nhatminhdl54
Thành viên
Bài viết: 60
|
|
« Trả lời #47 vào lúc: 12 Tháng Bảy, 2009, 09:04:44 am » |
|
Nhân khi vào weblogs của anh LÊ BÁ DƯƠNG, CCB MT Quảng Trị 1972, tác giả bài thơ "Đò lên Thạch Hãn", có đăng "Văn tế đồng đội một thời Chung chiến hào Quảng Trị" của đoàn hành hương "Ấm rừng đồng đội" - 30/ 4/ 2009 - Tác giả: NGÔ MINH HỚN; rất xúc động. Tôi chưa thấy đăng ở Quansuvn, xin phép Tác giả NGÔ MINH HỚN và anh LÊ BÁ DƯƠNG, chép lại để các đồng đội chia sẻ: Văn tế đồng đội một thời
Chung chiến hào Quảng Trị Của đoàn hành hương "Ấm rừng đồng đội" - 30/ 4/ 2009
Tác giả: NGÔ MINH HỚN
Ông Ngô Minh Hớn sinh năm 1932 - Tên chữ là Ngô Trí Hán - một giòng họ trí giả nổi tiếng ở Yên Thành, Nghệ An. Năm 1959 - Thầy giáo làng Ngô Trí Hán rời quê khoác áo lính, phục vụ trong quân đội nhân dân Việt Nam. Trải qua các đơn vị, cơ quan khác nhau. Tháng 2/1968, Trung đoàn 27 Xô Viết Nghệ Tĩnh được thành lập và đưa vào chiến trường B5 - Quảng Trị chiến đấu. Ông được điều động về công tác tại cơ quan chính trị của Trung Đoàn, và là một trong những người có mặt từ đầu đến cuối thời gian trung đoàn thành lập và chiến đấu những năm chiến tranh chống Mỹ. Vốn là một nhà giáo như anh em chúng tôi thường gọi ông là "Thầy đồ nho, dạy chữ quốc ngữ"...Thuộc hàng "Trên thông thiên văn, dưới tường địa lí", ông hội đủ những nét tài hoa, uyên bác- Văn hay, chữ đẹp, hoạt khẩu, ứng biến linh hoạt, hài hước nhưng cực kỳ sâu sắc... ông được các thế hệ cán bộ chiến sĩ trong và ngoài đơn vị vì nể, trân quý qua hàng trăm tác phẩm văn thơ, nhạc, kịch cũng như những giai thoại thâm thuý, đượm chất Nghệ . Từng là một cậu học trò thời áo lính được ông trực tiếp rèn chữ, dạy nghĩa... Trong đợt tổ chức cuộc "hành hương ấm rừng đồng đội"cuối tháng 4/2009 vừa rồi, tôi đã hoàn toàn tin tưởng phó việc soạn văn tế các đồng đội cho ông. Và tôi đã không nhầm khi đã "Phó đúng người, đúng việc". Chỉ sau vài ngày chuốt câu, đặt chữ, ông đã nhờ người mail cho tôi bản thảo Văn tế đồng đội chung chiến hào Quảng Trị. Xin được giới thiệu đến bạn bè đồng đội. -------------------------- Văn tế Anh em chúng tôi từ nhiều miền đất nước ở các đơn vị khác nhau, trong đó có Trung đoàn 27/ Mặt trận B5 ở Nghệ An ở đã từng chiến đấu trên chiến trường Đường 9-Bắc Quảng trị, cùng về thăm lại chiến trường xưa, tìm đến những địa danh từng trực tiếp chiến đấu ở các huyện Gio - Cam , Triệu -Hải, thành cổ Quảng Trị... nơi từng là bãi sa trường bời bời khói lửa để viếng các đồng đội đã một đi không bao giờ trở lại. Nhớ khi gạt nước mắt, đưa anh em vào lòng đất, chúng tôi vẫn thề sau này đất nước hoà bình, sẽ vào đưa các bạn về với gia đình quê hương...Nay chiến tranh đã lùi xa, dẫu đã hết sức mình, nhưng lời nguyền đó vẫn chưa và sẽ không thành ...Vậy nên lần này chúng tôi mang theo Đất và Nước của nhiều miền quê cả nước vào tưới thẫm lư hương, nấm mồ và là bàn thờ chung các đồng đội, hoà vào lòng các dòng sông quê nơi các đồng đội đang yên nằm trong sự chở che của người và đất Quảng Trị ...Những mong các đồng đội cảm nhận được rằng: Thêm một chút Đất Nước quê nhà trong ấm áp nghĩa tình đồng bào chiến sĩ Quảng Trị, Quê Hương vẫn luôn gần gũi, ấm áp bên mình.
Trong linh khí thiêng liêng ấy, trước nấm mồ chung và miếu thờ tập thể Liệt Sĩ ở Hồ Khê-Đá Bạc, xin có lời kính cáo cùng anh linh các đồng đội.Thưa rằng: 1 Đất nước ta + Trời biển mênh mông - Núi non hùng vĩ.
2 + Những địa danh lịch sử vẫn thân quen - Mà cảnh sắc con người bao mới mẻ
3 + Quan san muôn dặm, cuộc hành hương náo nức những chờ mong - Con một nhà, ngày hội ngộ tưng bừng khôn xiết kể
4 + Giữa cảnh sắc núi non dừng ngoảnh lại, cuối dốc lưng đèo còn ai đó, Tưởng như hình thấp thoáng cõi hư vô - Trước dập dờn sông nước, nhác trông ra , bóng chim tăm cá ...có ai ta, Dường ảo ảnh nhấp nhô làn lưu thuỷ
5 Đến đây + Lòng bùi ngùi đếm thiếu những tên ai - Mắt ngấn lệ trông lên hàng mộ chí
6 Nhớ các linh xưa : + Vốn là những nam thanh, nữ tú, kẻ chí thú ruộng đồng, người say mê nghiên bút, vì miền Nam rên xiết dưới gót giày đinh của quân xâm lược, mà dứt áo ra đi. - Dẫu vẫn còn mẹ yếu, cha già,việc riêng tư gác lại, đành lở dở công danh, bởi miền Bắc đau thương khi quân thù tàn sát cả trẻ em, mà ngẩng đầu quyết chí!
7 + Vâng lời Bác : "Không có gì quí hơn tự do, độc lập", cả nước cùng sát cánh, chen vai . - Yêu quê hương: "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường sơn", quân dân cũng đồng tâm, nhất trí !
8 + Mảnh đất Đường 9, Quảng Trị vốn rất kiên cường - Nhân dân Triệu -Hải, Gio -Cam vốn giàu nghĩa khí !
9 + Đông sang tây cát vàng, đất đỏ, Từ Gio An, Ái Tử đến Rào Quán, Úc Nghì, rồi Cồn Tiên, Dốc miếu... địch dàn quân ngăn trước, chặn sau . - Hễ ở đâu Mỹ đến, ngụy vào, Dù lũng thấp đồi cao..., hoặc đóng quân kiên cố hay đồn trú tạm thời... Ta bủa lưới công thành, phá luỹ !
10 + Giặc điều đến những binh đoàn tinh nhuệ, được yểm trợ bằng đại bác, xe tăng, lại có hàng rào "Mắc-na-ma-ra" che chắn, những tưởng làm cho ta khiếp đảm, kinh hoàng. - Ta vào đây với chân đất, đầu trần, Nhưng biết lấy lòng dân làm trận địa, lấy ý chí căm thù làm vũ khí ra quân, nên đã đánh cho chúng xiêu hồn, bạt vía.
11 + Lính địa phương chuẩn bị chiến trường - Lính chủ lực khẩn trương cài thế.
12 + Trận Phúc Sa diệt nửa ngàn tên - Trận Cam Vũ bắt tù binh Mỹ.
13 Than ôi ! +Những chiến công hiển hách thì có thể đếm, đo - Bao mất mát lớn lao há dễ gì có thể ...!
14 + Người hành quân trúng pháo, xác lạc giữa rừng sâu - Kẻ đuổi giặc gặp mìn, thân vùi bên đường xế.
15 + Khi giữ chốt hứng chịu ngàn tên đạn, Có anh em thân hoà với đất đai. - Lúc công đồn đạp mấy lớp rào gai, Có đồng chí xác vắt giây thép rỉ
16 + Đỉnh Pu lơ mây vờn chóp núi, tiễn người về lãng đãng màn sương - Suối La La nước chảy lưng đồi , ru người mất nỉ non tiếng dế !
17 + Qua bãi Tân kim - nơi một thời trận mạc, Ngàn lau xào xạc, tưởng đất trời phảng phất hồn thiêng - Đến bãi Cù Đinh- nơi một thủa giao tranh Sương khói cuộn trào, dường sông núi ngút ngàn linh khí
18 + Bên dòng sông Thạch Hãn chạnh nghĩ thuở ra vào thành cổ biết bao lần máu đỏ nhuộm dòng xanh. - Nơi bè chuối sang sông , sực nhớ khi trúng đạn giữa chừng xin đừng hỏi đâu mồ chôn Liệt Sĩ
19 + Nấm mồ chung ở Hồ khê - Đá bạc (*) , Hoà xương máu địa phương cùng chủ lực, thắm thiết thay "chị ngã em nâng". - Ngôi miếu thờ có bia đá, tường xây, Chung nghĩa tình sở tại với muôn phương, ân đức ấy "bầu thương lấy bí"
20 + Các anh ngã xuống cho đất nước ta "nở hoa độc lập" (**) Hoà bình thịnh vượng xã hội văn minh - Như vẫn đồng hành để Quảng Trị mình "kết quả tự do", no ấm giàu sang, dân tình hoan hỉ
21 + Sâu nghĩa đồng hương - Nặng tình đồng chí
22 +Viếng các anh, chúng tôi chuẩn bị đất cát của nhiều miền tổ quốc: Lạng Sơn, Hà Tĩnh ...với nhiều vòng hoa thắm, cùng những búp hương thơm - Nhớ đồng đội chúng tôi mang theo nước Hồ Gươm và các dòng sông Nhật Lệ, Kỳ Cùng, cả nước Sông Lam và đất vàng xứ Nghệ
23 Những mong + Đất quê hương sưởi ấm mọi linh hồn ở cõi vô biên - Nước xứ sở làm xanh đám cỏ khâu ở nơi yên nghỉ .
24 + Nghĩa nước non là nghĩa tử sinh - Tình đồng đội là tình chung thuỷ
25 Đồng đội nằm đây: + Chuyện bát cơm sẻ nửa... rồi sẽ còn sống mãi với thời gian - Thời chia lửa diệt thù... hẳn sẽ được lưu truyền nhiều thế hệ.
26 + Hương li biệt bâng khuâng một nén, khói bay vòng như luyến như lưu - Bài văn ai thống thiết mấy vần, nói sao cho đủ chữ tình, chữ nghĩa
27 + Cõi vĩnh hằng chúc yên giấc ngàn thu - Gương trung liệt mãi sáng ngời Thiên Kỷ
Phục duy thượng hưởng !
Cẩn cáo ! Ghi chú: *: hoặc :Cây đa - giếng nước (Gio An) Triệu Trung - Ba bến (Triệu Phong) ** Trích lời Bác Hồ nhân ngày thương binh Liệt Sĩ
|