Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 09:54:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ngọn lửa chiến tranh lạnh - Tập 1  (Đọc 156938 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #80 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2009, 01:11:01 pm »

Kâynan nói: "Đi quá nhanh rồi"

Lần này, công việc khởi thảo báo cáo cho Tổng thống đọc trước Quốc hội không mời Kâynan tham gia, có thể là vì Kâynan đương là Phó viện trưởng Học viện chiến sự toàn quốc. Một ngày trước khi dự thảo trình lên Tổng thống, người khởi xướng "chiến tranh lạnh” này mới được đọc. Nội dung bài nói khiến Kâynan kinh ngạc, ông nói ngay với Êkixơn: "Đi quá nhanh mất rồi, thậm chí người Nga có thể tuyên chiến vì chuyện này”. Êkixơn nghe xong, không có phản ứng gì.

Về đến phòng làm việc, Kâynan ngồi vào bàn viết ngay một bản góp ý kiến về vấn đề Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Song, những ý kiến của Kâynan bị Êkixơn cự tuyệt.

Cuối tuần, trong bữa tiệc tối tại nhà Êkixơn, mang nỗi lo canh cánh trong lòng? Kâynan một lần nữa nêu lại quan điểm của mình. Ông ta nói với Phó Quốc vụ khanh rằng, không nên quá nghiêm trọng hóa vấn đề, rằng nước Mỹ không thể hứa hẹn một cách bừa bãi sẽ viện trợ cho tất cả các nước trên thế giới, rằng thực tế nước Mỹ cũng không thể nào gánh vác nổi. Êkixơn trả lời, để thuyết phục được Quốc hội, phải làm như vậy

Bị cô lập, Kâynan chỉ còn cách viết thư cho Bairơn đang đi theo Mácsan dự Hội nghị Ngoại trưởng, hy vọng ông bạn thân này có thể giúp một tay trong vấn đề Hy Lạp. Ở Pari, đoàn đại biểu Mỹ cũng nhận được bản dự thảo báo cáo, sau khi đọc xong, cả Mácsan và Bairơn đều cảm thấy nội dung chống cộng viết quá huênh hoang. Họ điện về nước, đề nghị "xuống giọng đi một chút". Và câu trả lời của Tổng thống là: "Không dùng những lời lẽ quyết liệt, Quốc hội có thể sẽ không thông qua nghị án”. Mácsan cũng thôi luôn ý kiến đề nghị của mình .

Tơruman quyết tâm đương đầu với tình thế. Xem bản dự thảo báo cáo đầu tiên do Êkixơn chấp bút gửi tới, Tơruman toàn thấy tư liệu và con số thống kê, đọc lên nghe như một báo cáo điều tra, bèn gửi trả lại cho Êkixơn, yêu cầu phải nhấn mạnh về chính sách chung. Bản dự thảo lần thứ hai được gửi tới, Tơruman vẫn không vừa ý, cảm thấy nó nhạt nhẽo quá, chẳng khác gì một tài liệu tuyên truyền viết để cổ động việc đầu tư. Và thế là, Tổng thống cầm bút lên, chữa chữ "nên” trong câu "Tôi cho rằng chính sách của nước Mỹ nên..." thành chữ "phải". Tất cả chỗ nào có chữ "nên", Tơruman đều sửa thành chữ "phải”. Ông nói:

- Trong báo cáo này, tôi không muốn dùng những từ có thể hiểu lập lờ. Đây là câu trả lời đối với cộng sản, nó phải rành rọt rõ ràng, không cho phép do dự hoặc tự mâu thuẫn.

Dù tên đã lắp vào cung, song số người hoài nghi lo lắng vẫn còn nhiều. Một trợ lý của Tổng thống trong bức thư gửi cố vấn Tổng thống Clipphớt đã bày tỏ sự lo ngại của mình,  ông ta nhắc cố vấn Tổng thống chú ý, "Thời gian gần đây, những lời nói và hành động công khai của Liên Xô không có chỗ nào vượt quá quỹ đạo để chúng ta có thể kiếm cớ phát biểu một bài diễn văn căng thẳng như vậy”.

Hơn ba mươi năm sau, tại một hội thảo về chính sách Ngoại giao của Tơruman tổ chức tại thư viện Tơruman, Clipphớt đã thừa nhận với các đồng sự trước đây và một số chuyên gia lịch sử Ngoại giao rằng, cách dùng từ ngữ khi đó có lẽ gay gắt quá, và ông biết chính ông cũng từng bị chỉ trích là kẻ đã làm cho cuộc chiến tranh lạnh thêm nguy kịch.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #81 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2009, 01:13:05 pm »

"Chủ nghĩa Tơruman" thượng đài

Đúng 13 giờ ngày 12 tháng 3 năm 1947, Tơruman bước lên bục nói chuyện của đại sảnh Hạ nghị viện, phát biểu bài nói trước Hội nghị liên tịch Thượng, Hạ nghị viện. Mở đầu, ông ta công kích ngay các nước xã hội chủ nghĩa.

"Ở bước ngoặt quan trọng của lịch sử thế giới hiện nay, hầu như tất cả mọi quốc gia đều đứng trước sự lựa chọn giữa hai phương thức sống... Một phương thức sống xây dựng trên cơ sở ý chí của đa số, mà đặc điểm của nó là thể chế tự do, Chính phủ đại nghị, bầu cử tự do, bảo đảm quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và quyền tự do không chịu sự áp bức về chính trị. Phương thức sống thứ hai dựa trên cơ sở áp đặt ý chí của một thiểu số người cho một đa số người, dựa vào khủng bố và áp bức, vào những tin tức, tuyên truyền bị khống chế, vào những cuộc bầu cử được chỉ định và thủ tiêu tự do cá nhân”

Tiếp đó, bằng một giọng hào hiệp "sục sôi nghĩa khí” ông ta nhấn mạnh tính chất nguy hiểm nếu không viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ và tầm quan trọng phải giúp đỡ các dân tộc tự do tự quyết định số phận của mình theo cách của mình.

"Tôi cho rằng, điều đó phải trở thành chính sách của nước Mỹ: Hoa Kỳ cần phải giúp đỡ các dân tộc tự do đang tiến hành cuộc đấu tranh chống lại âm mưu chinh phục của một thiểu số những phần tử vũ trang hoặc của những thế lực bên ngoài.

"Tôi cho rằng, chúng ta phải phối hợp giúp đỡ nhân dân các quốc gia tự do đang cố gắng cứu vãn vận mệnh của mình theo cách của họ.

"Tôi cho rằng, sự giúp đỡ của chúng ta chủ yếu phải viện trợ về kinh tế và tài chính, vì đó là điều không thể thiếu được đối với tiến trình ổn định kinh tế và ổn định chính trị.

“Trong giờ phút vô cùng hệ trọng hiện nay, nếu không viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, thì bất luận là đối với phương Tây hay với phương Đông, ảnh hưởng đều rất sâu xa.

"Chúng ta phải hành động kiên quyết”


Tiếp đó, Tổng thống yêu cầu Quốc hội trao cho quyền viện trợ Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ 400 triệu đô la Mỹ, cử quan chức dân sự và quán sự sang hai nước này, giúp họ xây dựng và đào tạo viên chức.

Để làm khiếp đảm dân chúng Mỹ, Tơruman giở trò mê hoặc lòng người bằng cái giọng khiến người ta phải ngạc nhiên:

“Con đường chúng ta đi tới là một con đường nghiêm trọng. Nếu không phải vì không làm như thế hậu quả sẽ càng nghiêm trọng hơn, chắc chắn tôi không đề nghị làm như vậy... Nhân dân tự do trên toàn thế giới đang mong chờ chúng ta giúp đỡ họ bảo vệ nền tự do của họ. Nếu chúng ta, chúng ta có thể làm nguy hại cho nền hoà bình thế giới - và chắc chắn là sẽ làm nguy hại đến lợi ích của bản thân nhà nước chúng ta”

Cuối cùng, Tơruman làm như chuyện đó có thật, công nhiên tuyên bố. "Đó là câu trả lời của nước Mỹ đối với làn sóng bành trướng của tên bạo chúa cộng sản!”

Nội dung bài nói của Tơruman được gọi là “chủ nghĩa Tơruman", nó đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, nó đánh dấu cuộc chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô chính thức bắt đầu. Đúng như Tơruman đã viết trong hồi ký của mình: "Tôi tin chắc, đó là bước ngoặt trong chính sách Ngoại giao của Mỹ. Nó tuyên bố giờ đây bất cứ một nơi nào, bất cứ một sự xâm lược nào đe doạ hoà bình dù trực tiếp hay gián tiếp, đều liên quan đến nền an ninh của nước Mỹ".

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #82 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2009, 01:13:14 pm »

Đối với bản báo cáo của Tổng thống, phản ứng của những người dự họp không nồng nhiệt lắm. Phần lớn trong số họ vẫn chống lại Tổng thống, họ vừa thông qua biểu quyết cắt giảm 6 tỷ đô la trong dự toán năm tài chính tới của Tổng thống. Vậy mà, khi Tơruman dứt lời, các nghị sĩ vẫn đứng lên vỗ tay. Đương nhiên, điều đó không chứng tỏ họ đồng ý với những ý kiến của Tổng thống, có chăng chỉ biểu thị sự tôn trọng của họ đối với Tổng thống.

Sau khi đề nghị được đưa ra, Quốc hội Mỹ bắt đầu tranh luận. Trong quá trình thảo luận, nghị sĩ Vanđenbua nói nghị án có một thiếu sót quan trọng, đó là không nói đến Liên Hợp Quốc, dư luận cũng phê phán Mỹ định qua mặt Liên Hợp Quốc để hành động một mình. Thực ra, điều này không phải do Tơruman và Êkixơn sơ ý. Êkixơn cho rằng, Liên Hợp Quốc không có vai trò gì, mang ra thông qua ở Liên Hợp Quốc, có thể lại bị Liên Xô phủ quyết. Song để lấy lòng Vanđenbua, Êkixơn vẫn đồng ý sửa lại phương án, phần trước của nghị án thêm vào mấy câu đề nghị của Vanđécbua: "Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ theo khuyến cáo của tổ chức Lương thực - Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, đã yêu cầu Mỹ và Liên Hợp Quốc viện trợ”. Theo Êkixơn, đây là sự sửa đổi "có tính chất trang trí ngoài cửa" là "cái giá quá rẻ để được sự ủng hộ của Vanđenbua".

Mỗi lần họp nghe giải trình theo yêu cầu của Quốc hội, dù công khai hay bí mật, đều không thiếu mặt Êkixơn, và ông ta luôn luôn là người khai hỏa. Trong cuộc họp, ông ta tranh luận gay gắt với các nghị sĩ Quốc hội và lần lượt trả lời các câu hỏi của các nghị sĩ. Ngoài cuộc họp, lê lết với tấm thân mệt mỏi, ông ta vẫn gân cổ biện hộ cho chủ nghĩa Tơruman. Một lần, ông ta đã to tiếng với nhà văn nổi tiếng Lípman khi tranh luận về chủ nghĩa Tơruman, hai người mặt đỏ tía tai, chỉ trích lẫn nhau. Êkixơn chỉ vào ngực Lípman, trách ông ta phá hoại chính sách Ngoại giao của Mỹ. Chẳng trách có người nói, gọi "chủ nghĩa Tơruman" là "chủ nghĩa Êkixơn” thì đúng hơn. Nói cho chính xác, "Chủ nghĩa Tơruman" là con chung của họ, nó ra đời dưới tác động thúc đẩy tích cực của Êkixơn và được sự khuyến khích và ủng hộ của Mácsan và Tơruman.

Diễn văn của Tơruman và sự cố gắng của Êkixơn cuối cùng đã có kết quả. Ngày 12 tháng 4, với 67 phiếu thuận và 23 phiếu chống, Thượng nghị viện đã thông qua phương án viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 8 tháng 5, Hạ nghị viện cũng thông qua với 287 phiếu trên 107 phiếu.

Ngày 22 tháng 5, Tơruman đặt bút ký vào phương án này. "Chủ nghĩa Tơruman" đã dấy lên cuộc tranh luận sôi nổi trong cả nước về chính sách Ngoại giao của Mỹ. Kâynan đổi tên là "X Tiên sinh", đăng một bài viết có tiêu đề "Nguồn gốc những hành vi của Liên Xô" trên Tạp chí Ngoại giao (Mỹ) số ra quý 2, trong đó đã phân tích về mặt lý luận "chủ nghĩa Tơruman" và đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ nghĩa này. Không ít người gọi "Chủ nghĩa Tơruman” là "Chủ nghĩa Mônrô toàn cầu”, nó đánh dấu nền Ngoại giao Mỹ đã bước vào một thời kỳ mới. Một loạt văn kiện mang số hiệu NSC68 của Nhà Trắng do Tơruman chủ trì vạch ra, đã phác hoạ toàn bộ kế hoạch chiến lược toàn cầu của Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đã công nhiên tuyên bố một cách ngông cuồng rằng:

"Sự thành công của bản cương lĩnh này hoàn toàn dựa vào việc Chính phủ và nhân dân Mỹ cùng toàn thể nhân dân các quốc gia tự do nhận thức được rằng, chiến tranh lạnh trên thực tế là một cuộc chiến tranh thực sự có quan hệ đến sự sống còn của thế giới tự do”.

Năm đó, Lipman xuất bản một cuốn sách nhỏ có tên "Cuộc chiến tranh lạnh”, bán rất chạy. Danh từ "chiến tranh lạnh” từ đó được sử dụng rộng rãi.

Ngày 5 tháng 4 năm 1947, Xtalin mời tướng Smít - Đại sứ Mỹ ở Liên Xô - đến để chỉ trích việc Mỹ và Anh đã liên kết với nhau chống Liên Xô và cảnh cáo Mỹ chớ nên hành động thiếu suy nghĩ.

Việc thổi bùng ngọn lửa "chiến tranh lạnh" khiến Xtalin người từng có dự định về nghỉ hưu - từ bỏ nguyện ước ban đầu. Những cộng sự gần gũi khuyên: "Iôxíp (Cách gọi thân mật Xtalin) hãy làm thêm một thời gian nữa!".   
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #83 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2009, 12:15:35 pm »

Chương ba
ĐIỆN KREMLI, TRUNG - XÔ BẮT TAY NHAU.
THẾ GIỚI CHIA THÀNH HAI PHE LỚN.
CHIẾN TRANH LẠNH HÓA NÓNG.
"NƯỚC ẨN SĨ” MỊT MÙ KHÓI SÚNG.

I. "GÂY DỰNG CƠ ĐỒ MỚI"

Chính sách áp đặt của Chính phủ Mỹ

Mao Trạch Đông từng dự đoán lạc quan rằng, trong vòng 5 năm (tính từ tháng 7 năm 1946) có thể "đánh đổ Quốc dân Đảng về cơ bản". Xtalin không tin, nhà cầm quyền Mỹ lại càng cười khẩy. Nhưng cuộc chiến tranh giải phóng phát triển còn nhanh hơn cả sự tưởng tượng ban đầu của Mao Trạch Đông, điều đó đi ngược lại mưu toan của Mỹ đối với Trung Hoa.

Mỹ là một nước tư bản mới nổi lên sau này. Ngay từ cuối thế kỷ 19, Mỹ ra sức khuếch trương thế lực ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, nhưng mưu toan đó một mặt bị Anh, một nước tư bản kỳ cựu ngáng trở, mặt khác bị Nhật Bản giáng cho những đòn chí tử. Bởi vậy, trong 40 năm đầu của thế kỷ 20, chính sách của nước Mỹ không phải là chi phối, thống trị Châu Á, Hoa Kỳ nhiều lần đưa ra chính sách mở cửa Trung Hoa cốt nhằm phá bỏ sự lũng đoạn của các nước lớn khác đối với thị trường Trung Quốc, giành vị trí hàng đầu trong việc đầu tư và mậu dịch của Mỹ ở nước này.

Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc, tình hình hoàn toàn khác hẳn. Nhật Bản - đối thủ chính của Mỹ trong việc bành trướng thế lực ở Viễn Đông đã bị đánh gục, Anh và Pháp tự lo thân chẳng xong, hơn nữa thế lực của họ ở Trung Quốc và châu Á bị suy yếu đi nhiều, trong khi đó thực lực kinh tế và quân sự của Mỹ đứng hàng đầu thế giới không nước nào sánh được. Trong diễn văn đọc tại ngày lễ của Hải quân 27 tháng 10 năm 1945, Tơruman vênh vang khoe khoang nước Mỹ "có một lực lượng trên biển hùng mạnh nhất thế giới từ khi có lịch sử đến nay" và "một lực lượng không quân hạng nhất thế giới" "hầu như có thể nã pháo vào chiến hạm địch và dội bom xuống các công trình phòng vệ bờ biển của nước thù địch theo ý muốn của mình"

Có thực lực như vậy, tham vọng bành trướng của nhà cầm quyền Mỹ ngày càng lớn theo. Trong con mắt của họ, nền "an ninh của Hoa Kỳ không còn đóng khung trong lãnh thổ vùng biển và vùng trời của nước Mỹ, cũng không còn đóng khung ở đại lục châu Mỹ, mà bất cứ nơi nào trên thế giới hễ có chút gió lay cỏ động, chỉ cần họ cho là có liên quan tới nền "an ninh" của nước Mỹ là họ sẵn sàng can thiệp. Do vậy, nhà cầm quyền Mỹ cũng muốn xây dựng ở châu Á một nền "hoà bình do Mỹ cai quản”, muốn xác lập địa vị chi phối của họ ở đây.

Trong thời kỳ đại chiến, Rudơven đã từng có ý tưởng: Dùng Trung Quốc Quốc dân Đảng làm nhân tố quan trọng chế ngự thế lực của Liên Xô, dùng nước Trung Quốc thống nhất, thân Mỹ làm nền tảng cho hoà bình và ổn định ở Viễn Đông dưới quyền cai quản của nước Mỹ. Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc, sự bất đồng giữa Mỹ và Liên Xô về một loạt vấn đề đã diễn biến thành "chiến tranh lạnh". Tiếp theo sự ra đời của "chủ nghĩa Tơruman", những kẻ giữ vai trò quyết định trong các chính sách của nước Mỹ đã dùng chiêu bài "ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản" làm nguyên tắc chỉ đạo cao nhất cho chính sách Ngoại giao. Họ muốn đặt Trung Quốc vào vòng khống chế của họ, giữ Trung Quốc trong phạm vi thế lực của họ, coi Trung Quốc là "người bạn” của nước Mỹ trong "chiến tranh lạnh”. Đương nhiên, đó chỉ là mong muốn chủ quan của Chính phủ Mỹ.

Một thế kỷ nay, xã hội Trung Quốc biến động triền miên, sự thức tỉnh của dân tộc Trung Hoa đã phải trải qua một chặng đường dài và rất quanh co. Cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đẩy dân tộc Trung Hoa đứng trước nguy cơ sinh tồn hoặc diệt vong cũng làm cho sự thức tỉnh của dân tộc Trung Hoa đạt tới một đỉnh cao mới trước đây chưa từng có. Sự lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng cách mạng do Đảng Cộng sản Trung quốc lãnh đạo trong cuộc chiến tranh chống Nhật chính là biểu hiện tập trung của sự thức tỉnh đó. Mục đích đánh bại Nhật Bản của nhân dân Trung Quốc không phải là để đất nước mình lại bị một nước lớn khác sai khiến, làm nước chư hầu của họ, mà là để giành lấy độc lập và giải phóng cho dân tộc mình. Thế là mâu thuẫn nảy sinh: nước Mỹ muốn điều khiển Trung Quốc, còn nhân dân Trung Quốc ngược lại không thèm đếm xỉa đến cái trò đó, mà muốn đi con đường của mình. Hai lực lượng này xung đột với nhau là điều không tránh khỏi. Xem vậy, quan hệ Trung -Mỹ trong thời kỳ chiến tranh giải phóng quy đến cùng là mâu thuẫn giữa sự bành trướng và can thiệp của Mỹ với sự nghiệp giải phóng dân tộc của Trung Quốc. Trải qua 8 năm chiến tranh chống Nhật, trong lòng xã hội Trung Quốc đã xuất hiện lực lượng to lớn, đòi hỏi phải có sự thay đổi, một lực lượng mà những kẻ cầm quyền nước Mỹ không thể thao túng được. Người quyết định vận mệnh của Trung Quốc chỉ có thể là bản thân nhân dân Trung Quốc.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #84 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2009, 12:16:37 pm »

Nguyên nhân đưa đến chính sách "ngả hẳn một bên"

"Ngả hẳn một bên" là lối nói hình ảnh của Mao Trạch Đông trước ngày thành lập nước về lập trường: Nước Trung Đông mới về mặt Ngoại giao kiên quyết đứng về phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, chống lại phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. "Ngả hẳn một bên" cùng với "gây dựng” “cơ đồ mới" "dọn sạch nhà cửa rồi mới mời khách" đã tạo nên ba chính sách Ngoại giao lớn của nước Trung Quốc mới trong thời kỳ đầu dựng nước. Phương châm "ngả hẳn một bên" từ lúc ra đời đến khi thực thi cho đến lúc có sự chuyển biến đều dựa trên bối cảnh thời đại sâu sắc.

Trong cuộc trò chuyện với các thành viên Tổ quan sát của quân đội Mỹ năm 1944, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đều tỏ ý mong muốn Mỹ dùng ảnh hưởng của mình ngăn chặn Tưởng Giới Thạch phát động nội chiến chống lại nhân dân, mong muốn Mỹ giúp đỡ công cuộc tái thiết Trung Quốc sau chiến tranh. Từ Thu Đông năm 1944 đến Xuân năm 1945, từ cuối năm 1945 đến năm 1946, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vui vẻ tiếp nhận sự hòa giải của Hớcli, Mácsan. Nhưng vì Chính phủ Mỹ cho rằng phải ủng hộ Tưởng Giới Thạch, nên bao nhiêu sự cố gắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm giành hoà bình trong nước, tránh nội chiến đấu đổ xuống sông xuống biển.

Điều có liên quan đến quá trình Trung Cộng từ hy vọng đến thất vọng đối với Mỹ là việc Mỹ và Liên Xô từ chỗ hợp tác thời chiến tranh đi tới chỗ đối kháng sau chiến tranh. Có thể lấy bài diễn văn về "bức màn thép" nổi tiếng của Sớcsin phát biểu tháng 3 năm 1946 làm mốc mở màn cho cuộc chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô. Với bản báo cáo trước Quốc hội của Tổng thống Mỹ Tơruman tháng 3 năm 1947, cuộc chiến tranh lạnh đã bắt đầu. Trong tình hình đó. Đảng Cộng sản Trung Quốc cuối cùng mất khả năng trung lập.

Cuộc chiến tranh lạnh đặt ra những vấn đề mới cho chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trước đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc có ý muốn tốt đẹp đối với Mỹ, tiếp nhận sự hòa giải của Hớcli và Mácsan, là nằm trong bối cảnh quốc tế của mối quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ được xây dựng từ thời chiến tranh. Trong bối cảnh đó, việc hoà giải của Hớcli và Mácsan chẳng những làm cho Trung Quốc trực tiếp được Liên Xô phối hợp và ủng hộ, mà việc thân thiện với Liên Xô cũng là phương châm cơ bản được Đại hội bảy Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định. Khi đó chưa cần tới sự lựa chọn dứt khoát không thế này thì phải thế kia, thân thiện với Liên Xô thì phải thù địch với Mỹ hoặc thân thiện với Mỹ thì phải thù địch Liên Xô. Nhưng về sau, quan hệ Mỹ - Liên Xô chuyển sang đối kháng, trở thành đối thủ của nhau, Đảng Cộng sản Trung Quốc liệu còn có thể hoạt động một cách bình thường giữa Liên Xô và Mỹ, rõ ràng là chính sách Ngoại giao trước hết cần phải phục vụ cho yêu cầu chính trị trong nước.

Khoảng tháng hai, tháng ba năm 1946, khi đám mây đen chiến tranh lạnh đang lan tỏa khắp thế giới, vào lúc Mácsan đang theo đuổi việc hoà giải Quốc - Cộng, Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn cố gắng tranh thủ làm cho Mỹ đứng trung lập giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản nhằm hạn chế chính sách nội chiến của Quốc dân Đảng. Thực hiện được mục tiêu đó sẽ có lợi rất lớn cho cách mạng Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc. Bởi vậy, trước tình hình Mỹ và Liên Xô chuyển sang đối kháng, Đảng Cộng sản Trung Quốc lúc đầu không định ngả hẳn về bên nào, mà thực hiện chính sách thân thiện với cả hai bên. Một phần do xuất phát từ ý muốn giữ quan hệ thân thiện với Mỹ, một phần cũng muốn loại trừ mối ngờ vực của Mácsan là phải chăng Đảng Cộng sản Trung Quốc có quan hệ đặc biệt với Liên Xô, để ông ta làm công việc hoà giải được công bằng. Khi đó, Chu Ân Lai đã nói rõ với Mácsan, chỉ cần Mỹ thực hiện lời hứa của Tơruman trong bản tuyên bố về chính sách đối với Trung Quốc tháng 12 năm 1945, rằng Trung Quốc cần phải ngừng xung đột vũ trang, chấm dứt tình trạng chuyên quyền của một Đảng, rằng Mỹ tuyệt đối không dùng can thiệp quân sự để tác động đến quá trình đấu tranh nội bộ của Trung Quốc, thì Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng một nước Trung Quốc hoà bình và dân chủ chẳng những có thể xây dựng quan hệ láng giềng thân thiện với Mỹ, mà còn có thể trở thành cầu nối giữa Mỹ và Liên Xô giúp giảm bớt sự xung đột giữa họ ở châu Á, từ đó góp phần bảo vệ hoà bình và hợp tác trên thế giới. Mặc dù vào hạ tuần tháng 6 năm 1946 khi thái độ của Trung Cộng đối với Mỹ đã chuyển sang cứng rắn, bài xã luận yêu cầu Mỹ thay đổi thái độ của Giải phóng nhật báo ngày 25 tháng 6 cũng vẫn nhắc lại lập trường "nhân dân Trung Quốc yêu chuộng hoà bình... không chống Liên Xô, cũng không chống Mỹ”.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #85 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2009, 12:17:16 pm »

Nhưng, Trung Cộng liệu có thể tiếp tục thái độ trung lập trong cuộc đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô hay không, điều đó chủ yếu không thể do ý nguyện của bản thân Trung Quốc quyết định được, mà mấu chốt là ở thái độ của Mỹ và Liên Xô. Trên thực tế, sau chiến tranh Mỹ đã công nhiên áp dụng chính sách giúp Tưởng chống Cộng, Đảng Cộng sản Trung Quốc buộc không thể không có sự lựa chọn thực tế, từ bỏ ý định trung lập, tìm kiếm sự ủng hộ của Liên Xô.

Đảng Cộng sản Trung Quốc từ bỏ lập trường trung lập là một quá trình dần dần từng bước một. Từ cuối tháng 6 năm 1946, vì Chính phủ Mỹ trình trước Quốc hội dự luật viện trợ quân sự 10 năm cho Tưởng, Đảng Cộng sản Trung Quốc mới có thái độ cứng rắn với Mỹ. Đến tháng 9 năm 1947, trong hơn một năm đó, khi các Đảng Cộng sản và Công nhân 9 nước châu Âu đã thành lập Cục thông tin, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn chủ trương cùng với nhân dân Mỹ và nhân dân các nước bị Mỹ đe doạ xâm lược liên kết thành mặt trận thống nhất quy mô thế giới, chống lại chủ nghĩa đế quốc và bè lũ phản động các nước. Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn không cho rằng cơ cấu thực tế của lực lượng chính trị là một thế giới được chia đôi. Ngược lại, tháng 8 năm 1946, khi tiếp Anna Lui Xtơrông, Mao Trạch Đông nêu ra lý thuyết "vùng trung gian", vận dụng phương pháp chia ba thế giới. Mao Trạch Đông đã chỉ ra rằng: "giữa Mỹ và Liên Xô là một vùng rất rộng lớn, ở đó có rất nhiều nước tư bản, nước thuộc địa và nửa thuộc địa của ba châu Âu, Á, và Phi. Trước khi chưa chinh phục được các nước này, bọn phản động Mỹ không thể nói tới chuyện tấn công Liên Xô".

Tháng 1 năm 1947, Bộ trưởng Bộ tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Lục Định Nhất một lần nữa trình bày rõ lý thuyết "vùng trung gian” khi ông giải thích về tình hình thế giới sau chiến tranh. Theo lý thuyết này, Liên Xô xã hội chủ nghĩa và các nước "vùng trung gian" phi xã hội chủ nghĩa này tuy đều thuộc lực lượng dân chủ, nhưng do Liên Xô từ lâu đã không có thế lực phản dân chủ, do đó trong nội bộ không có đấu tranh giữa dân chủ và phản dân chủ. Trong khi đó, cuộc đấu tranh trực tiếp giữa dân chủ và phản dân chủ lại diễn ra trong thế giới tư bản. Hiển nhiên, các nước "vùng trung gian" là một lực lượng dân chủ độc lập, trực tiếp đứng ở tuyến đầu của cuộc đấu tranh chống đế quốc, quan hệ giữa họ và Liên Xô xã hội chủ nghĩa là đồng tình và ủng hộ lẫn nhau, mà không phải là quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo.

Mãi tới cuối tháng 9 năm 1947, sau khi Giưđanốp nêu ra ở Đại hội thành lập Cục Thông tin của các Đảng Cộng sản và Công nhân châu Âu lý thuyết thế giới đã chia thành 2 phe: phe đế quốc do Mỹ đứng đầu và phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, Đảng Cộng sản Trung Quốc mới hoàn toàn từ bỏ lý thuyết "vùng trung gian", tiếp thu lý thuyết "hai phe lớn". Tháng 12, Mao Trạch Đông trong báo cáo “Tình hình trước mắt và nhiệm vụ của chúng ta” đọc ở Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, lần đầu tiên đã dùng "phe đế quốc và "phe chống đế quốc toàn thế giới" để phân chia các lực lượng trên thế giới, và cũng lần đầu tiên sử dụng khái niệm "phe chống đế quốc do Liên Xô đứng đầu”. Không còn nghi ngờ gì, nhân dân Trung Quốc đang đấu tranh chống đế quốc Mỹ cũng thuộc phe Liên Xô.

Như vậy, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từ phương pháp chia ba thế giới dựa trên nền tảng của lý thuyết "vùng trung gian”, quá độ sang phương pháp chia hai thế giới dựa trên nền tảng của lý thuyết "hai phe lớn”, do đó, về mặt lý luận đã phủ định khả năng trung lập. Sau đó, nhằm thắt chặt thêm quan hệ với Liên Xô, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiều lần đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ nghĩa quốc tế vô sản, phê phán quan điểm trung lập giữa Mỹ và Liên Xô.

Ngày 28 tháng 6 năm 1948, Đảng Cộng sản Nam Tư do Titô lãnh đạo vì kiên trì đường lối độc lập tự chủ, dám va chạm với Xtalin, nên bị khai trừ ra khỏi Cục thông tin các Đảng Cộng sản. Về việc này, Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc đã ra Nghị quyết về vấn đề Nam phi. hoàn toàn đồng ý với biện pháp xử lý của Cục thông tin đối với Đảng Cộng sản Nam phi.

Mao Trạch Đông chỉ ra rằng: "Lịch sử chẳng lẽ chưa chứng minh sự giả dối hoàn toàn và sự phá sản hoàn toàn của cái gọi là “con đường trung gian”, con đường thứ ba của những người vừa không hài lòng với đế quốc, vừa không hài lòng với Liên Xô, mưu toan đứng giữa hai chiến tuyến: Chiến tuyến chống cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và chiến tuyến cách mạng của những người chống đế quốc cùng tay sai chúng ở các nước hay sao? Trong bài “Lực lượng cách mạng toàn thế giới đoàn kết lại chống sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc” do Mao Trạch Đông. viết để kỷ niệm 31 năm Cách mạng Tháng Mười, còn đặc biệt nhấn mạnh ảnh hưởng tích cực của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với Đảng Cống sản Trung Quốc; "Muốn cách mạng thì phải có một đảng cách mạng... Đảng Cộng sản Trung Quốc là đảng được xây dựng và phát triển dựa theo khuôn mẫu của Đảng Cộng sản Liên Xô. Từ khi có Đảng Cộng sản Trung Quốc, bộ mặt của cách mạng Trung Quốc hoàn toàn thay đổi".
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #86 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2009, 12:17:54 pm »

Cùng năm đó, Lưu Thiếu Kỳ cũng phát biểu bài “Bàn về chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa dân tộc” cho rằng trong tình trạng hai phe lớn đối lập sâu sắc, "người ta không đứng ở bên này thì phải đứng ở bên kia,... không đứng bên này, cũng không đứng bên kia mà là đứng giữa, đó là điều không thể có được”

Cuối năm 1948, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chuẩn bị đầy đủ cơ sở tư tưởng để đưa ra quan điểm "ngả hẳn một bên" còn việc chính thức tuyên bố lấy "ngả hẳn một bên” làm phương châm Ngoại giao chỉ còn là vấn đề thời cơ.

Năm 1948, trong khẩu hiệu kỷ niệm ngày 1-5, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kêu gọi triệu tập Hội nghị chính trị hiệp thương mới, thảo luận thành lập Chính phủ liên hiệp dân chủ. Lời kêu gọi đã nhanh chóng được nhân dân cả nước, các đảng phái dân chủ, các nhân sĩ dân chủ không đảng phái, các đoàn thể nhân dân và Hoa kiều yêu nước nhiệt liệt hưởng ứng, bắt đầu cho việc chuẩn bị xây dựng đất nước Trung Quốc mới. Xoay quanh công việc chuẩn bị cho công cuộc xây dựng đất nước, điều mà Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quan tâm chính khi đó là vấn đề được quốc tế công nhận.

Như đã trình bày ở trên, sau chiến tranh, Chính phủ Mỹ thực hiện chính sách giúp Tưởng chống Cộng, giúp Tưởng gây nội chiến, đã khiến họ đối lập với nhân dân Trung Quốc. Khi cuộc nội chiến toàn diện nổ ra, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trong kế hoạch tác chiến luôn tính tới khả năng hai đế quốc Anh - Mỹ trực tiếp can thiệp vào cách mạng Trung Quốc. Trước khi bắt đầu chiến dịch vượt Trường Giang, Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương đã bố trí kế hoạch đối phó với tình hình đó. Bởi vậy, tuy ngay từ đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quan tâm theo dõi thái độ nghiêng ngả và một số thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc từ cuối năm 1948 đến lúc đó, nhưng cho đến trước khi giải phóng Nam Kinh, phản ứng của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với Anh - Mỹ vẫn khá thận trọng.

Ngày 19 và ngày 25 tháng 1 năm 1949, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lần lượt ra “Chỉ thị về công tác Ngoại giao” và “Chỉ thị bổ sung công tác Ngoại giao”, ngày 13 tháng 3 lại thông qua “Nghị quyết của Hội nghị toàn thể lần thứ hai - Ban chấp hành Trung ương khóa VII”. Trong ba văn kiện này, Đảng Cộng sản Trung Quốc thực tế đã nêu ra hai chính sách Ngoại giao lớn: "Gây dựng cơ đồ mới” và "Quét sạch nhà cửa rồi mới mời khách". Cụ thể là:

(1). Tất cả các cơ quan Ngoại giao và nhân viên Ngoại giao của các nước được Chính phủ Quốc dân Đảng công nhận đều không được công nhận trước khi nước Trung Quốc mới và các nước đó thiết lập quan hệ Ngoại giao chính thức, họ chỉ được nhìn nhận và đối xử như ngoại kiều, nhưng được sự giúp đỡ thỏa đáng

(2). Thủ tiêu mọi đặc quyền của đế quốc trên đất nước Trung Quốc nhưng có sự phân biệt trước sau, nhanh chậm, cần phải giải quyết sao cho thỏa đáng.

Trong Hội nghị toàn thể lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá Bẩy, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra những nhận định cơ bản về việc đế quốc có công nhận Trung Quốc mới hay không: "Chủ nghĩa đế quốc từ trước đến nay vẫn thù địch nhân dân Trung Quốc, quyết không thể nhanh chóng đối xử với chúng ta với thái độ bình đẳng.”. Bởi vậy, "vấn đề các nước đế quốc công nhận nước ta, chẳng những hiện nay không cần giải quyết gấp, mà trong một thời kỳ tương đối dài sau khi cả nước thắng lợi cũng không cần giải quyết gấp”.

Đương nhiên phải thấy rằng, dự đoán và đối sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc về vấn đề đế quốc công nhận, cũng là dựa trên sự tính toán sách lược đề phòng trước để khỏi mang họa về sau. Vội vã yêu cầu đế quốc công nhận, hoặc để được công nhận mà tiếp tục duy trì mối quan hệ Ngoại giao cũ giữa Chính phủ Quốc dân Đảng với các nước đó, đều có thể khiến nước. Trung Quốc mới mất chủ động về Ngoại giao, rơi vào địa vị bị người chèn ép.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #87 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2009, 12:18:32 pm »

Nhưng, người cộng sản Trung Quốc rút cục vẫn là người có đầu óc thực tế. Họ thấy rõ ảnh hưởng to lớn của Mỹ còn tồn tại ở Trung Quốc và tác dụng tích cực mà Mỹ có thể có đối với công cuộc xây dựng hòa bình của Trung Quốc. Nếu có thể qua con đường Ngoại giao mà ngăn chặn được khả năng đế quốc Mỹ can thiệp vũ trang vào cách mạng Trung Quốc, thúc đẩy Chính phủ Mỹ chấp nhận hiện thực, từ bỏ Chính phủ Quốc dân Đảng thì Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận. Bởi vậy, ngoài việc xuất phát từ góc độ xấu nhất để dự tính đối sách đối phó với sự can thiệp quân sự và không công nhận về Ngoại giao của Mỹ có thể xảy ra, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã có thái độ tích cực, linh hoạt tiếp xúc với tính chất thăm dò các cựu quan chức Ngoại giao Mỹ trước đây ở Trung Quốc. Cũng cần nói thêm, khi đó thái độ của Liên Xô đối với việc xây dựng nước Trung Quốc mới rất không rõ ràng, có nhiều chỗ mập mờ:

1. Ngày 8 tháng 1 năm 1949, Chính phủ Quốc dân Đảng đề nghị Liên Xô, Mỹ, Anh đứng ra hòa giải cuộc nội chiến Quốc-Cộng, hòng nhân cơ hội đó lấy lại hơi sức. Về việc này, Chính phủ Liên Xô vốn định dùng chính sách co giãn, đến khi Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lên tiếng phản đối, mãi tới ngày 17 tháng 1 mới từ chối. Mấy ngày sau, Lý Tôn Nhân lên làm Quyển Tổng thống, Rôsen, Đại sứ Liên Xô ở Trung quốc, đã cùng với Lý Tôn Nhân thống nhất với nhau 3 điều kiện để Liên Xô tham gia hòa giải cuộc nội chiến Quốc - Cộng, thực tế là ủng hộ kế hoạch “hoạch giang nhi trị" của Lý Tôn Nhân, dùng sông Trường Giang chia đôi đất nước để mỗi bên cai quản một nửa.

2. Đầu tháng 2, Xtalin cử Micôian đến Trung Quốc hội đàm với những người lãnh dạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng cùng lúc đó Đại sứ Rô sen lại theo nội các Tôn Khoa của Quốc dân Đảng dời xuống phương Nam đến Quảng Châu (người duy nhất trong số Đại sứ các nước ở Trung Quốc lúc bấy giờ làm như vậy). Sau khi Quân giải phóng nhân dân đánh chiếm Nam Kinh, các tờ báo chính của Liên Xô tuy đã tăng cường đưa tin về những thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, nhưng ngay sau đó Liên Xô lại bắt đầu đàm phán với chính quyền Quốc dân Đảng về việc "kéo dài hiệp định hợp tác xây dựng Công ty hàng không Trung-xô”, Rô sen vẫn tiếp tục ở lại Quảng Châu cho mãi tới cuối tháng 5. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc không hài lòng về việc này. Cho tới giữa những năm 60, khi tiếp Bộ trưởng Văn hóa Pháp Anđơru Manrô, Mao Trạch Đông còn nhắc tới sự việc đó.

3. Trước ngày quân giải phóng vượt Trường Giang, Xtalin còn khuyên Đảng Cộng sản Trung Quốc dừng lại đó để tránh việc Mỹ đưa quân can thiệp, chính sách co giãn nói trên của Chính phủ Liên Xô chắc chắn đã có tác dụng thúc đẩy Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm kiếm khả năng xây dựng quan hệ Ngoại giao với Mỹ từ cuối tháng 4 đến tháng 6 năm 1949.

Nhưng, đối với ý định tìm kiếm khả năng xây dựng quan hệ Ngoại giao đó của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngoài việc rút quân khỏi Thanh Đảo vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 ra, Mỹ không có bất kỳ một phản ứng tích cực nào. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ, Chính phủ Mỹ tuy để Đại sứ Xturêđơn tiếp tục lưu lại Nam Kinh, nhưng cái mà họ theo đuổi là phương châm "đợi cho bụi trần lắng xuống”. Khi đó, nhà cầm quyền cao nhất của Mỹ không có ý định thực hiện bước đi chủ động trong vấn đề công nhận, trái lại từ đầu tháng 5, Chính phủ Mỹ dồn sức vào việc lập một mặt trận chung giữa các nước phương Tây về vấn đề này, yêu cầu các nước thống nhất hành động, không được đơn phương công nhận nước Trung Quốc mới khi chưa bàn bạc với nước khác. Đại sứ Mỹ còn nói với Hoàng Hoa ở Nam Kinh rằng, chỉ khi nào nước Trung Quốc mới không liên minh với Liên Xô, Mỹ mới có thể công nhận một nước Trung Quốc của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc đương nhiên không thể nhẫn nhịn mà chấp nhận điều đó.

Từ cuối tháng 4, trong khi tìm kiếm khả năng xây dựng quan hệ Ngoại giao với Mỹ, Anh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc không phủ định dự đoán và đối sách về vấn đề đế quốc công nhận do Hội nghị Trung ương hai khóa Bảy đã nêu ra. Bản thân hành động khi đó chỉ có tính chất thăm dò, có điều kiện, do đó, không thể kéo dài vô thời hạn. Trong tình hình thăm dò mãi mà chẳng thu được phản ứng tích cực nào từ phía Mỹ, Đảng Cộng sản Trung Quốc đương nhiên không thể cầu xin Mỹ công nhận, càng không thể dùng cái giá hi sinh quan hệ Trung-xô và mạo hiểm bằng cách không nhận sự ủng hộ của Liên Xô để "đợi cho bụi trần lắng xuống” theo chủ trương của Mỹ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #88 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2009, 12:19:10 pm »

Cần phải thấy rằng, dù trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật hay là sau chiến tranh, Đảng Cộng sản Trung Quốc khi cố gắng xây dựng mối quan hệ thân thiện với Mỹ, trên thực tế đều lấy tiền đề là thừa nhận giữa Trung Quốc và Liên Xô có quan hệ gần gũi tự nhiên, đó là nguồn gốc sâu xa về nhận thức tư tưởng và mối liên hệ lâu dài về tổ chức. Sự đối kháng với Mỹ ngày càng tăng, công tác chuẩn bị xây dựng nước Trung Quốc mới ngày càng khẩn trương, do đó Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng kiên định lập trường, coi mối quan hệ gần gũi tự nhiên đó là chỗ dựa tin cậy duy nhất trên vũ đài quốc tế. Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1949, tuy chính sách của Liên Xô đối với Trung Quốc mang nặng tính chất co giãn, nhưng trong tình hình thắng lợi của cách mạng Trung Quốc đã thành sự thật, Liên Xô cuối cùng đã có lập trường thừa nhận hiện thực. Ngày 30 tháng 5, Rô sen rời Quảng Châu về nước, chứng tỏ Liên Xô hoàn toàn từ bỏ việc ủng hộ và lợi dụng chính quyền Quốc dân Đảng đang thoi thóp, chính sách co giãn cũng cáo chung theo.

Thái độ của Liên Xô chuyển biến đã cổ vũ những người cộng sản Trung Quốc. Ngay từ đầu tháng 5, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định cử Lưu Thiếu Kỳ đi Liên xô hội đàm với Xtalin về công cuộc xây dựng đất nước, viện trợ kỹ thuật và tình hình quốc tế. Hành trình của Lưu Thiếu Kỳ định vào ngày 2 tháng 7, trước đó,Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc công khai nói rõ thái độ của nước Trung Quốc mới đối với Liên Xô, điều đó chắc chắn có lợi cho chuyến đi thăm Liên Xô của Lưu Thiếu Kỳ. Hơn nữa, ngày 28 tháng 6, ngày tròn một năm xảy ra sự kiện Nam Tư, việc Đảng Cộng sản Trung Quốc tỏ rõ thái độ trước dư luận đồn đại của các nước phương Tây rằng, liệu Mao Trạch Đông có trở thành Titô thứ hai, không cũng góp phần xua tan mối ngờ vực của Xtalin. Ngoài ra, trước chủ trương của Trương Trị Trung và các nhân sĩ thuộc lực lượng thứ 3 khi tới Bắc Bình (tức Bắc Kinh ngày nay - ND) là “dựa vào cả Mỹ và Liên Xô", Đảng Cộng sản Trung Quốc đã công khai tỏ thái độ của mình về vấn đề Ngoại giao, nên đã thống nhất được nhận thức của các nhân sĩ trong và ngoài Đảng.

Chính trong bối cảnh đó, Mao Trạch Đông mới công khai tuyên bố phương châm "ngả hẳn một bên". Trong bài “Bàn về chuyên chính dân chủ nhân dân” công bố ngày 30 tháng 6, ông trình bày toàn diện về thái độ của nước Trung Quốc mới đối với đế quốc và với Liên Xô, và chân thành nhắc nhở các nhân sĩ trong ngoài Đảng: "Trên trường quốc tế, chúng ta thuộc trận tuyến chống đế quốc do Liên Xô đứng đầu, sự viện trợ hữu nghị chân chính chỉ có thể tìm được ở đây, không thể tìm được ở bên trận tuyến đế quốc". Mao Trạch Đông tuyên bố lập trường “ngả hẳn một bên" là kịp thời, là chính xác, làm cho nước Trung Quốc nối lại quan hệ ngoại giao với Mỹ.

Sau ngày dựng nước, khi bàn với Chu Ân Lai ý nghĩa của hành động đó, Mao Trạch Đông nói: Chúng ta chủ trương "ngả hẳn một bên" có nghĩa là về chính trị cần phải đoàn kết với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đứng về phía các nước xã hội chủ nghĩa, không thể một chân bước về phía xã hội chủ nghĩa chân kia lại bước về phía tư bản phương Tây”. Cho nên "ngả hẳn một bên” chứng tỏ chúng ta về chính trị đã công khai đoạn tuyệt với các nước tư bản, đã đập tan mọi ảo tướng của các nước phương Tây.”

Ngày 7 tháng 7 năm 1949, các đảng phái các đoàn thể tham gia Hội nghị trù bị Chính trị hiệp thương mới đã ra tuyên ngôn chung, ủng hộ phương châm "ngả hằn một bên". Ngày 29 tháng 9 năm 1949, Hội nghị toàn thể khóa một của Hội nghị Chính trị hiệp thương nhân dân Trung Quốc thông qua Cương lĩnh chung, xác nhận phương châm đó, đặt cơ sở pháp lý cho việc dùng "ngả hẳn một bên" làm phương châm Ngoại giao của Trung Quốc.

Từ khi thành lập cho tới giữa những năm 50, nước Trung Quốc mới kiên quyết thi hành đường lối "ngả hẳn một bên", đã xây dựng thành công và củng cố được mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô làm trung tâm, do đó trong điều kiện gian nan khó khăn đã dành cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc mới một hoàn cảnh quốc tế tương đối có lợi.

Nhưng, đưa ra quan điểm “ngả hẳn một bên" chỉ nói lên khuynh hướng lựa chọn của nước Trung Quốc mới trước hai phe lớn về mặt Ngoại giao, còn Trung Quốc chưa trực tiếp trả lời câu hỏi: sau khi nước Trung Quốc mới ngả hẳn về phe xã hội chủ nghĩa, sẽ xử lý ra sao mối quan hệ với các nước trong phe tư bản chủ nghĩa và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là với Liên Xô. Trên thực tế, trong phe xã hội chủ nghĩa, lúc bấy giờ Liên Xô tự cho mình là nhất, các nước đều sùng bái Liên Xô, thói quen đó đang ngày càng lan rộng, do đó vấn đề xử lý ra sao mối quan hệ với Liên Xô không nói ai cũng tự rõ.

Đặt mình trong những mối quan hệ quốc tế không bình thường, không có nghĩa là Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ khuất phục trước bất kỳ áp lực bên ngoài nào. Trái lại, Đảng Cộng sản Trung Quốc xưa nay luôn có truyền thống độc lập tự chủ. Đảng Cộng sản Trung Quốc tuy tuyên bố "ngả hẳn một bên" nhưng tuyệt nhiên không có nghĩa là theo đuôi Liên Xô.


Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #89 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2009, 12:20:47 pm »

II. MÁTXCƠVA LÚC NÓNG LÚC LẠNH

Chính quyền đỏ đứng vững

Ngày 2 tháng 10 năm 1949, tức ngay hôm sau ngày Mao Trạch Đông đọc bài diễn văn trên Thiên An Môn tuyên bố nước Trung Quốc mới thành lập, Maxcơva đã gửi đến bức điện mừng đầu tiên trên thế giới:

"Liên bang các nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết nhiệt liệt chúc mừng Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, và chính thức công nhận Chính phủ Nhân dân Trung ương nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa...”

Phản ứng của Chính phủ Liên Xô rất nhanh, được cả thế giới rất chú ý. Sau đó, một loạt nước công nhận Trung Quốc.

Ngày 4 tháng 10, Bungari lập quan hệ Ngoại giao với Trung Quốc.

Ngày 5 tháng 10, Rumani công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của rung Quốc.

Tiếp sau, chỉ trong một thời gian ngắn, các nước dân chủ nhân dân như: Cộng hòa dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Hungari, Tiệp Khắc, Ba Lan, Mông Cổ, Anbani, Việt Nam lần lượt lập quan hệ Ngoại giao chính thức với Trung Quốc.

Chính quyền đỏ của một quốc gia chiếm 1/4 dân số loài người nhanh chóng đứng vững chân trên trường quốc tế, điều đó khiến các lãnh tụ của Trung Quốc thở phào nhẹ nhõm. Sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của Liên Xô và các nước dành cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đập tan mưu đồ của một số thế lực thù địch trong phe tư bản phương Tây và âm mưu của Tưởng Giới Thạch muốn dựa vào Mỹ để cô lập nước Trung Quốc mới.

Trước sự việc đó, Mao Trạch Đông đã cười, và cười rất thoải mái. Dĩ nhiên, trong tiếng cười của Mao Trạch Đông cũng hàm ý cảm ơn phe xã hội chủ nghĩa phương Đông do Xtalin đứng đầu. Mao cho rằng thời cơ thân chinh sang thăm Liên Xô đã chín muồi. Một buổi tối, ông gọi điện mời Chu Ân Lai đến nhà, chính thức bắt đầu bàn việc bắt tay chuẩn bị chuyến đi thăm Liên Xô vào cuối năm để đích thân ông được gặp Xtalin.

- Đồng chí Ân Lai này, tôi thấy bây giờ tôi đi Liên Xô là tương đối thích hợp rồi đấy?

- Năm nay mừng thọ Xtalin 70 tuổi, lần chúc thọ đồng chí ấy 60 tuổi, Chủ tịch ở Diên An chẳng đã viết bài mừng sinh nhật đó sao?

- Đúng thế, mới đấy mà đã mười năm, thời gian qua nhanh như tên bay!.

- Ngày 21 tháng 12 năm nay, rất nhiều nhà lãnh đạo Đảng và Chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa đến Mátxcơva mừng thọ Xtalin, Chủ tịch chọn dịp này đi Liên Xô rất thích hợp.

- Tôi chỉ lo việc mừng thọ, còn các việc như hai bên bàn bạc, ký kết hiệp định, hiệp ước.v.v.. nhờ đồng chí Thủ tướng lo cho.

- Chủ tịch trước tiên hãy nghỉ ngơi ở Liên Xô một thời gian cho lại sức, các công việc cụ thể liên quan đến việc đàm phán giữa hai bên Trung Xô, sau khi sang Liên Xô tôi sẽ tiến hành theo ý kiến của Chủ tịch và quyết định của Bộ chính trị.

- Tốt lắm? - Mao Trạch Đông gật gật đầu đứng lên rời khỏi xa lông, đăm đăm nhìn vầng trăng đầu tháng treo lửng lơ trên bầu trời Trung Nam Hải... .
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM