TQNam
Thành viên
Bài viết: 1267
|
|
« Trả lời #21 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2009, 08:25:18 pm » |
|
(tiếp)
... Sử gia được đào tạo theo tinh thần gọi là mácxít nhưng đậm nét Stalin, Mao cộng thêm tính cách từ chương xưa cũ, nay vẫn không thể thoát ra được, và từ đó nổi lên sự co rút theo tinh thần dân tộc của ca dao tục ngữ rất buồn cười. [2008: Trong những năm sau “Ðổi mới”, ông Trần Quốc Vượng thường đưa ra những giải thích ẩn tàng tính định mệnh cho những địa điểm lịch sử, những vùng địa lí Việt Nam, phát biểu theo một thứ ngôn ngữ phong thuỷ tân biên, kèm với các đồ hình bí hiểm, “sáng tạo” đó có vẻ cũng được các nhà nghiên cứu đàn em tán thưởng, đem ra ứng dụng cho các bài viết của mình. Chắc vì lẽ đó mà ta thấy xuất hiện qua truyền thông những dấu hiệu phong thuỷ trong cả việc điều hành thủ đô Hà Nội.]
Ngày trước tuy là giáo điều nhưng chủ nghĩa giai cấp còn mở đường vào thế giới, vào tương lai, nay thì “trở về nguồn” lại phát sinh những luận cứ chẳng có gì là khoa học cả, chưa kể là phản cả lí trí bình thường. Cách giải thích quá khứ đầy tinh thần “nhiễu điều phủ lấy giá gương...”, đầy mong ước hiện tại... khiến cho sử gia thấy “tổ tiên nguyên thuỷ của chúng ta” tồn tại đến hàng chục vạn năm theo núi Ðọ, Thẩm Khuyên..., với chuỗi văn hoá Sơn Vi, Hoà Bình, Bắc Sơn tiếp đến văn hoá Phùng Nguyên... Ðông Sơn, “tiến bước trên con đường cải tạo thiên nhiên và cải tạo mình” qua “bước văn minh nông nghiệp cách đây một vạn năm... đến hợp kim đồng thau cách đây khoảng bốn ngàn năm” làm nên “kì tích... tạo... tiền đề cho sự tồn tại một thời đại Hùng Vương rực rỡ...” [12] Các tác giả trên còn ngại ngùng núp lén sau các dòng chữ nhưng PGS. Nguyễn Cảnh Minh thì nói thẳng ra một thời dựng nước liên tục vĩ đại: “Sau hàng chục vạn năm (chúng tôi nhấn mạnh) gian khổ và sáng tạo, từ những công cụ bằng đá cũ thô sơ tiến đến sự phát minh ra kĩ thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước dùng cày có sức kéo là trâu bò; đời sống vật chất và tinh thần người nguyên thuỷ Việt Nam (chúng tôi nhấn mạnh) ngày càng được nâng cao, từng bước làm thay đổi bộ mặt xã hội, đưa đến hình thành một lãnh thổ chung, một nền văn hoá, văn minh chung và một tổ chức chính trị, xã hội chung, đó là quốc gia và nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, đánh dấu một bước chuyển cơ bản trong lịch sử xã hội Việt Nam, mở ra một thời đại mới – thời đại dựng nước”. Từ “Người-vượn trên đất Việt Nam... sống thành bầy nguyên thuỷ”, rồi “tổ tiên nguyên thuỷ của chúng ta” (1983) qua đến “người nguyên thuỷ Việt Nam” (2000) quả là tinh thần dân tộc đã tăng tiến lên đến mức độ cưỡng đoạt lịch sử. Bùi Thiết, đứng đầu một phe “li khai” trong nước cũng không nói khác để cho Nxb. Thanh niên in sách của ông (2000), mở đầu Lời giới thiệu: “Nước Việt Nam có lịch sử đã mấy chục vạn năm trước, kể từ khi xuất hiện xã hội Người đầu tiên trên lãnh thổ đất nước”.
Họ đã vượt xa thời vua Hùng của Ngô Sĩ Liên và thời trống đồng Ðông Sơn của người mới vừa ở thế hệ trước và còn sống quanh đâu đó... Tâm trí còn co hẹp trong viễn tượng thế giới mở rộng hơn, thế giới toàn cầu hoá, nên càng phải bù đắp lại bằng sự hoang tưởng. Ðiều đó cũng thấy ở nhóm người di tản trong hoàn cảnh bị xô đẩy vào giữa thế giới quay cuồng mà mình thì co lại trong “cộng đồng” riêng biệt, nhưng không tránh được, cũng phải tiếp nhận thành quả của thế giới đó, để cho hỗn loạn của “truyền thống” càng gia tăng.
Muốn xét đến ảnh hưởng của Kim Ðịnh ở hải ngoại, nhất là ở Mĩ, nơi tập trung đông đúc số người tị nạn nhất, thì không thể bỏ qua tính chất tị nạn của người Việt nói chung. Ðầu tiên phải nói đến là tính chất di cư hàng loạt với số lượng lớn người Việt ra nước ngoài, chưa có tiền lệ. Sự hỗn loạn trong sinh hoạt tại nước người là do hoàn cảnh ra đi theo từng đợt ảnh hưởng đến tâm tư, suy nghĩ (người đi trước và ngay sau ngày “mất nước” 30-4-1975, “bán chính thức”, vượt biên, HO), do nguồn nhân sự phức tạp (dân di cư 1954, dân gốc miền Nam trước đó, người Hoa của “bán chính thức” và người Việt luồn vào, người thuộc các tôn giáo phồn tạp của Việt Nam Cộng hoà). Cộng đồng di tản nào thì, ít ra trong thế hệ đầu, cũng sống bên lề nước tiếp nhận, trong một chừng mực nào, nếu được khoan dung chấp nhận, vẫn phải mang tính chất bên lề không tránh khỏi đó. Tình trạng này càng không tránh khỏi đối với người lớn tuổi, dù đã mang quốc tịch nơi ở mới. Họ vẫn mang trong mình tâm hồn nơi cũ, có cố gắng thì khai thác thêm kiến thức theo sách vở mới nhưng vẫn trên căn bản cũ. Ở một xứ mà sự tự do tư tưởng trở thành bình thường, phương tiện bày tỏ tương đối thoải mái, lại giữa một số người cũng lạc lõng như nhau, không có một sự kềm thúc dư luận chặt chịa, người ta tha hồ “nói”, có khi đến quá đà loạn xạ, và điều đó đã xảy ra cả với những người trí thức có danh vọng trước kia. Ông Kim Ðịnh có điều kiện thuận tiện hơn, nên đã khai thác các thuận lợi cũ trong đà có “quần chúng” to rộng hơn.
Với người bật gốc ra khỏi xứ sở thì tôn giáo cũng là một cơ sở cần phải bám víu, một thứ tôn giáo mang căn bản cũ và những hình thức của tình thế thúc đẩy tham vọng mới. Ông Trần Văn Trường, “người xưng vua”, thuộc phái đạo Vô Vi, quảng cáo đăng đàn diễn thuyết (23-12-1997) “Nước Việt Nam cần có vua (một đấng Minh vương)... để khai trí mở huệ cho hai người anh em (Quốc gia và Cộng sản) thức tỉnh...”, rồi xoay chiều, làm náo loạn phố Bolsa (Orange County, California) hồi đầu 1999 khiến báo Register địa phương phải coi là sự kiện về cộng đồng nổi bật nhất trong năm. Thanh Hải Vô thượng Sư có quần chúng đồng chủng và sự yểm trợ bên ngoài trong tinh thần đồng văn hợp với thời đại truyền thông, đã có “tông đồ” tận trong nước và còn muốn lan qua khu vực quốc tế với toan tính thu phục tín đồ người Mễ vùng Nam California, làm run sợ cả một số người Công giáo Việt yếu bóng vía. Ông Kim Ðịnh có một tập họp quần chúng đảng phái Duy Dân như đã nói, và những người chịu ảnh hưởng từ trong nước, nay hoặc tách riêng làm những nghiên cứu Hùng Việt khác, hoặc theo ông, tập họp trong hội An Việt có hơi hướng tôn giáo cổ truyền và những giải thưởng dự tính, theo ông, như một loại Nobel mới.
Ngày trước, khi còn ở trong nước ông cũng đã bị người ta chỉ trích là có tinh thần “ái quốc quá khích”, viết “lơ mơ” khiến cho “người Tàu không thèm cãi lại mà chỉ cười, cười khinh”... Ông nói không dám đem vào dạy trong đại học mà thú nhận là “chỉ nói phớt qua, và là những lúc giải trí”, nhưng sự thôi thúc làm người “lập thuyết” – triết lí An vi, Nhân chủ, khiến ông viết sách thật nhiều, không chừa cả việc quảng bá trong học đường, rồi gượng gạo lúng túng bào chữa hay cố lấy chứng cớ uyên thâm để chống đỡ. [13] Nay thì ở ngoại quốc, sự vướng víu trách nhiệm không còn nữa, ông tha hồ quảng diễn như một giáo chủ.
Tham vọng giáo chủ của ông tỏ ra trong việc tập trung bài cũ, viết lại trên tư tưởng cũ, khai thác những hiểu biết mới, sắp xếp thành 5 bộ sách mà ông đặt tên là Ngũ Kinh khải triết (Ngũ điển), ý muốn thay thế Ngũ Kinh của Khổng Nho xưa. Năm bộ đó là Kinh Hùng, Sứ Ðiệp “có thể coi là đã cố định” và ba quyển “đang hình thành... ở vào thời kì dự tuyển”: Kinh Ngữ “tập trung tục ngữ ca dao”, Kinh Lạc / Nhạc “do các nhạc sĩ điều động”, Kinh Dịch “thay đổi thêm bớt từ quyển Dịch Kinh linh thể”. Dự tính là thế nhưng thực tế ngay sau những lời này, ông đã giới thiệu một bộ Ngũ Kinh khác: Hưng Việt sử ca (thật ra tên sách năm 1986 có quảng cáo này chỉ là Hưng Việt), Kinh Hùng khải triết (triết lí về “Kinh Hùng” Lĩnh Nam chích quái, cũng lược thuật 15 truyện trong đó), Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc (bàn về Việt Nho, Việt tộc), Sứ điệp trống đồng, Văn Lang vũ bộ (từ hình nhảy múa trên trống đồng, bàn lan man về triết lí của Việt tộc). [14]
Bị đẩy ra khỏi nước, Kim Ðịnh tức giận, căm thù người cộng sản nhưng cũng có dịp biết đến các phát hiện khảo cổ học miền Bắc nhiều hơn. Có trống đồng với các hình vẽ, giải thích theo hướng tục phồn thực, có con dao núi Nưa, có rìu mũi cong... Ông cũng biết thêm về khảo cổ học Trung Quốc. Do đó ông có nhiều dữ kiện để đưa vào sách, minh chứng cho lí thuyết huyền sử của ông. Càng lúc ông càng thấy mình nói đúng. Các nền văn hoá Ngưỡng Thiều, Long Sơn chỉ có 6000 - 7000 năm, còn Hoà Bình đã “có gạo” (?) thì tới 8000 năm. Hơn nữa, Long Sơn thuộc ngành Rồng, Ngưỡng Thiều thuộc ngành Tiên, cả hai phải quy tụ vào Việt Nam mới đúng! Có cái giếng tuỳ táng đào được ở Bắc Ninh thì có thể liên hệ chứng minh được Việt tỉnh (giếng Việt) không cần biết đến ý kiến của Lê Quý Ðôn. “Trống Việt phong phú vô kể, có thể viết về trống Việt mãi mãi không hết”. Ví dụ, nhìn mặt trống có hình chim, hình người mang lông chim, đúng là nói về Tiên (bay), còn tang trống có hình chim lao vào miệng rắn theo ông Nguyễn Từ Chi của miền Bắc, đến với Kim Ðịnh trở thành Rồng, đúng là chuyện Âu Cơ – Lạc Long Quân. Vô số các bằng chứng mới cho thấy Khổng Tử rất thành thật khi nói ông “thuật nhi bất tác”, ông chỉ “thuật” chuyện cũ của Việt, vì Khổng Tử theo Nghiêu Thuấn (sách Trung Dung) mà Thuấn là Ðông Di, tức là Việt, như ông Kim Ðịnh nối kết điều Lê Văn Hưu đã chỉ ra một lần. [15] Ðến đây ta có thể thấy sự rối loạn tâm trí của một tầng lớp trí thức di tản đã lên đến tột độ, và cũng hiểu ra sự rẽ hướng đồng dạng ở những “tác phẩm” nghiên cứu thời cổ sử Việt khác.
Sách, báo văn học, nghiên cứu của người Việt di tản ở Bắc Mĩ, nhìn qua thì như một hiện tượng bất thường. Giá sách đắt ngay cả đối với tiêu chuẩn Mĩ, huống là với mức sống của người Việt. Với giá tiền ấy, sách không thể nào len vào trong nước được, kể cả khi qua khỏi sự ngăn cấm chính trị. Vậy mà sách vẫn in ra, chỉ vì sách xuất hiện phần lớn là do nhu cầu của người viết hơn là nhu cầu của người đọc. Nói “phần lớn” là vì vẫn có sách bán được theo nhu cầu tôn giáo (quần chúng đọc tiếng Việt còn đông ở lãnh vực này), theo tình thế ngăn cấm trong nước khiến bản thảo đi ra ngoài gợi ý tò mò (trường hợp Ðêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn...) “Phần lớn” sách tiếng Việt vẫn xuất bản vì nhu cầu thể hiện của tác giả mà sự in ấn không tốn kém gì lắm so với sức chịu đựng của chủ nhân, so với sự thôi thúc của nhu cầu kia. Ông lãnh tụ trong nước muốn chứng tỏ mình tài kiêm văn võ, thỉnh thoảng vẫn làm thơ. Ông Trường Chinh còn là “thi sĩ” Sóng Hồng. Ông Xuân Thuỷ vẫn thường tức cảnh sinh tình trong Hội nghị Paris. Và người di tản ăn oen-phe cũng tỏ lộ nỗi buồn “mất nước”, nhớ tiếc quê hương, tâm tình phản kháng trong những lời thơ. Tướng lãnh, nhà chính trị viết hồi kí; cựu chiến binh dằng dai với quân trường Thủ Ðức, Ðà Lạt, với những trận đánh nhọc nhằn ngày nào nay trở thành vĩ đại trong tâm tưởng, trên những trang giấy... Những người của các ngành chuyên môn cao cấp cũng không chịu gói trọn thân mình trong sự an bình của nghề nghiệp đưa lại. Nằm trong main stream về phương diện nghề nghiệp, họ thấy mình tiếp xúc được với một khung trời kiến thức to rộng hơn mà lại không đủ chen chân vào cuộc sống tư tưởng của xứ sở mới, nên trở về với những suy luận cao xa thấy lúc trẻ ở quê nhà. Thế là sách vở của họ gặp được những đồng điệu của những lí luận bốc đồng trong nước, cùng một căn cơ Âm dương Ngũ hành, Dịch lí số... với cái khác là sách trong nước có phần “dân tộc” hơn, còn bên ngoài thì tuy không rời bỏ “dân tộc” nhưng thêm dáng vẻ quốc tế liều lĩnh hơn với các nguồn chứng dẫn, triết thuyết thế giới, nguồn thông tin kĩ thuật, nhân văn rộng, mới hơn.
Có vẻ những đồ đệ trực tiếp của Kim Ðịnh xuất hiện mới nhất là nhóm Ðạo sống Việt. [16] Cũng thoáng một triết lí chính trị vướng víu từ xưa qua từ “nhân chủ”. Cũng những chuyện bánh giầy bánh chưng, gậy thần sách ước..., vẫn các chứng dẫn khảo cổ học bộp chộp lấy từ những người không hiểu vấn đề. Cũng triết lí Rồng Tiên, nhưng bạo gan đi vào huyền sử với chuyện “Tổ chức bí mật núi Tản sông Cái” giúp Hai Bà Trưng. Tuy nhiên từ loại triết lí An vi ra ngoài nước mang tinh thần hồi cố hơn với tên An Việt của nhà xuất bản, đến đây lại trở thành một thứ tôn giáo dân tộc chống cộng chống Tây, tách rời một ít khu vực Hán Nho / Việt Nho mà ông Thầy dễ thoả hợp để đi vào tinh thần “thiền” của Phật giáo: “Trăm hay xoay vào lòng.”
Tác giả Nguyễn Xuân Quang là người vượt trội trong dáng vẻ khoa học với quyển sách bề thế Khai quật kho tàng cổ sử Hừng Việt. [17] Trong đó, ta cũng gặp những đề tài của Kim Ðịnh (Dịch lí số, số 9 ví dụ từ Hồng phạm cửu trù, chữ nòng nọc / khoa đẩu...) khai triển rộng ra (nòng nọc lan qua đề tài Thánh Gióng, An Dương Vương, chim bồ cắt muốn thay thế chim [?] Âu Cơ), và đi sâu hơn vào sự mê tín trống đồng: Giải đọc trống đồng là tên một đề sách khác được tác giả giới thiệu. Lối giải thích tràn lan kiểu tên Tần Thuỷ Hoàng với chữ “thuỷ” có nghĩa là “nước” (chứ không phải là “khởi đầu”), Bành (Tổ) là (Hồng) Bàng, (Âu) Lạc là Lo (âm Pháp, Anh của “lạc”), là Lô Giang = Hồng Hà, Hồng (Bàng) là Hồng (Hà; Fleuve Rouge của Pháp ngữ)... vốn của Kim Ðịnh [18] lại cũng làm điểm khởi đầu cho tác giả Khai quật... kéo dài thành những phát hiện chưa ai dám nói, như vua Hùng vốn phải là Hừng vì trống đồng có dấu hiệu thờ mặt trời, màu đỏ, liên hệ đến tên nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương... Kim Ðịnh cho rằng “trống đồng chắc phải có từ lâu đời lắm, ít nhất là đời nhà Hạ, mà nhà Hạ với Việt tộc thì về văn hoá là một... Phải coi trống đồng như bản văn hoá Việt hay nhất.” [19] Tuy nhiên, sự ưu việt của Việt tộc chỉ mới được ông chứng minh bằng cổ thư (Trung Quốc) và những lượm lặt khảo cổ học ngày nay. Với Nguyễn Xuân Quang thì nhờ phát hiện “L’annamite, mère des langues” của Ðại tá Frey, người Pháp, vào cuối thế kỉ XIX, nhờ các từ điển điện tử đa ngữ bây giờ cho nên ưu thế tột đỉnh của tiếng Việt trở thành điều hiển nhiên và có thể giảng giải, suy đoán từ cổ thư, từ hình tượng trên trống đồng để phát hiện ra “kho tàng cổ sử” Việt bị chôn vùi trong thời gian, phải nhờ người “khai quật” lại. ...
|