Cũng thế thôi. "
dòng vật chất năng lượng cao"
Đạn B40 có một tấm tích năng lượng, sau vụ nổ, tấm tích năng lượng này bị nén thành một dải dài, xuyên qua giáp. Tấm tích này của B40 và B41 đều rất mỏng, tốc độ vài km/s, nhiệt độ lên đến 3-5 ngàn độ.
Tấm tích này có khả năng tập trung năng lượng, vật chất cao do vụ nổ phát ra đồng đều trên bề mặy gương lõm. Năng lượng đồng đều do trạm truyền nổ hình chữ U đặc trưng của các đạn Nga. Không phải tự nhiên mà các B chiến công nhiều đến vậy, trong khi có nhiều nước sản xuất RPG. Việc copy đạn không khó, hoặc chuyển giao công nghệ cũng không yêu cầu nhiều, nhưng phương pháp thiết kế để áp dụng nguyên lý nổ trên một súng cỡ nòng khác thì không phải ai cũng có.
Nhờ trạm này mà các đầu đạn B dễ dàng sử dụng góc mở lớn và tập trung hơn, cho phép tăng góc chạm, tăng khả năng tập trung. Cải tiến của B41 chủ yếu kéo dài thời gian chụm theo chiều dọc, giảm sự phân tán của năng lượng tập trung khi khối vật chất năng lượng cao di chuyển theo chiều dọc, cho phép di chuyển thời điểm và khoảng cách điểm hỏa thởi mái hơn. B41 có khả năng đâm xuyên khi chưa nổ mạnh như đạn đại bác, nhờ thế khắc phục nhược điểm của B40 là dễ bị chặn bởi lưới, nhưng đổi lại, thời điểm điểm hỏa của B41 yêu cầu rất nghiệt ngã. Các vết đạn B41 ở Iraq cho thấy đường kính dòng vật chất năng lượng cao trong thực tế chỉ dưới 1cm, hết sức tập trung.
B41 thực hiện việc chụm dọc bằng một phễu kiêm chức năng nắp trước đầu đạn. Phễu này khá cứng và có cạnh sắc cắt thép, nhờ đó đạn được điểm hoả đúng lúc. Khối lượng của phễu ngăn sự thất thoát theo chiều ngang, do phản ứng phễu vỡ diễn ra sau khi thuốc đã nổ hết, tốc độ vỡ của phễu chậm do nó bắt đầu sau, một khối lượng vật chất chủ yếu là khí thuốc do đó bị khối lượng phễu ngăn lại và tạo thành một khối vật chất có mật độ cao chuyển động song song với dòng vật chất năng lượng cao của tấm tích năng lượng, tạo thành vỏ bọc ngăn sự thất thoát theo chiều ngang. Phản ứng này rất tinh tế, nhiều chục năm liền các nhà khoa học phương Tây không hiểu được, cho đến khi họ có máy tính để mô phỏng.
Sau khi liên xô tan vỡ thì một số kỹ thuật Nga thất thoát, trong đó có trạm truyền nổ chữ U này. PanzerFaust III (PzF3) của Đức sau đời đầu dùng đầu đạn cổ, đến năm 1992 có loại đầu đạn trạm truyền nổ chữ U. B40 là vũ khí đầu tiên dùng loại trạm truyền nổ chữ U này. RPG-1 trước đó là phiên bản kết hợp một số đặc điểm của Pzf44 Đức và loại RPG Liên Xô sản xuất trong chiến tranh, vẫn là trạm truyền nổ dưới lên.
Giá trị của góc mở rộng thì xem trận Làng Vây, M72 bắn vào giáp quá nghiêng của PT-76 văng ra. PT-76 có vỏ rất mỏng, tạo thành nỗi nhục lớp cho M72. M72 chỉ thu được mật độ chiến công đáng kể, nhưng là đáng kể với nó, còn vẫn là không đáng kể với yêu cầu trận đánh, ở cửa ngõ Sài Gòn. Nhờ đặc tính của chiến tranh đường phố mà xạ thủ phục kích đợi tăng đến rất gần, nhắm được vào những điểm yếu như sườn xe, sau tháp pháo, sau xe. (T các loại đều không lộ ổ đỡ tháp pháo, giáp ở đó dày, những có thể chưa thủng đã méo, gây kẹt súng). Mỹ về sau ném toàn bộ các thiết kế súng trường, xe tăng, máy bay và đương nhiên cả RPG của họ đi mà nhập khẩu kỹ thuật, đó là chiến thắng chiến lược lẫy lừng của chiến tranh Việt Nam mà ít người cảm nhận được, cũng thường được che dấu thô thiển với lớp người hạ đẳng.
M72 có tính năng chiến đấu lý thuyết xấp xỉ B40 mặt chống tăng, tầm bắn hiệu quả xa hơn chút (170 mét so với tầm bắn hiệu quả B40 là 150 mét). Tầm bắn tối đa 1km (B40 là 500 mét). Sức xuyên lý thuyết B40 nhỉnh hơn chút. So sánh tầm bắn tối đa và hiệu quả các B cao hơn do chúng có tỷ lệ sơ tốc lớn trong tổng vận tốc tối đa, phần vận tốc do tên lửa tạo ra khi đã ra ngoài ray phóng làm phân tán đường đạn. Nhưng thực tế, B40 là số một, còn M72 chóng rơi vào quên lãng.
Liên Xô có một phiên bản có hệ thống phóng copy của M72 sau chiến tranh Việt Nam là RPG-18. Do M72 thể hiện một mặt chiến thuật mạnh, đó là cả tiểu đội cùng một lúc bắn được, tạo thành dàn hỏa lực mạnh như một dàn dã pháo rất lớn, trong khi B chỉ 1 người một tiểu đội. Tính chất đó cũng cho phép dễ dàng lập một tổ săn tăng, mỗi người mang một hai đạn, bắn từ nhiều hướng trong khi mỗi người vẫn mang một súng trường hoặc súng ngắn liên thanh bắn đạn viên. Nhưng tất nhiên RPG-18 có đầu đạn trạm truyền nổ chữ U, quân Chechen sử dụng RPG-18 khá tốt.
Phiên bản Tầu nhái B40 tuy có chuyển giao công nghệ, nhưng họ "sáng tạo" một kiểu ngòi nổ mới rất tệ, tự phát nổ trong kho hai lúc rơi, buộc ta phải thay thế hàng loạt. Sau này ta sản xuất theo mẫu Liên Xô và có một số cải tiến nhưng đều thử nghiệm rất kỹ, không bao giờ có hiện tượng như vậy lần nữa.
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1136.msg13990#msg13990http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1047.msg14046#msg14046Đây là ảnh động, các bạn rất hay nhầm khi post nguyên lý của phản ứng nổ liều lõm, sự nhầm lẫn do mấy con vật mà bác Đoàn nuôi lảm nhảm. Ảnh do mình tự làm, hơi thô, nhưng đúng, copy r vô tư với thành viên qsvn trên qsvn.
Việc copy sơ đồ điểm hoả này là đơn giản. Nhưng thiết kế nguyên lý này trên cỡ đạn riêng của mình là điều rất khó khăn, được thực hiện bởi các bài toán bí truyền trong thời đại không có máy tính. Ngay cả thời máy tính hiện nay, việc thiết kế một đạn truyền nổ chữ U từ sườn vào tâm cũng không đơn giản và không nhiều súng có.
Đệm ngăn phản ứng nổ làm bằng giấy các tông. Nó chỉ là một khối lượng tương đương độ dầy của một lớp không khí khá lớn, nhờ đó giảm tốc độ truyền nổ trong thời gian các mảnh giấy tăng tốc vì bị phá hủy. Trong thời gian đó, khí nổ của kíp truyền qua khoảng trống với tốc độ hàng km/s và phát nổ đai đuôi của khối thuốc chính sau thời gian dưới phần vạn giây. Nhờ có đệm các tông mà phản ứng nổ đi vòng, vòng quanh đến trước đường thẳng, nên tấm bìa các tông được gọi là tấm ngăn sóng nổ hay đúng hơn là tấm làm chậm phản ứng nổ. Do công nghệ đơn giản nên thật ra thuốc truyền nổ của B40 chưa hoàn toàn kín hình chữ u, mà đáy chữ U chưa đúc được kín bằng thuốc truyền nổ (RDX, HMX...) lên chỉ là một khoảng trống. Các vũ khí khác cùng thời cũng có thuốc kín, nhưng trạm truyền hồi đó dầy, nặng, không hợp với đầu đạn B40 vốn đã phóng khá yếu.
Nhìn hình cũng thấy thuốc liều lõm có thể làm bằng những loại thuốc nổ chậm, như các thuốc nổ cứng dễ đúc định hình, kiểu TNT, hay RDX được làm ổn định bằng cách trộn với TNT (amatôn), trong khi HMX lúc đó còn đắt đỏ quý hiếm.
Còn đây là sơ đồ M72. Các sách vở của Mỹ chỉ có sơ đồ này, theo họ, tất cả các đạn lõm trên đời đều điểm hoả dưới lên thế này. Trong khi đó, kiểu điểm hoả ngang đã bắn chết cả núi xe của họ, được sản xuất bởi những nước nghèo nàn lạc hậu nhất quả đất. Phương pháp điểm hoả dưới lên (sau ra trước) là phương pháp điểm hoả cổ nhất của liều lõm, Mỹ học lỏm từ châu Âu trước WW2. Sau này, châu Âu không hạ cố rỉ tai cho Mỹ thêm cách điểm hoả nào nữa, cho nên M72 vẫn sử dụng cách này. Ta dễ dàng hiểu tại sao Mỹ phải thiết kế một bộ máy chế tạo liệt não công nghiệp to đến như vậy. Giải thích làm sao việc M72 có sức xuyên lý thuyết 150mm mà bắn 20mm không thủng ?? chỉ có cách làm liệt não người nghe mà thôi. Mình định vẽ các hình động này từ trước, nhưng cảm thấy trình vẽ xấu quá nên tưởng rằng các bạn nhìn hình tĩnh là hiểu.
Ngay cả các đầu nổ chống tăng mạnh nhất trên đạn tự hành hiện đại của Mỹ vẫn không thoát khỏi cách truyền nổ quá cổ đại này. Điều này làm các đạn đó đường kính lớn, to, nặng, lại kém. Thật ra hầu hết các đạn Mỹ đều là nhai lại các phiên bản cổ lỗ của châu Âu, cũng như xe tăng hay súng trường vậy.