Projector, Infantry, Anti Tank (PIAT) là súng chống tăng bộ binh. Nó là một dạng súng cối.
Panzerfaust là loại vũ khí chống tăng dùng cho bộ binh của Đức phát triển rất sớm. Tuy nhiên, chính người Đức không đánh giá được hết vai trò của nó. Loại vũ khí này chỉ được người Đức đặt áp lực phát triển cao lúc cuối chiến tranh, khi đã trên miệng lỗ.
Panzerfaust là một nhóm vũ khí. Thuộc loại phóng lựu không giật. Mang đầu đạn lõm chống tăng. Sau này, khi Đức chết đi, người ta hay nói nhiều đến nó như là một hiện tượng kỳ lạ của chiến tranh. Tuy vậy, thiết kế súng đạn còn rất nhiều hạn chế. Những nhược điểm lớn nhất như tốc độ đầu đạn quá thấp, dễ dàng bị chắn bời lưới đơn giản. Hay nhược điểm như độ tin cậy của đầu đạn thấp, cả khả năng kích nổ, xuyên... phụ thuộc nhiều vào tốc độ, vị trí, góc chạm. Thêm một phần nữa do thiếu thuốc nổ tốt và phương tiện thử nghiệm tiên tiến, các vũ khí này không rạng danh như B40 hay B41 sau này. (thuốc phóng là thuốc nổ đen, thuốc nhồi liều lõm là TNT và TNT trộn TNG như dynamit cứng).
Faustpatrone klein, được phát triển từ năm 1942. Đây là vũ khí chống tăng dùng một lần, nặng 3,2kg dàu 98,5cm. Đạn dài 36cm, đầu đạn đường kính 10cm, thuốc nổ lõm 400g. Đạn có chuôi gỗ và cánh ổn định xếp vàp, không có tên lửa. Tốc độ 28m/s bắn xa 30 mét, xuyên giáp 140mm. Thước ngắm đầu ruồi gập vào. Một số vấn đề lớn chưa giải quyết được như xu hướng đạn nẩy ra và trượt theo mặt dốc xe tăng mà không nổ. Faustpatrone đơn giản, vẫn được sản xuất đến năm 1945.
Panzerfaust 30, khắc phục những nhược điểm của đời cũ bằng tăng trọng lượng đầu đạn và hình dạng đầu đạn. Cả ống phóng và đạn nặng 5,1kg, tầm vẫn 30 mét. Đầu đạn nhồi 800gr thuốc sức xuyên 200mm. Sản xuất từ 8/1943 đến 8/1944 dược thay bởi Panzerfaust 60.
Panzerfaust 60. Đây là loại được dung rộng nhất. Cải tiến tập trung vào việc tăng tầm. Ống tăng lên 5cm, thuốc đẩy nhổi 134g, sơ tốc 45m/s tầm bắn 60 mét. Thước ngắm và cơ cấu cò cũng thay đổi chút. Cả bộ nặng 6,1kg , bắt đầu sử dụng 9/12944.
Panzerfaust 100. Phát triển tiếp theo, sơ tốc 60m/s tầm bắn 100 mét. Buống nổ 2 tầng rất phức tạp, trang bị tháng 11 năm 1944. Chiều dài ống như cũ, khối lượng tăng lên 6,8kg.
Panzerfaust 150, Panzerfaust 250.
Panzerfaust 150 sản xuất tháng 3/1945, chỉ có số lượng ít. Panzerfaust 250 chưa sản xuất. Panzerfaust 150 là phóng to của Panzerfaust 100.
Panzerschreck được phát triển theo bản M9A1 Bazooka Mỹ, thu được ở Bắc Phi. Raketen-Panzerbüchse (ống phóng tên lửa chống tăng).
Khác với các Panzerfaust, Panzerschreck có súng dùng nhiều lần, biên chế cho tổ 2 người. Ống phóng trụ trơn dài 164cm nặng 9,25kg. Đạn RPzB.Gr.4322, nặng 3,3kg nhồi liều lõm 660g. Tên lửa hoạt động đến khi cách ống 2 mét, tốc độ lúc đó 105m/s, tầm bắn xa nhất 700mét. Tầm bắn hiẹu quả được cho là từ 200-400mét, nhưhg có lẽ nếu đặt những yêu cầu hiệu quả như sau này thì rất thấp. SÚng có tấm chắn luồng phụt tên lửa. Phiên bản đầu tiên tháng 10/1943, phiên bản dùng đạn RPzB.Gr.4992 11kg thàng 11/1943, cả hai loại đạn đều xuyên 230mm thép. Phiên bản cuối nhẹ hơn RPzB.54/1, 12/1944, ống còn 135cm, cả khối còn 9,5kg. Phiên bản cuối là một nỗ lực phát triển khi chiến tranh đã gến kết thúc. Phần ngòi tin cậy hơn, độ chính xác cao hơn.
http://www.geocities.com/Augusta/8172/panzerfaust.htmFaustpatrone klein. Panzerfaust 30
Panzerfaust 60
Panzerfaust 150
Panzerfaust 10
Ju-181 và 4 đạn