Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 07:58:46 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tiếng sấm Tây Nguyên  (Đọc 56892 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #30 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:57:39 am »


THỰC HIỆN LỜI THỀ SẮT SON GIẢI PHÓNG TÂY NGUYÊN


… Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta (tháng 10 năm 1973) khẳng định: Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Tháng 10 năm 1974 Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương hạ quyết tâm: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền trong thời gian 1975 - 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta. Và nhất trí thông qua phương án chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công có ý nghĩa chiến lược trong năm 1975. Kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm là sử dụng bạo lực cách mạng tổng hợp từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng, giành thắng lợi ngày càng lớn, tạo điều kiện để giành thắng lợi hoàn toàn. Kế hoạch gồm hai bước. Bước một, năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng khắp trên toàn miền Nam tạo điều kiện thuận lợi để thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong năm 1976. Bước hai, năm 1976 là năm tổng công kích, tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Bên cạnh chiến lược cơ bản hai năm Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương còn dự kiến “Kế hoạnh thời cơ”. Tinh thần cơ bản của kế hoạch này là khi thời cơ chiến lược đến sớm thì có thể giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Trước khi vào chiến trường anh Vũ Lăng được lãnh đạo Bộ Tổng Tham mưu gợi ý sơ bộ về nhiệm vụ tác chiến năm 1975. Ý đồ chiến lược của trên và nhiệm vụ của khối chủ lực Tây Nguyên được sáng tỏ dần. Tháng 9 năm 1974, Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh chính thức giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên mở chiến dịch nam Tây Nguyên. Khu vục tác chiến chủ yếu là Đức Lập. Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận chúng tôi đã nghiên cứu quán triệt phổ biến cho các ngành liên quan chuẩn bị.

Cuối tháng 10 năm 1974, anh Nguyễn Quốc Thước, phụ trách tham mưu trưởng được Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên cử ra Hà Nội báo cáo tình hình và nhận chỉ thị của Bộ. Ngày 6 tháng 11, anh Văn Tiến Dũng, Ủy viện Bộ Chính trị: Tổng tham mưu trưởng giao nhiệm vụ cho Mặt trận Tây Nguyên anh Dũng nói:

- Nhiệm vụ lần nay của Tây Nguyên được mở rộng phạm vi, quy mô và mục tiêu cụ thể của cuộc tiến công. Đó là: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng quân địch, diệt, làm bị thương từ 4 đến 5 vạn tên, trong đó diệt từ 3 đến 4 trung đoàn, liên đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ 1 đến 2 sư đoàn chủ lực ngụy, diệt nhiều tiểu đoàn bảo an, trung đội dân vệ, làm tụt nhanh quân số của chúng. Mở rộng hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối liền với miền Đông Nam Bộ và từ Tây Nguyên xuống ba tỉnh Khu 5 (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà). Giải phóng nhân dân và phần lớn vùng đất bằng nam Plây Cu, Cheo Reo và xung quanh Buôn Ma Thuột, đánh bại kế hoạch nống lấn giải toả của địch, giữ vững, phát huy quyền làm chủ chiến trường, thực hiện chia cắt chiến lược. Tích cực phối họp với mặt trận đánh phá “bình định” ở đồng bằng. Cụ thể tiêu diệt từ 3 đến 4 tiểu khu, chi khu, từ 1 đến 2 tỉnh lỵ (Gia Nghĩa, Cheo Reo, Gia Nghĩa là chủ yếu). Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, làm cho tiềm lực kinh tế địch giảm sút trầm trọng. Khi có thời cơ, thực hiện cắt hẳn các đường 14, 19, 21, trọng điểm là đường 19. Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã. Ra sức xây dựng cơ sở tự vệ mật, các tổ chức biệt động, diệt ác ôn đầu sỏ, tạo thế làm chủ cơ sở. Xây dựng ba thứ quân, xây dựng vùng giải phóng, đường chiến dịch, đường chiến lược, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.

Anh Văn Tiến Dũng nhấn mạnh: Những nhiệm vụ trên đều có liên quan mật thiết với nhau, nhiệm vụ này làm tiền đề, điều kiện cho nhiệm vụ kia phát triển và ngược lại. Những nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ phương tiện chiến tranh, giải phóng địa bàn là nhiệm vụ quan trọng số một có tính chất quyết định.

Ngày 12 tháng 11, anh Nguyễn Quốc Thước đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng tư lệnh. Đại tướng nói với anh Quốc Thước:

- Anh Dũng đã dặn rồi, tôi nói thêm, chiến dịch này rất kiến quyết, trường hợp nào cũng phải làm cho được.

Ở Tây Nguyên địa hình tốt, địch phân tán, diệt địch trong công sự vững chắc cũng được, nhưng tốt nhất là diệt viện. Hai giai đoạn của chiến dịch có thể dài nhưng cũng có thể gần nhau. Trên những hướng phối hợp thường có thể thắng lớn. Khi địch điều lực lượng chi viện hoặc nó rung chuyển thì thời cơ thắng lớn. Các đồng chí cần nắm vững 16 chữ của phương châm: Bất ngờ, kiên quyết, lợi dụng thời cơ phát triển nhanh, phối hợp mạnh, nhịp nhàng.

Tóm lại các đồng chí cần xây dựng kế hoạch cơ bản và kế hoạch phát triển trong thời cơ tốt. Trường hợp này phải vận động nhanh không phải tuần tự. Bố trí lực lượng phải cơ động. Nếu chiến dịch thắng lợi thì ở Tây Nguyên lực lượng địch có thể thay đổi. Nếu địch rút sở chỉ huy thì phải tổ chức đánh cắt giao thông và phá sân bay. Vì vậy, về chiến dịch và chiến thuật cần có kế hoạch tác chiến đánh địch trong công sự và đánh quân viện, đồng thời có kế hoạch phát triển nhanh (nên tổ chức 1 trung đoàn bộ binh cùng pháo binh và xe cơ giới), táo bạo truy kích vì địch lúc rút chạy rất sơ hở, đánh dễ vỡ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #31 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:59:25 am »


Giữa lúc Tây Nguyên đang khẩn trương chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu ở hướng Gia Nghĩa thì ngày 6 tháng 1 năm 1975 quân và dân Đông Nam Bộ đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long. Quân chủ lực ngụy ồ ạt phản công hòng “tái chiến Phước Long”, nhưng tất cả mọi cố gắng của chúng đều bị quân ta đánh bại. Cuối cùng cả Mỹ lẫn ngụy đánh nuốt hận chịu mất Phước Long.

Qua sự kiện Phước Long càng khẳng định nhận định của Bộ Chính trị là chính xác: “Quân ngụy đã suy yếu nghiêm trọng không đủ sức phản kích chiếm lại những vùng đã mất và Mỹ đã rút quân ra khỏi miền Nam thì khó có khả năng đưa quân nhảy vào lại miền Nam, và dù chúng can thiệp đến thế nào đi nữa thì chúng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn”. Trên cơ sở các nhận định trên. Trung ương đã hạ quyết tâm chiến lược lịch sử: Mở cuộc Tổng tiến công chiến lược trên quy mô toàn miền Nam nhằm tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân, đập tan toàn bộ ngụy quyền, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân.

Về kế hoạch chiến lược, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương đã chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở đầu và kết luận dứt khoát: Lấy Buôn Ma Thuột làm trận then chốt quyết định của chiến dịch Tây Nguyên.

Chiều ngày 21 tháng 1 năm 1975, anh Lê Ngọc Hiền - Tổng tham mưu phó phổ biến chỉ thị của Thường vụ Quân uỷ Trung ương cho Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tham dự hôm đó có anh Vũ Lăng, tôi (Đặng Vũ Hiệp), anh Nguyễn Năng, và các anh phụ trách Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần, các phòng tác chiến, trinh sát, v. v… Sau khi phân tích tình hình địch, tình hình ta trên toàn chiến trường miền Nam, những thắng lợi cuối năm 1974, đầu năm 1975 cũng như mục đích chiến dịch Tây Nguyên, anh Lê Ngọc Hiền nói:

- Thường vụ Quân uỷ Trung ương giao cho Mặt trận Tây Nguyên trong chiến dịch này phải tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, từ 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp, nhiều liên đoàn, tiểu đoàn bảo an, nhiều đại đội dân vệ, bắt nhiều tù binh. Phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, thu nhiều binh khí kỹ thuật để đánh địch và dự trữ cho ta. Cố gắng đánh qụy hoặc diệt sư đoàn địch, đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy. Giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức mở hành làng chiến lược nối Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, Tây Nguyên với các tỉnh nam Khu 5 (Bình Đỉnh, Phú Yên, Khánh Hoà), tạo thế mới trên chiến trường Tây Nguyên, chia cắt chiến lược địch, phá bình định của địch ở vùng đất bằng Tây Nguyên, hết sức coi trọng công tác phát động quần chúng, chấp hành tốt các chính sách. Rèn luyện nâng cao trình độ bộ đội chủ lực, thực hiện càng đánh càng mạnh, cơ động bộ đội nhanh chóng.

Phạm vi chiến dịch như trên đã nói, gồm 3 tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức. Trọng điểm là Đắc Lắc, mục tiêu chủ yếu là Buôn Ma Thuột. Hướng phát triển chủ yếu là Phú Yên (theo đường số 7), hướng phối hợp là đường 19 và đường 21. Hướng kiềm chế, nghi binh là Plây Cu và Kon Tum.

Về sử dụng lực lượng, Bộ cho các anh sử dụng hết binh khí kỹ thuật, không hạn chế. Phương châm tư tưởng chỉ đạo là: mạnh bạo, chắc thắng, cơ động linh hoạt, bí mật bất ngờ.

Chú ý hết sức chủ động tạo bất ngờ trong suốt quá trình chiến dịch. Nắm vững tiêu diệt sinh lực địch, bắt tù binh thu vũ khí, càng đánh càng mạnh.

Như vậy do tình hình phát triển rất mau lẹ nên trong vòng 5 tháng Bộ đã 3 lần thay đổi nhiệm vụ đối với Tây Nguyên. Điều đó làm cho chúng tôi gặp không ít khó khăn. Trước đó, chúng tôi đã tổ chức làm nhiều việc như: xây dựng kế hoạch tác chiến, thiết bị chiến trường, thông qua quyết tâm chiến đấu của các đơn vị. Đến nay, chuyển mục tiêu chủ yếu từ Gia Nghĩa về Buôn Ma Thuột có nghĩa là chúng tôi phải lật cánh, gần như làm lại từ đầu; từ xây dựng phương án, kế hoạch chiến đấu đến thiết bị chiến trường, tổ chức mạng lưới bảo đảm hậu cần, với khối lượng công việc rất lớn, mà thời gian còn lại không nhiều. Nhưng khó khăn lớn nhất đối với chúng tôi là tổ chức đột phá vào thị xã Buôn Ma Thuột như thế nào? Vì đây là trận mở đầu và cũng là trận then chốt quyết định của chiến dịch. Nhưng nhận thức rõ tình hình nhiệm vụ, quyết tâm chiến lược của Đảng, chúng tôi xác định phải khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trên giao. Sau nhiều lần đi trinh sát thực địa và nghiên cứu hình thái bố trí của địch ở Tây Nguyên và khả năng chúng sử dụng lực lượng cơ động từ nơi khác đến trước, trong hoặc sau khi ta đánh Buôn Ma Thuột, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên xác định cách đánh chiến dịch như sau: Nhử địch về Kon Tum, Plây Cu rồi hãm chúng lại đó, tạo sơ hở ở Buôn Ma Thuột để ta tiêu diệt và làm chủ.

Tiếp đó sẽ phát triển đánh chiếm Gia Nghĩa, Phú Bổn để mở rộng khu vực, làm bàn đạp phát triển tiến công các hướng khác.

Để thực hiện ý định trên vấn đề có tính chất quyết định là lập thế trận chiến dịch. Thế trận đó phải thể hiện: chia cắt, vây hãm, vừa hãm vừa tiến công đột phá, vừa bí mật vừa nghi binh.

Về phương án đánh thì xã Buôn Ma Thuột, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh chúng tôi xác định hai phương án. Phương án một: đánh địch chưa có phòng ngự dự phòng; phương án hai: đánh địch có phòng ngự dự phòng.

Chúng tôi tranh thủ tạo điều kiện để đánh địch theo phương án một; đồng thời sẵn sàng đánh địch ở phương án hai, có nghĩa là sư đoàn 23 ngụy đã về Buôn Ma Thuột phòng ngự dự phòng cuộc tiến công của ta vào thị xã. Sư đoàn này về Buôn Ma Thuột, tức là nó đã về căn cứ, nơi chúng tổ chức phòng ngự vững chắc, kiên cố. Dù tình huống nào cũng phải kiên quyết giành thắng lợi giòn giã trận Buôn Ma Thuột. Chúng tôi xác định mục tiêu chủ yếu trong thị xã là sở chỉ huy sư đoàn 23 và tiểu khu Đắc Lắc, khu liên hợp pháo binh - thiết giáp là mục tiêu quan trọng. Đảng uỷ xác định đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột trên ba hướng: hướng bắc là chủ yếu; hướng tây nam và hướng nam là quan trọng. Đội hình tiến công có năm mũi trong đó có một mũi thọc sâu. Về thủ đoạn chiến đấu trong phương án một: kết hợp luồn sâu ém sẵn của bộ đội đặc công và bộ binh với đột kích của lực lượng binh chủng hợp thành cơ động từ xa bỏ qua các mục tiêu bên ngoài, áp nhanh vào thị xã, bất ngờ tiến công và đột phá trận địa địch dưới sự chi viện của pháo binh. Nếu xảy ra phương án hai ta sẽ thực hiện: “đánh chắc tiến chắc và đột phá liên tục”. Cán bộ, chiến sĩ Tây Nguyên chúng tôi đã từng đánh thị xã Kon Tum nhưng chưa làm chủ hoàn toàn. Sau khi ta giải phóng Phước Long, Bộ tư lệnh Miền đã cử một đoàn cán bộ đến Tây Nguyên phổ biến kinh nghiệm đánh thị xã, nhưng Phước Long chỉ là một thị xã nhỏ và không phức tạp như thị xã Buôn Ma Thuột. Do vậy, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên giao cho cơ quan tham mưu mặt trận phải nghiên cứu phương án đột phá tiến công thị xã Buôn Ma Thuột một cách kỹ lưỡng chu đáo, thực hiện được yêu cầu đánh chiếm nhanh nhưng ít gây thiệt hại cho thị xã.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #32 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 10:01:42 am »


Tôi nói thêm vài nét về thị xã Buôn Ma Thuột. Thị xã này rộng ngót 25 km2 ( không tính các căn cứ quân sự ở ngoại vi), là thủ phủ của Tây Nguyên, nơi đặt căn cứ của sư đoàn 23 ngụy. Từ trung tâm thị xã kéo về phía nam, khu vực sở chỉ huy sư đoàn 23 và các đơn vị trực thuộc chiếm diện tích hơn 1 km2, được cấu trúc thành từng khu vực khá kiên cố và phức tạp. Phía đông đường 14 là tiểu khu bảo an, toà hành chính và các trụ sở của cơ quan ngụy quyền tỉnh Đắc Lắc. Án ngữ phía tây bắc thị xã là khu căn cứ của trung đoàn 8 thiết giáp và tiểu đoàn pháo binh 39. Phía tây nam là khu kho quân sự Mai Hắc Đế. Phía đông và đông nam thị xã là căn cứ các trung đoàn 45 và 53. Xen kẽ giữa các khu quân sự là các khu vực dân cư đông đúc, đặc biệt là khu chợ thị xã (Buôn Ma Thuột lúc đó có 160.000 dân).

Địa hình xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột tương đối bằng phẳng, khá thuận lợi cho tác chiến hiệp đồng binh chủng. Ở quanh thị xã là rừng cà phê, đây là điều kiện rất thuận lợi để bộ đội ta có thể áp sát mục tiêu mà vẫn giữ được bí mật.

Thời gian này Bộ tư lệnh, cơ quan tham mưu mặt trận làm việc không kể ngày đêm. Anh Vũ Lăng, anh Nguyễn Năng, tôi và anh Nguyễn Quốc Thước - phụ trách Tham mưu trưởng mặt trận cùng các đồng chí cán bộ tác chiến, chủ nhiệm các binh chủng trinh sát, pháo binh, công binh, xe tăng, thông tin, cao xạ thức thâu đêm để bàn đi tính lại xây dựng phương án tiến công Buôn Ma Thuột. Cuối cùng Đảng uỷ Mặt trận hạ quyết tâm:

Tập trung lực lượng đánh ngã nhanh ba mục tiêu chính là: sở chỉ huy sư đoàn 23, tiểu khu bảo an - toà tỉnh trưởng và khu liên hợp pháo binh - thiết giáp; chủ yếu là sở chỉ huy sư đoàn 23. Ba mục tiêu trên là mục tiêu quan trọng lại cách biệt với khu dân cư, ta tập trung đánh vào đó sẽ đỡ thiệt hại cho nhân dân.

Phương án tác chiến được vạch ra là: Sử dụng bộ đội đặc công đánh chiếm trước kho Mai Hắc Đế, sân bay thị xã và sân bay Hoà Bình để cắt đứt đường không của địch. Lợi dụng tiếng súng, tiếng bộc phá của đặc công, đưa 12 trung đoàn bộ binh, xe tăng, pháo binh, cao xạ và công binh ở cách thị xã từ 10 đến 25km vượt qua sông Sêrêpốc và các hướng khác nhanh chóng lướt qua các mục tiêu vòng ngoài, dùng sức mạnh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh và xe tăng đánh thẳng vào các mục tiêu chủ yếu trong thị xã.

Chúng tôi bàn nhiều đến việc nghi binh thu hút và giam chân cho được 8 trung đoàn chủ lực quân ngụy ở lại bắc Tây Nguyên, không cho chúng về Buôn Ma Thuột trước khi ta nổ súng đánh vào thị xã này; đồng thời tổ chức lực lượng chặt đứt ba con đường chiến lược số 14, 19 và 21 để chia cắt đồng bằng với Tây Nguyên, chia cắt bắc Tây Nguyên với nam Tây Nguyên.

Chúng tôi cho rằng thời cơ để thực hiện phương án này là khi ta cắt đứt được đường số 19 và đứng số 14, giam phần lớn chủ lực địch ở lại bắc Tây Nguyên và bí quyết để thực hiện phương án này là tiến hành biện pháp nghi binh khôn khéo.

Lợi dụng sai lầm của địch, ta đã tiến hành một kế hoạch nghi binh rất công phu, thu hút sự đối phó của địch về bắc Tây Nguyên. Tuy nhiên, chúng tôi không đánh giá thấp bộ máy tình báo đồ sộ của Mỹ - ngụy nên đã tính đến những bất ngờ có thể xảy ra.

Nhằm bảo đảrn cho bộ đội hoàn thành tốt nhiệm vụ của chiến dịch, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên một mặt tích cực xây dựng phương án tác chiến, mặt khác tập trung giải quyết nhiều vấn đề về tổ chức biên chế công tác hậu cần, kỹ thuật và tiến hành công các đảng, công tác chính trị một cách tích cực cả phía trước và phía sau, cơ quan và đơn vị, nhằm tạo nên chuyển biến căn bản toàn diện, có khí thế và hành động cách mạng sôi nổi, tự giác, bảo đảm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Về tổ chức biên chế, ngay từ tháng 4 năm 1974, Thường vụ Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên chúng tôi đã quyết định xây dựng các lực lượng vũ trang Tây Nguyên theo phương hướng binh đoàn cơ động tác chiến quy mô lớn. Theo hướng đó, về tổ chức có những thay đổi. Mỗi sư đoàn bộ binh có 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh; mỗi tiểu đoàn có 400 người. Lực lượng pháo binh chiến dịch của Mặt trận tổ chức thành 2 trung đoàn pháo mặt đất và 2 trung đoàn pháo phòng không. Thành lập thêm trung đoàn đặc công 198, trung đoàn xe tăng 273 và trung đoàn thông tin 29.

Công tác xây dựng hậu phương và công tác hậu cần được khẩn trương tiến hành. Bước vào chiến dịch năm 1975, Mặt trận Tây Nguyên đã xây dựng được 3 cơ sở tiếp nhận chi viện ở cánh Bắc, cánh Trung và cánh Nam, có hệ thống kho tàng, bến bãi, đường sá cho xe vận tải1. Tuyến đường ống dẫn dầu, tuyến đường dây trần và các khu vực dự trữ vật chất chiến lược đã tạo điều kiện cho việc tăng cường sức mạnh chiến đấu của ta. Các khu vực kho đã triển khai hợp lý, bảo đảm có thể tiếp nhận một đêm từ 300 đến 400 xe và từ 1.500 đến 2.000 tấn hàng. Nhờ vậy đã bảo đảm 75% nhu cầu vật chất cho gần một chục vạn quân trước ngày chiến dịch mở (1.400 tấn).
__________________________________
1. Từ tháng 1 năm 1973 đến tháng 4 năm 1974 Tây Nguyên đã mở 394 km đường chiến dịch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #33 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 10:03:12 am »


Do bản chất ngoan cố của đế quốc Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu nên cuộc chiến đấu sẽ quyết liệt, phức tạp, yêu cầu nhiệm vụ rất cao manh tính chất kiên quyết, khẩn trương. Đảng uỷ Mặt trận Tây nguyên chủ trương quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ mục tiêu, nhiệm vụ và quan điểm cơ bản của cách mạng miền Nam, bản chất âm mưu và khả năng của địch, nhiệm vụ chiến trường có quyết tâm vượt mọi khó khăn, chiến đấu liên tục không ngại hy sinh gian khổ, quyết thi đua giành thắng lợi lớn nhất, chống mọi biểu hiện chủ quan, thoả mãn, dừng lại; nắm vững tư tưởng đánh tiêu diệt, đánh nhanh, diệt gọn, đồng thời coi trọng công tác binh vận, làm tan rã hàng ngũ địch; đề cao tinh thần đoàn kết hiệp đồng giữa các đơn vị, các binh chủng, các hướng, sẵn sàng nhận khó khăn về mình, tạo thuận lợi cho bạn để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ; chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật chiến trường, tự giác nghiêm minh, thực hiện tốt chính sách vùng mới giải phóng, chính sách tù hàng binh, chính sách chiến lợi phẩm.

Để thực hiện những nội dung trên, chúng tôi tập trung chỉ đạo công tác xây dựng đảng một cách toàn diện. Đại hội đảng bộ các cấp xác định nhiệm vụ chính trị của đơn vị: Sư đoàn ta diệt 2-3 trung đoàn địch, trung đoàn ta diệt chiến đoàn địch trong một thời gian nhất định. Nghị quyết đại hội được tổ chức học tập sâu rộng đến chiến sĩ để tạo nên sự nhất trí cao. Nhưng vấn đề mấu chốt là phát huy sức mạnh của các cấp uỷ đảng, vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên. Xây dựng các chi bộ đại đội chiến đấu thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo toàn diện. Công tác phát triển đảng được tiến hành tích cực, đi vào nền nếp thường xuyên. Nhờ vậy nên mặc dù qua chiến đấu thương vong lớn, đảng viên cử đi học nhiều nhưng vẫn bảo đảm tỷ lệ lãnh đạo trên 40%. Đầu năm 1975, chi bộ có chi uỷ chiếm 86,60%, trung đội có tổ đảng chiếm 94,3%, tiểu đội có đảng viên chiếm 85,3%.

Trong công tác cán bộ, trước yêu cầu đánh hiệp đồng binh chủng lớn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ đủ, đồng bộ, hợp lý, có trình độ năng lực đáp ứng1.

Bước vào chiến dịch. Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận phát động cao trào thi đua với khẩu hiệu hành động: “Mừng Đảng, mừng Xuân ra quân đại thắng quét sách quân thù giải phóng nhân dân”.

Thời gian này Thường vụ tỉnh uỷ Đắc Lắc đã tiến hành nhiều cuộc họp để bàn việc phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của bộ đội chủ lực. Trước hết là quán triệt cho các cấp uỷ đảng nắm chắc thời cơ lịch sử, nhiệm vụ của tỉnh Đắc Lắc trước yêu cầu mới, xác định quyết tâm, kế hoạch tiến công và nổi dậy trong toàn tỉnh, đặc biệt là trên địa bàn trọng điểm thị xã Buôn Ma Thuột; đồng thời có kế hoạch cụ thể đối với các hướng phát triển theo dự kiến của trên ở trục đường 14, 21, Cheo Reo, đường số 7... Chỉ trong một thời gian ngắn toàn tỉnh đã khôi phục được số cơ sở bị đứt liên lạc và phát triển cơ sở mới ở 23 buôn, gồm 6.500 dân, xây dựng 87 cơ sở cốt cán các loại, lập thêm 10 ban cán sự quần chúng và ban vận động khởi nghĩa xã, buôn.

Tháng 2 năm 1975, Thường vụ tỉnh uỷ Đắc Lắc quyết định tuyển chọn những cán bộ chiến sĩ trong các ngành ở tỉnh và thị xã để thành lập một đội vận động chính trị gồm 81 đồng chí, có ban chỉ huy chung do anh Ama H’oanh - Ủy viên thường vụ Tỉnh uỷ, Bí thư thị uỷ Buôn Ma Thuột trực tiếp lãnh đạo nổi dậy giành chính quyền, làm chủ tiếp sau đòn tiến công quân sự, theo bốn yêu cầu: ổn định tư tưởng quần chúng, động viên quyết tâm giải phóng trọn vẹn thị xã, giáo dục quần chúng không chạy theo địch mà phải bám lại nhà; tham gia tổ chức cách mạng; xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở, huy động một bộ phận thanh niên tham gia chiến đấu, v.v...

Đối với lực lượng vũ trang địa phương, Thường vụ tỉnh uỷ Đắc Lắc quyết định sử dụng tiểu đoàn bộ binh 301 (thiếu); tiểu đoàn đặc công 401 và các đơn vị trực thuộc do anh Đỗ Minh Cảnh, tỉnh đội trưởng và anh M’lô Nguynh - chính trị viên phó tỉnh đội chỉ huy đánh chiếm quận lỵ Đức Xuyên, Lạc Thiện và phát triển theo đường 21B về hướng Phước An. Dùng đại đội 1, tiểu đoàn 301 vào thị xã Buôn Ma Thuột tảo trừ bọn địch sống sót chống lại, tạo thế thuận lợi cho hoạt động của đội vận động chính trị. Sử dụng đại đội bộ binh cùng bộ đội huyện và đội công tác đánh địch, mở dân, giải phóng vùng đông Cheo Reo. Thường vụ tỉnh uỷ đã bàn bạc cụ thể các mặt về công tác tiếp quản thị xã Buôn Ma Thuột, quyết định thành lập ủy ban quân quản do anh Y Blốc Êban, phó bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh làm chủ tịch và anh Lê Chí Quyết, phó bí thư tỉnh uỷ làm bí thư đảng uỷ quân quản, phó chủ tịch uỷ ban và một số uỷ viên chỉ đạo các huyện tổ chức các ủy ban quân quản huyện. Anh Huỳnh Văn Cần, bí thư tỉnh uỷ Đắc Lắc cho tôi biết đến trước chiến dịch, trong vùng địch kiểm soát ở tỉnh Đắc Lắc đã có 624 cơ sở cốt cán, gồm 160 cơ sở chính trị, binh vận, 144 đội du kích mật và 228 cơ sở khác. Trong thị xã có 120 gia đình cơ sở cũ, đó là chỗ dựa cho đội chính trị tiến vào thị xã. Chính những cơ sở này đã cung cấp thường xuyên những tin tức mới nhất của địch trong thị xã cho ta. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và ban quân sự thị xã đã chuẩn bị xong kế hoạch và lực lượng của địa phương phối họp với bộ đội chủ lực.
_____________________________________
1. Từ năm 1973 đến tháng 6 năm 1975 Mặt trận Tây Nguyện đã đưa vào đội ngũ cán bộ 1.081 đồng chí, đề bạt các cấp cho 4.490 đồng chí và bổ nhiệm 3.349 đồng chí. Trong năm 1974 nhiều lớp tập huấn về nghệ thuật chiến dịch, về chiến thuật vận động tiến công, đánh công sự vững chắc, đánh thành phố, thị xã được mở cho các đối tượng khác nhau từ trung đội đến sư đoàn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #34 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 10:04:22 am »


Những ngày cuối tháng 1 năm 1975, Bộ tư lệnh Mặt trận làm việc suốt ngày đêm để giao nhiệm vụ cho các đơn vị.

Tối ngày 24 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho trung đoàn 95A.

Ngày 25 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 320, Sư đoàn 316.

Ngày 26 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án một đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột.

Sáng ngày 27 tháng 1 năm 1975, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 10.

Chiều ngày 27 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án hai đánh thị xã Buôn Ma Thuột.

Sáng ngày 28 tháng 1 năm 1975, nghiên cứu lần cuối phương án đánh quân giải tỏa khi địch có phòng ngự dự phòng.

Sáng ngày 29 tháng 1 năm 1975, anh Nguyễn Kim Tuấn, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 báo cáo quyết tâm bổ sung.

Ngày 30 tháng 1 năm 1975. Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho các đơn vị: trung đoàn pháo binh 40, trung đoàn pháo binh 675, trung đoàn phòng không 234, trung đoàn phòng không 593, trung đoàn xe tăng 273, trung đoàn đặc công 198.

Ngày 31 tháng 1 năm 1975, anh Vũ Lăng chỉ thị cho anh Nguyễn Quốc Thước viết lại kế hoạch chiến dịch và quy định thời gian trong 5 ngày phải xong. Anh Vũ Lăng lưu ý anh Nguyễn Quốc Thước một số vấn đề: Ở phần mục đích, phương châm tác chiến cần viết cho chặt chẽ hơn. Phần cách đánh và tổ chức, công tác bảo đảm đường sá cơ động cho pháo binh, xe tăng; công tác bảo đảm kỹ thuật, xăng dầu, đạn dược, ăn uống, v.v... cần phân rõ từng cấp chịu trách nhiệm; công tác bảo đảm cho các mũi, các hướng hiệp đồng thời gian, đặc biệt đối với đơn vị thọc sâu phải viết ngắn gọn nhưng rõ, để khi thực hiện thuận lợi.

Ngày 1 tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho trung đoàn 271.

Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch, ngày 7 tháng 2 năm 1975, anh Hoàng Minh Thảo đến Tây Nguyên theo quyết định của trên.

Do ý nghĩa quan trọng của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch mở đầu của cuộc tiến công chiến lược nên Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã cử anh Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng tham mưu trưởng làm đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh vào Tây Nguyên tổ chức sở chỉ huy tiền phương của Bộ trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trung tuần tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên hình thành cơ sở lấy Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận Tây Nguyên làm nòng cốt. Anh Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh chiến dịch; tôi (Đặng Vũ Hiệp) - Chính uỷ; các anh Vũ Lăng, Phan Hàm, Nguyễn Lang - Phó tư lệnh; anh Phí Triệu Hàm - Phó chính uỷ. Bên cạnh Bộ tư lệnh chiến dịch còn có anh Bùi San, đại diện Thường vụ Khu uỷ Khu 5 cùng một bộ phận cơ quan giúp việc. Đi sát với các hướng chiến dịch có các đại diện của tỉnh uỷ Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.

Chiều ngày 14 tháng 2 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch báo cáo quyết tâm và kế hoạch tác chiến chiến dịch với anh Văn Tiến Dũng, đại diện Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng. Theo sự thống nhất trong Bộ tư lệnh, anh Vũ Lăng, tôi và anh Nguyễn Quốc Thước báo cáo (anh Hoàng Minh Thảo mới đến Tây Nguyên đang ở giai đoạn nắm tình hình). Đúng giờ làm việc, anh Vũ Lăng lên cơn sốt rét, không thể có mặt. Sau khi nghe anh Nguyễn Quốc Thước trình bày phương án kế hoạch tác chiến chiến dịch, anh Văn Tiến Dũng đặt vấn đề: Vì sao Sư đoàn 10, một đơn vị có kinh nghiệm đánh công sự vững chắc lại sử dụng để đánh Đức Lập, mà không đưa vào tiến công thị xã Buôn Ma Thuột ngay từ đầu. Tôi và anh Nguyễn Quốc Thước đã trình bày lý do, nhưng xem ra ý kiến chưa đủ sức thuyết phục đối với anh Văn Tiến Dũng. Tranh thủ giờ nghỉ, tôi đến gặp anh Vũ Lăng. Nhìn anh mặt tái ngắt, môi tím bầm, người run lẩy bẩy và đang sốt ruột chờ tin chúng tôi làm việc với anh Dũng, tôi ái ngại và thương anh quá. Kể lại cho anh nghe tình hình và nói vui: “Có chết thì ngày mai hẵng chết. Còn bây giờ ông phải đến mà “cãi” về chuyện sử dụng Sư đoàn 10 đánh Đức Lập”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #35 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 10:05:06 am »


Trước đề nghị của tôi, mặc dù cơn sốt chưa qua, nhưng anh Vũ Lăng đã cố gắng đến họp và báo cáo chi tiết việc sử dụng Sư đoàn 10. Anh Vũ Lăng nói rành rọt ý định của Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên trong việc sử dụng sư đoàn này. Chính vì Sư đoàn 10 có kinh nghiệm đánh công sự vững chắc nên phải sử dụng sư đoàn 10 (thiếu trung đoàn 24) vào trận Đức Lập. Bởi vì Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định việc đánh căn cứ Đức Lập phải bảo đảm chắc thắng và chỉ được phép đánh thắng trong thời gian từ một đến hai ngày. Sau đó phải nhanh chóng cơ động lực lượng về bắc Buôn Ma Thuột làm lực lưọng dự bị cho Sư đoàn 316 sẵn sàng tham gia trận then chốt, dứt điểm Buôn Ma Thuột nếu địch ngoan cố chống cự khi đơn vị bạn chưa giải quyết được. Đồng thời sẵn sàng đánh địch phản kích. Hơn nữa để thực hiện nhiệm vụ được giao hồi tháng 10 năm 1974 Sư đoàn 10 đã được bố trí tập kết ở Đức Lập. Điều động quân trở lại vừa mất thời gian, vừa gây thêm nhiều khó khăn, nhất là về giữ bí mật.

Sau khi anh Vũ Lăng trình bày, anh Văn Tiến Dũng đã cân nhắc và cuối cùng nhất trí phê chuẩn kế hoạch đó. Anh nhắc nhở chúng tôi thời gian gấp, nhiệm vụ nặng cần tổ chức đảm bảo chu đáo để đưa nhanh Sư đoàn 10 về hướng Buôn Ma Thuột sau khi đã giải phóng xong Đức Láp.

Vì chưa hiểu hết bối cảnh lịch sử, nên hiện nay có người cho rằng lúc đó không cần đánh Đức Lập mà chỉ dùng một lực lượng nhỏ bao vây thì địch sẽ bỏ chạy.

Thời gian chuẩn bị còn lại rất gấp nên mọi công tác phải tiến hành hết sức khẩn trương. Hầu như đêm nào cơ quan chỉ huy chiến dịch cũng phải làm việc đến 2, 3 giờ sáng. Các anh Nguyễn Quốc Thước, Khuất Duy Tiến, Trần Minh Hảo có đêm tranh thủ ngủ ngồi một lát rồi lại thức dậy làm việc. Tuy vất vả, mệt nhọc là thế nhưng nghĩ đến ngày Buôn Ma Thuột được giải phóng, cả Tây Nguyên không còn bóng quân thù thì ai cũng thấy trong lòng phấn khởi, tăng thêm nghị lực làm việc.

Theo phương án đã được đại diện Quân uỷ Trung ươnng và Bộ Tổng tư lệnh thông qua, các đơn vị tham gia chiến dịch Tây Nguyên được giao nhiệm vụ chính thức như sau:

- Sư đoàn 968 ( thiếu ) có nhiệm vụ hoạt động nghi binh tích cực giam chân khối chủ lực của quân khu 2 ngụy ở lại Kon Tum, Plây Cu.

- Sư đoàn 320 có nhiệm vụ cắt đường 14 đoạn Cẩm Ga (Thuần Mẫn), sẵn sàng tiêu dịch địch từ Plây Cu đi giải toả Buôn Ma Thuột, hoặc địch từ Buôn Ma Thuột đánh lên. Sau khi dứt điểm Cẩm Ga, sư đoàn này phát triển bao vây và tiêu diệt địch, giải phóng thị xã Cheo Reo.

- Trung đoàn 25 cắt đường 21 và chặn đánh địch ở đoạn tây Khánh Dương, tiêu diệt địch ở Buôn Ma Thuột rút chạy, hoặc địch từ đồng bằng Khu 5 lên theo trục đường 21.

- Trung đoàn 95A đánh cắt giao thông và tiêu diệt địch trên đường 19 đoạn tây An Khê phối hợp với Sư đoàn 3 Quân khu 5 đánh trên đoạn đông An Khê.

- Sư đoàn 316, trung đoàn 95B, trung đoàn 24 (Sư đoàn 10), trung đoàn đặc công 198, 2 trung đoàn pháo binh 40 và 675, 3 trung đoàn pháo cao xạ 234 (thiếu), 593 và 232, trung đoàn xe tăng 273, 2 trung đoàn công binh 7 và 575, trung đoàn thông tin 29 có nhiệm vụ tiêu diệt địch giải phóng Buôn Ma Thuột.

- Sư đoàn 10 cùng một lúc phải thực hiện 2 nhiệm vụ:

1. Sử dụng sư đoàn thiếu được tăng cường 1 tiểu đoàn cao xạ thuộc trung đoàn 234, 1 cụm pháo binh 122 ly và 155 ly có nhiệm vụ nhanh chóng đánh đứt điểm quận lỵ Đức Lập và quét địch từ Đức Lập đến ngã ba Đắc Soong trong thời gian từ 1 đến 2 ngày. Đánh xong Đức Láp, sư đoàn nhanh chóng cơ động lực lượng về bắc Buôn Ma Thuột sẵn sàng tham gia trận then chốt đánh dứt điểm Buôn Ma Thuột nếu địch ngoan cố co cụm chống cự, khi đơn vị bạn chưa giải quyết được. Đồng thời sẵn sàng đánh địch phản kích. Nếu Sư đoàn 320 gặp khó khăn thì tăng cường lực lượng để giải quyết Cheo Reo.

2. Tổ chức một sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn chỉ huy trung đoàn 24 và trung đoàn 95B tác chiến trên hướng đông bắc và hướng tây Buôn Ma Thuột. Mục tiêu trung đoàn 95B đánh chiếm sân bay thị xã, ngã sáu, tiểu khu Đắc Lắc. Trung đoàn 24 sử dụng 1 tiểu đoàn được tăng cường 1 đại dội xe tăng, 1 đại đội xe thiết giáp, 1 đại đội cao xạ hình thành lực lượng thọc sâu của chiến dịch, đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23, dùng 1 tiểu đoàn bao vây Chư Nga, 1 tiểu đoàn làm lực lượng dự bị.

Thực hiện kế hoạch tác chiến trên, Sư đoàn 968 (do anh Thanh Sơn - Tư lệnh, anh Trần Trác - Chính uỷ) từ Hạ Lào hành quân bộ vượt qua vùng rừng núi hiểm trở biên giới Việt - Lào. Ngày 15 tháng 1 năm 1975 đến vị trí tập kết T73 với quân số 5.429 người, gồm 2 trung đoàn (trung đoàn 19: 1.890 người, trung đoàn 29: 1.890 người), mỗi tiểu đoàn quân số lên tới 480 người, bộ đội khoẻ mạnh, xe pháo an toàn.

Từ Nghệ An, Sư đoàn 316 (do anh Đàm Văn Ngụy - Sư đoàn trưởng, anh Hà Quốc Toản - Chính uỷ) hành quân bằng ô tô vào đến Tây Nguyên ngày 7 tháng 2 năm 1975 với quân số khá cao 8.820 người, có 2.137 đảng viên, trong đó có 73 trên 85 chi bộ đại đội có chi uỷ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #36 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 10:05:57 am »


Từ đầu tháng 1 năm 1975, Bộ tăng cường liên tiếp cho Tây Nguyên trung đoàn 95B (Sư đoàn 325), tiểu đoàn đặc công 1 của Bộ, trung đoàn cao xạ 232, trung đoàn công binh 575 thuộc Đoàn 559 và 1 tiểu đoàn cầu phà, 1 tiểu đoàn và 1 đại đội thông tin, 1 tiểu đoàn vận tải, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội khí tượng, 3 trạm sửa chữa xe, pháo, đội điều trị 48 và 8.000 quân bổ sung lần lượt đến Đắc Lắc. Ngoài ra còn có các đơn vị phối hợp và phối thuộc ở các hướng. Sư đoàn 3 (Quân khu 5) từ bắc Bình Định hành quân đến đông An Khê (Gia Lai), trung đoàn bộ binh 271, tiểu đoàn đặc công 14 của Miền đến Gia Nghĩa, tiểu đoàn 21 Sư đoàn 470 (Đoàn 559) đến Bản Đôn.

Đầu tháng 2 năm 1975, Sư đoàn 320 (do anh Kim Tuấn - Sư đoàn trưởng, anh Bùi Huy Bổng - Chính uỷ ) và các trung đoàn binh chủng kỹ thuật bí mật rời khỏi khu vực đường 19, Đức Cơ, qua 5 ngày hành quân bộ, dưới cái nắng gay gắt của rừng khoọc Gia Lai đã đến ví trí tập kết phía tây Thuần Mẫn an toàn.

Ngày 6 tháng 2 năm 1975, trung đoàn 66, khối hành quân đầu tiên của Sư đoàn 10 (do anh Hồ Đệ - Sư đoàn trưởng, anh Lã Ngọc Châu - Chính uỷ ) bí mật rời hậu cứ Kleng về tập kết ở phía bắc dãy núi Chư Mon Đray rồi được xe ô tô chở về nam Tây Nguyên. Những ngày tiếp theo các đơn vị còn lại của Sư đoàn 10 cũng bí mật bàn giao tuyến phòng thủ Võ Đinh cho Sư đoàn 968 rồi bí mật theo đường 1B bằng xe cơ giới hướng về phía nam.

Ba cơ quan của Mặt trận Tây Nguyên cũng được lệnh di chuyển vào khu vực Đắc Đam (Đắc Lắc) phục vụ cho Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ huy, chỉ đạo các đơn vị.

Tôi nói thêm, mỗi khi mùa khô đến, những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy ở Tây Nguyên thường theo dõi sự di chuyển của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320. Họ cho rằng hai sư đoàn này có mặt ở đâu, ở đó sẽ đánh lớn. Tương kế tựu kế, ta đã bí mật thế chỗ của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 bằng Sư đoàn 968. Khi hai sư đoàn này chuyển quân đã được lệnh để lại toàn bộ mạng thông tin vô tuyến (kể cả nhân viên báo vụ). Các đài vô tuyến của hai sư đoàn này vẫn duy trì phát sóng đúng giờ tung các báo cáo giả lên làn sóng điện để đánh lừa sự theo dõi của địch. Tình báo địch khi theo dõi các tín hiệu phát ra, biết rõ cố tật của báo vụ viên từng đơn vị nên họ yên tâm là Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 vẫn ở vị trí cũ.

Sau này viên tướng Mỹ Sáclơ Timét - cố vấn của Nguyễn Văn Thiệu đã phải thốt lên: “Bằng biện pháp nghi binh qua làn sóng điện, Việt Cộng đã thành công trong kế hoạch giam chân bộ phận chủ yếu của quân lực Việt Nam cộng hoà thuộc quân khu 2 ở Plây Cu và Kon Tum”.

Bị các hoạt động nghi binh chiến dịch của ta làm cho lạc hướng, ngày 18 tháng 2 trong cuộc họp với các tướng lĩnh để kiểm điểm tình hình thực hiện kế hoạch phòng thủ quốc gia “Lý Thường Kiệt 1975” và các biện pháp của hội đồng an ninh quốc gia đã quyết định trước đây, tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn cho rằng: “Quân khu 2 sẽ là chiến trường trọng điểm, quân khu 1 và quân khu 3 là chiến trường phối hợp. Cần đề phòng cộng sản có thể đánh vào một số thị xã nhỏ, nhất là các thị xã hẻo lánh ở Tây Nguyên như Quảng Đức, Kon Tum”. Sau cuộc họp ở phủ tổng thống về, tướng Phạm Văn Phú - tư lệnh quân khu 2 kiêm tư lệnh quân đoàn 2 ngụy đã triệu tập chỉ huy trưởng đơn vị, tiểu khu trưởng trong quân khu để nhận định tình hình, bàn kế hoạch đối phó. Họ cho rằng hình thức bố trí lực lượng của ta “nhẹ đuôi nặng đầu” (ý nói các sư đoàn chủ lực của ta đều tập trung ở hai tỉnh Kon Tum và Plây Cu ) nếu đánh lớn ta sẽ lấy Kon Tum, Plây Cu làm “điểm”, chiến sự sẽ diễn ra ác liệt. Nơi diễn ra sôi động thứ hai có thể là Quảng Đức vì hiện nay ta đã chiếm được Phước Long nên cần đánh Quảng Đức để mở thông đường hành lang vào Nam Bộ, do đó Quảng Đức có thể nổi lên trong tình hình hiện nay. Từ nhận định trên, tướng Phú ra lệnh cho các đơn vị phòng giữ Kon Tum, Plây Cu cần củng cố hệ thống bố phóng, tăng cường sục sạo ra xa để sớm phát hiện ý đồ của ta và tổ chức tiến công từ tuyến ngoài, tiêu hao, làm giảm sức tiến công của ta khi đánh sâu vào khu vực thị xã; tăng cường cho Quảng Đức 1 trung đoàn để tăng thêm khả năng phòng thủ. Và tướng Phú vẫn chủ quan cho rằng Buôn Ma Thuột có thể bị đánh nhưng quy mô không lớn vì chỉ là “diện” nên chưa cần tăng lực lượng. Ngoài ra viên tướng này còn chỉ thị cho các đơn vị dưới quyền chú trọng điều tra sự di chuyển của 2 sư đoàn 10 và 320. Như trên đã nói, 2 sư đoàn chuyển về hướng nào thì nơi đó sẽ nổ ra đánh lớn. Tuy vậy, vẫn tỏ ra âu lo, nên sau cuộc họp Phú đã trao đổi riêng với chuẩn tướng Trần Văn Cẩm - phụ tá hành quân và Lê Khắc Lý - tham mưu trưởng quân đoàn 2 là ông ta rất sợ tình hình có nhiều đột biến ngoài dự tính, trong khi lực lượng quân khu ít và đã phải dàn mỏng, gắn chặt vào từng nơi. Tướng Phú than phiền rằng hôm gặp tổng thống Thiệu xin tăng thêm quân dù là lực lượng đã quen chiến trường để làm quân ứng cứu tại chỗ nhưng không được Thiệu chấp nhận. Cuối cùng tướng Phú chỉ được tăng thêm 2 liên đoàn biệt động...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #37 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 10:06:45 am »


Đêm 18 tháng 2, đại tá Trịnh Tiêu - trưởng phòng tình báo quân khu 2 ngụy nhận được nguồn tin: “Sư đoàn 10 đã hành quân vào phía nam chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư đoàn 320 sang tây Ea H’leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn. Một lực lượng khác đang chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột”.

Nhận được tin trên, Trịnh Tiêu đã báo cáo Phạm Văn Phú như sau: những hoạt động ở Kon Tum và Plây Cu chỉ là hoạt động nghi binh của Việt cộng. Ý định thực sự của họ là sẽ đánh vào Buôn Ma Thuột”. Phát hiện của cơ quan tình báo đã làm cho Phú rất lo lắng, nên đã nghĩ đến việc “có lẽ phải đưa sư đoàn 23 về lại Buôn Ma Thuột”.

Nhưng mặt khác, Phạm Văn Phú lại nhận được thông báo của tình báo Mỹ khẳng định rằng tình hình chưa có gì thay đổi, các đơn vị Việt cộng vẫn ở chỗ cũ... Những tin tức trái ngược nhau làm đau đầu tướng Phú. Tuy vậy, ngày 19 tháng 2 năm 1975, Phú vẫn quyết định rút bớt trung đoàn 45 từ Plây Cu đưa về tây đường 40 ở khu vực tây Ea H’leo để sục sạo tìm Sư đoàn 320. Nhưng trước đó, Bộ tư lệnh chiến dịch đã lệnh cho sư đoàn này lui quân về phía tây, chỉ để lại những tổ trinh sát bám địch, tuyệt đối tránh đụng độ với chúng.

Trước tình hình diễn biến phức tạp đó, Bộ tư lệnh chiến dịch đã nhận định:

“Địch có nghi ta chuẩn bị đánh Đức Lập, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột, cắt đường 14 ở Thuần Mẫn, với một số bằng chứng riêng lẻ. Nhưng địch vẫn chưa phát hiện ý định và lực lượng chiến dịch của ta. Những hoạt động trên mang tính chất rời rạc, cục bộ. Tuy nhiên, cũng vẫn phải chủ động đề phòng”. Và Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định “kiên trì, khôn khéo giữ bí mật ý định và lực lượng ta ở hướng tác chiến chủ yếu (Buôn Ma Thuột). Tích cực hoạt động nghi binh trên hướng Kon Tum và Plây Cu để thu hút trung đoàn 45 về Plây Cu”.

Thực hiện ý định trên, cơ quan tham mưu chiến dịch đã cho phát đi một bức điện giả để đánh lừa địch, nội dung như sau: “Địch đã bị lừa cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã đưa trung đoàn 45 xuống phía nam”. Bộ tư lệnh quân khu 2 ngụy đã nhận được bức điện trên, cùng lúc với các chỉ huy quân sự các tỉnh ở Tây Nguyên. Sau khi nhận được bức điện của ta đánh đi, Phạm Văn Phú càng hoài nghi về nguồn tin đã nhận được và dứt khoát từ bỏ ý định đưa sư đoàn 23 trở lại Buôn Ma Thuột.

Sau khi các đơn vị bộ binh và binh chủng triển khai ở hướng chính an toàn, ngày 1 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 968 (mang tên Sư đoàn 320) đánh nghi binh tiến công một loạt các vị trí ở ngoại vi thị xã Plây Cu như đồn Tầm, chốt Mỹ và một loạt các cứ điểm trên dãy Chư Kra, Chư Gôi, điểm cao 605, uy hiếp quân lỵ Thanh An và Thanh Bình. Tiếng súng nổ xen lẫn tiếng gầm rú của xe tăng như báo hiệu một cuộc tiến công lớn vào thị xã Plây Cu đã bắt đầu.

Trong khi trung đoàn 45 ngụy đã qua 10 ngày lùng sục ở khu vực Ea H’leo vẫn không phát hiện ra Sư đoàn 320, thì được tin sư đoàn này xuất hiện đang tiến công vào hướng tây Plây Cu. Không giấu nổi bực tức, Phạm Văn Phú ra lệnh đưa ngay trung đoàn 45 về tăng cường chống đỡ ở hướng tây Plây Cu. Sáng ngày 3 tháng 3 năm 1975, trung đoàn 45 ngụy từ Ea H’leo vội vã hành quân về lại tây thị xã Plây Cu.

Đêm ngày 3 rạng sáng ngày 4 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cắt đứt đường 19. Từ sáng đến trưa ngày 4 tháng 3, trung đoàn 95A (anh Lê An - trung đoàn trưởng, anh Trần Kiều - Chính uỷ) đã tiến ra đường 19 tiêu diệt một loạt các vị trí địch trong đó có căn cứ pháo binh Ia Dun do một tiểu đoàn bảo an đóng giữ. Đến chiếu hôm ấy trung đoàn 95A đã làm chủ đoạn đường dài 20 km từ ngã ba Plây Bôn đến ấp Phú Yên.

Cùng ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Quân khu 5 tuy vừa hành quân từ bắc Bình Định vào, gặp rất nhiều khó khăn về quân số và hậu cần cũng đã tích cực phối hợp đánh cắt đường 19 - đoạn từ đèo Thượng An đến cầu số 13 tiêu diệt 2 đại đội và tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 1 trung đoàn 47 ngụy diệt 316 tên, bắt sống 52 tên, thu 200 súng và 2 khẩu pháo 105 ly, làm chủ hoàn toàn đoàn đường trên.

Tin đường số 19 bị cắt đứt đã nhanh chóng truyền về Oasinhtơn, đêm 4 tháng 3 hãng thông tấn AP đã loan tin: “Đường số 19, con đường tiếp tế chủ yếu của cao nguyên đã bị cắt đứt. Các trận đánh đã tập trung ở Lệ Trung - đông Plây Cu 16 km và ở Bình Khê - tây Quy Nhơn 40 km. Nhiều vị trí Lệ Trung đến Bình Khê bị tiến công và mất liên lạc điện đài. Một căn cứ pháo binh 105 ly ở tây bắc Bình Khê đã bị cộng sản đánh chiếm”.

Trước tình thế con đường huyết mạch nối từ cảng Quy Nhơn lên sở chỉ huy quân đoàn 2 ngụy ở Plây Cu bị cắt đứt, Phạm Văn Phú đã tung liên đoàn biệt động quân số 4 và tiểu đoàn 3 ra đông Plây Cu để phản kích trung đoàn 95A, đồng thời ông ta ra lệnh cho sư đoàn 22 ngụy từ bắc Bình Định vào đường số 19 để phản kích lại Sư đoàn 3 của ta.

Trên hướng đường số 21, ngày 5 tháng 3 năm 1975, trung đoàn 25 do anh Lộ Khắc Tâm - trung đoàn trưởng, Nguyễn Ngãi - chính uỷ chỉ huy tiến công một đoàn xe địch, làm chủ đoạn đường phía đông Chư Xê - con đường chiến lược quan trọng thứ hai nối từ Nha Trang đi Buôn Ma Thuột đã bị cắt đứt. Địch phải điều chi đoàn 2 thiết giáp thuộc trung đoàn 19 từ Bình Thuận và Khánh Hoà cùng với lực lượng học viên trường biệt động quân ở Dục Mỹ và hai tiểu đoàn bảo an đối phó với trung đoàn 25 của ta ở Chư Xê. Việc trung đoàn 25 cắt đứt đường 21 đã làm cho Phạm Văn Phú một lần nữa phải suy nghĩ về Buôn Ma Thuột. Ông ta cho rằng: Tại sao Việt cộng đánh Plây Cu, Kon Tum lại có lực lượng vào Buôn Ma Thuột và cắt đứt đường 21, hay là đối phương lại nghi binh? Đề phòng tình huống xấu, tướng Phú đã cử đại tá Vũ Thế Quang - phó tư lệnh sư đoàn 23 ngụy về Buôn Ma Thuột với nhiệm vụ mới: tư lệnh chiến trường nam Tây Nguyên, chỉ huy toàn bộ lực lượng quân ngụy từ Đắc Lắc đến Gia Nghĩa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #38 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 10:07:25 am »


Khoảng 17 giờ ngày 5 tháng 3, đoàn xe 15 chiếc của Vũ Thế Quang và tuỳ tùng trên đường vào Buôn Ma Thuột đã rơi vào ổ phục kích của trung đoàn 64 Sư đoàn 320 (anh Phạm Quang Bào - trung đoàn trưởng, anh Đinh Thế Mỹ - chính uỷ) ở đoạn nam Ea H’leo. 8 chiếc đi đầu bị bắn cháy, 7 chiếc còn lại chạy thoát được về Plây Cu, trong đó có xe của Vũ Thế Quang.

Một vấn dề trở ngại cho ta khi triển khai lực lượng ở phía bắc Buôn Ma Thuột là trung đoàn 53 ngụy đang lùng sục ở khu vực này. Bộ tư lệnh chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 đánh Chư Xê (nam Thuần Mẫn) để kéo trung đoàn 53 ra đối phó, tạo điều kiện cho lực lượng ta ở bắc, tây bắc Buôn Ma Thuột tiếp tục chuẩn bị.

6 giờ ngày 7 tháng 3, tiểu đoàn 3 trung đoàn 48 Sư đoàn 320 nổ súng. Sau 40 phút chiến đấu, tiểu đoàn 3 diệt gọn Chư Xê.

Ngày 8 tháng 3, trung đoàn 48 do anh Lê Quang Bình - trung đoàn trưởng, anh Đinh Hữu Tấn - chính ủy chỉ huy được tăng cường 2 pháo 105 ly, 3 pháo 85 ly bắn thẳng tiến công chi khu quân sự Cẩm Ga và quận lỵ Thuần Mẫn. Sau 1 giờ 20 phút, trung đoan 48 làm chủ Cẩm Ga và Thuần Mẫn, diệt 1 tiểu đoàn bảo an, 2 trung đội cảnh sát và cơ quan chi khu, bắt 121 tên, thu 200 súng (có 2 khẩu pháo 105 ly), 18 xe quân sự. Tiếp đó ngày 9 tháng 3 trung đoàn 64, Sư đoàn 320 đã tiêu diệt hoàn toàn căn cứ Buôn Hồ.

Trận Cẩm Ga, Chư Xê và Buôn Hồ đã làm cho đường 14 - con đường nối liền giữa nam và bắc Tây Nguyên bị cắt đứt.

Tại Buôn Ma Thuột, Vũ Thế Quang đã ra lệnh báo động, rút trung đoàn 53 về phòng thủ thị xã và đưa 1 tiểu đoàn của trung đoàn này lên tăng cường cho Đức Lập.

Sáng ngày 9 tháng 3, Phạm Văn Phú từ Plây Cu bay vào Buôn Ma Thuột gặp Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật, đại tá tỉnh trưởng Đắc Lắc. Sau khi xem xét toàn bộ tình hình, tướng Phú động viên Vũ Thế Quang: “Hãy sử dụng lực lượng hiện có để cố giữ Buôn Ma Thuột”. Đại tá Vũ Thế Quang hỏi lại tướng Phú: “Nếu tiến công vào Buôn Ma Thuột thì bao giờ Việt cộng sẽ bắt đầu?”. Tướng Phú trả lời: “Có sớm cũng phải giữa tháng 4. Nhưng họ không thể đánh lớn. Tổng thống Thiệu đã dặn tôi: Nơi nào bị đánh thì cố giữ, Hội nghị Pari sẽ họp lại, ta giữ được nhiều đất thì có giá để mặc cả với đối phương. Vì vậy, không thể rút thêm lực lượng ở Plây Cu để tăng cho Buôn Ma Thuột. Đến bây giờ bộ tổng tham mưu (ngụy) vẫn khẳng định là hướng tiến công chính của Việt cộng ở Tây Nguyên vẫn là Kon Tum và Plây Cu”!

Nói xong Phú vội vã lên máy bay trở về Plây Cu.

Địch đang hoang mang thì sáng ngày 9 tháng 3, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho Sư đoàn 10, được tăng cường trung đoàn 40 tiến công chi khu quân sự và quận lỵ Đức Lập. Đây là tuyến phòng thủ vững chắc của địch bao gồm 5 cứ điểm liên hoàn nằm trên đường 14 ở phía tây nam Buôn Ma Thuột. Được sự chi viện của 15 khẩu pháo lớn của trung đoàn 4 và trung đoàn 40 (pháo chiến dịch), chỉ sau hơn 3 giờ chiến đấu, trung đoàn 66 do anh Nguyễn Đình Kiệp - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Chí Nguyện - chính uỷ trung đoàn chỉ huy đã làm chủ hoàn toàn căn cứ chỉ huy hành quân của sư đoàn 23, một vị trí quan trọng bậc nhất của địch ở Đức Lập.

Cùng lúc đó, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 do anh Nguyễn Đức Cẩm - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Ngọc Xuân - chính uỷ chỉ huy tiến công căn cứ Núi Lửa. Chỉ sau 45 phút chiến đấu trung đoàn 28 đã làm chủ căn cứ Núi Lửa, toàn bộ quân ngụy trong căn cứ bị tiêu diệt và bắt làm tù binh.

Khi đánh vào quận lỵ Đức Lập, do nắm địch không chắc và tổ chức đột phá không tốt nên đánh đợt một không thành công, chỉ huy Sư đoàn 10 ngay trong đêm tổ chức nắm địch lại, mở hướng tiến công mới. Đến sáng ngày 10 tháng 3 Sư đoàn 10 mở đợt tiến công thứ hai mới giải quyết xong. Thừa thắng, các chiến sĩ trung đoàn 66 phát triển đánh chiếm Đắc Sắc và Đức Minh, 2 đại đội bảo an đóng ở đây nhanh chóng bị tiêu diệt và tan rã. Trong khi các đơn vị tiến công quân địch ở Đức Lập thì tiểu đoàn 3 trung đoàn 28 được lệnh phát triển phối hợp với tiểu đoàn 32 trung đoàn đặc công 198 đánh chiếm căn cứ Đắc Song do tiểu đoàn 1 trung đoàn 53 chiếm giữ. Như vậy, sau 2 ngày chiến đấu, Sư đoàn 10 (thiếu) đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Đức Lập và Đắc Song, bắt hơn 100 tên, thu 14 khẩu pháo 105 ly, 20 xe tăng, thiết giáp và hàng nghìn quả đạn pháo. Theo kế hoạch, sau khi giải phóng Đức Lập, Sư đoàn 10 đã nhanh chóng cơ động về phía đông thị xã Buôn Ma Thuột làm lực lượng dự bị chiến dịch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #39 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 10:08:36 am »


Mờ sáng ngày 9 tháng 3 năm 1975, tại thị xã Buôn Ma Thuột, Vũ Thế Quang - chỉ huy trưởng chiến trường phía nam còn đang ở nhà riêng thì nhận được điện báo: Đức Lập đang bị pháo kích mạnh. Quang vội vã đến trung tâm hành quân cùng Nguyễn Trọng Luật - đại tá tỉnh trưởng Đắc Lắc theo dõi tình hình.

11 giờ trưa, Phạm Văn Phú bay tới Buôn Ma Thuột tổ chức cuộc họp khẩn cấp ngay tại trung tâm hành quân sư đoàn 23. Ngoài tướng Phú còn có Lê Trung Tường - chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn 23, Phạm Văn Nghìn - đại tá tỉnh trưởng Quảng Đức cùng Vũ Thế Quang và Nguyễn Trọng Luật. Cuộc họp vừa bất đầu thì tướng Phú nhận được tin “Căn cứ 23 và Núi Lửa thất thủ”. Tướng Phú đưa ra một quyết định: “Tình hình Đức Lập đã quá xấu, không còn khả năng cứu vãn, nên không tăng quân cứu viện”. Ông ta hứa: Sẽ tăng cho Buôn Ma Thuột 1 chi đội xe tăng để tăng thêm sức phòng thủ và cho Vũ Thế Quang rút 2 tiểu đoàn ở Bản Đôn về bảo vệ ngoại vi thị xã. Cho đến lúc này Phạm Văn Phú vẫn chủ quan cho rằng ta đánh Đức Lập, uy hiếp Buôn Ma Thuột là để nghi binh, có thể vài ngày nữa ta sẽ tập trung tiến công Kon Tum và Plây Cu.

Nhưng điều bất ngờ lớn nhất đối với những người chỉ huy quân đội Mỹ - ngụy ở Sài Gòn và ở Tây Nguyên đã tới.

16 giờ ngày 9 tháng 3, từ những vị trí tập kết cách thị xã từ 15 đến 30 km, 12 trung đoàn bộ binh và binh chủng đã hình thành 5 mũi tiến công cùng tiến về hướng Buôn Ma Thuột. Ở hướng tây, dẫn đầu đoàn xe cơ giới là các đơn vị xe tăng tiến theo dấu lộ tiêu do công binh cắm sẵn xuyên qua các khu rừng để tiến ra bờ sông Sêrêpốc. Cây trên đường vẫn đứng nguyên, nhưng gốc cây đã được các chiến sĩ công binh cưa trước ba phần tư và ngụy trang kín đáo, nên xe tăng chỉ cần húc nhẹ là cây đổ và con đường mới hình thành cho xe qua. Công binh Sư đoàn 316 đã chuẩn bị đủ các loại phương tiện: thuyền độc mộc, thuyền cao su, bè nứa, móc ròng rọc vào dây cáp căng giữa hai bờ để đưa từng tiểu đoàn vượt sang bờ phía đông.

Ở phía bắc, trung đoàn 53 ngụy còn chiếm giữ khu vực Quảng Nhiêu, Mê Van nên đến ngày 8 tháng 3 mạng đường ở hướng này vẫn còn từ 10 đến 12 km chưa làm xong. Sau khi trung đoàn 53 rút đi, trung đoàn công binh 575 phải làm suốt đêm ngày và đến 23 giờ ngày 9 tháng 3 đã hoàn thành xong 3 tuyến đường phía bắc vào Buôn Ma Thuột. Theo số liệu tôi còn lưu lại, tổng số chiều dài các con đường mới làm để vào Buôn Ma Thuột là 336 km, 3 bến phà, 2 ngầm và nhiều bến vượt cho bộ binh.

Đúng 2 giờ 3 phút sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho trung đoàn đặc công 198 (do anh Trần Kình - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Tích - chính uỷ) tiến công thị xã Buôn Ma Thuột. Sau 2 giờ chiến đấu, bộ đội đặc công đã chiếm hai phần ba sân bay thị xã, làm chủ đường Phan Chu Trinh. Một mũi khác đã vượt đường 14 đánh chiếm khu cảnh sát. 2 giờ 16 phút, trung đoàn 198 đánh chiếm và làm chủ sân bay Hoà Bình, một mũi khác đánh vào căn cứ trung đoàn 53. Đại đội đặc công 2 được một đồng chí trong đội công tác tỉnh Đắc Lắc dẫn đường đánh chiếm làm chủ khu kho Mai Hắc Đế và con đường 429 mở hành lang cho mũi thọc sâu tiến vào thị xã.

Vào thời gian này, các trận địa pháo chiến dịch 105, 122, 130 ly và các loại hoả tiễn H12, ĐKB bắt đầu bắn phá dữ dội vào sở chỉ huy sư đoàn 23 và kéo dài từng đợt đến 6 giờ 30 phút.

Dựa vào địa bàn do đặc công mới mở, tiểu đoàn 5 trung đoàn 95B cùng xe tăng, xe thiết giáp từ hướng đông bắc theo đường Phan Chu Trinh tiến vào đánh chiếm Ngã Sáu và tiểu khu Đắc Lắc.

Trên hướng tây bắc, trung đoàn 148 Sư đoàn 316 (anh Đỗ Thanh Trì - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Khai Mẫn - chính ủy) dùng 1 tiểu đoàn đánh chiếm điểm cao Chư Ebua. Lực lượng chủ yếu được tăng cường 1 đại đội xe tăng tiến vào khu thiết giáp và khu pháo binh.

Trên hướng tây nam, trung đoàn 174 Sư đoàn 316 được tăng cường 1 đại đội xe tăng do anh Đào Trọng Lịch - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Xướng - chính uỷ chỉ huy dùng tiểu đoàn 2 đánh chiếm điểm cao Chư Duê. Tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 đánh vào kho xăng sư đoàn 23 và các đơn vị trực thuộc của sư đoàn này ở phía nam đường 429.

Trên hướng tây, tiểu đoàn 4 trung đoàn 24 Sư đoàn 10 do anh Trương Quang Oánh - tiểu đoàn trưởng chỉ huy được tăng cường 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội thiết giáp (gồm 16 xe tăng T54 và xe K63) của trung đoàn 273 hình thành mũi thọc sâu binh chủng hợp thành dưới sự chỉ huy của anh Trương Văn Việt - trung đoàn phó trung đoàn 24 theo đường 429 tiến vào sở chỉ huy sư đoàn 23.

Trên hướng nam, khi trung đoàn 198 nổ súng thì trung đoàn 149 Sư đoàn 316 (anh Nguyễn Văn Đạo - trung đoàn trưởng, anh Nguyễn Văn Hoạt chính uỷ) còn cách mục tiêu khá xa, bộ đội vừa đi vừa chạy để kịp thời gian hiệp đồng. Trung đoàn này phải vượt qua con suối lớn, nước sâu nên mất khá nhiều thời gian. Địa hình hướng nam toàn nương rẫy trống trải, địch phát hiện cho máy bay oanh tạc trúng đội hình. Riêng tiểu đoàn 9 của trung đoàn 149 được đội công tác dẫn đường, đến 11 giờ 30 phút tiểu đoàn này đã chiếm được quận lỵ Hoà Bình. Quá trình phát triển chiến đấu, các trung đoàn cao xạ 232 và 234 theo sát đội hình tiến công của bộ binh và xe tăng, bắn rơi 6 máy bay A37, buộc máy bay địch phải nâng độ cao.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, đại đội 1 tiểu đoàn 301 và các đội xung kích của thị xã Buôn Ma Thuột đã phát triển vào các khu phố tảo trừ truy quét tề điệp, bọn địch lẩn trốn trong dân, bảo vệ trật tự trị an trong thị xã.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM