Sáng 8 tháng 6, tiếp tục đi, qua đèo 110 khá nguy hiểm. Con đường nhỏ, vắt qua những ngọn núi cheo leo, một bên là vực sâu, một bên là vách núi đá thẳng đứng. Mỗi khi vượt dốc cao, xe thở hì hục. Có lúc sang số không kịp, xe tụt lại xuống ngầm. Ngồi trên xe mà rợn người. Qua ngã ba đường 22A, 22B, tới cây số 114, qua ba-ri-e 94. Hỏi thăm được biết, chiếc xe kéo pháo bị hỏng vẫn nằm ở cây số 63.
Buổi trưa xe dừng lại, nấu cơn ăn bên bờ suối, cạnh một trạm công binh. Nhiều xác xe hỏng rải rác dọc đường. Những máy ủi đất đang hì hục san nền cho một con đường mới, phẳng phiu rộng 12 mét, đất đỏ lầy lội, hai bên có rãnh.
Buổi chiều, tới trạm ba-ri-e 63, gọi nhờ điện thoại được biết chiếc xe hỏng đang ở trạm trung tu của Trung đoàn công binh. Các đồng chí đi nhờ xe xuống trạm giao liên, còn chúng tôi thì cùng với xe vào trạm trung tu. Từ đây ra đường 9 còn khoảng hơn 100 cây số.
Tình hình xe ra khá gay go. Mùa mưa rồi. Không còn xe đi theo kế hoạch. Đường ra còn nhiều đèo dốc khó đi. Vừa xảy ra một tai nạn, may không ai chết. Đường giao liên bộ cũng đang di chuyển không nhận khách.
Thấy chúng tôi lúng túng chưa biết làm sao đi tiếp được, anh lái xe U-ran đề nghị: “Hay là để chúng em đưa các anh ra tiếp!”.
Một đề nghị thật hấp dẫn. Chúng tôi đã đi cùng với nhau gần một tuần nay trên chiếc xe U-ran này. Với chiếc xe khoẻ như con voi này, thì chỉ hai ngày nhẹ nhàng ra tới Hà Nội. Mà ở giữa rừng này, quyết định là ở chúng tôi.
Nhưng rồi chúng tôi suy nghĩ: Nhiệm vụ giao là đón chiếc xe hỏng đưa vào chiến trường. Nay điều xe ra Hà Nội, hoặc Quảng Bình, anh em lái xe tranh thủ về thăm nhà vài hôm, quay lại đúng vào giữa mùa mưa, đường lầy, không hoàn thành nhiệm vụ, thì mất đầu! Chúng tôi đành cám ơn lòng tốt của anh lái xe. Chiều hôm đó, chúng tôi tổ chức một bữa liên hoan từ biệt rồi chia tay nhau.
Vào Trung đoàn Công binh liên hệ. Các thủ trưởng Trung đoàn rất nhiệt tình, cho biết sắp có xe đưa đoàn văn công của Trung đoàn về Sư đoàn ở gần đường 9 dự hội diễn. Nhưng phải chờ đến ngày 12 tháng 6 mới có xe đi.
Ngày 12, chờ sốt ruột mà không có xe. Xe hỏng, hơn nữa trời mưa suốt ngày không đi được. Sáng 13, chờ tới 9 giờ sáng, xe mới tới nhưng đã đầy người trên xe. Chờ xe thứ hai, nhưng cũng đầy người. Điện tới, điện lui, sau đó tất cả leo lên xe. Đi được khoảng hai cây số, chờ xe thứ ba. Đến một giờ chiều xe thứ ba tới, san bớt người, nên cuối cùng cũng đủ chỗ ngồi trên ba xe.
Đi được khoảng 20 phút, chiếc xe thứ hai chết. Xe chúng tôi tới được đèo 36, ngủ lại đêm ở một trạm công binh. Như vậy cả ngày chỉ đi được 20 cây số. Cũng đã là may. Một giờ đêm, chiếc xe hỏng mới tới.
Đường đi đang sửa, nhiều xe ủi chạy hì hục suốt ngày, mìn nổ liên tục, mà không có tín hiệu gì báo trước. Tiếng mìn nổ, từng cột đất đá tung lên trời. Chúng tôi đành cứ phải coi chừng, quan sát hai bên đường. Nếu thấy mọi người chạy dạt là mìn sắp nổ để tránh.
Ngày 14 tháng 6, đi trót lọt đến chiều, nghỉ lại giữa một con suối đá, mắc võng trên thùng xe. Trời vẫn mưa. Thùng xe ngắn, chiếc tăng không che được hết võng, ướt một đầu lại quay đầu lại, xoay chân ra chỗ ướt, đắp chăn, ngủ tiếp ngon lành.
Sáng 15 tháng 6, tới đèo Tha Mé, hàng chục cây số, cây cối hai bên đường bị chất độc hoá học và bom napan đốt cháy như những cột than đen, hai bên đường. Rải rác những đống sắt vụn, xác xe ôtô, xe tăng, pháo, những bánh xe chổng ngược lên trời. Một xác máy bay C130 rơi xuống một khe suối cạn, cách đường vài chục mét, vỏ nhôm còn sáng loáng, chứng tỏ đây đã từng chứng kiến những trận đánh ác liệt.
Qua Tha Mé, là tới đường số 9. Gặp đường nhựa, xe phóng vun vút, quặt sang hướng Tây. Xe dừng lại ở một trạm kiểm soát ven đường. Từ đây vào sư đoàn bộ còn phải đi bộ 7 cây số nữa mới tới. Đành gọi nhờ điện thoại hỏi thăm tình hình. Đoạn đường này, xe đi lại ít. Hiện nay chưa có kế hoạch về Đoàn 559. Vì xe được lệnh ra Mường Lụm lấy hàng, nên chúng tôi quyết định không vào Sư đoàn bộ nữa mà bám theo xe sang Xê-pôn.
Đường đi qua ngầm Tà Khống, nổi tiếng là Cồn Cỏ trên đất liền. Bảy năm trước chúng tôi đã qua đây. Lúc đó đi đêm, dưới pháo sáng, trong tiếng gầm rú của máy bay và bom nổ liên hồi. Hôm nay qua lại đèo giữa ban ngày, những dẫy trùng điệp, cây rừng trụi lá, như những cột than đen, các cành cây như những bàn tay xương xẩu xoè ra chĩa các ngón lên trời.
Đêm ngủ lại Xê-pôn, một thị trấn huyện thuộc tỉnh Savannakhét của nước bạn Lào. Thị trấn nằm trong một thung lũng hẹp, bằng phẳng có đồi núi cao vây quanh. Nhiều nhà gạch cũ đã đổ nát. Nhân dân sống thưa thớt ở các đồi núi chung quanh.
Đến được đây đã là hạnh phúc rồi. Từ đây về nước có hai con đường: Hoặc theo đường quân sự của Đoàn 559, qua Mường Lụm, ra đường 20 sang Cự Nờm, Quảng Bình, hoặc cứ theo đường quốc lộ số 9 qua Bản Đông, ra Đông Hà, Quảng Trị.
Đường 559 thì về mùa mưa rất lầy lội, không hy vọng gặp được xe. Đi bộ chắc cũng khó khăn. Chúng tôi quyết định đi theo đường số 9.
Bắt đầu từ đây, không có xe. Chúng tôi phải chuẩn bị khả năng đi bộ.
Thu xếp lại đồ đạc, bỏ hết những thứ cồng kềnh không cần thiết mỗi người một ba lô, một bao gạo, lên đường. Đặt kế hoạch đi bộ hai ngày tới Bản Đông. Từ Bản Đông sang Lao Bảo. Hy vọng sẽ gặp xe có thể đi nhờ về Lao Bảo hay Khe Sanh và từ đó đi Đông Hà, vào đường số 1 sẽ dễ dàng ra được Hà Nội.
Đường đi khá tốt, đoạn rải nhựa, đoạn rải đá khá dễ đi. Trời nắng đẹp. Đêm hôm đó chốt lại ngủ trên một bờ suối gần cua chữ S, nơi trên đường vào năm xưa, đoàn chúng tôi bị bom.
Qua ngầm Bản Đông tới một trạm ba-ri-e, một chiến sĩ quân giới cho biết, trên ngọn đồi cạnh đường có một tổ quân giới đang làm nhiệm vụ thu hồi các khẩu pháo của địch bỏ lại trong Chiến dịch đường 9 - Nam Lào. Theo hướng chỉ, chúng tôi lên đồi. Giữa một ngọn đồi trọc cạnh đường một chiếc lều to bằng vải bạt. Trong lều một dãy võng treo thành vòng tròn. Đầu võng buộc chụm vào chiếc cọc giữa lều như nan hoa xe đạp. Nước mưa chảy tràn lên mặt đất lầy lội. Anh em giải thích, ở tạm nên không làm rãnh thoát nước.
Tuy không quen biết nhưng anh em đón tiếp chúng tôi thật niềm nở. Anh tiểu đội trưởng cho biết, đúng là tiểu đội đang làm nhiệm vụ thu hồi xe pháo của địch còn vứt lại ở chiến trường. Đã thu được một khẩu pháo 130 ly. Ngày mai sẽ có xe từ Khe Sanh ra kéo về. Anh thu xếp cho chúng tôi chỗ buộc võng trong lều. Buổi tối uống cà phê Khe Sanh, pha vào bi đông như pha chè.
Sáng hôm sau, chúng tôi rời Bản Đông theo một xe kéo khẩu pháo chiến lợi phẩm. Ngồi ngất nghểu trên xe. Sau xe là một khẩu pháo 130 ly mệnh danh là “Vua chiến trường” nòng dài ngoằng. Một anh công binh nói: Có khi chúng nó tưởng quân ta kéo pháo đi đánh Quảng Trị cũng nên.
Chiếc xe kéo pháo ì ạch. Đường bằng còn khá. Qua những đoạn đèo, dốc, một bên đường là vực sâu. Khẩu pháo nặng sau xe có lúc kéo chiếc xe tụt hẳn lại, trôi ầm ầm xuống chân dốc mới dừng lại được. Chúng tôi thót người lại, chờ đợi một tai hoạ. Ngồi trên thùng xe, mà nơm nớp như cá nằm trên thớt. Nghĩ thấy hối hận, thật dại, chọn kiểu đi nguy hiểm này. Chả lẽ nhảy xuống xe đi bộ, thoát chết ở chiến trường, lại chết ở đây hay sao?
Đến Khe Sanh, xe dừng lại chúng tôi nhảy xuống đất mới thở phào, thoát chết rồi. Hỏi thăm đường vào Sư bộ 473, được các anh cho xe con đưa sang trạm giao liên ở Tà Cơn.
Ngày hôm sau, từ Tà Cơn, giao liên cơ giới có xe ca đưa chúng tôi theo đường 9 qua Cồn Tiên, Đông Hà. Những lá cờ giải phóng nửa xanh nửa đỏ phấp phới tung bay khắp nơi. Qua cầu Hiền Lương, ra Quảng Bình, ở lại Quảng Bình mấy hôm chờ ôtô, sau đó ra Nghệ An rồi đi tầu ra Hà Nội.
Ngày 27 tháng 6 năm 1973, ra tới Hà Nội vào một buổi chiều hè nắng chói chang. Những năm gian khổ, ác liệt ở chiến trường trôi qua như một giấc mơ. Về Hà Nội, trong lòng như ngân nga câu thơ của Tố Hữu:
“Về đến đây rồi Hà Nội ơi!
Người đi kháng chiến chín năm trời
Hôm nay, trở lại đây Hà Nội.
Giàn giụa vui lên ướt mắt cười...”Hà Nội 31-3-1997
Hết!