Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tự dịch => Tác giả chủ đề:: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 08:19:54 am



Tiêu đề: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 08:19:54 am
Em mạn phép lão Tieungoclang mang cái này qua đây.

Lời nói đầu

“Điều đó không được phép xảy ra lần nữa” Khẩu hiệu như vậy đã xuất hiện sau Ngày Chiến thắng, đã trở thành một quy tắc quan trọng trong chính sách đối nội và ngọai giao của Liên Xô. Khi chiến thắng, sát vai các đồng minh của mình, trong cuộc chiến tranh đẫm máu nhất lịch sử lòai người, đất nước đã phải gánh chịu những tổn thất hết sức to lớn. Gần 27 triệu người chết (khỏang 15% dân số thời bình). Hàng triệu đồng bào tôi hy sinh trong chiến đấu, bỏ mạng trong trại tập trung của Đức, chết đói chết rét trong vòng vây Leningrad hay trên đường đi sơ tán. Chính sách “vườn không nhà trống”, vốn được cả hai đội quân sử dụng trong khi rút lui, làm hủy diệt những vùng đất mà trước chiến tranh nuôi sống 88 triệu người và sản suất tới 40 % GDP. Hàng triệu người mất nhà cửa và buộc phải sống trong những điều kiện không thể chịu đựng nổi. Nỗi sợ hãi rằng một thảm họa như vậy có thể lặp lại ám ảnh cả đất nước. Đó là một trong những l‎í do khiến các nhà lãnh đạo đất nước thông qua những ngân sách quốc phòng khổng lồ, trở thành gánh nặng đáng sợ cho nền kinh tế. Do chính nỗi sợ hãi thực tế đó, những người dân thường thường tích trữ trong nhà một lượng đáng kể những “hàng hóa chiến lược” – muối, diêm, đường, thực phẩm đóng hộp… Tôi còn nhớ khi mình còn bé bà tôi – người đã trải qua nạn đói trong chiến tranh – lúc nào cũng cố gắng ép tôi ăn thứ gì đó, và bà rất không vui khi tôi từ chối! Đám trẻ con chúng tôi, ra đời khỏang ba mươi năm sau chiến tranh, tiếp tục chơi đánh trận giả trên đường phố Cuộc Chiến tranh Vệ quốc. Chúng tôi chia ra “phe ta” và “quân Đức” và từ tiếng Đức đầu tiên chúng tôi học được là “Hände hoch”, “Nicht schiessen” và “Hitler Kaputt”. Hầu như mỗi ngôi nhà ta đều có thể tìm thấy một vài người còn nhớ về chiến tranh. Tôi vẫn giữ những huy huân chương của bố tôi và một cái thùng đựng mặt nạ phòng độc của Đức nằm trong góc hành lang căn hộ tôi – một thứ đồ tốt để ngồi lên khi ta phải buộc dây giày!

Một mong ước quên đi những ám ảnh về chiến tranh càng nhanh càng tốt, để chữa lành vết thương – cũng như hàn gắn những sai lầm của ban lãnh đạo và chỉ huy quân sự của đất nước – dẫn tới một chiến dịch tuyên truyền dựa trên hình ảnh một người lính Xô viết vô danh, “gánh trên vai mình tòan bộ sức nặng của cuộc chiến chống lại phát xít Đức”, trong khi ca ngợi “chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Liên Xô”. Thái độ này có ý‎ nghĩa tuyên truyền một lối hiểu giản đơn, về những gì thực sự đã xảy ra. Kết quả là, những hồi ức xuất bản thời Xô viết bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cả kiểm duyệt bên ngòai (của nhà xuất bản hay bộ văn hóa - ND) lẫn bên trong (của chính tác giả - ND). Chỉ tới cuối thập niên 80 thì sự thật về chiến tranh mới xuất hiện.

Đó là thập kỷ mà cuốn sách của Mansur Abdulin được xuất bản. Năm ngóai, khi tôi nhìn thấy nó lần đầu tiên, tôi nhận ra rằng tôi đang cầm một hồi ức của “nhân dân Liên Xô anh hùng”, được viết bởi chính người thực về việc thực. Điều khiến những hồi ức này trở nên rất độc đáo chính là Abdulin đã tham gia các họat động ngòai tiền tuyến trong suốt một năm trời, trong khi thống kê cho ta biết trung bình một lính bộ binh Hồng quân chỉ sống sót trên chiến trừơng trong khỏang hai tuần, sau đó anh ta sẽ bị giết hoặc bị thương. Thời kỳ này cho phép Mansur thu nhặt những kinh nghiệm phong phú, mà ông có đề cập trong cuốn sách này. Là một người kể chuyện có tài, Abdulin, bằng lối khách quan và thẳng thắn, mô tả cuộc sống của mình trong chiến hào. Ông ý thức rõ rằng cuộc giao chiến mà ông phải tham gia, không cho ông cơ hội sống sót nào. Mục đích chủ yếu của ông là dâng hiến cuộc đời mình càng hữu ích càng tốt, tức giết chết những kẻ khác, tiêu diệt càng nhiều kẻ thù càng tốt. Chiến tranh ở Mặt trận phía Đông được đánh dấu bởi mức độ căm thù và khốc liệt đáng sợ, liên quan sâu sắc tới chính sách của Đức muốn tiêu diệt hòan tòan Liên Xô và bắt công dân của nó làm nô lệ. Các độc giả Phương Tây đã có cơ hội tìm hiểu về các kinh nghiệm từ phía Đức, nhờ đọc sách của các cựu chiến binh như Guy Sajer hay Gunter K. Koschorrek, trong khi hồi ức của các binh lính Xô viết hầu như không thể tiếp cận được. Đó là tại sao tôi luôn cảm thấy rất nhiệt tình để cho ra đời bản dịch tiếng Anh này.

Nhưng làm sao tôi có thể tìm thấy tác giả? Cuốn sách được xuất bản 13 năm trước và Abdulin giờ hẳn không ít hơn 80. Ông còn sống hay không? Làm sao tôi gặp được ông? Trong cuốn sách có ghi rằng ông sống ở Novotroitsk, tại vùng Orenburg. Tôi gọi cho phòng thông tin của thị trấn nhỏ này nằm ở vùng Nam Ural. Co gái đầu bên kia điện thọai ban đầu nghe nhầm họ tên, và trả lời rằng cô không có người tên như vậy trong danh sách. Tim tôi như chìm xuống! “Anh nói tên ông ấy là gì?” “Abdulin”. “Ôi xin lỗi, tôi lại đang tìm Abdullin”. Chờ một lát… Vâng, chúng tôi có một Abdulin M. G.”. Tôi lập tức gọi cho Mansur và tự giới thiệu: “Ông thấy thế nào về việc sọan một bản dịch tiếng Anh cho sách của mình?” “Tại sao không? Cứ thử xem nào… “

Artiôm Drabkin,
Maskva, 2004


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 08:24:04 am


Chương 1: Mặt trận



                                                       


            Chiến tranh, mặt trận, nghĩa là bắn giết. Bằng cối, đại liên, tiểu liên hay đại bác. Tôi bắn phát đạn thật sự đầu tiên vào ngày 6 tháng 11 năm 1942 tại phương diện quân Tây Nam, từ một khẩu súng trường tự động SVT. Đây là điều đã diễn ra….


            Vài ngày trước trận tấn công, mỗi đại đội tổ chức mít ting trọng thể “Hướng về ngày kỷ niệm lần thứ 25 của Liên bang Xô Viết”. Chúng tôi tuyên thệ theo mệnh lệnh của Đất Mẹ – “Không lùi!”- khi băng qua sông Đông. Dòng sông yên ả, hành lang di chuyển tốt, và với những nhịp vận động nhanh, chúng tôi đến một hẻm núi cao của phía bờ bên phải.


“Đi cẩn thận!” chúng tôi luôn nghe lời cảnh báo này, và với những lính súng cối như chúng tôi, nó có ý nghĩa quan trọng, riêng biệt. Lính súng cối mang theo nòng, giá đỡ và chân đế: nếu đi nhanh và bị ngã hoặc chỉ loạng choạng, những thứ đó-theo quán tính sẽ đập bẹp sọ bạn. Tôi đã thấy nhiều thương vong do khinh suất ở những người lính bị vấp chân, chỉ do những thứ nặng nề vác theo.


            Chúng tôi tiến vào một vùng đất như bị bỏ hoang. Có lẽ chúng tôi đang bước trên những bao tải cũ và những bụi cỏ. Trong bóng tối, chúng tôi không thể thấy cái gì dưới chân chúng tôi. Có mùi gì đó thật khó chịu. Chúng tôi chạy tránh khỏi chúng, tiến lên, tiến lên! Một viên pháo sáng xuất hiện trên trời, và trong ánh sáng đó chúng tôi chợt nhìn thấy những gương mặt của xác chết. Cả quân ta và quân Đức.


            Có nhiều pháo sáng hơn. Tôi lén nhìn các bạn đồng đội: họ có thấy không? Có, họ có thấy. Nhưng mọi người như lặng câm. Không ai mở miệng. Dù chỉ một tiếng rủa. Chiến tranh là chiến tranh. Là như thế. Và có gì tự nhiên hơn! Tôi vừa bước sang tuổi 19, tôi biết những người khác cùng tuổi. Mọi người đều có cùng một kinh nghiệm: một khóa học bắn ngắn gọn ở trường bộ binh Tashkent.




Tôi nhảy qua vài thi thể, và trong đầu tôi loé lên một ý nghĩ: sao con người trở nên quen với điều này quá nhanh, tại thời điểm họ nhận thấy không thể tưởng tượng được. Một suy nghĩ khác – một suy nghĩ lạ lùng trong hoàn cảnh này – tôi hài lòng với chính bản thân mình. Nếu có một đồng đội nhìn tôi, anh ta sẽ không thấy gì chỉ là sự tập trung bình thường. Ở mặt trận, giống như mọi người khác – hoặc không tệ hơn những người khác – có nghĩa là giá trị của bạn được đảm bảo. Đó là điều chính yếu của lòng tự trọng. Tuy nhiên, tôi bị giật mình bởi cảnh tượng nôn mửa đó gây ra bởi ánh hoả châu (đây là mặt thật của chiến tranh, bản chất của nó, khi một thông báo đại loại như “Đã hi sinh anh dũng” đưa ra), tôi, tuy vậy, vẫn hoạt động bình thường như mọi người khác, cố không bị vấp hoặc chúi xuống khi nghe tiếng rít của một viên đạn bay đến.


            Chúng tôi gập người xuống khi chạy những mét sau cùng. Bờ vách thấp dần: tiếng đạn rít nghe rất chậm. Rốt cuộc, tôi nhảy vào được trong chiến hào: vẫn còn sống, không trầy da, ba lô và súng còn đây. Sau vài phút nghỉ thở, tôi đã sẵn sàng để bắn vào những gì theo lệnh.


            “Sao bọn ông chậm thế?” Chúng tôi nghe thấy giọng nói riết róng, thô lỗ vang lên, khi những người lính tuyến đầu đột ngột hiện lên trong chiến hào, như những bóng ma. Mang theo cối, súng máy, họ hành quân trở lại vào hẻm núi nơi chúng tôi vừa đi ra. Tôi đã tưởng tượng ra một  cuộc gặp gỡ khác hẳn, và sự biến mất nhanh chóng của những người lính “tiền nhiệm” để lại một cảm giác khó chịu. Thật ra, tôi đã mong rằng những “người cũ” sẽ ngồi lại với chúng tôi một chút, chỉ cho chúng tôi phải làm gì, chiến đấu như thế nào…



- “Cu làm tao mắc cười quá” Pavel Suvorov, khẩu đội trưởng của chúng tôi, tặc lưỡi nói “Họ phải qua sông Đông khi trời còn tối, và cần có thời gian để về tới hậu phương mà không bị bọn Nazi phát hiện”.



Sự thể hiện đầy vui vẻ của Suvorov đã thuyết phục tôi một điều rằng: tại lúc mà chúng tôi nhảy vào đây, chúng tôi đã thành những người lính tiền tuyến. Và dù việc gì xảy ra lúc đến, không ai sẽ nhớ, hoặc suy xét lại. Sự thật rằng chúng tôi chỉ là những học sinh sĩ quan mới tinh đến từ trường lính bộ binh.



Thật đáng kinh ngạc cho bản năng tự-duy-trì công việc ở người lính. Dường như mọi người khác đều trải qua cùng một cảm giác như tôi: nhưng chúng tôi đã bắt đầu nghe lính thông tin gọi nhau, “Khoá-nòng đây, nghe tôi không? Hết”, trong khi những tay pháo binh kéo khay đạn về phía khẩu pháo của họ,  còn lính súng máy thì lắp khẩu Maxim lên công sự. Trong đại đội chúng tôi, những khẩu cối cũng đã sẵn sàng xung trận, và Fuat Khudaibergenov cùng với tôi (trong khẩu đội Suvorov, anh ta là người nạp đạn còn tôi là xạ thủ pháo) cũng đã chuẩn bị đạn dược đâu vào đó cạnh khẩu cối. Từ khi chiến tranh, mỗi chúng tôi phải cố gắng trở thành một bánh răng hiệu quả trong cỗ máy chiến tranh. Đó là điều quan trọng nhất.





Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 08:31:11 am


Và khi đã xong các việc cần thiết, có thể nhìn quanh một chút. Các chiến hào trông cũ kỹ và mòn vẹt.



-         “Điều này có nghĩa rằng chúng ta đã trụ ở đây khá lâu rồi !”, Nikolai Makarov – ở một khẩu đội bên cạnh – giải thích.



Tất cả các khẩu đội trong đại đội chúng tôi đều học cùng trường.



-         “Hoặc vừa chiếm lại của bọn Đức” Victor Kozlov phản đối.



Cả hai đều nói thầm thì, như thể họ đã chiến đấu cả đời rồi. Pháo sáng của bọn Đức tiếp tục phóng lên trời, soi sáng tận đáy chiến hào, trong khi súng máy tiếp tục khạc đạn.



“Sợ chúng ta tấn công đêm à?” Ivan Konski cười, và trong mắt anh ta, ánh lên trong nguồn sáng nhợt nhạt, biểu lộ một bí mật, nó làm tôi câm lặng. Đại uý Buteido, đại đội trưởng của chúng tôi, vừa gửi vài tay đến vị trí quan sát, và báo tôi nên sẵn sàng để thay thế họ khi bình minh.



-         “Ôi, Mansur, nóng à?” đại đội phó, chính trị viên đại đội Fatkulla Khismatullin, người Tartar hỏi.



Anh ta đến với chúng tôi cùng chỉ huy. Trước chiến tranh, Khismatullin là giáo viên sử, và anh thường hỏi chúng tôi cặn kẽ với nơi chúng tôi sinh và ước mơ trong đời của chúng tôi. Đó là dành cho một cuốn sách anh ấy dự kiến sẽ viết sau này. Anh ta dịch câu hỏi của anh ta sang tiếng Nga để Buteido và những người khác có thể hiểu:



-         “Tôi hỏi Mansur rằng có thấy nóng không?”



Mọi người cười to. Vấn đề là, tôi sinh ra ở Siberia, và trong các buổi tập tôi bị gục vài lần do cái nóng ở Tashkent. Tôi đã từng sợ rằng nhà trường sẽ loại tôi. Chúng tôi luôn nhớ lúc ở trường, chúng tôi phải luôn giặt áo choàng hằng ngày vì muối và mồ hôi, và nó thường bị rách ở các đường may chỉ sau nửa tháng. Chúng tôi ao ước sao mình được ra mặt trận.



-         “Chúng ta giờ đang ở tiền tuyến” Buteido ghút lại, nhìn vào đồng hồ “và đừng quên những gì đã được dạy…”.



Viên đại đội trưởng đầy kinh nghiệm, người đã tham gia từ những ngày đầu chiến tranh dặn chúng tôi, giữa những điều khác, đại loại như sử dụng liều phụ nhiều lần để làm sạch nòng cối khỏi cặn thuốc súng sau khi bắn. Nếu nòng không được thông, quả cối bên trong sẽ di chuyển chậm lại, và như vậy, trong quá trình bắn chiến đấu, sẽ có tình huống một quả đạn được tọng vào trong khi quả trước chưa được bắn, và nó có thể gây nổ trong nòng…



-         “Bây giờ các bạn có thể nghỉ ngơi” Buteido nói, rồi cùng Khismatullin cúi gập người đi dọc theo chiến hào.


Ngay lập tức, Sergie Lopunov quay sang hỏi xin Fuat kim và một ít chỉ, trong khi Victor Kozhevnikov xin giấy và bút chì. Chúng tôi biết rằng tay nạp đạn này (chỉ Fuat) luôn có trong quân trang những thứ người ta cần như: kim, chỉ, dây giày, cúc áo, kéo, dao cạo, vaseline, xà bông, xi đánh giày, bàn chải, băng gạc, iốt v.v…



Fuat như luôn có mọi thứ dù yêu cầu đặc biệt. Và anh ta không bao giờ ở không. Ngay bây giờ, trong khi chúng tôi chìm trong hồi tưởng, thì anh ấy sử dụng thời gian rảnh ấy để vá lại vết rách ở lần vải lót cái áo choàng của mình và xem xét vết vỡ ở gót đôi ghệt của Nikolai Makarov. Anh ấy là một tay thợ may, thợ đóng giày, đầu bếp siêu hạng, và khi cần, là thợ rèn hoặc thợ mộc.



Những thứ như bánh mỳ, đường hoặc makhorka (một loại thuốc lá rẻ tiền – NV), chúng tôi không bao giờ chia chúng như ở các trung đội khác vẫn làm, một tay nào đó lấy một phần và hỏi “Ai”, trong khi một tay khác quay lại là nói “Ivanov”, “Petrov” hoặc “Sidorov”. Fuat chịu trách nhiệm chia đồ, và khi một người nào lấy từ cái áo không thấm nước của anh ta một trong 40 phần được chia thì chắc chắn rằng những người khác cũng sẽ được đúng tầm ấy.



Dịch từ tiếng Uzbek, họ của anh, Khudaibergenov nghĩa là “món quà thượng đế”. Cha Fuat là người Tartar còn mẹ là người Uzbek. Anh ấy cùng tuổi với tôi, một đồng đội to lớn và khoẻ mạnh. Fuat ít nói, nhưng có một lần anh làm chúng tôi ngạc nhiên khi mời mọi người, sau chiến tranh, đến chơi nhà anh và thử dùng món cơm thập cẩm (pillaw – một món khoái khẩu của nguời Trung á, với cơm, thịt sườn, rau, dầu, gia vị và nước xúp – NV). Chúng tôi đã phải hứa đến nhà anh ở Tashkent. Tôi thì có điều kiện thực hiện lời hứa hơn những người khác: trước chiến tranh, gia đình chúng tôi chuyển từ Siberia đến vùng mỏ Sargardon ở Trung á, và như vậy đường về nhà tôi có ngang qua Tashkent.



 



Tôi viết cả những điều đó vào lá thư gửi về nhà. Tôi ném lá thư lên chồng thư tín, chính xác lúc đó là khoảng 2 tiếng trước khi tôi đi thực hiện nhiệm vụ của mình – tôi tràn ngập trong sợ hãi. Ivan Konski như đang ngủ say và mơ về vùng quê Smolensk. Còn đầu óc tôi vẫn tràn ngập hình ảnh đáng sợ: những gương mặt chết tím tái. Tôi cố đuổi hình ảnh đó bằng cách hồi tưởng lại tuổi thơ.




Tôi sinh ra trong một gia đình thợ mỏ vào ngày 14 tháng 9 năm 1923. Chúng tôi sống ở một ngôi làng người Tashtagol gọi là Sukhoi, bao quanh bởi những cánh rừng nguyên sinh rậm rạp. Trong nhiều thế kỷ, là nơi sống của những người Tashtagol bản địa, những người Tartar, Estionia, Hungaria, Đức, Nga-theo-đức-tin-cổ tự do và trốn chạy, và cả hậu duệ của những người Cossack vốn từng tham gia vào cuộc khởi nghĩa nông dân - lãnh đạo bởi Yemellian Pugachev (1773-1775).



Mỗi sắc dân có tôn giáo, chúa trời hoặc những thánh thần nào đó mà họ tôn sùng. Tỉ như, một gia đình có một cái lỗ ở góc phòng, và qua đó họ liên hệ trực tiếp với thần linh; gia đình khác thì có một cây thông nhỏ trong sân, chỗ mà họ cho là linh thiên. Họ trang trí cành lá với vài miếng giẻ và cầu nguyện.


 



Những người đó có Chúa trời, luật lệ và nguồn gốc riêng, chung sống hoà bình với nhau. Họ có điểm chung là một cộng đồng mê tín: họ tin rằng tất cả được cai quản bởi đấng tối linh, người sẽ trừng phạt kẻ xấu. Dân địa phương, dù thuộc quốc tịch hay tôn giáo, cũng đều thống nhất ở một ý niệm thần bí khác: rừng, sông, đồi, hồ, đầm lầy hoặc mỏ đều có một vị thần sở hữu, cai quản, vị thần đó sẽ bảo vệ cho sự giàu có và sự sở hữu đó. Nếu có ai thách thức làm điều gì xấu, vị thần đó chắc chắn sẽ dìm chết hắn ta mà không để lại dấu vết gì.



Bố mẹ tôi đều là những người ngoài, người nhập cư, Đảng viên – và không tôn giáo. Nhưng vì họ là những người duy nhất biết đọc viết, dân địa phương kính trọng họ. Bố tôi là kỹ thuật viên ở mỏ và là Đảng viên ĐCS, rất chú trọng vào đạo đức năng lực công nhân. Mẹ tôi, dù học ít, dạy hàng xóm viết – dù chỉ tên họ.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 08:36:13 am


Tôi sinh sau ngày chế độ chuyên chế Nga sụp đổ và lực lượng bạch vệ cũng bị dẹp tan trong nội chiến 1918-1921. Những trẻ em Liên Bang Xô Viết thời đó phải chịu tình trạng đói kém kéo dài, thêm vào là những dịch bệnh tệ hại như đậu mùa, lao phổi, dịch tả và sốt phát ban. Thường thì chẳng có ai làm mộ cho các trẻ chết. Những phụ nữ nông dân chôn con mà không hề khóc lóc, mà còn cho thấy sự vui mừng của họ khi bớt đi một miệng ăn phải nuôi. Nhiều người lớn – và cả trẻ em – có lối sống khác. Mẹ tôi, thỉnh thoảng lại bị lên cơn cuồng hậu quả của việc thiếu đói và tuyệt vọng triền miên, và khi đó bà điên cuồng gào lên: “ Tôi treo cổ chết đây ! Tôi bỏ các người (chỉ tôi, em trai tôi và cha tôi) … !”



 



Và vì cuộc sống kinh khủng mà mẹ tôi đã không xấu hổ hoặc dấu diếm - trước mặt anh em tôi – rằng bà ghen tỵ với những người bạn của bà: những phụ nữ mà con của họ đã chết cả. Dù rằng tôi chỉ mới 3 hay 4 tuổi khi đó, nhưng tôi hiểu mẹ và không buồn với những cảm xúc khó khăn đó. Tôi cầu nguyện với đấng tối linh (mà tôi tin là hiện hữu) ban cho cha mẹ tôi sức khoẻ, và cầu thần hầm mỏ bảo hộ cho cha tôi khi ông vào hầm mỏ. Tôi cố chịu đựng những cơn đói kinh khủng mà không khóc. Có một lần, thầy thuốc khám tôi và bảo mẹ tôi rằng:



-         “Con bà không bị bịnh gì, nó chỉ bị thiếu máu và vì vậy nên yếu ớt. Vị thuốc tốt nhất là cho nó ăn!”



 



Kể từ đó tôi sợ bị đứt tay. Vì tôi sợ tôi sẽ chết do bị chảy hết máu, và khi đó mẹ tôi có dịp vui mừng vì bớt đi một miệng ăn !!!


 



Dân địa phương thường ghé thăm bố mẹ tôi bởi lẽ họ là người có học duy nhất trong vùng. Những người khách hỏi han nhiều vấn đề quan trọng khác nhau như:



-         Đồng chí Abdulin, đồng chí là đảng viên, hãy thẳng thắn cho tôi biết – có Chúa trời hay không?



Rồi họ im lặng, nín thở chờ câu trả lời của cha tôi.



-         Tiếc là không có Chúa trời – cha tôi nói – nhưng loài người luôn cần có một nhân vật đầy quyền năng, thông hiểu mọi thứ, thưởng thiện – phạt ác, do vậy họ hư cấu ra Chúa trời để mọi người trên thế giới này thấy hạnh phúc.



Nghe như vậy, mắt những người khách trợn lên như muốn nhảy ra khỏi hốc mắt, cha tôi nhanh chóng làm cho họ dịu lại.



-         Nhưng trên nhân loại, thay vì Chúa, có một đấng công lý tối linh bao trùm lên chúng ta, giúp ta không lạc lối và không bị diệt vong.



Luận điểm này dường như đảm bảo cho mọi người và thêm vào hi vọng cho tương lai tươi sáng. Những người khách gục gặc những bộ râu vĩ đại với vẻ hài lòng và nói:



-         Ngừơi ta chỉ có thể sống như vậy – Không đức tin, không thể!



Họ cúi chào và ra về.




Từ khi còn bé con, tôi đã thích vẽ, thích đục đẽo cưa bào và thích sáng tạo, làm những đồ vật khác lạ. Và khi tôi còn là học sinh, tôi đã là một tay làm ván và giày trượt tuyết khá nghề. Tôi cũng làm một cái lồng chim theo mẫu một căn nhà tranh của nông dân, lũ chim sáo đá có một nơi ở tuyệt vời và chúng hay om xòmn với nhau vì một chỗ tốt trong đó. Tôi cũng là một thành viên tích cực của nhóm chơi tàu lượn và máy bay mô hình.



Năm 12 tuổi, tôi đã có được các huy hiệu “Sẵn sàng lao động và chiến đấu”, “Tay súng Vorosilov” (những huy hiệu này cấp cho những ai vượt qua các chỉ tiêu về thể thao và bắn súng), tôi đã vào rừng với súng để săn gà rừng. Tôi đã mơ mình sẽ trở thành một nghệ sỹ, một diễn viên, một kỹ thuật viên mỏ, một thợ chụp ảnh, rồi thì phi công, lái xe và sỹ quan Hồng quân.



 



Có lần tôi làm một cái camera bằng gỗ (nó đại loại là một cái camera đục lỗ, camera thụ động, một thiết bị đơn giản được dùng rộng rãi trước thời máy chụp ảnh hiện đại ra đời ở thế kỷ 19), nhưng không có gì để làm thấu kính, dù chỉ là một cặp mắt kiếng – và tôi đã dùng dùi nóng, dùi một cái lỗ, làm một cái kính mờ mờ với tro. Ttôi đã rất ngạc nhiên khi nhìn qua đó và thấy rõ ràng chú chó săn của tôi đang chạy ngang qua ở đằng xa. Nhưng con chó bị lộn ngược!



Dân khu mỏ, biết đến thứ đồ chơi mới mẻ của tôi đã rất nhiệt tình tán dương: “Cu nhỏ Mansur Abdulin thiệt khá. Hắn làm một cái đồ chơi tuyệt vời, nhìn qua đó, toàn bộ đàn bà-con gái bị lộn ngược đầu xuống và váy bị tốc ngược qua đầu. Và lúc đó tha hồ ngắm nhé, họ không mặc quần! Ha-ha!”. Vì vậy, phụ nữ mỗi khi thấy tôi với cái đồ chơi đó, la hét hoảng loạn và cố chạy hoặc trốn đi. Cuối cùng họ phục kích, đánh ngã tôi và lấy món đồ, véo mũi và gần như xé rách tai tôi.



 



Một dịp khác, có lẽ là người tham gia bền bỉ và khá nhất trong đội kịch nghiệp dư, tôi được phân một vai sĩ quan Bạch Vệ (đối thủ của Hồng Quân trong cuộc nội chiến 1918-1921 – ND), với một cặp kìm nóng đỏ tra tấn những người Cộng sản chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân bị bắt. Nhưng buổi diễn không bao giờ kết thúc, bởi lẽ một vài anh chàng khán giả đã xông lên sân khấu gào toán lên “Giết bọn Trắng!” doạ đánh tôi, chắc do tôi diễn quá đạt. Tôi phải chịu đựng khá nhiều cho ước mơ làm diễn viên của mình.



Tôi cũng vẽ rất khá, và đã trang trí cho vài quyển tập viết (vốn được cung cấp rất ít) bằng những bức tranh của tôi, và kết quả là cha tôi đã “trang trí” cho mông của tôi với thắt lưng da của ông thật lực đến nỗi mà cả tuần sau tôi vẫn phải nằm tênh hênh, sấp bụng giơ đít cho bọn gián xem….




Cả thời thơ ấu của tôi ở khu mỏ Miasski. Khi lớn hơn một tí, cả mùa hè từ sáng đến tối, cùng với đám con trai và vài đứa con gái, chúng tôi tìm vàng: sàng những mẩu đất cát trong những chậu kim loại đơn giản hoặc những các xẻng đào vào. Lúc này cuộc sống chúng tôi đã khá hơn: ít bị đói và có tiền để mua quần áo.



 



Năm 1940, để được cấp sổ gạo, tôi bỏ học và đi làm trong mỏ, với công việc là đẩy xe gòong. Nhưng chiến tranh đã nổ ra ngày 22 tháng 6 năm 1941. Là một thợ mỏ, tôi không bị động viên, nhưng tôi lại xoay sở để gia nhập quân đội.



Bốn chúng tôi là Nikolai Koniayev, Ivan Vanshin, Victor Karpov và tôi. Cùng đến phòng đăng ký tuyển quân và cố thuyết phục người cán bộ ở đó rằng nghiệp vụ mỏ của chúng tôi không ghê gớm đến mức phải giữ chúng tôi ở xa mặt trận, nhưng anh ta vẫn khăng khăng: “Tôi không thể, tôi được lệnh từ Uỷ ban Quốc phòng, tôi không có quyền!”, Và- tôi nhớ lại điều đó với một nụ cười- chúng tôi đe doạ anh ta rằng sẽ đột nhập vào một cửa hàng trong đêm: khi đó chúng tôi có khả năng sẽ bị đưa đến một tiểu đoàn trừng giới, ở toà, chúng tôi sẽ khai rằng vì thiếu tá Galkin cố ngăn chúng tôi ra trận!



Vị thiếu tá giải quyết ngay vấn đề. Anh ta gọi thẳng cho ai đó để được phép. Và ngay lập tức, chúng tôi đã thấy mình trần truồng đứng trước những cặp mắt xăm soi của một uỷ ban tuyển chọn học sinh sỹ quan cho trường phi công. Chỉ có hai trong số chúng tôi được chọn: bạn thân nhất của tôi Nikolai Koniayev và Victor Karpov. Vanshin và tôi trở lại phòng tuyển quân và cùng trong ngày, anh ta đi đến trường xe tăng Chirchiks, còn tôi thì đến trường bộ binh Tashkent (được mang tên V.Lenin). Dĩ nhiên tôi ghen tị với bọn họ. Nhưng số phận đã định đoạn rằng, chỉ tôi, một lính bộ binh, sống sót sau cuộc chiến.


 



Sau khi tốt nghiệp ở trường, tôi, một lần nữa lại bị cản trở đến với các hoạt động tích cực. Là một học viên gương mẫu, tôi được gọi ở lại trường làm giảng viên. Và đồng đội ghen tị với tôi, số khác thì lưu ý một cách hằn học: “ Hắn muốn ra trận biết bao nhiêu, nhưng chúng ta thấy điều gì rồi đấy!”. Không bao giờ, tôi đã có kế. Tôi âm mưu với một học viên ưu tú khác, họ anh ta là Taktzer. Anh ta ăn một mẩu xà phòng giặt, và vào bệnh viện. Anh ta bị tiêu chảy, còn tôi thì đến gặp chính uỷ trường với một đề nghị: “Hãy để Taktzer lại, còn tôi thì chuyển vào danh sách ra trận!”. Tất cả đồng đội đã vui mừng khi thấy tôi – ít ra là vì tôi hát hay nhất – và tôi thì nhận nhiệm vụ cùng với một đội 700 thiếu uý mới toanh.





Khi chúng tôi đến sư đoàn, các đồng đội của tôi được phân về các trung đoàn khác nhau, còn tôi thì ở lại sở chỉ huy, làm dự bị. Tôi không mong muốn ở lại phía sau, nhưng, thật vô ích để van vỉ xin ra một trung đoàn tiền tuyến. Câu trả lời thường là: “ Trong quân ngũ không có những thứ đại loại như tôi sẽ không, tôi không thể hay tôi không biết thế nào”.



 



Vào một ngày, tôi đang ở sở chỉ huy, sư trưởng cho gọi tôi. Không để cho tôi báo cáo, sư trưởng ấm áp cho tôi ngồi và đẩy một gói Kazbek đến bên ghế và bảo “ Hút thuốc đi!”. Tôi từng để ý những lúc ông ta nhìn tôi: kiểu như nhìn dân Gipsy trong phiên chợ hoặc ngắm con ngựa mà ông ta yêu thích. Tôi không can đảm hút thuốc trước mặt một vị tướng và chuẩn bị cho điều tệ hại nhất, tôi cũng biết là ông đang tìm một sĩ quan phụ tá. Như thường lệ, sư trưởng đang chuyếch choáng say. Ông nhìn tôi bằng cặp mắt bò mộng của mình và lầm bầm một cách hách dịch, gần như không đánh lưỡi:



-         Hôm nay, tôi quyết định ký lệnh điều động anh làm sĩ quan phụ tá của tôi. Tôi hài lòng với kết quả học tập và trình diễn của anh, tôi đợi sự đồng ý của anh.



-         Tôi đề nghị được chuyển đến trung đoàn 1034, nơi những đồng đội của tôi đang phục vụ



Tôi trả lời.



-         Tôi đã không nghĩ rằng anh từ chối! Anh không tin là không có gì lãng mạn ở chiến tuyến à? Đó chỉ là một lò sát sinh! Hãy nói “đồng ý” và anh sẽ không hối tiếc vì điều đó. Tôi tin là anh sẽ có được nhiều huân chương và thăng cấp. Hãy suy nghĩ. Tôi sẽ không tệ với anh!



-         Không, thưa đồng chí Tướng quân. Tôi không biết đánh giầy, nhưng tôi biết chiến đấu.



-         Nhưng tại sao?



Ông ta nhướng đôi mày rậm rạp, thành một vạch xám thẳng, và giữ chúng lơ lửng đề phòng câu trả lời của tôi.



-         Thưa, tôi đã thề với bạn tôi là sẽ cùng chiến đấu.



-         Sẽ không ai trong số bạn anh từ chối lời đề nghị vừa rồi đâu.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:09:44 am
Và đó là là điều đã đưa tôi, cuối cùng, đến với tiền tuyến cùng đám bạn học sinh sỹ quan. Tôi đã bảo với Chính uỷ trung đoàn rằng tôi muốn là một người lính thường và được rèn giũa, bởi tôi sẽ thấy ngại khi phải chỉ huy những người lính ở cái tuổi, có thể bằng cha tôi; và rằng tôi muốn có kinh nghiệm “nghe mùi thuốc súng”. Do đã có đủ thiếu uý nên yêu cầu của tôi được chấp nhận.



 



Tôi có biết rằng tôi đối mặt với tử thần không? Tôi có. Và tôi cũng chưa hề tưởng tượng ra một hình ảnh đặc biệt như thứ mà tôi vừa thấy ở dưới chân hẻm núi trong ánh sáng tím tái của hoả châu. Nhưng con người thật lạ thường! Lúc này đây, ở làng Brichmulla đầy hoa, cách hẻm núi đó hàng ngàn cây số, tôi tự biết rằng, tôi vẫn sẽ hăng hái đến phòng tuyển quân, và đề nghị được đưa đến đó.



Tôi thật tình không muốn chết, nhưng cũng như vậy, tôi không muốn sống với lương tâm bị cắn rứt. Cứ nghĩ rằng tôi sẽ bị day dứt thế nào khi ở lại mỏ: tôi sẽ phải nói thế nào khi chiến tranh chấm dứt? Rằng tiến tuyến cũng cần những người có khả năng, đặc biệt là ở mỏ để phục vụ cho việc bảo vệ tổ quốc? Điều đó đúng. Nhưng bạn không thể giải thích điều này cho mọi người; thuyết phục mọi người. Cả những cô gái cũng đựơc gọi ra trận. Nhưng tôi muốn sống biết bao! Thật kinh khủng khi thành những xác ma ở một hẻm núi, chiếu sáng bởi ánh tím hoả châu…



 



Dòng suy nghĩ bị ngắn quảng bởi sự xuất hiện của Suvorov, người, dường như cũng không thể ngủ:



-  “Mansur à, sợ không?”



Tôi cảm thấy như ai đó đánh vào bụng,



-  “Nào, đừng có xấu hổ” anh ta nháy mắt “ai cũng sợ cả”.



Tôi thẳng thắn thừa nhận rằng đã nhìn những người khác nhưng không thấy gì.



- “Họ cố không để lộ ra thôi” Suvorov giải thích với một giọng thân ái và nháy mắt lần nữa như chia sẽ một bí mật “Cậu cũng không để lộ ra. Vểnh đuôi lên nào!”.



 



Tôi vui vẻ trở lại. Suvorov hơn tôi 7 tuổi, một quân nhân chuyên nghiệp, trước chiến tranh phục vụ trong Trung đoàn Mat-cơ-va số 1 và đã đựơc tặng thưởng huân chương Sao đỏ. Tôi hỏi anh rằng có khi nào anh quá sợ không?



- “Cậu nghỉ là anh không muốn sống à?” Anh mỉm cười. “Nhưng chúng ta có thể làm gì hả cu Mansur? Chúng ta không bảo chúng, nhưng chúng đến (một đoạn lời trong bài hát phổ biến). Chúng muốn đất đai. Của cậu và của anh! Chúng là “Ubermenschen”- dân thượng đẳng- cậu hiểu không? Chúng ta chỉ đáng để đánh giày cho chúng. Cậu thích như thế à? Và với mọi người chỉ có một con đường: chiến đấu. Một cuộc chiến lớn. Mọi người không thể chỉ đứng và nhìn, sợ hoặc không…”




Trời đã sáng. Những tay súng máy Đức đã thôi bắn. Và cũng không còn hoả châu. Đêm đã qua. “Nào, đi nào, anh sẽ chỉ cậu lối đi” Suvorov nói.



Điểm quan sát được nguỵ trang cẩn thận. Suvorov nhìn vào kính viễn vọng và sau đó nhường chỗ cho tôi, nhưng vẫn đứng cạnh, hạ giọng:



- “Chúng cách khoảng 300m” anh nói ”và ngược nắng”.



Anh chúc tôi may mắn và rời đi.



Chúng bị ngược nắng. Điều này có nghĩa là tôi có thể tự do quan sát vị trí của chúng. Tôi đặt điểm ngắm cố định cho khẩu súng trường tự động – lên đạn, tỳ báng súng vào vai, tôi cảm thấy được khẩu súng – mọi thứ ổn cả – và tôi ngắm vào chiến hào quân địch gần kề, trong khi những suy nghĩ khác nhau chạy qua tâm trí tôi.



 



Tôi nhớ những cánh rừng Siberi quê tôi. Tôi vẫn là một đứa trẻ. Một dấu X khắc lên thân cây thông làm đích ngắm. Một chạc cây Bu-lo chống trên đất đỡ cho cây súng săn nặng. Tôi được 8 tuổi và cha tôi đang dạy tôi bắn: “Con đến đây, và ngắm như thế này này!”. Người dạy tôi cách ngắm, và tôi vụng về ghì lấy cây súng. Điểm ngắm và dấu X nằm ngay trên một đường thẳng. Tôi rất vội vàng, vì trong rừng phải bắn rất nhanh: gà rừng sẽ không ở lại chờ, chúng bay mất! Tôi bấm cò, nhưng không có gì xảy ra cả. Phải chăng tay tôi quá yếu? Tôi ước rằng cha tôi hoãn việc dạy tôi bắn cho đến khi tôi lớn hơn! Đỏ mặt vì căng thẳng, tôi bóp cò lần nữa với tất cả sức lực. Cha tôi đang giục tôi: “ Đừng ngắm nữa, bắn đi!”. Tôi cố bóp và bóp, thấy như mình muốn nổ tung vì căng thẳng.



Đột nhiên tôi bắn ra – không phải đạn – mà là một phát rắm to, với một âm thanh kinh khủng nghe như tiếng xé vải dầu mà chúng tôi thường dùng may đồng phục thợ mỏ. Cha tôi cười nghiên ngả. Ông cười đến nỗi phải ngồi xuống và ngẩng đầu lên, tôi có thể thấy rõ từng chiếc răng trắng khoẻ của ông. Sau đó, ông chỉ tôi thấy rằng tôi đang bóp cái kẹp thay vì cò súng. Rốt cuộc, tôi bắt đầu bắn tốt, làm cha tôi hiếm khi đủ thời gian để nạp đạn cho khẩu súng. Tôi vui mừng, nhưng người còn vui hơn.


Tôi bối rối làm sao khi nghĩ rằng đây không phải là gà rừng, tôi từng săn, mà là con người?  Và tôi nhớ vài điều khác. Tôi nhớ hai tuần trước, sau khi sư đoàn của chúng tôi vội vã lên một chuyến tàu quân sự (trung đoàn 1034 lên tàu ở một ga nhỏ tên là Koltubanka) và đi ra mặt trận, chúng tôi bị máy bay địch ném bom. Những tay lái tàu đột ngột cho tàu chậm lại hoặc chạy nhanh lên phía trước. Những trái bom không làm hư hại đoàn tàu, nhưng những phi cơ bọn Đức, bay thấp, bắn được vào vài toa bằng súng máy. Khói TNT và than đá, mùi đất cháy, máu của người chết và bị thương, tiếng rên: tất cả những thứ này tôi đã thấy, đã thở và đã nghe, dù rằng chiến trường còn cách hàng trăm cây số. Nhiều đồng đội của tôi đã hi sinh mà chưa giết được tên Fritz nào. Điều này có xảy đến với tôi không? Tôi có bị giết không? Tôi có chết một cách vô nghĩa không? Không thể! Chết mà không kịp thấy được kẻ thù sau bấy nhiêu cố gắng để được ra trận ư?



 



Bây giờ điều duy nhất mà tôi thấy là thảo nguyên bát ngát đến tận chân trời. Mọi vật vẫn yên lặng. Không một tiếng động. Đột nhiên, có sự di chuyển đằng trước. Tim tôi đập loạn. Khẩu súng của tôi rất tuyệt – tôi có thể bắn trúng một cái lon ở khoảng cách 100m. Đột nhiên, tôi thấy nóng ran. Mục tiêu rõ dần lên. Bọn Đức. Chúng đang đi trong chiến hào. Bao nhiêu tên nhỉ? Chúng mang rơm trên vai, ràng bằng dây thắt lưng. Chúng quay lại, và bây giờ tôi có thể thấy 3 tên. Chúng đi  theo chiến hào của bọn chúng dọc chiến tuyến. Tôi phải bắn ngay. Tôi quyết định ngắm vào tên đi giữa. Nhưng việc gì xảy ra đây? Tôi dường như không thể đưa khe ngắm, đầu ruồi và mục tiêu vào thẳng hàng: nếu đầu ruồi và mục tiêu thẳng thì tôi mất khe ngắm! Nếu có khe ngắm thì mất đầu ruồi!. Tôi toát mồ hôi. Nó chảy đầy vào mắt tôi. Khẩu súng run rẩy trong tay tôi. Sự thật là tôi đã trượt, tôi kéo cò. Sự yên lặng bị tiếng nổ phá vỡ.



 



Bọn Đức ngay tức khắc biến mất, và tôi – từ từ, như thể bị thương- tuột xuống đáy điểm quan sát. Lúc đó tôi thấy ghét mình vô cùng! Đồ thất bại! Một cơ hội ngon ăn bị trượt! Tôi tin là tôi đã quá sợ, quá lo vì sợ tôi chết mà không kịp gây tổn thất nào địch. Giá mà tôi có thể giết một tên trong bọn chúng! Để cân bằng. Chính suy nghĩ đó đã làm tôi run và bắn vội vàng sớm hơn khi chúng vào tầm. Tôi chả ra ôn gì cả!



Tất cả những điều đó lướt qua óc tôi trong giây lát. Sau đó tôi lại đứng dậy, tì báng súng vào vai. Ồ, bọn Fritz đâu rồi? Dĩ nhiên là chúng chuồn rồi. Không, chúng vẫn đang chạy trong hào, cúi người thấp hơn và đi chậm hơn. Một suy nghĩ thoáng qua: “Bây giờ thì không thể bắn hạ được chúng”. Khe ngắm, đầu ruồi, mục tiêu thằng hàng. Thật lạ, tôi không còn run. Mọi thứ sẳn sàng. Tôi chuyển điểm ngắm cách vài căn-ti-mét về phía trước tên Nazi ở giữa và bóp cò một cách êm ả.



 



Tên Fritz đi đầu gập đôi người đến mức chỉ còn thấy bó rơm trên lưng, tiếp tục chạy, nhưng tên thứ hai thì đứng thẳng người, đầu hắn giật ra sau một cách bất-tự-nhiên, xoay vòng rồi đổ sụp xuống như một con búp bê bằng giẻ. Lo nhìn nạn nhân của tôi chậm chạp ngã xuống, tôi quên không để ý tên thứ ba như thế nào. Suy nghĩ đầu tiên của tôi là “Không có anh chàng nào sẽ tin là mình đã hạ được một tên Đức”. Chỉ một phút trước tôi đã nguyền rủa mình, nhưng bây giờ tôi ngập tràn tự hào “ Giá như chỉ một tay trong chúng tôi có thể nhìn thấy”.



 



Bỗng nhiên tôi nghe tiếng gọi:



- “Tốt lắm, Abdulin, tốt lắm! Sao cậu không là komsorg (nghĩa là bí thư chi đoàn – đoàn TNCS Komsomol - ND) đại đội nhỉ?”



Tôi thấy đại uý Chetkaxov, chính uỷ tiểu đoàn. Anh hạ ống nhòm xuống và cười với tôi:



- “Cậu là người đầu tiên trong tiểu đoàn gây đựơc tổn thất lên quân địch”.



Anh ấy nghe tiếng súng, quay người bò đến điểm quan sát và thấy tôi hạ tên Đức. MỘt giờ sau, Chetkasov bảo tôi rằng tôi là người đầu tiên trong cả trung đoàn hạ đựơc một kẻ địch, và tôi sẽ được nhận một huy chương “Vì lòng dũng cảm”.



 



Tôi phải nói rằng, sau đó, tôi đã làm được nhiều điều quan trọng hơn trong những tình huống phức tạp hơn là phát súng thành công đầu tiên này. Và tôi không nhận được huân chương nào cho những điều đó. Nhưng tư tưởng chiến tranh là mối quan hệ vật chất.  Mọi người nên nhớ rằng trung đoàn của chúng tôi chủ yếu là những học sinh sĩ quan thiếu kinh nghiệm; và rằng trung đoàn vừa đến mặt trận; và đó là yếu tố cần thiết để đưa chúng tôi thích nghi với điều kiện hoạt động càng sớm càng tốt. Ở mỗi đại đội, chính trị viên thường nói với mọi người về mục tiêu hiện cần đạt được đó là: mỗi chiến sỹ phải tiêu diệt được ít nhất một địch quân để kỷ niệm ngày Cách mạng CNXH.



 



Vị chính uỷ tặng tôi một cuốn sổ. Trang đầu, anh đã chính tay viết những dòng trích sau: “ Ngày 6 tháng 11 năm 1942, tại phương diện quân Tây Nam, gần làng Kletskaia, học sinh sỹ quan Lê Nin, trường bộ binh Tashkent, Mansur G. Abdulin, là người đầu tiên ở trung đoàn 1034 gây tổn hại cho địch quân, giết một tên Hít le để vinh quanh kỷ niệm ngày thứ 25 Cách mạng tháng 10 vĩ đại. Chính uỷ tiểu đoàn  Đại uý Chetkasov”. Chính uỷ chúng tôi là một người tốt. Tôi nhớ anh ta như trong hình ảnh một bài hát, “ Mọi người biết chính uỷ, anh không trẻ không già…”.



Và nhanh sau đó tôi gia nhập Đảng Cộng Sản và được bầu làm partorg (tức bí thư chi bộ - ND) đại đội. Tôi viết cả những điều đó vào lá thư thứ hai gửi cho cha tôi, một người Bolshevik già. Ông hẳng sẽ tự hào về con trai mình! Tôi đã viết rằng tôi đã giết một tên Nazi và vì vậy “ Con sẽ không thấy hối tiếc cho dù điều gì sẽ xảy ra…” và thêm vào “Đây là một nơi kinh khủng …”



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:11:40 am


Chương 2: Trận đánh đầu tiên



 



            Ở về phía thượng nguồn, phía sau chúng tôi, là vùng Kulikovo, nơi mà 6 thế kỷ trước, quân Nga đã đánh bại quân bộ lạc Mông Cổ Mamai. Còn ở trước chúng tôi, cách một khu phân tuyến rộng 300m, là bọn rợ Hitle mà chúng tôi phải tiêu diệt.



 



            Ngày 14 tháng 11 năm 1942, trung đoàn chúng tôi được lệnh đột phá và chiếm tuyến phòng ngự của quân Đức. Về cơ bản thì đây là một trận trinh sát chiến đấu: dù vào lúc đó, những người lính không được cho biết về chiến thuật của chỉ huy, chúng tôi không có nhận thức được về sự thật này. Không có pháo binh yểm trợ, chúng tôi ào lên vị trí địch, trong khi đó bọn Fritz – để chống lại bước tiến của trung đoàn chúng tôi- buộc phải bắn bằng tất cả các loại hoả lực, và như vậy làm lộ vị trí của chúng. Đó là yếu tố cần thiết để các chỉ huy xác định chính xác vị trí các mục tiêu cho cuộc phản công sắp tới. Và dĩ nhiên, chúng tôi thất bại trong việc xuyên thủng tuyến quân Đức nhưng đã thành công trong việc xác định hoả lực quân địch. Chúng tôi mất nhiều người trong trận đánh, khi kết thúc, ở tuyến trận địa của chúng tôi chỉ còn đúng



một tiểu đoàn trấn giữ.



 



Bức tranh tổng thể của trận đánh đầu tiên trở nên rõ ràng hơn trong đêm đó, khi trận đánh kết thúc, tôi với những người sống sót đứng nhìn gần khu phân tuyến. Đó là một đêm mưa phùn. Trời trở rét. Trong bóng tối, chúng tôi có thể nghe tiếng đá vỡ lạo xạo dưới chân. Và khi trăng lên, dưới ánh sáng lạnh lẽo, là một quần thể hàng trăm bức tượng mang dáng vẻ con người - những người lính chết cứng trong đá. Một số thì nằm ngửa một cách thẳng thớm, số khác thì xoắn người, vặn vẹo. Người thì ngồi nhổm với cánh tay giơ cao, như thể giục giã đồng đội tiếp tục tấn công. Những khuôn mặt hoá đá với cặp mắt mở trừng trừng và miệng như đang hét. Nhiều thi thể khác chất chồng trên dây kẽm gai, đè bẹp chúng sát đất với sức nặng của chính họ, làm lộ rõ một lối đi đến chiến hào bọn Quốc Xã. Tâm trí của con người không thể hiểu thấu được cảnh đó, khó chấp nhận cái quần thể đông cứng đó là sự thật cuộc sống. Như thể nếu ai đó đột ngột bật camera lên và những khung hình đông cứng có thể bắt đầu chuyển động.



Tuyết bắt đầu rơi. Trận bão tuyết đã che đi những cảnh tượng kinh khủng của cuộc chiến khỏi mắt chúng tôi. Đến sáng, mặt đất như được phủ lên một tấm chăn trắng khổng lồ. Một tấm vải liệm. Và bấy giờ tất cả những gì có thể thấy chỉ là một thảo nguyên trải dài: không vết gợn, thanh thản. Như thể sự trong sạch nguyên thuỷ trị vì một cách bất diệt ở nơi đây. Và điều đó kéo dài đến tận ngày 19 tháng 11.





Phần lớn số đồng đội học sinh sỹ quan của tôi đã hi sinh trong trận đánh đầu tiên đó, là tiền đề cho cuộc phản công thắng lợi của chúng tôi ở khu vực Stalingrad. Tôi tự hỏi Khismatullin có thể biết được rằng họ muốn làm gì trong cuộc đời không? Anh ấy, cũng đã hi sinh trong trận chiến.



Sáng ngày 19 tháng 11 năm 1942, hàng tảng đất to đột ngột bị bẻ vụn từ những bức tường lạnh lẽo của các chiến hào; mặt đất dưới chân lắc lư như thể là một miếng cao su lớn;và không khí cũng rung lên, kích động bởi những thứ gì đó to lớn, một lực vô hình, như muốn xé màng nhỉ và phổi chúng tôi. Lúc đó, qua vùng-đất-không-người, mặt đất nổ tung, văng lên hàng cột sỏi đất lớn lên không trung và rơi xuống như một chiếc khăn trùm đen nặng nề, tối tăm lên chiến hào quân Đức: tiếng súng quân ta, cô đặc vào một tiếng gầm đầy sát khí đơn độc, những sứ giả của cuộc phản công mong đợi từ lâu ở Stalingrad.



 



Chúng tôi muốn hét lên “Hurrah!” nhưng chỉ phát ra được những âm thanh như “a-a-a…”. Mọi âm thanh rung chuyển! Và thật là lố bịch khi nghe những tiếng be be đó của chính mình và người khác: chúng tôi tốt hơn là nên im lặng khi đại bác lên tiếng! Trong lúc đó, tấm rèm đen từ đất cát vỡ vụng vẫn bao trùng lên chiến tuyến bọn Quốc Xã: “Chưa đủ phải không?” một ý nghĩa chợt đến, “pháo thủ của chúng ta lãng phí quá nhiều đạn, họ phải tiết kiệm một ít!”. Nhưng có lẽ, làm quá một tý so với cái cách quanh đây là tốt hơn.



 



Tiếng gầm của đại bác đột nhiên ngớt đi. Vào phút đó, từ vùng tuyết sau chúng tôi, hàng trăm chiếc tăng xuất hiện và băng về phía trước, vượt qua chiến hào của chúng tôi. Sau khi nằm xuống và chờ chúng vượt qua chiến hào, chúng tôi nhảy lên: Suvorov, chỉ huy pháo đội mang máy ngắm, tôi, nòng, Fuat Khudaibergenov, giá đỡ, số 4, chân đế và số 5, đạn. Chúng tôi chạy thẳng vào bức tường đầy bụi đen đang chậm chạp rơi xuống.



 



Chúng tôi vượt qua tuyến phòng thủ của bọn Nazi, nhưng ở đó không còn gì cả trừ đất đá và khói. Không còn bất kỳ một người sống nào! Tốt, có vẻ như sự hi sinh của những đồng đội chúng tôi năm ngày trước đây không phải là vô giá trị: biết được vị trí của hoả lực địch quân, pháo binh phe ta hôm nay đã quét sạch các mục tiêu, và cuộc phản công thắng lợi. Chúng tôi không thể thấy thi thể của quân địch: chúng đã bị chôn vùi trong trận pháo kích.




Tôi nhớ đám quân Rumani đầu hàng mà không chống cự, hô “Antonescu kaputt! Stalin gut! Rus Kamerad gut!” và tiếp tục chơi bài Katiusha (một bài hát Nga rất phổ biến – NV) bằng đàn organ-hơi. Ngựa của họ cũng rất tuyệt: đẹp và chải chuốt. Những bộ yên cương làm bằng da tốt, không cốt yên hoặc vòng cổ mà chỉ là những tấm đai dày và rộng. Thùng xe (ngựa) thì trang trí theo kiểu người Gypsy. Một số trông rất sang trọng với cửa sổ, rèm và chạy bằng bánh cao su. Sư đoàn bộ binh chúng tôi tức khắc chuyển thành kỵ binh! Mọi người đều có một con ngựa! Nhưng sang ngày hôm sau bọn ngựa phải bị bỏ lại.



Đám pháo thủ chúng tôi quyết định thay lũ ngựa lùn Mông Cổ bằng ngựa kéo xe của Rumani. Nhưng ngay hôm sau đã thay ngược trở lại: họ vui mừng thấy đám ngựa Mông Cổ bị bỏ rơi đó không hề chán nản mà vẫn chạy cùng, như những chú chó trung thành. Lông lá, nhỏ bé, tiều tuỵ và ít chăm sóc, lũ ngựa Mông Cổ rất dai sức và phục vụ chúng tôi đến cuối cuộc chiến. Trong khi bọn ngựa nòi Rumani lần lượt bị bỏ lại. Dù đẹp và đỏm dáng, chúng quá mỏng manh cho chiến tranh.



Bạn đã từng thấy một con ngựa bị thương chưa? Tôi đã thấy. Đó là con ngựa tôi đã cưỡi được vài cây số, cho đến khi một quả đạn nổ cạnh chúng tôi. Tôi rớt xuống sau khi lộn vài vòng trong không trung. Khi đó tôi thấy con vật: chân trước cố chống lên, cử động giật cục như đang nhảy; toàn thân nó đẫm mồ hôi, các cơ rung lên với một cố gắng vô vọng. Con vật tội nghiệp không hiểu rằng nó không thể đứng dậy được nữa. Mũi nó phập phồng, hồng hồng và thấm đẫm máu. Nó rên rĩ như người, và nhìn tôi với cặp mắt mở to, nó khóc. Tôi đứng gần đó nhưng không đủ nghị lực để bắn. Vài người lính già đã dừng lại và chấm dứt sự đau đớn cho con ngựa tội nghiệp. Họ rút khẩu carbine dí vào tai nó và bắn.



Tôi đang khóc khi viết những dòng này. Chú ngựa đã chết đó nghĩ gì khi nó nhìn tôi với cặp mắt mở tròn? Rằng con người là một giống loài bệnh hoạn, một quái trạng của tạo hoá? Không, quan điểm này chỉ được biết bởi chính con người. Ở thời khắc sau cùng, con ngựa đã mong đợi ở tôi – một con người – sự giúp đỡ và bảo vệ




Vùng Kalach bên bờ sông Đông được giải phóng bởi lực lượng tăng. Lũ bộ binh chúng tôi chỉ tiến vào thị trấn đã đựơc tự do đó một ngày sau. Chúng tôi không tham gia vào chiến dịch đó, chúng tôi chỉ đi qua vùng này thôi. Trước khi vào Kalach, khi đơn vị chúng tôi đang hành quân kéo dài trên xa lộ -  vài tay cưỡi ngựa, những người khác thì đi bộ – đột nhiên chúng tôi nghe tiếng hét…



- “Máy bay oanh tạc”



Máy bay nào? Hôm nay trời mù sương! Rồi tôi nghe tíêng động cơ ro ro. Tôi thấy bọn chúng: những chiếc máy bay ném bom bụng phệ của bọn Đức, bay thấp dưới 100m. Chúng ngay trên dòng người của chúng tôi, thảy xuống những món đồ của thần chết.



Bom rơi như mưa trên lộ, nhưng chúng không nổ liền. Trong vài giây, tôi cố chạy lên phía trước, nhảy qua những người nằm chúi xuống đất khi nghe báo động. Tôi chạy tránh hoặc nhảy qua những quả bom vừa rơi xuống, có chừng mười quả trước mặt tôi. Tôi nghe những tiếng nổ phía sau – tiếng ầm vang liền nhau, vụn đất rơi trên đầu.



Đột nhiên, trong đầu tôi loé lên rằng tôi phải chuyển hướng chạy, nên quẹo phải rời khỏi con đường. Và tôi đã làm như vậy. Nhưng ngay lúc đó, trứơc mặt tôi, tôi thấy một vật kim loại bự lăn tròn trong hào. Tôi không có thời gian để đi vòng qua nó. “Nó rơi xuống bao lâu rồi?” tôi tự hỏi “mình có làm được không?”. Tôi cảm thấy bực bội khi  nhảy qua nó bởi vì tôi thấy mình chậm quá, như thể có một khối nam châm lớn đang hút tôi lại. Sau chừng nửa phút, tôi chạm được đến đất. Có thứ gì đó bay qua đầu tôi và rớt xuống phía trước. Tôi nhảy qua. Cái gì vậy? Một cái đầu ngựa cùng với dây cương: tôi nhận ra đó là con ngựa của trung đội trưởng. Tôi nhào xuống và dán người sát đất, tìm một chỗ trú ẩn. Sức nổ xé tan chiếc ba lô sau lưng tôi và ném nó đi. Đờ đẫn, tôi chệch choạng đứng lên, ho và nôn mửa như muốn dốc ruột ra. Đất đen quanh tôi – hoàn toàn không còn tuyết – những mẫu chân tay đẫm máu, mùi cháy khét, tai tôi đau nhứt.



Trong đầu tôi, vẫn lưu một hình ảnh khi đang chạy theo bản năng: một quả bom tròn đáp đúng vào lưng ngựa trung đội trưởng chúng tôi. Anh ấy bị xé vụn, một chân rớt trên đất, chân kia còn trên bàn đạp. Con đường nhầy nhụa máu: những gì còn lại của những người đã nằm xuống khi nghe tiếng báo động.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:12:26 am


Chiếc cầu qua sông Đông, vốn được lính tăng dùng để đột kích vào làng, đã bị không quân Đức phá huỷ: chúng tôi qua sông trên mặt băng trơn nhẵn, hầu như không thể đi. Nặng nề với nòng, với giá đỡ, chân đế của khẩu cối, chúng tôi hoàn toàn có thể làm vỡ băng – đặc biệt nếu ai đó bị trượt ngã – và tất cả sẽ kết thúc trong dòng nước lạnh lẽo. Chúng tôi được lệnh mang đầy đất trong mũ, trong vạt áo khoát và ném chúng ra phía trước, mỗi người đi cách nhau 5m. Bằng cách đó, chúng tôi lần lượt vượt qua lớp băng mỏng manh, lấp lánh.



Mặt băng võng xuống dưới chân chúng tôi, đe doạ sẽ vỡ bất kỳ lúc nào. Chung quanh tôi chỉ nghe những tiếng thở nặng nề và những tiếng càu nhàu khe khẽ. “Yên nào”, “Cậu đi nặng như voi ý!”,”Cẩn thận”. Cây cầu ở gần đấy. Đội công binh sửa trên đó trông như một bầy kiến. Xe hơi, xe ngựa dồn cứng trước cầu và vẫn còn rất nhiều đang đi đến. Pháo cũng phải chờ công binh sửa các nhịp cầu hỏng, vì lớp băng quá mỏng để có thể đi qua được. Nhưng còn chúng tôi, bộ binh thì đã sẵn sàng bên tả ngạn. Thiết giáp của chúng ta ở đâu nhỉ? Trên tất cả các ngả đường từ sông Đôn đến thị trấn – trong chiến hào, trong mương rãnh, dọc đường – chúng tôi thấy nhiều xác quân Nazi và những khí tài hỏng của chúng. Lực lượng tăng-thiết giáp hoạt động rất tuyệt.



Chúng tôi đến Kalach vào lúc rạng đông. Những con phố vắng là chứng nhân cho các phi vụ ác liệt của quân địch. Mọi thứ đồ đạt, của cải, bị bỏ lại – rơi vãi chung quanh. Những cánh cửa sổ mở toang, kính vỡ ở khắp nơi. Dường như bọn Fritz nhảy qua cửa sổ xuống đường. Ở đằng kia, mọi người có thể thấy một xác lính Đức mặc áo dài, tựa vào bậu cửa…




Quân địch ở đâu nhỉ? Cách đó tám kilomét là Illarionovskaia, một ngôi làng lớn. Tiểu đoàn trưởng Dudko và chính uỷ Alexander Chetkasov cho gọi tôi và một anh Mayorov nào đó, một học sinh sỹ quan trường Không ảnh Orsk (Orsk Aerial Photography School). Chúng tôi được lệnh rằng chúng tôi có 4 tiếng đồng hồ để đến đó, tìm hiểu xem bọn Đức có đó không và báo cáo lại. Mayorov lớn hơn tôi chừng 2,3 tuổi, một tay tráng kiện, chắc nịch và tầm thước. Anh ấy được giao chịu trách nhiệm.



Để tiết kiệm thời gian, chúng tôi quyết định là sẽ đi xa chừng nào có thể trên chiếc xe đạp lấy được. Lúc đó là 8h chiều. Chúng tôi đạp tốc lực trên đường mòn vẹt bởi bọn Đức rút lui, vượt qua những chốt tiền tiêu và biến vào bóng tối.



Một lát chúng tôi đến một ngã ba đường. Tôi không biết Mayorov thế nào, còn ở trường bộ binh Tashkent, họ dạy chúng tôi những điều cơ bản về một cuộc trinh sát đêm: vì thế khi anh bạn đồng sự quyết định rằng chúng tôi nên chia ra và mỗi người đi một lối, tôi thuyết phục anh ấy rằng như vậy quá nguy hiểm. Nếu bọn Đức đang chiếm ngôi làng và đội tuần tra của chúng ở đâu đó gần đây thì sao? Tôi cho rằng cả hai con đường đều đến làng Illarionovskia nhưng từ các hướng khác nhau, và sẽ tốt hơn nếu hai người cùng đi trước-sau, như vậy người đi sau có thể yểm hộ cho người đi trước. Nhưng Mayorov không nghe.



“Cậu sợ à?” anh ấy lên giọng hỏi. Bấy giờ, tôi không có cách nào hơn là tuân lệnh, bởi tôi không muốn bị cho là một kẻ non gan, và cũng vì mệnh lệnh không phải là thứ để tranh cãi.



“Chúng ta sẽ gặp lại ở đây!” Mayorov gầm gừ,” nếu thấy xe của tôi còn ở đây thì đợi tôi chừng 15,20 phút, không hơn”. Và sau đó anh ấy chọn đi một lối và tôi lối còn lại…



            Tình hình đột nhiên trở nên vô vọng. Nếu bọn Đức còn trong làng, thì chúng sẽ đặt lính gác: ẩn nấp, nguỵ trang và nằm chờ. Còn tôi thì đi thẳng về bọn chúng, lộ rõ và không có yểm trợ: không phải như một tay trinh sát mà như một người tù chuẩn bị ra thẩm vấn – một con mồi dễ dàng cho quân địch. Trong giây lát chúng có thể xuất hiện ở quanh đây, trói gô tôi mà không có ai phía sau bắn chúng.



Tôi cầm quả lựu đạn chống tăng ở tay trái, để có thể rút chốt an toàn bằng tay phải. Tôi sẽ không để chúng bắt sống tôi. Nhưng tôi thấy bất an với hành động “trinh sát” điên khùng này.



Gợm đã, Mansur!  Ngộ nhỡ trực giác của mi sai, và đúng ra là chỉ có một con đường đến Illarionovskai thì sao? Như vậy rõ ràng là quyết định phân chia ra của Mayarov là đúng. Đầu óc tôi xoay sang những khả năng khác, tất cả đều xì xào “Hãy sẵn sàng hi sinh, nhưng phải giữ tinh thần, và chuẩn bị cho mọi điều”.



 



Tôi nằm xuống đất và cố tính xem tôi có thể thấy bao xa từ đây – có lẽ chừng 200m. Thảo nguyên phía trước tôi phủ đầy tuyết. Tôi không nghe thấy âm thanh gì đáng ngại (Tôi biết đất truyền âm tốt). Và đây là cách tôi đi: cứ mỗi 200m, tôi áp tai vào đất, lắng nghe một chút, rồi nhổm dậy, đi và rồi lại nằm xuống…



Đột nhiên tôi nghe tiếng ngựa ợ hơi. Mi thật may mắn, Mansur ạ! Phát hiện ra kẻ thù trước là cứu được mạng! Tôi trườn về phía trước vài mét như một con rắn, khẩu tiểu liên và lựu đạn sẵn sàng.



 



Tôi thấy hai người đàn ông trên lưng ngựa. Nhưng lũ ngựa không phải loại dành cho kỵ binh mà ngựa kéo xe. Tôi bối rối. Cả hai người đó đều đội ushanki (mũ lông trùm tai truyền thống của người Nga-NV), vậy họ không phải là bọn Nazi. Họ phi rất chậm và nói chuyện khe khẽ. Có thể chúng là bọn Politsai (lực lượng cảnh sát bản địa do Đức dựng nên – NV)? Nhưng tôi không thấy mang vũ khí. Bấy giờ họ đã đến trước mặt tôi.



“Đứng lại, giơ tay lên!” họ dừng lại và giơ tay ngay lập tức. “Các ông là ai? Từ đâu đến và đi đâu?”. Hai tay đó im lặng, nhìn tôi một cách nghi ngại. Tôi tiến gần họ, tay lăm lăm khẩu tiểu liên. Khi nhìn thấy bộ quân phục Hồng quân, họ bắt đầu luyến thoắng: rằng họ từ làng Illarionovskaia và rằng bọn Đức đã thiết lập phòng thủ ở đó. Tôi lục soát và tin rằng họ nói thật, tôi gửi họ về trung đoàn để báo cáo. Còn tôi thì quay trở lại nơi Mayorov và tôi để xe đạp lại. Tôi chờ Mayorov, nhưng anh ấy đã không trở lại dù 20 hay 40 phút ….



 



Khoảng 5 ngày sau, chúng tôi tiến công vào làng Illarionovskaia. Khi bọn Đức đã bị đá ra ngoài, chúng tôi tìm thấy thi thể đầy thương tích của Mayorov gần sở chỉ huy bọn Nazi. Anh nằm úp mặt. Trên đầu còn một lớp lót nhưng không thấy nón. Áo khoát cho thấy dấu vết của thắt lưng (anh ấy có một cái thắt lưng rất rộng theo kiểu Rumani) và chân vẫn còn giày, xà cạp. Những tù nhân của bọn Đức chứng nhận rằng anh đã không hé nửa lời trong các cuộc thẩm vấn và sau đó anh bị bắn chết. Chúng tôi chôn anh trên một quả đồi nhỏ phía bên phải ngoài làng. Anh sinh ra ở vùng Oriol.



 



Tôi biết là tôi không chịu trách nhiệm cho cái chết của Mayorov, nhưng vẫn bị dày vò bởi sự lưỡng lự của tôi. Lẽ ra tôi không nên quá xấu hổ khi bị coi là một kẻ nhát gan? Lẽ ra tôi nên cố thuyết phục anh ấy rằng phương án của tôi là tốt hơn? (quả thật là cả hai con đường đều đến làng Illarionovskaia). Hoặc lẽ ra tôi nên bỏ qua lệnh cuả anh và vẫn đi theo để yểm hộ anh? Đã quá trễ rồi cho việc suy xét các khả năng- nhiều đồng đội của tôi đã ngã xuống trước hoặc sau sự kiện này – nhưng cái chết của Mayorov ám ảnh tôi cho đến tận ngày nay.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:14:34 am


Trong một đêm nào đó sau sự kiện làng Illarinovskaia, một người lính trong đại đội tên là Nikolai bị thương. Có một câu chuyện kỳ lạ trong mối quan hệ của chúng tôi…



 



Sau khi trận bom mà tôi đã kể trước đây, chúng tôi rời tàu, đại đội hành quân từ ga Filonovo về phía sông Đon. Trong suốt cuộc hành quân chúng tôi không nhận được chút bánh mì nào, bởi vì bộ phận hậu cần bị lạc và không tìm được chúng tôi. Anh em rất đói, đến nỗi tôi bắt đầu nghĩ rằng chúng tôi sẽ bị chết đói hơn là bị bắn bởi quân Nazi. Đói lả, mọi người đều nản lòng. Chúng tôi yếu đến mức không còn sức để chửi bộ phận hậu cần. Trước đó, anh em mong sớm qua sông Đon và có mặt ở tiền phương. Nhưng giờ thì đầu óc tôi quay mòng mòng! Giá mà lúc đó là mùa hè, tôi sẽ kiếm vài thứ cỏ và rễ nào đó để ăn. Tôi chắc chắn sẽ tìm được chúng dù đây là thảo nguyên chứ không phải là rừng Siberi..



 



Sau khi chúng tôi đến điểm tập kết, ở sông Đôn, sỹ quan quân nhu, một thượng sỹ (có lẽ bản gốc là starshina-chức chuẩn úy quân nhu. Danngoc), đột nhiên lại xuất hiện. Dù rất mừng đã tìm thấy được chúng tôi, anh ta, tuy thế vẫn rất lo lắng: vì lỗi của mình mà cả một đại đội bị bỏ đói cả tuần. Lúc đầu, tôi tưởng anh ta chả mang theo tý bánh mỳ nào bởi vì trước đây trông anh thường béo tốt hồng hào, còn bây giờ thì hốc hác và tái nhợt, rõ ràng là yếu đi bởi đói, chỉ đủ sức lê bước thôi. Nhưng lũ ngựa của anh thì khoẻ mạnh, béo đến nức vai, kéo theo một toa xe hai bánh lớn, nặng trĩu.



 



Tay thượng sỹ lê vào giữa đám – đang nằm mê mệt trên mặt đất – mời đến nhận bánh mỳ, đường, makhorka. Chúng tôi có thể nghe thấy mùi bánh mỳ đen trong toa xe, và bắt đầu đến. Tuy chả ai còn đủ sức để gắt gỏng, nhưng chúng tôi vẫn quyết định là sẽ ăn trước rồi chửi anh ấy sau!



 



Mỗi người được một ổ bánh. Viên thượng sỹ vội giải thích rằng anh đã phải cho ngựa ăn bánh mỳ. Chúng tôi không trách, bọn ngựa trông béo tốt, và nếu không có bánh mỳ chúng không thể kéo xe. Thực vậy, nếu chúng chết thì toàn bộ bánh mỳ chắc mất, dù gì thì tay thượng sỹ cũng là một người được!



Anh ta cắt một mẩu bánh nhỏ từ ổ bánh và khuyên chúng tôi làm theo anh.  Anh bảo chúng tôi không nên ăn quá 100g cho lần đầu, không thì sẽ bị đau dạ dày. “Này các cậu, đừng ăn tham quá” anh ấy nói “sẽ bị đau đấy! Các cậu chỉ nên mút từng tý, như ăn kẹo ấy, từng mẫu một thôi!”. Pavel Suvorov gật đầu đồng tình: “Thượng sỹ nói đúng, anh ấy biết mình đang nói gì”.



 



Không khí ẩm uớt của đầu tháng 11 loang đầy mùi chua của bánh mỳ đen. Chúng tôi gần như thở ra bánh mỳ. Dạ dày từng người tham gia vào việc hấp thụ nó. Cuộc sống trở lại với chúng tôi, mang lại cảm xúc cho từng người, và nhớ rằng chúng tôi đã gần chết như thế nào. Chúng tôi cười nhạo tay thượng sỹ với vẻ mặt lo sợ khi nhìn thấy chúng tôi nằm thẳng cẳng trên đất. Và cũng cười vì một anh quân nhu béo tốt ngày nào giờ trơ xương như mọi người. “Tôi không đụng tới bánh mỳ”, anh nói, vui vẻ với lương tâm trong sạch “tôi no, nhưng cả đại đội đói!!”. Giờ thì mọi việc ổn cả và chúng tôi có một buổi tiệc thực sự.




Nhưng lại có việc không vui. Tôi muốn ăn thêm một miếng nữa nhưng ổ bánh trong giỏ của tôi biến mất. Tôi không tin vào mắt mình! Mọi người trong đại đội trở nên kích động. Tiếng la lối của anh em tới tai tiểu đoàn trưởng. Lúc đó chỉ huy là đại uý Feodor Gridasov. Anh ấy lùn, tóc cắt ngắn và mặt đỏ như thể anh mới vừa từ bania (tức nhà tắm hơi kiểu Nga – NV) ra. Anh luôn đeo huân chương Cờ đỏ (Order of the Red Banner ??) trên ngực. Gridasov đã bị thương, sau một thời gian trong bệnh viện, anh vừa trở về trung đoàn chúng tôi. Tiểu đoàn trưởng hỏi việc gì đang xảy ra. Bất đắc dĩ, chúng tôi thuật lại. “Tên vô lại đó sẽ bị bắn tại chỗ!”, anh tháo bao súng và lấy khẩu súng ngắn ra.



 



Mọi người trong đại đội vớ lấy ba lô và giốc ngược mọi thứ bên trong ra áo mưa. Chỉ còn một cái còn cài, và chủ nó dường như lo lắng phải mở nó ra. Hiểu rằng số mệnh đã định, anh ta cuối đầu tránh những cái nhìn thấu xương của chúng tôi. Anh bắt đầu (mở) khi nghe viên đại uý lên đạn súng lục. “Soát cái đó!”, tiểu đoàn trưởng trỏ vào cái ba lô. Tôi chen qua Nikolai (nên của người ăn cắp), đẩy hắn sang bên, theo lệnh của tiểu đoàn trưởng, cúi xuống ba lô và ngay tức khắc đưa tay vào trong ba lô. Ở đó, những ngón tay tôi nhận thấy có hai ổ bánh mỳ. Mọi người chờ đợi trong yên lặng. Tôi đứng dậy: lập nghiêm rồi báo cáo: “Không thấy ổ bánh bị mất!”.



 



Trong giây phút, gương mặt đại uý thoáng qua vẻ bối rối, nhưng rồi mất ngay, và trong mắt anh, tôi đọc được “Good man!” (chỗ này em không dịch vì để vậy hay hơn-Tieungoclang). Anh bỏ súng lại vào bao và không một lời, quay bước về lại sở chỉ huy.



 



Anh em trong đại đội nhẹ nhõm thở phào. Không ai nói gì thêm về ổ bánh bị mất, và mỗi người cắt một mẫu bánh của họ, cho vào áo tôi. Còn Nikolai thì lấy tay che mặt, nằm yên cạnh đồ đạt của anh xuống vài tiếng đồng hồ. Một người đã bị kết án với một cái chết thổ thẹn đã được tha thứ….



Hai hay ba tuần sau đó, Nikolai bị thương nặng ở phổi do một mảnh đạn pháo. Chúng tôi có thể nghe tiếng rít không khí khi chúng vào ra ở ngực anh ấy. Chuyện đó xảy vào một một đêm sau sự kiện làng Illarionovskaia. Không có quân y trong tiểu đoàn chúng tôi. Sau trận đánh, chúng tôi tự thu nhặt và mang thương binh đến các bệnh xá, vốn thường nằm gần trung đoàn bộ – hơi xa, theo ý tôi! Bất hạnh thay, lúc ấy đại đội lại bị bỏ đói 24 giờ, và chúng tôi lại sốt ruột nằm chờ cấp dưỡng đến, khi đó tôi lại được lệnh mang thương binh về tuyến sau.




Trời sụp tối rất nhanh, tôi đeo đai của chiếc cáng tải thương tự chế có gắn ván trượt vào người. Tôi lập tức lên đường, chậm chạm kéo theo người bị thương nằm sóng xoài, trong khi đầu óc miên man nghĩ về việc bao giờ thức ăn đến và khi nào tôi trở về. Nikolai vẫn bất tỉnh. Ván trượt dưới cáng tải thương gây ra tiếng động rào rào khi đi qua tuyết, vì vậy tôi chỉ có thể xác định anh ấy còn sống không khi dừng lại. Tôi dừng và lại dừng, cứ mỗi lần lại lắng nghe tiếng rít ở ngực người lính bị thương: anh ấy vẫn chưa chết. Tôi tự ép mình phải đi vòng qua những chiến hào và hố đạn pháo.



 



Đêm xuống, tôi bắt đầu nghĩ rằng tất cả những cố gắng này là vô nghĩa, vì thương binh sẽ chết trước khi tôi kịp đưa anh đến trạm phẫu, khi đó đột nhiên tôi nghe tiếng gọi:



- “Mansur…”.



Tôi dừng lại. Phải chăng tôi tưởng tượng? Không! Nikolai tỉnh lại.



- “Masur….”.



Tôi cố cửi dây đai và đi lại chỗ anh ấy:



- “Masur, bắn tôi đi … hoặc để mặc tôi lại nếu anh không thể… tôi làm anh kiệt sức mất…”



Nhưng lời anh ấy như làm tăng sức mạnh của tôi! Tôi tròng đai vào và tiến lên, không hề dừng lại, như thể tôi trốn chạy khỏi những suy nghĩ tối tăm đáng thổ thẹn: như tôi đã thú nhận, đầu chuyến đi, đâu đó trong óc tôi, có hi vọng rằng Nikolai sẽ chết và tôi có thể thoát khỏi gánh nặng này, rằng tôi có thể quay lại đúng lúc để có được một suất ăn nóng hổi. Tại sao điều xấu và điều tốt lẫn lộn trong tôi?!



 



Tôi trông có vẻ kinh khủng trong đêm tối: răng nhe ra, thở khò khè, mắt như nhảy ra khỏi hốc. Nhưng tôi quyết đưa Nikolai đến trạm phẫu dù còn sống hay chết! Tôi không thể nói rằng tôi đã cứu sống anh ấy lần thứ hai bởi vì một sự ưa thích biệt lệ với anh. Chỉ là tôi cố gắng để có một lương tâm trong sạch, quyết tâm chiến thắng con quỷ tồi tệ – điều mà tôi ghét – đang có trong tôi!



 



Tôi như chìm ngỉm trong khe núi chen đầy những đơn vị thuộc tuyến sau. Mùi thức ăn ngon hoà lẫn với mùi phân ngựa, mùi khí đốt, mùi cỏ khô sộc vào mũi, làm đấu óc tôi choáng váng! Khi đến được khu hầm trú ẩn, tôi thấy được ánh sáng hắt ra từ những ô cửa nhỏ. Tôi thử vào một trong số các hầm, cửa mở ra: tôi hỏi với một giọng khản đặc rằng tôi có thể đưa thương binh vào đây không.



-         “Trung đoàn nào?”. Một tay hộ lý có gương mặt mập bự đứng trước mặt tôi hỏi



-         “1034” Tôi trả lời



-         “Vậy thì anh phải đi tiếp thôi, đây là trung đoàn 1026” và cánh cửa nặng nề đóng sầm lại.



 



Đột nhiên tôi thấy rã rời, không thể kéo Nikolai đi cho dù chỉ một bước. Anh ấy đang rên rỉ và nói cuồng. Tôi tiếp tục đi. Tôi có thể làm gì với tay quan liêu kia? Tôi những muốn nã một phát đạn vào cái trán hẹp của hắn: nhưng khi đó tôi sẽ đối mặt với một phiên toà quân sự và một phát đạn để đổi lại!



Đến một hầm trú ấn khác (những hầm này vốn được bọn Nazi dựng lên, đẹp). Tôi gõ cửa và lại một tay hộ lý khác xuất hiện, một làn hơi đầy mùi vị bao quanh. Tôi hỏi:



-         “ Trạm xá nào đấy”



-         “1036” anh ta trả lời



-         “Chúng ta đúng chỗ rồi” Không chút lưỡng lự, tôi nói dối ngay “ đây là một thương binh nặng!” ---(ghi chú: trung đoàn Mansur thật ra là 1034)



 



Tôi bước sải vào trong hầm, không nhìn lại phía sau, đến đứng cạnh một cái bàn như thể  là chủ chỗ này. Những cô y tá mang Nikolai vào, anh vẫn còn nằm trên cáng.



-         “Cho tôi chút gì để ăn với” tôi nói.



Một đĩa cháo lúa mạch đặc, nóng, thơm ngát đặt ngay trước mặt tôi. Tôi ăn và ngủ gục ngay trên chiếc bàn đó.



Họ đánh thức tôi dậy khi trời vẫn còn tối vì biết rằng tôi phải về lại đại đội trước lúc rạng đông. Tôi đã ăn sạch phần cháo nên họ cho tôi nửa ổ bánh mỳ để đi đường. Tôi nghe tiếng gọi:



-  “Mansur, lại đây…”.



Tôi đến góc xa nhất của căn hầm: Nikolai của tôi vẫn còn sống!



-        “Mansur, khi nào tôi còn sống, tôi sẽ không quên anh…. Chúa sẽ phù hộ anh an toàn trở về …”.



Suốt nửa chặng đường đến trạm xá tôi kéo theo sau một kẻ cướp đã đựơc tôi tha thứ; sau đó, khi anh ấy yêu cầu tôi bắn hoặc bỏ anh ta lại, tôi lại chạy trốn khỏi những ý nghĩ tệ hại của tôi: và bây giờ, tôi nói lời chia tay với một đồng đội, và cầu mong rằng anh ấy sẽ sống và bình phục.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:16:26 am
Còn nói về xe nhà bếp, có một tay anh nuôi tại tiểu đòan bộ binh chúng tôi, một tay chuẩn hạ sĩ (lance coporal – khó dịch quá vì không có trong QĐ VN) có cái họ ngộ ngĩnh: ‘Tsibulia’, trong tiếng Ukraina có nghĩa là ‘củ hành’. Tên của anh ta là Kuzma. Cánh bộ binh chúng tôi, khi nhận phần cháo đặc của mình, thườngcười trêu anh ta, trêu chọc cái họ của anh, cái họ dường như quá hợp với công việc của anh: ‘Kuzma, nói thật cho chúng tớ xem! Cậu tự chế ra cái tên ấy cho mình là có mục đích, để các thủ trưởng sẽ ban cho cậu một vị trí ấm áp, nơi cậu có thể chén thả cửa tùy thích phải không?’ Thành thạo đảo cái muôi cháo, anh ta trả lời, ‘Ô, mấy anh chàng này! Giá như tên của tớ khác đi, tớ hẳn đã không phải hùng hục làm cái công việc như nô lệ này!’


Khi Tsibulia chia cháo cho chúng tôi, anh ta có thể phân biệt chính xác – thậm chí cả trong bóng tối – anh lính có tính cách ra sao đang đứng trước mặt: ‘Tớ có thể nhìn thấu qua cậu, và tớ biết rằng cậu chưa nhận được phần cháo!’ Tay binh nhì xấu hổ và không thốt nổi lời nào. Một tay lính khác đi tới với chiếc cà mèn thiếc: khẩu súng trường lấp lánh, chiếc xẻng của anh ta sắc như lưỡi dao cạo, vì thế có thể sử dụng trong chiến đấu như một thanh kiếm; trong balô anh ta có hai quả lựu đạn chống tăng và đầy một cơ số đạn; anh ta mệt lử và hốc hác, giống như một nông dân quen lao động cực nhọc. Trong trường hợp ấy, Tsibulia khá hào phóng với món cháo và múc cho anh một suất thứ hai. Rồi kế tiếp là một anh chàng ‘bảnh bao’: anh ta khóac một chiếc áo chòang sĩ quan và đeo một chiếc dây lưng sĩ quan còn mới, rộng bản, có lẽ chôm chỉa được ở đâu đó; thắt lưng anh ta đeo một khẩu Parabellum lấy được của bọn Đức; còn trên đầu là chiếc mũ lông Astrakhan. Thay vì một cà men lính theo quy định, chàng ‘bảnh bao’ có một cái hộp kim lọai tháo từ bao đựng mặt nạ phòng độc của Đức, có thể chứa ít nhất bốn suất cháo. Với một thái độ nghiêm nghị anh ta đứng trước mặt anh nuôi với ‘cái xô’ ấy và yêu cầu: ‘Đổ đầy vào!’ Tsibulia không tranh cãi với anh ta, nhưng lặng lẽ đổ vào chỉ một phần cháo, mặt luôn giữ một vẻ lạnh lùng với anh chàng ‘bảnh bao’ kia. Anh kia không nhúc nhích mà khăng khăng: ‘Tại sao, hả đồ chó, mày có cả chảo đầy thế kia mà!’ ‘Ừ, chỗ cháo này chắc chắn còn nhiều hơn cả mớ óc trong đầu của ku em đấy!’ Chúng tôi cười nghiêng ngả, đến nỗi quân Đức nghe thấy thế liền bắn sang mấy lọat đạn. Trên ngực áo khóac của Tsibulia ta có thể thấy một chiếc huy chương. Anh ta có quyền tự hào về nó, anh ta thực sự xứng đáng nhận nó, vì anh ta đã hành động như một anh hùng…




Đó là vào một ngày bộ chỉ huy sư đoàn lệnh cho đại đội chúng tôi tiến công quân địch, để “nắn thẳng” một địa đoạn chiến tuyến. Trong đêm, dưới hoả lực hỗ trợ của pháo binh, chúng tôi bò đến sát chiến hào quân Fritz và ào lên tấn công; đánh cận chiến. Quân ta hi sinh rất nhiều – bởi phe địch đông hơn chừng 3 lần – tôi đã tưởng chừng như cả đại đội sẽ bị xoá sổ, như theo mệnh lệnh số 227 “Không lùi!” của Tổng tư lệnh tối cao (Mệnh lệnh số 227 của Stalin ban hành tương tự như mệnh lệnh “Trụ vững” của Hittler vào mùa đông 1941. Trong đó, mọi binh sỹ tiền tuyến bị cấm rút lui, và được giám sát bởi các đơn vị đặc biệt, vốn có quyền bắn bỏ những ai định làm như vậy – ND).



Vào thời khắc định mệnh đó, một phép màu đã xảy ra. Chúng tôi nghe thấy tiếng tiểu liên ở sau lưng quân địch, và lập tức tất cả bọn Nazi biến mất khỏi chiến hào! Sau đó, chúng tôi rất ngạc nhiên thì nhận ra rằng, chính Tsibulia – tưởng như đang ngủ trong chiếc xe ngựa hậu cần hai bánh của anh ta – đã thâm nhập vào tuyến địch. Thì ra, bọn ngựa bị những phát đạn nổ gần làm hoảng sợ đã phi thẳng về chiến hào kẻ thù, mang theo tay anh nuôi đang ngủ gà gật. Khi Tsibulia tỉnh dậy, nhận ra tình thế, và anh bắn ngay vào quân Fritz, với hi vọng rằng, ít ra, đổi mạng mình với giá đắt nhất: chính hành động anh hùng đó đã mang lại cho Tsibulia huy chương Vì lòng dũng cảm.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:18:09 am


Chương 3: Máy khâu giết người



 



Ngày 23 tháng 11 năm 1942, khi các lực lượng của phương diện quân Tây Nam tiến lên phía trước thì nhận được một mệnh lệnh mới: liên lạc với các đơn vị đang hành quân từ phía nam lên để cùng phối hợp. Tôi nhớ cái ngày này với một chuỗi hình ảnh các trận chiến không ngớt.



 



Như thường lệ, nặng trĩu với nòng, giá đỡ, bệ cối, chúng tôi liên tục tiến lên, chiếm lĩnh vị trí, tấn công kẻ địch đang chống cự mãnh liệt. Và tôi lại thấy những lính cối ngã xuống. Trong số đó có một đồng chí tốt và khoẻ mạnh đến từ Bodaibo. Anh là một người Siberia chính gốc, một tay đào vàng, và rất thân thiết với tôi bởi chính tôi cũng lớn lên ở khu mỏ vàng Miasski.



 



Là bí thư chi bộ đại đội, tôi phải làm tròn cái nhiệm vụ không mấy vui vẻ của mình: thu thập thẻ quân nhân từ các tử sỹ. Lúc đó, tôi quay lại và nhanh chóng cửi ba lô ra khỏi thi thể anh ta. Nhưng tôi không thể hiểu nổi cái vật nặng gì đã đập vào đầu anh chàng Siberia này, chắc chắn đó không thể là một bộ phận nào đó của khẩu cối. Tôi lật tấm bạt của anh lên và kinh hoàng nhận ra rằng đó là một chiếc máy khâu (máy may) xách tay! Tôi cảm thấy đau khổ. Ôi, nguyên nhân thật sự của cái chết là đây! Tay Siberia này là một chiến binh quả cảm với cái đầu lạnh và mạnh mẽ. Nhưng là một người dân, anh cũng là một người công nhân tốt và là một người đàn ông tử tế với gia đình. Với anh, chiếc máy khâu chính là biểu tượng của sự phồn thịnh. Anh muốn mang nó về sau chiến tranh để tặng cho vợ.



Tôi nhớ lại cuộc sống trước chiến tranh: một chiếc máy hát, hay một chiếc xe đạp là đã đủ hiếm rồi, còn với máy khâu, thì chỉ có hai cái cho toàn bộ dân làng tôi! Và giờ đây, một trong những cái máy khâu đó, thật kỳ lạ, đã giết chết người đàn ông Siberia này: vì tôi không tìm thấy một vết thương nào trên người anh. Chẳng qua là anh bị trượt chân khi đang vận động và ngã xuống. Tôi đã không nói với ai trong đại đội về tai nạn này – vì không muốn người đã khuất bị chì chiết hay bị phán xét một cách khắc nghiệt – nhưng có lẽ tôi đã sai? Bởi lẽ đây có thể là một bài học tốt cho mọi người.





Lữ đoàn tăng số 69 tham gia chiến đấu ở cùng khu vực của sư đoàn bộ binh 293 chúng tôi. Bên lính tăng đã có một khoảng thời gian khó khăn. Quân Đức tăng cường mạnh mẽ cho lực lượng chống tăng đang phòng thủ và những chiếc tăng phe ta phải chịu đựng thêm nhiều quả đạn xuyên giáp. Một trong số chúng bắn trúng chiếc tăng mà đại đội tôi theo tùng thiết. Chiếc xe bùng cháy dữ dội như thể làm bằng gỗ. Một lính tăng nhảy ra, người anh bị bén lửa từ đầu đến chân, hét lên “ Cứu lấy đại tá!”. Anh nhào xuống tuyết và lăn tròn, cố dập tắt lửa trên người. Trong khi vẫn cố hét: “Này anh em, hãy cứu lấy đại tá!”.



 



Mọi người cố chạy vòng chiếc tăng bị cháy. Nó có thể nổ tung trong vòng vài giây. Tôi muốn  thoát ra như mọi người khác. Tôi phải nhanh lên – đây không phải là việc chậm buổi uống trà hay gì khác – mà tôi đang trong một trận chiến. Bộ óc láu cá của tôi nghĩ đến một lý lẽ bào chữa: những người chạy trước tôi có nhiều thời gian để cứu người bị mắc kẹt hơn, bởi một chiếc tăng thường sẽ nổ tung chỉ sau hai hoặc ba phút bắt lửa. Nhưng lương tâm tôi lại ở phía khác, nó bảo rằng: “Đừng để mất giây nào cả, hãy leo lên chiếc tăng!”. Trí óc tôi thì bác lại: “Không thể! Không thể kịp”. Nhưng lương tâm đã chiến thắng, và tôi đã cảm thấy sức nóng cùng tiếng rít sèo sèo của vỏ sắt chiếc xe dưới đôi găng ẩm ướt. Thật nan giải. Tôi không thể trèo lên và thấy không có thanh kẹp hay một mấu lồi nào để bám. Nhưng đã quá trể để dừng lại, tôi nhảy lên cho đến khi thấy có thể xoay sở được chỗ trèo.



Từ cửa sập trên đỉnh, một màn khói nóng, cay xè sộc vào mặt tôi. Lúc đó, đôi bàn tay của người lính tăng bị kẹt túm chặt lấy áo khoát của tôi. Tôi cúi xuống, đưa tay vào sâu hơn – như vậy dễ lôi ông ấy ra khỏi cái cửa hẹp hơn – nhắm chặt mắt và quay mặt sang nơi khác: dù sao cũng không thể nhìn thấy gì qua làng khói dày đặc. Cuối cùng (chưa bao giờ có một thân người nào cho tôi cảm giác nặng như vậy), tôi lôi được ông ra và chúng tôi nhào xuống lớp tuyết êm ái. Vâng, rất êm ái, nhưng chúng tôi không thể ở đấy! Viên đại tá bị gãy cả hai chân. Tôi lôi ông xa chiếc tăng chừng nào có thể được, chừng 20, 30 mét. Vụ nổ thật dữ dội. Tháp pháo bị bắn tung lên chừng 5 thước trong không trung, lộn vòng và đâm sầm xuống đất. Những mảnh kim loại tung toé lên trời. Vị đại tá ôm lấy tôi: “Ôi con trai ta! Ta sẽ không quên đâu! Tên con là gì? Abdulin? Ta sẽ không quên! Mà này, hãy giữ khẩu súng ngắn này…”. Vài tay lính tải thương chạy đến, đưa ông lên cáng trượt và kéo ông về phía sau ….




Ba mươi năm sau, nguyên soái Oleg Losik, người trong những ngày đó chiến đấu trong thành phần của quân đoàn cơ giới 4 bên cạnh sư bộ binh 293, đã giúp tôi xác định danh tánh viên đại tá: Chính uỷ tiểu đoàn G.V. Provanov của Lữ tăng số 69.



 



Chắc chắn rằng chúng tôi đã không chiến đấu vì những tấm huy chương. Khi tôi trèo lên chiếc tăng đang cháy, tôi không nghỉ gì về việc thưởng công. Tôi chỉ nghĩ rằng “ Ta sẽ phải làm được trước khi nó nổ!”. Tuy nhiên, đồng đội tôi (một trong số họ, Ivan Yevstigneyev, vẫn sống ở một làng thuộc quận Sterlitamak của Bashkiria, anh ấy phục vụ trong cùng một trung đoàn và vẫn nhớ sự kiện đó) chúc mừng tôi, mong chờ tôi được nhận một tấm huy chương  (có luật tặng thưởng cho người đã cứu chỉ huy khỏi tình trạng nguy hiểm tính mạng – ND). Sau chiến tranh, tôi mang hi vọng sẽ tìm thấy lại được vị đại tá đó, hay ít ra, biết được ông đã như thế nào. Cho đến năm 1975, tôi nghe rằng người của lữ tăng 69 tin là Provanov chết trong chiếc xe cháy và khẳng định không tìm thấy thi thể ông. Lúc đó, vị đại tá bị mất tích được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Tôi đồ chừng rằng người của quân chủng, sau trận chiến, đến khám xét qua loa những gì còn lại của chiếc tăng, đưa ra kết luận rằng vị chính uỷ tiểu đoàn đã bị thiêu cháy bên trong. Nhưng thật sự việc gì xảy ra với ông sau khi chúng tôi tách ra, khi những người lính cứu thương đưa ông lên cáng thương và đi về phía trạm xá? Phải chăng ông bị pháo bắn trúng? Ông bị tan xác sau khi thoát khỏi một cái chết trong chiếc tăng cháy? Hoặc ông chết do mất nhiều máu? Và trong trường hợp sau, ít ra họ cùng tìm thấy những giấy tờ chứng thư của ông chứ?



 



Mọi người bảo rằng tôi không gặp may. Tại sao? Vì tôi không nhận được huy chương. Nhưng vị đại tá – nếu ông thực sự chết sau khi được cứu sống một cách phi thường – mới thật sự bất hạnh hơn!



Sau khi chia tay vị đại tá, tôi chạy theo đồng đội của mình ….


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:19:01 am


Một hình thù kỳ lạ trên 3 chân – thật ra là 2 khuỷu tay và một đầu gối – lắc lư dữ dội, đang di chuyển rất nhanh từ tuyến địch về hướng tôi. Một chân khác, mang valenok (một loại giày nỉ truyền thống của Nga – ND), trông như dài một cách bất thường. Đong đưa một cách vô thức, nó nảy lên dọc theo mặt đất mấp mô, làm cho cả thân hình rung lên. Tôi lướt qua. Cái chân của người ấy bị gần đứt ra, nhưng anh sẽ được lính cứu thương tìm thấy, đưa về tuyến sau và sẽ sống. Đột nhiên, tôi nghe một tiếng rú kinh hồn. Nhưng đó không là một âm thanh gợi lòng thương sót khiến tôi dừng lại và nhìn trong nỗi kinh hoàng. Nhìn lại phía sau, tôi thấy người lính ấy ngồi xuống, lấy con dao nhíp trong túi và thử độ bén trên những ngón tay: nó cùn. Với một vẻ hoang dại, anh lôi cái chân bị thương lại gần, và bắt đầu cắt phần gân lồi vốn dính lòng thòng vào phần chân. Tôi có một con dao sắc bên mình. Tôi có nên giúp không? Nhưng đầu óc tôi như chết lặng. Tôi chỉ biết đứng lặng nhìn người lính, với nét cười hung bạo, cắt rời chân mình ra. Cuối cùng, nó cũng rời ra, rơi ngay bên phải người ấy. Anh cởi nón (mũ), úp vào phần chân cụt và buộc chặt nó với chiếc thắt lưng. Sau đó người lính nhặt phần chân bị đứt, ôm chặt nó vào ngực như thể đó là một em bé. Masha Lutsenco, một y tá của chúng tôi, chạy vội đến với anh, và tôi cố bước tiếp về phía trước, chệch choạng!



 



Pháo bắn chặn! Tôi chỉ còn đủ thời gian nhảy vào một cái hố gần nhất và núp. Một người lính bộ binh khác cũng nhào vào cạnh tôi. Anh man rợ hét “Cho tôi điếu thuốc!”. Gạt đất cát rơi bên trên, tôi lấy gói thuốc ra và đưa cho tay đó. Anh ta đáp lại bằng một giọng khó nghe và thô lỗ “....!....! Cuốn đi!”. Tôi cuốn một điếu thuốc và cố để hiểu lý do của cơn giận này, anh ấy hét trong tiếng nổ kinh tai “ Tay tôi bị đứt cả rồi!”. Tôi nhìn xuống và thấy hai ống tay áo khoát đung đưa, bẩn máu. Tôi gắn điếu thuốc vào môi anh và châm lửa, chúng thâm đen. Đột nhiên trận pháo tạm ngưng, anh lính đứng dậy và chạy đi, hét lên với tôi như thể lời tạm biệt “ Chiến tranh đã hết với tôi rồi, người anh em...”.



 



Anh em trong đại đội, khi thấy tôi trèo lên chiếc tăng cháy, và nó nổ ngay sau đó, cho rằng tôi đã chết. Một số, không nghi ngờ gì, nhìn lại và chứng kiến vụ nổ, nghĩ rằng: “Abdulin tiêu rồi”. Bây giờ tôi gặp lại đồng đội, tôi mừng như thể được về lại ngôi nhà của cha tôi. Anh em hét lên “Hắn còn sống!” khi thấy tôi. Đó là một điều tuyệt vời cho thấy mọi người thể hiện sự vui mừng đơn giản, chân thật vì bạn còn sống. Tôi cũng thấy Suvorov ứa nước mắt khi ôm ghì tôi: “Được, Mansur, cậu là một tay cứng đấy!”. Phải chăng đây là một lời quở trách? Hay tôi nhận thấy sự đánh giá trong ngôn từ đó...?



 



Sau cùng, chiều hôm ấy, các đơn vị của phương diện quân Tây – Nam chiến đấu trong khu vực của chúng tôi cũng đã gặp được các đơn vị tiến lên từ phía Nam. Ở giữa trận chiến – không biết sự thật rằng chẳng còn bọn Nazi giữa chúng tôi – chúng tôi vẫn tiếp tục bắn: bắn lẫn nhau! Hoả lực dày đặt giúi chúng tôi nằm rạp xuống. Sau đó là một cuộc xung phong ào ạt. Khi họ đến gần, chúng tôi thấy lúng túng vì trông dáng vẻ họ không giống bọn Đức.... Cuối cùng, mọi người nhận ra rằng quân ta đang tấn công quân mình và ngừng bắn. Và trận chiến chấm dứt. Sau đó, trong sự im lặng hoàn toàn, chúng tôi chạy đến gặp nhau, chỉ nghe tiếng băng mỏng dưới chân: “Ôi anh em! Đồng đội! Chuyện gì xảy ra vậy? Chúng ta đã bắn lẫn nhau...!”. Chúng tôi ôm nhau. Và chúng tôi cũng khóc: khóc cho những người đã hi sinh, bị thương ở cả hai phía và cho cả những ai đang tự trách mình. Khi dọn dẹp xong chiến trường, chúng tôi tránh nhìn vào mắt nhau...



 



Bấy giờ chúng tôi đã gặp phương diện quân sông Đông và khép chặt vòng vây kẻ thù. Quân Đức bị vây tròn trong một cái “túi” nhỏ (chừng 25 dặm chiều dài và 12 dặm chiều sâu - ND). Nhiệm vụ hiện thời của chúng tôi là chống phá vây. Thời khắc của trận chiến Stalingrad lịch sử đã điểm.



Tôi ở chiến trường chỉ mới 3 tuần, nhưng đã có quá nhiều điều xảy ra.





Tôi đã làm cho Suvorov bao lần lo lắng vì tôi! Tuy vậy, những lần trở về – sau những tin tức về cái “chết” của tôi – làm cho mối quan hệ giữa anh và tôi thêm khăng khít.



Khi những hoạt động chiến trường giảm bớt chút ít, chúng tôi bàn với nhau về tầm quan trọng của mệnh lệnh 227 (“Không lùi!”). Chỉ lệnh này rõ ràng đã làm cho những vấn đề đơn giản đi rất nhiều. Khi có một người dừng lại, chúng tôi sẽ cùng dừng. Không còn tồn tại bất kỳ vấn đề không rõ ràng nào. Mọi người lính đều biết rằng khi anh dừng lại, thì người bên cạnh anh cũng sẽ dừng theo. Thực vậy, mọi người dừng lại, sẵn sàng hi sinh ở đó và biết rằng sẽ không ai sẽ trốn chạy. Mệnh lệnh đã khích lệ tinh thần của mọi người rất nhiều. Cũng như thông tin về những đơn vị đặc biệt bố trí chặn hậu được phép bắn bỏ những ai rớt lại….



Chiến hào chúng tôi ở ngay tuyến đầu. Chúng tôi hiểu rằng bọn Nazi không thể ngồi thụ động trong cái “túi” đó. Nhưng chúng có bao nhiêu nhỉ? Không ai biết con số chính xác. Chúng tôi hỏi các chỉ huy “Chúng có bao nhiêu quân trong túi đó?”. “Chừng 40,000”. Bốn mươi ngàn! Một con số khá ấn tượng. Việc sẽ gì xảy ra nếu chừng phân nửa bọn chúng đột phá ra hướng tây, đúng vào khu vực trung đoàn chúng tôi trấn giữ nhỉ? Sự thật chỉ được sáng tỏ 2 tháng sau đó, ngày 2 tháng 2 năm 1943, chúng tôi mới phát hiện ra thật sự có tới 330,000 quân bị vây! “Sao anh nói dối bọn tôi?” anh em hỏi chỉ huy. Họ trả lời chúng tôi với một cái cười quỉ quyệt, rằng thỉnh thoảng lính tráng tốt hơn là mù tịt. Họ bảo rằng con số 40,000 sẽ không làm chúng tôi sợ. “Có lẽ các anh đúng” chúng tôi đồng tình.



Vào cuối tháng 11 năm 1942, mệnh lệnh cho chúng tôi là chuẩn bị chống lại các nỗ lực phá vây của địch. Chúng tôi đã làm việc cật lực, đào thật sâu các chiến hào. Để làm được việc này, chúng tôi phải đục chừng 1,5m xuống lòng đất đóng băng, sau đó đào một cái ngách hang ở đáy hào. Bởi những cái ngách ấy được làm cho phù hợp cho từng cá nhân, do đó chúng khác nhau về kích thước và kiểu dáng. Thỉnh thoảng, một ngách hang có thể chứa 2 – 3 người: với cách này thì ấm hơn. Khi đó, lớp đất đóng băng bên trên bảo vệ chúng tôi tốt như thể là bê tông. Mọi người hẳn nghĩ rằng chúng tôi sẽ đào xong chiến hào và ngách hang nhanh chóng, và chúng tôi chỉ việc chui vào đó rồi ngủ cho đến khi nhận lệnh chiến đấu. Nhưng trường hợp này không đúng. Chúng tôi muốn chỗ trú ngụ của mình tiện lợi hơn, và như vậy chúng tôi lại đào những hốc tường: chỗ dành cho thủ pháo, chỗ chứa đạn, nơi đặt súng máy. Sau đó thì đến lượt chỗ để gà-mên (cà mèn), và vâng vâng. Cứ như vậy, chúng tôi làm cho chiến hào của mình ngày càng ấm cúng và thoải mái hơn, và theo thời gian ngày càng nhiều thứ đựơc thêm thắt vào. Tóm lại là, lệnh: “ Mang cối! Tiến lên!”, thường đi cùng với nỗi buồn và tiếc nuối  khi phải chia tay với một phần mảnh đất mà như đã trở thành nhà. Còn nếu phải để lại chiến hào cho bọn địch thì không còn gì để nói thêm!!!




Lính cối chúng tôi “giúp” bọn địch không ngủ ban đêm. Ban ngày, chúng tôi xác định toạ độ bắn vào hẻm núi, nơi các đơn vị Nazi khác nhau tập trung, và tính toán chi tiết vị trí của chúng. Sau đó, khi bóng đêm vừa đổ xuống, chúng tôi bắt đầu bắn cứ mỗi 5 phút. Đó gọi là “tra tấn kẻ thù”. Bọn Đức bị bắn cả đêm, nhưng chúng tôi thì xoay sở để ngủ một ít: mỗi thành viên khẩu đội làm chừng 1 giờ, bắn tầm 100 quả, trước khi nhào vào ngách hang vốn được giữ ấm bởi những đồng đội đang ngủ.



 



Vì lí do nào đó mà bọn Nazi không đào hào. Có thể chúng hi vọng vào một cuộc phá vây thành công? Hoặc mặt đất đông cứng ở Stalingrad là hơi khó với chúng?  Tôi không biết. Thay vào đó, chúng dựng công sự phòng thủ bằng chính những xác chết đông cứng. Chúng dựng một bức tường gồm hai ba lớp bằng những thi thể, phủ tuyết lên đó, và như vậy chúng đã có công sự để ngăn hoả lực phe ta. Bằng cách đó, xác lính Đức lạnh cứng đã bảo vệ cho bọn còn lại sống sót khỏi đạn và mảnh đạn. Nhưng tôi không hề đố kỵ với bọn Fritz khi nếu tuyết đột ngột tan J! Bên cạnh đó, không thứ gì có thể cản được khẩu cối 76mm của chúng tôi.



 



Bọn tù binh, tay ôm lấy đầu, lúc lắc ra phía sau rồi trước, luôn mồm càu nhàu: “Oh, mein Gott!”. Cái này thì rõ ràng có nghĩa là “Lạy chúa tôi!” (Oh, My god!). Nhưng còn câu “Gott mit uns” có nghĩa là gì? Câu này được khắc trên khoá thắt lưng bọn lính quốc xã. Dây thắt lưng của chúng có chất lượng tốt, làm từ da thật. Tôi thường nghĩ đến việc lấy một trong số những thắt lưng của bọn đã chết, nhưng với cái câu được khắc nhìn thấy rất rõ ràng này, như thể một câu văn bia trên mộ chí, làm tôi thấy bất an. Không để đeo cái thứ gì mà mình không hiểu, vì vậy tôi quyết định tìm hiểu nó nghĩa là gì. “Gott” đương nhiên có nghĩa là Chúa rồi, nhưng còn hai từ kia thì sao? Tôi đi cả tá chiến hào để hỏi các đồng đội, nhưng chỉ nhận được câu trả lời đại loại như: “Có quỉ mới biết” hoặc “Tớ chẳng màng đến!”.



Cuối cùng, tôi tình cờ gặp một tay binh nhì – vốn là một cựu giáo làng – với cố gắng lớn, đã xoay sở dịch những từ bí ẩn đó. Nó có nghĩa là “ Chúa ở cùng chúng ta”.



Khi những bức tường-xác-chết rốt cuộc cũng bị tan băng, những câu chữ khắc đó nghe như một lời chế nhạo cay đắng.



 



Với những gì xảy ra, bọn lính trơn phe Đức không hề biết chúng đang bị vây trong túi. Chứng cứ từ việc khai thác tù binh cho thấy bọn sĩ quan Quốc xã đã làm mọi thứ để giấu giếm sự thật kinh khủng này với quân lính: chúng vẫn tin vào chiến thắng và chiến đấu đến cùng. Chính tôi đã thấy một tù binh Đức, bị hội chứng chiến tranh, ngoan cố kêu lên như một cái máy “Ichgehe nach Moskau!” – “Tôi đang đến Mát-cơ-va”.




Cũng ở Phương diện quân Sông Đôn, tháng 11 năm 1942, tôi lần đầu tiên được nghe về lũ chó chống tăng. Như những người dân Siberia khác, tôi thích chó, và tôi kinh hãi khi biết về định mệnh của những sinh vật khốn khổ đó. Những con vật nhu mỳ, yêu trẻ như chúng có thể làm gì với đống phân này? Chó là một người bạn trung thành. Thế mà lúc này, chúng ta hình như lại đưa người bạn đáng tin cậy đó đến để chết dưới xích tăng quân địch! Tôi quyết đi tìm hiểu.



 



Tôi tìm thấy lũ chó ở gần đó với những anh lính trông nom chúng, chờ đến thời khắc của chúng… Tất cả chúng đều đẹp và to, nhiều màu, nhiều giống. Tuy nhiên có một chú chó cá biệt bắt mắt tôi. Chú chàng trông có vẻ kỳ lạ với một tai cụp xuống còn tai kia lại dựng đứng lên. Nó có vẻ như có một cá tính thật, một badboy thật sự! Chú chó nhìn tôi, lúc lắc đầu, hi vọng sẽ có chút đồ ăn. Một bó thuốc nổ nằm cạnh đó với một cái anten, nối vào kíp nổ, nặng chừng 8kg.



Tôi được biết một trong số những người trông chó – có một bác trung niên, tóc đỏ -  cũng lớn ở vùng Krasnoyarsk như tôi. Chúng tôi nói chuyện một chút. Bác ấy bảo rằng bọn chó đã được huấn luyện 3 tháng, chúng nhận thức ăn ở dưới những chiếc tăng đang chạy. Thì ra bí mật thiên hùng ca là đây. Tôi trở về “nhà”, tức cái hang của tôi và kể những gì thấy được với Suvorov.



Rất nhanh sau đó, những chiếc tăng xuất hiện từ phía tuyến quân địch, và chúng tôi thấy một cái banh bù xù màu đen chạy nhanh về phía chúng. Và theo sau là con thứ hai và thứ ba. Chú chó thứ nhất thổi tung một chiếc xe với một tiếng nổ kinh hoàng. Tiếp sau là hai tiếng nổ nữa.  Bọn tăng Nazi nhanh chóng quay đầu và chạy mất. Đồng đội tôi hét lên “Hurrah!” và tôi cũng vậy, vui mừng – cuộc tấn công của tăng Đức đã bị đẩy lùi – nhưng tôi đã khóc và nguyền rủa cuộc chiến tranh cũng những tên quái vật đã gây ra nó.




Ban đêm, hàng đoàn máy bay vận tải của bọn Đức vận chuyển đồ tiếp liệu cho quân bị vây. Chúng tôi đánh lừa bọn lái máy bay bằng cách bắn lên những khẩu pháo sáng tịch thu được, và nhận được hàng đống thứ ném vào chúng tôi: nào là bánh mỳ, xúc xích, thịt hộp, vớ len, giày rơm (một loại giày đi tuyết to xù, mặc ra ngoài đôi bốt thông thường – ND), thuốc lá, bánh qui và linh tinh khác. Có tin đồn rằng loại bánh mì bọc trong plastic là được làm từ tận năm 1933! Nhưng bọn lính chúng tôi ít có nhiệt tình với chúng, xét ra bánh mì của chúng ta là nhất quả đất!



 



Vào lúc đó, trong hơn một tuần, đại đội tôi lại không may mắn với hội “tải lương”, bên quân nhu, như thường lệ, lại lạc đâu đó. Một trong những đồng đội của tôi, Victor Marchenko, rất “thơm” vớ được hẳng một balô đầy xúc xích, bọc trong lưới. Vì lí do gì đó – trái với lệ thường của chúng tôi – anh ta quyết giữ chiến lợi phẩm cho riêng mình mà không chia cho mọi người. Anh ấy còn đi tệ hơn nữa khi doạ bắn ai cố lấy túi của anh. Do vậy, mọi người nhất trí để hắn một mình với đống xúc xích của mình và quên hắn đi. Trước đó Marchenko là một người hết sức đúng mực và là một người bạn chân thành, nhưng rõ ràng là có điều gì đó xảy ra với anh ta: “Có lẽ anh ấy cảm thấy cái chết đến gần chăng?” tôi nghĩ như vậy. Và ý tưởng này làm tôi thấy khó ở…



 



Một ngày tạm yên ả trôi qua. Chúng tôi sốt ruột chờ đêm xuống để đến “thăm” bọn Fritz với hi vọng tràn trề là sẽ xoáy được ít chiến lợi phẩm – đột nhiên ở hướng hầm của Marchenko, có tiếng nổ. Khi chúng tôi chạy đến, hầm của Victor đã đổ sập và khói bốc lên từ đó...



 



Tôi phải thú nhận rằng, từ ngày đầu ở tiền tuyến, tôi để ý rằng những đồng đội tôi, ai lấy đồng hồ của lính Đức chết thì sớm muộn gì cũng sẽ chết. Chút ít trước giờ gặp thần chết, họ có thể thành một kẻ hèn nhát hoàn thành, hoặc giả mất tự chủ hay không biết mình làm gì, một số người khác thì trông câm lặng. Với tôi, dường như có một giác quan thứ sáu và thường đoán được đúng ai sẽ chết trong vài giờ tới.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:20:17 am


Vào một ngày, trên khu vực mặt trận của đơn vị, chúng tôi thấy một khẩu phòng không bốn nòng tự động của Đức. Đó là một cổ máy quân sự tuyệt vời, một thiết bị phức tạp với hàng đống bánh đà và tay cầm, đứng trên một cái giá. Nó có thể xoay quanh trục trên mọi hướng. Ghế cho xạ thủ ở phía sau, cho phép điều khiển súng bằng cả hai tay và chân một cách tự do. Mỗi nòng đeo một cái hộp rất to chứa một gắp 5 quả đạn và được nạp tự động. Cả chiếc máy thăng bằng một cách tuyệt hảo: bạn có thể nhắm vào bất cứ đâu bạn muốn.



 



Ivan Konski, một tay lính cối trong đại đội tôi là người đầu tiên nhảy vào, ngay lập tức anh xoay xoay các bánh đà và tay nắm. Đứng cạnh anh là Gennadi Manuilov, một nhà chế tạo súng, giải thích cái gì để làm gì. Nhưng dường như Konski đã thạo cả mọi thứ rồi, chỉ sau chừng 10 phút, anh ta thao thao nói về khẩu pháo như thể anh đã chế ra nó.



Ngay lúc đó, chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ máy bay đang đến. Cứ theo tiếng động thì nó đang bay rất thấp. Nhưng trời mù sương nên chúng tôi vẫn không thấy gì. Konski tiếp tục loay hoay với khẩu pháo, hướng cả bốn nòng về phía tiếng động, tiếng gầm gừ đang lớn dần. Một chiếc máy bay vận tải của Đức bất ngờ hiện ra, bay cực thấp, vút qua, biến vào trong màn sương. Cũng như chiếc vận tải cơ, Konski nhanh chóng khai hỏa. Đường đạn nối đuôi nhau lao tới. Đúng vào lúc chiếc máy bay gần như biến mất trong sương mù, bọn tôi nghe thấy có tiếng nổ khác lạ từ những động cơ của nó. Và trước mắt chúng tôi, thân chiếc máy bay bung ra, oằn xuống, một lỗ hổng xuất hiện trên đó và những thứ bên trong bắt đầu rớt ra, rơi xuống đất. Lúc đó, chiếc vận tải cơ to lớn, tả tơi mất độ cao và rơi xuống khỏi tầm nhìn. Chúng tôi nghe thấy một tiếng động trầm đục khi nó đâm xuống đất và theo sau là một vụ nổ. Ivan Konski, mặt đỏ bừng sung sướng. Anh vẫn ngồi hoàn toàn bất động trên ghế xạ thủ, nhìn chúng tôi. Trong khi toàn bộ anh em hét vang “Hurrah!” và chạy đến tìm xem những thứ gì có trong chiếc máy bay bị hạ.



 



Quân ta đếm được hơn 30 xác sỹ quan Nazi cao cấp. Và có hàng trăm chiếc vali, thùng hộp chứa đầy những thứ quí giá chúng cướp được của nhân dân Sô viết. Tất cả giấy tờ và đồ có giá trị được chuyển về sở chỉ huy sư đoàn. Và Ivan Konski, như tôi nhớ, được nhận một huân chương cao quí.



 



Đại đội cối chúng tôi có trong trang bị súng máy Maxim, và cả tiểu liên MG-34 của Đức, những vũ khí này cực kỳ hiệu quả trong chiến đấu. Chúng tôi cũng có một khẩu súng trường chống tăng với khá nhiều đạn: thỉnh thoảng chúng được dùng để diệt các ổ súng máy, nhưng chúng tôi không có cơ hội để bắn tăng. Thật tuyệt nếu được giữ khẩu cao xạ thu được nói trên cho đại đội, nhưng tiếc là Ivan Konski phải chia tay với nó và giao lại cho những tay chuyên gia súng ống.


Những ngày tiếp theo thì mang lại toàn điều không may cho Ivan Konski. Anh nhặt được một khẩu súng ngắn – có lẽ của Đức, tôi không rõ, nhưng chắc chắn là đồ nước ngoài – Ivan cho nó vào túi và hi vọng có thể xem xét chi tiết cái vũ khí lạ lẫm này trước khi dùng. Đêm đó, khi mọi việc lắng xuống, Konski nhớ đến khẩu súng mới. Chúng tôi cùng ngồi xuống quanh một vòng tròn, còn Ivan thì xoay ngang xoay dọc khẩu súng cố tìm hiểu xem nó hoạt động như thế nào. Đột nhiên, một tiếng nổ vang lên. Konski tê cứng người, những ngón tay trên bàn tay trái xoè rộng ra, lòng bàn tay đẫm máu. Thất thần, anh nhìn từng người chúng tôi. Có ai bị trúng đạn không? Và chỉ khi nhận ra viên đạn không gây thương tích cho ai, anh mới quay lại với bàn tay nhầy nhụa máu của mình.



 



Lúc đó chúng tôi thật sự hoảng sợ. Nếu vệ binh biết được điều này, Konski sẽ phải đối diện với toà án binh. Tai nạn hay cố ý, đó vẫn là việc tự gây ra thương tích, và dù ngày hôm trước Ivan có bắn rơi máy bay thì điều đó cũng không giúp được anh. Chúng tôi nhanh chóng băng bó vết thương và lạy Trời cho nó chóng lành mà không phải đi bác sỹ. Sau đó anh em giúp Ivan giấu bàn tay đó trong một chiếc găng tay to xù có cổ và thề không hé ra chuyện này với ai.



 



Hai tuần sau, Ivan Konski đã có thể tháo băng. Một vết sẹo nhỏ hiện ra trong lòng bàn tay, viên đạn đã xuyên qua phần mềm mà không tổn hại gì đến xương cốt. Các bạn thấy đó, anh em trong đại đội tôi được một bài học nhớ đời về vũ khí thu được, nhưng còn có những điều lộn xộn nữa. Và đây là một ví dụ khác mà lẽ ra có thể có kết thúc đầy bi kịch.



 



Gần nhà ga xe lửa ở Karpovskaia chúng tôi bắt được một đoàn tàu với những toa hàng đặc biệt. Một trong số chúng chứa một khẩu đại bác khổng lồ, đựơc gắn chặt lên sàn toa. Hình như bọn Đức định mang nó đến để bắn vào Stalingrad.



 



Cỡ nòng không dưới 400mm. Khẩu pháo khổng lồ này mê hoặc chúng tôi! Mọi người đứng quanh nó, sửng sốt, và dĩ nhiên, tất cả đều muốn biết nó làm việc ra sao. Gần đó, anh em thấy vài cái hộp đan bằng cây liễu gai chứa đạn. Mổi cái nặng 100kg! Chúng tôi cũng chú mục vào một đống bao gần đó. Mở vài cái ra, bên trong có cái gì đó trông như những bó mì ống spaghetti, mỗi sợi dày bằng một ngón tay và dài chừng 70cm. “Ồ, đó là thuốc súng!” một anh kêu lên. Nhưng người khác cười không tin. Nhưng anh lính – người đã đoán chính xác – lấy một sợi “spaghetti” và tiến hành đốt “Wow! Trông cách nó cháy kìa!”. Bất ngờ, sợi “spaghetti” nhảy khỏi tay anh ta, và xoay tít mù quanh những bao thuốc nổ và hộp đạn.



 



Vài người dùng gót chân, trong khi những người khác cố bắt lấy sợi “mì”. Một ai đó cố nhảy giẫm lên nó, nhưng nó phóng vụt đi dưới giày anh. Sau đó, nó xoay đi cố tìm lối giữa hai bao tải chứa đầy những thứ quái dị và bất ổn này. Ồ, nếu cả núi đạn này bắt đầu bùng ra, thì hẳn – có thể nói bằng câu – “đã quá trễ dù bắt đầu chạy từ hôm qua!”. Không suy nghĩ một giây, tôi lao về phía những cái bao, mò bắt sợi “spaghetti”- nó là cháy bỏng những ngón tay tôi qua đôi găng – và đứng lên, chuyền cho người khác, giữ nó có khoản cách an toàn với sàn nhà cho đến khi cháy hết.



 



Sau đó, khẩu đại pháo này hoạt động ở phía quân ta cả ngày và đêm. Tiếng đạn rít cao trên đầu chúng tôi. Và, đâu đó một quãng - trong cái “túi”- có tiếng nổ lớn theo sau là quầng sáng rực ở phía chân trời…



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:22:01 am


Trong lúc nghỉ ngơi, ngồi trong chiến hào, mọi người nghĩ về quá khứ. Khát khao lớn nhất là được về ngôi nhà izba (loại nhà truyền thống của nông dân - ND) ấm áp để có một giấc ngủ ngon; hoặc được đến một bania (nhà tắm hơi - ND), nằm dài trên băng ghế, thưởng thức hơi nóng. Những hình ảnh này bồng bềnh trong đầu tôi như những giấc mơ thần tiên !



 



Cả tháng rồi, chúng tôi không có một giấc ngủ đàng hoàng, mà chỉ có ráng chợp mắt một chút ở ngoài trời, giữa những lần giao tranh. Sống như vậy, ở thảo nguyên vào mùa đông thì dường như không thể chịu nổi, ngay cả với cơ thể khoẻ mạnh, trẻ trung của tôi. Còn bọn rận thì gần như giết sống tôi! Trong mùa đông, không cách nào để thoát khỏi chúng. Tôi đã cố diệt chúng bằng thuốc giết côn trùng, nhưng không có kết quả. Tôi nhớ cách tôi làm: đẫm mồ hôi sau một trận chiến đấu, tôi lấy một gói thuốc diệt côn trùng ra và đổ cả vào cổ áo tôi, trực tiếp lên cơ thể tôi. Tôi rắc thuốc từ đầu đến chân, nhưng thứ thuốc này không có ảnh hưởng gì tới bọn rận cả. Cái đói, giá rét, thiếu ngủ triền miên và lao động nặng không ngừng nghỉ cũng bắt chúng tôi phải trả giá. Chúng tôi uống nước bẩn từ những cái gà mên bẩn cũng không kém. Nước được lấy bằng cách nấu làm tan chảy những nắm tuyết dơ hầy. Làm thế nào con người chịu đựng được như vậy? Thật khó tưởng tượng.



Hơn nữa, chừng sau 3 hay 4 tuần đến mặt trận, tôi bắt đầu bị chứng đái giắt. Cứ khoảng 5 phút là tôi phải đái một lần, và để giữ cho quần được khô, tôi không kéo khoá (cúc cài) quần.Tôi chắc là tôi mắc phải một căn bệnh trầm kha nào đấy, nhưng tôi thấy xấu hổ để báo cáo. Điều tôi kinh hãi nhất là nỗi sợ rằng căn bệnh này sẽ theo tôi suốt đời: thà rằng chết còn hơn. Một người bạn, thấy tôi bị như vậy, đoan chắc rằng: “Tao cũng bị như vậy rồi, nhưng sau lần bị thương, tao được đưa đến bệnh viện và không vòng một tuần nó trở lại bình thường”.




Tôi thường nghĩ rằng:” Sao mình vẫn còn lành lặn trong cái địa ngục này trong khi hầu hết các đồng đội đã hi sinh hoặc mang thương tích?”. Trong giấc mơ, tôi thấy mình là một chiến binh bị giết một cách tàn bạo, nằm trên cánh đồng, trong một cảnh của bức vẽ Trận chiến Kulikovskaya.  Một lính bộ binh già người Siberia, nghe được giấc mơ của tôi và bảo tôi với vẻ ghen tị “Con trai, con sẽ an lành về nhà từ chiến trận, đừng lo lắng về một giấc mơ như vậy”. Nhưng tôi, cũng ghen tị, bực bội với những người bị thương nặng. Đôi lần, tôi xông lên, coi thường hoả lực bọn Đức, và mong rằng mình sẽ bị thương. Đồng đội gọi tôi là một “người hùng” hoặc một “người-không-biết-sợ”, nhưng tôi chỉ thấy xấu hổ.



 



Bùn đất phủ khắp người chúng tôi. Mặt mũi thì đen như bồ hóng. Chúng tôi nhìn nhau và thấy ai cũng bẩn thỉu và trông rất buồn cười, và như vậy đó, anh em có được một trận cười nghiên ngả. Tôi mừng rằng râu tôi chưa mọc nhiều. Những anh em lớn tuổi râu ria xồm xoàn trông như một lũ cướp. Ắt hẳn là chỉ huy muốn bọn tôi tề chỉnh? Nhưng, họ không tạo điều kiện cho chúng tôi ở sạch….



 



Khi tôi còn nhỏ, tôi là một thằng bé mơ mộng. Tại mỏ, ở tuổi lên 8, bọn trẻ đã biết đãi vàng. Như những chú vịt con, chúng tôi xục xạo cả ngày trên con sông Miass với chậu đãi và gàu xúc. Tôi mơ mình tìm đựơc một thỏi vàng lớn, lớn đến mức không tay đào vàng nào có thể nhấc lên nổi. Lúc đó, tôi tin rằng những mẫu vàng bé xíu mà chúng tôi tìm thấy, là con của một cục vàng mẹ, một khối vàng tự nhiên khổng lồ, to như một quả núi.



 



Trong những ngày đó, bọn trẻ chúng tôi phải làm việc luôn tay, trong nhà, trong vườn rau, trên đồng hay trong rừng. Lẽ tự nhiên là chúng tôi cũng muốn vui chơi, nhưng không có thời gian. Giày trượt, ván trượt bị bỏ mặc. Trong mùa nghỉ hè, cha tôi sắp xếp cho tôi làm việc cùng với đội đào vàng, ở đó tôi có nhiệm vụ cầm cương ngựa. Tôi thích làm việc, nhưng tôi cũng muốn có thời gian cho cá nhân – ít ra là một trong mỗi mười ngày – để đi vào rừng chơi hoặc câu cá. Nhưng những người tìm vàng thì làm việc không hề ngơi nghỉ trong mùa hè. Vậy phải làm gì để có một kỳ nghỉ? Ồ, tôi đã tìm là một cách như thế này. Mỗi sáng, những người đào vàng bàn tán với nhau về giấc mơ của họ. Nếu ai đó gặp ác mộng thì những người đào vàng mê tín này sẽ quyết nghỉ một ngày. Và thế là tôi tham gia ngay vào buổi nói chuyện, đưa ra một lô những giấc mơ sợ sệt – những cơn ác mộng của trẻ em đựơc xem là có ý nghĩa đặc biệt – và chú đốc công ngay lập tức cho nghỉ làm ngày: lúc đó tôi phóng vào rừng hoặc mò ra sông chơi. Khi tôi kể với cha mưu mẹo này, người cười đến chảy nước mắt!





“Làm thế nào để khuấy động anh em trong đại đội nhỉ?” một ngày nọ tôi nghĩ “Mình có thể lấy lý do gì để làm mọi người kích động và bảnh choẹ một chút nhỉ?”. Và phương án đến như một ánh chớp. Đầu tiên tôi thấy sờ sợ, nhưng sau khi nghĩ kỹ, tôi tin rằng mình không thể bị lật tẩy và tôi quyết định hành động. Tôi biến khỏi đại đội chừng khoản nửa giờ, sau đó tôi xuất hiện trở lại với một điệu bộ quan trọng, nín thở thông báo vài “tin” cực kỳ rằng: “Này, anh em, có tin đồn là Stalin sẽ đến thăm Phương diện quân Sông Đon!”



 



“Tin nóng” này lan nhanh khắp các chiến hào như một đám cháy rừng (với tốc độ máy “điện báo mồm lính” mà!), và trong vòng một giờ, không một ai trong đại đội tôi là không bận bịu với việc chỉnh đốn mặt mũi, trang phục. Tay thì gột những vết bùn ra khỏi áo choàng, tay thì cố vá víu những lổ thủng trên quân phục, hoặc tắm, cạo râu ngay trên mặt tuyết: mọi người cố gắng điên cuồng để mình trông sáng sủa.



 



Sau đó lính tráng bắt đầu hỏi các cấp chỉ huy về “tin tức” đó. Nhưng họ lúng túng và không thể trả lời. Điều này càng làm lính tráng tin vào những lời đồn đại loại như: “Các tay sĩ quan được yêu cầu phải giữ bí mật thông tin vì lý do an ninh..”. Và như bạn biết đó, tôi thấy mình như là một kẻ xuẩn ngốc khi  lo lắng về hậu quả của trò đùa này: ngay cả khi tôi thú nhận mình chính là tác giả của tin đồn này thì cũng chả ai tin tôi!



 



Một ngày nào đó, khi đại đội tôi đã tiến lên khá xa, chúng tôi lọt vào một khu đầy những hầm hào trú ẩn do bọn Đức bỏ lại. Tôi thấy quân ta tụ lại gần đó, bàn tán gì đó rồi tiến vào. Tôi cũng nhanh chóng chui vào một hầm và thấy một tay pháo thủ to con trong trung đòan đang quằn quại trên sàn. Trông như thể anh ta đã ngẫu nhiên tự đầu độc mình. Việc này xảy ra thường mà.



 



Tay lính bất hạnh ấy quỳ dậy trên đầu gối, chà bóp vào cổ mình và rên lên như cái kèn trumpet. Anh em lính tráng chỉ liếc nhìn tay pháo thủ ấy một tẹo rồi đi tiếp. “Anh ta sao vậy?” tôi hỏi. “Đó, cu thấy đó, nó uống cái quái quỉ gì đó từ một trong những cái chai kia”. Tôi trông thấy một cái hộp có chứa 6 cái chai to, trong đó đầy một loại dung dịch nhớt vàng vàng. Người “chết” ấy đang cố sức thở một cách đau khổ hết mức có thể. Tôi để ý thấy mặt gã đỏ như cà chua. Khi đó, hắn háy mắt nhìn tôi và bắt đầu rên rỉ thê lương bằng tiếng Ukrain “Ôi, lạy chúa tôi! Lạy chúa tôi!”



 



Tôi tìm thấy trong hầm còn rất nhiều hộp và cũng chứa đầy những chai có thứ rượu vàng đó. Chúng tôi có một cỗ xe riêng của đại đội cối, được kéo bằng một cặp ngựa. Tôi nói nhỏ với một người trong đại đội để đưa chiếc xe đến càng nhanh càng tốt, và nó đến ngay lắp tự, trước khi xe của pháo binh có thể đến. Bấy giờ thì tay Ucraina đó bắt đầu rên rẩm ”Bọn kẻ cướp, ít ra cũng để lại tao một hộp chứ!” “Không hề” Bọn tôi cười “ở đây có ít lắm!” “Được”, tay pháo thủ vừa hồi phục một cách kỳ lạ phản khán “thế thì tôi sẽ đi cùng các anh”



 



Sau một thời gian, tay pháo thủ (tên anh ấy cũng là Marchenko) đã trở nên quen thuộc với đại đội chúng tôi, anh thường kể lại câu chuyện mà suýt chút nữa anh đã bịp được cả một đại đội, nhưng một tay “Tartar láu cá” đã nhìn thấu tim anh. Anh miễn cưỡng kết luận “Ở đâu có một gã Tartar thì một người Ucraina chả thể làm gì được”.




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:23:41 am


Chương 4: Sinh dưới vì sao may mắn



 



Để tăng hiệu suất chiến đấu, Buteiko, đại đội trưởng, quyết định rằng tổ chúng tôi trở thành một tổ “du binh”. Từ khi đó, chúng tôi hoạt động độc lập trong tiểu đoàn, ở tuyến đầu, yểm trợ hỏa lực cho đại đội bộ binh và được chọn vị trí của mình theo tình huống chiến đấu.



 



Kết quả là các chỉ huy bộ binh, có tổ chúng tôi để sự dùng tuỳ ý, thường dùng hoả lực cối áp chế mục tiêu trước khi tiếp cận. Ví dụ như nếu có một tay thiện xạ Nazi đang nấp sau một chiếc tăng hỏng: chúng tôi sẽ “chăm sóc” hắn cẩn thận với vài phát cối. Hoặc phe Đức thiết lập một ổ đại liên mới: và một lần nửa, hoả lực cối lại là cách giải quyết vấn đề tốt nhất.



Một giao liên chạy qua lại giữa chúng tôi và đại đội bộ binh, mang theo tin tức đại loại như một mục tiêu, một vị trí ẩn nấp phía sau những gì sót lại của một khẩu pháo: và như thể một đội cấp cứu, chúng tôi phi tới điểm đó ngay lập tức. Anh em tôi có đủ kinh nghiệm để tính toán các phần tử bắn. Tổ chúng tôi: Suvorov, Fuat Khudaibergenov và tôi, thường bắn trúng vị trí trong vòng 3 viên đạn.



Như tôi đã nói, lợi ích của chiến thuật “du binh” là hiệu suất chiến đấu. Ngay khi quân địch lộ ra một mục tiêu mới, chúng tôi có mặt ngay để dội đạn. Và cũng nhờ sự vận động mà chúng tôi tránh được hoả lực địch. Xin được nói lời cảm ơn với tờ báo của sư đoàn, tờ Tiến lên, và chiến thuật này được dùng ở tất cả các đại đội cối của sư đoàn.



Tuy vậy, có một điểm bất tiện, các cơ phận của khẩu cối khá nặng, và thật là vất vả khi phải lôi chúng đi. Theo tôi thì phần nặng nhất là nòng súng. Khi đánh bóng bằng vải thô, nó sáng loáng như được mạ kền, và không chỉ nặng – tầm 20kg – mà khó nắm giữ, nó thường trượt khỏi tay tôi như một con cá nhớt nhợt. Chợt tôi nảy ra sáng kiến: tôi có thể kéo cái nòng súng trên tuyết và mặt đất đóng băng bằng một sợi dây. Và thế là tôi nối một đoạn thừng vào rồi đi. Thật tuyệt! Buteiko để ý đến phát kiến của tôi và bảo rằng:



- “Này cậu, phải cẩn thận đừng để vỏ nòng súng rớt ra nhé, không thì đất đá sẽ lọt vào và làm hỏng gương đó!”.



Tôi mừng vì thấy đại đội trưởng có vẻ chấp nhận sáng kiến của tôi. Nhưng niềm vui của tôi ngắn chẳng tày gang khi nghe Buteito nói tiếp:



- “Có chút thay đổi, bây giờ pháo thủ số hai phải mang thêm hộp đạn”.



- “Tuân lệnh!”.



Và giờ đây tôi có 20kg kéo đằng sau và thêm 22kg trên lưng. Đồng đội tôi cười toe toét và bảo “Hê hê, Mansur, không có lười nhác nhé!”. Bên cạnh khía cạnh hài hước thì đây quả thật là những điều khó nhọc. Thật hiếm khi tổ chúng tôi có đủ 5 pháo thủ như theo điều lệ qui định. Thiệt hại của ta là rất lớn, đại đội đã phải tái bổ sung lực lượng hai lần. Chúng tôi có cơ hội để có pháo thủ số 4 nhưng còn pháo thủ số năm thì đó là một giấc mơ lãng đãng. Thường, chúng tôi chỉ có 03 người để mang toàn bộ đạn dược, giá đỡ, chân đế. Mà khi cần, chúng tôi cũng có thể xoay sở chỉ với hai người, và dù thế, mọi khẩu cối cũng đều phát hoả vào quân địch.





Dù gì thì thiệt hại của chúng tôi cũng không bằng cánh bộ binh. Ở đó, tuổi thọ một người lính chỉ một hoặc hai tuần. Mỗi lần đêm xuống là lực lượng tăng viện đưa đến nhiều hơn, và tôi hiểu rằng cỗ máy quân sự của ta vẫn phải đào tạo người lính một cái sơ sài cho đến khi chúng tôi đến được đích cuối cùng – Berlin.



Thật xúc động trước sự chăm sóc của các đại đội bộ binh dành cho cánh lính cối bọn tôi. Họ mang đạn giúp, họ tìm những vị trí bắn tốt cho khẩu đội. Tinh thần họ nâng cao khi có chúng tôi bên cạnh. Và vì ống nòng cối trông như ống khói nên họ gọi bọn tôi là “hội Samovar”.



MỘt ngày nọ, cánh bộ binh cảnh báo chúng tôi rằng có một tay thiện xạ Nazi xuất hiện ở tuyến địch và hắn đã hạ bảy lính ta rồi. Tôi ngồi xuống cạnh thi thể bọn họ và nghĩ “Chúng tôi phải kết liễu tên bắn tỉa này!”.Tôi trở lại đại đội và kể cho Suvorov về tên bắn tỉa và thật tốt nếu chúng ta có thể phát hiện ra hắn.



- “Không ai bắt đóng thuế giấc mơ, nhưng đó là một việc khó khăn Mansur ạ!” Pavel cười bảo.



Chỉ có một cách để tìm ra vị trí tên bắn tỉa là dùng kính ngắm trinh sát. Tôi lấy một cái và quay lại chỗ đại đội bộ binh, và bắt đầu một cuộc xem xét dài, tỉ mỉ trên khu phân tuyến: từng hố đạn, từng xác chết, từng đống vôi gạch… Để tìm được tên bắn tỉa trên vùng đất hổn mang này thì chả khác gì việc tìm kim trong đống cỏ! Tôi quét kính ngắm hàng trăm lần trên vùng thảo nguyên bất tận, cố nhớ đặc điểm ở những gò đất trông đáng ngờ



- “Hắn không thể ở ngoài lạnh mãi được” ai đó đằng sau tôi nói “hắn phải rời đi sớm hay muộn thôi!”.



Tôi nhảy lên xuống chiến hào, cố giữ ấm, khi một tay đại đội trưởng trẻ, lấy kính ngắm và làm như cách của tôi. Nhưng anh ấy nhanh chóng mệt mỏi vì phải nheo mắt, làm ra vẻ của một người có nhiều thứ quan trọng trong đầu, anh bỏ đi trong khi ra lịnh một cách cáu kỉnh và nghiêm trọng:



- “Cẩn thận đấy! Thấp người xuống! Hiểu không?”.



Trong khi đó, tôi thấy hứng thú với ý đồ này, và vớ lại chiếc kính ngắm lần nữa. Nhanh chóng, tôi biết được chi tiết mọi thứ trên mặt đất như thể trong lòng bàn tay tôi vậy. Chăm chú quan sát không ngừng nghỉ từ trái sang phải, tôi bắt đầu loại trừ một cách có hệ thống một số các vị trí ẩn nấp có thể, thu hẹp dần vòng nghi vấn. Đến trưa tôi chú mục vào một “gò” đất cá biệt, đột nhiên nó chuyển động! Tôi không tin vào mắt mình – chính là hắn! Bây giờ thì tôi sợ rằng sau tất cả những cố gắng của mình, tôi để vuột hắn mất. Việc gì sẽ xảy ra nếu hắn bò đi đến một vị trí an toàn trước khi chúng tôi có cơ hội làm điều gì đó?



Suvorov xuất hiện đúng lúc đó. Không rời khỏi kính ngắm, tôi báo cáo lại tình hình. Chúng tôi quyết định là sẽ dùng khẩu súng trường của một bác lính già người Siberi:



- “Súng của bọ luôn bắn trúng” bác binh nhì nói, trao cho tôi vũ khí của bác “Bọ ước là họ cho bọ khẩu súng này khi kết thúc chiến tranh, bọ mang nó về với rừng! Bọ không cần huân chương, chỉ cần khẩu súng trường của bọ!”.



Tôi cẩn thận đặt khẩu súng lên bờ công sự, trong khi Suvorov suy nghĩ phương án tốt nhất để dụ tên bắn tỉa khai hoả, khi đó tôi có lợi thế khoảng 10 giây “chết” khi hắn phải lên đạn.



Không phí phút nào, Pavel quấn một mẩu vải quanh chiếc xẻng quân dụng, vẽ mắt và mũi bằng bùn, đội nón của anh lên đó và thận trọng đưa nó nhô lên mặt công sự. Cái “gò đất” chộp ngay, và chiếc xẻng kêu lên leng keng. Ngay lập tức tôi tỳ bám súng vào vai và bóp cò. Cái “gò đất” gục xuống. Rất nhanh, tiếng súng tự động rộ lên từ phía địch và súng máy của ta cũng đáp lời.



Ngay sau đó, khi mọi thứ yên lặng trở lại, chúng tôi thấy có hai dáng người bò như thằn lằn từ tuyến địch về phía cái “gò”. Bọn Quốc xã đó cũng nhận được cái mà chúng đáng nhận, và khi đêm xuống, vài tay liều lĩnh hơn trong số chúng tôi tiến đến chỗ tên bắn tỉa đã bị hạ và mang về một ít chiến lợi phẩm. Trong số đó có một cuốn sổ trong đó ghi một con số tính toán ớn lạnh: 87 chiến tích.





Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:25:21 am


Cũng ngay trong đêm đó tôi mắc phải một vi phạm nghiêm trọng. Số là cấp trên của chúng tôi dự đoán rằng bọn Đức bị vây sẽ cố gắng đột kích vào hướng tây – địa đoạn phòng thủ của chúng tôi. Nhưng nhiều ngày qua mà không có dấu hiệu gì từ bọn Frizt và trong trạng thái lâng lâng sau chiến công giết tên bắn tỉa, điều tệ hại nhất đã xảy ra. Chúng tôi luân phiên ngủ, và tôi đề nghị Suvorov ngủ trước để tôi đứng gác. Suvorov ngủ thiếp đi rất nhanh. Nhưng khi đó tôi cũng hoàn toàn ngủ gục, đó vẫn là một điều bí ẩn với tôi, làm thế nào mà tôi có thể mất tỉnh táo quá nhanh và một cách hoàn toàn như vậy. Phải chăng tôi lả đi sau một ngày mệt nhọc? Tôi không biết, nhưng điều đó không bao giờ xảy ra lần nữa…



Bọn Đức ập đến như tuyết lở cùng với tất cả thiết giáp, ô tô, xe kéo của chúng theo đội hình hàng dọc tràn qua đầu chúng tôi trong một nổ lực phá vây. Quân ta khai hoả và tiêu diệt được một số xe trong đó có xe tăng, nhưng bọn Frizt vẫn tiến lên. Các đại đội bộ binh của ta rút lui. Sự thật là tất cả các đơn vị ở tuyến một, không thể trụ vững trước cuộc tấn công dữ dội có qui mô lớn của quân Đức, đã rút lui chậm rãi một cách có phương pháp về trụ lại ở tuyến hai, như thế cho phép pháo bắn tự do.



Nhưng lúc đó chúng tôi vẫn đang ngủ! Tôi thấy trận chiến này trong giấc mơ. Vâng, tôi nhận thức được điều đó trong tâm trí như thể là một cơn mộng, và nó không làm tôi tỉnh giấc. Nhưng đâu đó sâu thẳm trong tôi vang lên một giọng cảnh giác “Thức dậy đi! Đây không phải là giấc mơ”. Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi có nên tin điều này không? “Oh, mình sẽ chỉ mở mắt ra thôi” cuối cùng tôi quýêt định như vậy. Nhưng khi chợt tỉnh, tôi thấy mọi thứ như trong đã có trong giấc mơ! Chúa ơi, việc quái gì vậy? Sovorov cũng thức dậy và hỏi: “Mansur, chuyện gì thế?”, “Bọn Quốc xã chọc thủng tuyến phòng ngự của chúng ta”, tôi thầm thì, “ và chúng ta thì ngủ quên!”.



Suvorov cẩn thận lắng nghe tiếng động bên trên chúng tôi. BỌn Đức đang cố đi vòng tránh một chiếc tăng bị cháy trước chiến hào chúng tôi, và vì vậy chỗ chúng tôi hiện là một khu “đất chết” nên chúng tôi mới không bị phát hiện. Suvorov ra lệnh cho tôi ngồi yên, trong khi anh thận trọng đứng lên và thò đầu ra khỏi công sự. Sau đó anh bò trở lại và chúng tôi bàn xem phải làm gì.



Trong giấc mơ, tôi đã đoán chắc việc gì đang xảy ra. Và theo những gì mà Suvorov xoay xở để trông, thì bọn Quốc Xã đang dừng lại ở tuyến phòng ngự thứ hai. Tiếng súng cách chúng tôi không xa mấy, chừng 2-3km về hướng tây, tức ở đúng vị trí của tuyến phòng ngự thứ hai. Chúng tôi không có nhiều lựa chọn, phải ngồi và chờ một vài giờ, nếu trung đoàn không thể trở lại, thì chúng tôi sẽ phải cố tìm cách để về với anh em trong sự che chở của bóng đêm.



Suvorov trở lại điểm quan sát còn tôi thì giấu mình dưới đáy chiến hào. Làm sao tôi lại có thể “tắt điện” như thế và ngủ quên khi đang làm nhiệm vụ canh gác? Tôi căm ghét bản thân mình vô cùng! Nếu tôi một mình thì còn đỡ, đằng này, ôi Suvorov tội nghiệp! Anh không trách cứ tôi, nhưng thế chỉ làm mọi việc tồi tệ thêm. Tôi mường tựơng ra rằng Suvorov sẽ nghĩ: “Mịe, Mansur là thằng óc bã đậu, không có ý thức trách nhiệm. Một thằng  đầu đất. Nếu mình có thể ra khỏi tình thế này, mình sẽ không chơi với nó nữa. Không cần thằng lười nhác vô tổ chức như vậy nữa. Chả ai có thể tin nó cả, nó ngủ trong khi cần có nó…”. Như thế, như thế…



Tôi ngồi đó, cố tự phân tích xem phải làm gì là tốt nhất, và kết luận là: “Ừ, Suvorov sẽ không cần một đồng sự như mình. Và mình cũng không cần mình nữa! Tại sao mình có thể là một thằng-không-ra-gì thế này? Nếu hai anh em có thể ra khỏi tình thế này và trở về lại tiểu đoàn, hẳn tiểu đoàn trưởng sẽ chẳng cảm ơn mình! Họ chắc sẽ tước huy chương “Vì lòng dũng cảm” của mình và khai trừ ra khỏi Đảng”. Tôi những muốn tự sát nhưng tôi cũng không muốn bỏ rơi Suvorov. Tôi không thể tự sát và để anh ấy một mình trong thời khắc nguy hiểm này.





Trong khi đó, trên đầu tôi, âm thanh hỗn loạn của trận đánh vọng đến, nghe chừng bọn Đức vẫn tiến về hướng tây. Hoả lực của ta, trong nổ lực chặn đứng quân thù, đã bắn đạn phá và cối hạng nặng, sức nổ của chúng hạ gục nhiều lính thù và ắn hẳn cũng sẽ dễ dàng giết chết chúng tôi.



Cuối cùng, bọn Đức bị hất trở lại, tôi nghe được những tiếng động hỗn loạn của sự lộn xộn đi cùng chúng ở phía trên đầu: những tiếng hét tuyệt vọng, những tiếng nổ inh tai, tiếng động cơ gầm gừ, những tiếng rên rỉ đau đớn. Trông như một cơn sóng lớn, màu xám đang cuộn trở lại vào trong “cái túi”. Chúng ta đã trên cơ. Chừng nữa giờ sau, tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc Nga réo rắt, làm tôi nổi gai ốc! Ôi những người lính muzhik thân yêu của tôi! Này anh em, hãy chửi rủa tôi đi, vì tôi đang ngồi ở đây, khi mọi người phải đánh cược với số phận! Lính ta rất điên tiết – họ sẽ không tha thứ cho tôi cái tội ngủ quên!



Suvorov trở xuống, mò tìm vài quả thủ pháo, dăm băng đạn và nói một cách trang trọng: “Nào, hãy làm gì để tạ lỗi với anh em đi”. Tôi tham lam khuân theo cả một núi thủ pháo và đạn. Đứng cạnh Suvorov, tôi sẵn sàng chiến đấu. Bọn Frizt đang rút chạy và đến gần trong tầm hỏa lực: “Đến đi, đồ vô lại!”.



Chúng tôi đợi trong giây lát và đúng lúc khai hoả vỗ mặt quân địch đang rút lui,. Chúng không có thời gian để chống lại chúng tôi. Bọn Đức chỉ đơn giản là đi vòng tránh chiến hào bọn tôi ở về cả hai phía. Chúng tôi tiếp tục nã đạn: và lo ngại sẽ bắn phải quân mình – vốn đang gấp rút đuổi theo kẻ địch – đang nhanh chóng đến đằng sau bọn Frizt. Sau cùng, chúng tôi quay ngược lại, bắn bọn Đức từ phía sau lưng, những đoạn hào bên cạnh đã được đồng đội tái chiếm. Và tiểu đoàn, sau khi mất một nửa quân số, đã trở lại vị trí ban đầu.



Đó là điều đã diễn ra trong một đêm nào đó, mà Suvorov và tôi, dù không di chuyển, lại thấy mình ở hậu tuyến kẻ thù! Mệt mỏi trong chiến hào, chúng tôi đã ngủ vùi trong suốt trận tấn công: còn ngày nay thì chúng ta lại thấy khó chịu bởi tiếng xe chạy dưới cửa sổ!!!



Đại đội trưởng vui mừng thấy chúng tôi còn sống: “Ít ra thì các cậu cũng không bỏ chạy về hướng ngược lại!” anh ấy cười. Nhưng tiểu đoàn trưởng thì bảo: “Cậu cũng sẽ không được nhận phần thưởng vì chiến công bắn hạ tên bắn tỉa”. Tôi vui mừng vì mọi việc kết thúc một cách nhẹ nhàng. Với những vi phạm như vậy, lí ra tôi phải nhận những hậu quả tệ hơn nhiều.  Anh em, dĩ nhiên, tìm mọi cách đùa cợt có thể. Trong những ngày sau đó, chúng tôi trở thành đối tượng cho những trận cười nhạo liên miên. Và mỗi khi kết thúc, Suvorov chỉ lắc đầu và bảo “Trong chúng ta, Mansur, hắn được sinh ra dưới vì sao may mắn”



Trời rét. Buổi sáng. Quân Đức im lìm trong vòng vây. Chúng tôi cũng bất động. Tuyết chầm chậm rơi trên mặt đất.




Phía trước chúng tôi, trong vòng vây, có năm quả đồi bị bọn Đức chiếm giữ. Chúng tôi không nhìn thấy được những quả đồi đó, nhưng trên bản đồ, Bắc Karpov, chúng được điểm danh với những cái tên như “cao điểm 126” v.v…



Trung đoàn được lệnh tái chiếm và trấn giữ chúng. Đến giờ tấn công, pháo binh khai hoả và các tiểu đoàn bộ binh vận động về phía trước. Lúc đó là đầu tháng 12. Mùa đông năm ấy tuyết rơi dày, không ít hơn 40 cm, thậm chí còn hơn ở những vùng trũng.



Trận pháo kích yểm trợ kết thúc bằng một pháo hiệu tấn công. Các tiểu đoàn vùng dậy hét vang “Đất mẹ vinh quang!” và ào lên phía trước. Cuộc tấn công không hề bị một cản trở nào và cũng không thấy các ổ đề kháng của quân địch, chúng tôi tiến đến gần năm ngọn đồi. Bọn Đức rút lui như những kẻ hèn nhát: “Bọn Frizt kiệt quệ rồi. Chúng không muốn chiến đấu nữa” Tôi nhớ rằng mình đã nghĩ như vậy.



À, vì không có sự kháng cự, các tiểu đoàn, đại đội ít có thèm lặn lội trong tuyết sâu. Và thế là anh em lính tráng theo nhau tụ tập lại từng nhóm, tạo thành một đội hình hàng dọc lê thê, cố hành quân chỉ ở những nơi có lớp tuyết dày và cứng. Bằng cách như vậy, trung đoàn tiến đến gần mục tiêu. Khoảng chừng một cây số nữa là những ngọn đồi sẽ nằm trong tay chúng tôi. Có lẽ đây là lần đầu tiên ở phương diện quân Sông Don, phe ta dồn ép quân Đức một cách quá dễ dàng như vậy; lần đầu tiên chúng rút chạy mà không hề chống cự. “Nếu cứ như thế này thì trận chiến Stalingrad sẽ kết thúc trong vòng một tuần” Tôi nghĩ.



Đúng vào lúc đó, ở từ khắp mọi nơi quanh chúng tôi, pháo và đại liên quân Đức đột nhiên khai hoả trùm lên quân ta. Bấy giờ, một người lính không thể thấy được bức tranh tổng thể của trận đánh ở qui mô, có thể nói là, cấp sư đoàn. Họ chỉ có thể hiểu được những gì diễn ra trước mắt thôi. Và vì vậy tôi sẽ không cố phác thảo diễn biến tổng thể của trận chiến mà tôi sẽ dễ gặp sai lầm nếu làm. Thay vào đó, tôi sẽ chỉ miêu tả những gì đọng lại trong trí nhớ của tôi.



Trung đoàn tôi, như một con vật sống khổng lồ, bắt đầu xoay vòng vòng mà không biết đi đâu. Từ mọi hướng, từng cơn mưa đạn và đại pháo bắn vào chúng tôi. Mọi người nghe thấy tiếng hú của những khẩu cối sáu nòng bên phe địch, những quả đạn đó sẽ xé rách những ai ở gần chúng, và tôi nhanh chóng nảy ra một ý: “Tôi phải tìm cách chuồn khỏi đám đông và vọt lên một trong những ngọn đồi, hoặc tốt hơn, chạy lui, hi vọng rằng bọn Quốc xã sẽ không quấy rầy những mục tiêu lẻ!”. Suvorov và tôi lẩn sang một bên của khối người đông đúc và trốn khỏi vùng khói lửa. Nhanh chóng sau đó, cùng với khoảng 50 người khác, chúng tôi lội đi trong vùng tuyết trắng trinh nguyên. Chân ngập sâu trong tuyết, nhưng ở đây, cách chừng 100m, thì ít ra bọn địch cũng không còn bắn mọi người. Và để có thể đi nhanh hơn, chúng tôi phải cưởi ra cả áo khoát và áo vatnik (mọi loại áo bông – ND). Quân Đức không bắn vào bọn tôi. Chúng tôi đã thoát khỏi cái bẫy, còn sống, dù người ướt đẫm mồ hôi như thể mới lội từ dưới nước lên.



Ở khoảng cách đó, chúng tôi có thể nhìn thấy rõ ràng toàn cảnh của thảm hoạ này. Bọn Đức đã khéo léo phục kích chúng ta, và đang tiếp tục bắn hạ anh em tỉ mỉ, trong khi xe tăng của chúng – ẩn trong hố chỉ lòi tháp pháo ra – tuôn ra một cơn bão đạn. Trung đoàn mất kiểm soát, thật là kinh khủng khi phải làm nhân chứng cho trận tàn sát đó: chúng tôi thấy thổ thẹn nhưng không thể làm gì được.




Đột nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng máy diesel gầm rú tới gần. Chúng tôi nhìn thấy xe tăng quân ta – chừng 20 hay 30 chiếc – đằng sau đó, trong áo choàng ngụy trang mùa đông màu trắng, là lính trượt tuyết trang bị bằng tiểu liên, đang bám chặt những sợi thừng buộc vào xe thiết giáp. Một cảnh tượng thật đáng xem! Đội quân đó, chỉ huy bởi một đại uý, dường như xuất hiện từ thinh không. Họ trông sạch sẽ một cách đáng ngạc nhiên – bảnh bao – mặc áo choàng lông thú màu trắng điệu đà. Họ lại dùng những khẩu SMG mới nữa. Đột nhiên, tôi thấy sáng tỏ ra: đó là một biệt đội chặn hậu (một đơn vị lính riêng biệt phục vụ cho mệnh lệnh “Không lùi” của Stalin, được bắn vào những quân sỹ tiền tuyến bỏ chạy – ND).



Tôi đã sẵn sàng nói lời từ biệt cõi đời, khi viên đại uý bắt tay tôi một cách thân tình và điềm tĩnh nói bằng một giọng mang khẩu âm Estoni:



-  “Không ai bắn cậu đâu! Các cậu không phải là những tên hèn. Các cậu đã cố để thoát khỏi cái bẫy!”.



Chúng tôi rất khó khăn để tin vào tai vào mắt mình, sự nhẹ nhõng trong mỗi người biểu hiện thật rõ ràng. Vị đại uý thấy hơi nước bốc lên từ chúng tôi như thể mọi người vừa bước ra từ nhà tắm hơi bania, còn áo thì thấp đẫm nước đến mức có thể vắt ra được.



- “Hãy lấy áo vanik, áo bành tô của người chết, và đến hầm chúng tôi. Ở đó có lò sưởi đấy” anh tử tế nói.



Sau này, anh em nói cho chúng tôi biết về vị đại uý của họ. Anh tên là Yan Tukhru, và đúng như tôi đoán, anh là người Estonia. Hiện nay, anh là một thiếu tướng hồi hưu. Anh đã đọc sách của tôi và thấy tên mình trong đó, anh mời tôi đến thăm anh ở thành phố Tallinn. Sau khi cùng anh hồi tưởng lại những chiến thắng và cả những thất bại của quân ta – trong đó có tình tiết kể trên – tôi hỏi anh một câu hỏi đã theo tôi bao năm qua:



-         “Hãy cho tôi biết vì sao anh không bắn những tay lính rút lui – trong đó có tôi và đồng đội – không như những đội “chặn hậu” khác?”



-         “Này Mansur, cậu để ý có gì đặc biệt trong số những chỉ huy của đội chặn hậu không?”



-         “Không”



-         “Tôi trả lời câu hỏi của cậu nhé: vì tôi là người Estoni”. Tôi nhớ đến tất cả những chỉ huy nồng nhiệt thi hành mệnh lệnh 227 “Không lùi”: quả thật không có một người Estoni nào cả. “Lúc đó, cấp trên nghi ngờ  về sự miễn cưỡng thi hành mệnh lệnh của tôi và cho rằng tôi là một kẻ quá cứng đầu”.



Trận chiến đấu kết thúc sau chừng một giờ. Các quả đồi cuối cùng cũng đã chiếm được, nhưng chúng tôi không thể nhìn mặt nhau. Thật là nhục nhã! Những sĩ quan chỉ huy đến thăm chúng tôi trong cả đêm.



Vài người lính kể chúng tôi rằng trung đoàn bạn ở bên cạnh cũng trong tình trạng khó khăn như vậy, nhưng lúc nguy cấp, Tham mưu trưởng trung đoàn Đại uý Pavel Bilaonov xuất hiện giữa họ. Bằng giọng nói như sấm rền và sắt đá của mình, anh đã khiến cho binh sỹ vững vàng trụ lại và nằm rạp xuống. Đầu tiên, anh chặn một tiểu đoàn lại và tổ chức phản công. Tấm gương anh hùng cá nhân của anh trở thành mẫu mực binh sỹ. Hai tiểu đoàn đang rút lui thấy hành động của Bilaonov cũng quay lại vị trí tấn công.



Tiểu đoàn trưởng của chúng tôi bị thay bởi một người khác. Mười ba xe tăng, sáu pháo và 8 khẩu cối của quân địch bị phá huỷ. Hơn 100 lính Đức bị bắt. Cái giá của năm quả đồi đó thật quá mắc với chúng tôi.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:27:14 am


Một buổi sáng sau đó, chúng tôi mất một người lính tên là Akhmet Garipov. Anh em thấy anh ta đêm hôm trước với một cái chậu đầy than đang cháy, đang loay hoay cùng cái áo mưa cố làm một thứ gì đó trông như chiếc lều. Mọi người tìm thấy thi thể anh ta dưới chiếc áo: người đồng chí tội nghiệp này đã bị chết ngạt.



Latyp-aka, một bác lính Uzbek già, lắc đầu một cách buồn bã, nói bằng thứ tiếng Nga sai bét “Ôi Garib, Garib! Nó muốn làm một Tashkent thu nhỏ mà! Nó muốn làm một cái sandal của người Uzbek chúng tôi! Sandal là một cái hầm. Đầy than nóng. Sau đó cả gia đình và khách nằm quanh sandal, đắp lên hàng lớp chăn. Sandal sẽ tốt lắm, sẽ ấm lắm, nhưng mọi người chỉ nên đưa chân và bụng vào sandal, còn đầu thì thò ra ngoài để thở. Nếu anh cho cả đầu vào trong sandal thì chết. Garib chui đầu vào đó. Một cái chết thật tội. Chỉ nên chết khi già thôi, khi đã nuôi đứa con lên 15 tuổi. Garib, Garib, ôi cái đầu ngu ngốc mà thánh Allah đã ban cho mi. Phải chi chết vì một viên đạn trong chiến đấu thì tốt hơn…”



Tôi lắng nghe bác người Uzbek nói và nhớ lại, ở trường lục quân, tôi đã lả người đi như thế nào trong cái nóng mùa hè Tashkent. Đất nước ta rộng lớn biết bao! Một số nơi thì quen với cái lạnh còn nơi khác thì nóng. Vào tháng 12 năm 1942, nhiệt độ ở Stalingrad thỉnh thoảng rơi xuống đến âm 40 độ C. Dĩ nhiên, con người có thể sống ở nhiệt độ âm 50 đến 70 độ C nếu không có gió. Nhưng ở Stalingrad thì thật độc địa với những cơn gió thảo nguyên, và chỉ có một nơi đển ẩn thân thôi: chiến hào. Tôi sinh trưởng ở miền Siberi, nhưng những điều kiện thời tiết ở đây cũng đã quá khắc nghiệt so với mình. Huống hồ là những người Uzbek, vốn sống ở phương nam, nên chia sẽ với họ về cái lạnh, nhưng quân thù gây sức ép từ mọi hướng, và tổ quốc đang cơn nguy khốn, không có chỗ cho sự thận trọng đó.



Ở đại đội bộ binh bên cạnh, cũng có một bi kịch không ngờ khác. Vài cậu lính tìm thấy ở cạnh hào có một cái hố tròn cở cửa sập xe tăng. Hơi ấm bốc lên từ đó, nghe như mùi lò sưởi được sử dụng lần đầu. Họ nhận ra cái lỗ hố đó dẫn đến một căn buồng trông như một cái chậu có đường kính tầm 5-6 thước, nó được tạo ra bởi sức nổ của một quả bom. Đất sét ẩm ướt bị nén lại rắn như gạch, và bức tường của “cái chậu” rất ấm, với những khe hở hẹp trên đó. Vài người quyết chui vào đó để đánh một giấc ngắn trong cái chỗ ấm áp dễ chịu này. 18 binh sỹ đã nhảy xuống và đã ngủ một giấc ngủ vĩnh viễn. Nitric Oxit, tạo ra từ vụ nổ, tiếp tục thấm qua từ các khe nhỏ nhưng sâu đó. Những ai biết được về mối nguy này? Dĩ nhiên, là thợ mỏ. Vâng, tôi là thợ mỏ:  nhưng nếu tôi là người tìm được cái chỗ ngủ tuyệt vời đó, chắc tôi cũng sẽ là người đầu tiên nhảy xuống và chiếm lấy nó. Khi nào thì chúng tôi mới thôi dại dột??




Vài đêm trước, máy bay vận tải của bọn Đức thả xuống dăm kiện hàng rất có giá trị gần tiểu đoàn chúng tôi: một đống ủng ấm bằng nỉ với đế, bọc da, làm rất tốt, ấm và không thấm nước. Đúng là tốt hơn loại ủng valenki truyền thống của chúng ta, mọi người rất vui vẻ dùng ngay. Bọn Frizt tức điên khi thấy anh em lấy ủng của chúng, và gào lên: “Bọn Nga, trả valenki lại đây và lấy súng của bọn tao đi này!” (Chúng ta có khá nhiều tiểu liên Đức và hàng đống đạn của loại ấy).



Bây giờ thì chân ấm rồi. Nhưng cũng vào thời điểm đó, chúng tôi bị mất hầu hết áo mưa, nên phần thân thể còn lại của mỗi người bị ẩm ướt bởi mưa và tuyết tan. Chúng tôi phải làm gì bây giờ?



À, ngày hôm qua, ở khu phân tuyến (hay vẫn thường gọi là vùng-đất-không-người) – chừng 200m từ chiến hào quân ta - tôi thấy có vài kiện hàng bọn Đức thả xuống cho người của chúng. Nhiều kiện bị rách và trong đó tôi thấy chứa toàn quần áo, cả áo mưa nữa. Những chiếc áo mưa mới toanh! Nếu như có ai đó có thể lấy ….



Tôi tiếp tục chú mục vào vùng-đất-không-người và cầu mong có ai đó sẽ chạy đến chỗ các kiện hàng bị mắc kẹt đó: và nếu ổn tôi cũng sẽ tự mình đi. Tôi chỉ những chiếc áo mưa cho Suvorov thấy. Anh ấy không nói gì. Bấy giờ tôi thấy xấu hổ, bởi việc đó có vẻ như là tôi bóng gió gợi ý cho anh ấy đi. Tốt nhất là nên im thôi! Giờ tôi phải đi nếu không thì bị xem như một thằng hèn. Và tôi đã tự mình băng qua vùng phân tuyến. Tôi đến chỗ kiện hàng bị rách và nhìn quanh: chiến hào bọn Đức ở đâu nhỉ? Mình sẽ là một mục tiêu tốt cho một tay bắn tỉa! Dù sao, nếu hắn trượt viên đầu thì tôi sẽ có thể chuồn được. Nhưng mọi thứ yên tĩnh và tôi không thấy gì đáng ngờ.



Tôi chộp một góc chiếc áo mưa và bắt đầu kéo nó ra khỏi một đống thứ linh tinh trong đó. Nhưng khi đấy, từ đâu vài tên phát xít xuất hiện. Tôi sợ đến mức thở không nổi và cho rằng phải có đến ít nhất là mười bảy tên. Nhưng hượm đã, tôi không có thứ vũ khí nào trên người! Cả khẩu súng lục, mà viên đại tá xe tăng đã tặng, cũng không! Bọn Đức đứng thành một vòng bán nguyệt, nhếch mép và cười nhạo: chúng thấy có một thú vui nho nhỏ. Hàng trăm suy nghĩ như chớp giật trong đầu tôi ở giây phút ngắn ngủi đó. Nhưng may mắn thay, nỗi sợ hãi không làm tôi mù loà: cách vài bước chân, là một cái hố trong đó có một hộp đã mở chứa đầy lựu đạn.



Bọn Đức vẫn đứng cười: “Hê hê, thằng Nga Ivan!”, chúng xoay xoay ngón tay trên thái dương như thể muốn nói “đồ khờ, mày lê mông ra đây chỉ vì cái áo mưa à!”. Có lẽ bọn chúng đang buồn chán nên muốn kích động tinh thần đồng bọn một chút - những kẻ hẳn đang theo dõi tấn kịch này. Bọn địch vẫn nhìn thấy tôi, ôi tôi ước gì tôi có thể lấy được dù chỉ một trong chỗ lựu đạn kia. Mà này, mình có gì để mất nữa nhỉ? Thế là tôi áp chặt tay vào bụng và nhảy vọt vào trong cái hố. Vồ lấy một quả lựu đạn, tôi tin rằng bọn Đức đã không chú ý đến cái hộp, hoặc quá hưng phấn để e ngại một tay Ivan không tấc sắt. “Mình phải làm được trước khi bọn chúng bắn!” tôi nghĩ, trong khi tay tôi đã tự động làm việc, khi ấy bọn Frizt vẫn đang cười rộ “Ha-ha-ha”, “Ho-ho-ho” và “Thằng Ivan, đầu hàng đi, cửơi Valenki ra!”. Tôi chợt thấy có hai khẩu tiểu liên nằm cạnh đó, phủ một lớp băng mỏng. Nó có đạn không nhỉ? Tôi cúi gập người, đôi tay tìm kiếm ổ đạn. Tháo ra. Băng đạn ken đầy trong ổ. “Đi nào!”



Những quả lựu đạn được tới tấp ném, nhanh đến mức quả đầu nổ khi quả thứ ba cũng đã được ném. Tôi tiếp tục ném chúng ra như những hòn than nóng đỏ. Sau đó, tôi nhảy khỏi hố với khẩu súng trên tay, không thèm nhìn để xem việc gì xảy ra ở cái chỗ mà trước đây vài giây bọn Frizt hăm hở cười, tôi lia vài tràn. Bấy giờ bọn địch gào lên cái gì đấy! Giận dữ, tôi lôi mạnh một góc chiếc áo mưa, và nhấc chân lên chạy, nghe tiếng đạn réo đằng sau…



Tôi nhảy trở vào chiến hào cạnh Suvorov. Người chỉ huy thân thương rủa yêu và thụi, đá tôi vài cú. Kể từ ngày đó, cho dù đang đào hào, tôi luôn mang theo khẩu tiểu liên bên mình. Thật là bất tiện khi làm việc, nhưng sẽ không bao giờ tôi rời xa vũ khí nữa, dù chỉ một phút.




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:29:39 am


Chương 5: Quà tết cho bọn Phát xít



 



Rồi một đêm, có một nhóm sứ giả đến trận địa chúng tôi. Chắc họ đến từ một lữ đoàn Rumani. Tiểu đoàn trưởng triệu tập tôi lên sở chỉ huy để những tay sứ giả ấy có thể nhìn tôi tận mắt: đó là vì họ đã thấy tôi cướp cái áo mưa ngay trước mũi bọn Đức. Cả nhóm 8 người đó đều mặc áo len bó màu đen, dày cộm. Bọn họ trông giống như người Armeni hoặc người Grudia ở nước ta. Dù ở sở chỉ huy khá tối – đèn là những chiếc hộp đạn chứa dầu – những tay Rumani vẫn nhìn tôi. Sau đó, họ bàn riêng với nhau, còn tiểu đoàn trưởng thì cho tôi về.



Chắc là họ đến để bàn về các điều kiện đầu hàng, và dăm đêm sau, vài trăm binh sĩ từ lữ đoàn địch, hoạt động trên khu vực trận địa chúng tôi, hạ vũ khí.



Những người điều đình đó cũng đã cung cấp cho chỉ huy quân ta khá nhiều thông tin có giá trị, và cả sơ đồ bố phòng của quân Đức trước sư đoàn chúng tôi. Mọi người thấy được kết quả bắn phá của pháo binh vào phòng tuyến địch vài ngày sau, khi chúng tôi tiến lên. Họ cũng cho tiểu đoàn trưởng tôi biết một vị trí mà hằng đêm, lúc 11h00, một bếp ăn dã chiến sẽ phục vụ đồ ăn nóng.



Các khẩu cối được lệnh “chăm sóc” cho cái bếp ăn đó. Chúng tôi xác định vị trí bắn phá, và tính ra rằng chỉ cần tăng góc bắn lên vài độ, ở thước ngắm số 3 thì sẽ bắn trúng.



Đạn cối chiến lợi phẩm được đưa tới điểm bắn: 30 viên cho mổi khẩu đội. Trung uý Stukach và tôi cẩn thận lên điểm quan sát, nhìn thẳng sang chiến tuyến địch. Mở to mắt và yên lặng, chúng tôi đợi. Trời hẵng còn sáng lắm, dù chỉ có trăng thượng tuần nhỏ xíu lơ lửng trên không. Đúng 11h00, như đã được báo, một bếp ăn dã chiến xuất hiện. Bọn Đức, mỗi tên mang theo 2-3 cái gà-mên bắt đầu tụ tập đến, từ khắp nơi. Không dưới 100 người xung quanh bếp ăn. Tên anh nuôi làm việc. Và chúng tôi cũng vậy. Cả chín khẩu cối cùng khai hoả. Chúng tôi không tiết kiệm khi “phục vụ” bọn Quốc xã bằng chính đạn của chúng.



Không vui vẻ gì khi giết người. Nhưng tại sao quân Đức đến nhà chúng tôi? Tại sao chúng mang chết chóc, khổ đau cho đất nước tôi? Chúng muốn chúng tôi đầu hàng mà không chống lại chăng? Tôi thấy chúng sau đó, khi quân địch đã bị đuổi khỏi Stalingrad, những mảng tử thi đông cứng theo những hàng dọc ngả nghiêng. Ai trong số họ cũng có một người mẹ đang chờ đợi ở quê nhà. Đột nhiên, nỗi niềm trắc ẩn dâng nghẹn ngào trong tôi. Nhưng điều đó nhanh chóng tan đi. Những người mẹ đó đã nghĩ gì, chờ gì khi gửi những đứa con và cuộc chiến này? Và họ muốn gì ở chúng tôi?



Anh em lại bị đói lần nữa. Nhà bếp quân ta bị bọn Đức thổi bay. Hơn nữa, khi đó Hitler lại ngưng tiếp viện thực phẩm theo cầu hàng không cho đội quân của Paulus, nên chúng tôi cũng không còn nguồn thức ăn chiến lợi phẩm. Tôi mò tìm đến một đồng đội, thượng sỹ Smirnov, trung đội trưởng trung đội hậu cần. Chúng tôi là bạn từ thời ở Malaya Yelshanka, nơi trung đoàn nghỉ chân vài ngày trong chặng đường hành quân ra mặt trận.



Ở đó, tại Malaya Yelshanka, cùng với quân phục, chúng tôi cũng được phát xà cạp. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy vật này, vì học sinh sỹ quan chỉ mang vớ. Tôi tự hỏi: làm thế nào mà cái băng trơn tuột này có thể nằm yên trên bàn chân khi mà cẳng chân nhỏ dần về phía dưới?” Nếu cái xà cạp rộng dần về phía cuối thì đơn giản hơn nhiều. Bọn tôi không được dạy cách dùng xà cạp ở trường, nhưng tôi không muốn mình trông như một thằng khờ, và vì vậy tôi cột chỗ bàn chân lại chặt hết mức có thể, với tất cả sức lực của một người thợ mỏ, cái xà cạp không bị tuột nữa. Bàn chân tôi trở nên tê buốt nhưng tôi quyết để như vậy. Lúc đó có lệnh tập hợp đội hình thực hành chiến đấu với mặt nạ chống độc, thứ này đã được phát trước. Tôi hành quân với đôi bàn chân không còn cảm giác nữa! Sau khi đi được chừng 1km, tôi nằm vật ra, rên rỉ vì cơn đau kinh khủng nơi bàn chân. Thượng sỹ Smirnov chạy đến bên tôi và hiểu ngay vì sao. Trong một giây, anh tháo ngay cái xà cạp ra và chỗ bị cột bung ra như một chiếc lò xo bằng thép. Chân tôi tái xanh trông giống như ống dẫn hơi gấp nếp của chiếc mặt nạ phòng độc. Sminov mát-xa cho cẳng chân và bàn chân tôi chừng mười phút, khi ấy tôi cảm thấy như có hàng triệu chiếc kim châm bên trong, màu da trở lại bình thường. Anh thượng sỹ tiếp tục xoa bóp và rủa như điên “Đồ khùng? Sức ở đâu mà cột chặt dữ vậy hả?”. Cả đại đội phải chờ nửa tiếng trong khi tôi ngồi xuống rồi nhảy lên theo hướng dẫn của Smirnov. Anh vui mừng vì mọi thứ ổn trở lại: nhưng anh hiểu rằng, anh đang phải đối diện với một đám học sinh sỹ quan vốn phải ngốn chương trình học ba năm trong vòng 6 tháng. Anh tự thân quấn lại xà cạp cho tôi một cách nhẹ nhàng, đính cái thìa phía sau chỗ cột và ra lệnh: “Đừng động vào đó!”




Bây giờ thì tôi tìm thấy anh tại một hẻm núi sâu, một chốn trú an toàn cho anh và trung đội của mình, kể cả lũ ngựa cùng xe kéo. Thượng sỹ Nicolai Smirnov  đang ngồi trong một căn hầm bê tông trông như một tiểu vương hay một gã tù trưởng, no đủ, râu tóc nhẵn nhụi, cằm nọng mỡ. Anh ném một tia nhìn e ngại về phía tôi và rồi nhận ra là ai:



-         Ồ, Mansur, vào đây, ngồi đi. Vẫn còn sống à?



-         Này Smirnov, cho tôi chút gì để ăn với



-         Tớ chả có gì cả, cả bọn cũng đang đói chết đây này



-          Đừng đùa mà. Ít ra cũng đưa tôi một mẩu bánh khô cho Suvorov chứ.



-         Tớ không còn gì, thật đấy. Cậu tự biết mà Mansur, cả đời tớ có biết từ chối các cậu bao giờ đâu!



Tôi ngồi đó, suy nghĩ: anh ta có nói dối không nhỉ? Nhưng rồi tôi nhớ lại những lời khuyên đầy lo âu của anh lúc bên hữu ngạn sông Don trước trận chiến đấu đầu đời, khi anh thấy chúng tôi kiệt sức và nằm đờ ra “Này các cậu, đừng ăn tham quá! Sẽ bị đau bụng đấy! Đau dạ dày, Lạy trời đừng ...các cậu chỉ nên mút từng chút một thôi”.



Tôi cũng nhớ rằng anh đã cho ngựa ăn bánh mỳ trong khi anh chịu đói để có thể mang các thực phẩm đến cho chúng tôi. Thật xấu hổ vì đã không tin tưởng anh ấy. Sau từng ấy việc chắc là anh không nói dối đâu. Lúc đó, Smirnov bật ra một ý tưởng:



- “Tớ có thể cho cậu cỏ hỗn hợp. Đồ ăn của ngựa”



- “OK”



Năm phút sau, quân của anh mang ra một bao. Bên trong là những bánh trấu yến mạch trộn bột mỳ, trông xù xì như con nhím. Tôi nghĩ “À, khi trước bọn ngựa ăn bánh của ta, giờ ta ăn lại của chúng”



- “Cho vào trong ấm với nước” Smirnov hướng dẫn “đun sôi, vắt trấu ra và uống nước. Nó sẽ làm dịu cơn đói”.



Tôi vác bao cỏ hỗn hợp lên vai và về “nhà”. Cả đại đội tụ tập lại và nấu vài bánh. Chúng tôi quá đói đến mức ăn cả trấu luôn: nó dường như mềm đi, và chúng tôi mong rằng mọi người sẽ ổn cả.



Ngày hôm sau những thứ hoàn toàn không mong đợi đã xảy ra: tôi muốn đi ị, nhưng thật là đau. Tôi cố làm dịu cơn đau, nhưng không thể. Ôi thật dữ dội! Đau cào ruột. Mọi thứ tối sầm trước mắt, tôi gào lên như một con lợn trong lò mổ – chắc cả cây số cũng còn nghe được! Gập người, ôm bụng rên rỉ, tôi lê trở về lại chiến hào như thể từ bệnh viện về sau một ca mổ khó. “Hix, nếu bọn Đức không giết được mình” tôi nghĩ “ thì chính sự ngu xuẩn của mình sẽ làm việc đó. Sao mình lại ăn trấu nhỉ? Smirnov đã dặn rồi mà!”. Và tôi cũng nghe tiếng rên rỉ của những người lính khác đâu đó đằng cuối chiến hào: các đồng đội, dĩ nhiên, cũng bị tuyên một “bản án định mệnh”



Cuối tháng 12 năm 1942, trung đoàn bị thương vong nhiều, tân binh bổ sung đến từ các nước cộng hoà Trung Á. Biết rất ít tiếng Nga, những người Uzbek, người Tadzhik và những người bạn khác đến từ phương Nam thấy chính họ – không chén chè xanh quen thuộc - chết lặng lẽ như những con thiêu thân, trong cái lạnh âm 30 độ. Cũng từ ngày anh em đó đến với chúng tôi, bọn Đức bắt đầu nhạo báng qua loa: “Này Ivan! Hãy đổi những thằng Uzbek lấy bọn Rumani này!”



Sáng hôm sau, lúc rạng đông, một cơn sóng thần của đạn cối, đạn pháo đổ ụp lên chiến hào chúng tôi, thêm vào đó là những trận bom. Tiếng đạn réo man rợ đủ làm chúng tôi mụ người! Mặt đất đung đưa từ trước ra sau như làm bằng cao su non hay bằng thạch trái cây. Không khí khô bỏng tưởng chừng oxi đã bị đốt cháy hết bởi đạn và bom. Cũng như bao đồng đội, tai điếc đặc, tôi bò vào chiếc hang của tôi ở đáy chiến hào, nhưng giữ chân ở bên ngoài, nhỡ bị vùi trong đó khi đất lở xuống thì còn có thể tự nhoài ra. Tin tốt là lớp đất đá ở đây rất cứng và chiếc hang vẫn trụ vững. Khi chúng tôi đào vào mặt đất đông cứng –  những đôi tay bị phồng rộp – Đất Mẹ đã phải nghe hàng loạt từ ngữ nặng nề: nhưng giờ đây, giữa trận phòng ngự này, ẩn mình trong chiếc hang, tôi cầu xin Người tha thứ.



Trên đầu, những tiếng nổ theo nhau liên tiếp, tôi cảm thấy như tất cả hoả lực đều hướng thẳng về hố của mình. Anh em thường an ủi nhau bằng một ý nghĩ kỳ quặc rằng “một hố đạn không thể bị trúng hai lần”. Và thường, dưới cơn mưa đạn pháo, tôi tự bảo rằng “Đấy, nhóc! Đây là lúc ngươi tự khẳng định điều đó!”. Tôi cũng cảm thấy sợ: “Có lẽ chỉ còn mỗi mình ở đây!”. Lúc ấy tôi vọt ra khỏi hang như một con chuột chũi và dáo dác ngó nghiêng xem việc gì ở xung quanh. Đồng đội – cũng bị nỗi sợ tác động – nhô đầu ra với dáng vẻ tương tự. Khi nhìn thấy những anh em lân cận vẫn còn sống và không bỏ chạy, tôi cảm thấy xấu hổ và lặn trở lại chiếc hang của mình lần nữa!



Trận pháo kích đột ngột kết thúc như cách nó bắt đầu. Những người còn sống bò ra. Nhưng cũng rất nhiều anh em đã nằm lại trong chiếc hố của họ, vĩnh viễn. Họ không cần chôn cất. Nhưng cũng không có thời gian cho việc biểu lộ tình cảm dù vui hay buồn – vì bọn Frizt và đồng minh của chúng bắt đầu tấn công. Lớp lớp quân thù tiến đến gần: hàng đầu là quân Rumani, sau đó là bọn Đức, hàng thứ 3 là người Hungary rồi thứ tư lại là bọn Đức. Chúng tôi chứng kiến một cảnh kinh khủng ở khu phân tuyến: nhiều quân Rumani và Hungari giơ tay lên, trong một cử chỉ đầu hàng, bọn Đức bắn gục họ. Ngừng một chút, quân địch tụ tập lại và tiếp tục tràn lên. Chúng tôi đón chúng với toàn bộ hoả lực cối và súng máy, cuộc tấn công bị đẩy lùi. Sau đó, một đợt pháo kích nữa lại chụp lên chúng tôi buộc anh em phải chui vào hang trở lại. Đó, cứ như vậy mà chúng tôi đã bám trụ ở chiến hào trong mười ngày, không nước, không bánh mỳ, không makhorka và dĩ nhiên là bếp ăn!



Tuyết bị trộn lẫn với đất cát, thế là chúng tôi không thể đun lên để lấy nước nữa. Cánh hậu quân cũng bị đập nát. Lính thông tin thì hi sinh cả và đơn vị mất liên lạc với thế giới bên ngoài. Bọn Đức bị vây dù sao cũng tốt hơn, bởi chúng ở trong làng và có giếng. Một tay tháo vát nhất trong số anh em chạy đến một hẻm núi, ở đó, tận dưới đáy, anh tìm thấy một dòng tuyết tan bẩn thỉu. Anh đợi cho dòng nước dơ, nặng mùi đó đọng lại trong vũng, múc vào gà-mên rồi uống thật lực. Sau đó, anh lấy về cho mọi người. Tôi đưa gà-mên lên môi, thật lợm giọng: nghe như mùi trứng ung! Nhưng rồi chúng tôi uống cạn và tận dụng mọi cơ hội để quay hẻm núi đó để mang về nhiều hơn thứ nước ghê tởm ấy. Sau đó, cái vũng lúc đầu ấy bị đóng băng, chúng tôi đục cái khác và cứ vậy cho đến khi dưới đó lộ ra hàng đống thi thể bọn Đức. Với hầu hết anh em, phát hiện đó chả là gì cả “Như nhau cả, chết vì đạn hay vì ngộ độc cũng thế”. Tôi thấy bệnh nhưng không chịu ngưng vì đã ba ngày rồi tôi chưa có một mẩu bánh nhỏ trong bụng.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:33:31 am

Một cậu bạn hay pha trò, đã đoan chắc với anh em như thế này:



- “Con người có đến 80% là nước! Nhiều gấp 3 hoặc 4 lần so với lạc đà! Không có nước, chúng ta có thể sống đến 3 thậm chí 4 tuần. Còn nếu không có thức ăn thì còn lâu hơn! Bởi mỗi chúng ta có đến 50kg thịt!”.



Sau 10 ngày đó, chúng tôi trở thành những bộ xương biết đi. Xuyên qua lớp da thịt mỏng dánh, như có thể thấy hộp sọ với hốc mắt đen to. Môi khô rộp, răng nhe ra. Một cậu nhận xét rằng:



-  “Chúng ta nên cầm thêm cái lưỡi hái trong tay, và trước ngực trương thêm bảng hiệu - Thần Chết của bọn xâm lược Đức – là đẹp J“.



Cuối cùng, một bếp ăn dã chiến của tiểu đoàn khác, tình cờ lạc đến chỗ chúng tôi trong đêm. Cậu anh nuôi định quay lui và tìm đến chỗ của đồng đội mình. Nhưng bị anh em túm lấy, vét sạch nồi cháo vốn thuộc về người khác.



Rồi cũng trong đêm đó, trước lúc rạng đông, vài tay phóng viên, nhiếp ảnh tìm đến chỗ chúng tôi. Mọi người quá yếu để diễn tả lại cảnh phòng thủ chiến tuyến của mình. Những tay báo chí đó chụp một bức ảnh chung cả hội. Ngày hôm sau, chúng tôi đọc thấy những hành động anh hùng của mình trên báo nhưng hình thì không thấy đâu. Anh chính uỷ giải thích “Góc ảnh không đẹp lắm…”. Dĩ nhiên rồi, chả thể nào đưa những bộ xương cách trí lên báo cả!



Niềm vui lớn nhất của cánh lính tráng là được nhận thư, tin nhắn hay bưu phẩm từ nhà. Ngoài ra, trong các hộp chứa đạn, pháo, bom …, chúng tôi cũng tìm thấy những khoản khắc dễ thương: một mẩu giấy mang địa chỉ một cô gái không quen, mà từ đó một ai có thể viết thư cho cô, hoặc một túi thuốc lá nhỏ nhét đầy makhorka. Những cái túi được thêu và bạn có thể ngay lập tức biết đó là sản phẩm của một thiếu nữ hoặc một em bé. Những bác lính muzhik già thích cái sau (tức makhorka) hơn, trong khi anh em thì chộp ngay những cái túi thêu bởi các cô gái. Họ không bao giờ nhầm!



Trong những cái túi ấy, có thể có cái chứa ảnh và thư. Bạn sẽ là người hùng trong ngày nếu may mắn vớ được một cái như vậy! Tuy nhiên, cũng có những “người hùng” phải chuyển các tấm ảnh, thư ấy cho các đồng đội khác: bởi họ đã có gia đình hoặc đã hứa hôn. Trên các túi có thể đọc thấy những dòng chữ như: “Cái chết cho bọn xâm lược Đức!”, “Hãy chiến thắng trở về!”, “Lời chào mừng từ những nữ Đoàn viên Komsomol thuộc nông trang Bình Minh Chủ Nghĩa Cộng Sản”, “Hãy báo thù cho người cha đã hi sinh của em!”, “Chiến sỹ, hãy trả thù cho em trai tôi!”. Và chúng tôi, những ai có được chiếc túi như vậy, đều nghiêm túc làm những gì được bảo: mỗi tên phát xít bị giết coi như là thực hiện yêu cầu đặc biệt ấy. Mọi người buộc những chiếc túi ấy vào đai trên đỉnh những bộ quân phục, nơi dễ nhìn thấy.



Mùa đông năm ấy, khi chiến đấu gần Stalingrad, mọi người thường nhận được bưu phẩm mang theo quần áo ấm từ miền quê Siberia của tôi: vớ len, khăn quàng cổ, găng tay hoặc áo len đan tay. Những bưu kiện ấy làm ấm lòng chúng tôi. Dường như cả nước đang cùng chúng tôi ở chiến trường.





Ngày 28 tháng 12 năm 1942, một tù binh Đức (bị bắt bởi đội trinh sát trung đoàn, chỉ huy là Andrei Bogdanov) khai rằng bọn chúng dự định sẽ cho chúng tôi một món “quà năm mới” và lúc nửa đêm giao thừa. Do vậy, chỉ huy ra lệnh cho chúng tôi di chuyển đến vị trí bắn mới, để có thể triển khai tấn công phủ đầu các khẩu đội pháo địch. Lệnh này đến sau một trận chiến gay go nhưng thắng lợi, chúng tôi chiếm được một khe núi rất tốt từ bọn Đức. Chúng tôi vừa đào hầm xong, chui vào, chuẩn bị ngủ thì nghe khẩu lệnh của đại đội trưởng vang lên “Đại đội! Vác súng lên!”. Mọi người mệt rã rời, thất vọng ghê gớm. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh. Lầm bầm chửi rủa cả thế giới này, chúng tôi tuân lệnh và bắt đầu gói ghém đồ đạc. Cả hàng quân ồn ào như một bầy ong vỡ tổ. Từ mọi hướng, những ngôn từ điên khùng, những tiếng càu nhàu đầy hiềm thù vang lên “Các cậu! Đây là sự bội tín hoặc ít nhất cũng là sự nhục mạ rành rành”. Những người khác thì gào lên “Câm mồm! Không có mày thét lác thì mọi sự cũng đã đủ tệ rồi!”. Tôi muốn rơi nước mắt khi một ý nghĩ tồi tệ chạy trong đầu “Thà chết còn sướng hơn sống như thế này!”. Và nếu với tôi, một thợ mỏ 19 tuổi, từng làm việc nặng từ thưở nhỏ, còn không chịu nổi thì những thanh niên mới qua tuổi 17,18 sẽ như thế nào. Hoặc với những ai không thường làm việc tay chân thì sao?



Cuối cùng, cả đại đội, dẫn đầu bởi đại đội trưởng, bắt đầu leo lên sườn dốc đứng của khe núi, trở lại thảo nguyên với những cơn cuồng phong dữ dội. Nếu không có những trang bị nặng nề trên người, chắc chúng tôi sẽ bị cuốn đi như những lá cỏ đến nơi nào chỉ có Chúa mới biết! Cát, bụi và những hạt băng nhỏ làm mọi người như mù đi, chúng chui đầy vào mũi, vào mồm, thấm vào cả áo quần. Trời lạnh âm 30 độ, cái rét len vào tận xương. Tôi có cảm giác như mình hoàn toàn trần truồng. Để chống lại sức gió, tôi cúi gập người, mũi gần như chạm đất, xoay sở bám theo đại đội trưởng với chút sức lực cuối cùng. Đột nhiên, tôi ngã dập mặt xuống, như bị ai đó đâm bằng que thông nòng từ phía sau, dưới xương bả vai, đúng ngay tim. Một suy nghĩ lướt qua đầu: ”À, Mansur, thế đấy!”. Cơn đau tệ hại đến mức tôi thở không nổi huống hồ là đi. Và thế là tôi nằm đờ ra với cơn đau – dạng như chứng đau dây thần kinh – mãi cho đến khi cảm giác đau đó tan dần đi, cứ như thể cái “que thông nòng” được rút ra chầm chậm. Tôi kéo một hơi thở dài, ngồi dậy và chuẩn bị đi tiếp. Nhưng trước hết, tôi ngẩng đầu lên nhìn trời: trên ấy là một vầng trăng tròn lạnh lẽo, cùng những đám mây đen tả tơi đang trôi nhanh về phương nam trông như một đàn ngựa hoang Mông Cổ.



Sau nửa giờ hành quân khổ sở, đại đội trưởng ra hiệu bằng tay, lệnh cho chúng tôi nằm xuống, như những con hải mã trên tảng băng. Còn anh cùng cậu liên lạc biến vào trong bóng đêm, tiến về phía đại đội bộ binh để xác định vị trí của chúng tôi. Mười lăm phút sau, họ trở lại, và anh lệnh cho mọi người đào hầm. Tôi liếc nhìn đồng hồ: đã 1 giờ đêm, không đầy 8 tiếng nữa là trời sáng…



Người đầu tiên động thủ là Pavel Suvorov. Anh có một cây cuốc chim chiến lợi phẩm. Nó có cán bằng gỗ sồi, dài gần 1m, phía cuối được uống cong với một cái gọng theo chiều dọc làm cho cứng cáp thêm. Phía dưới thì một đầu nhọn hoắc như cây giáo còn đầu kia như một cái đục. Cảm ơn quả cuốc chim, nhờ có nó mà khẩu đội tôi luôn đào xong nhanh nhất. Nhưng Suvorv trông u ám và phiền muộn. Anh đứng đó, đầu gục vào ngực, tựa cả hai tay lên cán cuốc. Rồi anh vung cuốc lên, hét lớn, bập nó vào mặt đất với tất cả sức mạnh. Nhưng khi ấy, tôi nghe như có tiếng sắt thép chạm vào nhau, và thấy những tia lửa đỏ bắn ra từ chỗ nhát cuốc của anh vụt xuống, tôi biết thế là thôi rồi. Mọi người khác cũng nghĩ như vậy. Fuat, một người hiếm khi mở miệng, nói nhỏ vào tai tôi “Đại đội ta thế là hết rồi!”. Anh bước ra và đứng lặng như một bức tượng đá với gương mặt mang nét Mông Cổ buồn buồn. Nếu Suvorov, một thợ mỏ chuyên nghiệp còn đầu hàng thì chắc những người khác chả thể làm gì được.




Các chỉ huy trung đội, Stukack và Isayev, động viên chúng tôi tiếp tục “Này các cậu, cố lên. Cố lên nào! Đào đi”. Tôi phải tham gia thôi – vì dù gì tôi cũng là một partorg (bí thư chi bộ) – nhưng tôi chỉ nhảy lên nhảy xuống như một cái máy để giữ ấm. Một nhát! Rồi một nhát nữa! Buteiko cuốc một hơi, nhưng cái lỗ anh tạo ra không lớn hơn một tổ chim sẻ. "không đủ để thả vài cục đạm vào đó".



Những tay lính cối khác thì tụ tập lại, giậm giậm chân để cố giữ ấm. Họ có những cái xẻng đào hào be bé, cái này thì vô dụng với mặt đất đóng băng. Trong khi đó, tôi chỉ có thể nhấc những bàn chân tê cứng đi vòng quanh đám đông, kiểu như một tay pháp sư đang múa may để chống lại ma quỷ. Tôi thấy buốt đến tận xương; trí não u mê trong cái lạnh và từ chối suy nghĩ. Chỉ đâu đó trong óc có hai ô còn hoạt động, một cái thì cố thuyết phục tôi nằm lăn ra đó và ngủ một giấc; trong khi cái còn lại thì thét lên rằng “ Đừng làm thế! Nếu ngủ bây giờ thì sẽ chết!” tôi vẫn tiếp tục đi. Mỗi bước chân là một cố gắng to lớn. Phải chăng đây là bước cuối cùng trong đời? Cái ô nhỏ trong óc tôi vẫn tiếp tục gào lên “Cố nào! Cố nào! Đi tiếp đi!”. Tôi ráng thêm một bước nữa.  Đột nhiên, tôi thấy có cái gì đó như tấm nệm bông ở dưới chân. Tôi trượt chân và khuỵu ngã trên hai đầu gối. Thật huyền diệu! Tôi đã xẩy chân vào một cái hầm ủ phân.






Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:33:47 am
Tôi tự động chộp lấy chiếc xẻng rồi hung hăng gạt đi những lớp bên trên của “tấm nệm” cho đến lúc chạm đến phần phân chuồng ẩm nhưng ấm áp ở dưới. Gần như ngay tức khắc, mùi hăng gay gắt của khí ammonium chloride xộc lên. Tôi hít, tôi nuốt vào. Trí não tôi sống lại theo từng hơi thở và rốt cuộc hơi ấm đã len vào cơ thể. Máu lại chảy trong huyết mạch nơi tay. Đột nhiên, chúng bắt đầu đau nhức! Tôi gọi anh em lại, nhưng không thể phát ra tiếng nào, chỉ là những tiếng rít trong cổ họng. Tôi thầm gọi họ trong óc, nước mắt ứa ra “Này các cậu! Này Fuat! Đến đây ngay đi!”.  Và dường như Fuat và anh em nghe được suy nghĩ của tôi: “Có việc gì đấy Mansur? Có phải cậu gọi chúng tớ không?”. Fuat trông thấy làn hơi bốc lên, và đoán ngay được thứ gì tôi đã tìm thấy, anh cúi mặt xuống  đám phân rữa, nhúng tay vào đến tận khuỷu. Suvorov và Latyp-aka cũng chạy đến và “ôm” lấy đống phân ấm áp. Suvurov chọc tôi rằng “Với cứt mà Mansur cũng có số hên. Đúng là nó sinh ra dưới vì sao may mắn!”. Những tay lính cối khác cũng vội mò đến, nhưng Suvorov bảo họ tản ra và tìm những đống phân cũ, mốc khác. Trong vòng một giờ sau, toàn bộ anh em  được hưởng hơi ấm thoải mái từ lòng Đất Mẹ như thể đang nằm trong vòng tay của bà!



Còn khá lâu mặt trời mới mọc thì chúng tôi đã chuẩn bị xong trận địa. Đột nhiên, có tiếng động cơ rần rần trong không trung: máy bay vận tải quân Đức mang quà lễ đến cho bọn chúng. Ngay lập tức, anh em bắn pháo hiệu cướp được lên. Trong khi súng cao xạ sẵn sàng, vài phút sau, những chiếc dù lớn mang theo nhiều kiện hàng to đáp xuống tuyến quân ta. Mọi người dỡ chúng ra. Cả chiến hào tràn ngập với quà Giáng Sinh. Khó mà gọi tên đúng hết tất cả các loại: nào xúc xích, nào bơ, rồi nho khô, mơ sấy, mật ong, sô-cô-la, bánh quy, rượu mạnh, rượu sơ-náp, sâm-banh và nhiều thứ khác. Còn có cả quần áo lót mùa lạnh, vớ len, túi ngủ và hàng ngàn bộ ảnh nam nữ trần truồng, từng đôi với nhau trong tư thế kiểu 69. Đầu tiên, chúng tôi không để ý chúng đang làm gì, nhưng rồi khi nhận ra thì thật không thể tin vào mắt mình! Anh bạn người Uzbek thấy kinh hoàng, tôi phải làm dịu anh xuống bằng cách thuyết phục rằng bọn Đức không dùng người thật để chụp ảnh mà chẳng qua toàn là búp bê thôi, để cho vui. Và đây cũng là lúc tôi biết đến các ấn phẩm khiêu dâm (Tranh ảnh, sách báo khiêu dâm hoặc dung tục bị cấm ở Liên Xô – ND).



Rạng sáng ngày 29 tháng 12, chúng tôi chia nhau những món quà Giáng sinh từ trên trời rơi xuống. Mặt trận yên tĩnh và mọi người có hai ngày nghỉ ngơi. Sau đó, ngày 31 tháng 12, đúng 11 giờ đêm, chúng tôi cùng với pháo binh sư đoàn, khai hoả hàng loạt vào các khẩu đội pháo quân Phát xít. Không phải tiết kiệm đạn, cuộc bắn phá kéo dài đến nửa tiếng. Đại bác quân thù không có cơ hội để bắn trả. Tuy nhiên, vài phút sau, chúng tôi có nghe thấy có tiếng hú thê lương của một khẩu cối sáu nòng lẻ loi bên địch. Những quả đạn đó bay qua đầu đơn vị và nổ đâu đó trong khe núi mà chúng tôi đã bỏ đi.




Tôi còn nhớ trên đường ra mặt trận, tại làng Malaya Yelshanka nơi mọi người được cấp quân phục mới, cà-mèn, hộp cứu thương và những thứ khác, cùng với một cái lọ nhỏ bằng plastic có nắp vặn. Bên trong là một cái băng (tape) nhỏ, chứa thông tin cá nhân người lính. Cái lọ đó được đậy rất chặt, chống ẩm và đặt trong một cái túi con. Anh em gọi nó là “Passport thần chết”, không biết mọi người thế nào, chứ còn của mình thì tôi lặng lẽ vứt bén đi. Thay vào đó là một cái mascot (vật lấy phước), và mong rằng sẽ an toàn cho đến khi kết thúc chiến tranh. Tất cả các đồng đội cũng đều có một vật may mắn gì đó, nhưng chúng tôi không bao giờ nói với nhau về những thứ ấy: một cái mascot chỉ có thể giữ được quyền năng khi nó không bị tiết lộ.



Tôi tự làm lấy mascot của mình. Lúc hành quân đến mặt trận Stalingrad, sau khi xuống tàu, đơn vị chỉ di chuyển vào ban đêm. Còn ban ngày thì nguỵ trang, cố giấu động tĩnh và ngủ. Ở những chặng nghỉ, mọi người thường mò xuống bếp dã chiến để hong xà cạp hay làm gì đó. Tôi thì làm một cái tẩu thuốc bằng gỗ. Khi hoàn thành, tôi tự bảo lòng:



- “Nếu mình không làm mất nó, mình sẽ sống sót trở về”.



Nhưng trước khi tôi có thể giấu nó vào trong túi quần thì một tay thượng sỹ đi qua, vồ lấy và lượn mất. Tôi chết lặng đi vì sợ hãi:



-  “Trời ơi, mình vừa cẩu khần rằng mình sẽ không để mất nó! Chắc mình không thể sống để trở về rồi!”. Tôi ngồi đó với ý nghĩ: “Mình không thể đánh nhau với cấp chỉ huy, lão ấy chắc cũng không trả lại cái tẩu đâu”.



Thật đau khổ và buồn bã. Tôi không muốn chết! Nhưng lúc đó, có một ý nghĩ vụt qua trong đầu: “Mình phải làm ngay tức khắc một cái khác, một cái đẹp hơn”. Trong vòng nửa giờ, cái tẩu mới đã xong, và may mắn thay, tôi gặp lại tay thượng sỹ với cái tẩu trên môi. Anh ta nhìn cái mới và đề nghị đổi với lời hứa sẽ cho tôi một gói markhoka. Tôi vui mừng đồng ý rồi nhanh chóng chuồn về chỗ, bí mật khâu ngay cái mascot này vào túi quần. Tôi mừng khôn xiết! Tôi ắt phải được sống mà về nhà!



Có một lần, trước trận chiến, chúng tôi thấy vài chiếc T-34 và KV chung quanh. Cánh lính tăng đang lượn lờ bên ngoài để kiếm chút khí trời. Mọi người tò mò kháo chuyện với họ.



Lính tăng thì quí bộ binh nên họ rất vui khi gặp chúng tôi. Hàng loạt chuyện cười đùa nổ ra như pháo. Vài anh còn nhận nhau là đồng hương. Mọi người có một khoản thời gian vui vẻ. Nhưng có một anh lái tăng trông rất ủ rủ



- “Cậu biết không, cậu bạn bộ binh, hôm nay, tôi sẽ bị cháy”, anh đột nhiên bảo tôi.



Lúc ấy chúng tôi ở cách xa mọi người một tý. Tôi bảo anh:



- “Mỗi người đều có cơ hội sống sót như nhau. Anh phải giữ vững tinh thần, đặc biệt là lúc này”.



Anh lái tăng nhận xét một cách mỉa mai:



- “Này cậu, cậu nghĩ cậu đang nói như kiểu chính uỷ phải không? Tôi đã lái tăng từ những ngày đầu của cuộc chiến. Đây là chiếc xe thứ năm rồi. Và vậy đó, hôm nay tôi sẽ kết thúc. Cậu còn trẻ lắm, cậu không hiểu đâu. Tôi vừa để mất mascot rồi…”.



Tôi thấy bao tử quặn lên nhưng ráng không để lộ ra.



Ngay trước trận đánh, tôi kể lại câu chuyện cho Suvorov để cùng cười nỗi sợ của anh lái tăng. Nhưng khá bất ngờ là Suvorov lại cho rằng mọi chuyện nghiêm trọng. Thế là chúng tôi quyết định sẽ bám sát chiếc tăng đó trong trận đánh để phòng khi có gì xảy đến thì còn kịp giúp tổ lái. Mắt tôi dính chặt với chiếc xe đang tiến lên, vận động, tránh các viên đạn xuyên giáp. Loại đạn này bay với một tiếng gầm kéo theo một vòi lửa. Vài chiếc tăng phía trái, phía phải bùng cháy, nhưng chiếc tăng này vẫn bắn! Tôi gần như đã cho rằng sẽ không có điều gì xấu sảy ra. Anh lính đó thật biết chiến đấu! Đột nhiên, cả chiếc xe nổ tung. Theo quán tính, nó còn trườn thêm 10m rồi bốc cháy. Suvorov và tôi nhanh chóng tiếp cận để giúp đỡ, nhưng chỉ còn có thể nghe thấy những tiếng nổ đanh của đạn trong thân xe...



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:34:36 am


Còn đây là một câu chuyện thú vị khác. Vài người bọn tôi trèo lên cỗ xe ngựa hai bánh, ngóng sang để theo dõi chiến sự ở khu vực sườn trái đơn vị, bên đó, một trung đoàn bạn đang chống lại một cuộc công kích của quân địch. Bọn phát xít đang cố tái chiếm một cao điểm mà chúng vừa để mất. Cả thảy là 6 hay 7 anh em gì đấy trên xe. Trong đó, tôi là người leo lên đầu tiên và trung uý Stukach sau cùng. Đột nhiên, có tiếng rít của một viên đạn bắn vu vơ từ đâu đó, nó đã đuối tầm. Tôi hụp người để tránh, nhưng bị mất thăng bằng nên nhảy xuống, kéo theo cả hội – bởi chúng tôi bám vào đai nhau. Tuy vậy, do Stukach cố gượng để không bị rơi xuống, nên không có thời gian né. Viên đạn tin ngay vào thái dương, dù đã thất tốc, nhưng cũng đủ để đánh gục anh. May thay, mọi người nhận ra anh còn sống! Stukach tìm thấy viên đạn trong mái tóc nhuốm máu, nhìn nó, rồi ngồi nghệch ra toét miệng cười, không hiểu bằng cách nào mà anh ấy còn sống! Sau giây phút sửng sốt, mọi người bắt đầu tung hê anh lên không và gào lên “Hoan hô! đạn không thể giết được trung uý!”. Một đám đông ngay lập tức ùa quanh chúng tôi. Rồi cùng thích thú hỏi: “Tại sao anh ấy không chết nhỉ?”. Tôi nhớ rằng ngay lúc đó mình đã nghĩ “Ắt là trung uý Stukach có một cái mascot…”



Tôi những muốn đi qua cả cuộc chiến mà còn sống, để còn nhìn thấy cuộc đời về sau. Tôi sẽ đồng ý mọi điều kiện. Miễn là có chỗ cho tôi đánh một giấc ngủ ngon. Và còn lại là những thứ mà mọi người đều cảm thấy thích thú: là ánh nắng, là nước sạch, là cánh rừng Siberi quê hương. Nhưng nếu tôi mất một tay, hai chân và một mắt thì sao? Cái tình huống tệ nhất mà mình có thể chấp nhận để còn sống là gì? Tôi đồng ý với mọi thứ, chỉ trừ cái chết, cái sau cùng. Nếu kết cục là một phế binh, có lẽ tôi nên bắt đầu nghiệp vẽ? Tôi thích vẽ lắm! Và tôi cũng không cần bất kỳ sự tưởng thưởng nào: à, có lẽ một huy chương “Vì lòng dũng cảm!” là đủ, để mọi người biết tôi đã từng chiến đấu. Tôi đã bí mật ao ước như vậy và thỉnh thoảng sờ vào mascot. Nó vẫn đó. Tôi có thể lấy ra, ngắm nghía và cất trở lại.



Vâng, rất duy tâm, nhưng không chỉ mình tôi như vậy. Có những điều không nên làm. Ví dụ, không bao giờ lột đồng hồ của người chết, tôi để ý thấy rằng ai phá luật này đều bị giết ngay sau đó. Có những mối liên hệ kỳ lạ. Tôi không tin vào thánh Allah hay Chúa Trời. Nhưng cái đêm mà tôi kéo Nicolai – anh lính đã trộm bánh mỳ – về trạm phẫu, anh đã bảo tôi bỏ anh lại, không hiểu sao mà tôi chắc rằng, nếu làm vậy, thì thần linh sẽ trừng phạt tôi. Và bởi không bỏ rơi anh ấy, nên tôi còn sống, thánh thần đã phù hộ tôi.



Tôi cũng để ý một điềm khác: nếu ai đó cố ẩn núp như một kẻ hèn thì trước sau gì cũng bị chết. Thường như vậy. Và như thế tôi thường có thể đoán “Anh ấy sẽ chết”, hiếm khi sai. Thỉnh thoảng, có người bị mất tinh thần sau lần bị thương, khi trở lại chiến trường từ bệnh viện. Tôi có thể kể ra đây một một chuyện về một đồng đội, một xạ thủ súng máy tên là Nikolai Belozerov (đây là trường hợp duy nhất mà tôi đã đổi tên, trong sách này). Nikolai bắn nhiều hơn bất kỳ ai. Anh có đến hai xạ thủ số 2, để phụ mang đạn cho anh. Một người lính dũng cảm và chưa bao giờ bỏ vị trí khi chưa có lệnh.



Vào một ngày, anh bị thương nhẹ, được đưa về tuyến sau. Ít lâu sau tôi gặp lại anh ở trung đoàn bộ khi tham dự một cuộc họp Đảng uỷ. Belozerov trông mập ra, bảnh bao, cùng với một huân chương Cờ đỏ trên ngực. Anh mặc quân phục thiếu uý. Tôi vui mừng gặp lại anh “Kể nghe nào, bệnh viện trông ra sao?” Tôi hỏi với sự thèm muốn (vâng, tôi phải thú nhận là tôi ghen với những ai bị thương nhẹ – họ được ngủ giường sạch) ”anh có được ngủ đã không?" . Belozerov kể về những cô gái anh quen, dù rằng lúc ấy tôi chả có chút kinh nghiệm gì về phụ nữ. À, còn tôi thì cho anh biết những gì đã xảy ra trong những ngày anh không có mặt. Chúng tôi nhấm rượu, ăn chút ít, rồi cùng rời khỏi khe núi để về lại tiểu đoàn. Khi băng qua một cánh đồng, đột nhiên bọn Đức giã cối vào đó.



Cả hai nhảy vào một chiến hào gần nhất. Có vài người đã ở trong đó. Nikolai chụp nón sắt lên. Nhưng tôi thì không, như mọi người khác. Tôi nghĩ thầm “Bây giờ anh ấy là chỉ huy đại đội súng máy, vì vậy phải đội nón làm gương cho anh em, dù nó thật vô dụng”. Nhưng rồi tôi nhìn vào mắt anh, chúng đang chằm chằm ngóng ra ngoài, tôi tự bảo mình “Nikolai đang sợ, anh khác trước rồi!”. Vài quả cối rơi gần, nổ bung ra những mảnh vụn nóng bỏng, riết róng. Chúng tôi nhảy ra và phóng lên phía trước. Cùng với những người khác, tôi đến được chiến hào kế tiếp, nhưng Nikolai đột nhiên quay lui, nhảy trở lại chiến hào khi nãy. Những tiếng nổ inh tai nối tiếp nhau. Một lần nữa, tôi nhào ra, và chuẩn bị chạy lên tiếp. Tôi hét lớn “Nikolai, đi thôi!”. Nhưng anh ấy đâu? Vẫn ở trong chiến hào sao? Không, có gì đó không ổn rồi. Tôi chạy trở lui lại đó. Nón của Nikolai lỗ chỗ miểng đạn và dính đầy óc lầy nhầy, gương mặt anh trắng bệnh, tay bị chặt cụt. Một quả cối đáp đúng ngay bờ chiến hào sau lưng anh.



Mọi thứ đồ của Belozerov – giấy tờ tài liệu, khẩu súng ngắn mới và cả huân chương Cờ Đỏ – tôi mang về cho chính uỷ tiểu đoàn.



Suvorov một lần nữa lại bảo: “Cậu sinh ra dưới vì sao may mắn, Mansur ạ. Đã bao lần cậu lẩn tránh được tử thần?”. Tôi lắng nghe và cảm thấy cái mascot của mình – nó vẫn ở đây…





Trong suốt vài tuần cuối cùng của cuộc đời, bạn tôi, Suvorov trông hết sức u sầu. Tôi hỏi anh: ”Việc gì đang xảy ra với một người hài hước như anh vậy?”.



Nhưng anh lặng im. Chỉ trả lời ầm ừ qua chuyện. Rồi có lần anh lấy cả những giấy tờ của mình, bày ra trước mặt và đọc to lên để tôi có thể nghe. Anh có một đứa con gái nhỏ, vợ và mẹ. Thận trọng và chậm rãi, anh đọc địa chỉ nhà mình. Sau đó gói ghém tất cả những thứ đó lại trong một miếng vải, cho vào trong túi. “Cậu phải gửi cả những thứ này đến Kucklar, cho gia đình anh”. Tim tôi chết lặng. “Mansur à, anh cảm nhận được, kết cục của anh đến gần rồi”.



Tôi cố hết mức để làm anh vui, nhưng dường như anh đã tự xây được một bức tường chắn quanh và thu mình vào đó. Anh trở nên xa lạ với mọi thứ. Có lẽ anh đánh mất gì chăng? Tôi ngại ngùng không hỏi. Bạn thấy đó, có lẽ Suvorov đánh mất cái mascot, tôi không biết nó là cái gì.



Ngày 10 tháng Giêng năm 1943, sau trận giao tranh ở làng Dmitriyevka, khi mọi việc đã ổn, thì Pavel Suvorov bị một viên đạn trúng đầu. Một viên đạn lạc, bắn vu vơ từ đâu đó với tiếng hú kéo dài. Không một kẻ địch nào bị hạ sau khi việc đó diễn ra.



Tôi khóc, như một phụ nữ khóc người tình chết. Tôi gào lên như một đứa trẻ gào khi bị người khác xúc phạm.



Anh đã có lần kể tôi nghe về huân chương Sao Đỏ mà anh đựơc nhận. Đó là những ngày đầu cuộc chiến, khi trung đoàn anh rút về phía Đông từ pháo đài Brest. Tại một nhà ga, họ thấy một toa xe chứa chất nổ đang đổ trên một tuyến ray cụt. Chắc nó dùng để đặt mìn. Không có công binh trong trung đoàn nên Suvorov đã nói rằng anh là một kỹ sư mỏ và tình nguyện dò xem toa xe. Có thuốc nổ trong vài bao và một hộp thiếc an toàn chứa kíp nổ. Cầu chì, dây, thiết bị điện được phân ra riêng lẻ. Trong làng có 03 ba toà nhà kha khá là trường học, bệnh viện và nhà nghỉ. Quyết định là đặt mìn những chỗ đó. Chỉ còn rất ít thời gian nhưng Suvoro đã xoay sở được. Anh có đủ dây để làm thành một hệ thống kích nổ hẹn giờ. Sau khi toàn bộ dân đã di tản, trung đoàn rời khỏi làng. Khi bọn Đức ập đến và chia nhau bố trí trong các toàn nhà đó, vài tiếng nổ khổng lồ làm rung chuyển cả khu vực…



Chúng tôi an táng Suvorov cạnh làng Dmitriyevka. Tất cả sĩ quan trong tiểu đoàn đều có mặt. Pavel là sỹ quan huấn luyện của đại đội cối, và khẩu đội chúng tôi là khẩu đội chính, được mang tên là “Suvorovski”.



Fuat và tôi như mất đi một người cha, mà tôi sẽ không bao giờ có lại được. Khi Suvorov còn sống, tôi làm mọi cách để anh hài lòng, như thể tôi sống và hành động chỉ với một lí do: để có được sự chấp nhận của anh. Tôi biết ơn tất cả những đồng đội. Những người đã quan tâm chia sẽ với tôi, ơn ở với nhau như những người bạn chí tình.



Chúng tôi viết thư cho gia đình Suvorov ở Kuchkar vùng Ural. Nhưng bất kỳ thành ngữ nào bạn chọn để an ủi người khác, dạng như “Anh dũng hi sinh” cũng chẳng thể nào thay thế điều gì được.


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:36:27 am


Chương 6: Phi trường Pitomnik



Chúng tôi đã đột phá được đến một ngôi làng nhỏ tên là Pitomnik. Ở đó có một phi trường mà miễn là còn sống tôi sẽ không bao giờ quên. Bọn Quốc xã tập trung thương binh lại đó nhưng không kịp mang đi. Và những thương binh người Đức ấy đã chết, chết cóng trong tuyết. Hàng ngàn người bị rét đến chết! Một số như đang cố bò qua phi trường, chống tay nhỏm dậy, nhưng những ngón tay đã gãy rời ra …



Một người lính Đức đang nhìn tôi, đôi mắt mở to đùng đục. Mũi hắn hầu như bị lấp mất, mặt phủ đầy băng tuyết. Một người hốc hác, râu ria xồm xoàm, không thể mở nổi mồm. Trí não đã gần như liệt đi và tim chỉ còn đập khe khẽ. Thật không thể chịu nổi cảnh một người đàn ông cầu xin bằng ánh mắt để có một phát đạn ân huệ, nhưng tôi đã không đủ dũng khí để cho hắn cái kết cục đó. Rồi một người khác gục xuống, và sẽ chìm vào sự yên lặng vĩnh hằng trong mười hoặc mười lăm phút. Không thể cứu được họ, không thể đảo ngược được quá trình chết dần đó, các chi đã bị đông cứng cả rồi.



Tôi thấy xấu hổ về hành vi của mình, tôi xấu hổ vì lòng trắc ẩn vô ích này. Tôi mong rằng những người khác không để ý. Hãy nhớ, tôi vừa mất một người bạn và tôi phải trả thù cho anh! Và lúc đó tôi thấy một người lính quân ta, chắc có cùng cảm giác như tôi, đang nhìn vào mắt của một tên lính Đức đang bò trên cả tứ chi. Cả hai cùng nhìn vào mắt nhau và rồi ngó sang khẩu súng ngắn trên tay anh lính. Tên Đức bị tê cóng đến nỗi không thể gật đầu. Mắt hắn như nói thầm “Vâng…”. Người lính Hồng Quân đưa súng lên, bắn vào thái dương. Hắn chết, nhưng không ngã ra, hắn đã bị đông cứng rồi. Hắn nằm đó, trụ trên cả tứ chi, như một chiếc băng ghế, và từ vết đạn trên đầu không một giọt máu nào chảy ra …



Cũng ở phi trường Pitomnik, quân ta tìm thấy hàng đống lớn bưu kiện, đã đóng sẵn sàng để chở về Đức, trong đó là những thứ đồ quí giá cướp được. Làng Pitomnik chỉ có một dúm nhà, nhưng nó rất quan trọng, vì đó là căn cứ của lực lượng vận tải cơ giới quân Đức. Xe cộ còn trong tình trạng hoàn hảo và được đậu ngăn nắp từng hàng theo số hiệu đơn vị, tổng cộng chừng 17,000 chiếc. Trông như thể một thành phố nhỏ với những dãy phố và đường sá.



Cùng với Fuat Khadaibergenov, tôi chui vào một hầm trú ẩn. Một chỗ ở tuyệt hảo với bếp, phòng ngủ và cả chỗ rửa mặt nữa! Có mùi nước hoa quanh quẩn. Những thức uống khác nhau trong các loại chai, lọ, bình… Cà phê vẫn còn ấm. Vâng, không tệ chút nào (và mãi cho đến gần đây) đó là cuộc sống của các sĩ quan, chỉ huy những người lính chết cóng ngoài phi trường kia. Trên chiếc giường đôi là một chú chó nhỏ lông trắng tuyết, bờm xờm đang nằm. Con vật đang run rẩy. Chúng tôi có một ít xúc xích trong ba lô. Hai anh em cho nó một mẩu rồi đi ra, đóng cửa lại và viết lên đó bằng một mẩu than “Đã gài mìn”. Vì thật là không ổn nếu trong một giây phút nóng nảy nào đó, một tay lính phe ta có thể bắn con vật tội nghiệp. Không có gì để làm với những thứ ở đây.



Tôi không bao giờ quan tâm đến chiến lợi phẩm, nhưng trong cái hầm ấy tôi trông thấy một cái hộp viền nhung. Tôi mở nó ra. Trong đó là một bộ sưu tập huân chương rất ấn tượng và tôi định sẽ mang nó về trung đoàn bộ (phía Hồng quân cấm việc giữ các loại huân/huy chương và các vật phẩm “tuyên truyền” của Đức - ND). Ngày hôm sau, có lệnh của tiểu đoàn trưởng triệu tập tôi. Lên đó, tôi thấy có một sĩ quan cao cấp lạ mặt, tuổi trung niên, cằm nọng mỡ. Tôi trình diện tiểu đoàn trưởng.



-         “Nghỉ. Ngồi đi. Hãy báo cáo với đại diện của đơn vị đặc biệt về cái thứ chiến lợi phẩm mà cậu có được ngày hôm qua” tiểu đoàn trưởng gật đầu về phía người lạ mặt.



-         “Thưa, huân chương của bọn Đức”



-         “Thế sao cậu không mang nó lên cho cấp chỉ huy?”



-         “Thưa, tôi chưa có thời gian”



-         “Được, vậy hãy mang nó lên cho đồng chí đại tá và cậu sẽ ổn” (Lối nói này có nghĩa là ‘không bị phạt’ – ND)



-         “Cho phép tôi được mang chúng lên ngay bây giờ”



-         “Đi đi”



Nhưng tôi vừa ra khỏi hầm thì bọn Frizt bắt đầu bắn phá chiến hào chúng tôi. Sau vài loạt cối, địch tràn lên công kích nhưng bị hoả lực quân ta chặn đứng. Khi mọi việc lắng xuống, tôi quay lại để lấy các bộ huân chương nhưng giữa cảnh tan hoang ấy thì còn chả thấy được chiến hào chứ đừng nói gì đến chi đến cái túi của mình: thật là “cậu sẽ ổn”, tôi nghĩ rồi lê bứơc quay lại BCH tiểu đoàn với đôi bàn tay không.






Chúng tôi lại mò vào một căn hầm khác. Chắc là của bộ phận bảo dưỡng. Mới liếc qua thì dường như không có gì đáng lưu tâm cả. Nhưng ở trong một góc, dưới lớp chăn dày, có một người đang nằm cuộn tròn. Tôi chỉ cho Fuat thấy và anh gật đầu. Tôi nhấc một đầu chăn và thấy một tên sĩ quan Đức với bộ quân phục mới tinh: “Halt! Hande hoch” (Chắc nghĩa là đầu hàng, giơ tay lên – em không biết tiếng Đức), tôi ra lệnh. Tên sĩ quan ngồi dậy. “Halt,halt”, tôi chỉa nòng khẩu tiểu liên vào tay hắn để ra ý rằng hắn phải đầu hàng. Hắn đang nhổm lên, tựa vào tay trái, trong khi đó tay phải hắn đột ngột bổ tới bao súng. Được, đó là do mi tự chọn. Một loạt đạn ngắn đã ngăn hắn rút súng ra. Chúng tôi ra khỏi hầm và tự hứa sẽ cẩn thận hơn. Mọi việc có thể sẽ kết thúc tệ hơn vậy.



Cũng ở Pitomnik, anh em tìm thấy một chiếc xe đầy Sô-cô-la. Không biết để dành cho ai? Chắc chắn là không phải cho những người lính Đức đã phải ăn xác ngựa chương sình để không bị chết đói...



Sau Pitomnik là Gumrak. Bọn Quốc xã rút chạy khỏi cứ điểm sau một trận xung phong ngắn gọn. Chúng tôi tiến vào trại tập trung tù binh Soviet. Nhiều anh em đang cận kề cái chết: họ nhanh chóng được đưa đến bệnh viện. Còn hàng ngàn thi thể khác xếp lớp ngoài trời. Những điều kinh khủng hiện ra nối tiếp nhau. Làm sao tôi có thể qua được cơn ác mộng này? Nếu một viên đạn không tìm đến tôi, chắc tôi sẽ mất trí….



Gumrak chỉ còn cách Stalingrad 15 km. Bọn Quốc xã không còn kháng cự nhiều, chúng chỉ còn biết bỏ chạy.



Chúng tôi tự hào rằng sư đoàn mình đã tham gia trong chiến thắng quyết định ở Stalingrad. Bắt đầu từ trận đột kích vào tuyến phòng ngự quân Đức ở gần Kletskaia ngày 19 tháng 11 năm 1942, tiếp theo đó là chiếm Kalach ở Illarionovskaia, trận chiến gần cứ điểm Raspopinskaia – nơi cả một trung đoàn Đức bị tiêu diệt và bắt được 3,000 tù binh Rumani – rồi trận đánh dẫm máu ở năm ngọn đồi bắc Karpovka, đến trận tấn công gần Marinovka, chúng tôi ngoan cường tiến về Stalingrad. Mọi người được biết rằng anh em ở đó đã chiến đấu cho từng mảnh đất nhỏ. Pavlov, một trung sỹ bình thường, đã phòng thủ trong một ngôi nhà ở trung tâm thành phố từ hồi tháng Chín và vẫn đang trụ vững….



Khi đó, đại đội cối 82mm của chúng tôi đã hoàn toàn hết sạch đạn, cả đạn chiến lợi phẩm. Lúc đó sĩ quan tiếp liệu, thượng uý Buteiko, mò sang các đơn vị pháo bên cạnh. Anh gặp được một anh tài xế của chiếc xe tải 3 tấn, vốn vừa xuống xong một đợt hàng đạn pháo và định quay lại khu kho dã chiến ở hậu tuyến để lấy thêm. Buteiko hứa cho anh một món quà – một chiếc đồng hồ chiến lợi phẩm – nếu anh có thể mang cho chúng tôi một ít đạn. Cấp trên gọi tôi lên hầm trú ẩn và dặn:



-         “Là bí thư chi bộ, cậu được lệnh phải đi với anh tài xế và quay lại với đạn dược trong vòng 03 giờ!”



-         “Rõ”



Anh tài xế, một đồng chí đầy sức sống và vui tính chừng bốn mươi tuổi, sốt ruột giục tôi “Đi nào, paria(*)”. Nghe được cái từ paria của dân Siberi, tôi vui mừng nhảy lên cabin làm bằng gỗ, và chọn tư thế ngồi thoải mái (ở đó có một cái thùng thay vì chiếc ghế), và hỏi anh ấy:



-         “Anh người ở đâu vậy, paria?”



Vui mừng gặp được một đồng đội người Siberi, anh trả lời:



-         “Mình ở Krasnoyask, còn cậu?”



-         “Em thì từ vùng Kemerovo”



-         “Vậy chúng ta là đồng hương rồi”



-         “Đúng vậy!”



Và rồi tiếng máy nổ vang, và chúng tôi vút về phía trước, hoà vào trong màn đêm.



(*) paria là phương ngữ Siberi nghĩa là thằng cha (vui), cha nội, cậu, gã… Câu trên có thể dịch là “Đi nào cha nội” - ND




Tiếng dập đùng đùng từ chiếc cabin gỗ và tiếng nổ của chiếc động cơ cũ kỹ làm điếc cả tai, anh tài xế phải ghé sát khuôn mặt lởm chởm râu của anh vào tai tôi và hét lên:



-         “Này đồng hương! Mình tên Ivan Sobolevski. Còn cậu!”



-         “Mansur Abdulin”



Tôi hét lại và Ivan lẩm nhẩm tên tôi hai lần, chắc để nhớ cho kỹ, và rồi, một lần nữa gào vào tai:



-         “Mình sẽ cố hắng hết mức để giúp đồng hương! Chứ mình chả thèm gì cái đồng hồ chiến lợi phẩm của cậu!”



Chúng tôi phóng với tốc độ cao nhất. Ivan dồn tất cả chú ý vào con đường. Đôi bàn tay mạnh khoẻ của anh dính chắc vào vô lăng rồi quay nó với sức lực mà tôi sợ rằng bánh lái sẽ bị gãy ra mất. Cả hai bên đường đầy xác xe tăng, thiết giáp, xe cộ, cả máy bay và những thứ khác. Chiếc xe của chúng tôi luôn phải đánh võng để tránh những con quái vật sắt thép bất động đó. Hàng trăm lần, lượn sang trái hoặc phải, cố để không đụng vào đống kim loại phế thải. Ở tốc độ cao nhất, với ngọn đèn pha phòng không và tiếng động cơ ầm ỹ, chúng tôi vút đi. Trong những cung bậc âm thanh đó, Ivan khó có thể nghe tôi nói gì dù đã hét sát vào tai anh. Những luồng sáng nhảy nhót mỏng manh từ đèn pha, trông như hai thanh gươm ánh sáng, giật lấy từng khoảng khắc phù du của hình ảnh con đường từ bóng tối, giúp chúng tôi chạy ngoằn ngoèo quanh những đống máy móc méo mó. Tôi bị xóc nảy tưng trong cabin mạnh đến nỗi và chỉ sau chừng 15 phút, tôi cảm thấy như mình bị dần một trận gần chết. Nỗi sợ và sự đau đớn làm tôi muốn nhảy ra khỏi xe lúc tốc độ cao. Nhưng có thể đi đâu trên thảo nguyên tan hoang này trong đêm tối mịt mùng, lạnh lẽo?



Chiếc xe tải không hề giảm tốc độ, băng nhanh về phía trước, vòng vèo tránh những chướng ngại vật chết người. Rồi tôi thấy mình đang tò mò về những tiếng động từ dưới các bánh xe. Cứ như đang chạy trên những tấm ván hay phiến đá. Tiếng bum, bum vọng lên từ dưới các bánh xe phía trước rồi lại bum, bum từ bánh sau. Tôi thắc mắc, và hét vào tai anh tài xế:



-         “Anh Ivan, có cái gì đó đập vào bánh xe? Nghe như có người đem lát váng hay đá gì trên thảo nguyên hay sao ý?”



-         “Không phải, Mansur à, đó là thây người! Chúng bị xe cán dẹp đi nên bây giờ nghe tiếng như vậy, như đi trên ván!” anh trả lời



-         “Không thể nào!” Tôi hoàn toàn không tin và hét lên.



Ivan dừng xe lại và chúng tôi nhảy xuống.



-         “Đấy, cậu tự nhìn đi Mansur!”



Tôi bật đèn lên là nhìn những “tấm ván”, những “phiến đá”: một người lính phe ta trong áo choàng xám, một người lính Đức với áo xanh. Tôi thấy chân mình bất bình thường trên nhưng “tấm ván” đó, Ivan giải thích:



-         “Đó là vì mỡ. Hãy nhìn bánh xe này, không như phủ đầy mỡ lên vậy. Nếu muốn thay ruột xe, thì phải rửa bánh xe bằng xăng trước rồi mới làm. Cậu thấy chứ? Đi thôi!”



Sau khi trượt một lúc nữa, rồi thì cuối cùng chúng tôi cũng chạy được bình thường. Rốt cuộc thì chúng tôi cũng hoàn thành nhiệm vụ – nhưng Ivan từ chối không nhận chiếc đồng hồ – hai anh em trao đổi địa chỉ cho nhau.



Sau chiến tranh, tôi có dịp ở Krasnoyarsk, tôi tìm đến nhà của người đồng đội Ivan. Trong sân, là một người phụ nữ, chắc lúc trước khá xinh, nay trông già trước tuổi vì làm việc nặng và đói kém.



-         “Xin hỏi có phải nhà của Ivan Sobolevski?”



Chị không trả lời, nhưng gật đầu mời tôi vào nhà. Ngôi nhà trông nghèo nàn và buồn thảm. Tôi ngồi xuống một băng ghế bằng gỗ, rộng nhưng lâu không chùi rửa. Sàn nhà bẩn thỉu, bếp lò phủ đầy bồ hóng và cần phải quét vôi. Người phụ nữ ra khỏi phòng và nhanh chóng trở lại với một tờ giấy xám, rồi âm thầm đưa cho tôi. Đó là thư thông báo cái chết của anh. Vào ngày 18 tháng Một năm 1943. Chị lặng lẽ nói:



-         “Có lẽ tôi biết anh. Anh ấy viết cho tôi về cuộc gặp của các anh. Anh là Mansur Abdulin phải không?”



Chị không khóc. Nhưng không biết vì sao tôi thấy xấu hổ vì mình còn sống còn Ivan hi sinh. Rồi tôi nhớ lại hình ảnh kinh hoàng của những “tấm ván” trên đường….


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:37:28 am


Ngày 21 tháng Một năm 1943 là một ngày đáng nhớ trong lịch sử sư đoàn: “Chiến đấu cho đất mẹ Sô-viết chống lại cuộc xâm lăng của bọn Đức, sư đoàn bộ binh số 293 đã chứng tỏ sự gan dạ, lòng dũng cảm, tính kỷ luật và tuân lệnh. Giao chiến liên tục…sư đoàn đã gây nhiều tổn thất lên các lực lượng Phát xít và bằng những cú đánh mạnh mẽ đã phá huỷ nhiều trang bị và nhân lực quân địch, làm tan nát quân Đức xâm lược …” Đây là một đoạn trích trong nhất lệnh số 34 ngày 21 tháng Một năm 1943, được ký bởi Joseph Stalin.



“Vì đã dũng cảm trong chiến đấu cho tổ quốc,” nhật lệnh viết tiếp “sư đoàn bộ binh 293 được tái tổ chức thành sư đoàn bộ binh cận vệ số 66....” . Như vậy chúng tôi trở thành lính cận vệ, còn trung đoàn thì đổi tên thành trung đoàn cận vệ 193. Đó là một vinh dự lớn lao. Nhưng không còn nhiều những đồng đội cũ còn sống để cùng chứng kiến. Sau chiến dịch Stalingrad, trung đoàn trưởng mới, đại uý cận vệ Pavel Bilaonov, dẫn theo 1,613 quân đến vòng cung Kursk, hầu hết trong số đó mới được tăng viện. Có bao nhiêu đồng đội tuyệt vời đã ngả xuống trên vùng đất giữa sông Don và sông Volga? Hiến dâng cuộc sống của mình, họ đã mang lại bước ngoặc quyết định của cuộc chiến....



Tôi nhận được một lá thư từ Đài phát thanh Tashkent. Một  cô Radishova nào đó thông báo rằng vì lý do thời tiết, thư không phát lên được cho vùng mỏ Sardagon trên dãy núi TienShan: và vì vậy, những lá thư từ mặt trận (kể cả thư của tôi) sẽ được đọc trên đài. Tôi thấy xấu hổ vì những lá thư riêng sẽ được những người lạ hoắc nghe được, cùng với gia đình mình, nhưng rất biết ơn anh em nhân viên đài phát thanh đã đặc biệt quan tâm. Tôi nghĩ “tất cả chúng ta, dù ở hậu phương hay tiền tuyến đều cùng một lòng: giải phóng quê hương khỏi tay bọn xâm lược càng nhanh càng tốt”.



Vào một đêm cuối tháng 1 năm 1943, đại đội cối chúng tôi nhận được tân binh bổ sung. Trong 25 cậu lính mới, có một anh chàng nổi bật với thân hình lực sỹ, với mái tóc và bộ râu rậm đỏ hoe. Nét mặt chân thật, đôi mắt xanh to và cái mũi hếch làm cậu ta trông giống như một thương gia điển hình của vùng trung tâm nước Nga: một mẫu tốt cho các hoạ sỹ thế kỷ 19.



Khi nhận tân binh, các tay lính cựu của đại đội tôi cố hết sức chiêu mộ các cậu lính mạnh khoẻ như người đồng đội tóc đỏ kể trên về khẩu đội họ. Một khẩu cối 82mm thì khác hẳn một khẩu carbin hay một cây tiểu liên! Trong suốt cuộc chiến, chúng tôi luôn phải lôi chúng theo. Mỗi khẩu chia thành 03 phần nặng không dưới 20kg, cộng thêm các hộp đạn có trọng lượng chừng 25kg cho một hộp. Mọi người đều ghen tỵ với khẩu đội tôi, vì đã có hai tay bự con: đó là anh Fuat Khudoibergenov người Uzbek, vô địch cử tạ hạng nặng của Uzbekistan và Dzhura Tuichiyev (anh em thường gọi vui là Palvan), vô địch vật tự do Tadzhikistan, anh này thì vừa gia nhập chỉ một tuần trước đó. Và còn tôi nữa, dù rằng không quá khoẻ, nhưng cũng là một thợ mỏ trẻ thường làm việc nặng nhọc và căng thẳng.



Tôi chú mục vào anh chàng tóc đỏ và nghĩ: “Thật tuyệt nếu có tay khổng lồ kia trong khẩu đội”. Nhưng cơ hội xem ra rất ít. Vì có thoả thuận chung trong quân đội rằng nếu anh đến từ cùng một vùng thì được sắp xếp cho chiến đấu chung trong một khẩu đội hoặc một tổ. Trong ngữ cảnh đó thì tôi quả thật may mắn vì tôi là một người Tartar, một người Siberi, một người sống giữa dãy Urals và vùng Trung Á, và là một tín đồ Hồi giáo, tất cả lộn mèo gôm thành một cục! Nhưng tay lính Nga tóc đỏ kia thì chắc chẳng có tí gì chung với tôi cả.



Tôi chuyển sang ngó nghiêng những tân binh khác và lựa ra một cậu trông tráng kiện, tầm thước, đang lơ mơ ngủ một cách yên bình trong cái góc ấm áp của căn hầm, khi anh thượng sỹ quản trị bắt đầu điểm danh. Anh ấy có nhiệm vụ ghi lại thông tin cá nhân chi tiết của các tân binh vào hồ sơ đơn vị. Bọn lính cựu chúng tôi thì vểnh tai lên để nghe xem những tay tân binh ấy đến từ đâu.





Đã có 5 anh lính tìm được bạn chiến đấu mới, mọi người đều vui vẻ! Anh em chúc mừng nhau! Còn anh thượng sỹ thì gắt ầm “Yên nào!”. Cuối cùng cũng đến lượt cậu tóc đỏ. Một khoảng khắc yên lặng. Ánh sáng nhợt nhạt từ cây đèn tự tạo bằng vỏ đạn chứa đầy dầu với mẩu vải làm tim, dường như cũng bất động như thể chờ đợi câu trả lời. Cậu tóc đỏ vui vẻ đáp:



-         “Binh nhì Rashid Sadykovich Sadykov”.



Nghe thấy cái tên Trung Á đó, tôi như muốn nhảy lên vì kinh ngạc:



-         “Tại sao, cậu ấy cùng quê với tôi!”



Mọi người cười ồ. Anh thượng sỹ lại yêu cầu mọi người im lặng. Cậu tóc đỏ tiếp tục:



-         “… sinh năm 1918, người Uzbek, địa chỉ nhà: số 15 đường LêNin, làng Gazyl-Kent, quận Bostandykski, khu Nam Kazakhtan”



Tôi không thể kìm chế được:



-         “Chúng ta cùng quận, tôi ở Brichmulla!”



Và Rashid trả lời:



-         “Tôi có nhiều bà con ở đó lắm”



Tôi không nhớ cậu ta ôm tôi ra sao, nhưng mọi người trong hầm thì có thể nghe thấy tiếng xương tôi kêu răng rắc. Và khi màn giới thiệu kết thúc, tôi, cùng với tiếng cười thân thuộc, kéo tay Rashid dẫn về chiến hào của khẩu đội, ở đó đồng đội đang nóng lòng chờ tôi về cùng với “lính mới”. Như tôi, Fuat và Dzhura rất vui khi thấy người anh em mới. Chúng tôi mừng cuộc gặp gỡ với rượu và trò chuyện đến tận sáng. Tôi sẽ kể câu chuyện về lần gặp đầu tiên với Dzhura. Nó diễn ra thế này …



Tôi vào một căn hầm, ở đó các khẩu đội trưởng tập trung đến để chọn lính tăng viện, và ngay lập tức chú ý đến một tay người châu Á đen thui, cao chừng 2m. Tôi chạy đến chào anh theo lối truyền thống của dân Trung Á. Vui vì nghe được thứ tiếng quen thuộc, anh nồng nhiệt đáp lời tôi. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện:



-         “Anh dân ở đâu?”



-         “Anh nói trước đi?”



-         “Tôi ở Brichmulla”



-         “Còn tôi thì Natkal!”



Tôi chạy đến chỗ đại đội trưởng và anh thượng sỹ quản trị:



-         “Này, tôi mang cậu này về với tôi nhé. Chúng tôi cùng quê. Cậu ấy cũng đồng ý rồi”



Nhưng tay thượng sỹ lạnh lùng trả lời:



-         “Hợm đã. Cậu có nói được chút tiếng Tadzhik nào không? Nếu có, thì nói cái gì đi, rồi Dzhura sẽ dịch cho chúng tôi. Bằng cách đó cậu mới chứng minh được rằng bọn cậu cùng quê”



Cả căn hầm trở nên im lặng, chờ đợi một “sô” thông dịch. Tôi, bằng tất cả vốn tiếng Tadzhik của mình, chửi rủa tay thượng sỹ với những từ thô tục nhất. Nếu tay ấy mà hiểu được màn độc thoại của tôi chắc phải lăn đùng ra chết vì lên máu mất J. Đầu tiên, Dzhura hoảng lên, nhưng ngay sau đó anh ấy hiểu rằng gã thượng sỹ không biết nửa chữ Tadzhik, và bắt đầu lăn ra cười. Rồi tất cả anh em lính cối trong hầm cũng bắt đầu cười và yêu cầu Dzhura dịch lại chính xác. Nhưng anh lính rất nhanh trí trả lời với một giọng nặng trịch “Tôi không biết tiếng Nga”…



Rashid, anh lính tóc đỏ, kể chúng tôi nghe về đời anh. Anh thật ra không phải là dân Uzbek mà là người Nga. Không biết ai là cha mẹ ruột của anh, vì họ đã bỏ anh lại ở chợ Tashkent khi anh mới 6 tháng tuổi. Hoặc có thể họ chết cả rồi. Dù sao đi nữa thì đứa bé cũng được mang về nuôi dưỡng bởi một người tốt bụng, một thợ rèn, ông cũng mới vừa sinh được một cậu con trai trước đó không lâu. Cậu bé này thì không bú hết sữa mẹ, vì bà rất nhiều sữa, vú bà nhức nhối. Nhưng với sự xuất hiện của “đứa em” thì vấn đề này được giải quyết ổn thoả ngay. Đấy, đó là cách mà Rashid có được gia đình Uzbek của mình và người anh tên Usman.



Vợ chồng người thợ rèn mất sớm, các cậu bé rời Tashkent về làng Gazyl-Kent. Ở đó, họ làm việc trong một nông trường, rồi họ cùng nhau xây nhà với một mảnh vườn xung quanh. Năm 1938, cả hai anh em cưới vợ và đều có con trai. Năm 1941, chiến tranh nổ ra, họ cùng nhau ra trận. Người anh, Usman, hi sinh gần Moscow.





Nhiều đồng đội đã ngã xuống trong các trận chiến đẫm máu, nhưng chúng tôi vẫn xiết chặt thêm bọn Frizt trong vòng vây. Cả chín khẩu cối của đại đội nã đạn không ngừng vào bọn Đức, 24/24, gây cho chúng những thiệt hại lớn. Rashid đã làm mọi thứ để trả thù cho người anh. Tôi cũng liều lĩnh chiến đấu: để trả thù cho đồng đội, cho đồng hương – những người bị tàn hại bởi chiến tranh – và cho Đất mẹ. Chúng tôi không sợ chết, nhưng chúng tôi muốn sống, để nhìn thấy cuộc sống trên tổ quốc vĩ đại sau chiến tranh.



Ngày 30 tháng 1 năm 1943, các lực lượng Phương diện quân Sông Don đã chia cắt bọn Đức bị vây ra thành hai cụm, phía Bắc và phía Nam. Trong suốt chiến dịch này, khẩu đội chúng tôi đã bắn vào quân thù với cường độ nhiều đến nỗi lớp sơn của súng cũng phải bốc khói! Dzhura đã hi sinh bởi một viên đạn địch. Anh được chôn vào một chiến hào cũ, trong một cái sân cạnh ngôi nhà bốn tầng.



Lại một lần thay đổi vị trí bắn, chúng tôi vượt qua một khu trống trải, chạy bám theo những chiếc tăng để ở trong “vùng chết”, nơi đó, đạn địch không thể chạm vào. Bạn không nên rơi lại phía sau, ngay cả khi bạn đang tải nặng như một con lạc đà, hoặc cả khi bị sặc sụa bởi làn khói dày đặc, độc hại. Đột nhiên Fuat la lên: “Rashid bị thương rồi!”. Ném cả những trang bị nặng nề xuống, tôi chạy ngược trở lại nơi Rashid đang nằm. Một nhóm bộ binh, dẫn đầu bởi một trung uý trẻ, đang chạy lên. Cậu ta vẫy khẩu súng lục, cao giọng gào hết cỡ: “Vì đất mẹ! Vì Sta-a-a-a-lin! Không được lui! Tao sẽ bắ-ắ-n-n-n mày!”. Tôi sợ cái gã này sẽ nhầm tôi là một tên đào ngũ và bắn ngay. Tay trung uý đã bắn một phát súng cảnh cáo lên trời, nhưng rồi đột nhiên gục xuống, đầu ngã ra sau. Chiến tranh chứa đầy những điều lạ lùng. Có lẽ một viên đạn quân Đức đã hạ viên trung uý trẻ, cứu sống tôi…



Khi tôi đến chỗ Rashid, anh ấy đang bị mất nhiều máu, cố giữ chân anh trên đầu gối bằng cả hai tay. Tôi xé vải quần anh, băng một miếng gạc vào trên vết thương để cầm máu. Rashid cố gượng dậy. Xương không bị thương tổn, anh ấy thậm chí có thể đi vài bước. Sau đó, tôi đặt anh lên một chiếc áo mưa và kéo anh về hậu tuyến. Nhìn cả sang phải lẫn sang trái, thấy những anh em thương binh khác cũng đang được tải đi, tôi đi đúng hướng. Nên nhanh chóng đưa Rashid đến được trạm phẫu. Sau lưng tôi, tiếng gầm của cuộc chiến bỗng dưng lặng đi, chắc là bon Đức đã ngừng chống cự. Ở nơi này của mặt trận, đã không còn chiến tranh. Cuối cùng, tôi cũng mang được người đồng đội đến một nơi có thể gọi là điểm trung chuyển. Với sự giúp đỡ của một anh tải thương, tôi đưa Rashid vào trong một cái hố khổng lồ, ở đó có chừng 200 thương binh đang chờ đến lượt đưa đi. Cánh tải thương hứa sẽ sơ tán toàn bộ số anh em đó đi trong vòng nữa giờ. Tôi chào tạm biệt người bạn, và chạy trở lại để tìm Fuat và khẩu đội ….



“Thế Rashid ra sao?” anh em hỏi tôi. “Ổn!”. Nhưng tim tôi trĩu nặng. Tôi lo lắng cho người đồng đội của mình. Phía bọn Frizt không có hoạt động gì. Bên ta cũng vậy: đợi chờ những diễn tiến tiếp sau. Lúc đó trời vẫn chưa tối, và tôi, sau khi được phép của chỉ huy đại đội, lộn về phía sau để coi Rashid thế nào. Khi tôi quay lại được chỗ ấy, không thấy có dấu hiệu gì của ai. Tôi tưởng rằng tất cả anh em đã được di tản rồi. Nhưng khi nhìn vào trong hố, thật kinh hoàng: 200 thương binh nằm yên lặng và bất động, như đang say ngủ, tuyết phủ đầy mặt họ. Tôi nhảy vào trong hố và đụng mạnh vào ngay vào vai một người lính gần nhất. Nhưng thi thể anh đã cứng thành đá rồi. Tôi hét loạn lên: “Các đồng chí! Trả lời tôi đi! Có ai còn sống không?”. Yên lặng. Dường như mọi người đã chìm vào giấc ngủ dưới âm, và không bao giờ tỉnh dậy. Rashid đâu? Đây rồi! Tôi giở nón của anh ra. Mái tóc đỏ hoe phủ đầy sương muối. Tôi nhảy khỏi nấm mồ chung và trong cơn điên cuồng đi tìm bọn tải thương và chỉ huy của chúng. Nhưng tôi có thể làm gì? Không có chút dấu hiệu gì của bọn họ cả. Tôi trở về đại đội và nói với mọi người rằng ổn cả: tôi không muốn họ đau buồn. Còn tôi, thì đơn giản là phải gắng sức tiếp tục, sau khi phải thấy những cảnh tượng kinh hoàng; sau khi phải thấy quân ta chết một cách vô lý như vậy.



Tháng 11 năm 1943, tôi bị thương nặng, sau nửa năm nằm dưỡng ở các bệnh viện khác nhau, tôi trở về quê nhà ở Brichmulla, bị loại khỏi vòng chiến đấu. Khi qua Gazyl-Kent, tôi không dừng lại để thăm gia đình Rashid, tôi không đủ sức để che đậy bi kịch về cái chết bi thảm của người đồng đội với vợ, với con anh, mà điều này chỉ làm tệ thêm cho nỗi sầu muộn của họ. Sau đó tôi mới về thăm Gazyl-Kent, trong bộ đồ dân sự, chỉ để nhìn thấy họ. Đó là sau khi nghỉ chừng 2 tuần ở Brichmulla, tôi đến phòng Quân vụ Bostandykski để báo cáo. Trên đường về, tôi dừng lại ở Gazyl-Kent, đi xuống đường Lenin, bên phía đánh số lẻ. Một khoản sân nhỏ, một cánh cổng với số 15 vẽ bằng hắc ín. Tôi gõ cửa. Có tiếng chó sủa đâu đó sau rào. Rồi tiếng chân trần của một cậu bé chạy ra cổng. Mở ra, và dường như tôi thấy lại chính Rashid, nhưng mới chừng 5,6 tuổi. Tôi những muốn kêu lên “Rashid”. Con trai anh ấy, Ruslan – một cậu bé cứng cáp với đôi mắt xanh và nụ cười thân thiện – chào tôi:



-         “ Chào chú! Chú muốn gặp mẹ cháu ạ? Chút xíu mẹ ra liền, cháu sẽ gọi mẹ”.



Tỉnh táo lại một chút sau cơn choáng, tôi bảo cậu:



-         “ Không, cảm ơn người anh em. Xin lỗi, có lẽ chú nhầm nhà”



Câu bé trông buồn đi. Tôi nhanh chóng quay lại và đi xuống phố. Khi gần rẽ ngang ở góc đường, tôi liếc lại đằng sau và thấy Ruslan cùng mẹ. Hai mẹ con đứng đó, nhìn theo tôi….



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:41:57 am


Chương 7



Chiếc đồng hồ vàng chiến lợi phẩm




Ngày 31 tháng Một năm 1943. Chúng tôi đến được vùng ngoại ô thành Stalingrad. Một thành phố đổ nát. Không thể tả được bằng lời quang cảnh đang mở ra trước mắt chúng tôi. Đúng là không còn một ngôi nhà nào! Không nóc, không sàn. Chỉ còn vài bức tường hiếm hoi cùng những khung cửa trống trải, thứ duy nhất có thể thấy là hàng đống gạch vụn khổng lồ. Anh em được thông báo rằng bọn Đức bị chia cắt thành 2 cụm nhỏ. Nhưng chúng ở đâu vậy?



Với thủ pháo và lưỡi lê, chúng tôi sẵn sàng cho các trận cận chiến trên phố. Ba lô thì lèn chặt băng đạn. Mọi thứ không cần thiết được bỏ lại phía sau. Chúng tôi tiến vào trung tâm thành phố. Lần đầu tiên pháo binh phe ta phải thất nghiệp: vòng vây hiện quá nhỏ và nếu bắn vào thì thật là nguy hiểm. Cả cánh cối chúng tôi cũng được lệnh bắn không xa quá một ngôi nhà hoặc một con đường lân cận vì e rằng có thể trúng nhầm quân mình.



Có tiếng súng! Hà, bọn Nazi đang ở đây rồi! Đằng kia, trong ngôi nhà đó, đúng ra nên nói chính xác là trong đống đổ nát đó. Chúng tôi nhanh chóng triển khai khổi cối và “quà tặng” đáp ngay trên đầu bọn Frizt. Mọi người không dám bắn xa hơn vì ngại có thể trúng quân ta ở toà nhà kế cận. Ở đây không có đường phân tuyến rõ ràng. Tôi có cảm giác rằng quân mình và quân địch đan xen nhau trong một vùng da beo (* nguyên văn là trên một bàn cờ vua). Hãy cẩn thận từng phát đạn khi bắn!



Ngày 1 tháng Hai năm 1943. Một sự ngạc nhiên đáng kể đánh thức tôi dậy. Lúc đó trời đã sáng hẵn rồi. Vài anh em, tựa vào nhau nhìn về phía bên kia đường. Chuyện gì vậy? Tôi bò ngang qua vài người để xem có việc gì. Không ai phản đối cả, họ đang phân tâm bởi những cảnh tượng. Tôi nhìn qua những chiếc cửa sổ trống rỗng của ngôi nhà đối diện và vẫn không hiểu chuyện gì.Vài mảnh vải trắng treo tòng ten trên cửa sổ, trên các đống gạch vụn, cả ghẻ rách màu trắng cũng được treo gọn gàng. Chỉ có sự yên lặng. Không một tiếng động.



“Đầu hàng” tôi không nhớ ai đã bật ra từ đó, nhưng rành rọt, nhẹ nhàng, tế nhị như thể người nói sợ nó chạy mất.



Liệu chúng tôi nên rời công sự không? Và nếu nó là một cái bẫy thì sao? Vì chỉ mới đêm qua thôi, bên Đức còn tổ chức được một cuộc chiến ra trò. Nhưng sự tò mò trong chúng tôi quá mạnh. Nếu đó là một đề nghị đầu hàng thật sự thì sao? Đột nhiên tôi thấy sự ngượng nghịu hiện trên gương mặt của anh em. Họ đang nhìn nhau với những nụ cười hiền lành. Mọi người đen như quỷ: bẩn thỉu, bồ hóng phủ đầy. Liệu chúng ta có nên chấp nhận một sự đầu hàng có điều kiện? Và chúng tôi cũng cần một người có dung nghi tề chỉnh cho dịp trọng đại này. “Và họ đâu rồi, những người mà có vẻ ngoài đường bệ ý?”. Tôi nghĩ. Nhưng phải chấp nhận thôi, không thì quân địch sẽ nghĩ ta e ngại và thay đổi ý định mất!



Tôi trèo qua đầu anh em, nhảy ra và đi ra giữa tim đường. Chân tôi như thể làm bằng gỗ vậy. Tôi đi rất chậm. Vải và ghẻ trắng hiện hữu trên rất nhiều ngôi nhà, và một số trong đó chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có chứa quân Nazi. Nhưng chúng đang ở đâu nhỉ? Ở phía xa xa, tôi thấy những “sứ giả” khác cũng lo lắng nhìn quanh như tôi và cũng đang đứng giữa đường. Chúng tôi gửi nhau những cái nhìn ngượng ngùng về nhau. Trông này! Những tay ngờ ngệch, tự biến mình thành lộ tiêu! Nếu mà lúc đó có tiếng súng, chúng tôi sẽ không cảm giác gì trừ sự xấu hổ. Tôi rõ ràng là có mang khẩu tiểu liên trên vai, nhưng trong trường hợp chúng nổ súng thì không cách nào dùng kịp.



Rồi sau đó, lần lượt, bọn họ xuất hiện từ sau các đống đổ nát. Từ từ, chầm chậm bước ra khỏi các hầm hố, họ ném súng lên tuyết và giơ tay lên. Họ như dửng dưng trước vẻ nhếch nhác của tôi, một đại diện không đường bệ chút nào! Một khẩu súng lục rơi xuống dưới chân tôi. Đây là dấu hiệu cho biết người đã ném nó – một kẻ rách rưới tả tơi, quấn mình trong một tấm chăn – là một sỹ quan. Tên lợn đó không để ý đến tôi. “Mày có thể điên nếu mày muốn” tôi nghĩ “nhưng phải đầu hàng”



Quân ta, thấy bọn Đức như vậy, rất ấn tượng và bắt đầu trèo ra đường. So với chúng tôi, quân địch trông như những kẻ đầu đường xó chợ. Họ ném vũ khí và yên lặng sắp thành hàng. Đột nhiên có một báo cáo đơn giản, tối tăm: một sỹ quan, dường như tự bắn vào tim…




Một đại đội thuộc lực lượng đặc biệt đến trên những chiếc Jeep Willy. Họ vây quanh bọn Frizt và bắt đầu tịch thu tất cả những thứ có giá trị cho quỹ Quốc Phòng (một loại quỹ tự nguyện, góp tiền và những thứ đồ có giá trị cho các hoạt động chiến tranh, quỹ này thật ra có đến chừng 20 triệu rúp –ND). Một viên đại uý trẻ cho phép tôi được lấy vài thứ cho cá nhân từ cái đống đồng hồ, hộp thuốc lá, bật lửa và đồ kim hoàn. Đồng đội nhìn một cách ghen tỵ khi tôi nhanh chóng tuồn đồ lấy được vào túi. Nhưng tôi cũng nghĩ đến họ – có chừng 17 người trong đại đội – mỗi người đều được một chiếc đồng hồ chiến lợi phẩm.



Tất cả, chỉ trừ một cậu, Victor Kozlov, quyết định bỏ đi mà không lấy đồng hồ. Cậu ta báo cáo với chỉ huy rằng tôi đã giữ lại chiếc đồng hồ tốt và đắt giá nhất cho bản thân. Đại đội trưởng đề nghị tôi nên tự nguyện nộp nó vào quỹ Quốc Phòng. Tôi đưa nó cho anh ấy ngay lập tức. Nhưng sau đó, tôi phát hiện ra, sau cùng, nó lại nằm trong túi của tay thượng sỹ quản trị.



Ngay sau sự kiện này, chỉ huy sư đoàn tổ chức một buổi mít ting cho những người tham gia trận đánh Stalingrad. Ông diễn thuyết, phác ra những mục tiêu sắp đến của chúng tôi cho một sự sụp đổ không xa của cỗ máy chiến tranh Hít-le. Sau buổi mítting, tôi là người đầu tiên báo cáo với vị tướng về tay thượng sỹ, người đang hiện diện tại đó, đã giữ làm của riêng chiếc đồng hồ vàng chiến lợi phẩm, mà tôi đã tự nguyện đóng vào quỹ Quốc Phòng. Vị tướng như bị xúc phạm và lệnh cho tay thượng sỹ phải nộp ra ngay chiếc đồng hồ. Anh ta tuân lệnh và đưa nó cho vị tướng. Năm 1975, tôi gặp lại vị tướng ở Poltava, đó là lần mítting đầu tiên sau chiến tranh của trung đoàn chúng tôi, và tôi thấy chiếc đồng hồ vàng trông giông giống…



Đêm ngày 2 tháng 2, đột nhiên, chúng tôi có lệnh “di chuyển cả đêm đến cụm cánh bắc quân Đức, chúng vẫn còn cầm cự…”. Cái viễn cảnh bị giết trong trận đánh sau cùng - khi cuộc chiến đã gần như kết thúc - thật là tồi tệ. Ít nhất là ở đây, tại Stalingrad. Chúng tôi đến điểm qui định trước khi sang ngày mới, và có thể hiểu được sự vui mừng của mọi người khi tại đó, cũng có những lá cờ trắng! Xém chút nữa là chúng tôi ôm chầm lấy bọn Frizt chó má!



Xuốt cả ngày chúng tôi mò đi xem cái siêu thị nơi mà Paulus đặt sở chỉ huy. Cờ trắng ở khắp nơi trong thành phố. Chúng tôi xoay sở để nghỉ ngơi một chút, đêm xuống thì lại nhận đựơc thông báo về các nhóm tàn quân Nazis đơn lẻ vẫn tiếp tục chống cự. Thế là cả hơn một tuần, chúng tôi rà soát trên các con đường, trục bọn cuồng tín còn sống sót đó ra khỏi các cống rãnh. Sau đó, là hàng đoàn tù binh, chầm chậm diễu qua trước mắt chúng tôi đi ra khỏi thành phố hoang tàn nhưng chiến thắng. Những kẻ bị ốm hoặc bị thương lê lết theo ở cuối mỗi hàng, quấn mình trong chăn từ đầu tới chân. Tôi hỏi hội lính áp giải chúng: “Đi đâu vậy?” “Đến Gumrak” họ miễn cưỡng trả lời.



Những anh em còn sống nhận được huy chương “Phòng thủ Stalingrad”. Nhưng chúng tôi không còn bao nhiêu. Đến cuối trận chiến, chỉ còn một dúm lính bộ binh mà đã cùng học trường Quân Sự Tashkent với tôi, tiếp tục phục vụ. Và có quyết định phân bổ chúng tôi về các đại đội mới tái lập. Vì vậy Fuat phải chuyển sang tiểu đoàn khác, chúng tôi phải chia tay nhau. Sau đó, tôi không bao giờ được gặp lại anh nữa.




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:43:40 am


Trong các chương trước tôi đã kể rằng sau khi tới mặt trận Stalingrad, tôi và tất cả những anh em lính tráng khác đều bị bọn rận tấn công, với mọi người chúng độc hại như bò cạp. Rận phủ đầy người từ đầu đến chân, trong nón, trong áo choàng, áo mưa, trong găng tay..chúng tụ lại thành tổ. Với chúng tôi, rận mới chính là kẻ thù khát máu số 1, còn bọn Đức chỉ là số 2. Vì bọn Frizt còn cho chúng tôi nghỉ ngơi đôi chút, còn rận thì tấn công 24 giờ một ngày! Chúng cũng không hề sợ các loại hoá chất độc diệt côn trùng mà tôi đổ hằng ngày lên thân thể tội nghiệp của mình. Mà cách điều trị này làm tôi ngã bệnh, xây xẩm mặt mày. Tôi không ít hơn một lần xém nhảy vào ngọn lửa của một chiếc xe tăng cháy, vì bọn rận tra tấn.



Bọn rận làm tôi không ngủ được, ngay cả khi mệt muốn chết, tay tôi cứ tự động theo bản năng mò đến những nơi khó đển nhất trên cơ thể, gải đến bật máu. Tôi dùng mọi cơ hội để nhét nón (mũ) xuống dưới đế khẩu cối và nghiền bọn rận bằng súng. Không chỉ chiếc nón mà cả đĩa bệ cối cũng dính đầy máu.



Tại làng Karpovskaia, nơi sư đoàn Cận vệ số 66 tân lập của chúng tôi trú quân, anh em quyết tâm tuyên chiến một trận không khoan nhượng với bọn rận và đã có được một cuộc phục hận đầy ngọt ngào! Mọi người nhanh chóng thiết kế và dựng lên các phòng sấy và phòng sauna hoặc bania (nhà tắm hơi kiểu Nga - ND). Hằng ngày chúng tôi tắm rữa kỳ cọ toát mồ hôi trong các phòng xông hơi trong khi bên phòng sấy thì quân phục được hơ trên lửa đến khi bốc khói. Nhưng bọn rận vẫn tồn tại. Thật là trời đánh thánh đâm! Chúng tôi phải làm gì bây giờ?  Tôi bí mật bỏ một cái hộp quẹt (bật lửa) vào túi quần và cho củi nhiều gấp 03 lần vào lò. Phòng sấy của chúng tôi cháy rụi hoàn toàn. Lực lượng đặc biệt tiến hành một cuộc điều tra, nhưng không thể tìm ra chứng cứ của một cuộc hoả hoạn cố ý, và thế là mọi người được cấp cho quân phục mới tinh. Kể từ ngày đó thì bọn rận mới thật sự bị tận diệt. “Chúng hàng rồi” anh em đùa với nhau. Và sau đó, lần lượt từ cái này đến các khác, các phòng sấy của các đại đội khác cũng bị hoả hoạn. Lúc này thì lực lượng đặc biệt chẳng để ý tí gì về trò này. Cuối cùng thì tôi cũng có được một giấc ngủ ngon!



Ở binh trạm Karpovskaia, có rất nhiều máy móc công cụ thu được của địch, và tôi có cơ hội để tận mắt thấy tù binh Đức lao động. Thật đáng nể! Có một cái máy đang được sửa chữa và cho chạy chế độ test đặc biệt. Vài người khởi động máy và dường như máy chạy trơn tru. Một kỹ thuật viên cao cấp người Đức, trông như một bác sỹ, lắng nghe tiếng máy cẩn thận từ nhiều góc khác nhau. Gương mặt anh, trông như một thứ dụng cụ, phản ánh chính xác chất lượng công việc.Thợ máy bên ta nghĩ rằng chiếc máy đã có thể đưa vào hoạt động rồi. Nhưng người tù binh Đức thì làm họ cụt hứng với một giọng cáu kỉnh “Nein!” (không). Dường như anh ta nghe được điều gì đó mà thợ máy chúng ta không biết. Những âm thanh xa lạ. Bằng tiếng Đức, anh giảng cho những phụ tá: họ một lần nữa tháo chiếc máy ra và xiết lại những thứ trông không quan trọng như đai ốc, vít trên các thanh truyền động. “Hitler Kaputt? Stalin gut”. Họ gật đầu: “Russ Kamerad gut!” (Đồng chí Nga tốt – ND). Lẽ nào họ chính là những người mà mới chỉ cách đây 2 tuần hung dữ chiến đấu chống lại chúng tôi? Anh em lính tráng hoàn toàn nghi ngại “Có thể nào như vậy!”.



Chúng tôi có cảm giác rằng chiến tranh đã kết thúc. Nhưng kết thúc thật sự còn xa, rất xa! Có bao nhiêu người đã ngã xuống giữa hai mùa xuân năm 1943 và năm 1945?




Nằm trong đội hình của Quân đoàn bộ binh cận vệ 32, sư đoàn Bộ Binh Cận vệ 66 của chúng tôi được đưa lên tàu và di chuyển qua Tambov, Lipetsk, vùng Voronezh, thẳng hướng đến Kursk.



Tôi nhớ như in cái nhà ga đáng yêu ở khu Lipetsk, nơi đoàn tàu quân sự của chúng tôi dừng lại vài ngày. Nhà ga và ngôi làng kế bên đều mang tên Dobrinka (tiếng Nga, từ dobry nghĩa là tốt, mến khách – ND). Cái tên làm chúng tôi để ý, và mọi người đều muốn gần gũi hơn với dân địa phương. Các cháu thiếu nhi đặc biệt mến mộ chúng tôi, còn anh em thì chia cho các cháu thức ăn.



Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng không khí lạc quan bao trùm lên khắp các nẻo đường, mọi người tin rằng chiến tranh sẽ kết thúc không xa. Các cụ già và phụ nữ cố cho chúng tôi mọi thứ mà họ có thể, nhưng điều quan trọng nhất là chúng tôi cảm nhận được tình yêu của họ dành cho anh em, dành cho quân đội của chúng ta.



Lúc đó là mùa xuân, thời điểm mà khẩu phần lương thực xuống thấp nhất, và vậy là anh em chia sẽ những phần thực phẩm đạm bạc của mình cho người dân Dobrinka. Mỗi mẫu, mỗi cùi bánh mì được nhận với lòng biết ơn. Các cháu nhỏ không ăn ngay bánh mỳ, mà mút từng chút một, như mút kẹo, để kéo dài niềm vui sướng.



Thưa những độc giả thân mến, tôi xin lỗi nếu những đoạn miêu tả dăm ngày tại Dobrinka lại mang một ấn tượng ngọt ngào quá mức. Nhưng sau trận chiến Stalingrad, cơ thể bẩn thỉu đầy rận của tôi cần nước ấm và quần áo cần giặt. Cả đầu óc cũng vậy, để lấy lại thăng bằng, phải tìm đến những nơi tẩy uế bằng lòng ân cần và tình người. Thật cần thiết để tiến hành hồi phục linh hồn một con người. Bởi vì tôi tin rằng chỉ có người tốt mới chiến đấu được với loài ác quỷ. Thưa những cư dân đáng mến của làng Dobrinka! Tôi muốn cảm ơn vì những ngày được ở cùng trong mùa xuân năm 1943, sau những điều kinh hoàng mang tên Stalingrad!



Có lẽ ở tại nhà ga đó tôi nhận được tin tức từ nhà? Cha tôi đã không đọc lá thư đề ngày 6 tháng 12 năm 1942, khi tôi viết về tên phát xít đầu tiên bị chính tay tôi diệt. Vì ngày 12 tháng 12 ông mất trong một tai nạn ở mỏ. Ông chỉ mới bốn mươi lăm tuổi.



Tôi yêu cha tôi hơn bất kỳ ai. Tôi tự hào được là con trai của người. Vào năm 1934, ông có cơ hội để giữ 4kg vàng cho bản thân mà không bị nguy hiểm gì, nhưng ông đã không làm vậy. Ngay cả cán bộ thanh tra cũng bảo ông khờ khi giao nộp nó. Cha tôi là người nghiêm khắc nhưng công bằng. Ông là một người CỘNG SẢN. Tôi nhớ mang máng rằng trong thời điểm đó, những đảng viên làm việc ở mỏ tự đề ra mức lương của họ – không quá 40 rúp một tháng. Mẹ tôi có phần không hài lòng với cha, bởi những người thợ mỏ không-đảng có thu nhập hơn gấp đôi và như vậy đời sống khá hơn. Nhưng cha tôi luôn thuyết phục mẹ rằng ông đã làm đúng. Nếu hỏi rằng cha có yêu tôi không? Tôi nghĩ là có. Nhưng ông cố giấu tình cảm của mình với con cái: “Nếu bố nghe ai đó bảo rằng con nói tục, bố sẽ đánh đòn con một trận nên thân”.



Rồi đến một ngày, cha tìm cho tôi được một công việc ở mỏ, đó là việc điều khiển ngựa kéo thùng trong hầm mỏ. Nhiệm vụ của tôi là làm sao cho con ngựa đi. Có một số lệnh mà các thợ mỏ thường dùng. Tôi dễ dàng học chúng và bắt đầu kiếm cơm.



Lúc đó tôi mười tuổi. Hôm ấy trời nóng. Con vật bướng bỉnh cứ dùng dằng, rồi bị lũ mòng chích. Ngựa là một loài vật thông minh. “Ồ, cu kia chỉ là một thằng nhóc, ta sẽ cho cu thấy”. Tôi sẽ đánh xe kiểu nào nếu chỉ ra lệnh cho con vật bằng giọng một cậu nhóc? Tôi không ngu hơn con ngựa của mình: thế là tôi biểu diễn kỹ năng. Tôi cố nói bằng một giọng trầm, bắt chước kiểu của vài tay muzhik, và sử dụng những từ ngữ tục tằng nhất mà tôi biết. Hơ, nó hiệu nghiệm! Con ngựa bắt đầu làm theo lệnh tôi. Tôi vui mừng vì đã có thể làm được như người lớn. Tôi thấy xấu hổ khi phát ra những từ tục tĩu, nhưng tôi phải thế vì lũ ngựa muốn thế. Ngoài ra, tôi hay thấy những người phụ nữ nông dân trước khi leo lên xe ngựa, thường rủa sả hàng tràn với những từ kinh khủng nhất cho số mệnh của họ và cho cả con ngựa nữa!



Tôi làm công việc đánh xe được vài giờ rồi. Mọi thứ đều ổn cả. Tôi tiếp tục quát tháo tục tằng, la khản giọng. Đó là việc phải làm. Rồi tôi cảm thấy có ai nhìn gai gai sau lưng. Tôi quay lại…




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:44:39 am


Đó chính là cha tôi, ông đang đứng và cố dấu nụ cười sau hàm râu rậm đen xì. Tôi sợ quá chừng và ý nghĩ đầu tiên là phải chạy trốn ngay. Rồi tim tôi chùng xuống, tôi cụp mắt mà không dám mở lên. Cha tôi đến bên cạnh, đưa cho nửa lít sữa cùng một ít bánh mỳ, rồi như thể không có việc gì xảy ra, ông bảo tôi vào trong bóng râm để ăn trưa – và trông việc giúp tôi khi tôi ăn.



Tôi ngưỡng mộ nhìn cha tôi làm việc. Chỉ cần sự hiện diện của cha là đủ làm cho con ngựa phải đi. Nó ngước đôi mắt ranh mãnh nhìn cha tôi và như hiểu rằng người đánh xe mới chúa tể của loài ngựa. Rồi con vật quái quỉ này đi mà không cần quát một lời, một câu nào. Mỗi khi nó dừng một chút, cha tôi lại nhẹ nhàng vỗ vào hõm vai nó bằng chiếc bàn tay to lớn của ông.



Tôi luôn muốn đỡ đần cha tôi bằng tất cả khả năng. Tôi không ngại bất kỳ việc gì. Mỗi khi cha hài lòng và khen tôi thì đó là phần thưởng quí giá nhất mà tôi có được. Giờ đây, tôi đã bị lấy mất đi những phần thưởng quí nhất đó. Cha tôi sẽ không bao giờ được biết rằng tôi đã được huy chương “Vì lòng dũng cảm”. Người đã đi rồi. Suvorov cũng đã hi sinh. Còn ai để dõi theo tôi? Ai quan tâm đến tôi? Và ai sẽ mong tôi thành người tốt? Tim tôi đau vì thèm khát một tình yêu.



Ngày 9 tháng Tư năm 1943, chúng tôi xuống tàu ở ga Davydovka và bắt đầu hành quân đến Stary Oskol.



Bấy giờ chúng tôi ở vùng Voronezh. “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả vì chiến thắng”, “Quân phát xít xâm lược phải chết!”. Những khẩu hiệu này xuất hiện ở khắp mọi nơi. Nông dân ở đây trông hốc hác, trên người là quần áo xác xơ và đôi giày cũ nát. Chúng tôi vượt qua ranh giới vùng Voronezh, tiến vào vùng Lipetsk rồi hướng đến Belgorod và Kusk.



Không xa thị trấn Stary Oskol, tại một khu rừng gần làng Tioply Kolodets, trung đoàn bộ binh cận vệ 193 của chúng tôi dừng lại nghỉ ngơi. Tại đây, đầu tháng 6, chúng tôi được chính thức nhận lá cờ Cận vệ, cả buổi lễ đựơc nguỵ trang cẩn thận. Chính thân tướng Alexander Rodimtsev, tư lệnh Quân đoàn Cận vệ 32 trao cho. Tôi còn nhớ niềm phấn khích của mọi người khi được tận mắt thấy vị tướng nổi danh, Anh hùng Liên Xô từ thời chiến tranh Tây Ban Nha với ngôi sao vàng trên ngực (Đại tướng  Alexander Rodimtsev  được danh hiệu Anh hùng Liên Xô lần đầu vào năm 1937 vì những hoạt động trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, và lần thứ hai vào năm 1945 vì đã phục vụ trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại – ND). Đại tá Cận vệ Ivan Tukhru, trung đoàn phó, quỳ một chân, hôn lên viền cờ. Chúng tôi cũng quỳ xuống để tỏ lòng tôn trọng. Đứng bên vị tướng trứ danh, là đại tá Cận vệ Pavel Bilaonov, trung đoàn trưởng, anh cao hơn một chút, tựa vào nạng.



Chúng tôi được biết sư đoàn 293 của mình được trở thành sư Cận vệ 66 từ hồi ở Stalingrad, và giờ đây chúng tôi sốt ruột để đựơc nhận huy hiệu Cận vệ. Nó gần giống như Huân chương Cờ đỏ, chúng tôi mong có càng sớm càng tốt, để có thể khệnh khạng ra đường. Chỉ cần một đồng đội thấy một tay lính Cận vệ của đơn vị khác có đeo huy hiệu, thì tin tức sẽ có chân nó chạy và chúng tôi sẽ mò ngay đến, tận mắt nhìn cái vật xinh đẹp đó.  Trong tháng Sáu, sau khi nhận được Cờ, cuối cùng thì huy hiệu Cận vệ cũng được gửi đến trung đoàn. Mỗi người được một cái! Hồi đó, lính hiếm khi có được huy chương chứ đừng nói chi đến huân chương. Với rất nhiều lính Cận vệ thì cái huy hiệu đó là thứ đồ trang trí duy nhất trên áo, và thường thì họ cũng chả cần gì khác thêm.





Sau huy hiệu Cận vệ, chúng tôi được nhận huy chương “Phòng thủ Stalingrad”. Lúc ấy, với hai thứ huy chương đó, mọi người trở nên đặc biệt khấn khởi về khả năng chiến thắng và trở về với gia đình! Anh em bắt đầu sơn biểu tượng Cận vệ lên xe tăng, lên pháo, lên xe tải và cả trên thùng xe ngựa hai bánh. Chúng tôi cũng làm những biểu tượng đó bằng đồng thau và khảm lên báng súng trường, súng tiểu liên. Thế nào mà lính tráng có thời gian và tìm ra được vật liệu để làm, đó là bí mật! Vào mùa đông, chúng tôi đeo huy hiệu Cận vệ ra ngoài áo măng tô, như vậy để mọi người có thể biết được chúng tôi là lính Cận vệ! Đoàn viên đoàn TNCS Komsomol có thể đeo thêm huy hiệu đoàn; rốt cuộc là có ấn tượng rằng mỗi người đều có tới vài huy-huân chương, như vậy làm cho anh em tự tin hơn.



Nếu có ai đó phải đi trinh sát, thì người ấy cẩn thận tháo các huy chương, huy hiệu từ áo trong, áo ngoài cùng với toàn bộ giấy tờ và giao nó cho chính trị viên giữ cho đến khi anh ta quay lại. Mọi người nghĩ rằng: chiến tranh đã xảy ra hai năm rồi, nếu không có được chiếc huy chương nào, đặc biệt là sau trận Stalingrad thì thật là xấu hổ. Anh đã làm gì để mà anh không nhận được bất kỳ một huy-huân chương nào? À phải, tất cả chúng tôi, những ai còn sống đều được nhận huy chương “Phòng thủ Stalingrad”. Tôi thì còn có thêm chiếc huy chương “Vì lòng dũng cảm” khi giết tên phát xít đầu tiên. Nhưng có bao nhiêu tên Frizt bị diệt giữa hai lần nhận thưởng đó nhỉ?



Khi còn ở gần Stalingrad, mỗi chúng tôi được cấp cho một chai nửa lít chứa một loại dung dịch cồn lỏng nặng mùi, cái này được dùng trong trường hợp bị nhiễm hơi độc Yperít. Chất lỏng này không thể uống, nhưng nếu dùng để nhóm lửa thì thật hữu dụng. Và rõ là chúng tôi được lệnh không được dùng cho việc ấy. Anh chính trị viên – tôi không nhớ tên anh, nhưng anh thay cho Fatkulla Khismatullin, người đã hy sinh ngay trong trận đánh đầu tiên – thì đặc biệt nghiêm khắc với những trường hợp không tuân theo lệnh này. Nếu anh thấy được ai đó sử dụng sai mục đích, thì người ấy có cơ phải đối diện với toà án binh. Nhưng mệnh lệnh của cái lạnh, cái đói còn ghê hơn, và chúng tôi cứ tiếp tục tìm cách đốt cái chất lỏng đó. Và đến một lần nọ, anh chính trị viên không thể trụ nổi lâu hơn trước cái giá rét, thế là anh chui vào hầm và quyết định sẽ sưởi ấm. Anh rắc một ít cái chất lỏng ấy vào lò, nhưng vì quá vụng về nên cái tay đang cầm chai bị bắt lửa, bùng lên. Theo bản năng, anh giật mạnh tay, làm cho cái chất lỏng ấy tràn ra nhiều thêm, có thể dễ dàng đốt chết anh ta. Sau đó, khi chúng tôi băng bó cho anh chàng bất hạnh này, tôi không thể không điểm một câu chế nhạo “Đừng bao giờ tự phá luật của chính mình!”. Anh ấy không bao giờ tha thứ cho câu châm biếm này của tôi. Nhưng tôi vẫn nghĩ là tôi đúng. Thật không khôn ngoan và không đúng khi cấm những người khác làm điều gì đó, hãy tự đi làm lấy! Và đó là nhiệm vụ của tôi phải nói với anh vì dù gì tôi cũng là bí thư chi bộ của đại đội.



Trong suốt cuộc chiến, tôi có dịp gặp nhiều chính trị viên. Nhìn chung, họ là những vị chỉ huy giỏi và có khả năng sư phạm. Các chính trị viên giữ cho tinh thần binh sỹ được vững vàng và giáo dục họ bằng cách bản thân thị phạm.  Tôi cũng phải lưu ý rằng, với binh sỹ, đặc biệt là với những người giản dị, họ kính trọng người chính trị viên, những người có thể giải thích rõ ràng về mục đích của cuộc chiến, và về tình hình ngoài mặt trận cũng như tình hình thế giới.  Với một người lính, những gì là quan trọng nhất? Đó là được ăn uống tốt, là được biết họ chiến đấu vì cái gì, và tôn trọng cấp chỉ huy. Ngay như bản thân tôi, tôi được giáo dục rằng về nguyên tắc người Cộng sản phải làm gương cho những người chưa vào đảng. Chính vì vậy mà tôi khó chấp nhận một sự thật là có một chính trị viên không xứng đáng với vị trí mà anh ta có được. Bất hạnh thay, tôi gặp phải một anh chính trị viên khác trong đại đội. Tên anh ta là Snesar hay Snesal gì đó, tôi không nhớ đích xác...




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:45:58 am


Một ngày nọ, hắn ta thấy chiếc đồng hồ đeo tay chiến lợi phẩm của tôi. Hắn bảo:



-         “Cho anh đi!”.



Tôi hông có tham lam, nhưng có điều gì đó trong giọng điệu của hắn làm tôi không thích



-         “Thôi, tự tìm lấy từ bọn Nazi khi chiến đấu đi, như tui nè”



-         “Đưa cho anh rồi anh sẽ thưởng cho chú”



-         “Bằng cách nào” tôi ngạc nhiên hỏi lại



-         “Anh sẽ đề nghị thưởng huy chương cho chú”



Tôi nghĩ “Có nên đấm hắn một cú không?”. Nhưng rồi tôi hình dung ra toà án binh, với quan toà và câu kết luận “Án tử hình”. Không, tốt hơn là không đấm hắn, vì mình có thể trả giá đắt hơn cho việc này! Và rồi tôi lớn tiếng:



-         “Mày là một thằng phe phảy bần tiện! Đồ cức đái! Mày đang buôn bán cái gì vậy hả? Tổ quốc sẽ tặng thưởng huy chương cho tao nếu tao xứng đáng chứ không phải là mày”.



Tôi ngạc nhiên là hắn ta im lặng nghe những câu chửi đó và chỉ bảo tôi là “Thằng khùng” cùng với một cái mỉm cười khinh thị. Đó là đoạn trao đổi hay ho mà chúng tôi có với nhau. Tổ quốc tặng thưởng huy chương cho mọi người, nhưng đặc biệt là nếu có người tiến cử!!!



Tôi không thể nói rằng tôi làm mất uy tín những tấm huy chương mà chúng tôi có được ở khu rừng thưa cạnh Stary Oskol, vốn mang lại sức mạnh cho những trận chiến về sau. Tôi chỉ tin rằng trong khi hầu hết các đồng đội cũ của tôi đã phải hy sinh thì tôi, còn sống, là một phần thưởng lớn nhất.



Tại trường quân sự Tashkent tôi là một ca sỹ có hạng “có chất giọng chỉ huy”, giảng viên bảo thế. Tôi không trở thành một sỹ quan chỉ huy, nhưng khá thành công với “sự nghiệp” ca hát. Mọi người đều thích ca bài “Katiusha”, “Tachanka-Rostovchanka”, “Ba chàng lính tăng”, “Hởi pháo thủ, Stalin đã ra lệnh”, “Cuộc chiến thần thánh”. Có một bài hát khác, chúng tôi gọi là “Kalinka”. Giai điệu thì theo một bài hát nổi tiếng còn lời thì chúng tôi tự chế. Nó nói về một người chở nước ở Vologda. Lời bài hát vừa trào phúng, vừa trữ tình, lại vừa hóm hỉnh, dí dỏm. Nó thật là đỉnh. Chúng tôi “phối nhạc” bằng tiếng sáo miệng và nhịp vỗ tay.



Đầu tiên, chúng tôi thường làm cho thính giả (chính yếu là phụ nữ, thiếu nữ, các cụ và các cháu thiếu nhi) nhỏ nước mắt bởi những bài hát đại loại như “Có cô thiếu nữ đáng yêu ở cạnh nhà, có một người vợ quí” hoặc “Bên khung cửa, nàng treo một ngọn đèn”. Và sau khi họ thút thít một chút, chúng tôi trỗi bài “Kalinka” của anh em lên, và thế là họ cười đến tận mang tai. Rồi những thính giả ấy nhanh chóng vung tay về phía chúng tôi, đồng thời kéo khăn che mặt, bẽn lẽn. Những người gan dạ nhất thì bất đầu nhảy múa. Còn chúng tôi thì hát cho đến khi khàn cả giọng. Nhưng họ thì vẫn cứ yêu cầu chúng tôi bản “Kalinka” thêm lần nữa.



-         “Mansur, cậu là nghệ sỹ à” họ hỏi



-         “Không, là thợ mỏ”



Trung đoàn trưởng, Pavel Bilaonov nhớ mặt tôi giữa hàng ngàn chiến sỹ khác chỉ vì cách hát nghịch ngợm của tôi. Anh ấy rất thích bài “Kalinka” đó và thường yêu cầu chúng tôi hát cho anh nghe.



Còn với tôi, thì tôi biết mặt anh từ hồi ở Buzuluk. Khi đó anh là một thượng uý. Anh khá cao, và thân hình trông rất thể thao, tóc rậm, trán cao, đôi lông mày trông như cánh chim ưng. Tất cả đó, cùng với vẻ tự tin, cái nhìn đầy quyền lực, giọng chỉ huy mạnh mẽ và một huân chương Cờ đỏ trên ngực, tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ với lũ tân binh chúng tôi. Anh em để ý ngay đến anh trong số những sỹ quan sư đoàn đến đón chúng tôi khi mọi người vừa xuống tàu. “Anh ấy là ai nhỉ” một tay lính thầm thì, rồi hích khuỷu tay người khác để nhìn. Nhanh chóng sau đó “điện báo lính” trả lời ngay: “Anh ấy là Pavel Bilaonov, trưởng phòng Tác chiến sư đoàn, quê Caucasus, ở Osetia…”. Điều này giải thích cho dáng điệu mạnh mẽ của người kỵ sỹ sôi nổi này. Còn bây giờ thì Đại uý Cận vệ Pavel Bilaonov là trung đoàn trưởng trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 193 của chúng tôi.



Phải nói rằng, tất cả lính tráng đều muốn chiến đấu dưới sự chỉ huy của Chapayev, Budionny, Kotovski hoặc Blukher (những anh hùng của Hồng quân thời Nội chiến – ND). Họ không thích chiến đấu những nơi không có người kiểu Chapayev! Dĩ nhiên, nếu nghiêm khắc mà nói thì chỉ huy là ai cũng không có vấn đề gì: đơn giản, người lính được đòi hỏi tuân thủ các điều lệ của  quân đội, chỉ vậy! Nhưng bên cạnh các điều lệ, binh lính muốn yêu mến cấp chỉ huy của họ. Tình cảm đó khó nói rõ hoặc kể ra, nhưng nó sẽ giúp cho lính tráng chịu đựng được những điều kiện khó khăn ngoài chiến tuyến.



Và như vậy, dù chúng tôi có thích hay không, thì dáng điệu, giọng nói, sức hấp dẫn, tất cả đều quan trọng với người chỉ huy. Và nếu vị chỉ huy của bạn không chỉ bảnh trai mà còn can đảm, cương quyết trong chiến đấu thì lính tráng sẽ theo anh ta vào cả địa ngục ghê gớm nhất. Những tay lính Stalingrad cựu chúng tôi thường kể cho lính mới về trận công kích Năm ngọn đồi, tại thời khắc nguy cấp nhất, Bilaonov xuất hiện bất ngờ và ngăn các tiểu đoàn rút chạy. Chúng tôi xem như trung đoàn là của Bilaonov, một cách đầy tự hào, và tự gọi mình là “Lính Bilaonov”. Anh có hai cấp phó, đó là Đại uý Cận vệ Vladimir Yegorov – kiêm chính uỷ trung đoàn, và Đại uý Cận vệ Ivan Tukhru, quốc tịch Estonia. Bấy giờ, trung đoàn chúng tôi được lãnh đạo bởi ba đại uý Cận vệ.




Cuối tháng Sáu năm 1943, cách bảy mươi kilomét về hướng đông bắc của chúng tôi là làng Prokhorovka. Trời rất nóng. Không một bóng mây trên trời, không một giọt mưa. Không khí đông đặc và khô khốc. Cả ngày đằng đẳng trung đoàn chúng tôi để hết tâm trí vào huấn luyện chiến thuật. Bấy giờ tôi là khẩu đổi trưởng khẩu đội cối chính số một và là phụ tá trung đội trưởng. Chúng tôi huấn luyện tân binh, chia sẽ những kinh nghiệm ở Stalingrad, đồng thời học những thứ mà chúng tôi không có đủ thời gian ở trường Quân sự Tashkent.



Chúng tôi học biết những cơ phận chính của các loại tăng Tiger, Panther, Ferdinand và những loại tăng, pháo tự hành khác của phe địch. Cánh pháo thủ nhận những vũ khí chống tăng mới. Chúng tôi cũng làm quen với loại pháo tự hành 152mm (Su-152 ND). Lính bộ binh thì có đủ vũ khí chống tăng đáng tin cậy: lựu đạn chống tăng cùng vô số chai Molotov cocktail.



Chúng tôi không để phí thời gian. Hằng ngày những chiếc tăng T-34 giúp chúng tôi thực hành. Mọi người học cách ném chai cháy và những quả lựu-đạn-đập (percussion grenades ???) nặng nề. Những trái thủ pháo như vậy nổ trong tay bạn nếu bạn vô tình đập nó vào vách hào khi ném. Nhưng nếu ném trúng chiếc tăng, thì sức nổ của nó có thể làm chiếc tăng chết dí. Cánh cựu binh chúng tôi cũng giảng giải cho hội lính mới những điểm yếu riêng biệt của từng loại tăng Tiger, Panther, Ferdinand v.v.. Nên hành động theo từng cặp. Hãy để tăng địch chạy qua mặt, vượt qua hào của bạn, khi ấy, một người bắn yểm trợ, còn người kia ném thủ pháo hoặc chai cháy. Vì những bài huấn luyện chuyên sâu liên quan đến tăng, nên chúng tôi tin rằng mình sẽ sớm tham gia vào những trận chiến ác liệt giữa các lực lượng tăng –thiết giáp.



Rồi một ngày, sau khi rời vị trí bắn, chúng tôi bắt đầu đào hào. Cuối cùng thì trời cũng đổ một cơn mưa to, nhưng anh em vẫn cặm cụi cho đến tận tối. Chúng tôi đã thực hiện các bài huấn luyện rất nghiêm túc! Nhưng cũng còn đủ sức làm một cái hầm có một lớp đất dày trên nóc. Nó thật sự là một chỗ trú tiện lợi, đẹp và khô ráo. Khi xe nhà bếp đến, mọi người có một bữa ăn ngon lành. Trời vẫn tiếp tục mưa to. Anh em chuẩn bị ngủ. Người được phân công trực cũng đã lên chốt gác. Và như thường lệ, trước khi nằm xuống, tôi kiểm tra lại cái mascot may mắn của mình: nhưng túi quần tôi trống trơn.



Đầu tiên thì tôi ngồi vật xuống, hoàn toàn sững sờ. Sau đó tôi bắt đầu nghĩ lại. Chắc mình nên tìm lại nó? Nhưng ở đâu? Trên mặt đất ẩm ướt và bị khuấy tung bởi hàng tá dấu giày nhà binh? Trên đồng cỏ mọc cao, trong cơn mưa trút nước và trời tối đen? Hay trên cánh đồng trống trải giữa hàng đống đất đá nằm quanh các chiến hào? Tình thế trông như vô vọng. Tôi đã làm mất lá bùa may mắn của mình! Có nghĩa rằng tôi sẽ bị giết. Đầu óc của con người mới bí ẩn làm sao! Tôi ngồi đó, trong căn hầm và cố tự nhủ mình nhiều lần rằng chết bây giờ thì cũng không tệ như hồi mới bắt đầu, trước khi tôi hạ được tên Phát xít đầu tiên. Và cũng kể từ đó mình đã kết liễu bọn chúng khá nhiều rồi! Nhưng tôi muốn sống biết bao. Đặt biệt là còn sống sót sau trận Stalingrad. Và dừơng như chiến tranh đã gần kết thúc rồi…



Tôi cố tự thuyết phục rằng cái nỗi sợ đẫm chất mê tín đó là vô lý. Rằng dù gì cái mascot đó chỉ là một cái thứ đồ mà mình tự hư cấu ra thôi mà. Có mối liên hệ thực thụ nào giữa cái vật bé tý đó với cuộc sống của mình đâu nhỉ? Tại sao mình lại đặt niềm tin vào nó? Nhưng có một sức mạnh vô hình nào đó ra lệnh cho tôi: “Hãy đi tìm nó đi!”. Trời đột nhiên tạnh mưa. Tôi bò ra khỏi hầm. Nhưng tôi thật sự không có hi vọng tìm thấy được cái mascot của mình.



Đất sét ẩm ướt khắp mọi nơi với vô vàn vết giày lõm bõm nước trong đó. Tôi thấy một dấu chân bự chảng. Ắt là của Ivan Konski hoặc Sergei Lopunov đây. Hai tay đó có chân như chân voi. Rồi tôi đột nhiên trông thấy một thứ gì đó giống như một cái que mảnh, một cái ngòi trong cái vết gót chân. Tôi cúi xuống, lôi nó ra, và thấy đó là một cái đót  mảnh có lỗ. Tôi dí đèn vào gần hơn và ngửi nó. Có mùi nicotin. Tay tôi run rẩy! Cố vượt qua cái niềm vui hoang dại dâng tràn trong tim, tôi cẩn thận mò tìm kỹ hơn trong vết chân, và nhặt ra được ba mẩu nữa. Vâng, đúng vậy, đó chính là cái đót thuốt lá của tôi, nó bị đạp và vỡ thành 4 mảnh. Cái mascot của tôi!



Quay trở lại hầm, tôi lấy một đoạn dây, buộc chặt bốn mẩu đó lại với nhau. Rồi giấu nó vào trong túi quần, khâu kỹ lại. Sau sự căng thẳng và sợ hãi quá mức do cái mascot bị tạm thời thất lạc, tôi thấy buồn ngủ và lăn ra ngủ ngay. Trong mơ, tôi thấy mình nằm chết, tay chân duỗi thẳng ra. Tôi giật mình tỉnh giấc. Mọi người trong hầm vẫn còn ngủ ngon. Không ai thấy gì. “Mình có lẽ sẽ bị thương nặng đây” tôi nghĩ.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:46:55 am


Chương 8: Chiếc Tiger của Kostia



 



Trước khi trận Kursk diễn ra, sư đoàn Bộ Binh Cận vệ số 66 của bọn tôi (nằm trong  Quân đoàn Bộ Binh Cận vệ số 32, thuộc Tập đoàn quân Cận vệ số 5, Phương diện quân Steppe) đóng ở tuyến hai, cách chừng 70km về hướng Bắc làng Prokhorovka. Nhưng khi bọn Đức chọc thủng tuyến phòng ngự quân ta, ném các đơn vị đóng phía trước ra đằng sau, thì chúng tôi triển khai chiến đấu ngay rạng sáng ngày 12 tháng 07 năm 1943.



Cho đến giờ, tôi chưa từng thấy nhiều đại bác như thế. Chỉ huy của các đơn vị pháo binh với nhiều cỡ nòng, đã phải rất khó khăn để tìm vị trí đặt bắn mà không ảnh hưởng đến các quân bạn đóng cạnh. Không có đủ không gian cho cánh pháo binh trên chiến trường!



Tiếng gầm của đại bác liên tục xuống cả ngày, không ngớt. Anh em bộ binh chúng tôi – chìm trong đám khói đen kịt, người phủ đầy bồ hóng – trông như những tay thợ đốt lò cần mẫn. Chỉ còn mỗi màu trắng ở nơi răng và trên mắt. Chúng tôi tiến lên bằng những bước chạy mạnh mẽ, giữa những chiếc tăng cháy, giữa những quả đạn đại bác nổ tung và giữa ánh lửa của các loại vũ khí tầm ngắn. Mọi chiến sỹ, người đẫm mồ hôi, làm nhiệm vụ của mình một cách có hệ thống, như thể đang làm việc trong một công xưởng khổng lồ; quên đi nỗi sợ hãi và phó thác mọi hi vọng của mình cho thần may mắn. “Mình sẽ bị giết hay không?”. Trong cuộc chém giết này, anh không thể làm gì để tự cứu mình cả, mọi cánh tay chỉ biết làm những gì cần thiết một cách tự động.



Bị đẩy lùi, quân Đức bắt đầu tổ chức một đợt tấn công dữ dội khác, và một lần nữa không thành công. Cứ như thế, trong một ngày không biết bao nhiêu lần hai bên lao vào nhau? Ai sẽ thắng? Đây là một trường hợp sức chọi sức, tài chọn tài.



Sức nóng của trận đánh có thể minh hoạ bởi một hiện tượng là dọc theo chiến tuyến  mây tụ lại và đổ thành mưa. Những đám mây xám xịt cũng cong vòng theo hình dáng của giới tuyến, trong khi phía sau chúng tôi (và cả bên quân Đức cũng vậy), trời hoàn toàn trong xanh. Tôi không bao giờ được nhìn thấy một cảnh tượng như vậy lần nữa! Đó là hoả ngục và hơi nóng bốc lên cả ngày lẫn đêm.



Cả ngày dài diễn những trận không chiến của hai bên. Hàng loạt mảnh vụn và đạn. Cảnh đã quen thuộc, nhưng hãy coi chừng, bạn có thể bị giết bởi một chiếc máy bay rơi! Những tay phi công nhảy dù ra ở nơi này, nơi kia. Mọi người phải cẩn thận để không nhầm phi công ta với bọn giặc lái Đức. Chúng tôi thường thấy những phi công nhảy dù tiếp tục chiến đấu với địch bằng những khẩu súng ngắn. Mọi người muốn giúp đồng đội, nhưng bằng cách nào bây giờ? Giá mà những chiếc dù phe ta có vẽ ngôi sao hoặc làm bằng một loại vải có màu riêng biệt.



Ở mặt trận, tôi hiếm có cơ hội để vẽ, thật khó mà làm điều này khi đang chiến đấu! Thế mà khi chiến đấu gần Prokhorovka, tôi đã xoay sở để làm được một bức poster: những khẩu pháo chậm chạm nghiền nát tăng Đức, ngăn không cho chúng lẻn vào phòng tuyến quân ta. Ngày 12 tháng 7, trong một cuộc chạm trán, trung đội Leonid Nochovny diệt được năm chiếc tăng Tiger. Mọi người không nên có ý niệm sai lầm là đại bác chỉ bắn từ những nơi được bảo vệ và ở phía sau hoả tuyến. Không. Trong rất nhiều trường hợp, nếu không phải pháo cỡ từ 152mm đổ lên, nó thường được đưa lên cùng tuyến với cánh bộ binh, dù rằng chúng tôi thường phải thay đổi vị trí và để cánh pháo binh lại một mình đối mặt với quân phát xít. Khi thấy bức vẽ của tôi, một anh lính giật lấy trong một cơn loạn trí “Làm sao nó có thể vẽ ở đây nhỉ?”. Anh ta nói lảm nhảm, rồi cười như một người điên. Chẳng qua là người lính ấy không thể chấp nhận được bằng cách nào mà một người có thể vẽ trong một cảnh như vậy, giữa những đống thây người, xe tăng và đại bác bị hạ gục.



Để chống lại tăng địch tốt hơn, quân ta làm những gói đặc biệt trong đó gồm 02 quả thủ pháo và một chai cocktail Molotov (thứ mà anh em gọi là “chai Sâmpanh-để-ói”). Những gói như vậy phải đựơc ném từ khoảng cách không dưới 50 mét, vì sức nổ của nó quá mạnh và có thể làm bạn bị thương. Có không nhiều anh em trong đại đội đủ sức khoẻ để làm việc đó: Sergei Lapunov, Vasili Shamrai, Matvei Yershov, Aleksei Yanson và vài cậu khác. Còn những tay lính gầy gò như Kostia Martynov hay Piort Shkolnokov thì phải bằng lòng với việc sản xuất ra những cái gói đó, bằng những sợi dây điện thoại cứng cáp thu được. Nhưng người đồng đội của chúng tôi, Kostia lại muốn chính tay mình tiêu diệt một chiếc Tiger. Đã vài lần, anh đào một đoạn hào dự bị chỉ cách khu phân tuyến chừng 30, 40 mét, anh dự kiến từ đó có thể ném cái gói nặng nề của mình vào được dưới xích xe tăng địch. Rồi một ngày anh có cơ hội …





Quân Đức quyết định cố đánh chiếm một vị trí được gọi là “cao điểm khống chế” của chúng tôi (dù rằng nó thật sự không quan trọng với quân ta). Chúng đưa tăng lên tấn công cùng với 100 bộ binh tùng thiết trang bị tiểu liên. Một chiếc tăng trong số đó nhanh chóng lăn đến hướng trực diện với đoạn hào dự bị của Kostia, anh ấy chộp lấy cái gói thủ pháo và cố hụp người thật thấp trong hầm. Vasili Shamrai tách bọn bộ binh ra khỏi chiếc tăng bằng cách nổ vài loạt dài từ khẩu trung liên làm chúng phải nhảy đi tìm chỗ nấp. Trong khi đó, chiếc Tiger của Kostia tiến đến gần hơn, rồi dừng lại, chuẩn bị huỷ diệt các vị trí của quân ta bằng pháo trên xe. Thấy như vậy, Shamrai hụp sâu vào vị trí trú ẩn. Đúng lúc đó, chúng tôi thấy Kostia nhảy khỏi chiến hào và ném cái gói chất nổ ngay dưới vành xích của chiếc tăng. Trông như Kostia có đủ thời gian để nhảy về chỗ nấp trước khi nó nổ. Rồi một phát nổ cực lớn, inh tai vang lên. Chiếc Tiger mất một bên xích, quay tròn, cố tiến lên. Nhưng chỉ còn một bên xích nên nó quay ngang và đổ nghiêng một bên. Anh em mang thêm lên một ít chai “Sâm-panh” và chiếc Tiger nhanh chóng chìm trong lửa.



Cuối cùng thì chúng tôi cũng bẻ gãy được cuộc tấn công của quân Đức. Hai chiếc tăng Tiger và chừng 50 lính phát xít bị tiêu diệt. Quân ta thì có 10 người hi sinh trong đó có Kostia và 20 bị thương. Anh em tìm thấy Kostia nằm đó với máu trào ra từ hai tai còn con ngươi thì gần như rơi ra khỏi hốc mắt. Kostia sinh năm 1925 ở quận Miasski vùng Cheliabinsk. Sau đó anh được truy tặng huân chương Cờ đỏ.



Vào một buổi sáng, tôi cùng các bí thư chi bộ trong tiểu đoàn duyệt qua lực lượng tăng viện. Tôi thấy một hàng những gương mặt tái nhợt như ma, bị sốc trước cảnh tượng của hàng đàn tăng cháy cùng những đống xác người ngang dọc (cả với cái mùi kinh khủng từ đó nữa). Những tay tân binh của chúng tôi, cứ như những người câm điếc, không trả lời nổi những câu hỏi của anh em, chỉ biết lặng im với cái vẻ thảm sầu.



Thế này thì tiểu đoàn tấn công cái nỗi gì? Và nếu chúng tôi đưa đám này tiến lên cùng thì trông mong gì được ở cái đám lính đánh cận chiến trong lúc họ hoàn toàn mất tinh thần?



Vì không thể nghĩ ra cách để làm cánh tân binh hết sốc, chúng tôi phải báo cáo lại tình trạng này cho đại uý Cận vệ Feodor Gridasov, tiểu đoàn trưởng. Cần phải làm gì đó ngay vì bọn Frizt có thể tấn công bất cứ lúc nào. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh: “Mang ngựa lại đây”. Anh ấy luôn giữ con ngựa của mình gần bên. Và nó được dẫn tới ngay. Sự việc diễn ra sau đó thì thật tình chúng tôi không tưởng tượng nổi! Trong vòng 15 phút, đại uý của chúng tôi ngồi trên yên và liều lĩnh thúc ngựa ra khu phân tuyến! Ở đó, với dáng vẻ cả quyết, anh phi nước đại trở lại, hoàn toàn lộ liễu ngay dưới mũi quân địch. Chúng tôi nghĩ là bên chiến hào quân Đức sẽ rộ lên tiếng súng máy, nhưng thay vào đó, chúng tôi kinh ngạc khi nghe tiếng hô vang “B-r-r-r-a-vo!”. Tôi quay nhìn vào đám tân binh. Họ đột nhiên quên cả hết những nỗi sợ hãi, hét vang để ủng hộ tiểu đoàn trưởng như thể những fan bóng đá trong trận chung kết Cúp. Trong khi đó, đại uý của chúng tôi do bản năng, đã cảm thấy rằng màn xiếc này nên kết thúc ngay nên lập tức biến mất khỏi “sân khấu”. Lúc ấy thì bọn Đức, cuối cùng cũng khai hoả, nhưng chậm mất rồi...



Thật vô lý phải không? Nhưng còn các nào khác để lập tức đưa 100 con người ra khỏi tình trạng bị sốc tệ hại ngay trước trận đánh? Làm một bài diễn thuyết lâm ly ư? Nó chả giúp gì được!



Và như vậy là anh em lính tráng đã lấy lại tinh thần. Họ thấy xấu hổ khi nhìn vị chỉ huy của mình thể hiện rằng anh không chút nào sợ hãi. Nhanh chóng, tiểu đoàn chúng tôi phản công quân địch, thắng lợi, tiến lên, sau cùng đã khôi phục được tuyến phòng thủ hồi 06 tháng 7 của các đơn vị tiền tiêu.



Khi chúng tôi vừa mới bắt đầu chuẩn bị cho các vị trí mới thì quân Nazi bắn đại bác hạng nặng đến, dấu hiệu cho thấy một cuộc tấn công khác. Vì không có thời gian để đào hào cho mình, tôi phóng đến một chiếc tăng Đức bị cháy. Khi đang bò dưới đó, tôi trông thấy một người lính Nga nằm bất động. Anh ấy vẫn còn mang giày và chân không bị tổn hại gì. Tôi bò tới, nghĩ rằng nếu anh ấy đã chết thì thi thể ắt phải trương lên trong các thời tiết nóng này. Tôi chạm vào chân anh và kéo nhẹ. Không có nhúc nhích. Sau cùng, tôi trườn lên phía đầu anh và sửng sốt trước một cảnh tượng kinh tởm: một bầy giòi trắng như trứng kiến hay gạo! Mặc cho tiếng nổ của đại bác quanh chiếc tăng, tôi để ý thấy ngực anh ta còn nhô lên hụp xuống. Ghé tai vào chiếc áo choàng của anh, tôi nghe thấy tiếng tim đập. Tôi cẩn thận ghi nhớ vị trí của chiếc tăng.



Khi đêm đến, trận chiến lặng đi. Chúng tôi đã đẩy lùi được cuộc phản công và giữ vững đựơc trận địa. Tôi làm lại đến chỗ chiếc tăng đó. Anh em cứu thương mang cáng đến và kéo anh lính kia ra, mang về trạm phẫu. Anh tên là Feodor Ignatov. Tôi chính mắt đọc thấy trên thẻ quân nhân. Anh ấy còn sống không? Anh ấy sống ở đâu? Tôi đã cứu anh. Dĩ nhiên là tình cờ. Tôi cũng phải nhắc rằng cái “xác tươi” ấy đã nằm đó, ở vùng đất trong tay bọn Đức tới 5 ngày. Tôi không biết người đàn ông phi thường ấy có thể sống thêm bao nhiêu giờ nữa. Sức mạnh siêu nhiên nào đã giúp anh tồn tại trong suốt năm này mà không có một giọt nước, một sự trợ giúp nào?



Hôm sau, anh em được biết là Feodor Ignatov đã tỉnh lại. Anh nói với bác sỹ rằng anh bị thương vào đầu trong ngày 06 tháng 7, khi tiểu đoàn anh rút lui. Trong giây phút ngắn ngủi, anh cảm giác và tin rằng mình đang bị quân địch bao vây. Anh thấy chiếc tăng – bị bắn cháy trước đó – và để ý rằng lửa đã gần tắt, nên anh quyết định bò vào dưới đó. Sau đó anh chẳng nhớ gì nữa. Tôi rất vui mừng khi biết anh còn sống, tôi những muốn đến trạm phẫu để chúc mừng anh được cứu sống một cách kỳ diệu, nhưng không thể...




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:49:32 am


Giữa tháng 07 năm 1943, sáng sớm, chúng tôi nhìn ra, phía bên quân Đức có cái gì đó lạ lùng, kỳ bí. Cả cánh đồng được che phủ bởi hàng đống lớn các bó lúa mỳ! Chúng tôi đang cố tưởng tượng xem bọn Phát xít muốn cái gì khi gặt lúa cả đêm rồi sắp lại như vây, thì pháo của chúng bắt đầu nhả đạn vào khu phân tuyến. Những quả đại bác nổ tung trước khi chạm đất, tung ra một làn khói trắng dày. Chúng tôi hoảng sợ và nghĩ đến một trận tấn công bằng hơi độc. Gió đưa làn khói đó dọc theo tuyến quân ta, nhưng gió có thể đổi hướng bất kỳ lúc nào! Mà chúng tôi lại vứt bỏ mặt nạ phòng độc từ lâu rồi (nhiều tay chỉ giữ lại cái túi để chứa băng đạn và thủ pháo). Chúng tôi phải làm gì bây giờ? Tôi có thể tìm được mặt nạ phòng độc ở đâu? Ôi, mình đã thật ngốc khi vứt nó!



Anh em ngồi đó, nhìn thẳng ra phía trước. Đạn pháo rơi nhiều hơn – bang! bang ! – và khói cũng dày thêm. Thật sự là chúng tôi không thể nhìn thấy gì nữa. Bọn Frizt sẽ làm gì? Chỉ có tiếng gầm của động cơ báo cho mọi người biết rằng xe tăng quân Đức đang tiến lên, ẩn sau màn khói. Được, thánh Allah đã nghe thấy lời cầu nguyện, dù gì thì xe tăng cũng tốt hơn là hơi độc! Khi màn khói nhấc lên được chút ít, chúng tôi có thể thấy những bó lúa mỳ kỳ dị kia biến thành những chiếc tăng! Một chiếc khai hoả, ngay lúc nó lăn quá chiến hào của bọn tôi, làm điếc tai mọi người. Tai anh em đau khủng khiếp. Chúng tôi ngã chồng lên nhau bởi sóng âm làm choáng váng. Chiếc tăng đi tiếp và theo sau là vài chiếc khác. Vệt xích của chúng làm sụp lở các mép hào. Khi chúng tôi xoay sở để thoát ra được đống đất cát rơi xuống, mọi người chộp lấy thủ pháo và chai cháy, chạy đi làm phận sự của mình. Tiêu diệt những chiếc tăng! Thỉnh thoảng, tôi cảm thấy tai mình phần nào bớt ù và thật vui sướng khi nghe được lần nữa tiếng gầm khủng khiếp của những cỗ máy. 



Nhiều anh em suýt gục khi nghe thấy mùi khủng khiếp từ những chíêc tăng cháy (cùng với tổ lái của chúng còn kẹt bên trong). Giữa cái địa ngục đầy tiếng đạn nổ và xác xe thiết giáp, chúng tôi không thể nói ai là người chiến thắng. Một người lính bên ta xô vào chiến hào. Anh bị mất thị lực, hét lên trong hoảng loạn:



-         “Đừng bỏ tôi lại ở đây! Hoặc bắn tôi đi!”.



Để làm anh dịu lại, tôi hét to vào tai:



-         ”Bình tĩnh nào!”.



Anh chộp lấy ống tay áo blu của tôi và nói:



-         “Tôi nhận ra giọng anh! Anh là bí thư chi bộ! Đúng không?”.



-         “Ừ, bình tĩnh, anh em không để đồng đội lại phía sau đâu, chúng tôi hứa chắc sẽ đem cậu đi cùng! Hãy bình tĩnh để anh em chiến đấu!”



Anh dịu xuống, tôi giúp anh vào một hố nấp, anh ngồi xuống và nhấp một ngụm nước trong bi đông của tôi.



-         “Bên nào thắng? “ anh hỏi



-         “Hiện giờ là quân ta” tôi trả lời một cách quả quyết



Anh để tôi đi và ngồi lại đó: yên lặng, băn khoăn. Ngay khi tôi vừa rời đi chút xíu, một chiếc tăng bị trượt một bên xích vào chiến hào, đáy xe tựa vào gờ. Tiếng máy gào lên dữ dội, nhưng chiếc xe bị kẹt cứng. Khi ấy, Boris Polyga xuất hiện từ đâu đó, thảy một chai cháy vào phía sau nó. Một ngọn lửa bùng lên và sau đó lặn sâu vào trong, biến mất.



Về chiều, chiến trường đột nhiên yên lặng. Anh em bắt đầu mò ra khỏi chiến hào – dù vẫn còn nguy hiểm – và nhìn xem kết quả của trận đánh. Khi đêm vừa đến, xuất hiện vài sỹ quan ở chiến hào chúng tôi. Họ mang theo camera, râu ria nhẳn nhụi, thoang thoảng mùi nước hoa và những chiếc áo choàng mới tinh với thắt lưng rộng bản, trên đó lủng lẳng bao súng cùng những khẩu súng ngắn lóng lánh. Những chiếc mũ trận mới tinh trên đầu. Họ đi bộ đến chiến hào, lom khom một cách nhút nhát. Một người trong số đó hỏi chung chung anh em với một thái độ uy quyền:



-         “Ai chỉ huy ở đây?”



Anh em liếc nhìn tôi: nên trả lời họ không? Tôi nhè nhẹ lắc đầu: không! Lúc đó Boris Polyga trả lời:



-         “Bí mật quân sự!”



Cùng với tràng cười rộ của anh em, những người khách rút đi.



Ba mươi năm sau chiến tranh, trong cuộc gặp đầu tiên của anh em cựu chiến binh tại Poltava (sư đoàn chúng tôi được mang tên thành phố này), bạn tôi, Nikolai Korsunov – sĩ quan quản trị trung đoàn – nói rằng sau cuộc chiến ở vòng cung Kursk, chỉ huy sư đoàn đã nhận được một danh sách những người xứng đáng để đề cử tặng thưởng danh hiệu “Anh hùng Liên Xô”. Tên tôi có trong danh sách đó, nhưng ông ta đã không ký vào vì tên ông ta không được nhắc đến.




Lực lượng tăng viện tiếp tục đến từ những vùng nội địa phía trong đất nước. Tôi tìm những người đồng hương. Chúng tôi hỏi chuyện hậu phương. Và trả lời những câu hỏi về bọn Phát xít. Dĩ nhiên, bọn Đức thì không còn như xưa. Chúng chiếm phân nửa châu Âu chỉ với một cú đánh – trong một năm và mười tháng – mà không gặp nhiều khó khăn. Nay thì lại là một câu chuyện khó nhằn: trong hai năm trở lại đây, chúng buộc phải bước vào các trận chiến đẫm máu nối tiếp nhau.



Một cậu dân gốc Krasnoyarsk, ở Siberi, tên Aleksei Yanson, gia nhập vào đại đội cối chúng tôi. Cậu ta trông như một lực sỹ cử tạ hoặc một đô vật. Hoặc giả cậu ấy là một thợ mỏ? Là gì đi nữa thì cậu ấy cũng giống như một chàng khổng lồ trong truyện cổ tích! Và trông như cậu được giáo dục tử tế. Có chúa biết được thế nào! Chúng tôi sẽ tìm hiểu sau. Trong khi ấy, tôi giao cho cậu ta những thứ trang bị của tôi! Cậu rất khoẻ: tôi chắc là cậu ấy có thể mang cả khẩu cối một mình, thay cho cả ba người!



Tôi muốn nói vài lời về Boris Polyga. Cậu ấy đến với đại đội hồi tháng 7. Tôi ngờ rằng có chuyện gì đó không đúng: cậu ấy trông quá trẻ, dù ngày sinh được khai là năm 1925. Tôi không tin. Cậu ấy giấu giếm điều gì đó. Thế nào mà 18 tuổi nếu bé tý thế kia? Và chúng tôi không thể dùng cậu ta như một lính cối được. Có thể dùng cậu ấy vào việc gì nhỉ? Tôi đề nghị là dùng làm giao liên, để liên lạc với các đài quan sát. Trung uý Stukack, đại đội trưởng đồng ý, còn Boris thì rất vui.



Tôi là một kẻ rất tò mò và cũng là một người rất yêu thích các cuộc đối thoại ngay thật, mặt đối mặt, cho dù chỉ với một cậu bé. Tôi thường có những mối quan hệ thân tình với tất cả anh em lính mới. Thật dễ để có được sự tin tưởng của những người mới. Anh em kể tôi nghe những điều mà họ cũng không thể tưởng tượng là sẽ nói với cả những người trong gia đình! Tại sao vậy? Bởi tôi tôn trọng chuyện riêng tư của họ và có thể giữ miệng. Boris Polyga kể với tôi rằng bố cậu là một vị tướng, hiệu trưởng một trường quân sự. Tôi không nhớ nơi trường đó được sơ tán đến, nhưng trước chiến tranh nó ở Leningrad. Từ nhỏ, Boris lớn lên cùng với các học sinh sỹ quan của bố cậu. Và khi trưởng thành, cậu quýêt định sẽ tự trở thành một người lính, cậu vào một trường quân sự ở một nơi khác. Nhưng cậu bị nhận biết ngay là “con trai vị tướng” và mọi người gợi ý cho bố cậu tìm cho cậu một nơi dễ chịu  như tuỳ viên các tướng hay những thứ đại loại như vậy. Rồi, vờ như sẽ về thăm bố mẹ, Boris lấy một tuần phép, nhảy lên tàu quân sự, vào mò ra mặt trận. Bây giờ thì cậu ấy lo lắng là sẽ bị xem như một kẻ đào ngũ hoặc bỏ đơn vị không phép. Boris ở trong một tình trạng khó, tôi không thể làm gì cho cậu. Nhưng cũng không thể để cậu ta bị gọi là một kẻ đào ngũ hoặc bỏ đơn vị không xin phép. Tôi cảm thấy không có tội lỗi gì ở đây cả, tôi khuyên Boris viết thư cho lãnh đạo trường, Nhưng Boris chưa viết và tôi cũng chẳng bao giờ nhắc cậu ấy.



Trong các trận đánh sau đó, Đoàn viên Komsomol Polyga đã làm công tác giao liên và thực thi các nhiệm vụ khác một cách rất cần cù. Tôi đã hứa không kể cho bất kỳ ai về vị tướng bố cậu ấy và việc Boris đã trốn khỏi trường quân sự. Cậu thích thú ở trong môi trường đại đội chúng tôi. Và dường như trưởng thành hơn. Boris cũng thú nhận với tôi rằng đã khai man thêm hai tuổi, năm sinh thật là 1927. Điều này giải thích vì sao cậu ý trông khá thấp bé, Boris chỉ mới 16 tuổi.


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:50:27 am


Sau một loạt các trận đánh ác liệt, quân Đức rút lui, nhưng chúng bắt đầu đốt phá mọi thứ trên đường. Những ngôi làng, những cánh đồng ngập trong lửa. Địch phá huỷ mọi thứ có thể, chúng thực thi nghiêm túc mệnh lệnh “tiêu thổ”. Chúng tôi hành quân xuyên qua những đám khói dày đặc không ngớt. Quân ta giải phóng được hai làng lớn, Tamarovka và Borisovka, những nhà kho chứa thuốc lá ở đó bị đốt cháy, thế là mọi người đều hưởng khói thuốc cho dù kẻ đó có hút thuốc hay không!



Khi đuổi được bọn Đức ra khỏi làng Tamarovka, chúng tôi tiến hành đào chiến hào để chuẩn bị phòng ngự phản kích. Khẩu đội chúng tôi được lệnh đào trong một cái sân nhà nào đấy. Nhưng đột nhiên, một phụ nữ - chủ nơi đó -  chạy tới chạy lui, khóc như điên và van vỉ:



-         “Đừng đào ở đây! Có mìn đấy! Thật mà”



Nhưng chính chị thì chạy qua chạy lại không ngừng:



-         “Không, không! Đừng đào ở đây”



Điều này trông có chút đáng ngờ và chúng tôi không thể hiểu. Ngay cả đại đội trưởng cũng tò mò:



-         “Việc gì vậy nhỉ?”



Rồi anh quay sang tôi cáu kỉnh nói:



-         “Giải quyết vụ này đi”



Người phụ nữ nhìn thẳng vào mắt tôi, và khi bắt gặp tia nhìn, tôi chợt thấy có ba đứa bé gầy còm phía sau ô cửa sổ. Và đột nhiên, tôi hiểu ra nỗi lo âu của chị. Tôi lùi lại ba bước và bắt đầu đào: chị yên lặng rồi quay vào nhà. Những đứa bé vẫn nhìn chòng chọc nhưng có vẻ yên tâm. Đến đêm, tôi đến gặp chị và hỏi:



-         “Chị giấu cái gì trong sân vậy?”



-         “Mỡ lợn. Chúng tôi giấu bọn Đức từ mùa thu trước. Cảm ơn anh. Tôi biết rằng chính anh cũng đói. Bây giờ thì tôi có thể cứu các con tôi khỏi chết đói rồi”



Tôi không nhớ đích xác, tôi cho rằng ngôi làng đó tên là Dragunsk. Bọn Đức phòng thủ rất chặt chẽ, chúng xây dựng một tuyến phòng ngự nhiều lớp. Để tấn công, chúng tôi tìm cách xâm nhập từng phần, hơn là đánh thọc qua rồi lại tự thấy vướng mình vào một mạng lưới chiến hào phức tạp. Chúng tôi gần sát bọn phát xít đển nỗi thỉnh thoảng mọi người có thể nghe cả những lần chúng hạ giọng nói chuyện với nhau. Lúc này thì những khẩu đại bác vô dụng, chúng tôi phải sử dụng đến cái mà anh em gọi là “pháo bỏ túi”. Đây là một cuộc chiến của lựu đạn. Nhưng ném lựu đạn cũng cần có kỹ năng đáng kể. Nó phải được ném sau hai giây, nếu bạn ném ngay, quân địch sẽ có thời gian để ném trả! Làm thế này này: đầu tiên rút chốt ra, sau hạ cần an toàn (safety switch???) , giữ quả lựu đạn đang rít xì xì trong hai giây, rồi hẵng ném. Lựu đạn nổ sẽ tung mảnh lên đầu quân địch. Nhưng tâm lý phải vững vàng khi hạ cần an toàn và đợi hai giây đó. Đôi khi tôi lo rằng nhỡ mà người công nhân lắp kíp nổ có sai sót thì tiêu tùng mặt mình! Nhưng nó luôn đáng tin cậy. Tôi luôn nhớ về những người ở hậu phương ngày đêm sản xuất ra những quả lựu đạn F1 “quả dứa” với lòng biết ơn chân thành. Họ nhận thức rõ rằng dù chỉ một sai sót nhỏ trong kíp nổ có thể trả giá bằng mạng sống của người chiến sỹ. Trong suốt ngày chiến đấu đầu tiên ở Dragunsk, khi thiếu lựu đạn, chúng tôi phải trục bọn Nazi ra khỏi những tuyến mê cung của chúng bằng xẻng đào hào, bắn thẳng vào chúng bằng súng máy, súng ngắn và cả pháo sáng. Nhưng sau đó thì mọi người đã có đủ lựu đạn.



Bắt đầu từ Prokhorovka, quân đoàn Cận vệ số 32 của chúng tôi liên tục tham chiến với các sư đoàn SS, Totenkopf, Đại Đức và Đế chế của quân Đức. Chúng tôi cũng đụng trận với lực lượng Quân đội Nước Nga tự do của tên phản bội Vlasov. Bọn lính Vlasov biết chúng tận số rồi nên chiến đấu rất liều lĩnh. Chúng tôi không nhận chúng làm tù binh…




Dragunsk vẫn còn chống cự. Tiểu đoàn tôi bây giờ vấp phải một lô cốt súng máy. Nằm ngay trên vùng phân tuyến bằng phẳng, cái lô cốt ngăn chặn mọi cuộc xung phong của bộ binh ta. Và hai bên cánh được quân Đức yểm trợ kỹ lưỡng. Ban đêm, chúng liên tục bắn pháo sáng, không ai có thể bí mật bò lên để chọi lựu đạn vào. Pháo binh ta không giúp gì được bởi sợ bắn nhầm anh em. Còn đạn cối thì không đủ mạnh để diệt cái lô cốt đó. Đại uý cận vệ Ignat Dudko, tiểu đoàn trưởng, cố liều mạng tìm cách giải quyết cái khẩu đại liên đó. Nhưng nó vẫn tiếp tục bắn…



Đến một ngày tôi làm nhiệm vụ ở điểm quan sát với Boris Polyga. Dù không có trách nhiệm, nhưng Boris vẫn nghiên cứu kỹ lưỡng vùng phân tuyến qua ống nhòm. Cái lô cốt chiếm vị trí rất đẹp: không có tý lồi lõm nào quanh đó. Dù cỏ xung quanh bị cắt trụi bởi cối quân ta. Chúng tôi thử dùng một khẩu chống tăng bắn vào đó. Không hiệu quả. Khẩu đại liên vẫn là mối đe doạ chết người.



Rồi tôi nhận thấy Boris biến đâu mất khỏi điểm quan sát. Cùng lúc đó, trung uý Nikolai Korsunov, sỹ quan bí thư của trung đoàn trưởng Bilaonov được lệnh xuống sở chỉ huy tiểu đoàn. Nikolai, một anh chàng dễ mến, trình diện với tiểu đoàn trưởng và họ bắt đầu bàn cách tiêu diệt cái lô cốt. Đột nhiên, có tin báo từ đại đội bộ binh rằng binh nhì Polyga mang theo sáu quả lựu đạn và bò lên từ hướng chiến hào quân Đức. Ngay lúc nghe tin đó, tôi lập tức quay phone cho bên cối, báo họ rằng Boris đang cố cho nổ lô cốt và rằng họ phải kìm chế bắn vào hướng đó.



Tôi sục sạo để tìm Boris qua ống nhòm, nhưng không thấy đâu. Tiểu đoàn trưởng không tán thành sáng kiến của cậu bé dũng cảm: một mình trong sứ mệnh như vậy thì thật là vô vọng và cầm chắc cái chết. Nhưng Boris có kế hoạch riêng. Nhận thấy rằng cái lô cốt có thể tiếp cận được từ phía quân Đức, Boris-nhỏ-xíu của chúng tôi, bò ra khỏi sườn quân địch, bí mật lủi vào phía sau bộ binh quân Đức.



Cuối cùng tôi cũng nhìn thấy cậu ta trong ống nhòm. Vâng, cậu đang trườn lên lô cốt từ phía quân địch! Chỉ huy ra lệnh cho các đại đội sẵn sàng xuất kích, và khi Boris, nhỏm dậy, ném từng quả lựu đạn vào lô cốt, họ xung phong lên vùng phân tuyến. Bọn Đức phản ứng lại sau vài giây, nhưng chừng đó khoảng khắc đủ cứu mạng Boris: anh em bộ binh từ các đại đội hô vang “Hurrah-ah-ah” và thu hút hoả lực quân địch. Cuối cùng thì tiểu đoàn tôi cũng dọn quang con đường phía trước.



Khi tôi chạy lên được chỗ cậu ta, Boris trông vừa có vẻ tự hào, vừa có vẻ như đã làm điều gì sai trái. Cậu vui mừng nhưng mắt đẫm lệ. Cậu đã chắc rằng mình sẽ chết khi hạ cái lô cốt. Nikolai Korsunov và các sỹ quan khác bu quanh Boris nên tôi không có cơ hội nói bất cứ gì. Sau đó, chúng tôi nghe rằng trung đoàn trưởng Bilaonov đã đề nghị tăng huân chương Cờ đỏ cho cậu bé dũng cảm.



Sức mạnh nào đã tạo nên người anh hùng từ người lính trẻ này? Cậu ta không có lấy một cơ hội sống sót sau khi ném quả lựu đạn đầu tiên, rõ ràng là cậu biết. Boris, sau đó có cho tôi xem một lá thư, viết cho cha cậu. Tôi nhớ hai dòng đầu “Chào cha! Con viết cho cha từ tiền tuyến. Hôm nay, con đã tiêu diệt một hoả điểm đại liên, một lô cốt của bọn Hít-le…” Và tôi có thể nhớ lại một câu khác dưới đó: “Bây giờ con không còn xấu hổ nếu có ai đó gọi con là con trai vị tướng”.



Vài hôm sau, Boris Polyga bị thương nặng vào đầu bởi một mảnh đạn pháo và được đưa về hậu phương.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:54:23 am


Chúng tôi tiến vào Dragunsk lúc sáng sớm. Quân Đức đã rút lui trong đêm. Những con phố vắng lặng, với những mẫu rác rưởi và giấy các loại nằm rải quanh. Trông như không còn nguy hiểm. Chúng tôi vui vẻ hành quân vào trung tâm làng.



Lúc ấy máy bay quân ta xuất hiện. Chắc họ sẽ bắt kịp quân Đức đang rút lui và xé chúng ra từng mảnh! Những chiếc “xe tăng bay” của quân ta đảo một vòng ở phía đường chân trời như thể để chọn ra một mục tiêu tốt nhất, rồi quay lại, bổ nhào xuống. Họ điên à? Bây giờ thì tôi chỉ có thể thấy những chiếc cánh và mũi máy bay, hướng thẳng vào tôi. Miễn cưỡng tin rằng không quân ta tấn công quân mình, tôi – trong lúc đó – nhào đại qua một cái cửa sổ của tầng hầm căn nhà gần nhất. Ngay lập tức, tôi nghe những tiếng nổ phía trên đường ngay trên đầu tôi. Đất cát, kiếng vỡ,  vôi vữa và cả nỗi ê chề cay đắng rơi trên đầu tôi…



Tôi tưởng như làn khói sấm sét sẽ không bao giờ ngưng. Và những chiếc phi cơ, sau khi bắn hết số tên lửa họ, lại khai hoả vào chúng tôi bằng súng. Họ xé nát trung đoàn chúng tôi rồi an toàn trở về căn cứ.



Tôi xoay sở để bò ra khỏi chỗ trú ẩn với chút ít khó khăn. Khung cảnh tàn phá toàn diện hiện ra trước mắt. Và đâu đó, như thể từ thế giới khác, những người còn sống hiện ra. Tôi không thể nhận ra ai dù nghe giọng nói rất quen. Nén lại nỗi sợ, chúng tôi thận trọng nhìn quanh, rồi nhìn nhau. Một tân binh – một chàng trai trẻ – gào lên chói lói “Mẹ ơi! Mẹ ở đâu?”. Một y tá mà tôi quen, tiến đến, cặp mắt dài dại nhìn không chớp, tựa vào tôi, thầm thì:



- “Mansur? Anh còn sống thật đấy chứ? Trả lời em đi!”.



Tôi gật đầu. Cô lấy một ít gạc từ túi, xé ra và đưa cho mọi người để lau mặt.



Con phố trông như một con hào bây giờ là một ngôi mộ tập thể, đầy những mảnh xác người, xác ngựa trộn lẫn với xe cộ, súng ống và những thứ tạp nham khác. Tôi cảm thấy có lỗi vì đã có phép màu nào đó cứu mạng tôi, tôi không thể giải thích nỗi điều này! Trong số các sĩ quan, người đầu tiên xuất hiện là thiếu tá Bilaonov, trung đoàn trưởng. Nhìn anh nhợt nhạt như xác chết, tôi ước rằng mặt đất có thể nứt ra và nuốt tôi đi, không biết vì sao mà tôi cảm thấy rằng mình phải chịu trách nhiệm cho cái thảm hoạ này. Bilaonov trông quẫn trí hết sức đến mức mà tôi sợ là anh sẽ tự bắn vào tim mất. Anh nhìn tôi rồi quay đi. Những vị sĩ quan cao cấp đại diện của tập đoàn quân nhanh chóng xuất hiện sau đó. Họ khám nghiệm hiện trường trong yên lặng. Một người trong số đó sủa vào mặt anh thiếu tá của chúng tôi như thể giáo viên khiển trách học sinh:



-         “ Sao anh không giương cờ hiệu của đơn vị cho phi công thấy ?”



-         “Nó kia kìa, chỗ những cây dương nẻ đó …”



Ngại nhìn vào mắt nhau, những sĩ quan đại diện nhanh chóng quay về để báo cáo những gì họ thấy với Zhadov, tư lệnh tập đoàn quân.




Dường như cánh bộ binh của trung đoàn tôi phải chịu số phận bất hạnh là làm mục tiêu cho các loại vũ khí hạng nặng quân ta. Chúng tôi thường bị dính đạn từ phía sau bởi pháo tầm xa và cả Cachiusa nữa. Tôi nhớ có một lần, ở khu vực Stalingrad, tiểu đoàn bị dính Cachiusa. Khi dứt, không một ai hay vũ khí còn tồn tại. Những quả rocket như một trận mưa lửa và sấm sét bay qua đầu chúng tôi, sau chừng một phút, cơn cuồng nộ của núi lửa chấm dứt, trên mặt đất chỉ còn lại những hố đạn bốc khói khắp nơi. Bạn tôi, một đồng chí người Siberi, Ivan Borodin, một trong những người vừa mới đến tăng viện tối hôm qua, mất một chân trong tai nạn đó. Anh gào khóc như một đứa trẻ hư: không hẳn vì đau, mà còn vì nỗi niềm chua xót rằng anh đã mất chân vì chính Cachiusa của chúng ta. Nhưng cũng lúc đó, anh không giấu diếm một niềm vui hoang dại:



-         “Đấy, Mansur, chiến tranh kết thúc với tôi rồi! Tạm biệt nhé, đồng hương! Có lẽ tôi sinh ra dưới vì sao may mắn! Mọi người, lúc ở nhà, thường bảo tôi có phước! Đúng, giờ tôi được về nhà! Sẽ ổn thôi! Rừng sẽ nuôi sống một người dù có bị mất cả hai chân”



 



Nghe Ivan nói, tôi cảm thấy vui, rằng tôi đã vượt qua cái địa ngục này một cách bình yên (tôi tréo tay cầu!). Nhưng cũng lúc đó, tôi thấy ghen tị với anh. Ivan thấy buồn cho tôi vì tôi phải tiếp tục với cuộc sống nơi chiến hào đầy gian khổ, hiểm nguy với cái đói và rận rệp. Anh cố an ủi tôi rằng kể từ ngày hôm nay, anh sẽ cầu nguyện tất cả các thánh thần để phù hộ tôi sống sót! Ít lâu sau đó, tôi lại trải qua một cú sốc khác.



Anh em, những cựu binh của trận Stalingrad gặp lại nhau, chúng tôi ôm nhau mừng như anh em ruột thịt. Lúc đó trận chiến đang tạm lắng, trong trường hợp này thì chúng tôi thường gia cố lại công sự của mình. Anh em thoả thuận với nhau là khi làm xong việc đó, sẽ tập hợp lại và làm một buổi họp mặt nho nhỏ. Chúng tôi chọn địa điểm picnic dưới gốc một cái cây lớn đứng cô độc, mọi người để balo với mọi thứ cần thiết ở đó. Một trong số những “tay Stalingrad” được chọn ra để chuẩn bị cho bữa tối bằng những khẩu phần khiêm tốn của chúng tôi. Sau đó, mọi người tháo bình rượu ra (chứa Vodka Narkom) và bắt đầu công việc đào hào.



Rất nhanh, những đồng đội của tôi – bảy người cả thảy – hoàn thành phần chiến hào của họ và bắt đầu tụ lại dưới gốc cây đợi tôi đến. Tôi gấp rút làm việc, thẻo đất sét bằng lưỡi lê, nóng lòng để đến ăn cùng anh em. Tôi nghe mọi người la lên “Mansur! Lại đây thôi! Mọi người đợi nè!”. Tôi ném thuổng qua một bên và nhảy lên khỏi chiến hào, khi đó tôi nghe tiếng đạn rít, một khẩu đại bác của quân Đức ở phía trước vị trí của chúng tôi bắn. Tôi mong nó sẽ bay qua tuyến quân ta và nổ đâu đó ở phía sau, nhưng quả đạn rơi ngay đoạn giữa, gần cái cây nơi bạn tôi đang ngồi chờ. Vài mảnh vụn réo lên rơi vào phía đối diện của đoạn hào của tôi. Khi tôi leo ra, thấy cái cây bị chẻ làm đôi. Ở dưới đó là những thi thể bất động của đồng đội tôi. Một phát đạn lẻ loi đã giết chết bảy cựu binh của trung đoàn, những người đã sống sót sau trận Stalingrad.



Trong tiểu đoàn chúng tôi, các khẩu đội cối luôn bị thiếu quân số, thường thiếu 2 đến 3 người cho mỗi khẩu đội. Thế mà luôn cần phải duy trì chín khẩu đội chiến đấu liên tục. Tôi đến giúp một khẩu đội cối, thay thế cho pháo thủ số 2 của họ, hiện vắng mặt. Lúc ấy, khẩu đội trưởng lệnh cho tôi mang lên vài hòm đạn đang ở trong kho, còn anh ấy thì làm thay nhiệm vụ của pháo thủ số 2. Ngay sau khi tôi vừa mang hòm đầu tiên lên, quay lại để lấy thêm, thì nghe một tiếng nổ ghê sớm ngay sau lưng. Ngần ngừ một lúc, tôi quay lại chỗ khẩu cối và thấy nòng cối bể tan hoang, xoè ra như cánh hoa cúc. Kozhevnikov, người nạp đạn, vì quá vội, đã tống viên đạn thứ hai vào khi quả thứ nhất chưa được bắn ra. Khẩu cối bị phá huỷ hoàn toàn bởi sức nổ của cả hai quả đạn. Chúng tôi chôn những anh em hi sinh trong chiến hào và đặt chiếc nòng cối bị hư hại lên trên, giống như cánh phi công, họ đặt cánh quạt của chiếc máy bay bị bắn hạ lên trên mộ.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:56:13 am


Có năm cô y tá trẻ đến cùng với lực lượng bổ sung. Sau khi tốt nghiệp ở trường, họ qua một khoá huấn luyện y khoa ngắn và được gửi ra trận. Với tư cách là bí thư chi bộ đại đội, tôi có trách nhiệm gặp họ để lấy thông tin đăng ký. Tôi biết đựơc tên và quê quán của họ. Galia đến từ Penza, Tonia từ Riazan, Zina ở Tiumen và Shura là người Novosibirsk. Nhưng trên thẻ đoàn viên Komsomol của Shura lại ghi là Matriona. Tôi yêu cầu giải thích. Cô ta trân tráo trả lời:



-         “Không phải việc của anh”.



Vài người có mặt ở đó cười rộ lên, nhưng tôi tò mò hỏi lại lần nữa:



-         “Này đồng hương, tôi cũng là người vùng Kemerovo đấy, hãy nói cho tôi biết vì sao nào?”.



Cô đáp lại với kiểu như cũ:



-         “Anh bị cái gì vậy? Trên giấy tờ tên tôi là Matriona, nhưng tôi muốn mọi người gọi tôi là Shura, đó là biệt hiệu của tôi. Thủng chưa, đồng hương?”



Kể từ sau lần gặp đầu tiên đó, tôi vẫn chào cô y tá là “Shura”, nhưng khi nói nhỏ hoặc thì thầm vào tai em, tôi gọi em là “Matriona” và em dường như không phiền mấy. Dù khá thấp, nhưng Shura dễ dàng mang theo chiếc túi cứu thương lớn với dấu thập đỏ trên đó. Và em cũng có – không như những cô y tá khác – một khả năng đặc biệt: giữa ban ngày ban mặt, em có thể bò lên chỗ người lính bị thương nằm ngay trên khu phân tuyến và cứu anh ta trước mũi bọn Đức! Chúng tôi chỉ có thể giúp Shura bằng hoả lực súng máy và cối mà thôi. Trước khi bò lên, em thường tìm hiểu kỹ địa thế, chọn một lối an toàn nhất dựa vào những khe, rảnh be bé trên mặt đất. Sau đó, Shura cột chặt túi cứu thương vào chân, không hề phải ngẩng đầu lên để xác định hướng, bò đến chỗ anh lính bị thương, mà không bị địch quan sát được. Shura toàn mò mẫm bò đi! Làm thế nào để có thể nhớ nỗi một đoạn đường gấp khúc dài cả trăm mét? Ngay cả những tay lính kỳ cựu cũng không thể hiểu nổi! Chính bản thân Matriona cũng không thể giải thích được:



-         “Như thế nào à? Em cũng không biết nữa! Nhưng em chưa bao giờ lạc trong rừng rậm” em nói.



Vài bận anh em cố cản Shura làm điều đó:



-         “Đừng vậy nữa! Ngoài đó trống trải! Bọn Frizt có thể nhìn thấy và bắn chết em đó!”



Nhưng em luôn bướng bỉnh từ chối:



-         “Em không thể để thương binh nằm đó đến tối được”



Rồi đến một ngày, sau một trận đánh ngắn, một lần nữa quân ta ép được kẻ địch lùi về phía tây, Matriona, đang chạy cạnh tôi, bị trúng một viên đạn địch. Em ngã xuống, hai tay áp chặt vào vết thương nghiêm trọng, nó nằm đâu đó phía dưới dạ dày. Tôi biết nơi em bị trúng đạn và rụt rè đề nghị:



-         “Anh băng vết thương cho em nhé”



Cơn đau rất ghê gớm, nhưng em thẳng thừng từ chối, dù hiểu rằng, với sự hướng dẫn của em, tôi có thể băng lại vết thương và cầm máu.



-         “Anh nên đi tìm một đứa nào trong số bọn em”



Tôi nghĩ rằng Shura xấu hổ trước mặt tôi, nên vội chạy đi tìm những y tá khác, nhưng không thành. Rồi chợt thấy cánh thông tin đang triển khai nối dây, tôi chạy đến và giải thích mọi việc. Ngay lập tức, họ nối máy đến sở chỉ huy trung đoàn. Tôi nói chuyện với Đại uý Yegorov, trung đoàn phó phụ trách chính trị. Anh hứa sẽ cho Sviatnenko, đại đội trưởng đại đội quân y sẽ đến giúp cô y tá bị thương và chuyển em về trạm phẫu tiểu đoàn. Với cảm giác khuây khoả, tôi trở lại tiến công cùng đồng đội. Khi trận đánh kết thúc, tôi gọi về sở chỉ huy trung đoàn, được biết Matriona đã được đưa ra khỏi chiến trường, rằng cô ấy ổn và cô gửi đến tôi lời chào thân mến.



Đến năm 1980, tôi có dịp đến Tashkent và ở đó với vài người bạn thời chiến tranh. Tôi hỏi thăm xem Matriona có liên lạc gì với ai trong số các cựu binh bọn tôi không. Và được biết có vài người có trao đổi thư từ với Matriona, cô hiện đang số tại Novosibirsk, đã lập gia đình, có 03 con và 02 cháu. Tôi hỏi được địa chỉ và gửi thư cho cô. Cô trả lời, kể tôi rằng rốt cuộc thì vết thương của cô cũng được băng bởi một người đàn ông, Vladimir Sviatnenko, chỉ huy của đơn vị quân y.




Một anh lính cối bọn tôi, Aleksei Yanson muốn gia nhập Đảng Cộng Sản. Tôi phụ trách mảng giấy tờ nên thấy những dòng sau:



- “Sinh năm 1906, Aleksei Ivanovich Yanson là con của một Kulak [địa chủ]. Tốt nghiệp học viện Kỹ thuật Lâm nghiệp với bằng Ph.D vào năm 1932. Aleksei giữ chức trưởng khoa tại trường Đại học kỹ thuật lâm nghiệp Krasnoyarsk, đã có vợ và hai con. Tự nguyện xin ra trận, dù đựơc miễn trừ quân dịch”



Là bí thư chi bộ đại đội, tôi phải lưu ý với đại uý Cận vệ Yegorov, chính uỷ trung đoàn, về điểm “con nhà Kulak”. Anh bảo tôi rằng điều đó chả có vấn đề gì cả. Đúng trình tự, Aleksei Yanson được biểu quyết nhất trí trở thành đảng viên mới.



 Khi ấy tôi còn trẻ và ngờ nghệch, tôi cho rằng nếu một ai tốt nghiệp ở một học viện thì ắt phải là một viện sỹ hàm lâm. Rồi mọi người trong đại đội cũng nhắc đến Yanson với kiểu như vậy. Rất nhanh sau đó, chàng “viện sỹ” của chúng tôi đã chứng tỏ rằng anh xứng đáng với biệt danh đó.



Vào một ngày, bọn Đức bất ngờ mở một trận đánh với xe tăng. Tiểu đoàn tôi bị tấn công bởi chừng hai tá xe tăng cùng với lính bộ binh tháp tùng. Các đại đội súng trường và các xạ thủ súng máy kìm được bọn lính bộ, nhưng tăng địch vẫn tiến lên. Mà khốn khổ là cánh chống tăng vẫn còn đang ỳ ạch mò lên từ phía sau để tới các vị trí bắn mới với đống trang bị nặng nề của họ. Thế là Yanson đề nghị chúng tôi nổ cối vào bọn tăng đang tiến đến. Đúng ra là mảnh cối chả ăn thua gì với vỏ thép xe tăng, nhưng không còn cách nào khác!



Chúng tôi khai hoả một loạt và điều kỳ diệu đã xảy ra: tăng địch bỏ đội hình tấn công và bắt đầu rút lui! Vài quả đạn đã rơi trúng tăng Đức và sức nổ của nó đã làm bọn lính lái tăng lùng bùng. Cái hiệu ứng của hoả lực chúng tôi, lúc đó, là hiệu ứng tâm lý, điều mà chàng “viện sỹ” mong đợi. Bọn Phát xít xuống tinh thần và quay lui, còn chúng tôi có thêm được thời gian.



Bọn Frizt nhanh chóng nhận ra sai lầm của mình, nhưng bấy giờ thì pháo ta đã xuất hiện và thiết lập xong súng ống, chuẩn bị hành động. Họ không phải đợi lâu. Vâng! Vẫn những chiếc tăng đó tấn công tiểu đoàn tôi lần nữa, chúng tràn lên nhanh hơn lúc trước. Chúng tôi nổ cối vào chúng để dụ quân địch rằng quân Nga ở đây không có súng chống tăng. Bọn tăng Nazi tiến lên ào ào, tin rằng sẽ không gì có thể đẩy lùi được cuộc tấn công của chúng. Ai mà sợ cối chứ?! Nhưng đột nhiên một chiếc tăng bốc cháy. Rồi chiếc thứ hai, chiếc thứ ba. Sau cùng chỉ có 5,6 chiếc trong số bọn chúng xoay sở trốn thoát, trong khi có chừng 18 chiếc bị hạ, cảm ơn “viện sỹ” mưu trí của chúng tôi.




Quân ta tạo áp lực rất nặng lên bọn Đức, nhưng chúng vẫn rút lui một cách có tổ chức và cố phục kích chúng ta với khả năng tốt nhất có thể. Để làm việc đó, chúng thường dùng những chiếc tăng đặt ngầm dưới đất. Chỉ có thể nhìn thấy tháp pháo nhô lên trên mặt đất, và bắn vào ta bằng đại bác và đại liên trên xe. Rất khó để diệt nhưng lô cốt như vậy.



Rồi một hôm, trinh sát trung đoàn về báo cáo với tiểu đoàn trưởng Kartoshenko rằng hai kilomet phía trước không có địch. Họ cũng báo với sở chỉ huy trung đoàn tình hình như vậy. Thế là các đơn vị chúng tôi được lệnh tiến lên phía trước. Vì phải băng qua vùng địa thế rậm rạp nên chúng tôi hành quân theo đội hình hàng dọc. Ngay lúc trời vừa chạng vạng tối, đột nhiên, chúng tôi nhận thấy mình đang ngay dưới hoả lực tầm ngắn của địch, từ mọi hướng. Đó chính là những chiếc tăng đựơc nguỵ trang khéo léo! Mọi người nằm rạp xuống, như những con chuột chũi, bắt đầu đào hầm. Nhưng hoả lực địch mãnh liệt đến nỗi nhiều lính bộ binh không có đủ thời gian để đào được một hố cá nhân và bị giết ngay. Còn những ai có thể ẩn thân được thì không thể ló ra nhìn được, ngay cả chỉ để biết việc gì đang diễn ra, chỉ cần bạn giơ ngón tay lên, bạn sẽ bị mất nó ngay! Tôi choáng váng bởi ý nghĩ: “Việc gì nếu mình chỉ còn lại một mình?”. Quân Đức đã hành động rất tốt: chúng lùa quân ta vào một cái bẫy được chuẩn bị chu đáo. Khi trời tối hẳn thì quân địch ngừng bắn. Nhưng chúng tôi không tin vào sự yên lặng đó, và không đủ can đảm để can thiệp. Thực ra, quân Đức có thể đã đi khá lâu rồi để chuẩn bị một cái bẫy chuột tương tự ở đâu đó phía trước chúng tôi…



Dù bị như vậy, quân ta vẫn dồn lên, mở con đường tiến lên phía trước bằng mọi giá, liên tục nhận những đại đội mới từ hậu phương lên. Những đơn vị của chúng tôi được bổ sung người cứ mỗi 3 hoặc 4 ngày. Những bộ binh tuyến đầu như tôi, những “lính cựu”, không bao giờ bực bội trước nhưng sai lầm và những thất bại không bào chữa được. Chúng tôi cũng không bao giờ đổ lỗi cho ai. Tôi cũng không có gì để nói về tình trạng này. Chiến tranh là chiến tranh.



Đôi khi tôi nghĩ rằng chúng ta không thể chiến thắng cuộc chiến dễ sợ đó nếu chúng ta sa lầy vào những nguyên tắc. Có những lúc mà một hành động dường như điên rồ, vô nghĩa lại giúp quân lính được những điều kỳ diệu: nhưng điều này có lẽ vô hiệu trong hoành cảnh thông thường.



Tôi nhớ có một ngày, hoả lực quân Đức mạnh mẽ một cách khác thường, rồi có vài tin tức không thể tin nổi lan khắp chiến hào. Sau khi chọn cẩn thận thời điểm, tôi nhô đầu lên để tự quan sát. Trông kìa! Ban tham mưu trung đoàn, dẫn đầu bởi Bilaonov, Yegorov và Tukhru,như thể đang chú tâm vào bài thuyết minh, đi lên dưới làn đạn! Bên cạnh Bilaonov – vẫn còn dùng nạng, và đầu còn băng bó – là Nikolai Korsunov đang vội vã cho kịp bước chân vị chỉ huy. Còn bên cạnh Yegorov, tôi có thể thấy thượng sỹ Nosov! Họ có bùa à? Bấy giờ tôi cảm thấy xấu hổ vì đã nấp trốn, thiếu tinh thần để vùng lên tấn công. Cảm giác đó mỗi lúc một mạnh hơn và không gì tôi có thể làm cho nó! Tiểu đoàn trưởng của chúng tôi, Nikolai Dolinny, không thể tiếp tục nấp lâu hơn nữa, anh ra tín hiệu “tấn công” bằng pháo hiệu, vút ra từ sở chỉ huy, anh nhảy lên chiếc Willy jeep của mình và phóng vụt lên phía trước. Cả tiểu đoàn lập tức vùng dậy, hét vang “Hurrah! Vì đất mẹ!” và lao lên. Các đơn vị chạy ngay sau vị chỉ huy đang nhanh chóng tiến sát vào tuyến địch. Rồi chúng tôi thấy chiếc jeep nổ tung. Sau đó, anh em tìm thấy chiếc Huân chương Sao đỏ, được trao tặng cho tiểu đoàn trưởng trước đó không lâu…



Cuộc tấn công của chúng tôi bị đẩy lùi, nhưng ngay trong đêm, vài người lính tiểu đoàn, dẫn đầu bởi thượng uý Yundendorzh (một người Mông Cổ, anh hi sinh sau đó vài ngày trong trận xung phong khác) xoay sở áp sát được tuyến quân Đức và phá huỷ một chiếc tăng Tiger bằng vài chai Molotov cocktail. Sau đó, một đại đội tiểu liên tìm được một kẽ hở để tiến lên và tiêu diệt một chiếc tăng khác. Bọn Nazi kinh hoàng và tháo chạy khỏi vị trí của chúng. Và như thế, những sĩ quan của chúng tôi đã làm gương cho binh lính thấy rằng khát vọng đựơc sống bằng mọi giá không chỉ là đi đằng sau (câu này em dịch lủng củng quá, bác nào giúp em với. Nguyên văn: And so, by personal example, our officers showed the rank and the file that the desire to survive at any costs was not only path to follow). Tự tồn tại, dĩ nhiên, là một bản năng gốc. Lẽ tự nhiên là muốn sống. Nhưng nếu nó trở thành một động cơ mạnh hơn trong bạn thì bạn sẽ không bao giờ bước ra khỏi chiến hào!



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:57:41 am


Chương 9



Nghĩa trang người say



Trung đoàn vượt qua ranh giới của vùng Belgorod, tiến vào Ukraina. Chính uỷ trung đoàn, Vladimir Yegorov, nói rằng giờ chúng tôi sẽ giải phóng Ukraina khỏi quân Đức xâm lược.



Sau khi Nikolai Dolinny hi sinh, đại uý Cận vệ Nikolai Kartoshenco lên nhận chức tiểu đoàn trưởng. Tôi được bổ nhiệm làm bí thư đoàn thanh niên tiểu đoàn còn Aleksei Yanson thì thế cho vị trí cũ của tôi, bí thư chi bộ đại đội. Đại uý Cận vệ Vladimir Yegorov, chính uỷ trung đoàn, lưu ý tôi về vị trí mới được bổ nhiệm. Anh thành thật nói với tôi rằng, theo thống kê, trung bình một bí thư đoàn thanh niên tiểu đoàn thường sống không quá 2, 3 trận đánh, bởi trách nhiệm của vị trí đó yêu cầu anh ta phải là người đứng dậy đầu tiên khi nghe được lệnh tiến lên.



- “Nếu chú nghĩ chú có thể, Mansur, thì hãy nhận vị trí này. Còn nếu không, anh cũng sẽ không trách gì chú”.



Những lời của chính uỷ làm tôi bối rối, và đầu tiên tôi không biết phải làm gì. Yegorov sắc sảo nhìn tôi, đợi câu trả lời. Trong trung đoàn luôn phải có một bí thư đoàn thanh niên, tôi cũng biết rằng trước mình đã có những người khác sẵn lòng nhận nhiệm vụ này. Tôi không muốn bị xem như một thằng chết nhát, tôi phải làm gì đây? Ai cũng phải chết, nhưng chỉ một lần thôi! Tôi cảm thấy cái mascot may mắn của tôi – nó còn đây. “Được” Yerogov gửi tôi một cái nhìn khoan khoái. Anh ấy biết là có thể hiểu được tôi.



Trung bình, tiểu đoàn tôi có chừng 240 đến 280 đoàn viên Komsomol. Đó là một con số lớn. Tôi có nhiều việc phải làm trong những trận đánh ác liệt và thương vong cao, không bao giờ có đủ thời gian. Cứ mỗi 3 hoặc 4 ngày, chúng tôi nhận tăng viện. Mỗi đoàn viên Komsomol phải được đăng ký. Theo chính sách chung, họ cũng như mọi người khác: làm nhiều nhất những gì có thể vì trong chiến tranh, mạng sống con người mong manh theo từng phút. Ít nhất, hãy giết được một tên Phát xít! Có lẽ là hai nếu bạn may mắn, một cho chính bạn và một cho những ai không có cơ hội hạ được tên con hoang nào! Ở cương vị komsorg (bí thư đoàn) tôi truyền đi cái triết lý của mình “Giết ít nhất một tên phát xít” cho toàn bộ đoàn viên thanh niên Komsomol của tiểu đoàn. Cái triết lý đánh nhau này được chấp nhận rộng rãi mà không ai nghĩ khác cả. Có cách nào khác để chúng ta chiến thắng? Không còn con đường nào khác.



Bản chất tôi là một con người dễ bị tổn thương, đa cảm. Tôi không bao giờ là một hooligan hay một kẻ lắm mồm. Nhưng khi tôi tham gia vào cuộc chiến tôi muốn giết bọn Frizt “Giết hoặc bị giết”. Đó là thông điệp của tôi gửi cho những tân binh. Tôi bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng khi còn được sống, tôi phải bắt bọn Đức trả giá nhiều hơn, và với tôi, tôi không hi vọng sống sót trong cái lò sát sanh đó. Có lần, với sự chủ động của mình, chúng tôi đã bắn hạ không dưới 200 tên phát xít ở trong các kho nông sản. Tuy nhiên, tôi phải viết ra đây với lòng ân hận, phần lớn lính ta thụ động, và cả bị chết hoặc bị thương mà không có cố giết được dù chỉ một tên Đức (đôi khi còn chưa kịp thấy kẻ thù). Tôi có những nỗi đau đớn và niềm tuyệt vọng to lớn khi chứng kiến những cái chết của lính ta, những người mới được đưa đến từ hậu phương. Tôi khóc. Tôi không thể giấu cảm xúc của mình.



Tuy nhiên có nhiều trường hợp ngoại lệ. Tôi muốn nói đến một xạ thủ đại liên tên Nikolai Kobylin. Nhỏ hơn tôi đôi tuổi, hai người anh trai của cậu đã hi sinh trong chiến đấu, và cậu, tình nguyện ra trận.



Nikolai đặc biệt muốn trở thành một xạ thủ đại liên. Maxim là một vũ khí lợi hại nhưng nặng nề. Nó nặng 65kg [khẩu đại liên Maxim gồm hai phần được chia ra khi hành quân: phần thân súng nặng 24.8kg, và phần đế nặng 29.4kg. Hộp đạn, chứa 250 viên, nặng 7.5kg]. Khi phòng thủ, không có gì tốt hơn là đại liên. Nhưng lúc tấn công thì thật là khó khăn khi vác nó chạy. Xạ thủ đại liên quân ta thường bị trúng đạn khi thay đổi vị trí bắn, khi đó họ thành mục tiêu tốt cho quân địch. Nhưng Nikolai phát minh ra một chiến thuật đơn giản mà thú vị. Khi di chuyển đến một điểm bắn mới, cậu ta bỏ khẩu Maxim lại phía sau và đầu tiên, chạy thật nhanh lên. Sau đó kéo khẩu súng lên vị trí mới bằng một cái dây mảnh, nhiều sợi: như vậy khẩu Maxim của cậu ta như thể tự hành, theo chân chủ nó!



Nikolai Kobylin có thể bắn cả ngày lẫn đêm. Xuốt cả ngày, cậu nghiên cứu khu vực hoả lực của mình và đặt súng ở điểm thích hợp. Khi đêm đến, lúc bọn phát xít xuất hiện trong khu của cậu, Nikolai có thể khai hoả. Với cậu, không có sự hình thức. Kobylin lạnh lùng báo thù cho những người anh và diệt được vài trăm lính Đức.



Tôi có thể nhắc đến một đoàn viên Komsomol khác, Vasili Shamrai, cũng là một xạ thủ đại liên. Như tôi, anh sinh năm 1923, là một thợ mỏ, được miễn trừ quân dịch, nhưng tự nguyện xin ra trận. Nhiều lần, các cuộc tấn công của quân phát xít bị chặn đứng chỉ bởi lòng dũng cảm của hai đoàn viên Komsomol này. Và cả hai cậu đều còn sống cả. Kobylin ở Izhevsk, còn Shamrai thì ở quận Kremenchug vùng Poltava. Kim Dobkin, thi sỹ của chúng tôi, cũng còn sống. Là lính trinh sát, anh ta thật may mắn. Hiện anh sống ở Rostov-on-Don. Và Andrei Bogdanov thì ở đảo Sakhalin.




Ai cũng muốn gia nhập đoàn Komsomol và thường những đoàn viên mới không có cơ hội được nhận thẻ đoàn của họ. Những trận chiến khốc liệt, và chỉ trong một tháng thực tế cả danh sách tổ chức có thể chứa toàn những cái tên mới toang. Bí thư đoàn không bao giờ tập hợp mọi người để họp hành cũng không có phút nào để dành cho việc diễn thuyết hay nghe tranh luận. Cùng tham gia chiến đấu, tổ chức Đoàn Komsomol của tiểu đoàn, trong tình trạng như mọi người, không ngừng “họp hành”. [Đoạn này em dịch mà không rõ nghĩa lắm]. Cách sinh hoạt đoàn Komsomol rất sâu sắc và không cần nhiều thời giờ. Là bí thư, tôi liên tục phải nghe hàng tá câu hỏi và yêu cầu như: “Chúng tôi sắp hết đạn rồi!”, “Chúng ta còn ít đạn pháo lắm!”,”Lựu đạn ở đâu?”, ”Sao vẫn chưa nhận có thư từ gì nhỉ?”, “Chúng tôi không có thuốc lá”, “Sao xe nhà bếp tối nay không đến?”.



Tôi cũng làm nhiệm vụ phiên dịch, dịch từ tiếng Tartar, Kazakh, Uzbek, Bashkir và Kirghiz sang tiếng Nga. Tất cả các đồng đội ghen tỵ với tôi, một gã Tartar, biết quá nhiều thứ tiếng.



Tôi vẫn nhớ những cảm xúc của tôi trong một trận đánh. Tôi có trách nhiệm là người nhổm dậy đầu tiên, và cả tiểu đoàn chờ đợi thời điểm đó. Nếu một bí thư đoàn hay bí thư chi bộ khởi đầu cho trận xung phong thì không ai có quyền ở lại phía sau. Mọi người phải đi theo. Vượt qua nỗi sợ, tôi đứng dậy vào hết sức thét vang: “Tiến lên! Vì tổ quốc! Vì Stalin!” Tôi phải gào lên, hét lên với những ai có thể nghe và theo tôi: để dành lại một cao điểm không tên, hay đánh bật bọn Đức ra khỏi một ngôi nhà dân hoặc đoạt lại một con đường.



Tôi thường muốn quay nhìn lại phía sau: có ai theo mình không? Nhưng tôi không cho phép mình làm vậy, bởi tôi có thể để lộ ra nỗi sợ hãi của mình và làm những đoàn viên Komsomol theo tôi thiếu tin tưởng. Thế là tôi chạy vụt lên phía trước, ép lên, như thể đang đẩy một chiếc xe goòng quá tải của thợ mỏ lên đồi. Rồi bất cứ khi nào tôi cảm thấy không thể tiếp tục, hoặc thấy như cái chết đến với mình trong từng giây, thì tiếng hét “Hurrah-ah-ah” lại cuốn tôi theo, rồi ngay sau đó, tôi nghe được những tiếng thở nặng nề, dồn dập của những đồng chí chạy theo sau, du dương như tiếng nhạc trong tai.



Lúc đó, nỗi sợ hãi trong tôi tan biến đi cùng với những phần sinh lực cuối cùng của mình, rã rời, tôi ngã xuống như bị trúng đạn. Khi ấy, tôi có thể nghe thấy một tiếng thét hoang dại “Bí thư đoàn bị giết rồi!”. Và tôi lại cố gắng đứng lên, tiến lên phía trước trong cuộc tấn công, không ai được phép nghi ngờ bí thư đoàn của họ. Sau trận đánh, tôi thường nghe anh em nói về mình: “Anh ấy sinh ra dưới vì sao may mắn”. Khi nghe như thế, cảm giác y như được nhận huy chương. Mà lúc ấy, thật không gì tệ hại bằng nếu nghe anh em nói về mình kiểu như: “Thằng cha bí thư, nó là đồ đồng bóng, đồ hèn…”. Danh tiếng của mỗi người phải được gầy dựng từng ngày, với từng trận chiến.





Rồi có một lần, tôi ở trong một tình huống gay go. Tôi đang đi ngang qua một nhóm chiến sỹ ngồi trong hào, yên lặng nhá rượu sơ-náp với xúc xích chiến lợi phẩm.



-         “Ồ, Mansur! Ngồi với chúng tôi này, bí thư”



Họ rót cho tôi 100gm rượu sơ-náp và đưa một mẩu xúc xích. Lẽ ra tôi nên từ chối và nói đại loại như: “Tôi không thích cái rượu Đức quỉ quái này!”. Nhưng tất cả anh em ở đó đều lớn tuổi hơn tôi, và đều có hai, ba huy chương trên ngực, trong khi tôi chỉ mới có một cái “Vì lòng dũng cảm”. Chúng tôi uống và nói chuyện chút đỉnh. Rồi ai đó hỏi:



-         “Làm 100 nữa chứ, Mansur?”



-         “Sao không?”



Nhưng anh em ngưng uống, cho thấy không còn rượu nữa, và lục lọi lung tung trong dãy ba-lô của họ.



-         “Không còn chai nào à?”



Lý ra tôi nên yên lặng, thay vì vậy, lại hỏi:



-         “Các anh lấy thứ đó ở đâu vậy?”



Một trong các anh em đó chỉ:



-         “Ở kia kìa. Còn nhiều ở đó, nhưng bọn Frizt đang canh chừng. Có hai cậu bên ta đã bị giết rồi đấy.”



Tôi ngồi đấy, suy nghĩ:



-         “Thôi, mình đớp phải miếng mồi câu rồi. Mình phải trả lễ bằng một chầu rượu. Nếu mà mình không đi thì chúng nó lại bảo mình hèn”



Anh em cố khuyên tôi:



-         “Đừng đi, đ/c bí thư”



Nhưng tôi đọc được trong mắt họ:



-         “Chú hiểu là chú phải làm mà!”



Những anh chàng này là những tay lính dũng cảm hàng đầu. Nên đây không phải là chuyện vài chai rượu sơ-náp, nó chỉ là một dạng đồ cá cược…



           Giữa tôi và chiếc xe bọc thép, nằm kẹt trên khu phân tuyến, là một trảng cỏ rộng chừng 100m. Tôi nhảy ra khỏi hào, chạy lắt léo thiệt nhanh như một con thỏ, hết tốc lực phóng đến chiếc APC. Lúc bọn Đức khai hoả, tôi đang ở trong “vùng chết”. Tôi chộp lấy hai chai từ một cái hộp tìm thấy ở đó, dừng một tý để thở, rồi cẩn thận nhìn quanh. Tôi phải tìm một lối khác để chạy nhanh về tuyến quân mình. Bọn Đức đang chờ tôi. Nhưng không biết chúng dự đoán tôi chạy về lối nào nhỉ? Và hai anh em bị hi sinh kia đang nằm ở đâu? À, kia rồi, gần chiến hào. Điều này có nghĩa là chúng muốn đợi để hạ tôi ở cùng vị trí đó. Suy nghĩ nào Mansur! “Được, đến lúc rồi” tôi xông thẳng tới hướng của hai chiến sỹ đang nằm kia: họ chính là tuyến đến của tôi. Tôi đến được điểm quyết định – đạn bắn găm vào mặt đất trước mặt – lao mình xuống cạnh hai thi thể đó, làm như mình vừa bị bắn chết vậy. Tôi nằm đó, không động đậy dù mi mắt mở he hé. Gần kề mũi tôi, là một con sâu nhỏ nằm trên giày của xác một trong hai người lính kia. Nó đang bò đi làm việc của nó, mà không biết rằng đang có chiến tranh, và rằng người đàn ông nó đang nhìn kia, nhưng không thấy, có thể kết thúc cuộc sống của mình ngay bây giờ. Ồ, không biết là tôi đã làm cho tên Frizt tin tôi là một cái xác chưa nhỉ? Tay hắn còn trên cò súng không? Nó đã quay đi chưa? Rồi tôi búng dậy như một chiếc lò xo bằng thép, bằng ba bước nhảy, vọt sâu vào trong chiến hào của quân ta, an toàn và lành lặn. Súng máy rộ lên, nhưng quá muộn rồi.



Nhưng mấy anh em kia ở đâu nhỉ? Đi cả rồi à! Chỉ còn xúc xích để lại. Câu chuyện hoá là ra những đồng đội đó cũng nghĩ là tôi chết rồi. Họ cảm thấy buồn, có lỗi trong cái chết vô nghĩa của người bí thư đoàn trẻ tuổi và họ không còn tâm trí nào để tiếp tục chè chén! Giũ sạch bụi bặm và chộp lấy cái túi, tôi chạy xuống các chiến hào để tìm những chiến hữu đó, đáp lễ lại với họ. Anh em đây rồi. “Ồ, sao, là bí thư đoàn của chúng ta đây mà! Ôi, sống lại à! Cậu bảnh thật đấy! Cậu nên làm diễn viên thôi! Cậu ngã khéo tới mức mà chúng tớ cứ tưởng cậu tiêu rồi!”



Ngày hôm sau, anh em cười nhạo về việc tôi đã chạy lắt léo và nhảy nhổm như một con thỏ để đến chỗ chiếc xe (mọi người có thể cười người sống sót). Nhưng họ cũng tán dương cái thủ đoạn trở về của tôi. Rồi cả tiểu đoàn nhanh chóng biết rằng “Bí thư đoàn của chúng ta không phải là thằng hèn”. Tôi hoàn toàn thích thú với kết quả đó.





Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 09:58:56 am


Tổng quát mà nói thì tôi không chỉ bàng quan với rượu sơ-náp và còn với tất cả các loại rượu cồn. Trở lại với thời thơ ấu. Khi còn bé, tôi thường lên bãi khu mỏ, ở đó có một “nghĩa địa người say”. Những nấm mồ với những cây thập giá, những vỏ chai rỗng và những cái chốt cùng tấm ván ghi tên của người say. Người già và trẻ con đến đây để thưởng thức sô tuyên truyền cho việc chôn cất một thợ mỏ say xỉn.



Đó là một hình ảnh thú vị! Một dàn kèn đồng chơi nhạc đám ma, cùng với một đám đông mang một chiếc hòm đến nấm mồ. Chiếc hộp được hạ xuống huyệt, những bài thuyết châm biếm được đọc lên, rồi nấm mồ được lấp đất. Sau đó, mọi người sẽ để ý vào tay “xác chết” nghiện rượu, người, kết quả là phải ngưng thói hay uống rượu. Nấm mộ (giả) của anh ta sẽ được huỷ ngay khi anh ta trở lại cuộc sống bình thường!



Lối tuyên truyền này ảnh hưởng đến tôi rất nặng. Và nó cũng cứu tôi khỏi sự cộng đồng truỵ lạc. Nhưng “show” trình diễn liên quan đến rượu sâu sắc và đáng tin cậy nhất mà tôi được chứng kiến là ở mặt trận, khi quân ta giải phóng được một ngôi làng tên là Chervonny Prapor, ở đó có một nhà máy chưng cất rượu.



Lo rằng có những cái “bẫy chuột” của bọn Đức, cánh trinh sát bộ binh và kỵ binh cẩn thận rà soát quanh làng nhưng không tìm thấy gì. Thông qua “điện tín lính tẩy” vô hình, tiểu đoàn tôi biết rằng cái nhà máy ấy vẫn hoạt động tốt, điều này nghĩa là ở đó có cả một biển rượu! Thậm chí trước trận đánh lính tráng nháy mắt với nhau, cười tủm tỉm và đùa: “Chúng ta sẽ làm mọi thứ để chiếm cái nhà máy rượu đó, nhưng làm ơn, đừng có pháo bắn chuẩn bị! Chúng tôi không muốn có những tổn thất không cần thiết”.



Ban tham mưu và bộ phận chính trị đã cho những chỉ thị rõ ràng xuống tiểu đoàn, đại đội và trung đội trưởng, cũng như các bí thư chi bộ, bí thư đoàn thanh niên: họ phải chịu trách nhiệm cá nhân nếu có bất kỳ người lính nào bị phát hiện say xỉn. Vì thế, chúng tôi cảnh báo rằng rượu có thể đã bị tẩm độc. Sau đó, các chỉ huy tiểu đoàn tôi nhận được lệnh với lộ trình hành quân chính xác qua làng: xuống một trong những con đường chính, cách xa nhà máy rượu nhất, bộ phận gần nhất cách nó khoản 2km. Thật là nguy hiểm khi đi lung tung ở Chervonny Prapor bởi có mìn cài chung quanh. Tuy vậy, dưới sự điều khiển nghiêm khắc của các sỹ quan hành quân, chúng tôi đi qua nó mà không có tai nạn nào. Nhà máy rượu nhanh chóng bị bỏ lại phía sau.



Chúng tôi tiếp tục di chuyển, theo sau các nhóm tuần tra tiền vệ và hai bên sườn. Khi rời làng được chừng 2km, bọn Đức nã đạn vào đội tiền vệ bằng cối sáu nòng. Chúng tôi tản ra, cúi thấp người và bắt đầu đào hào. Đêm xuống.



Đột nhiên, trước bình minh không lâu, cuộc bắn phá chấm dứt. Đó là thời khắc mà chúng tôi nên cố gắng tiến lên, nhưng có tin nghiêm trọng đưa đến từ các đại đội: lính đang say chí tử. Một số tử thật, theo đúng nghĩa đen! Chúng tôi lại nhận được lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn: “Tiểu đoàn nên tấn công lực lượng Hítle không đông!” Nhưng chỉ có một phần tư số bộ binh của chúng tôi có thể đứng dậy để xung phong! Và rất nhanh, chiếc Willy jeep của ban tham mưu cùng trung đoàn trưởng xuất hiện ngay cạnh tuyến chúng tôi. Vị thiếu tá tức điên, quát tiểu đoàn trưởng:



-         “Này! Chuyện gì vậy? Tiểu đoàn ở đâu? Cả đám say đứ đừ hoặc chết mẹ nó cả rồi! Trả lời tôi đi!”



Tôi đứng cùng bí thư đảng bộ cạnh tiểu đoàn trưởng. Vài tay súng tiểu liên của chúng tôi vẫn ngà ngà đang loạng choạng đến từ phía sau.



-         “Tiểu đoàn trưởng như vậy xứng đáng bị bắn cùng với bí thư đảng bộ và bí thư đoàn thanh niên”



Anh rút súng khỏi bao và chỉ thẳng vào tôi. Tôi cho rằng cái lỗ đen của ru lô súng có kích cỡ của một khẩu 45mm! Nó hướng thẳng vào sống mũi tôi. Vậy đó! Kết thúc rồi! Như thế! Dù sao thì tôi cũng chán ngấy cái cuộc chiến này rồi! Với rận rệp! Với cuộc sống nơi chiến hào cùng cái đói, sự cực nhọc và những đêm dài không ngủ! Tôi đã chiến đấu liên tục từ tháng 10 năm 1942! Tôi hướng mắt vào bàn tay được cắt móng của thiếu tá và nhìn ngón trỏ rung rung trên cò súng! Không biết cánh thư ký sẽ viết gì trên thư báo tử của tôi? Mẹ tôi chắc sẽ đọc được rằng: “Con bà đã bị bắn chết như một tên tội phạm”.



Nhưng phát súng đó không bao giờ nổ. Trung đoàn trưởng nhìn thấy những tay bộ binh đứng gần đó hạ cơ bẩm khẩu tiểu liên, nên quyết định ngưng “biểu diễn” và bỏ đi theo đúng hướng mà anh tới.



Rõ ràng là trong cả đêm, anh em lính tráng đã bí mật quay lại, chạy tới nhà máy rượu, và trong bóng tối trút đầy vào bình, vào cà mèn bất cứ thứ gì có mùi tựa tựa rượu. Tiểu đoàn trưởng của chúng tôi Kartoshento mất phương hướng hành động. Nên chúng tôi quyết định dừng lại, chờ đợi và hi vọng rằng qua ngày mai anh em sẽ giã rượu. Quân Đức, hoàn toàn biết được bản tính và niềm đam mê rượu chè không biết mệt mỏi của quân ta, nên đã sắp xếp một kế hoạch tấn công hợp lý!



Lúc màn đêm vừa buông xuống, vài chiếc tăng và xe bọc thép chở lính, được trang bị súng phun lửa, xuất hiện ở phía chân trời. Chúng tiến ập đến theo hai hàng so le. Chậm rãi di chuyển, chúng cưỡi lên lính ta đang say chí tử và lạnh lùng phun lửa. Trong khoảng khắc, cả tuyến quân ta chìm trong lửa. Có thể thấy anh em, toàn thân như một bó đuốc, va vào nhau, rồi bị lửa nuốt chửng như những con thiêu thân. Ngay cả những người tỉnh rượu, cũng khó khăn lắm mới thoát được cái địa ngục này! Thiết giáp quân Đức, ngưng phun lửa, sử dụng tuyến hành lang khi nãy, rút về mà không bị tý tổn hại nào, chúng nhanh chóng biến mất phía sau đường chân trời, trong khi ở tuyến quân ta, lửa cháy cả đêm mãi đến khi những gì cháy được đã cháy hết.



Tôi không thích nhớ lại tình tiết này. Nếu một ai tỉnh rượu, đứng vững được trên hai chân, thì người đó có thể ẩn núp hoặc chạy trốn. Nhiều người lính tuyệt vời, anh dũng đã chết đau đớn trong ngọn lửa của súng phóng hoả. Điều nhục nhã nhất là bọn phát xít, vốn rút chạy khỏi Chervonny Prapor, dường như, không có chút nghi ngờ nào rằng kế hoạch của chúng sẽ thực hiện được.




Chúng tôi mong có lực lượng tăng viện mới, bởi các đơn vị thiếu người trầm trọng: mỗi đại đội chỉ còn 15 đến 20 tay súng. Quân Đức thì không ngừng giã đạn vào chúng tôi. Lũ con hoang đó bắn như thể chúng có thể nhìn thấy bọn tôi.



Chúng tôi phát hiện ra rằng, pháo binh địch được dẫn bắn bởi một chiếc phi cơ đặc biệt. Anh em gọi nó là “thằng gù” [Henschel HS126 là một chiếc máy bay cứng cáp có hai chỗ ngồi, được thiết kế cho trinh sát đường không - ND] bởi nó thật sự có một cái bướu. Cỗ máy này một động cơ, tốc độ bay chậm, lượn lờ trên các vị trí quân ta để xác định điểm đạn pháo rơi…



Trong đại đội cối chúng tôi có một khẩu súng trường chống tăng PTR. Khi thấy “thằng gù” xuất hiện trên đầu chúng tôi, tôi bắn vào nó bằng khẩu PTR. Tôi rất muốn bắn hạ chiếc phi cơ này để cho các chỉ huy quân ta biết về nó. Ngoài ra có một điều lệnh rằng, hạ một chiếc máy bay sẽ được thưởng cùng một thời gian đi phép. Tôi thú thật rằng lúc đó, tôi chán ngấy việc đánh nhau rồi. Cả thể xác lẫn tinh thần đòi hỏi đựơc nghỉ ngơi. Tôi, tự mình, không thể rời khỏi cuộc chiến, tôi tin vậy, nhưng giá chỉ được rời khỏi đây chừng 10, 20 ngày để có vài giấc ngủ ra trò, được uống sữa tươi và đi câu cá…



Tôi tiếp tục xả súng vào “thằng gù” đến khi tai điếc đặc và làm cả đại đội tức điên. Mọi người, chán ngấy với màn bắn của tôi, kể cả tôi. Khẩu PTR giật rất mạnh,vai đau tưởng chết được! Mỗi lần bắn bạn bị ném ra sau cả nửa mét. Đầu tôi muốn banh ra bởi tiếng nổ! Nhưng cứ sau mỗi lần bắn trượt, tôi lại giận dữ tiếp tục. Vài lần, chiếc máy bay đột nhiên lao bổ xuống và biến mất mà không có biểu hiện tổn hại nào, chỉ vòng lại. Một tuần nữa trôi qua, sau cùng chúng tôi cũng được bổ sung lính, đánh bật bọn phát xít ra khỏi chiến hào và tiến xa về phía sau của chúng. Tại đó tôi thấy “thằng gù” của tôi dính lỗ chỗ vết đạn PTR và cháy rụi. Tôi hẳn đã bắn trúng nó hàng trăm lần! Tôi rất vui khi biết mình đã thực sự tiêu diệt nó. Nhưng làm cách nào để tôi chứng minh được chiếc máy bay này bị hạ bởi tôi? Vài đồng đội chúc mừng tôi:



-         “Mansur, cậu là người hạ nó!”. Nhưng những người khác nghi ngờ thành tích của tôi.



-         “Có thể người khác cũng đã bắn nó chứ?”.



Cánh lính cối lúc trước đã chỉ trích tôi vì việc bắn dường như vu vơ đó quá chừng!



-         “Bọn mình điếc cả rồi, cảm ơn khẩu PTR của cậu nhé! Giá mà cậu bắn nó ở chỗ khác nhỉ!”.



Bây giờ cũng những tay ấy trông sửng sốt, khi nhìn thấy chiếc phi cơ lỗ chỗ đạn xuyên giáp PTR.



Đầu tiên là trung đoàn, và sau đó là ở cấp sư đoàn, những xạ thủ chống tăng của chúng tôi đựơc hướng dẫn bắn máy bay bằng PTR. Thỉnh thoảng, chúng bị bắn hạ. Chỉ có vấn đề là không biết có ai đã được thưởng huân chương và kỳ nghỉ nào chưa. Tuy thế, nó trở thành một phương thức truyền thống để đánh máy bay Đức, dù rằng đó là một việc tương đối khó. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là nỗ lực chung của chúng tôi để diệt máy bay phát xít, mang ngày Chiến thắng đến gần hơn, sau đó tất cả chúng tôi đều có được một “kỳ nghỉ phép”.



Tôi không nhận được gì cho việc hạ “thằng gù” vì khó để chứng minh rằng tôi là người đã vít cổ nó xuống.Chính uỷ trung đoàn, Vladimir Yegorov thường bảo chúng tôi:



-         “Với các bạn, những bí thư đảng, đoàn của tiểu đoàn, phần thưởng quan trọng nhất chính là sự kiện các bạn đã giữ vững vị trí! Hãy khiêm tốn và đừng nghĩ về huy chương cho các bạn. Nhưng đừng quên đề nghị thứ đó cho binh sỹ đã có hành động anh hùng!”



 



Chính bản thân của Vladimir cũng không có mấy huân/huy chương. Tuy vậy, khi chiến đấu tại vòng cung Kursk, trong một lần anh ấy gặp tôi, anh đã bình luận với giọng ngạc nhiên :



-         “Tại sao cậu chỉ mới có một cái huy chương Vì lòng dũng cảm nhỉ? Không thể được”



 



Tôi cảm thấy xấu hổ và bỏ đi, trong khi anh, gục gặt đầu, tiếp tục nói về tôi với những người đồng hành, đang nhìn theo hướng tôi đi. Ít lâu sau, có một thông báo từ sở chỉ huy trung đoàn rằng bí thư đoàn M.G Abdulin đã đựơc đề nghị tặng thưởng Huân chương Sao đỏ. Một lần nữa, đồng đội lại chúc mừng tôi. Nhưng đã bao lần tôi được nghe như vậy rồi nhỉ?! Cuối cùng, tôi cũng nhận được huân chương đó, sau chiến tranh, vào năm 1948.





Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:00:24 am


Cùng với bí thư đảng bộ tiểu đoàn (khi là bí thư đoàn, tôi làm việc với 4 người khác), chúng tôi cố ở cả ngày lẫn đêm với các đại đội, trung đội. Rồi chúng tôi lên sở chỉ huy, báo cáo riêng với tiểu đoàn trưởng Nikolai Kartoshenko mỗi ngày một lần để thảo luận về các nỗ lực hiện tại. Kartoshenko luôn ở một mình ở sở chỉ huy. Bởi cả sĩ quan phụ tá lẫn ban tham mưu của anh cũng phải xuống dưới ở cùng mọi người, thực hiện theo mệnh lệnh nghiêm khắc của tiểu đoàn trưởng về việc nắm rõ tình hình thực tế. Chúng tôi ngủ rất ít và đồ ăn cũng rất ít, chúng tôi ăn mọi thứ có thể tìm thấy được. Các bí thư chi đoàn đại đội rơi rụng thường xuyên và cần được thay thế nhanh chóng. Trong trường hợp chỉ huy đại đội tôi bị thương vong, thì tôi phải chịu trách nhiệm thay thế cho đến khi một sỹ quan khác đến.



Hằng đêm, công việc của tôi là cùng bí thư đảng bộ tiểu đoàn, xuống các vị trí tiền tiêu, vốn nằm ở khu phân tuyến phía trước tuyến quân ta. Tôi có thêm một lý do để phải đi cùng trung uý Peter Vasiliev, bí thư đảng bộ tiểu đoàn, là anh ấy bị cận thị. Con trai cả của anh, trạc tuổi tôi, cũng đang ở mặt trận. Gần đây, anh không nhận được thư từ gì của cậu ấy, và Peter lo rằng con anh đã hi sinh.



Chúng tôi bò qua khu phân tuyến, trong khi những quả pháo sáng của quân phát xít rơi kề bên, ánh hoả châu như tia hàn quang chạy ngoằn nghèo trên mặt đất, rít lên như rắn. Chỉ một chuyển động sai là cả một băng đạn súng máy sẽ đục lỗ trên người bạn. Khi bò lên để kiểm tra các điểm tiền tiêu, tôi luôn nhớ về cái lần tôi ngủ gục ở Stalingrad và như thế nào mà tôi cùng Suvorov dù không di chuyển tí ti cũng bị rơi vào hậu tuyến quân địch…



Rồi đến một lần, lúc mặt trận tạm yên, Peter và tôi nấn ná ở một đại đội bộ binh nào đó. Khi ngưng tiếng súng, anh em binh sỹ thường thích tán chuyện về những vấn đề khác nhau, duy chỉ có chiến tranh không phải là đề tài ưa chuộng. Các đề tài đại loại như Chúa có tồn tại không. Hay, như với những tay bộ binh này, là nguồn gốc của con người. Những bác lính già nghe chừng thích thú. Còn những cậu lính trẻ, vốn có vài năm học hành, được nuôi chiều, có xu hướng cười nhạo những người đồng đội có tuổi, ắt ít học. Một trong những bác lính già, tôi nghĩ bác tên là Afanasi Kudriatsev, hỏi bí thư đảng bộ rằng:



-         “ Cớ sao tất cả lũ khỉ lại không biến cả thành người? Hở? Nếu con người bắt nguồn từ loài khỉ thì hẳn sẽ không còn cái loài quỉ quái trơ tráo ấy tồn tại! Nhưng sao ở các nước xứ nóng, vẫn còn rất nhiều loại khỉ vượn sống từng đàn?”



Bác lính ranh mãnh liếc nhìn anh bí thư, đợi một câu trả lời thuyết phục. Mọi người cũng chờ để xem Peter xoay sở với câu hỏi láu cá ấy như thế nào. Lúc đó, tôi biết, lại một lần nữa, bên quân bưu không có chút tin tức gì về cậu cả của Vasiliyev. Anh trông phờ phạc. Nhưng tôi có thể thấy anh đang tập trung suy nghĩ những gì cần nói với bác Afanasi. Và mọi người cũng hiểu rằng đồng chí bí thư sẽ không trả lời ngay để kết thúc cuộc nói chuyện, mà sẽ để mọi người nói thêm, tạo cơ hội cho anh bày tỏ tâm tư của mình. Afanasi, nhìn Peter, tiếp tục giòng suy nghĩ của mình:



-         “Chẳng nhẽ những viện sỹ, những nhà khoa học của chúng ta cũng có nguồn gốc từ loài khỉ? Loài vật đó thật là trơ tráo và láo xược. Chúng bắt rận và ăn luôn! Ồ, lẽ nào tôi có trong mình máu của loài khỉ?”



Vài người quanh chúng tôi bật cười



-         “Có gì vui nào? Tôi cũng như các cậu! Tôi tiếc rằng những cậu trẻ thông minh, sáng dạ này lại cùng với những khoa học gia, những viện sỹ của chúng ta nằm trong số những loài khỉ! Và các cậu tin vậy! Này, chúng ta mới ngu làm sao! Cái nỗi thổ thẹn này tự chúng ta chất lên mình! Úi chà! Tôi không đồng ý! Nếu bây giờ không có chiến tranh, tôi sẽ lên Moscow nay để gây với những viện sỹ đó! Tôi sẽ chỉ cho họ thấy! Tôi không ngại đâu! Hãy để họ tự cho rằng chính họ thoát thai từ loại khỉ, nhưng đừng xét đoán điều đó với người dân thường!”



Afanasi liếc về phía đồng chí bí thư để anh có cơ hội lên tiếng, cuốn một điếu thuốc và xúc động chờ câu trả lời.



Rồi ngạc nhiên đến với những người lính trẻ khi Vasiliyev trả lời, nhưng không theo cái cách đã dạy trong nhà trường:



-         “Loài vượn đã tồn tại hàng triệu năm rồi, cũng giống như loài đang sống hiện nay. Và chúng sẽ như vậy trong hàng triệu năm tới. Còn con người cũng đã có hàng triệu năm rồi – các nhà khoa học đã nhất trí như vậy. Trong hằng triệu năm đó, loài người cũng ăn lông, ở lỗ. Sau đó họ học được cách nấu chín, tìm cách làm ra công cụ đá. Rồi năm mươi hoặc một trăm năm nữa con người sẽ bay lên mặt trăng cùng những hành tinh khác. Trong khi loài vựơn vẫn là chúng như cả triệu năm trước đây”



Afansi trông hứng chí:



-         “Tôi đã bảo gì nào?” bác la lên và tôi nghĩ bác sẽ ôm chầm lấy Peter, “thưa đồng chí bí thư, hãy tìm giúp tôi cái quyển sách thông thái đã viết lên điều đó, như đồng chí đã giải thích! Tôi không cần huy chương gì cả, chỉ cần cho tôi quyển sách đó!”



Lúc đó, các cậu lính trẻ trở nên kích động, viện dẫn Darwin và những sách giáo khoa của họ, yêu cầu được trả lời:



-         “ Thế tại sao họ dạy chúng tôi rằng “bắt nguồn từ loài vượn” ở trường”



Nhưng không còn thời gian cho cuộc thảo luận. Vì chúng tôi đã nghe thấy một mệnh lệnh vang lên: “Đại đội chú ý! Hành động! Có xe tăng!”



Trong một giây, chúng tôi tản ra, chiếm lĩnh vị trí trong chiến hào và chuẩn bị thủ pháo.





Dường như quân Đức triển khai một đợt tấn công trên toàn tuyến sư đoàn tôi. Những chiếc xe tăng nhanh chóng xuất hiện, đã có những dấu hiệu hỗn loạn và hai trung đoàn bên cạnh bắt đầu rút lui.



Nếu đồng đội của bạn bên cánh trái và cánh phải lùi lại, thì sẽ khó ngăn chính bạn cũng theo họ, vì nếu không bạn sẽ có nguy cơ bị bao vây. Trong những trường hợp đó, anh em sẽ nghĩ như sau: “Mình không thể là người đầu tiên rút lui. Ai chạy trước sẽ phải ra toà án binh. Hãy để ai đó bắt đầu, rồi mình sẽ liệu…” Peter và tôi quyết định một người sẽ lo cánh trái còn người kia ở cánh phải, rồi chúng tôi rời nhau. Lúc ấy, tôi không biết rằng, đó là lần sau cùng, tôi thấy Peter Vasiliyev còn sống.



Những chiếc tăng giờ đã đến rất gần. Hai khẩu 45mm của chúng tôi khai hoả nhưng trượt cả. Rồi cả hai khẩu pháo đó bị loại khỏi vòng chiến bởi hoả lực xe tăng. Quân ta ném thủ pháo, nhưng chẳng đựơc gì. Có hai cậu lính, còn vội vã ném lựu đạn nhưng không rút chốt. Ở một vị trí, lính bộ binh ta bắt đầu dao động. Tôi nhào về phía đó và bắt họ trở lại chiến hào, nếu không thì tăng địch sẽ nghiến nát họ. Lúc này, chúng tôi bắt đầu một trận cận chiến, đánh tăng Đức bằng thủ pháo và dùng súng chia cắt bộ binh địch với xe tăng.



Tình hình xấu đi từng phút. Những trung đoàn bạn tiếp tục lui lại phía sau, làm tăng nguy cơ hai bên sườn chúng tôi. Tôi không muốn bị vây vô ích! Tôi cũng biết rằng quân ta đang cạn dần đạn dược. Nhưng giác quan thứ sáu bảo tôi rằng hãy còn quá sớm để rút lui. Tôi hét lên ở mọi hướng: “Anh em, hãy giữ vững!”



Đúng lúc đó, một bí thư chi đoàn đại đội chạy đến bên tôi và đưa tôi chiếc túi trận và thẻ đảng của trung uý Peter Vasiliyev. Tôi nhớ tôi đã nghĩ: “Lại một bí thư nữa hi sinh! Chào nhé Peter!”. Rồi tôi hỏi:



-         “Thế tiểu đoàn trưởng đâu?”



-         “Họ mang anh ấy về phía sau rồi. Anh ấy bị thương”



Còn tiểu đoàn phó, anh đã hi sinh ba ngày trước. Theo điều lệ quân đội, đại đội trưởng đại đội thứ nhất sẽ chịu trách nhiệm chỉ huy tiểu đoàn trong trường hợp này. Nhưng lúc này không có thời gian để tìm đồng chí đó!



-         “Này đồng chí bí thư đoàn, hãy nhận nhiệm vụ! Làm điều gì đi!”, đại đội trưởng đại đội hai gào lên



Đúng vào thời khắc nguy kịch đó, xuất hiện, như bước ra từ không khí, hình dáng to lớn của thiếu tá Cận vệ Bilaonov, và cùng với anh là trung uý Cận vệ Nikolai Korsunov, sĩ quan cần vụ.



-         “Anh em, không lùi”



Giọng Bilaonov như sấm rền vọng khắp các chiến hào. Dù tôi cảm thấy được an ủi vì rằng tôi không còn phải chịu trách nhiệm cho tình hình, nhưng tôi không hề vui vẻ khi gặp thiếu tá. “Vậy đó, hết rồi” tôi nghĩ “Bây giờ với cái “không lùi!” của anh ấy, chúng ta sẽ bị giết cả hoặc bị bắt!”



Bilaonov là một người dũng cảm không tin nổi. Mãi đến nay, qua hàng chục năm rồi, chí khí của anh ấy vẫn đọng mãi trong tôi. Không ai, dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, có thể làm anh lùi bước! Người đàn ông này sẽ hiến dâng thân mình và chúng tôi sẽ cùng với anh.



Tôi thấy anh nhặt một khẩu súng trường chống tăng mà tay lính nào đó ném đi, và mở khoá nòng để xem nó được nạp đạn chưa. Vâng! Anh đặt một băng đạn vào ổ. Đúng lúc đó, như một mục tiêu di động trong trường bắn, chúng tôi thấy một chiếc tăng lăn bánh trước mặt. Nó dừng lại, khai hoả khẩu pháo và bắn vài loạt đại liên. Ai cũng có thể tin là sức ép ghê gớm thể nào; cẩn thận nếu nó chạy về phía bạn! Bilaonov không thể tìm một vị trí bắn tốt cho anh hơn là bên cạnh một cây sồi cổ thụ, rêu phủ đầy. Anh đặt khẩu PTR lên một tay và ngắm vào hông chiếc tăng. Khoảng cách không quá 50 thước.



Dĩ nhiên, bọn Đức nhận thấy một sỹ quan Soviết đang hướng khẩu súng chống tăng vào chúng. Cả tháp pháo với khẩu cà nông và khẩu đại liên bắt đầu xoay về hướng chúng tôi. Cùng với Nikolai Korsunov, tôi nằm gần chân Bilaonov. Có điều là lạ, cái “thùng” chuyển động của khẩu pháo tăng dần ngắn hơn khi nó quay, đến khi nó nhòm thẳng vào tôi với cái lỗ đồng tử đen ngòm của nó. Tôi tin là chết chắc. Cái “đồng tử” nhích sang trái, sang phải, lên trên rồi đi xuống, cố bắt được hình ảnh chúng tôi, để “chụp” chúng tôi chính xác hơn. Nếu đó không phải là thiếu tá, mà là ai đó với khẩu PTR thì tôi đã phóng nhanh khỏi chỗ ấy! Nhưng ảnh hưởng của anh thật ghê gớm, thật không chịu nổi để tưởng tượng rằng ý nghĩ sau cùng của anh ấy với bạn sẽ là “Đồ hèn!”.



Trung đoàn trưởng tiếp tục ngắm. Tôi sẵn sàng chấp nhận cái chết với anh cùng người sĩ quan cần vụ. Cả ba chúng tôi sẽ bị hạ nhanh. Ngay lúc này.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:01:05 am


Tiếng nổ thật to và đầu tiên tôi không hiểu ai đã bắn ai. Khẩu PTR hay chiếc tăng? Nhưng nếu tôi đang hỏi câu hỏi này thì rõ là tôi còn sống! Cả trung đoàn trưởng và Nikolai cũng vậy! Chắc Bilaonov đã nhanh hơn? Thiếu tá bắn một phát nữa và tôi nhận ra tay phải anh đã bị thương. Chiếc tăng bốc cháy! Nikolai và tôi muốn đưa người bị thương đến chỗ an toàn, nhưng anh từ chối, và chúng tôi băng bó cho anh ngay tại chỗ. Bọn phát xít cố thoát thật nhanh ra khỏi chiếc tăng cháy, nhưng những tràn đạn của quân ta đã hạ gục chúng như những con búp bê bằng giẻ.



Vâng sự xuất hiện của Bilaonov tại thời khắc nguy hiểm, cùng với sự dũng cảm của anh khi hạ gục một chiếc tăng địch là giúp tiểu đoàn chúng tôi làm được điều không tưởng, nhanh chóng năm chiếc tăng địch rút lui. Quân Đức lui lại! Các trung đoàn bạn cũng xoay sở đánh lùi cuộc tấn công. Sư đoàn lấy lại được các vị trí trước đó.



Ngày hôm nay tôi được mời đến dự một buổi họp chính trị trung đoàn, ở đó tên tôi được biểu quyết nhất trí ghi vào chiến sử anh hùng của trung đoàn. Thiếu tá cận vệ Pavel Bilaonov với cánh tay phải còn băng bó, ngồi trên bàn chủ tịch đoàn, và tôi bên cạnh. Sau cuộc họp, chúng tôi thấy anh về bệnh xá. Trung đoàn được tạm thời chỉ huy bởi vị phó của anh, Ivan Tukhru.



Tôi là bí thư đoàn sống sót lâu nhất của tiểu đoàn. Đó cũng là một dạng thành tích. Nhưng tôi còn trụ được bao lâu đây?



Một buổi sáng nọ, mọi việc diễn tiến theo một hướng khác. Ba lính trinh sát cưỡi ngựa của chúng tôi (do thượng uý Vlasov chỉ huy), sau khi thám thính xa về phía trước lực lượng chính, về báo cáo sở chỉ huy: “Stanitsin Kazachiok trống trải. Làng bị cháy rụi, không có dấu hiệu có người”. Chúng tôi được lệnh “Đội hình tiểu đoàn tiếp tục tiến lên phía trước, trắc vệ tiếp tục quan sát phía trước đội hình, trong tầm nhìn”. Đội trinh sát chào tạm biệt và chạy lên phía trước, trong khi chúng tôi tiến sau họ, trên đường lộ. Sau khi hành quân không quá 2km mà không có vấn đề gì, chúng tôi tận mắt thấy hai kỵ sỹ ngã khỏi lưng những chú ngựa hoảng sợ của họ. Một giây sau thì người thứ ba bị hai tên Frizt lôi xuống và kéo đi mất. Những con ngựa kinh hoảng chạy về phía đơn vị chúng tôi và phải mất chút thời gian mới bắt chúng lại được. Ngay lập tức, chúng tôi dãn ra và tiếp tục hành quân mà không thấy có sự kháng cự nào. Quân ta tiến vào ngôi làng bị đốt, đầy khói. Ngôi làng bị phá huỷ hoàn toàn. Không còn một bóng người quanh đó. Đây là một ví dụ rõ ràng cho chính sách “tiêu thổ”!



Trời nóng và không một ngọn gió. Những làn khói đắng nghẹn phủ lên không trung. Làm mặt trời như một chiếc chảo rang bằng gang khổng lồ. Chỉ còn những chiếc bếp lò lớn, phủ đầy bồ hóng, há hốc “mồm” và những con “mắt” vuông, đứng đó như bia mộ giữa đống gỗ đang âm ỉ cháy nhắc nhở chúng tôi rằng ở đây từng là một ngôi làng. Quanh các bếp lò là tàn tích đã thành than của những cây lớn, làm liên tưởng đến một nhóm người khốn khổ, cành cây giơ lên như những cánh tay, cầu xin thượng đế cứu rỗi. Dường như chúng đã bị đốt rụi trước khi có sự giúp đỡ, và giờ chúng đứng trơ trơ đó như chứng thực rằng thượng đế không tồn tại!



Gần vài bếp lò, chúng tôi cũng nhìn thấy vài chiếc giường kim loại tự tạo với hình trang trí ở mặt sau, bị lửa làm hư hại. Những chậu hũ bằng gang, bằng gốm đủ loại to nhỏ nằm rải rác chung quanh. Ở bên hông và mặt trước các bếp lò, dưới lớp bồ hóng, có thể thấy lờ mờ những bức tranh chất phác, cảm động với những dòng chú thích víêt bằng bút chì không phai: “Những giỏ hoa hướng dương”, “Chàng nông dân cùng cô bạn gái”, “Chú mèo con giỡn banh”, “Gà chọi” hoặc “Gà mẹ và đàn con”. Chúng tôi chầm chậm đi trên đường…





Như đa phần những ngôi làng khác, ở trung tâm là một giếng nước. Một chiếc gàu gỗ rỗng treo cạnh. Chúng tôi ào đến, mong có một ngụm nước mát lạnh. Trước khi đến giếng, bên một vệ đường, anh em tìm thấy xác của thượng uý Vlasov. Những gì còn lại của anh được đưa vào xe ban tham mưu, mang ra khỏi làng và chôn gần đấy. Chúng tôi đến được cái giếng, thả gàu xuống. Nhưng nó va phải cái gì đó là lạ. Chắc hẵn không phải là mặt nước, phải chăng cái giếng đã bị khô cạn? Chúng tôi kéo gàu lên, và nhìn thấy máu bên trong. Rõ là bọn Đức đã ném xác người xuống giếng. Rồi cách đó không xa, chúng tôi thấy những xác phụ nữ loã lồ và cả những em gái còn rất nhỏ. Anh em phủ tạm những tấm áo mưa lên họ và tiếp tục hành quân.



Ở trong một chiếc lò, tôi thấy một chú mèo xám bự. Hắn đang nằm bẹp trên bụng với một tư thế truyền thống, chân thu vào phía dưới, đuôi vắt dọc thân. Hai chiếc tai trên cái đầu to, thông minh hơi gập xuống và ngả về phía sau một ít như muốn nói lên những nỗi niềm nghiêm trọng. Đôi mắt buồn của con vật dường như khác biệt với thế giới ngoài kia. Con mèo không thèm chú ý đến tôi và cũng không hề bỏ chạy. Tôi ngờ là nó không còn sống. Nhưng kìa, những giọt nước mắt lớn lăn trên mắt nó. Nó chưa chết. Tôi rất muốn đến vuốt ve nó, nhưng không đủ can đảm, bởi tôi không xứng đáng. Với cảm giác đau khổ và nỗi muộn phiền thiêu đốt, tôi quay khỏi chiếc lò đó, đi khỏi ngôi nhà bị tàn phá, khỏi chú mèo “chủ nhân” nhưng giờ đã mồ côi, dù đã sống sót một cách kỳ diệu trong cái thảm kịch này.



Khi chúng tôi đã gần vượt qua vùng đất tro tàn đó, anh em thấy một hình dáng phụ nữ trông như một bóng ma, ẩn hiện trong làn khói. Người ấy dường như đợi chúng tôi bên đường. Anh em đến và vây quanh người phụ nữ. Chúng tôi muốn biết thông tin về những gì đã xảy rà từ một nhân chứng sống. Dù đã hoàn toàn kiệt sức, nhưng cô vẫn cố đứng thẳng. Nhìn mái tóc màu xám tro dày, gợn sóng thả dài đến eo, có thể nói rằng cô còn trẻ. Da dính chặt vào xương sọ, đôi mắt sâu hoắm, chân tay cô gầy gò và suy kiệt. Chỉ còn một tia sống sót lại trong cơ thể cô. Chúng tôi e ngại không dám hỏi điều gì. Một bác bộ binh già, trong bi đông còn chút nước, bác rót ra một cái ly nhỏ và đưa cho cô. Cô đón lấy bằng những ngón tay gầy run run rồi chầm chậm uống. Cô trả lại chiếc ly rỗng, phát âm từng từ



- “Cảm ơn rất nhiều, nhưng các anh đã đến muộn chút ít”.



Nói xong câu, cô đổ ập vào tay người lính gần nhất. Gương mặt với đôi mắt mở to ngã ra sau và đôi tay thỏng xuống như những ống tay áo rỗng. Chúng tôi biết, cô chết.



Hi vọng rằng những điều kinh khủng đã bỏ lại phía sau, khi chúng tôi đến được cuối làng. Nhưng những gì tồi tệ nhất vẫn chưa hết. Tất cả dân làng nằm dọc theo con đường. Tất cả họ đã bị bắn chết. Anh em bộ binh ngã mũ, chầm chậm đi qua hàng trăm người già, phụ nữ và trẻ em bị bắn chết. Chúng tôi cảm thấy xấu hổ.  Tôi xúc động mãnh liệt, trong người tôi tràn đầy giận dữ và căm hận. Tôi tự hứa với lòng sẽ báo thù cho những người này, sẽ giết bọn phát xít và những tên Nga-gian nhiều như tôi có thể! Và phải làm ngay điều này trước hết!



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:02:03 am


Chương 10: Chặng đường gian khổ



Quân đoàn bộ binh Cận vệ số 32 của chúng tôi nhận được một mệnh lệnh mới: Nỗ lực băng qua bờ sông Vorskla để tiếp cận Poltava từ hướng Tây.



Dòng sông đó không rộng, chừng 100 đến 120m. Và cũng không quá sâu để lội qua. Nhưng nó lại bị bao quanh bởi vùng đầm lầy rộng đến 1km. Vậy chúng tôi phải băng qua bằng cách nào và tại chỗ nào? Lực lượng trinh sát, với sự giúp đỡ của dân địa phương, định ra nơi tốt nhất là một con đường sỏi với một chiếc cầu vốn trải dài qua khu đầm lầy. Những lối dẫn vào cầu phải được chiếm giữ để bọn phát xít không thể phá hoại nó. Đường nằm trên một con đê cao chừng 5, 6m với với những mô dốc. Nếu bạn ngã xuống, bạn sẽ bị đầm lầy nuốt chửng ngay. Chúng tôi tính rằng nếu khoảng cách 1,000 thước này được đi với tốc độ 15km/giờ thì mỗi người lính phải mất 6 đến 7 phút để vượt qua. Nhưng nếu tốc độ tăng gấp đôi thì khung đường nguy hiểm chỉ còn 3 phút.



Số mệnh đã quyết định rằng trung đoàn chúng tôi được chọn để là đơn vị đầu tiên vượt sông và thiết lập một đầu cầu ở hữu ngạn. Chúng tôi tiến hành các công tác chuẩn bị. Từ sở chỉ huy sư đoàn, chúng tôi nhận xe ô tô và những chiếc xe song mã hai bánh.



Chúng tôi cũng tổ chức vài cuộc họp Đảng và Đoàn viên Komsomol để thảo luận về phương thức tốt nhất để thực hiện mệnh lệnh với ít thương vong nhất có thể. Chúng tôi phải vận động dưới hoả lực pháo nặng nề: bọn Phát xít, dĩ nhiên, đã hướng tất cả các loại pháo của chúng vào con đường và chiếc cầu. Chắc chắn là chúng không tiết kiệm đạn với chúng tôi, nếu là phe ta thì cũng sẽ không làm thế. Đó là lần đầu tiên tôi đối mặt với tình cảnh như vậy!



Đây chính là giờ khắc mà mọi người sẽ thử với vận may của mình. Sẽ rất khó để sống sót dưới hoả lực phòng ngự dày đặc ngày mai, và chỉ những ai may mắn nhất mới có thể tồn tại. Mọi người hiểu điều đó nhưng vẫn đi lanh quanh như thường lệ. Không một đồng chí nào có tâm trạng tội tình.



Tôi cảm giác từng tế bào sống trong cơ thể mình. Tôi lục lọi trong óc những thước phim của những kinh nghiệm đã qua. Tôi đã nghĩ rằng có thể đây là ngày cuối cùng mình còn được thở khí trời. Chọn gì đây? Bạn không thể nhảy khỏi con đê, bởi cả bên trái lẫn bên phải đều là đầm lầy. Chỉ có một con đường, tiến lên phía trước. Nhưng như thế nào? Vượt qua bức tường lửa khói?



Rồi tôi quyết định sẽ dùng một cỗ xe ngựa hai bánh để vượt cung đường nguy hiểm này. Tôi biết đặc điểm quan trọng nhất của loài ngựa: chúng không lạc lối trong những cơn bão tuyết nặng nề nhất. Ngay cho là tối đen như hắc ín thì chúng cũng không bao giờ bị lạc! Và như vậy bọn ngựa sẽ không bao giờ rời con đường cho dù đạn nổ quanh chúng. Tôi chọn một đôi ngựa Mông Cổ với một cổ xe cứng cáp. Người đánh xe tên Moiseev bảo tôi:



-         “Này, con trai, con phó thác hi vọng của con cho lũ ngựa à?”



Bác vỗ vào cổ con vật



-         “Vâng, vâng” tôi trả lời “ngựa rất đáng tin cậy. Cháu đã từng làm lái xe ngựa ở mỏ và biết chúng rất rõ. Ta có thể luôn tin vào chúng! Ngựa là loài vật thông minh nhất”



Moiseev rất vui khi nghe tôi nói vậy, bác đã có cả cuộc đời mình gắn liền với lũ ngựa.



Tôi hẳn đã chạm đúng chỗ ngứa của bác bởi bác nói với một giọng ân cần và tin tưởng:



-         “Cậu đúng đấy, con trai ạ! Ngựa còn thông minh hơn cả con người, chúng chỉ không biết nói thôi. Nhưng chúng hiểu biết mọi thứ tốt hơn chúng ta!”



Chúng tôi có đủ thức ăn trong ba lô, nên cùng ngồi xuống dưới cỗ xe và bắt đầu ăn. Đột nhiên Moiseev liếc tôi đầy nghi vấn rồi hỏi:



-         “Này, con trai, con đã từng ở Stalingrad rồi phải không?”



-         “Vâng”



Mắt bác mở to đầy kinh ngạc:



-         “Tên con là Abdulov phải không?”



-         Không phải Abdulov, là Abdulin”



-         “Ôi, chúng ta cùng chung một đại đội cối!” bác kêu lên “bác còn nhớ đại đội trưởng của chúng ta, cậu ấy tên là Buteiko, đúng không? Bác nhớ có cậu Suvorov, người có một hàm râu nhỏ. Và bởi có tuổi nên bác được chuyển từ đại đội cối sang tổ cứu hộ”



Bấy giờ tôi nhớ ra



-         “Đúng rồi, lúc ấy các bác có 4 người có tuổi chuyển đi khỏi đại đội!”



Moiseev đột nhiên sầm mặt:



-         “Họ hi sinh cả ở vòng cung Kursk rồi”



Ngay lập tức tôi cũng nhớ đến bảy người bạn từ Stalingrad, cũng đã hi sinh cả ở trận Kursk. Nói thật là, tôi không vui thấy con đường của tôi và Moiseev lại gặp nhau trước trận công kích đầy chết chóc qua dòng Vorskla.





Một tay trinh sát đến với chúng tôi, lại là một người quen khác từ hồi Stalingrad, Gregory Ambartsumiants, người Armenia. Chính anh cùng những đồng đội của mình đã sang trinh sát bên bãi lầy của dòng sông và không thể tìm bất kỳ chỗ nào để vượt, bùn lầy ở mọi chỗ. Gregory chừng cùng tuổi hoặc hơn tầm 2 tuổi so với tôi. Dù không cao, nhưng anh rất khoẻ. Cặp mắt to của anh cũng rất gây ấn tượng. Chúng tôi biết là anh đang thuộc bộ phận đặc biệt của ban tham mưu quân đoàn. Mỗi khi Ambartsumiants xuống thăm tiểu đoàn thì cánh hậu cần sốt vó nếu đạn dược hoặc thực phẩm không đến đúng hạn! Anh ấy chả hỏi câu nào, những ngay lập tức thấy những thứ cấp cho đơn vị bị trễ. Nhưng toà án quân sự cũng không bao giờ được giở ra, vì anh chỉ nhắc nhở những người có trách nhiệm rằng họ phải thực hiện được công việc một cách tự nguyện và bằng mọi giá. Anh em rất vui khi gặp Gregory, đặc biệt là những người lính tiền tuyến.



Tay trinh sát ấy mạnh mẽ vỗ vào vai những chú ngựa Mông Cổ của chúng tôi “Ôi, những chú ngựa, vâng, những chú ngựa của tôi” anh lẩm nhẩm một bài hát quen thuộc.



-         “Còn cậu thì thế nào hả Mansur? Phóng nhanh qua với bọn ngựa thì tốt hơn phải không?”



Anh mở to mắt rồi chầm chậm nháy với tôi. Tôi đề nghị anh tham gia vào đội đổ bộ của mình. Anh đi vòng quanh lũ ngựa, xem xét bộ móng, rồi nhìn cỗ xe bằng gỗ sồi



-         “Được, tớ đi với cậu. Cậu đi cưỡi lên hay chạy theo?”



Tôi bảo anh rằng tôi sẽ chạy bộ, trong khi đó Moiseev ngồi trên xe, tiểu liên, ba lô, đạn dược và thủ pháo được đặt trên xe. Tôi sẽ chạy theo, cầm sợi thừng này, một đầu buộc quanh cổ tay mình, đầu kia cột vào xe. Gregory lắng nghe và bảo:



-         “ Được, tớ sẽ chạy cùng”



Đó là cách mà ba cựu binh Stalingrad chúng tôi, tập hợp lại thành một đội. Tất cả cùng chia sẽ chung một định mệnh! Phải chăng cả ba anh em sẽ bị hạ vào ngày mai?



Chúng tôi cùng ăn tối với nhau và mang một ít cỏ cho lũ ngựa. Chúng tôi để dành một ít đồ ăn cho buổi sáng, và phần còn lại cho ngựa. Chúng ăn tất: bánh mì, cháo yến mạch,  và đường. Số mệnh của chúng tôi bấy giờ gắn chặt cùng với những con vật đến từ thảo nguyên Mông Cổ xa xôi. Cả năm sinh vật chúng tôi cùng đối diện với một thách thức to lớn. Trong cuộc chiến, tôi đã từng thấy ngựa bị thương, chết nhiều lần. Chúng rên rỉ như con người và đôi mắt van xin được giúp hay được chết. Đó là những tiếng rên xuất phát từ ngực, như người.



Điều gì đó như một lời cầu nguyện xoay vòng không ngớt trong đầu tôi: “Những chú ngựa thân yêu của ta, ngày mai đừng làm ta ngã xuống nhé, hãy chạy nhanh hết sức về phía trước. Đừng sợ hãi!” Tôi nằm lăn ra đất, nhưng không thể ngủ. Moiseev cũng thức cả đêm, chìm đắm trong những suy nghĩ của mình. Khi tôi ngồi dậy cạnh bác, thấy tôi thức giấc, bác nói:



-         “ Bác không lo cho mình. Bác đã sống đủ rồi. Bác có gia đình. Có 7 cô con gái. Bác đã thấy, đã sống nhiều rồi. Nhưng cháu và Gregory hãy còn nhỏ. Các cháu chưa có được những phút giây hạnh phúc của đời người. Các cháu chưa từng choàng tay quanh người một cô gái! Bao nhiêu chàng rể bị giết rồi, phải không?”



Rồi cha của bảy cô gái lắc lắc đầu…




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:07:45 am


Trời sáng. Tôi đến cạnh lũ ngựa, chúng vẫn chưa được đóng cương, chỉ buộc vào xe. Đầu chúng treo là là trên mặt đất, có lẽ chúng đang nghĩ về cuộc đời mình. Chúng tôi đóng yên cương. Tôi lấy cho chúng ít nước từ giếng. Tất cả đã sẵn sàng. Mọi người chờ tín hiệu. Anh em đều biết mình phải chạy theo sau ai khi đến giờ. Trước mặt chúng tôi là một chiếc xe ngựa đầy lính khác. Thấy có vài sỹ quan tham mưu đang cưỡi ngựa ở phía đầu hàng quân. Chỉ còn giây lát nữa là mọi người xông lên phía địch, đi vào nơi chưa biết. Tôi bình tĩnh. Âm dương cân bằng trong tôi.



Những chiếc xe ngựa bắt đầu lịch kịch. Có chuyển động ở phía trước. Tôi nghe thấy những mệnh lệnh, chỉ lệnh. Chúng tôi vẫn còn cách con đường gian nan chừng 1, 2 cây số. Chúng tôi cố hết sức giữ yên lặng khi tiếp cận con đường bằng cách dùng các lối mòn, các vườn rau, ẩn sau các bụi cây. Quân ta bắt đầu vận động, sau khi dừng một chút. Tôi nghe có tiếng chửi thề từ anh em phía trước.



Cả ba chúng tôi ngồi trên xe. Sau đó, khi vừa đến đầu con đường tử thần, Gregory và tôi nhảy xuống, nắm chặt lấy sợi thừng, cùng chạy hai bên thành xe. Những đơn vị đổ bộ tiên phong đang lao nhanh về phía trước. Xe, pháo, ngựa và người không kìm chế, gia tăng tốc độ và sức ép. Bây giờ thì không còn gì có thể ngăn cản được, ngay cả cái chết.



Bọn phát xít triển khai bắn chặn từ tất cả các cỡ pháo của chúng. Đạn pháo, cối, cùng với những tiếng rú, rít kinh hồn đập vào con đê, như thể quân thù muốn san bằng nó cho ngang với đầm lầy. Nhưng dòng vận động vẫn tiếp tục, càng nhiều xe cộ đổ lên phía trước con đường đê. Rồi đạn quân Đức bắt đầu nã trúng vào những bộ phận đang đứng đợi đến lượt. Thời khắc của chúng tôi đã tới!



Không ngừng chút nào, chúng tôi lao trên con đường sỏi. Những chú ngựa, đuôi ngắn ngủn vểnh lên, lập tức hiểu ra chúng phải làm gì và chuyển ngay sang nước đại. Chiếc xe được kéo bởi một cặp ngựa tuyệt vời, chúng tôi hiếm khi bắt kịp chúng. Chúng tôi hiểu, để đề phòng, chúng tôi phải giữ khoảng cách không ít hơn 20m.



Moiseev buông lỏng giây cương và như một con bọ, bám chặt vào thành xe để không bị ném ra ngoài khi ở tốc độ cao nhất. Còn Greogory và tôi, đồ đạc vất cả trên xe, phi xuống, chạy cạnh chiếc xe. Chạy thì được, nhưng thở thiệt khó! Không đủ dưỡng khí. Từ không trung, như thể có vài cửa cống khổng lồ, đất, cát và rong tảo đầm lầy đổ xuống đầu chúng tôi. Mũi tôi đầy bụi đất, phổi thì khói và khí ga đầm lầy bốc lên tràn ngập.



Những tiếng nổ nối đuôi nhau nhanh đến mức mà bất cứ cái gì bắn lên từ đất không có thời gian rơi xuống vì những phát nổ mới sẽ hất tung lên, lần nữa, rồi lần nữa. Những hố đạn pháo chi chít khắp nơi, chiếc xe ngựa nảy tưng tưng. Nó có thể vỡ ra bất cứ lúc nào. Tôi chợt nghĩ rằng chúng tôi nhẽ ra nên cột dây thừng vào bộ cương. Chứ nếu chiếc xe rớt ra, lũ ngựa và phóng biến mất và chúng tôi sẽ tận mạng!



Những chú ngựa phóng nhanh và nhanh hơn nữa. Trong màn khói bụi dày, tôi chỉ thấy lờ mờ bụng chúng. Những con ngựa vận động quá mức và lại sợ hãi nữa, nên chúng ị ra trong gió, thế là chúng tôi bị phủ đầy phân từ đầu tới chân! Tôi chạy với đôi mắt nhắm tịt, tôi không muốn khói và bụi làm mù mắt. Nên tôi một lúc lại mở mắt ra một tý để nhận biết lờ mờ những gì đang xảy ra. Vài cảnh tượng loáng qua trước tôi: những mẩu vụn của ôtô, pháo và xe ngựa nằm đầy trên dốc. Một chiếc đầu ngựa, bị đứt lìa, miệng há ra, rơi lộn xuống đám bùn xanh đen của đầm lầy. Và bay ra đằng sau tôi – ôi Chúa ơi – là một thi thể đẫm máu, nửa trần truồng, của một ai đó, mất cả đầu lẫn tay…



Cổ xe trước mặt biến mất, rồi lũ ngựa của chúng tôi, lao nhanh theo sau vào làn khói cũng biến mất. Phải chăng cỗ xe đã bị trúng đạn rồi? Nhưng sợi dây, vẫn riết chặt phát đau tay tôi, vẫn lôi tôi về phía trước và tôi tiếp tục chạy vào nơi nào đó không biết. Khói độc từ TNT cháy dở làm héo phổi tôi. Đó là Nitric Oxít, một loại khí rất độc. Mồm thì đầy đất cát. Tôi vẫn cố bảo vệ mắt mình, mở ít nhất có thể. Dù rằng, tôi có thể không thấy gì hết! Ơn Chúa, bọn ngựa của chúng tôi vẫn an toàn và phóng như điên, như thể bị quỉ lùa.



Điều quan trọng nhất là không được ngã xuống! Tôi nên chú ý đến những hố đạn! Một chân tôi thụt vào trong một cái hố hoặc cái gì đó, nhưng tôi vượt qua nỗi nguy hiểm này và bây giờ thì hết sức tập trung như chưa hề có trước đó. Nhưng thế nào nếu có chứơng ngại vật nào đó phía trước và lũ ngựa sẽ vọt qua?  Tôi sẽ làm ổn chứ? Cơ thể tôi như lò xo thép, tôi nghĩ tôi có thể nhảy qua được bất cứ thứ gì.





Chúng tôi chạy, nhảy và phi nhanh, nhưng con đê vẫn còn dưới chân. Sau cùng! Cũng có âm thanh của ván cầu! Chúng tôi đã gần tới đựơc hữu ngạn! Ôi, những người đẹp của tôi, chỉ một nước phi nữa thôi. Chúng tôi sẽ làm được chứ?



-         “Moiseev” tôi gào lên “cầm cương nào!”



Chúng tôi cũng phải cẩn thận để không phi thẳng vào tuyến quân địch! Chúng tôi phải rẽ sang trái hay phải gì đó ngay chỗ cây cầu kết thúc. Moiseev giật cương và gần như rơi xuống, kéo mạnh sang bên trái hết sức. Bằng cách nào đó, chúng tôi xoay sở để rời khỏi con đường, xuống vệ sông.



Không nghỉ, Gregory và tôi lôi súng, ba lô từ xe xuống. Tay chúng tôi cũng bỏ những sợi thừng ra và chúng tôi gieo mình lên lớp cỏ dày, nằm dán lên mặt đất lạnh vài giây. Tôi không thể ngăn mình nhìn xem những anh em phía sau vượt qua như thế nào. Cả con đường hoàn toàn bị che phủ bởi những cụm khói và những ánh lửa từ những tiếng nổ không dứt. Dọc theo nó, có thể thấy những cột đen ngòm phóng lên và rơi xuống lại đầm lầy. Cả đầm lầy rền rĩ, bị đấm, bị đập và rơi tõm. Một mớ hỗn độn lớn xe, pháo, người, ngựa vẫn lăn lên phía trước. Dòng chảy đó khi đến bờ phải chúng tôi, rẽ ra bên trái và bên phải rồi tan biến vào trong cỏ, ngô hoặc lúa mì.



Không có thời gian để nói lời tạm biệt nhau, với Moiseev, hoặc thực ra, với những chú ngựa đáng yêu đã cứu mạng chúng tôi (chiếc xe chạy ra xa dọc theo bờ), Gregory và tôi chạy theo những hướng khác nhau để tới vị trí của mình. Tôi thấy thiếu tá Cận vệ Ivan Tukhru, anh như có bùa vậy, không một viên đạn hay đại bác nào có thể chạm vào anh! Đại uý Nikolai Kartoshenko, tiểu đoàn trưởng, cũng xoay sở vượt được qua với ban tham mưu của anh!



Tôi mừng khi thấy được bất cứ ai, sau khi chạy qua khỏi con đường tử thần, và xuất hiện ở bờ bên này. Tôi thấy hoang mang quá: “Sao họ sống được nhỉ?” Cú vượt sông thành công chính mình đã gây ấn tượng trong tôi như là một thứ gì đó độc nhất, phi thường.



Đây rồi, chúa Allah phù hộ, Yanson! Gập người thấp dưới sức nặng của nòng cối, chàng “viện sỹ hàn lâm” của chúng tôi, tiến lên, với vài tay mang giá đỡ đi bên cạnh. Còn nọ là Sergei Lopunov với bệ súng. Kìa Vasili Shamrai! Nikolai Kobylin! Cùng với khẩu Maxim của họ! Họ lủi đi và giờ đã sẵn sàng khai hoả khẩu đại liên. Kia là một cô y tá tôi quen! Có phải là Tonia? Và Ania, Galia! Cả những cô gái cũng làm được! Tay điện báo của chúng tôi Vladimir Semionov cũng sẵn sàng tháo cuộn dây ra. Nhưng tôi cũng không thấy nhiều người khác. Đại uý Cận vệ Vladimir Yegorov, chính uỷ trung đoàn cũng còn sống, không một vết trầy! Anh ấy cũng là một lính “Stalingrad”. Và thật là vui khi thấy những tay pháo thủ Leonid Nochovny và Ivan Yemelianov chỉnh khẩu pháo 76mm chuẩn bị bắn phát đầu. Nhưng còn những pháo thủ khác ở đâu? Chiếc cầu giờ đây đã bị sập, nhưng quân ta tiếp tục đà di chuyển trên con đê mới được làm từ xe hỏng, pháo hư, xe ngựa, ngựa và người….



Nửa giờ sau, có tín hiệu tấn công. Tiếng hô vang dội “hurra-a-a-h!” chạy từ cánh này sang cánh khác, và trung đoàn tôi bắt đầu xung phong để xây dựng đầu cầu ở hữu ngạn không Vorskla! Quân đoàn Cận vệ chúng tôi mạnh mẽ tiếp tục tiến bước. Chúng tôi lội qua sông Vorskla lần nữa, đúng vào chỗ Peter Đại Đế đã cùng lính của ngài vượt qua trong cuộc chiến Phương Bắc vĩ đại, ngang cây thập giá bằng đá hoa cương, được dựng lên kỷ niệm chiến thắng của Người Nga trước quân Thuỵ Điển ở trận chiến Poltava, năm 1709. Còn chúng tôi thì tiến vào thành phố đó vào ngày 23 tháng Chín.



Phụ nữ và người già chào mừng quân ta. Tất cả họ đầu hốc hác, gầy mòn, chỉ còn da bọc xương. Nhưng họ hạnh phúc. Lính ta tìm thấy một nhà máy xay bột bị hư hại, còn bột, vốn chuẩn bị để di tản về Đức, dùng cà mèn của họ để mang bột đến người dân. Trong vòng một giờ, họ đã đãi quân giải phóng bằng galushki (bánh bằng bột mì luộc truyền thống người Ukraine – ND)




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:09:25 am


Chương 11: Cuộc chiến này dài bao lâu?



Tả ngạn Ukraine (tức phần đất Ukraine nằm ở bờ Đông sông Dnieper – ND). Dù chúng tôi đã cố đẩy quân Đức về phía tây nhanh nhất có thể, nhưng chúng vẫn có cơ hội để đốt phá nhiều thị trấn, làng mạc và nông trường. Tro, than và khói mọi nơi. Chỉ những chiếc bếp lò vẫn còn tồn tại ở chỗ vốn là các ngôi nhà. Những gốc cây cháy thành than. Tất cả bị huỷ hoại. Người dân Ukraine phải rất nỗ lực rất nhiều để cuộc sống có thể hồi sinh trên vùng đất này. Chiến tranh đi qua chỉ để lại tro tàn phía sau.



Chúng tôi tiến vào Kremenchug ngày 29 tháng 9 năm 1943. Quân ta giải phóng được một trại tù binh, ở đó địch đã tra tấn và hành quyết hàng ngàn chiến sỹ Sô viết. Những anh em du kích bị bắt cũng giam giữ tại đây. Bọn phát xít đã dùng nhiều phương pháp tàn bạo để hành hạ tù binh. Ví dụ như các giá treo ở đây rất khác thường, bọn Đức dùng những cái móc kim loại để treo người lên đằng chân, tay, sườn và cả cằm nữa. Quân Vlasov làm công tác đao phủ. Có chừng 100 nạn nhân bị treo lên theo cách ấy. Chúng tôi xoay sở để đưa xuống khoản một tá anh em còn sống.



Sau đó chính tôi đã tận mắt thấy một cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên. Những nữ nông dân, với rìu, chạc, que cời, hoặc gậy gộc trong tay, dẫn vài tên Đức và những tên phản bội xuống phố. Những chị phụ nữ rất phấn khích, hét to bằng tiếng Ukraine. Lát sau họ dừng lại cạnh một cái hố và đẩy bọn tù binh xuống. Một tên Nazi, cố cưỡng lại la lên:



-         “Mein in Haus drei Kinder!”. (Ở nhà tôi có ba đứa con)



Nhưng chị em trả lời:



-         “Thế còn chúng tao thì sao? Mày nghĩ chúng tao là đồ bỏ à? Ném nó xuống!”



Không có sức mạnh nào trên thế giới có thể làm tôi ngăn hành động trừng phạt này với bọn đồ tể phát xít.



Tại Kremenchug quân Đức cài mìn bất kỳ thứ gì có thể gây chú ý. Một đơn cử là, có một anh bí thư đoàn của tiểu đoàn bạn nhặt một chiếc đàn balalaika lên: và một vụ nổ làm anh cùng 17 người khác đứng quanh đó thiệt mạng. Ở vệ đường, tôi thấy một chiếc xe đạp mới dựng tựa vào hàng rào liễu gai. Tôi luôn có một ước muốn rất trẻ con là có một chiếc xe đạp để cưỡi, mà điều này chưa từng được thoả mãn, thế là tôi đi thẳng về chỗ đó. Tôi bước nhanh đến, nhưng rồi tôi thấy một tay thượng uý cũng hướng về đấy, cố thắng tôi. Tôi thất vọng, nhưng thế rồi lại nhận ra mình không thèm. Tôi không thật sự cần nó. Vì thế, tôi quay ngoắc lại và đi. Đột nhiên, một tiếng nổ vang lên! Tôi quay lại, không còn chút dấu vết gì của người sĩ quan kia cùng chiếc xe, chỉ còn một cái hố lớn nơi trước đây là một hàng rào liễu gai.



Cư dân Kremenchug ra khỏi những nơi ẩn náu liền vội vã quay về thành phố với nhà cửa của họ, và vì vậy khắp nơi quanh chúng tôi luôn nghe tiếng mìn nổ, nơi này, nơi kia. Trẻ em, phụ nữ, binh sỹ, tất cả đều bị nổ tung…



“Hữu ngạn Ukraine đang đợi ta!”, “Trả lại Dnieper!”, “Tiến qua dòng Dnieper!”, khắp nơi quanh chúng tôi đầy những khẩu hiệu đó. Trên mọi tờ báo, truyền đơn chúng tôi đọc những lời kêu gọi của Tổ quốc. Và giờ đây chúng tôi đang đứng ở bờ con sông vĩ đại này! Rộng 1,100 mét. Chúng tôi sẽ phải vượt qua như thế nào? Chúng tôi sẽ dùng các bó rơm, từng chút một, bơi qua dòng Dnieper! Sẽ mất chừng 3 giờ bồng bềnh để đến bờ bên kia. Dưới hoả lực à? Này, Mansur, mi sẽ đánh liều lần nữa chứ? Hở? Tốt thôi, nếu ngươi không đánh mất tất cả sự may mắn của mình? Nhưng ngộ nhỡ không còn chút may mắn nào sót lại thì sao? Đã bao lần mi đối mặt với tử thần rồi? Có còn chút vàng nào trong kho báu vận mệnh của ngươi không?



Đêm ngày 5 tháng 10 năm 1943, cạnh làng Vlasovka, không xa về phía thượng nguồn Kremenchug, quân đoàn bộ binh Cận vệ số 32 có sư đoàn cận vệ số 66 của chúng tôi trong đội hình, bắt đầu vượt sông với đích tới là đổ bộ lên đảo Peschanny. Tên mã của đảo này là Helmet. Đảo khá rộng – diện tích 5 km vuông – tuyệt đối bằng phẳng, hầu như nằm ngang mặt nước. Không một ngọn cỏ. Không một bụi cây. Toàn cát xám…



Trước đó, khi đang quan sát bãi cát đó từ phía tả ngạn, tôi chợt nhớ lại, vì lí do không rõ, tôi bước vào một ngôi nhà thờ bằng đá nhỏ ở Kremenchug. Bọn Phát xít đã cố phá huỷ nó vài lần. Chúng cố làm nổ tung nó lên và đốt cháy. Bên trong, mọi vật làm từ gỗ đều bị cháy, nhưng ngôi nhà thờ vẫn đứng vững. Trong sân chầu tôi gặp một cụ già:



-         “Thưa cha, cha là ai?”



-         “Ta là một tu sỹ”



Chúng tôi ngồi xuống và nói chuyện với nhau. Tôi cũng lưu ý rằng tôi là người rất tò mò và thích nói chuyện với người lạ. Cụ tu sỹ không mặc áo lễ mà mặc một chiếc áo len bông cũ kỹ và trông không giống người tu hành tí nào. Nhưng chúng tôi nói về gì nhỉ? Khi còn nhỏ tôi được nghe rằng Kinh thánh cho chúng ta biết những gì sẽ xảy ra trên thế giới và những gì đã và sẽ đến cũng được tiên tri trong Kinh thánh. Một câu hỏi thuần tuý về quan điểm:



-         “Nếu mọi thứ được tiên tri trong kinh thánh” tôi bắt đầu “vậy cuộc chiến này ắt hẳn phải được nhắc đến, đúng không?”



-         “Đúng, đúng vậy con ạ”



Tôi ngạc nhiên rằng cụ không cố làm tôi rối trí bởi một cuộc nói chuyện thần học, vì vậy tôi đặt cho cụ câu hỏi mà tôi quan tâm nhất:



-         “Vậy cuộc chiến này dài bao lâu?”



Tôi chắc rằng cụ sẽ nhún vai thay cho câu trả lời. Nhưng cụ nghĩ một lát như thể tính toán hay nhớ lại điều gì, rồi trả lời:



-         “Chừng 48 tháng”



Không biết cụ tu sỹ này lấy thông tin đó từ đâu? Chắc chắn không từ Kinh thánh, tôi biết thế. Khả năng lớn nhất là từ trực giác của cụ. Giờ đây, ngồi bên tả ngạn dòng Dnieper và nghĩ về con số “48 tháng” tôi tính ra rằng nếu nó chính xác, thì bây giờ là đoạn giữa của cuộc chiến!



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:10:08 am


Trong năm ngày, từ ngày 29 tháng 9 đến ngày 4 tháng 10, sư đoàn tôi chuẩn bị lực lượng vượt sông. Mỗi lính bộ binh được trang bị một thiết bị đặc biệt để nổi: một bó rơm đặt trong áo mưa vào cột chặt lại bằng dây thừng. Nó trông như một cái trụ bự. Chúng tôi thực nghiệm thiết bị này trong nước và thấy rõ là có thể chịu được, không bị chết đuối. Vài người còn khâu kín cả ba lô và thử nó dưới nước. Tôi thì là một tay bơi có kinh nghiệm. Tôi lớn lên ở vùng Cheliabinsk, cạnh dòng sông Miass. Và cũng có khá nhiều hồ quanh đó. Tôi tắm ở cả những chỗ đó và cũng có những cuộc bơi thi khá xa với chúng bạn. Nhưng tôi cũng cần phao, bởi chúng tôi phải vượt sông với đầy đủ quân cụ.



Đêm ngày 5 tháng 10 năm 1943, cạnh làng Vlasovka, chúng tôi bắt đầu vượt sông Dnieper, mục tiêu của chúng tôi là đảo “trung lập” Peschany. Tôi mang một đôi ủng vải bạt bó chân. Khi bị ướt, chúng bó đặc biệt chặt. Tôi cũng mang khẩu SMG, hai trống đạn, hai quả thủ pháo và khẩu súng ngắn TT. Cái ba lô của tôi thì làm chức năng của phao. Tôi nhét vào đó rơm mới và khô ráo, rồi cẩn thật khâu kín lại và bôi mỡ lên bằng một mẫu mỡ Mỹ.



Hòn đảo này chia dòng Dnieper ra làm hai. Ở phía chúng tôi, thì rộng chừng 700m, còn phía bờ phải còn trong tay bọn Đức, chừng 300-400mét, nhưng không những hẹp hơn mà còn cạn hơn. Quân phát xít lội qua dễ dàng và chuẩn bị để “đón” chúng tôi, chúng đào những đoạn hào phòng thủ khá tốt và nguỵ trang tiệp với màu cát. Nhưng chúng tôi không biết điều này vào lúc đó…



Theo hướng dòng chảy, tất cả các đơn vị chúng tôi yên lặng theo con nước ngược lên đảo. Quân địch yên lặng. Tôi trong số những người sau cùng vượt sông. Tôi nhìn thấy toàn bộ đồng đội trong tiểu đoàn bắt đầu vượt sông. Và khi chỉ còn lại tôi sau cùng trên bờ, tôi cũng bắt đầu lội xuống dòng nước lạnh. Dòng sông đen kịt. Đêm tối mịt mùng. Không một ngôi sao trên bầu trời. Thời tiết lý tưởng cho quân ta.



Tôi bắt đầu bơi. Thật khó, nhưng tôi có thể xoay sở được. Bảy trăm thước và thêm chừng 400 vì bị dạt theo dòng. Được, tôi sẽ làm được. Tôi bơi tiếp. Tôi tính rằng tôi đã qua được phân nữa chặng đường. Vào lúc đó, không gian bùng cháy và tôi nghe tiếng rít quen thuộc của pháo, cối từ phía hữu ngạn. Bây giờ mặt sông phủ những thứ vụn vỡ, giẻ rách, ván, gậy. Còn rơm, như bèo tấm, rải đầy mọi nơi, chúng bung ra từ những cái phao bị xé toạc bởi đạn nổ. Dòng nước chao ném tôi về phía sau, rồi lên phía trước thể như tôi đang trong một trận bão. Những quả đạn pháo nổ làm nên các con sóng từ mọi hướng. Rồi một cột nước phóng tôi lên, khi tôi rơi xuống, chìm xuống, màng nhỉ như bị đục thủng bởi tiếng động của một tá vụ nổ. Không có lối thoát cả trên hay dưới mặt nước! Tôi chợt nhớ cách tôi đánh cá bằng thuốc nổ. Giờ đây, tôi, chính tôi, như một trong số những chú cá bất hạnh đó.



Tôi cố đánh tay, quẫy mạnh nhanh rồi nhanh hơn để có thể đến được hòn đảo, nhưng những con sóng cứ xoáy tròn tôi đi đi lại lại. Rồi đột nhiên, tôi thấy mình đang bơi ngược lại phía tả ngạn, sợ hãi nhận ra điều đó, tôi quay lại về phía bờ phải. Tôi không mấy e ngại về hòn đảo, dù tôi vẫn không biết là bọn Đức đã ở đó. Tôi cảm thấy, không biết vì sao, phía hữu ngạn hấp dẫn, dù rằng hàng trăm khẩu pháo của quân thù đang nhả đạn từ phía ấy. Tôi sợ những người chết đuối sẽ lôi tôi theo. Người chết đuối như những con bạch tuộc nằm chờ nạn nhân, và không cách nào thoát ra khỏi cái ôm của họ. Thật đáng sợ! Tôi bơi một mình giữa tiếng gầm hỗn mang.



Tôi thấy một anh lính đầu cứ hụp xuống nước và thở hỗn hển. Dường như anh cố bơi tiếp nhưng hết sức rồi. Tôi có thể giúp anh chàng tội nghiệp bằng cách nào nhỉ? Tôi thận trọng bơi lên phía anh ta và chạm vào tay anh bằng cái phao. Tay anh ta ôm chặt cái ba lô, trong khi tôi bắt đầu đẩy anh ta một chút từ phía sau. Anh rên rĩ và thở nặng nhọc. Đôi mắt nhìn quanh không chớp như thể anh ấy mới nhìn thấy thế giới lần đầu tiên. Một ấn tượng kinh khủng! Anh ấy dường như lấy lại hơi thở và bắt đầu hiểu ra việc gì. Tôi bơi cạnh anh, đẩy nhẹ anh lên phía trước. Rất chậm chạm, anh nói: “Cảm ơn anh bạn!”. Tôi cảm thấy anh không còn nguy hiểm nữa nên đặt một tay lên chiếc ba lô. Tôi bơi ngửa.



Anh chàng mới quen nới lỏng tay ôm, và bắt đầu giữ phao bằng tay trái, trong khi chèo bằng tay phải. Con người mới lạ lùng và đáng yêu làm sao! Trong cảnh địa ngục này vẫn cho những phút giây vui vẻ bình dị. Tôi vui vì có được một người bạn mới màôi đã cứu mạng. Chúng tôi tiến tiếp, vui vẻ nhìn nhau.



Sau cùng chúng tôi cũng thấy đáy dưới chân mình. Nó bằng phẳng. Chớp sáng của đạn nổ cho thấy hình bóng của quân ta chạy từ phía bờ về trung tâm hòn đảo. Một tiếng nổ! Rồi một tiếng nữa! Một đám cát phủ lên tôi. Những khúc gì ấm và ẩm ướt rơi cùng với cát từ trên không: những mẫu thi thể người.





Người bạn mới tiến lên bên cạnh tôi, hét với bất cứ ai đang chạy hay nằm dưới đất:



-         “Sư 13 ở đâu vậy? Sư 13 ở đâu vậy?”



Khi vượt sông Dnieper, các trung đoàn và sư đoàn trộn lẫn vào nhau, nên không ai tìm ra đơn vị.



-         “Anh em đâu? Chỉ huy ở đâu nhỉ?”



Tôi tự hỏi mình.



Đâu đó có câu trả lời điên khùng:



-         “Nhìn trên cát ý!”



Mọi nơi chung quanh, trên cát, tôi thấy quân ta. Họ còn sống hay chết? Tôi chỉ thấy đầu của họ ngẩng lên, trông như những quả dưa hấu trong vườn.



Người tôi phủ đầy cát. Cả trong mồm. Chúng làm tướt da tôi như bột mài. Cát đập lên người cố chôn tôi xuống. Hơi nổ dúi tôi xuống. Tôi xoay người dũi vào cát ướt như một con cua. Hỗn hợp cát, nước và bùn phủ lên thân thể rã rời và kiệt lực của tôi. Tôi chỉ muốn nằm xuống không đi nữa. Nhưng nếu tôi bị thương, tôi sẽ không ra khỏi được. Tôi cố bò ra! Người đồng đội ở sư đoàn cận vệ 13 vẫn tìm đơn vị, nhưng không thấy, anh nằm xuống cạnh tôi và hét vào tai:



-         “Mình tên là Alex, Alex Kolesnikov. Đi cùng nhau nhé. Được không? Nếu có gì thì chúng ta sẽ giúp nhau. Đồng ý chứ?”



-         “Đồng ý” tôi hét lên.



Bọn phát xít đang nã pháo dữ dội lên đảo. Tiếng súng không dứt. Chúng tôi có thể làm gì? Tiểu liên thì không hoạt động: cát lấp kín mọi ngóc ngách. Lựu đạn cũng vậy. Tôi thấy một khẩu Maxim chìm phân nửa trong cát. Chỉ có những chiếc xẻng đào hào, thứ vũ khi duy nhất chúng tôi có mà không bị cát làm hư hại. Nhưng quân địch mà chúng tôi định chiến đấu đang ở đâu? Pháo địch từ phía bờ kia của sông Dnieper? Phía bờ mà chúng tôi bị làm đôi! Alex và tôi quyết định sẽ đi lên về phía trung tâm hòn đảo, theo hướng hữu ngạn sông Dnieper. Ở đây yên lặng hơn, không đạn nổ: vùng chết.



Chúng tôi chạy lên, nhảy qua những người khác nằm như những con hải cẩu bị mắc cạn. Dừng nào! Không còn ai ở phía trước. Nhưng gì vậy? Chúng tôi chạm phải hoả lực súng máy! Chúng tôi có thể thấy lưỡi lửa đỏ rực từ nòng súng! Bọn phát xít đã ở trên đảo? Đó là nguyên nhân tại sao không có tiếng nổ ở phía trước, pháo binh địch bắn vòng qua đầu bộ binh chúng! Vậy đó! Bọn Đức đang có trên đảo! Chúng tôi nên thật cảnh giác nhưng pháo địch làm anh em điếc đặc. Chúng tôi phải đề phòng rắc rối nhưng thứ cát chết tiệt làm mù mắt anh em. Tình hình thật tệ. Rất rất tệ.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:11:24 am

Trời sáng. Hoả lực địch càng mãnh liệt hơn. Từ phía bờ cao hữu ngạn, địch có thể trông thấy rõ cả quân ta lẫn các đơn vị của chúng nổi bật trên nền sáng của cát. Chúng bắn mà không bị trở ngại gì. Không có lấy một chiếc phi cơ trên trời. Không quân ta ở đâu? Pháo binh ta ở bờ trái cũng yên lặng! Tôi có cảm giác rằng chúng tôi bị bỏ mặc cho Định Mệnh.



Nhưng không ai chạy khỏi hòn đảo. Nấp kín trong cát, quân ta chờ đến lúc hành động. Một anh lính, với gương mặt điển hình của người Cossack, cúi thu lu trên cả tứ chi. Bộ ria hải mã của anh quặp xuống cằm. Anh vẫn lúc lắc đầu, cố cho bớt ù tai. Tiếng nổ nhảy múa quanh anh, trong khi anh, lúc lắc theo mọi hướng, ngóc lên. Tôi không đủ can đảm để tiếp tục nhìn anh. Nhưng khi tôi liếc lại chỗ đó chừng vài phút sau, chỉ còn thấy gót giày của anh ló ra trên cát.



Đạn quân phát xít tiếp tục rơi xuống như mưa, nhưng một số anh em vẫn còn sống. Pháo địch ngưng chừng năm phút rồi rồi lại tiếp tục bắn chặn. Cứ hai mươi phút nã thì có năm phút ngưng.  Trong đầu tôi, lần nữa, quay lại cảnh các kinh nghiệm chiến tranh của mình: trận vượt sông Vorskla, trận Chervonny Prapor, trận Dragusk, Prokhorovka. Không, không có lần nào tệ hại như lần này! Tôi cho rằng mình đã để lại phía sau những trận đánh kinh hoàng nhất: ở Stalingrad, ở Kletskaia, ở Kalach-sông-Don và vòng cung Kursk! Nhưng đây! Hòn đảo trên dòng Dnieper! Một hòn-đảo-âm-ty! Quá đáng sợ, vô nghĩa và hoàn toàn vô vọng, trận chiến này làm lu mờ mọi trận từ dòng Volga đến Dnieper. Chúng tôi không vũ khí, điếc đặc, mù loà, choáng váng và bị cô lập với đồng đội! Chúng tôi không có lựa chọn nào ngoài việc bỏ mạng dưới làn mưa đạn địch! Tôi có suy nghĩ, mà tôi không thể, dù đã cố, đuổi nó đi:  ai đó đã tổ chức nên một chiến dịch sai lầm một cách tệ hại.



Đêm xuống, quân phát xít ngừng bắn. Alex và tôi bắt đầu tìm kiếm đồng đội một lần nữa. Những người lính khác, còn di chuyển được, tham gia cùng chúng tôi. Họ cũng hi vọng sẽ tìm thấy tiểu đoàn, trung đoàn của họ. Còn về phần ban tham mưu sư đoàn, họ còn ở phía sau, bên bờ trái Dnieper. Vài người còn chút bánh mì và chia nó cho chúng tôi. Nhưng sau đó thì sao?



Hi vọng rằng sẽ được sơ tán về phía tả ngạn, hầu hết thương binh bò xuống mép nước. Giá mà có ai đó thông báo cho chỉ huy của chúng tôi về họ! Alex đề nghị rằng tôi nên bơi trở lui và tìm sở chỉ huy. Anh đấy đúng, nhưng tôi ngại. Họ có thể nghĩ rằng tôi là một thằng hèn, cố ý chuồn khỏi hòn đảo và dùng anh em thương binh như một cái mộc để giải thích. Họ cũng có thể kết tội tôi là một kẻ gieo hoang mang. Vì thế tôi đề nghị một kế hoạch khác, với tôi, ít ra, trông kém khủng khiếp hơn.



Kế hoạch như sau. Chúng tôi không đi tìm đơn vị nữa – mọi người ở đây đều là chiến hữu – và tổ chức ra một nhóm xung kích chừng 500 tay súng. Sau đó, lúc bình minh, chúng tôi sẽ tấn công các vị trí quân Nazi ở bờ kia của đảo. Ở đó, ít ra thì chúng tôi cũng an toàn với hoả lực pháo. Nhưng làm thể nào để tấn công mà không có súng máy, lựu đạn? Tiểu liên của chúng tôi sẽ bắt ánh mặt trời chiếu vào mặt quân Đức! Lựu đạn của ta sẽ là các nguyên tố bất ngờ và tốc độ! Chúng tôi sẽ nhảy lên đầu bọn địch đang ngồi trong chiến hào! Sẽ xéo chúng bằng giày và xé chúng bằng răng! Chúng tôi sẽ chiếm đại liên, tiểu tiêu của chúng rồi tổ chức phòng ngự vòng tròn! Và hẳn ở đó cũng sẽ có thức ăn.



Tôi giải thích kế hoạch của mình cho nhiều chiến sỹ khác. Một số thì nghĩ rằng nó hão huyền, nhưng mọi người đồng ý tham gia. Ở đây, trên hòn đảo này, hành động nào cũng tốt cả, vì chỉ có một lựa chọn khác là cái chết. Và chết trong khi chiến đấu thì tốt hơn là nằm chờ trên cát ẩm ướt.



Chúng tôi nhanh chóng tập hợp đội ngũ. Hơn 500 người! Chúng tôi lặng lẽ tiến lên gần tuyến quân Đức hết mức có thể rồi nguỵ trang, dũi sâu vào trong cát. Tín hiệu tấn công là nhóm tôi đứng dậy.





Trời vẫn còn tối, chỉ có ánh xám chút ít ở đằng đông. Bọn Frizt lại khai hoả lần nữa. Đầu tiên, chúng bắn về phía xa đằng sau chúng tôi, chỗ thương binh đang nằm, rồi sau đó chuyển làn về phía trung tâm hòn đảo, chỗ chúng tôi. Một cú đánh mạnh thốc vào phía sau đầu tôi, chắc không ít hơn một tấn cát! Nó làm tôi dập mặt xuống đất và tôi không kịp nhắm mắt. Tôi bị giúi vào cát mà đang mở mắt! Tai ù, mắt cay nhức, tối đen, tôi thấy mình như nằm dưới một chiếc máy ép khổng lồ. Cả cơ thể tôi lắc lên trên, để bùng ra. Đầu tôi dễ dàng cất lên được và chỉ sau đó tôi biết là không còn gì đè lên mình. Nhưng tôi không thể nghe, không thể thấy gì cả. Hoàn toàn mù tịt, tôi đào một cái lỗ nhỏ trước mặt mình. Có nước. Vốc trong tay đầy một dung dịch với bùn và cát,  tôi cố giương mắt rửa. Tôi phải nhìn thấy! Tôi lau vết thương và đôi mắt đau nhức bằng thứ bùn loãng đó và rốt cuộc cũng thấy được chút ánh sáng lờ mờ, đỏ như máu! Đầu tiên nó đỏ sẫm rồi sau đó sáng dần lên!



Alex đào một ít cát lên thêm và vốc được một chút thứ tạm gọi là nước sạch, rồi giúp tôi rửa mắt. Tôi cố nháy mắt. Đau quá! Tôi thử lần nữa, rồi lần nữa. Dường như đỡ hơn. Chỉ còn sự yên lặng chết chóc trong tôi. Đạn pháo vẫn rơi khắp mọi nơi, nhưng tôi hiếm khi thấy chúng, và không thể nghe được. Mỗi khi cần chúi xuống, Alex lại nhấn đầu tôi vào cát. Rồi cơn nguy qua đi, anh lại lôi tôi lên bằng cách kéo cổ áo! Ôi Alex, Alex, không có cậu mình biết làm gì? Giúp tôi nào, anh bạn! Tôi không thể nghe được. Tôi làm theo cử động của những người khác, họ hụp đầu xuống đất là tôi làm theo ngay. “Mình chết rồi, mình chết rồi” tôi nghĩ “Vậy đó, hết rồi”



Tôi nhìn về đằng đông và thấy vầng dương ló dạng phía chân trời. Alex chìa ngón tay cái của bàn tay phải dưới mũi tôi, đồng thời hai ngón tay khác làm động tác “chạy” trên cát: đến giờ rồi. Tôi gật đầu đồng tình.



Tôi nhổm lên, vui mừng thấy chân mình vẫn có thể chịu được! Chúng tôi đứng dậy, chừng mươi hay mười lăm người cùng lúc, đúng kế hoạch. Chỉ trong vòng 3 bước là một loạt các anh em xuất hiện ngay phía sau chúng tôi, một cơn thuỷ triều đen của 500 kẻ liều mạng phóng về phía chiến hào quân địch. Tôi thấy những mồm mở ra hét vang. Tôi cũng gào lên, dù tôi không thể nghe thấy chính mình. Phải chăng mình bị mất giọng. Cổ họng tôi đau rát.



Trượt trên cát, tôi vọt thẳng đến bọn Đức đang kinh hãi. Không ngạc nhiên tí nào khi thấy chúng hoảng sợ, bởi chúng tôi xuất hiện khắp nơi, như mọc lên từ cát và giờ đây tràn lên đe doạ chúng. Vài tên hấp tấp lên đạn súng tiểu liên, nhưng phần lớn hoàn toàn bất động. Dường như sự xuất hiện tràn ngập của chúng tôi làm chúng rùng mình. Thật lạ, nhưng chính tôi cũng cảm thấy khiếp đảm dù biết rằng tôi là nguyên nhân của cơn hoảng sợ đó. Thật khó giải thích. Tôi thấy có một tên nhìn tôi, hắn sợ đến cứng người, rồi cơn sợ đó cũng lây sang tôi, nhưng còn mạnh hơn gấp bội. Không chịu nổi cú giao nhãn đó, tôi chạy nhanh rồi nhanh hơn để để kết thúc cái cảm giác không thể chịu đựng nỗi càng lúc một tăng này. Giết hắn !



Tôi sẽ luôn bảo rằng đó là một cuộc chiến đáng nguyền rủa. Nhiều anh em chạy cạnh tôi đã ngã xuống. Nhưng quân Đức, bị loá mắt cũng không thể bắn trúng. Tôi thấy một tên Frizt đang cố bỏ chạy, hắn đang trèo lên ở phía đằng kia của chiến hào. Nhưng một gã sỹ quan gào lên với hắn, miệng mở to. Tên sỹ quan vẫy một phát súng lục, thân hình không còn sự sống của tên lính ngã gục xuống. Nhưng hắn không thể bắn hết tất cả được, những lính Nazi khác đã bò ra được và chạy mất dạng. Chúng tôi nhảy xuống, cỡi lên vai những tên lính Đức liều mạng hoặc đơn thuần là kinh sợ đến cứng người lại. Giẫm, nghiền bọn chúng bằng chân, bằng tay, cướp tiểu liên của chúng.



Có một cậu quân ta đang cưỡi trên vai một tên Đức, chạy tới chạy lui. CÒn tôi thì dùng khẩu súng bị tắc như một cái dùi cui. Và sau cùng, cũng tước được một khẩu SMG từ một tên địch bị giết. Tôi nổ súng vào bọn Đức đang bỏ chạy. Rốt cuộc, tất cả chúng tôi cũng chiếm được được súng của bọn Đức và quét sạch một khu vực nhỏ cho mình. Như một đàn chó dại, quân thù ném mình vào chúng tôi từ cả cánh phải và cánh trái, nhưng bây giờ thì chúng tôi đã có lựu đạn và súng rồi.





Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:11:40 am
Sau cùng, bọn Nazis mệt mỏi đành từ bỏ cuộc tấn công. Chúng tôi ném những xác chết ra khỏi hào rồi băng bó thương tích cho nhau. Alex mang lại cho tôi một gà-mèn nước sạch và tôi cố rửa mắt lần nữa. Bấy giờ tôi có thể nhìn rõ nhưng vẫn không nghe được gì.



Anh em đang nhóp nhép và cẩn thận nghe ngóng xem việc gì sẽ xảy ra. Chúng tôi tiếp tục giữ thế trận phòng thủ vòng tròn. Chỉ một thứ mà chúng tôi không còn e sợ là hoả lực pháo địch. Quân phát xít ở cả hai bên cánh chúng tôi nên pháo địch không dám bắn vào. Alex vung quả đấm lên và nói: “tình hình bình thường!”. Cậu nhìn vào tai tôi và ra cử chỉ: “Không có gì cả”. Alex ném cho tôi một cái nhìn ngờ vực: “Mình không biết tại sao cậu không nghe được?”. Nhưng tôi vẫn cảm thấy như có một cái nút gỗ đang bịt vào tai tôi.





Trong năm ngày liền chúng tôi phòng thủ trong chiến hào, ăn tất cả những thức ăn của bọn Đức mà anh em tìm thấy. Rồi sáng ngày 12 tháng 10, tôi thấy anh em có gì đó là lạ. Họ đang xoay đầu tứ phía, thò ra khỏi chiến hào với vẻ tò mò. Alex ra dấu với tôi: “Yên tĩnh. Không có hoả lực!”. Cái giây phút mà cậu ta ra cử chỉ, thì sự điếc của tôi bỗng nhiên biến mất. Dường như tai tôi, tự chúng muốn được lắng nghe không khí yên tĩnh này!



Không có chuyển động của quân địch ở hai cánh. Alex, tôi, cùng vài anh em khác bò ra và cẩn thận trinh sát quanh vị trí của mình. Chiến hào bên địch trống trơn! Có lẽ chúng có thủ đoạn gì chăng? Hay bọn Đức bỏ đi để pháo binh của chúng có thể bắn chúng tôi? Mọi người cố gắng ngồi ở cạnh tuyến quân mình để phòng khi có điều gì xấu thì có thể trú ẩn ngay. Trên đảo, tôi thấy từng nhóm quân ta. Đầu họ thì thụp đâu đó nơi này nơi kia, nhìn quanh một cách tò mò, như thể muốn hòi: “Việc gì vậy? Sao bọn Đức không bắn nhỉ?”



Hòn đảo trông như bề mặt của mặt trăng với chi chít những hố đạn. Trong những hố đó đầy máu cùng xác người, xác người và xác người. Đúng, pháo bọn phát xít đã làm việc rất tốt, mẹ nó! Mùi xác người ở giai đoạn phân huỷ làm chúng tôi muốn bệnh. Không biết có còn cần chúng tôi trụ ở đây nữa không? Dường như là không. Nhóm nhỏ những người sống sót vội vã về lại bờ sông Dnieper. Chào biệt nhé, hòn đảo-nấm mồ!



Chúng tôi không được nhận bất kỳ một lệnh nào cho việc rời hòn đảo, nhưng cùng với Alex, tôi nhào xuống nước và bơi thẳng về phía bờ phải. Dòng sông yên lặng. Không một phát súng. Mọi nơi cũng lặng yên. Khi đến bờ, chúng tôi trút bộ đồ ra, giặc giũ cẩn thận, và chậm rãi vắt cho kiệt. Rồi anh em nổi lửa, hơ khô. Không ai nói một lời. Như thể đang tụ họp trong một đám ma. Không có chút vinh dự hay vẻ vang nào với chúng tôi trong tình trạng lộn xộn này: chúng tôi chưa được lệnh rời đảo.



“Đi nào. Chúng ta phải tìm chỉ huy và báo cáo thôi”. Mọi người bước theo một hàng dọc, chừng 15 hay 20 người. Rồi chúng tôi thấy vài tay lính đang tụ tập quanh một bếp dã chiến, cháo lúa mì với dầu hướng dương thiệt ngon! Chúng tôi được một ít. Mùi vị tuyệt vời, anh em ngấu nghiến với niềm say mê. Tôi không tin nổi “Làm thế nào mà mình sống sót được nhỉ?”. Nếu tôi trụ đựơc qua cuộc chiến này, tôi sẽ viết về hòn đảo-nấm mồ này. Ồ, không, không phải là nấm mồ mà là – hòn đảo tử thần.



Sở chỉ huy trung đoàn 193 của tôi hoá ra ở rất gần. Người đầu tiên tôi gặp là đại uý Bondarenko, tham mưu trưởng:



-         “Có lệnh rời khỏi hòn đảo chưa nhỉ?”



Bondarenko an ủi tôi:



-         “Đã có lệnh từ ngày 10 tháng 10”



Tôi nhìn những người sống sót khác bước vào sở chỉ huy và từng người bắt đầu bùng ra với cùng một câu hỏi:



-         “Đã có lệnh chưa?”



Bondarenko cố an ủi mọi người:



-         “Lệnh di tản đã có từ ngày 10 tháng 10”



Chỉ khi đó thì những đồng đội tôi mới thư thái và tự cho phép họ khuây khoả.



Sau đó một chút, anh em bọn tôi bị cánh phóng viên chiến trường trong đồng phục sỹ quan áp sát và hỏi: “Cho chúng tôi biết về…”. Nhưng mọi người không còn sức để nói nữa. Tôi thông báo cho vài anh em biết về những gì Bondarenko đã bảo. Từ khi chúng tôi biết rằng đã có lệnh rời đảo, từng người bấy giờ lại muốn tìm về sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn hay đại đội của mình càng nhanh càng tốt. “Nói cách khác, chúng ta phải bơi trở lại” chúng tôi nghĩ.



Chừng ba mươi năm sau, tôi mới biết rằng quân đoàn mình đã triển khai một cuộc vượt sông giả. Khi pháo địch túi bụi bắn vào chúng tôi thì những đơn vị khác xoay sở vượt dòng Dnieper an toàn ở cả về phía thượng nguồn lẫn hạ lưu. Chừng 60 cây số về phía hạ lưu Kremenchug, cạnh làng Deriyevka và Kutsevolovka, công binh đã bắt thành công một cầu phao và những người sống sót còn lại băng qua từ hòn đảo của chúng tôi. Họ cũng đến cạnh đồng đội và lo lắng hỏi: “Có lệnh không?”. Và chỉ khi nhận được câu trả lời khẳng định, thì những quân Cận vệ đó mới đi và tìm cho mình một ít cháo.



Có vài anh em trong trung đoàn tôi còn sống trong chiến dịch đó: xạ thủ đại liên Vasili Shamrai (anh ấy còn xoay sở để không mất khẩu đại liên trong đám lộn xộn đó); hai tay xạ thủ đại liên khác, một là trong đó là một người dũng cảm tên là Timonin, cá nhân tôi biết rõ anh; một pháo thủ cối là Aleksei Yanson, chàng “viện sỹ hàm lâm” của chúng tôi; các tay trinh sát Kim Dobkin và Gregory Ambartsumiants và chính uỷ trung đoàn Vladimir Yegorov. Anh là người sau cùng rời hòn đảo. Anh luôn hành động như sau: là người đi đầu tiên khi tấn công, và là người sau cùng khi rút lui. Tôi nói rõ điều này vì tôi biết! Chỉ huy tiểu đoàn Nikolai Kartoshenko và Feodor Gridasov cũng sống sót một cách kỳ diệu.



Nhưng kỳ diệu nhất là những gì đã diễn ra với trung đoàn Cận vệ số 145 của sư 66 chúng tôi. Trung tá Cận vệ Aleksei Dmitriyev, trung đoàn trưởng, tập hợp quanh anh những người sống sót, lội sang bờ phải, đào sâu vào đất địch. Quân cận vệ của Dmitriyev được hỗ trợ bởi một nhóm đoàn viên Komsomol hoạt động bí mật mang tên “Tocsin” do Vasili Us lãnh đạo. Những đội viên du kích này hoạt động trong vùng làng Beletskovka và Malamovka. Vì hành động anh hùng, trung tá Dmitriyev được nhận danh hiệu Anh Hùng Liên Xô.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:14:32 am


Chương 12: Phát súng sau cùng



Tôi đã là bí thư đoàn của tiểu đoàn được bốn tháng rồi. Đã bao trận đánh! Và tôi vẫn sống. Vài người nói rằng tôi là người quá may mắn! Nhưng sau chiến tranh, chưa bao giờ tôi được một giải xổ số nào, trừ một lần được đúng 1 rúp, nhưng trên chiến trường không một viên đạn hay lưỡi lê nào đụng vào tôi. Tôi phải chăng là một người thật sự may mắn? Tôi nghĩ đúng vậy.



Cảm giác thật sự của một người lính chiến đấu trong cuộc chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là một điều hết sức thú vị để tìm hiểu. Nếu bất kỳ cựu binh nào nói thật, thì có vài điều mà chúng tôi thú nhận sẽ trông hết sức ngây ngô, thậm chí là điên điên. Như tôi, tôi luôn sợ rằng nếu tôi chết thì tổ quốc của chúng ta cũng sẽ bị huỷ hoại luôn. Rồi vào ngày 28 tháng 11 năm 1943, sau khi vượt qua sông Dnieper, tôi bị trúng đạn ở gần Znamenka, tôi trở nên hoảng sợ thật sự: “Mọi thứ sẽ ra sao nếu không có mình? Ai sẽ tiếp tục chiến đấu nếu mình bị thương nặng?”. Dĩ nhiên, nó thật là ngờ ngệch. Nhưng đó chỉ là một nỗi sợ hãi trẻ con mà tôi không thể bỏ nó ra trong một khoảng thời gian. Và chỉ sau khi quân ta giải phóng được đất nước mà không có tôi, rồi khi họ tiến vào Berlin, tôi mới tự cười mình vì cái sự tự tin quá lố ấy. Tuy vậy, đến tận bây giờ tôi vẫn tin rằng đấy là một cách suy nghĩ đúng đắn. Mỗi người phải tự dựng lên trách nhiệm của mình với vận mệnh của tổ quốc. Và chỉ có cách đó thì chúng ta mới thắng được trận thắng quyết định.



Sau chiến dịch “Hòn đảo tử thần”, khoảng ngày 20 tháng 10 năm 1943, sư đoàn Cận vệ số 66 chúng tôi (chỉ còn không quá hai đại đội) qua cầu phao vượt sông Dnieper ở cạnh làng Kutsevolovka và Deriyevka mà không có thương vong nào. Ở bờ phải, các đơn vị quân ta đã xây dựng xong một đầu cầu khổng lồ để tiếp tục tấn công Ukrain.



Khi quân ta tiến về hướng Kirovograd, chúng tôi đến một ngôi làng lớn không bị tàn phá tên Deriyevka. Những cư dân của làng vừa quay về từ rừng và những cánh đồng ngô, nơi họ trốn những đơn vị trừng phạt của phát xít. Cũng trong ngày đó vài người tình nguyện địa phương tham gia trung đoàn tôi. Những người mới gia nhập này còn mặc đồ dân sự, lúc đó khá thiếu quân phục nên chúng tôi trông giống như một đơn vị du kích lớn. Để đùa giỡn, chúng tôi đặt anh em tân binh một tên chung là “dân ngô”. Đựơc tiếp tế galushky và varenniki (những loại bánh bao với nhân khác nhau-ND) từ dân địa phương, chúng tôi tiếp tục hành quân.



Một ngôi làng khác được giải phóng mà không phải đánh nhau là Kutsevolovka, ở đó chúng tôi gặp được quân của đội du kích “Tocsin”. Họ đã ngăn bọn phát xít cướp phá làng và bắt dân cư đi lao động cưỡng bức ở Đức. Họ, cũng như những người nông dân, gia nhập vào trung đoàn chúng tôi. Anh em du kích thu thập được thông tin rằng quân địch đã chuẩn bị phục kích quân ta khi tiến đến một làng nhỏ tên Dacha. Dĩ nhiên, họ cũng chỉ cho chúng tôi cách vượt qua các vị trí quân Đức: quân địch rút lui về tuyến đã định của chúng, làng Uspenskoye, nơi chúng tôi phải đột chiếm.



Pháo binh và không quân ta dội lửa lên quân thù trong vòng một giờ đồng hồ và dường như đã quét sạch lối tấn công cho chúng tôi. Nhưng bọn Frizt đã thíêt lập vững chắc tuyến phòng ngự thứ hai, và đón chúng tôi với một trận bão hoả lực dữ dội. Xe tăng của quân ta bị hạ bởi đạn xuyên giáp và mìn chống tăng. Rồi quân Đức phản công. Trong một địa đoạn, gần Znamenka, chúng tôi phải đánh bật bọn địch ra khỏi cùng một vị trí hai lần trong một ngày!



Khi trận xung phong đầu tiên của chúng tôi thắng lợi, anh em tìm thấy trong chiến hào một tên Đức còn trẻ măng. Gần như là một cậu bé, tóc đỏ, đeo một đôi mắt kiếng dày cộm (khả năng là cận thị không dưới 6 độ). Cậu ta ngồi đó, đầu cúi xuống buồn bã. Đôi tay cậu gầy gò với những ngón thanh mảnh. Đồng đội tôi thấy tên Frizt bé con này đáng thương nên cho nó ít bánh mỳ và một miếng mỡ lợn. Cậu chàng tham lam ngốn lấy rồi lầm rầm điều gì đó bằng tiếng Đức. Tôi chỉ có thể bắt đựơc vài từ mà tôi hiểu: “Musik … ich bin Musik…”. Và bằng những ngón tay thanh tú của mình, cậu bé chơi một cây violin tưởng tượng. À thì ra cậu ấy là một tay chơi Violin, một nhạc sỹ…



Trong lúc đó, quân địch lại tấn công. Dù rằng chúng tôi đã bắn như mưa từ những vũ khí tự động vào chúng, thì rốt cuộc quân ta vẫn phải rút lui về vị trí cũ. Và chúng tôi quên bẵng đi tên tù nhân mới đó!



Nhưng có thể tưởng tượng ra sự ngạc nhiên của chúng tôi, khi tái chiếm đoạn hào đó, thì vẫn thấy tên Frizt bé con đấy ngồi đúng chỗ cũ! Anh em nói:



-         “Guten Morgen” (Chào buổi sáng)



-         “Guten Tag” (Chào)



Cậu ta trả lời và lầm bầm:



-         “Hitler Kaputt! Stalin gut! Russ Kamerad gut!” (Hitler dỏm! Stalin tốt! Đồng chí Nga tốt!)



Lúc đó tên Frizt bé nhỏ trông vui vẻ và rất náo nhiệt. Tiếp tục ra những cử chỉ mau lẹ bằng tay, cậu ta cố nài:



“Mein kommen Russ general … Schnell, schnell… Mein kommen Russ general!” (Tôi đến chỗ tướng Nga… nhanh, nhanh… tôi đến chỗ tướng Nga)



Vậy chắc là nó muốn nói chuyện với tư lệnh của chúng tôi! Mọi người nhanh chóng gửi hắn về sở chỉ huy. Trong đêm đó bảy chiếc T-34 mới tinh đến tuyến giao tranh của chúng tôi, và một lần nữa anh em lại thấy tên Frizt bé nhỏ ngồi trên chiếc xe dẫn đầu. Cánh lính tăng không có cơ hội để nói chuyện với chúng tôi, cả tay tù binh cũng chỉ vẫy tay từ xa. Khi đêm xuống, những chiếc tăng của ta chạy về phía quân địch.



Trong cả đêm dài, chúng tôi cẩn thận lắng nghe và chờ đợi. Cuối cùng, khi trời sáng chúng tôi nghe những tiếng động của xích xe chạy và rồi trông thấy cả bảy chiếc tăng của quân ta, an toàn và khoẻ mạnh, tụ cùng với những người lính Đức lạ lùng. Họ không có vũ khí trong tay, thay vào đó là những nhạc cụ. Khi đến gần những chiếc T-34, tôi chùn bước bởi một cảnh tượng tởm lợm: giữa xích xe, trộn lẫn với bùn đất và một ít dây điện thoại, là tóc người, phù hiệu chữ thập ngoặc, cầu vai.



Những người lính Đức, chừng 8 hoặc 10 người nhảy xuống từ mỗi chiếc tăng, bắt đầu chơi bài Katiusha bằng đàn hơi. Thật là một cảnh tượng đáng ngạc nhiên! Tôi không viết tiểu thuyết, tôi chỉ mô tả lại chính xác những gì mình thấy tận mắt ở chiến trường. Mọi người cũng nên nhớ rằng góc nhìn của tôi khá hạn chế – “tầm nhìn từ chiến hào” – và tôi chỉ có thể đoán rằng đó là một ban nhạc quân đội, nhưng bọn phát xít, trong những ngày đánh nhau cật lực này, lệnh cho họ ra trận và phòng thủ tuyến trận địa của chúng.



Ngày 7 tháng 11 năm ấy, quân địch quyết định “chào mừng” chúng tôi nhân dịp lễ Cách Mạng tháng Mười Nga lần thứ 26. Sáu giờ sáng, tiền duyên quân ta đột ngột chìm trong dòng thác cối , pháo địch, và bom. Hàng cột đất thảo nguyên đen ngòm bắn tung lên trời, rồi những vụ nổ mới giữ chúng lại trên đó. Dường như trời tối trở lại. Trong hai giờ liền, những con quái vật đen đúa, rực lửa múa điệu múa chết chóc và ma quỉ trên đầu chúng tôi. Tôi nghẹt thở dưới làn khói cay sè, tai điếc đặc rỉ máu và tiếng nổ làm phổi rung lên trong ngực như hai chú chim trong lồng. Trong bóng tối, tôi thấy những bóng lửa đỏ tung lên từ những hố đạn pháo.



Khi pháo dứt và máy bay địch cũng bỏ đi, cảm giác như vừa kết thúc một trận động đất. Tôi ló đầu ra khỏi hố và nhìn ra trông như bề mặt mặt trăng, những hố bốc khói khắp mọi nơi. Lúc đầu tôi sợ hãi bởi ý nghĩ rằng mình là người duy nhất còn sống sót. Khi ấy tôi thấy ghen tỵ với người chết. Nhưng một phút sau, tôi thấy vài đồng đội cử động. Tôi rất muốn chồm tới hôn họ, như thể là bà con rất yêu quí, thân thuộc. Nhưng không có thời gian cho việc đó. Bọn Frizt bắt đầu xung phong, và lệnh cho quân Rumania, Hungary, Bulgari và Nam tư đi lên trước chúng. MỘt lần nữa, mọi cỡ súng tự động và súng trường của quân ta lại cất tiếng. Những hàng quân tấn công đầu tiên nằm rạp xuống và bắt đầu bò lui. Có thêm hai đợt tấn công nữa trước khi đêm xuống, nhưng chúng tôi vẫn trụ vững. Nhiều lính bộ binh ta đã hi sinh trong ngày đó, có người còn chưa kịp bắn phát súng nào. Nhưng những người còn sống đã báo thù cho họ: qua ống nhòm tôi thấy hàng đống xác địch ngổn ngang trên khu phân tuyến.



Thị trấn Znamenka còn cách chừng 20km và bọn phát xít làm mọi thứ trong khả năng để làm chậm bước tiến quân ta. Từng đợt công kích của quân ta bị đẩy lùi. Chúng tôi bị thiệt hại rất nặng nhưng vẫn chưa đến được Znamenka. Trong số thương vong của tiểu đoàn, có vài đại đội trưởng. Nên cứ mỗi ngày mới, tôi, bí thư đoàn thanh niên tiểu đoàn, lại giữ vị trí của họ, trong khi chờ một sỹ quan được phân công đến từ lực lượng dự trữ của trung đoàn.



Cuộc chiến tàn nhẫn, không khoan nhượng nghiến ngấu ăn người. Nếu, từ giữa tháng 10 đến đầu tháng 11 năm 1943, tân binh từ vùng Poltava chiếm số đông trong sư đoàn, thì cuối tháng 11 chỉ còn một dúm những “dân ngô” đó còn lại trong các đơn vị. Quân số mỗi đại đội chỉ còn chừng 15 đến 20 người thay vì 100 đến 120 như tiêu chuẩn. Lực lượng bổ sung đến hằng đêm, nhưng cứ đến chiều hôm sau thì từng đơn vị lại thiếu người. Trong tình hình này, bạn thực sự bắt đầu có cảm nhận rằng bạn là người duy nhất còn sống…




Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:15:06 am


Dường như lạ lùng, nhưng vào ngày 28 tháng 11 năm 1943, tôi biết đây sẽ là ngày tôi bị thương. Sáng sớm, tôi chuẩn bị cho mình. Nhặt ba lô của bọn phát xít bỏ lại, tôi lấy ra từ đó (mình sẽ cần nó ở bệnh viện), một bộ dao cạo đóng trong một hộp nhựa nhỏ, trông còn tốt, một mẻ giấy viết thư dày và một cây bút “lifetime”, cái này khi bật mặt trên ra sẽ thấy hình phụ nữ khoả thân.



Chúng tôi xông lên hai lần, nhưng đều bị đánh bật lại. Khi tôi chạy lên trong một nổ lực ngắn, tôi bị đính đạn súng máy. Khẩu súng đặt gần đến nỗi tôi có thể trông thấy cái nhìn từ khuôn mặt hiểm ác của tên Frizt. Tôi ngã xuống, cảm thấy gót trái bị một thứ gì đó như một cú đấm mạnh, sau đó nhanh chóng tê đi. “Bị thương rồi! Mình nên bò xuống hố đạn này và chờ”. Tôi cửi ghệt ra. Phía sau bị xé từng mảnh, nhưng gót chân tôi vẫn ổn! Tôi mang vào lại và xông lên cho kịp đồng đội! Lúc giữa ngày, chỉ còn chừng 7 người trang bị súng trường và SMG trong mỗi đại đội. Bọn phát xít nhận thấy điều đó và chúng quyết định phản công. Nhưng chỉ sau khi có pháo yểm trợ. Chúng ngắm bắn rất khá. Tôi tận mắt thấy công sự nổi chỗ ban chỉ huy tiểu đoàn bị đạn pháo bắn tung. Tôi chắc rằng đại uý cận vệ Nikolai Kartoshenko, tiểu đoàn trưởng, ắt bị tử thương nên chạy về phía đó. Tôi mừng khi thấy anh còn sống, nhưng anh không nghe thấy gì vì bị choáng pháo.



Từ điểm quan sát  ở tiểu đoàn bộ, có thể nhìn trận địa tốt hơn từ trong chiến hào. Anh đại uý tiếp tục hét lên với cậu thông tin, rồi cậu ta lại hét vào phone, sau đó nghe lệnh từ ban tham mưu trung đoàn, trong khi đó tôi có cơ hội quan sát chiến trường. Đột nhiên, tôi thấy một nhóm lính phát xít, trang bị tiểu liên, và được pháo bắn che, tiến đến gần chiến hào, ắt định làm quân ta bất ngờ với cuộc tấn công của chúng ngay khi đại bác vừa dứt. Trong khi đó, lính ta, e ngại trận bão lửa, không thể ló mũi ra để nhìn địch. Tôi kéo tiểu đoàn trưởng chú ý vào đơn vị quân Đức đó rồi chạy dọc theo chiến hào để cảnh báo quân ta.



Chúng tôi khai hoả vào địch và ném lựu đạn. Quân Nazi bị ép dính vào mặt đất. Tôi gửi một thông điệp lên tiểu đoàn trưởng rằng chúng tôi cần ngay đạn dược bổ sung, bởi anh em cạn đạn và thủ pháo. Cậu thông tin gọi phone cho tôi rằng lính bổ sung và đạn dược đang trên đường tới, nhưng chúng tôi phải trụ thêm chừng 2 hoặc 3 mươi phút. Trong ngày đó, mọi người ở trung đoàn bộ được huy động để hỗ trợ chúng tôi: mỗi người ở sở chỉ huy được lệnh vác đạn dược xuống.



Hai hay ba mươi phút? Quá dài! Dường như đó là lần đầu tiên trong đời tôi ước pháo bắn chuẩn bị của địch nên tiếp tục thêm.



Lính bộ binh Nazi tiến lên một chút. Giờ ngay cạnh tầm đại bác của chính bọn chúng. Chúng tôi đã gần hết đạn. Mắt tôi tìm kiếm ít nhất một viên đạn để hạ tên sĩ quan địch nhô ra từ hố pháo, đang vẫy lính của hắn tiến lên. Ngay sau chiến hào, có một khẩu súng trường đã mở sẵn khoá nòng và còn đạn trong ổ. Tôi định nhảy ra, nhưng rồi thấy trung uý Ivan Yakovlev đang bò về phía khẩu súng. Anh ấy chắn hẳn sẽ lấy được trước. Tôi quay lại và thấy tên sĩ quan Đức ở hố pháo kế tiếp rất gần chúng tôi. Giá mà tôi có gì đó để bắn! Lần nữa, tôi quay lại nhìn về hướng khẩu súng trường: anh trung uý đã chết. Tôi phóng nhanh khỏi hào, chộp khẩu súng và lăn về lại chỗ nấp. Giờ tôi đã có vũ khí, tôi vọt ra lần nữa. Tên sĩ quan tiếp tục vẫy lính tiến lên. Tôi ngắm và bắn. Thân hình hắn đột ngột chìm xuống và biến mất trong hố đạn pháo, khi đó quân địch thay đổi ý định và quyết định dừng lại.



Vẫn còn một viên đạn nữa trong khẩu súng trường: “Đây chắc là viên cuối của mình”. Một tên Đức khác, lưng đưa ra trước mặt tôi, lù lù trong ruộng ngô đằng trước. Hắn quì trên một chân, lắc đầu, vung tay một cách bồn chồn. Hắn chắc chắn không phải là lính trơn. Với tay này, mình sẽ không uổng phí viên đạn sau cùng. Tôi ngắm lên là bắn. Thân hình đen ngòm của tên phát xít loạng choạng và ngã sóng soài trên đất, dập lên những thân ngô khô.



Tôi không hề nhận thức rằng đó là phát súng sau cùng của tôi trong chiến tranh. Tôi không biết rằng với tôi, một pháo thủ cối, chiến đấu qua bốn mặt trận trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc Vĩ Đại, chốt lại giữa hai phát súng, - phát đầu, gần Kletskaia vào ngày 6 tháng 11 năm 1942, và phát chót, cạnh Znamenka, vào ngày 28 tháng 11 năm 1943 – bắn không phải từ một khẩu cối, mà là từ một khẩu SVT.





Trận pháo kích sẽ kết thúc bất kỳ lúc nào và bọn Đức sẽ xông lên chiến hào của quân ta ngay. Ngồi đó mà không vũ khí là tự sát. Lực lượng tăng viện đâu? Kìa, họ đến rồi. Tôi thấy thư ký ban tham mưu, thượng sỹ Nosov, chạy về hướng tôi với một chiếc thùng trên vai! Nosov luôn đi cùng với chính uỷ Yegorov. Một sĩ quan chuẩn mực, anh có thể, nếu cần thiết, dễ dàng sử dụng đại liên, súng chống tăng. Anh có hiểu biết to lớn các loại quân cụ khác nhau. Mặt khác, thượng sỹ Nosov có bằng thạc sỹ luật và giữ vị trí trong Đảng Cộng Sản. Anh ấy làm công tác văn phòng rất tuyệt! Đó chính là Nosov, người được chính uỷ giao giải thích cho tôi về nhiệm vụ của một bí thư đoàn thanh niên tiểu đoàn 4 tháng trước. Thật đúng lúc! Tôi vẫy anh nhưng anh không thấy tôi. Tôi nhảy ra và chạy bổ về phía anh xuyên qua vùng trống, hi vọng lấy được ít đạn cho mình. Ngay lúc đó, có một tiếng nổ điếc tai như sấm ngay sau tôi. Tôi thấy mình bay lên khỏi mặt đất và ném ra một bên, trong khi chân trái của mình thì bay sang hướng khác. Tôi cho rằng chân mình bị đứt ở rất cao, gần xương chậu, cùng với một bên mông. Khi tôi rơi xuống, vài suy nghĩ lướt qua như chớp trong đầu: “Mi không thể dùng ga rô được. Không phải chỉ một mẩu nhỏ chân trái bị đứt. Mi sẽ bị mất máu đến chết thôi, vậy đó. Ngay cả ruột cũng không giữ được. Mình chết thôi. Ôi Mansur, Mansur, mi không thể bị thương một cách đúng đắn sao!”. Lúc chạm đất, tôi nhận ra ngay chân mình! Nó đây! Hông tôi trơn tuột, đầy máu, nhưng nó còn đó! Nhưng cái quái gì mà tại sao chân mình không thể nhúc nhích?



Thì ra một mảnh đạn pháo đã cắt đứt dây thần kinh vận động ở hông trái. Sau đó tôi mới biết như vậy, khi đã đến bệnh viện. Con người có những dây thần kinh vận động đó, và nếu chúng tổn thương, thì chân bạn treo lủng lẳng như một miếng giẻ.



Còn tại lúc ấy, tôi nằm trên đất, cạnh một hố đạn pháo khổng lồ nghi ngút khói, to đủ để giấu cả một bếp ăn dã chiến. Lúc đó chỉ một suy nghĩ làm tôi bận lòng: nếu cuộc tấn công của quân địch thành công, tôi có thể thấy mình ở hậu tuyến quân Đức. Và thế là tôi bắt đầu bò đi, lê theo chiếc chân trái bất động, ủng trái chứa đầy máu. Nó thật nặng. Tôi đã không thể không nhớ lại anh lính gần Stalingrad đã tự cắt chân mình như thể là một thứ gánh nặng không cần thiết. Nhưng lúc này, tôi chỉ hãi nhất là mình bị bọn Đức bắt sống.



Tôi thật may mắn khi thấy bạn tôi, trung uý Aleksei Tarasov, chạy ù qua mặt, cả hai chân anh trông vẫn ngon lành. Tôi hét lên với và anh nhào bẹp xuống cạnh tôi. Một mảnh đạn đại bác trúng vào tay trái của anh. “Ừ, trúng đâu? Chân à? Đứng dậy đi. Ba chân là đủ cho cả hai thằng mình! Chúng ta phải ra khỏi đây thật nhanh khi vẫn còn sống!"” Thế là cả hai cùng nhau chạy về phía sau, đạn vẫn nổ rền vang quanh chúng tôi.Tôi tuột mất chiếc ủng trái ở đâu và khi nào không biết. Chân tôi tê liệt hoàn toàn. Cuối cùng, cả hai đến được “vùng chết”, sau khi nghỉ một lát, chạy tiếp ra con lộ: “Có chiếc ô tô hoặc xe ngựa nào đó sẽ đón mình lên”



Ống quần trái tôi ướt nhẹp và dính dáp. Tôi cố cầm máu bằng ga rô nhưng vô hiệu bởi trên phần mông bị thương là phần bụng. Nếu tôi không đến trạm phẫu nhanh, tôi sẽ nhanh chóng yếu đi vì mất máu. Con đường đây rồi. Tôi ngồi xuống trong khi Tarasov đứng cạnh. Không ai trong tầm mắt. Chúng tôi gần hết hi vọng.



Cậu trung uý cố động viên tôi: “Đừng lo. Tớ sẽ không rời cậu”. Sau cùng chúng tôi nghe thấy tiếng ngựa khịt mũi và tiếng bánh xe cót két. Một cỗ xe ngựa vận tải. Cỗ xe dừng lại và tôi nghe thấy bên tai một giọng nói quen thuộc: thì ra ngừơi đánh xe là bác Moiseev, bạn đồng hành ở lần vượt sông Vorskla. Bác cũng nhận ra tôi và chúng tôi ôm hôn nhau như người một nhà. Dường như không thể tin được là tôi có cơ hội gặp lại bác và một lần nữa, một con ngựa lại cứu mạng tôi. Bác Moiseev dỡ đồ xuống xe, ném vài bó rơm lên thành một kiểu nệm dày, cùng với Tarasov, tôi nằm trên chiếc “giường” này, trong khi chiếc xe ngựa phóng nhanh về phía sông Dnieper.



Khi đến sông thì trời đã tối. Chiếc cầu phao chỉ dành cho dòng di chuyển từ bờ trái sang bờ phải. Còn thương binh thì đi về hướng ngược lại bằng thuyền. Ở đó tôi từ biệt bác Moiseev và không bao giờ còn gặp lại được bác. Vài chiếc xe tải đợi chúng tôi ở phía tả ngạn, sàn xe phủ đầy rơm. Cánh tài xế nôn nóng chờ chất lên và đi trước bình minh, rồi chạy xa con sông Dnieper cành xa càng tốt. Bởi ban ngày, không quân phát xít ném bom vào hậu phương ta.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:15:38 am


Sau cùng, chiếc xe tải chở chúng tôi lên đường và băng băng về phía đông. Con đường trong tình trạng tệ hại, đầy vết lún và lỗ đạn pháo, nhưng chúng tôi phải chạy ở tốc độ cao. Anh tài xế cố qua được càng nhiều cây số càng tốt, để tránh bị bom, chiến tranh. Chúng tôi bị nhồi như những khúc gỗ, nhưng phải cố chịu đựng. Chúng tôi không còn sợ những cú lắc hoang dại này mà chỉ mong đến được trạm phẫu tiểu đoàn càng sớm càng tốt. Anh lái xe ngừng lại chút xíu để kiểm tra xem mọi người thế nào:



-         “Cố lên anh em! Mình biết là ngồi ở đằng sau cực ghê lắm, nhưng ta phải vượt qua chừng 150 cây số trước lúc trời sáng. Anh em ráng chịu đựng. Cũng là vì an toàn của anh em”



Rồi chiếc xe tải lại phóng tới, lồng lên, lượn vòng. Chúng tôi đến được tiểu đoàn phẫu. Cạnh một chiếc lều khổng lồ là hàng trăm thương binh, ngồi hoặc nằm chờ phẫu thuật. Chúng tôi được đặt lên cáng và đưa xuống đất. Anh lái xe chào từ biệt, và giờ anh phải chất đạn lên xe và chạy trở lại Dnieper.



Một y tá nhanh chóng khám tôi và bảo vài cậu tải thương mặt-béo cáng tôi đến bàn phẫu thuật. Trong lều, tiếng thương binh gào nghe rất to. Bác sỹ phẫu thuật báo rằng sẽ không có gây tê. Mọi người sẽ phải chịu đau. Vị bác sỹ phẫu đứng đó, trong chiếc áo blu trắng, lấm tấm máu. Máu dính cả trên nón, trên khẩu trang và cả trước ngực ông. Đôi bàn tay ông khoẻ mạnh trông như là của một thợ mỏ hay một pháo thủ. Tôi được đặt nằm úp mặt lên bàn, chân và tay nhanh chóng bị trói chặt vào đó bằng băng. Bác sỹ phẫu thuật cố an ủi tôi bằng cách bảo rằng mông tôi, cái mà ông sẽ mổ, không yêu cầu phải hội chẩn nhiều. Nó thể bị cắt mà không có nguy hiểm cho tính mệnh bệnh nhân dù rằng:



-         “Sẽ đau đấy, nhưng cậu sẽ sống. Hãy nằm yên để tôi làm việc nhé! Hiểu không?”



Tôi nằm và nghĩ rằng bác sỹ phẫu thuật nói đúng: cái mông thì có gì đặc biệt đâu? Chỉ là một chỗ mềm mềm trên cơ thể thôi. Sau đó, tôi vùi đầu sâu thật sâu vào đống nệm len. Nếu tôi có la lên thì nó sẽ bóp nghẹt tiếng động.



Dường như vị bác sỹ không cắt mà xé, mà chặt tôi ra thành từng mảnh, cố tìm để lấy mảnh đạn lặn sâu bên trong. Tôi hét lên như thú. Tôi gào cho đến lúc bị mất giọng, hơn hàng trăm lần khi xung phong. Khi ấy, chúng tôi hét để xua tan nổi sợ của mình và làm kinh hoàng quân địch. Lúc căng lồng ngực thét vang, bạn sẽ làm mình dũng cảm hơn và địch sợ hãi hơn. Còn giờ đây, tôi gào để giảm cái đau ghê gớm trong thân thể đang bị bác sỹ rạch bằng dao. Vị bác sỹ cũng không làm gì để tôi bớt hét. Với ông, quan trọng nhất là tôi không vùng vẫy. Những tiếng hét xé tai của tôi không là vấn đề. Lúc chiến tranh, mọi người hiểu nhau mà không cần lời nói.



Cơn đau bùng lên tới mức cao nhất. Rồi tôi nghe tiếng loảng xoảng của mảnh đạn rơi vào trong chậu. Khi đó có những cú chích như muỗi cắn từ kim khâu, rồi vết thương được băng lại với một miếng băng rộng. Thế là kết thúc cuộc phẫu thuật. Tất cả mọi thần kinh cảm xúc trên cơ thể tội nghiệp của tôi cảm nhận thấy bàn tay một cô gái trẻ, từ cái đụng chạm của những ngón tay xa lạ. Trong tưởng tượng, tôi tạo nên một hình ảnh, một hình ảnh rực rỡ của một cô gái tóc vàng xinh đẹp. Tôi không nhìn thấy cô, bởi tôi nằm úp mặt. Tôi lại được đặt về cáng thương cùng tư thế nên không thể liếc nhìn cô gái, người đầu tiên chạm vào trái tim mình. Đến sáng, chúng tôi lại được đưa lên xe và chuyển về bệnh viện tiền phương, đặt tại trung tâm hành chính địa phương, làng Novye Sanzhary.



Tôi không nhớ số bệnh viện, ở làng này giữa Poltava và Kremenchug, nhưng tôi có thể hồi tưởng lại lần đầu đến nhà tắm hơi (bania). Nó được tổ chức với sự giúp đỡ của dân địa phương – phụ lão, phụ nữ và trẻ em. Tất cả cư dân địa phương, ai có thể làm việc được, đến để giúp thực hiện các việc khó khăn, cực nhọc là tắm rửa cho thương binh tiền tuyến. Tất cả anh em đến đây đều hết sức bẩn thỉu, râu tóc lu bù. Họ tắm rửa sạch sẽ, cắt tóc tai và cạo râu, như vậy mỗi binh sỹ giờ đây trông như một đứa bé: sạch sẽ, chăm sóc cẩn thận và được ăn no.



Chỗ đó thật ra không hẳn là một bania, mà là một kiểu văn phòng hay trường học chi đó. MỌi người mang thật nhiều nước đến. Từ đâu nhỉ? Có phải từ dòng Vorkla? Từ đó  những người trẻ, khoẻ mang nước bằng thùng và đòn gánh, họ di chuyển trông như một đàn kiến. Và trong sân, những bếp lớn đun nước trong những chiếc ấm to hoặc trong những thùng sắt. Rồi được mang vào trong, nơi những chiếc lò sắt đang làm nóng không khí. Khắp mọi nơi trong phòng, là bàn, băng ghế, và giường phủ khăn trắng, ở đó thương binh trần trụi nằm như nhộng.



Có những phụ nữ, phụ lão và những cô gái bận rộn làm việc bên cạnh: họ không chút xấu hổ chà xà bông lên các cơ thể bằng những miếng xơ lớn và tiếp tục chà xát, cọ xát. Và lính ta thì chỉ nằm đó trong niềm hạnh phúc, dù rằng vết thương đau nhức, dù rằng chân chỉ còn một mẩu. Anh em không biết phản ứng thế nào – vì cơn đau của vết thương hoặc vì nhột do bị cù bởi miếng xơ mướp và bàn tay nữ giới. Những người phụ nữ rất hối hả: tắm, vệ sinh, chà xà bông. Họ muốn làm xong càng nhanh càng tốt, nhưng cánh lính thì cố hỏi han với nước mắt trên mi để được tắm táp lâu hơn một chút. Cơ thể họ rất khao khát được tiếp xúc với xà bông, với nước, với bania. Đúng là hạnh phúc! Ngay cả khi mất một chân, người lính vẫn vui, như một cậu bé.



Anh em nhìn những người phụ nữ chung quanh. Vài người không được thấy gương mặt phái nữ đã hai năm nay rồi! Chị em bắt đầu xoa xà bông lên đầu thương binh, để cánh ta không thể nhìn họ với những cặp mắt van nài, thiết tha. Nhưng qua lớp xút cay xè, đậm mùi, anh em vẫn thích thú ngắm những hình dáng phụ nữ. Chị em dội nước để trôi xà phòng trên mặt anh em: “Đừng mở mắt!”. Nhưng lính ta lúc lắc đầu, làm bắn bọt ra và tiếp tục nhìn ngắm.



Ôi những phụ nữ yêu quí của tôi, các chị em thật xinh đẹp và ngọt ngào với chúng tôi ở bania tại Novye Sanzhary! Không ai trong các chị em là không xinh! Ai cũng dễ thương! Tất cả mọi người! Các bạn mặc áo dài trắng của bệnh viện. Qua làn vải mỏng, ướt, mọi người có thể chiêm ngưỡng thân hình xinh đẹp của các bạn. Tôi chưa từng thấy gì đẹp như thế, cả trước lẫn sau này. Tôi có thể phát biểu một cách tin tưởng rằng: những người phụ nữ tuyệt vời nhất đã – và đang sống – ở Novye Sanzhary! Và các bạn đã phủ mắt anh em tôi bằng xà bông nên chúng tôi không thể nhìn!



Tôi nằm đó, trên băng ghế, úp mặt xuống, nên tất cả những gì tôi có thể thấy là những đôi chân trần. Nhưng tôi vẫn chiêm ngưỡng tất cả và trí tưởng tượng hình dung nốt những gì không nhìn thấy. Đây là đôi chân của một phụ nữ trẻ. Trông như của một em bé. Nọ là đôi chân khác, đi lại như lướt. Người phụ nữ đó hẳng chừng 30 xuân xanh. Nhưng cô ấy trông thế nào nhỉ? Chắc chắn là một người rất tốt. Còn kia thuộc về một cô gái trạc tuổi tôi. Giá mà tôi có thể nhìn cô ấy một tý! Nhưng nằm úp bụng nên tôi không thể.  Tôi quá không may rồi! Đến khi bị thương thì lại trúng chỗ không đúng đắn! Những gì tôi có thể làm là nhìn vào sàn nhà.



Có một người lính nằm ngửa không xa tôi. Anh ấy cảm thấy quá tuyệt! Có cơ hội nhìn rõ tất cả chị em, và rồi mỉm cười, hoàn toàn thoả mãn! Ngay cả xà bông cũng không làm anh ta nhắm mắt. Cậu chàng bảo là cậu không sợ xút, nên xà bông chả ảnh hưởng gì. Vì vài lý do mà chỉ có các cụ bà ở quanh cậu chàng. Còn các cô gái, các phụ nữ trẻ chạy biến cả. Họ chạy đi cùng những tiếng cười vui vẻ và lanh lảnh! Cậu ta thì cười đến tận mang tai. Đó là một anh chàng đẹp trai dưới 40 tuổi. Một chân bị mất và tay thì còn băng kín. Nhưng anh ta vui vì còn được sống, vui vì phụ nữ chạy trốn anh. Còn các cụ thì sao? Các cụ cũng vui vì ít ra cũng còn có Chúa hiện hữu: Người đã cứu gã đàn ông mạnh khoẻ này và từ đó có thể có được những đứa con xinh xẻo, bụ bẫm. “Ôi, những đồng chí thân mếm! Những chàng lính tốt đẹp, ngọt ngào của chúng tôi” họ lầm rầm trong miệng, nghe như một kiểu cầu nguyện vui vẻ. Anh lính không rầu chút nào vì các cô gái chạy mất: “Bây giờ họ chạy đi! Nhưng hãy chờ đến khi vết thương tớ khỏi hẳn xem! Họ sẽ bổ lại ngay ấy mà! Dù tớ chẳng gọi tí nào”. Anh mỉm cười. Cuộc sống vẫn tiếp tục! Tôi nằm đó và nghĩ…



Họ tắm rửa tôi sạch sẽ. Mặc đồ lót, áo và quần mới cho tôi. Rồi tôi được mang đến bệnh viện, khu sỹ quan, vì tôi mới được phong hàm thiếu uý. Sau khi từ bania ra, tôi ngủ say như chết, chìm đắm trong cảm giác hạnh phúc mà tôi chưa bao giờ có. Tôi ngủ xuốt 24 tiếng. Cái đói dựng tôi dậy. Tôi ăn, rồi lại ngủ nữa. Trong cả hai tuần đầu, tôi chỉ ngủ mà không có mơ mộng chút gì. Rồi khi đã ngủ đủ, tôi bắt đầu tập đi bằng nạng. Và cũng bắt đầu đi thăm các khu bệnh khác, các toà nhà trong bệnh viện ngõ hầu tìm ra ai đó từ trung đoàn hay tiểu đoàn mình.



Tay xạ thủ đại liên Vasili Shamrai là người đầu tiên gặp tôi. Cậu chàng la lên hoan hỉ: “Bí thư! Bí thư đoàn chúng ta! Này, các cậu, đó là bí thư đoàn chúng tớ! Chúa ơi, đó là bí thư đoàn chúng tớ!”. Cậu ta mang 3 huy chương trên áo và phô ra, xoay vòng trên giường của mình. Vasili trông hốc hác nhưng giọng nói nghe còn khoẻ khắn lắm. Tôi đến thăm người bạn này mỗi ngày. Cậu mất một chân. Chỉ vào tôi, Shamrai thường nói với người bên cạnh, bằng tiếng Ukraini: “Hãy hỏi bí thư chúng tớ về “hòn đảo tử thần” đi. Anh ấy sẽ kể cho cậu nếu cậu không tin tớ”.



Vasili chỉ buồn một nỗi về việc anh ta tiếc rằng không có một cây bút nào có thể mô tả lại những gì thực sự diễn ra trên “Hòn đảo tử thần”. Tôi chỉ có thể an ủi cậu rằng sau chiến tranh, sẽ có ai đó hẳng sẽ viết về hòn đảo của chúng tôi cũng như về những trận đánh đẫm máu của quân ta.



Ba mươi lăm năm sau ngày chiến thắng, tôi gặp lại Vasili Shamrai và cậu ta hỏi tôi: “Đã có ai viết về Hòn đảo tử thần chưa?” “Chưa, chưa có ai”. Bản thân tôi cũng đợi một thời gian dài, mong có đồng đội nào đó sẽ làm điều đó. Tôi có biết một tay lính cối ở tiểu đoàn, có thể viết được một quyển sách về chúng tôi. Anh tên là Edward Bartashevich, đến từ Omsk. Nhưng anh đã hi sinh. Tôi cũng nghĩ: giá mà có tác giả nào đó ở vị trí của tôi! Cả một kho nguyên liệu quí! Tôi đã nhìn thấy quanh mình vô số những điều kỳ diệu cả tốt lẫn xấu, tôi đã thấy nhiều thứ đẹp đẽ phi thường. Tôi đã sống và có kinh nghiệm trong cả chiến tranh và nghề mỏ. Tôi cố thử mọi thứ. Tôi yêu và đã được yêu! Những ấn tượng mà không ai biết ngoài tôi, tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi muốn đưa chúng cho một cây bút thực thụ, để kể lại câu chuyện của chúng tôi. Nhưng cả trước và sau chiến tranh, làm việc ở các mỏ khác nhau, tôi không gặp được nhà văn nào, những ai mà tôi có thể nói chuyện riêng và thích thú tìm hiểu về quá khứ của tôi, từ phát súng đầu tiên gần Kletskaia đến lúc kết thúc trong các bệnh viện, đó cũng là một phần không thế thiếu của cuộc chiến.


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:16:13 am


Bạn tôi, Vasili Shamrai, trong lần gặp kế tại Kremenchug vào tháng 12 năm 1981, hỏi tôi lần nữa: “Vẫn chưa có ai viết phải không?”. Tôi hiểu ý của anh. Nhưng tôi không dám hé lộ bí mật của mình: tôi bắt đầu viết một quyển sách về anh em lính cận vệ chúng tôi. Tôi không chắc rằng nó có kết quả. Một con mèo đeo chuông thì không thể bắt được dù chỉ một con chuột ngu xuẩn nhất. Tôi sợ nói trước bước không qua. Tôi đã đợi quá lâu rồi. Tôi rất vội. Trí nhớ tôi còn cường kiện. Thật ra, trí nhớ là một thứ gì đó lạ thường. Thật khó chiều! Tôi có thể nhớ từng chi tiết vài sự kiện, nhớ cả tiếng động, mùi và tất cả những thứ tôi đã nghĩ tại thời khắc đó. Nhưng tôi không thể nhớ nổi địa danh đó! Hoặc là tôi đọc sai nó. Hoặc ngày tháng bị sai biệt. Khi đó bạn phải nghiên cứu cẩn thận bản đồ chi tiết hoặc viết cho bạn bè để nhắc lại. Sau cùng, bạn hồi phục mọi thứ thành công, chính xác nơi chốn và thời điểm xảy ra. Tôi đã xoay sở như vậy. Nhưng mọi thứ bạn diễn tả, bạn hồi tưởng lại lần nữa: như vậy tim tôi lại bắt đầu nhức nhối. Mình có đủ thời gian để hoàn thành cuốn sách này không? Vasili Shamrai có còn đủ thời gian để đọc nó không? Anh ấy luôn phàn nàn về vấn đề tim mạch: “Như thể có cái dùi đâm xuyên trong đó vậy!”



Tôi không nằm nhiều ở bệnh viện dã chiến tại Novye Sanzhary. Chỉ một tháng. Dây thần kinh vận động hông của tôi không nối lại được và chân tôi vẫn không nhúc nhích được. Một chuyến tàu đưa tôi đến quân y viện ở Pavlovo-on-Oka.



Pavlovo-on-Oka nằm tận sâu trong nội địa nước ta. Tôi được đưa đến một khu có 17 giường bệnh. Một trong số đó dành cho tôi. Người nằm trước đó đã chết sau một cuộc phẫu thuật nghiêm trọng. Dù tin dị đoạn, lúc đó tôi tự bảo mình: “Hai quả đạn pháo chả bao giờ lần lượt bắn trúng cùng một chỗ”. Tôi cũng chắc rằng thật không thể chết bởi vết thương mình đang mang. Đúng vậy, nếu bạn không cố liều mạng!



Giường tôi nằm trong góc. Cạnh là một anh người Azerbaijan tên là Yaroliyev, bị thương vào đầu gối. Cũng có hai người trong khu này là từ sư đoàn tôi, nhưng tôi không có quen với họ. Một đồng đội khác đến từ sư 13 thuộc quân đoàn 32 chúng tôi. Nhưng anh bị thương trước chiến dịch “Hòn đảo tử thần” nên không biết bạn tôi Alex Kolesnikov. Tôi để lại câu chuyện hòn đảo đó vài lần, những đồng đội tôi ngồi yên lặng hàng phút sau mỗi lần như vậy.



Chúng tôi sống cùng nhau như một gia đình, giúp lẫn nhau bằng mọi cách có thể. Chúng tôi giúp nhau ăn, giúp nhau ngồi bô và giúp nhau tập đi. Chúng tôi tốn hàng giờ để ngồi hồi tưởng. Không chỉ có chiến tranh. Thỉnh thoảng, nghe tiếng động chúng tôi gây ra, những y tá kinh hãi bổ vào phòng. Vết thương của tôi thường được băng bởi một cô gái tên là Alla. Cô có mái tóc đỏ rực và đôi mắt xanh to cùng hàng mi như cánh bướm. Tàn nhanh vàng vàng phủ lên gương mặt trắng trẻo. Tay cô trắng, mềm mại và cũng lấm tấm tàn nhang. Cô biết băng của tôi luôn bị tuột. Sáng và tối, cô đến bên giường tôi, giở chăn ra. Phía sau đầu, tôi có thể cảm nhận được gương mặt xinh đẹp của cô quay lại nhìn tôi, tôi sợ rằng cô có thể chú ý thấy sự kích động của mình và sẽ bỏ đi mà không giúp tôi. Tôi nằm bất động, nhưng tim đập mạnh như trống làng. Alla, như thể không nhận thấy gì, chậm rãi băng lại vết thương cho tôi. Rồi cô phủ lại cho tôi, lặng lẽ rời đi.



Sau khi xong, tôi vẫn bất động, không thể nhấc nổi cái đầu nặng nề, váng vất sốt. Nửa giờ sau, tôi quay nằm một bên. Tôi thấy Yaroliyev, thầm thì với tôi: “Ở chỗ cậu, Mansur à, tớ thèm muốn chết ngay. Nhưng cậu vẫn sống. Sao mà cậu cứng quá vậy? Cô ấy là cô gái đẹp nhất, tế nhị nhất. Cô ấy yêu cậu!”



Mọi người trong phòng ghen tỵ vì Alla quan tâm tôi nhiều hơn người khác. Nhưng tôi không dám nhìn cô lấy một cái. Bởi vì vị trí mà tôi bị thương. Tôi ước gì mình bị bắn vào tay, vào chân, hay thậm chí vào đầu. Dĩ nhiên, tôi cảm thấy xấu hổ vì tôi quá nhạy cảm. Tôi sợ ánh mắt của cô gái nhưng đồng thời tôi cũng bị hấp dẫn bởi chúng đến nỗi mà tôi đã khóc trong nỗi tuyệt vọng. Có bao nhiêu giọt nước mắt bí mật đã rơi trong căn phòng đó, khi tôi giấu mặt vào trong gối!





Rồi lại có vấn đề mới. Vết thương của tôi chảy máu trở lại. Thì ra vẫn còn một mảnh đạn nữa. Vài ngày sau, Alla đẩy tôi lên phòng phẫu thuật. Bác sỹ phẫu nhìn thân hình thợ mỏ của tôi và ra lệnh: “Chuẩn bị thuốc tê cột sống!”. Cô y tá bảo tôi cúi gập xuống càng sâu càng tốt. Thấp và thấp hơn nữa! Tôi gập đôi người lại, nhiều nhất mà mình có thể. Họ dùng băng để trói chặt tôi ở vị trí này và đồng thời dùng thân mình họ ép vào tôi, rồi dịu dàng bào tôi đừng vặn vẹo. Thật khó cho tôi khi ngồi ở vị trí như vậy, tôi ước mình có thể duỗi người ra, dù chỉ một lúc ngắn thôi, nhưng những phụ nữ này thật láu cá! Giọng nói dịu dàng của họ – “Anh thương binh à, đây là vì anh thôi mà” – thật sự đã an ủi tôi và tôi sẵn sàng vượt qua mọi thứ. Alla cũng gần đó. Tôi thấy góc áo dài của cô và cả bàn tay cô mà tôi đang xiết chặt. Đáng buồn là cô phải cùng chịu đựng (với tôi)! Tôi nghe có tiếng rắc rắc khi họ chọc một mũi kim lớn vào giữa hai đốt sống lưng tôi và phần thân dưới bắt đầu tê đi.



Tôi nhớ cái cách ở trạm phẫu tiểu đoàn lúc họ lấy một mảnh đạn ra khỏi mông tôi mà không có thuốc tê. Tôi không biết cái nào tệ hơn: lúc đó hay bây giờ? Rồi tôi không còn thấy đau nữa. Nhưng chỗ mũi tiêm xương sống thì đau kinh khủng. Ở trạm phẫu thì tôi không thấy cái mảnh đạn đầu. Còn mảnh này, thì nó trông khá bé. Có thể vì vậy mà nó lặn vào sâu hơn. Tôi nhìn nó rõ ràng: một mảnh kim loại nhỏ gọi là “đạn pháo”. Thật là một thứ lạ lùng: nó được phát minh và chế tạo trong những nhà máy với mục tiêu đơn giản: xé thịt người. Những con người thông thái, văn minh cân nhắc kỹ lưỡng về nó:  thiết kế tốt nhất là gì để có thể đâm xuyên vào sâu hơn? Vâng, hàng triệu năm trước, chúng ta loài người, sống trong hang động và ăn thịt sống từ thú hoang. Giờ đây, chúng ta đã khác biệt nhiều những người tiền sử đó. Trong vài triệu năm chúng ta đã thay đổi chỉ nhiều như vậy. Đó là những gì thượng uý Cận vệ Peter Vasiliyev, bí thư đảng bộ tiểu đoàn, nói với anh em binh sĩ trong ngày cuối cùng của cuộc đời anh. Anh có thể tin rằng trong tương lai chúng ta sẽ tốt hơn. Anh chết với niềm tin này, bị giết bởi một mảnh sắt tương tự, đựơc làm đặc biệt từ bàn tay con người để giết người khác.



Phụ nữ và trẻ em ở Pavlovo-on-Oka đến thăm chúng tôi mỗi tuần, nên chúng tôi không thấy cô đơn. Họ kể chúng tôi nghe về những điều hạnh phúc trong cuộc sống của họ, cũng như những vấn để, những rủi ro. Cha, chồng và con của họ cũng đã hi sinh ngoài chiến trường, hoặc như chúng tôi, nằm trị thương trong những bệnh viện. Chúng tôi cố an ủi họ hết mức. Họ thường mang thứ gì đó đến cho chúng tôi ăn, và biết rằng thân nhân của họ cũng được thăm viếng tương tự như vậy bởi cư dân địa phương ở nơi nào đó. Họ cũng cố tổ chức kết hợp cho chúng tôi. Vài anh lính trong bọn tôi, không thể tiếp tục phục vụ vì lí do sức khoẻ, đã quyết định ở lại Pavlovo-on-Oka. Đó là một thị trấn nhỏ, ấm cúng và sạch sẽ. Có rất nhiều công việc cho mọi người. Nhiều anh đã cưới vợ và sống hạnh phúc ở đó.



Rồi đến một lần, tôi thấy một cô gái trẻ trong số những người đến thăm. Tim tôi như chìm xuống và rung động dữ dội. Khi ngồi trong phòng, cô liếc nhìn tôi vài lần. Tôi nhìn cô và gửi gắm trong ánh mắt rằng cô là người tôi chọn cho cả cuộc đời mình. Dường như cô ấy cũng hiểu và cảm thấy tương tự. Tôi chắc rằng – nếu không, có lẽ trong ngày đó – cô sẽ dứt khoát đến gặp tôi vào lần sau.



Lúc đêm xuống, có một cuộc tranh luận khá nóng giữa các anh em. Trông như cô gái này, với mái tóc nâu đã khuấy động tính hiếu kỳ của mọi người. Bạn cùng phòng tôi bảo rằng đôi mắt xanh của cô còn sâu thẳm hơn cả mắt Alla, thêm vào đó là làn da cô trắng lạ thường và mịn, không sáng chói mà mờ mờ và mềm mại. Tôi nằm đó trong im lặng và ghen tức khi nghe những lời đó. Hai gương mặt hiện lên trong đầu tôi: Alla và cô gái đó. Mình nên chọn ai? Tôi yêu cả hai cô! Tim tôi đập dữ dội và muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi thật khốn khổ! Tôi thấy bình tĩnh một chút khi chợt nhớ rằng mình chưa nói với ai trong số hai cô về tình cảm của mình. Có thể họ chẳng ai thích tôi, thế mà ở đây tôi đang chọn lựa cô nào! “Mi điên thật, Mansur à” tôi tự bảo. Nhưng tuy thế, tôi chỉ có thể ngủ được khi trời rạng sáng.




Alla trông u buồn khi cô vào phòng chúng tôi buổi sáng hôm ấy.  Cô kiểm tra nhiệt độ mỗi người, ghi lại rồi đi ra mà không thèm nhìn tôi. Rồi cô trở lại lần nữa để cột lại băng cho tôi. Cô sắp đi nhưng không thể kiềm lại để nói với tôi rằng một cô gái trong số những người đến thăm đã hỏi tôi là ai, đến từ đâu và đã có gia đình chưa. Alla nhìn thẳng vào mắt tôi. Dường như muốn hỏi điều gì đó. Nhưng tôi nhìn đi chỗ khác. Thế rồi cô lặng lẽ đi ra. Tôi cảm thấy buồn. Tôi đã làm gì để xứng đáng cho tất cả những điều này, ở đây, trong vùng nội địa, trên chiếc giường sạch sẽ này? Tôi thấy có gì đó bùng cháy trong tôi. Còn tệ hơn ở chiến trường! Sao tôi lại gặp Alla trước rồi mới đến cô gái kia? Sao cô ấy không xuất hiện sớm hơn? Cô có thể sẽ là tình yêu đích thật duy nhất của tôi và tôi sẽ không cần thêm ai khác.



Một tuần nữa trôi đi và ngày thăm hỏi lại đến. Dân địa phương mang cho chúng tôi một ít nấm ngâm và trái việt quất. Cùng lúc cô gái tóc nâu bước vào, mắt cô gắn chặt vào tôi. Tôi không biết phải làm gì. Tôi không thể bỏ Alla! Đêm đó cô không phải trực, nhưng vì tôi cô đã có mặt ở đây. Cô gái mới dường như nhẹ nhàng đẩy Alla sang một bên và đến cạnh tôi:



-         “Chào anh Mansur! Tên em là Liudmila. Anh có vui khi gặp lại em không? Em đã nghĩ về anh cả tuần”



Cô ấy trông có chút bồn chồn khi nói với tôi. Tôi không tin vào tai mình! Tôi chỉ biết lắng nghe và chớp mắt  một cách ngu ngốc. Bằng giọng thấp, Liudmila kể cho tôi nghe về cô, về cuộc thị trấn, về con sông. Đầu tôi quay cuồng. Tôi biết được rằng cô ấy làm việc trong bệnh viện, ở phòng hậu cần. Cô đã viết mười đơn xin ra trận, nhưng phải hoàn thành lớp học y tá trước đã. Còn 3 tháng nữa là cô tốt nghiệp. Tôi không muốn cô rời đi. Và kể từ thời điểm đó về sau tôi lo rằng sẽ mất Liudmila! Bạn cùng phòng chùng xuống khi thấy việc gì đã xảy ra. Không ai nghỉ rằng tôi có cơ hội với cô gái ấy.



Bác sỹ quyết định sẽ mổ cho tôi lần thứ ba. Bác sỹ trưởng khoa giải thích: “Chúng tôi phải nối dây thần kinh của cậu lại, nó bị mảnh đạn cắt đứt. Nó sẽ không hoạt động liền được, nhưng cần thế”. Một lần nữa tôi lại được mang đến phòng phẫu thuật. Cả Alla và Liudmila giúp tôi đến đó. Liudmila phải dừng lại ở hành lang. Chào tạm biệt, em nháy mắt và cười với tôi. Còn Alla thì ở lại bên tôi. Một lần nữa tôi lại nhói đau trong tim: “Ai là người mình yêu?”. Rồi một lần nữa, họ trói tôi, đè lên người tôi. Lúc đầu họ không thể tiêm đúng chỗ nên phải chọc kim vào lưng tôi vài lần trước khi phần thân dưới tôi tê đi. Ít lâu sau ảnh hưởng của thuốc hết đi, nhưng cuộc phẫu thuật vẫn còn tiếp tục. Tôi không thể gào lên: Alla đang đứng đầu bàn mổ, còn Liudmila thì ở đợi bên ngoài cửa, thiệt khó khăn cho tôi lúc đó. Bác sỹ còn làm thêm chừng 50 vết khâu nữa. Sau đó mới kết thúc, tôi thấy Liudmila còn ngoài hành lang. Tôi còn đủ sức để nháy mắt với em và đưa ngón cái lên: mọi thứ ổn cả.



Em đến thăm tôi mỗi ngày, và tôi giúp em thực tập. Em băng bó tay, chân, đầu hoặc ngực tôi. Em cười, em đùa, trong khi tôi sẵn lòng đóng vai bệnh nhân cả 24 giờ một ngày.



Có một chút trầm trong quan hệ giữa tôi và bạn chung phòng. “Tớ không thấy Liudmila có gì đặc biệt cả”. “Cô ta không thể làm một người vợ, người mẹ tốt được. Cô ấy đẹp quá”. “Cậu tốn thời gian vào Liudmila, Mansur ạ. Cô ấy nên là vợ một vị tướng. Còn cậu là ai? Một thiếu uý quèn”. Đó, họ nói vậy đó, trừ người bạn nằm cạnh, một tay Azerbaijan. Yaroliyev ghen tỵ với tôi, nhưng cũng vui và tự hào cho tôi. Cậu ấy đưa ngón cái lên chót mũi khoằm, xoè những ngón tay còn lại ra vẫy tới lui, trêu chọc những người còn lại.



Một sỹ quan có tuổi, người thường yên lặng lắng nghe các trận tranh luận, cuối cùng nói: “Anh đã biết là Liudmila và Mansur sẽ thân thiết nhau. Phụ nữ thích đàn ông thật thà và giản dị. Còn các cậu nghĩ các cậu là ai? Máy bay ném bom bổ nhào! Các cậu chỉ tìm cách nhảy vào” cả hội cười ồ với giọng điệu lên lớp của anh. Lúc đó tôi hiểu rằng anh em chỉ đơn giản là là cố quên đi những điều khủng khiếp ở chiến trường. Các câu chuyện mà cánh “Máy bay bổ nhào” nói ra thì toàn bịa ít nhiều, và rằng mỗi người chỉ mơ được gặp tình yêu đích thực của mình. Bằng cách bí ẩn nào đó, tôi biết rằng người trong mộng của tôi còn đợi tôi ở quê nhà. Tôi không biết tên cô. Cũng không biết màu mắt. Nhưng tôi chắc rằng cô đang ở đâu đó đằng ấy. Người duy nhất mà tôi cần là người mà tôi sẽ nhận ra được ngay.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:17:39 am


Lúc đó là tháng 4 năm 1944. Trong suốt 5 tháng tôi nằm trong viện, quân ta đã giải phóng hoàn toàn hữu ngạn Ukraine. Chúng ta đang tiến công để giải phóng nốt những vùng còn lại của đất nước. Quân ta đang ép mạnh bọn phát xít và sẽ sớm chiến đấu với chúng ngay trên đất Đức.! “Giờ ai là bí thư đoàn của tiểu đoàn ta nhỉ?” tôi tự hỏi với lòng ghen tỵ. “Ai là người kế tiếp nghe những lời kinh khủng từ chính uỷ: Trung bình một bí thư đoàn chỉ tồn tại từ 1 đến 2,3 trận đánh” không biết bản thân chính uỷ còn sống không? Và ai trong số những đồng đội còn sống”.



Vết thương trên mông tôi đã lành lại, hội đồng y khoa tuyên rằng tôi đã phù hợp cho các hoạt động chiến tranh. Nhưng tôi, một cựu tình nguyện viên, không còn ham quay lại chiến trường. “Tôi đã chán ngấy việc đánh nhau rồi”. Họ mang cho tôi quân phục “Nhanh nào! Có một đoàn tàu chạy ra tiền tuyến trong nửa giờ nữa”. Nhưng lúc đó có một việc không tin được xảy ra: một bạn cùng phòng, cũng được đưa vào danh sách “phù hợp”, mời vị thiếu tá (thành viên trong hội đồng y khoa) đến phòng tôi và nói: “Thiếu uý này bị đứt dây thần kinh vận động trái. Cậu ta không thể tham gia chiến đấu được! Mời anh xem xét”. Vị thiếu tá lệnh cho tôi cưởi đồ ra và xác nhận chân trái của tôi vô dụng, tê bại. Và đó là cách mà vị thiếu tá quân y vô danh nọ đã cứu tôi khỏi một cái chết không thể tránh khỏi. Về cơ bản là chân tôi chả làm được tích sự gì nữa, ngay cả giữ một chiếc ủng.



Sau này, khi Liên Xô tuyên bố chiến tranh với Nhật, tôi, một sỹ quan có kinh nghiệm chiến trường, lại được đưa trong danh sách “phù hợp cho các hoạt động chiến tranh”. Tôi thấy xấu hổ để phản ứng dù rằng chân tôi nó vẫn thế, nó chết hoàn toàn. Tôi ngại rằng mình, một Đảng viên, bị gán cho cái mác hèn nhát. Nhưng rồi một cụ bà, một nhà thần kinh học, tuyên bố trước hội đồng: “Tôi sẽ không cho phép các người gửi người tàn tật này ra mặt trận với một chân bị liệt”. Và thế là tôi lại được cứu khỏi chết lần nữa.



Đã gần hai năm kể từ ngày Nikolai Koniayev, Ivan Vanshin, Victor Karpov và tôi, dù được miễn trừ quân dịch, thế mà lại xoay sở để được tuyển vào huấn luyện. Cũng đã gần hai năm kể từ khi tôi rời Brichmulla đến trường Bộ Binh Tashkent. Chỉ mới hai thôi à? Thế mà tôi thấy như đã sống cả cuộc đời! Chiến đấu trên bốn mặt trận khác nhau: Stalingrad, vòng cung Kursk, Dnieper và Ukraine.



Tôi luôn nhớ ngày tôi được kết nạp Đảng Cộng Sản. Đó là một ngày mùa đông lạnh giá, tháng 11 năm 1942, dưới những cơn bão tuyết liên miên, thảo nguyên Stalingrad trở thành một vũ đài ở đó bước ngoặc của cuộc chiến được định đoạt. Trong chiến hào, anh em binh sỹ bảo nhau một tin đặc biệt: một nhóm cán bộ đảng đến địa đoạn của chúng tôi ở tiền duyên, và giờ mọi người có cơ hội được kết nạp vào VKP. Trong thâm tâm tôi, những gì vinh dự và tốt đẹp nhất trong cuộc đời đều liên quan tới Đảng. Trong tưởng tượng, buổi lễ kết nạp đảng viên gắn liền với hình ảnh của những toà nhà đẹp đẽ, tắm mình trong nắng. Trong khi ở đây, nơi tiền duyên, chỉ là những chiếc hầm đầy bùn ở đầu các chiến hào, chỗ chúng tôi trú thân vào những lúc ngừng bắn ngắn ngủi. Tôi phải thú nhận rằng tôi thấy tiếc vì giấc mơ của mình đã thành hiện thực trong khung cảnh chẳng có chút lãng mạn này. Tuy vậy, trông ra bộ phận chính trị của chúng tôi cũng nhận thấy  cảm giác đó. Một nhóm 3,4 cán bộ, gồm cả một thư ký và một nhiếp ảnh – cũng vũ trang giống như bọn tôi, lựu đạn, SMG, súng lục để sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào, đã làm mọi thứ để tạo không khí vui vẻ, lễ lạc cho cánh lính tiền phương. Mày râu nhẵn nhụi, quân phục đàng hoàng, những người đó làm nổi bật sự xuất hiện của họ, dù sự thật là cuộc sống nơi chiến hào có tệ ra sao, thì cái ngày chúng tôi gia nhập Đảng là rất đáng nhớ. Trong xà cột, túi xách, họ mang theo tất cả các thứ cần thiết, và những giấy tờ đều được làm xong ngay tại chỗ, ngay tại hoả điểm. Họ bận rộn điền vào các mẫu đơn cho chúng tôi và đưa ra một tờ giấy trống để chúng tôi viết đơn xin. “Phải viết thế nào nhỉ?” Chúng tôi hỏi, và cảm thấy chắc phải viết theo một chuẩn mực nào đó. Nhưng người từ bộ phận chính trị nói: “Hãy viết những gì trái tim các bạn nói”. Và mỗi người, quay đi, suy nghĩ. Trái tim chúng tôi mách bảo nhiều điều: Căm thù quân xâm lược; Nỗi đau của trận đánh ngày hôm qua, nơi bạn mất bạn bè; Mong muốn được chiến đấu giải phóng tổ quốc. Và nếu bạn sẵn sàng cho cái chết, thì bạn muốn chết như một người Cộng Sản. Ai đó còn mạnh mẽ cầu chúc tương lai tốt đẹp cho công dân Soviet. Và cuối cùng, chỉ cần viết vài từ nguyên tắc như: “Tôi muốn đứng vào hàng ngũ VKP…”. Đây là cái cách mà hàng triệu lá đơn từ tiền phương đã viết. Anh em trút vào đó những dòng chữ nói rõ tất cả suy nghĩ và cảm nhận của mình.





Trong trường hợp của tôi thì có thêm một điều khác, nó ám ảnh tôi suốt đời: một cảm giác về lương tâm rất mạnh (hoặc tôi có thể nói là ốm yếu không nhỉ?). Tôi cảm thấy hối hận vì mình đã sống sót trên “Hòn Đảo tử thần” trên sông Dnieper, trong khi hầu hết đồng đội đã hi sinh. Và một điều khác. Bằng trực giác tôi biết dù trong tương lai có ra sao, bất cứ ai mà tôi gặp, tôi sẽ không bao giờ tìm được những người bạn thân thiết như những người tôi đã có nơi chiến trường, dưới lửa đạn.



Nhiều năm sau chiến tranh, tôi lái một chiếc xe đi cùng với vợ, vội vã đến nơi nào đó. Ở một chỗ hoang vắng, chúng tôi thấy một con bò vừa mới đẻ. Con nghé còn ướt đẫm và mắt không có hồn. Tự nhiên chúng tôi lái xe quay lại một nông trại gia súc và báo việc đó. Hoá ra con bò đã bị lạc và mọi người cảm ơn chúng tôi rất nồng nhiệt. Một người bảo: “Các bạn thấy đồng chí đây lái một chiếc Zaporozhets [loại xe hơi rẻ nhất sản xuất bởi ngành ô tô Soviet -ND]. Chắc chắn đồng chí là một cựu chiến binh tiền tuyến. Nếu bác ấy có một chiếc Lada [một nhãn hiệu đắt hơn-ND] thì ắt bác chẳng ngại chạy 25km vì vài con bò”. Tôi cảm thấy rất tự hào (đặc biệt khi có vợ tôi hiện diện) rằng sau chừng ấy năm, nhân dân vẫn đánh giá cao cựu chiến binh chúng tôi.



Quan điểm này được chứng minh. Như tôi thấy, những ai từng ở chiến trường cố gìn giữ một phẩm giá đặc biệt nào đó trong cuộc đời còn lại. Đó là một khả năng để hiểu những gì người khác cần, để giúp người khác bởi một cảm giác tình anh em.



Không biết sao tôi lại thấy rằng những người may mắn nhất trong chúng tôi là những ai phục vụ cho đến cuối cuộc chiến, cho đến tận ngày chiến thắng. Không phải là những người đã bị rơi lại giữa chừng trong các trạm phẫu, bệnh viện…



Trước lúc rời viện, tôi xin một vé tàu đi Moscow. Ở thủ đô, những vũng nước mùa tháng Tư lỏng bõng khắp nơi., nhưng mùa xuân của tôi thì vẫn đang chờ tôi quay về nhà. Tôi bổ đến ga Kazan để kịp giờ chuyến tau Tashkent. Nhưng chuyến đó bị huỷ nên tôi đi chuyến khác. Bởi thế nên đích đến của tôi lúc đó lại là Kuibyshev. Tôi đến được thành phố Volga hơn 24 giờ một tý. Sân ga thật đông đúc. Có rất nhiều trẻ em, tất cả chúng trông đói ăn. Tôi mở ba lô ra, bọn trẻ ùa đến quanh tôi như một đàn bồ câu. Các cháu đều gầy gò, chỉ còn da và xương. Những đôi mắt to. Tôi ngạc nhiên khi thấy rất nhiều cháu kiên nhẫn chờ để được chia phần. Và thể là tôi lên tàu Tashkent với cái túi rỗng mà không có lấy một phiếu thực phẩm nào, và nếu không có những hành khách khác chia cho tôi những phần ăn đạm bạc của họ thì chắc 3 ngày trong chuyến hành trình này phải khó khăn nhiều.



Tại Tashkent, tôi lại lên tàu lần nữa để đến thị trấn Chirchik, sau đó tôi dự kiến sẽ vẫy xe đi nhờ đến làng Brichmulla, bên bờ thượng nguồn sông Chatkal, cạnh những ngọn đồi. Gia đình tôi đã chuyển đến đây từ Altai trước chiến tranh không lâu. Cha tôi bảo chúng tôi rằng ông muốn đưa chúng tôi về đây bởi ông muốn “cho chúng tôi ăn táo và nho”. Nơi này nằm cạnh một mỏ quặng thạch tín. Còn ngược dòng lên, trên núi là mỏ Sardagon, nơi khai thác quặng vonfram. Tôi rời gia đình sống ở vùng đó. Bây giờ, mẹ và hai em trai đang đợi tôi, đứa bé nhất mới vừa lên năm. Tôi có thể hình dung ra nó vui thế nào: anh cả về từ chiến trường! Và nó sẽ kể thế nào với bọn trẻ khác trên đường bằng tiếng Nga, tiếng Uzbek, tiếng Tartar và tiếng Tadzhik rằng anh Mansur của nó là một anh hùng, rằng anh Mansur “đã giết hàng trăm hoặc hàng ngàn tên phát xít”



Tôi leo lên một chiếc xe tải, vốn đã nhồi đầy phụ nữ Uzbek và Tadzhik. Họ nhường cho tôi một chỗ gần cabin. Tôi nhìn những bạn đồng hành, họ ngắm lại tôi. Những người phụ nữ tò mò muốn biết về tôi, tôi đi về đâu và gia đình nào đã có người con, người anh trở về từ chiến tranh. “Về Brichmulla” tôi hét lên cái từ yêu dấu của mình và bắt đầu nói chuyện bằng tiếng Uzbek và tiếng Tartar. Những cặp mắt đen của họ mở bừng với sự kinh ngạc. “Ồ ! Đó chính là cậu Mansur!”. Và rồi những phụ nữ Uzbek, Tartar đó lách chách nói như chim ác là, nhớ lại rằng tôi, Nikolai Koniayev, Victor Karpov và Ivan Vanshin, 4 người đã tự nguyện ra trận hai năm về trước. Sau một hồi nói bất tận, cuối cùng một cô gái cũng cho tôi biết là Nikolai Koniayev còn đang trong kỳ phép, chính tướng Cherniakhovski đã cho cậu ta một tháng phép và mang theo một vài chỉ thị đặc biệt, và rằng hiện giờ Nikolai đang còn ở nhà tại Brichmulla. Tôi vui vô cùng khi nghe tin đó, thật quá tốt để tin rằng sự thật. Có thể chăng sau hai năm bôn ba dặm trường, số phận lại cho chúng tôi gặp nhau? Nhưng không!



Chiếc xe tải chạy nhanh về phía trước, làm bốc lên đằng sau một đám mây bụi mịt mùng. Chúng tôi đã vượt qua Khodzhikent, rồi Charvak. Giờ đang chạy qua một vùng đất mỡ màng. Ở đằng kia, thấp bên dưới, là con nước của dòng Chatkal đang réo sôi. Rồi tôi thấy một chiếc xe tải chạy nhanh theo hướng ngược lại. Nó cũng lèn đầy phụ nữ trong các bộ áo váy màu sáng và giữa họ, tôi để ý thấy một dáng người trong quân phục mùa hè. Chúa ơi, đó chính là Nikolai! Hai chiếc xe vượt qua nhau, tôi chỉ có một giây để hét lên: “Nikolai! Mình, Mansur nè” cậu ta cũng nhận ra tôi và hét lên thứ gì đó. Những chiếc xe tải nhanh chóng đưa chúng tôi theo hai hướng khác nhau: tôi về Brichmulla, còn Nikolai quay lại chiến trường. Dù rằng chúng tôi không thể nhìn thấy nhau bởi bụi tung mù, nhưng vẫn vẫy nhau một lúc lâu. Cậu ấy với mũ lưỡi trai trong tay, còn tôi là mũ trận.



Tôi không bao giờ được gặp lại cậu. Tháng 5 năm 1944, khi tôi đã làm việc lại trong mỏ, gia đình Koniayev nhận được giấy báo tử rằng Nikolai đã hi sinh. Tuy nhiên, tôi sẽ tìm thấy ở gia đình người bạn này, một cô gái và là duy nhất, định mệnh của mình: Nadezhda của tôi. Nhưng đây là một câu chuyện khác.



Trong khi đó, tôi đến trình diện tại phòng đăng ký quân sự Bostandykski quen thuộc, nơi gần hai năm trước tôi đã đấm xuống bàn, yêu cầu được ra trận. Dường như giờ đây tôi cũng ngồi vào đúng chiếc ghế đó. Và cũng chính thiếu tá Galkin ấy đối diện với tôi. Anh im lặng nhìn tôi với vẻ tò mò ghê gớm một lúc, rồi sau cùng bảo: “Được rồi, có việc gì!”.



Hết chương 12



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:18:10 am

Phần kết


Rất nhanh sau đó, không cần nghỉ ngơi, tôi vui vẻ quay lại mỏ và nhận lại phiếu bánh mì. Cuộc sống rất khó khăn và luôn thiếu thực phẩm. Nên tôi quyết định quay lại về vùng Siberi. Tôi không có bà con hay bạn bè còn lại ở đó, nhưng tôi chắc là tôi có thể sống được, dù chỉ bằng khoai tây, nấm và quả hạch.



Tôi đến thị trấn Kansk tuộc vùng Krasnoyarsk và đề nghị cán bộ Đảng ở địa phương gửi tôi làm việc “càng xa trong rừng càng tốt”. Anh ta vui vẻ cho tôi một công việc trong mỏ Tarakstroi, nơi đó họ bắt đầu khai thác gần đây loại monazite, một khoáng chất hiếm, có chứa đến 20 phần trăm chất phóng xạ Thori.



Là một cựu chiến binh chiến trường, và là một đảng viên, tôi lấy những giấy giới thiệu cần thiết từ đảng bộ địa phương và nhanh chóng đến mỏ. Cạnh những thứ khác, công việc mới của tôi là chỉ đạo khoan và nổ phá đá. “Để giữ cho quần khỏi tụt” như cách nói trong những ngày đó, họ cấp cho tôi 50kg khoai tây và một thùng nấm ngâm. Và cũng tìm cho tôi một phòng nhỏ trong trại.



Tôi phải thực hiện nhiều ca nổ. Đó là một công việc nguy hiểm. Mọi người phải được cảnh báo và cảnh giác luôn. Rồi một lần, lúc ngày làm việc gần kết thúc, tôi có nhiệm vụ đi xuống một hầm lò có triển vọng bằng một thùng gàu. Vấn đề là có một trong số 20 lỗ nổ có vấn đề về thiết bị nổ. Tôi nhanh chóng tìm ra nó. Trông ra thì có một vụ nổ lân cận đã cắt mất một phần mạch an toàn. Một cách tự động, tôi châm ngòi để đốt phần còn lại. Nhưng ngay tức khắc, tôi nhận ra là mình quên ra hiệu cho anh em bên trên kéo tôi lên! Tôi giật mạnh dây nối vào cò búa tín hiệu trên mặt đất, nhưng nó bị đứt ở đâu đó khúc giữa và rớt vào chân tôi: tín hiệu đã không được báo! Bề ngang hố nổ chỉ dài chừng 5m. Vụ nổ chắc chắn sẽ giết tươi tôi! Chỉ nếu tôi có đủ thời gian leo lên chừng 3 mét trên hố nổ thì tôi có thể sống sót! Tôi quyết định dùng một sợi cáp 8mm đang treo đó để vượt qua 3 mét, nhưng tay tôi cứ trơn tuột. Giá mà có một sợi thừng! Trong khi đó, đoạn dây cháy chậm cháy với mức 1cm một giây và khoảng cách đến kíp nổ chỉ còn chừng 30 hoặc 40 cm!



“Ôi chúa ơi” tôi nghĩ “mình đã sống sót qua chiến tranh, nhưng giờ lại bị chết ở đây, tại nhà, Siberi” Tôi gần như không thở được bởi làn khói dày, ngột ngạt của bột dẫn hoả và nhựa đường. Đột nhiên, chiếc thùng gàu mà tôi đang đứng, được kéo lên. Suy nghĩ đầu tiên của tôi là: “Sao chậm thế?”. Nhưng khoảng cách đến hố nổ xa thêm và tôi hi vọng sống sót sau vụ nổ. Chiếc gàu vẫn đi lên, còn tôi thì nguyền rủa mình đã lãng trí, mắt tôi ứa lệ vui mừng. Khi chỉ còn chừng 1,5m đến miệng hầm, tôi nghe một tiếng nổ. Sóng xung kích phóng tôi ra khỏi hầm lò như một viên đạn cối ra khỏi nòng!



Khi tôi có cảm giác trở lại, tôi hỏi anh em – họ trông còn kinh khủng hơn tôi – “Tại sao cách cậu biết đường mà kéo thùng nhỉ?” “Bọn tôi nghĩ là nghe anh hét Vira-a-ah nên chạy tới và bắt đầu kéo lên…” Tôi nhớ hoàn toàn rõ là tôi không hề la “Virah” khi ở dưới đó, 20m dưới mặt đất. Bởi tôi biết là những người thợ mỏ khác, đang ngồi trong lều chứa dụng cụ, dựng lên để tránh cái lạnh âm 30 độ, không thể nghe được.



Sáng hôm sau, tôi bảo một đồng nghiệp, đang bóc đá trong hầm, gào ‘virah” to hết cỡ. Cậu ta hét đến khản giọng, nhưng tôi, ngồi cạnh lều hoặc bên trong, không nghe được chút gì! Cả những thợ mỏ khác cũng vậy ….



Lúc đó, mỏ tôi làm việc được điều hành bởi NKVD [tiền thân của KGB]. Những người phạm tội làm công tác đào mỏ. Là quản đốc, tôi không có rắc rối gì với họ. Rồi một lần, khi ngày làm việc mới bắt đầu, vài người thợ mỏ bảo tôi rằng tôi đang nguy hiểm tính mạng. Mạng tôi hình như vừa bị “mất” khi chơi bài [bọn tội phạm chơi đặt bằng mạng sống của một ai, người thua phải làm sát nhân]. Giờ thì không an toàn cho tôi vào khu làm việc. Tôi thấy vừa sợ vừa bực bội “Mình làm gì với chúng nhỉ?” Và rồi tôi có một lựa chọn để thực hiện: hoặc là tôi tránh không ra khu vực bọn tội phạm làm việc, điều này thực sự có nghĩa là mất việc; hoặc tiếp tục như thường, không để ý tới những đe doạ và che dấu nỗi sợ. Tôi biết bọn tội phạm thích “vui” với những ông “sếp” tự do; cố đe doạ họ bằng những nỗi sợ khác nhau bao gồm cả cái thứ bài “thua cuộc” này. Tuy vậy, chúng tôi không thể nói ra lúc nào chúng đùa và lúc nào chúng nguy hiểm. Là cựu chiến binh, điều tôi sợ hơn tất cả là thành mục tiêu chế nhạo hoặc ai đó có thể xem tôi là một thứ hèn nhát. Tôi mời thượng sỹ Kozlov, trưởng đội bảo vệ an ninh NKVD đến văn phòng và cho anh biết rằng bọn tội phạm đe doạ tôi, giải thích cho anh rằng tôi phải tiếp tục công việc và giám sát chúng làm. Tôi yêu cầu anh thông báo cho đội của mình, vũ trang bằng SMG, luôn nhìn thấy tôi trong tầm mắt khi tôi ở giữa đám tội phạm.



Một giờ sau, tôi bận rộn kiểm tra công việc của chúng. Mọi người bọn chúng, chừng 24 tuổi,  đều có một cái cuốc chim, một chiếc búa tạ, một chiếc xà beng hoặc một cái rìu. Tôi để ý nhìn thấy các vệ binh ở mọi góc, sẵn sàng bắn bất kỳ giây nào từ bốn phía. Khi tôi đi ra khỏi khu đó, lưng tôi đẫm mồ hôi, nhưng tôi vẫn còn sống. Vừa khi tôi ngồi trong văn phòng, thì nghe tiếng kẻng kêu, đó là tín hiệu báo động. Tôi vọt ra và thấy một tên tội phạm đang tìm cách trốn. Đó là tên chịu trách nhiệm giết tôi. Tôi chạy đến sau một vệ binh đang định nhả đạn hạ hắn. Tôi ngừng anh lại và nhanh chóng bảo anh đưa súng. Tôi ngắm thấp xuống. Một tiếng nổ ngắn và hắn ngã xuống đất. Anh em chạy tới chỗ hắn và tôi giúp buộc garô trên đầu gối hắn. Chúng tôi cảm ơn nhau vì đã cứu mạng nhau.





Sau 18 năm làm việc trong điều kiện như vậy, một căn bệnh tim đã buộc tôi rời vị trí giám đốc một mỏ quặng và khu chế biến. Năm 1963, tôi trải qua một ca mổ tim và sau đó cho đến tận ngày nghỉ hưu, tôi có vài công việc toàn là việc nhẹ. Thật đáng ngạc nhiên là với vết thương nghiêm trọng và mổ tim, mỗi cái làm tôi bị vô hiệu một phần cơ thể, thì tôi lại sống để mừng ngày sinh nhật thứ 81 của mình. Trong khi những người tôi quen hoặc đồng nghiệp có sức khoẻ tốt hơn thì đã chết.



Năm 1946 tôi cưới em gái của người bạn thân Nikolai Koniyaev, người cùng tôi tình nguyện ra trận và đã hi sinh trong chiến đấu. Chúng tôi có 03 người con, chúng giờ cũng thành ông thành bà cả rồi. Cùng với Nadezhda tôi có năm cháu nội ngoại và 5 cháu cố.



Nhìn lại cuộc đời mình, phần lớn trong đó là cảnh bần hàn, đói kém và chiến tranh, tôi không hối tiếc gì. Tuy nhiên, dù những khó khăn và mất mát, tôi có thể nói là tôi đã làm tròn bổn phận của mình. Số mệnh đã định rằng tôi sống sót trong chiến tranh, khi rất rất nhiều đồng đội và bạn bè thời niên thiếu đã hi sinh trên chiến trường. Kỷ niệm về họ luôn trong tim tôi và trong quyển sách này, bạn đang có trước mặt.



Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:19:10 am
PHỤ LỤC 1. SƯ ĐOÀN 293 BỘ BINH

Ko giống như những chiến binh thời cổ, phần lớn binh lính 2 phe trong các cuộc Đại chiến thế giới vào trận mà chỉ được bảo vệ bởi quân phục và áo khoác vải. Tuy nhiên điều đó ko có nghĩa là khi hành quân hoặc trên mặt trận họ ko phải mang theo nhiều kg kim loại. Thay vì những bộ áo giáp, giờ đây họ phải mang những vũ khí cộng đồng, 1 số trong đó thậm chí phải tháo rời để vận chuyển. 1 ví dụ được biết đến nhiều nhất trong các loại vũ khí kiểu này là súng máy hạng nặng. Những người lính phải mang cái giá kềnh càng cùng bản thân khẩu súng, thường còn kèm thêm 1 túi nước làm mát nòng súng to tướng nữa. Ko tính trọng lượng nước, 1 khẩu súng máy Maxim chưa lắp đạn nặng 20.3kg, đây là vũ khí cơ bản của Hồng quân. Thế nhưng nói đến những chuyên gia cử tạ thực sự phải kể đến các chi đội súng cối cấp tiểu đoàn.

Giống như xe tăng, súng cối hiện đại xuất hiện lần đầu trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Súng cối được sáng tạo bởi 1 người có liên hệ ko nhiều với công việc nhà binh, Wilfred Stokes, giám đốc điều hành 1 công ty sản xuất bơm, van và các thiết bị dẫn khí. Đầu tiên đạn cho cối chỉ là những quả lựu đạn thông thường chưa có hình dáng khí động học. Tuy nhiên trong thời gian giữa 2 cuộc đại chiến, súng cối đã có bước phát triển lớn. Đạn được gắn cánh đuôi, được làm thành hình giọt nước và đặc biệt là có thêm kíp nổ. Chúng trở thành vũ khí bộ binh quan trọng trong WW2.

Trong giai đoạn 1942 - 1943 Hồng quân sử dụng 3 kiểu súng cối chủ yếu là cối cấp đại đội, cấp tiểu đoàn và cấp trung đoàn. Loại cuối cùng (cối 120mm cấp trung đoàn) là 1 vũ khí có hiệu quả cao khiến cho quân Đức đến năm 43 cũng copy lại. Thậm chí khi đã tách thành từng phần loại súng này vẫn quá nặng để mang vác bằng tay, vì vậy người ta phải gắn thêm bánh xe vào để có thể kéo bằng xe hoặc ngựa. Cối cấp đại đội (50mm) là loại nhẹ nhất, chỉ có 14kg. Tuy nhiên loại cối này ko hiệu quả lắm, đạn của nó chỉ nặng 922g và mang được có 90g thuốc nổ. Giữa 2 loại trên, kết hợp giữa đạn mạnh và khả năng vận chuyển bằng mang vác là cối cấp tiểu đoàn (82mm), loại vũ khí mà Mansur Abdulin là pháo thủ số 2. Đây là loại cối được sản xuất tại Liên Xô theo mẫu súng cối của Stoke (81mm) thu được trong cuộc xung đột biên giới với Trung Quốc năm 1929. Đạn của nó nặng 3.31kg với 400g thuốc nổ, khi nổ sẽ tạo ra 400 - 600 mảnh đạn có khả năng sát thương trong vòng 6m. Loại cối này đặc biệt hiệu quả khi bộ binh đang tấn công mà bất ngờ gặp phải hỏa điểm súng máy. Súng máy đã chứng minh hiệu quả to lớn của nó nên mỗi tiểu đội bộ binh đều có 1 súng máy hạng nhẹ (các đơn vị xe tăng và bộ binh cơ giới Đức có tới 2 khẩu mỗi tiểu đội). Mỗi khẩu súng máy như vậy có thể chặn đứng cuộc tấn công của cả 1 đại đội thậm chí 1 tiểu đoàn nhưng nếu có 1 khẩu cối 82mm gần đó có thể dễ dàng làm chúng câm họng. Khi tấn công các vị trí phòng ngự súng cối cũng có thể dùng để pháo kích quân địch núp dưới hầm hố hoặc sau công sự, nơi ko thể bắn được bằng súng máy.

Tuy nhẹ hơn pháo nhưng trọng lượng của súng cối vẫn là vấn đề thực sự cho những người lính phải mang vác chúng. Cối 82mm Soviet Model 1937 trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu nặng 56kg và khi phải di chuyển sẽ được chia làm 3 phần: nòng, đế và giá súng. Phần thứ nhất nặng 19kg, phần thứ hai 22kg và phần thứ ba 20kg. Ngoài các bộ phận của bản thân khẩu cối, các pháo thủ còn phải mang thêm đạn, mỗi thùng đạn 3 viên nặng 12kg. Cũng phải luôn nhớ rằng đó là những phần phải mang thêm ngoài số trang bị tiêu chuẩn của 1 người lính: tư trang, đồ ăn, mặt nạ phòng độc, súng cá nhân và đạn. Trong băng giá mùa đông hoặc cái nóng mùa hè những người lính cối thường phải mang vác nặng hành quân hàng tá km mỗi ngày. Chúng ta nên nhớ rằng phần lớn binh sĩ cả 2 bên Đức và Soviet ko nằm trong các đơn vị tăng hay cơ giới mà là những bộ binh và phải di chuyển bằng chân. 1 trong các đơn vị bộ binh như thế là Sư đoàn Bộ binh 293, nơi Abdullin phục vụ.

Lịch sử Sư 293 Bộ binh bắt đầu vào năm 1941, tại thị trấn Sumy, trận đánh đầu tiên của nó diễn ra tại Ukraine trong những ngày bất hạnh tháng 9/1941 khi Kiev bị những cỗ xe tăng của Guderian tấn công. Tập đoàn quân 40 với Sư 293 trong đội hình đã thất bại trong cố gắng ngăn cản bước tiến của đoàn thiết giáp Nazi, may mắn thay Sư đoàn đã ko rơi vào bẫy là 1 cái túi lớn do các mũi tấn công của quân Đức tạo ra. Thoát khỏi vòng vây, Sư đoàn rút lui về nơi phát tích của mình là Sumy và đến tháng 11 thì chuyển tới khu vực Kursk, vượt qua vùng Prokhorovka mà ko gặp trở ngại gì, đây chính là nơi vào năm 1943 sẽ diễn ra những trận đấu tăng ác liệt.

Mùa đông 1941 - 1942 Sư đoàn chia ra đóng gần Kursk và trên thực tế ko tham gia vào các cuộc phản công lớn của quân đội Soviet gần Leningrad, Moscow và Kharkov. Mùa xuân năm 1942 Sư đoàn được phối thuộc vào Tập đoàn quân 21 và chiến đấu trong đội hình Tập đoàn quân gần 1 năm, được nhận danh hiệu Cận vệ. Trong trận thảm bại khi mặt trận Kharkov vỡ tháng 5/1942, Sư đoàn bảo vệ 1 đoạn chiến tuyến tương đối yên tĩnh. Ngày 30/6 quân Đức tiến hành Chiến dịch Blau nhằm mục tiêu chiếm Caucasus và sông Volga. Tập đoàn quân 21 bước vào những trận đánh ác liệt, kết quả là toàn bộ đội hình Tập đoàn quân gồm 4 sư đoàn bị bao vây. Tuy nhiên thật kỳ diệu là Sư 293 đã thoát được và 1 lần nữa ko bị tiêu diệt. Tập đoàn quân sau đó cũng vượt được sông Đông rồi tiếp tục rút về phía đông, sau đó được chuyển cho Phương diện quân Stalingrad đưa về hậu tuyến để phục hồi và bổ sung quân số. Sư đoàn được tái tổ chức tại Buzuluk, 1 đầu mối đường sắt lớn ở Nam Ural.

Tình trạng Sư đoàn như thế nào trước khi bị ném vào 1 trong những chiến dịch quyết định của WW2, Trận Stalingrad? Trong 3 tháng rời xa mặt trận, Sư 293 đã được bổ sung đầy đủ nhân lực gồm tân binh, hạ sĩ quan và sĩ quan. Vào ngày 24/10/1942 khi quá trình tái tổ chức hoàn tất, Sư đoàn đã có quân số 10420 người so với quân số chuẩn của 1 Sư đoàn là 10868. Thành phần dân tộc của các binh sĩ phản ánh sự đa dạng sắc tộc trong Liên bang Soviet. Người Nga chiếm gần 1 nửa (4523 người), các dân tộc Slav (Nga, Ukraine và Byelorusia) có tổng cộng 5748 người. Ngoài ra còn có 269 người Do Thái, 3 người từ các nước cộng hòa vùng Baltic và 1 người Chesnia. Còn lại là người đến từ vùng Trung Á, phần lớn trong số đó là người Kazakh với 2280 người. Chỉ có 1/3 binh lính và sĩ quan dưới 25 tuổi. Nhóm tuổi lớn nhất - chiếm hơn 1 nửa quân số - có tuổi đời từ 25 đến 40. Ảnh hưởng của các Đảng viên ko lớn như mọi người vẫn nghĩ, chỉ có 2/3 sĩ quan Sư 293 là Đảng viên hoặc Đoàn viên Komsomol, tỷ lệ này ở binh sĩ là dưới 20%.

Vào thời điểm năm 1942, trang bị của 1 sư đoàn Hồng quân khác nhiều so với 1 sư đoàn Đức. Trước đó vào tháng 7/1941, 1 sư đoàn bộ binh Soviet còn được trang bị nhẹ hơn vì như vậy dễ quản lý hơn. Mỗi sư đoàn có 1 trung đoàn pháo trong đội hình với 12 lựu pháo hạng nhẹ 122mm và 20 pháo 76.2mm cấp sư đoàn. Để so sánh, 1 sư đoàn bộ binh Đức có tới 36 lựu pháo hạng nhẹ 105mm và 12 lựu pháo hạng nặng 150mm. Sự khác biệt này được giải thích bởi thực tế là 1 trong các nguyên tắc cơ bản của chiến lược quân sự Soviet là tập trung pháo hạng nặng (từ 152mm trở lên) dưới quyền điều động của chỉ huy cấp cao nhất, nhờ đó có thể sử dụng chúng cho những đòn đánh quyết định. Để chống lại xe tăng đối phương Sư đoàn cũng có trong đội hình Tiểu đoàn chống tăng 331 trang bị 12 pháo chống tăng 45mm và 36 súng trường chống tăng 14.5mm. Thông thường việc di chuyển pháo được tiến hành bằng ngựa nhưng số ngựa luôn luôn thiếu. Số lượng chính thức cần có là 1800 con nhưng trong thực tế Sư đoàn chỉ có được 1016 con. Ngoài ra Sư đoàn còn có gần 100 xe ô tô.

Lực lượng chiến đấu chính của 1 sư đoàn bộ binh Soviet là 3 trung đoàn bộ binh, Mansur Abdullin đã bước vào trận chiến từ 1 trong các trung đoàn như vậy. Vào ngày 10/11/1942, theo hồ sơ Trung đoàn 1034 Bộ binh của ông có 2130 người, ít hơn 1 chút so với quân số chuẩn là 2532 người. Trung đoàn có những vũ khí sau: 1655 súng trường, 222 PPSh (loại tiểu liên do Shpagin thiết kế, đạn 7.62mm, băng đạn tròn 71 viên), 52 súng máy hạng nhẹ, 20 súng máy hạng nặng Maxim (đạn 7.62mm), 2 súng máy phòng ko 12.7mm, 54 súng trường chống tăng 14.5mm, 4 pháo cấp trung đoàn 76.2mm, 6 pháo chống tăng 45mm, 6 súng phun lửa chống tăng, 6 cối cấp trung đoàn 120mm, 27 cối cấp đại đội 50mm và 27 cối cấp tiểu đoàn 82mm. Abdulin thuộc 1 trong các kíp pháo thủ của loại vũ khí cuối cùng kể trên. Vào thời điểm tham chiến trung đoàn đã thực sự có được đầy đủ sức mạnh.

Sư 293 Bộ binh đã có những cuộc chạm trán đầu tiên với quân địch vào đầu tháng 11/1942. Trận đánh kịch tính nhất diễn ra vào ngày 14/11 khi toàn bộ đội hình Sư đoàn được lệnh tham chiến. M. Abdulin đã mô tả lại sự khủng khiếp và ác liệt của trận đánh ngày hôm đó nhưng chúng tôi cho rằng đó chỉ là ấn tượng của 1 người lính trẻ còn chưa có kinh nghiệm chiến trường. Theo báo cáo của Sư đoàn, thương vong của Trung đoàn 1034 trong ngày 14/11 như sau: số chết tại chỗ hoặc sau khi bị thương là 8 sĩ quan, 27 hạ sĩ quan, 71 binh lính; số bị thương hoặc bị sức ép là 15 sĩ quan, 39 hạ sĩ quan và 223 binh lính. Tổng thương vong, cả chết lẫn bị thương, của trung đoàn chiếm khoảng 20% quân số theo danh sách ban đầu. Toàn Sư đoàn mất 1183 người trong khoảng từ 10 - 20/11, vào ngày 10/11 danh sách quân số là 9274 người, đến ngày 20/11 là 8069 người.

Theo kế hoạch hành động của chỉ huy cấp cao, Sư đoàn nằm trong lực lượng dự bị của Tập đoàn quân 21 được giao 1 nhiệm vụ ko ai thèm muốn là tạo 1 mấu lồi đâm sâu vào quân Đức trong vòng vây và sau đó là ngăn quân Đức phá vỡ nó. Sau những trận đánh ác liệt với đối phương là những chiến binh kỳ cựu của các Sư đoàn Xe tăng 14 và 16 Đức, lực lượng của Sư 293 teo lại dần nhưng họ ko được tăng cường. Ngày 1/12/1942, theo hồ sơ Sư đoàn còn 6113 người; đến 10/12 còn 4142 người; ngày 20/12 sau khi được bổ sung khoảng 500 người quân số Sư đoàn là 3797 người. Khoảng 2/3 sĩ quan và binh lính Sư đoàn đã chết hoặc bị thương, nhiều nhất là trong khoảng thời gian từ 1 - 10/12 khi quân Đức cố gắng chọc thủng vòng vây. Tập đoàn quân 21 dàn quân ở phía tây vòng vây nằm trên tuyến đường vượt thoát ngắn nhất đã phải hứng chịu đòn đánh mạnh nhất. Trong 10 ngày đó Sư 293 Bộ binh mất, cả chết lẫn bị thương, khoảng 1/3 quân số (2102 người): 60 sĩ quan, 140 hạ sĩ quan và 315 binh lính chết; 8 hạ sĩ quan và 39 binh lính mất tích; số còn lại bị thương.

Tại khu vực Stalingrad các chỉ huy Soviet đã lần đầu tiên thành công trong cố gắng tổ chức bao vây quy mô lớn lực lượng địch. Tập đoàn quân 21 nói chung và Sư 293 nói riêng đã góp phần quan trọng trong chiến dịch khi đẩy lùi các đơn vị cơ giới Đức. Những hành động anh hùng của Sư đoàn đã được những người có trách nhiệm đánh giá xứng đáng: sau trận Stalingrad Sư đoàn được nhận danh hiệu Cận vệ, tức là gia nhập vào lực lượng ưu tú của quân đội Soviet. Các đơn vị Cận vệ Nga có hệ thống số thứ tự riêng, vì vậy Sư đoàn đổi tên thành Sư đoàn Bộ binh Cận vệ 66. Các đơn vị của nó cũng đổi tên: Trung đoàn 1034 của Abdulin trở thành Trung đoàn 193 Cận vệ. Ngay vẻ bề ngoài 1 lính Cận vệ đã khác với các đơn vị thường với huy hiệu tương tự như 1 chiếc huân chương đính trên đồng phục. Những dấu hiệu tương tự cũng được sơn lên trang thiết bị của họ. Theo cách này những người lính chứng tỏ mình là tinh hoa của Hồng quân. Thiết thực hơn, trở thành Cận vệ có nghĩa là được nhận được những trang bị tốt hơn và có thêm quân số cũng như vũ khí. Thí dụ 1 trung đoàn pháo của sư bộ binh Cận vệ có 24 pháo 76.2mm so với thông thường là 20. Quân số tiêu chuẩn của 1 trung đoàn bộ binh Cận vệ là 2713 người, trang bị 1006 súng trường, 788 súng trường tự động và 344 tiểu liên.

Trong thời gian chiến dịch tạm ngừng vào mùa xuân và đầu hè 1943, khi cả 2 bên ko tiến hành những cuộc tấn công quy mô lớn nào mà chỉ chuẩn bị cho những trận chiến quyết định sắp tới, Sư 293 được tái tổ chức. Ngày 10/7/1943, khi Trung đoàn 193 Cận vệ của Abdulin đụng độ với đối phương, Trung đoàn đã được bổ sung đủ người và trang bị. Chỉ có 1 ngoại lệ là súng trường tự động: thay vì 788 khẩu trung đoàn chỉ có 295 khẩu. Súng trường tự động khó sản xuất và là 1 vũ khí đắt đỏ trong khi Liên Xô còn đang thiếu nhiều thứ cho 1 cuộc chiến tranh tổng lực. Để thay thế cho nó người ta cấp thêm tiểu liên PPSh, thay vì 344 khẩu như tiêu chuẩn Trung đoàn 193 Cận vệ được cấp tới 680 khẩu. Trung đoàn cũng có 161 súng máy hạng nhẹ và 53 súng máy hạng nặng. Vũ khí chính của của bộ binh 2 phe trong các cuộc thế chiến, súng trường, cũng thiếu, chỉ có 610 khẩu so với 1006 khẩu theo yêu cầu, còn ít hơn cả tiểu liên. Việc thiếu súng trường này có nguyên nhân trực tiếp từ việc thiếu binh lính. Trong khi số sĩ quan của Trung đoàn vượt quá số cần thiết thì số hạ sĩ quan chỉ có 701 người so với yêu cầu là 770, số binh lính là 1321 người thay vì tiêu chuẩn là 1748.

Pháo binh trung đoàn thì vẫn như cũ: 4 pháo 76.2mm cấp trung đoàn, 12 pháo 45mm, 8 cối hạng nặng 120mm, 27 cối 82mm và 18 cối 50mm. Tuy nhiên, chúng tôi ko thể tượng tượng rằng lên cấp Cận vệ có nghĩa là trung đoàn lập tức được chuyển sang dùng xe tải Studebaker. Ngựa vẫn được giữ lại để vận chuyển như trước, Trung đoàn có 6 xe ngựa kéo và 234 con ngựa (so với số tiêu chuẩn là 363). Ô tô thường được dùng để kéo cối 120mm. Các vũ khí nặng khác như pháo 45mm và 76.2mm được kéo bởi 4 con ngựa mỗi khẩu, 2 loại cối cỡ nhỏ hơn được các pháo thủ của chúng mang vác.


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:19:26 am
Vào thời điểm bắt đầu trận đánh tại vòng cung Kursk, Sư 66 Cận vệ là 1 bộ phận của Tập đoàn quân 5 thuộc Phương diện quân Steppe, lực lượng dự bị cỡ lớn trong chiến dịch quan trọng này. Vào lúc này Hồng quân đã quay trở lại biên chế quân đoàn, cấp tổ chức đã bị bãi bỏ vào năm 1941: 1 quân đoàn - chẳng hạn như Quân đoàn 32 Bộ binh Cận vệ - là cấp giữa sư đoàn và tập đoàn quân trong các mắt xích tổ chức chỉ huy.

Trong giai đoạn phòng ngự của trận Kursk Quân đoàn 32 Bộ binh Cận vệ triển khai tại 1 đoạn chiến tuyến tương đối yên tĩnh đối diện với điểm tiếp giáp giữa 2 Quân đoàn Thiết giáp SS là 48 và 2. Cuối cùng đến khi Sư 66 Bộ binh Cận vệ tham chiến thì các chỉ huy quân Đức đã thay đổi kế hoạch đánh thẳng vào Kursk theo tuyến đường ngắn nhất, tức là qua Oboyan, thay vào đó là chuyển sang tập trung đánh vào 2 cánh, trước hết là đánh vào Prokhorovka. Kết quả là thương vong của Sư 66 Cận vệ phòng thủ Oboyan ko quá nặng. Ngày 10/7 có 8744 sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính trong danh sách Sư đoàn, đến 20/7 còn 6931 người. Số tăng cường trong giai đoạn này ko nhiều: 62 người trở lại sau thời gian trị thương tại bệnh viện, 17 người (trong đó có 10 sĩ quan) được thiên chuyển đến từ Quân đoàn và Tập đoàn quân nhưng cũng có 4 sĩ quan chuyển lên cấp Tập đoàn quân và vì nhiều lỗi khác nhau 2 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 5 binh lính bị tống vào tiểu đoàn trừng giới. Thương vong cả chết, bị thương và mất tích của Sư đoàn tổng cộng là 1879 người.

Tiếp sau giai đoạn phòng ngự là chiến dịch phản công của Trận đánh Vòng cung Kursk, chiến dịch này đã dẫn tới việc giải phóng vùng tả ngạn Ukraine, tức là vùng đất của Liên bang Soviet nằm trên bờ trái sông Dnieper. Sau 1 cuộc tiến quân đến kiệt sức vượt qua 350km, nhiều lần đụng độ ác liệt với những đơn vị Đức tuy đã bị hao hụt nhưng vẫn còn sức chiến đấu, Tập đoàn quân 5 Cận vệ đã đến được sông Dnieper. Sư 66 Bộ binh Cận vệ mặc dù thiệt hại nặng nề sau 10 tuần lễ đánh nhau liên tục nhưng vẫn còn sức chiến đấu, tuy nhiên các binh sĩ đã rất kiệt sức. Chỉ còn chưa đầy 4000 người trong số gần 7000 người trước trận Kursk còn sống sót tới được bờ sông.

Trận đánh vượt sông Dnieper, 1 trong những con sông lớn nhất Châu Âu, là 1 chiến dịch rất khó khăn. Bờ tây cao và dốc, vì vậy từ đó dễ dàng quan sát mọi chuyển động bên phía bờ đông. Tuy nhiên, quân Nga đã chiếm giữ được tới 2 tá đầu cầu, ko phải tất cả các đầu cầu đó sau này đều được sử dụng. Trong tất cả các Tập đoàn quân của Phương diện quân Ukraine 2 (tên mới của Phương diện quân Steppe sau khi đến được sông Dnieper), chỉ có Tập đoàn quân 37 thiết lập được 1 đầu cầu có khả năng mở rộng sau đó. Các đầu cầu ở gần Kremenchug do các Tập đoàn quân 4, 5 Cận vệ và Tập đoàn quân 52 của Phương diện quân tạo ra ko có triển vọng. Thiệt hại của Sư 66 Bộ binh Cận vệ trong trận đánh vượt sông Dnieper ko quá cao nhưng cũng là đáng kể nếu so sánh với tổng quân số Sư đoàn lúc đó. Ngày 29/9/1943 quân số Sư đoàn là 3965 người, đến ngày 19/10 là 4160, quân số tăng thêm là do trong khoảng thời gian 20 ngày đó lực lượng tăng cường gồm tổng cộng 1041 người đã tới. Cũng trong khoảng thời gian đó thiệt hại, cả chết và bị thương, là 821 người. Trong 3 tuần chiến đấu đó riêng Trung đoàn 193 Bộ binh Cận vệ có 3 sĩ quan, 5 hạ sĩ quan và 30 lính chết; số bị thương là 18 sĩ quan, 40 hạ sĩ quan và 220 lính; 2 sĩ quan và 4 lính cũng được liệt vào danh sách "mất tích". Trong lúc đó, đầu cầu qua sông Dnieper đã được mở rộng và đạt chiều sâu tới 90km. Đánh giá kết quả, chúng tôi phải nhắc lại rằng lực lượng Soviet, bao gồm cả Tập đoàn quân mà Sư 66 Cận vệ nằm trong đội hình, thường phải đối mặt với các quân đoàn xe tăng Đức. Đầu cầu này đã đóng vai trò quyết định trong mùa đông năm 1944 khi 1 trong 2 mũi tấn công nhằm bao vây quân Đức gần Korsun - Shevchenkovski đã xuất phát từ đây.

Trong giai đoạn quyết định của trận vượt sông Dnieper, ngày 9/10/1943 Sư đoàn chỉ có 3756 người thay vì quân số tiêu chuẩn là 10596 người. Quân số Trung đoàn 193 Bộ binh thì chỉ còn 609 thay vì 2713 người theo quy định. Thực tế là trung đoàn đã biến thành 1 tiểu đoàn với 1 nửa quân số là sĩ quan và hạ sĩ quan: trong tổng số 609 người còn lại, 141 người là sĩ quan, 172 người là hạ sĩ quan và chỉ có 296 lính. Loại vũ khí chiếm số lượng vượt trội trong các đơn vị "toàn sĩ quan và hạ sĩ quan" này là SMG. Có tất cả 240 súng trường, 259 PPSh, 26 súng trường tự động, 7 súng máy hạng nhẹ và 4 súng máy hạng nặng. Pháo binh gồm có 4 pháo 76.2mm cấp trung đoàn, 4 pháo 45mm, 7 cối 120mm và 3 cối 82mm. Như chúng ta thấy, pháo binh tham chiến ở vị trí ngay sau bộ binh nên cũng mất 1 số lượng đáng kể khí tài. Cũng may là theo các ghi chép trung đoàn pháo của sư đoàn vẫn còn gần như nguyên vẹn. Vào ngày 9/10/1943 nó được trang bị 11 lựu pháo 122mm và 17 pháo 76.2mm. Để so sánh, tại Kursk vào ngày 10/7 trung đoàn pháo có 12 lựu pháo và 24 pháo. Số lượng pháo thủ còn khả năng phục vụ cũng tốt hơn các trung đoàn bộ binh nhiều. Nếu 1 trung đoàn bộ binh chỉ còn 20% quân số còn chiến đấu được thì trung đoàn pháo còn tới 65%. Các đơn vị vẫn còn phải dựa nhiều vào ngựa: có tới 703 con ngựa cùng với 7 xe con, 114 xe tải và 4 xe đặc chủng (xe thông tin). Trong số đó Trung đoàn 193 Bộ binh Cận vệ có 202 ngựa và 8 xe tải.

Sư đoàn Bộ binh Cận vệ 66 là 1 đơn vị Hồng quân điển hình trong giai đoạn giữa 1943 và 1945. Các sư đoàn Soviet thường xuyên thiếu quân số đến mức tuyệt vọng, trong khi đó số lượng vũ khí nặng lại rất gần với trang bị tiêu chuẩn. Nếu khảo sát 1 sư đoàn điển hình vào năm 1943, ta có thể thấy đội hình của nó bị cô đặc lại chỉ còn 1/3 so với mức tiêu chuẩn, số sĩ quan và hạ sĩ quan chiếm tỷ lệ lớn, được trang bị 1 số lượng lớn vũ khí tự động và được yểm trợ bởi 1 quả đấm pháo binh mạnh. Phần lớn các hạ sĩ quan trưởng thành từ những người lính kiên cường và tháo vát, vì vậy 1 trung sĩ cũng có thể rất thường xuyên làm những việc như 1 người lính thường. Sư đoàn giành thắng lợi ko phải bằng cách xua những đợt sóng người vô tận về phía trước để dìm quân địch trong máu của chính mình mà bằng những hành động đầy kinh nghiệm của những sĩ quan và hạ sĩ quan được chuẩn bị tốt với sự yểm trợ đáng tin cậy của pháo binh. Theo cách đó Sư đoàn tiến về phía trước cùng các đơn vị khác của Quân đoàn 5 Cận vệ. Tốc độ tiến quân của họ là khá cao nếu tính đến việc họ phải di chuyển bằng chân, tấn công các đô thị lớn như Poltava và Kremenchug, vượt các con sông như Vorskla và Psel. Trong vòng 28 ngày của tháng 9 Quân đoàn 5 Cận vệ đã vượt gần 200km, lội qua những dòng sông và đẩy lùi những đợt phản công bất tận của xe tăng và bộ binh Đức.

Các sư đoàn bộ binh chiếm 80% số lượng các sư đoàn Hồng quân. Tuy vậy trong giai đoạn cuối chiến tranh, khi quân đội Soviet tung ra hàng loạt cuộc tấn công nhằm mục tiêu tối hậu là tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức, danh tiếng của lực lượng bộ binh bị lu mờ trước các đơn vị thiết giáp. Các sư đoàn bộ binh dù vậy vẫn là nền tảng cho thành công của các quân đoàn và tập đoàn quân xe tăng. Nhiệm vụ của họ là tiêu diệt những "cái túi" quân địch đã bị các đơn vị thiết giáp Soviet bao vây. Tác giả cuốn hồi ký này đã trải qua 1 quãng đường khổng lồ để trở thành 1 bộ binh tiền tuyến kỳ cựu, trải dài từ sông Volga đến miền đất bên dòng Dnieper. Trong nhiều trường hợp tiểu đoàn của ông đã phải đối mặt với sức mạnh ghê gớm của lực lượng thiết giáp Đức. Đó là 1 bước ngoặt mà 1 người lính bộ binh phải trải qua: chặn đứng các đơn vị xe tăng địch để các quân đoàn và tập đoàn quân xe tăng Soviet thọc sườn quân Đức, bao vây từng đơn vị lớn của chúng. Những trạn ác chiến dẫn tới thương vong cao, thực tế Sư đoàn đã thay hoàn toàn quân số nhiều lần. Tuy nhiên, số lượng thương vong đôi khi khác với những lời kể của Abdulin. Những chương hấp dẫn nhất của cuốn hồi ký này là những sự kiện khủng khiếp hằn sâu trong tâm trí tác giả trong quá trình tham chiến, gây cho ông ấn tượng về thương vong nặng nề trong suốt quá trình phục vụ trong quân ngũ. Tác giả cũng có vẻ phóng đại số lượng và tần suất được tăng cường. Tuy nhiên, đó chỉ là những thiếu sót nhỏ ko thể tránh trong trí nhớ mỗi người, ko làm giảm ý nghĩa cuốn hồi ký này, 1 lời chứng vô giá của 1 người lính bình thường đã gần như hàng ngày đối mặt với cái chết nơi tiền tuyến và đã sống sót qua những trận chiến lớn nhất của Đại chiến Thế giới lần thứ 2.


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:22:15 am
PHỤ LỤC 2. STALINGRAD, KURSK VÀ DNIEPER


Stalingrad và Kursk là những thành phố được nhiều người biết đến cả ở bên ngoài nước Nga. Chúng liên quan đến 2 trận đánh được xem là bước ngoặt của Đại chiến Thế giới lần thứ 2. Tên của chúng vang động mạnh trong trái tim cả người Nga và người Đức, củng cố niềm tin vào chiến thắng cho người Nga và gióng lên hồi chuông báo động cùng cảm giác bất an vào tương lai cho người Đức.

Binh lính Đức xuất hiện gần Stalingrad bởi sự thay đổi cơ bản trong các kế hoạch của Hitler. Nếu trong năm 1941 mục tiêu chính của hắn là thủ đô Soviet thì mục tiêu của chiến dịch mùa hè năm 1942 là dầu của Caucasus và tuyến vận chuyển chính của nước Nga: sông Volga. Stalingrad nối với miền nam Nga bằng nhiều con đường và nó là mục tiêu tự nhiên cho bất kỳ đội quân nào muốn tiến đến biển Caspian. Nó cũng là con đường thuận lợi nhất để tới sông Volga. 1 phần khác là thành phố cũng là 1 trung tâm công nghiệp quan trọng sản xuất trang thiết bị cho Hồng quân. Nhà máy Máy kéo Stalingrad là nhà máy duy nhất trong cả nước được lắp đặt dây chuyền sản xuất xe tăng T34 ngay từ trước chiến tranh và chưa từng phải trải qua giai đoạn di tản hỗn loạn. Trong thành phố còn có 1 nhà máy sản xuất pháo, 1 trong những nhà máy lâu đời nhất nước Nga. Dưới chế độ Soviet nhà máy được đổi tên là "Chiến Luỹ", sản xuất các loại pháo cỡ nòng tới 203 - 280mm. 1 lý do nữa ngoài tầm quan trọng về kinh tế và chiến lược là đánh vào Stalingrad sẽ mang ý nghĩa biểu tượng quan trọng. Thành phố được đặt tên để vinh danh người đứng đầu Liên bang Soviet, việc chiếm được nó sẽ gây hiệu ứng tâm lý mạnh, làm nản lòng hàng triệu công dân Soviet. Stalin sẽ phải mất mặt nếu rút quân khỏi thành phố mang tên ông. Stalingrad là nơi ông đã từng chiến đấu trong Nội chiến Nga, "Người bảo vệ Tsaritsin" (tên thành phố trước năm 1919) là 1 trong những huyền thoại của chế độ mới: các bộ phim, bài viết và sách vở kể về nó, tất cả đều nhằm mục đích ca ngợi vai trò của "Lãnh tụ".

Dù sao, quân đội Soviet cũng ko thể bảo vệ thành phố khỏi sự chết chóc và tàn phá. Vào lúc máy bay Đức bắt đầu đánh bom Stalingrad và những tiếng súng đầu tiên của trận chiến đường phố vang lên, nhân dân vẫn chưa được sơ tán. Các nhà máy vẫn tiếp tục sản xuất máy móc thiết bị cho đến khi chiến trận lan tới tận phân xưởng. Những chiếc T34 cuối cùng xung trận chỉ ít phút sau khi được các công nhân Nhà máy Máy kéo lắp ráp xong. Quân tiếp viện cho lực lượng bảo vệ thành phố phải vượt qua con sông lớn nhất Châu Âu trên những chiếc sà lan và thuyền, dưới làn đạn pháo và những cuộc ko kích của quân thù, lao vào trận chiến ngay khi vào đến bờ.

Trong khi chiến sự ác liệt bùng nổ khắp trong và xung quanh Stalingrad, các chỉ huy Soviet đã lập kế hoạch tổ chức 1 chiến dịch bao vây các đơn vị của Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn quân Xe tăng 4 Đức khi chúng đang bị mắc trong các trận chiến đường phố. Mũi tiến công của địch hướng về phía sông Volga bị kéo căng trên 1 khoảng cách khổng lồ lên tới 800km. Thiếu các sư đoàn quân Đức buộc các chỉ huy phát xít phải dùng các tập đoàn quân Romania và Italy để bảo vệ các cánh, những đơn vị này thiếu kinh nghiệm và kém huấn luyện hơn quân Đức rất nhiều. Việc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các đơn vị thiết giáp thọc sâu để cắt đứt và bao vây quân địch trong và xung quanh Stalingrad. Các chỉ huy Soviet dự định thử sức với quân Đức, sử dụng 1 chiến thuật vốn là hòn đá tảng trong tư tưởng quân sự Đức. Trên các bình nguyên sông Don và Volga, người Nga cố gắng tái hiện trận Cannae lịch sử: vận động với mục tiêu quyết định là bao vây quân địch, tên thường được biết đến của chiến thuật này là Blitzkrieg. Cho đến trước đó chỉ có quân Nga là nạn nhân của "chiến thuật Cannae" này (Cannae là nơi diễn ra chiến thắng của Hannibal trước quân La Mã đông gấp nhiều lần năm 216 trước Công nguyên, 1 trận đánh bao vây điển hình, dùng 1 khối quân chống lại quân địch bị chia cắt), kết cục là hàng loạt những cái túi gần các thành phố và thị trấn như Minsk, Kiev, Viazma, Briansk và Kharkov. Chiến dịch được thực hiện bởi lực lượng của 3 Phương diện quân: Tây Nam, Don và Stalingrad. Vào thời điểm trước chiến dịch các Phương diện quân này bao gồm: 71 sư bộ binh, 15 lữ đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn bộ binh cơ giới, 8 sư kỵ binh được biên chế thành 3 quân đoàn kỵ binh, 4 quân đoàn xe tăng, 14 lữ đoàn tăng và 4 trung đoàn tăng. 1808 máy bay lãnh trách nhiệm yểm trợ đường ko (chỉ có 1349 chiếc trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu). Dù vậy, ko ai có thể nói rằng quân Nga vượt trội đối phương. Hồng quân chỉ hơn quân địch 1,2 lần về người, 1,3 lần về xe tăng và 1,3 lần về máy bay, chỉ có pháo binh là mạnh hơn gần 2 lần. A.M.Vasiliyevski, 1 trong những chỉ huy xuất sắc nhất của quân đội Soviet, đã lập kế hoạch cho toàn bộ chiến dịch. Kế hoạch của ông là các quân đoàn tăng sẽ hội quân gần thị trấn Kalach trên sông Don. Kỵ binh, loại quân tương đương với bộ binh cơ giới Đức, sẽ tấn công nhiều mũi thọc sâu để thiết lập những cụm vây vành ngoài đẩy 2 tập đoàn quân địch trong vòng vây càng xa nhau càng tốt. Cuối cùng các sư đoàn bộ binh thiết lập chiến tuyến đối mặt với quân địch đã bị vây trong cái túi, nhờ đó quân Đức sẽ ko thể chọc thủng vòng vây trở về với lực lượng chính của chúng. Đó cũng là mục tiêu của Tập đoàn quân 21 có tiểu đoàn của M.G.Abdulin trong đội hình.

Chiến dịch mở màn ngày 19/11 bằng 1 trận pháo phủ đầu dài 80 phút và phát triển thuận lợi. Ngay ngày 23/11 Quân đoàn 4 Cơ giới của Phương diện quân Stalingrad đã hội quân được với các quân đoàn tăng số 4 và số 26 của Phương diện quân Tây Nam, gần 330.000 quân địch đã bị vây trong cái túi. Nỗ lực tiếp vận bằng đường ko và sau đó là phá vây kết hợp với 1 cuộc tấn công từ bên ngoài của quân Đức thất bại. Ngày 2/2/1943, Thống chế Von Paulus của Tập đoàn quân 6 buộc phải ra hàng, 91.000 binh sĩ dưới quyền ông ta trở thành tù binh. Thảm bại tại Stalingrad đã làm sụp đổ kế hoạch tấn công Caucasus, với nhiều người, nó là biểu hiện rõ ràng cho thấy người Đức đang thất bại. Tuy nhiên, quân đội Đức vẫn duy trì được khả năng mở các cuộc tấn công mạnh mẽ. Bước tiến của quân đội Soviet trong chiến dịch đông xuân 1942 - 1943 đã phải dừng lại gần Kharkov bởi 1 cuộc phản công của Quân đoàn 2 SS Thiết giáp - đơn vị vừa mới tham chiến. Sau đó mặt trận yên ắng 1 thời gian.

Sau thất bại Stalingrad, Bộ chỉ huy tối cao Đức quyết định báo thù bằng cách mở 1 chiến dịch quy mô lớn bao vây lực lượng Soviet tại mấu lồi Kursk, mấu lồi này xuất hiện do kết quả của cuộc tiến công thắng lợi trong mùa đông 1943. Theo kế hoạch các quân đoàn xe tăng của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm và Cụm Tập đoàn quân Nam sẽ vòng qua mấu lồi từ phía bắc và phía nam để cắt 1 lực lượng lớn quân Nga thuộc các Phương diện quân Voronezh và Trung tâm. Chiến dịch mang bí danh "Citadel". Tuy nhiên, vào lúc đó quân Đức cũng đã bắt đầu hết hơi sau 2 năm ko ngừng đánh nhau ác liệt trên Mặt trận phía Đông. Tập đoàn quân 9 của Walter Model phụ trách mũi tấn công từ phía bắc mấu lồi là 1 đơn vị đã rất kiệt sức. Lực lượng của viên Thống chế này đã phòng thủ thành công mấu lồi Rzhev trên con đường tiến thẳng đến Moscow trong suốt 1 năm, đẩy lùi nhiều cuộc tấn công ồ ạt của quân Soviet. Tháng 5/1943, Model đã thuyết phục được Hitler lùi chiến dịch đến tháng 7 để có thời gian tăng cường đầy đủ sức mạnh cho các sư đoàn của ông ta. 1 lý do nữa khiến cuộc tấn công bắt đầu chậm lại là để chờ các loại xe tăng mới đến nơi: tăng nặng Tiger và tăng hạng trung Panther, chiến dịch sắp tới chính là cuộc thử lửa đầu tiên của chúng.

Các chỉ huy Soviet có được những thông tin tình báo khá chính xác về kế hoạch của người Đức, rút kinh nghiệm từ trận đánh Kharkov ko thành trước đó, đã quyết định đương đầu với quân Đức trên 1 trận địa đã được chuẩn bị sẵn, bào mòn dần các đơn vị thiết giáp Đức và sau đó phản công. Trong vài tháng mặt trận Xô - Đức trở nên yên tĩnh, chỉ đôi khi bị phá vỡ bởi những đụng độ lẻ tẻ mang tính trinh sát, chỉ có ko quân 2 bên là hoạt động mạnh để phá hoại các tuyến vận tải và thông tin của đối phương. Ở cả 2 phía của mấu lồi, các lãnh đạo Soviet chuẩn bị 1 tuyến phòng ngự gồm nhiều lớp, bố trí có chiều sâu và lập những đơn vị dự bị lớn để chống đỡ bất kỳ mũi thọc sâu bất ngờ nào. Ko đủ thông tin về hướng tấn công chính xác của mũi tấn công từ phía nam mấu lồi nên tại khu vực thuộc trách nhiệm của Phương diện quân Voronezh này, việc phòng thủ phải bố trí dàn trải với 3 Tập đoàn quân: 40, 6 Cận vệ và 7 Cận vệ. Đó là do thực tế địa hình phía nam Kursk rất bằng phẳng, 67% chiến tuyến tức khoảng 164km rất phù hợp cho các cuộc tiến công của tăng - thiết giáp. Cuối cùng 1 khu vực mà 1 trong 3 tập đoàn quân đó bố trí, Tập đoàn quân 6 Cận vệ, đã nhận đòn đánh chính của Tập đoàn quân Xe tăng 4 Đức do tướng Hoth chỉ huy. Cùng lúc đó, 1 phần của Tập đoàn quân 7 Cận vệ cũng phải chống lại lực lượng bổ trợ của Cụm Tập đoàn quân "Kempf". Tập đoàn quân 40, đơn vị mạnh nhất, thì lại ko hề bị tấn công.

Chiến dịch Citadel mở màn vào chiều ngày 4/7 khi quân Đức chiếm 1 loạt vị trí có lợi ở phía nam vòng cung, từ đó chúng có thể dùng pháo bắn thẳng vào các vị trí Hồng quân. Sáng 5/7, cuộc tấn công dữ dội bằng xe tăng được ko quân yểm trợ ồ ạt bắt đầu đánh vào các vị trí của Phương diện quân Trung tâm và Phương diện quân Voronezh. Do lực lượng của Phương diện quân Voronezh bố trí ko dày đặc lắm nên tuyến phòng ngự tại khu vực của Sư 6 Cận vệ bị chọc thủng và Ban Chỉ huy Phương diện quân buộc phải tung lực lượng dự bị của mình vào trận: Tập đoàn quân Xe tăng 1 và 1 số đơn vị của Tập đoàn quân 40. Ngay sau đó mũi thọc sâu của các Quân đoàn Thiết giáp 48 và 2 SS Đức đã buộc các tướng lĩnh Soviet phải sử dụng lực lượng dự bị chiến lược của họ: Tập đoàn quân 5 Cận vệ và Tập đoàn quân Xe tăng 5 Cận vệ, tất cả khoảng 100.000 người. Họ được lệnh chặn bước tiến của Quân đoàn Thiết giáp 2 SS tại khu vực Prokhorovka và Oboyan. Tại Prokhorovka, Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 5 phản công vào Sư 1 Thiết giáp SS "Grenadier Leibstandarte Adolf Hitler" dẫn tới 1 trận đấu tăng ác liệt chưa từng thấy. Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 5 đã đánh vào điểm tiếp giáp giữa Quân đoàn 2 Thiết giáp SS và Quân đoàn 48 Thiết giáp. Gần bờ sông Psel, cánh trái của Tập đoàn quân ko có lực lượng thiết giáp nào đã đụng độ với Sư đoàn SS "Totenkopf" có 13 xe tăng Tiger. Cánh phải của Tập đoàn quân Cận vệ 5 thuộc khu vực trách nhiệm của Quân đoàn 32 Bộ binh Cận vệ thì may mắn hơn. Các đơn vị của Quân đoàn này đã cùng với 1 số chiến xa của Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 1 phản công vào Quân đoàn Thiết giáp 48 Đức khi chúng đã mất hầu hết số tăng Tiger và Panther. Đó là lúc Sư 66 Bộ binh Cận vệ, đơn vị trực thuộc Quân đoàn 32, của M.G.Abdulin tham chiến.

Việc các lực lượng dự bị rất mạnh tham chiến đồng thời với việc Chiến dịch sông Mius bắt đầu ở phía nam Mặt trận Phía Đông và quân Đồng minh đổ bộ vào Italy đã buộc lãnh đạo Đức dừng chiến dịch Citadel. Lực lượng tấn công chính của Tập đoàn quân 4 Xe tăng - Quân đoàn Thiết giáp 2 SS - di chuyển đến sông Mius; Sư đoàn "Đại Đức" thiện chiến được phái đến vòng cung Oriol để giải cứu lực lượng của Model. Tuy nhiên, các tướng lĩnh Đức đã ko thể ngăn chặn các chiến dịch tấn công được tổ chức đồng loạt của Hồng quân. Đầu tháng 8, được tăng cường sau những trận đánh phòng thủ đẫm máu, Phương diện quân Voronezh trở lại tham chiến, dẫn đầu là Tập đoàn quân Cận vệ 5. Cuộc chiến để tới được Belgorod - Kharkov từ tháng 5/1942 đến mùa đông năm 1943 đã khiến quân Nga phải trả giá rất đắt nhưng cuối cùng cũng thành công. Chiếm được Kharkov, Hồng quân đã có thể bắt đầu giải phóng vùng Tả ngạn Ukraine tương đối dễ dàng.

Cuối tháng 9/1943, quân đội Soviet tiến tới bờ sông Dnieper. Đó là 1 trong những con sông lớn nhất Châu Âu với chiều rộng lên tới 4km. Bờ phải, tức bờ tây, dốc và cao tạo thành 1 chướng ngại vật ghê gớm cho quân Nga đồng thời ngăn họ quan sát các vị trí phòng thủ của quân Đức. 1 yếu tố có thể giúp những người lính tiến lên là sự hiện diện của nhiều hòn đảo nhỏ đủ hình thù giữa dòng cho họ cơ hội vượt sông thành 2 giai đoạn. Các chỉ huy Soviet quyết định thử tung 1 số lượng lớn các trận đánh vượt sông ngay trong quá trình hành tiến, dùng bất cứ phương tiện gì có thể để chiếm lấy càng nhiều đầu cầu càng tốt. Kế hoạch này có lợi điểm là chỉ huy quân Đức sẽ bị mất phương hướng, ko thể xác định vị trí nào cuối cùng sẽ được sử dụng làm bàn đạp cho 1 cuộc tiến công quan trọng. Nó cũng tạo cơ hội tìm ra điểm yếu nhất trên tuyến phòng ngự Đức và quân Nga có thể đợi đến sát nút để tung 1 lực lượng lớn vào đó. Cũng có những lý do thô thiển hơn để quân Nga lựa chọn chiến lược kỳ cục này: chúng ta nên nhớ là các đơn vị Hồng quân, phần lớn là các trung đoàn bộ binh hành quân bằng chân, đã tiến thẳng đến Dnieper với tốc độ rất cao. Ví dụ các đơn vị của Phương diện quân Steppe đã vượt trung bình 9km/ngày, đó quả là 1 cuộc hành quân hết tốc lực, những chiến binh đi qua những đường sá, cầu cống bị tàn phá và việc tiếp phẩm cho họ là cực kỳ khó khăn. Các trang thiết bị của công binh cũng bị rớt lại phía sau, đặc biệt là phà tự hành cỡ lớn. Tình trạng thường xuyên diễn ra trong toàn quân là: sẵn sàng đánh vượt sông mà chỉ có 3 chiếc phà, ko đủ làm 1 chiếc cầu phao bình thường mà chỉ có thể làm 1 đoạn cầu.

Ngày 30/9/1943, quân đội Soviet đã chiếm được 23 đầu cầu qua sông Dnieper và 2 qua phụ lưu của nó là sông Pripiat. Tại khu vực của Phương diện quân Steppe nơi có Sư 66 Cận vệ của Abdulin, 1 đầu cầu có khả năng phát triển cao đã được Tập đoàn quân 37 thiết lập phía nam Kremenchug. Đến 10/10 nó đã được mở rộng ra 35km và sâu 6 - 12km. Việc tiếp vận được tiến hành qua 2 cầu phao và 4 chiếc xà lan. Các đầu cầu do các tập đoàn quân khác tạo ra được quyết định bỏ, các lực lượng chính di chuyển tới đầu cầu nam Kremenchug, do đó Tập đoàn quân Cận vệ 5 trong đó có Sư 66 Bộ binh Cận vệ đã vượt sang bờ phải và tham gia vào trận đánh mở rộng đầu cầu. Từ đầu cầu này, 1 chiến dịch được trông đợi sẽ bắt đầu vào mùa đông 1944. Như vậy nỗ lực của người Đức dự định ngăn chặn những người lính Soviet bằng chướng ngại vật là con sông ghê gớm này đã ko thành công.


Tiêu đề: Re: Chặng đường Đỏ từ Stalingrad-hồi ức của 1 người lính Tartar Xô viết
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Sáu, 2009, 10:27:21 am
PHỤ LỤC 3. BIÊN NIÊN CÁC SỰ KIỆN CHÍNH



1939
1/9. Đức xâm lược Ba Lan dẫn tới WW2 bùng nổ.
3/9. Anh, Pháp, Úc, New Zealand tuyên chiến với Đức.
17/9. Liên Xô xâm lược Ba Lan.
27/9. Warsaw thất thủ.
29/9. Đức và Liên Xô thỏa thuận phân chia Ba Lan bằng việc ký kết Hiệp định Xô - Đức về biên giới và tình hữu nghị.
30/11. Liên Xô xâm lược Phần Lan.

1940
12/3. Phần Lan xin được giảng hòa.
9/4. Đức xâm lược Na Uy và Đan Mạch.
10/5. Đức xâm lược Hà Lan, trong khi đó tại Anh Thủ tướng Chamberlain từ chức, Winston Churchill lên thay.
12/5. Quân đội Đức tiến vào nước Pháp.
26/5. Quân Anh bắt đầu di tản khỏi nước Pháp qua ngả Dunkirk.
5/6. Quân Đức thực sự bắt đầu chiến dịch tấn công nước Pháp.
10/6. Ý tuyên chiến với Anh và Pháp.
13/6. Paris thất thủ.
15/6. Liên Xô chiếm đóng các nước Baltic gồm Latvia, Lithuania và Estonia.
21/6. Pháp xin được giảng hòa.
26/6. Liên Xô chiếm đóng Bessarabia và Bukovina.
10/7. Chiến dịch tấn công nước Anh bắt đầu.
7/9. Chiến dịch oanh tạc London bắt đầu.
5/11. Roosevelt được bầu làm Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ 3.
18/12. Hitler cho phép thực hiện "Chiến dịch Barbarossa", đây chính là kế hoạch xâm lược Liên Xô

1941
5/4. Đức (được Ý và Hungary hỗ trợ) xâm lược Nam Tư và Hy Lạp.
12/4. Belgrade thất thủ.
13/4. Liên Xô và Nhật Bản ký hiệp ước ko xâm phạm lẫn nhau.
17/4. Nam Tư đầu hàng có điều kiện.
23/4. Hy Lạp đầu hàng có điều kiện.
22/6. Đức xâm lược Liên Xô.
24/6. Quân Đức chiếm Vilnius và Kaunas.
27/6. Hungary tuyên chiến với Liên Xô.
28/6. Quân Đức chiếm Minsk, bao vây khoảng 200.000 quân Soviet trong những cái túi phía tây thành phố.
29/6. Quân Đức chiếm Lvov.
30/6. Ủy ban Vệ quốc Soviet (GKO) được thành lập, lãnh đạo là Stalin.
2/7. Quân Đức chiếm Riga.
3/7. Stalin đọc thông điệp trước quốc dân Soviet sau 10 ngày im hơi lặng tiếng, cảnh báo rằng chiến tranh sẽ kéo dài và gian khổ, đây cũng là lần đầu tiên cuộc chiến được gọi là Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ đại.
8/7. Quân Đức chiếm Pskov và chuyển hướng về phía đông bắc nhằm vào Novgorod và Leningrad.
10/7. Trận công phá Smolensk bắt đầu.
11/7. Xe tăng Đức tiến tới sát Kiev, chỉ còn cách thành phố 10 miles.
12/7. Liên Xô và Anh ký hiệp ước khẳng định cả 2 nước sẽ "trao cho nhau sự giúp đỡ và hỗ trợ về mọi mặt trong cuộc chiến chống lại nước Đức phát xít" và tuyên bố rằng "họ sẽ ko đàm phán, ký hiệp định ngừng bắn hoặc hiệp ước hòa bình trừ phi được nước kia đồng ý".
22/7. Quân Đức lần đầu tiên ko kích Moscow.
5/8. Quân Đức phá vỡ tuyến phòng thủ Soviet quanh Smolensk.
8/8. Quân Nga lần đầu tiên ko kích Berlin.
14/8. Tổng thống Roosevelt và Thủ tướng Churchill ký Thỏa ước Đại Tây Dương trên boong tàu HMS Prince of Wales.
17/8. Quân Đức chiếm Novgorod.
21/8. Các trận đánh vào Leningrad và Kiev bắt đầu.
25/8. Liên Xô và Anh chiếm Iran.
27/8. Quân Đức chiếm Tallinn.
30/8. Quân Nga mở cuộc tấn công ở bắc Gomel.
31/8. Đoàn convoy đầu tiên chở trang bị chiến tranh của Đồng minh cập cảng Archangelsk.
15/9. Quân Đức khép kín vòng vây quanh Leningrad.
19/9. Kiev thất thủ.
2/10. Quân Đức mở Chiến dịch Typhoon tấn công Moscow.
3/10. Hitler tuyên bố nước Nga đang tan vỡ và "sẽ ko bao giờ hồi phục được".
12/10. Quân Đức bao vây các đơn vị Hồng quân gần Viasma, bắt khoảng 650.000 tù binh.
14/10. Quân Đức chiếm Viasma và Kalinin.
16/10. Quân Đức và Romania chiếm Odessa.
19/10. Stalin tuyên bố tình trạng chiến tranh tại Moscow.
23/10. Quân Đức tiến đến Kharkov.
30/10. Tổng thống Roosevelt tăng quyết định viện trợ tài chính và vật chất cho Liên Xô theo luật "Lend - Lease" lên 1 tỷ đô, cùng lúc trận Công phá Sevastopol bắt đầu.
31/10. Ko quân Đức mở 45 cuộc ko kích khác nhau vào Moscow.
3/11. Kursk thất thủ.
6/11. Tại Moscow, Lễ Kỷ niệm lần thứ 24 Cách mạng tháng Mười được tổ chức tại ga tàu điện ngầm Mayakovsky.
7/11. Mùa đông Nga đã tới làm cản bước tiến quân Đức.
15/11. Quân Đức lại mở những đợt tấn công dữ dội về hướng Moscow.
20/11. Quân Đức chiếm Rostov nhưng sau đó vẫn bế tắc tại Leningrad.
27/11. Quân Nga mở đợt phản công ở phía nam mặt trận.
29/11. Quân Nga giải phóng Rostov.
5/12. Quân Nga phản công tại khu vực Moscow.
7/12. Quân Nhật mở cuộc tấn công bất ngờ vào căn cứ hải quân Mỹ tại Trân Châu Cảng.
8/12. Mỹ tuyên chiến với Nhật.
11/12. Đức và Ý tuyên chiến với Mỹ.
16/12. Bộ Chỉ huy tối cao Soviet báo cáo tình hình diễn biến thuận lợi trên khắp các mặt trận khi quân Nga tiếp tục tiến lên và Hồng quân đã giải phóng được Kalinin.
19/12. Hitler nắm quyền chỉ huy trực tiếp quân đội Đức.
25/12. Hongkong đầu hàng quân Nhật.

1942
1/1. Bản Tuyên ngôn Liên Hợp Quốc được ký tại Washington.
27/1. Quân Anh rút lui từ bán đảo Mã Lai về Singapore.
15/2. Singapore thất thủ trước lực lượng Nhật Bản.
7/3. Nhật xâm lược New Guinea trong khi quân Anh di tản khỏi Rangoon.
12/5. Quân Nga mở chiến dịch Kharkov.
17/5. Trận tấn công Kharkov chính thức bắt đầu.
20/5. Nhật hoàn tất việc xâm chiếm Miến Điện.
28/5. Quân Đức giành thắng lợi tại Kharkov.
30/5. Ko lực Hoàng gia Anh tiến hành 1.000 cuộc ko kích vào Cologne.
3/6. Hạm đội tàu sân bay Mỹ đánh bại hạm đội tàu sân bay Nhật trong Trận Midway.
9/6. Nhật hoàn tất việc xâm chiếm Philippine.
28/6. Quân Đức tại Nga mở cuộc tiến công trên tất cả các mặt trận.
1/7. Trận El-Alamein lần thứ nhất bắt đầu.
4/7. Quân Đức chiếm Sevastopol sau 250 ngày công phá.
7/7. Quân Đức vượt sông Don và chiếm Voronezh.
9/7. Quân Đức bắt đầu tiến về hướng Rostov và Stalingrad.
24/7. Quân Đức chiếm Rostov.
27/7. Stalin ra Mệnh lệnh số 227 tuyên bố "Ko lùi 1 bước!".
12/8. Thủ tướng Churchill thăm Moscow.
24/8. Trận công phá Stalingrad bắt đầu.
16/9. Quân Đức áp sát ngoại ô Stalingrad.
23/10. Trận El-Alamein lần thứ 2 bắt đầu.
8/11. Quân Đồng Minh mở Chiến dịch Ngọn Đuốc (Operation Torch) đổ bộ vào Bắc Phi.
13/11. Quân Anh chiếm Tobruk.
14/11. Những trận ác chiến diễn ra liên tục ở Stalingrad.
19/11. Quân Nga mở Chiến dịch Sao Thổ (Operation Uranus) phản công tại Stalingrad.
23/11. Quân Nga hoàn toàn bao vây Tập đoàn quân 6 Đức tại Stalingrad trong khi 5 sư đoàn quân phát xít Romania đầu hàng.
12/12. Quân Đức dưới quyền chỉ huy của Manstein cố gắng giải vây cho Tập đoàn quân 6 tại Stalingrad nhưng ko thành công.

1943
12/1. Vòng vây quanh Leningrad bị phá vỡ với việc mở màn Chiến dịch Spark theo đó 1 tuyến hành lang hẹp được thiết lập ở nam hồ Ladoga, qua tuyến đường này đồ tiếp phẩm được chuyển vào thành phố.
14/1. Phe Đồng minh bắt đầu cuộc hội nghị ở Casablanca.
16/1. Các lực lượng Soviet tiếp tục gây áp lực lên quân Đức trong cái túi Stalingrad và 1 số nơi khác, nhiều đơn vị Hồng quân chỉ cách trung tâm thành phố 6 mile.
24/1. Von Paulus, chỉ huy quân Đức tại Stalingrad, đề nghị Hitler cho phép đầu hàng, Hitler nói rằng "Tập đoàn quân 6 sẽ giữ nguyên vị trí tới người cuối cùng và viên đạn cuối cùng".
26/1. Các lực lượng Soviet bắt đầu các trận đánh tiêu diệt quân Đức bị vây tại Stalingrad.
2/2. Quân Đức tại Stalingrad đầu hàng.
14/2. Hồng quân giải phóng Rostov và Voroshilovgrad.
16/2. Hồng quân chiếm Kharkov.
10/3. Quân Đức tái chiếm Kharkov.
19/4. Người Do thái tại Warsaw nổi dậy.
9/5. Các lực lượng phe Trục tại đông bắc Tunisia đầu hàng.
16/5. Quân Đức phá hủy hoàn toàn các khu của người Do thái tại Warsaw.
10/6. Hitler quyết định mở chiến dịch Citadel nhằm tiêu diệt quân Nga tại vòng cung Kursk.
5/7. Trận Kursk bắt đầu với chiến tuyến kéo dài 200 mile.
10/7. Quân Đồng minh đổ bộ vào Sicily.
12/7. Hồng quân thuộc các Phương diện quân Tây và Briansk mở chiến dịch Kutuzov, 1 cuộc tấn công lớn từ Smolensk ở phía bắc tới biển Đen ở phía Nam.
16/7. Quân Đức bắt đầu rút lui khỏi vòng cung Kursk. Mussolini từ chức.
3/8. Hồng quân thuộc các Phương diện quân Voronezh và Steppe mở chiến dịch Belgorod - Kharkov.
5/8. Hồng quân giải phóng Orel và Belgorod.
23/8. Hồng quân giải phóng Kharkov.
2/9. Quân Nga đánh tới sông Dnieper.
8/9. Ý đầu hàng.
12/9. Quân Nga tiến công trên toàn mặt trận, giải phóng khoảng 240 thành phố và làng mạc.
25/9. Stalin công bố việc tái chiếm Smolensk.
13/10. Ý tuyên chiến với Đức.
7/11. Hồng quân giải phóng Kiev.
28/11. Roosevelt, Churchill và Stalin gặp nhau tại Tehran, Persia.
1/12. Đồng minh bắt đầu tấn công "Chiến tuyến mùa đông" (Winter Line) tại Ý.
3/12. Hội nghị Đồng minh tại Cairo bắt đầu.

1944
8/1. Hồng quân giải phóng Kirovograd.
15,16/1. Hồng quân mở các cuộc tấn công tại Novgorod và Leningrad.
22/1. Eisenhower trở thành Chỉ huy tối cao các lực lượng viễn chinh Đồng minh.
23/1. Cuộc đổ bộ vào Anzio của Đồng minh bắt đầu. Cùng lúc Bộ chỉ huy Tối cao Soviet thông báo thời tiết xấu làm cản trở các chiến dịch tại khu vực Vitebsk.
24/1. Hồng quân bắt đầu tấn công tại Korsun - Shevchenko, kết quả hơn 50.000 quân Đức bị bao vây.
27/1. Nga tuyên bố đã hoàn toàn giải tỏa vòng vây quanh Leningrad, trong thời gian bị vây khoảng 1 triệu công dân Soviet đã chết.
3/2. Hồng quân thuộc các Phương diện quân Ukraina 1 và 2 bao vây 2 quân đoàn Đức tại Korsun.
9/2. Quân Nga bắt đầu các trận đánh tiêu diệt Tập đoàn quân 8 Đức tại khu vực Kirovograd, phía tây sông Dnieper.
13/2. Các lãnh đạo Đồng minh cho mở cuộc tấn công đường ko ồ ạt chống lại nước Đức.
6/3. Tập đoàn quân 15 Nhật tiến đến biên giới Ấn Độ.
15/3. Các binh sĩ Hồng quân thuộc Phương diện quân Ukraina tới được biên giới Liên Xô trước chiến tranh.
20/3. Quân Đức chiếm Hungary.
23/3. Phương diện quân Ukraina phá vỡ vị trí quân Đức ở đông nam Lvov.
4/4. Quân Nga tiến vào Tiệp Khắc.
10/4. Hồng quân tái chiếm Odessa.
9/5. Hồng quân giải phóng Sevastopol.
11/5. Chiến dịch đánh chiếm Rome của quân Đồng minh bắt đầu với việc tấn công Phòng tuyến Gustav.
17/5. Monte Cassino rơi vào tay quân Ba Lan.
4/6. Quân Mỹ tiến vào Rome.
6/6. Quân Đồng minh mở chiến dịch Overlord đổ bộ vào Normandy.
13/6. Hồng quân giải phóng Vilnius.
22/6. Quân Nga mở chiến dịch Bagration tại Mặt trận Trung tâm, kết quả tiêu diệt hơn 500.000 quân Đức, trong khi đó cuộc tấn công Ấn Độ của Nhật bị chặn đứng tại Imphal.
20/7. Kế hoạch ám sát Hitler của 1 số sĩ quan cao cấp Đức thất bại.
27/7. Hồng quân giải phóng Lvov.
1/8. Warsaw bắt đầu nổi dậy.
15/8. Quân Đồng minh chiếm đóng miền nam nước Pháp.
20/8. Quân Nga mở chiến dịch Yassy - Kishinev.
23/8. Người Romania nổi dậy chống Đức.
24/8. Romania tuyên chiến với Đức.
25/8. Quân Đồng minh giải phóng Paris.
3/9. Quân Đồng minh giải phóng Brussel.
10/10. Quân Nga tiến tới sông Nieman, bao vây Cụm Tập đoàn quân Bắc của Đức tại Courland.
11/10. Bulgaria tuyên chiến với Đức.
13/10. Hồng quân giải phóng Riga.
15/10. Quân Đồng minh tấn công vào Miến Điện.
20/10. Phương diện quân Ukraina 2 được các du kích Nam Tư giúp đỡ đã giải phóng Belgrade.
3/12. Nội chiến nổ ra tại Athens.
16/12. Quân Đức phản công tại Ardennes, trận đánh nổi tiếng tại Bulge bắt đầu.

1945
12/1. Quân Nga mở cuộc tổng tấn công mùa đông.
17/1. Hồng quân chiếm Warsaw.
19/1. Phương diện quân Ukraina tới biên giới Đức.
20/1. Hungary ký thỏa thuận ngừng bắn với Đồng minh.
4/2. Hội nghị Yalta giữa các nước Đồng minh bắt đầu.
13/2. Hồng quân chiếm Budapest, trong khi đó Ko lực Hoàng gia Anh oanh tạc hủy diệt Dresden.
19/2. Quân Mỹ chiếm đóng đảo Iwo Jima.
3/3. Phần Lan tuyên chiến với Đức.
7/3. Quân Mỹ vượt sông Rhine tại Remagen.
23/3. Quân Anh vượt sông Rhine tại Rees.
30/3. Hồng quân chiếm Danzig (Gdansk)
1/4. Quân Mỹ xâm chiếm Okinawa.
9/4. Hồng quân chiếm Konigsberg.
12/4. Tổng thống Mỹ Roosevelt chết, Harry S. Truman lên thay.
13/4. Hồng quân chiếm Vienna.
16/4. Quân đội Soviet mở cuộc tấn công cuối cùng vào Berlin.
21/4. Quân Đồng minh chiếm Bologna.
25/4. Tại Torgau trên sông Elbe, lần đầu tiên quân Nga và Mỹ đã gặp nhau.
30/4. Hitler tự sát.
2/5. Hồng quân hoàn toàn chiếm Berlin.
3/5. Quân Anh chiếm Rangoon.
5/5. Cuộc nổi dậy ở Prague bắt đầu.
7/5. Toàn bộ các lực lượng Đức đầu hàng ko điều kiện.
13/5. Quân Đức chấm dứt kháng cự tại Tiệp Khắc, chiến tranh kết thúc tại Châu Âu.
22/6. Quân Mỹ hoàn toàn chiếm đóng Okinawa.
16/7. Hội nghị Đồng minh tại Potsdam bắt đầu.
25/7. Nhật chấm dứt kháng cự tại Philippines.
26/7. Churchill từ chức Thủ tướng Anh, Clement Atlee lên thay.
6/8. Mỹ thả bom hạt nhân vào Hiroshima.
8/8. Liên Xô tuyên chiến với Nhật.
9/8. Mỹ thả bom hạt nhân vào Nagasaki.
14/8. Nhật Bản đầu hàng ko điều kiện. Đại chiến Thế giới lần thứ 2 kết thúc.

Hết Phụ lục 3

HẾT