Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:24:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước hội nghị Paris  (Đọc 77298 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #60 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2009, 11:37:50 am »

Johnson đã đánh giá các hoạt động ngoại giao trong đợt ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam là một trong những cuộc vận động ngoại giao rộng nhất trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông.

Trong thông điệp tình hình liên bang đọc trước Quốc hội ngày 12 tháng 1 năm 1966, tức sau hai mươi ngày ngừng ném bom và vận động ngoại giao, ông đã tuyên bố.

“Những người phát ngôn có kinh nghiệm và thông thạo nhân danh Hoa Kỳ đã đi tới bốn mươi nước. Chúng ta đã thảo luận với một trăm chính phủ, một trăm mười ba nước có quan hệ với chúng ta và một số nước khác mà chúng ta chưa có quan hệ. Chúng ta đã lên tiếng ở Liên hợp quốc và yêu cầu tất cả các thành viên của Liên hợp quốc làm tất cả những gì trong phạm vi quyền hạn của họ để góp phần giành hoà bình.

Chúng ta cũng đã nói rõ từ Hà Nội đến Niu Yoóc rằng chúng ta không định một giới hạn độc đoán cho việc tìm kiếm hoà bình. Chúng ta tôn trọng các Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 và 1962. Chúng ta sẽ ngồi vào bất kỳ bàn hội nghị nào, chúng ta sẽ thảo luận mọi đề nghị thể hiện trong bốn điểm, mười bốn điểm hay bốn mươi điểm và chúng ta sẽ coi trọng mọi ý kiến của bất kỳ nhóm nào.

Chúng ta phấn đấu cho một cuộc ngừng bắn ngay hôm nay hay khi các cuộc thảo luận bắt đầu. Nếu những người khác hạn chế việc sử dụng vũ lực chúng ta cũng sẽ làm như thế và sẽ rút binh lính của chúng ta khi Nam Việt Nam đã nhận được những bảo đảm dứt khoát về quyền được quyết định tương lai của mình" (L.B.John.son. - Hồi ký, Sđd, tr. 292-293.)

Lời tóm tắt của Tổng thống không có cái dặm dà của Đa-vít Kralow và Stuart H.Loory:

"Trong khi Byroade (đại sứ Mỹ tại Rangoon - ND) đang phát triển một kênh trực tiếp ở Rangoon một cách lặng lẽ thì Tổng thống đã vén bức màn "fandagle" hoà bình của ông ta. Trước khi tất cả mọi người nhận thức ra được điều đó thì Avrell Ha-ri-man đã ở trên chiếc máy bay phản lực Boeing 707 của Tổng thống đến Vacsava. Hành động này làm tất cả mọi người ngạc nhiên, kể cả đại sứ quán Mỹ ở Vacsava và Chính phủ Ba Lan. Đại sứ John Gronouski đang đi thăm hội chợ thương mại ở Poznan.

Chiếc máy bay đã ở trên không thì bí thư của Gronouski Albert W. (bud) Sherer Jr mới nhận được những chỉ dẫn từ Oa-sinh-tơn để thông báo với chính quyền Ba Lan về người khách sắp đến của họ. Sherer và Micezylslaw Sieradski, Vụ phó Vụ Bắc Mỹ của Bộ Ngoại giao Ba Lan đã làm việc suốt ngày đêm để chuẩn bị cho Ha-ri-man. Trong khi đó, bị dựng dậy khỏi giường ở Poznan và được lệnh quay trở lại Vacsava, ông ta bắt chuyến tàu đêm trở về thủ đô vừa kịp thời gian để rửa mặt trước khi ra sân bay đón Ha-ri-man.

Chỉ khoảng hai giờ trước khi chiếc máy bay hạ cánh, Sherer và Sieradski mới hoàn tất mọi dàn xếp. Cùng với chiếc máy bay của Ha-ri-man bay ngang quần đảo Bornholmn trên biển Ban Tích và chỉ vài phút trước đó không lực Ba Lan mới gửi lời nhắn tới các căn cứ xa xôi của nó là không cất cánh chống lại chiếc máy bay không nhận dạng được đang tiến vào bờ biển...

Hầu như ngay lập tức sau khi hạ cánh, Ha-ri-man cùng với Gronouski đã mời Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Dam Bapacki, Jerzy Michalowski, một trong các thứ trưởng của Rapacki ngồi vào bàn nói chuyện. Bức thông điệp của Ha-ri-man, cùng giống như tất cả các phái viên khác, đang lan truyền khắp thế giới là một.

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ muốn nói chuyện với Việt Nam. Đó là sự mong muốn nói chuyện trên hầu hết như bất cứ điều kiện nào. Trong vòng vài ngày, Nhà Trắng sẽ đưa các bức thông điệp này ra công khai trong một tuyên bố với tiêu đề: "Trung tâm vấn đề ở Việt Nam". Tuyên bố này liệt kê ra mười bốn điểm dưới một tiêu đề phụ "Các đóng góp của Mỹ vào cái giỏ hoà bình" ...
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #61 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2009, 11:38:25 am »

Những người dự thảo mười bốn điểm gần như là ý chợt nảy ra "Nói theo một cách khác, chúng tôi đã bỏ mọi thứ vào chiếc giỏ hoà bình trừ sự đầu hàng của Nam Việt Nam".

Việc trình bày của Ha-ri-man trước những người Ba Lan có tính thuyết phục. Và ông ta có cơ hội làm điều đó không chỉ với Rapacki mà cả với Wladyslaw Gomulka, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ba Lan. Thông thường, Gomulka cũng giống như tất cả những người lãnh đạo cộng sản khác, không thể tiếp cận được với những nhà ngoại giao và chính khách phương Tây.

Nhưng Ha-ri-man đã có kinh nghiệm làm việc lâu dài với thế giới cộng sản bao gồm việc phục vụ như là một đại sứ ở Mát-xcơ-va trong chiến tranh thế giới thứ hai. Đối với Ha-ri-man, Gomulka đã thông cảm. Những cuộc họp như vậy hiếm đến nỗi mà buổi họp với Ha-ri-man là thời gian duy nhất Gronouski gặp người thật sự điều hành Ba Lan.

Khi Ha-ri-lnan nói tại sao ông ta đến. Gomulka trả lời. tlleo các nguồll tin còng sản. "Các ông là kẻ cướp nhưng chúng tôi muốn làm việc với kẻ cướp để chấm dứt cuộc chiến tranh này" (Đa-vít Kraslow và Stuart H.Loory - cuộc tìm kiếm bí mật hoà bình ở Việt Nam, Nhà xuất bản Randon-House, Chươn.g 4, phần II.)

Ha-ri-man bay tiếp đến Nam Tư rồi tiếp tục hoàn thành chuyến đi ba mươi nghìn dặm tới mười nước trong vòng mười bảy ngày và đến Sài Gòn ngày 15 tháng giêng.

Ngoài Ha-ri-man ra, Johnson còn huy động nhiều phái viên nữa, Phó tổng thống Hubert Humphrey đi Tokyo để nói chuyện với Thủ tướng Eisaka Sato và đã đưa cho ông ta một tài liệu có chi tiết về một trăm chín mươi cuộc nói khác nhau mà ngoại trưởng Dan Rusk đã nói về chủ đề đàm phán hoà bình với các nhà ngoại giao khác nhau và người khác nhau.

Nhân dịp lễ tang Thủ tướng Ấn Độ Shatri, ông đã trình bày lập trường của Mỹ với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Kossighin và nhiều vị Thủ tướng khác lúc đó cũng đang có mặt ở New Delhi.

Đại sứ Gôn-bớc đi Rôm, Paris, Luân Đôn cũng như giải thích lập trường của Mỹ cho nhiều vị trưởng đoàn ngay tại Liên hợp quốc. Mc. George Bundy đi Ottawa. Thomas Mann, Thứ trưởng về các công việc ở châu Mỹ đi Mêhicô. Manuel William, Thứ trưởng về châu Phi đêm giao thừa đi Ma-rốc và sáu nước khác trong bảy ngày.

Chưa bao giờ nước Mỹ cùng một lúc cử đi nhiều phái viên đến thế và đi vội vã đến thế. Tổng thống Johnson đã nói đúng: đây là cuộc vận động ngoại giao lớn nhất trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #62 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2009, 11:39:34 am »

PINTA

Đây là mật hiệu của cuộc tiếp xúc giữa đại sứ Mỹ Byroade và Tổng lãnh sự Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Vũ Hữu Bỉnh tại Rangoon trong đợt ném bom ba mươi bảy ngày.

Trước khi có cuộc tiếp xúc này và trước khi công bố lập trường mười bốn điểm, ngoại trưởng Dan Rusk đã gặp Ianôt Radvani, đại biện lâm thời Hung-ga-ri tại Oa-sinh-tơn và giới thiệu quan điểm của Mỹ về vấn đề Việt Nam, thực chất là nội dung mười bốn điểm sẽ công bố ngày 29 tháng 12 với ý định mở kênh Budapest liên lạc với Hà Nội. Do việc này xem ra không có kết quả, ngày 29 tháng 1,. Bộ Ngoại giao Mỹ chuyển sang hướng khác và chỉ thị cho đại sứ Henry Byroade tại Rangoon tiếp xúc bí mật với Tổng lãnh sự Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Vũ Hữu Bỉnh.

Nhận được chỉ thị, ngay trong ngày 29, Byroade gọi điện thoại cho Vũ Hữu Bỉnh nói rằng ông có một thông điệp của Chính phủ Mỹ cần chuyển tận tay ông Tổng lãnh sự.

Buổi chiều, tự lái lấy xe riêng không có quốc kỳ Mỹ, Bai-rốt đến trụ sở Tổng lãnh sự quán Việt Nam số 40 đường Cô-min Cô-chin.
Trước hai cốc bia hai vị cựu sĩ quan, hai nhà ngoại giao ngồi đối diện nhau. Bai-rốt nhắc lại lý do cuộc viếng thăm và chuyển cho ông Bỉnh bức thông điệp của Chính phủ Mỹ mà ông có nhiệm vụ chuyển và tỏ ý mong sẽ được một trả lời thuận lợi. Vũ Hữu Bỉnh nhận thông điệp và hứa sẽ chuyển ngay về Hà Nội.

Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, giản dị nhưng lại có ý nghĩa: lần đầu tiên hai đại diện ngoại giao hai nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ gặp nhau, tuy không chính thức nhưng lại chính thức chuyển một thông điệp của Chính phủ Mỹ. Nội dung thông điệp giống như Đin Ra-xcơ đã nói với Rát-va-ni, điều khác là yêu cầu có hành động có đi có lại.

Thấy lâu chưa có trả lời, ba tuần sau Bai-rốt lại đến Tổng lãnh sự sứ quán Việt Nam, ông được đón tiếp lịch sự, nhưng vẫn chưa có trả lời của Hà Nội. Ý kiến cá nhân của ông Tổng lãnh sự: đây là một tối hậu thư của Mỹ làm ông phiền lòng.

Trong lúc đó, tại Paris, P.Stơmơ lại đề nghị gặp Tổng đại diện Việt Nam Mai Văn Bộ ngày 13 tháng 1 năm 1966. Mai Văn Bộ đi vắng. Võ Văn Sung tiếp Stơmơ nói là được chỉ thị của Chính phủ Mỹ hỏi ý kiến Việt Nam về thông điệp ngày 29 tháng 12 năm 1965 mà đại sứ Bai-rốt đã trao cho đại diện Việt Nam ở Rangoon. Cả Rangoon, Paris đền chưa có trả lời của Hà Nội.

Theo chỉ thị của Bộ Ngoại giao Mỹ, ngày 24 tháng 1 năm 1966 tại Mát-xcơ-va, đại sứ P.Cô-lơ đến gặp đại biện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Lê Trang để trao một công hàm với nội dung tương tự thông điệp đã trao cho Việt Nam ở Rangoon. Lần này Cô-lơ đề nghị phía Việt Nam xem xét có khả làm giảm bớt hoạt động quân sự hay không? ông còn nói:

- Mỹ đề nghị có cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Cuộc gặp sẽ diễn ra bí luật.

Lê Trang nói: chưa có trả lời.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #63 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2009, 11:39:42 am »

Ý định của Hà Nội trì hoãn việc trả lời chính là để tìm hiển thêm về ý đồ Mỹ kéo dài việc ngừng ném bom Bắc Việt Nam.

Trong lúc Mỹ đi tìm hoà bình khắp nơi thì họ vẫn tích cực tăng cường hoạt động quân sự ở Nam Việt Nam. Cuối tháng 12, họ tăng thêm bốn nghìn quân cho Pleiku, vào giữa tháng giêng tối thiểu đã tăng thêm bảy nghìn quân làm cho tổng số quân Mỹ ở Nam Việt Nam đã lên tới một trăm bảy mươi nghìn.

Ngày 8 tháng giêng, tám nghìn quân Mỹ, Nam Việt Nam, Úc và Niu Di-lân tấn công vùng Củ Chi ở Tây Bắc Sài Gòn. Tam giác sắt. Nếu tính toán chiến dịch Tìm Diệt mùa khô 1965-1966 thì Mỹ huy động hai nghìn quân thiết giáp với sự hỗ trợ của quân Sài Gòn và quân Nam Triều Tiên.

Ngày 21 tháng giêng, U Thant kêu gọi Mỹ tiếp tục ngừng ném bom và đề nghị Mặt trận Dân tộc Giải phóng có vai trò trong chính quyền, mặt khác cũng kêu gọi Mỹ kéo dài ngừng ném bom, tối thiểu kéo dài đến sau Tết. Các thượng nghị sĩ Fulbright và Mi-ke Mansfield đề nghị Tổng thống tiếp tục ngừng ném bom.

Ngày 28 tháng giêng, Đài Tiếng nói Việt Nam công bố thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các nhà lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa và nhiều nước khác. Cùng ngày, Tổng thống Johnson quyết định tiếp tục ném bom.

Tuy vậy, ngày 19 tháng 2, Bai-rốt lại đến Tổng lãnh sự Việt Nam trao một bị vong lục cho phía Việt Nam. Với lời lẽ mềm dẻo, văn kiện này nhắc lại: Hoa Kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, sẽ rút quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam "dưới ánh sáng của các hành động của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về việc rút quân miền Bắc khỏi miền Nam Việt Nam". Bị vong lục còn nhấn mạnh:

Theo "thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng là hoàn thành độc lập dân chủ, hoà bình, trung lập ở miền Nam tiến tới thống nhất, nếu đúng như vậy thì điểm ba không phải là trở ngại cho thương lượng. Nhưng nếu đòi cho Mặt trận được độc đoán tham gia vào một Chính phủ Liên hiệp trước hoặc không có tuyển cử thì điểm ba là trái với mục tiêu đó và không đúng với Hiệp nghị Giơ-ne-vơ.

Quan điểm cơ bản của Hoa Kỳ là cơ cấu chính trị tương lai của Nam Việt Nam phải do nhân dân Nam Việt Nam quyết định thông qua tuyển cử thật sự tự do. Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận kết quả của cuộc tuyển cử thật sự tự do đó".

Cuối cùng bị vong lục đưa ra bốn điểm giống như bốn điểm mà ông Gullion đã đưa cho Mai Văn Bộ tháng 8 năm 1965 ở Paris để “làm cơ sở có thể chấp nhận được trong thảo luận".

Vũ Hữu Bỉnh nói: "Tôi sẽ báo cáo về Hà Nội nhưng các ông đã ném bom lại miền Bắc, cuộc tiếp xúc của chúng ta không còn ý nghĩa gì".

Và Pinta đã kết thúc như thế đấy.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #64 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2009, 12:02:29 pm »

CHƯƠNG MƯỜI
MI-KHA-LỐT-XKI Ở HÀ NỘI
(Trong chương này, lời Hồ Chủ tịch được tác giả trích trong "Lược ghi biên bản tiếp xúc Hồ Chủ tịch - Mi-kha-lốt-xki ngày 6-1-1966" của Nguyễn Hữu Ngô, Vụ trưởng Vụ Liên Xô - Đông Âu, Bộ Ngoại giao.)


Trong hồi ký, Tổng thống Johnson kể một cách đơn giản rằng ông cử Ha-ri-man đi Ba Lan giải thích lập trường của Mỹ, nhưng không ngờ sau đó lại là một loạt màn kịch bất ngờ.

Trước hết, Ha-ri-man đi Vácsava bằng chiếc máy bay Bôing của Tổng thống nhưng không kịp báo trước cả sứ quán Mỹ và Chính phủ Ba Lan.

An-bớc Xi-rơ, người phó thay mặt đại sứ Mỹ Giôn Grô-nốt-xki đang đi công tác ở Pô-dơ-nan, vừa phải đi gặp vụ Bắc Mỹ, Bộ Ngoại giao để bàn kế hoạch tiếp đón Ha-ri-man vừa phải báo cho đại sứ Mỹ Grô-nốt-xki về ngay Vác-sa-va.

Đại sứ Grô-nốt-xki đang ngủ bị dựng dậy để hối hả trở về nhiệm sở. 

Sáng sớm ngày 30 tháng 12 năm 1965, đại sứ Ba Lan tại Hà Nội, J. Xi-ê-lêch-xki xin gặp gấp Thủ tướng Phạm Văn Đồng vì có điện khẩn cấp. 

Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận tiếp ngay đại sứ Xi-ê-lêch-xki.

Chưa hết xúc động vì những gì đã nhận được, đại sứ trình bày ngay với Thủ tướng:

"Đột nhiên đêm qua Oa-sinh-tơn yên cầu Ba Lan cho phép ông Ha-ri-man theo chỉ thị của Tổng thống Johnson vào Ba Lan ngay bằng máy bay riêng của Tổng thống để hội đàm với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao A-đam Ra-pát-xki. Chúng tôi đã trả lời cho Mỹ biết rằng mục đích của việc liên hệ như thế để bàn vấn đề Việt Nam là không nên. Nhưng vì Ha-ri-man đã bay đến Tây Đức để đợi trả lời và một sự từ chối của Ba Lan có thể bị lợi dụng mà ta có thể đoán trước một cách dễ dàng...”

Bức điện, hoặc đúng hơn là phần đầu của bức điện mà đại sứ đọc mới đến đó. Tiếp đó, đồng chí trao cho Thủ tướng một bức thư và đề nghị Việt Nam có ý kiến giải quyết những trường hợp tương tự, nên nhận hay không nên nhận.

Ngay tối hôm đó, đại sứ Xi-ê-lêch-xki lại xin gặp Thủ tướng để thông báo tiếp nội dung trao đổi giữa Ngoại trưởng Ra-pát-xki và phái viên Ha-ri-man. Đại sứ nói:

"Phía Mỹ nói Mỹ đã ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ ngày 24 tháng 12 và việc ngừng ném bom sẽ kéo dài ra ngoài Tết dương lịch nếu không có sự tăng cường quan trọng các hoạt động quân sự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Mỹ nói rằng việc tham gia thật sự của phía Việt Nam vào việc giải quyết hoà bình vấn đề xung đột sẽ làm thuận lợi cho kéo dài ngừng ném bom.
Mỹ cho rằng để có thể đi đến thương lượng cần phải có thời gian cho tình hình dịu đi và yên tĩnh trở lại. Việc ngừng ném bom một thời gian nhất định đã được thực hiện. Mỹ mong phía Việt Nam đáp lại bằng những cử chỉ tương tự. Việc đáp lại theo kiểu đó sẽ dẫn đến con đường thương lượng... Mỹ thấy cần thiết phải có thời gian cho phía Việt Nam nghiên cứu, nhưng lưu ý rằng Chính phủ Mỹ có khó khăn vì Quốc hội Mỹ sắp họp".

"Ha-ri-man cũng nhắc lại lời tuyên bố của Johnson sẽ không có khó khăn gì cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng trình bày lập trường và quan điểm của mình trong trường hợp có thương lượng". Nhưng Mỹ không công nhận Mặt trận là một chính phủ. Ông ta cũng nói cuộc đàm phán sau này có thể có hình thức khác, lập trường của Mỹ rất linh hoạt, Mỹ sẵn sàng nghiên cứu mọi khả năng, thương lượng trong mọi điều kiện và trong bất kỳ thành phần nào kể cả sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Nếu có đàm phán phía Mỹ sẵn sàng thảo luận cả bốn điểm cũng như mọi đề nghị khác của các bên kể cả của Sài Gòn”
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #65 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2009, 12:03:20 pm »

- Theo ý kiến riêng tôi - Đại sứ nói tiếp - Mỹ phải hành động như vậy là để tranh thủ dư luận. Mỹ rất sợ dư luận.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói:

- Đồng ý với nhận xét của đồng chí đại sứ. Mỹ đang bị cô lập nên đưa vấn đề này ra. Đồng thời Mỹ muốn thăm dò chúng tôi. Chúng tôi sẽ nghiên cứu.

- Chúng ta cũng chấp nhận gợi ý của bạn mời một phái viên của Ba Lan sang Hà Nội để nắm rõ ý kiến của Ha-ri-man.

Ba ngày sau, J.Mi-kha-lốt-xki, Thứ trưởng kiêm Tổng thư ký Bộ Ngoại giao Ba Lan đã có mặt ở Hà Nội. Mi-kha-lốt-xki khá quen biết với nhiều đồng chí lãnh đạo nước ta vì từ tháng 8 năm 1954, ông là đại sứ Trưởng đoàn Ba Lan đầu tiên trong Uỷ ban Quốc tế về Việt Nam, ông lại là người được dự cuộc nói chuyện giữa Ra-pát-xki và Ha-ri-man ở Vác-sa-va vừa qua. Bộ Ngoại giao Ba Lan cố giữ bí mật chuyến đi này cho nên giải thích rằng ông Tổng thư ký bị ốm nên không dự các cuộc chiêu đãi và tiếp khách nhân dịp đầu năm mới. Nhưng dư luận lại hiểu rằng đó là cái bí mật của anh hề xiếc.

Buổi làm việc đầu tiên là với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh.

Mi-kha-lốt-xki nói:

- Mỹ đã ngừng ném bom miền Bắc và cử Ha-ri-man đến gặp lãnh đạo Ba Lan để xem xét vấn đề. Cố gắng của Mỹ có thành công hay không? Nếu như cử chỉ hoà bình của Mỹ không được đáp ứng, Mỹ sẽ ném bom trở lại với cường độ mạnh hơn. Johnson bị áp lực của giới quân sự phải leo thang chiến tranh. Chìa khoá hoà bình là ở Hà Nội... Mỹ không thể ngừng ném bom lâu được. Nếu như Chính phủ Việt Nam xét tới giải pháp hoà bình thì Ha-ri-man mong rằng sẽ có một cử chỉ thực tế về quân sự, lúc đó Mỹ sẽ đáp lại bằng một cử chỉ quân sự khác. Như vậy nhiệt độ của tình hình sẽ giảm đi và sẽ có thể đưa đến đàm phán chính trị.

Ba Lan cho rằng có hai khả năng: hoặc là Mỹ thấy thất bại rồi và hiện nay cũng không tốt đẹp gì trong việc leo thang nên nghĩ đến việc trả một giá nào đó để tránh phải leo thang. Nếu thế thì rất quan trọng. Và để thử xem Mỹ sẵn sàng nhân nhượng những gì thì ngoài đàm phán ra không có cách nào khác. Hoặc là cuộc tiến công hoà bình của Mỹ là bịp bợm, là màn khói, một âm mưu đánh lừa thế giới. Nếu như vậy thì cũng không có cách nào khác ngoài việc ngồi với Mỹ để vạch mặt Mỹ.

Trong khi thảo luận, Mỹ sẽ đưa giá qná cao, sau sẽ hạ xuống, ta cũng sẽ mặc cả xem họ bán hàng như thế nào. Chúng tôi sợ rằng Mỹ đang đứng trước một quyết định quan trọng. Mỹ sẽ không giữ mức độ chiến tranh như hiện nay vì như vậy sẽ thất bại. Cho nên Mỹ sẽ tăng cường chiến tranh. Thiệt hại của nhân dân Việt Nam sẽ rất lớn.

Mỹ định đưa hai mươi hay ba mươi vạn quân nữa vào miền Nam Việt Nam. Mỹ sẽ khó xuống thang, khó rút quân. Nếu không đàm phán bây giờ thì sau này sẽ rất khó. Nếu Mỹ tăng thêm quân, cuộc chiến đấu của các đồng chí sẽ không thuận lợi như bây giờ. Mỹ đã ngừng ném bom. Nếu có dấu hiện nào đó, Mỹ sẽ kéo dài việc ngừng bắn. Có dấu hiệu thôi, không có gì ràng buộc phía Việt Nam cả.

Chúng tôi cho rằng Mỹ thànn thật, rằng Mỹ đang ở ngã ba đường, Mỹ đã nói rằng họ bị sức ép, họ muốn có dấu hiệu đó sẽ giảm căng thẳng và rất có triển vọng.

Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh hỏi thêm về một số điểm trong lập trường của Mỹ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #66 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2009, 12:04:12 pm »

Chiều hôm đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp Mi-kha-lốt-xki. Sau khi thăm hỏi sức khoẻ Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Mi-kha-lốt-xki đi ngay vào vấn đề.

Mi-kha-lốt-xki:

- Tôi chắc rằng đồng chí đã được thông báo về cuộc đi thăm của Ha-ri-man ở Vác-sa-va. Đồng chí Gô-mun-ca đã có một cuộc nói chuyện lâu với ông ta, một cuộc nói chuyện căng thẳng, khó khăn. Chúng tôi cho rằng việc chúng tôi đến đây là điều bổ ích nếu các đồng chí biết một cách cụ thể những điền rất quan trọng của cuộc gặp gỡ đó. Tôi được trao nhiệm vụ chuyển đến đồng chí một thông điệp miệng của đồng chí Gô-mun-ca mà tôi đã thận trọng ghi lại (đọc thông điệp, nội dung giống như đã trình bày ở trên).

Thủ tướng Phạm Văn Đồng:

- Đồng chí Hồ Chí Minh và các thành viên trong Chính phủ chúng tôi cảm ơn đồng chí Gô-mun-ca và các đồng chí lãnh đạo Ba Lan về những gợi ý đó.

Mi-kha-lốt-xki:

- Đây không phải là những gợi ý. Đây là ý kiến của chúng tôi để trình bày với các đồng chí.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng:

- Chúng tôi xin cảm ơn các đồng chí về việc đó. Đó là biểu hiện của tình cảm, sự ủng hộ của các đồng chí đối với chúng tôi. Chúng ta cần gắn bó với nhau. Cuộc đấu tranh của chúng tôi cũng là cuộc đấu tranh của các đồng chí. Chúng ta là những nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta đứng trước một kẻ thù chung. Các đồng chí lại là thành viên trong Uỷ ban Quốc tế. Đó là lý do nữa để các đồng chí quan tâm đến vấn đề.

Chúng tôi luôn luôn hướng về vấn đề đó. Đó là những vấn đề rất quan trọng. Chúng tôi biết thế nào là chiến tranh. Các đồng chí cũng biết điều đó nhất là ở miền Nam cuộc chiến đấu vẫn diễn ra với một cường độ rất ghê gớm. Ngày đêm chúng tôi nghĩ đến hoà bình không sao ngủ được.

Mi-kha-lốt-xki:

- Nếu chúng tôi đề xuất ý kiến đó thì cốt nhằm làm dễ dàng các quyết định của các đồng chí. Tất nhiên trong các vấn đề quân sự... chúng tôi không thể xét đoán được. Chúng tôi không có ý kiến.

Chúng tôi hiểu rất rõ nước Mỹ. Chúng tôi hiểu tình hình các nước khác trong lúc các đồng chí hiện nay rất bị cô lập. Có lẽ các đồng chí có khó khăn để hiểu một số chi tiết. Chúng tôi có tiếp xúc rộng lớn hơn các đồng chí, chúng tôi thấy có trách nhiệm bày tỏ ý kiến về một số vấn đề.

Chúng tôi muốn nói kỹ thêm về cuộc nói chuyện với Ha-ri-man, như vậy rõ ràng hơn là trong thông điệp. Tất nhiên đó là những ý lớn rất quan trọng và tôi không đi vào chi tiết chia trận đánh mà chúng tôi đã có với ông ta. Đồng chí Gô-mun-ca đã nói với ông ta: "Các anh là bọn cướp".

Vấn đề là phải xem Mỹ muốn gì? Tôi nghĩ rằng họ thành thật và đang ở ngã ba đường. Mỹ đang bị nhiều tổn thất và không thể cứ cư xử như hiện nay được. Có thể bản thân họ không muốn thế, nhưng họ phải nghĩ đến tương lai. Mỹ muốn leo thang để tạo khả năng cho giải pháp chính trị. Họ đang đi sâu vào con đường đó. Đó là một chính sách phiêu lưu đã bị lên án.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #67 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2009, 12:04:57 pm »

Điều thứ hai cụ thể hơn, ông ta (Ha-ri-man) nói là Mỹ bị sức ép. Mỹ muốn có một dấu hiện nào đó. Thí dụ các đồng chí xem xét một cách nghiêm túc các đề nghị của Mỹ. Họ nói đến nay vẫn chưa được một dấu hiệu nào như vậy và điều đó để họ đổ hết trách nhiệm không chịu thương lượng cho các đồng chí để leo thang, không phải cân nhắc mười bốn điểm mà cân nhắc về con đường dẫn tới hoà bình. Họ sẵn sàng chờ đợi. Vậy bây giờ phải làm gì? Cần có câu trả lời cho vấn đề đó, một dấu hiệu nào đó.

Thứ ba, nếu chúng ta chuyển cho họ dấu hiệu đó thì sẽ giảm căng thẳng và nhiều triển vọng. Sau khi làm sáng tỏ qua thăm dò, người ta sẽ biết các điều kiện làm cơ sở cho một giải pháp trong tương lai. Ha-ri-man nói: thí dụ như trong cuộc thăm dò sau một cử chỉ nào đó của phía các đồng chí, nhiệt độ sẽ hạ xuống và làm dễ dàng cho thương lượng, cho việc giải quyết các vấn đề khác và họ sẽ giảm nhiệt độ và tạo ra giải pháp chính trị.

Điều nữa là các hình thức thương lượng có thể có. Ha-ri-man nói Mỹ rất linh hoạt. Họ sẵn sàng tìm mọi cách để thương lượng - tay đôi, trực tiếp hay qua trung gian, họ sẵn sàng tìm mọi khả năng... Có vấn đề quan trọng là sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Ha-ri-man nói là Mỹ chấp nhận sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng như kiểu ở Giơ-ne-vơ. Nếu chúng ta sáng tạo ra một hình thức thương lượng nào đó cho Mặt trận. Mặt trận sẽ có uy thế nhất định.

Rồi còn bốn điểm của đồng chí, bốn điểm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng mà trên thế giới người ta coi như là kế hoạch Ra-pát-xki. Ha-ri-man nói họ chấp nhận bốn điểm, rằng bốn điểm là một cơ sở nhưng không phải là cơ sở duy nhất. Ha-ri-man cũng nhấn mạnh mười bốn điểm của Mỹ không phải là điều kiện để thương lượng. Đó là những đề nghị cũ được sắp xếp chung lại với nhau, ông ta yêu cầu xem xét chứ không phải trả lời mười bốn điểm. Theo ý kiến chúng tôi, nếu thời kỳ ngừng ném bom kéo dài thì dù sao cũng có lợi cho các đồng chí.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng:

- Tất nhiên.

Mi-kha-lốt-xki:

- Đứng về mặt thuần tuý sách lược, tôi nghĩ nếu các đồng chí cho tín hiệu rằng các đồng chí nghiên cứu một cách nghiêm túc ý kiến của Mỹ thì sẽ kéo dài thời kỳ yên tình trên đất nước các đồng chí mà không bị ràng buộc gì, đó là diều quan trọng. Các đồng chí sẽ có thời gian để tập hợp lực lượng, chấn chỉnh lại và làm nhiều việc khác.

Các đồng chí có nói mặt trận quân sự và mặt trận ngoại giao phải đi đôi với nhau. Cuộc đấu tranh quân sự sẽ được đấu tranh chính trị này ủng hộ và trợ lực.

Chúng tôi sợ rằng nếu các đồng chí bác bỏ thẳng thừng những đề nghị đó thì sẽ là một thất bại trên mặt trận chính trị của các đồng chí...

Dư luận thế giới những người tiến bộ, những người cộng sản ở phương Tây cũng sẽ không hiểu các đồng chí. Đó cũng là điều không hiểu được đối với nghiêng người Mỹ không cộng sản đang đòi hoà bình. Đó sẽ là dịp tốt cho bộ máy tuyên truyền của Mỹ... Khi dư luận đã không hiểu các đồng chí thì đó sẽ là thất bại chính trị của các đồng chí. Tôi không nghĩ rằng các phương tiện giải thích của chúng ta có thể chống lại được sự thay đổi dư luận đó.

Chúng tôi nghĩ dù sao cũng phải đưa ra một sáng kiến cụ thể bằng một hành động tiếp cận với những đề nghị của Mỹ và có một số cố gắng để đi tới thương lượng.

Các đồng chí có nói rằng đã nghĩ đến thương lượng nhưng bây giờ chưa chín muồi, chiến thắng chưa đủ mức. Tôi sợ rằng Mỹ sẽ chọn con đường leo thang như vậy sau này sẽ rất khó thương lượng, khi số quân Mỹ đông hơn, việc rút lui càng khó khăn hơn cho một cường quốc như Mỹ. Họ sẽ mất mặt... Tình hình sẽ phức tạp thêm
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #68 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2009, 12:05:45 pm »

... Lúc này con đường rút của Mỹ chưa bị cắt. Chúng tôi nghĩ khả năng đó, cơ hội đó còn quan trọng hơn là một thời gian leo thang lớn. Lúc này cần tìm ra con đường cho các giải pháp hoà bình. Chúng ta có thể có thế mạnh để làm suy yếu kẻ thù... khi một người lính được tin là có nói chuyện hoà bình, anh ta không muốn chết nữa. Việc đó sẽ đem lại cho các đồng chí thời gian để chấn chỉnh lực lượng.

Tiếp đó, ta tìm ra khả năng tìm kiếm sự nhượng bộ của Mỹ. Họ phải trả giá cho hoà bình, cho việc rút quân để gỡ thể diện. Rồi với nhượng bộ đó - không quá xa với các nguyên tắc của các đồng chí - Chúng tôi nghĩ là điều đó có thể được. Có lẽ một vài nhượng bộ của các đồng chí là cần thiết. Chúng tôi nghĩ đạt được việc rút lui của Mỹ trong năm năm không có chiến tranh còn hơn là có hoà bình sau năm năm chiến tranh.

Sau cùng, chúng tôi nghĩ với việc nói chuyện, việc thăm dò, chúng ta chỉ có lợi. Chúng ta không có gì để mất trong cuộc thăm dò nào đó hoặc trong nói chuyện trực tiếp, gián tiếp hoặc dưới hình thức nào đó mà ta sẽ nghĩ ra như qua trung gian của Uỷ ban Quốc tế, qua hai Chủ tịch Hội nghị Giơ-ne-vơ hoặc với sự tham gia của các nước bạn.

Cần phải có một sáng kiến. Phải tiến lại với những ý kiến chứng tỏ chúng ta muốn hoà bình, và qua đó các đồng chí sẽ tranh thủ được dư luận thế giới về mình. Nếu các đồng chí đề nghị một cái gì đó mà Mỹ bác bỏ thì Mỹ không còn được xem như những thiên thần của hoà bình nữa.

Đồng chí Mi-kha-lốt-xki tỏ ý sẵn sàng cung cấp mọi tin tức mà phía Việt Nam muốn biết cũng như mọi ý kiến của Vác-sa-va. Cuối cùng, Mi-kha-lốt-xki nhấn mạnh rằng phía Ba Lan "nghĩ có thể tạo ra cho Việt Nam khả năng tiến hành một cái gì đó trên con đường có lợi" cho Việt Nam.

Đồng chí cũng giới thiệu cho Thủ tướng một người Mỹ mà đồng chí rất quen biết, một người Mỹ tốt có vị trí và ảnh hưởng nhất định: ông N. Cơ-xin (N.Cơ-xin, mục sư đạo Tin Lành, Chủ bút tạp chí Thứ bảy.) đồng chí nói: phía Việt Nam có thể sử dụng con người đó không chỉ trong cuộc thảo luận chung chung. Ba Lan sẵn sàng giúp đỡ.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng cảm ơn sự quan tâm và cố gắng của bạn. Rồi Thủ tướng nói:

- Từ lâu chúng tôi đã suy nghĩ rất nhiều về tất cả những điều đồng chí nói... Mà cốt lõi liên quan đến việc đi thăm của Ha-ri-man. Đối với chúng tôi để biết rõ tình hình và nhất là lối chơi của kẻ địch không phải là không tốt.

Chúng tôi lại đang ở trong tình trạng chiến tranh với đế quốc Mỹ và chúng tôi biết thế nào là chiến tranh. Chúng tôi luôn nghĩ đến lúc nào đó phải kết thúc chiến tranh với Mỹ. Đó không phải là việc đơn giản chút nào. Chúng tôi nghĩ đến hoà bình vì chiến tranh là điều tàn khốc, nhất là ở miền Nam, rất ác liệt và có lẽ sẽ ác liệt hơn nữa. Vì vậy chúng tôi suy nghĩ không ngừng đến việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình.

Nhưng, thưa đồng chí, chúng tôi đòi hỏi một cái gì.

Chúng tôi đòi độc lập, giải phóng miền Nam, thống nhất có lẽ phải một thời gian dài - nhưng mà phải thống nhất Tổ Quốc. Đó là những đòi hỏi sống còn của chúng tôi. Tất cả những điều đó gắn chặt với bốn điểm, các điều này lại gắn chặt với Hiệp nghị Giơ-ne-vơ. Bốn điểm không phải là để thảo luận. Đó là kế hoạch để giải quyết vấn đề. Mỹ và tất nhiên Ha-ri-man nữa đã đưa ra mười bốn điểm để thảo luận... Có thể chúng cũng phải thay đổi... Chắc chắn là như vậy... Còn chúng tôi, không thể làm như vậy được.

Thủ tướng nói một cách ngắn gọn bốn điểm.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #69 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2009, 12:06:46 pm »

Mi-kha-lôt-xki cho rằng: Mỹ đã nói đến việc chấp nhận các điểm đó và thêm đó là vấn đề có thể thăm dò.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói tiếp:

- Chúng tôi xem xét cuộc tấn công hoà bình của Mỹ hiện nay như thế nào? Tôi đang nghiên cứu vấn đề rất khó khăn này.

Cần có nhiều thời gian và cố gắng. Chúng tôi sẽ xem xét một cách tổng hợp, không thể bác bỏ ngay lập tức Đó là những vấn đề đầu tiên được thảo luận trong Đảng và Chính phủ chúng tôi.

Vấn đề đặt ra hiện nay là liệu Chính phủ Mỹ đã sẵn sàng đi vào hoà bình chưa? Tôi không nghĩ rằng lúc này Mỹ đã sẵn sàng đi vào con đường hoà bình theo đòi hỏi hợp lý của chúng tôi. Có hai lý do:

Một. Thực chất Mỹ đang nghiên cứu các biện pháp tăng cường chiến tranh... Mỹ hiểu không thể đạt được hoà bình theo các điều kiện của chúng trong lúc này. Vì vậy, để cho khách quan phải nói Mỹ phải tăng cường chiến tranh.

Hai: Về nguyên tắc, Mỹ chưa bao giờ tuyên bố thuận lợi đối với bốn điểm... chưa bao giờ Mỹ chấp nhận Mặt trận bằng cách này hay cách khác. Điều đó nghĩa là Mỹ vẫn theo đuổi chính sách cũ ở miền Nam.

Mi kha-lốt-xki:

- Nếu không đạt được hoà bình, Mỹ phải tìm cách tiếp tục chiến tranh. Có nghi vấn trong vấn đề này. Tôi nghĩ Mỹ sẽ phải nhượng bộ. Tôi nghĩ rằng Mỹ là những lái buôn mà lái buôn thì không chấp nhận giá hàng mà không mặc cả. Chúng chỉ chấp nhận trước khi đàm phán. Có lẽ cuối cùng rồi chúng phải nhận bốn điểm.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng:

- Đó là điểm tất nhiên. Tôi cố gắng tìm hiểu ý đồ sâu xa của Mỹ. Nếu Mỹ chấp nhận thì tại sao lại có cuộc tấn công hoà bình này?
Chúng tôi cho rằng Mỹ có nhiều khó khăn lớn nhất là ở miền Nam Việt Nam. Chúng đang bị đánh tơi bời... đang đứng trước những vấn đề nan giải về quân sự và hậu cần... Lính Mỹ là những chàng công tử... Chiến sự trên bộ rất ác liệt đối với chúng... Còn chiến tranh bằng không quân không giải quyết được vấn đề. Mỹ có nhiều khó khăn trong nước...

Đồng chí có lý để nói ở ngã ba đường. Chính vì vậy mà chúng muốn thứ hòa bình nào đó, một kiểu thương lượng nào đó, không phải thứ hoà bình như chúng tôi quan niệm mà hoà bình kiểu Mỹ, kiểu La Mã hai nghìn năm trước đây.

Mi-kha-lốt-xki:

- Không thể cho chúng nó được.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng:

- Trong cuộc tấn công hoà bình này, Johnson muốn đứng trên thế mạnh. Chúng muốn áp đặt chúng tôi một số điều kiện. Nếu chúng tôi chấp nhận những điều kiện đó, chúng sẽ sẵn sàng thương lượng. Nhưng chúng tôi không chấp nhận. Chúng tôi làm chủ chiến lược của mình. Tương lai sẽ chứng minh điều đó.

Trở lại cuộc tấn công hoà bình hiện nay của Mỹ, chúng tôi có nghiên cứu các vấn đề họ đưa ra. Làm gì bây giờ? Không chấp nhận điều kiện của kẻ thù, chúng tôi đã có tuyên bố hôm qua. Về vấn đề chấm dứt ném bom miền Bắc chúng tôi đã nói lên điều kiện của chúng tôi. Bây giờ là tuỳ Mỹ xác định thái độ. Vấn đề như vậy đã đảo ngược. Sẽ rất nguy hiểm đi vào con đường mà kẻ thù đã lựa chọn.

Về nguyên tắc đồng chí đã nói rất đúng: Đừng để cho kẻ thù nắm ngọn cờ hoà bình mà chúng ta phải có sáng kiến hoà bình. Tranh thủ dư luận về ta, dồn kẻ thù vào chân tường. Tôi hứa với đồng chí sẽ nghiên cứu kỹ về ý kiến của đồng chí.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM