầu của mình, trừ cuộc khởi nghĩa đô thị không thành công” và “tác động quyết định nhất của cuộc tiến công Tết cho thấy rõ rằng thực tế Mỹ đang đứng trước một cuộc khủng hoảng tiềm tàng và nghiêm trọng”1. Sâu xa hơn, ông còn ghi nhận: “Việt Nam đã trở thành cuộc chiến ngoài nước đầu tiên của Mỹ kể từ năm 1882, đã gây ra cuộc khủng hoảng xã hội, nội bộ sâu sắc và một sự phân hoá về chính trị.... Việt Nam làm trầm trọng thêm nhiều vấn đề của chủ nghĩa tư bản Mỹ chứ không phải làm cho  chúng nhẹ bớt. Trong cơn chấn thương kéo dài của mối quan hệ chủng tộc, cuộc chiến tranh này càng trở nên tiêu điểm của sự phản đối và bất đồng của hàng triệu người”2.

Để đưa cuộc kháng chiến kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi cuối cùng, trước hết chúng ta phải chứng minh bằng thực tiễn chiến trường cho đế quốc Mỹ thấy rằng “sức mạnh quân sự Hoa Kỳ” là có hạn và không phát huy được hết hiện thực trước sức mạnh tổng hợp của quân và dân cả nước ta.

Trong bối cảnh tình hình thế giới và tình hình nước Mỹ vào cuối thập kỷ 60, trước những yêu cầu của chiến lược toàn cầu của Mỹ, giới cầm quyền Oa-sinh-tơn phải tính toán từng ngày, từng tháng về thời gian kéo là của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 của quân và dân miền nam đã chấm dứt ảo tưởng “đánh nhanh, thắng nhanh” của chính quyền Giôn-xơn và đặt ra trước quân đội viễn chính Mỹ triển vọng” một cuộc chiến tranh kéo dài không bao giờ dứt”, điều mà phái Mỹ không thể nào chịu đựng nổi.

Chúng ta đã nắm vững được quyền chủ động trong việc sử dụng nhân tố “thời gian chiến lược”, một lĩnh vực được xem là nhược điểm cơ bản của những đạo quân xâm lược nói chung và của đội quân viễn chinh Mỹ nói riêng. Đồng thơi, đây cũng là kết quả của nghệ thuật quân sự của ta nắm quyền chủ động trong việc sử dụng nhân tố “ không gian chiến lược”.Thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam đã tạo cho chúng ta khả năng đánh thắng quân địch tại bất cứ nơi nào, bất ngờ thọc sâu vào cả những nơi được địch xem là được bảo vệ vững chắc trong vùng chúng “kiểm soát”. Ta đã đánh với cách mà địch không thể nghĩ rằng đối phương lại có thể làm được.
___________
         
1,2 . Gabriel Kolko: Sách đã dẫn.
Logged

Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM