Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 05:37:31 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước hội nghị Paris  (Đọc 77523 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #30 vào lúc: 12 Tháng Mười Một, 2009, 11:33:27 am »

Ba tháng sau khi bắt đầu ném bom Bắc Việt Nam, mặc dầu cuộc vận động ngoại giao rầm rộ, áp lực đòi Nhà Trắng chấm dứt ném bom ngày càng tăng, nhất là trong tháng 4 và tháng 5 năm 1965.

Ngày 3 tháng 3 năm 1965, Tổng thống Ti-to gửi thư cho Tổng thống Jhnson yêu cầu ngừng ném bom không điều kiện, ngày 8 tháng 3. Tổng thư ký U Thant đề nghị họp Hội nghị các nước lớn và hai miền Nam Bắc Việt Nam để giải quyết vấn đề Việt Nam.

Ngày 17 tháng 3, Hội nghị cấp cao mười bảy nước không liên kết họp tại Bêograt kêu gọi lên án sự can thiệp của nước ngoài dưới mọi hình thức và kêu gọi thương lượng không điều kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề Việt Nam.

Ngày 24 tháng 4, U Thant kêu gọi đình chỉ ném bom ba tháng để đạt tới thương lượng. Các đại diện Đảng dân chủ trong Quốc hội Mỹ đòi ngừng ném bom ba tháng để đòi Hà Nội rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tổng thống Ấn Độ Radhakrisnan đề nghị ngừng chiến theo vĩ tuyến 17 và lập một hàng rào ngăn cách bằng lực lượng Á Phi. Một số nhà khoa học Mỹ yêu cầu rút hết mọi sự can thiệp của Mỹ ở châu Á, khởi đầu bằng việc ngừng ném bom Bắc Việt Nam. Sinh viên đã chặn trang trại của L. B.Johnson đòi chấm dứt ném bom Bắc Việt Nam.

Tổng thống Johnson bằng một thái độ có vẻ nhũn nhặn là khước từ mọi gợi ý ngừng ném bom:

"Có những người luôn nói về đàm phán và thoả thuận chính trị và nói răng đó là cách mà họ cho rằng chúng ta nên theo, và tôi đã làm như vậy, tôi bảo: hoan nghênh các bạn gia nhập câu lạc bộ tôi muốn đàm phán. Tôi muốn nói chuyện hơn là đánh nhau nhiều và tôi nghĩ mọi người đều như vậy. Hãy mời bất cứ ai bạn muốn tôi đàm phán, tôi đã tìm kiếm ngang dọc khắp nơi và tôi là một chàng chăn bò biết điều tốt bụng. Nhưng tôi không thể trói ai đó lại, bắt họ phải muốn nói chuyện và giải quyết điều đó bằng đàm phán. Tất cả các nguồn tin tình báo của chúng ta đều nhất trí ở một điểm rằng họ (đối phương) không thấy cần phải đàm phán. Họ nghĩ rằng họ đang thắng và tại sao họ lại phải ngồi với chúng ta và cho chúng ta một cái gì đó và cùng chúng ta giải hoà" (Gravel Editii, Tài liệu Lầu Năm Góc, Sđd, tr. 363. )

Trong lúc Tổng thống tìm cách trấn an dư luận như thế thì ông liên tiếp nhận được những báo cáo đen tối về tình hình Việt Nam.
Ngày 4 tháng 5, đại sứ M.Taylor báo cáo rằng: dù các cuộc ném bom có hạn chế thâm nhập của Bắc Việt vào Nam, các lực lượng Việt cộng vẫn duy trì các hoạt động tại chỗ dù có phải chấp nhận những thiệt hai do bị ném bom trong khi các mâu thuẫn giữa các tướng vẫn tồn tại, sự nghi ngờ giữa các nhóm tôn giáo vẫn duy trì, do đó Hà Nội có khả năng mở rộng hoạt động quân sự ở miền Nam:

"Những hành động này mở ra một thắng lợi cơ bản về quân sự có khả năng loại trừ việc áp dụng không lực của Mỹ và Việt Nam cộng hoà. Những thắng lợi như vậy sẽ mở rộng phạm vi kiểm soát của Việt cộng và có thể dẫn tới sự sụp đổ chính trị ở miền Nam Việt Nam.

Ngày 22 tháng 4, Hội đồng các nhà dự báo quốc gia gửi Tổng thống một giác thư với một đánh giá đen tối về tình hình Việt Nam: nếu Mỹ dấn sâu can thiệp của mình vào cuộc chiến và tăng cường lực lượng không quân thì các nhà tình báo tin rằng Việt cộng, Bắc Việt và Trung Quốc sẽ chủ động trong cố gắng loại bỏ việc tăng cường của kẻ thù qua việc hỗ trợ nổi dậy từng bước và tăng cường nhân lực và thiết bị cần thiết. Họ sẽ khai thác lợi thế về thời gian và gây áp lực để các lực lượng Mỹ lún sâu từng phần trong các điều kiện có thể bị sa lầy trong cuộc chiến du kích với hy vọng đưa Mỹ vào thế bị xé lẻ".

Đô đốc Raborne, khi mới nhậm chức Giám đốc CIA, đã báo cáo tình hình miền Nam Việt Nam, đề nghị nên có một đợt ngừng ném bom để có cớ tăng cường ném bom vì ông cho rằng phía Việt Nam vẫn tăng cường chiến đấu dự bị ném bom, và nhấn mạnh: "Chúng ta nên nhớ luôn về khả năng cho một đợt ngừng ném bom tại một thời điểm nào đó thích hợp để có thể kiểm nghiệm về ý định của cộng sản và khai thác những khác biệt của họ".
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #31 vào lúc: 12 Tháng Mười Một, 2009, 11:34:14 am »

Vấn đề tạm ngừng ném bom không những là một khả năng kiểm nghiệm thái độ của phía Việt Nam mà còn có khả năng rõ ràng làm dịu sức ép của những người đòi chấm dứt ném bom và đó là mặt hấp dẫn của vấn đề.

Thế là tối 10 tháng 5 năm 1965, Johnson gửi cho đại sứ Taylor bức điện tối khẩn:

“Tôi được Bộ trưởng Macnamara cho biết rằng chiến dịch Sấm Rền tuần này sẽ kết thúc vào trưa thứ tư giờ Oa-sinh-tơn. Việc này cùng với ngày lê Phật đản sẽ là một cơ hội tuyệt vời để tạm ngừng tấn công không quân. Cho tới tuần sau và tôi sẽ có thể gây được ấn tượng tốt đối với thế giới.

Kế hoạch của tôi là sẽ không tuyên bố việc tạm ngừng ném bom này mà chỉ lưu ý riêng với Hà Nội và Mát-xcơ-va và sẽ theo dõi sát sao xem họ có bất cứ phản ứng nào không. Kế hoạch hiện nay của tôi là thông báo về việc chúng ta đã làm cho công luận sau khi việc tạm ngừng ném bom chấm dứt.

Ông có thể gặp Quát (tức Phan Huy Quát, Thủ tướng Sài Gòn - ND) vào thứ ba và xem liệu có thể thuyết phục ông ta tham gia vào kế hoạch này của tôi. Tôi mong muốn ông ta dự phần vào quyết định này, nếu có thể được, nhưng cũng sẽ chấp nhận nếu ông ta chỉ xuất hiện mà không có phản ứng chống lại quyết định này của tôi. Nói chung, tôi cho rằng quan trọng là ông ta và tôi nên cùng tham dự vào những việc như thế nào, nhưng tôi cũng không muốn làm khó nếu ông ta bị khó xử về mặt chính trị nếu tham dự tích cực vào cuộc tạm ngừng ném bom nhân dịp lễ Phật đản này.

Chúng tôi đã lưu ý ông, nhưng chưa nhận được đánh giá của ông về hiệu quả chính trị của việc hành động nhân dịp Phật đản ở Sài Gòn. Theo quan điểm của tôi, có thể lấy ngày Phật đản làm ngày đầu tiên ngừng ném bom nếu việc này mang lại được thuận lợi cho Quát về mặt chính trị. Tôi cho rằng chúng ta nên lôi kéo Tổng giám mục và phái viên của Giáo hoàng để dẹp yên bên Thiên chúa giáo.

Ông nên hiểu rằng dự đủlh ct~la tôi trong kế hoạch này là bắt đầu dọn đường hoặc hướng tới khôi phục hoà bình. tăng cường hoạt động quân sự. tuỳ theo phản ứng của cộng sản. Chúng ta đã thể hiện ý định và caln kết tỉa chúng ta quá nhiều trong hai tháng qua và bây giờ tôi mong muốn có một sự linh động nào đó.

Tôi biết rằng đây thật là một nhiệm vụ thật khó khi chỉ nói tóm tắt thế này, nhưng không ai có thể làm việc này được tốt hơn ông. Tôi giữ kín kế hoạch này trong phạm vi tại đây thôi và mong ông chỉ thông báo với Alexis Johnson (phó đại sứ - ND) thôi. Sau khi nhận được báo cáo của ông về phản ứng của Quát, tôi sẽ ra quyết định cuối cùng và sẽ thông báo ngay cho các quan chức cao cấp có liên quan".
Sau khi biết Quát phản đối, Johuson xác nhận lại với Taylor là sẽ ngừng ném bom như kế hoạch đã định. Để giữ bí mật gần như tuyệt đối, từ ngày 12 tháng 5 chiến dịch này mang mật hiệu Hoa Tháng Năm, Những người được biết chiến dịch này là William Sulivan, đại sứ ở Viêng Chăn, Foy Kohler, đại sứ ở Mát-xcơ-va. Willthrop Brown, đại sứ ở Seoul (để thông báo Tổng thống Park Chung Hee sắp đi Mỹ).

Chiều ngày 11 tháng 5, Ngoại trưởng Din Rascơ điệu báo cho đại sứ Cô lơ yêu cầu gặp đại sứ Nguyễn Văn Kính của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để chuyển bức thông điệp sau đây cho nhà cầm quyền Bắc Việt Nam:

"Người cầm quyền cao nhất của Chính phủ này yêu cầu tôi báo cho Hà Nội rằng sẽ không có tấn công bằng không quân trên miền Bắc Việt Nam trong một thời gian bắt đầu từ trưa (giờ Oa-sinh-tơn) thứ tư ngày 12 tháng 5 cho đến đầu tuần sau.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #32 vào lúc: 12 Tháng Mười Một, 2009, 11:34:56 am »

Trong quyết định này, Chính phủ Hoa Kỳ đã chú ý đến những gợi ý liên tiếp của nhiều phía, kể cả những tuyên bố của đại diện Hà Nội rằng sẽ không có tiến bộ đi tới hoà bình trong khi còn các cuộc bắn phá bằng không quân ở Bắc Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ tin rằng nguyên nhân cơ bản của tình hình rối loạn ở Đông Nam Á là hành động vũ trang chống nhân dân và Chính phủ Việt Nam bởi các lực lượng do Hà Nội chi phối.

Hoa Kỳ sẽ theo dõi một cách chặt chẽ xem trong thời gian tạm ngừng đó có sự giảm bớt đáng kể trong các hoạt động vũ trang của lực lượng đó không? Hoa Kỳ cần phải nhấn mạnh rằng con đường dẫn tới việc chấm dứt các cuộc tẩn công vũ trang chống lại nhân dân và Chính phủ Việt Nam là con đường cho phép Chính phủ Việt Nam (và Chính phủ Hoa Kỳ) chấm dứt vĩnh viễn các cuộc tấn công trên miền Bắc.

Với hành động này, Hoa Kỳ biết rất rõ rằng việc tạm ngùng ném bom có thể bị hiểu lầm là một dấu hiệu của thế yếu và do đó tôi thấy cần nhấn mạnh rằng nếu cuộc ném bom này bị hiểu lầm như vậy, bởi bất kỳ bên nào, thì cần phải chỉ ra một cách rất rõ ràng hơn bất kỳ lúc nào rằng sau khi ngừng ném bom chấm dứt Hoa Kỳ quyết không chấp nhận sự xâm lược mà không bị giáng trả lại ở Việt Nam.

Tuy vậy, Hoa Kỳ cần nhấn mạnh rằng quyết định chấm dứt các cuộc không tập để thử thách trong thời gian này là một quyết định có thể tự do đảo ngược lại. Nếu bất cứ lúc nào trong những ngày tới phía bên kia ở những có hành động cần được đối phó ngay.

Nhưng Chính phủ tôi hy vọng rằng sẽ không có một sự hiển lầm như vậy và cuộc ngừng không tập đầu tiên này có thể được đáp ứng, cho phép kéo dài hơn việc ngừng loại hoạt động quân sự này với lòng mong đợi rằng sẽ có các hành động xây dựng tương ứng như vậy của phía bên kia" (Xem thêm Tài liệu Lầu Năm Góc, G.E, tập III, tr. 369.)

Mặt khác, Đin Ra-xcơ mời đại sứ Liên Xô A-na-to-li Đô-brư-nin đến Bộ Ngoại giao Mỹ thông báo miệng nội dung thông điệp trên, nhưng có trao cho Đô- brư-nin một bản dịch.

Theo tinh thần khẩn trương của Oa-sinh-tơn, sáng ngày 12 tháng 5, ông Cô-lơ cử tham tán của mình gọi dây nói cho sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề nghị có ngay cuộc gặp trong ngày giữa đại sứ Cô-lơ và đại sứ Nguyễn Văn Kính vì có chuyện quan trọng. Nhân viên sứ quán Việt Nam cho biết đại sứ Việt Nam từ chối không tiếp đại sứ Mỹ nên gửi công hàm quan trọng và bí mật đó cho Chính phủ Liên Xô với tư cách là đồng chủ tịch Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954.

Cô-lơ báo ngay cho Bộ Ngoại giao Mỹ xin chỉ thị mới và đề nghị một trong hai cách giải quyết sau: chuyển bức thông điệp bằng công hàm cho người mang tới sứ quán Việt Nam hoặc tìm gặp quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô để chuyển thông điệp.

Bộ Ngoại giao Mỹ trả lời ngay: hành động đồng thời theo hai cách, nếu người Liên Xô không muốn làm trung gian thì yêu cầu họ chuyển thông điệp cho đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo gợi ý của họ.

Cô lơ chuyển thông điệp "miệng" cho đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kèm một thư mang chữ ký của ông ta. Thư đó như sau:

"Phù hợp với gợi ý do một thành viên của cơ quan tham mưu của ông đưa ra hôm nay, tôi đang cố gắng để gặp quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô tối nay.

Do không thể kịp được và vì sự quan trọng của văn kiện, tôi xin gửi kèm đây bức thông điệp mà tôi đã hy vọng chuyển sớm hơn hôm nay tới ông" (Cô-lơ).

Một nhân viên sứ quán Mỹ trao tay cho một nhân viên sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng nó đã bị trả lại sáng hôm sau trong một chiếc phong bì không có tiêu đề sứ quán Việt Nam và chỉ ghi đại sứ quán Hoa Kỳ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #33 vào lúc: 12 Tháng Mười Một, 2009, 11:35:36 am »

Cùng thời gian, quyền Bộ trưởng Cu-dơ-nép-xốp (thay mặt Bộ trưởng Grô-mư-cô đi vắng) khi đó cũng bận nên Cô-lơ xin gặp Thứ trưởng Phi-ri-u-bin, ông ta trình bày ý nghĩa, nội dung của thông điệp và yêu cầu Liên Xô chuyển thông điệp đó cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Phi-ri-u-bin nói sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không yêu cầu Liêu Xô làm việc đó. Cô-lơ nói đã cố gắng tự mình chuyển thông điệp đó cho sứ quán Việt Nam ở Mát-xcơ-va và cuối cùng người ta gợi ý chuyển cho Liên Xô với tư cách là đồng chủ tịch Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954.

Phi-ri-u-bin lúc đầu nói sẽ báo cáo việc này lên Chính phủ mình. Sau đưa một mảnh giấy cho trợ lý Cô-ni-en-cô đang cùng dự tiếp khách. Cô-ni-en-cô đi ra và trở lại với mảnh giấy mà Phi-ri-u-bin đọc rất kỹ. Sau đó. Phi-ri-u-bin nói rằng Liên Xô không nhận chuyển thông điệp cho Việt Nam vì Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không yêu cầu Liên Xô làm việc đó. Phía Liên Xô cũng nói với phía Mỹ nên tìm con đường khác để chuyển thông điệp cho Hà Nội.

Đến đây. Cô-lơ thấy cuộc gặp gỡ mà ông mong muốn với đại sứ Nguyễn Văn Kính không thành. Trong báo cáo gửi ngay sau đó về Oa-sinh-tơn, Cô-lơ đề nghị nhờ lãnh sự Anh ở Hà Nội chuyển, đồng thời đề nghị rút ngắn và sửa lại thông điệp vì thấy tính chất và cách viết của nó không thích hợp. Bộ Ngoại giao đã gạt bỏ đề nghị thứ hai của Cô-lơ.

Ngày 13 tháng 5, ông E.F.Út, lãnh sự Anh ở Hà Nội gửi cho Trưởng phòng ngoại vụ của Uỷ ban Nhân dân Thành phố một bức thư có kèm theo bức thông điệp của Hoa Kỳ mà đại sứ Kính đã không chịu nhận và Bộ Ngoại giao Liên Xô không chịu chuyển. Nhưng hôm sau, bức thư đó cũng đã được trả lại cho lãnh sự Anh.

Bộ Ngoại giao Mỹ tính những con đường khác.

Họ lợi dụng cả Pi-e Xa-lin-gơ, một nhà kinh doanh đang có mặt ở Mát-xcơ-va lúc đó về vấn đề sản xuất phim. Nhân một bữa cơm do Mi-kha-in Xa-ga-ten-oan mời, người mà Xa-lin-gơ đã quen biết ở Oa-sinh-tơn khi ông ta làm Giám đốc Hãng thông tấn TASS ở đây, và lúc bấy giờ đang làm ở hãng TASS Mát-xcơ-va.

Xa-lin-gơ nêu vấn đề thông điệp với Xa-ga-ten-oan, Xa-ga-ten-oan tỏ ra quan tâm đến thông báo của Xa-lin-gơ và muốn biết thêm quan điểm của Mỹ về một số vấn đề như Hoa Kỳ có tuyên bố công khai hay không về ngừng ném bom, vấn đề ngừng bắn, vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, vấn đề hội nghị quốc tế

Ngày 15 tháng 5, khi gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Grô-mư-cô tại dinh Thủ tướng Áo Clau-xơ, Bộ trưởng Đin Ra-xcơ đã nêu vấn đề Liên Xô viện trợ cho Việt Nam, nhưng Bộ trưởng Grô-mư-cô tỏ thái độ dứt khoát, Liên Xô không thương lượng về vấn đề Việt Nam, Mỹ phải quan hệ với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Tài liệu Lầu Năm Góc, G.E, tập III, tr. 371-378.)

Hai đại sứ Cô-lơ và Kính chẳng gặp được nhau và bức thông điệp của "người cầm quyền cao nhất" nước Mỹ đi kèm với cuộc ngừng ném bom đầu tiên kéo dài năm ngày - từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 5 đã qua nhiều con đường nhưng không con đường nào đưa nó tới người nhận.

Tuy vậy, kế hoạch "Hoa Tháng Năm" đã đạt được yêu cầu mong muốn của Johnson. Johnson đã nói trong bức điện gửi đại sứ Taylor ngày 10 tháng 5: mục đích của kế hoạch này là đặt Bắc Việt Nam phải lựa chọn hoặc là bắt đầu dọn con đường cho một giải pháp chính trị khôi phục lại hoà bình theo điều kiện của Mỹ hoặc là để Mỹ tăng cường các hoạt động quân sự.

Theo Johnson, những yếu tố chính của một nền hoà bình công bằng là: một Nam Việt Nam độc lập được người ta bảo đảm an ninh và có thể đặt các quan hệ với tất cả các nước khác, không bị sự can thiệp của nước ngoài, không tham gia một liên minh ràng buộc nào và không bị sử dụng làm căn cứ quân sự của bất kỳ nước nào. Trong quan niệm kiểu hoà bình đó, không một câu nào nói đến việc rút quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam; việc chấm dứt vĩnh viễn ném bom miền Bắc Việt Nam, việc bảo đảm tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam như Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 đã quy định.

Bức thông điệp ngày 11 tháng 5 nhằm: hoặc Bắc Việt Nam chấp nhận kiểu hoà bình như trên, hoặc Mỹ sẽ tăng cường chiến tranh ở cả hai miền. Rất hợp với kiểu đe doạ chiến tranh đó là một giọng nói trịch thượng, không chỗ nào nói tới thương lượng, thậm chí không chỗ nào nói đến Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là người đối thoại của mình.

Nếu tính thêm các cuộc tăng quân vào miền Nam Việt Nam trong thời điểm đó thì rõ ràng tất cả đã được chuẩn bị, xếp đặt sao đối phương không thể chấp nhận được mục tiêu thứ nhất của Nhà Trắng. Như vậy, chỉ còn lại khả năng thứ hai: Mỹ đã tỏ được sự mềm dẻo hơn và có thêm cớ để đưa thêm quân vào miền Nam Việt Nam và leo những bước thang mới trong việc oanh tạc miền Bắc Việt Nam.

Hoa Tháng Năm! Một cái tên đẹp cho một sáng kiến hoà bình, nhưng một bình phong quá nhỏ để che đậy hàng vạn quân Mỹ đang rầm rập tiến vào miền Nam và hàng nghìn máy bay bay đen bầu trời Việt Nam gieo rắc tàn phá và chết chóc. Sau khi ném bom trở lại, Mỹ ra sức giải thích và đổ vấy trách nhiệm cho Việt Nam.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #34 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2009, 08:49:03 pm »

CHƯƠNG SÁU.
XYZ

Tổng thống Johnson đã vạch ra chiến lược hai gọng kìm để kết thúc chiến tranh Việt Nam. Gọng kìm chính là cuộc chiến tranh trên bộ nhằm làm cho Hà Nội và Việt cộng thấy rằng họ không thể giành được miền Nam Việt Nam. Gọng kìm phụ (ném bom miền Bắc Việt Nam) nhằm làm giảm ý chí và khả năng hỗ trợ Việt cộng của Hà Nội và cũng nhằm tăng cái giá mà họ phải trả để thực hiện được việc đó, hai gọng kìm sẽ đưa đến một giải pháp.

Trên cơ sở chiến lược hai gọng kìm của Tổng thống, tướng Westmoreland vạch ra chiến lược tác chiến ba giai đoạn:

Giai đoạn một: Chặn các bước tiến của cộng sản và kéo dài đến 31 tháng 12 năm 1965.

Giai đoạn hai: Từ 1 tháng 1 đến 30 tháng 6 năm 1966 tấn công các lực lượng cộng sản và mở rộng chương trình bình định nhằm “giành trái tim tình cảm" của công dân Việt Nam.

Giai đoạn ba: Từ ngày 1 tháng 7 năm 1966 đến 31 tháng 12 năm 1967 "phá tan hay làm mất hiệu lực của các đơn vị có tổ chức còn lại của Việt cộng và các khu căn cứ của họ.

Westmoreland cho rằng bình định và ném bom miền Bắc sẽ ngăn chặn cộng sản bù đắp lại những thiệt hại do quân đội Mỹ và Nam Việt Nam sẽ gây ra cho họ thông qua việc tuyển quân ở miền Nam Việt Nam và chi viện từ miền Bắc.

Ngày 7 tháng 6 năm 1965, Westmoreland đã gửi một báo cáo bi quan về tình hình Việt Nam và đề nghị cho thêm bốn mươi mốt nghìn quân chiến đấu và sau đó cần thêm năm mươi hai nghìn quân, đưa tổng số quân Mỹ từ tám mươi hai nghìn quân lên một trăm bảy mươi lăm nghìn quân.

Quyết định ngày 28 tháng 7 của Tổng thống Johnson là để bước đầu đáp ứng yêu cầu của Westmoreland. Không yên tâm, ông thành lập một nhóm các nhà chính trị, quân sự nổi tiếng trong đó có Dean Acheson, kiến trúc sư chính trị tạo nên chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, Arthur Dean, người đã từng tham gia cuộc đàm phán về Triều Tiên, Robert Lovett, cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thời Tổng thống Tru-man... để cho ý kiến. Tất cả nhóm, trừ một người đều nhất trí cho rằng cần đưa thêm quân vào Việt Nam. Những người bảo thủ trong Quốc hội gây sức ép đòi tăng chi phí quốc phòng để hỗ trợ cho kế hoạch bổ sung đang được thực hiện và các kế hoạch tương lai. Tổng thống cử Bộ trưởng Macnamara đi bàn kế hoạch với tướng Westmoreland ở miền Nam Việt. Nam.

Trong khi đó Tổng thống cử Averell Ha-ri-man đi Mát-xcơ-va thăm dò Liên Xô về khả năng họp lại Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, ông lại giao cho George Ball thực hiện kế hoạch XYZ.

Thật ra từ tháng 5, Nhà Trắng đã có ý định mở kênh Paris qua Mai Văn Bộ, Tổng đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Theo kế hoạch này, có ba bước: thứ nhất, qua Chính phủ Pháp, tiếp đó cuộc nói chuyện riêng với một công dân Mỹ: qua một đại diện được phép nhưng không chính thức của Hoa Kỳ. Cuộc tiếp xúc Mai Văn Bộ với người Pháp và nội dung thông điệp để chuyển cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là hai điểm quan trọng nhất.

Pháp yêu cầu Mai Văn Bộ gặp cuộc gặp sáng ngày 18 tháng 5 năm 1965 trước khi Mỹ ném bom trở lại (trong kế hoạch Hoa Tháng Năm) nhưng lúc hẹn gặp nhau, do chênh lệch giờ Sài Gòn với giờ Oa-sinh-tơn. lại xảy ra tám tiếng san khi đã có lệnh ném bom trở lại vì thế cuộc gặp không thành. Người Mỹ cho rằng Hà Nội đủ thì giờ chỉ thị cho Mai Văn Bộ dừng tiếp.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #35 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2009, 08:49:55 pm »

Ngày 29 tháng 7, một nhà kinh doanh Mỹ thông báo cho Bộ Ngoại giáo Mỹ về khả năng thiết lập mối quan hệ với Mai Văn Bộ Tổng thống Johnson giao cho trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao George Ball thực hiện dự án này. George Ball chọn Edmund Gullion, một nhà ngoại giao có kinh nghiệm, nói tiếng Pháp thành thạo và đã phục vụ ở Việt Nam những năm 50.

Gullion xin gặp Mai Văn Bộ với tư cách cá nhân vì Ball cho rằng như thế giữ được sự linh hoạt tối đa trong đàm phán để Chính phủ Mỹ có thể từ bỏ cuộc nói chuyện nếu có vấn đề gì xảy ra.

Để đảm bảo bí mật tối đa, dự án này mang mật hiệu là XYZ.

X là Gullion và Mai Văn Bộ là R, mọi thông tin đều chuyển qua kênh tuyệt mật của sứ quán mà chỉ riêng đại sứ Mỹ biết thôi. Mục tiêu chính nhiệm vụ của Gullion là thăm dò ý nghĩa những tuyên bố chung và riêng của Hà Nội nhằm xác định xem còn có khả năng nào cho cuộc thương lượng thật sự không.

Gullion được hướng dẫn cố gắng xây dựng cơ sở cho một cuộc thương lượng dựa trên "bốn điểm" của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là không thoả hiệp về vị trí của chính quyền Nam Việt Nam.

Gullion xin gặp Mai Văn Bộ ngày 6 tháng 8 năm 1965.

Mai Văn Bộ chấp nhận.

Mở đầu, Gullion bày tỏ mối quan tâm về sự chết chóc do chiến tranh gây ra và tỏ vẻ lo ngại chiến tranh có thể mở rộng.

Ông nói: Tổng thống Johnson đang đứng trước áp lực lớn đòi mở rộng chiến tranh, ông được đa số nhân dân Mỹ ủng hộ nên phải mở rộng chiến tranh và sẽ thắng trong bầu cử tới. Nếu hai bên cứ tiếp tục đánh nhau sẽ không tránh khỏi chiến tranh mở rộng, cho nên phải đàm phán ngoại giao.

Khi đồng chí Mai Văn Bộ nhắc lại âm mưu và lên án sự xâm lược của Mỹ, nói rõ lập trường bốn điểm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhấn mạnh đó là cơ sở để giải quyết vấn đề. Gơ-li-ơn lền hỏi;

- Cơ sở là thế nào? Một hay nhiều cơ sở? rút quân Mỹ trước hay thương lượng rồi mới rút. Bắc Kinh nói Mỹ rút quân là vấn đề tiên quyết, có phải như vậy không?

Trong khi đồng chí Mai Văn Bộ chưa trả lời thì ông ta đã lấy một tờ giấy viết sẵn và đọc:

Một: Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cán tiến hành ngay các cuộc thương lượng không điều kiện tiên quyết và những cuộc thương lượng tiếp theo để bàn biện pháp đưa đến sự công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ như Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 đã quy định.

Nội dung các cuộc thương lượng đó là: phương thức và giai đoạn rút nhân viên quân sự và nửa quân sự, vũ khí nước ngoài ra khỏi miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Sẽ thảo luận việc phá huỷ những căn cứ quân sự nước ngoài, thủ tiêu mọi hiệp nghị và liên minh trái với Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, việc tập kết, việc bố trí các lực lượng bản xứ.

Hai: Việc tuân thủ nghiêm chỉnh các điều khoản quân sự của Hiệp nghị Giơ-ne-vơ phải dược hoàn thành theo đúng chương trình và bảo đảm thích hợp sẽ được thoả thuận trong các cuộc thảo luận hay thương lượng nói trên.

Ba: Những vấn đề nội bộ của Việt Nam ở miền Bắc và miền Nam do nhân dân Việt Nam ở mỗi miền tự giải quyết. không có sự can thiệp của bên ngoài.

Bốn: Vấn đề nội bộ của Việt Nam được giải quyết một cách hoà bình trên cơ sở quyết định tự do của miền Bắc và miền Nam, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #36 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2009, 08:50:40 pm »

Gơ-li-ơn nói rằng những điều trên đây của Mỹ cũng như lập trường bốn điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể là cơ sở để thảo luận. Các nước tham gia vào hội nghị sau này có thể đưa ra cơ sở khác nữa.

Cuối cùng. E.Gơ-li-ơn nói chính sách của Mỹ là muốn thấy một nước Việt Nam thống nhất không có sự can thiệp của Mỹ, Pháp hay Trung Quốc.

Trong cuộc gặp lần thứ hai ngày 13 tháng 8 năm 1965, ông Gơ-li-ơn đọc hai bài báo cáo nói về Johnson bị áp lực phải đẩy mạnh chiến tranh rồi tỏ vẻ lo ngại tình hình sẽ ra sao nếu Johnson không cưỡng nổi áp lực đó. Sau đó ông hỏi ý kiến Mai Văn Bộ về những điểm ông ta đã đưa ra hôm trước.

Mai Văn Bộ nói: Mỹ phải tôn trọng và thi hành Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, thừa nhận lập trường bốn điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đồng chí cũng nói rằng ý kiến của Gơ-li-ơn chưa đáp ứng lập trường của Hà Nội.

Gơ-li-ơn hỏi ý kiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về quyền đại diện của miền Nam Việt Nam. Mai Vãn Bộ nêu rõ: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, Mỹ phải công nhận Mặt trận; Mỹ sẽ thất bại trong âm mưu chia cắt Việt Nam.

Gơ-li-ơn liền thanh minh ngay rằng Mỹ không có âm mưu đó, Mỹ chỉ mong Việt Nam độc lập thống nhất, việc nội bộ Việt Nam do nhân dân Việt Nam giải quyết, theo chế độ nào cũng được miễn là không lệ thuộc nước ngoài. Mỹ mong muốn rút khỏi Việt Nam một cách vinh dự. Nếu miền Bắc rút quân (khỏi miền Nam) thì Mỹ sẽ rút ngay. Ông kết luận rằng còn quá khó khăn... Miền Bắc đòi Mặt trận là đại diện duy nhất cho miền Nam... Mỹ phải chấp nhận trước bốn điểm như vậy còn gì danh dự cho Mỹ, mà lại không có Điện Biên Phủ.

Sau khi hỏi Mai Văn Bộ rằng Trung Quốc có chịu thương lượng không, Gơ-li-ơn nói là ông ta bi quan vì lập trường của Việt Nam quá cứng và doạ "chiến tranh mở rộng thì ghê gớm lắm".

Tưởng câu chuyện dó chấm dứt nhưng ngày 18 tháng 8, E.Gơ-li-ơn lại đến.

Lần này ông lấy bài báo của nhà sử học Pháp Phi-lip Đờ-vi-le phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên tờ Lơ-mông-đơ của Pháp, hỏi lại đồng chí Mai Văn Bộ về quyền đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Khi được trả lời như lần trước, ông lắc đầu cho rằng quan điểm của Việt Nam là không thực tế, ông hỏi:

- Phía các ông thừa nhận một miền Nam Việt Nam độc lập, trung lập có quan hệ thương mại, đi lại với miền Bắc cho đến khi nào hai bên đồng ý thống nhất bằng phương pháp hoà bình nhưng tại sao lại nói theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và cương lĩnh của Mặt trận Tổ Quốc?

Nhưng ông khách Mỹ thật ra không quan tâm lắm đến sự trả lời cho câu hỏi đó, mà nói rằng câu trả lời của miền Bấc về ba vấn đề sau đây là quan trọng hơn cả: ngừng bắn phá miền Bắc, ngừng chiến tranh ở miền Nam và rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, ông hỏi:

- Ba vấn đề này đặt ngang nhau, thi hành cùng một lúc hay có cái trước cái sau. Rút quân Mỹ có phải là điều kiện tiên quyết hay việc rút quân sẽ được giải quyết trong thương lượng và rút như thế nào?
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #37 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2009, 08:51:52 pm »

Bình luận về lập trường của ta, Gơ-li-ơn nói: Mỹ phải thừa nhận bốn điểm, công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng và ngừng bắn phá miền Bắc mà không có dấu hiệu gì đáp lại ở miền Nam thì khó mà đồng tình với nhau được!

Ngày cuối cùng của tháng 8 năm 1965, ông lại đến cơ quan Tổng đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trịnh trọng tuyên bố với Mai Văn Bộ rằng: Bốn điểm ông ta trình bày đã được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ Đin Ra-xcơ xác nhận trong tuyên bố với báo chí: thừa nhận thi hành các điều khoản quân sự của Hiệp nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, thừa nhận tổng tuyển cử ở Việt Nam, Mỹ sẽ ngừng bắn phá miền Bắc nếu có dấu hiệu đáp lại

Ông lại hỏi vấn đề rút quân, rút trước hay rút sau khi thương lựợng, ông nói hai bên phải cùng rút quân, chẳng hạn miền Bắc rút sư đoàn 325 khỏi miền Nam và hỏi thêm: phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có nhận sự kiểm soát quốc tế ngoài Liên hợp quốc không?

Ông ta còn đọc một thông điệp của Chính phủ Mỹ gửi các nước, trong đó nói Mỹ không từ bỏ khả năng ngừng bắn phá Bắc Việt Nam dài hơn với điều kiện là Hà Nội có một dấu hiệu rõ ràng, ngừng việc đưa người và vũ khí vào miền Nam, nhất là ngừng rõ rệt mức độ hành động quân sự và hoạt động khủng bố ở miền Nam do sự ủng hộ của miền Bắc gây ra.

Sau khi Tổng đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phản đối, Gơ-li-ơn dịu giọng và nói:

Mỹ không đòi miền Bắc có hành động tương xứng như ngừng mọi hoạt động, mà chỉ yêu cầu có dấn hiệu nào đó như giảm bớt hoạt động khủng bố hay hành động nào đó để cho hai bên có thể từng bước cùng xuống thang đến mức như ở Al-giê-ri thì có thể từng bước nói chuyện với nhau mà không ai mất mặt cả.

Trước khi về, Gơ-li-ơn còn nói là cả Tổng thống Johnson và Ngoại trưởng đến Ra-xcơ đều cố gắng tìm cách này hay cách khác để đi đến giải quyết bằng thương lượng mà các ông cứ nói ngang như vậy thì làm sao đi đến thương lượng được?

Ông xin gặp lại vào ngày 7 tháng 9 năm 1965 nhưng Mai Văn Bộ từ chối.

Trong cả bốn lần gặp Mai Văn Bộ, Gơ-li-ơn đều nói đến vấn đề Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Nhưng chính trong thời gian đó, Oa-sinh-tơn liên tiếp đưa nhiều đơn vị chiến đấu Mỹ vào miền Nam nước ta. Hoạt động của ông ta chỉ là bộ phận của kế hoạch vận động ngoại giao nhằm che giấu việc tăng quân của Mỹ.

Đầu tháng 11, ông P.Xtơ-mơ, một nhà ngoại giao Mỹ nguyên lãnh sự Mỹ ở Hà Nội từ 1952 đến 1954 yêu cầu gặp Mai Văn Bộ, ông này trước đây đã ủng hộ mạnh mẽ việc Mỹ can thiệp vào chiến dịch Điện Biên Phủ, đặc biệt là về gợi ý đổ bộ quân Mỹ xuống đồng bằng Bắc Bộ.

Khi gặp đồng chí Võ Văn Sung, Bí thư thứ nhất cơ quan ta, ông đưa thư của Gơ-li-ơn đề nghị gặp lại Tổng đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Khi đó, Mai Văn Bộ đã về nước báo cáo.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #38 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2009, 08:54:04 pm »

Câu chuyện của Xtơ-mơ xoay quanh sự sẵn sàng thương lượng không điều kiện của Mỹ, lập trường bốn điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ông ta hỏi:

- Mỹ làm thế nào để thừa nhận bốn điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà? Thừa nhận bằng cách nào? Theo ông, Mỹ đã đồng ý ba trong bốn điểm: các điểm một, hai và bốn. Còn điểm ba thì khó quá, Mỹ phải nhìn trước nhìn sau. Phía Việt Nam hình dung thế nào về diễn biến tình hình sau khi Mỹ nhận cả bốn điểm? Có phải công nhận khi hai bên còn đánh nhau không? Sau khi hai bên gặp nhau có thể đi đến đàm phán không?

Lúc đầu, câu chuyện được dẫn dắt để người nghe tưởng như Mỹ đã nhận ba trong bốn điểm của phía Việt Nam Dân chủ Còng hoà. Sau cùng, Xtơ-mơ nói: Mỹ sẽ ngừng ném bom miền Bắc nếu Hà Nội chấm dứt thâm nhập vào miền Nam và rút quân về Bắc.

Chung quy vẫn là câu chuyện phải có dấu hiệu đáp lại việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, phải có đi có lại nghĩa là Mỹ có thể nói chuyện nhưng phải có điều kiện trước.

Sang tháng 1 năm 1966, Xtơ-mơ lại đề nghị gặp đồng chí Võ Văn Sung nhưng tình hình lúc này đã có diễn biến mới.

Đây là lần đầu tiên một quan chức Mỹ "có thẩm quyền nhưng không chính thức" gặp đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Gơ-li-ơn dược chỉ thị ban đầu là "phải vì ra mềm dẻo vừa gây áp lực" (1) nói một cách đơn giản và chung chung để thực hiện việc tiếp xúc (2), X cần tỏ ra mong muốn cho Việt Nam được hoà bình, tự do, độc lập và thống nhất (3), X cần nói rằng việc kéo dài chiến tranh sẽ đưa đến việc Mỹ tăng sức ép và Trung Quốc kiểm soát Bắc Việt Nam (4), X cần nhấn mạnh rằng không có gì ép được Mỹ rút đi, sức ép đòi mở rộng chiến tranh ở Mỹ đang tăng lên và rất khó mà kiềm chế được.
Và sau mỗi cuộc họp, X lại được chỉ thị cho cuộc tiếp xúc sau.

Mục đích của Mỹ là đánh giá đối phương xem có ý định thương lượng không, có thể tiếp xúc với R được không? Tìm hiểu bốn điểm, điều kiện và thời gian rút quân, cơ sở cho thương lượng, thời gian thống nhất và tổng tuyển cử, thăm dò thái độ của Bắc Việt Nam về đề nghị của Ấn Độ, thái độ đối với Trung Quốc và Liên hiệp quốc, việc dùng vấn đề Lào và Cam-pu-chia làm con bài đổi lấy việc thương lượng.

Tháng 11, Y (Xtơ-mơ) đến gặp đại diện ta với chỉ thị: Y cần nhấn mạnh:

Một: Áp lực ngày càng tăng ở Mỹ đòi mở rộng chiến tranh.

Hai: Dùng chiến thuật chia rẽ Trung Quốc.

Ba: Mở rộng khái niệm về phát triển kinh tế.

Bốn: Hỏi thêm về bị vong lục của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 23 tháng 9 năm 1965.

Oa-sinh-tơn cho rằng Gơ-li-ơn đã "thực hiện nhiệm vụ một cách nghiêm túc" 

Tuy nhiên ông không thuyết phục được Hà Nội đi vào thương lượng trên thế mạnh của Mỹ.


Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #39 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2009, 08:54:59 pm »

CHƯƠNG BẢY
PHÁI ĐOÀN HOÀ BÌNH CỦA KHỐI LIÊN HIỆP ANH VÀ SỨ GIẢ CỦA TỔNG THỐNG N.CRU-MA

Anh là một trong hai Chủ tịch Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương có nhiệm vụ theo dõi việc thi hành Hiệp nghị Giơ-ne-vơ về Việt Nam cũng như về Lào và Cam-pu-chia.

Nhưng Anh đồng thời là đồng minh của Mỹ, gắn bó mật thiết với Mỹ không những bởi truyền thống Ăng-lô-xắc-xông mà còn bởi cái mà người ta gọi là "tình hữu nghị Đại Tây Dương".

Trong việc thi hành Hiệp nghị Giơ-ne-vơ về Việt Nam, quan điểm công khai của Luân Đôn là ủng hộ chính sách dính líu của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, ủng hộ chính quyền Sài Gòn, tán thành duy trì việc chia cắt nước Việt Nam. Họ đã cử R.G.K,Tôm-xơn, chuyên gia số một về chống du kích ở Mã Lai sang giúp chính quyền Sài Gòn chống du kích của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Đương nhiên, họ đã làm ngơ trước việc nhân viên quân sự và vũ khí Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam.

Đầu năm 1965, khi cuộc chiến tranh bắt đầu được Mỹ hoá ở miền Nam Việt Nam, mở rộng ra miền Bắc dưới hình thức một cuộc chiến tranh bằng không quân, Oa-sinh-tơn phải tiến hành rộng rãi việc biện minh và thuyết phục bằng cách đổ lỗi cho Bắc Việt Nam và tuyên bố "sẵn sàng thương lượng không điều kiện".

Từ sau tuyên bố Ban-ti-mo của Tổng thống Johnson, hoạt động ngoại giao của Luân Đôn hướng mạnh mẽ vào việc “tìm kiếm hoà bình" ở Việt Nam.

Từ ngày 14 tháng 4 đến ngày 4 tháng 5 năm 1965, P.G.Oa-cơ, cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh đi thăm một loạt nước Đông Nam Á nhằm nghiên cứu khả năng giải quyết vấn đề Việt Nam. Trong dịp này, E.F.Út lãnh sự Anh ở Hà Nội gửi Trưởng phòng ngoại vụ Thành phố bức thư sau đây:

"Chủ tịch Anh của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 yêu cầu ông báo cho ông Phạm Văn Đồng rằng ông P.G.Oa-cơ đại diện đặc biệt của Chủ tịch Anh sẽ đi thăm Đông Nam Á... Xét tính chất nghiêm trọng của những vấn đề ở Đông Dương, đặc biệt là ở Việt Nam, Chủ tịch Anh cho rằng đại diện đặc biệt cần đi thăm Bắc Việt Nam trong chuyến đi này.

Chủ tịnh Anh mong rằng ông Oa-cơ sẽ có dịp thảo luận với ông Phạm Văn Đồng về những vấn đề làm cho Chủ tịch Anh quan tâm và khả năng giải quyết những vấn đề đó”.

Bức thư còn viết thêm:

“Anh sẽ góp ý kiến với các thành viên của Hội nghị Giơ-ne-vơ về khả năng tới hoà bình ở Việt Nam".

Cuối cùng, ông Út xin thị thực nhập cảnh cho ông Oa-cơ và người cùng đi để họ tới Hà Nội ngày 26 tháng 4 năm 1965.

Khi đến Viêng Chăn, Oa-cơ cho người đến sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lấy thị thực nhưng phía Việt Nam khước từ. Chính phủ Hà Nội không nhận tiếp ông ta vì thấy rằng một cuộc tiếp xúc với ông ta sẽ không mang lại lợi ích gì cho hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương khi chính Thủ tướng Uyn-xơn vừa mới tuyên bố ngày 13 tháng 4 trong một cuộc họp báo tại Liên hợp quốc: "Hoà bình chỉ có thể lập lại được ở Việt Nam bằng cách tiêu diệt Việt cộng". Tuyên bố đó lộ liễu đến mức là hãng UPI, khi đưa tin này, đã bình luận rằng: “Uyn-xơn đứng vững vàng đằng sau chính sách của Mỹ ở Đông Nam Á" .
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM