Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:23:30 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước hội nghị Paris  (Đọc 77328 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #140 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2009, 11:06:14 am »

Trong đề nghị của Ha-ri-man đáng chú ý là ông ta đã nói Mỹ sẽ ngừng ném bom vĩnh viễn. Ngày 28 tháng 1 năm nay chúng tôi đã đòi Mỹ ngừng ném bom không điều kiện. Chữ vĩnh viễn có nghĩa lắm, nhưng Mỹ lại đề ra điều kiện cho việc ngừng ném bom: phải nói chuyện nghiêm chỉnh và có hiệu quả, và không tăng thêm viện trợ cho miền Nam nên lời nói của ông Ha-ri-man mất ý nghĩa, không có gì mới so với trước.

Việt Nam đã nói rõ lập trường của mình nhiều lần: cơ sở để giải quyết vấn đề là bốn điểm đề ra từ ngày 8 tháng 4 năm 1965; để nói chuyện thì có tuyên bố ngày 28 tháng 1 năm 1967 của đồng chí Nguyễn Duy Trinh. Đó là lập trường nguyên tắc không có nhân nhượng.
Việt Nam không phản đối nói chuyện, phải có nguyên tắc. Mỹ phải chấm dứt đánh phá miền Bắc không điều kiện. Sau khi ngừng ném bom một thời gian để thử thách lòng thành thật của Mỹ, sẽ có nói chuyện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Việt Nam không bao giờ nói chuyện với Mỹ dưới bom đạn hay dưới sự đe doạ của bom đạn. Dư luận thế giới ngày càng đồng tình với lập trường đó. Nói chuyện hay không là tuỳ Mỹ, Việt Nam đã sẵn sàng.

Chúng tôi đồng ý là cần vận động dư luận ủng hộ Việt Nam, hơn nữa, cần giúp cho phái bồ câu tiến lên nữa. Đó là chính sách đúng đắn, khôn ngoan cần phải làm. Vì vậy, đến một lúc nào đó thì Việt Nam có thể tiếp xúc với Mỹ. Và khi đã nói chuyện là phía Việt Nam nghiêm chỉnh, còn nói chuyện có kết quả hay không là do phía Mỹ. Không ai có thể nói trước là nói chuyện sẽ có kết quả hay không có kết quả.
Johnson rất lúng túng, chỉ muốn phía Việt Nam để cho Mỹ vượt qua được năm khó khăn trước tuyển cử, còn lập trường của Mỹ vẫn là lập trường chiến tranh. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh này, nếu Mỹ chịu ngừng ném bom không điều kiện thì Việt Nam cũng nhận lời nói chuyện, dù biết rằng Mỹ chưa thành thật. Còn Mỹ muốn làm chiến tranh thì Việt Nam sẽ tiếp tục chiến đấu.

Đầu tháng giêng năm 1968, một quan chức ngoại giao cao cấp Ru-ma-ni sang Oa-sinh-tơn để trực tiếp trao trả lời của Hà Nội cho Mỹ. Phía Mỹ cho rằng không có gì mới trong lập trường của Hà Nội và không có gì khác với điều họ đã nói trước đây nhưng đánh giá thông báo của Ru-ma-ni là rất chính xác và khách quan. Tháng hai, Ru-ma-ni lại chuyển cho Bộ Ngoại giao Mỹ trả lời cho Hà Nội qua con đường ngoại giao, Johnson vẫn cho rằng mọi cố gắng bắt liên lạc với Hà Nội và nói chuyện về hoà bình là "vô ích".

Đến đây chấm dứt các cuộc tiếp xúc bí mật giữa Mỹ và Việt Nam.

Hơn hai mươi năm sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, nhiều nhà học giả Mỹ nêu lên vấn đề "Những cơ hội hoà bình bị bỏ lỡ". Cách đặt vấn đề của họ là: trong thời gian 1965 - 1967, Mỹ đã nhiều lần "ngừng ném bom", tìm cách tiếp xúc với Hà Nội nhằm đi tới nói chuyện, nhưng hai bên không đi tới nói chuyện. Liệu có cơ hội nào bỏ lỡ không?”

Cuối năm 1996, ông Macnamara sang Hà Nội để bàn việc tổ chức hội thảo Mỹ - Việt về "những cơ hội bị bỏ lỡ". Chúng ta biết ông Macnamara là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thời Tổng thống Johnson và sau xin từ chức, tách ra khỏi ê-kíp Johnson vì bất đồng ý kiến về vấn đề chiến tranh Việt Nam.

Năm 1995, đúng hai mươi năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, ông công bố cuốn hồi ký nổi tiếng nêu những sai lầm của Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Ta hoan nghênh ý kiến của ông Macnamara và tháng 6 năm 1997, các nhà nghiên cứu hai nước gồm những quan chức đã tham gia hoạch định chính sách thời chiến tranh, các tướng lĩnh đã từng chỉ huy ở Việt Nam, các nhà sử học, một số nhân chứng đã họp tại Hà Nội, Kết quả lớn nhất đạt được là hai bên càng hiểu nhau thêm.

Nói là có tiếp xúc bí mật nhưng cũng có những cuộc tiếp xúc qua trung gian. Các nhà học giả Mỹ đã nêu những trường hợp Mỹ ngừng ném bom miền Bắc mà cuốn sách này đã kể lại: Hoa tháng năm, Bông Cúc vạn thọ, Hoa Hướng Dương, XYZ, Pin ta, Pensylvania.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #141 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2009, 11:06:58 am »

Các sáng kiến hoà bình này của Mỹ được đưa ra từ tháng 4 năm 1965 đến hết năm 1967. Thời kỳ này là thời kỳ Mỹ phát động cuộc chiến tranh lớn đối với cả hai miền Việt Nam và ngày càng đẩy mạnh chiến tranh nhằm giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1968.

Để hình dung được mức độ chiến tranh, chỉ cần nhớ lại rằng đến cuối năm 1967, tổng số quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã lên tới năm trăm nghìn người. Chính Johnson đã nói trong Hồi ký của ông rằng kế hoạch chiến tranh của ông bao giờ cũng có phần hoạt động ngoại giao, chính trị đi kèm.

Bản tuyên bố Baltimore nói Mỹ sẵn sàng "nói chuyện không điều kiện" và sẽ đóng góp một tỷ đô-la để phát triển Đông Nam Á kể cả Bắc Việt Nam chỉ là để các nhà ngoại giao Mỹ đi khắp thế giới nêu "thiện chí hoà bình" của Johnson.

Đợt ngừng ném bom ba mươi bảy ngày là để Johnson tiến hành cuộc vận động ngoại giao có tầm cỡ hành tinh, cuộc vận động ngoại giao lớn nhất trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông. Ngoại giao của Johnson chỉ là để giải thích việc đưa quân Mỹ trực tiếp chiến đấu ở miền Nam Việt Nam và che giấu việc tăng cường chiến tranh sau đó. Cái gọi là “nói chuyện không điều kiện" chỉ có nghĩa là nói chuyện theo điều kiện của Mỹ. Cái gọi là "các sáng kiến hoà bình" chỉ là nhằm che giấu âm mưu mở rộng chiến tranh.

Khi quân Mỹ trắng trợn chà đạp lãnh thổ Việt Nam, ném bom bắn phá miền Bắc, làm sao người Việt Nam có thể tin ngay luận điệu "nói chuyện không điều kiện”, "các sáng kiến hoà bình". Trong thời gian đầu của chiến tranh, hai bên tham chiến còn nghi ngờ nhau, còn phải tìm hiểu nhau, cố giành ưu thế là chuyện tất nhiên.

Với cái lùi hai mươi năm, nhìn lại các “sáng kiến hoà bình" của Johnson trong thời kỳ đầu chiến tranh, người ta dễ hiểu tại sao nó không gây được tiếng vang nào về phía Việt Nam. Các sáng kiến đó đã bị thất bại chứ không bị bỏ lỡ.

Nếu phía Mỹ thật sự mong muốn có quan hệ hữu nghị, hoà bình và bình đẳng đối với Việt Nam thì trái lại chính là có cơ hội mà Mỹ đã bỏ lỡ. 

Cơ hội Mỹ bỏ lỡ đầu tiên là sau Cánh mạng tháng Tám năm 1945. Khi đó Việt Nam đã hợp tác với đồng minh trong chiến tranh chống Nhật Bản, không những Việt Minh giúp đỡ Mỹ về tin tức, cứu hộ các phi công Mỹ mà ngay Mỹ cũng đã cử một bộ phận sang khu giải phóng làm việc với Việt Minh, cung cấp một số vũ khí cá nhân, điện đài cho Việt Minh.

Việt Minh đã lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa, giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật lập nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần kêu gọi Mỹ và đồng minh công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giúp Việt Nam giữ vững độc lập. Nhưng các nhà lãnh đạo Mỹ không đáp ứng yêu cầu của Chính phủ Việt Nam mà còn công nhận Pháp có "chủ quyền" ở Đông Dương và giúp Pháp tái chiếm Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, cột Mỹ vào cuộc chiến tranh Đông Dương cho đến Điện Biên Phủ.

Ai biết tình hình Đông Dương sẽ diễu biến thế nào nếu Mỹ công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và không viện trợ cho thực dân Pháp, ít nhất Mỹ cũng tránh khỏi "dính líu” vào Việt Nam và giữ được bộ mặt đẹp đẽ trong lòng người Việt Nam.

Cơ hội bỏ lỡ thứ hai là không thi hành Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Việt Nam. Mỹ đáng lẽ phải hiểu hơn ai hết rằng chính Mỹ, sau khi Hội nghị đã họp rồi, vẫn ngăn cản Anh, Pháp sớm đi đến kết thúc chiến tranh Đông Dương và chỉ sau khi Thủ tướng Anh Winston Churchill và Ngoại trưởng Anthony Den đến Oa-sinh-tơn bàn với Mỹ ngày 24 tháng 6 năm 1954 và hai bên thoả thuận giải quyết vấn đề Đông Dương theo bảy điểm sau này được ghi trong một bản bị vong lục gửi Pháp.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #142 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2009, 11:07:38 am »

Hiệp định Giơ-ne-vơ ký ngày 20 tháng 7 đã đáp ứng yêu cầu của Mỹ trong bảy điểm đó. Như vậy Hiệp định Giơ-ne-vơ là một Hiệp định quốc tế đã được sự đồng ý của cả năm nước lớn: Anh, Mỹ, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc.

Từ ngày 18 tháng 6, Pháp đã chịu để Ngô Đình Diệm, người của Mỹ, về Sài Gòn làm Thủ tướng thay Hoàng thân Bửu Lộc. Phía Việt Nam đã chấp nhận giải pháp Giơ-ne-vơ dù có điều chưa thoả mãn và quyết tâm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định như thực tế sau này chứng tỏ.

Tại sao Mỹ không chịu ký Hiệp định Giơ-ne-vơ và ngay ngày bế mạc Hội nghị tuyên bố không bị Hiệp định Giơ-ne-vơ ràng buộc? Mỹ đã dùng Ngô Đình Diệm phá hoại việc thi hành Hiệp định đó, phá hoại việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam, biến miền Nam thành Việt Nam Cộng hoà, một quốc gia riêng rẽ.

Cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi mốt năm mà Mỹ phải nai lưng ra gánh chính là bắt nguồn từ sự sai lầm tày trời này. Đây là hơn một sự sai lầm, mặc dầu cũng là một sự bỏ lỡ.

Cơ hội bỏ lỡ thứ ba là đề nghị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam về việc đưa miền Nam Việt Nam vào con đường hoà bình, trung lập. Cơ hội này vào thời điểm chính sách can thiệp và ủng hộ Ngô đình Diệm đã thất bại nghiêm trọng: chế độ Ngô Đình Diệm tàn ác đến mức toàn dân miền Nam và cả nhiều tầng lớp thành thị đều phẫn nộ, miền Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng chính trị, quân sự triền miên. Nhà Trắng phải tính chuyện “thay ngựa giữa dòng".

Thấy sự sa lầy của Mỹ, nhiều nhà chính trị của Mỹ người thì khuyên nên rút lui khỏi miền Nam Việt Nam, người thì khuyên nên biến miền Nam và cả Đông Nam Á thành trung lập. Tướng De Gaulle cũng khuyên để miền Nam đi vào hoà bình trung lập.

Ngay từ khi được thành lập, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam cũng đã nêu việc xây dựng miền Nam hoà bình trung lập. Sau khi nổ ra cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 khiến anh em Diệm-Nhu bị sát hại, Mặt trận lại đề nghị các đảng phái chính trị miền Nam thành lập Chính phủ Liên hiệp Dân tộc và đưa miền Nam tiến lên theo con đường hoà bình trung lập.

Khi đó Việt Nam và Mỹ đều thống nhất quan điểm về trung lập theo các quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1962 về Lào, mà Việt Nam và Mỹ đều đã ký. Như thế Mỹ không những giữ được một chính quyền hoàn toàn thân Mỹ nhưng lại vẫn bảo vệ quyền lợi của Mỹ, trước mắt tránh cho Mỹ một cuộc chiến tranh không thể thắng được.

Không tán thành ổn định miền Nam bằng một chính phủ đoàn kết dân tộc, Mỹ lại ủng hộ các phe quân sự, chính trị, khiến miền Nam Việt Nam phải trải qua hơn một chục cuộc đảo chính trong vòng hơn một năm của chính quyền Johnson, trong hai năm đầu của cuộc chiến tranh Việt Nam, dù có tạm ngừng hay không tạm ngừng ném bom, chỉ là những sáng kiến để che giấu việc đẩy mạnh chiến tranh ở cả hai miền Việt Nam và tất nhiên không được đáp ứng tích cực, do đó cũng không thể là những cơ hội bỏ lỡ.

Những cơ hội mà Mỹ đã bỏ lỡ nằm trong khoảng thời gian trước khi Mỹ dính líu sâu vào miền Nam, Hoặc phải có những thay đổi so sánh lực lượng quan trọng mới có cơ hội cho Việt Nam và Mỹ ngồi vào bàn thương lượng và bàn bạc nghiêm chỉnh.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #143 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2009, 11:08:30 am »

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
CUỘC TIẾP XÚC CÔNG KHAI

Trước sự thất bại của các cố gắng của Bu-ca-rét về công thức Xan An-tô-ni-ô, Johnson lại phải suy nghĩ về câu hỏi mà Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Macnamara đã nêu hồi tháng 9 năm 1967: Nếu việc tăng thêm quân không cải thiện được tình hình Việt Nam thì làm gì? ông cũng cảm thấy nhưng không tìm được câu trả lời.

Cuối tháng 10 năm 1967, khi ăn cơm với Tổng thống, Macnamara lại tuyên bố rằng: Theo ông nghĩ, việc Mỹ theo đuổi hành động của mình ở Đông Nam Á là nguy hiểm, tốn kém và không thoả mãn lòng dân.

Theo yêu cầu của Tổng thống, ông đã gửi Tổng thống một bản báo cáo viết để trình bày quan điểm của ông, ông cho rằng các tướng lĩnh Mỹ ở miền Nam Việt Nam sẽ bị những tổn thất mới và sẽ có những yêu cầu mới như mở rộng đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Nhưng vấn đề là trong trường hợp đó Mỹ có duy trì được cố gắng của mình ở Nam Việt Nam trong thời gian cần thiết để đạt các mục đích của Mỹ hay không.

Ông nêu những giải pháp thay thế có thể có được nhưng lại bác bỏ từng giải pháp một với lý do nó sẽ dẫn tới những hậu quả mở rộng chiến tranh. Ông cho rằng các giải pháp thay thế nằm trong việc ổn định các cuộc hành quân của Mỹ ở miền Nam (với việc thương vong của Mỹ) và hoạt động không quân của Mỹ ở miền Bắc cũng như việc chứng tỏ rằng các cuộc oanh kích của Mỹ không ngăn cản các cuộc thương lượng dẫn tới một giải pháp hoà bình.

Ông kiến nghị ngừng ném bom miền Bắc từ nay đến cuối năm. Ngừng ném bom như vậy có hai điều lợi: hoặc là Hà Nội có đáp lại, nghĩa là song song giảm hoạt động tiến công của họ hay đưa ra một sáng kiến gì đó dẫn tới nói chuyện hoà bình hay cả hai. Nếu Hà Nội không phản ứng thì cũng rõ là Hà Nội chứ không phải Mỹ ngăn cản một giải pháp hoà bình.

Macnamara kết luận báo cáo của ông bằng ba kiến nghị: thông báo ý định của Mỹ là ổn định cố gắng của mình (tức là ấn định một mức quân số - tác giả) và không phát triển các cuộc hành quân ở miền Nam, miền Bắc quá mức đã dự định; ngừng ném bom trước cuối năm 1967 và lại nghiên cứu các cuộc hành quân ở miền Nam nhằm giảm bớt thương vọng của lính Mỹ và tăng thêm trách nhiệm của quân đội Sài Gòn để tự đảm nhiệm an ninh của họ.

Đề nghị của Macnamara đánh dấu sự bất đồng ý kiến sâu sắc của ông với Tổng thống và còn kéo dài cho tới khi ông từ chức. Đối với Johnson đó là vấn đề sẽ còn theo đuổi ám ảnh ông có lẽ cho đến khi tiếng súng Tết Mậu Thân buộc ông phải có sự lựa chọn.

Ông hỏi ý kiến tất cả các cố vấn của ông ở Nhà Trắng, ngoài Nhà Trắng và các tướng lĩnh chỉ huy ở miền Nam Việt Nam. Ngoại trưởng Dan Rusk đồng ý với Macnamara là nên cố định quân số ở một mức nào, đồng ý để các quan chức Sài Gòn có nhiều trách nhiệm hơn đối với an ninh của quân Sài Gòn, không tin việc ngừng ném bom dài ngày có thể có kết quả nhưng đồng ý nên giảm bớt ném bom vùng Hà Nội, Hải Phòng.

Cố vấn an ninh Nhà Trắng Rostow, bấy giờ là cố vấn của Tổng thống, cho gợi ý của Mácnamara là một "chiến lược thụt lùi". Clark Clifford sau này sẽ thay Macnamara làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cho rằng đó là một kế hoạch sẽ làm chậm khả năng chấm dứt xung đột, không tán thành ấn định quân số.

Tướng Westmoreland kiên quyết phản đối ngừng ném bom miền Bắc hy vọng mức quân số năm trăm hai mươi lăm nghìn sẽ không phải vượt và tin rằng từ nay đến cuối năm 1969 Mỹ có thể bắt đầu rút lực lượng Mỹ và sau đó giảm bớt cam kết của Mỹ một cách có kế hoạch. Đại sứ Ellsworth Bunker cho rằng vấn đề ấn định quân số tuỳ thuộc Hà Nội có phát triển thêm hoạt động quân sự không, và phản đối thả mìn các cảng và đánh phá đê điều.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #144 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2009, 11:09:41 am »

Johnson dành hàng tuần suy nghĩ về đề nghị của Macnamara và ngày 18 tháng 12 năm 1967, ông thảo một bị vong lục đề đưa vào lưu trữ trong đó ông ghi ý kiến của ông về đề nghị của Macnamara:

- Ngừng ném bom đơn phương và hoàn toàn vào lúc này là một sự sai lầm nhưng không loại trừ một đợt ngừng ném bom tương lai nếu chúng ta có lý do để tin là chúng ta tiến lại gần hoà bình.

- Phản đối thông báo rằng chúng ta ấn định mức quân số. Không có lý do gì tăng thêm quân Mỹ và đồng ý với đề nghị của Macnamra về việc Mỹ giảm các cuộc hành quân đề giảm thương vong về lính Mỹ.

Như chính Johnson đã viết trong Hồi ký, đây là một "quyết định đặc biệt" trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông. Quyết định đó nêu sự lúng túng của nhà cầm quyền Mỹ trong việc ra một quyết định về Việt Nam trong bối cảnh năm 1967.

Sau khi đi Ô-xtơ-rây-li-a và miền Nam Việt Nam, cuối tháng 12 năm 1967, Johnson đi Vaticăng thăm Giáo hoàng Paul VI để trình bày chính sách Việt Nam của Mỹ, yêu cầu Giáo hoàng quan tâm số phận các tù binh Mỹ ở Việt Nam, ông hài lòng là chuyến đi vòng quanh thế giới của ông "đã được trả công đích đáng".

Khi đó Tết âm lịch Việt Nam sắp đến, Tình báo Mỹ cho biết cuộc tấn công mùa đông của Việt cộng sẽ xảy ra vào dịp Tết. Khoảng một tuần trước cuộc tấn công của Việt cộng, tướng Westmoreland báo có khả năng vùng 1 chiến thuật trong đó có cố đô Huế bị tấn công và lưu ý rằng căn cứ Khe Sanh giống căn cứ Điện Biên Phủ trước đây và cần đề phòng địch tập trung cố gắng đánh chiếm chớp nhoáng Khe Sanh để tuyên truyền, Quảng Trị và Đà Nẵng cũng có thể bị tấn công.

Trong diễn văn về tình hình liên bang đọc trước Quốc hội ngày 17 tháng 1 năm 1968, Tổng thống Johnson nói về tình hình Việt Nam mọi việc như không có gì đặc biệt. Về sau này ông nói rằng ông đã "quá cẩn thận", sợ hé điều gì thì kẻ địch sẽ hiểu là chúng ta nắm được kế hoạch của họ.

Sự giải thích đó rõ ràng không đúng với thực tế vì nó không giải tích sự bàng hoàng của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc khi cuộc tấn công Tết Mậu Thân bùng nổ.

Khi Bộ Tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn đề phòng một Điện Biên Phủ ở Khe Sanh và chuẩn bị đối phó với Việt cộng ở vùng chiến thuật 1 thì các cuộc tiến công nổ đồng loạt khắp miền Nam, ở ngay Sài Gòn, ngay trong sứ quán Mỹ.

Trong lúc Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tung quân Mỹ đi "tìm và diệt" Việt cộng và ra sức leo thang đánh phá miền Bắc, họ đã bị mất nhiều máy bay trên miền Bắc còn ở miền Nam thì các chiến dịch đầu tiên của quân Mỹ đều bị thất bại.

Sau mùa khô thứ nhất 1965- 1966, rồi mùa khô 1966-1967, cục diện chiến trường đã xoay chuyển có lợi cho cách mạng miền Nam. Nếu gây cho Mỹ một thất bại quân sự lớn trong lúc này thì không những cục diện chiến trường tiếp tục nghiêng về phía Việt Nam mà còn tác động mạnh mẽ vào tình hình nước Mỹ đang tiến tới cuộc bầu cử Tổng thống cuối năm 1968.

Từ nhận định đó, Bộ Chính trị và Hội nghị Trung ương lần thứ XIV quyết định: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ thắng lợi quyết định", dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Nguyên đán.

Kế hoạch là:

Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực vào chiến trường chính hướng đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công của chiến lược đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy đồng loạt của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn - Gia Định và Trị Thiên- Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế và các thành phố lớn miền Nam.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #145 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2009, 11:10:27 am »

Thực hiện kế hoạch trên, đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân), lực lượng vũ trang của ta đồng loạt tiến công địch, đánh thẳng vào thành phố, thị xã, các quận lỵ, căn cứ, kho tàng, sân bay, sở chỉ huy địch.

Tại Sài Gòn ta tiến công vào các cơ quan đầu não của Mỹ - Nguỵ: đại sứ quán Mỹ, Bộ Tổng tham mưu, Đài Phát thanh, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô, Bộ Tư lệnh hải quân, Sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng nha Cảnh sát, khu kho Nhà Bè, Trại thiết giáp Phù Đổng, Xưởng quân cụ 80, Trại pháo binh Cổ Loa, Trung tâm huấn luyện Quang Trung, căn cứ truyền tin Phú Lâm, suốt từ Quảng Trị đến Cà Mau địch đều bị đánh.

Johnson xác nhận ba mươi sáu trong số bốn mươi nhăm thị xã nằm trong sáu thành phố lớn, hai mươi lăm phần trăm các quận lỵ bị tiến công, riêng Huế bị chiếm trong hai mươi sáu ngày. Nhiều vùng nông thôn được giải phóng. Tin Reuter cho biết "chương trình bình định" bị thiệt hại nặng ở mười ba tỉnh, thiệt hại vừa ở mười sáu tỉnh.

Choáng người vì cuộc tổng tiến công bất ngờ trên toàn miền Nam, Johnson lại càng bối rối trước tình hình chung của nước Mỹ lúc bấy giờ. Một đội đặc công Bắc Triều Tiên thâm nhập Hàn Quốc nhằm mưu sát Tổng thống Pac Chung Hi; rồi Bắc Triều Tiên lại chiếm chiếc tàu do thám của Mỹ Pueblo, tống giam toàn bộ đoàn thuỷ thủ. Johnson phải gọi mười bốn quân dự bị thuộc hải quân và không quân để củng cố các vị trí của Mỹ tại Hàn Quốc và số quân này không lấy trong số quân cần gửi sang miền Nam Việt Nam.

Tình báo lại báo cáo Tây Béc-lin có nguy cơ một cuộc khủng hoảng mới. Hệ thống tiền tệ quốc tế bị khủng hoảng nặng. Ngân sách Mỹ thâm hụt nghiêm trọng nhất từ 1950 đến nay, kế hoạch xây dựng "xã hội vĩ đại" mà Johnson đã hứa trong cuộc vận động bầu cử thiếu tiền, nay Johnson muốn thúc đẩy nó lên, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, chống tội phạm và bảo vệ người tiêu thụ nhưng vẫn chưa có ngân sách.

Tin tức, phóng sự, hình ảnh về Sài Gòn và sứ quán Mỹ tác động mạnh mẽ đến người dân Mỹ, họ thấy đó là những hình ảnh rõ ràng, của sự thất bại. Nếu đầu năm 1967 Salsbury gửi loạt bài từ Hà Nội người dân Mỹ mới thấy sự ác liệt của chiến tranh và những tội ác của bom đạn Mỹ thì đầu năm 1968 vô tuyến truyền hình đưa vào từng nhà người Mỹ hình ảnh cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.

Các tổ chức phản chiến tăng cường hoạt động đòi chấm đứt chiến tranh, đòi chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, đòi thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Johnson gọi đó là cuộc pháo kích hàng ngày để gieo rắc chủ nghĩa bi quan.

Johnson đối phó khá dễ dàng với tình hình bán đảo Triều Tiên, bao gồm cả việc tăng cường thêm hải quân và không quân. Nhưng tình hình Việt Nam đòi hỏi giải quyết nhiều vấn đề và không vấn đề nào là dễ giải quyết cả.

Trước hết có yêu cầu trước mắt của Tư lệnh chiến trường, Tướng Westmoreland, khi đó có trong tay gần năm trăm nghìn quân trong tổng số hai trăm năm mươi hai nghìn đã phê chuẩn, ông yêu cầu gửi gấp sáu tiểu đoàn, khoảng mười nghìn quân.

Trong khi đó, Nguyễn Văn Thiệu quyết định tổng động viên nhằm bắt ngay năm mươi sáu nghìn quân. Các chuyên gia bắt tay vào việc mới thấy vấn đề không đơn giản, trái lại với hàng loạt vấn đề chính trị, quân sự, tài chính như vai trò quân Sài Gòn đến đâu để định số quân Mỹ, có gọi lính dự bị không, tốn thêm bao nhiêu tiền và lấy tiền ở đâu?
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #146 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2009, 11:11:12 am »

Johnson lập nhóm chuyên viên Clifford, người sẽ thay Macnamara làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng từ ngày 1 tháng 3 năm 1968 làm Trưởng đoàn và bao gồm những cộng sự tin cậy và tài ba của Johnson: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Dan Rusk, Bộ trưởng Bộ Tài chính Phao-lơ, Thứ trưởng Ngoại giao Nicôlas Katzenbach, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Paul Nitze, Giám đốc CIA Dich Hem, Cố vấn An ninh W.Rostow, Tướng Maxwell Taylor và một số nhân vật khác.

Mới đầu nhóm đề ra ba phương án:

Phương án một: Tăng bốn trăm nghìn quân với ngân sách bổ sung mười tỷ đô-la trong năm 1969;

Phương án hai: Tăng quân kết hợp với hạn chế ném bom tới Nam vĩ tuyến 20 để đề nghị hoà bình;

Phương án ba: Do Macnamara đưa ra là giữ quân số ở mức hiện nay và sửa đổi chiến lược chỉ bảo vệ các vùng chủ yếu và giảm bớt các cuộc hành quân trong các vùng ít dân.

Clifford đề nghị phương án bốn: Tăng viện thêm từ năm trăm nghìn đến một triệu quân.

Hỏi các tướng Uy-lơ và Westmoreland, họ cho rằng cần tăng viện hai trăm linh năm nghìn quân, nhưng trong hai tháng trước mắt tăng ngay một trăm linh tám nghìn quân. Ý kiến của hai nhân vật quan trọng nhất là của Tư lệnh ở miền Nam Uy-lơ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Macnamara. Macnamara cho rằng không nên tăng quá mức mười năm nghìn quân đã dự kiến và tăng thêm trách nhiệm tác chiến cho quân Sài Gòn. Uy-lơ cho rằng nên giữ ý kiến ông ta đưa ra trước mắt gửi hơn một trăm nghìn quân sang ngay miền Nam.

Trong lúc các cuộc bàu luận tiếp tục mà chưa đi đến kết luận gì, có nhiều tin quan trọng tác động đến cách suy nghĩ của mọi người. Trước hết là báo cáo của Westmoreland cho biết chính quyền Nguyễn Văn Thiệu có một trăm mười tám tiểu đoàn sẵn sàng chiến đấu. Thứ hai là những tin liên tiếp từ U Thant, Tổng Thư ký Liên hợp quốc, nhiều nhà ngoại giao Đông Âu, nhiều đại sứ Mỹ ở nước ngoài cho biết Hà Nội sẽ nhận thương lượng với Mỹ nếu Mỹ chịu chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam.

Như vậy vấn đề tăng viện cho đội quân Mỹ ở miền Nam lại gắn với khả năng quân Sài Gòn thay thế quân Mỹ một chừng mực nào, với vấn đề Việt Nam, Dan Rusk kiên trì ý kiến cứ ngừng ném bom miền Bắc không cần tuyên bố, không cần đòi có đi có lại, nhưng do mùa mưa bắt đầu có thể chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở lên, như vậy về quân sự cũng chẳng thiệt hại gì.

Cuối cùng nhóm Clifford kiến nghị tăng viện ngay cho miền Nam hai mươi ba nghìn quân, đòi chính quyền Sài Gòn tăng thêm quân số, chuẩn y ngay việc động viên hai trăm bốn mươi lăm nghìn quân dự bị, nghiên cứu thêm những "chỉ thị mới về chính trị và chiến lược" về Việt Nam và không để một sáng kiến hoà bình mới nào về Việt Nam.

Để có những ý kiến rộng rãi và khách quan, Johnson lại triệu tập các cố vấn phi chính phủ (thường gọi là các nhà quân sư) như cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Din A-ki-xơn, cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Gioóc-bôn, Tướng O-ma Bradlây, Mạc Gioóc-bân-dy, Ác tơ Din (người tham gia cuộc thương lượng để giải quyết cuộc chiến tranh Triều Tiên), cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính Du-glas Di-lơn, đại sứ Hen-ri Cabốt Lôdgiơ, nhà ngoại giao Rô-bớt Mơc-phy, Tướng Ma thiu Rid-quây, cựu Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Xai rớt Ven-xơ.

Ông cũng tham khảo ý kiến những nhân vật có thế lực trong Quốc hội. Có nhiều công thức hoà bình được trình lên Tổng thống, Din Ra-xcơ đã đề nghị ngừng ném bom thực tế, không nêu bất cứ điều kiện hay giả định gì.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #147 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2009, 11:12:08 am »

Công thức của một nhà ngoại giao trung lập là: một chính phủ trung lập hay một cường quốc nào khác mời Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Hoa Kỳ họp vào một ngày nào đó, một ngày trước khi họp các bên tham chiến sẽ giảm hoạt động quân sự bao gồm cả việc ngừng mọi cuộc hành quân tiến công quy mô, các thành viên trong Uỷ ban Quốc tế cũng sẽ được mời dự họp, không cần thoả thuận trước, đến ngày đã định cuộc họp cứ tiến hành dù các bên được mới có đến hay không.

Đại sứ Mỹ Ác-tơ Gioóc-bớc đề nghị ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc trong thời gian cần thiết để xem Hà Nội có thật lòng mong muốn thương lượng không, không cần nói điều kiện hay thời hạn. Công thức của đại sứ Mỹ Ses-tơ Bâu-lơ tại Ấn Độ cũng là chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc nhưng trước khi chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc thông báo cho Ấn Độ, Anh, Liên Xô, Nhật Bản, Tổng Thư ký Liên hợp quốc biết và nói rằng Mỹ chỉ chấm dứt ném bom nếu các nước khác cam kết thúc đẩy các cuộc thương lượng có ý nghĩa là hứa hợp tác với Mỹ và các nước khác để vạch một kế hoạch phát triển kinh tế ở Đông Nam Á.

Những ý kiến không tán thành chấm dứt ném bom thì có những kiến nghị chấm dứt ở vĩ tuyến 20. Hoàn toàn chấm dứt từ vĩ tuyến 20 trở lên, chấm dứt ở vĩ tuyến 17 hay phía Bắc khu phi quân sự v.v...

Theo Johnson, nhóm cố vấn phi chính phủ không nhất trí: sáu vị tán thành một kiểu xuống thang nào đó, một vị không tán thành mà cũng không phản đối, bốn vị phản đối.

Còn một vấn đề nữa làm cho Johnson suy nghĩ rất nhiều là ông có nên rút khỏi danh sách ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân chủ không? Ngay khi trúng cử Tổng thống năm 1964, ông đã có ý định và sau đó đã nhiều lần nêu vấn đề này hỏi ý kiến các cộng sự thân cận nhất. Với sự phát triển bất ngờ của tình hình Việt Nam, từ sau Tết Mậu Thân, ông càng cân nhắc vấn đề rút lui việc ứng cử Tổng thống năm 1968.

Cho đến những ngày cuối tháng 3 năm 1968, Johnson đi đến bốn quyết định:

Một: Viện trợ cho chính quyền Sài Gòn về số quân Mỹ, trang bị, tiền của không cần phải quá nhiều.

Hai: Đề nghị hoà bình của Đin Ra-xcơ là đề nghị tốt nhất.

Ba: Chính quyền Sài Gòn cần đảm nhiệm phần nhiều hơn trong chiến đấu để tự bảo vệ.

Bốn: Không ra ứng cử Tổng thống một khoá nữa.

Quyết định đó vào lúc nào? ông đã trả lời: chính xác vào hai mươi mốt giờ một phút ngày 31 tháng 3 năm 1968, khi ông đọc bài diễn văn trong phòng Bầu dục của Nhà Trắng. Trong bốn mươi nhăm phút, ông đã tả lại cuộc tấn công Tết Mậu Thân âm mưu của Việt cộng, và nói nó đã thất bại ở những điểm nào, thông báo dự định của chính quyền tăng cường quân đội Sài Gòn. Tiếp đó ông nói đã đến lúc lại nói về hoà bình và ông sẵn sàng đi bước trước trên con đường xuống thang.

"Tối nay tôi đã ra lệnh cho các máy bay và tàu chiến của chúng ta không tiến hành cuộc tiến công nào chống Bắc Việt Nam, trừ khu vực nằm ở Bắc khu phi quân sự là nơi địch đang có những cuộc chuẩn bị liên tục, trực tiếp đe doạ các vị trí tiền tiêu của đồng minh và là nơi cuộc vận chuyển của các đoàn người và đoàn tiếp tế chỉ làm tăng thêm sự đe doạ đó".

Sau cùng ông nói:

"Khi tôi nhìn con em nước Mỹ đi chiến trường xa, khi tôi thấy tương lai nước ta bị đe doạ ngay bên trong biên giới của nước ta và khi tôi nghĩ đến những hy vọng hoà bình của chúng ta và của toàn thế giới, tôi không nghĩ mình có quyền dành một ngày, thậm chí một giờ trong thì giờ của tôi ủng hộ những quyền lợi đảng phái hay bất cứ nhiệm vụ nào khác ngoài những nhiệm vụ nặng nề đặt trên vai vị Tổng thống nước các bạn.

Vì vậy tôi không mưu cầu và cũng không chấp nhận việc đảng tôi cử tôi ra ứng cử cuộc bầu cử Tổng thống sắp tới” (L.B.Johnson. Sđd, tr. 443-525.)
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #148 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2009, 10:49:47 am »

Trong suốt hai tháng, tất cả các cố vấn của Tổng thống, kể cả những tác giả của các công thức ngừng ném bom hoàn toàn hay hạn chế, đều không tin là lần này Việt Nam Dân chủ Còng hoà sẽ đáp ứng tích cực một đề nghị hoà bình mới của Johnson.

Trong chính giới, một số nghị sĩ có tên tuổi nghi ngờ tác dụng lời tuyên bố ngày 31 tháng 3 của Johnson.

Thượng nghị sĩ Uy-li-am Phun-brai nói: Tuyên bố đó chỉ là một sự thay đổi hạn chế chính sách hiện hành của Mỹ, rằng chấm dứt ném bom như thế sẽ không thúc đẩy Hà Nội đi vào thương lượng hoà bình.

Thượng nghị sĩ Phrăng Lâu-xơ cho rằng: Làm sao Cụ Hồ Chí Minh có thể có một câu trả lời khẳng định trong khi Phun-brai và nhiều người khác đả kích Chính phủ trước khi kẻ địch trả lời.

Bản thân Johnson cũng băn khoăn về điều đó. Cho nên tối ngày 31 tháng 3 ngay trước khi ngủ, ông đã cầu nguyện để Hà Nội nghe thấy lời kêu gọi của ông sẽ đáp lại

Chúa đã nghe thấy lời thỉnh cầu của Tổng thống Johnson chăng?

Từ cuối năm 1966. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định chủ trương tạo điều kiện thực hiện cục diện vừa đánh vừa đàm và đã có nhiều biện pháp để thực hiện chủ trương đó.

Ngày 3 tháng 4 năm 1968, trong một tuyên bố chính thức, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã chỉ rõ:

"Rõ ràng Chính phủ Mỹ chưa đáp ứng nghiêm chỉnh và đầy đủ đòi hỏi của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, của dư luận tiến bộ Mỹ và dư luận thế giới. Tuy nhiên về phía mình, Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố sẵn sàng cử đại diện mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”.

Hà Nội chính thức chấp nhận nói chuyện với Mỹ nhưng bước đầu đại diện hai bên tiếp xúc với nhau để bàn việc tổ chức nói chuyện về thực chất, sau đó sẽ là hội nghị chính thức.

Tối ngày 4 tháng 4, sứ quán Mỹ ở Viêng Chăn chính thức báo cho sứ quán Việt Nam là Mỹ đề nghị cuộc tiếp xúc sẽ diễn ra ở Giơ-ne-vơ. Hà Nội đề nghị lấy Phnôm Pênh với dụng ý là có một địa điểm gần chiến trường miền Nam Việt Nam và có thể có tác động cổ vũ và củng cố tình đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương.

Oa-sinh-tơn không chấp nhận và đề nghị bốn địa điểm khác: Niu Đê-li, Gia-cát-ta, Viêng Chăn, Răng-gum. Hà Nội đề nghị Vác-sa-va. Lúc đầu, Oa- sinh-tơn chấp nhận Vác-sa-va nhưng họ khó chịu về việc tin đó bị tiết lộ ra ngoài. Họ lại đưa ra một danh sách mười địa điểm: Cô-lôm-bô, Cát-man-đu, Cu-a-la Lăm-pua, Ra-oan-pi-đi, Ca-bun, Tô-ky-ô, Brúc-xen, Hen-xin-ki, Viên, Rô-ma. Cuộc trao đổi ý kiến qua đại dương về địa điểm tiếp xúc diễn ra trong gần một tháng đã có sức cuốn hút dư luận.

Cuối cùng, ngày 2 tháng 5, bỏ qua bước tiếp xúc trù bị, Hà Nội đề nghị lấy Paris làm địa điểm họp chính thức, cử Bộ trưởng Xuân Thuỷ làm Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đề nghị phiên họp đầu tiên vào ngày 10 tháng 5 năm 1968 hay một vài ngày sau đó. Oa-sinh-tơn chấp nhận.

Johnson cử A-vơ-ren Ha-ri-man và C.Van-xơ, hai nhà ngoại giao có tài, làm Trưởng và Phó trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Mỹ. Sau khi thoả thuận các vấn đề thủ tục trong ngày 10 và 11 tháng 5, cuộc nói chuyện chính thức bắt đầu ngày 13 tháng 5.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #149 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2009, 10:50:27 am »

Lập trường của Mỹ trong thời kỳ đầu của cuộc nói chuyện tập trung vào ba vấn đề chủ yếu: Các cuộc nói chuyện sau khi Mỹ chấm dứt hoàn toàn các cuộc ném bom cần có sự tham gia của Chính phủ Sài Gòn; Bắc Việt Nam không vi phạm khu phi quân sự, không đưa quân đi qua hay đóng tại khu đó, không bắn pháo vào phía Nam từ khu đó; Bắc Việt Nam và Việt cộng không bắn pháo tay hay tên lửa vào các thành phố lớn ở miền Nam như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.

Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phản đối những đòi hỏi đó và coi đó là những điều kiện cho việc chấm dứt ném bom, và đòi phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và phải để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia cuộc nói chuyện.

Đến tháng 10, đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chủ động gỡ tình hình bế tắc. Trong một cuộc gặp riêng, đồng chí Xuân Thuỷ hỏi:

Nếu Việt Nam chấp nhận cho chính quyền Sài Gòn tham gia giai đoạn tiếp theo của cuộc nói chuyện thì phía Mỹ có chấm dứt hoàn toàn các cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam hay không?

Ha-ri-man nói:

- Cần phải hỏi Oa-sinh-tơn. Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thoả thuận mọi vấn đề liên quan tới việc ngừng ném bom và giai đoạn của cuộc nói chuyện, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã nêu thêm nhiều vấn đề, nhiều lý lẽ để phản đối việc chấm dứt ném bom miền Bắc vào ngày 1 tháng 11 năm 1968.

Buộc phải từ bỏ ý định làm một bản tuyên bố chung Mỹ - Sài Gòn, Tổng thống Johnson đã đọc bản tuyên bố với nhân dân Mỹ lúc hai mươi giờ ngày 31 tháng 10 năm 1968. Sau khi phân tích sự diễn biến rất quan trọng của tình hình tìm kiếm hoà bình từ tuyên bố ngày 31 tháng 8 đến các cuộc nói chuyện ở Paris, ông nói:

"Bây giờ, do tình hình như vậy, tôi ra lệnh chấm dứt kể từ tám giờ (giờ Oa-sinh-tơn) sáng thứ sáu tất cả các cuộc oanh kích bằng không quân, hải quân và đại bác đối với Bắc Việt Nam" (Tài liệu Lầu Năm Góc, G.E. tập IV, tr. 272.)

Đồng thời, Johnson thông báo là sẽ bắt đầu các cuộc nói chuyện ở Paris vào tuần sau. Chính phủ Sài Gòn tự do quyết định tham gia hay không, còn đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam sẽ tham gia nhưng điều đó không bao hàm ý nghĩa công nhận dưới bất cứ hình thức nào Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Johnson nói thêm là các cuộc nói chuyện không thể tiếp tục nếu phía bên kia lợi dụng việc chấm dứt ném bom, nếu các thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam bị pháo kích và khu phi quân sự bị xâm phạm.

Bốn tuần lễ sau, Chính phủ Sài Gòn mới quyết định cử một đoàn đại biểu đi Paris và Trưởng đoàn này mãi ngày 8 tháng 12 mới tới. Ngày 18 tháng 1 năm 1969, mọi vấn đề thủ tục đã được giải quyết.

Ngày 25 tháng 1, phiên họp thứ nhất của Hội nghị bốn bên ở Paris bắt đầu, năm ngày sau khi Tổng thống Johnson rời khỏi Nhà Trắng.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM