kimlien
Thành viên
Bài viết: 37
|
|
« Trả lời #326 vào lúc: 10 Tháng Mười, 2010, 04:31:22 pm » |
|
MỐI TÌNH CỦA MỘT VỊ TƯỚNG.
Họ quen nhau vào những ngày cả đất nước Trung Hoa nhất tề đứng lên kháng chiến chống quân phát xít Nhật, tháng 9 năm 1937, sau sự kiện gây hấn Lư Câu Kiều. Cô giáo tiểu học Trần Ngọc Anh vừa thất nghiệp trở về làng ở trấn Đông Trị, huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, Trung quốc làm lụng đỡ đần cha mẹ đã gặp người cán bộ dân vận của Tổng lộ Bát lộ quân cử đến đây phát động quần chúng thành lập mặt trận đoàn kết toàn dân kháng Nhật. Anh có đôi mắt to, đen nhánh, lông mày rậm, thân hình chắc nịch và giọng nói âm vang, thu hút người nghe mỗi lần diễn thuyết,kêu gọi. Người cán bộ Bát lộ quân ấy mang một cái tên kỳ lạ : Hồng Thủy – nghĩa là “dòng lũ” nhanh chóng trở thành cấp chỉ huy của Trần Ngọc Anh, lúc này là Chủ tịch Hội phụ nữ kháng Nhật. Một hôm Ngọc Anh hỏi Hồng Thủy quê anh ở đâu? Hồng Thủy trả lời chân tình tự nhiên: “ Hà Nội – Việt Nam”. Ngọc Anh ngạc nghiên nhảy thót lên ghế và kêu to: “Sao? Anh là người nước ngoài?” Vâng, Hồng Thủy tên thật là Võ Nguyên Bác, hay còn gọi là Võ Hồng Tú, sinh năm 1906 tại Hà Nội và đã một thời cùng ở Pháp với Hồ Chí Minh. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập nên Trường quân sự Hoàng Phố và mời chuyên gia Liên Xô là Borodin làm cố vấn cho trường. Lúc ấy Hồ Chí Minh là thư ký của Borodin, lại rất quen thân với Tôn Trung Sơn nên đã đề nghị: “ Nhờ lò Hoàng Phố luyện cho Việt Nam vài hạt giống lửa” và thế là Hồng Thủy cùng 20 thanh niên Việt Nam nữa trở thành nhóm học viên thứ tư ở trường Quân sự này. Sau khởi nghĩa Quảng Châu, Hồ Chí Minh cử Hồng Thủy lưu lại Trung Quốc để học tập tích lũy kinh nghiệm cách mạng. Hồng Thủy đã tham gia 5 cuộc chiến đấu chống” vây tiễu” của quân đội Quốc dân đảng tấn công Hồng quân Trung quốc và cùng vượt qua 2 vạn 5 ngàn dặm Trường chinh nổi tiếng từ Hoa Nam lên Hoa Bắc. Sau sự biến ngày ngày 7 tháng 7 năm 1937, Hồng Thủy là cán bộ dân vận của Tổng Bát lộ quân…và giờ đây đang ở Sơn Tây. “ Nhưng tại sao anh lại đặt tên là Hồng Thủy, nghe kỳ vậy?” Ngọc Anh thỏ thẻ hỏi.” Đó là hồi chống vây tiễu, cứ cách vài ngày lại một trận chiến đấu nảy lửa; ngoài ra, quân Quốc dân đảng còn dán truyền đơn rêu rao khắp nơi, rằng cộng sản là cộng vợ, cộng của,rằng một lũ như hồng thủy, mãnh thú. Anh tức quá, hét lên, bọn chúng đã lăng nhục ta như vậy thì tôi sẽ đổi tên Võ Nguyên Bác thành Hồng Thủy, thành dòng lũ cuốn phăng chúng luôn, người bạn Việt Nam khác cũng cải danh thành Mãnh Thú, nhưng vài ngày sau thì hy sinh trong một trận chiến đấu ác liệt với quân Tưởng”. Mùa xuân năm 1938, Hồng Thủy và Ngọc Anh nên nghĩa vợ chồng, đám cưới được tổ chức theo đời sống mới, thắm thiết tình quân dân. Tin loan rất nhanh vì có lẽ đây là cuộc hôn nhân đầu tiên trong hàng ngũ Bát lộ quân thời bấy giờ. Các lão tướng Hồng quân gật gù khen Hồng Thủy dân vận giỏi. Tin Hồng Thủy lấy vợ truyền về Diên An, Mao Chủ tịch và Chu Tổng tư lệnh ( Chu Đức) đều khẳng khái mà rằng, thật là tấm lòng quân nhân, đường cách mạng thật dài, đám trẻ nhỏ ngày nào đi lính mới cao bằng cây súng, thế rồi chống vây tiễu, vạn lý trường chinh kháng chiến chống Nhật , trận mạc liên hồi, chẳng mấy chốc đã lớn tuổi phải lập gia đình, nhu cầu hôn nhân của binh sĩ ngày một bức thiết nhưng ở với dân, bộ đội không được “tranh” cô dâu của làng xóm, còn trong quân ngũ thì 18 nam mới có 1 nữ. Khi thảo luận vấn đế này, Tổng bộ Bát lộ quân đưa ra công thức “28 – 7 – Đoàn”, nghĩa là ai 28 tuổi, 7 năm tuổi quân và cán bộ cấp Trung đoàn mới đủ điều kiện kết hôn. Quy định nghiêm ngặt như vậy, nhưng số lượng chiến sĩ nữ vẫn hạn chế, cho nên ngoài chiến đấu ra, đi tới đâu Bát lộ quân còn có nhiệm vụ tuyên truyềnđể thiếu nữ hăng hái tòng quân hoặc làm cán bộ thoát ly. Nhắc đến chuyện đó ai cũng cảm ơn Hồng Thủy đã xung phong đi đầu, năm ấy anh đã 32 tuổi, thừa “ tiêu chuẩn” lấy vợ và theo yêu cầu của Hồng Thủy, Ngọc Anh vui vẻ đổi tên thành Trần Kiếm Qua nghe rất nam nhi. Sau khi chiến khu địch hậu kháng Nhật- Tấn Sát Kỳ – thành lập, Hồng Thủy đảm nhận chức xã trưởng kiêm tổng biên tập tờ “Kháng địch báo” rồi làm giáo viên Phân hiệu 2 Đại học kháng chiến. Trần Kiếm Qua cũng được phân công công tác ở trường với nhiệm vụ chỉ đạo đội nữ sinh. Trung tuần tháng 8 năm 1941, quân Nhật tập trung 13 vạn binh lực, chia thành 13 lộ tấn công khu giải phóng Tấn Sát Kỳ. Lúc bấy giờ phân hiệu 2 đóng quân ở huyện Linh Thọ, cấp trên chỉ thị cho Hồng Thủy chỉ huy thầy trò phá vòng vây sơ tán về hướng huyện Hành Đường. Trần Kiếm Qua đang mang thai 8 tháng, nhưng cô cương quyết cùng một nữ y tá cải trang ở laị và yêu cầu Hồng Thuy dẫn binh phá vây. Tháng 10 năm đó, Hồng Thủy gặp được vợ và con, một đứa con sinh ra trong bão lửa, nhưng vì quá gian khổ nên Trần Kiếm Qua lâm bệnh còn cháu nhỏ sớm yểu vong. Hồng Thủy căm hờn thề sống mái với quân thù. Mùa hè năm 1943, Hồng Thủy và Trần Kiếm Qua đều được bố trí vào học Trường Đảng trung ương ở Diên An. Hai vợ chồng sống trong căn nhà hầm rộng 6 mét vuông và đứa con thứ hai của họ đã cất tiếng khóc chào đời, cháu mang tên Tiểu Phong – để kỷ niệm một thời Diên An phát động phong trào “ phòng y túc thực” ( no cơm ấm áo). Hai năm sau đó là những ngày hạnh phúc ngọt ngào nhất của Trần Kiếm Qua. Cô được sống trong một gia đình đầm ấm với chồng con. Tháng 8 năm 1945, cách mạng Việt Nam phát triển lên cao trào, sau khi thương lượng với Mao Chủ tịch, Hồ Chủ tịch quyết định điều các cán bộ Việt Nam trở về nước. Hồng Thủy chia tay với vợ con lên đường đi Trùng Khánh, rồi Côn Minh để cuối cùng đến căn cứ địa Việt Bắc. Lúc ấy Trần Kiếm Qua mang thai cháu thứ ba, họ dặn với nhau, dù gái hay trai, sau này đều đặt tên là Tiểu Việt và hẹn ngày chiến thắng sẽ lại gặp nhau. Trở về nước, Võ Nguyên Bác, Hồng Thủy đổi tên thành Nguyễn Sơn, đảm nhận tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu 4 và lao vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam. Nhưng rồi ông được tin Hồ Tôn Nam tấn công vào Diên An, Hồng đô thất thủ, vợ con ông đều hy sinh. Nguyễn Sơn buồn vô hạn, một thời gian sau ông lấy vợ lần thứ hai tên là Lê Hằng Huân. Họ có với nhau 2 mặt con. Kỳ thực Trần Kiếm Qua vẫn sống và nuôi con thờ chồng. Năm 1949 bà là Viện trưởng Viện hài nhi “ 1.6” của Bắc Kinh và sau đó là Phó cục trưởng Cục giáo dục Bắc Kinh. Sau 5 năm xa cách, Trần Kiếm Qua gặp lại Hồng Thủy tại Trung Nam Hải, và nay ông đã có hai gia đình. Bà cương quyết yêu cầu Hồng Thủy đưa vợ con từ Việt Nam sang sống chung với ông, còn mình không lấy ai nữa, ở vậy nuôi hai con Phong,Việt. Hồng Thủy lại sang Trung Quốc, thoạt đầu ông tham dự Học viện Quân sự Nam Kinh, sau đó được phân công làm xã trưởng tờ “ Huấn luyện chiến đấu” thuộc Quân ủy trung ương và năm 1955 được phong hàm thiếu tướng, vị tướng duy nhất của Trung Quốc là ngoại tịch. Bà Lê Hằng Huân sinh thêm 2 cháu ở Bắc Kinh. Hồng Thủy ngập đầu trong đống bài vở của tờ báo và mùa hè năm 1956 thì ho ra máu, qua chẩn đoán mới biết là ung thư phổi hậu kỳ, không sống được bao lâu nữa, bèn xin trở về Việt Nam. Lễ tiễn Hồng Thủy được tổ chức trong thể tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, có mặt đầy đủ Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh v.v… Hồng Thủy bắt tay các chiến hữu từng một thời vào sinh ra tử, cùng chiến hào chống “ vây tiễu” cùng vượt 2 vạn 5 ngàn dặm Trường chinh…rồi lên đường trở về quê cha đất tổ. Ông qua đời ngày 21 tháng 10 năm 1956, hưởng thọ 50 tuổi. Về phần mình, bà Trần Kiếm Qua cứ nói dối với hai con Phong, Việt là cha của chúng đang tham gia kháng Mỹ viện Triều, ngày Hồng Thủy về Việt Nam bà cũng không đi tiễn, sợ ông mang tiếng là có hai vợ, nhưng tháng 1 năm 1974 bà bỗng nhiên căn dặn Phong, Việt: “ Cha các con đã qua đời 18 năm rồi, lớn lên các con phải về bên ấy tảo mộ thắp hương cho cha, gặp mẹ Lê và các em, nhớ phải thưa mẹ và không được làm điều gì thất lễ….”. Còn mẹ Lê, góa chồng khi mới 30 tuổi, không đi bước nữa , ở vậy nuôi 4 con nhỏ. Ngày gặp Phong, Việt, bà cảm động nói: “ Trước khi nhắm mắt, cha các con mong sẽ có ngày 6 đứa con của chúng ta bên Việt, bên Trung được quây quần với nhau, hôm nay ngày đó đã tới!.. ”. Năm 1992, các con của Nguyễn Sơn – Hồng Thủy lại có dịp viết thư cho nhau, nữ trung tá Quân đội Nhân dân Việt Nam Nguyễn Thanh Hà gửi thư cho anh Trần Trại Phong (Tiểu Phong) – Phó cục trưởng Văn phòng Quốc hội Trung Quốc kể rằng: “ Mẹ Lê của chúng ta mất ngày 18 tháng 4 năm 1991, thọ 65 tuổi, câu nói cuối cùng của mẹ dặn lại chúng em là : mẹ Trần Trung Quốc của các con là người đàn bà tốt nhất, tốt nhất trên thế gian này…” Xin khép lại câu chuyện tình của Tướng quân Võ Nguyên Bác – Hồng Thủy – Nguyễn Sơn một con người xông pha nơi trận mạc trên các chiến trường Việt, Trung và rất mực thương yêu vợ con bên đó, bên này.
Trích từ “ Tác gia văn trích” của Trung Quốc kỳ 165. Người dịch : Thái Nguyễn Bạch Liên (Đăng trên Kiến thức ngày nay số 271 ngày 10/2/1998)
|