Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 10:51:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tây Nguyên ngày ấy  (Đọc 87641 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2009, 06:17:07 pm »


Ngày 1 tháng 10 năm 1968. Trong tuần qua tôi lại bị một cơn sốt kịch liệt ập tới. Bắt đầu chỉ là một cơn sốt nhẹ, người thấy ong ong khó chịu trong khi đang ngồi họp bàn công việc tháng tới. Sau buổi họp, sang khối Ngoại xem anh Hưởng mổ một ca dính ruột. Một đêm mất ngủ. Uống thuốc vẫn không ngủ được. Có tiếng oang oang trong đầu. Hai ngày sau, cơn sốt tăng lên, rét run người rồi nóng vã mồ hôi, rồi lại thấy những ảo ảnh. Trong đầu như máy quay phim chiếu những đoạn phim đứt quãng, nhưng bao giờ cũng là hình ảnh của gia đình. Ba, Mợ, Hương, Lộc, các anh chị, những ngày nhỏ ở nơi tản cư, những ngọn cây cao, những đồi thông, những câu thơ tình của Nguyễn Đình Thi:

“Anh yêu em như anh yêu đất nước…
Vất vả, đau thương, tươi thắm vô cùng…”


rồi lại xì xồ tiếng Pháp, đọc thơ Lamartine...

Jevenez, revenez ômes tristess pensées...
Je veux rêver et non pleurer...”

“Hãy trở lại đi những ý nghĩ buồn
Tôi muốn mơ, mà không muốn khóc…”


Như sống trong một câu chuyện cổ tích, vừa vui, vừa buồn, cười cười, khóc khóc. Anh em lo sợ, khiêng sang Viện điều trị, lại nghĩ là anh em đem mình đi chôn. Thảng thốt hỏi anh em: Tôi là Đài hay là Lạc? Nằm trong võng tưởng như nằm trong áo quan, rồi bóng tối ập tới như chìm trong một cái huyệt đen ngòm sâu thẳm và êm ái. Không còn tiếng máy bay vo ve trên bầu trời, tiếng bom nổ ì ầm ở xa, tiếng người lao xao bên cạnh, bóng đèn lấp lánh. Tất cả chìm trong bóng tối và im lìm... Tôi chìm sâu vào một giấc ngủ dài. Một đêm và một ngày. Hình như các viên thuốc ngủ uống từ mấy hôm trước mà không ngủ được bây giờ mới đồng loạt phát huy tác dụng. Khi tỉnh dậy tôi thấy đầu quang đãng hẳn. Tiếng những giọt mưa lốp bốp trên mái nhà. Cơn sốt đã qua. Hôm nay đã ra Viện và trở về nhà. Nhận được hai thư của Hương, thư của Ba Mợ, của Lộc và chú Hoàng, ngoài ra một lá thư có nét chữ hơi lạ, thì ra thư chị Lan, vợ anh Lạc... Cả ngày tôi viết thư trả lời. Thư chị Lan làm cho tôi xúc động chảy nước mắt. Chắc tin anh Lạc mất đã ra tới Hà Nội làm cho Hương lo lắm.

Ngày 15 tháng 10 năm 1968. Trời bắt đầu hửng nắng từ hơn một tuần nay. Mùa khô đã bắt đầu, nhưng đêm vẫn mưa, những cơn mưa cuối mùa. Đã qua mùa mưa thứ ba ở Tây Nguyên với bao nhiêu tai hoạ do mưa gây nên. Thiên nhiên ở đây thật dữ tợn, trong bốn tai hoạ lớn: “thuỷ, hoả, đạo, tặc” không phải ngẫu nhiên mà người coi “thuỷ” tức là nước, đứng hàng đầu. Một con suối thật hiền lành nhỏ bé thế mà chỉ sau một cơn mưa trong vài giờ bỗng trở thành một con sông lớn hung dữ, nước đỏ ngầu, chảy ầm ầm, kéo phăng nhà cửa, lợn, gà ở hai bên bờ. Những thân cây to bị kéo theo dòng nước như những cỗ xe tăng bất kham, không người điều khiển, húc tung mọi cầu cống. Con người trở nên hết sức nhỏ bé và bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên.

Nay mùa mưa đã qua nhưng tác hại của mưa thì vẫn còn. Cây đổ là mối đe doạ thường xuyên trong mùa mưa “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Nhưng rừng cũng luôn đe doạ con người sống trong rừng bằng nạn cây đổ. Những cây cổ thụ gốc to hai ba người ôm không hết, cao ngút ngàn, gây một cảm giác thật vững chắc. Những cây có những cành ngang dọc tít trên cao. Thật khó mà trèo lên kiểm tra từng cành xem có bị mối mọt đục ruỗng bên trong hay không. Chỉ sau vài cơn mưa, lá cây nặng trĩu nước. Đất rừng dường như cũng bị mềm đi không còn đủ sức giữ trọng lượng của cây. Thế là chỉ cần một làn gió thoáng qua, hoặc thậm chí không có gió, giữa trời quang mây tạnh, cây cũng có thể đột ngột lăn kềnh, kéo theo hàng chục cây con bên cạnh. Cũng có khi cây gẫy ngang thân, hoặc một cành to trên cao gẫy sập, quật tan nhà cửa, công sự, người, súc vật phía dưới. Tai nạn có thế ập tới bất cứ lúc nào, đang nằm trong nhà giữa đêm khuya thanh vắng hay đang lao động ngoài trời, đang hàng quân trong rừng, không biết đường nào mà tránh. Mấy hôm trước, giữa nửa đêm, một cây cổ thụ đột nhiên gẫy ngang thân. Một cành cây to bằng bắp đùi quật xuống lán thương binh trong lúc mọi người đang ngủ. Một người chết ngay tại chỗ. Y sĩ Đạt, học viên trường Quân y bị một mảnh gỗ to bằng ngón cái xuyên ngược từ gò má lên nền mắt. Mê man, bất tỉnh, máu mồm, máu mũi chảy giàn giụa. Khiêng tới phòng mổ đã ngừng tim, ngừng thở. Mở ngay khí quản, hút máu trào vào đường thở. Hô hấp nhân tạo, bóp tim ngoài lồng ngực, tim đập lại được. Nhưng khi rút khúc gỗ ra khỏi vết thương thì máu chảy chan hoà. Phải mổ, thắt động mạch ngoài mới cầm được máu.

Hai hôm sau một nhân viêu khoa 22 đang đi trong rừng cũng lại bị cây đổ, may chỉ bị rách da đầu. Tiếp sau đó lại xảy ra một trường hợp khác: Một cây to bằng bắp đùi trên cao khoảng ba chục mét, đột nhiên gẫy rắc, vụt xuống trúng đầu một cán bộ tiểu đoàn đang ngồi chơi trước lán. Họp khoa, họp Viện, kiểm điểm rút kinh nghiệm. Khoa xin nhận kỷ luật. Nhưng kỷ luật gì? Chỉ có điều là phải thường xuyên quan sát các cây quanh nhà. Tìm các ổ mối mọt có thể đục ruỗng cây. Nhưng làm sao xem được hết cây rừng trong khu vực đóng quân và lân cận. Sức đâu mà trèo hết các cây, kiểm tra từng cành cây. Tốt nhất là chọn rừng tre nứa mà ở, nhưng lại không kín đáo.

Do các tai nạn vừa qua nên có chỉ thị không được cho thương bệnh binh vào rừng lấy củi, không được vác tre, không được lấy lá, không được làm bếp, v.v… Trong khi công việc vẫn bê bối, số thương bệnh binh trong Viện vẫn xấp xỉ 1.600-1.700. Vẫn phải huy động người đi lên phía trước chuyển thương, khi 5 cáng, khi 10 cáng. Rồi vận chuyến sắn, vừa đi vừa về mất hai ngày. Lại phải làm lại nhà cửa, công sự. Đã qua hai mùa mưa, nhà cửa dột nát, công sự đã sụt lở. Công việc rối tinh. Khoa nào cũng kêu.

Anh Hà, Phó chủ nhiệm chính trị mặt trận, về thăm Viện, động viên anh em: “Thắng lợi cơ bản rồi, chỉ cố gắng một chút nữa thôi!”. Rồi anh vỗ vai tôi: Anh em ta chịu khó, chịu khổ một năm nữa là cùng!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2009, 06:17:36 pm »


Ngày 20 tháng 10 năm 1968. Thư Hương và gia đình là nguồn động viên lớn đối với tôi. Tôi cũng viết thư ra đều đặn mỗi khi có người ra. Cũng may là điều kiện Bệnh viện hầu như tháng nào chúng tôi cũng có thương bệnh binh mất sức chiến đấu trở về hậu phương nên việc gửi thư ra không có gì khó khăn. Tuy nhiên những bức thư của chúng tôi có lẽ rất công thức nhạt nhẽo, không nói được gì. Vì bất cứ điều gì cũng là bí mật, hơn nữa muốn gia đình bớt lo lắng, nên cũng chẳng muốn nói đến những khó khăn gian khổ ở chiến trường làm gì...

Ngày 10 tháng 11 năm 1968. Hội nghị Chiến sĩ thi đua của chiến trường Tây Nguyên được lổ chức trong một khu rừng săng lẻ. Hàng cây cổ thụ cao ngất, uy nghiêm. Hội trường rộng rãi, đủ chỗ cho hơn ba trăm đại biểu, đỏ rực các cờ, băng khẩu hiệu. Máy nổ cung cấp điện sáng rực suốt ngày đêm. Có nhà triển lãm, có căng tin, có bóng bàn, cầu lông. Đêm nào cũng có văn công, xi nê. Ăn uống theo tiêu chuẩn bồi dưỡng. Ngoài lợn gà, còn có thịt nai, bò, lợn rừng săn bắn được, ngoài tiêu chuẩn.

Các đại biểu ăn ở ngay khu vực hội trường, trong những dãy lán do công binh mới xây dựng. Đại biểu đến từ các Sư đoàn, Trung đoàn quân chủ lực, các đơn vị dân quân du kích các tỉnh đội, huyện đội. Các cán bộ dân chính, Đảng, các cơ quan bệnh viện, đường dây giao liên, các kho trạm, trường học. Các chị cán bộ dân tộc răng cưa sát lợi, nói tiếng Kinh không sõi, phải có người phiên dịch. Không biết bao nhiêu tuổi, chỉ biết là bao nhiêu cái rẫy. Đủ các dân tộc Tây Nguyên, ngoài dân tộc Kinh, còn có các thanh niên xung phong dân tộc Êđê, Bana, Hơmông. Trong một bản báo cáo, các chị nói tới thành tích bắn hạ máy bay “chưa làm xong”... Tôi ngạc nhiên: máy bay “chưa làm xong” là loại máy bay gì? Hỏi ra mới biết, đó là loại máy bay trực thăng - mà bộ đội ta gọi là máy bay xương cá - thành máy bay bằng mi ca trong suốt, trông thấy rõ khung máy bay và tên phi công ngồi bên trong. Loại máy bay này xuất hiện lần đầu trong chiến dịch Plây-me. Anh chị em dân tộc reo lên: “Thằng Mỹ chết đến nơi rồi, chúng nó đã hết máy bay, phải đem cả máy bay “làm chưa xong” ra đánh nhau!”

Báo cáo tổng kết của Chính uỷ mặt trận cho biết: Tây Nguyên nổ phát súng đầu tiên trong cuộc Tổng công kích trên toàn miền Nam vào lúc 6 giờ 30 ngày 28 tháng 1 năm 1968. Liên tiếp mở các đợt tấn công và nổi dậy vào tháng 2, tháng 5, tháng 8... đánh thị xã Kontum, Gialai, Ban Mê Thuột, Đức Lập, Đắc Tô, Cơ-ti-pơ-rông, đánh giao thông tiêu diệt và bắt sống 5.632 địch, 1.000 hàng binh, phá trên 3.000 xe cơ giới, 195 khẩu pháo, giải phóng thêm 6 vạn dân.

Sau hội nghị Chiến sĩ thi đua, các cán bộ từ tiểu đoàn trở lên, ở lại dự chỉnh huấn cán bộ. Gặp lại cụ Trí, một cán bộ đã lớn tuổi, hom hem, vui tính chỉ huy đơn vị VQ5 - cửa khẩu tiếp nhận hàng từ Campuchia sang - năm ngoái, trước Chiến dịch Đắc Tô, cùng một tổ chỉnh huấn với cụ. Nhớ lại thương cậu Lạc, lúc đó còn gân cổ thảo luận “cú quyết định” suốt một buổi sáng. Thế mà đã xanh cỏ rồi!

Sáng 1 tháng 11 đài phát thanh báo lên sẽ truyền đi một tin quan trọng vào lúc 10 giờ sáng: Giônxơn xuống thang, tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Một thắng lợi lớn trên con đường giải phóng miền Nam. Tin chiến thắng làm cho mọi người nô nức vui mừng phấn khởi. Cuộc chiến chưa kết thúc, nhưng thắng lợi dường như đã đến gần.

Mấy hôm nay, Đài liên tục công bố lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, tuyên bố của Chính phủ, lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, lệnh của Bộ Quốc phòng. Chính quyền Thiệu, Kỳ phản đối lệnh ngừng ném bom mà không chịu cử phái đoàn đi dự Hội nghị Pari. Nhân dân Sài Gòn sôi sục đấu tranh, đòi đánh đổ Chính quyền Thiệu, Kỳ, Hương, đòi thành lập nội các hoà bình.

Bên Mỹ, Nichxơn thắng cử Tổng thống: đảng Dân chủ chiếm đa số ở cả Thượng và Hạ nghị viện.

Kết thúc chỉnh huấn. mọi người ra về với quyết tâm mới chuẩn bị gấp rút cho đợi hoạt động cao điểm mới.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2009, 06:17:58 pm »


Ngày 20 tháng 11 năm 1968. Sau chỉnh huấn, chúng tôi trở về với công việc hàng ngày, chuẩn bị cho anh em ở nhà đi chỉnh huấn đợt hai.

Hoạt động của Bệnh viện tốt. Số bệnh nhân ra Viện vượt chỉ tiêu đề ra đầu tháng. Các khoa Ngoại làm được sân tập thể dục, có xà đơn, xà kép, thang... trên một bãi trống bằng phẳng, dưới những cây cao. Khoa 34 có sân đánh cờ người. Không thật đúng như ở các lễ hội nông thôn miền Bắc. Mỗi quân cờ là một người. Vì lấy đâu ra ba mươi hai người để chơi cờ. Ở đây sân chỉ hai người chơi, nhưng thay vì một bàn cờ nhỏ, ở đây, bàn là một cái sân rộng, các quân cờ cắm vào các hố bằng ống nứa chôn xuống đất. Chơi cờ trở thành một kiểu thể dục. Người chơi cờ không còn ngồi rung đùi nhổ râu, mà luôn phải đi lại lại trên sân, rút quân cờ từ chỗ này sang chỗ khác. Chơi xong ván cờ, coi như đi bộ một quãng đường dài.

Tôi cũng mới ra thăm rẫy xem tình hình thu hoạch lúa. Thu hoạch đã gần xong, lúa không tốt lắm. Hơn 15 hecta mà chỉ được gần mười tấn thóc.

Biết làm thế nào! Ở đây chúng tôi buộc phải áp dụng cách sản xuất thô sơ từ hàng trăm năm nay của đồng bào dân tộc. Đầu tiên là phát nương. Công việc bắt đầu từ mùa khô: Chọn một khu rừng tương đối bằng phẳng, gần suối. Mỗi người một con dao, ra sức phát trụi hết cây rừng, cả cây to lẫn cây nhỏ. Tai nạn dễ gặp lúc này là bị cây đổ làm chết người. Sau đó để phơi cây cho khô dưới nắng. Khi bắt đầu hết mùa khô thì đốt nương. Phân chia người đứng trên chiều gió để gió thổi đốt hết nương, biến khu rừng thành một biển lửa. Từ xa hàng cây số có thể thấy mặt trời bị lửa và khói che phủ, ánh nắng từ màu vàng trở thành màu đỏ quạch. Đã có đơn vị tổ chức không tốt, người đốt ở nương giữa, người đốt ở bìa nương. Khi lửa cháy to, bị vây trong biển lửa và chết cháy. Một khi rừng bắt đầu cháy thì không ai ngăn được lửa cháy lan sang các khu rừng khác. Lúc này, chỉ có mưa hoặc một sự may rủi nào đó mới tắt được ngọn lửa. Công việc tiếp sau là dọn nương. Khi lửa đã tắt, phải chia nhau ra thu dọn, chặt các bụi cây, hoặc những cành cây chưa cháy hết, vun thành đống rồi đốt cho cháy nốt. Sau đó chờ những cơn mưa đầu mùa để gieo hạt. Cứ từng đôi hai người một, một người đi trước, tay cầm hai cây gậy nhọn đầu, vừa đi vừa chọc que xuống đất thành những hố nhỏ, đều nhau. Người thứ hai đi sau, đeo một rọ thóc, thả vào mỗi lỗ một vài hạt thóc rồi lấy đầu ngón chân bịt miệng lỗ cho chim khỏi ăn mất thóc. Rồi chờ trời mưa, thóc nẩy mầm và mọc thành cây lúa, cho tới khi thu hoạch.

Tới đầu mùa khô là bắt đầu mùa thu hoạch. Tôi ra thu hoạch với anh em. Anh em phát cho tôi một cái gùi để đựng thóc, đeo sau lưng và khuyên tôi lấy giẻ băng ngón lay cái và ngón tay trỏ bàn tay phải. Ra tới nương, mọi người phân chia nhau mỗi người một góc nương để đề phòng máy bay oanh tạc thì giảm bót thương vong. Thu hoạch lúa đơn giản là tuốt bông lúa giữa hai ngón tay, hứng các hạt thóc vào lòng bàn tay rồi bỏ vào gùi ở sau lưng. Cứ như vậy, đi suốt buổi. từ cây lúc này sang cây lúa khác, chỉ cần chú ý không bỏ sót. Đến trưa thì hai ngón tay bị xây xát, rớm máu, phồng lên, mọng nước, đau rát như bị bỏng. Thấy tôi nhăn nhó, anh em tăng gia cười bảo tôi: Ai đi tuốt lúa lần đầu cũng đều như vậy cả. Mãi rồi quen đi, hai ngón tay chai cứng như hai cái gót giày, lúc này mới coi như đạt yêu cầu, tối nghiệp Đại học tuốt lúa ở Tây Nguyên.

Ở với anh em tăng gia được một ngày rồi trở về Viện, trong lòng nặng trĩu những suy nghĩ làm gì để cải tiến được công tác tăng gia đây?

Chủ trương chiến lược “bóp cổ và chọc thủng dạ dày Việt cộng” của tướng Oét-mo-rơ-len đang được thực hiện. Chúng đánh phá ác liệt con đường tiếp tế của ta từ hậu phương vào. Nguồn tiếp tế ngàv càng khó khăn, chỉ có một con đường là tăng gia sản xuất tự túc. Tuy chúng tích cực phá sản xuất bằng rải chất độc hoá học, nhưng rừng núi bao la, chúng rải sao cho xuể?

Về tới nhà, lại có chuyện đột xuất: Anh Th. bệnh nhân khoa 40 đi đâu không biết. Anh Th. là một trợ lý của phòng Hậu cần bị kỷ luật vì hủ hoá. Trước khó khăn gian khổ của chiến trường, tư tưởng có phần hoang mang dao động. Nay đột xuất bỏ đi, mang thco tăng võng, súng, địa bàn... được tin, anh V. phó chính uỷ phòng lập tức xuống Viện chỉ đạo việc tìm kiếm, sợ Th. “nhảy”. Nếu Th. “nhảy” - có nghĩa là dầu hàng địch - thì hết sức nguy hiểm, vì anh nắm rất rõ các cơ sở hậu phương của chiến trường. Một tổ vệ binh được phái đuổi theo đường CO5, đi về phía Plâycu. Viện chỉ thị cho các khoa củng cố công sự, đề phòng bị oanh tạc, chuẩn bị phương án di chuyển.

Sau hai ngày đột nhiên thấy Th. trở về. Hỏi thì anh cho biết: đang ngủ thấy có tiếng người gọi: “Thủ trưởng phòng gọi đi kiểm tra đường dây giao liên”. Thế là vùng dậy, cuốn tăng võng đi luôn ra trạm T8 rồi ra T9 gặp anh em vận tải gạo bảo: “Về đi, ở nhà đang tìm!”, thế là anh lại quay trở về.

Mấy hôm nay địch hoạt động nhiều. Hôm trước ba chiếc C130 bay ầm ầm như một đoàn xe bay ngang qua khu rừng... Chúng nó rải chất độc hoá học. B52 rải thảm ầm ầm ở phía Bắc. Đại bác nổ phía bờ sông Sa Thầy.

Lại một bệnh nhân nặng vào Viện. Nôn ra máu. Trong mấy ngày nôn liên tiếp ra hàng lít máu tươi. Hồng cầu tụt chỉ còn hai triệu. Người nhợt nhạt, toàn thân rất yếu. Gan to, lách to. Nghĩ tới chảy máu do tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Truyền máu. Huy động hết máu của nhân viên mà không giải quyết được. Hội chẩn, quyết định giải pháp cuối cùng là mổ cắt đôi dạ dầy theo phương pháp Ta-ne. Đến nay đã được năm hôm. Diễn biến bước đầu tương đối tốt.

Các khoa xây dựng được nhiều nhà mới. Khoa 33 xây một bếp to như hội trường, cao rộng. Nhà pha chế của khoa Dược xây hai tầng, tầng trên dùng để pha chế, tầng dưới là nơi cấp phát và hành chính. Đêm đêm anh chị em thức cài lá để lợp nhà, dưới ánh lửa đất rừng rực tới mười một giờ khuya. Không khí chung hồ hởi. Phấn khởi trước các tin chiến thắng ngoài mặt trận.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2009, 06:18:43 pm »


Ngày 27 tháng 11 năm 1968. Một sự kiện lịch sử của Viện. Sau hơn năm tháng mày mò, Bệnh viện đã sản xuất thành công mẻ thủy tinh đầu tiên ở chiến trường Tây Nguyên.

Lễ khánh thành lò thủy tinh được tổ chức khá long trọng. Anh Vinh, Trưởng ban Quân y B3, đại diện thủ trưởng Phòng Hậu cần xuống dự, có chụp ảnh, liên hoan.

Năm tháng trước, anh Thạch dược sĩ - trợ lý Dược của Mặt trận, xuống làm việc với Viện. Sau khi nghe chúng tôi báo cáo tình hình hoạt động của khoa Dược, tình hình sản xuất, pha chế, thuốc men của Viện. Anh truyền đạt các chủ trương của ban Quân y về công tác Dược trong thời gian tới. Trong đó chủ trương thu hồi tất cả các ống tiêm đã sử dụng để giao cho Xưởng Dược đóng thuốc trở lại. Tôi ngạc nhiên: Làm như vậy thì được bao nhiêu ống tiêm, mất biết bao nhiêu công sức để cọ rửa, và liệu thuốc tiêm có bảo đảm an toàn hay không?

Anh Thạch với vẻ quan trọng thường ngày, nhấn mạnh: “Được bao nhiêu thì được. Bây giờ một ống cũng quý. Các đơn vị cần rất nhiều thuốc tiêm mà Hà Nội chuyển vào không đủ!”. Anh cho biết Ban Quân y đã phải chỉ thị cả cho các Bệnh xá, các Quân y Binh trạm, đường dây triệt để thu hồi vỏ ống tiêm sau khi sử dụng. Dù có vứt xuống đất cũng phải nhặt để dùng lại.

Nghĩ tới những vỏ ống tiêm nhỏ tý, làm sao mà cọ rửa nổi, làm sao bảo đảm an toàn cho thuốc tiêm... Tôi hỏi anh Thạch: “Tại sao không làm một xưởng sản xuất thủy tinh?”. Anh Thạch gật gù: “Chúng tôi đã nghĩ tới vấn đề này. Nhưng điện ra Hà Nội một năm nay mà vẫn chưa được!” Tôi suy nghĩ một lúc rồi đề nghị: “Nếu Ban Quân y giao, thì chúng tôi xin tổ chức một xưởng làm thủy tinh...”.

Anh Thạch mắt sáng lên, vồ vập: “Nếu các anh làm được thì hay quá. Sẽ giải quyết được một khó khăn rất lớn cho chiến trường!”.

Ý kiến làm thủy tinh được Ban Quân y nhiệt liệt hoang nghênh. Chỉ một tuần sau, tôi nhận được thư của anh Vinh, Trưởng ban Quân y mặt trận, chính thức giao nhiệm vụ cho Viện 211 nghiên cứu việc xây dựng xưởng thủy tinh cho chiến trường.

Tới lúc này, trong toàn Viện, chưa một ai trong chúng tôi có chút kiến thức gì về việc sản xuất thủy tinh. Nhưng tôi vẫn tin là có thể làm được. Kinh nghiệm làm thủy điện năm trước, tuy chỉ thành công một phần, nhưng cho tôi thấy khả năng rất lớn của bộ đội... Nhiều việc khó khăn, tưởng chừng như không thể vượt qua, trang thiết bị cho Bệnh viện, xây dựng các khoa chuyên khoa X quang, hoá nghiệm, gần như từ hai bàn tay trắng, rồi việc làm Nội san Quân y Tây Nguyên, làm lương khô cho bộ đội, đã cho tôi một suy nghĩ là nếu có quyết tâm, có biện pháp và chủ trương đúng, biết phát huy được sáng kiến của quần chúng thì mọi việc dù khó khăn đến mấy cũng có thể làm được.

Nhưng lần này, thông báo cho các khoa trong Viện, nhưng không khoa nào phát hiện ra người biết làm thủy tinh. Khi một cán bộ điều trị ở khoa 40 cho tôi một thông tin: Sư đoàn 1 mới được bổ sung một Trung đoàn mới vào chiến trường, toàn là thanh niên Hà Nội, chắc có thể có thợ thủ công biết nghề thủy tinh. Tôi liền cử anh Khâm, trợ lý Quân lực, mang theo giấy giới thiệu xuống Sư đoàn.

Anh Khâm đi ba ngày rồi trở về với hai thanh niên đeo ba lô theo sau. Công việc của anh khá thuận lợi. Khi xuống Sư đoàn, sau khi xem giấy giới thiệu và nghe anh Khâm trình bày, anh Tham mưu trưởng Sư đoàn liền cử ngay một trợ lý quân lực đưa anh Khâm xuống Trung đoàn. Lúc này Trung đoàn vừa đi chiến đấu về quân số đang hao hụt, chờ bổ sung. Nhưng sau khi nghe nhu cầu của Bệnh viện. Đồng chí Trung đoàn trưởng nói: “Quân có thiếu thật, nhưng nếu Bệnh viện chỉ cần vài người chuyên môn thì chúng tôi cũng xin cung cấp...”. Thế là phát hiện được hai đồng chí Đàm và Sơn, một anh là thợ thổi thủy tinh đã ba năm, còn một mới vào nghề được một năm.

Khi báo cáo với Sư đoàn, trên nguyên tắc, muốn lấy quân của đơn vị phải có lệnh điều động của Ban Quân lực Mặt trận, nhưng chờ thủ tục thì lâu quá. Thế là đồng chí Tham mưu trưởng Sư đoàn đồng ý cho anh Khâm dắt hai thanh niên về Viện trong khi Sư đoàn báo cáo lên trên.

Tôi làm việc với hai thanh niên một buổi, và chính hai anh đã giảng cho tôi những khái niệm đầu tiên về công nghệ sản xuất thủy tinh thủ công, và giúp tôi hình dung ra những khó khăn phải giải quyết.

Muốn nấu được thủy tinh thì việc đầu tiên là phải có cái nồi. Nồi nấu thủy tinh là cái khó nhất, là bí quyết của nhà sản xuất thủy tinh. Phải có gạch chịu lửa. Phải có than đá mới có đủ nhiệt lượng nấu chảy thủy tinh. Toàn những thứ ác ôn, tìm đâu ra ở chiến trường này.

Khó khăn nhất là cả hai thanh niên đều không biết cách đắp nồi, và làm lò. Hai anh chỉ được đào tạo một khâu chuyên môn là thổi ống thủy tinh, còn việc đắp lò là công việc của thợ chuyên môn khác.

Một tin nghe được bất ngờ qua Đài Tiếng nói Việt Nam, giới thiệu kinh nghiệm của một xưởng Quân giới ở chiến trường Nam Bộ dùng đất tổ mối để đắp lò luyện gang. Đất tổ mối thì la liệt trong khu rừng chúng tôi ở. Nhưng khó khăn nhất vẫn là có người kinh nghiệm đắp lò trong điều kiện thô sơ ở chiến trường.

Trong một lớp chỉnh huấn của Mặt trận đầu tháng 5, anh Ngô, Chính trị viên Đội điều trị 3 bất ngờ gặp tôi: “Nghe nói các anh định sản xuất thủy tinh, tôi xin giới thiệu một người biết cách nấu thủy tinh”. Đó là đồng chí Song, nay là Đại đội trưởng đội vận tải Binh trạm. Anh Thuyên, Trưởng ban Quân giới mặt trận cũng nói cho tôi nghe kinh nghiệm làm lò đúc gang ở khu 5 trong kháng chiến chống Pháp. Anh cho biết: Cơ bản là phải có đất “chết”. Một loại đất khi nung không nở để làm gạch chịu lửa. Còn than thì không nhất thiết phải than đá, than củi cũng được. Anh còn giới thiệu cho tôi cách đắp lò.

Vô hình chung, việc sản xuất thủy tinh của Viện 211 đã được sự quan tâm của các cán bộ quân y cũng như quân chính toàn chiến trường. Nhiều người từ các đơn vị xa cũng viết thư hoặc nhắn cho chúng tôi những thông tin liên quan đến việc làm thủy tinh.

Trong số người được giới thiệu là biết công nghệ sản xuất thủy tinh, tôi chú ý nhất tới anh Song, một công nhân lâu năm đã nấu thủy tinh từ trong kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc. Anh là người biết toàn bộ công nghệ làm thuỷ tinh theo cách thủ công. Nhưng tôi dự kiến có thể có một khó khăn: Anh Song nay đã là đại đội trưởng, chỉ huy một đại đội, liệu anh có chấp nhận trở lại về làm một công nhân hay không?

Chúng tôi dự kiến nếu anh không chịu, thì sẽ mời anh làm chuyên gia để dìu dắt đám thợ trẻ, khi nào công việc trôi chảy sẽ trả anh trở lại đơn vị cũ.

Nhưng khi đề nghị lên trên thì thủ trưởng Phòng Hậu cần ra quyết định chính thức điều anh về thẳng Viện. Hai tuần sau, anh Song đeo ba lô về Viện và vui vẻ nhận công tác.

Có anh Song công việc sản xuất thủy tinh tiến triển nhanh chóng. Anh biết mọi công việc của công nghệ làm thuỷ tinh thủ công từ khâu đầu tiên là đắp nồi, làm lò, đến khâu thổi ống, làm ra sản phẩm...

Công việc đầu tiên sau khi anh về là cử một tổ vận tải lên kho cánh Bắc lấy gạch chịu lửa. Không biết tại sao, do đơn vị nào yêu cầu mà bất ngờ lại may mắn có mấy chục viên gạch chịu lửa chuyển từ Hà Nội vào chiến trường và nằm lay lắt trong kho từ mấy năm nay, không ai nhận. Nay kho đã di chuyển đi nơi khác nhưng gạch chịu lửa thì vẫn nằm trong rừng ở địa điểm cũ. Cây rừng đã mọc lại um tùm. Phải đi tìm khá vất vả. Trong khi lần tìm gạch chịu lửa trong rừng, một chiến sĩ vận tải giẫm phải một quả mìn do biệt kích gài không biết từ bao giờ, cụt mất một bàn chân phải. Chúng tôi đưa anh về Viện 1 điều trị. Nhưng cuối cùng anh em cũng gùi được gạch chịu lửa về cho đơn vị.

Bắt đầu vào việc đắp lò. Mỗi buổi sáng tôi đều tạt qua thăm tổ thủy tinh. Tôi ngạc nhiên thấy lò đắp quá chậm. Mỗi ngày chỉ cao lên được vài xăng ti mét. Nhưng anh em cho biết đó là yêu cầu của kỹ thuật. Có được lò lại phải huy động người làm than. Sáu người trong mười ngày, chỉ đốt được sáu tạ than.

Hôm nay thì lò cũng đắp xong, nồi cũng làm xong, trông giống như một chiếc lọ độc bình to. Lò rừng rực lửa, nồi cũng đỏ rực, gần như trong suốt. Trong nồi là các mảnh thủy tinh vỡ, chai lọ vỡ thu thập từ khắp nơi trong bệnh viện và các đơn vị bạn. Thủy tinh đỏ rực, dính vào nhau và vào đầu ống thổi. Hai anh công nhân, một người kéo, một người thổi, ống thủy tinh dài dần, dài dần, thành một ống dải và nhỏ như ống sậy. Từ những ống này sẽ cắt thành từng khúc ngắn để thành ống đựng thuốc tiêm.

Sau ngày khánh thành, lò thủy tinh của xưởng Dược B3 tiếp tục hoạt động cho tới ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Trong năm đầu xưởng còn gặp khó khăn do thiếu nguyên liệu là các chai lọ vỡ. Nhưng sang những năm sau, với việc mở rộng vùng giải phóng sang Campuchia, nguyên liệu rất dồi dào. Lò thủy tinh cung cấp đầy đủ các vỏ ống tiêm cho chiến trường. Ngoài ra, còn sản xuất được một số dụng cụ cho phòng xét nghiệm các Bệnh viện, sản xuất cả cồn kế cho các tổ sản xuất rượu và cồn của các đơn vị.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2009, 06:21:38 pm »


Ngày 8 tháng 12 năm 1968. Mấy hôm nay họp hội nghị bàn kế hoạch tăng gia cho sang năm. Tình hình tiếp tế từ hậu phương vào gặp nhiều khó khăn. Các tuyến đường đều bị đánh phá ác liệt. Muốn trụ bám và hoạt động được ở chiến trường, chỉ có một cách là sản xuất, tự cấp, tự túc. Theo quyết định của B3, sang năm 1969, các cơ sở hậu phương, trong đó có Bệnh viện phải tự túc sáu tháng, cả lương thực, thực phẩm bao gồm cả rau xanh, với tiêu chuẩn 12 kg gạo, 12 kg sắn khô một đầu người, một tháng. Rau 200 gam một người, một ngày. Toàn Viện tính ra phải gieo trồng 63 hecta và phải có một đội tăng gia chuyên nghiệp 70 người.

Vấn đề bàn luận sôi nổi nhất là tổ chức sản xuất như thế nào: tổ chức tập trung toàn Viện hay phân tán từng khối như vẫn làm từ trước tới nay. Cho tới nay chỉ mới sản xuất rau xanh nên chia việc sản xuất cho từng khối Nội, Ngoại, và cơ quan Viện bộ, tỏ ra thích hợp. Nhưng nay, khi phải sản xuất lớn hơn thì hình thức tổ chức này biểu lộ nhiều điều không hợp lý: Do lấy nhân viên chuyên môn đi luân phiên làm nhiệm vụ tăng gia rồi lại về làm chuyên môn. Từ đó nhân viên tăng gia không ổn định, năng suất không cao. Các Chủ nhiệm khoa cũng mất nhiều thời gian cho công việc sự vụ, không tập trung được vào công tác chuyên môn. Tuy nhiên một số Chủ nhiệm khoa vẫn luyến tiếc cách làm ăn cũ. Có anh chép miệng: “Riêng rẽ khoẻ ăn...”. Có anh hỏi thẳng thừng: “Liệu sau này, tập trung về Viện thì chúng tôi có rau ăn thoải mái như hiện nay không?”.

Tuy nhiên, khi nghe chúng tôi trình bày chỉ tiêu tăng gia nặng nề sắp tới, nghĩ tới việc phải lo toan mọi việc từ khâu tổ chức chỉ huy tới thời vụ, kỹ thuật, bảo đảm khi anh em ốm đau, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu v.v... cuối cùng các đơn vị đành đồng ý với phương án tổ chức tăng gia tập trung toàn Viện. Thành lập một đội tăng gia chuyên nghiệp có biên chế riêng, cắt từ biên chế các khoa, như vậy đỡ rối bận cho các khoa, tổ chức ổn định, có điều kiện tăng năng suất lao động, tổ chức sẵn sàng chiến đấu cũng thuận lợi hơn.

Ngày 12 tháng 12 năm 1968. Mấy hôm nay địch quần đảo nhiều vùng này. Hôm trước đang họp ở Binh trạm Trung, thấy hai máy bay trinh sát và bốn trực thăng bay lượn, rà sát xuống thấp ở khu vực rẫy. Cảnh vệ Binh trạm Trung chạy lên gặp cảnh vệ Viện 211 chia nhau truy lùng khắp các khu rừng nhưng không thấy địch. Có thể chúng nó nghi binh.

Tuần trước, biệt kích xuống cửa khẩu VQ5, bắn chết một chiến sĩ đang đánh cá ở bờ suối. Cảnh vệ VQ5 bắn rơi một máy bay trực thăng. Ở trường Quân chính thì một chiến sĩ đi hái rau trong rừng hai ngày không thấy trở về. Đơn vị cho đi tìm thấy nằm trần truồng, mê man bất tỉnh cạnh bìa rừng. Khiêng vào Viện, khi tỉnh lại, anh cho biết bị biệt kích đánh chết ngất rồi lột hết quần áo.

Hôm qua lại có tin biệt kích xuống khu vực nương, các Viện chừng ba tiếng, phải cử một tổ cảnh vệ đi truy lùng.

Có chỉ thị của Mặt trận, phải tăng cường cảnh giác sẵn sàng chiến đấu. Trong buổi họp Chủ nhiệm khoa bàn về việc sẵn sàng chiến đấu khá sôi nổi. Chúng tôi nhắc nhở anh em củng cố công sự trong toàn Viện, đào thêm công sự cho bộ phận tăng gia ngoài nương, vũ khí phải mang luôn bên mình. Kỷ luật yên lặng trong đơn vị: không chặt cây, không hát tập thể, không vặn đài to. Một vấn đề lại bàn tán khá sôi nổi là cách xử lý với lũ gà trống. Anh em cảnh vệ tuần tra quanh Viện đều phàn nàn là gà gáy to quá. Vào buổi sáng, ở cách Viện vài cây số đã có thể nghe thấy tiếng gà gáy om sòm, có thể làm lộ chỗ trú quân của đơn vị. Quả thật, sau gần hai năm ở địa điểm hiện nay, đàn gà của các khoa đều phát triển, có tới hàng trăm con gà trống. Các kinh nghiệm làm giảm bớt tiếng gáy của gà trống lại được đem ra áp dụng.

Chúng tôi phải tiếp tục nhắc nhở kỷ luật khói lửa, thống nhất mật hiệu, ám hiệu, tăng cường tuần tra canh gác, chuẩn bị địa điểm dự bị v.v...

Biệt kích là một hình thức chiến đấu của địch, vừa đánh phá hậu phương của ta, vừa thám báo điều tra tình hình. Được đối phương sử dụng khá phổ biến ở chiến trường miền Nam. Đầu những năm 1965-1966, số biệt kích thường được chọn trong số nguỵ quân Sài Gòn, được huấn luyện chu đáo, trang bị y hệt như quân Giải phóng, mũ tai bèo, dép lốp, súng AK, quần áo ka ki, thả xuống vùng Giải phóng. Chúng có thể lẩn lút trong rừng, dò la tình hình hành quân, trú quân của ta để báo tin về cho máy bay oanh tạc. Có những toán, táo tợn hơn, đi từng tên lẻ, vào đường giao liên, mắc võng nằm cạnh suối giả vờ như bộ đội hành quân bị ốm không theo kịp đơn vị để thu thập tin tức hoặc bắt cóc cán bộ, bộ đội đi lẻ để lấy tình hình, hoặc gài mìn... Số này, vì không quen sinh hoạt của quân Giải phóng, khi ăn nói, xưng hô có sơ hở, hoặc trang bị không thật đúng nên dễ bị phát hiện. Tới những năm 1967- 1968, chúng dùng ngay một số bộ đội mất tinh thần chiến đấu, đầu hàng, đầu thú. Chúng tuyển chọn vào các đơn vị biệt kích, hứa hẹn trả lương cao, cho ăn chơi xả láng một vài tuần, cho học một lớp đào tạo cấp tốc, giao nhiệm vụ rồi thả trở lại hậu phương của ta với trang bị quần áo y nguyên như khi ra đầu thú. Vì là quân Giải phóng cũ, nên mọi sinh hoại hoạt động của chúng, từ cách ăn nói, xưng hô, cư xử đều dễ dàng trà trộn vào bộ đội, rất khó bị phát hiện...

Mỗi toán biệt kích thường có vài lính Mỹ đi kèm để vừa kiểm tra, đôn đốc, vừa để giữ liên lạc với các căn cứ Mỹ và máy bay trực thăng, thường do lính Mỹ lái.

Nhiệm vụ chủ yếu của biệt kích là tình báo tìm hiểu lực lượng vũ trang, cơ sở hậu phương mọi kinh doanh của ta trong một khu vực nhất định, thường là một số ô trên bản đồ. Nhiều lần chúng tôi ngạc nhiên khi phát hiện vết giày của biệt kích đến sát Bệnh viện chúng tôi, chỉ cách một con suối nhỏ rồi quay đi. Có thể do chúng cũng sợ. Nhưng khi nghiên cứu lại bản đồ thì thấy chúng có thể máy móc đi đúng các ô trên bản đồ mà chúng được giao nhiệm vụ điều tra, còn ô bên cạnh thì mặc kệ.

Mỗi toán biệt kích được trang bị vũ khí: mìn, điện đài, thức ăn khô, đủ cho một đợt hoạt động, thường là một tuần.

Chúng lợi dụng ưu thế tuyệt đối về không quân ở chiến trường miền Nam. Chúng xuống đất bằng máy bay trực thăng và rút đi cũng bằng máy bay trực thăng. Khi thả biệt kích, máy bay trinh sát, phản lực, trực thăng hoạt động ầm ĩ để uy hiếp quân ta và bảo vệ cho toán biệt kích. Máy bay trinh sát quần lượn trên cao, trong khi máy bay phản lực gầm rú bắn phá các khu vực chung quanh nghi có quân ta. Chúng tạo một bãi đỗ cho biệt kích bằng cách thả một quả bom nổ vào giữa rừng, tạo một khoảng trống độ vài chục mét vuông, đủ cho trực thăng hạ cánh. Sau đó trực thăng xuất hiện hạ cánh để thả biệt kích. Xuống tới mặt đất, bọn biệt kích nhanh chóng lẩn ngay vào rừng, chọn một nơi kín đáo để ẩn nấp và bắt đầu công việc điều tra khu vực được giao. Khi cần di chuyển, chúng đi theo những con đường ít có khả năng gặp bộ đội ta nhất: không đi trên đỉnh núi, cũng không đi dọc theo suối, mà đi vào những chỗ thật ngóc ngách khó đi, như men theo lưng chừng vách núi dựng đứng.

Trong những ngày biệt kích hoạt động, trái với sự chờ đợi của ta, máy bay hoạt động rất ít. Có lẽ cũng để giữ bí mật cho bọn đang hoạt động dưới mặt đất, để đánh lạc sự chú ý của ta, thường thì máy bay im bặt không xuất hiện trên bầu trời hoặc chỉ có máy bay trinh sát ở xa. Nhưng khi đã điều tra xong, hoặc bị ta phát hiện tấn công, thì lại ồn ào các kiểu máy bay yểm trợ cho chúng rút.

Để đối phó với biệt kích, ở mỗi nơi Bệnh viện đóng quân, chúng tôi đều chọn một cây cao, làm đài quan sát, kéo một đường dây điện thoại từ đài quan sát tới nhà chỉ huy Viện. Hàng ngày có một tổ Vệ binh leo lên cây và ở suốt ngày trên đài quan sát. Nhiệm vụ của đài là theo dõi tình hình hoạt động của máy bay trực thăng ở quanh khu vực chúng tôi ở. Do cây rừng che khuất nên thường không thấy được chúng có thả biệt kích hay không mà chỉ có thể báo cho chúng tôi biết có mấy máy bay hạ xuống ở hướng nào. Như vậy cũng đủ cho chúng tôi cử các tổ đi chiến đấu. Nhiệm vụ của các tổ chiến đấu là nếu có điều kiện thì tiêu diệt, nhưng nếu không có điều kiện thì chỉ cần nổ súng để đánh bật chúng đi. Khi bị phát hiện, bọn biệt kích liên lạc ngay với sở chỉ huy của chúng và rất nhanh, chỉ vài phút sau, hàng tốp máy bay đã xuất hiện trên bầu trời theo một kịch bản thống nhất: Máy bay trinh sát bay vòng rất cao trên trời. Máy bay phản lực lồng lộn ném bom, bắn rốc két đại bác 20 ly và đại liên vào những chỗ nghi ngờ có quân ta, trong khi bọn biệt kích bắn pháo hiệu chỉ nơi chúng đang ở cho máy bay trực thăng sà xuống thấp câu chúng đi.

Có khi vội vàng, không kịp chuẩn bị chỗ hạ cánh, chúng chỉ kịp thả thang dây cho bọn biệt kích bám vào rồi bốc lên cao. Chúng tôi đã trông thấy bọn biệt kích bám vào dây, lủng lẳng như một chùm táo, lắc lư dưới bụng chiếc trực thăng bốc vội lên trời. Nhiều lần, anh em vệ binh gặp xác của những tên biệt kích nằm trong vũng máu. Do bốc vội lên cao nên tên biệt kích đã bị cành cây rừng gạt ngã trở lại xuống đất!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2009, 06:24:41 pm »


Ngày 15 tháng 12 năm 1968. Hôm qua nhận được một lúc ba thư và một bộ tranh tứ bình vẽ nữ anh hùng Nguyễn Thị Song do vợ tôi vẽ, mẹ vợ tôi viết thuyết minh bằng thơ. Bức tranh làm cho tôi càng nhớ tới gia đình. Gia đình vợ tôi là một gia đình văn học. Bố vợ tôi, ông Vũ Ngọc Phan là một nhà phê bình văn học có tác phẩm nổi tiếng là tập Nhà văn hiện đại... Bà mẹ vợ tôi là bà Hằng Phương là một trong số nữ sĩ hiếm hoi, trước Cách mạng tháng Tám. Bà đã dành những vần thơ tha thiết nhất của mình viết về chồng, con và cháu...

Bộ tranh do bác sĩ Bích mang vào cho tôi. Thật là cảm động khi nghĩ tới công sức của anh gùi bộ tranh trên lưng từ Hà Nội vào... Tôi treo bộ tranh lên vách nứa, ngay cạnh bàn làm việc. Cả chiến trường có lẽ tôi là người duy nhất có tranh treo tường. Anh chị em trong Viện rất thích thú, rủ nhau lên xem tranh. Bộ tranh hình như đem hơi ấm cho căn phòng, làm vợi bớt không khí căng thẳng của chiến tranh, với bao nhiêu nỗi lo toan, vật lộn hàng ngày.

Thư Hương viết:

… Em đã nhận được thư và khăn rằn anh gửi cho em. Tiếc rằng mùa đông đã qua rồi, nhưng có lẽ trời cũng chiều em nên chiều qua có một đợt gió mùa Đông Bắc. Và em đã quàng khăn để đi làm.

Mùa đông năm nay rét nhiều vào tháng Giêng. Mưa kéo dài hàng tháng, đúng vào tháng em đi họp rất nhiều. Ngày nào cũng lội bùn đi sang xã bên cạnh để họp.

Cả nhà vẫn bình thường. Em rất mừng thấy anh vẫn mạnh khoẻ. Còn em thì không ốm nhưng gầy đi. Lộc thì lớn lắm, bây giờ được 31 kg. Khi đi con học lớp hai mà bố vẫn tưởng lớp 1. Thế mới biết Bố trước khi đi chả nghĩ đến mẹ con em nhiều đâu nhé!

Em viết thư cho mình toàn sự thật 100%. Không tô hồng đâu. Nghĩ đến Hà Nội đánh Mỹ lắm lúc buồn cười... Có đợt nó đánh 5 ngày liền, có ngày 10-12 lần báo động. Năm ngày bắn rơi 35 máy bay Mỹ. Thế mà Bộ Đại học vẫn họp xét duyệt tổ Lao động Xã hội chủ nghĩa. Em về họp phải xuống hầm 3 lần. Vẫn thấy ông Tạ Quang Bửu đến họp bình thường. Ngoài phố chiều đền đông vui lắm. Người ta vẫn xếp hàng dài xem xi nê... Báo động, chạy hết. Báo động xong lại vào rạp tiếp tục xem...

Ba Mợ đang ở Phú Thọ với anh Lâm. Em nhận được thư Ba Mợ luôn và cũng luôn viết thư cho các cụ, nhưng chưa lên thăm hai cụ được vì em bận quá, chứ còn đi xe đạp 100 cây số em cĩmg đi được.

Em đã in ảnh của anh 4 cái để gửi Ba Mợ và anh chị Bách, ảnh này chụp khá hơn, trông anh không gầy lắm nhưng mặt có vẻ phờ phạc và cũng hơi già đi. Làm sao được, chúng ta đều phải già đi chứ, nhưng trong tâm hồn còn trẻ là được rồi. Em sắp 40 tuổi rồi còn gì, nhưng em vẫn thấy mình khoẻ, say mê làm việc và có nhiều mơ ước. Nhiều mơ ước “lãng mạn” nữa...

Chúc anh khoẻ, nhớ anh nhiều...


Giáng Hương.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:41:07 pm »


SÓNG GIÓ

Ngày 6 tháng 1 năm 1969. Đã sang năm mới, một năm tấn công và nổi dậy đã qua. Từ hôm 29 tháng 12 anh em truyền tay nhau thơ chúc Tết của Bác Hồ:

“Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to,
Vì Độc lập, vì Tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào
Tiến lên chiến sỹ đồng bào,
Bắc Nam sum họp Xnân nào vui hơn…”


Tuy chưa nghe chính thức trên đài, nhưng không biết ai đã chép được từ báo nào, Báo Tây Nguyên.

Tết Dương lịch ngày 1 tháng 1 năm 1969 được tổ chức rôm rả. Nhân dịp Viện được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng 3 và ngày kỷ niệm ba năm ngày thành lập Viện 211.

Tối 31 tháng 12 có chiếu phim. Ngày mùng 1 mít tinh có múa lân và liên hoan văn nghệ. Đông đảo thương bệnh binh, nhân viên, đội văn công xung kích, hơn 50 đại biểu các đơn vị bạn, phòng Hậu cần, Ban Quân y, có đại biểu rất nhiệt tình từ xa như anh Thanh, Chính uỷ trường Quân chính, cách hai ngày đường và tuy đau lưng, cũng chống gậy đến dự. Nhiều nhân viên đi công tác ở các đơn vị như DT4, trường Văn hoá dân tộc, khoa 31 đi tăng cường cho Viện 1 từ tháng 8, cũng trở về đơn vị dự liên hoan.

Đã có quyết định giảm biên chế Bệnh viện... Một số cán bộ yếu sức được về hậu phương trong đó có anh Quảng - Chính trị viên khối Ngoại. Anh Quảng mất ngủ mấy đêm liền, nhớ tiếc đơn vị. Hôm qua, quanh nhà anh Quảng tấp nập anh em đến tiễn đưa, tới khuya mới dứt ra về.

Mặc dầu khó khăn gian khổ còn đầy rẫy trước mắt, nhưng không ai muốn rời chiến trường trong lúc này.

Mấy hôm nay có không khí chờ đợi cuộc bàn giao chính quyền giữa hai Tổng thống Mỹ Giônxơn sang Nichxơn, vào ngày 20 tháng 1 năm 1969. Nhưng theo nhận định của Bộ Chính trị khả năng Mỹ ký một hiệp định tổng quát về việc rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, chắc không xảy ra.

Từ hai tháng nay, bộ đội đã được nghỉ ngơi, củng cố, chỉnh huấn, học tập quân sự, nay lại rục rịch lên đường. Trong khi chủ lực nghỉ thì du kích và bộ đội địa phương tiếp tục hoạt động. Đang chuẩn bị cho một khoa đi phục vụ tuyến trước. Có tin một trung đoàn địch nhảy xuống T30. Trung đoàn 24 được lệnh xuất kích.

Từ chủ nhật 2 tháng 1, bắt đầu việc phát nương. Đội tăng gia tập trung của Viện có 56 người, bắt đầu phát cây con. Chỉ huy Viện có quyết định hàng tuần giành một ngày vào ngày chủ nhật cho công tác tăng gia. Ăn cơm trưa ở nương. Cơm độn khoai. Mọi người đều vui vẻ.

Chủ nhật vừa rồi là ngày lao động nhưng tôi không đi được vì phải mổ cấp cứu cho một bệnh nhân tắc ruột. Một cục cứng to bằng nắm tay làm tắc một đoạn ruột non. Đoạn ruột phình to gần hoại tử. Rạch ruột lôi ra được một cục xơ quấn chặt như một hòn đá to trong ruột. Anh bạn này mấy năm trước, gặp một cây hồng chín trong rừng, ăn một bữa hồng thoải mái, nuốt cả vỏ lẫn hột. Sau đó bị đau bụng quằn quại nên Quân y đơn vị chuyển về Viện điều trị.

Sau ca mổ vừa về tới nhà, lại dự hội chẩn một trường hợp sốt nôn ra mật, đái ra huyết cầu tố. Đây là trường hợp thứ 4 trong năm qua, sau trường hợp anh Lạc. Cứu được 3 trong đó có trường hợp rất nặng, có lúc tưởng không cứu được, nhưng rồi cũng khỏi. Kinh nghiệm điều trị được xây dựng dần dần.

Ngày 4 tháng 2 năm 1969. Nhận được thư của trường Quân chính. Ngoài bì đề: “Thư riêng, đưa tận tay”. Tôi hơi ngạc nhiên, ngờ có chuyện bất thường, lo lắng mở thư ra xem. Thư cho biết cậu Y, giáo viên của trường, hồi 8 giờ ngày 31 tháng 1 mang một khẩu súng AK vào rừng đi săn. Sau đó khoảng 1 tiếng, dân địa phương đến báo có biệt kích xuống khu vực. Nhà trường liền cho lực lượng truy lùng. Bọn biệt kích bị đánh bật, phải rút chạy bằng trực thăng. Nhưng từ hôm đó không thấy Y trở về. Anh Hân, viết thư để hỏi xem Y có sang Viện chơi hay không?

Y là em họ tôi, là một giáo viên trường Văn hoá Dân tộc, vừa học vừa làm ở Hoà Bình. Năm 1968, Y đi bộ đội và vào B3, bị ốm vào Viện 211 điều trị và tôi gặp bất ngờ trong một buổi điểm bệnh. Gặp nhau ở chiến trường nên hai anh em đều rất mừng. Y kể lại cho tôi nghe tình hình gia đình sau khi tôi rời Hà Nội. Vì là giáo viên văn hoá cũ nên sau khi ra Viện, Y được điều về dạy văn hoá ở trường quân chính của Tây Nguyên, và thỉnh thoảng khi nào rỗi rãi vẫn sang Viện chơi với tôi.

Nhưng lần này thì Y không sang. Trường Quân chính đã cho đi tìm trong rừng nhưng không thấy tăm hơi, chỉ còn hy vọng là Y sang Viện nếu không thì có thể bị biệt kích bắt cóc đưa lên máy bay. Để đề phòng trường Quân chính đã phải tạm thời di chuyển đi chỗ khác. Tuy nhiên 3 ngày, 5 ngày rồi một tuần trôi qua, tình hình vẫn yên tĩnh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:41:34 pm »


Ngày 23 tháng 2 năm 1969. Tết Nguyên đán thứ 3 ở chiến trường. Đêm 29 Tết, tổ săn bắn được một con nai nặng hơn 100 kg thêm vào tiêu chuẩn Tết khá đầy đủ, có thịt bò, thịt lợn, có gà tăng gia. Chiều Ba mươi và sáng mồng Một đi chúc Tết trong đơn vị. Trưa mồng một Tết, chúng tôi rủ nhau lên Phòng Hậu cần chúc Tết. Ba lô súng ngắn, trời nóng, cởi quần dài, mặc quần đùi, áo may ô đi. Dọc đường gặp anh em trên Phòng xuống chúc Tết Bệnh viện, chụp ảnh kỷ niệm... Trong tháng Giêng có tin quân Mỹ rút 5 vạn quân, bắt đầu chiến lược phi Mỹ hoá cuộc chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước. Nhưng đây là số quân đã hết hạn phục vụ ở Việt Nam. Tuy nhiên chúng rút về mà không bổ sung quân thay thế.

Về phía ta, từ đầu tháng 2, bắt đầu một đợt tấn công và nổi dậy mới, đồng loạt tấn công hơn 100 thị xã, thị trấn, đô thị.

Ngày 25 tháng 4 năm 1969. Từ đầu tháng 4, như thường lệ sau mỗi đợt chiến đấu là các Hội nghị tổng kết: Hội nghị tổng kết chiến dịch Xuân 1969, Hội nghị toàn chiến trường, Hội nghị Hậu cần, Hội nghị Quân y.

Hôm 21 tháng 4 năm 1969 kết thúc Hội nghị Quân y trên đường trở về đơn vị, thấy có tiếng máy bay và tiếng bom, súng bắn phá ở xa xa về phía trước mặt. Lúc đầu nghĩ có lẽ là nương tăng gia của Viện. Nhưng về đến Q5, gặp đội phẫu của DT3 cho biết: địch đang bắn phá vào Viện. Tiếng máy bay, tiếng bom, rốc két, đại liên nổ liên tục, càng ngày càng rõ. Chúng tôi sốt ruột như điên, vừa đi vừa chạy để chóng về nhà. Tới nương rau của Viện, tiếng nổ càng to, máy bay quần lượn sát ngọn cây. Mỗi khi máy bay tới gần, phải nấp sau những gốc cây to chờ cho chúng qua đầu lại vọt sang một gốc cây khác. Cứ như vậy vừa tránh máy bay vừa tiến dần về đơn vị.

Về đến đơn vị thì cũng vừa lúc chúng chấm dứt cuộc bắn phá. Cây rừng hai bên đường còn cháy nghi ngút, cây, cành lá gẫy đổ ngổn ngang trên đường. Một cây cổ thụ, thân to bằng hai người ôm, đứng giữa rừng cháy bùng bùng như một bó đuốc. Nhà cảnh vệ mới xây dựng, to đẹp nay chỉ còn là một đống than. Ở lán bên cạnh, anh Tấn Trưởng ban Hành chính của Viện, đang ngồi trước cửa hầm gọi điện tíu tít đi các nơi.

Thấy tôi về anh Tấn dừng gọi điện thoại, báo cáo tóm tắt tình hình đơn vị và cho biết các anh chỉ huy Viện đang hội ý ở nhà Y vụ.

Từ lúc 9 giờ sáng, máy bay trực thăng đến hoạt động ở khu vực Viện. Chúng hạ xuống để thả biệt kích. Các tổ chiến đấu của các khoa, khoảng hơn 40 tay súng, triển khai dọc đường giao liên bên cạnh Viện, bắn máy bay, thu hút hoả lực của chúng ra ngoài Viện để tránh thương vong cho thương bệnh binh. Một máy bay trực thăng bị rơi ngay trong khu vực Viện. Cuộc chiến kéo dài tới 6 giờ chiều. Qua trận đánh, phía ta, có đồng chí Bảy ở xưởng Dược và Ngoạn, y tá khoa 24 hy sinh, 10 đồng chí bị thương trong đó có 2 bị thương nặng. Cũng còn may là gần 1000 thương bệnh binh đang điều trị trong Viện không ai việc gì. Về tài sản bị cháy 5 nhà và 3 kho, mất khoảng 7 tấn gạo, đường, khoảng 100 bộ quần áo.

Ta bắn rơi tại chỗ một máy bay trực thăng, một chiếc HU1F, theo báo cáo có thể bắn cháy một chiếc khác nhưng chưa được xác minh. Thu 3 đại liên, 2 trung liên, 1 máy bộ đàm, một số bản đồ và quân trang, quân dụng, thuốc men.

Trong đêm hôm đó, để đề phòng địa điểm đã bị lộ, chúng có thể cho máy bay B52 đánh phá, chúng tôi quyết định cho cấp tốc sơ tán bệnh viện. Khối Nội nhờ được cơ sở của một tiểu đoàn vận tải K23, tuy không đủ chỗ ở, nhưng như vậy đã là thuận lợi rồi. Khối Ngoại chuyển ra một khu rừng, mắc võng để ở tạm.

Trong một đêm chuyển được toàn bộ 1000 thương bệnh binh ra khỏi địa điểm cũ an toàn. Sáng hôm sau, trước khi ra nơi sơ tán, tôi rẽ ra khe suối cạn bên cạnh khoa 34 xem chiếc máy bay trực thăng rơi. Thật ngạc nhiên, chiếc máy bay hầu như hoàn toàn nguyên vẹn, đỗ gọn gàng trong lòng suối. Chúng tôi leo lên máy bay, nhặt được một số tài liệu còn sót bên trong khoang. Xem xét kỹ chỉ thấy một vết đạn tròn, bằng đầu ngón tay, thủng từ sàn lên nóc máy bay. Không một vết máu, không có vết tích người chết hay bị thương trong máy bay. Anh em cảnh vệ cho là có thể chiếc máy bay đang hạ xuống để thả bọn biệt kích thì bị trúng đạn. Có thể viên đạn chỉ gây tổn thương cho một sợi dây điện gì đó trên máy bay nên không bay lên được. Nhưng vì hốt hoảng chúng không kịp sửa chữa, gọi đồng bọn đến ứng cứu, lại bị hoả lực mặt đất cản trở, nên cuộc chiến đấu kéo dài cho tới chiều, khi chúng câu hết được bọn dưới đất lên thì cuộc chiến đấu mới kết thúc.

Chúng tôi chụp ảnh kỷ niệm và dặn anh em cảnh vệ nguỵ trang chiếc máy bay và đào công sự gần đó, sẵn sàng đánh nếu chúng trở lại câu chiếc máy bay rơi. Tôi cũng nói đùa với anh em: “Cố giữ chiếc máy bay nguyên vẹn, để sau này, khi nào giải phóng xong miền Nam, Bệnh viện về thành phố, ta sẽ xây một cái bệ ở cổng Bệnh viện, đặt chiếc máy bay lên làm thành cái tượng đài kỷ niệm cuộc chiến đấu của Bệnh viện...”.

Tả lại trận đánh này, đài Tiếng nói Hoa Kỳ và BBC hôm sau đưa tin: từ vùng biên giới Việt Nam - Campuchia, phía Tây Plây-cu, lực lượng Việt Nam Cộng hoà đã đụng độ và tiêu diệt một tiểu đoàn Việt cộng đang hành quân xâm nhập vào miền Nam: Có lẽ chúng không phát hiện ra Bệnh viện chúng tôi.

Trong ngày hôm đó và các ngày sau, tình hình trở lại yên tĩnh.

Ba tuần sau, tình hình vẫn yên tĩnh, chúng tôi được lệnh trở về nơi ở cũ. Còn chiếc máy bay trực thăng rơi ở khe suối thì bị bộ đội hành quân qua lại trên đường giao liên, rẽ vào xem và vặt dần. Lúc đầu là mấy chiếc bóng bán dẫn, sợi dây điện, rồi tiến tới đục đẽo thân máy bay, cánh máy bay... mỗi người một mảnh duy-ra để làm chiếc lược chải đầu hay cái ca đựng nước. Anh em cũng tặng tôi một chiếc ê-ke làm từ một mảnh mi ca của cửa máy bay. Nhân có người ra Hà Nội, tôi gửi được ra cho con tôi làm kỷ niệm.

Chiếc máy bay, chẳng mấy chốc đã không còn dấu vết.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:42:06 pm »


Ngày 5 tháng 5 năm 1969. Đợt 4 Tổng công kích Tổng khởi nghĩa bắt đầu. Đồng loạt tấn công hơn 160 thị xã, thị trấn. Tại Hội nghị Pa-ri, ông Trần Bửu Kiếm đưa ra 10 điểm giải quyết hoà bình cuộc chiến tranh Việt Nam. Ngược lại, Nichxơn đưa ra đề nghị 8 điểm. Cuộc đấu tranh ngoại giao chắc còn lâu dài, gay go.

Tình hình tiếp tế lương thực, thực phẩm có nhiều khó khăn, tiêu chuẩn ăn của bệnh nhân bao giờ cũng được ưu tiên hơn các thành phần khác, bị giảm từ 10 đồng một ngày xuống còn có 6 đồng. Gạo phải chuyển từ Q9, cách Viện 4 ngày vừa đi vừa về. Phải tổ chức một lực lượng vận chuyển 80 người, chia làm 3 cung. Mỗi ngày chỉ lấy được 1 tấn gạo, vừa đủ ăn, không có dự trữ.

Ngày 30 tháng 5 năm 1969. Tình hình tiếp tế ngày càng khó khăn.

Từ đầu tháng 5 đã có chỉ thị phải đưa các lực lượng không thật cần thiết ở Tây Nguyên đi các chiến trường khác hoặc về hậu phương để giảm bớt miệng ăn ở chiến trường. Trường Quân chính, trường Quân y, trường Văn hoá dân tộc được lệnh rút ra miền Bắc. Phải giữ tuyệt đối bí mật. Chỉ được phổ biến cho học viên là đi vận chuyển.

Từ 15 tháng 5 có chỉ thị gấp rút giám định số thương bệnh binh mất sức chiến đấu, cho về hậu phương. Cho đi một cách rộng rãi. Mới tháng trước Viện 211 còn bị phê bình là cho đi quá rộng rãi. Thế mà bây giờ không những sổ được xếp vào loại 3, mà cả số loại 2 cũng cho ra đi. Một phái đoàn viện của 3 phòng Tham mưu, Chính trị, Hậu cần xuống Viện trực tiếp giải quyết thủ tục cho nhanh. Các giấy tờ được giảm đến mức tối thiểu: chỉ cần một bệnh án và một quyết định cho ra. Các giấy tờ khác như giấy giới thiệu sinh hoạt Đảng, Đoàn, giấy chứng nhận khen thưởng, chứng nhận huân chương v.v..., trước đây phải làm từ cơ sở, nên mất rất nhiều thời gian, nay được miễn tất, (sẽ gửi ra sau...). Một số cán bộ yếu sức cũng được giám định để về hậu phương.

Cuối tháng 5, tôi và anh Công, Chính uỷ Viện được triệu tập lên Phòng Hậu cần mặt trận họp. Tình hình rất nghiêm trọng: Các cuộc tấn công và nổi dậy liên tiếp trong năm qua đã tiêu thụ hầu hết số gạo, thực phẩm dự trữ.

Mặt khác, đường tiếp tế từ miền Bắc vào bị địch đánh phá ác liệt, lại gặp mùa mưa bắt đầu nên hầu như không hoạt động được, đường phía Tây, từ Campuchia sang do hoạt động của Khơ me đỏ nên cũng gặp khó khăn.

Theo tính toán, số dự trữ không còn đủ cho tới đầu mùa khô và tới vụ thu hoạch.

Đã phải tính đến việc rút toàn bộ lực lượng của Mặt trận B3 sang chiến trường khác, có điều kiện tiếp tế tốt hơn. Có thể phải rút nhanh. Đã có kinh nghiệm của khu 6, do chần chừ, mà để bộ đội chết đói dọc đường, không tới kịp nơi có gạo.

Bộ Tư lệnh Mặt trận đã quyết định trước mắt cho rút các đơn vị không thật cần thiết ở chiến trường như các trường học, số mất sức chiến đấu về hậu phương. Chuyển một số Trung đoàn vào cánh Nam. Giản chính thêm nữa các cơ sở hậu phương. Giải thể Viện 2. Chuyển Viện 1 vào binh trạm Nam, sát với Nam Bộ để ăn gạo từ phía Nam chuyển ra. Viện 211 chuyển ra cánh Bắc thay chân Viện 1. Từ 10 đến 15 tháng 6 phải tiếp nhận hai ban của Viện 1, sau đó đến 20 tháng 6 hoàn thành việc bàn giao.

Ngày 25 tháng 6 năm 1969. Sau hội nghị ở Phòng hậu cần Mặt trận, anh Công về viện trước để chuẩn bị cho đơn vị, còn tôi ở lại một ngày đi thăm cơ sở của Viện 1 và lên phương án di chuyển thay chân Viện 1.

Viện 1 ở trong một thung lũng hẹp gần bờ sông Đắc Mế, bao bọc chung quanh bởi những dẫy đồi cao, trong một khu rừng vầu, tre, nứa thuộc cánh Bắc mặt trận Tây Nguyên. Rừng tre nứa, trong nhà tối, nhưng về mùa rét lại dễ sưởi ấm, không sợ lộ ánh sáng ra ngoài. Mùa khô, cũng tức là mùa đông ở cánh Bắc lạnh hơn ở cánh Trung nhiều. Viện 1 có truyền thống làm nước. Khi di chuyển đến bất cứ địa điểm nào, anh em cũng đều tìm được một dòng suối ở trên cao, dùng các máng tra, dẫn nước về đến bếp ăn rất thuận tiện và sạch sẽ. Nhưng ở đây cũng có khó khăn về củi. Không có củi gỗ. Củi tre nứa chỉ cháy vèo một lúc là hết. Những bộ phận dùng nhiều củi như Dược sẽ khá vất vả. Cây lá Đông y ở đây cũng hiếm. Cây săng lẻ, đầy rẫy ở cánh Trung, nhưng ở đây bói không ra.

Nương rẫy ở đây nằm dọc theo bờ sông Đắc Mế. Đất đai màu mỡ, rừng tre nứa, phát nương rất nhanh, không phải chặt cây trong rừng già như cánh Trung.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2010, 01:42:26 pm »


Ngày 5 tháng 6 bộ phận tiền trạm rời cánh Trung, nơi chúng tôi ở hơn 2 năm nay, để lên đường ra cánh Bắc. Ngày 7 tháng 6, sau khi bàn giao, 4 khoa lâm sàng cùng các khoa phi lâm sàng lên đường tiếp, dồn thương bệnh binh đang điều trị cho ba khoa ở lại cánh Trung, khi giải quyết hết sẽ lên sau.

Chỉ huy Viện chia nhau, tôi, anh Âu, anh Công chỉ huy bộ phận ra cánh Bắc. Anh Bích, anh Toản ở lại cánh Trung.

Sau hơn hai năm ở cánh Trung, các khoa đều có nhiều đồ đạc lỉnh kỉnh. Đặc biệt mỗi khoa đều có đàn lợn, gà phải giải quyết làm thịt, liên hoan và làm lương khô, một số còn lại phải đưa lên cánh Bắc tăng gia.

Làm xong công tác chuẩn bị, tôi bị sốt mất hai ngày, phải nghỉ lại. Ngày 12 tháng 6 mới lên đường. Anh em ưu tiên cho mượn một xe thồ. Đẩy xe đi. Đường đi khá vất vả. Dốc nhiều, đường trơn. Lên tới Q7 gặp đội thồ, thấy tôi đẩy xe, anh em thương hại cử một đồng chí đẩy hộ lên tới Viện 1. Ở Viện 1, từ mấy hôm nay các khoa đã nhận bàn giao. Quân số thương bệnh binh hiện nay của Viện 1 là 1100, trong đó quá nửa là thương binh. Ở cánh Trung vẫn còn xấp xỉ 600 thương bệnh binh. Như vậy toàn Viện đang phải điều trị cho khoảng 1700 thương bệnh binh.

Công tác tăng gia khá bê bối. Phải tiếp tục quản lý 50 hecta ở địa điểm cũ. Lên đây lại phải tiếp nhận của Viện 1, 130 hecta nữa. Nương ở dọc sông Đắc Mế, lúa ngô đang mọc rất đẹp, nhưng không biết có giữ được đến vụ thu hoạch hay không. Trong cánh Trung, cỏ mọc ngập đầu nên hai khoa 32, 23 còn phải ở lại làm cỏ vài ngày rồi mới lên đây được.

Ngày 15 tháng 6, Giải phóng báo tin đặc biệt: Thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.

Đợt 4 sắp kết thúc, các cơ quan chỉ huy bắt đầu rút về phía sau. Mấy hôm nay đang vây ép Plây-cần. Máy bay trực thăng không xuống được. Địch phải dùng máy bay C-130 thả dù nhưng bị bắn rơi mấy chiếc. Tuy nhiên sức ép của ta quanh Plây-cần cũng bị lỏng dần do thiếu gạo, phải rút bớt quân, mặc dù thời cơ chiến đấu vẫn còn.

Chưa bao giờ thấm thía ý nghĩa và sức mạnh của “Tư lệnh Gạo” như lúc này. Mọi kế hoạch ở chiến trường từ chiến lược, chiến thuật, bố trí lực lượng, lựa chọn hướng đánh đều do “Tư lệnh Gạo” quyết định một phần lớn.

Có quyết định của cấp trên tập trung số chị em phụ nữ trước đây ở rải rác các đơn vị về Viện 211. Năm 1966, lúc mới vào Viện có 84 chị em nữ, đa số là thanh niên xung phong quê ở Hà Tĩnh, Quảng Bình. Đến nay, một số ốm đau, bệnh tật được giải quyết cho về hậu phương. Nói chung, chị em làm việc rất tốt, chịu đựng gian khổ, thiếu thốn có khi còn hơn cả nam giới. Vào chiến trường nam giới đã khổ, nhưng chị em phụ nữ còn khổ nhiều hơn. Những năm đầu 1966-1967, thiếu cả xà phòng, nhiều chị em có chấy, phải vận động chị em cắt tóc ngắn. Nhiều cô vừa khóc vừa cắt mớ tóc dài mượt mà của mình. Chị em tham gia mọi công việc của Bệnh viện, từ chuyên môn, đến tăng gia sản xuất, vận chuyển, xây dựng hay chiến đấu. Trong lần máy bay địch bắn phá Bệnh viện vừa qua, o Vân, khoa 40 đã dũng cảm nhảy lên dập tắt lửa đang bùng bùng cháy trên nóc nhà, trong khi máy bay địch đang bắn phá.

Phụ nữ trong chiến trường như những bông hoa tươi mát làm dịu bớt không khí khắc khổ, ác liệt của chiến tranh. Tuy nhiên không phải là không có chuyện. Khoa 24 có cô y tá xinh xắn, Chủ nhiệm phàn nàn: Thanh niên nó đến chơi đông làm mất thì giờ quá. Tôi khuyên: Anh cứ bắt mỗi thằng đến chơi phải vác cho khoa một cây tre là anh có đủ tre xây dựng đó!

Mặc dầu có chủ trương vận động “ba khoan”, nhưng vẫn không thể tránh được những mối tình vụng trộm.

Vừa lên tới địa điểm mới, tôi đã có công việc phải làm: Cô X. Y tá, có thai đã gần ba tháng. Phải thuyết phục phá thai. Lại phải làm kín đáo để tránh tiếng tăm, ảnh hưởng đến hạnh phúc lâu dài của chị em sau này. Công việc khá vất vả. Không có bàn sản khoa, phải dùng một bàn tre, bốn chân chôn xuống đất, buộc thêm hai cọc tre để treo hai chân. Đèn soi vẫn là chiếc đèn xe đạp. Bộ dụng cụ nong cổ tử cung bị thiếu một số cây. Phải dùng những chiếc đũa tre vól thành những cỡ to nhỏ khác nhau bọc các ngón găng cao su và luộc lên để sát trùng.

Tội nghiệp cô bé biết khuyết điểm nên đành nghiến răng chịu đựng không dám phàn nàn kêu ca...
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM