Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:46:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tiếng sấm Tây Nguyên  (Đọc 56774 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #20 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:35:44 am »


THAM GIA CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN1


Trung tuần tháng 12 năm 1974, anh Võ Chí Công và tôi ra Hà Nội dự cuộc họp Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở rộng. Cuộc họp bắt đầu ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 8 tháng 1 năm 1975. Chủ trì cuộc họp là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn. Bộ Chính trị gồm có các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn. Thành phần mở rộng gồm: Trần Văn Trà (chiến trường Nam Bộ); Võ Chí Công, Chu Huy Mân (Khu 5), Cơ quan Bộ gồm: anh Song Hào - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và mấy đồng chí thư ký. Trong 20 ngày hội nghị đi sâu vào mấy vấn đề lớn: đánh giá tình hình địch, ta trên chiến trường miền Nam từ sau ngày Hiệp định Pa-ri có hiệu lực, nhất là hai năm 1973 - 1974; quyết tâm mở cuộc tổng tiến công chiến lược và nổi dậy đều khắp, giải phóng miền Nam trong Xuân Hè 1975, tốt nhất là hoàn thành trước mùa mưa. Sở dĩ thời gian hội nghị kéo dài 20 ngày vì anh Ba muốn để tập thể cân nhắc chín chắn, dự kiến các tình huống, chiến lược thật kín, đảm bảo thắng nhanh, gọn tạo thời cơ phát triển nhanh và nhanh chóng làm chủ sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy. Đột phá, mở màn vào đâu. Hội nghị cân nhắc mấy phương án, cuối cùng chọn Buôn Ma Thuột, giải phóng cao nguyên trung phần trước. Từ nóc nhà Trung Đông Dương này tạo thời cơ lớn toả đi các hướng chủ yếu, cuối cùng là tiêu diệt và làm tan rã quân địch; dứt điểm giải phóng Sài Gòn. Sau Buôn Ma Thuột, Huế, Đà Nẵng phải giải phóng nhanh mở đường vận chuyển chiến lược (đường 1A). Mọi vấn đề lớn nêu ra được hội nghị thảo luận, hoàn toàn nhất trí cao.

Trên đường trở lại chiến trường, ngồi trên chiếc xe com-măng-ca đường rừng lắc lư để thực hiện quyết tâm lịch sử, tôi xúc động nhớ công ơn trời biển của Bác Hồ. Gần một nửa thế kỷ bôn ba quên mọi gian khổ, dám nhận hy sinh, Bác đã làm rạng rỡ non sông đất nước. Bác ra đi đã để lại một tập thể kế cận trung kiên tuyệt đối, có tầm nhìn xa, sáng tạo, đảm đương sứ mạng lịch sử của Tổ quốc và nhân dân, thực hiện lời căn dặn của Bác: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giành lại trọn vẹn cả non sông gấm vóc. Qua cuộc họp lịch sử, tôi thấy những bộ não lớn, những tinh hoa sáng ngời tiêu biểu của dân tộc Việt Nam quy tụ lại trở thành sức mạnh to lớn. Tôi nghĩ chiến trường Tây Nguyên sẽ trở thành chiến trường lịch sử. Trên 10 năm, quân và dân Tây Nguyên đã bất chấp hy sinh gian khổ, bám trụ đánh địch, giành dân, sáng tạo chiến trường để có ngày hôm nay và sắp tới. Từ cao nguyên này, nóc nhà Trung Đông Dương, đột phá mở màn, cuộc tấn công chiến lược: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Về đến Khu 5, chúng tôi khẩn trương triệu tập hội nghị Thường vụ Khu ủy và Quân khu uỷ để quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị; thông qua phương án của quân, dân Khu 5 đã được chuẩn bị. Cuộc họp này cũng bàn thảo, lựa chọn một trong hai phương án để đi vào tổ chức thực hiện nắm quyền chủ động.

Phương án 1, mở đầu tiến công tiêu diệt quận lỵ chi khu Tiên Phước và căn cứ Phước Lâm. Làm công sự chốt chặt các điểm cao phía đông, kéo mấy trung đoàn cơ động ngụy vào ứng cứu, tiêu diệt chúng ở vùng giáp ranh. Khi quân địch không còn sức chiến đấu phải rút lui thì ta cho lực lượng dự bị có xe tăng phối hợp bất ngờ tiến công vào thị xã Tam Kỳ. Sau khi giải phóng Tam Kỳ, Sư đoàn bộ binh 2 của ta theo đường 1 tiến thẳng vào Đà Nẵng. Theo phương án này, căn cứ Chu Lai, thị xã Quảng Ngãi bị chia cắt. Ta chỉ dùng 1 trung đoàn bộ binh, 1 đại đội pháo và 1 đại đội xe tăng cùng lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nổi dậy để giải phóng.

Phương án 2, Sư đoàn bộ binh 2 của ta, mở đầu tiêu diệt địch giải phóng quận lỵ chi khu Sơn Hà, sau đó nhanh chóng tiến công giải phóng thị xã Quảng Ngãi rồi chuyển vào phía nam giải phóng nam Quảng Ngãi nối liền với bắc Bình Định. Ý định then chốt trong phương án này là trong mùa Xuân năm 1975, đồng bằng Khu 5 ăn chắc từ thị xã Quảng Ngãi đến trung Bình Định. Một vài anh em thường nói: Giải phóng vùng này “bỏ túi trước”, Quảng Ngãi, Bình Định, sang hè sẽ chuyển ra bắc giải phóng Đà Nẵng.

Hai phương án nói trên đều có lý lẽ và đã tranh luận mấy tháng. Vì vậy, trước Tết Nguyên đán tôi xin phép Thường vụ Khu uỷ và Thường vụ Quân uỷ được kết luận: Theo phương án 1, để tập trung mọi lực lượng, tinh thần, vật chất chuẩn bị có chất lượng đảm bảo chắc chắn. Theo phương án này thì lực lượng ta quá thấp phải cố gắng nhiều. Nhưng phương án 1, đứng về chiến lược cao hơn, chủ động hơn. Có thể nói, thực hiện phương án 1 tự mình nỗ lực chủ quan, tạo thời cơ trực tiếp, lợi dụng thời cơ chung, kín đáo và sắc bén hơn về tư tưởng chiến lược và tâm lý.

Sư đoàn 3 trước có ý định điều ra Quảng Nam, Đà Nẵng, để thực hiện phương án này, song nửa chừng, Bộ giao nhiệm vụ cho Sư đoàn đánh địch cắt đứt đường 19. Phương án 1 thiếu Sư đoàn 3, nhưng quyết tâm của quân khu thì nhiệm vụ, mục tiêu không giảm.
________________________________
1. Tên bài do nhóm biên soạn đặt.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #21 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:36:42 am »


Trong lúc các đơn vị đang khẩn trương chuẩn bị thì ngày 21 tháng 1 năm 1975, Đảng uỷ và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên nhận được chỉ thị bổ sung của Thường vụ Quân uỷ Trung ương. Theo chỉ thị bổ sung, nhiệm vụ của hướng tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phải tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp, cố gắng tiêu diệt hoặc đánh quỵ 1 sư đoàn, đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy, giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn ba tỉnh Đắc Lắc, Quảng Đức, Phú Bổn bao gồm các thị xã Cheo Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột. Trọng điểm là tỉnh Đắc Lắc, mục tiêu quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột, hướng phát triển là Cheo Reo và Gia Nghĩa. Cheo Reo là hướng phát triển chủ yếu.

Nhằm phối hợp với Tây Nguyên đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy, Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ cho Khu 5 sử dụng Sư đoàn 3 (thiếu) và Tiểu đoàn công binh 19 mở chiến dịch tiến công địch trên đường 19 trong phạm vi hai huyện Bình Khê và An Khê, tiêu diệt từ 1 đến 2 chiến đoàn bộ binh và 1 đến 2 chi đoàn cơ giới, cắt đứt đường 19, thực hiện chia cắt chiến lược quân địch giữa đồng bằng và Tây Nguyên.

Để tăng cường lực lượng cho hướng tiến công chiến lược chủ yếu, Bộ lần lượt đưa vào Tây Nguyên Sư đoàn 968, Sư đoàn 316, Trung đoàn 95b của Sư đoàn 325, Trung đoàn cao xạ 232, Trung đoàn công binh 575, một tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn cầu phà, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn vận tải, 1 đại đội trinh sát, 1 trung đội khí tượng, 3 trạm sửa chữa xe pháo, 1 đội điều trị và 8 nghìn quân bổ sung.

Ở các tỉnh đồng bằng Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định lần lượt thành lập các trung đoàn địa phương 96, 94, 93. Các tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hoà chưa tổ chức trung đoàn nhưng cũng hình thành khối chủ lực tập trung mấy tiểu đoàn.

Do ý nghĩa quan trọng của chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương cử anh Văn Tiến Dũng - Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng làm đại diện Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh và tổ chức sở chỉ huy tiền phương của Bộ để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.

Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên hình thành trên cơ sở lấy Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận Tây Nguyên làm nòng cốt do anh Hoàng Minh Thảo làm tư lệnh, anh Đặng Vũ Hiệp làm chính uỷ. Ngoài ra còn có các đồng chí cán bộ cao cấp và trung cấp do Bộ phái đến tăng cường để tăng sức mạnh và khả năng giải quyết tốt các vấn đề tác chiến cũng như các vấn đề hậu cần, vận tải.

Bên cạnh Bộ tư lệnh chiến dịch, Thường vụ Khu uỷ Khu 5 cử anh Bùi San - Uỷ viên Thường vụ Khu uỷ cùng một bộ phận cơ quan giúp việc. Đi sát với các hướng chiến dịch có các đại diện của các tỉnh uỷ Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.

Đêm 3 rạng ngày 4 tháng 3, Trung đoàn 95a được lệnh cắt đứt đường 19, nhanh chóng tiêu diệt một số chốt giao thông và làm chủ hoàn toàn đoạn đường dài 20km từ ngã ba Plây Pôn đến ấp Phù Yên. Cùng đêm, một bộ phận của Sư đoàn 320 cắt đường 14 ở đoạn bắc Cẩm Ga. Ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Quân khu 5 tuy gặp nhiều khó khăn về quân số và hậu cần cũng đã tích cực phối hợp đánh cắt đường 19 từ đèo Thượng An đến cầu số 13 chiếm 9 chốt giao thông, diệt 2 đại đội và tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 1 trung đoàn 47, làm chủ hoàn toàn đoạn đường trên. Tiếp đó, đêm 4 rạng ngày 5 tháng 3, Trung đoàn 25 hoạt động trên đường 21 đoạn Chư Cúc đã đánh chiếm một đoạn đường về phía đông Chư Cúc.

Thế là quân ta cơ bản đã cài xong thế trận chia cắt chiến dịch. Quân địch ở thị xã Buôn Ma Thuột về đường bộ đã bị hoàn toàn cô lập với Quy Nhơn, Plây Cu, Nha Trang; đồng thời thế chia cắt đó cũng đã cô lập Tây Nguyên với các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung.

6 giờ ngày 8 tháng 3, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 và một bộ phận pháo cơ giới đã nổ súng tiến công Cẩm Ga (quận lỵ Thuần Mẫn) về phía thị xã Buôn Ma Thuột. Đến 7 giờ 20 phút ta làm chủ trận địa, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ngày 9 tháng 3, Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch trong quận lỵ Buôn Hồ.

Trận Cẩm Ga và trận Buôn Hồ đã làm cho đường 14 hoàn toàn bị cắt đứt, thị xã Buôn Ma Thuột càng cô lập và bị uy hiếp dữ dội. Để cứu vãn tình hình, ngày 8 tháng 3, địch vội vã điều liên đoàn biệt động quân số 21 (thiếu) xuống sân bay Hoà Bình và đưa lên Buôn Hồ, hòng phản kích chiếm lại đường 14.

Trên hướng Đức Lập, căn cứ này nằm về tây nam thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 60km trên đường 14 đi Gia Nghĩa. Trận đánh do Sư đoàn 10 (thiếu) và một bộ phận pháo cơ giới của Trung đoàn 40 và tiểu đoàn đặc công thực hiện. 5 giờ 35 phút ngày 9 tháng 3, pháo binh bắt đầu bắn vào Đức Lập. 8 giờ 20 phút, Trung đoàn 66 Sư đoàn 10 đánh chiếm căn cứ 23, Trung đoàn 28 đánh chiếm căn cứ Núi Lửa, hình thành hai mũi phát triển tiến công vào thị trấn. Riêng quận lỵ Đức Lập vì ta nắm tình hình không chặt và tổ chức tiến công không tốt nên đánh đợt 1 không thành. Sáng ngày 10 tháng 3, ta tổ chức tiến công đợt 2 mới giải quyết xong. Chiều ngày 10 tháng 3 ta diệt luôn vị trí Đắc Xắc, Đức Minh và giải phóng hoàn toàn Đức Lập.

Tại Buôn Ma Thuột, quân địch lúc này ở trong thị xã có sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 23, trung đoàn 53 (thiếu), 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 tiểu đoàn bảo an. Quân số khoảng 8.000 tên.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #22 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:38:21 am »


2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn đặc công 198 tiến công 3 vị trí: sân bay Hoà Bình, sân bay thị xã, cụm kho Mai Hắc Đế. Cùng giờ, hoả tiễn H12 và ĐKB của ta đánh vào sư đoàn bộ sư đoàn 23, chỉ huy sở tiểu khu và khu pháo binh, thiệt giáp. Địch vẫn đinh ninh rằng cũng như năm 1968, ta chỉ dùng đặc công và pháo binh đánh rồi sáng sẽ rút.

Cùng lúc, khi pháo bắt đầu bắn, lợi dụng tiếng nổ các mũi tiến công của ta tập kết cách thị xã 10 - 15km, xe tăng 20-25km, có bộ phận 40km, bắt đầu vượt sông Sêrêpốc tiến vào tuyến xuất phát tiến công. Một cuộc tiến công gồm 12 trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 316, các trung đoàn 24, 95b và các trung đoàn binh chủng trên 5 mũi khác nhau đã được điều khiển nhịp nhàng, chặt chẽ. Một cuộc tiến công quân binh chủng hợp thành tuyệt đẹp 5 giờ ngày 10 tháng 3 năm 1975, toàn bộ đội hình đã chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công, hình thành thế bao vây sát thị xã.

5 giờ 30 phút pháo binh bắn thử. 7 giờ 15 phút pháo binh bắt đầu trút bão lửa xuống các mục tiêu quy định. Pháo cao xạ đã tiến sát đội hình bộ binh. 9 giờ ngày 10 tháng 3 các mũi bộ binh và cơ giới bắt đầu tiến công.

Trải qua một ngày chiến đấu quyết liệt, đến chiều ngày 10 tháng 3, quân ta đã đánh chiếm sở chỉ huy tiểu khu, khu liên hợp pháo binh - thiết giáp, một phần khu sư đoàn bộ sư đoàn 23. Trên tất cả các hướng quân địch đều chống trả quyết liệt.

Đêm 10 tháng 3, liên đoàn biệt động quân 21, được lệnh từ Buôn Hồ tiến về thị xã để cứu nguy cho sở chỉ huy sư đoàn 23, nhưng đến khu vực suối Ia Tam vấp phải quân ta. Bọn này đã chuồn ra phía đông thị xã ẩn nấp. Trong đêm 10 tháng 3 ta nắm lại tình hình, tổ chức hiệp đồng lại với các mũi, hội quân ở sư đoàn bộ sư đoàn 23. 6 giờ sáng ngày 11 tháng 3, quân ta lại mở đợt tiến công mới. Với sức mạnh áp đảo, các loại hoả lực và xe tăng của ta đã nhanh chóng đè bẹp địch, chi viện cho bộ binh xung phong. 9 giờ sáng 11 tháng 3 quân ta đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23. Mục tiêu chủ yếu của trận đánh đã hoàn thành, cơ quan đầu não của địch ở Buôn Ma Thuột đã bị đập tan.

Đến 11 giờ trưa ngày 11 tháng 3 năm 1975, ngọn cờ chiến thắng của bộ đội Tây Nguyên đã phất cao trên nóc hầm chỉ huy sư đoàn 23 ngụy. Sau đó, quân ta đã nhanh chóng phát triển thắng lợi tiêu diệt địch ở các vùng phụ cận như hậu cứ 45, trường huấn luyện, căn cứ 53, ấp Châu Sơn.

Trận đánh thị xã Buôn Ma Thuột là một trận tiến công xuất sắc. Chỉ trong vòng 33 giờ, bằng nghệ thuật chiến đấu tài giỏi, bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn và bằng tinh thần chiến đấu của cán bộ, bộ đội ta đã lập nên chiến công Tây Nguyên đại thắng vang dội, làm đòn mở đầu cho cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975.

Theo kế hoạch, sau khi tiêu diệt xong Đức Lập, Sư đoàn 10 sang đứng chân ở đông bắc Buôn Ma Thuột sẵn sàng đánh quân phản kích.

7 giờ ngày 14 tháng 3, Trung đoàn 24 được pháo binh và xe tăng chi viện đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 45 sư đoàn 23 quân ngụy, diệt 210 tên, bắt 180 tên, thu 4 pháo 105 ly, số địch còn lại chạy về Nông Trại - Phước An. Ngày 15 và 16 tháng 3, địch đổ tiếp trung đoàn 44 và sư đoàn bộ 23 nhẹ xuống Phước An, cộng với số bảo an tại đây, quân địch ở khu vực này lên đến 5.600 tên.

7 giờ 15 phút ngày 16 tháng 3, Sư đoàn 10 dùng pháo bắn vào Nông Trại, sau đó xe tăng chở bộ đội ta đột kích vào trận địa địch. 8 giờ 15 phút ta làm chủ Nông Trại, tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng còn lại của trung đoàn 45. Trung đoàn 24 tiếp tục tiến công địch chiếm ngã ba Phước An. Trung đoàn 28 và xe tăng, xe bọc thép phát triển theo đường 21 xuống Chư Cúc diệt các lực lượng của trung đoàn 44. Trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 ở khu vực Phước An, ta đã diệt gần 500 tên, bắt 1.600 tên, thu hơn 1.800 súng có 6 pháo 105 ly.

Ngày 18 tháng 3, Trung đoàn 28 và Trung đoàn 25 đã chặn đánh lực lượng còn lại của trung đoàn 44 diệt 500 tên, giải phóng Chư Cúc. Sư đoàn 23 quân ngụy hoàn toàn bị xoá sổ.

Ngày 15 tháng 3 năm 1975, Bộ Tổng tư lệnh nhận định: Sau khi mất Buôn Ma Thuột có khả năng sẽ diễn ra hai tình huống: thứ nhất, địch sẽ bỏ Kon Tum lui về giữ Plây Cu; thứ hai, bỏ Tây Nguyên, rút về đồng bằng.

Ngày 14 tháng 3, Nguyễn Văn Thiệu đến Nha Trang. Sau khi xem xét tình hình, Thiệu quyết định rút bỏ Tây Nguyên co về giữ đồng bằng, củng cố một thời gian chờ đợi thời cơ phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên. Lần đầu tiên trong lịch sử 30 năm chiến tranh của nhân dân ta, một quân đoàn địch đã rút chạy, một cuộc rút chạy có ý nghĩa chiến lược.

Đến ngày 15 tháng 3, ta đã phát hiện được ý định rút chạy của địch. Cũng ngày đó, Phạm Văn Phú - tư lệnh quân đoàn 2, tư lệnh quân khu 2 và sở chỉ huy ở Plây Cu chuồn trước bằng máy bay về Nha Trang. Tiếp đó là cuộc tháo chạy lớn bằng đường bộ. Vì đường 19, đường 21 và đường 14 đã bị cắt đứt, nên địch phải liều mạng rút theo đường số 7, từ Plây Cu qua Cheo Reo về Củng Sơn - Tuy Hoà.

Để đảm bảo an toàn cho cuộc rút chạy, quân khu 2 ngụy không báo cho các lực lượng địa phương biết “cứ để cho chúng chống giữ, khi chủ lực rút xong ai biết thì biết”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #23 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:39:10 am »


16 giờ ngày 17 tháng 3, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 ra cắt đường 7 ở đông nam Cheo Reo 4km. Ngày 18 tháng 3, Trung đoàn 64 (thiếu) ra cắt đường 7 đông Cheo Reo 10km. Cùng ngày, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48 cắt đường 7 giữa Cheo Reo và Phú Thiện, làm cho chúng bị nghẽn lại tại thị xã Cheo Reo gần 10 nghìn tên. Tuy nhiên, một số ít quân địch cũng đã vượt qua trước ngày Trung đoàn 64 ra cắt đường ra, đã chạy về Phú Túc, Củng Sơn.

Ngày 18 tháng 3, Trung đoàn 48 (thiếu) được pháo binh chi viện tiến công đánh chiếm thị xã Cheo Reo gồm khu hành chính, tiểu khu, tiêu diệt một số lớn quân địch rút chạy của quân đoàn 2 ngụy ùn ở đây. Từ ngày 17 tháng 3 đến ngày 19 tháng 3, Trung đoàn 9 Sư đoàn 320 tiến công tiêu diệt địch ở quận lỵ Phú Nhơn, Mỹ Trạch, Phú Thiện.

Ngày 21 tháng 3, quân ta diệt địch dồn về ở Phú Túc và ngày 23 tháng 3 bộ đội ta tiến sát đến Củng Sơn. Ở Củng Sơn địch tụ lại khoảng 6.000 tên, 40 xe tăng, xe thiết giáp và hàng trăm xe vận tải. Đoạn đường Củng Sơn về Tuy Hoà bị hư hỏng nặng nên quân địch đã ùn lại đây để chờ sửa đường.

Tại Củng Sơn, lực lượng của ta chỉ có Trung đoàn 64 (thiếu) với 2 tiểu đoàn địa phương tỉnh Phú Yên nhưng vẫn kiên quyết tiến công. Ngày 24 tháng 3, quân ta mở đợt tiến công dồn dập vào Củng Sơn, tụ điểm cuối cùng của địch, tiêu diệt và bắt sống gần hết quân địch. Chúng chỉ chạy thoát được 11 xe M113 và một bộ phận của liên đoàn biệt động quân 6.

Ngày 18 tháng 3, Trung đoàn 29 và tỉnh đội Kon Tum giải phóng thị xã Kon Tum, Trung đoàn 95a giải phóng thị xã Plây Cu, Trung đoàn 19 giải phóng Thanh Bình. Ngày 22 tháng 3 Sư đoàn 3 (thiếu) giải phóng An Khê. Cùng ngày, Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25 chiếm Khánh Dương. Ngày 20 tháng 3, Trung đoàn 271 (thiếu) chiếm Kiến Đức, địch ở Gia Nghĩa rút chạy, quân ta vào tiếp quản thị xã này.

Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng. Từ trên cao nguyên quân ta đã toả ra thành ba mũi tiến công xuống các tỉnh đồng bằng nam Khu 5. Mũi thứ nhất, gồm có Sư đoàn 968 và Trung đoàn 95A từ Plây Cu theo đường 19 tiến xuống Bình Định, phối hợp cùng với Sư đoàn 3 và các lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định đánh một trận lớn từ Phú Thông đến sân bay Gò Quánh, tiêu diệt sư đoàn 22, góp phần giải phóng tỉnh Bình Định.

Mũi thứ hai, do Sư đoàn 320 và các lực lượng tăng cường theo đường số 7 tiến xuống phía đông, phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên giải phóng thị xã Tuy Hoà.

Mũi thứ ba, do Sư đoàn 10 và các lực lượng tăng cường đã tiêu diệt lữ dù 3, trung đoàn 40 sư đoàn 22 quân ngụy và tiến xuống giải phóng thành phố Nha Trang (2-4), quân cảng Cam Ranh (3-4).

Sau 1 tháng liên tục tiến công, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc vào ngày 4 tháng 4 năm 1975.

Chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã tạo ra một bước ngoặt chiến lược.

Thắng lợi của chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tiến công diễn ra ở Tây Nguyên, một địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng của Tổ quốc. Từ địa bàn đó ta đã phát triển tiến công xuống đồng bằng, cắt đôi hệ thống bố phòng của địch, đẩy quân địch đến khởi điểm bắt đầu của quá trình tan rã và suy sụp về chiến lược. Chiến thắng Tây Nguyên đã tạo cho ta thế và lực mới, mạnh toàn diện, có điều kiện tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn. Chiến thắng Tây Nguyên đã tạo ra bước nhảy vọt trong chiến tranh, làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi có lợi cho ta. Địch mất 1 quân đoàn, mất 7 tỉnh, bị chia cắt về chiến lược khiến chúng phải rút bỏ và chịu thua nhiều nơi khác. Chiến thắng Tây Nguyên đã cổ vũ, động viên khí thế cả nước ta quyết tâm đẩy mạnh cuộc tiến công tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

   
Đại tướng CHU HUY MÂN
   (Trích từ cuốn “Thời sôi động”:
   LÊ HẢI TRIỀU thể hiện – QĐND. H: 2004)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #24 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:40:41 am »


VÀO CHỈ ĐẠO CHIẾN DỊCH TÂY NGUYÊN


Tháng 4 năm 1974, tôi từ Nam Bộ ra, được giao 1 nhiệm vụ làm Phó tổng Tham mưu trưởng. Trước khi vào làm việc, tôi được cấp trên cho nghỉ phép 15 ngày. Mới nghỉ được 5 ngày thì đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng gọi vào và bảo:

- Tình hình chiến trường rất khẩn trương. Đồng chí cần vào ngay cùng Cục tác chiến làm kế hoạch. Làm thế nào để ta tiến lên giành thắng lợi lớn hơn.

Lúc bấy giờ, đảng ta đã có Nghị quyết 21. Trong Nghị quyết có nêu hai khả năng có thể diễn ra trên chiến trường miền Nam. Một là, đấu tranh bằng chính trị, pháp lý, tiến lên giành thắng lợi theo Hiệp định Pa-ri. Hai là, trở lại chiến tranh để đi lên giành toàn thắng. Quán triệt Nghị quyết 21. Quân ủy Trung ương đã ra nghị quyết, chỉ thị cho các chiến trường tích cực đánh bại các cuộc phản công triệt phá phong trào, bình định cấp tốc, tràn ngập lãnh thổ, phá thế “da báo” của Mỹ - ngụy... Ta thực hành tiến công, phản công để đánh bại âm mưu lấn chiếm vùng giải phóng của chúng. Như vậy là Quân uỷ Trung ương đã kịp thời xử lý ngay khả năng thứ hai mà Nghị quyết 21 đã nêu, Phù hợp với suy nghĩ của cán bộ, nhất là của những đồng chí lúc đó đang hằng ngày hằng giờ phải đối đầu, đánh địch trên các chiến trường.

Theo hướng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ tổng Tham mưu đã liên tiếp xây dựng năm kế hoạch và một điểm chung là phải tiến hành đấu tranh vũ trang, đi lên giành thắng lợi bằng tiến công quân sự, kết hợp với nổi dậy của quần chúng. Dự kiến kế hoạch năm 1975, ta nâng mức diệt địch lên đến sư đoàn, giải phóng tỉnh và một số tỉnh, tiếp tục mở rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện để đón thời cơ chính trị. Tức là vào cuối năm 1975, chế độ ngụy tiến hành bầu cử tổng thống, nếu ta đánh mạnh, sẽ buộc Mỹ thay đổi chính sách, lật Thiệu, chấp nhận phương án thoả hiệp để Mỹ rút. Cuối năm 1976, bầu tổng thống Mỹ, nếu ta đánh mạnh trên chiến trường, ngụy khó mà đứng vững, cộng với dư luận đòi Mỹ phải rút ra khỏi cuộc đấu tranh Việt Nam, buộc chính phủ Mỹ phải thay đổi lập trường..., ta tiến lên vào năm sau.

Trong khi xây dựng kế hoạch chiến lược cũng như khi thông qua tại cuộc họp Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương tháng 10 năm 1974 và cuộc họp mở rộng, có các đồng chí Bí thư và Tư lệnh các chiến trường tham dự cuối tháng 12 năm 1974, đầu tháng 1 năm 1975, vấn đề lựa chọn chiến trường chính Tây Nguyên và hướng tấn công chủ yếu của chiến dịch là nam Tây Nguyên (Buôn Ma Thuột) theo như đề án của Bộ Tổng Tham mưu đã trình bày, đã được thảo luận kỹ trước khi kết luận.

Trước đó, khi chuẩn bị chiến dịch, cũng đã có ba ý kiến khác nhau về lựa chọn chiến trường chính là Tây Nguyên, miền đông Nam Bộ, hay cắt đèo Hải Vân. Về hướng chiến dịch, trên chiến trường Tây Nguyên có ba hướng: hướng nam (Buôn Ma Thuột) được chọn làm hướng chính, hướng trung, tiến công Plây Cu, được chọn làm hướng nghi binh chiến dịch, hướng bắc, tiến công vào Kon Tum cũng được chọn làm hướng nghi binh thứ hai.

Về ý định cách đánh Tây Nguyên thì tại Hội nghị tháng 10 năm 1974, Bộ Tổng Tham mưu đã đề ra phương án “Tiến công Đức Lập, cắt giao thông, diệt viện, phát triến tiến công đánh chiếm Buôn Ma Thuột”. Đến cuộc họp tháng 12 năm 1974, qua trao đổi, thống nhất quyết định tiến công ngay vào Buôn Ma Thuột.

Theo như kế hoạch chiến lược đã đề ra thì chiến dịch Tây Nguyên nhằm ba mục đích lớn: diệt gọn sư đoàn địch; mở rộng hành lang tuyến vận tải Bắc - Nam, mở rộng vùng giải phóng cấp tỉnh (dự kiến ba tỉnh); phối họp với vùng sâu phá kế hoạch bình định “tràn ngập lãnh thổ” của chúng.

Ngay sau cuộc họp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cuối tháng 12 năm 1974, đầu tháng 1 năm 1975, có một cuộc hội ý giữa anh Võ Nguyên Giáp, anh Văn Tiến Dũng, anh Lê Trọng Tấn và tôi tại phòng họp của Quân uỷ Trung ương, bàn việc điều chinh kế hoạch, thực hiện ngay phương án đánh Buôn Ma Thuột như quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Lúc này, ở Tây Nguyên, Bộ Tư lệnh Mặt trận đã được thông báo từ tháng 9, tháng 10 năm 1974 đang xúc tiến việc chuẩn bị đánh theo phương án “tiến công Đức Lập, phát triển tiến công chiếm Buôn Ma Thuột”. Đang hội ý thì anh Lê Đức Thọ bước vào nói ý kiến của anh Lê Duẩn và anh Thọ là phải cố gắng đánh Buôn Ma Thuột ngay. Các anh cử tôi vào Tây Nguyên để bàn với Bộ Tư lệnh Mặt trận trong đó bổ sung kế hoạch. Với chiến dịch Tây Nguyên và cả riêng tôi nữa, cuộc hội ý cân nhắc cẩn thận từng việc này có ý nghĩa rất lớn.

Ngày 16 tháng 1 năm 1975, tôi lên đường. Điều lo lắng nhất của tôi trên đường đi là làm sao ít ảnh hưởng đến kế hoạch của mặt trận Tây Nguyên mà vẫn có binh lực để đánh thẳng vào Buôn Ma Thuột. Bây giờ, ở Mặt trận Tây Nguyên có Sư đoàn 10 chuẩn bị đánh Đức Lập, Sư đoàn 320 chuẩn bị cắt giao thông, diệt viện trên đường 14 và một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh độc lập và binh chủng. Muốn đánh vào Buôn Ma Thuột, nhất định phải có thêm lực lượng. Khoảng ngày 21 tháng 1, tôi đến Sở chỉ huy Mặt trận. Tại đây, tôi gặp anh Vũ Lăng, Tư lệnh; anh Đặng Vũ Hiệp, Chính ủy; anh Nguyễn Năng, Phó tư lệnh và các đồng chí trong cơ quan Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Chúng tôi họp với nhau trong 5 ngày, đi đến thống nhất kế hoạch chiến dịch Tây Nguyên. Rồi tôi phải trở ra miền Bắc để báo cáo với các anh trong Quân uỷ Trung ương xin thêm lực lượng vì báo cáo bằng vô tuyên điện e rằng không đạt được ý mà chúng tôi bàn thống nhất.

Khi tôi ra đến nam cầu Hiền Lương thì có barie chắn lại. Một đồng chí sĩ quan thông báo: theo lệnh của Bộ, tôi phải quay trở lại, vào Sở chỉ huy của Đoàn 559 và chờ ở đó. Lúc ấy, Tết Ất Mão đã đến gần. Sau những năm ở chiến trường, tôi đang hy vọng có một cái Tết sum họp gia đình. Vào Bộ Tư lệnh Đoàn 559, gặp anh Đồng Sĩ Nguyên, anh ấy bảo tôi nằm chờ. Sau này tôi mới biết lý do lệnh giữ tôi lại, không ra Hà Nội là để giữ tuyệt đối bí mật cho chiến dịch. Ngày mồng 2 Tết, anh Văn Tiến Dũng vào. Bàn việc tăng thêm lực lượng cho Tây Nguyên, suy đi tính lại, cũng chỉ tăng thêm một sư đoàn. Đó là Sư đoàn 316 mới từ Lào về đang đóng quân ở Nghệ An. Tập họp trên đường 559 được thêm Sư đoàn 968. Sư đoàn 316 tuy đã chiến đấu nhiều trên chiến trường Lào nhưng chưa đánh địch ở miền Nam, song có hai đồng chí chỉ huy thì đã chiến đấu trong Nam rồi. Anh Đàm Văn Ngụy, Sư đoàn trưởng, là con người rất tốt, có sở trường trong đánh thọc sâu chiến dịch. Còn anh Hải Bằng, Sư đoàn phó, có khả năng đánh hợp đồng binh chủng. Chúng tôi quyết định dùng Sư đoàn 316, có tăng cường thêm một trung đoàn và toàn bộ các trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật của Mặt trận, bao gồm đặc công, pháo binh, công binh, tăng - thiết giáp, thông tin... làm lực lượng chủ công đánh vào Buôn Ma Thuột. Sư đoàn 968 đánh ở phía tây Plây Cu để nghi binh. Ở Kon Tum, ta dùng vô tuyến điện của Sư đoàn 10 để nghi binh như là sư đoàn đang chuẩn bị đánh mạnh ở đây. Trong khi đó, sư đoàn 10 lại được dùng để đánh giải phóng Đức Lập, cùng ngày, phải cơ động bằng ô to về làm lực lượng dự bị kịp thời ngay khi ta nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột. Sư đoàn 320 làm lực lượng cắt giao thông, diệt viện trên đường 14 từ Plây Cu về Buôn Ma Thuột. Ngoài ra, còn có Trung đoàn 59B, các trung đoàn, tiểu đoàn pháo binh, tăng - thiết giáp, thông tin... Cách bố trí lực lượng này, khi báo cáo ra Quân ủy Trung ương và Bộ, cũng có ý kiến cho là “đại phân tán”, nhưng trong thực tế chỉ huy cơ động lực lượng thì lại khác.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #25 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:41:29 am »


Ngày 5 tháng 3 năm 1975, thực hiện nghi binh, lừa địch. Sư đoàn 968 đã nổ súng tiến công phía tây Plây Cu. Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 320 lần lượt tiêu diệt cứ điểm Chư Sê và nam ngã ba Thuần Mẫn, mở toang một đoạn đường để chuẩn bị đánh viện. Rạng sáng ngày 9 tháng 3, Sư đoàn 10 đánh Đức Lập. Ngay buổi sáng hôm đó, Sư đoàn 10 đã hoàn thành nhiệm vụ. Lúc này, như đã bàn trước với anh Đinh Đức Thiện, Bộ Tư lệnh 559 điều ngay 100 xe chở lực lượng chủ yếu của Sư đoàn 10 đến Buôn Ma Thuột làm lực lượng dự bị.

Rạng sáng ngày 10 tháng 3, Sư đoàn 316, được tăng cường Trung đoàn 95B, các trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng, kỹ thuật như đặc công, công binh, pháo binh, xe tăng của Mặt trận Tây Nguyên nổ súng tấn công Buôn Ma Thuột. Đến trưa Ngày 11 tháng 3, quân ta đã chiếm được sở chỉ huy sư đoàn 23 và sở chỉ huy phân khu quân sự tỉnh Đắc Lắc. Từ lúc này cho đến ngày 17, ngày 18 tháng 3 ta phải xử lý đồng thời ba tình huống trên chiến trường. Một là, phải giải quyết cho triệt để thắng lợi giải phóng Buôn Ma Thuột, vì sau ngày 11 tháng 3 vẫn còn căn cứ trung đoàn 53 ngụy ở sân bay Hoà Bình, mãi đến ngày 17 ta mới giải quyết xong. Hai là, diệt viện binh của địch hòng chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột. Ba là, diệt quân rút lui khỏi Tây Nguyên theo lệnh của Nguyễn Văn Thiệu.

Lần đầu tiên Nguyễn Văn Thiệu phải tự quyết định việc xử lý chiến lược trên chiến trường, y cũng muốn co lực lượng theo bài bản của Mỹ, rút quân về trấn giữ ba đèo lớn là An Khê trên đường 19 từ Plây Cu về Quy Nhơn, đèo Tanu trên đường 7 từ Plây Cu về Tuy Hòa, đèo Phượng Hoàng từ Tây Nguyên về Ninh Hoà, Phan Rang. Việc phát hiện được địch rút lui để đánh ngay chúng trên đường rút có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong chiến dịch Tây Nguyên. Nếu không đánh kịp thời, quân địch trấn giữ được cả ba ngọn đèo nói trên thì sẽ gây khó khăn lớn cho quân ta trong việc triển khai thế tiến công của chiến dịch, có khi ta phải dừng lại để chuẩn bị mở chiến dịch mới trong khi mùa mưa đã tới, vì vậy mà chiến tranh có thể kéo dài. Tình hình chiến dịch Tây Nguyên sau khi cơ bản giải phóng xong thị xã Buôn Ma Thuột hết sức khẩn trương. Mặc dù lúc đó, có những thông tin sai lạc, nhấn mạnh việc địch tăng viện hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột, nhưng trong nhạy cảm của chúng tôi ở Sở chỉ huy phía trước, từ dự đoán đến hiện thực quân địch đang phải rút lui chiến lược ngày càng rõ ra. Ngay tối 16 tháng 3, không liên lạc được với Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên, anh Văn Tiến Dũng và tôi trực tiếp gọi điện thoại xuống Sư đoàn 320 ra lệnh nhanh chóng chuyển đội hình đang sẵn sàng đánh địch tăng viện hòng phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột sang hành quân gấp lên hướng bắc, tiến công quân địch trên đường lút lui. Chiều tôi ngày 17 tháng 3, Sư đoàn 320 mới đưa được tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64 vào đánh địch rút lui ở phía đông nam Cheo Reo. Đêm 17 đến sáng 18 tháng 3, lần lượt cả Trung đoàn 64 và Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 mới đánh thẳng được vào đội hình chủ yếu của chúng. Trước khi ta nổ súng tiến công, đài quan sát của ta báo về cho tôi biết: “Đầu đội hình của địch thì đi vào phố Cheo Reo bảy, tám xe một hàng. Toàn bộ thị xã Cheo Reo tràn ngập ô tô quân sự và dân sự. Đuôi của đội hình xe địch thì ở tít tận chân trời phía Plây Cu, không thể trông thấy hết”. Nghe được tin này, tôi vô cùng mừng. Như thế là trúng rồi, ta đã đánh rồi, mệnh lệnh phát đi là chính xác. Đội hình hành quân rút lui của địch kéo dài hàng trăm cây số đã bị quân ta đánh tan tác. Chúng bỏ xe pháo và các loại phương tiện chiến tranh khác, tháo chạy theo đường mòn xuyên rừng. Sư đoàn 320 (gồm hai Trung đoàn 48 và 64) đã phát triển tiến công truy kích địch dọc theo đường số 7 về tới Tuy Hoà, diệt một số, bắt toàn bộ lực lượng chủ yếu bộ binh, binh quân chủng kỹ thuật Quân đoàn kiêm Quân khu 2 của địch.

Chiến thắng ngày 17, 18 tháng 3 năm 1975 trên Tây Nguyên đánh dấu một bước ngoặt quyết định thực hiện vượt yêu cầu mục đích ban đầu của chiến dịch, nâng mức diệt từ sư đoàn lên quân đoàn, quân khu, giải phóng nhiều tỉnh và quan trọng hơn nữa là đã chia cắt chiến lược chiến trường miền Nam. Điều tôi muốn nói rõ là: giải quyết những vấn đề hệ trọng trong kế hoạch chiến lược, chiến dịch và triển khai tổ chức thực hiện, ví dụ như vấn đề lựa chọn chiến trường, xác định hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu của chiến dịch để dự trữ hậu cần, kỹ thuật và tập trung lực lượng đánh đòn quyết định... là những công trình nghiên cứu tập thể, trải qua nhiều cuộc trao đổi, bàn luận ở cả cấp chiến lược và cấp chiến dịch mới có thể đạt chuẩn xác cao, khả thi, đã đánh là đúng, đánh trúng, đánh bại được địch.

Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch cấp Bộ nằm trong kế hoạch chiến lược phấn đấu thực hiện trong hai năm 1975, 1976 giành toàn thắng, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất đất nước. Chiến dịch đã được thực hiện giành thắng lợi giòn giã. Chiến thắng có ý nghĩa chiến lược của chiến dịch đã tạo thiên tạo thời, tạo các điều kiện thực hiện để Bộ Chính trị - Quân uỷ Trung ương ra quyết định ngày 15 tháng 3 năm 1975: “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã bắt đầu” và chỉ trong năm mươi lăm ngày đêm, quân ta đã diệt và đánh tan rã hơn một triệu quân địch và toàn thể bộ máy chiến tranh của chúng, giành toàn thắng.

   
Thượng tướng LÊ NGỌC HIỂN kể
   LÊ NGUYÊN VĨNH ghi
   (Theo “Sự kiện và nhân chứng” số 11/2004)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #26 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:44:38 am »


BUÔN MA THUỘT KỲ TÍCN VỀ
NGHỆ THUẬT NGHI BINH, BẪY ĐỊCH


Binh pháp viết rằng “kế cao nhất là kế lừa địch”. Trong trận Buôn Ma Thuột 3-1975 - trận đánh then chốt để giải phóng Tây Nguyên, các tướng lĩnh Việt Nam đã hoàn thành kế này một cách xuất sắc. Không chỉ bọn ngụy mà cả tình báo Mỹ - quan thầy của chúng cũng bị... “sập bẫy”.

Sau hiệp định Pari, Mỹ rút quân về nước, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã phải kêu gọi quân ngụy “chiến đấu theo kiểu nhà nghèo” bởi chúng đã mất cái “bầu sữa” là lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam. Ấy vậy nhưng chúng vẫn ngoan cố không chịu thi hành Hiệp định. Trước tình hình đó, Đảng ta quyết định: “Địch không thi hành hiệp định, tiếp tục chiến tranh Việt Nam hoá, thực chất là chiến tranh thực dân kiểu mới hòng chiếm lấy cả miền Nam thì ta không còn con đường nào khác là phải tiến hành chiến tranh cách mạng, tiêu diệt chúng, giải phóng miền Nam” (Nghị quyết hội nghị lần thứ 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tháng 10/1973 ).

Tháng 12/1974 Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương lập kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976.

Để thăm dò phản ứng của Mỹ, ngày 6/1/1975 quân ta giải phóng tỉnh Phước Long ( miền Đông Nam Bộ). Quân ngụy không phản công “tái chiếm Phước Long”. Mỹ lớn tiếng đe doạ nhưng đã không dám đem quân cứu nguy. Trận Phước Long là một trận trinh sát chiến lược của ta, qua trận này ta nhận định: Đế quốc Mỹ không dám can thiệp để cứu quân ngụy. Mất Phước Long, cửa ngõ phía Bắc Sài Gòn đã mở rộng.

Ta bố trí Quân đoàn 2 ở Huế, Quân đoàn 4 ở Biên Hoà - hai “quả đấm” xiết chặt 2 vùng Nam - Bắc chiến tuyến.

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định chọn Tây Nguyên làm chiến dịch mở đầu. Buôn Ma Thuột sẽ là trận then chốt của chiến dịch đó. Đánh được Tây Nguyên, từ đó ta có thể toả xuống đồng bằng ven biển miền Trung. Từ lâu thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã đánh giá rất cao vị trí chiến lược Tây Nguyên: “Ai chiếm được Tây Nguyên sẽ làm chủ được Đông Dương”. Ta nhận định: đánh Tây Nguyên, bọn ngụy sẽ không thể đưa quân dự bị đi cứu vì còn phải lo đối phó với hai “quả đấm” kia (Sài Gòn và Huế, Đà Nẵng). Lúc này ở Tây Nguyên địch có Sư đoàn 23; 7 liên đoàn biệt động quân ( tương đương với 7 trung đoàn ); 36 tiểu đoàn bảo an; 4 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép (gồm 380 xe); 25 trung đội pháo binh (250 khẩu); 1 Sư đoàn không quân (Không đoàn 702) với 150 máy bay, trong đó có 24 máy bay chiến đấu. Lực lượng của địch ở Tây Nguyên có thể nói là khá mạnh.

Tướng lĩnh ngụy cho rằng ta sẽ đánh Huế, Đà Nẵng hoặc Biên Hoà nên chúng tập trung lực lượng ở Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng rất đông. Đội dự bị quân dù và thuỷ quân lục chiến đều ở những nơi này.

Quân ta ở Tây Nguyên có hai sư đoàn là Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320. Ta bí mật tăng cường cho Tây Nguyên 2 sư đoàn nữa, đó là Sư đoàn 968 từ hạ Lào hành quân vượt biên giới Việt Lào vào Tây Nguyên và Sư đoàn 316 hành quân từ Nghệ An vào. Từ đầu tháng 1-1975, Bộ tổng tư lệnh còn tăng cường cho chiến dịch Tây Nguyên Trung đoàn 95B, Trung đoàn cao xạ 232, Trung đoàn công binh 575, và một tiểu đoàn cầu phà, một tiểu đoàn vận tải, một đại đội thông tin, một đại đội trinh sát. Các đon vị này đều tập kết gần Buôn Ma Thuột. Tây Nguyên đột ngột trở thành một “quả đấm” nặng ký của ta mà bọn địch không hay biết. Do đó ta mới phá vỡ Tây Nguyên một cánh nhanh chóng. Đó là cái hay về thế trận chiến lược của ta, về tài thao lược của Bộ thống soái của ta.

Từ lâu bọn Mỹ - ngụy ở Tây Nguyên có kinh nghiệm rằng: hễ Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 của ta di chuyển về hướng nào thì nơi đó sẽ xảy ra đánh lớn. Tương kế tựu kế, ta bí mật thế chỗ của Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 bằng Sư đoàn 968. Khi các sư đoàn này chuyển quân được lệnh để lại toàn bộ mạng thông tin vô tuyến điện và cả nhân viên báo vụ. Các đài vô tuyến vẫn duy trì phát sóng đúng giờ, tung các báo cáo giả để đánh lừa địch (liên lạc giữa các đơn vị đánh Buôn Ma Thuột ta dùng đường dây hữu tuyến). Tình báo địch khi theo dõi các tín hiệu phát ra, vẫn đinh ninh là Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 còn ở vị trí cũ. Sau này chuyên gia tình báo Mỹ Phrăng-Xnép đã phải thốt lên cay đắng: “Chúng tôi quá tin vào kỹ thuật nên đã bị cộng sản dùng kỹ thuật để lừa!”

Để giấu việc tập trung quân về Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên điều một số đơn vị và rất nhiều dân công hoả tuyến lên phía Kon Tum - Plây Cu rậm rịch mở đường đào hào, chuẩn bị trận địa, có vẻ như sắp đánh lớn ở Plây Cu.

Bị các hoạt động nghi binh của ta đánh lừa, tướng Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân khu 2 ngụy khi bàn kế hoạch đối phó với ta đã nhận định: Nếu đánh lớn, cộng sản sẽ lấy Kon Tum, Plây Cu làm điểm quyết chiến. Nơi thứ hai có thể bị tấn công là Quảng Đức vì cộng sản đã chiếm được Phước Long nên cần đánh Quảng Đức để thông đường vào Nam Bộ.

Tướng Phú ra lệnh cho các đơn vị phòng giữ Kon Tum, Plây Cu củng cố hệ thống bố phòng, tăng cường cho Quảng Đức một trung đoàn, tăng cường sục sạo ra xa để sóm phát thiện ý đồ của ta. Trong khi đó Buôn Ma Thuột không được chú ý tăng lực Lượng, ở Buôn Ma Thuột lục này quân ngụy chỉ có Trung đoàn 53 (thuộc sư đoàn 23), Sở chỉ huy nhẹ sư đoàn 23; 3 tiểu đoàn bảo an (294, 272 và 96); một tiểu đoàn pháo binh; một tiểu đoàn thiết giáp và liên đoàn biệt động 296.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #27 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:45:18 am »


Đêm 18/2/1975 Tướng Phú nhận được nguồn tin của phòng tình báo quân khu 2: “Những hoạt động của Việt cộng ở Kon Tum - Plây Cu chỉ là nghi binh, ý định thực sự của họ là sẽ đánh Buôn Ma Thuột”. Nhưng tình báo Mỹ lại khẳng định là tình hình chưa có gì thay đổi, các đơn vị Việt cộng vẫn ở chỗ cũ. Những tin tức trái ngược nhau làm đau đầu tướng Phú, tuy vậy ông ta vẫn quyết định đưa Trung đoàn 45 từ Plây Cu về khu vực Ea H’leo để tìm Sư đoàn 320 của ta nhưng ta đã rút lui khỏi khu vực này từ trước chỉ để lại những tổ trinh sát, tuyệt đối tránh đụng độ.

Sau hơn 10 ngày lùng sục ở khu vực Ea H’leo, địch không hề phát hiện được dấu vết quân ta. Lúc ấy Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên cho phát đi bức điện như sau: “Địch đã bị lừa, cho rằng ta sẽ đánh Buôn Ma Thuột nên đã đưa Trung đoàn 45 xuống phía Nam”. Nhận được nguồn tin này tướng Phú càng tin là ta sẽ đánh Plây Cu, Kon Tum.

Khi các cánh quân ta đã triển khai hướng chính an toàn, ngày 1/3/1975 Bộ Tư lệnh chiến dịch có Sư đoàn 968 đánh nghi binh, tấn công các vị trí ở ngoại vi thị xã Plây Cu như chốt Mỹ, đồn Tầm và một loạt các cứ điểm trên dãy Chư Gôi, Chưkra, điểm cao 605, uy hiếp quận lỵ Thanh An và Thanh Bình. Trong những trận này ta dùng cả pháo lớn, bọn ngụy tưởng rằng ta đang thực hiện chiến thuật “bóc vỏ” để đưa quân ém sát đánh Plây Cu. Tướng Phạm Văn Phú vội vã ra lệnh rút Trung đoàn 45 đang lùng sục ở Ea H’leo về tăng cường sức chống đỡ ở hướng tây Plây Cu. Kế đánh thật mà “giả” là có hiệu lực nhất trong nghi binh lừa địch.

Vậy là ta đã thành công hai kế lớn: lừa địch và điều địch, ngày tận số của bọn ngụy ở Buôn Ma Thuột đã sắp bắt đầu.

Đêm mùng 3 rạng mùng 4/3/1975 quân ta đã cắt đường 19 - con đường huyết mạch nối từ cảng Quy Nhơn lên Plây Cu, địch chủ yếu dùng con đường này để tiếp tế cho Tây Nguyên. Tướng Phú tung liên đoàn biệt động quân số 4 và tiểu đoàn 3 ra phản kích, nhưng thất bại.

Ngày 5/3/1975 quân ta tiến ra cắt đường 21 - con đường chiến chiến lược quan trọng thứ hai nối Nha Trang đi Buôn Ma Thuột. Việc quân ta cắt đường 19 và đường 21 khiến Phạm Văn Phú lo lắng, tuy nhiên ông ta vẫn đinh ninh rằng đây là đòn nghi binh của quân ta để chuẩn bị đánh Plây Cu. Để đề phòng, ông ta đã cử Đại tá Vũ Thế Quang - Phó tư ]ệnh Sư đoàn 23 về Buôn Ma Thuột chỉ huy lực lượng quân ngụy từ Đắk Lắk đến Gia Nghĩa. Trên đường vào Buôn Ma Thuột, đoàn xe của Vũ Thế Quang và tuỳ tùng gồm 15 chiếc đã bị phục kích ở Ea H’leo, 8 chiếc đi đầu bị bắn cháy, 7 chiếc còn lại chạy thoát, trong đó có xe của Quang.

Liên tục trong 2 ngày mùng 7 và 8 tháng 3, quân ta nổ súng đánh các cứ điểm Chư Xê, Chữ Mnga, Buôn Hồ để kéo Trung đoàn 53 ngụy ở khu vực bắc Buôn Ma Thuột ra tiêu hao chúng, tạo điều kiện cho lực lượng ta có thời gian chuẩn bị. Cả 3 trận đánh trên, quân ta đều thắng lợi, làm cho đường 14 - con đường nối giữa Plây Cu và Buôn Ma Thuột bị cắt đứt.

Buôn Ma Thuột hoàn toàn bị cô lập, như cá nằm trên thớt.

Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên chủ trương dùng phương án đánh thọc sâu, đánh áp đảo vào khu trung tâm Buôn Ma Thuột, đập nát đầu não Sư đoàn 23 ngụy và khu tỉnh trưởng Đắk Lắk ngay từ những đòn tiến công đầu tiên (cách đánh này được gọi là “nở hoa trong lòng định”).

2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, cuộc tấn công Buôn Ma Thuột chính thức mở màn, Trung đoàn đặc công 198 nổ súng tiến công sân bay Hoà Bình và sân bay thị xã. Sau 2 giờ chiến đấu, bộ đội đặc công đã chiếm hai phần ba sân bay thị xã, 2 giờ 16 phút, Trung đoàn 198 làm chủ một phần sân bay Hoà Bình. Địch phản ứng quyết liệt, chúng cho pháo bắn cấp tập vào những nơi chúng nghi ta tập trung quân. Lợi dụng tiếng pháo nổ, xe tăng và thiết giáp của ta tiến vào thị xã. 2 giờ 10 phút, các trận địa pháo của ta bắt đầu bắn phá dữ dội vào Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy, dinh tỉnh trưởng Đắk Lắc, trung tâm thông tin của địch và trận địa pháo binh, xe tăng địch. Mờ sáng các mũi tiến công của quân ta đã áp sát thị xã, địch leo lên các khu nhà cao tầng chống trả lại ta rất quyết liệt.

9 giờ ngày 10 tháng 3 ta chiếm được khu tỉnh trưởng. Đại tá Tỉnh trưởng Đắc Lắc là Nguyễn Trọng Luật bỏ nhiệm sở chạy sang sở chỉ huy Sư đoàn 23. Đến 10 giờ, xe tăng ta tiến sâu vào thị xã, Bộ binh cùng xe tăng đánh thẳng vào khu chỉ huy trung đoàn thiết giáp ngụy. Một trận đấu tăng kinh khủng diễn ra, đến 12 giờ trưa ta làm chủ được khu thiết giáp. Ta tiếp tục đánh sang khu pháo binh, đến 13 giờ toàn bộ khu pháo binh bị tiêu diệt.

Nực cười là đến lúc này mà bọn ngụy vẫn bán tín bán nghi, cho rằng ta đánh Buôn Ma Thuột để nghi binh nhằm kéo quân ngụy từ Kon Tum, Plây Cu xuống ứng cứu để thừa cơ tấn công các cứ điểm này.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #28 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:46:09 am »


Trong ngày đầu tiến công vào Buôn Ma Thuột, ta đã thu được thắng lợi lớn. Hệ thống chỉ huy phòng ngự của địch bị rối loạn, nhiều mục tiêu quan trọng trong thị xã đã bị ta chiếm. Binh lính sĩ quan địch hoang mang cực độ, 6 giờ sáng ngày hôm sau, 11 tháng 3, pháo binh chiến dịch bắn cấp tập vào sở chỉ huy Sư đoàn 23 suốt 2 giờ đồng hồ. Bộ binh và xe tăng đồng loạt tấn công, đến 10 giờ 30 phút, số quân địch phòng ngự tại sở chỉ huy buộc phải bỏ chạy, cờ giải phóng tung bay phấp phới trên nóc sở chỉ huy Sư đoàn 23. Đại tá Vũ Thế Quang đã phải vứt bỏ cả giày, mũ để chạy trốn, nhưng bị quân ta bắt sống. Đại tá Tỉnh trưởng Đắc Lắc Nguyễn Trọng Loạt cũng bị bắt khi đang lẩn trốn trong rừng cà phê. Về cơ bản trận Buôn Ma Thuột đã thắng lợi, nhưng ở một số cứ điểm quân ngụy vẫn còn cố thủ. Căn cứ trung đoàn 53, trung đoàn 45 cùng các khu huấn luyện Lê Lai, Đạt Lý, Châu Sơn, Chữ Mnga, Bản Đôn địch vẫn kiểm soát. Chúng có thể dùng lực lượng tăng viện đổ quân xuống các căn cứ này để phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột. Trong các ngày tiếp theo ta nhổ nốt những cứ điểm này. Ta dự tính: vì đường 14 Plây Cu đi Buôn Ma Thuột đã bị quân ta cắt nên địch chỉ có thể tiếp viện cho Buôn Ma Thuột bằng đường không. Đi bằng máy bay sẽ không mang được pháo lớn và xe tăng. Đây lại là một cách điều địch vào thế trận của ta.

Quả nhiên ngày 12 tháng 3 địch dùng trực thăng đổ trung đoàn 44 và sở chỉ huy nhẹ Sư đoàn 23 xuống Phước An. Tại Phước An lúc này tàn quân ngụy từ các nơi kéo về hình thành một cánh quân lớn gồm trung đoàn 45, liên đoàn 21 và trung đoàn 44 vừa đổ xuống. Tất cả do viên chuẩn tướng Lê Trung Tường cầm đầu. Lập tức chúng bị Sư đoàn 10 của ta vây đánh dữ dội. Lê Trung Tường leo lên trực thăng chạy trốn nhưng máy bay bị đạn phòng không của ta bắn rơi. Tường bị thương, được đám tàn quân dìu chạy thoát. Chiều ngày 16-3, Trung đoàn 66 (thuộc Sư đoàn 10) được tăng cường thêm một đại đội xe tăng tấn công căn cứ trung đoàn 53 ngụy - điểm phòng thủ cuối cùng của địch. Sau 3 giờ chiến đấu ta đã làm chủ căn cứ này. Buôn Ma Thuột hoàn toàn giải phóng.

Ngày 14-3 khi chiến sự ở Buôn Ma Thuột đang tiếp diễn, Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu đã bay ra Cam Ranh để nghe Phạrn Văn Phú tường trình tình hình quân sự. Tham dự cuộc họp này còn có Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm và Đặng Văn Quang. Phú báo cáo: Trình Tổng thống, tôi đã cho 2 trung đoàn 44 và 45 về giải toả Buôn Ma Thuột, nhưng đã bị lực lượng đối phương quá mạnh đẩy lùi về phía đông đường số 21, ở Plây Cu, Kon Tum, Liên đoàn 23 biệt động bị đánh mạnh. Phi trường Cù Hanh bị pháo kích liên tục. Ở quốc lộ 19, Trung đoàn 95 cộng sản đánh mạnh vào Liên đoàn 4 biệt động quân và thiết đoàn kị binh 3, đã có 12 thiết giáp bị cháy. Ở Bình Định, cộng sản đang nỗ lực chiếm phi trường Phú Cát. Cộng sản rất mạnh, họ đã bắt Đại tá Vũ Thế Quang. Ông Quang bị bắt tức là họ biết rất rõ tình hình Nha Trang và Cam Ranh (vì Quang là thị trưởng cũ của Cam Ranh ).

- Trước tình hình đó anh nghĩ sao? - Thiệu hỏi.

- Tôi sẽ giữ Cao nguyên bằng mọi giá. Tôi đã cho Sư đoàn 23 về tăng viện cho Buôn Ma Thuột, rút 2 liên đoàn biệt động quân ở Kon Tum về tăng cường cho mặt trận phía Đông và phía Tây, chuẩn bị chiến đấu đến cùng. Tôi sẽ trở lại Plây Cu chiến đấu và tôi sẽ chết ở đó, với điều kiện Tổng thống và tướng Viên cho không quân yểm trợ tối đa, tiếp tế bằng không vận đầy đủ nhu cầu về vật liệu, vũ khí, đạn dược và bổ sung quân số đủ bù thiệt hại nặng vừa qua. Nếu được tăng viện, tôi sẽ giữ được Cao nguyên.

Nghe xong Phú thề thốt, Thiệu ngán ngẩm quay sang hỏi Viên:

- Còn quân trù bị để tăng viện cho Quân đoàn 2 không?

Viên trả lời:

- Không còn.

Cuối cùng Thiệu quyết định:

- Phải rút khỏi Kon Tum và Plây Cu để bảo toàn lực lượng, lấy quân về giữ đồng bằng ven biển, tiếp tế thuận lợi hơn.

Thiệu hỏi Viên:

- Rút theo đường số 19 có được không?

- Thưa Tổng thống, trong lịch sử chiến tranh Đông Dương chưa có lực lượng nào rút theo đường số 19 mà không bị tiêu diệt.

Nghe xong, Thiệu quyết định phải rút theo đường số 7, tuy đường xấu, nhưng đã lâu không dùng nên tạo được yếu tố bất ngờ.

Khi thấy Thiệu ra quyết định rút bỏ Tây Nguyên, tướng Phú phản đối, nhưng Thiệu nói thẳng: “Nếu không chấp hành mệnh lệnh sẽ bị ngồi tù hoặc cách chức” (55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ - Alen Dowson).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #29 vào lúc: 06 Tháng Mười, 2009, 09:50:34 am »


Trở về Plây Cu ngay ngày hôm đó, Phú triệu tập cuộc họp khẩn cấp, trình bày lại lệnh của Thiệu và giao cho Trần Văn Cẩm phụ tá của Tư lệnh quân đoàn làm kế hoạch rút lui. Phú căn dặn cấp dưới: “Phải rút rất nhanh và rất bí mật. Lợi dụng thời cơ khi đối phương còn tập trung đối phó với Sư đoàn 23 để mà rút. Phải nghi binh để cho họ tưởng rằng ta tăng cường thêm lực lượng về Buôn Ma Thuột”. Bọn chúng còn không cho cả các Tỉnh trưởng biết kế hoạch rút lui.

Triển khai kế hoạch rút lui trong ngày 15, địch đã sử dụng 2 Liên đoàn biệt động số 6 và 23 cùng Lữ đoàn kị binh số 2 đi làm nhiệm vụ bảo vệ đường. Đưa liên đoàn công binh trước đó chữa đường và bắc cầu. Đêm 14 và ngày 15, không quân đã vận tải cơ quan Quân đoàn 2 và lính không quân về Nha Trang. Lãnh sự quán Mỹ ở Plây Cu cũng chạy về Nha Trang.

Tuy bọn địch hết sức giữ bí mật nhưng những triệu chứng tháo chạy của chúng không thể nào che giấu được. Tin tức địch rút chạy tiếp tục loan truyền trong binh lính và nhân dân thị xã Plây Cu. Giá vé máy bay tăng vọt lên 40.000đồng/chiếc. Lính ngụy xông vào đập phá và cướp các hiệu buôn. Thấy lính chạy, nhân dân cũng ùn ùn chạy theo. Cảnh rút chạy của Quân đoàn 2 diễn ra trong tình trạng hốt hoảng và loạn lạc chưa từng có. Đường sá tắc nghẽn, các loại xe cộ tranh đường để vượt, lính tráng và dân chúng bám vào leo tràn lên xe.

Ngay từ ngày 13/3, Quân uỷ Trung ương đã gửi bức điện cho Bộ Tư lệnh chiến dịch, chỉ thị “Cần hình thành ngay việc bao vây Plây Cu, triệt cả đường bộ lẫn đường không của địch, chuẩn bị tốt cho việc tiêu diệt địch trong cả 2 tình huống”. Như vậy là Quân uỷ Trung ương đã sớm dự kiến cuộc rút lui, chiến lược của địch ở Tây Nguyên.

19 giờ ngày 15/3, đồng chí Văn Tiến Dũng gọi điện cho Bộ Tư lệnh chiến dịch “Địch đã rút chạy trên đường số 7, tổ chức truy kích ngay”.

Trước đó ta đã có dự kiến giao cho cả Sư đoàn 320 nhiệm vụ giải phóng Cheo Reo, Phú Bồn. Sư đoàn 320 đã có bộ phận trinh sát đi nghiên cứu thị xã Cheo Reo, nhưng tình hình đường số 7 thì chưa có điều kiện nắm chắc, đặc biệt là đoạn phía Đông từ Cheo Reo qua Phú Túc, Củng Sơn thì hầu như chưa có ai biết được. Phía Đông đường số 7 hiện ta mới có tiểu đoàn 9. Sư đoàn 320 cơ động nhanh đến đó cũng phải mất một ngày. Khó khăn thì nhiều song với tinh thần chấp hành mệnh lệnh triệt để, Bộ Tư lệnh chiến dịch hạ quyết tâm “Truy kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn địch trên đường số 7. Đoạn tập trung tiêu diệt địch chủ yếu từ Cheo Reo đến Củng Sơn...”.

Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng Sư đoàn 320 được tăng cường Trung đoàn 95B, 1 tiểu đoàn xe tăng và một bộ phận pháo binh của Trung đoàn 675 để truy kích địch. Đề nghị với Bộ Tư lệnh quân khu 5 cho lực lượng vũ trang địa phương Phú Yên ngăn chặn địch ở Củng Sơn.

Sau khi nhận lệnh, Sư đoàn 320 đã mau chóng hành quân về hướng thị xã Cheo Reo truy kích địch. Tiểu đoàn 9 đã tới đường số 7 đầu tiên cách phía Đông Cheo Reo khoảng 4km. Các lực lượng tăng cường khác của Sư đoàn 320 cũng đã đến gần Cheo Reo. Bộ Tư lệnh quân ngụy lập tuyến trung chuyển ở Cheo Reo để điều hành và trung chuyển cho tập đoàn rút chạy của địch về Tuy Hoà. Thị xã Cheo Reo nho bé bỗng trở thành noi tụ tập hàng vạn binh lính và dân chúng. Dọc đường số 7 khoảng 2000 chiếc xe xếp hàng 3 hàng 4. Trong phố không còn nơi đóng quân, địch căng bạt nằm phơi ra giữa sân bóng ngổn ngang.

Tiểu đoàn 9 của ta nhanh chóng chiếm quận Phú Sơn trên đường số 14, đến ngày 16 ta tấn công và chiếm được đèo Ban Blếch. Tiếp đó trung đoàn B89 chiếm luôn quận lỵ Phú Thiện ở bắc Cheo Reo, cắt đứt đường số 7, hình thành thế bao vây và tiến công từ phía sau đội hình rút chạy của địch.

Ngày 17, pháo binh ta bắn vào thị xã Cheo Reo khiến địch càng hoang mang, hốt hoảng. Bọn địch gọi máy bay đến ném bom tiểu đoàn 9 của ta, chẳng may bom rơi đúng vào đội hình Liên đoàn biệt động số 7 của chúng.

Ngày 18, tiểu đoàn 7 và 8 thuộc trung đoàn 64 đã đến đóng cách Cheo Reo 10km, tiến công vào đội hình trên đường số 7. Quân địch tốp bị giết, tốp lội qua sông tháo chạy tan tác. 11 giờ cùng ngày, trung đoàn 48 nhận nhiệm vụ tiến công vào cụm địch ở Cheo Reo. Pháo ta bắn dồn dập vào thị xã, địch tranh nhau tháo chạy, xe tăng địch vượt cầu Ai Nu, cầu sập, xe rơi tõm xuống sông các xe còn lại lội tràn qua sông chạy bừa. Nước sâu, cát lún, lại bị đánh dồn dập. Xe hỏng, người chết chồng chất.

Tướng Phú quá sợ hãi trước cuộc tiến công của quân ta đã chuồn về Nha Trang, giao cho viên tướng tồi Phạm Duy Tất chỉ huy cuộc hành quân triệt thoái.

1 giờ chiều ngày 18/3, Phú điện cho Tất “Mở đường máu mà tháo thân, mạnh đơn vị nào đơn vị ấy chạy, xe không đi nổi thì phá xe, tìm đường, bỏ qua mọi tình huống mà luồn cho thoát, lấy Củng Sơn làm tụ điểm”.

Nhận xong điện của Phú, Tất đã lên máy bay lên thẳng trước. Quân địch vứt toàn bộ xe pháo, lội bừa sang sông, chạy thục mạng. Binh lính địch bị bắt, ra hàng đông nghìn nghịt, ta không đủ người để bắt làm tù binh. Đến 18 giờ ngày 18/3 quân ta chiếm hoàn toàn thị xã Cheo Reo.

Tại thị xã Củng Sơn, quân địch ùn lại khoảng 6000 tên, 40 xe tăng và thiết giáp, máy trăm xe vận tải. Ngày 24, Trung đoàn 64 tuy lực lượng ít hơn địch nhiều lần, vẫn kiên quyết chấp hành mệnh lệnh tiến công vào Củng Sơn, tiêu diệt và bắt toàn bộ địch co cụm. Tàn quân địch chỉ chạy thoát về Tuy Hoà 11 xe M113 và một số lính biệt động.

Thế là từ ngày 17-24 tháng 3, bằng một trận truy kích táo bạo và khẩn trương, quân ta đã tiêu diệt 6 liên đoàn biệt động quân, 4 thiết đoàn, 1 liên đoàn công binh, 20 tiểu đoàn bảo an cảnh sát. Bắt 8000 tù binh, thu và phá huỷ 1400xe, trong đó có 90 xe tăng, 25 xe M113, 8 khẩu pháo 175ly, 19 khẩu pháo 155 ly và pháo 105 ly.

Tập đoàn rút về giữ đồng bằng ven biển bị đạp tan. Đường số 7, nơi mà địch hy vọng là con đường cứu mệnh đã trở thành mồ chôn tập đoàn rút chạy chiến lược.

Đến ngày 24/3/1975 Tây Nguyên đã được giải phóng hoàn toàn.

Thất thủ Tây Nguyên, thế và lực quân ngụy suy yếu nghiêm trọng. Trên đà thắng lợi, quân ta mở cuộc tiến công thần tốc giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


   
Thượng tướng HOÀNG MINH THẢO kể
   DUY HỮU ghi
   (Trích từ cuốn “Âm vang Tây Nguyên: Hồi ký”.
   – Nxb Văn hóa dân tộc, H: 2001)
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM