Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu nước ngoài => Tác giả chủ đề:: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:22:37 am



Tiêu đề: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:22:37 am
Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp
(Hồi ký của những người trong cuộc)

Nhà xuất bản Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2002
Người dịch: Dương Danh Dy
Đăng tại: Diễn Đàn (http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-1/)

HỒI KÍ LA QUÝ BA

Tháng thứ tư sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đã lặng lẽ mở ra một trang ít người biết đến trong lịch sử ngoại giao nước ta, trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế. Đối với cá nhân tôi mà nói, cũng đã mở một trang bước ngoặt trên đường trường chinh mới.

(http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-1/lqb.jpg)
La Quý Ba
nguồn : Tân Hoa Xã

I

 
Trung Quốc mới ra đời chưa được bao lâu, mùa đông năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, yêu cầu Trung Quốc cung cấp viện trợ và cử người sang giúp Việt Nam.

Tháng 1/1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp.

Trung ương Đảng ta theo yêu cầu của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Đông Dương, đã báo cáo và được Mao chủ tịch đồng ý, quyết định cử tôi bí mật sang Việt Nam, làm đại diện liên lạc giữa Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ còn tự tay viết giấy giới thiệu cho tôi : “Xin giới thiệu đồng chí La Quý Ba, Bí thư tỉnh uỷ và chính uỷ trong quân đội của chúng tôi đến chỗ các đồng chí làm đại diện liên lạc của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đi theo có 8 trợ lý và tuỳ tùng. Lưu Thế Kỳ, Bí thư trưởng1 Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, ngày 17/01/1950”.

Lúc này, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai đang ở Moskva, hội đàm với Trung ương Đảng Cộng Sản Liên Xô do Stalin đứng đầu, chuẩn bị ký kết “Hiệp ước tương trợ đồng minh hữu nghị Trung – Xô”.

Tháng 1/1950, tôi từ Bắc Kinh lên đường, bí mật xa Tổ quốc. Trước khi lên đường, đồng chí Thiếu Kỳ giao cho ba tháng làm xong nhiệm vụ về nước. Thế nhưng, cùng với việc tình hình thay đổi, đã đi một mạch gần tám năm, tôi lại trải qua một cuộc “kháng chiến tám năm” đối mặt với kẻ thù là quân xâm lược thực dân Pháp.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chính thức tuyên bố thành lập vào ngày 2/9/1945. Sau đó chẳng bao lâu, quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc lập tức tiến vào khu vực phía Bắc vĩ tuyến 16 Việt Nam, chiếm đóng Hà Nội; quân xâm lược thực dân Anh và một phần quân xâm lược thực dân Pháp tiến vào khu vực phía Nam vĩ tuyến 16 Việt Nam chiếm đóng Sài Gòn và lần lượt tiếp nhận quân Nhật đầu hàng. Về sau Quốc dân đảng Trung Quốc thoả hiệp, giao khu vực phía Bắc Việt Nam đã chiếm đóng cho quân Pháp tiếp quản. Quân Pháp không những đổ bộ lên Hải Phòng v.v.., mà còn tiến vào Hà Nội phát động cuộc chiến tranh xâm lược thực dân đối với Việt Nam.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hồ Chí Minh đứng đầu động viên toàn dân đứng lên chống lại, kiên trì cuộc kháng chiến trường kỳ. Quân xâm lược thực dân Pháp có ưu thế về quân sự đã chiếm đóng mấy thành phố và tuyến đường giao thông quan trọng, buộc cơ quan lãnh đạo Đảng, Chính phủ, quân đội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hà Nội dời lên Việt Bắc tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp. Quân Pháp tiến hành bao vây, phong toả, chia cắt và không ngừng tiến công quân sự và bắn phá điên cuồng vào căn cứ địa kháng chiến vùng núi Việt Bắc. Lúc này, tình hình chiến trường ở vào giai đoạn cầm cự : Quân Pháp không thể chinh phục quân dân Việt Nam, quân dân Việt Nam nhất thời cũng khó phát động phản công, chỉ có thể phân tán đánh du kích.

Vào thời điểm này, trên quốc tế chưa có một nước nào công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, không có một tổ chức quốc tế nào đặt quan hệ với Việt Nam, Việt Nam chưa giành được vị thế quốc tế, cũng không được viện trợ bên ngoài. Vấn đề viện trợ Việt Nam chống quân xâm lược thực dân Pháp như thế nào là một việc lớn mà lãnh đạo tối cao ba phía Trung Quốc, Việt Nam, Liên Xô trao đổi bàn bạc. Đồng chí Mao Trạch Đông và đồng chí Hồ Chí Minh khi ở Moskva từng hội đàm với Stalin. Khi Hồ Chí Minh nêu ra đề nghị các nước xã hội chủ nghĩa công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Stalin cho rằng làm như thế có thể kích thích các nước đế quốc tăng thêm áp lực đối với Việt Nam. Còn đồng chí Mao Trạch Đông lại cho rằng công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nâng cao chí khí của mình, đè bẹp uy phong của địch. Tiếp sau đó, nước Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa là nước đầu tiên công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và thiết lập quan hệ ngoại giao. Sau đó, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và thiết lập quan hệ ngoại giao.

Hồ Chí Minh từ xa xôi nghìn trùng đến Trung Quốc, đi Liên Xô là để mong được sự viện trợ nhiều mặt, nhất là viện trợ về quân sự và kinh tế tài chính. Stalin cho rằng, Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam, hiểu rõ tình hình Việt Nam, còn Liên Xô và các nước Đông Âu chịu nhiều vết thương chiến tranh nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô còn phải giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khôi phục và xây dựng, trên vai còn rất nặng gánh, mong rằng nhiệm vụ viện trợ Việt Nam, Trung Quốc là chính.

Lúc đó, Trung Quốc mới vừa ra đời chưa được bao lâu, quân giải phóng nhân dân phải truy diệt tàn quân Tưởng Giới Thạch, vây quét bọn đặc vụ thổ phỉ vũ trang, phải tiếp quản thành phố, cả nước đang dốc sức khôi phục kinh tế quốc dân, hàn gắn vết thương chiến tranh và đế quốc Mỹ lại không cam chịu thất bại ở Trung Quốc, tiến hành bao vây, phong toả, cô lập Trung Quốc mới, thậm chí âm mưu can thiệp, lật đổ Trung Quốc mới. Quân xâm lược thực dân Pháp cũng tăng cường bố trí binh lực và cơ sở quân sự ở biên giới Trung-Việt, phong toả biên giới Trung-Việt. Máy bay Pháp thường xuyên bay lượn trên bầu trời biên giới Trung-Việt, bắn phá ném bom, đe doạ an ninh của Trung Quốc. Bọn xâm lược thực dân Pháp còn ủng hộ, che chở tàn quân Tưởng Giới Thạch và đặc vụ thổ phỉ vũ trang, tiến hành quấy rối phá hoại ở biên giới Trung-Việt.

Năm 1950, đế quốc Mỹ tổ chức cái gọi là đội quân Liên Hợp Quốc tiến hành chiến tranh xâm lược Triều Tiên, đánh đến bên bờ sông Áp Lục, đe doạ an ninh Trung Quốc, nước ta quyết định chống Mỹ viện Triều, đưa quân tình nguyện sang tham gia chiến đấu ở Triều Tiên, kề vai sát cánh với quân dân Triều Tiên chống bọn xâm lược Mỹ.

Trong tình hình trong nước, quốc tế lúc bấy giờ rất nghiêm trọng, nhiệm vụ nặng nề, khó khăn rất lớn, Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng vẫn không chút do dự quyết định viện trợ cho Việt Nam chống Pháp, ra sức cung cấp viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế vô tư và không hoàn lại cho Việt Nam, cử cố vấn sang giúp Việt Nam tác chiến và công tác. Điều đó chứng tỏ đầy đủ tinh thần quốc tế vô sản vĩ đại của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:24:54 am
II

 
Ngày 24/9/1950, cũng tức là sau tám tháng bảy ngày tôi rời Bắc Kinh, lần đầu tiên tôi mới từ vùng núi Bắc Bộ Việt Nam trở về Bắc Kinh báo cáo công tác. Trước tiên theo chỉ thị trực tiếp của đồng chí Thiếu Kỳ và Chu Tổng tư lệnh tôi viết một bản báo cáo về tình hình công tác ở Việt Nam trình các đồng chí lãnh đạo Trung ương. Hai, ba ngày sau, đồng chí Dương Thượng Côn báo cho tôi, đồng chí Thiếu Kỳ muốn tôi đến chỗ đồng chí. Tôi lại đến Trung Nam Hải quen thuộc. Đồng chí Thiếu Kỳ báo cho tôi biết, Mao Chủ tịch muốn đích thân nghe tôi báo cáo. Vì thế tôi và đồng chí Thiếu Kỳ cùng đi xe đến Phong Trạch Viên.

Phong Trạch Viên thời Khang Hy là nơi Hoàng đế nhà Thanh tổ chức nghi lễ biểu diễn trồng trọt mùa xuân. Đây là hai ngôi nhà có sân ở giữa tiêu chuẩn. Hai cây hải đường, hai cây lê tả hữu đối xứng, không có trang hoàng gì, đượm không khí trang nghiêm. Chính giữa nhà trên là “Di niên đường”, hai gian Đông – Tây là “tranh mưa bụi” và “hoạ núi mây”, đây là nơi ở của Mao Chủ tịch rất giản đơn mộc mạc.

Trong “Di Niên đường”, từ trần nhà đến khung cửa, cánh cửa, ô cửa sổ đều là gỗ gụ trạm hoa, trong phòng rất sang trọng nhưng chỉ đặt 10 chiếc xô pha cá nhân, xoay quanh một bàn tròn nhỏ, kê trên một tấm thảm rất cũ, sau ghế xô pha đặt một chiếc bàn dài và hẹp, những thứ đó chiếm một nửa phòng tiếp khách. Nhìn xung quanh cũng không thấy có bày biện gì nữa. Nơi sống và làm việc của Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân của chúng ta giản dị chất phác như thế đó. Lúc đó cũng chưa có quy định tiếp khách chặt chẽ. Nhiều lần tôi đến báo cáo, Mao Chủ tịch đều ngồi trên chiếc xa lông ở phía nam, có lúc tôi ngồi bên cạnh Người, có lúc lại ngồi xa một chút.

Khi đồng chí Thiếu Kỳ dẫn tôi đến gặp Mao Chủ tịch, Chu Tổng tư lệnh, Chu Thủ tướng đã ngồi bên cạnh Chủ tịch. Trước tiên, đồng chí Thiếu Kỳ nói về tình hình tôi đã báo cáo. Sau khi nghe xong Chủ tịch đứng dậy nói với tôi : “ Đồng chí Trường Chinh, Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam gửi điện giục đồng chí nhanh chóng trở lại Việt Nam làm việc, Hồ Chí Minh mong đồng chí làm Tổng cố vấn của đồng chí đó. Đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng làm việc lâu dài ở Việt Nam ”. Đồng chí Thiếu Kỳ nói xen vào : “ Trước định đồng chí làm việc ở Việt Nam ba tháng, bây giờ xem ra không được nữa rồi, phải tính chuyện lâu dài ở Việt Nam ”. Chu Thủ tướng nói : “ Trung ương đã quyết định trong nội bộ tương lai đồng chí là Đại sứ đầu tiên của Trung Quốc tại Việt Nam ”. Mao Chủ tịch nói : “ Nhiệm vụ liên hệ giữa hai Đảng Trung-Việt chúng ta do đồng chí tiếp tục hoàn thành. Đồng chí là đại diện liên lạc do Đảng ta cử sang, cũng có thể là đại biểu liên lạc duy nhất ”. Chu Thủ tướng và Chu Tổng tư lệnh giới thiệu tóm tắt tình hình đế quốc Mỹ xâm lược Triều Tiên và tình hình chúng ta đưa quân tình nguyện sang Triều Tiên tham gia chiến đấu và bảo tôi sau khi trở lại Việt Nam, có thể báo cáo tình hình này cho Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.

Mao Chủ tịch nói thêm : “ Căn cứ vào tình hình của Triều Tiên chúng ta quyết định chống Mỹ viện Triều, công khai đưa quân tình nguyện sang Triều Tiên tham gia chiến đấu, kề vai sát cánh chiến đấu với quân dân Triều Tiên chống bọn xâm lược Mỹ ; chúng ta lại căn cứ vào tình hình của Việt Nam quyết định tiếp tục viện trợ Việt Nam chống Pháp, bí mật cung cấp viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế cho Việt Nam, còn cử cố vấn giúp Việt Nam tác chiến và công tác. Dù là chống Mỹ viện Triều hay là viện Việt chống Pháp đều là chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa yêu nước, ý nghĩa trọng đại như nhau, vẻ vang như nhau, chỉ có phương thức viện trợ mỗi nơi có khác nhau ”. Tiếp đó, Chủ tịch chuyển sang chuyện khác, tự nhiên hỏi đến tình hình vợ và gia đình tôi. Khi tôi nói đến vợ tôi, đồng chí Lý Hàm Trân là cán bộ tham gia cuộc Trường chinh của Hồng quân năm 1933, Mao Chủ tịch phấn khởi nói : “ À ! Thì ra đồng chí ấy là lão đồng chí đã trải qua thức thách chiến tranh, rất tốt. Đồng chí ấy đã làm công tác gì ? ”. Tôi nói : “ Nhà tôi đã làm công tác cơ yếu, công tác tổ chức, công tác cán bộ ”. Mao Chủ tịch nói ngay : “ Được! Để đồng chí ấy cũng sang Việt Nam công tác làm trợ lý cho đồng chí. Hồ Chí Minh đã đề nghị với tôi để vợ các đồng chí cùng sang Việt Nam, ai thích hợp thì tôi đồng ý cho đi ”. Về sau, các cố vấn chúng ta cử sang Việt Nam, có số ít người mang vợ theo.

Đồng chí Thiếu Kỳ nói : “ Nhu cầu cấp thiết của Việt Nam hiện nay là giải quyết vấn đề tài chính kinh tế, đặc biệt là vấn đề lương thực và vấn đề tiền tệ. Chúng ta đã chọn mấy cán bộ làm công tác tài chính kinh tế, công tác ngân hàng, công tác lương thực sang Việt Nam làm cố vấn. Các đồng chí ấy và đồng chí đi trước, sau này còn phải chọn cố vấn trên các mặt khác thành lập đoàn cố vấn chính trị giúp Việt Nam làm công tác đảng, đồng chí là Tổng cố vấn, lại là đoàn trưởng đoàn cố vấn chính trị ”.

Khi ấy nghe đồng chí Thiếu Kỳ nói đến “ tổng cố vấn ”, Mao Chủ tịch nói : “ Làm Tổng cố vấn không thể rập khuôn theo kiểu của Liên Xô, mà Việt Nam cũng không phải là Trung Quốc, đồng chí không thể rập khuôn theo kiểu Trung Quốc. Mọi việc phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, phải thật thà, thành khẩn trước mặt mọi người, giới thiệu kinh nghiệm thành công của cách mạng Trung Quốc, cũng phải nói đến bài học thất bại ”. Lần báo cáo này là lần đầu tiên tôi được trực tiếp nghe lời dạy và chỉ thị của Mao Chủ tịch về vấn đề quốc tế.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:26:29 am
III

 
Bước đầu tiên viện trợ Việt Nam là phải khai thông giao thông biên giới Trung-Việt, vì có thế vật tư viện trợ Việt Nam mới có thể chở sang Việt Nam thuận lợi. Chỉ cần Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm con đường giao thông chủ yếu trên biên giới Trung-Việt thì quân Pháp sẽ mất ưu thế số một. Chỉ có hai sự lựa chọn khai thông con đường giao thông chủ yếu biên giới Trung-Việt : một là đánh Cao Bằng tiếp giáp giữa Việt Nam và Quảng Tây ; một nữa là đánh Lào Cai tiếp giáp giữa Việt Nam và Vân Nam. Đánh Cao Bằng trước hay đánh Lào Cai trước, hay là đánh cả hai cùng một lúc, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Trung ương Đảng ta đều đã điều tra nghiên cứu, suy nghĩ trao đổi nhiều lần gần 3 tháng. Ngày 02/7/1950, Mao Chủ tịch gửi điện trả lời Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam : “ Đồng ý ý kiến đánh Cao Bằng trước, phương án tác chiến cụ thể đối với Cao Bằng, chờ sau khi Trần Canh đến, do các đồng chí quyết định cuối cùng. Sau này tác chiến như thế nào do chính các đồng chí căn cứ vào tình hình cụ thể quyết định. Nếu chúng tôi có ý kiến, cũng chỉ để các đồng chí tham khảo. Bởi vì các đồng chí hiểu rõ tình hình hơn chúng tôi ”.
chupchung
Từ trái sang phải (hàng đầu) : Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, La Quý Ba, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng  (nguồn : Tân Hoa Xã)

Đồng chí Trần Canh là vị tướng được Hồ Chí Minh điểm danh với Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng ta, Mao Chủ tịch, Trung ương đảng ta cử đồng chí Trần Canh làm đại diện của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sang Việt Nam giúp tổ chức chỉ huy chiến dịch Biên Giới, đoàn cố vấn quân sự đã tham gia chiến dịch biên giới. Đây là một chiến dịch then chốt. Mao Chủ tịch rất coi trọng và quan tâm theo dõi chiến dịch này, rất nhiều bức điện quan trọng đều do Chủ tịch đích thân phê duyệt, thậm chí thân tự khởi thảo. Trong thời gian chuẩn bị chiến dịch Biên Giới, Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng đồng ý yêu cầu của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đưa một bộ phận quân đội nhân dân Việt Nam đến vùng núi Văn Sơn, Vân Nam, chỉnh đốn đội hình, trang bị, huấn luyện, đồng thời giúp bộ phận quân đội này biên chế thành hai đại đoàn, hình thành hai quả đấm, đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch biên giới. Trần Canh tuân theo chỉ thị của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng giúp đỡ hết lòng, vô tư. Cuối cùng quân đội nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi to lớn quan trọng trong chiến dịch này, đã xoay chuyển tình thế bị động trên trường Việt Nam, khai thông đường giao thông biên giới Trung-Việt. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp tỏ ra rất phấn khởi và hài lòng đối với chiến dịch này. Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch biên giới, ngày 14/10/1950, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng chí Mao Trạch Đông, Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc : “ Chúng tôi đã thắng lợi hoàn toàn trong chiến dịch Thất Khê – Cao Bằng (chỉ chiến dịch Biên Giới). Nguyên nhân lớn nhất của thắng lợi này là sự viện trợ tận tình của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô, sự nhiệt tình cảm động của các đồng chí Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông không nề hà gian khổ chấp hành chỉ thị của các đồng chí trực tiếp để giúp đỡ chúng tôi. Tôi cần nêu lên công lao đặc biệt của Trần Canh, Nhiệm Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu, Quý Ba, Kiếm Anh, Phương Phương, Quốc Thanh và các đồng chí cố vấn trong chiến dịch. Tóm lại, tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi của đường lối Mao Trạch Đông cách mạng, quốc tế chủ nghĩa. Tôi không nói lời khách sáo : “Cảm ơn các đồng chí”, mà nói các đồng chí Việt Nam và nhân dân chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa giành lấy thắng lợi cuối cùng lớn hơn, lấy thành công để đền đáp sự kỳ vọng tha thiết và giúp đỡ to lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô anh em ”.

(http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-1/chupchung.jpg)
Từ trái sang phải (hàng đầu) : Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, La Quý Ba, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng  (nguồn : Tân Hoa Xã)


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:27:08 am
IV

 
Tháng 11 năm 1950, tôi lại quay về nước để báo cáo công tác với Trung ương, khi báo cáo việc Việt Nam nêu ra với nước ta kế hoạch mong muốn viện trợ, Mao Chủ tịch nói : “ Nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi cách mạng có nghĩa vụ giúp đỡ nhân dân các nước chưa được giải phóng, đó là chủ nghĩa quốc tế. Việt Nam đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Pháp, đơn độc không có viện trợ, khó khăn rất lớn, họ yêu cầu chúng ta cung cấp viện trợ và giúp đỡ, chúng ta có nghĩa vụ viện trợ và giúp đỡ họ ; Trung Quốc cung cấp viện trợ cho Việt Nam là vô tư, không hoàn lại, không kèm theo bất cứ điều kiện chính trị nào, hễ Việt Nam kháng chiến quả thực có nhu cầu, mà Trung Quốc lại có điều kiện thì cố hết sức cung cấp ”. Mao Chủ tịch lại nói : “ Bọn xâm lược thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, cũng là kẻ thù của nhân dân Trung Quốc; Trung Quốc giúp Việt Nam đánh bại quân xâm lược thực dân Pháp, lập lại hoà bình ở Việt Nam, đó là Trung Quốc giúp Việt Nam. Còn Việt Nam đánh bại bọn xâm lược thực dân Pháp, đuổi chúng ra khỏi Việt Nam, biên cương phía Nam của Trung Quốc cũng giải toả khỏi mối đe doạ của bọn xâm lược thực dân Pháp, đó lại là Việt Nam giúp Trung Quốc. Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc, là sự giúp đỡ lẫn nhau ”.

Khi tôi báo cáo Việt Nam nêu ra kế hoạch viện trợ quá lớn, yêu cầu quá cao, không sát thực tế lắm, Mao Chủ tịch nói : “ Họ nêu kế hoạch quá lớn, yêu cầu quá cao, không sát thực tế, có thể là thiếu hiểu rõ tình hình của nước ta và tình hình của họ, cũng có thể liên quan đến việc thiếu kinh nghiệm phải kiên nhẫn giúp đỡ họ ”.

Trong mấy năm công tác tại Việt Nam, tiến hành viện trợ và giúp đỡ Việt Nam, bất kể là cung cấp viện trợ cho Việt Nam bao gồm vũ khí đạn dược, trang bị quân sự, lương thực, vải vóc, thuốc men y tế, máy móc thông tin, phương tiện giao thông, các loại thực phẩm v.v... hay bất kể là giới thiệu kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Trung Quốc cho Việt Nam, giúp Việt Nam tác chiến và công tác, chúng tôi đều làm theo chỉ thị và dạy bảo đó của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng.

Cố vấn Trung Quốc làm việc giúp đỡ tại Việt Nam là chân thành, toàn tâm toàn ý, không hề bảo lưu, đã cống hiến vô tư cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Tuân theo chỉ thị của Mao Chủ tịch, chúng tôi công tác giúp Việt Nam đồng cam cộng khổ, cùng làm việc, cùng chiến đấu, cùng sinh hoạt với các đồng chí Việt Nam, không đòi hỏi Việt Nam bất cứ một chiếu cố đặc biệt và thù lao đặc cách nào.

Viện trợ và giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Nam, chính phủ Trung Quốc không lấy tiền, đòi nợ Việt Nam, không ký bất cứ thoả thuận hoặc hiệp định bất bình đẳng nào với Việt Nam, không xây dựng bất cứ căn cứ quân sự và đóng một người lính nào ở Việt Nam, hoàn toàn không phải trả giá, vô tư, điều đó nói lên đầy đủ chủ nghĩa quốc tế vĩ đại của Mao Chủ tịch. Chủ nghĩa Quốc tế đó cũng hiếm thấy trên thế giới.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:27:43 am
V

 
Mùa đông năm 1951, Hồ Chí Minh một lần nữa bí mật đến Bắc Kinh thăm Trung Quốc.

Một hôm tôi tháp tùng Người đến Di Niên đường trong Phong Trạch Viên. Khi chúng tôi bước vào, Mao Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Thủ tướng, Chu Tổng tư lệnh đều ra đón, họ ôm hôn nhau thăm thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lần lượt quen biết Mao Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Thủ tướng, Chu Tổng tư lệnh ngay từ trong thời kỳ chiến tranh cách mạng trong nước lần thứ nhất và thời ký chiến tranh chống Nhật ở Trung Quốc. Người nói tiếng phổ thông với khẩu âm Quảng Đông rất lưu loát, có thể không cần phiên dịch. Trong trường hợp này không có chút hình thức ngoại giao nào Hồ Chí Minh thân thiết, nhiệt tình như về nhà mình.

Người gặp Mao Chủ tịch như anh em xa cách lâu ngày, thăm hỏi lẫn nhau, nói rất say sưa, rồi chuyển nhanh sang vấn đề chính. Hồ Chí Minh giới thiệu tóm tắt tình hình chiến tranh Việt Nam chống Pháp, tình hình xây dựng căn cứ địa, tình hình cố vấn Trung Quốc làm việc tại Việt Nam. Chu Thủ tướng, Chu Tổng tư lệnh cũng giới thiệu tóm tắt với Hồ Chí Minh tình hình chiến trường Triều Tiên và tình hình liên quan trong nước Trung Quốc.

Trong trao đổi, Hồ Chí Minh hỏi Mao Chủ tịch : “ Bộ Chính trị Trung ương chúng tôi yêu cầu đồng chí La Quý Ba khi tham gia hội nghị Bộ Chính trị Trung ương chúng tôi nêu nhiều ý kiến về các mặt công tác của chúng tôi, giúp đỡ nhiều cho chúng tôi. Nhưng đồng chí quá thận trọng, quá khiêm tốn. Tôi mong các đồng chí giao cho đồng chí ấy nhiệm vụ nêu nhiều ý kiến. Mao Chủ tịch, các đồng chí có đồng ý không ? ” Mao Chủ tịch nói : “ Chúng tôi đồng ý, nhưng ý kiến hoặc kiến nghị của đồng chí ấy nêu ra với các đồng chí chỉ để các đồng chí tham khảo, các đồng chí cho rằng đồng chí ấy nói đúng thì áp dụng, không đúng thì không áp dụng, do các đồng chí tự quyết định ”.

Khi Mao Chủ tịch và Hồ Chí Minh trao đổi với nhau, cách nhìn, quan điểm và ý tưởng đối với một số vấn đề đều hoà hợp như là câu chuyện trong gia đình, xem như tán gẫu, nhưng suy nghĩ kỹ thấy ý nghĩa sâu sắc, đậm đà hương vị. Hồ Chí Minh là người rất giàu tình cảm, nhìn thấy rõ Người bị truyền cảm bởi sự chân thành của Mao Chủ tịch, Người đứng dậy nói : “ Tôi và các đồng chí Việt Nam đều cảm nhận thấy sự chân thành giúp đỡ chúng tôi từ trong hành động của các đồng chí ”.

Đến giờ ăn cơm, Mao Chủ tịch, Hồ Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Tổng tư lệnh đi vào phòng ăn. Chu Thủ tướng xin về trước vì có hoạt động đối ngoại. Phòng ăn và phòng tiếp khách ngăn cách bằng tấm bình phong, chỉ đi bảy, tám bước là đến. Phòng ăn chỉ đủ kê hai chiếc bàn, lúc này chỉ kê một bàn ăn. Mao Chủ tịch, Hồ Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Tổng tư lệnh vừa ăn vừa tiếp tục trao đổi. Người này một câu, người kia một câu, nói xen lẫn nhau, bổ sung cho nhau, trò chuyện rất say sưa, sôi nổi.

Giữa bữa ăn, Hồ Chủ Tịch thấy đưa ớt lên, liền nói với Mao Chủ tịch : “ Nghe đồng chí Quý Ba giới thiệu Mao Chủ tịch rất thích ăn ớt, không có ớt thì không thể nuốt nổi cơm phải không ? ”. Mao Chủ tịch cười. Hồ Chí Minh lại nói tiếp : “ Người Việt Nam chúng tôi cũng thích ăn ớt, ớt của chúng tôi không to như ớt Trung Quốc, giống như cây con, cao một hai mét, trái nhỏ chỉ lên trời, ăn vào thật là cay ”. Sau khi mọi người hứng thú nghe Hồ Chủ tịch kể xong ớt chỉ thiên ở núi rừng Việt Bắc, Mao Chủ tịch nói : “ Thích ăn ớt không phải chỉ một mình tôi, đồng chí Thiếu Kỳ và tôi là người Hồ Nam, người Hồ Nam thích ăn ớt ; Chu Tổng tư lệnh là người Tứ Xuyên, người Tứ Xuyên ăn ớt cũng rất dữ ; đồng chí này (chỉ tôi) là người Giang Tây cũng ăn ớt, người Vân Nam gần các đồng chí cũng thích ăn ớt. Nhưng những người ăn ớt như chúng ta, cách ăn mỗi người có một đặc sắc, cách làm cũng có khác nhau.” Chủ đề tiếp theo là mỗi người tự giới thiệu cách pha chế ớt của quê hương mình. Nhưng mọi người thích thú nhất là cách ăn ớt của Việt Nam. Hồ Chí Minh nói : “ Bỏ ớt chỉ thiên vào lọ nước mắm (nước mắm là một loại xì dầu của người Việt Nam chế ra) pha thêm một ít chanh, cùng ăn.” Lúc này Mao Chủ tịch nói : “ Chúng tôi ăn ớt thành thói quen, nhưng không phải thói quen do tập tục quê hương tạo nên, đó là năm 1932 đến 1934, khu Xô Viết Trung ương bị Quốc dân đảng phong toả kinh tế, căn bản không có muối ăn. Để kiếm được một ít muối ăn, không ít đồng chí chúng tôi đã phải trả giá rất đắt ; thậm chí hy sinh tính mạng của mình, lúc đó thật là gian khổ. Không có muối, ăn cơm mới khó làm sao ! Tôi cũng như mọi người lấy ớt thay muối, ăn cơm bằng ớt không có muối có thể coi là rau ngon vậy ”.

Bao nhiêu năm đã trôi qua, tôi không bao giờ quên câu chuyện về ớt lần ấy.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:28:19 am
VI

 
Sau khi tiễn Hồ Chí Minh, Mao Chủ tịch, đồng chí Thiếu Kỳ và Chu Tổng tư lệnh giữ tôi lại, tiếp tục nói chuyện với tôi.

Mao Chủ tịch nói : “ Đồng chí Hồ Chí Minh muốn đồng chí khi tham gia hội nghị Bộ Chính trị của họ, nêu nhiều ý kiến, giúp đỡ nhiều hơn đối với mặt công tác của họ. Đồng chí có thể nêu, nhưng dù nêu ý kiến hay đề nghị đều phải nói rõ chỉ để họ tham khảo. Đồng chí phải chú ý điều tra nghiên cứu, không được chủ quan, phải xuất phát từ thực tế của Việt Nam, kết hợp kinh nghiệm của Trung Quốc, không được cứng nhắc. Nêu ý kiến hoặc kiến nghị đều phải thận trọng, phải suy nghĩ kỹ, phải chuẩn bị tốt, phải nghiêm chỉnh chịu trách nhiệm. Giúp người ta phải giúp cho tốt, không áp đặt người ta. Phải hết sức chú ý tôn trọng đồng chí Hồ Chí Minh và tôn trọng sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Không được làm ra vẻ khâm sai đại thần, nhất là không được có chủ nghĩa nước lớn. Đồng chí giữ thái độ thận trọng là đúng ”.

Đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Tổng tư lệnh nói tiếp : “ Đồng chí phải chú ý, không nên vượt quá phạm vi nhiệm vụ công tác của đồng chí, trước hoặc sau những vấn đề quan trọng phải thỉnh thị báo cáo Mao Chủ tịch, Trung ương ”.

Tiếp đó, Mao Chủ tịch nói với thái độ nghiêm túc và hơi xúc động : “ Trước cuộc trường chinh, đồng chí ở khu Xô Viết Trung ương, chắc biết Lý Đức ? ”.

“ Vâng, tôi có biết Lý Đức ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Lý Đức (*) là người Đức, ông ta lập chiến công trong Hồng quân Liên Xô thời kỳ cách mạng Tháng Mười Liên Xô, được Stalin khen ngợi, cử ông ta sang thường trú bên cảnh Đảng Cộng sản Trung Quốc, về sau đến khu Xô Viết Trung ương làm cố vấn quân sự. Chẳng bao lâu ông ta nắm quyền chỉ huy Hồng quân công nông Trung Quốc, gây tổn thất to lớn cho sự nghiệp cách mạng Trung Quốc. Lý Đức không hiểu tình hình đất nước Trung Quốc, cũng không hiểu tình hình của Hồng quân công nông Trung Quốc, không điều tra nghiên cứu, không chịu nghe ý kiến bất đồng, rập khuôn máy móc chiến lược, chiến thuật có hiệu quả ở Liên Xô, song không vận dụng được ở Trung Quốc. Đi đến đâu cũng giương lá cờ quốc tế vô sản để doạ nạt người khác. Bao biện làm thay, lên mặt dạy đời, khoa chân múa tay áp đặt người ta, như một khâm sai đại thần, đầy sắc khí ! Những người như Lý Đức, Bác Cổ v.v.. đã thực hành một loạt chiến lược chiến thuật sai lầm về mặt quân sự, làm cho chúng ta khốn khổ đủ điều, đã trả giá bằng máu nặng nề ”.

Mao Chủ tịch lại nói : “ Đồng chí công tác ở Việt Nam, nhất thiết phải tránh bài học của Lý Đức ở Trung Quốc. Phải nói bài học này cho toàn thể các đồng chí cố vấn trong đoàn cố vấn, để mọi người ghi nhớ kỹ bài học sâu sắc này. Nói với các cố vấn, giúp người ta không thể rập khuôn máy móc theo cách làm trước đây của chúng ta. Giúp người ta phải giúp cho tốt, chỉ dựa vào nguyện vọng chủ quan là không được, phải căn cứ tình hình thực tế mới có thể giúp tốt được. Phải có thái độ thật thà, thận trọng, ít nói chúng ta đã “ qua năm cửa ải chém sáu tướng ”2 như thế nào, giới thiệu nhiều chúng ta “ đến Mạch thành ”3 như thế nào, chúng ta cũng có thất bại. Trong quá trình giúp đỡ người ta, phải thường xuyên kiểm điểm lời nói và hành động của mình, mỗi ngày một lần, ba ngày một lần, ít nhất mỗi tuần một lần, kiểm điểm xem cái nào chúng ta làm đúng, cái gì chúng ta làm sai ”.

Đối với đồng chí Hồ Chí Minh, không những nhân dân hai nước Trung-Việt rất tôn trọng đồng chí, trên quốc tế, ngay cả những người phản đối đồng chí cũng rất tôn trọng đồng chí. Mao Chủ tịch đề cao sự tôn trọng đối với Hồ Chí Minh ở mức cao như vậy là có ý nghĩa rất sâu xa. Tôi rất thấm thía lời nói chuyện của Mao Chủ tịch đối với tôi, tôi cảm thụ rất sâu như được một lần giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản cực kỳ sâu sắc hết sức thực tế.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:28:45 am
VII

 
Mao Chủ tịch bao giờ cũng coi sự nghiệp cách mạng đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam như sự nghiệp cách mạng của nhân dân Trung Quốc, giúp đỡ Việt Nam với tinh thần quốc tế chủ nghĩa hoàn toàn triệt để, cống hiến vô tư. Mao Chủ tịch không chỉ dạy bảo tôi và các cố vấn khác như thế, mà chính người cũng làm như thế. Dù là điện của Trần Canh, Vi Quốc Thanh và tôi xin chỉ thị của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng hay chỉ thị của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng đối với chúng tôi, dù là bức điện về mặt tác chiến (như chiến dịch Biên Giới, chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Tây Bắc v.v..) xây dựng bộ đội và huấn luyện bộ đội, hay là những bức điện vấn đề quan trọng về mặt xây dựng tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng, công tác tài chính kinh tế, công tác cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế và công tác công an, tình báo, dân tộc thiểu số v.v.. Mao Chủ tịch đều đích thân phê duyệt, sửa chữa, ký cho chuyển đi, trong đó có những bức điện đặc biệt quan trọng, Mao Chủ tịch tự khởi thảo, khi trả lời các bức điện của Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trưng cầu ý kiến Trung ương Đảng hoặc các bức điện quan trọng của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng nêu ý kiến hoặc kiến nghị với Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, đều viết như thế này : “ Ý kiến của chúng tôi chỉ để tham khảo, do các đồng chí quyết định, các đồng chí thông thạo, hiểu rõ tình hình hơn chúng tôi ”.

“ Quy tắc công tác ” của cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam do đồng chí Vương Gia Tường chủ trì Ban liên lạc đối ngoại Trung ương khởi thảo, khi Mao Chủ tịch xét duyệt đã có bổ sung quan trọng : “ Yêu mến từng gốc cây ngọn cỏ của nhân dân Việt Nam, tôn trọng độc lập dân tộc Việt Nam và phong tục tập quán của nhân dân Việt Nam, ủng hộ Đảng Lao động Việt Nam và đồng chí Hồ Chí Minh lãnh tụ của nhân dân Việt Nam ”. Mỗi dòng chữ của “ Quy tắc ” đều chứa chan tinh thần quốc tế chủ nghĩa của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng.

Năm 1952, tôi về nước báo cáo tình hình công tác, báo cáo với Mao Chủ tịch, có nói đại đa số cố vấn đều tuân theo chỉ thị và yêu cầu của Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng, mang tinh thần quốc tế chủ nghĩa, yên tâm công tác tại Việt Nam, nhưng có số ít cố vấn vì điều kiện khí hậu Việt Nam vừa nóng vừa ẩm, muỗi nhiều, sinh hoạt không quen, thường hay mắc bệnh, lại lên cơn sốt rét, sút cân rõ rệt lại thêm chiến đấu dồn dập, máy bay Pháp luôn luôn bắn phá, ném bom, lo chết bệnh, chết trận tại Việt Nam, mong muốn và yêu cầu về nước công tác trước thời hạn.

Nghe xong, Mao Chủ tịch trầm ngâm một lát, sau đó dõng dạc nói : “ Bethune là người Canada, chẳng nề đường xa vạn dặm đến Trung Quốc, giúp Trung Quốc chống quân xâm lược Nhật, không tơ hào tư lợi, không tiếc hy sinh tất cả, đó chính là tinh thần quốc tế chủ nghĩa. Đồng chí đã hy sinh vẻ vang tại Trung Quốc, an táng trên đất Trung Quốc, đồng chí là một chiến sĩ quốc tế rất tốt, chúng ta mãi mãi tưởng nhớ đồng chí ”. Mao Chủ tịch lại nói : “ Chúng ta có rất nhiều người miền Bắc công tác, chiến đấu và sống ở miền Nam, có người hy sinh ở miền Nam ; cũng có rất nhiều người miền Nam công tác, chiến đấu và sống ở miền Bắc, có người hy sinh ở miền Bắc. Cố vấn của chúng ta đều là đảng viên Đảng Cộng sản, Đảng cử các đồng chí ấy sang viện trợ Việt Nam chống Pháp, giúp Việt Nam công tác, vì sao không thể kiên trì công tác, chiến đấu và sống ở Việt Nam ? Vì sao không thể hy sinh ở Việt Nam ? ” Tiếp đó, Mao Chủ tịch ngâm lại câu thơ : “ Chôn trung liệt khắp nơi non xanh biếc biếc. Cần chi da ngựa bọc thây trở về ”. Chủ tịch đã giải thích hàm nghĩa của hai câu thơ này.

Những lời nói của Mao Chủ tịch lần này tác động rất mạnh đến tư tưởng của tôi và các cố vấn. Mao Chủ tịch đang cổ vũ tôi và các cố vấn phải hoàn toàn triệt để hiến thân cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam, làm một chiến sĩ quốc tế đích thực.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:29:23 am
VIII

 
Giải quyết vấn đề lương thực và tiền tệ Việt Nam là một trong những vấn đề cấp bách nhất, khó khăn nhất cần giúp nghiên cứu giải quyết được nêu ra khi Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp v.v... giới thiệu tình hình Việt Nam với tôi.

Tôi báo cáo vấn đề này cho Mao Chủ tịch, Trung ương Đảng. Mao Chủ tịch và đồng chí Thiếu Kỳ chỉ thị cho chúng tôi : Biện pháp căn bản giải quyết vấn đề tài chính kinh tế, nhất là vấn đề lương thực và tiền tệ của Việt Nam là cần phải xóa bỏ triệt để toàn bộ chế độ và biện pháp tài chính kinh tế cũ do bọn thực dân Pháp để lại, xây dựng toàn bộ chế độ và biện pháp công tác kinh tế tài chính mới. Mao Chủ tịch và đồng chí Thiếu Kỳ còn chỉ thị cho chúng tôi : Biện pháp trưng thu công lương, thu hồi tiền tệ về ngân hàng và phát triển sản xuất mà Trung Quốc áp dụng trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng về cơ bản thích dụng với Việt Nam, có thể cung cấp để các đồng chí ấy tham khảo.

Tôi và các cố vấn căn cứ vào chỉ thị đó của Mao Chủ tịch và đồng chí Thiếu Kỳ, xuất phát từ thực tế Việt Nam, kết hợp giới thiệu và vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc để giúp Việt Nam từ chính sách, phương châm, điều lệ, chế độ, nội quy của công tác tài chính kinh tế cho đến biện pháp thực thi cụ thể. Năm 1951, tình hình tài chính kinh tế của Việt Nam có chuyển biến rõ rệt. Cơ quan, bộ đội có lương thực ăn, không đói nữa, trong nhà dân lương thực cũng nhiều, tiền tệ tương đối ổn định, không có lạm phát, thị trường từng bước sôi động lên. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đều tỏ ra rất hài lòng trước tình hình đó. Thủ tướng Phạm Văn Đồng phấn khởi nói : “ Mao Chủ tịch, Đảng Trung Quốc viện trợ chúng tôi một cách vô tư, lại cử cố vấn giúp chúng tôi, năm 1950 giúp chúng tôi giành thắng lợi quan trọng trong chiến dịch Biên Giới, làm thay đổi tình hình kháng chiến của Việt Nam, khai thông đường giao thông biên giới Việt – Trung. Hiện nay (1951) lại giúp chúng tôi giải quyết vấn đề tài chính kinh tế khó khăn nhất, cấp bách nhất hiện nay, nhất là vấn đề lương thực, tiền tệ và phát triển sản xuất. Điều đó chứng tỏ đầy đủ chủ nghĩa quốc tế vĩ đại của Mao Chủ tịch, Đảng Trung Quốc, cũng nói lên đầy đủ tư tưởng Mao Trạch Đông và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của Trung Quốc là có sự giúp đỡ đối với Việt Nam.”


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:30:22 am
IX

 
Từ sau chiến dịch biên giới 1950, chúng tôi lại trải qua rất nhiều chiến dịch lớn nhỏ như chiến dịch Trung Du, chiến dịch Ninh Bình, chiến dịch Đông Bắc, chiến dịch Thượng Lào, chiến dịch Tây Bắc và đánh du kích sau lưng địch ở đồng bằng sông Hồng v.v..., cho đến đại thắng Điện Biên Phủ, buộc bọn xâm lược thực dân Pháp ngồi vào bàn đàm phán Geneve, ký hiệp định đình chiến, nhân dân Việt Nam cuối cùng đã giành được thắng lợi có tính quyết định.

Nhân dân Việt Nam cực kỳ tôn trọng và yêu mến đồng chí Mao Trạch Đông, thân thiết gọi đồng chí Mao Trạch Đông là Bác Mao, giống như gọi đồng chí Hồ Chí Minh là Bác Hồ (đó là cách xưng hô tôn kính nhất, yêu mến nhất, thân thiết nhất của nhân dân Việt Nam đối với đồng chí Hồ Chí Minh), tình cảm chân thành và nồng thắm.

Lịch sử là tấm gương soi công bằng chính trực nhất, tốt nhất. Tuy thời gian trôi qua, tình hình thế giới đang biến đổi, nhưng tư tưởng quốc tế vô sản của Mao Trạch Đông, công lao của Mao Trạch Đông viện trợ vô tư Việt Nam chống Pháp sẽ mãi mãi lưu truyền sử xanh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam./.
 
Lã Quý Ba

(đăng trong Tưởng nhớ Mao Trạch Đông,
Nhà xuất bản Văn hiến Trung ương năm 1993,
khi in vào sách này có lược bớt)

 

 

(*) Lí Đức là bí danh của Otto Braun (1900-1974), người cộng sản Đức, cán bộ của Quốc tế Cộng sản. Năm 1932, được cử sang làm cố vấn cho Đảng cộng sản Trung Quốc. Tham gia cuộc Trường chinh. Chỉ huy Tiền quân thứ nhất, chủ trương đánh trực diện quân đội Tưởng Giới Thạch và thất bại nặng nề, gây tổn thất rất lớn cho Hồng quân. Nhờ thất bại này, tại Hội nghị Tuân Nghĩa, Mao Trạch Đông đã loại trừ được các đối thủ của mình và từ đó nắm ĐCSTQ. Xem Wikipedia (chú thích của Diễn Đàn).

1 Một chức vụ mà Việt Nam không có chức tương ứng.

2 Ý chỉ thắng lợi.

3 Ý chỉ thất bại.



Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:33:48 am
QUYẾT SÁCH TRỌNG ĐẠI: TRUNG QUỐC VIỆN TRỢ VIỆT NAM CHỐNG PHÁP
Trương Quảng Hoa

Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc yêu cầu viện trợ

 
Một buổi chiều hạ tuần tháng 1/1950, trên đường đất gồ ghề ở huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng, Việt Nam, có một ông già, thân hình gầy gò, đầu quấn khăn mặt đi đến cửa Thủy Khẩu, Long Châu – Quảng Tây, Trung Quốc. Ông già đó chính là Hồ Chí Minh, Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương). Cùng đi với Hồ Chí Minh có Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phụ trách công tác hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam và năm, sáu trợ lý.

Chuyến đi này của Hồ Chí Minh hoàn toàn bí mật, ngay cả lãnh đạo Trung ương Đảng Việt Nam cũng chỉ có số ít người biết.

Hồ Chí Minh vừa chủ trì triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (*), khi phân tích tình hình đấu tranh trước mắt, toàn thể hội nghị nhất trí cho rằng : “ Thiếu quân chính quy, thiếu binh chủng và vũ khí hạng nặng công kiên, đánh thành, thiếu phương tiện thông tin nhanh, thiếu cán bộ thực sự hiểu được thao lược chỉ huy vận động chiến ” là vấn đề lớn nhất đặt ra trước mắt cuộc chiến tranh chống Pháp lúc bấy giờ. Vì vậy hội nghị nêu rõ, cần phải gấp rút đào tạo và xây dựng quân đội nhân dân, xây dựng bộ đội chủ lực thích ứng với tình hình đấu tranh mới. Mục đích chuyến thăm Trung Quốc lần này của Hồ Chí Minh là thông báo tình hình đấu tranh chống Pháp của Việt Nam với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ Trung Quốc giúp xây dựng quân đội và cử nhân viên quân sự viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam.

Hồ Chí Minh rất quen thuộc cửa Thủy Khẩu. Trước kia, Người đã nhiều lần vào ra nơi đây vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam, bây giờ nước Trung Quốc mới đã ra đời, lại đến đây, cảm nghĩ trong lòng khác xa ngày trước.

Theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, một số đồng chí phụ trách Ban bảo vệ quân khu Quảng Tây dẫn đầu ba mươi cán bộ chiến sĩ quân giải phóng đã sớm chờ đón Hồ Chí Minh ở đây.

Hồ Chí Minh từ từ đi tới, các đồng chí Trung Quốc lập tức ùa ra đón.

Hồ Chí Minh nói : “ Cám ơn, cám ơn ! Nơi đây bây giờ là cửa khẩu biên giới hữu nghị của nhân dân hai nước Trung – Việt, trước đây mỗi lần qua đây tôi phải thăm dò cẩn thận, thấp thỏm lo sợ, còn bây giờ thì hoàn toàn khác ”. Hồ Chí Minh đầu quấn khăn mặt trắng, hóa trang thành thương binh đi bộ đến Trung Quốc. Người đi dép cỏ, mặc quần áo vải, khuôn mặt gầy, lộ vẻ mệt nhỏ. Xuất phát từ Thái Nguyên, hơn mười ngày hành quân làm sao ông già 60 tuổi này không mệt ? Hồ Chí Minh nghỉ lại một đêm ở Long Châu – Quảng Tây, ngày hôm sau đến Nam Ninh, nghỉ ở khách sạn Kim Sơn, đường Dân Sinh.

Bí thư tỉnh ủy và chủ tịch tỉnh Quảng Tây, Trương Vân Dật tối hôm đó mở tiệc chào mừng Hồ Chí Minh và các vị khách Việt Nam. Trương Vân Dật nói với Hồ Chí Minh : “ Hiện nay Quảng Tây vừa mới giải phóng, thổ phỉ đặc vụ hoạt động rất điên cuồng, sản xuất công nông nghiệp đang chờ khôi phục, cải cách ruộng đất chưa bắt đầu, chúng tôi nhất định nỗ lực làm việc khiến Quảng Tây trở thành hậu phương vững chắc đáu tranh chống Pháp của Việt Nam ”. Lúc bấy giờ đường sắt Quảng Tây – Hồ Nam chỉ thông xe đến Lai Tân, Đông bắc Nam Ninh, đoàn Hồ Chí Minh phải đi ôtô từ Nam Ninh đến Lai Tân, rồi từ đó đáp xe lửa đi Bắc Kinh.

Trong mấy chục năm qua, hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh nhiều lúc tiến hành ở Trung Quốc. Trên đường lên Bắc Kinh, lòng Người xúc động, suy nghĩ miên man, những chuyện cũ cứ tầng tấng lớp lớp hiện lên.

    *      Năm 1924, Hồ Chí Minh từ Moskva đến Quảng Châu – Trung Quốc, Người ở đó cùng làm việc với những người cộng sản Trung Quốc cho đến năm 1927. “ Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí hội ”, tổ chức cách mạng đầu tiên lấy lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin làm chủ đạo, là do Người thành lập tại Quảng Châu.
    *      Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập tại Hồng Kông. Lúc đó, Người nhiều lần từ Hồng Kông đến Thượng Hải hoạt động cách mạng. Mùa thu 1938, Hồ Chí Minh từ Liên Xô đến Diên An, tăng cường liên hệ với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó từ Diên An đến văn phòng Bát lộ quân Quế Lâm, từ đó qua lại các nơi như Quý Dương, Trùng Khánh v.v..
    *      Tháng 2/1940, Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác của Ban hải ngoại Đảng Cộng sản Việt Nam tại Côn Minh, tháng 5 năm đó, Hồ Chí Minh gặp Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tại Côn Minh, theo đề nghị của Người, Ban hải ngoại nhận hai người Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp vào Đảng.
    *      Tháng 10/1940, Hồ Chí Minh từ Côn Minh đến Quế Lâm, ở đó thành lập “ Văn phòng Việt Nam độc lập Đồng minh hội ”, chẳng bao lâu sau lại thành lập “ Hội Đồng chí công tác văn hóa Trung – Việt ”.
    *      Tháng 8/1942, Hồ Chí Minh không may bị chính quyền địa phương Quốc dân đảng bắt tại huyện Đức Báo – Quảng Tây, giải qua nhiều nhà giam chịu mọi sự dày vò, đày đọa. Sau đó được hai đảng Trung – Việt, Hội Hoa kiều tại Việt Nam và cả nhân sĩ tiến bộ Quốc dân đảng tìm nhiều cách cứu thoát nên mới được trả tự do vào ngày 10/9/1943.
    *      Tháng 3/1945, vào giờ phút thắng lợi của các nước đồng minh, quân Pháp ở Đông Dương buộc phải đầu hàng quân Nhật. Hồ Chí Minh từ Côn Minh về nước, nhanh chóng triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng, quyết định tổng khởi nghĩa vũ trang và đọc “ Tuyên ngôn độc lập: Tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ”.

Trong mấy năm, Hồ Chí Minh đã thành lập một lực lượng vũ trang khoảng 10 vạn người, nhưng do tố chất quân chính yếu kém, trang bị lạc hậu, khó đối phó với những cuộc tấn công của quân xâm lược đế quốc Pháp đang quay trở lại.



Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:34:52 am
Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Viện trợ Việt Nam là trách nhiệm chúng tôi, phải làm tròn ”

 
Cuối tháng 1/1950, Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh. Lúc đó Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang thăm Moskva, Lưu Thiếu Kỳ chủ trì công tác hằng ngày của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Tối hôm đó, Lưu Thiếu Kỳ mở tiệc chào mừng long trọng tại Trung Nam Hải. Các vị lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chu Đức, Đồng Tất Vũ, Lưu Bá Thừa, Nhiếp Vinh Trăn, Lý Duy Hán v.v.. đến dự. Phía Việt Nam có Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Hoan v.v...

Trong bữa tiệc, khi Lưu Thiếu Kỳ nói đến Hồ Chí Minh tổ chức lớp huấn luyện chính trị Việt Nam ở Quảng Châu năm 1925 đến năm 1926, hỏi thăm thân thiết các đồng chí dự lớp huấn luyện năm ấy hiện nay còn những ai, Hồ Chí Minh nói Hoàng Văn Hoan có mặt hôm nay là một trong số người đó, không ít đồng chí đã hy sinh trong đấu tranh cách mạng.

Lần này, Hoàng Văn Hoan sẽ tạm thời ở lại Trung Quốc, sau khi đi vòng vèo đến Trung Quốc dự hội nghị công đoàn khu vực Á – Úc. Hồ Chí Minh nhớ lại nói một cách thắm thiết : “ Lúc đó khi tổ chức lớp huấn luyện ở Quảng Châu, Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi, Bành Bái, Lý Phú Xuân, Đại Anh và một số đồng chí lãnh đạo cuộc bãi công lớn của tỉnh và Hồng Kông đều lên lớp giảng bài cho chúng tôi, đồng chí Thiếu Kỳ cũng là một trong những thày giảng bài của lớp huấn luyện. Chúng tôi rất biết ơn các đồng chí Trung Quốc quan tâm và giúp đỡ sự nghiệp cách mạng Việt Nam ”.

Hoàng Văn Hoan nói : “ Tôi là học viên khóa 3 của lớp huấn luyện, lúc đó học ở phố Nhân Hưng – Quảng Châu. Thông qua giảng dạy của các đồng chí Trung Quốc, chúng tôi học được rất nhiều kinh nghiệm quý báu trong cách mạng vô sản Trung Quốc ”. Nói đến đây, Hoàng Văn Hoan xúc động đứng lên nâng cốc, thay mặt các học viên lớp huấn luyện chúc rượu Lưu Thiếu Kỳ. Cốc rượu đó làm cho Hoàng Văn Hoan phấn chấn, đồng chí nói tiếp : “ Lúc đó, những người cách mạng hai đảng Trung – Việt chí đồng đạo hợp, thân như anh em. Lớp huấn luyện chính trị lúc bấy giờ không có nhà ăn, hằng ngày chúng tôi sang bên lớp tập huấn phong trào nông dân Trung Quốc ăn cơm, thường cùng các đồng chí Trung Quốc hát bài ca cách mạng 'đánh đổ đế quốc, diệt trừ quân phiệt, trừ diệt quân phiệt' v.v...”

Theo sự sắp xếp của Lưu Thiếu Kỳ, ngoài đồng chí Lưu Thiếu Kỳ, còn có các đồng chí Chu Đức, Nhiếp Vinh Trăn, Lý Duy Hán, Liêu Thừa Chí v.v.. tham gia hội đàm với các đồng chí Việt Nam v.v... Hồ Chí Minh nói : “ Chúng tôi rất phấn khởi chào đón thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, thắng lợi của các đồng chí đã nâng cao niềm tin thắng lợi của chúng tôi, cung cấp rất nhiều kinh nghiệm quý báu cho chúng tôi. Chúng tôi hi vọng và yêu cầu các đồng chí Trung Quốc giúp đỡ chúng tôi huấn luyện bộ đội, xây dựng một quân đội nhân dân Việt Nam có sức chiến đấu tương đối mạnh; giúp chúng tôi chỉ huy tác chiến và chi viện cho chúng tôi về vật lực ”.

Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Tình hình quốc tế hiện nay rất có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam. Trung Quốc đã quyết định công nhận Việt Nam và trao đổi với Liên Xô, đề nghị họ công nhận, khiến Việt Nam có vị thế quốc tế. Đảng chúng tôi cho rằng, viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam là trách nhiệm quốc tế mà Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc phải làm tròn. Trung Quốc vừa mới giải phóng, mọi việc đều phải làm từ đầu, còn nhiệm vụ nặng nề như quét sạch bọn thổ phỉ đặc vụ, khôi phục kinh tế, cải cách ruộng đất v.v.., nhưng chúng tôi quyết tâm chi viện cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, việc này sau khi Mao Chủ tịch và đồng chí Chu Ân Lai về nước, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ nghiêm chỉnh nghiên cứu nội dung và phương pháp viện trợ, chúng tôi sẽ xác định cụ thể theo yêu cầu của các đồng chí ”.

Hồ Chí Minh biết rằng, đối với việc lớn như thế này mà Lưu Thiếu Kỳ có thể xác định thái độ rõ ràng như vậy cho thấy lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã sớm suy nghĩ về vấn đề này. Hồ Chí Minh còn nói với Lưu Thiếu Kỳ ông chuẩn bị sớm đi Liên Xô để gặp Trung ương Đảng Cộng sản liên Xô, gặp Stalin, yêu cầu Đảng và Chính phủ Liên Xô viện trợ. Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đều ở Moskva, đến Liên Xô vào đúng lúc này có thể cùng trao đổi bàn bạc với các đồng chí đó. Hồ Chí Minh muốn Trung Quốc nhanh chóng sắp xếp liên hệ việc đồng chí đi Liên Xô”.

Lưu Thiếu Kỳ lập tức báo cáo Mao Trạch Đông về yêu cầu của Hồ Chí Minh đi Liên Xô và truyền đạt đến Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô; lãnh đạo hai nước Trung – Xô đều đồng ý Hồ Chí Minh đến Moskva.

Được biết Hồ Chí Minh sẽ đến thăm Liên Xô sớm, ngày 1-2 Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đã gửi điện cho Lưu Thiếu Kỳ và yêu cầu báo cho Hồ Chí Minh : Hai nước Trung – Việt đã công nhận lẫn nhau và sắp thiết lập quan hệ ngoại giao, Liên Xô đã công nhận Việt Nam, các nước dân chủ mới khác dự tính cũng có thể công nhận (công hàm của Việt Nam yêu cầu các nước công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao, Đại sứ quán Trung Quốc tại Liên Xô đã chuyển đến sứ quán các nước dân chủ mới tại Liên Xô). Chúng tôi chúc mừng thắm thiết Việt Nam gia nhập đại gia đình dân chủ chống đế quốc do Liên Xô đứng đầu.
 


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:35:32 am
Stalin nói viện trợ Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách

 
Ngay tối hôm 6/2 Hồ Chí Minh đến Moskva, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô mở tiệc hoan nghênh. Stalin không đến dự. Mao Trạch Đông rất rõ tâm trạng của Stalin lúc này, Stalin lo lắng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc, là Tito thứ hai (**). Trong một lần trao đổi với Stalin, Mao Trạch Đông kiên nhẫn nói rõ, Hồ Chí Minh là nhà cách mạng mác xít của Việt Nam rất được nhân dân Việt Nam ủng hộ và yêu mến, là lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, đồng chí Stalin nên sớm gặp đồng chí Hồ Chí Minh, hỏi đồng chí ấy có yêu cầu và suy nghĩ gì không.

Stalin nói : “ Đồng chí Hồ Chí Minh yêu cầu Liên Xô trực tiếp cung cấp viện trợ cho Việt Nam, giúp họ đánh người Pháp, đối với vấn đề này, chúng tôi còn có suy nghĩ hơi khác ”. Không để cho Mao Trạch Đông nói gì thì Stalin nói tiếp : “ Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc chứng minh Trung Quốc đã trở thành trung tâm cách mạng của Châu Á, chúng tôi cho rằng, công tác chi viện và giúp đỡ Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc gánh vác thì tốt ”.

Mao Trạch Đông nói : “ Việt Nam chủ yếu cần vũ khí đạn dược, cũng cần có vật tư quân sự khác, Trung Quốc không chắc chắn thỏa mãn mọi nhu cầu của họ, tất nhiên họ hy vọng Liên Xô cũng viện trợ ”.

Stalin ngẩng đầu nhìn Mao Trạch Đông, tiếp tục nói ý kiến của mình : “ Trung Quốc và Việt Nam địa lý gần nhau, liên hệ tương đối nhiều, để Trung Quốc giúp Việt Nam tương đối thuận tiện. Viện trợ xây dựng kinh tế Trung Quốc là nhiệm vụ quan trọng của Liên Xô. Chúng tôi đã đánh xong chiến tranh thế giới, số lớn trang bị vũ khí không dùng hết, có thể chuyển chúng sang Trung Quốc, có những cái Việt Nam dùng được thì tất nhiên các đồng chí có thể chuyển một ít đến đó ”. Stalin lo sợ dẫn đến tranh chấp quốc tế, điều này đối với Mao Trạch Đông lãnh đạo cách mạng Trung Quốc mà nói thì đã được lãnh giáo rồi. Trước đó chẳng bao lâu, Lưu Thiếu Kỳ bí mật thăm Liên Xô, Stalin nhiều lần nhấn mạnh phải “phân công quốc tế”. Mao Trạch Đông không bày tỏ ý kiến bất đồng việc này nữa.

Một ngày thượng tuần tháng 2, Stalin cuối cùng tiếp Hồ Chí Minh ở văn phòng làm việc của mình. Malenkov, Molotov, Bunganin trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, Trần Đăng Ninh – Việt Nam và Vương Gia Tường – Đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô v.v... đã tham gia hội đàm lần đó. Stalin nói : “ Chúng ta là bạn bè và anh em thân thiết ”. “ Gặp các đồng chí hơi muộn, mong thông cảm ”.

“ Không dám, không dám ”, Hồ Chí Minh nói, chúng tôi rất phấn khởi, cũng rất cảm động được đồng chí Stalin nhiệt tình đón tiếp, nghe chúng tôi hội báo tình hình. Hồ Chí Minh theo dự kiến từ trước, trình bày tóm tắt với Stalin tình hình cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, tình hình chiến tranh chống Pháp hiện nay và kiến nghị, yêu cầu viện trợ.

Sau khi nói xong, Hồ Chí Minh nhìn Stalin. Trong ánh mắt của Người có thể thấy rõ niềm hy vọng và chờ đợi. “ Chúng tôi rất cám ơn những giới thiệu của đồng chí Hồ Chí Minh ”. Stalin xưa nay nói chậm rãi thong thả, nhưng đã nhanh chóng đi vào nội dung thực chất. “ Đảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô hoàn toàn nên viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của các đồng chí. Song, chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung Quốc, công việc viện trợ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách thích hợp hơn ”. Stalin nói : “ Trung Quốc ở sát Việt Nam, hiểu rõ tình hình Việt Nam hơn chúng tôi, kinh nghiệm đấu tranh của Trung Quốc càng có tác dụng làm gương đối với Việt Nam, giúp các đồng chí sẽ thuận tiện hơn ”.

Theo dòng suy nghĩ của mình, Stalin tiếp tục phát biểu quan điểm của đồng chí : “ Đánh bại người Pháp, chi viện của nước ngoài là cần thiết, điều quan trọng hơn vẫn là phải làm tốt công tác mọi mặt trong nước. Phát động quần chúng, thật sự động viên và tổ chức đông đảo quần chúng là điều then chốt để đánh bại người Pháp ”. Stalin hầu như rất không hài lòng : “ Phát động quần chúng, dắt dẫn quần chúng chiến thắng kẻ thù, thì cần phải mang lợi ích thực tế cho quần chúng, làm cho quần chúng phấn đấu bảo vệ lợi ích của mình. Làm tốt việc này, sẽ đẩy nhanh tiến trình đánh bại người Pháp ”.

Hồ Chí Minh nói : “ Chúng tôi đã từng suy nghĩ việc này, do nhiệm vụ đấu tranh quân sự nặng nề, chưa hạ quyết tâm làm ”. “ Xem ra điều then chốt là chúng tôi không thực sự làm rõ mối quan hệ giữa cải cách ruộng đất và chiến tranh chống Pháp, cũng không hoàn toàn nhận thức mối quan hệ giữa cải cách ruộng đất và chiến tranh chống Pháp, cũng không hoàn toàn nhận thức mối quan hệ giữa cải cách ruộng đất và phát động quần chúng. Đảng chúng tôi sẽ nhanh chóng nghiên cứu và bắt tay làm việc này ”.

Cuộc hội đàm giữa hai Đảng Liên Xô và Việt Nam kết thúc. Hồ Chí Minh biết, công tác viện trợ từ nay về sau sẽ chủ yếu do Trung Quốc gánh vác. Hồ Chí Minh rất tán thưởng dùng biện pháp như “ Hiệp ước tương trợ đồng minh hữu nghị Trung – Xô ” để xác định rõ và củng cố hơn nữa mối quan hệ giữa các nước anh em xã hội chủ nghĩa, tin chắc đó là một nguồn sức mạnh to lớn. Hồ Chí Minh rất muốn giữa Việt Nam và Liên Xô cũng có một hiệp ước tương tự và tìm cơ hội nêu vấn đề này với Đảng Cộng sản Liên Xô.

Ngày 16/2, chính phủ Liên Xô tổ chức chiêu đãi trọng thể Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và toàn thể đoàn viên đại biểu Trung Quốc tại điện Kremli. Những người phụ trách đảng chính quyền quân đội Liên Xô hầu hết đều tham gia, Hồ Chí Minh và các đồng chí Việt Nam cũng được mời đến dự. Stalin rất vui, trong bữa tiệc luôn luôn trò chuyện với khách. Hồ Chí Minh nắm lấy thời cơ này, mỉm cười hỏi Stalin : “ Đồng chí còn có chỉ thị gì nữa đối với công tác của Việt Nam chúng tôi không ? ”. Stalin cười : “ Tôi làm sao có thể chỉ thị cho đồng chí, đồng chí là Chủ tịch nước, quan còn to hơn tôi mà ! ”.

Hồ Chí Minh lại nói : “ Các đồng chí đã ký hiệp ước với Trung Quốc, nhân tôi ở đây, chúng tôi cũng muốn ký một hiệp ước ! ”. Stalin nói : “ Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra ? Chúng tôi giải thích như thế nào ! ”

Hồ Chí Minh nói : “ Điều đó rất dễ, đồng chí cho chiếc máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao ? ”.

Stalin cười lớn nói : “ Đó quả là sức tưởng tượng đặc biệt của người phương Đông các anh ”.

Rất nhiều người dự tiệc cũng đều cười vang lên.
 


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:36:49 am
Mao Trạch Đông nói  “ Trung Quốc chỉ có thể cử sang Việt Nam cố vấn vườn ”

 
Chiều 17/2, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai lên tàu hỏa về Bắc Kinh. Molotov và 1 số người lãnh đạo Liên Xô ra ga tiễn, tổ chức lễ tiễn đưa tại sân ga. Mao Trạch Đông phát biểu lời từ biệt, Hồ Chí Minh bí mật thăm Liên Xô nên yên lặng ngồi trong toa xe. Sau khi lên đường về nước, Mao Trạch Đông quyết định cứ đến mỗi ga lớn đều xuống xem xem, tìm hiểu tình hình các nơi dọc tuyến đường sắt. Hồ Chí Minh rất tán thành sắp xếp của Mao Trạch Đông.

    *      Ở Sverdlovsk, họ tham quan một nhà máy chế tạo cơ khí và trường đại học Sverdlovsk.
    *      Ở Omsk, sau khi dạo chợ, tham quan nhà máy chế tạo công cụ cơ khí, Mao Trạch Đông nhìn thấy một bộ phận sản phẩm của nhà máy này đang đóng thùng xuất xưởng, tiếp tục chở sang Trung Quốc.
    *      Ở Tân Siberi, tham quan hai nhà máy quân dụng, xem đoạn phim “Hoàng từ Igor” trong vũ kịch ba lê.
    *      Ở Krasnoyark, tham quan nhà máy sản xuất máy gặt liên hợp tự động, đi xem ca múa của Nga.
    *      Ở Irkutsk đi xem thành phố, tham quan nhà máy đóng gói chè. Chè của nhà máy này đều nhập khẩu từ Trung Quốc.
    *      Ở Chita, tham quan vườn trẻ. Hồ Chí Minh đặc biệt yêu thích trẻ em, các cháu ca múa làm cho đồng chí rất vui sướng.

Đoàn tàu tiếp tục tiến về phương Đông, đến ga cuối cùng của Liên Xô là ga Oterbur. Hồ Chí Minh ngắm nhìn ra cửa sổ, nơi chân trời xa dãy núi chập chùng, quanh năm tuyết phủ đỉnh núi, ruộng đồng hai bên đường sát cũng có màu trắng xóa. Người nheo đôi mắt, suy ngẫm cuộc hành trình Liên Xô và những điều nghe thấy trên đường... Stalin nói, công tác viện trợ cho Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách, nhưng Trung Quốc sẽ cung cấp viện trợ quân sự gì ? Liệu Trung Quốc có cử cố vấn quân sự cho Việt Nam không ?

Hồ Chí Minh quyết định hỏi rõ Mao Trạch Đông, nên đi đến toa xe của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh nói ngay bằng tiếng Trung Quốc : “ Mao Chủ tịch, Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc ”.

Mao Trạch Đông ngắm nhìn Hồ Chí Minh thân thiết và hữu nghị : “ Chúng ta là đảng anh em, lại là láng giềng ! Về vật tư quân sự, cố gắng hết sức viện trợ cho các đồng chí là điều phải làm; tất nhiên đó là ý kiến của cá nhân tôi, còn phải do Trung ương quyết định ”.

Mao Trạch Đông cảm thấy nên nói lại cho rõ tình hình của Trung Quốc : “ Tất nhiên các đồng chí cũng đã rõ, công nghiệp quân sự của Trung Quốc cực kỳ lạc hậu, lực lượng của chúng tôi rất có hạn, quân giải phóng đánh bại Tưởng Giới Thạch chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ và ủng hộ của quần chúng nhân dân. Trang bị vũ khí của quân giải phóng nhân dân tuyệt đại bộ phận là do đại đội trưởng vận tải Tưởng Giới Thạch chở đến, ngay cả một phiếu vay, chúng tôi cũng không viết cho ông ta ”.

Hồ Chí Minh nói: “trang bị vũ khí của người Pháp rất tốt, nhưng chúng tôi thu được rất ít”, “từ nay về sau chúng tôi phải học tập thật tốt kinh nghiệm của các đồng chí, nhưng quân đội nhân dân chúng tôi trang bị lạc hậu, rất ít được huấn luyện, càng thiếu cán bộ chỉ huy thật sự hiểu được chiến lược, chiến thuật. Vì vậy chúng tôi còn muốn yêu cầu Trung Quốc cử cố vấn quân sự các cấp quân đoàn, đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, giúp chúng tôi huấn luyện bộ đội, xây dựng bộ đội và chỉ huy tác chiến. Đồng thời, tôi còn muốn, nếu Trung Quốc còn có thể cử ....”.

Mao Trạch Đông im lặng một lát : “ Hồ Chí Minh ơi ! Có những vấn đề phải căn cứ vào tình hình mọi mặt sau này để tính kế lâu dài và suy xét, tạm thời có thể không bàn được không. Về việc cử cố vấn quân sự sang Việt Nam, cũng như viện trợ vật tư quân sự, tôi tán thành. Đồng chí bảo đồng chí Võ Nguyên Giáp đưa ra phương án cụ thể. Sau khi chúng tôi về Bắc Kinh, Trung ương cũng phải nghiên cứu cụ thể để đưa ra quyết định chính thức ”. Mao Trạch Đông nói : “ Song tôi cũng phải nói rõ cán bộ chúng tôi cử sang là những cố vấn vườn ”.

Sau khi về đến Bắc Kinh, Hồ Chí Minh nêu ra với Chính phủ Trung Quốc, bổ nhiệm Hoàng Văn Hoan làm đại diện của Chính phủ và Đảng Việt Nam tại Trung Quốc (về sau đổi lại là Đại sứ), Mao Trạch Đông đồng ý.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:39:14 am
Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc bí mật sang Việt Nam

 
Ngày 9/3/1950, đại diện liên lạc Đảng ta La Quý Ba, đến Việt Bắc, nơi ở của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí và lãnh đạo Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp sau khi nghiên cứu nhất trí cho rằng việc đầu tiên cần làm trước mắt là khai thông giao thông biên giới Trung – Việt, để bảo đảm vật tư viện trợ Việt Nam có thể vận chuyển sang Việt Nam thuận lợi; vì vậy, cần phải tác chiến ở vùng Cao Bằng, Lào Cai miền bắc Việt Nam. Ngày 19/3 La Quý Ba điện báo Trung ương Đảng Trung Quốc: Phía Việt Nam định tổ chức chiến đấu ở khu vực Cao Bằng, Lào Cai, tiêu diệt quân địch ở đây và yêu cầu Trung Quốc lựa chọn điều động một số cán bộ quân đoàn, đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, làm cố vấn cho quân đội Việt Nam.

Sau khi nhận được báo cáo của La Quý Ba, các đồng chí lãnh đạo Trung ương, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ đã trao đổi rất rất nhanh, nhất trí cho rằng nên thỏa mãn yêu cầu của Việt Nam, nhanh chóng tổ chức vật tư quân sự viện trợ Việt Nam, trù tính tổ chức đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam.

Mao Trạch Đông nói tại cuộc họp : “ Chúng ta viện trợ Việt Nam là hoàn toàn không hoàn lại, không có bất cứ điều kiện gì. Tôi thấy hễ là nhu cầu thực tế của Việt Nam, chúng ta lại có thì hết sức cung cấp, phải cung cấp vật tư, cũng phải cử cố vấn quân sự ”.

Quân ủy Trung ương căn cứ vào quyết định của Trung ương, rất nhanh xác định Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn cố vấn quân sự. Lưu Thiếu Kỳ viết một bức thư, muốn Vi Quốc Thanh mang thư đi tìm lãnh đạo các Dã chiến quân, nhờ họ chọn cử cán bộ cho đoàn cố vấn quân sự.

Vi Quốc Thanh mang thư của Lưu Thiếu Kỳ tìm đến Đặng Tiểu Bình trước tiên : “ Đặng Chính ủy, Trung ương quyết định cử tôi đi Việt Nam công tác ở đoàn cố vấn quân sự, Lưu Thiếu Kỳ muốn tôi báo cáo với các đồng chí, nhờ Dã chiến quân 2 lựa chọn điều động một số cố vấn cho đoàn cố vấn ”.

Khi khởi nghĩa Bách Sắc năm ấy, Vi Quốc Thanh còn là một chàng trai trẻ, Đặng Tiểu Bình bóc thư cấp dưới của mình ra xem, mỉm cười nói : “ Thế này nhé, chúng tôi đều họp ở đây, đồng chí đi tìm từng người rất vất vả, chúng ta cùng đi gặp họ trao đổi thử xem ”.

Đặng Tiểu Bình và Vi Quốc Thanh cùng đến chỗ ở của Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình nói với Lâm Bưu : “ Trung ương quyết định cử đoàn cố vấn quân sự đi Việt Nam, Vi Quốc Thanh đến nhờ các Dã chiến quân chúng ta chọn điều động cán bộ, đồng chí Thiếu Kỳ còn có thư, chúng ta cùng đến chỗ Bành Đức Hoài bàn bạc xem sao ? ”. Lâm Bưu đồng ý, cùng đến chỗ ở của Bành Đức Hoài.

Sau khi Bành Đức Hoài và Lâm Bưu lần lượt xem thư của Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài phấn khởi nói : “ Hiện nay chiến tranh trong nước cơ bản đã chấm dứt, các đồng chí cần cán bộ gì thì cung cấp cán bộ nấy, cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu, chúng tôi dốc toàn lực ủng hộ. Đồng chí cần bao nhiều người nói đi ”.

Vi Quốc Thanh nói : “ Hiện nay Việt Nam thành lập 3 đại đoàn (sư đoàn), có đại đoàn vừa mới thành lập sau khi La Quý Ba đến Việt Nam. Ý kiến của phía Việt Nam là ngoài cơ quan Bộ Tổng tham mưu ra, bước thứ nhất phải chọn cử cố vấn các cấp của ba sư sang Việt Nam ”.

Lâm Bưu cũng tỏ thái độ ngay, nói : “ Tôi hoàn toàn ủng hộ quyết định của Trung ương, cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu, quyết không giảm bớt, mà còn phải chọn, điều động cho tốt cán bộ cử đi ”.

Đặng Tiểu Bình nói : “ Tôi thấy cố vấn của ba đại đoàn do Trung ương quyết định phân phối ! Để công tác thuận tiện, những người trong Ban chỉ huy đoàn cố vấn quân sự do Dã chiến quân số 3 của đồng chí lựa chọn điều động có được không ? ”.

Vi Quốc Thanh nói : “ Như thế cũng được, tôi báo cáo lại đồng chí Thiếu Kỳ ”.

Sáng hôm sau, Vi Quốc Thanh vội đến Trung Nam Hải báo cáo với Lưu Thiếu Kỳ.

Lưu Thiếu Kỳ nó i: “ Ý kiến của đồng chí Đặng Tiểu Bình rất hay, nhân viên do Dã chiến quân 3 điều động, có 3 đại đoàn còn có cố vấn cho một trường, cần ra thông tri nói rõ sự phân phối, cho các Dã chiến quân biết ”.

Vi Quốc Thanh nói: “ Liệu có nên để các Dã chiến quân 2, 3, 4 lựa chọn điều động cố vấn các cấp cho mỗi một đại đoàn, cố vấn và giáo viên của trường quân chính do Dã chiến quân số 4 lựa chọn điều động ! ”.

Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Như thế là được đấy. Dã chiến quân 1 ở vùng Tây Bắc, nhiệm vụ cũng rất gian khổ phức tạp, người lại ít, lần này miễn cho họ ! Đồng chí, suy nghĩ rồi báo cáo với Nhiếp Vinh Trăn, xem đồng chí ấy còn có ý kiến gì nữa không, rồi đề nghị Trung ương ra thông tri ”.

Ngày 17/4, được Mao Trạch Đông phê duyệt, Quân ủy Trung ương ra thông tri: Mỗi Dã chiến quân số 2, 3, 4 điều động cố vấn các cấp cho một sư từ đại đoàn đến tiểu đoàn, do Dã chiến quân số 3 điều động bố trí nhân viên công tác trong Ban chỉ huy đoàn cố vấn quân sự, tổ chức thành Đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam. Ngoài ra, do Dã chiến quân số 4 điều động bố trí toàn bộ cố vấn giáo viên cho trường cán bộ quân chính quân đội nhân dân Việt Nam.

Trong “thông tri” đã quy định cụ thể sáu điều kiện cần phải có của cán bộ được lựa chọn, điều động như “ hoàn toàn trung thực vững vàng về chính trị, tư tưởng tiến bộ, tính kỷ luật cao, tác phong đứng đắn, có thể đoàn kết cán bộ ”, “ có năng lực nghiệp vụ nhất định và có tri thức xã hội nhất định ”, “ có trình độ văn hóa từ cấp 2 trở lên ”, “ tuổi dưới 40 ” v.v.., còn nhấn mạnh “ đây là một nhiệm vụ chính trị rất nặng nề ”, cần phải lựa chọn nghiêm túc, do các đồng chí phụ trách đại quân khu đích thân thẩm tra và được Trung ương thẩm tra cuối cùng, những người không đạt yêu cầu thì trả về, điều động người khác.

Trước khi Đoàn cố vấn quân sự còn chưa vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã điểm tướng, mời Trần Canh đến trước Việt Nam hỗ trợ hoạch định và tổ chức tác chiến ở vùng biên giới. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đồng ý yêu cầu của Hồ Chí Minh. Ngày 7/7, Trần Canh dẫn đầu nhân viên của Đoàn cố vấn do Dã chiến 2 điều động rời Côn Minh đi Việt Nam.

Sáng ngày 27/6 các lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước: Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức thân mật tiếp hơn 40 nhân viên cố vấn của Bắc Kinh tại Di Niên đường, Trung Nam Hải. Mao Trạch Đông nói : “ Không phải tôi muốn cử các đồng chí sang Việt Nam, mà là Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Trung Quốc yêu cầu chúng ta. Cách mạng chúng ta thắng lợi trước, nên giúp đỡ người ta, giúp họ gọi là chủ nghĩa quốc tế ”. Mao Trạch Đông lại nói : “ Trong lịch sử Trung Quốc ức hiếp Việt Nam ”. Mao Trạch Đông kể tỉ mỉ chuyện triều Hán “ Mã Viện đánh Giao Chỉ ”. Mao Trạch Đông nói : “ Sau khi đến Việt Nam, các đồng chí phải nói với họ, tổ tông xưa chúng tôi ức hiếp các đồng chí, chúng tôi tạ tội xin lỗi các đồng chí và một lòng một dạ giúp đỡ các đồng chí đánh bại bọn thực dân Pháp ”. “ Các đồng chí sang Việt Nam, phải ra quân là thắng lợi ”.

Sau buổi tiếp, ba người Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm bàn bạc công việc của đoàn cố vấn ở Di Niên đường. Vi Quốc Thanh nói : “ Trung ương muốn tôi nắm công việc chung của đoàn cố vấn, tôi đành phải làm theo. Tôi suy nghĩ, Bộ Tư lệnh do đồng chí Mai Gia Sinh chủ trì, đồng chí Mai Gia Sinh làm tham mưu trưởng, công tác chính trị do đồng chí Đặng Dật Phàm phụ trách, tức Chủ nhiệm Ban chính trị ”.

Sau này sang Việt Nam, Mai, Đặng đều là phó đoàn trưởng đoàn cố vấn quân sự, còn các đồng chí trong đoàn cố vấn đều gọi “Mai tham mưu trưởng”, “Đặng chủ nhiệm”. Khi ba người đang trao đổi thì Lưu Thiếu Kỳ bước vào Di Niên đường nói : “ Các đồng chí còn cần ai nữa cứ nêu ra, sau đó chúng tôi phê chuẩn là được. Các đồng chí còn có vấn đề gì khó khăn cũng có thể nêu lên ”.

Vi Quốc Thanh nói : “ Trung ương đã sắp xếp cho chúng tôi rất chu đáo, đồng ý cấp phát ngoại lệ bút, giầy da, đồng hồ cho mỗi đồng chí, còn sẵn sàng sắp xếp chu đáo cho gia đình chúng tôi, mọi người rất hài lòng ”.

Sau khi đoàn cố vấn đến Nam Ninh, Chủ tịch, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Quảng Tây – Trương Vân Dật nhìn thấy Vi Quốc Thanh trưởng thành từ quân đoàn 7 hồng quân khi mình lãnh đạo khởi nghĩa Bách Sắc tháng 12/1929, làm trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, vô cùng phấn khởi và theo yêu cầu của Vi Quốc Thanh, đọc một bài phát biểu quan trọng trước toàn thể các đồng chí trong đoàn cố vấn quân sự, giúp Vi Quốc Thanh làm công tác động viên tư tưởng rất có tác dụng.
trancanh

Từ trái sang phải : Trường Chinh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, La Quý Ba. Nguồn : QGP Trung Quốc

Trước khi đoàn cố vấn ra nước ngoài, đã chế định : “ Quy tắc công tác của đoàn cố vấn quân sự ”, làm cho mọi người có chuẩn tắc và yêu cầu rõ ràng trong công tác và hành động từ nay về sau, thành lập đảng ủy đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh làm Bí thư, Đặng Dật Phàm làm Phó Bí thư, Mai Gia Sinh, Mã Tây Phu, Lý Văn Nhất, Đặng Thanh Hà v.v.. làm ủy viên.

Ngày 9/8/1950, đoàn cố vấn quân sự từ Nam Ninh lên đường. Trên đường đi qua Điền Đông, Bách Sắc, Tịnh Tây, rạng sáng ngày 12/8 đến vùng Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng, Việt Nam, nơi ở Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch biên giới của quân đội nhân dân Việt Nam, được các đồng chí lãnh đạo quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh nhiệt liệt hoan nghênh.

Trong chiến tranh Việt Nam chống Pháp, Trung Quốc là nước duy nhất viện trợ số lớn quân sự không hoàn lại. Theo tài liệu hữu quan, Trung Quốc viện trợ cho quân đội nhân dân Việt Nam hơn 150.000 khẩu súng, hơn 3.000 khẩu pháo và số lớn đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, thực phẩm phụ và đồ dùng hằng ngày khác như màn, khăn bông, bát tráng men v.v..

Một trong những nhiệm vụ của tôi công tác ở văn phòng đoàn cố vấn quân sự lúc bấy giờ là thống kê, nắm vững tình hình giao nhận vật tư quân sự viện trợ cho Việt Nam và báo cáo với lãnh đạo đoàn cố vấn.

Tôi cảm thấy thấm thía rằng, không có viện trợ số lớn, vô tư của Trung Quốc thì thắng lợi của chiến tranh Việt Nam chống Pháp sẽ không đến nhanh như thế.

Trương Quảng Hoa

(đăng trên Viêm Hoàng xuân thu số 5 năm 1999.
Khi đưa vào cuốn sách này, tác giả có sửa chữa đôi chút.)


(http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-2/trancanh.jpg)
Từ trái sang phải : Trường Chinh, Hồ Chí Minh, Trần Canh, La Quý Ba. Nguồn : QGP Trung Quốc

CHÚ THÍCH của Diễn Đàn :

 
(*) Tác giả nhầm năm tháng. Đại hội dại biểu toàn quốc của ĐCSVN họp một năm sau đó, vào tháng 2 năm 1951.

(**)  Không thích hợp - altus.



Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:45:29 am
ĐỒNG CHÍ VI QUỐC THANH TRONG VIỆN TRỢ VIỆT NAM ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP
Vu Hoá Thầm

Cuộc đời binh mã của Vi Quốc Thanh văn võ song toàn trải qua trăm trận, lập nhiều chiến công. Chiến tranh giải phóng thắng lợi chưa được bao lâu đồng chí vâng lệnh dẫn đầu đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống pháp hỗ trợ Quân đội Nhân dân Việt Nam tác chiến và xây dựng và cống hiến quan trọng trong việc giành thắng lợi của chiến tranh chống Pháp. Có một lần tiếp khách nước ngoài, một đồng chí lãnh đạo Trung ương nói, thời kỳ chiến tranh Việt Nam chống Pháp có hai trận đánh lớn, một là chiến dịch Biên Giới, Trần Canh giúp chỉ huy, hai là chiến dịch Điện Biên Phủ, Vi Quốc Thanh giúp chỉ huy. Bài viết này tường thuật, tóm lược chặng đường đặc biệt đó của Vi Quốc Thanh nhất là vai trò quan trọng của đồng chí trong cuộc quyết chiến Điện Biên Phủ.

(http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-3/weiguoqing.jpeg)
Vi Quốc Thanh

Tổ chức Đoàn sang Việt Nam

Tháng 2/1950, Vi Quốc Thanh đang là chính uỷ binh đoàn số 10 kiêm chủ nhiệm Uỷ ban quân quản thành phố Phúc Châu, nhận được điện của Trung ương gọi đồng chí về Bắc Kinh nhận nhiệm vụ mới. Đồng chí bàn giao xong công tác rất nhanh cùng vợ mới cưới là Hứa Kỳ Thanh vội vàng lên đường. Về đến Bắc Kinh mới biết là cấp trên cần đồng chí chuyển sang công tác ngoại giao. Sau đó, hai người tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngoại giao, nhưng vẫn chưa được giao nhiệm vụ mới. Một ngày thượng tuần tháng 4 vừa xuất viện sau khi mổ ruột thừa, đang ở chiêu đãi sở của Quân uỷ Trung ương, thì Vi Quốc Thanh được Lưu Thiếu Kỳ gọi vào Trung Nam Hải. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương quyết định cử đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam giúp Việt Nam tiến hành chiến tranh chống Pháp. Trưởng đoàn Đoàn cố vấn quân sự này do đồng chí đảm nhiệm ”.

Vi Quốc Thanh lập tức bày tỏ : “ Tôi phục tùng quyết định của Trung ương, có điều là xưa nay tôi chưa làm cố vấn ”. Đồng chí Thiếu Kỳ nói : “ Chúng tôi xem xét thấy đồng chí tương đối thích hợp. Chỉ huy đánh giặc, công tác ở trường quân sự thì khỏi phải nói, tiểu tổ đàm phán đồng chí cũng đã làm rồi, đã giao thiệp với người Mỹ rồi. Đồng chí lại là người Quảng Tây sang Việt Nam công tác có mặt thuận lợi ”. Cuối cùng Lưu Thiếu Kỳ đặc biệt thân thiết dặn dò : “ Đồng chí Quốc Thanh, Mao Chủ tịch rất quan tâm đánh giặc xâm lược Việt Nam, các đồng chí phải làm cho tốt. Có khó khăn gì đồng chí hãy đến tìm chúng tôi, Trung ương phân công tôi phụ trách việc này. Bây giờ phải nhanh chóng tiến hành công tác tổ chức Đoàn cố vấn, điều quan trọng nhất là chọn cán bộ điều động một loạt cán bộ thích hợp với lựa chọn công tác cố vấn. Tôi đã viết cho đồng chí một bức thư, đồng chí cầm thư này đi gặp mấy đồng chí phụ trách Dã chiến quân ở Bắc Kinh, thương lượng trực tiếp với các đồng chí ấy. Cán bộ phải do các đồng chí ấy lựa chọn điều động ”. Lúc này, chiến tranh giải phóng vừa kết thúc, trăm công nghìn việc đang chờ đợi, cán bộ rất thiếu.

Đồng chí Vi Quốc Thanh cầm thư của Lưu Thiếu Kỳ trước tiên tìm gặp đồng chí Đặng Tiểu Bình lúc đó làm chính uỷ Dã chiến quân số 2 ở Bắc Kinh. Đặng Tiểu Bình là thủ trưởng cũ của Vi Quốc Thanh. Vi Quốc Thanh xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo dân tộc Choang ở huyện Đông Lan – Quảng Tây. Sau khi tham gia khởi nghĩa Bách Sắc năm 1929 đồng chí được phân công về Đội súng ngắn quân đoàn Hồng Quân công tác, canh gác cho Quân đoàn trưởng Trương Văn Dật, Chính uỷ Đặng Tiểu Bình. Dưới sự lãnh đạo của hai đồng chí, Hồng quân đánh địa chủ cường hào, chia ruộng đất, xây dựng và phát triển căn cứ địa Hữu Giang, về sau quân đoàn 7 chuyển sang chiến đấu ở 5 tỉnh Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, Giang Tây, trải qua 8 tháng, hành trình hơn 12.000 dặm, đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, đi đến căn cứ địa khu Xô Viết Trung ương. Lần “ trường chinh nhỏ ” này, đấu tranh quyết liệt, gian khổ vô cùng. Chính trong cọ xát chiến đấu khốc liệt này, Vi Quốc Thanh đã trưởng thành là một chiến sĩ Hồng quân kiên cường, trở thành một cán bộ chỉ huy sơ cấp dũng cảm mưu trí của Quân đoàn 7 Hồng quân. Sau này, trong chiến dịch Hoài Hải, Vi Quốc Thanh là người chỉ huy binh đoàn, lại dưới sự lãnh đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch Hoài Hải do Đặng Tiểu Bình làm chính uỷ truy kích chặn viện, rong ruổi khắp nơi, chiến công lừng lẫy.

Gặp Vi Quốc Thanh, Đặng Tiểu Bình hết sức phấn khởi. Sau khi hiểu rõ lý do Vi Quốc Thanh đến tìm, đã nói với Vi Quốc Thanh : “ Nhiệm vụ mà đồng chí nhận vô cùng quan trọng. Cố vấn có thể lựa chọn, điều động từ các Dã chiến quân, nhưng trợ lý của đồng chí và nhân viên công tác của đoàn đều nên do Dã chiến 3 bố trí. Ở trong nước, đoàn trưởng, chính uỷ chúng ta còn có chuyện mất đoàn kết, ở nước ngoài trước trên phải làm tốt đoàn kết nội bộ, nếu không rất bất lợi cho công tác ”. Đặng Tiểu Bình còn nói : “ Để đồng chí chạy khắp nơi, chi bằng mời mấy vị tư lệnh ngồi lại với nhau, đồng chí trình bày trực tiếp tốt hơn ”. Vi Quốc Thanh nghe nói hết sức phấn khởi, đây quả là chuyện gặp may.

Ngày hôm sau, Tiểu Bình trực tiếp mời mấy vị thủ trưởng Dã chiến quân như Bành Đức Hoài ngồi lại với nhau, Vi Quốc Thanh tự tay đưa lá thư của Lưu Thiếu Kỳ và nói rõ việc liên quan đến lựa chọn điều động cố vấn sang Việt Nam. Các đồng chí lãnh đạo đến họp đều nhất trí bày tỏ : “ Chiến tranh trong nước đã kết thúc, hiện nay cử đoàn cố vấn quân sự giúp nước anh em, chống đế quốc xâm lược, thực hành nghĩa vụ quốc tế vô sản nhiệm vụ quan trọng, ý nghĩa to lớn, chúng tôi kiên quyết ủng hộ. Cần cán bộ cấp cán bộ, cần trang bị cấp trang bị, cần gì cấp nấy, cần bao nhiêu cấp bấy nhiêu ”. Vi Quốc Thanh không ngờ việc tổ chức đoàn cố vấn, một vấn đề cực kỳ quan trong này lại được giải quyết thuận lợi như vậy, tất nhiên rất phấn khởi. Đồng chí kính phục từ đáy lòng tinh thần xuất phát từ toàn cục, nhìn xa trông rộng của các đồng chí lãnh đạo, lập tức báo cáo với Lưu Thiếu Kỳ.

Trung tuần tháng 4, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc căn cứ vào yêu cầu số lượng cố vấn ra lệnh cho các Dã chiến quân số 2, 3, 4 về việc lựa chọn điều động cố vấn các cấp và nhân viên công tác của đoàn cố vấn cũng như chuẩn bị vật tư v.v... Quy định mỗi Dã chiến quân nói trên, tuyển chọn điều động đủ số cán bộ làm cố vấn cho đại đoàn (bao gồm ba cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn). Ngoài ra, Dã chiến 3 phụ trách tuyển chọn điều động cố vấn và nhân viên công tác của Ban chỉ huy Đoàn cố vấn.

Đảng uỷ và Thủ trưởng các Dã chiến quân rất coi trọng nhiệm vụ này. Được Túc Dụ đích thân quan tâm, Dã chiến quân 3 xác định lãnh đạo tổng đội số 3 Đại học quân chính Hoa Đông thành lập Ban chỉ huy Đoàn cố vấn. Tổng đội trưởng Mai Gia Sinh đảm nhiệm Tham mưu trưởng Đoàn cố vấn (sau đổi lại là Phó đoàn trưởng). Mai Gia Sinh là một cán bộ có tài văn võ, chiến công xuất sắc, từng giữ chức Tham mưu trưởng lữ đoàn 3 sư 1 Tân Tứ Quân, Phó quân đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng quân đoàn 23 v.v.. Chủ nhiệm Ban chính trị Tổng đội số 3 Lý Văn Nhất làm cố vấn chính trị Ban chỉ huy. Chính uỷ Tổng đội số 3 Đặng Dật Phàm trước định điều về công tác tại Tổng cục Chính trị, đang ở Bắc Kinh chờ lệnh, sau khi Lưu Thiếu Kỳ và La Vinh Hoàn trao đổi, đã tuyển làm chủ nhiệm Ban chính trị Đoàn cố vấn (sau đổi gọi là Phó đoàn trưởng). Đặng Dật Phàm tham gia Hồng quân năm 1930 từng giữ các chức bí thư trưởng Tân Tứ Quân, chủ nhiệm ban chính trị tung đội, Phó chính uỷ quân đoàn v.v.. có kinh nghiệm công tác chính trị phong phú. Trong thời gian ở Việt Nam, Mai, Đặng rất tôn trọng Vi Quốc Thanh ba người đồng tâm hiệp lực, phối hợp chặt chẽ.

Các Dã chiến quân đều rất nhanh tuyển chọn điều động một loạt cán bộ quân sự chính trị hậu cần có kinh nghiệm chiến đấu thực tế và trình độ chính trị nhất định báo cáo lên Quân uỷ Trung ương, trong đó có 59 cán bộ cấp tiểu đoàn trở lên, tất cả có 281 người kể cả thư ký, nhân viên cơ yếu và cảnh vệ v.v...

Ngày 20/5, quân uỷ Trung ương điện cho các cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên dự tính sang Việt Nam làm cố vấn về Bắc Kinh để nghe chỉ thị trực tiếp của các đồng chí lãnh đạo Trung ương. Thượng tuần tháng 6, cán bộ cấp trung đoàn trở lên lần lượt về Bắc Kinh có Mai Gia Sinh, Chu Hạc Vân, Mã Tây Phu, Vu Bộ Huyết, Đậu Kim Ba, Lâm Quân Tài, Trương Hưng Hoa v.v.. Nhưng cho đến ngày 27 tháng 6, tức hai ngày sau nổ ra chiến tranh Triều Tiên, các lãnh đạo chủ chốt của đảng và nhà nước mới từ trong cảnh vô cùng bận rộn thu xếp được thì giờ tiếp thân mật những người trong đoàn cố vấn về Bắc Kinh và có chỉ thị quan trọng.

Sáng hôm đó, Vi Quốc Thanh và hơn 20 cố vấn, thư ký, cơ yếu lên xe đến Di Niên đường trong Phong Trạch Viên Trung Nam Hải. Mọi người nhìn thấy trong kiến trúc kiểu cung điện mang phong cách truyền thống Trung Quốc này bày biện rất đơn giản. Trong phòng kê hai chiếc bàn dài, mấy chục cái ghế đẩu và ghế dài sắp thành nửa hình cánh cung quay về phía bàn. Mọi người chờ đợi một lát, Chu Đức và Lưu Thiếu Kỳ lần lượt bước vào. Sau khi đồng chí Lưu Thiếu Kỳ lên tiếng mời mọi người ngồi xuống, đã đứng lên nói : “ Hôm nay mời các đồng chí đến đây là để nói đến vấn đề các đồng chí sang Việt Nam công tác. Lẽ ra, Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng cũng muốn đến gặp mặt các đồng chí. Nhưng Triều Tiên đã đánh nhau, tình hình rất căng thẳng. Điều đó quan hệ đến vận mệnh của Triều Tiên, cũng quan hệ đến an ninh của đất nước chúng ta, cho nên Trung ương rất quan tâm đến tình hình này, bận lắm. Mấy hôm nay Chủ tịch rất vất vả. Chủ tịch làm việc đêm bây giờ đang ngủ, chúng tôi không đánh thức đồng chí. Chu Thủ tướng đang bận họp, cũng không thể đến được ”.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:45:59 am
Lưu Thiếu Kỳ quay sang nói với Chu Đức Tổng tư lệnh “ Bác nói trước ! ”. đồng chí Chu Đức nói : “ Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ nói trước đi ! ”.

Lưu Thiếu Kỳ tiếp tục nói : “ Trung ương cử các đồng chí sang Việt Nam là chấp hành một nhiệm vụ vô cùng khó khắn. Trung ương ra quyết định này là có lý do quan trọng. Đi thì có phiền phức, nhưng nếu chúng ta không đi giúp Việt Nam, để bọn xâm lược nằm lì ở đó, thì khó khăn của chúng ta sẽ lớn hơn, phiền phức cũng lớn hơn. Hai ngàn năm trước Mã Viện của Trung Quốc, tức là tướng quân Phục Ba đã chinh phục Việt Nam. Còn ngày nay chúng ta sang Việt Nam, thì ý nghĩa hoàn toàn khác. Chúng ta đi giúp người ta giải phóng, là đi giúp nước anh em. Sau khi sang đó các đồng chí, phải giúp Việt Nam xây dựng quân đội chính quy, tiến hành tác chiến chính quy, và nhất định phải tổ chức đánh thắng trận ”.

Lưu Thiếu Kỳ chỉ rõ : “ Thời gian cách mạng Việt Nam thắng lợi sẽ không quá nhanh, tôi thấy cần ba năm chuẩn bị ”.

Đồng chí còn đặc biệt dặn dò : “ Phải chú ý làm tốt đoàn kết với các đồng chí Việt Nam. Chúng ta không làm chủ quản cho họ, chỉ làm cố vấn. Có thể nêu ra nhiều biện pháp để người ta quyết định. Người ta cũng có thể không nghe ý kiến của anh. Nhưng nếu làm tốt quan hệ, thì lời nói của anh sẽ được áp dụng ”. Tiếp đó Chu Đức nói chuyện trước tiên đồng chí nhấn mạnh : “ Chúng ta là những người theo chủ nghĩa quốc tế, có trách nhiệm giúp đỡ Việt Nam. Đây sẽ là một nhiệm vụ lâu dài, gian khổ và phải bảo đảm bí mật. Cần phải coi đây là nhiệm vụ là nhiệm vụ quốc tế lớn lao, không được tiếc bất cứ thứ gì để giúp Việt Nam đến thắng lợi ”.

Chu Đức chỉ ra : “ Về hành động quân sự chúng ta phải thực sự cầu thị không được nóng vội. Nguyên tắc là có con người thế nào đánh thứ ấy. Cần phải biết đánh trận dũng cảm và lại khôn khéo, quan trọng nhất là khôn khéo ”. Chu Đức lại nêu rõ : “ Tự lực cánh sinh là cái gốc của thắng lợi cách mạng nước ta. Dù thế nào chăng nữa cũng phải giúp Việt Nam xây dựng căn cứ địa vững chắc, kiên trì nguyên tắc tự lực cánh sinh. Các đồng chí sang Việt Nam công tác rất gian khổ, phải chuẩn bị tinh thần đó. Người cộng sản chúng ta, phải chịu đựng gian khổ, phải tính đến phấn đấu gian khổ lâu dài ”.

Chu Đức chưa kết thúc bài nói của mình thì đồng chí Mao Trạch Đông chậm rãi bước vào. Mọi người đều đứng dậy vỗ tay. Lưu Thiếu Kỳ ra đón Mao Trạch Đông nói : “ Mấy hôm nay đồng chí rất mệt, muốn để đồng chí ngủ thêm một lát, nên không đánh thức đồng chí ”.

Mao Trạch Đông nói : “ Chà ! Không ngủ được ”. Sau đó đồng chí bắt tay Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, rồi lại lần lượt bắt tay từng người và thân mật hỏi thăm tình hình tên tuổi, chức vụ, tuổi tác v.v...

Lưu Thiếu Kỳ mời Mao Trạch Đông nói chuyện. Mao Trạch Đông nói : “ Các đồng chí đều nói cả rồi còn gì ? Tôi nói nữa sẽ trùng lặp ”. Mọi người đều muốn Mao Chủ tịch cho chỉ thị. Vì thế Mao Chủ tịch bảo mọi người ngồi xuống, bắt đầu nói. Mao Chủ tịch nói : “ Không phải tôi muốn cử các đồng chí đi Việt Nam, mà là Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tôi. Ai bảo cách mạng chúng ta thắng lợi trước, thì phải giúp đỡ người ta, đó gọi là chủ nghĩa quốc tế. Các đồng chí đến Việt Nam, trước hết phải giúp Việt Nam đánh thắng trận. Mở ra được một địa phương để tập trung quân đội, sau đó trận sẽ càng đánh càng lớn. Việc đầu tiên sau khi các đồng chí đến Việt Nam là phải đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam, đặc biệt là phải đoàn kết tốt với lãnh đạo Việt Nam. Phải chú ý không đoàn kết tốt, thì thà đừng làm việc còn hơn ”.

Sau khi kể chuyện lịch sử “ Mã Viện đánh Giao Chỉ ”, Mao Chủ tịch nói : “ Trong lịch sử từ đời Hán trở đi, Trung Quốc đã từng ức hiếp Việt Nam. 80 năm trước chính phủ Mãn Thanh cắt nhượng Việt Nam cho Pháp. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tốt, bị nước ngoài cai trị và áp bức lâu dài, họ căm thù người Pháp, rất nhạy cảm đối với người nước ngoài. Các đồng chí có thể nói với các đồng chí Việt Nam. Tổ tông xưa của chúng tôi đã từng ức hiếp các đồng chí, chúng tôi tạ tội xin lỗi các đồng chí ”.

Mao Chủ tịch nói tiếp : “ Mấy năm gần đây tình hình cách mạng Việt Nam phát triển rất nhanh, thành tích rất tốt. Không nên coi thường người ta. Tôi biết cử các đồng chí đến một nơi gian khổ đối mặt với những nhiệm vụ rất nặng nề. Nếu mắc bệnh sốt rét có thể nguy hiểm, hy sinh. Phải chuẩn bị khác phục nhiều khó khăn, thực tế không chiều theo ý mình đâu. Bao giờ các đồng chí có thể trở về ? Đừng vội. Vân Nam, Quảng Tây có thể làm hậu phương. Các đồng chí đến Việt Nam, có thể thắng lợi dễ dàng, cũng có thể có khó khăn, nhưng cuối cùng nhất định phải thắng lợi. Chúng ta giúp người ta cần phải giúp cho tốt. Trước mặt quần chúng Việt Nam, không được biểu hiện tư tưởng kiêu ngạo chúng ta là người chiến thắng. Người ta đều biết thắng lợi của chúng ta không cần mình phải nói ra. Đối với những khuyết điểm sai lầm của người ta, có thể nói cho họ biết, chúng tôi cũng có thất bại. Giới thiệu nhiều với họ bài học kinh nghiệm, ít nói “ qua năm ải chém sáu tướng ”. Trong quá trình giúp đỡ người ta, phải thường xuyên kiểm điểm lời nói và hành động của mình ....”.

Mao Chủ tịch còn nói : “ Lần này cử đồng chí Vi Quốc Thanh làm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn. Đáng lẽ ra để đồng chí đi công tác ở Liên Hợp Quốc, nhưng Liên Hợp Quốc bị Mỹ thao túng, không cho chúng ta vào. Sau này lại muốn để đồng chí đi làm đại sứ ở Anh, nhưng Anh lúc nào cũng lưỡng lự nước đôi đối với chúng ta, ở đó chỉ có thể hạ cấp. Không cử đại sứ nữa. Thế là để đồng chí đi Việt Nam làm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn. Đồng chí đã đồng ý, như thế rất tốt, người cộng sản ở đâu cần thì đến đó, có thể đến nơi hoàn cảnh thoải mái cũng có thể đến nơi gian khổ… Hễ công việc yêu cầu thì các thứ khác đều không so đo. Điều này, các đồng chí phải học tập đồng chí Vi Quốc Thanh ”.

Cuối cùng, Mao Trạch Đông : “ Chúc các đồng chí thắng lợi, mạnh khoẻ ” để kết thúc cuộc nói chuyện.

Sau buổi tiếp có tính lịch sử ở Di Niên đường Trung Nam Hải, cố vấn các cấp và nhân viên công tác lần lượt trở về các đơn vị cũ, chuẩn bị hành trang hạ tuần tháng 7 tập trung tại Nam Ninh, Quảng Tây.

Vi Quốc Thanh từ Bắc Kinh xuống Quảng Châu rồi đi đường thuỷ về Nam Ninh. Sau khi đến Nam Ninh, đồng chí lập tức đến chào thủ trưởng cũ. Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu Quảng Tây Trương Văn Dật. Hai người gặp nhau vô cùng mừng rỡ. Trương Văn Dật nói với Vi Quốc Thanh, theo điện chỉ thị của Quân uỷ Trung ương đã sắp xếp ổn thoả vấn đề ăn ở, sinh hoạt cho cố vấn, nhân viên tập huấn ở Nam Ninh, tuyệt đối bảo đảm bí mật, hãy yên tâm. Vi Quốc Thanh hết sức cám ơn.

Trước đó, Trung ương đã cử Trần Canh làm đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, và dẫn đầu toàn thể cán bộ của một đại đoàn được Dã chiến quân số 2 tuyển chọn điều động làm cố vấn đã lên đường từ Côn Minh sang Việt Nam. Vì vậy đến Nam Ninh tập huấn chỉ có cán bộ do Dã chiến quân 3, 4 tuyển chọn điều động. Sau nửa tháng tập huấn, Vi Quốc Thanh trước tiên tuyên bố thành lập Đoàn cố vấn, tiếp đó truyền đạt phát biểu quan trọng của lãnh đạo Trung ương cho đoàn thể cố vấn và nhân viên công tác. Qua thảo luận nghiêm túc, đã xây dựng “quy chế công tác của Đoàn cố vấn ở nước ngoài” làm nguyên tắc hành động của toàn thể đồng chí công tác tại Việt Nam. Được Trung ương phê chuẩn, đã thành lập Đảng uỷ Đoàn cố vấn do Vi Quốc Thanh làm Bí thư, Đặng Dật Phàm làm Phó Bí thư. Cuối cùng mời Hoàng Văn Hoan Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Trung Quốc từ Bắc Kinh xuống Nam Ninh giới thiệu tình hình cơ bản của Việt Nam.

Ngày 9/8, theo sự sắp xếp của Quân khu Quảng Tây, những người trong đoàn cố vấn lên đường từ Nam Ninh bằng ôtô. Trương Vân Dật đích thân tiễn đến ngoại ô, đồng chí nói với mọi người : “ Đáng lẽ tôi phải triệu tập nhân dân Nam Ninh tổ chức lễ tiễn đưa long trọng các đồng chí, gửi lời chào các đồng chí. Nhưng sứ mệnh của các đồng chí là bí mật, không thể tiễn đưa công khai. Chỉ có tôi đại diện cho Đảng, quân dân Quảng Tây đến tiễn đưa các đồng chí, chúc các đồng chí lên đường thuận lợi ”.

Sau khi đi qua Điền Đông, Bách Sắc đến Tịnh Tây, tối 11/8, có Hoàng Văn Hoan cùng đi, trong màn đêm bàng bạc, Đoàn cố vấn vượt qua biên giới Trung – Việt núi sông liền dải, rạng sáng ngày 12 đến Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch biên giới của Quân đội Nhân dân Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:47:15 am
Chiến thắng Biên Giới

Huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng nằm sát biên giới huyện Tịnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc, là một trong những căn cứ của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản Đông Dương, sau tháng 2/1951 đổi tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam) ở Việt Bắc. Ở đây non xanh nước biếc, xóm làng trù phú. Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch Biên Giới của Quân đội Nhân dân Việt Nam đóng trong mấy thôn bản dân tộc thiểu số. Rạng sáng ngày 12/8, khi Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đến nơi được phía Việt Nam hoan nghênh nhiệt liệt. Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp thân chinh ra đón tận ngoài làng. Qua Hoàng Văn Hoan giới thiệu, hai người bắt tay thân thiết, Võ Nguyên Giáp liên tiếp nói hoan nghênh và nói “ vất vả quá ” bằng tiếng Trung Quốc khá lưu loát. Vi Quốc Thanh ngắm nghía tỉ mỉ người bạn hợp tác tương lai này : người hơi thấp hơn mình tuổi tác tương đương mình, ngũ quan cân xứng da mặt trắng nõn, ánh mắt ngời sáng long lanh, tỏ rõ uy nghi phong độ, lịch sự nho nhã. Võ Nguyên Giáp đích thân đưa Vi Quốc Thanh đến nơi ở của đồng chí – trong một nhà sàn bằng gỗ, nói chuyện chốc lát rồi từ biệt để Vi Quốc Thanh nghỉ ngơi.

Hành quân suốt đêm, Vi Quốc Thanh cảm thấy hơi mệt, lúc này lại không buồn ngủ. Đồng chí biết rằng, từ bây giờ trở đi, đứng trước hoàn cảnh chiến đấu hoàn toàn mới, bắt đầu chặng đường chiến đấu một mình gánh vác trên chiến trường nước ngoài. Hoàn thành nhiệm vụ lớn lao và khó khăn này thật không phải dễ. Mỗi bước đi đều phải hết sức thận trọng, suy nghĩ chín chắn. Công tác của đoàn cố vấn nên bắt đầu từ đâu ?

Đồng chí suy nghĩ rất nhiều lần vấn đề này. Vừa tìm hiểu tình hình, vừa giúp phía Việt Nam công tác chuẩn bị cho chiến dịch biên giới. Đó là phương châm công tác trước mắt mà đồng chí định ra cho mình và Đoàn cố vấn.

Vi Quốc Thanh bắt đầu công việc khẩn trương song nề nếp. Tổ cố vấn quân sự, chính trị, hậu cần của Đoàn cố vấn và tổ cố vấn của các Bộ đội lần lượt đến Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và các bộ đội ở các nơi, triển khai công tác khẩn trương.

Hạ tuần tháng 7 đồng chí Trần Canh đã đến Thái Nguyên, nơi đóng trụ sở của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, sau khi đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 14/8 cùng lên chỗ Bộ chỉ huy tiền phương chiến dịch Biên Giới Quân đội Nhân dân Việt Nam và gặp mặt đoàn cố vấn. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc giao nhiệm vụ cho Trần Canh là giúp Việt Nam tổ chức chiến dịch Biên Giới và thống nhất xử lý vấn đề Trung Quốc viện trợ quân sự cho Việt Nam.

Trần Canh và Vi Quốc Thanh đã quen biết nhau từ lâu. Trong cuộc trường chinh hai vạn năm nghìn dặm, khi Trần Canh làm đoàn trưởng đoàn cán bộ Trung ương thì Vi Quốc Thanh là Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Trần Canh. Hai người lâu năm chưa gặp, nay gặp nhau ở nước ngoài, dạt dào xúc động. Vì Đoàn cố vấn công tác dưới sự chỉ đạo của Trần Canh, Vi Quốc Thanh càng đặc biệt vui mừng.

Trần Canh và Vi Quốc Thanh thông qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp và nghe Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam giới thiệu tình hình, đã hiểu được tình hình cơ bản của hai phía địch và bạn, và tình hình chuẩn bị chiến dịch :

1 – Chiến tranh chống Pháp của Việt Nam tuy đã bước vào năm thứ năm, nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam về cơ bản vẫn ở giai đoạn đánh du kích, chưa qua chiến đấu đánh, tiêu diệt một tiểu đoàn địch hoàn chỉnh trở lên. Hiện nay tuy đã thành lập 2 đại đoàn (đại đoàn 304 và 308) và 3 trung đoàn độc lập (trung đoàn 174, 209, 148) nhưng đại đoàn đoàn đều chưa qua tác chiến tập trung, trung đoàn cũng rất ít có kinh nghiệm tác chiến tập trung, về cơ bản vẫn là lấy tiểu đoàn, đại đội làm đơn vị phân tán tiến hành chiến tranh du kích. Dân quân, du kích có khắp cả nước chiếm lĩnh vùng nông thôn rộng lớn, không ngừng phá rối, tiêu hao đánh địch. Đoàn cố vấn đều cử tổ cố vấn đến hai đại đoàn và ba trung đoàn chủ lực nói trên, cả ba cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn đều có cố vấn giúp công tác. Các bộ đội nói trên đều đã được Trung Quốc trang bị, huấn luyện, hoặc đang trang bị huấn luyện. Hiện nay đóng gần Cao Bằng có đại đoàn 308, trung đoàn 174 và trung đoàn 209, ngoài ra có một trung đoàn sơn pháo. Đại đoàn 304 đóng ở vùng Thanh Hoá phía bắc Trung Bộ, trung đoàn 148 hoạt động ở vùng Lào Cai – Tây Bắc như vậy có nghĩa là, toàn bộ binh lực có thể đưa vào chiến dịch Biên Giới là 5 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh và một số bộ đội địa phương.

2 – Quân Pháp tổ thành rất phức tạp. Có binh đoàn người da trắng, cũng gọi là binh đoàn quốc tịch nước ngoài 1, chủ yếu do tù binh Đức, tù binh Liên Xô và một số nước Đông Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, và số ít phạm nhân người Pháp tổ thành, sĩ quan chỉ huy đều là người Pháp. Có binh đoàn da đen, chủ yếu do binh lính người da đen 2 thuộc các nước Maroc, Tunisie và Algérie thuộc địa của Pháp tổ thành, sĩ quan chỉ huy cũng đều là người Pháp. Quân Pháp tác chiến chủ yếu dựa vào hoả pháo và công sự, thiếu ý thức tấn công, sức chiến đấu không mạnh. Ngoài ra còn có một bộ phận nguỵ quân, sức chiến đấu càng yếu, chủ yếu đóng giữ cứ điểm. Ở Bắc Bộ, quân Pháp khống chế đường giao thông thành phố thị trấn vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực Tây Bắc, giữ ưu thế và chủ động về chiến lược. Đầu năm 1950, quân Pháp và quân nguỵ trên toàn Đông Dương có tất cả 230.000 người. Do Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, chiến tranh du kích khắp các nơi trong nước, buộc quân Pháp chia quân ra phòng thủ, ngày càng bộc lộ nhược điểm chí mạng là thiếu lính, binh lực phân tán.


(http://www.diendan.org/the-gioi/hoi-ki-co-van-trung-quoc-3/hinhhcmlqb.jpg)

Ảnh chụp tại An Toàn Khu, từ người thứ nhì (bên trái sang) : Hoàng Quốc Việt, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Lý Hàm Trân (vợ La Quý Ba), Hồ Chí Minh, x, La Quý Ba, Trường Chinh, x...

3 – Trước khi đoàn cố vấn vào Việt Nam, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cử La Quý Ba 3 làm đại diện liên lạc, trung tuần tháng 3 đã đến trụ sở của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thảo luận nhiều lần với Việt Nam về vấn đề phát động chiến dịch biên giới, quyết định vùng Cao Bằng biên giới đông bắc Việt Nam giáp Quảng Tây làm hướng tấn công chính của chiến dịch. Trên quốc lộ số 4 từ Cao Bằng đi Tiên Yên (Quảng Ninh) theo hướng đông nam, quân Pháp xây dựng một loạt cứ điểm kiên cố để phong toả biên giới Trung – Việt, bao vây và uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc. Mở một chiến dịch thắng lợi ở vùng này, có thể phá vỡ sự phong toả của địch, khai thông tuyến giao thông Trung – Việt, có lợi cho viện trợ của Trung Quốc đối với Việt Nam, và loại bỏ mối đe doạ đối với căn cứ địa Việt Bắc, có ý nghĩa rất quan trọng. Phía Việt Nam đã làm rất nhiều việc chuẩn bị cho chiến dịch, nhưng chưa thống nhất ý kiến đối với cách đánh trong chiến dịch, càng chưa hình thành phương án tác chiến. Lúc này, không ít tư tưởng chỉ đạo trong Quân đội Nhân dân vẫn câu nệ ở chỗ được mất một thành phố này một địa phương kia, mà không chú trọng vào tiêu diệt sinh lực địch. Vì vậy họ chủ trương đánh Cao Bằng trước cho rằng Cao Bằng là tỉnh lỵ là cứ điểm phòng ngự hạt nhân của hệ thống phòng ngự trọng điểm trên tuyến phong toả biên giới mà quân Pháp ra công tính toán bao năm, đánh lấy Cao Bằng không chỉ có ý nghĩa quân sự to lớn, mà còn có ảnh hưởng chính trị rất lớn.

Căn cứ vào tình hình trên, Trần Canh và Vi Quốc Thanh đã nghiên cứu tỉ mỉ phòng tuyến quốc lộ 4 của Pháp. Hai người cảm thấy, quân địch đóng giữ Cao Bằng có 3 tiểu đoàn, hơn 1000 tên, địa thế hiểm trở, công sự kiên cố, dễ phòng thủ khó tấn công, theo khả năng công kiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam trước mắt, rất khó gặm cục xương cứng này. Họ phát hiện trên phòng tuyến từ Cao Bằng đến Lạng Sơn dài hơn 100 km, ở giữa có hai cứ điểm Đông Khê và Thất Khê. Đông Khê cách Cao Bằng hơn 40 km về phía bắc, cách Thất Khê hơn 20 km về phía nam, cách Lạng Sơn, sáu bảy mươi kilômét, hơn 1 tiểu đoàn, bảy tám trăm quân địch đóng giữ. Đột phá từ đây có thể cô lập quân địch ở Cao Bằng, tạo cơ hội diệt viện. Kiến giải của anh hùng đại thể giống nhau, hai người không hẹn mà gặp, nhất trí đồng ý coi Thất Khê là điểm đột phá của chiến dịch. Họ lại thảo luận cao khả năng phát hiện của chiến dịch, đều đi đến nhất trí ý kiến.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:48:26 am
Tại một cuộc họp của lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu Việt Nam, Trần Canh phân tích biện chứng vấn đề chọn đột phá khẩu của chiến dịch và khả năng phát triển của chiến dịch như thế nào, đưa ra kiến nghị toàn diện. Nêu rõ địa thế Cao Bằng hiểm trở, ba mặt là sông, sau lưng là núi cao, công sự kiên cố, dễ phòng thủ khó tấn công, là cục xương cứng. Điều đó đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm công kiên mà nói, là khó khăn rất nhiều, dễ trở thành đánh tiêu hao, lợi bất cập hại. Nếu trận đầu không thắng, nhất định sẽ ảnh hưởng rất bất lợi đối với toàn bộ chiến dịch. Vì vậy tốt nhất không đánh Cao Bằng trước, mà đánh cứ điểm Đông Khê nằm giữa Cao Bằng và Thất Khê. Quân địch đóng giữ Đông Khê chỉ có một tiểu đoàn, bố phòng không kiên cố lắm vả lại rất cô lập, địa hình cũng có lợi cho ta tấn công, nằm chắc phần thắng tương đối lớn. Đánh lấy Đông Khê, chặt đứt sống lưng quốc lộ 4, cô lập Cao Bằng. Như vậy buộc địch ở Thất Khê, Lạng Sơn có thể đưa quân chi viện, sẽ tạo cơ hội có lợi tiêu diệt càng nhiều quân địch trong vận động.

Nếu địch ở Thất Khê không đưa quân chi viện thì sau khi giải quyết Đông Khê thừa thắng đánh lấy Thất Khê, cuối cùng tập trung toàn bộ binh lực tấn công Cao Bằng và ra sức tiêu diệt địch trong vận động. Tiến công Đông Khê, tương đối nắm chắc thắng lợi. Mà trận đầu thắng lợi sẽ cổ vũ mạnh mẽ sĩ khí, gây ảnh hưởng có lợi cho toàn bộ chiến dịch. Tiêu diệt quân địch đóng giữ Đông Khê và Thất Khê sẽ làm cho lòng quân đóng giữ Cao Bằng lâm cô lập dao động. Còn Quân đội Nhân dân Việt Nam trải qua nhiều lần chiến đấu, kinh nghiệm nhiều lên, niềm tin thắng lợi càng đầy đủ lúc đó lại đánh Cao Bằng tương đối dễ giành thắng lợi.

Sự phân tích có hệ thống, thấu đáo đó của Trần Canh thuyết phục người lãnh đạo phía Việt Nam. Qua thảo luận, lãnh đạo Việt Nam nhất trí, đồng ý ý kiến của Trần Canh. Căn cứ vào đó, Đoàn cố vấn quân sự giúp cụ thể Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam vạch kế hoạch tác chiến chiến dịch biên giới.

Lúc ấy, Hồ Chí Minh đã từ hậu phương lên tiền tuyến. Người đã phê chuẩn kế hoạch tác chiến chiến dịch biên giới và chỉ rõ : “ Chiến dịch này chỉ được thắng, không được thua ”. Người vô cùng tín nhiệm yêu cầu Trần Canh bảo đảm thắng lợi của chiến dịch này. Trần Canh nói : “ Tôi nhất định dốc sức giúp đánh tốt trận này, nhưng đánh trận chủ yếu còn dựa vào cán bộ chỉ huy bộ đội và quần chúng nhân dân Việt Nam ”. Để quán triệt thực thi kế hoạch tác chiến nói trên, Vi Quốc Thanh khẩn trương bận rộn tiến hành các công việc. Đồng chí luôn luôn liên hệ với các tổ cố vấn bộ đội tham chiến, tìm hiểu tình hình, giải đáp vấn đề, bố trí công tác; kịp thời bàn bạc với Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và cố vấn hậu cần Mã Tây Phu, giúp cơ quan các Tổng cục quân đội nhân dân Việt Nam làm tốt các công tác chuẩn bị chiến dịch. Dưới sự giúp đỡ hết mình của các tổ cố vấn, các công tác chuẩn bị cho cuộc vận động chiến quy mô lớn đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào thượng tuần tháng 9 đã cơ bản hoàn tất. Ngày 16/9, chiến dịch Biên Giới bắt đầu. Đêm 16/9, Trung đoàn 174 bộ đội chủ công được pháo binh phối hợp, mở cuộc tấn công quân địch ở Đông Khê. Dưới sự yểm trợ của các loại hoả lực, Quân đội Nhân dân Việt Nam lần lượt chiếm lĩnh một số cứ điểm ngoại vi Đông Khê, nhưng triến triển chậm chạp sau khi tiến gần tới trung tâm phòng ngự của địch. Sáng sớm ngày 17, địch phản kích dưới sự yểm trợ của máy bay. Do Quân đội Nhân dân Việt Nam thiếu kinh nghiệm, chỉ huy không kịp thời, nên rút lui khỏi trận địa đã chiếm lĩnh.

Sau khi Trần Canh và Vi Quốc Thanh biết được tình hình này hết sức lo lắng, lập tức đến bộ chỉ huy tiền tuyến Quân đội Nhân dân, gặp Võ Nguyên Giáp, cùng nghiên cứu nguyên nhân tấn công bị thất bại, ra lệnh cho bộ đội điều chỉnh sự bố trí, bao vây chặt, đề phòng địch phá vây, đến tối sẽ tấn công lại.

Tối 17, do bộ đội tuyến trước không hành động theo bố trí đã định trước, chỉ tấn công từ một phía, làm cho địch tập trung được hoả lực ngoan cố chống cự. Đến nửa đêm, tấn công vẫn chưa đạt hiệu quả, bộ đội thương vong khá lớn, lại chuẩn bị rút khỏi cuộc lui chiến đấu. Sau khi Trần Canh và Vi Quốc Thanh chăm chú theo dõi phát triển của trận đánh biết được tình hình này đã lập tức khẩn cấp kiến nghị với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp : “ Ra lệnh cho bộ đội tiếp tục kiên trì không tiếc bất cứ giá nào, đồng thời điều chỉnh lại bố trí, đổi thành tiến công cả bốn phía, trọng điểm nhằm vào phía Bắc và phía Nam ”. Phía Việt Nam chấp nhận kiến nghị này. Vi Quốc Thanh lập tức điện thoại cho Trương Chí Thiện cố vấn trung đoàn 174 biết ý đồ này ; ra lệnh cho Trương giúp người chỉ huy trung đoàn này nhanh chóng điều chỉnh bố trí, chuẩn bị tốt cho việc đánh tiếp. Trước khi trời hừng sáng, tấn công lại lần nữa, kịch chiến đến 8g ngày 18, cuối cùng tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Sau khi cuộc chiến đấu kết thúc điều tra ra, quân địch đóng giữ Đông Khê chỉ có hơn 2 đại đội, không đến 400 tên, quân đội Việt Nam với binh lực 7000 người, tấn công hai đêm, thương vong 500 người mới thắng. Mặc dù cái giá rất lớn, nhưng mục tiêu bước đầu của chiến dịch đã đạt được, tức là một thắng lợi không nhỏ. Quân đội Việt Nam đánh được Đông Khê làm cho Vi Quốc Thanh mấy ngày qua căng thẳng tinh thần cao độ thở phào. Nhưng súc khoẻ của đồng chí không trụ nổi. Trong hoàn cảnh chiến tranh lâu dài, đồng chí mắc bệnh viêm dạ dày mãn tính và thần kinh suy nhược. Sau này ở Bắc Kinh lại viêm ruột thừa, chuyển sang viêm màng ổ bụng, sau khi ra viện bận việc tổ chức Đoàn cố vấn, sức khoẻ chưa được phục hồi tốt. Sau khi vào Việt Nam chưa được mấy ngày, đồng chí lại mắc bệnh dạ dày, đau bụng đi lỏng, liên tục uống thuốc không khỏi. Đồng chí nổi nóng cáu gắt với quân y đi theo cũng chẳng được gì. Sức khoẻ đồng chí ngày càng gầy yếu, vẫn kiên trì công tác khẩn trương.

Sau tấn công Đông Khê, Trần Canh và Mai Gia Sinh, Đặc Dật Phàm khuyên bảo, đồng chí mới về điều trị ở bệnh viện lục quân tại Long Châu, Quảng Tây. Theo kế hoạch chiến dịch dự định, sau khi lấy được Đông Khê, nếu địch ở Thất Khê không ra chi viện, thì thừa thắng tấn công tiêu diệt địch ở Thất Khê. Nhưng lúc này Trần Canh biết được, lính địch đóng giữ ở Thất Khê tăng lên 4 tiểu đoàn. Theo kinh nghiệm của trận Đông Khê, nếu với lực lượng hiện có của quân đội Việt Nam tấn công tiêu diệt địch ở Thất Khê là rất khó khăn. Sau khi Trần Canh cùng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp nghiên cứu, thay đổi kế hoạch ra lệnh cho đại đoàn 308 tiếp tục mai phục ở nam Đông Khê, chờ thời cơ tiêu diệt địch.

Trong 10 ngày sau đó, quân địch ở Thất Khê vẫn không động tĩnh. Lúc này một số cán bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam nảy sinh tư tưởng nôn nóng và oán trách. Có người nói, đánh Đông Khê là sai lầm, tiêu hao lực lượng của mình, lại không có viện binh để đánh, cũng tiêu mất thời cơ có lợi đánh Cao Băng. Có người nói địch ở Thất Khê không xuất quân chi viện, chi bằng đưa quân lên phía bắc đánh Cao Bằng. Có người chủ trương rút quân về bảo vệ Thái Nguyên. Bởi vì lúc này quân Pháp đã tập trung binh lực mấy tiểu đoàn, đang tấn công vào vùng Thái Nguyên trụ sở cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ, quân đội Việt Nam.

Trần Canh không dao động trước những lời bàn tán đó. Đồng chí tin chắc bộ chỉ huy quân Pháp sẽ không bỏ mặc hơn 1000 quân ở Cao Bằng. Theo phán đoán bố trí của quân Pháp đã làm, nhất định còn chuyện tiếp. Đồng chí kiến nghị với Võ Nguyên Giáp, thuyết phục cán bộ, nhẫn nại kiên trì, bình tĩnh chờ đợi hành động tới của quân địch, nắm bắt thời cơ tiêu diệt địch. Trần Canh còn cho rằng địch tấn công Thái Nguyên là kế điệu hổ ly sơn. Để đánh lừa quân địch, đề nghị bộ chỉ huy tiền tuyến Quân đội Nhân dân cho trung đoàn 174 vờ di chuyển về phía nam Thất Khê. Hành động này quả nhiên có hiệu quả. Bọn địch nhầm tưởng chủ lực quân đội nhân dân Việt Nam quay xuống phía nam bảo vệ Thái Nguyên, vẫn thực hiện kế hoạch chi viện dự định của họ, rơi vào thòng lọng do Trần Canh dăng sẵn.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:48:59 am
Đêm 30/9, binh đoàn Lepage của Pháp tiến vào bắc Thất Khê, hòng chiếm lại Đông Khê, để tiếp ứng cho binh đoàn Charton sẽ rút khỏi nam Cao Bằng. Sau khi bị trung đoàn 209 quân đội Việt Nam chặn đánh, quân Pháp buộc phải triển khai bộ đội chiếm đóng một số điểm cao nam Đông Khê, không vào được Đông Khê. Biết được tình hình này, Trần Canh rất phấn khởi, cho rằng thời cơ tiêu diệt địch đã đến. Nhưng lúc này vì bộ đội thiếu lương thực, đại đoàn 308 có trên một nửa chiến sĩ lên hướng Thuỷ Khẩu Trung Quốc vác gạo. Điều đó làm cho Trần Canh rất lo lắng. Đồng chí một mặt kiến nghị khẩn cấp với Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bộ đội nhanh chóng tập trung đón địch, mặt khác điện thoại cho Vương Thạc Tuyền cố vấn đại đoàn 308, yêu cầu đồng chí đôn đốc phía Việt Nam cấp tốc tập trung bộ đội để bao vây, tấn công địch, được một tiểu đoàn xuất phát một tiểu đoàn, được một đại đội xuất phát một đại đội, không chậm trễ một phút.

Dưới sự chỉ huy quyết đoán của Trần Canh, nói chung là tóm được kẻ địch. Nhưng do tổ chức không chặt, hiệp đồng cũng không tốt, dẫn đến phần lớn cuộc tấn công chưa đạt hiệu quả. Ngày 3/10, binh đoàn Charton Cao Bằng bỏ chạy xuống phía nam, nhưng bị bộ đội địa phương Việt Nam chặn đánh, nên tiến quân chậm chạp. Đêm hôm đó, binh đoàn Lepage lợi dụng thời cơ ban đêm quân đội Việt Nam ngừng tấn công, lén lút luồn qua núi Cốc Xá, ở tây quốc lộ 4, tây nam Đông Khê 7 km, chiếm lĩnh địa hình có lợi, chờ Charton tiếp ứng binh đoàn cùng chạy về phía nam. Ngày hôm sau, binh đoàn Charton được biết binh đoàn Lepage chưa chiếm được Đông Khê, mà chỉ vào núi Cốc Xá, nên không dám tiến theo quốc lộ 4 nữa, phá ôtô, đại bác và quân nhu, đi lối tắt đến điểm cao 477 gần núi Cốc Xá, hòng gặp binh đoàn Lepage, rồi cướp đường chạy về Thất Khê.

Trần Canh cho rằng, tình thế địch ta hiện nay rất có lợi cho ta, cơ hội tiêu diệt địch khó có, cần phải trước hết cần kiên quyết, nhanh chóng tiêu diệt binh đoàn Lepage sau đó di chuyển binh lực tiêu diệt binh đoàn Charton, quyết không cho chúng tập họp chạy về phía nam.

Ngày 4, quân đội Việt Nam truy đuổi về hướng vùng núi Cốc Xá, và liên tục triển khai tấn công quân địch chiếm núi Cốc Xá. Cuộc chiến đấu khá quyết liệt, tuy giết chiết làm bị thương một số quân địch, nhưng chưa có tiến triển rất lớn, bộ đội ta cũng có không ít thương vong, có một số cán bộ bắt đầu kêu khổ.

Tối ngày 4, Bộ chỉ huy Tiền phương Quân đội Việt Nam ra lệnh cho bộ đội tạm ngừng tấn công để nghỉ ngơi chỉnh đốn. Đồng thời Võ Nguyên Giáp gọi điện thoại cho Trần Canh nói : “ Căn cứ phán đoán tình hình địch, hai cánh quân địch sẽ có thể nhanh chóng gặp nhau, lực lượng sẽ được tăng cường. Bộ đội đã đánh liên tiếp 3 ngày liền, tương đối mệt nên chăng rút về nghỉ ngơi chỉnh đốn ? ” Trần Canh nghe thế vội nói ngay : “ Một trận như thế này mà không đánh nữa thì không có trận nào nữa đâu ”. Võ Nguyên Giáp vẫn kiên trì ý kiến của mình : “ Bộ đội quá mệt tôi thấy rất khó tiến công...” Nhìn thấy thời cơ rất tốt sắp bỏ qua, Trần Canh cũng không nhẫn nhịn được nữa, nói to trước ống nghe : “ Nếu trận này không đánh nữa thì tôi xin cuốn gói chuồn ”. Ngừng một lát, Trần Canh lại nói : “ Vào giờ phút then chốt này, bộ chỉ huy mà dao động thì chôn vùi thời cơ rất tốt để chiến dịch thắng lợi ”. Trần Canh dập máy xuống.

Trần Canh suy nghĩ một lát để bình tâm trở lại rồi lập tức cầm bút viết thư cho Hồ Chí Minh kiến nghị Người mệnh lệnh và cổ vũ bộ đội tiền tuyến không sợ hy sinh, anh dũng chiến đấu, nhanh chóng tiêu diệt binh đoàn Lepage, sau thắng lợi lập tức di chuyển binh lực tiêu diệt binh đoàn Charton. Đồng chí Trần Canh cũng điện báo kế hoạch này cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị của Trần Canh, lập tức ra chỉ thị cho bộ đội tiền tuyến.

Ngày 6/10, Mao Trạch Đông điện trả lời Trần Canh, nêu rõ : “ Các đồng chí phải nhanh chóng, kiên quyết, triệt để tiêu diệt quân địch ở tây nam Đông Khê, cho dù thương vong tương đối lớn cũng không nên quá lo, không nên dao động (phải tính đến trong cán bộ có thể có tình hình đó), ngoài ra, phải bám chặt bọn địch trốn khỏi Cao Bằng, không để chúng chạy thoát. Và phải có bố trí trước việc quân địch ở Lạng Sơn có thể đưa quân chi viện. Chỉ cần ba việc trên được xử lý xác đáng thì thắng lợi thuộc về các đồng chí ”.

Trần Canh xem điện trả lời của Mao Trạch Đông rất phấn khởi, lập tức báo cáo với Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cũng rất phấn khởi. Quân đội Việt Nam được Hồ Chí Minh cổ vũ tinh thần phấn chấn hẳn lên. Trải qua chiến đấu quyết liệt, binh đoàn Lepage đã không chống cự nổi. Chiều ngày 6, Lepage dẫn tàn binh bại tướng lùi về trong hang Dơi cố thủ. Sáng ngày 7, tiểu đoàn 130 quân đội Việt Nam bao vây hang này, người phó của Lepage vừa ra cửa hang, bị một tràng đạn của quân đội Việt Nam bắn chết. Lepage và nhân viên tham mưu đành phải nộp súng đầu hàng quân đội Việt Nam.

Thắng lợi tiêu diệt toàn bộ binh đoàn Lepage cổ vũ rất lớn tinh thần binh lính quân đội Việt Nam, làm lung lay dữ dội lòng quân của binh đoàn Charton. Đại đoàn 308 lập tức chuyển quân tấn công tiêu diệt binh đoàn Charton. Chiều cùng ngày binh đoàn Charton cũng bị tiêu diệt hoàn toàn. Đại tá Charton và tỉnh trưởng nguỵ quyền Cao Bằng đều bị bắt sống. Hai binh đoàn Lepage và Charton bị tiêu diệt làm cho quân Pháp trên phòng tuyến quốc lộ 4 hết sức kinh hoàng, lũ lượt tháo chạy, từ Thất Khê, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập cho đến vùng phụ cận Tiên Yên ven biển. Phòng tuyến quốc lộ 4 mà quân Pháp ra công xây dựng ba năm bị sụp đổ hoàn toàn. Đến đây kết thúc thắng lợi chiến dịch Biên Giới.

Chiến dịch này tiêu diệt tất cả 8 tiểu đoàn hoàn chỉnh, hơn 8000 tên địch bị chết, bị thương, bị bắt làm tù binh, thu được rất nhiều vũ khí đạn được, giải phóng 18 thành phố, thị trấn và và khu vực có 350.000 dân, khai thông tuyến giao thông biên giới Trung – Việt, làm cho vùng giải phóng Việt Bắc mở rộng và củng cố, thay đổi rất lớn tình thế chiến lược địch ta trên chiến trường Bắc Bộ. Vi Quốc Thanh điều trị tại bệnh viện lục quân Long Châu, thân tại bệnh viện, tâm tại tiền tuyến, luôn luôn quan tâm theo dõi cuộc chiến phát triển. Bệnh tình có chuyển biến tốt, đồng chí vội ra viện, cùng với Trần Canh, có Võ Nguyên Giáp cùng đi, thị sát Lạng Sơn mà mới lấy lại. Sau đó về đến chỗ ở Nam Sơn. Ngày 10/10, Vi Quốc Thanh đưa ra kiến nghị bằng văn bản với Võ Nguyên Giáp về làm tốt công tác tổng kết chiến dịch, và đích thân chỉ đạo các tổ cố vấn giúp Việt Nam làm công tác tổng kết chiến dịch.

Sau khi nhận lời phát biểu tổng kết chiến dịch suốt 4 ngày ròng tràn đầy nhiệt tình với cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở lên của bộ đội tham gia chiến dịch, ngày 29/10 Trần Canh gửi điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ công tác ở Việt Nam, năng lực đoàn cố vấn rất mạnh, không cần thiết lưu lại ở đây, xin về Bắc Kinh báo cáo công tác ”.

Ngày 30, Trung ương phúc đáp điện đồng ý Trần Canh về nước. Vì thế ngày 1/11 Trần Canh rời Nam Sơn, Việt Bắc trở về tổ quốc, Vi Quốc Thanh cử thư ký Nghiêm Dục Sinh đi tiễn.



Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:49:45 am
Tác chiến đồng bằng

Sau chiến thắng lớn biên giới, phát triển thắng lợi như thế nào là vấn đề Vi Quốc Thanh suy nghĩ trước tiên. Ở Bắc Bộ Việt Nam, có hai chiến trường có thể lựa chọn. Một là vùng đồng bằng sông Hồng, ở đây dân cư đông đúc của cải dồi dào, giao thông thuận tiện, là khu vực phòng thủ trọng điểm của quân Pháp. Một là vùng Tây Bắc, núi cao rừng rậm, dân cư thưa thớt, giao thông bất tiện quân Pháp phòng ngự tương đối yếu. Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm đều cho rằng : mở chiến trường Tây Bắc, đánh mấy chiến dịch, giành lấy vùng Tây Bắc làm cho nó liền một dải với căn cứ địa Việt Bắc, tiến có thể công thoái có thể thủ, tương đối có lợi. Nhưng kiến nghị này không được phía Việt Nam chấp nhận.

Lúc này, quân đội Việt Nam từ trên xuống dưới đều nhằm vào vùng đồng bằng sông Hồng. Kiên trì muốn tác chiến ở đồng bằng, trực tiếp uy hiếp Hà Nội, thực hiện tổng phản công. Vi Quốc Thanh qua phân tích cho rằng cứ điểm quân Pháp ở vùng đồng bằng dày đặc, địa hình thoáng rộng, giao thông thuận tiện có lợi cho quân địch nhanh chóng tăng viện, cũng tiện cho việc phát huy hoả lực của pháo và không quân, điều đó rất bất lợi cho quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng cũng có điều kiện có lợi, cư dân phần lớn là dân tộc Kinh, cơ sở quần chúng khá tốt, có sự phối hợp của đội du kích. Địch hậu lại là vùng lương thực có thể cung cấp tại chỗ. Vi Quốc Thanh cảm thấy phía Việt Nam kiên trì tác chiến vùng đồng bằng cũng có đạo lý nhất định. Nhất là đồng chí nhớ tới lời dặn của các đồng chí lãnh đạo Trung ương luôn luôn nhấn mạnh đoàn kết tốt với đồng chí Việt Nam, nên đồng ý với ý kiến của Việt Nam. Vì thế trong thời gian nửa năm từ tháng 12/1950 đến tháng 6/1951, quân đội Việt Nam liên tiếp mở ba chiến dịch ở vùng ven đồng bằng sông Hồng.

Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp nghiên cứu, trước tiên chĩa mũi tấn công vào vùng trung du sông Hồng. Phương án tác chiến Vi Quốc Thanh đưa ra được phía Việt Nam tiếp nhận là : sử dụng sư 308 và hai trung đoàn của sư 312 vừa thành lập, áp dụng cách đánh bôn tập đường xa, bao vây cứ điểm, đánh chặn chi viện, lấy tiêu diệt 3-5 tiểu đoàn giành lấy một phần vùng sản xuất lương thực làm mục tiêu chiến dịch. Thời gian bắt đầu chiến dịch dự định vào hạ tuần tháng 12. Kế hoạch tác chiến này được Bộ chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phê chuẩn sau khi thảo luận. Đồng thời Vi Quốc Thanh báo cáo Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, được đồng ý.

Chiến trường của chiến dịch trung du ở vùng Vĩnh Phú cách Hà Nội vài chục kilomét về phía tây bắc, là vùng ven tây bắc của đồng bằng sông Hồng. Trung tuần tháng 12, Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam đóng trên núi Tam Đảo, nơi nghỉ mát nổi tiếng ở miền bắc Việt Nam. Núi này cao 1590 mét, từ trên núi có thể nhìn xuống đồng bằng sông Hồng. Phía nam núi có đường ôtô chạy thẳng lên núi, nơi đó là vùng địch chiếm. Phía bắc núi sát vùng giải phóng Việt Bắc có đường mòn dốc đứng lên thẳng đỉnh núi. Vi Quốc Thanh năm đó 37 tuổi bỏ ngựa đi bộ, bước chân chắc nịch, sau hai ba giờ leo núi là cùng nhân viên Ban chỉ huy lên tới đinh. Trên núi rải rác bảy tám ngôi nhà tây kiểu biệt thự, cửa hư hỏng, trong nhà trống trơn. Những nôi nhà này thành chỗ ở của Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam và Đoàn cố vấn.

Chiến dịch trung du nổ súng vào ngày 25/12, đại đoàn 308 đầu tiên tấn công cụm phòng tuyến lô cốt ngầm của địch ở giáp ranh hai tỉnh Vĩnh Phú và Bắc Ninh, cách Hà Nội hơn 30 km về phía bắc, đột kích bất ngờ, tốc chiến tốc thắng, một lúc công phá 5 cứ điểm địch, tiêu diệt khoảng 5 đại đội địch. Trung đoàn 209, sư 312 ngày 27 chạm trán với một tiểu đoàn nước ngoài của quân Pháp, qua hai giờ chiến đấu quyết liệt, cơ bản tiêu diệt tiểu đoàn này. Kết thúc thắng lợi tác chiến đợt 1.

Trận đầu thắng lợi, sở chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam tràn ngập không khí vui mừng. Năm mới đến Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái (Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân) mang rượu sâm banh Pháp lấy được của địch đến chỗ ở của Đoàn cố vấn thăm hỏi và liên hoan. Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái dẫn đầu mời Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh và đồng chí Trung Quốc khác cùng nhảy điệu múa Sạp. Trong buổi liên hoan, khách chủ liên tục nâng cốc chúc mừng thắng lợi, chúc mừng xuân mới.

Quân đội Việt Nam sau khi nghỉ ngơi, chỉnh đốn và chuẩn bị, ngày 13/1 bắt đầu tác chiến đợt 2 chiến dịch Trung Du. Một bộ phận sư 308 và sư 312 lần lượt tấn công hai cứ điểm Bảo Trác và Ba Huyên phía bắc Kim Anh. Chủ lực của hai sư mai phục ở hương bắc và đông bắc Kim Anh, chuẩn bị đánh chặn viện. Ngày 13 và ngày đêm 14, quân đội Việt Nam liên tiếp tấn công hai cứ điểm trên, diệt hàng trăm quân địch. Quân Pháp đóng giữ Kim Anh đưa quân chi viện bị quân đội nhân dân phục kích, tiêu diệt một tiểu đoàn địch gốc Phi. Số còn lại rút lui, Quân đội Nhân dân truy kích, triển khai cuộc chiến đấu giành giật điểm cao với quân Pháp tiếp tục tăng viện ở vùng Hữu Thủ. Quân đội Nhân dân có lúc ở vào tình thế có lợi, nhưng quân địch tiếp viện từ Hà Nội đến nhanh, tổng binh lực của địch tăng lên hơn 10.000 tên. Ngày 16 và 17, quân Pháp lợi dụng địa hình trống trải, cho máy bay và đại bác ném bom bắn phá điên cuồng, quân đội Việt Nam thương vong tương đối lớn. Do thiếu lực lượng hậu bị, quân đội Việt Nam rút lui chiến đấu, kết thúc chiến dịch. Chiến dịch này tiêu diệt tất cả hơn 2000 tên địch, quân đội Việt Nam cũng trả giá gần 1000 người thương vong.

Sau chiến dịch Trung Du, Vi Quốc Thanh đề xuất với Việt Nam, kết quả của chiến dịch Trung Du cho thấy, tác chiến với quân Pháp ở vùng đồng bằng có rất nhiều điều bất lợi, không dễ đánh tiêu diệt chiến, chi bằng chuyển sang vùng Tây Bắc, mở chiến trường Tây Bắc. Ý kiến của Vi Quốc Thanh vẫn không được phía Việt Nam chấp nhận. Sau hai tháng nghỉ ngơi chỉnh đốn, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Đông Bắc vào hạ tuần tháng 3. Lựa chọn chiến trường chính của chiến dịch Đông Bắc là vùng phụ cận Uông Bí trên quốc lộ 18 cách Hải Phòng hơn 30 km về phía bắc. Sau khi nghiên cứu hệ thống phòng ngự trên tuyến quốc lộ 18 của quân Pháp, Vi Quốc Thanh cảm thấy binh lực của địch ở vùng gần Uông Bí quả là tương đối mỏng yếu, cùng phía Việt Nam nghiên cứu và xác định bố trí tác chiến : sử dụng mỗi sư 2 trung đoàn của ba sư 308, 312, 316, tất cả binh lực là 7 trung đoàn, vẫn áp dụng cách đánh tấn công các cứ điểm, đánh chặn viện, lấy tiêu tiêu diệt một số tiểu đoàn địch và giải phóng một số vùng làm mục tiêu tác chiến.

Trung tuần tháng 3, Vi Quốc Thanh cùng Mai Gia Sinh và Đặng Dật Phàm dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Bắt đầu từ ngày 23/3 quân đội Việt Nam tấn công kiên tiếp vào bốn cứ điểm lan tháp v.v.. dụ quân Pháp tăng viện. Nhưng quân Pháp sau khi bị động trong chiến dịch Trung Du, trở nên thận trọng, không đưa quân chi viện. Sau ba ngày quân đội Việt Nam lại đánh lấy hai cứ điểm là Bí Tắc, Trường Bạch, quân Pháp vẫn không chi viện. Quân Pháp tăng cường binh lực ở vùng chúng bị đe doạ, dựa vào công sự cố thủ, đồng thời dùng đại bác ở căn cứ lân cận sát thương quân đội Việt Nam. Đêm 29 đến ngày 30, quân đội Việt Nam tấn công hai cứ điểm ở thị trấn Mạo Khê và và mỏ than Mạo Khê đều không thuận lợi, bộ đội thương vong tương đối lớn. Đêm mồng 4 và ngày 5/4, quân đội Việt Nam liên tục tấn công các cứ điểm Tân Đáp. Bãi, Thảo Hoàng chiếm vu lại không thành công. Do thời gian kéo dài đã lâu, quân đội Việt Nam không còn lương thực không thể chiến đấu nữa nữa nên lui quân. Chiến dịch này tiêu diệt hơn 1100 tên đich, còn quân đội Việt Nam thương vong hơn 1700 người, không đạt mục đích chiến dịch.

Trên đường trở về đại đoàn Vương Thạc Tuyên cố vấn đại đoàn 308 khi gặp Vi Quốc Thanh nói : “ Chúng tôi đã đánh hai trận ở đồng bằng đều không lý tưởng, sau này không nên đánh như thế nữa ”. Vi Quốc Thanh giải thích : “ Trung ương cử chúng ta đến đây là để hết sức giúp đỡ quân đội Việt Nam. Hai bên có ý kiến khác nhau đối với kế hoạch chiến dịch sẽ thường xuyên xảy ra. Chúng ta nên nhẫn nại, không nên sốt ruột đối với vấn đề này. Chúng ta sẽ rút kinh nghiệm, tin rằng Việt Nam cũng sẽ rút kinh nghiệm trong thực tiễn chiến đấu ”.

Trước khi mùa mưa đến, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Ninh Bình. Vùng Ninh Bình ở góc tây nam của châu thổ sông Hồng. Ở hướng chủ công, quân đội Việt Nam sử dụng đại đoàn 308 và 304 đóng ở tỉnh Thanh Hoá, tất cả binh lực có 6 trung đoàn. Ý đồ tác chiến là trước tiên tấn công một số cứ điểm của quân Pháp, phục kích bộ đội tăng viện của quân Pháp, nếu địch không xuất quân chi viện thì mở rộng chiếm đóng một số vùng dân cư đông đúc, thu thập nhanh lương thực. Vi Quốc Thanh lại dẫn Ban chỉ huy theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến giúp chỉ huy chiến dịch.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:50:32 am
Ngày 28-5, chiến dịch Ninh Bình mở màn, tác chiến đợt 1, quân đội Việt Nam luồn sâu tập kích Ninh Bình và cứ điểm địch dọc tuyến quốc lộ 1. Qua hai đêm chiến đấu, quân đội Việt Nam tấn công tỉnh lỵ Ninh Bình và hơn 10 cứ điểm ở nam, đông nam Ninh Bình, tiêu diệt hơn 600 tên đich. Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny, con trai Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, chỉ huy ở cứ điểm Âu Ni cũng bị quân đội Việt Nam bắn chết. Chiến dịch mở đầu tương đối thuận lợi.

Tác chiến đợt 2 do địch tăng cường lực lượng phòng thủ, Quân đội Nhân dân tuy hạ được một số cứ điểm tiêu diệt một số địch nhưng có những cứ điểm không công phá nổi, đánh chặn viện cũng không được thuận lợi, bộ đội thương vong tương đối lớn, phải rút khỏi chiến đấu. Ngày 20/6 kết thúc chiến dịch. Chiến dịch này công phá được 22 cứ điểm, tiêu diệt hơn 3.100 địch.

Ba lần tác chiến ở vùng Trung Du, Đông Bắc, Ninh Bình là ba chiến dịch quân đội Việt Nam tấn công phòng tuyến kiên cố của địch trong đó quy mô vùng ven đồng bằng Bắc Bộ. Đều là mở đầu tương đối tốt, đột kích bất ngờ, công phá một số cứ điểm, tiêu diệt một số địch. Sau đó, địch hoặc lợi dụng hoả lực của các cứ điểm chi viện cho nhau để cố thủ, hoặc lợi dụng điều kiện giao thông thuận tiện v.v. nhanh chóng điều động binh lực, phát huy ưu thế không quân đại bác, sát thương nặng Quân đội Nhân dân, làm cho Quân đội Nhân dân rơi vào bị động, đành phải kết thúc chiến dịch. Điều đó làm cho Vi Quốc Thanh tỉnh táo nhận thức rằng, quân đội Việt Nam tiến hành tác chiến quy mô tương đối lớn ở vùng đồng bằng và kẻ địch có quân mạnh phòng thủ, thì thời cơ chưa chín muồi. Xem xét từ tình thế địch ta trên toàn Bắc Bộ, cần phải giúp phía Việt Nam có sự chỉ đạo chiến lược sát thực tế hơn để giành thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, cần phải trình bày trực tiếp tình hình với Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, xin Trung ương đưa ra quyết đoán.

Lúc này, Vi Quốc Thanh sang Việt Nam đã gần một năm. Tình hình sức khoẻ của đồng chí rất xấu, ngoài bệnh dạ dày đường ruột thỉnh thoảng lên cơn đau, lại mắc bệnh chóng mặt, đau đầu. Đó là trước lúc chiến dịch Đông Bắc, đồng chí ngày đêm suy nghĩ để đánh tốt trận này. Bỗng một hôm, tự nhiên cảm thấy trời đất quay cuồng, đầu đau như búa bổ, toàn thân chao đảo, cảm thấy còn khó chịu hơn bị thương nặng trước đấy nhiều năm, nằm trên giường tre chốc chốc lại rên. Bác sĩ quân y theo đoàn không thể chẩn đoán chính xác, không dám cho thuốc. Võ Nguyên Giáp biết tin, cử tiến sĩ y học ở Pháp, bác sĩ riêng của đồng chí đến khám, xem xong nói là bị sốt rét. Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm chưa cho đồng chí uống thuốc, điện khẩn cho Lâm Quân Tài cố vấn quân y ở rất xa đến gấp để chẩn đoán bệnh. Sau khi Lâm hỏi rõ bệnh tình, chẩn đoán chính xác là lớp vỏ đại não mất cân đối vì động não quá mức gây ra. Sau khi cho thuốc an thần ngủ một đêm, bệnh tình mới khỏi. Nhưng sau đó, thỉnh thoảng nổi cơn chóng mặt, đau đầu.

Chiến dịch Ninh Bình kết thúc, mùa mưa đã đến, hai bên Việt – Pháp đều không có chiến sự lớn. Vi Quốc Thanh lại điện báo cáo cho Quân uỷ Trung ương, xin về nước để báo cáo tình hình và chữa bệnh. Trung ương trả lời đồng ý, thượng tuần tháng 7/1951, đồng chí rời nơi ở Việt Bắc trở về Bắc Kinh. Sau khi Vi Quốc Thanh về nước, quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch Hoà Bình đập tan phản công của quân Pháp ở vùng đồng bằng. Sau khi quân Pháp bị thất bại thảm hại ở chiến dịch biên giới, Chính phủ Pháp bổ nhiệm Jean de Lattre de Tassigny, nguyên tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu, làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương. De Lattre sau khi đón nhận nhiệm vụ, một mặt tích cực xây đắp công sự phòng ngự bằng bê tông cốt sắt xung quanh châu thổ sông Hồng, ra sức tạo ra vùng trống không có người để cắt đứt liên hệ với vùng giải phóng ; mặt khác ra sức phát triển nguỵ quân, tập trung bộ đội tinh nhuệ xây dựng binh đoàn cơ động, để đối phó tấn công của Quân đội Nhân dân và tăng cường “càn quét” vùng du kích. Trong thời gian một năm, quân Pháp đã phá huỷ 90% căn cứ địa du kích sau lưng địch của quân đội Việt Nam, từ đó đứng chắc chân. De Lattre cho rằng, thời cơ lấy lại quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ đã đến. Thượng trung tuần tháng 11/1951, quân Pháp huy động 6 binh đoàn cơ động, có không quân, lính thiết giáp và hạm đội trên sông phối hợp dọc sông Đà và quốc lộ số 6, chia làm hai ngả tiến vào vùng giải phóng tây nam Hà Nội, chiếm đóng vùng Hoà Bình.

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ QĐNDVN quyết định mở chiến dịch Hoà Bình. Phía Việt Nam tiếp nhận kiến nghị của La Quý Ba, Đoàn trưởng Đoàn cố vấn chính trị ; đưa bộ phận chủ lực vòng sau lưng địch, tấn công quân địch, phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch. Bố trí cụ thể là, dùng hai đại đoàn chủ lực tấn công quân địch ở Hoà Bình, đem ba đại đoàn chủ lực lần lượt đi sâu vào sau lưng địch. Ở mặt trận Hoà Bình, quân đội Việt Nam công phá mấy cứ điểm, tiêu diệt 2 tiểu đoàn và một đội thuyền trên sông. Nhưng khi tấn công cứ điểm Phiêu không được, bộ đội thương vong tương đối lớn đã chuyển sang bao vây lâu dài quân địch ở Hoà Bình. Bộ đội chủ lực vào sau lưng địch phân tán xuất kích, đạp tan nguỵ quyền, phát triển chiến tranh du kích, không những khôi phục toàn bộ căn cứ địa du kích trước đây mà còn mở ra một vùng rộng lớn mới, trực tiếp đe doạ Hà Nội, làm cho quân Pháp bị bao vây bốn phía, khó bề xoay xở, đành phải rút khỏi vùng Hoà Bình vào hạ tuần tháng 2/1952, chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:51:09 am
Xây dựng bộ đội

Chiến dịch Biên Giới tuy giành được thắng lợi quan trọng, nhưng cũng bộc lộ Quân đội Nhân dân Việt Nam còn có không ít nhược điểm là về số lượng hay chất lượng, đều không thích ứng với yêu cầu tác chiến vận động quy mô lớn. Vi Quốc Thanh cảm thấy sâu sắc rằng, đồng thời với việc giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến, cần phải giúp họ tăng cường xây dựng bộ đội. Đó cũng là một trong hai nhiệm vụ quan trọng mà các đồng chí lãnh đạo Trung ương giao cho Đoàn cố vấn. Vì vậy, trong thời gian sang Việt Nam gần một năm, Vi Quốc Thanh chú trọng giúp Việt Nam nắm mấy việc sau đây :

1. Mở rộng bộ đội chủ lực, thống nhất biên chế trong trang bị. Chiến dịch Biên Giới vừa kết thúc, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lập tức đưa ra chỉ tiêu cho đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam xây dựng quân chính quy khoảng 50.000 người. Theo đó, Vi Quốc Thanh nêu ra kiến nghị tương ứng với Võ Nguyên Giáp. Tất nhiên Võ Nguyên Giáp rất phấn khởi

Thế là Đoàn cố vấn giúp Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam vạch ra “phương án xây dựng bộ đội chủ lực” và kế hoạch biên chế trang bị, sau khi được Trung ương đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn trên cơ sở các đạị đoàn 304, 308, 312 đã xây dựng, lại được Trung Quốc viện trợ trang bị, thành lập thêm đại đoàn bộ binh 316, 320, và đại đoàn công pháo 351 do 3 trung đoàn pháo binh và một trung đoàn công binh tổ thành. Sau đó thành lập đại đoàn bộ binh 325. Đến cuối năm 1951, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có một lực lượng vũ trang chính quy gồm 6 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo được thay đổi trang bị, biên chế thống nhất.

2. Tăng cường huấn luyện quân sự, nâng cao tố chất quân sự. Vi Quốc Thanh cho rằng, nâng cao tố chất quân sự của quân đội Việt Nam, một là phải dựa vào rèn luyện trong chiến đấu thực tế, hai là phải dựa vào huấn luyện quân sự. Vì thế, đồng chí triệu tập các cố vấn quân sự họp hội nghị bàn về công tác huấn luyện bộ đội. Đồng chí nói với các cố vấn đến dự hội nghị : “ Quân đội Nhân dân Việt Nam trước đây không đánh tiêu diệt chiến, khi đánh trận dàn hàng ngang mà tiến, pháo bắn thì phân tán tránh, như thế không được. Ở trong nước (tức ở Trung Quốc) chúng ta đánh thắng trận, dựa vào cái gì ? Dựa vào 10 nguyên tắc quân sự lớn của Mao Chủ tịch. Hạt nhân của 10 nguyên tắc quân sự lớn là cái gì ? Là đánh tiêu diệt chiến. Không đánh tiêu diệt chiến 9 nguyên tắc khác đều rỗng không. Chỉ cần đánh tốt tiêu diệt chiến thì đạt được mục đích tác chiến.

“ Các đồng chí trở về, phải lợi dụng thời gian nghỉ giữa hai chiến dịch, áp dụng biện pháp mở lớp huấn luyện luân phiên để chấn chỉnh rèn luyện bộ đội, tiến hành giáo dục quân sự cho bộ đội, làm cho mọi người đều nắm chắc tư tưởng đánh tiêu diệt chiến. Và phải dạy họ biết được các chiến thuật và động tác kỹ thuật cần thiết khi đánh tiêu diệt chiến. Làm không tốt việc này, thì chúng ta không thể nào đánh thắng trận được, cũng không thể nào ăn nói với Trung ương được ”.

Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Vi Quốc Thanh, tổ cố vấn quân sự Bộ Tổng Tham mưu và tổ cố vấn của mấy đại đoàn chủ lực giúp phía Việt Nam tổ chức nhiều lớp tập trung huấn luyện cho cán bộ, giúp bộ đội tiến hành nhiều đợt chỉnh huấn quân sự. Quân đội nhân dân lần lượt triển khai huấn luyện quân sự cho 11 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn pháo binh và 1 tiểu đoàn trinh sát. Thời gian mỗi lần chỉnh huấn khoảng một tháng. Đề cương và giáo tài huấn luyện đều do tổ cố vấn giúp biên soạn. Tổ cố vấn ở các đại đoàn giúp đào tạo cán bộ và tổ chức thực thi huấn luyện.

Trong huấn luyện quân sự, cố vấn cấp tiểu đoàn của các đơn vị đã phát huy tác dụng rất lớn. Các đồng chí ấy suốt ngày lăn lê bò toài với cán bộ chiến sĩ cơ sở, dạy họ động tác chiến thuật lợi dụng địa hình, ẩn nấp tiếp cận địch v.v... dạy họ năm kỹ thuật lớn là ném lựu đạn, nhất là tổ chức thực thi đánh bộc phá liên tục. Họ giảng đi giảng lại, làm mẫu nhiều lần, không sợ khổ, không sợ mệt, hết lòng hết sức làm tốt việc huấn luyện, đã thu được hiệu quả tương đối tốt.

3. Tăng cường xây dựng chính quy hoá, khắc phục thói quen du kích. Quân đội nhân dân ở trong môi trường chiến tranh du kích lâu dài, có thói quen du kích khá nặng. Đồng thời bộ máy của các Tổng cục quá cồng kềnh, nặng nề, chức trách của các ban ngành không rõ, tồn tại chủ nghĩa giấy tờ phiền phức. Từ cơ quan đến đơn vị chưa có điều lệ, điều lệnh chính quy và chế độ nội quy thống nhất. Nếu tình hình đó không thay đổi thì không thể thích ứng với yêu cầu của vận động chiến, công kiên chiến. Vì vậy, Vi Quốc Thanh kiến nghị với Võ Nguyên Giáp tiến hành giáo dục chính quy hoá xây dựng các chế độ nội quy đối với cơ quan, bộ đội. Phía Việt Nam tiếp nhận kiến nghị này. Vì thế, dưới sự chủ trì của Mai Gia Sinh, tổ cố vấn quân sự giúp phía Việt Nam khởi thảo “ Điều lệnh chiến đấu ”, “ Điều lệnh kỷ luật ” và “ Điều lệnh nội vụ ”. Những điều lệnh này sau khi được Tổng Quân uỷ Quân độI nhân dân Việt Nam thảo luận sửa đổi, thông qua, ban bố trong toàn quân chấp hành, làm cho việc xây dựng chính quy hoá của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến một bước dài. Các cố vấn còn giúp quân đội Việt Nam tổ chức lớp huấn luyện cán bộ tham mưu, bồi dưỡng cán bộ tham mưu của Bộ Tổng Tham mưu và của các đại đoàn chủ lực tăng cường xây dựng Bộ tư lệnh của Quân đội Nhân dân.

4. Bồi dưỡng cán bộ huấn luyện, đề bạt cán bộ từ cơ sở. Trong chiến dịch Biên Giới, Vi Quốc Thanh tìm hiểu thấy đông đảo chiến sĩ và một số cán bộ cơ sở bộ đội quân đội Việt Nam trong chiến đấu thể hiện rất tốt, dũng cảm mưu trí, chịu thương chịu khó, tuân thủ kỷ luật, trong đó không thiếu nhân tài ưu tú, nhưng đã lâu không được đề bạt trọng dụng. Bởi vì Quân đội Nhân dân nói chung không đề bạt cán bộ trong chiến sĩ, mà là tuyển dụng học sinh thanh niên, được trường quân sự hoặc đợi huấn luyện tập huấn ngắn ngày, rồi phân phối về bộ đội làm cán bộ trung đội, đại đội. Một số cán bộ học sinh này biểu hiện rất tốt, nhưng cũng có không ít người không biết đánh giặc, không biết chỉ huy, ra trận nhút nhát, tham sống sợ chết. Đó là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sức chiến đấu của bộ đội. Trong cán bộ các cấp hiện có thành phần cũng khá phức tạp 4. Vi Quốc Thanh cho rằng, muốn giải quyết vấn đề nhức nhối này, cần phải bắt tay từ hai mặt :

– Một là luân phiên huấn luyện cán bộ hiện có, nâng cao tố chất quân sự và trình độ chính trị của họ. Vì vậy, tổ cố vấn chính trị do Đặng Dật Phàm chủ trì đã giúp phía Việt Nam mở lớp bồi dưỡng cán bộ phân kỳ chia đợt, luân lưu huấn luyện cán bộ đại đội trở lên. Trong lớp bồi dưỡng cán bộ, vừa học chính trị vừa học quân sự. Cố vấn đích thân giảng bài, hướng dẫn học viên độc lập suy nghĩ, dạy lẫn nhau học lẫn nhau; tự giác giải quyết tư tưởng. Lớp bồi dưỡng đợt đầu đã thu được kết quả rõ rệt, Hồ Chí Minh khen ngợi. Từ đợt thứ hai trở đi lãnh đạo đảng và quân đội Việt Nam Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và lãnh đạo các Tổng cục cũng lần lượt đến lớp huấn luyện giảng bài, thu được hiệu quả tốt hơn. Trong mấy năm về sau liên tục tổ chức được 8 đợt bồi dưỡng cán bộ, cán bộ đại đội trở lên của bộ đội Việt Bắc về cơ bản luôn lưu huấn luyện được một lần, có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao tố chất cán bộ, tăng cường sức chiến đấu của quân đội.

– Hai là coi trọng đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ, từng bước thay đổi thành phần của đội ngũ cán bộ. Công việc này được từng bước hướng dẫn và giúp đỡ phía Việt Nam tiến hành. Tổ cố vấn từ các Tổng cục đến các đại đoàn đều lợi dụng dịp tổng kết chiến dịch, hướng dẫn các chỉ huy cao cấp xuống cơ sở mở cuộc toạ đàm, nghe các chiến sĩ kể chuyện chiến đấu. Rất nhiều chiến sĩ kể chuyện rất sinh động hoạt bát, sự thật cụ thể, kinh nghiệm thiết thực. Các chỉ huy cao cấp dự toạ đàm cuối cùng nhận thức được trong chiến sĩ thực sự có nhân tài, nên đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ. Sau chiến dịch Biên Giới, Võ Nguyên Giáp đi cùng cố vấn pháo binh Đậu Kim Ba, xuống bộ đội mở ba cuộc chiến sĩ toạ đàm làm cho đồng chí cảm thấy rất nhiều bổ ích. Sau đó đồng chí nói với cố vấn : “ Bộ đội cấp dưới có những nhân tài cầm quân đánh giặc. Ý kiến của các đồng chí đúng, phải tìm nhân tài có kinh nghiệm tác chiến từ cấp dưới, đưa lên vị trí lãnh đạo, mới có thể nâng cao sức chiến đấu ”. Từ đó quân đội Việt Nam bắt đầu chú ý tuyển chọn đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ. Nhưng vấn đề, thuộc về đường lối cán bộ này mãi đến sau 1953, Đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam chỉnh quân chính trị, mới được giải quyết tương đối tốt. Trong thời gian này, Đặng Dật Phàm dẫn đầu tổ cố vấn chính trị bắt tay giúp Việt Nam tăng cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến, tăng cường xây dựng toàn diện công tác chính trị. Mã Tây Phu dẫn đầu tổ cố vấn hậu cần lấy việc làm tốt bảo đảm hậu cần cho các chiến sĩ làm trọng tâm, dẫn dắt xây dựng toàn diện công tác hậu cần, làm cho nó từng bước thích ứng với nhu cầu của đánh vận động quy mô lớn.

Thế là, trải qua một năm công tác Quân đội nhân dân Việt Nam đều đạt được thành tích rõ rệt trên các mặt xây dựng quân sự, chính trị, hậu cần, thực hiện bước chuyển biến từ giai đoạn đánh du kích sang giai đoạn đánh vận động.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:51:56 am
Tiến quân lên Tây Bắc

Sau khi về Bắc Kinh, đồng chí Vi Quốc Thanh báo cáo tình hình công tác của đoàn cố vấn quân sự với Lưu Thiếu Kỳ, Nhiếp Vinh Trăn, trình bày ý kiến của mình đối với chiến trường Việt Nam và phương hướng công tác chiến từ nay về sau, được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương coi trọng.

Do tình hình sức khoẻ của Vi Quốc Thanh không được tốt, trong thời gian ngắn không thể trở lại Việt Nam công tác, Trung ương bèn bổ nhiệm đồng chí làm Phó tư lệnh lực lượng công an. Từ đó, Vi Quốc Thanh dời vào ngôi nhà chữ Khẩu ở Đông Bản Kiều, chấm dứt lịch sử đồng chí ở chiêu đãi sở sau khi về nước và ở nhà tập thể thời gian dài với phu nhân, Hứa Kỳ Thanh, công tác ở Ban Tổ chức Trung ương. Vi Quốc Thanh tuy làm việc ở Bộ Tư lệnh lực lượng công an, nhưng vẫn quan tâm theo dõi sự phát triển của tình hình chiến sự Việt Nam. Các bức điện quan trọng qua lại giữa Quân uỷ Trung ương và Đoàn cố vấn, Cục Cơ yêu Bộ Tổng tham mưu theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương đều sao chuyển cho đồng chí xem.

Thu đông năm 1951, tình hình chiến tranh Triều Tiên tương đối ổn định. Mao Trạch Đông càng quan tâm theo dõi với tình hình chiến sự Đông Dương hơn. Tầm mắt của Mao Chủ tịch không chỉ chú ý theo dõi chiến trường Bắc Bộ Việt Nam, mà còn chú ý theo dõi chiến trường Trung Bộ, Nam Bộ, chú ý theo dõi Lào và Campuchia. Không chỉ chú ý theo dõi chiều hướng của quân Pháp, mà còn quan tâm đến hoạt động của Mỹ đặt chân vào Đông Dương. Trong đầu Mao Chủ tịch dần dần hiện lên rõ nét một ý tưởng chiến lược : trước hết mở chiến trường Tây Bắc, giành lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Sau đó phát triển xuống Trung Nam Bộ, phát triển sang Trung Hạ Lào và Campuchia. Tấn công trước vào vùng binh lực địch mỏng yếu, để từng bước làm cho mình lớn mạnh lên, làm cho địch suy yếu, tạo điều kiện, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là đánh lấy vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Phải đề xuất kiến nghị này với Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Cử ai đi bây giờ ? Sau khi Mao Trạch Đông bàn với Lưu Thiếu Kỳ, quyết định giao nhiệm vụ này cho La Quý Ba hoàn thành, và giao La Quý Ba kiêm luôn quản lý công tác của Đoàn cố vấn.

Đồng chí La Quý Ba tham gia cách mạng năm 1925, trải qua cuộc đấu tranh ở Tỉnh Cương Sơn và cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm, từng giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ quân khu Tấn Trung (miền Trung Sơn Đông), Chính uỷ Quân đoàn 7 v.v... Tháng 3/1950 sang Việt Nam làm đại diện liên lạc của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ít lâu sau sang làm Trưởng đoàn cố vấn chính trị của Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách giúp công tác đảng của Việt Nam. Sau khi về nước nghỉ ngơi không lâu, đầu năm 1952 La Quý Ba lại nhận mệnh lệnh của Trung ương, sang Việt Nam. Vùng Tây Bắc Việt Nam giáp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc có giá trị chiến lược rất quan trọng, nó là vùng xung yếu chiến lược của quân Pháp án ngữ Thượng Lào kiềm chế vùng giải phóng Việt Bắc, yểm hộ đồng bằng sông Hồng. Đánh lấy vùng Tây Bắc có thể nối liền thành một dải với vùng giải phóng Việt Bắc, hình thành hậu phương vững chắc, bắc dựa Trung Quốc, nam tiếp giáp Thượng Lào, một vùng rộng lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc tạo điều kiện giành lấy đồng bằng sông Hồng và thúc đẩy toàn quốc kháng chiến thắng lợi. Còn quân Pháp ở vùng Tây Bắc chỉ có binh lực của 8 tiểu đoàn và 41 đại đội, phân tán chốt giữ 144 cứ điểm, dù là phân bố binh lực hay cấu trúc công sự đều mỏng yếu hơn nhiều so với vùng đồng bằng sông Hồng. Đó là điều kiện có lợi cho Quân đội Nhân dân tiến quân lên đánh Tây Bắc. Tuy nhiên, vùng Tây Bắc sông sâu núi cao, dân cư thưa thớt, là vùng tập trung dân tộc thiểu số, cơ sở quần chúng yếu, kinh tế nghèo nàn, giao thông bất tiện. Đó là điều kiện bất lợi. Lúc đó rất nhiều cán bộ cao cấp trong quân đội nhân dân Việt Nam chỉ nhìn thấy mặt bất lợi, mà không nhìn thấy giá trị chiến lược quan trọng của vùng này, nên không muốn lên Tây Bắc tác chiến.

Sau khi La Quý Ba đến Việt Nam, chuyển tới chủ tịch Hồ Chí Minh sự phân tích và kiến nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với phương hướng tác chiến từ nay về sau, Hồ Chí Minh tiếp nhận kiến nghị đó. Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp trong tháng 4, ra quyết định chuyển hướng chủ công của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc.

Sau đó, Đoàn cố vấn quân sự và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần phương án tác chiến của chiến dịch Tây Bắc và từ tháng 4 đến tháng 7, ba lần điện thỉnh thị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ; Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị tỉ mỉ vấn đề mục tiêu, chiến thuật và thời gian tác chiến tại Tây Bắc. Cuối cùng phương án tác chiến của phía Việt Nam xác định là sử dụng hai đại đoàn 308,312 và hai trung đoàn của đại đoàn 316 tất cả binh lực 8 trung đoàn, mở tấn công địch vào trung tuần tháng 10. Tác chiến đợt 1 giải phóng vùng Nghĩa Lộ và Quang Huy, tác chiến đợt 2 giải phóng vùng Sơn La và Mộc Châu.

Hạ tuần tháng 9, Hồ Chí Minh bí mật thăm Trung Quốc, sau đó nhận lời mời sang Liên Xô dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong thời gian ở Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Bành Đức Hoài trực tiếp đưa ra với Hồ Chí Minh kiến nghị về chiến lược chung của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, tức trước tiên đánh lấy vùng Tây Bắc, tiến tới tiến sang Thượng Lào, để xây dựng hậu phương chiến lược rộng lớn. Có hậu phương chiến lược này thì có thể ở vị thế chủ động. Sau đó sẽ phát triển sang những vùng binh lực địch mỏng yếu Trung Hạ Lào, Campuchia và Trung Nam Bộ Việt Nam, cuối cùng đánh lấy đồng bằng sông Hồng, giành toàn thắng chiến tranh chống Pháp. Hồ Chí Minh bày tỏ hoàn toàn tán thành kiến nghị này. Các vị lãnh đạo lại thảo luận thêm vấn đề tác chiến vùng Tây Bắc và đi đến ý kiến nhất trí.

Hồ Chí Minh nêu ra với Mao Trạch Đông, chiến dịch Tây Bắc sắp bắt đầu vô cùng quan trọng, tốt nhất mời Vi Quốc Thanh sang lại Việt Nam giúp đánh tốt trận này. Mao Trạch Đông đồng ý ngay yêu cầu của Hồ Chí Minh. Ngày 30/9, Hồ Chí Minh gửi điện cho La Quý Ba nói, đồng chí đã bàn với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, trọng điểm của chiến dịch Tây Bắc là tấn công Nghĩa Lộ. Sau khi đánh lấy Nghĩa Lộ, lập tức phát triển ra vùng xung quanh, thành lập căn cứ địa cách mạng, xây dựng đường ôtô Yên Bái đi Nghĩa Lộ. Tác chiến đợt hai không tấn công Sơn La nữa. Hồ Chí Minh còn báo cho La Quý Ba biết, Vi Quốc Thanh sẽ nhanh chóng từ Bắc Kinh đi Việt Nam.

Ngày 1/10 năm ấy là ngày quốc khánh thứ 3 của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Trên quảng trưởng Thiên An môn đêm hôm đó, hàng vạn quần chúng hân hoan vui mừng, ca hát nhảy múa. Vào lúc màn đêm buông xuống, mtc đến thành lầu Thiên An Môn nghồi chính giữa, cùng các trợ thủ chủ yếu của người xem pháo hoa. Lúc đó Vi Quốc Thanh đã được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh lực lượng công an, cũng bước lên Thiên An Môn. Đồng chí nhìn thấy Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đang mỉm cười ngồi bên cạnh. Từ trên thành lầu, Vi Quốc Thanh một lần nữa nhận mệnh lệnh sang Việt Nam chấp hành sứ mệnh quân sư.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, sau khi nhận điện của Hồ Chí Minh họp lại một lần nữa thảo luận kế hoạch chiến địa Tây Bắc. Hội nghị quyết định huỷ bỏ kế hoạch tác chiến đợt hai đã bàn định trước đấy, theo điện chỉ thị của Hồ Chí Minh tập trung tấn công Nghĩa Lộ. Võ Nguyên Giáp không dự hội nghị này đang dẫn Bộ chỉ huy tiền tuyến chiến dịch tiến lên Nghĩa Lộ. Sau khi nhận được điện báo của Trường Chinh thông báo tình hình cho đồng chí sau hội nghị, Võ Nguyên Giáp tỏ ra không đồng ý thay đổi kế hoạch tác chiến đợt 2. Trường Chinh quyết định chờ Vi Quốc Thanh sau khi đến sẽ định đoạt lại.

Vi Quốc Thanh ở Bắc Kinh được nghe chỉ thị trực tiếp của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài và sau khi trao đổi với Hồ Chí Minh, ngày 16/10 đến căn cứ địa Việt Bắc. Ngay hôm đến Việt Bắc, lập tức chuyển đến lãnh đạo Việt Nam ý kiến của Hồ Chí Minh đã trao đổi với Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài về chiến dịch Tây Bắc Việt Nam. Ngày 18/10, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp thảo luận lại La Quý Ba và Vi Quốc Thanh cũng tham gia hội nghị này. Hội nghị quyết định sau đợt một chiến dịch Tây Bắc, xem tình hình lúc bấy giờ hãy quyết định có tiến hành đánh đợt 2 hay không.

Sau hội nghị, ngày 24/10, Vi Quốc Thanh ra tiền tuyến Nghĩa Lộ. Lúc này Mai Gia Sinh đã dẫn nhân viên Ban chỉ huy Đoàn cố vấn ở tiền tuyến Tây Bắc giúp phía Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến đợt 1 chiến dich.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:52:29 am
Chiến dịch Tây Bắc đã được sắp đặt và chuẩn bị thời gian dài bắt đầu nổ súng ngày 14/10/1952. Đêm hôm đó, trung đoàn 174 đại đoàn 316 tiêu diệt luôn quân địch ở cứ điểm Ca Vịnh, trung đoàn 141 đại đoàn 312 tấn công cứ điểm Sài Lương. Đại đoàn 308 sau khi bao vây sở chỉ huy phân khu của địch ở Nghĩa Lộ đêm 17 trước tiên tiêu diệt địch ở cứ điểm ngoại vi Bố Trương, tiếp đó sau khi chuẩn bị hỏa pháo, đã tấn công Nghĩa Lộ, cuộc chiến đấu quyết liệt đến hửng sáng hôm sau, tiêu diệt toàn bộ hơn 700 tên địch đóng ở Nghĩa Lộ.

Khói đạn chiến đấu ở Nghĩa Lội chưa tan, Vu Bộ Huyết, cố vấn quân sự của đại đoàn 308 lập tức dẫn cảnh vệ Lỗ Hiển Dư đi xem trận địa. Khi họ đến bên cạnh trận địa quân Pháp bên gò núi, chú Lỗ liếc mắt nhìn thấy lá cờ của quân Pháp trên trận địa vẫn bay ở đây bèn hô lên một tiếng : “ Tôi đi nhổ lá cờ đó ”, một mình chạy tới lá cờ của quân Pháp. Vu Bộ Huyết vội hét lên : “ Chú Lỗ quay về ”, nói chưa dứt lời, một tiếng nổ vang lên, một quả mìn nổ tung chàng trai Lỗ Hiển Dư người Sơn Đông, vừa tròn 20 tuổi ngã xuống, một dòng máu nóng chảy trên mảnh đất Việt Nam.

Cùng lúc với đại đoàn 308 thắng lợi ở Nghĩa Lộ, đại đoàn 312 đang tiến lên tấn công vào sâu phía bắc bờ tây sông Hồng, trên đường quét sạch cứ điểm quân Pháp, đánh tan quân địch phục kích ở Nam Mai và tiếp tục buộc địch rút khỏi điểm Tú Lệ, Gia Hội v.v.. Trung đoàn độc lập 148 từ Lào Cai tiến xuống phía nam, giải phóng Quỳnh Nhai ở bờ đông sông Đà, và hợp lại với đại đoàn 312. Các đại đoàn 308 và 316 sau khi đánh thắng trận đầu tiếp tục tiến quân tấn công Phù Yên, Vạn An v.v.. cho ngựa uống nước sông tại sông Đà.

Đến 23/10, tác chiến đợt 1 cơ bản kết thúc, tấn công tất cả 35 cứ điểm tiêu diệt gần 200 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn từ tây sông Hồng đến đông sông Đà. Khi Vi Quốc Thanh đến tiền tuyến Tây Bắc vào đúng lúc tác chiến đợt 1 kết thúc tác chiến đợt 2 chưa bắt đầu. Đồng chí và Võ Nguyên Giáp chia tay hơn một năm, hôm đó gặp lại tại tiền tuyến, hai người hết sức thân thiết. Vi Quốc Thanh tìm hiểu tỉ mỉ tình hình tác chiến đợt 1 và tình hình địch ta trước mắt.

Sau khi mở màn chiến dịch, quân Pháp điều động 4 trung đoàn dù từ Hà Nội đổ bộ xuống vùng Tây Bắc. Quân lính đóng tại vùng Tây Bắc, quân Pháp hiện có 7 tiểu đoàn cơ động, 4 tiểu đoàn phòng thủ, cộng với ngụy quân địa phương và những tên bị đánh tan ở đông sông Đà tháo chạy, ở vùng Sơn la, Lai Châu có tất cả khoảng 10.000 binh lực, phân bố trên một dải đất dài 300 km, rộng hơn 50 km. Phòng ngự của địch tương đối phân tán mỏng yếu. Quân đội Việt Nam tuy có thương vong, nhưng số quân không giảm mấy và do trận đầu thắng lợi tinh thần lên cao, cung cấp hậu cần cũng không có vấn đề gì lớn. Vì vậy, Vi Quốc Thanh tán thành tiếp tục tiến hành tác chiến đợt 2. Nhưng lúc này, quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng áp dụng hành động mới. Ngày 29/10 quân Pháp điều động 3 binh đoàn cơ động, và phối hợp với cụm pháo binh do viên chỉ huy khu vực Bắc Bộ De Linarès chỉ huy, xuất phát từ tây đồng bằng sông Hồng, tiến vào vùng Phú Thọ, hòng chiếm đóng Phú Thọ và Yên Bái căn cứ hậu cần của quân đội Việt Nam, cắt đứt tuyến cung cấp lương thực của quân đội Việt Nam, để giải vây cho Tây Bắc.

Ý đồ của địch rất rõ ràng, nên xử lý tình hình này như thế nào ? Sau khi Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh trao đổi với nhau kiến nghị phía Việt Nam rút ra 1 trung đoàn chủ lực trở về Phú Thọ, cùng với hai trung đoàn chủ lực bố trí sẵn ở vùng gần đó và một số bộ đội địa phương quần nhau với địch. Đồng thời, nhân lúc binh lực ở đồng bằng sông Hồng đang trống, quân đội Việt Nam tăng cường hoạt động vũ trang sau lưng địch, ra sức mở rộng vùng du kích, uy hiếp hậu phương địch. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này.

Quân Pháp tiến vào Phú Thọ bị chủ lực quân đội Việt Nam và bộ đội địa phương kiên quyết chặn đnáh, hành động chậm chạp. Sau khi đến gần Tuyên Quang được tin hậu phương của chúng không ổn địch, buộc phải rút lui. Trên đường rút lui không ngừng bị quân đội Việt Nam tấn công bắn chết, bị thương. Ngày 17/11 trung đoàn 36 đại đoàn 308 từ tiền tuyến Tây Bắc quay về phục kích trên quốc lộ số 2, một lúc tiêu diệt hơn 400 tên địch, bắn hỏng hơn 10 xe tăng và hơn 30 ôtô. Ba trung đoàn chủ lực Việt Nam truy kích quân Pháp đến phòng tuyến đoạn phía Tây đồng bằng sông Hồng mới thu quân. Hành động giải vây Tây Bắc của quân Pháp lần này đã phải trả giá bằng việc hơn 1.200 tên địch bị thương vong, rốt cuộc thất bại hoàn toàn.

Ngày 15/11, tác chiến đợt 2 bắt đầu. Sáu trung đoàn chủ lực quân đội Việt Nam vượt sông Đà, triển khai cuộc tấn công vào tỉnh Sơn La giáp Lào, công phá các cứ điểm quan trọng của quân Pháp, qua 6 ngày đêm liên tục tác chiến đã giải phóng các thành phố thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu, Tuần Giáo v.v.. tiêu diệt rất nhiều quân địch.

Khi tấn công Thuận Châu, quân đội Việt Nam được biết từ cửa miệng tù binh, binh lực địch ở Điện Biên Phủ trống vắng, chỉ có 200 lính người Thái canh giữ dưới sự chỉ huy của một trung úy quân Pháp, liền đưa một tiểu đoàn bộ binh, qua hai ngày hai đêm băng rừng lội suối ngày 30/11 nhẹ nhàng lấy được Điện Biên Phủ, bọn địch canh giữ chạy tán loạn vào rừng. Ngày 22/11 quân Pháp bỏ tỉnh lỵ Sơn La. Khoảng 8 tiểu đoàn binh lực địch tháo chạy khỏi các nơi ở Sơn la tập trung về Nà Sản cách Sơn La 20km về phía nam, tranh thủ xây dựng công sự hòng cố thủ. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn tính quyết định tập trung 6 trung đoàn chủ lực, bao vây và tấn công Nà Sản, tiêu diệt quân địch cố thủ, giành toàn thắng của chiến dịch.

Nhưng lúc này tình hình ở Nà Sản có thay đổi. Quân địch giữ Nà Sản được không quân Pháp ra sức chi viện; trước tiên thả tấm thép làm đường băng làm sân bay đơn giản rất nhanh, tiếp đó máy bay vận tải chở xe tăng, pháo và vật liệu xây dựng công sự, binh lính xây dựng thành tập đoàn cứ điểm, hơn 20 cứ điểm. Sau khi chuẩn bị ngắn ngày, đêm 30/11 quân đội Việt Nam tấn công 4 cứ điểm bên ngoài Nà Sản. Do địch phát huy ưu thế hỏa lực, chi viện cho nhau, có cứ điểm chưa công phá được có cứ điểm sau khi công phá bị địch lấy lại, bộ đội ta bị thương vong nặng. Lúc này quân Pháp lại cho 2 tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản, tổng binh lực lên đến hơn 7000 người.

Sau khi phân tích tình hình tác chiến ở ngoại vi Nà Sản, Vi Quốc Thanh cho rằng cứ điểm của địch thành cụm, hỏa lực chi viện cho nhau, công sự ngày càng tăng cường binh lực ngày càng tăng thêm quân đội Việt Nam khó gặm nổi cục xương cứng này. Tiếp tục đánh, bộ đội thương vong nhiều hơn, tiêu hao lớn hơn, lúc đó nếu địch phản kích, quân đội Việt Nam sẽ bị thiệt hại lớn. Vì vậy, đồng chí kiến nghị với Võ Nguyên Giáp thu quân từ đây, kết thúc chiến dịch. Phía Việt Nam chấp nhận kiến nghị này. Chiến dịch Tây Bắc kết thúc ngày 10/12.

Trong chiến dịch Tây Bắc trải qua gần hai tháng, quân đội Việt Nam giành được thắng lợi to lớn, tiêu diệt tất cả 13.800 tên địch giải phóng vùng đất rộng 28.500 km2 và 25.000 dân. Toàn bộ vùng Tây Bắc, trừ ngoại vi Nà Sản của tỉnh Sơn La và nửa phần phía bắc của tỉnh Lai Châu, đều do quân đội nhân dân kiểm soát. Vùng giải phóng nối liền thành một dải với căn cứ địa Việt Bắc, hình thành hậu phương chiến lược rộng lớn, thay đổi hơn nửa tình thế chiến lược địch ta của chiến trường Bắc Bộ.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:52:57 am
Ngày 17/12, khi gửi điện cho Quân uỷ Trung ương Trung Quốc trình bày tình hình tác chiến Tây Bắc, Vi Quốc Thanh có nói : “ Tác chiến từ Nghĩa Lộ đến Yên Châu, đều căn cứ vào chỉ thị của Mao, Bành, tập trung binh lực hỏa lực ưu thế, chủ động tấn công tác chiến; đồng thời binh lực địch tương đối phân tán, các cứ điểm không thể tiếp ứng cho nhau, cho nên dễ bị ta công phá từng cái. Ta lợi dụng tấn công ban đêm, tránh được đe dọa của không quân, pháo binh, giải quyết chiến đấu nhanh chóng, lại có thể lợi dụng địa hình có lợi, di chuyển trận địa nghỉ ngơi tiêu hao đạn dược chưa được bổ sung, cho nên tuy thường bị đói hành động tác chiến dồn dập, nhưng thắng lợi liên tiếp, tinh thần rất cao... đến giai đoạn bao vây Nà Sản, cán bộ bắt đầu có tâm lý cho là gặp may, đánh giá chưa đầy đủ tình hình địch ở Nà Sản, khinh địch, cho nên khi đánh bốn cứ điểm bên ngoài Nà Sản thương vong tương đối lớn. Do hỏa lực của không quân, pháo binh địch được phát huy cao độ, tâm tư bộ đội chuyển biến nhanh, tư tưởng bi quan dao động nhanh chóng lan tràn, nảy sinh tâm lý oán trách. Thái độ của cán bộ đại đoàn, trung đoàn im lặng (vì đã không bảo đảm lấy được Sơn La, trước mặt Hồ Chí Minh), không dám báo cáo lên trên tình hình chân thực của bộ đội, Bộ Tổng Tham mưu không thể nắm chính xác tình hình bộ đội. Kết quả cán bộ đại đoàn, trung đoàn muốn cố vấn đề đạt ý kiến lên trên, Bộ tổng thì yêu cầu đại đoàn, trung đoàn bày tỏ thái độ có thể thắng hay bại, hình thành tình trạng trên dưới không chịu trách nhiệm đối với chiến tranh. Căn cứ theo tình hình lúc bấy giờ, chúng tôi không thể không nhanh chóng bày tỏ thái độ ”.

Vào lúc kết thúc chiến dịch Tây Bắc, Hồ Chí Minh từ Liên Xô trở về Bắc Kinh. Trong thời gian ở Moscow, Stalin tiếp kiến Hồ Chí Minh, hai bên trao đổi một số vấn đề trọng đại liên quan đến cách mạng Việt Nam 5. Ở Bắc Kinh, Hồ Chí Minh nhận được báo cáo tình hình quân sự của chiến dịch Tây Bắc. Người cảm thấy quân đội Việt Nam ngừng tác chiến hơi sớm, còn có thể đánh tiếp, tốt nhất nhân đà khí thế đang hăng đánh lấy Nà Sản. Vì thế ngày 14/12, Người điện cho Võ Nguyên Giáp và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện viết : “ Bọn địch ở Nà Sản cô lập, tấn công Nà Sản có ý nghĩa rất lớn đối với củng cố Tây Bắc, phát triển quan hệ với Lào, nên ra sức tiêu diệt quân địch ở đây, đừng để cho chúng chạy thoát. Nếu không thể tiêu diệt một lần thì chỉ vài lần tiêu diệt chúng. Và đề ra, trên nguyên tắc, không ảnh hưởng đến đánh Nà Sản có thể đồng thời hoặc sớm hơn quét sạch bọn địch ở vùng Lai Châu ”.

Bức điện đó của Hồ Chí Minh Vi Quốc Thanh được xem trước, vì điện văn qua lại giữa Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đều do điện đài của Đoàn cố vấn sau khi nhận và dịch mới chuyển cho phía Việt Nam. Sau khi xem điện Võ Nguyên Giáp lại bàn với Vi Quốc Thanh, ý kiến của hai người nhất trí. Trước mắt không thể tiếp tục đánh Nà Sản. Ngày 17/12 Vi Quốc Thanh điện cho Quân uỷ Trung ương : “ Đã biết bức điện ngày 14 của Hồ chủ tịch, chấp hành điện này có khó khăn. Quân địch cố thủ Nà Sản hiện có 10 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoạn lựu pháp, còn ta trong 5 trung đoàn có 3 trung đoàn thương vong tương đối lớn, không chỉnh đốn thì không thể đánh tiếp. Vì vậy đề nghị thu quân thắng lợi, tạm thời bao vây quân địch ở Nà Sản, đợi tình hình có lợi sẽ tấn công lấy Nà Sản. Phải mất hai tháng làm tốt việc chấn chỉnh bổ sung bộ đội tranh thủ trước mùa mưa mở lại chiến dịch ở Tây Bắc. Ở phía bắc quét sạch bọn địch ở ngoại vi Lai Châu, cô lập Lai Châu. Ở phía nam tấn công lấy Sầm Nứa của Lào, nối liền với Điện Biên Phủ, tạo điều kiện tiếp tục mở ra chiến trường trung Lào ”.

Ngày 19/12, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời Vi Quốc Thanh, nêu rõ : “ Bọn địch ở Nà Sản gặp rất nhiều khó khăn, nếu quân đội nhân dân có thể tấn công thì rất có lợi cho việc củng cố Tây Bắc, giải phóng Lào. Nhưng tấn công Nà Sản không phải làm ngay lập tức, cần phải chuẩn bị ít nhất ba tháng, khi có đủ năng lực công kiên và nắm chắc thắng lợi mới tấn công tiêu diệt ”. Bức điện này vừa nêu lên tầm quan trọng của việc đánh lấy Nà Sản, ủng hộ ý kiến của Hồ Chí Minh vừa nêu ra phương châm cần phải chuẩn bị đầy đủ, sau khi có đủ điều kiện hãy đánh Nà Sản, cũng giải tỏa được nỗi lo của Vi Quốc Thanh.

Đầu tháng 1/1953, Vi Quốc Thanh lại về Bắc Kinh báo cáo công tác và xin chỉ thị vấn đề tác chiến.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:53:39 am
Tiến đánh Sầm Nưa

Ngày 3/2/1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Vốn định đánh Nà Sản trước mùa mưa, vì chuẩn bị chưa kịp, quyết định đánh sau mùa mưa. Tranh thủ tổ chức chiến dịch Sầm Nứa trong tháng 4, đánh lấy vùng thượng Lào ”. Ngày 9, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời tán thành.

Ngày 2/3 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho La Quý Ba và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, sau khi nêu lên ý kiến cần làm tốt hơn công tác chuẩn bị chiến dịch Thượng Lào, nói : “ Đồng chí Vi Quốc Thanh sắp lên đường sang Việt Nam giúp các đồng chí tổ chức chiến dịch Sầm Nứa, ngày 14/3 có thể đến Bằng Tường ”.

Ngày 5/3, Vi Quốc Thanh vâng lệnh từ Bắc Kinh lên đường sang Việt Nam. Cùng đi còn có Hồ Chí Minh, đồng chí muốn về nước sau khi chữa bệnh nghỉ ngơi ở Bắc Kinh. Hai người cùng ngồi trong một toa xe công vụ của đoàn tàu từ Bắc Kinh đi Nam Ninh. Hồ Chí Minh rất nhiệt tình hiền hoà với mọi người, coi Vi Quốc Thanh như người bạn tri ân chuyện gì cũng có thể nói với nhau. Trên đường, Hồ Chí Minh nói đến tình hình hiện tại, nói đến chặng đường đã qua, cũng nói đến tình hình đồng chí gặp Stalin ở Moscow. Hồ Chí Minh nói với Vi Quốc Thanh : “ Năm nay chúng tôi sẽ triển khai cải cách ruộng đất quy mô lớn ở căn cứ địa Việt Bắc, bởi vì “ người ” đã nói rồi ”. Khi nói tới chữ đồng chí cố ý kéo dài âm điệu đồng thời đặt hai ngón tay lên miệng thành hình chữ “ bát ”. Vi Quốc Thanh hiểu ngay đó là Stalin.

Hồ Chí Minh nói : Khi gặp nhau ở Moscow ông ấy hỏi tôi : “ Đồng chí muốn làm lãnh tụ của công nhân nông dân, hay là muốn làm lãnh tụ của địa chủ, nhà tư bản ? ” tôi nói : “ Tất nhiên tôi làm lãnh tụ của công nhân nông dân ”. Ông ấy nói : “ Đồng chí muốn làm lãnh tụ của công nhân nông dân thì phải mang lại ruộng đất cho họ, mang lại lợi ích thực tế cho họ ”. Ông ấy còn lấy ví dụ nói với tôi : “ Ví như một chiếc đòn gánh, một đầu là công nhân, nông dân, một đầu là địa chủ nhà tư bản, đồng chí phải đứng ở một đầu, không thể đứng ở giữa, đứng ở giữa không thể được ”. Hồ Chí Minh tiếp tục nói : “ Thực ra, được sự giúp đỡ của La Quý Ba, chúng tôi đã làm rất tốt nhiều việc về mặt phát động quần chúng, đã làm giảm tô giảm tức, chuẩn bị tiến hành cải cách ruộng đất. Bây giờ ông ấy đã nói ra, sau khi tôi về nước, phải thống nhất tư tưởng trong đảng chúng tôi hơn nữa, làm cải cách ruộng đất quy mô lớn ”.

Vi Quốc Thanh nói : “ Thế thì tốt ! thời kỳ chiến tranh giải phóng ở Trung Quốc, nhờ có cải cách ruộng đất, nông dân hăng hái tòng quân, chi viện tiền tuyến, cho nên giành được thắng lợi toàn quốc rất nhanh. Việt Nam làm cải cách ruộng đất, quần chúng được phát động hơn nữa, nhất định sẽ thúc đẩy tiến hành kháng chiến toàn quốc thắng lợi ”.

Vi Quốc Thanh nói tiếp : “ Địa phương làm cải cách ruộng đất, sẽ phản ánh vào trong bộ đội. Ở bộ đội cũng cần phải tiến hành giáo dục và chỉnh đốn ”. Hồ Chí Minh nói : “ Đồng chí nói đúng, về mặt này còn phải nhờ các cố vấn giúp đỡ cụ thể ” 6.

Sau khi đoàn tàu đến Nam Ninh, Hồ Chí Minh và Vi Quốc Thanh được biết tin Stalin từ trần. Hồ Chí Minh vội về Việt Nam. Trước khi lên đường, Vi Quốc Thanh đã xin Quân uỷ nghỉ phép, dẫn bác sĩ và bảo vệ đi huyện Đông Lan tây bắc Quảng Tây, trở về quê hương 26 năm xa cách, để thăm em trai và bà con họ hàng của mình. Ở nhà hai hôm lập tức quay lại Nam Ninh và trung tuần tháng 3 đến chỗ ở đoàn cố vấn ở Việt Bắc.

Thượng Lào, tức miền bắc nước Lào, là hậu phương chiến lược quan trọng của quân Pháp ở Đông Dương. Sau khi bị thất bại nặng nề ở Tây Bắc Việt Nam, quân Pháp đã tăng cường phòng ngự ở Thượng Lào, xây dựng Sầm Nứa thành cứ điểm có công sự phòng ngự khá mạnh, có 3 tiểu đoàn và 1 đại đội pháo binh đóng giữ, hơn 1500 người. Ở Xiêng Khoảng và Mường Sủi phía nam Sầm Nứa nương tựa vào nhau, cũng có binh lực của 3 tiểu đoàn phòng thủ. Nói chung, phòng ngự của địch tương đối yếu. Sau khi về đến nơi ở của đoàn cố vấn, Vi Quốc Thanh lập tức bàn bạc với Võ Nguyên Giáp về vấn đề liên quan đến chiến dịch Thượng Lào và đi đến nhận thức chung : mục đích mở chiến dịch Thượng Lào là tiêu diệt sinh lực địch ở Thượng Lào, đánh lấy một số vùng ở Thượng Lào, mở căn cứ địa cho chính phủ kháng chiến Lào, củng cố và phát triển thành quả của chiến dịch Tây Bắc. Kế hoạch của chiến dịch là : các đại đoàn 308, 312, 316 tiến vào Lào theo quốc lộ 6, bôn tập từ xa đến Sầm Nứa ; đại đoàn 304 từ Nghệ An tiến về phía tây theo quốc lộ 7, tấn công Xiêng Khoảng và chặn đánh quân Pháp nguỵ từ Sầm Nứa có thể chạy về phía nam, năm đại đội Pháp từ Điện Biên Phủ phát triển sang vùng sông Nậm Hu để phối hợp.

Ngày 23/3, Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương QĐNDVN ra tiền tuyến Thượng Lào. Khi sắp đến biên giới Lào thì gặp Hoàng thân Suphanuvong, lãnh tụ kháng chiến Lào, cùng trên đường đi vào lãnh thổ Lào.

Hoàng thân Suphanuvong, thành viên của vương thất Lào đã sớm tiếp thụ chủ nghĩa Marx, tham gia phong trào độc lập Lào. Năm 1946 sau khi quân Pháp khôi phục lại binh lực, ông tổ chức đấu tranh vũ trang chống Pháp. Mùa hè năm 1950 đứng ra nhận chức Thủ tướng nhiệm kỳ đầu tiên của Chính phủ kháng chiền Lào. Tháng 2/1951, lãnh đạo đảng Lao động Việt Nam và Hoàng thân Suphanuvong và Chêmxamây 7 người phụ trách mặt trận giái phóng Cao Miên họp hội nghị liên tịch, quyết định thành lập Liên minh kháng chiến ba nước, Việt Nam, Lào, Campuchia, cùng nhau chống lại sự cai trị thực dân của Pháp ở Đông Dương. Đến năm 1952 được sự giúp đỡ của Việt Nam, lực lưỡng vũ trang của Hoàng thân Suphanuvong lãnh đạo phát triển được 1500 người.

Vi Quốc Thanh sớm biết tiếng Hoàng thân Suphanuvong, cũng đại thể biết rõ sự từng trải phi thường của ông. Vị Hoàng thân này người tầm thước, khuôn mặt vuôn tròn, nước da ngăm ngăm, khiêm tốn hoà nhã. Trong mấy ngày tiếp xúc với Suphanuvong Vi Quốc Thanh hiểu được tình hình đấu tranh và phong tục tập quán dân tình của Lào. Để bày tỏ lòng kính trọng và tình bạn đối với Vi Quốc Thanh, Hoàng thân Suphanuvong tặng đồng chí một thanh đoản kiếm có vỏ bọc tinh xảo và chiếc túi vải thêu hoa văn sặc sỡ. Bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam bắt đầu ra quân vào hạ tuần tháng 3. Ngày 10/4, đại đoàn 308 và 312 vượt qua sông Mã biên giới Lào, cử một tiểu đoàn trang bị nhẹ tiến lên suốt ngày đêm, chuẩn bị đánh chiếm sân bay Sầm Nứa bằng động tác bất ngờ để cắt đứt đường tháo chạy bằng máy bay của địch. Không ngờ, đêm 11, một trung đội trưởng trinh sát của bộ đội địa phương quân đội Việt Nam đầu hàng địch, tiết lộ ý đồ của quân đội nhân dân. Quân Pháp nguỵ rạng sáng ngày 13 bỏ chạy về phía nam. Thế là cuộc tập kích biến thành cuộc truy kích.

17g ngày hôm đó, bộ đội đi đầu của đại đoàn 312 đến thị xã Sầm Nứa. Rút bài học trong chiến dịch Tây Bắc Bộ đội vì mang nặng đường xa nên hành động truy kích chậm chạp để cho địch chạy thoát, một tiểu đoàn bộ đội truy kích vứt bỏ ruột tượng gạo, trang bị nhẹ, tiến nhanh, hai tiểu đoàn khác thồ lương thực đuổi theo. Ngày 15, đuổi kịp quân địch ở Na Nong cách Sầm Nứa 30 km về phía nam, tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch. Ngày 18, số địch sống sót chạy đến gần quốc lộ 7, bị bộ đội đại đoàn 304 từ Nghệ An tiến lên phía tây chặn đánh, tiêu diệt phần lớn. Trận này Quân đội Nhân dân chưa tốn một phát đạn pháo, đã bắn chết bắt làm tù binh gần 1000 tên địch. Hơn 200 tên chạy trốn vào rừng, hơn 220 tên chạy về tiểu đoàn địch ở cánh đồng Chum.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:54:18 am
Ngày 18/4, các đại đoàn 308 và 312 tiến gần tới Luông PraBang, gặp vương thất Lào ở; buộc quân Pháp gấp rút đưa ba tiểu đoàn nhảy dù xuống Luông PraBang, tăng cường phòng ngự ở đây. Đồng thời, đại đoàn 316 tiến đến gần bắc Xiêng Khoảng, đại đoàn 304 cũng áp sát Xiêng Khoảng theo quốc lộ 7. Quân Pháp ở Xiêng Khoảng bỏ chạy về cánh đồng Chum, làm cho binh lực ở đây tăng lên đến 5 tiểu đoàn. Ngày 26, quân đội Việt Nam truy đuổi đến cánh đồng Chum, bao vây doanh trại quân Pháp. Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Điện Biên Phủ tiến xuống phía nam tiến triển cũng rất nhanh, từ 16 đến 23 tháng 4, liên tiếp đánh các nơi Hội Hòn, Toả Thi, Mường U và đều chiến thắng, tiêu diệt một phần quân địch, kiểm soát một số vùng của tỉnh Phong Xalì.

Xét thấy mùa mưa sắp đến, đường cung cấp hậu cần cho bộ đội kéo quá dài, quân Pháp thực thi tập đoàn cứ điểm cố thủ, quân đội Việt Nam khó nắm bắt cơ hội tác chiến ở Thượng Lào, sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc quyết định kết thúc chiến dịch Thượng Lào ngày 3/5. Chiến dịch này tổng cộng tiêu diệt binh lực của 3 tiểu đoàn và 11 đại đội (tương ứng 1/5 tổng binh lực quân Pháp và ngụy ở Lào) giải phóng toàn tỉnh Sầm Nứa và một số vùng của tỉnh Xiêng Khoảng, Phong Xalì có tất cả hơn 300.000 dân (tương đương 1/5 diện tích của cả nước Lào), làm cho vùng này nối liền thành một dải với Tây Bắc, căn cứ địa Việt Bắc của Việt Nam. Từ đó, Sầm Nứa trở thành trụ sở của Chỉnh phủ kháng chiến Lào, cuộc kháng chiến của Lào xuất hiện cục diện mới.

Sau khi kết thúc chiến dịch Thượng Lào, Võ Nguyên Giáp và Hoàng thân Suphanuvong mời Vi Quốc Thanh nói chuyện với cán bộ Việt Nam, Lào. Lúc này, Vi Quốc Thanh hiểu được trong số cán bộ Việt Nam cử sang công tác giúp Lào, có hiện tượng coi thường cán bộ Lào và bao biện làm thầy, còn cán bộ Lào có tư tưởng ỷ lại và tâm lý tự ti, ảnh hưởng đến triển khai công tác, Vi Quốc Thanh cho rằng, nhân cơ hội này làm công tác tư tưởng là cần thiết, nên đồng ý.

Hội nghị cán bộ Việt Nam, Lào lần này họp trong rừng gần Sầm Nứa. Cán bộ Lào đến họp nói chung đều biết tiếng Việt. Vi Quốc Thanh nói đến đâu, dịch ra tiếng Việt đến đấy. Chủ đề phát biểu của Vi Quốc Thanh là hợp tác Việt – Lào, đoàn kết chống ngoại xâm. Trong phát biểu, đồng chí điểm từng vấn đề tồn tại tương đối hàm súc, nhưng không phê bình trực diện. Trong phát biểu nói đến vấn đề cán bộ Việt Nam, lại nói đến vấn đề cán bộ Lào. Lời lẽ rất cân nhắc phát biểu tương đối biện chứng, toàn diện, được cán bộ dự hội nghị hoan nghênh và đánh giá tốt. Sau hội nghị, cố vấn chính trị Lý Văn Nhất nói : “ Phát biểu lần này của Vi Quốc Thanh thật không dễ dàng ! Nói rất hay, sẽ giúp ích cho công tác sau này ”.

Sự thực về thời kỳ sau chiến dịch Tây Bắc quân đội Việt Nam tấn công tập đoàn cứ điểm Nà Sản chưa đánh đã bị thương vong nặng làm cho Vi Quốc Thanh nhận thức sắc bén rằng, từ nay về sau, quân Pháp có thể lợi dụng ưu thế không quân của chúng, dùng phương thức tập đoàn cứ điểm để ngăn chặn tấn công của Quân đội Nhân dân mà Quân đội Nhân dân thì chưa có cách đối phó. Nếu không giải quyết vấn đề này thì chủ lực quân đội Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng không có đất dụng võ trận lớn không đánh được, trận nhỏ không có để đánh. Vì vậy cần phải giúp quân đội Việt Nam nghiên cứu giải quyết vấn đề này. Vi Quốc Thanh cho rằng, trên vấn đề đối phó với tập đoàn cứ điểm của quân Pháp, quân đội Việt Nam có hai nhược điểm rõ rệt : một là hoả lực pháo binh yếu, thiếu đại bác và cao xạ pháo, không thể kiềm chế hoả pháo của địch và đối phó máy bay địch ; hai là tố chất chiến thuật công kiên kém, không biết đánh công kiên chiến quy mô tương đối lớn. Vì vậy sau khi kết thúc chiến dịch thượng Lào đồng chí một mặt kiến nghị Quân uỷ Trung ương, đẩy nhanh trang bị và huấn luyện đối với bộ đội pháo và cao xạ pháo quân đội Việt Nam, chuẩn bị dùng cho tác chiến mùa đông, mặt khác giúp phía Việt Nam nắm chắc huấn luyện chiến thuật công kiên cho bộ đội nâng cao năng lực tác chiến công kiên.

Hạ tuần tháng 5/1953, Vi Quốc Thanh liên tục triệu tập cố vấn quân sự nghiên cứu vấn đề bố trí huấn luyện quân sự. Đồng chí nêu rõ : “ Huấn luyện chiến thuật công kiên của Quân đội Nhân dân phải bắt đầu từ biên soạn giáo trình, thông qua biên soạn giáo trình tăng cường nhận thức thống nhất tư tưởng với đặc điểm phòng ngự của địch, sau đó dùng tài liệu thống nhất, triển khai huấn luyện quân sự cho cán bộ trước, chiến sĩ sau, đặt cơ sở chiến thuật để giành thắng lợi cho chiến dịch Đông Xuân tới ”. Đồng chí nêu rõ : Để biên soạn tốt giáo trình, cần thành lập Ban biên tập giáo trình gồm cán bộ lãnh đạo Việt Nam và cố vấn quân sự, phụ trách công tác biên soạn ; biên tập giáo trình và huấn luyện quân sự, cần tốn nhiều thời gian, phải làm chuyển biến tư tưởng của bộ đội không muốn đào công sự, học cách xây dựng công sự và xây dựng trận địa tấn công, học biết xây dựng đường sóc và cất giữ lương thực, đạn dược, học biết dùng hoả pháo khống chế sân bay địch và dập tắt hoả pháo địch.

Những ý kiến này sau khi nêu ra với phía Việt Nam, được phía Việt Nam coi trọng. Đầu tháng 6, Ban biên tập giáo trình được thành lập gồm người phụ trách cơ quan Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân, cán bộ lãnh đạo các đại đoàn và cố vấn quân sự. Tại hội nghị thành lập, Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh đều dự và phát biểu ý kiến. Võ Nguyên Giáp phát biểu nhấn mạnh biên tập giáo trình phải lấy học tập kinh nghiệm Trung Quốc là chính. Vi Quốc Thanh phát biểu nhấn mạnh biên soạn giáo trình chiến thuật công kiên nên bao gồm động tác cá nhân và chiến thuật công kiên hợp đồng từ tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn, phải lấy tập đoàn cứ điểm Nà Sản làm đối tượng chính. Quá trình biên soạn giáo trình tức là quá trình thống nhất tư tưởng chiến thuật.

Sau khi bố trí xong công tác huấn luyện quân sự, Vi Quốc Thanh lại về Bắc Kinh báo cáo công tác. Theo bố trí thống nhất của Tổng quân uỷ quân đội Việt Nam, dưới sự giúp đỡ của cố vấn quân sự, bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam tiến hành chỉnh huấn quân sự, chính trị quy mô lớn vào hè thu năm 1953. Trước tiên triển khai chỉnh quân chính trị gần giống phong trào chỉnh quân kiểu mới của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tiến hành giáo dục tố khổ, nâng cao giác ngộ giai cấp, tăng cường ý chí chiến đấu để phối hợp với phong trào cải cách ruộng đất đang tiến hành ở căn cứ địa Việt Bắc. Sau đó, trên cơ sở biên soạn xong giáo trình chiến thuật công kiên triển khai chỉnh huấn quân sự. Khi kết thúc chỉnh huấn quân sự, tổ chức diễn tập quân sự. Thông qua chỉnh huấn trình độ chiến thuật công kiên của bộ đội được nâng cao rõ rệt, đặt cơ sở cho chiến dịch Điện Biên Phủ tiến hành sau đó.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:55:02 am
Quyết chiến Điện Biên Phủ (thượng)

Sau thất bại nặng nề liên tiếp của quân Pháp ở Tây Bắc, Thượng Lào, Tổng chi huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương lại thay ngựa. Raoul Salan kế nhiệm Jean de Lattre de Tassigny bị cách chức, thay thế ông ta là tướng Henri Navarre nguyên Tham mưu trưởng bộ đội Đức đóng ở Trung Âu. Hy vọng của chính phủ Pháp kết thúc một cách “ thể diện ” chiến tranh Đông Dương gửi gắm vào Navarre.

Sau khi lên nhậm chức, Navarre đã phân tích nghiên cứu tình thế chiến trường Đông Dương, nhanh chóng vạch ra một kế hoạch quân sự hòng thoát khỏi bị động, giành lại chủ động, làm cho chiến tranh xâm lược chuyển bại thành thắng trong vài ba năm. Những điểm chủ yếu của kế hoạch này là : 1. Gấp rút tổ chức và huấn luyện nguỵ quân Bảo Đại (Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn, Việt Nam) chốt giữ cứ điểm để quân Pháp tập trung tổ chức thành tập đoàn chủ lực làm nhiệm vụ tác chiến cơ động ; 2. Thực hành phương châm quân sự nam trước bắc sau, mưu đồ chiếm đóng toàn bộ vùng giải phóng và vùng du kích Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Việt Nam. Trước mùa xuân 1954 nhằm ổn định hậu phương chiến lược của quân Pháp. Mùa đông 1954 đến mùa xuân 1955, trên cơ sở tổ chức xong tập đoàn chủ lực, tập trung toàn bộ binh lực quyết chiến với chủ lực Việt Nam ở Bắc Bộ, giành thắng lợi có tính quyết định.

Để thực hiện kế hoạch Navarre, nước Pháp điều động từ bản quốc, Bắc Phi và Triều Tiên 12 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh tăng viện cho quân viễn chinh xâm lược Việt Nam. Chính quyền bù nhìn Bảo Đại tiến hành tổng động viên, ra sức bắt lính bổ sung cho quân nguỵ, từ tháng 5/1953 đến tháng 3/1954, tổng cộng được 107 tiểu đoàn quân nguỵ. Đến mùa thu 1953 quân Pháp tập trung tổng cộng 84 tiểu đoàn binh lực cơ động tại chiến trường Đông Dương. Tháng 8/1953, quân Pháp điều chỉnh bố trí từ bỏ Nà Sản, không vận toàn bộ binh lực đóng ở Nà Sản đến đồng bằng Bắc Bộ, tăng cường lực lượng cơ động. Trong thời gian này quân Pháp ráo riết càn quét vùng địch hậu Nam Bộ, Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam, hòng tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam và du kích vũ trang.

Kế hoạch Navarre được đế quốc Mỹ tán thưởng và ủng hộ. Sau đình chiến ở Triều Tiên để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình, Mỹ ráo riết can thiệp vào Đông Dương, quyết định tăng 50% viện trợ quân sự cho Pháp, chi 400 triệu USD để xây dựng nguỵ quân Việt Nam và cung cấp số lớn trang bị quân sự, để bổ sung cho quân Pháp và vũ trang quân nguỵ.

Pháp – Mỹ ra sức cấu kết, tích cực thúc đẩy hoạt động của kế hoạch Navarre, làm cho phía Việt Nam cảnh giác và coi trọng. Sau khi quân Pháp rút khỏi Nà Sản vào trung tuần tháng 8, cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến mùa đông đã định trước đây mà mục tiêu chính là tấn công Nà Sản. Nhận định, tình hình mới như thế nào, chọn hướng tấn công quan trọng của tác chiến mùa đông ở đâu ? Trở thành vấn đề to lớn cần được nghiên cứu giải quyết. Ngày 13/8, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thông báo cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tình hình mới quân Pháp rút khỏi Nà Sản và đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc “giúp đề xuất ý kiến” đối với vấn đề nhận thức tình hình và phương hướng tác chiến từ nay về sau.

Lúc này, người lãnh đạo quân đội Việt Nam lại chuyển hướng tấn công chính của tác chiến mùa đông sang vùng đồng bằng sông Hồng, từ bỏ kế hoạch đã định đánh lấy Lai Châu, rút bộ đội bao vây Nà Sản về vùng Thanh Hoá, Trung Bộ Việt Nam. Ngày 22/8, Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp thảo luận vấn đề tác chiến. Trong cuộc họp, Võ Nguyên Giáp phát biểu nghiêng về tác chiến chính diện ở chiến trường đồng bằng Bắc Bộ. Không nhắc đến đánh lấy vùng Lai Châu, cũng không chủ trương mở thêm chiến trường Thượng Lào. Hội nghị không ra được quyết định vấn đề tác chiến mùa đông. La Quý Ba được mời tham gia hội nghị này và báo cáo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tình hình hội nghị này.

Ngày 27, 29 tháng 8, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần điện trả lời La Quý Ba và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, phân tích tình hình sau khi Navarre nhận thức, nêu ý kiến về biện pháp quân sự cần áp dụng. Nhất là trong điện ngày 29, đã trình bày rõ ràng với phương châm chiến lược cần áp dụng từ nay về sau. Bức điện viết : “ Trước hết tiêu diệt địch ở vùng Lai Châu, giải phóng miền Bắc và miền Trung nước Lào, sau đó từng bước đẩy chiến trường sang Nam Lào và Cao Miên, uy hiếp Sài Gòn. Làm như vậy, thì có thể rút thu hẹp nguồn lính nguỵ, nguồn tài chính, phân tán binh lực quân Pháp, đẩy chúng vào bị động, đồng thời mở rộng bản thân Quân đội Nhân dân, chủ động tiêu diệt địch ở khắp nơi và từng bước làm suy yếu địch. Đó là điều kiện tiên quyết để đánh lấy đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Thực hiện kế hoạch chiến lược này đủ để đánh bại ách thống trị thực dân của đế quốc Pháp ở Việt Nam, Lào, Cao Miên. Nhưng cần phải chuẩn bị khắc phục mọi khó khăn, cần phải tính toán lâu dài ”.

Hồ Chí Minh hoàn toàn tán thành phương châm chiến lược của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu ra. Trong tháng 9, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam một lần nữa thảo luận vấn đề tác chiến mùa đông của Quân đội Nhân dân. Tổng Quân uỷ QĐNDVN nêu ra hai phương án; một là đặt hướng chủ công vào vùng Tây Bắc và Thượng Lào, hai là tập trung chủ lực vào tác chiến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Qua hội nghị thảo luận, Hồ Chí Minh rút ra kết luận phương hướng chiến lược không thay đổi tiếp tục tấn công vùng Tây Bắc và Thượng Lào, phủ định phương án tập trung chủ lực vào tác chiến ở đồng bằng Bắc Bộ. Vấn đề hướng tác chiến mùa đông cơ bản đã được giải quyết. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam căn cứ vào đó một lần nữa nghiên cứu vạch ra kết hoạch tác chiến, nhưng kế hoạch này chần chừ mãi không vạch ra được.

Ngày 10/10/1953, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện cho Trung ương Đảng Lao động Việt Nam : “ Năm 1950 chúng tôi đáp ứng đề nghị của các đồng chí lần lượt cử hai đồng chí La Quý Ba, Vi Quốc Thanh dẫn đầu một số cán bộ quân đội và cán bộ đảng địa phương sang Việt Nam làm công tác giúp đỡ có tính chất cố vấn. Về sau đồng chí Vi Quốc Thanh mắc bệnh về nước điều trị, nhất thời không thể trở lại Việt Nam công tác cho nên đồng chí La Quý Ba thống nhất phụ trách giúp các đồng chí tiến hành công tác. Nay sức khoẻ đồng chí Vi Quốc Thanh khá hơn năm ngoái, chúng tôi vẫn cử đồng chí trở lại Việt Nam công tác. Đồng thời quyết định Vi Quốc Thanh làm Tổng cố vấn quân sự, phụ trách công tác giúp chỉ đạo chiến tranh và xây dựng quân đội. Đồng chí La Quý Ba làm Tổng cố vấn chính trị, phụ trách công tác giúp xây dựng đảng, địa phương và chính sách ”. Bức điện nói : “ Vi Quốc Thanh và 4 cán bộ định trung tuần tháng này lên đường sang Việt Nam, ngày 21/10 có thể đến Bằng Tường, xin cho người đến Bằng Tường liên lạc với đồng chí ”.

Sau khi nhận nhiệm vụ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần tạm thời cử đồng chí sang Việt Nam giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy chiến dịch Tây Bắc và chiến dịch Thượng Lào, Vi Quốc Thanh lại được bổ nhiệm làm Tổng cố vấn quân sự, lại gánh vác nhiệm vụ nặng nề, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự giúp Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến và xây dựng quân đội. Trước khi sang Việt Nam, đồng chí được Mao Trạch Đông tiếp và truyền đạt trực tiếp đối sách tình huống. Mùa thu Bắc Kinh trời cao lồng lộng, nắng gió chan hoà. Trong Phong Trạch Viên – Trung Nam Hải những cây tùng bách cao vút thẳng tắp xanh tốt um tùm, tràn đầy sức sống. Chiều một ngày trung tuần tháng 10, Mao Trạch Đông đi đi lại lại trong phòng sách của Người, đang suy nghĩ tình hình chiến sự Việt Nam, suy nghĩ tình hình Việt Nam La Quý Ba điện về phản ánh.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:55:49 am
Tiếng báo cáo của cán bộ bảo vệ cắt ngang luồng suy nghĩ của Người : “ Chủ tịch, Bành tổng và đồng chí Vi Quốc Thanh đến ”.

“ Mời các đồng chí vào ”. Mao Trạch Đông nói.

Vi Quốc Thanh theo sát Bành Đức Hoài bước vào phòng sách cũng là phòng tiếp khách của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông bắt tay từng đồng chí và mời họ ngồi. Bành Đức Hoài nói : “ Chủ tịch, đồng chí Vi Quốc Thanh gần đây sắp trở lại Việt Nam, lần này đến xin Chủ tịch chỉ thị trực tiếp ”.

Mao Trạch Đông : “ À ! Tôi cũng đang muốn gặp các đồng chí cùng bàn tình hình và chiến sự của Việt Nam ”. Sau đó, Người nói với Vi Quốc Thanh : “ Đồng chí đã xem kế hoạch quân sự của Navarre chưa ? ”.

Vi Quốc Thanh trả lời : “ Bộ Tổng Tham mưu có cho tôi xem rồi ”. Mao Trạch Đông lại hỏi : “ Đồng chí có ý kiến gì không ? ”. Vi Quốc Thanh trả lời : “ Đây là sự tiếp tục của kế hoạch De Lattre, tiền nhiệm của ông ta. Điểm chung của họ là ra sức phát triển nguỵ quân, thay quân Pháp chốt giữ cứ điểm, dùng người Việt đánh người Việt, làm cho quân Pháp có thể tập trung tổ thành lực lượng đột xuất làm nhiệm vụ tác chiến cơ động, để giành lại quyền chủ động chiến tranh. Ông ta nêu ra, trước hết giành thế thủ ở Bắc Bộ và ráo riết càn quét và tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ, sau khi ổn định hậu phương chiến lược, ông ta sẽ tập trung binh lực quyết chiến với chủ lực quân đội Việt Nam ở Bắc Bộ. Phương châm quân sự Nam trước Bắc sau này là sự phát triển của Navarre cũng là do tình thế bắt buộc ông ta như vậy ”.

Mao Trạch Đông hỏi tiếp : “ Cuối tháng 8 Trung ương có điện cho La Quý Ba, đồng chí đã xem chưa ? ”. Bành Đức Hoài trả lời : “ Tôi đã cho người đưa đồng chí xem rồi ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Phương châm chiến lược của Trung ương vạch ra cho Việt Nam mâu thuẫn gay gắt với kế hoạch của Navarre. Thực thi phương châm chiến lược này sẽ hoàn toàn đập tan tính toán chỉ tính đến một phía của Navarre ”.

Mao Trạch Đông nói : “ La Quý Ba điện về nói Hồ Chí Minh tán thành kiến nghị đó, Bộ Chính trị cũng đã ra quyết định, nhưng kế hoạch tác chiến mùa đông của quân đội Việt Nam vẫn chần chừ chưa vạch ra được là sao ? ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Trước chiến dịch Tây Bắc năm ngoái, trong cán bộ trung, cao cấp quân đội Việt Nam, có thể nói là đa số người không muốn đi Tây Bắc tác chiến. Chủ yếu là sợ gian khổ, sợ khó khăn, thiếu tầm nhìn chiến lược, cho rằng Tây Bắc đất rộng người thưa, là nơi nghèo, có giải phóng cũng không có ý nghĩa lớn bao nhiêu. Người phụ trách chủ yếu Tổng cục hậu cần quân đội Việt Nam lại nói Đoàn cố vấn tích cực chủ trương giải phóng Tây Bắc là vì có lợi cho Trung Quốc, có thể tiêu diệt tận sào huyệt tàn quân phỉ Quốc dân đảng ở đó, không quấy rối biên giới Vân Nam Trung Quốc nữa. Họ cho rằng, chỉ có giải phóng đồng bằng sông Hồng thì mới đã nghiện, mới có thể giành được kháng chiến thắng lợi. Qua làm công tác tư tưởng này lúc bây giờ về cơ bản được uốn nắn. Bây giờ quân địch đã rút khỏi Nà Sản, họ lại để mắt chằm chằm vào sông Hồng. Đó là bệnh cũ tái phát ”.

Mao Trạch Đông nói : “ Chà ! Họ muốn đi đường thẳng. Nhưng e rằng đường này không đi nổi. Trước mất điều kiện đánh đồng bằng sông Hồng chưa chín muồi. Vẫn phải đi một ít đường quanh co khúc khuỷu, mới có thể đến đích. Điều đó đã được thực tiễn mấy chục năm cách mạng của Trung Quốc chứng minh. Tôi thấy cách mạng Việt Nam cũng không thể đi đường thẳng. Sau khi đồng chí trở sang, phải làm nhiều công tác giải thích thuyết phục cán bộ cao cấp của Quân đội Nhân dân ”.

Vi Quốc Thanh chú ý lắng nghe mỗi lời nói của Mao Trạch Đông, và ghi lại vào quyển nhật ký bằng những từ ngữ giản đơn mà chỉ có đồng chí mới hiểu hết được ý nghĩa. Mao Trạch Đông nói tiếp : “ Tôi thấy hướng tác chiến của Việt Nam trong suốt thời kỳ từ nay về sau là nên hướng vào Trung, Nam Bộ ”. “ Để thực hiện kế hoạch chiến lược này, trước mắt cần áp dụng một số biện pháp thiết thực. Tôi nghĩ đến ba biện pháp thế này : một là dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn pháo binh, trước tiên giải quyết địch ở Lai Châu, giải phóng toàn bộ vùng Tây Bắc, căn cứ chiến lược quan trọng này. Sau đó chuyển quân sang Thượng Lào, mở thêm chiến trường Thượng Lào. Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, đưa một bộ phận binh lực xuống Trung Lào và Hạ Lào. Hai là kiên quyết khai thông con đường Nam tiến (chỉ con đường từ nam Liên khu 4 Trung bộ lên Trung, Thượng Lào, qua quốc lộ 9 đến Tây Nguyên), đó là đường giao thông huyết mạch của bộ đội, đánh xuống phía nam sau này, quan hệ rất lớn đến tình hình chiến sự tương lai. Nên đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn hoàn thành. Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, thái độ đối với làm đường tức là thái độ đối với chiến tranh. Làm đường không tích cực, không nghiêm túc tức là không tích cực, không nghiêm túc giành lấy thắng lợi chiến tranh. Ba là liên khu Việt Bắc, Liên khu 3, 4 mỗi nơi nên điều động một số cán bộ đảng, chính quyền, quân đội đến Trung, Hạ Lào và Nam Bộ Việt Nam làm công tác mở vùng mới, làm cho bộ đội đánh được nơi nào, thì củng cố nơi ấy. Giống như thời kỳ sau chiến tranh giải phóng, chúng ta điều động cán bộ miền Bắc theo Đại quân xuống miền Nam. Nói tóm lại, ba biện pháp này tức là 12 chữ : hai đại đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ ”.

Nói xong Mao Trạch Đông đưa ánh mắt thăm dò nhìn vào hai người Bành Đức Hoài và Vi Quốc Thanh. Vi Quốc Thanh nói : “ Chỉ thị của Chủ tịch rất quan trọng. Sau khi tôi sang, sẽ truyền đạt tỉ mỉ cho phía Việt Nam và các đồng chí cố vấn, nghiêm chỉnh quán triệt chấp hành ”. Mao Trạch Đông nói : “ Có thể nói với các đồng chí Việt Nam, đó là kiến nghị của tôi ”. Mao Trạch Đông quay sang Bành Đức Hoài nói : “ Bành Tổng cũng nói ý kiến đi chứ ! ”.

Bành Đức Hoài nói : “ Tôi đã nói với đồng chí Quốc Thanh ý kiến của tôi về tình hình chiến tranh Việt Nam và tác chiến Tây Bắc rồi. Xin nói thêm một việc. Bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre mà Cục tình báo Bộ tổng tham mưu lấy được, có thể mang sang cho các đồng chí Việt Nam xem, điều đó giúp ích cho các đồng chí ấy tìm hiểu kẻ địch, phân tích tình hình. Có điều phải chú ý bảo mật ”.

Hai ngày sau Mao Trạch Đông tiếp kiến, Vi Quốc Thanh cùng mấy cán bộ mới bổ nhiệm cố vấn quân sự đáp tàu hoả đi xuống phía Nam. Trong toa xe ghế mềm thoải mái, đồng chí nhìn thấy cảnh sắc cuối thu trên đồng bằng miền Bắc không ngừng lướt qua ngoài cửa sổ, trong lòng lại nghĩ đến tình hình chiến sự Việt Nam. Trong thời gian hơn ba tháng rời Việt Nam, trong bức điện La Quý Ba gửi Trung ương mà đồng chí Tổng tham mưu trưởng cho đồng chí xem, Vi Quốc Thanh hiểu được sự thay đổi to lớn của hai bên địch – bạn trên chiến trường Việt Nam. Đồng chí cảm thấy thấm thía phương châm chiến lược và mấy biện pháp quan trọng của Mao Trạch Đông nêu ra là rất kịp thời, rất chính xác. Đồng chí trù tính với đầy lòng tin là sau khi đến Việt Nam, triển khai công tác như thế nào, làm cho những kế hoạch, ý tưởng này trở thành hiện thực, mở ra cục diện mới cho cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam.

Sau khi đến Nam Ninh, dừng lại có chút việc, Vi Quốc Thanh và các đồng chí cùng đi lại lên ôtô ra Mục Nam Quan (nay gọi là Hữu Nghị Quan), về nơi ở của Đoàn cố vấn quân sự trong rừng Việt Bắc. Khi đến nơi đã là ngày 25/10. Vi Quốc Thanh lập tức thông qua Võ Nguyên Giáp xin gặp chào Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nghe nói Vi Quốc Thanh trở lại Việt Nam rất phấn khởi, liền sắp xếp gặp đồng chí vào ngày 27.

Ngày 26/10, trước hết Vi Quốc Thanh truyền đạt chỉ thị của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài cho La Quý Ba, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và cố vấn quân sự, đồng thời nghe các cố vấn báo cáo tình hình. Đồng chí được biết thêm sau khi quân Pháp chủ động rút khỏi Nà Sản ngày 12/8, quân đội Việt Nam từ trên xuống dưới đều thở phào nhẹ nhõm, tưởng rằng không cần lên Tây Bắc tác chiến. Họ nhằm vào tình hình mới quân Pháp tập trung binh lực cơ động ở Bắc Bộ, lại đặt trọng điểm tác chiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, chủ trương phân tán tập kích, chia quân ứng phó, bố trí phân tán bộ đội chủ lực ở các nơi Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Nho Quan v.v... để đối phó tấn công có thể của quân địch. Do họ bỏ Tây Bắc, nên nguỵ quân, đặc vụ ở đấy thừa cơ phát triển, gây trở ngại cho việc lại tiến quân lên Tây Bắc. Cùng với chuyển biến của tư tưởng chiến lược này, vật tư hậu cần bố trí ở Thái Nguyên và tuyến bắc Bắc Giang – Bắc Ninh, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hành động tiếp theo.

Sau hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam tháng 9 ra quyết định không thay đổi phương châm chiến lược tiến quân lên Tây Bắc, bắt đầu công tác chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc lần thứ hai. Nhưng những người lãnh đạo quân đội thiếu thống nhất với chuyển biến nhận thức này, hành động tương đối chậm chạp, công việc tiến triển không nhanh. Tóm lại, việc tiến quân lên Tây Bắc còn rất nhiều vấn đề chờ giải quyết.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:56:16 am
Ngày 27, Vi Quốc Thanh được Võ Nguyên Giáp đi cùng, cưỡi ngựa đến “dinh rừng trúc” của Hồ Chí Minh, cách hàng chục dặm. Hồ Chí Minh vừa thấy Vi Quốc Thanh lập tức ôm hôn thắm thiết. Cùng dự có Trường Chinh cũng ôm hôn đồng chí, Vi Quốc Thanh chuyển kiến nghị của Mao Trạch Đông về chiến lược Nam tiến và mấy biện pháp quan trọng và ý kiến của Bành Đức Hoài về phương pháp tác chiến và vấn đề xây dựng quân đội trong tình hình chiến tranh hiện nay, đến Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp và trực tiếp đưa cho Hồ Chí Minh bản tiếng Pháp kế hoạch kế hoạch quân sự Navarre.

Cách một hôm, Hồ Chí Minh hành trang gọn nhẹ, bất ngờ đến thăm Vi Quốc Thanh. Người hồ hởi nói với Vi Quốc Thanh : “ Cám ơn đồng chí từ Bắc Kinh mang đến cho chúng tôi hai món quà rất tốt. Một là kiến nghị của Mao Chủ tịch đối với tác chiến về sau, giúp chúng tôi rất lớn. Tôi và các đồng chí Bộ Chính trị đều cho rằng ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là đúng đắn. Thực hành những phương châm và biện pháp đó nhất định có thể đập tan kế hoạch Navarre. Tôi đã gửi điện cho đồng chí Mao Trạch Đông, tỏ rõ thái độ của chúng tôi, kiên quyết làm theo. Hai là bản tiếng Pháp kế hoạch quân sự Navarre, cũng rất giúp ích chúng tôi, làm cho chúng tôi càng hiểu địch hơn trên toàn cục. Đồng chí Võ Nguyên Giáp sau khi xem kế hoạch Navarre bị chấn động mạnh, tỏ ra thông suốt tư tưởng, hoàn toàn ủng hộ phương châm chiến lược giải phóng Tây Bắc, Thượng Lào trước rồi từng bước tiến về phía Nam ”. Hồ Chí Minh ngừng một lát rồi nói tiếp : “ Đồng chí Vi theo đồng chí trước mắt nên nắm những việc nào trước ? ”.

Vi Quốc Thanh trả lời rằng : “ Tôi cho rằng điều chủ yếu nhất trước mắt là vạch kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông. Dựa vào kế hoạch đó để thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, thì các công việc dễ triển khai ”. Hồ Chí Minh nói luôn : “ Rất tốt, rất tốt, hoàn toàn nhất trí với suy nghĩ của tôi ; đồng chí phải giúp đồng chí Võ Nguyên Giáp vạch ra kế hoạch tác chiến thật nhanh, đưa Bộ chính trị thảo luận thông qua. Việc này giao cho đồng chí ”.

Vi Quốc Thanh nói : “ Xin Hồ chủ tịch yên tâm, tôi sẽ cùng đồng chí Võ Nguyên Giáp bàn bạc kỹ lưỡng, vạch ra kế hoạch này nhanh nhất ”. Hồ Chí Minh cám ơn và từ chối mời cơm của Vi Quốc Thanh, vội ra về. Với sự giúp đỡ trực tiếp của Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh, kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông 1953-1954 của quân đội Việt Nam được vạch ra rất nhanh. Ngày 3/11, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận thông qua kế hoạch này. Vi Quốc Thanh điện báo cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nội dung chủ yếu của kế hoạch này và được đồng ý. Những điểm chủ yếu của kế hoạch tác chiến này là :

   1.

      Hướng chủ yếu của tác chiến mùa đông là vùng Lai Châu – Tây Bắc. Sử dụng đại đoàn 308, 316 (thiếu 1 trung đoàn) và trung đoàn 148 của vùng Tây Bắc cùng 4 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểu đoàn công binh, tất cả binh lực là 25.000 người, ngày 10/1/1954 bắt đầu tấn công Lai Châu. Sau thắng lợi, dùng binh lực của hai trung đoàn, đầu tháng 2 tiến quân lên Phong Xa Lì – Thượng Lào. Cuối tháng 2, hai đại đoàn này lần lượt tiến sát Luông PraBang và xem tình hình đánh chiếm Huộc Xãi. Một trung đoàn khác cắm giữa Xiêng Khoảng và Luông Prabang triển khai đánh du kích.
   2.

      Phần lớn binh lực của các đại đoàn 312, 304 lần lượt kín đáo tập kết ở vùng Tây Bắc và Tây Phú Thọ, đại đoàn 320 tập kết giữa phủ Nho Quan và Thanh Hóa chuẩn bị khi bộ đội cơ động của quân Pháp ở đồng bằng sông Hồng, tiến theo hướng Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên, Thanh Hoá v.v.. dụ địch vào sâu, tiêu diệt một bộ phận của chúng.
   3.

      Đồng thời với tiến quân lên Tây Bắc, 1 trung đoàn thuộc đại đoàn 304 và 1 trung đoàn thuộc đại đoàn 325 lần lượt tiến quân sang Trung Lào theo quốc lộ 8 và quốc lộ 12. Sau khi hai trung đoàn hợp lại, xem tình hình tấn công chiếm Thà Khẹt, thị trấn quan trọng ở Trung Lào cắt đứt phòng tuyến của địch trên quốc lộ 13 và sông Mêkông.
   4.

      Đồng thời với tiến quân lên Thượng Lào, cử một tiểu đoàn tăng cường để phối hợp với cán bộ đảng, chính quyền quân đội triển khai công tác ở vùng mới, cắm vào vùng đồng cao nguyên Bô Lô Ven – Hạ Lào. Đồng thời, hai trung đoàn của Liên khu 5 đánh chiếm vùng bắc cao nguyên Tây Nguyên, sau đó tiến về phía tây tạo nên thế Nam Bắc đánh kẹp Hạ Lào.

Kế hoạch tác chiến này thể hiện tương đối đầy đủ kiến nghị của Mao Trạch Đông về kế hoạch chiến lược đặt cơ sở thắng lợi cho toàn bộ tác chiến tấn công mùa đông và trận quyết chiến Điện Biên Phủ về sau :

Để thực hiện thuận lợi kế hoạch tác chiến mùa đông này, từ 19-24 tháng 11, Tổng Quân uỷ QĐNDVN họp hội nghị cán bộ cấp cao. Đây là cuộc hội nghị quân sự quy mô lớn nhất trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, đến dự hội nghị không chỉ có cán bộ cao cấp của bộ đội tham gia chiến đấu mà còn có các đồng chí phụ trách các chiến khu Trung Bộ và Nam Bộ. Lãnh đạo và cố vấn của Đoàn cố vấn quân sự cũng được mời dự hội nghị.

Tại hội nghị, Võ Nguyên Giáp trước tiên tuyên bố kế hoạch tác chiến tấn công mùa đông, và động viên ngắn gọn. Sau đó đi vào thảo luận. Trong thảo luận, những người dự hội nghị tuy nhất trí bày tỏ ủng hộ kế hoạch tác chiến này, nhưng vẫn bộc lộ tư tưởng ngại khó của một số người nhận thức mơ hồ và nhấn mạnh khó khăn quá mức. Ngày thứ hai hội nghị, tức 20/11, không quân Pháp thả lính dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Được tin, vấn đề đối xử với tình hình sau đấy như thế nào, trở thành vấn đề được mọi người quan tâm chú ý.

Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh cho rằng, mục đích địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là âm mưu ngăn chặn quân đội Việt Nam giải phóng hoàn toàn Tây Bắc và tiến quân lên Thượng Lào. Đây là một việc tốt, tạo thời cơ có lợi cho quân đội Việt Nam, cũng làm cho lực lượng cơ động của địch càng phân tán hơn. Qua trao đổi với Võ Nguyên Giáp, đi đến nhận thức nhất trí. Ngày 23, Võ Nguyên Giáp phát biểu tổng kết hội nghị. Đồng chí sắp xếp phát biểu hôm kết thúc hội nghị. Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Mao Trạch Đông muốn đồng chí làm nhiều công tác tư tưởng đối với cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam, đã chuẩn bị đầy đủ.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:56:48 am
Ngày 24, hội nghị vào tiến hành trong hội trường lều tre của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam. Võ Nguyên Giáp nói mấy câu mở đầu, sau đó mời Vi Quốc Thanh lên phát biểu. Vi Quốc Thanh mỉm cười, gật đầu đứng dậy bước lên bục phát biểu với giọng nói chắc nịch rõ ràng : “ Thưa các đồng chí ! Tại hội nghị này kế hoạch tác chiến mùa đông được Trung ương Đảng Lao động phê chuẩn, Võ Tổng tư lệnh tuyên bố và hai lần phát biểu của đồng chí đều rất tốt, nói rất toàn diện, tôi hoàn toàn tán thành ”.

Tiếp đó, đồng chí nêu lên ngắn gọn chủ đề của bài phát biểu lần này : “ Trung ương Đảng Lao động quyết định đặt hướng chính của tác chiến mùa đông này ở vùng Tây Bắc, tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, quyết sách này rất đúng đắn ”.

Khi phiên dịch tiếng Việt dịch đoạn này, đồng chí liếc nhìn quanh hội trường. Hội trường rất yên lặng. Đồng chí biết mọi người đang chờ nghe đồng chí nói tiếp. Đồng chí không có bài viết sẵn, cũng không có đề cương, nội dung muốn nói hoàn toàn nằm trong đầu đồng chí. Đây là thói quen được rèn luyện từ bao nhiêu năm. Vi Quốc Thanh nói tiếp : “ Vùng Tây Bắc tuy núi cao vực sâu, đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, nhưng đó là một căn cứ chiến lược quan trọng. Giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, thì có thể nối liền với liên khu Việt Bắc lưng dựa vào Trung Quốc, nam tiếp giáp Lào, có lợi cho mở chiến trường Thượng Lào, tiến tới tiến xuống Trung Lào, Hạ Lào cho đến Cao Miên và Nam Bộ Việt Nam, có thể đập tan mộng tưởng của Navarre âm mưu củng cố hậu phương chiến lược của ông ta, tiến tới tập trung binh lực quyết chiến với chúng ta ở Bắc Bộ. Nếu Mỹ nhúng chân thêm vào Đông Dương, tiến hành can thiệp quân sự thì chúng ta có khu vực xoay sở khá rộng lớn để đọ sức với chúng. Có thể nói, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc là một bước then chốt quan hệ đến phát triển của toàn bộ cuộc chiến từ nay về sau là một bước then chốt đánh bại bọn xâm lược Pháp, đập tan âm mưu can thiệp của đế quốc Mỹ ”.

Nói đến đây, đồng chí chuyển đầu đề câu chuyện : “ Nghe nói có những đồng chí còn có tư tưởng này nọ đối với việc lên vùng biên cương xa xôi Tây Bắc, Thượng Lào tác chiến, nhấn mạnh khó khăn này nọ. Cho rằng nên đặt lực lượng chủ yếu vào tấn công cứ điểm boong ke của địch ở châu thổ sông Hồng (công sự bê tông cốt thép địch xây xung quanh châu thổ sông Hồng), đánh chiếm vùng châu thổ sông Hồng, mới thực hiện được tổng phản công, giành thắng lợi chiến tranh chống Pháp. Ý muốn của các đồng chí đó rõ ràng là rất tốt. Các đồng chí đó muốn đi đường thẳng, sớm giành thắng lợi kháng chiến. Nhưng con đường này e khó đi lọt. Đây là chỗ mạnh nhất của quân Pháp ở Đông Dương, không chỉ có số lớn bộ đội tinh nhuệ, mà còn giao thông thuận tiện, có lợi cho bộ đội cơ giới hoá của địch vận động. Điều kiện trang bị kỹ thuật hiện nay của quân đội nhân dân rất bất lợi cho tiến hành tác chiến công kích quy mô tương đối lớn. Chúng ta đã có bài học kinh nghiệm về mặt này. Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, tránh chỗ thực, đánh chỗ hư là một nguyên tắc quan trọng của các nhà quân sự các thời đại trước.

Rất nhiều địa phương Tây Bắc, Thượng, Trung Hạ Lào, cho đến Cao Miên và Nam Bộ, Trung Bộ Việt Nam, đều là những vùng phòng ngự của địch mỏng yếu, chúng ta chĩa mũi nhọn tấn công vào những địa phương trên, biến hậu phương chiến lược của địch thành chiến trường mới thì có thể điều động địch, phân tán lực lượng cơ động của địch, không ngừng tiêu diệt và tiêu hao địch, từ đó thay đổi hơn nữa tình thế chiến lược của địch, tạo điều kiện cuối cùng tấn công đánh lấy đồng bằng sông Hồng. Thưa các đồng chí đó là con đường quanh co khúc khuỷu, nhưng nó là con đường tất yếu để đi đến thắng lợi cuối cùng ”.

Tiếp đó, Vi Quốc Thanh nói đến kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc : “ Cách mạng Trung Quốc đã đi con đường quanh co khúc khuỷu như thế. Căn cứ địa Tỉnh Cương Sơn và căn cứ địa Trung ương lấy Thụy Kim làm trung tâm do Mao Chủ tịch lãnh đạo mở ra đều ở vùng núi xa xôi, nghèo nàn giáp giới mấy tỉnh. Năm 1935, Hồng quân trải qua cuộc Trường chinh hai vạn năm nghìn dặm đến Thiểm Bắc thành lập khu Thiểm Cam Ninh lấy Diên An làm trung tâm. Nơi đây là cao nguyên hoàng thổ, đất đai cằn cỗi, nhân dân nghèo khó, nhưng Mao Chủ tịch, Trung ương đảng ở Diên An 13 năm liền, ở đây lãnh đạo toàn bộ cuộc chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng thời kỳ đầu, về sau chỉ cần thời gian hơn một năm đã đánh bại Tưởng Giới Thạch, giành thắng lợi trong cả nước. Đó là con đường thành công nông thôn bao vây thành thị, cuối cùng đánh lấy thành thị ”.

Vi Quốc Thanh tiếp tục nói : “ Kháng chiến của Việt Nam cũng đi con đường như thế. Theo bố trí tác chiến mùa Đông năm nay của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, quyết định vạch ra chính là thể hiện cụ thể con đường này, giải phóng Tây Bắc trước, rồi tiến quân sang Thượng Lào và từng bước tiến xuống Trung – Hạ Lào, cho đến Cao Miên và Nam Bộ, Việt Nam, ở đấy làm cho chúng đảo điên nghiêng ngả, làm cho Navarre một ngày cũng không được yên, không thể không phân tán binh lực cơ động của y, như vậy sẽ xuất hiện rất nhiều cơ hội tiêu diệt địch, có thể từng bước làm suy yếu địch, làm cho mình mạnh lên cải thiện trang bị kỹ thuật của quân đội nhân dân, nâng cao tố chất quân chính của bộ đội. Đến lúc đó, có thể chắc chắn tiêu diệt địch ở đồng bằng sông Hồng, giành thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến ”.

Cuối cùng, Vi Quốc Thanh nói : “ Thưa các đồng chí ! Được sự ủng hộ đế quốc Mỹ, Navarre đang từng bước thực thi, ông ta được Mỹ viện trợ nhiều hơn, tăng cường trên trăm tiểu đoàn quân nguỵ, tổ chức hơn 80 tiểu đoàn bộ đội cơ động, đang tiến hành càn quét qui mô lớn tại các vùng chiếm đóng ở Nam bộ, Trung bộ và Bắc bộ và chuẩn bị tiến vào vùng giải phóng. Mấy ngày gần đây, Navarre lại cho lính nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, khí thế hung hăng. Nhưng y mừng quá sớm. Sắp tới đây cuộc tấn công chúng ta bắt đầu thì sẽ đánh cho hắn không kịp trở tay, rối loạn lung tung, hết phương ứng phó. Nếu Navarre kiên quyết giữ Điện Biên Phủ, tất nhiên cũng không thoát khỏi số phận bị tiêu diệt. Mà điều đó phải dựa vào người chỉ huy các cấp chỉ huy tài tình, dựa vào cán bộ chiến sĩ bộ đội anh dũng thiện chiến. Chúng tôi tin tưởng các đồng chí dũng cảm gánh vác nhiệm vụ nặng nề này. Chúng tôi xin chúc các đồng chí thắng lợi dễ dàng, mã đáo thành công ”.

Phát biểu của Vi Quốc Thanh thỉnh thoảng nổi lên từng tràng vỗ tay nhiệt liệt. Ý kiến sâu sắc, phân tích thấu đáo đó của Vi Quốc Thanh không thể không làm cho các đồng chí có tư tưởng này nọ chân thành cảm phục. Buổi nói chuyện của đồng chí Vi Quốc Thanh có tác dụng tích cực với thống nhất tư tưởng của cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, Vi Quốc Thanh được biết quân Pháp tiếp tục tăng viện binh lực cho Điện Biên Phủ, gấp rút xây công sự, mở sân bay, tích trữ vật tư quân sự, đồng thời tăng 6 tiểu đoàn cho Thượng Lào, đánh chiếm các nơi Mường Khè, Mường Khay v.v.. xây dựng phòng tuyến sông Mã Việt Nam để tiếp ứng cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ.

Dấu hiệu bọn địch cố giữ Điện Biên Phủ là rất rõ ràng. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn tính, quyết định điều chỉnh kế hoạch tác chiến tiến quân lên Tây Bắc. Chia toàn bộ cuộc tác chiến Tây Bắc làm hai bước : đánh Lai Châu trước, đánh Điện Biên Phủ sau. Đồng thời quyết định điều thêm bộ binh, trọng pháo, cao xạ pháo, công binh v.v.. dự trù vật tư tác chiến để bảo đảm nhu cầu tấn công Điện Biên Phủ. Vi Quốc Thanh điện báo kế hoạch điều chỉnh cho Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Quân uỷ Trung ương lập tức trả lời tán thành và đồng ý giải quyết vấn đề cung cấp vật tư cần thiết cho tấn công Điện Biên Phủ.

Ngày 6/12, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị, thảo luận quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, phê phán kế hoạch tác chiến nói trên của Tổng Quân uỷ và quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy tiền phương Điện Biên Phủ do Võ Nguyên Giáp làm Bí thư và Tổng chỉ huy. Sau khi kết thúc hội nghị quân sự, các bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam lần lượt tiến vào vùng tác chiến đã định. Trên đường hành quân lên Tây Bắc, dại đoàn 316 được biết bọn địch ở Lai Châu ngày 7/12 rút về Điện Biên Phủ, lập tức tuân theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội nhân dân truy kích bọn địch, lần lượt tiêu diệt tổng cộng 24 đại đội. Tàn quân địch chạy về Điện Biên Phủ toàn bộ vùng Lai Châu được giải phóng. Tiếp đó, Bộ chỉ huy tiền phương QĐNDVN ra lệnh cho các đại đoàn 316, 308 tiến xuống phía Nam bao vây Điện Biên Phủ.

Trung đoàn 66 đại đoàn 304 tiến xuống phía Tây dọc quốc lộ 8 và trung đoàn 101 đại đoàn 325 thiếu một tiểu đoàn được đưa xuống Hạ Lào tiến xuống phía tây dọc quốc lộ 12, ngày 21, 22 tháng 12 lần lượt tấn công cứ điểm của địch ở Trung Lào, trong mấy ngày ngắn ngủi, tiêu diệt hơn 3 tiểu đoàn cơ động Âu – Phi, tất cả hơn 2200 tên. Quân địch ở Trung Lào khiếp đảm kinh hoàng, bỏ trận địa lũ lượt tháo chạy. Bộ đội Việt Nam rất nhanh tiến đến quốc lộ 13 và sông Mêkông. Lúc này bọn địch ở Thà Khẹt tỉnh lỵ của Khăm Muộn bỏ chạy về phía nam. Quân đội nhân dân lập tức giải phóng Thà Khẹt và phần lớn vùng Trung Lào, buộc quân Pháp nhanh chóng điều động binh lực tăng viện cho Trung Lào, xây dựng tập đoàn cứ điểm ở Xơ Nua và chiếm lại Thà Khẹt. Sau đó quân đội nhân dân chuyển sang củng cố vùng mới giải phóng và làm đường xuống phía nam, đồng thời thừa cơ xuất binh diệt địch.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:57:16 am
Ngày 20/1/1954, quân Pháp dùng binh lực của sáu trung tâm cơ động mở cuộc tấn công lớn vào Phú Yên của Liên khu 5 Trung Bộ Việt Nam, hòng thực hiện mục đích của chúng chiếm toàn bộ Nam Trung Bộ. Liên khu 5 điều động số ít binh lực ứng phó với quân địch chính diện, tập trung 2 trung đoàn chủ lực, theo bố trí sẵn của Bộ Tổng Tham mưu, ngày 24/1 mở cuộc tấn công vào quân địch ở bắc Tây Nguyên. Trận đấu thắng lợi, sau khi tấn công phá liền ba cứ điểm, nhanh chóng mở rộng chiến quả. Bọn địch đóng giữ lũ lượt bỏ chạy. Ngày 5/2, quân đội nhân dân giải phóng thị xã Kon Tum, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở bắc Tây Nguyên. Sau đó tiếp tục tiến xuống phía nam tiến sát quốc lộ 19, và tập kích thị xã Pleiku. Đến đây quân đội nhân dân đã giải phóng 16.000 km2 đất và 200.000 dân. Quân Pháp không thể không ngừng tấn công Phú Yên, cấp tốc điều động binh lực tăng cường lực lượng phòng ngự cho thị xã Pleiku và các cứ điểm ở nam Tây Nguyên để ngăn chặn quân đội nhân dân tiếp tục tiến xuống phía Nam.

Tiểu đoàn tiền trạm của trung đoàn 101 được lệnh tiến xuống Hạ Lào, cuối tháng 1/1954 tấn công Attopeu tỉnh lỵ của Mường May, một tiểu đoàn đóng giữ ở đây bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân địch đóng giữ các nơi ở Hạ Lào chỉ có viên chỉ huy là người Pháp, còn lại đều là nguỵ quân Lào, sức chiến đấu rất yếu. Quân đội nhân dân thừa thắng tiến lên, nhanh chóng giải phóng toàn tỉnh Mường May và phần lớn tỉnh Saravan (chiếm khoảng 2/3 tổng diện tích Hạ Lào) và hơn 200.000 dân làm cho nơi đây nối liền với vùng bắc Tây Nguyên Liên khu 5 mới giải phóng, hình thành tình thế chiến lược vô cùng có lợi.

Ban đầu khi nghiên cứu bố trí tác chiến mùa đông, Đoàn cố vấn từng nêu ra đưa một trung đoàn binh lực xuống Hạ Lào. Phía Việt Nam sợ nơi đó thiếu lương thực, bộ đội khó sống, chỉ đưa 1 tiểu đoàn, không ngờ 1 tiểu đoàn này lại giành được thành tích chiến đấu như vậy, thương vong lại rất ít, cung cấp lương thực cũng hoàn toàn không có vấn đề gì. Điều đó làm cho Võ Nguyên Giáp tăng thêm lòng tin ra lệnh điều động thêm đoàn bộ trung đoàn 101 và 1 tiểu đoàn khác đang hoạt động ở Trung Lào xuống Hạ Lào, để tăng cường sự lãnh đạo thống nhất đối với lực lượng vũ trang Hạ Lào, giúp chính phủ kháng chiến Lào xây dựng chính quyền, củng cố vùng mới giải phóng và tiếp tục phát triển xuống phía Nam.

Vi Quốc Thanh tán thành chủ trương này. Sau khi trung đoàn 101 đến Hạ Lào, tiếp tục tiến quân xuống phía nam, giải phóng vùng đồng bằng Cao Miên bao gồm VeunSai và SiemBang, nối liền vùng này với vùng mới giải phóng Hạ Lào. Trong thời gian này, một bộ phận chủ lực quân đội nhân dân ở địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, Trung – Nam Bộ Việt Nam phối hợp với bộ đội địa phương dân quân; du kích tích cực bắt đầu chống càn quét, và chủ động đánh địch, nhổ các cứ điểm của địch, phá đường giao thông và cơ sở quân sự, đạt được thắng lợi không nhỏ.

Tấn công mùa đông của quân đội Việt Nam đạt được thắng lợi rất lớn : vùng Tây Bắc trừ ốc đảo Điện Biên Phủ đã hoàn toàn được giải phóng với binh lực có hạn, trong một thời gian rất ngắn, đã giải phóng một vùng rộng lớn bắc Tây nguyên, Trung, Hạ Lào và đồng bằng Cao Miên có ý nghĩa chiến lược quan trọng, tiêu diệt được rất nhiều quân địch, thu được số lớn vật tư quân sự, cơ bản thực hiện được kế hoạch khai thông tuyến giao thông chiến lược Nam Bắc Đông Dương, kiểm soát đông tây đường số 6, 7, 8, 9, 12, 19 của Việt Nam thông sang Trung, Hạ Lào và Campuchia đến quốc lộ 6. Tuyến giao thông chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương hầu như bị cắt đứt toàn bộ. Điều đó làm rối loạn hoàn toàn bố trí chiến lược của Navarre, buộc ông ta không ngừng phân tán binh lực cơ động, ứng phó bị động, mệt bở hơi tai, làm cho kế hoạch quân sự của ông ta giải quyết vấn đề Đông Dương nam trước bắc sau trở thành bong bóng. Điều đó đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi về chiến lược cho quân đội nhân dân giành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:57:50 am
Quyết chiến Điện Biên Phủ (trung)

Điện Biên Phủ là vùng lòng chảo nam bắc dài khoảng 18km, đông tây rộng khoảng 6-8 km. Nam cách Lào khoảng 30km, đông cách Hà Nội hơn 300 km. Sau khi quân Pháp nhảy dù xuống đây ngày 20/11/1953, chúng đuổi hết cư dân yên lành sống ở đây, lần lượt tăng thêm binh lực, dùng máy bay vận chuyển vật liệu xây dựng, chặt phá cây rừng bừa bãi, xây đắp công sự làm cho Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm có hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh. Nơi đây có tất cả 49 cứ điểm, chia làm 8 cụm cứ điểm, 3 phân khu phòng ngự : phân khu trung tâm Mường Thanh là trụ sở cơ quan chỉ huy của quân Pháp nằm giữa thung lũng, trận địa chính của pháo binh, kho hậu cần, sân bay chủ yếu và 2/3 binh lực đều tập trung ở đây.

Phân khu bắc bao gồm hai cụm cứ điểm ở đồi Độc Lập và Bản Kéo ở bắc và tây bắc Mường Thanh, cùng với cụm cứ điểm Him Lam ở đông bắc phân khu trung tâm Mường Thanh trở thành bình phong phía bắc của Điện Biên Phủ. Vùng Hồng Cúm cách nam Mường Thanh khoảng 5km là phân khu nam, cũng có sân bay trận địa pháo binh, làm nhiệm vụ ngăn chặn quân đội nhân dân tấn công từ phía Nam. Mỗi cụm cứ điểm của quân Pháp có nhiều tầng hỏa lực hỗ trợ, đào giao thông hào chằng chịt. Xung quanh cứ điểm có một vùng làm vật cản 40-200m, trong vùng đó chằng nhiều lớp dây thép gai và lưới điện và chôn mìn dầy đặc. Đầu tháng 3/1954, địch lần lượt tăng thêm binh lực lên 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, lính dù, cùng với 2 tiểu đoàn pháo 105 ly, 1 đại đội pháo 155 ly, 2 đại đội súng cối 120, 1 tiểu đoàn công binh và 1 đại đội xe tăng (10 chiếc), 1 phi đội máy bay (14 chiếc), tổng binh lực khoảng 13.000 tên. Xây 2 sân bay bắc, nam. Hằng ngày địch sử dụng 100-200 lần chiếc máy bay chờ 100-300 tấn vật tư quân dụng đến Điện Biên Phủ.

Một số tướng lĩnh cao cấp của Pháp – Mỹ từng thị sát Điện Biên Phủ cho đây là “một pháo đài bất khả xâm phạm” là “Verdun của Đông Nam Á”. Quân địch cậy thế bộ đội tinh nhuệ đông, hoả lực mạnh, công sự kiên cố, bố phòng nghiêm ngặt nên không lo sợ gì. Navarre, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương lên tiếng phải “giữ vững cứ điểm này bằng bất cứ giá nào”, phải “nghiền nát” bộ đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.

Trung hạ tuần tháng 12/1953, đại đoàn 316 và 308 quân đội Việt Nam nối tiếp nhau đến và bao vây Điện Biên Phủ. Tiếp theo, do Bộ Tổng Tham mưu QĐNDVN điều thêm bộ đội trọng pháo, bộ đội cao xạ pháo được Trung Quốc trang bị huấn luyện cũng lục tục tiến về Điện Biên Phủ. Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh dẫn nhân viên Ban chỉ huy cố vấn cũng theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra tiền tuyến. Từ tây Yên Bái chỉ có một con đường lên Điện Biên Phủ. Pháo binh ra trận, dân công vận tải đều đưa vào con đường này. Để đề phòng máy bay địch, bộ đội và dân công đều ngày nghỉ đêm đi. Chiều xuống người gánh, xe chở rất chen chúc. Vi Quốc Thanh mang theo phiên dịch và bảo vệ ngồi trên xe jeep, chỉ có thể lăn bánh từ từ. Mỗi lần gặp máy bay địch bắn phá, ôtô phải tắt đèn giảm tốc độ. Gặp phải đoạn đường nguy hiểm chưa gỡ hết bom nổ chậm do máy bay địch ném xuống, phải xuống xe đi vòng. Vì vậy, xe đi một đêm không nổi 100 dặm. Trời vừa hừng sáng phải chui vào rừng sâu ẩn nấp. Vi Quốc Thanh là người nóng tính, hết sức sốt ruột với tốc độ hành quân này, nhưng không biết làm sao được.

Khi sắp đến gần tiền tuyến, có một đoạn đường, pháo tầm xa của địch thỉnh thoảng bắn vài phát để phong toả. Phía Việt Nam sắp xếp ôtô chở vật tư của đoàn cố vấn băng qua đoạn đường này, còn người thì đi vòng theo đường mòn, để bảo đảm an toàn. Để đi nhanh ra tiền tuyến, Vi Quốc Thanh kiên trì ngồi xe băng qua. Khi xe băng qua chỗ phong toả này bỗng nhiên có tiếng nổ to, một phát đạn pháo nổ ở gần đó. Vi Quốc Thanh bình tĩnh ra lệnh cho lái xe không nên hoảng hốt, lái nhanh đi qua. Sau khi đến đích, kính cửa sau ôtô bị mảnh đạn xuyên một lỗ. Khi Võ Nguyên Giáp đến thăm, nghe được chuyện này, vội nói : “ Quá nguy hiểm ! từ nay về sau bố trí hành động không thể nghe đồng chí nữa, đồng chí phải tuyệt đối nghe tôi ”. Vi Quốc Thanh cười nói : “ Vâng ! Vâng ! Từ nay về sau tuân lệnh ”.

Thượng tuần 1/1954, bộ đội được Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam điều thêm tiếp tục đến mặt trận Điện Biên Phủ. Lúc này lực lượng QĐND Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ có các đại đoàn bộ binh 308, 312, 316 và 304 (thiếu 1 trung đoàn) và đại đoàn công pháo binh 351 (gồm 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn sơn pháo, 1 trung đoàn công binh, 4 đại đội súng cối, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 2 tiểu đoàn súng máy cao xạ), tổng binh lực hơn 40.000 người, chiến ưu thế tuyệt đối về binh lực. Quân đội nhân dân vừa trải qua chỉnh quân chính trị và huấn luyện quân sự, tố chất quân chính nâng cao rõ rệt. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ tuy lực lượng tinh nhuệ đông, công sự khá kiên cố, nhưng xa hậu phương, bị bao vây bốn bề, rất cô lập. Vì vậy, quân đội nhân dân có điều kiện cơ bản rất tốt để giành thắng lợi chiến dịch. Nhưng do quân đội nhân dân lâu nay chưa đánh công kiên quy mô lớn nên đứng trước tập đoàn cứ điểm kiên cố của đich, có những cán bộ kể cả cán bộ cao cấp nào đó, thấy quá nhiều khó khăn, thiếu lòng tin. Căn cứ vào tình hình đó, Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự đã làm công tác chuẩn bị trước khi chiến đấu.

Thông qua trao đổi riêng với Võ Nguyên Giáp và tham gia hội nghị của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam, Vi Quốc Thanh giúp phân tích tình hình, nghiên cứu cách đánh, đi đến thống nhất tư tưởng, xác định mục đích quyết tâm tác chiến. Đồng thời lợi dụng mọi cơ hội, làm công tác tư tưởng đối với cán bộ trung cao cấp quân đội Việt Nam. Tại hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên các đơn vị tham gia tác chiến, do Bộ chỉ huy tiền phương QĐND Việt Nam triệu tập ngày 14/1/1954, khi được mời phát biểu ý kiến, Vi Quốc Thanh nêu lên sự thật đầy đủ, nói rõ phương châm tác chiến của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ là hoàn toàn đúng đắn. Đồng chí nêu ví dụ nói từ khi Pháp chiến tranh xâm lược Việt Nam đến nay đã thay 7 Tổng chỉ huy, còn Tổng Tư lệnh của chúng ta vẫn là Tổng Tư lệnh. Điều đó nói lên địch nhiều lần thất bại, chúng ta liên tiếp thắng lợi. Nói lên sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ là hoàn toàn có thể tin cậy được. Đồng chí vạch rõ, quân đội nhân dân có điều kiện, có khả năng giành thắng lợi của chiến dịch công kiên qui mô chưa từng có này. Đồng chí nói – các đơn vị bộ đội chủ lực quân đội nhân dân đã trải qua rèn luyện chiến đấu thực tế và huấn luyện quân chính. Sức chiến đấu đều được nâng cao rõ rệt, nhất là đại đoàn 308 và 312 càng trưởng thành là bộ đội có sức chiến đấu kiên cường, có thể nói một là bộ đội thép, một là bộ độ sắt, chúng ta có bộ đôi sắt thép sẽ đánh đâu thắng đó. Đồng chí cổ vũ cán bộ các cấp khắc phục mọi khó khăn, đánh tốt trận này, làm cho quân đội nhân dân tiến lên một bước lớn. Phát biểu của Vi Quốc Thanh có tác dụng cổ vũ ý chí chiến đấu, tăng thêm lòng tin.

Lúc này, khí thế của quân Pháp ở Điện Biên Phủ vẫn rất hung hăng. Một hôm, phiên dịch của Võ Nguyên Giáp cầm mấy tờ truyền đơn của máy bay quân Pháp rải xuống đến gặp Vi Quốc Thanh. Truyền đơn là lá thư viết bằng tiếng Việt của De Castries gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nội dung đại ý là : “ Tôi biết bộ đội của ông đã bao vây Điện Biên Phủ, nhưng vì sao không tiến công ? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu ông có gan dám mở tấn công, thì xin bắt đầu đi ! Tôi đang chờ đón những thách thức của ông, quyết một phen thắng bại với ông ! ”


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:58:14 am
 Vi Quốc Thanh nghe người phiên dịch đọc hết tờ truyền đơn cười nói : “ Lão De Castries này ! Ngông cuồng lắm ! Hãy đợi đấy. Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc đấy ”. Phiên dịch báo cáo nói : “ De Castires là một danh tướng của Lục quân Pháp là cấp dưới cũ của Navarre, đã qua trường quân sự, là học viên ưu tú. Hắn vốn quân hàm Đại tá, gần đây 8 vừa được phong Thiếu tướng ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Thế thì hãy để xem chúng ta học được gì ở học viên ưu tú này có tài chỉ huy đến đâu ”.

Đứng trước kẻ địch điên cuồng, vận dụng cách đánh nào mới giành thắng lợi ? Khi quân địch đóng giữ không quá 10 tiểu đoàn, cấu trúc công sự chưa hoàn thiện lắm, Vi Quốc Thanh từng nghĩ, quân đội Việt Nam có trọng pháo và pháo cao xạ trong điều kiện khống chế được sân bay địch và kiềm chế hỏa pháo của địch có thể áp dụng cách đánh nhanh thắng nhanh, chủ lực một cú đột phá, chọc thẳng vào trong lòng đich, tiêu diệt trước cơ quan chỉ huy, trận địa pháo binh và quân dự bị của Pháp “nở hoa từ trung tâm”, sau đó đóng từ trong đánh ra, giải quyết quyết nhanh chống cuộc chiến đấu. Võ Nguyên Giáp tán thành ý kiến này. Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam lập tức tiến hành bố trí chiến dịch theo ý đồ đó, dự định khoảng 20/1 mở cuộc tấn công.

Nhưng khi bộ đội trọng pháo của quân đội Việt Nam đến gần Điện Biên Phủ, trước mặt không có con đường nào để đi, không thể nào tiến vào trận địa. Mặc dù Võ Nguyên Giáp ra lệnh đại đoàn 312 giúp mở đường kéo pháo, nhưng do núi cao vực sâu, địa hình phức tạp, tiến triển chậm chạp, vẫn không thể nào tiến vào trận địa trước 20/1, do đó không thể không lùi thời gian bắt đầu chiến đấu. Bộ đội trọng pháo của quân đội Việt Nam được sự giúp đỡ rất lớn của đại đoàn 312 suốt ngày đêm đạp bằng mọi chông gai, mở đường, kéo pháo. Lúc này, Vi Quốc Thanh lại nảy ra ý nghĩ mới.

Vùng Tây Bắc Việt Nam dân cư thưa thớt không có nhà dân có thể làm nơi nghỉ quân. Bộ đội Việt Nam ngày đêm đều đóng quân ngoài trời, chỉ có Đoàn cố vấn được chiếu cố đặc biệt, công binh chặt tre dựng nhà lá đơn sơ, để tránh gió mưa. Vi Quốc Thanh ở trong nhà lá mười mấy mét vuông trên sàn hầu như trải đầy bản đồ. Đồng chí thường nhìn chăm chú vào bản đồ suy nghĩ rất lâu.

Một cú đột phá, chọc thẳng vào trong lòng địch tiêu diệt cơ quan đầu não của địch, làm rối loạn hệ thống chỉ huy của chúng, làm cho địch không đánh mà bị rối loạn, từ đó đánh nhanh thắng nhanh, giành toàn thắng, đó là một cách đánh áp dụng nhiều lần và nhiều lần thành công trong chiến tranh giải phóng. Nhưng cách đánh này vận dụng ở Điện Biên Phủ có thích hợp hay không ? Sau khi tìm hiểu kỹ hơn tình hình địch ở mặt trận, trong đầu Vi Quốc Thanh lúc nào cũng lởn vởn vấn đề này. Mắt chăm chú nhìn vào cứ điểm chi chít ở Điện Biên Phủ trên bản đồ, trong lòng Vi Quốc Thanh tưởng tượng ra một tình huống phức tạp về cơ sở phòng ngự của địch. Đồng chí nghĩ, quân đội Việt Nam thiếu kinh nghiệm đánh công kiên qui mô lớn, theo tình hình địch ta hiện nay, áp dụng cách đánh này thì không nắm chắc phần thắng. Đánh không tốt, còn phải chịu thiệt hại lớn. Vì vậy, cần thay đổi phương châm tác chiến.

Biến đánh nhanh thắng nhanh thành đánh chắc thắng chắc, từ ngoại vi vào trung tâm, tiêu diệt địch từng cứ điểm một. Đợi điều kiện chín muồi, mới mở tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch đóng giữ. Như vậy, có thể làm cho quân đội Việt Nam ở vị thế chủ động và rút kinh nghiệm từ trong từng trận đánh. Muốn như vậy phải chuẩn bị tác chiến thời gian dài, các công tác chuẩn bị phải làm thêm, không thể mở tấn công ngay. Xung quanh Điện Biên Phủ hiện nay, có nhiều bộ đội như thế, làm thế nào mới có thể phát huy tác dụng? Ánh mắt của Vi Quốc Thanh lọt vào vùng Ô Giang nam Thượng Lào, phía tây nam Điện Biên Phủ. Đây là một phòng tuyến hỗ trợ cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ mà địch mới chiếm gần đây. Chiến tuyến tương đối dài, phòng ngự tương đối yếu, cách Điện Biên Phủ không xa lắm. Lệnh cho đại đoàn 308 ở tây Điện Biên Phủ đi đánh vùng này, rất nhiều điều lợi : tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, phân tán binh lực cơ động của địch, giải phóng một vùng rộng lớn, càng cô lập Điện Biên Phủ.

Vi Quốc Thanh nghĩ đến đây trong lòng bỗng nhiên phấn chấn, lập tức bước ra khỏi nhà, đến chỗ Mai Gia Sinh. Đồng chí và Mai Gia Sinh bàn tính tỉ mỉ ý nghĩ của mình, Vi Quốc Thanh liền gọi điện thoại cho Võ Nguyên Giáp, nói có việc cần muốn bàn. Võ Nguyên Giáp đến ngay. Vi Quốc Thanh trình bày khá tỉ mỉ ý nghĩa mới của mình với Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp tỏ ý hoàn toàn tán thành thay đổi phương châm tác chiến. Nhưng việc cử đại đoàn 308 đi đánh thượng Lào, thì ngỏ ý để đồng chí sau khi suy nghĩ hãy quyết định.

Đại đoàn 308 là đại đoàn chủ lực số 1 của quân đội Việt Nam. Võ Nguyên Giáp suy nghĩ đại đoàn 308 đi Thượng Lào là một nước cờ hay cũng nắm chắc thắng lợi, nhưng ở Điện Biên Phủ có hơn 10.000 quân Pháp, trang bị tốt, khí thế hung hăng, liên tục chủ động xuất kích nếu biết được đại đoàn 308 đi Thượng Lào, chúng xuất kích toàn diện thì làm thế nào ? Quân ta có thể trụ nổi không ? Phần lớn đại pháo đã chuyển lên rồi, để tránh bị tổn thất cần phải đưa xuống, bộ đội sẽ có lời ta thán cũng sẽ ảnh hưởng đến tinh thần binh sĩ. Đồng chí mất ngủ, suy nghĩ một đêm. Ngày hôm sau, đồng chí đến gặp Vi Quốc Thanh, bày tỏ đồng ý đại đoàn 308 đi Thượng Lào tác chiến, đồng thời cũng nói rõ nỗi lo lắng của mình. Nghe xong, Vi Quốc Thanh nói : “ Tôi thấy dù địch biết đại đoàn 308 đi Lào, chưa chắc dám xuất kích toàn diện. Nếu địch xuất kích toàn diện, chúng ta cũng có cách đối phó. Để tránh tổn thất có thể rút một số đại pháo đã chuyển lên là cần thiết, có thể nói rõ với bộ đội đại đoàn 312 vẫn phải tích cực mở đường chuẩn bị đưa đại pháo vào, nhất thiết không được lơ là. Bộ chỉ huy mặt trận cũng lùi về một ít, để bảo đảm an toàn ”. Võ Nguyên Giáp yên tâm, tỏ ý tán thành sự sắp xếp đó. Đồng chí lập tức ra lệnh.

Thay đổi phương châm tác chiến đánh nhanh thắng nhanh sang đánh chắc thắng chắc, rất nhanh được Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phê chuẩn và Quân uỷ Đảng Cộng sản Trung Quốc đồng ý. Ngày 27/1, Quân uỷ Trung ương điện trả lời Vi Quốc Thanh nêu rõ : “ Tấn công Điện Biên Phủ nên áp dụng chia cắt bao vây, tiêu diệt địch từng toán một. Mỗi lần tiêu diệt khoảng 1 tiểu đoàn, chỉ cần có thể tiêu diệt hoàn toàn bốn, năm tiểu đoàn thì địch ở Điện Biên Phủ có thể dao động hoặc rút chạy về phía nam, hoặc tiếp tục tăng viện. Cả hai trường hợp đều có lợi cho chúng ta ” 9.

Cách đánh, đánh chắc thắng chắc từng bước tiêu diệt địch này, lúc bấy giờ gọi một cách hình ảnh là “bóc măng”, tức là bóc từng lớp một, ăn từng miếng một, cuối cùng tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ngày 26/1, đại đoàn 308 tiến đến Thượng Lào, có nhiệm vụ tiêu diệt địch đóng giữ dọc bờ nam Ô Giang, xem tình hình đánh lấy Luông Prabang. Bọn địch ở phòng tuyến nam Ô giang nghe phong thanh tháo chạy. Đại đoàn 308 đuổi đánh dữ dội, trong 10 ngày tiêu diệt hơn 5 tiểu đoàn, giải phóng toàn bộ vùng lưu vực nam Ô Giang, tiến sát Luông Prabang. Navarre cấp tốc điều quân bằng máy bay từ đồng bằng Bắc Bộ và Điện Biên Phủ sang Luông Prabang và Mường Xay để chống đỡ. Đại đoàn 308 đã đạt mục đích tấn công Thượng Lào vì binh lực địch tăng thêm, cung cấp lương thực khó khăn, nên không tấn công Luông Prabang nữa, hạ tuần tháng 2 trở về vùng tây Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:58:38 am
Đồng thời với đại đoàn 308 đi đánh Thượng Lào, Trung đoàn 148 quân đội Việt Nam tiến quân lên Phong Xa Lì, Thượng Lào, trung tuần tháng 2 giải phóng toàn bộ tỉnh Phong Xa Lì. Đến đây diện tích vùng giải phóng Thượng Lào lại mở rộng thêm 10.000 km2, nối liền với vùng Tây Bắc, Việt Nam. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ càng thêm cô lập. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ bố phòng nghiêm ngặt, công sự kiên cố hoả lực mạnh mẽ, làm thế nào mới có thể chia cắt bao vây địch, nuốt gọn từng miếng một ? Đó là vấn đề Vi Quốc Thanh ngày đêm suy nghĩ. Vi Quốc Thanh có kinh nghiệm tác chiến phong phú và đã làm Tiểu đoàn trưởng công binh thời kỳ trường chinh, nghĩ đến biện pháp thao tác áp sát và hào sâu tiếp cận địch. Tức tổ chức bộ đội đào hào sâu, lợi dụng hào sâu chia cắt, bao vây, áp sát cứ điểm địch. Sau đó bất ngờ tấn công. Như vậy có thể giảm thương vong bộ đội, lâu ngày đánh chắc, thắng chắc. Mai Gia Sinh cũng tán thành phương pháp này. Vi Quốc Thanh nói : “ Hãy bàn với các cố vấn xem sao ”.

Lúc này, vừa may cố vấn đại đoàn 308 Vu Bộ Huyết đến Ban chỉ huy báo cáo tình hình. Vu Bộ Huyết báo cáo tóm tắt tình hình đại đoàn 308 tác chiến ở Thượng Lào. Vi Quốc Thanh hỏi đồng chí : “ Đồng chí có cách gì đánh Điện Biên Phủ không ? ”. Vu Bội Huyết nói : “ Tôi nghĩ có thể dùng biện pháp áp sát. Tôi và Vương Thừa Vũ (đại đoàn trưởng 308), Lê Quang Đạo (chính uỷ 308) sau khi từ Thượng Lào trở về, ngày nào cũng tâm niệm làm thế nào để gặm cục xương cứng Điện Biên Phủ này. Tôi nêu ra trước biện pháp này, được các đồng chí ấy đồng ý, để bộ đội làm thí nghiệm trong ruộng lúa. Họ càm thấy biện pháp này được, chúng tôi lần lượt báo cáo lên ”. Mấy ngày hôm nay, Vi Quốc Thanh lại mắc bệnh đau đầu, trên trán mang một máy giải nhiệt bằng nhôm, tinh thần mệt mỏi. Lúc này đồng chí phấn khởi đứng lên nói không ngớt lời : “ Thế thì tốt rồi ! Đồng chí nói tỉ mỉ xem nào ”. Tiếp đó, đồng chí lại tập trung tinh thần lắng nghe báo cáo tỉ mỉ của Vu Bộ Huyết trong lòng đã nắm chắc.

Ngày hôm sau, Vi Quốc Thanh chính thức đưa ra kiến nghị nói trên với Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp phấn khởi tiếp nhận, chỉ nêu ra, quân đội Việt Nam ngoài số ít công binh ra, lâu nay chưa trang bị công cụ thao tác áp sát, đó là một khó khăn thực tế. Vi Quốc Thanh điện gấp cho Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, yêu cầu nhanh chóng điều động số lượng lớn cuốc xẻng để đáp ứng nhu cầu khẩn cấp. Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam tuân theo chỉ thị của Võ Nguyên Giáp vạch ra kế hoạch công trình xây dựng toàn bộ trận địa và truyền đạt cho bộ đội. Vi Quốc Thanh triệu tập họp cố vấn các đại đoàn, yêu cầu họ giúp bộ đội tổ chức thực hiện. Đồng chí còn kết hợp tình hình địch trước mắt, giới thiệu với phía Việt Nam kinh nghiệm tác chiến công kiên của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc giúp giải quyết các vấn đề chiến thuật cụ thể, để tăng thêm niềm tin thắng lợi cho bộ đội.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:59:11 am
Quyết chiến Điện Biên Phủ (hạ)

Đến thượng tuần tháng 3/1954, quân đội Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ đã gần 3 tháng. Trong thời gian này, ngoài việc tiến hành chuẩn bị chiến đấu quân đội nhân dân còn nhiều lần đánh lui các cuộc xuất kích quy mô nhỏ của địch đóng giữ Điện Biên Phủ, qua đó rèn luyện bộ đội. Vào lúc này, để chuẩn bị cho 5 nước Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung và đại biểu các nước có liên quan tham gia hội nghị Genève thảo luận vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương, triệu tập vào giữa tháng 4, Chu Ân Lai nêu ra với Đoàn cố vấn quân sự : “ Để giành chủ động về ngoại giao, có thể tổ chức đánh mấy trận thắng đẹp ở Việt Nam như trước khi đình chiến ở Triều Tiên không ? ”. Ngày 3/3, sau khi nhận được điện chỉ thị đó của Chu Ân Lai do Bộ Tổng Tham mưu chuyển đến, Vi Quốc Thanh cho rằng, để phối hợp với đấu tranh đàm phán ở hội nghị Genève, cần phải nỗ lực lớn nhất, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Lúc này, các mặt chuẩn bị của quân đội Việt Nam đã tương đối đầy đủ, lựu pháo và pháo cao xạ đã vào trận địa dự định điều kiện tấn công Điện Biên Phủ đã chín muồi. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp bàn bạc, quyết định ngày 13/3 bắt đầu nổ súng tấn công Điện Biên Phủ.

Toàn bộ chiến dịch trải qua ba đợt.

Tác chiến đợt 1, phát triển thuận lợi. Vi Quốc Thanh cho rằng, trận đầu có thể giành được thắng lợi hay không vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ chiến dịch và đối với quân đội nhân dân lâu nay chưa đánh công kiên quy mô lớn như thế này mà nói, thì ảnh hưởng càng to lớn hơn. Vì vậy đồng chí dày công giúp đỡ Việt Nam tổ chức tác chiến đợt 1. Mục tiêu tác chiến là tấn công cụm cứ điểm ở Him Lam và đồi Độc Lập bắc Điện Biên Phủ mỗi nơi có 1 tiểu đoàn địch đóng giữ. Vi Quốc Thanh và phía Việt Nam nghiên cứu nhiều lần việc bố trí tác chiến, quyết định đại đoàn 312 và 308 với binh lực ưu thế tuyệt đối gấp nhiều lần địch, có pháo binh phối hợp và pháo binh của Bộ Tổng Tham mưu chi viện hoả lực, ngày 13 và đêm ngày 14/3 theo chỉ thị của Vi Quốc Thanh giúp đỡ cụ thể các bộ đội tấn công từ quan sát đến bố trí, từ chiến thuật đến kỹ thuật, từ chọn điểm xuất kích đến xây trận địa xuất phát, đều đã chuẩn bị đầy đủ, do đó cuộc chiến đấu phát triển thuận lợi.

Đêm 13, hàng trăm khẩu đại bác của quân đội Việt Nam cùng gầm lên một lúc, đạn pháo gào thét bay tới sân bay, cụm pháo binh và cứ điểm Him Lam của quân Pháp. Máy bay địch bị lật ngửa, đường bay bị phá nát, trọng pháo bị kiềm chế, từng lô cốt một trên đồi Him Lam bị phá sập. Sau đợt pháo gầm, các đội viên đột kích của đại đoàn 312 qua thao tác áp sát đã đào hào đến tận mũi quân địch, lập tức xung phong, nhanh chóng đột phá tiền duyên. Trải qua giành giật tại trung tâm, 11g30’ đêm 13 đánh chiếm toàn bộ đồi Him Lam, tiêu diệt sạch một tiểu đoàn địch.

Đêm 14, một trung đoàn bộ binh của đại đoàn 308 và một trung đoàn bộ binh của đại đoàn 312 tấn công đồi Độc Lập. Chiến đấu đến rạng sáng hôm sau, quân đội Việt Nam đã cắm lá cờ mang dòng chữ “quyết chiến quyết thắng” trên đỉnh đồi Độc Lập, tiêu diệt thêm một tiểu đoàn địch, đánh lui 1 tiểu đoàn viện binh địch, phá huỷ 1 xe tăng, bắt hơn 30 tù binh. Trận đầu kết thúc thắng lợi, quân đội Việt Nam trên dưới đều rất hân hoan. Trong lúc phấn khởi, Vi Quốc Thanh bình tĩnh trù tính tác chiến bước tiếp theo. Đêm 15, đồng chí điện báo cáo Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : “ Hai trận chiến đấu đợt 1, đêm ngày 13 và 14 liên tiếp tấn công chiếm hai cụm cứ điểm ở bắc và đông bắc Điện Biên Phủ, tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn Lê dương. Đây là lần đầu tiên quân đội Việt Nam sử dụng hoả lực trọng pháo có vai trò có tính quyết định đối với việc kiềm chế pháo binh địch, phối hợp tấn công. Trong ba ngày, bắn hỏng 16 máy bay địch, làm cho máy bay địch không dám hạ cánh xuống sân bay và bay thấp, trong chiến đấu nhấn mạnh thao tác áp sát và bộ pháo hiệp đồng, nên thương vong không lớn. Niềm tin của bộ đội tiếp tục vây diệt địch ở Điện Biên Phủ nâng cao hơn trước một bước. Muốn tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ còn phải mấy trận chiến đấu công kiên nữa, và trận sau khó khăn hơn trận trước. Để bảo đảm sử dụng pháo không gián đoạn khống chế sân bay và liên tục kiên trì chiến đấu tương đối dài, cần phải tiếp thêm lương thực và xăng dầu. Xin đưa thêm 3000 quả đạn pháo (cỡ 105 kiểu Mý), 3000 quả sơn pháo, 3000 thùng lớn xăng dầu đến Bằng Tường trước ngày 25/3 ”.

Quân uỷ Trung ương Trung Quốc luôn luôn dốc toàn lực chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ hễ Vi Quốc Thanh nêu yêu cầu, là theo đó cấp đủ, cấp đúng.

Mấy ngày qua, tin vui liên tiếp truyền về. Viên trung tá chỉ huy pháo binh quân Pháp ở Điện Biên Phủ vì bị tổn thất nặng nề trong trận đấu pháo, mất lòng tin, dùng lựu đạn tự sát 10. Điều đó giáng một đòn vào tinh thần binh lính quân Pháp. Cứ điểm Bản Kéo rơi vào cô lập do đồi Him Lam, Độc Lập thất thủ, một tiểu đoàn lính Thái đóng giữ cứ điểm này hoang mang cực độ, ngày 27/3 ra hàng Quân đội Nhân dân. Đến đây Quân đội Nhân dân đã chiếm giữ 3 cụm cứ điểm án ngữ phía bắc Điện Biên Phủ, mở cánh cửa thông sang khu trung tâm Điện Biên Phủ. Tác chiến đợt 1 của Quân đội Nhân dân đã vượt mục tiêu dự kiến, tinh thần binh sĩ phấn chấn, niềm tin tăng lên gấp bội.

Để cứu vãn tình thế thất bại, sau tác chiến đợt 1, Navarre tiếp tục cho ba tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ (về sau trong chiến đấu đợt 2, 3 lần lượt nhảy dù thêm 2 tiểu đoàn nữa).


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 06:59:44 am
Tác chiến đợt 2, giành giật quyết liệt

Sau khi tổng kết kinh nghiệm trận đầu và chuẩn bị cho trận đánh tiếp theo, đêm 30/3 Quân đội Nhân dân bắt đầu tác chiến đợt 2, tấn công quân địch ở phân khu trung tâm Mường Thanh, trụ sở cơ quan chỉ huy của quân Pháp. Bố trí tác chiến của Vi Quốc Thanh và phía Việt Nam nghiên cứu xác định là : ngoài hai trung đoàn của đại đoàn 308, 312, sư 316 và toàn bộ hỏa lực pháo binh tấn công tiêu diệt địch ở điểm cao phía đông phân khu trung tâm và vùng Tây bắc sân bay, để thít chặt vòng vây, khống chế điểm cao, khống chế sân bay, cắt đường không vận của địch. Nếu phát triển thuận lợi, thì liên tục tấn công, tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Sau khi cuộc chiến đấu bắt đầu, đột phá tiền duyên địch tương đối thuận lợi, nhưng sau khi đi vào sâu lòng địch thì phát triển rất chậm. Quân Pháp dựa vào công sự kiên cố, hoả lực dày đặc, ngoan cố chống cự và tổ chức đánh trả. Cán bộ quân đội Việt Nam thiếu khả năng ứng biến, bộ đội thương vong tăng nhiều, tấn công gặp trở ngại. Qua một tuần chiến đấu, quân đội Việt Nam hạ được 5 cứ điểm địch, tiêu diệt binh lực hơn 3 tiểu đoàn, không chế phần lớn điểm cao quan trọng phía đông Điện Biên Phủ, và hình thành tình thế có lợi đứng trên cao nhìn xuống bọn địch ở Mường Thanh. Nhưng khi tấn công cứ điểm A1 bảo vệ Mường Thanh, do quân địch lợi dụng hầm hào và nhà dưới dất ngoan cố chống cự, không thể đánh hạ được toàn bộ, hình thành thế giằng co, mỗi bên chiếm một nửa. Sau khi cao điểm C1, cứ điểm quan trọng bảo vệ Mường Thanh bị đánh hạ, quân Pháp tổ chức đánh trả, chiếm lại hơn một nửa. Hai bên giành giật nhiều lần, cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt. Trong tác chiến hơn một tuần, các bộ đội tấn công của quân đội Việt Nam đều bị thương vong không ít.

Vi Quốc Thanh ngày đêm theo dõi phát triển của chiến cuộc. Tin tức từ tiền tuyến về có lúc hỗn loạn. Lúc thì nói hạ được một cứ điểm, sau vài giờ lại nói chưa hạ được. Tình hình tấn công cứ điểm A1 càng như thế. Lúc thì nói gặp đường hầm hào của địch đang đánh bộc phá, lúc thì lại nói, cách đường hầm còn rất xa, không thể nào đánh bộc phá được. Lúc thì nói đường hào không lớn, chỉ có số ít địch ngoan cố chống cự. Một lát sau lại nói, nhà hầm của địch rất lớn, có thể chứa hàng trăm tên. Điều đó một lần nữa phản ánh cái tật của viên chỉ huy cơ sở nào đó không đích thân theo dõi tuyệt một. Vi Quốc Thanh rất bực tức, kiến nghị phía Việt Nam nghiêm túc ra lệnh cho bộ đội tấn công điều tra rõ tình hình thực tế, để nghiên cứu đối sách. Cuối cùng rõ ra là, quân địch ở A1 lợi dụng đường hào và nhà hầm xây dựng thời kỳ quân Nhật chiếm đóng để ngoan cố chống cự và thỉnh thoảng tiến hành phản kích quân đội Việt Nam không thể nào đối phó. Vi Quốc Thanh điện gấp về Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, báo cáo tình hình này, Quân uỷ Trung Quốc cấp tốc điều một số cán bộ từng tác chiến ở Triều Tiên có kinh nghiệm đánh đường hào, đi nhanh ra tiền tuyến Điện Biên Phủ. Họ giúp bộ đội Việt Nam đào hầm ngầm thông đến đường hào cứ điểm A1, chuẩn bị dùng thuốc nổ phá huỷ nó.

Lúc này Võ Nguyên Giáp hơi sốt ruột chưa đánh hạ được A1, liền ra lệnh tấn công C1. Đồng chí chưa bàn với Vi Quốc Thanh quyết định điều trung đoàn 102 của đại đoàn 308, ngày 11/4 tấn công đồi C1, kết quả bị hoả pháo địch sát thương nặng, toàn trung đoàn thương vong trên 700 người, không thể tiếp tục chiến đấu. Trung đoàn 102 là trung đoàn chủ lực của đại đoàn 308, là bộ đội từ khi bắt đầu chiến dịch cho đến nay chưa bị tổn thất, lần này bị trọng thương, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển của trận đánh. Chỉ huy “quả đoán” của Võ Nguyên Giáp lần này bị không ngờ vấp váp. Vi Quốc Thanh lựa lời an ủi đồng chí, nêu ra kiến nghị tạm ngừng tiến công chuyển sang tổng kết chỉnh đốn. Võ Nguyên Giáp tiếp nhận kiến nghị này. Lúc này, hội nghị Genève sắp triệu tập, Điện Biên Phủ trở thành một điểm nóng khiến cả thế giới dõi theo sau khi Triều Tiên đình chiến, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm theo dõi tác chiến Điện Biên Phủ, luôn luôn hỏi Vi Quốc Thanh tình hình chiến sự và có nhiều chỉ thị cụ thể đối với chiến thuật tấn công Điện Biên Phủ.

Vi Quốc Thanh theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, kết hợp tình hình thực tế quân đội Việt Nam thương vong tương đối lớn trong tác chiến đợt hai, một mặt giúp Việt Nam tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, cải tiến chỉ huy tác chiến bổ sung quân lính, chỉnh đốn tổ chức, khôi phục và tăng cường sức chiến đấu, để có lợi cho tiếp tục chiến đấu, đồng thời kiến nghị quân đội Việt Nam áp dụng biện pháp hữu hiệu, tăng cường bao vây và tấn công quân Pháp sau đó quân đội Việt Nam chủ động áp dụng các biện pháp sau đây :

Một là, tổ chức bộ đội đào hầm hào từng bước thắt chặt vòng vây, chia cắt quân địch ở phân khu trung tâm Mường Thanh với phân khu nam bằng hầm hào, cắt đứt liên hệ trên mặt đất giữa chúng. Đồng thời, từ các hướng đào đến tận tung thâm phân khu trung tâm Mường Thanh. Lúc này đào hầm hào trở thành phương tiện tấn công tích cực, không ngừng thu hẹp địa bàn quân Pháp chiếm đóng. Quân Pháp tuy thường xuyên pháo kích và phá hoại, nhưng các chiến sĩ quân đội Việt Nam không sợ đổ máu, mồ hôi, càng đào càng hăng, càng đào càng nhanh. Chiến hào cứ mỗi ngày một vươn dài lên phía trước, chiến hào chính, chiến hào nhánh đan xen ngang dọc, chia cắt quân Pháp từng mảnh. Đúng như miêu tả trong cuốn sách Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam của Việt Nam xuất bản những năm 70 : “ Chiến hào như những chiếc thòng lọng, mỗi ngày một xiết chặt cổ của địch ”.

Hai là, khống chế hơn nữa sân bay, cắt đứt vận chuyển hàng không của địch. Quân địch đóng giữ Điện Biên Phủ cách xa hậu phương, bị bao vây bốn bề, mọi cung ứng đều dựa vào vào vận chuyển hàng không, hằng ngày phải có trên trăm lượt chiếc máy bay chở các loạt vật tư quân sự, mới có thể duy trì nhu cầu sinh hoạt cần thiết và tiêu hao chiến đấu của hơn 10.000 quân đóng giữ. Vi Quốc Thanh coi việc cắt đứt vận chuyển hàng không là một điều kiện quan trọng để giành toàn thắng của chiến dịch. Chiến dịch bắt đầu, bộ đội cao xạ quân đội Việt Nam lần đầu tiên bước vào chiến đấu đánh cho máy bay địch bay thấp ném bom bắn phá điên cuồng bị trọng thương. Hoả lực trọng pháo của quân đội Việt Nam bắn vào sân bay buộc máy bay địch chở người và vật tư không dám thả dù phải chuyển sang thả từ trên máy bay xuống. Quân đội Việt Nam chỉnh đốn bổ sung sau khi chuẩn bị đầy đủ, liên tục công phá mấy cứ điểm địch gần sân bay, và lợi dụng ban đêm đào hào cắt ngang lưng sân bay, làm cho sân bay hoàn toàn không sử dụng được. Đi theo chiến hào của quân đội Việt Nam không ngừng vươn dài tới trước, vòng vây ngày càng hẹp lại, vật tư của máy bay địch ném xuống ngày càng nhiều (thậm chí phần lớn) rơi xuống trận địa quân đội Việt Nam. Đây là một hỗ trợ lớn đối với quân đội Việt Nam, nhưng lại là đòn đánh hết sức nặng nề với quân Pháp.

Ba là, tổ chức bộ đội triển khai hoạt động đánh chặn. Các bộ đội rất nhanh tổ chức thành nhóm diệt địch do các tay súng thần, pháo thần tham gia, bắn lén, bắn tỉa vào các mục tiêu hoạt động trên trận địa địch, không ngừng sát thương địch, buộc quân Pháp không dám hoạt động ngoài công sự, đánh mạnh vào tinh thần của quân Pháp.

Bốn là, tổ chức bộ đội triển khai tấn công chính trị. Thành phần binh lính Pháp phức tạp, nhiều loại quốc tịch. Nhằm vào tình hình này, quân đội Việt Nam dùng loa phóng thanh, bằng nhiều ngôn ngữ phát thanh, kêu gọi binh lính địch trên trận địa, có tác dụng làm suy yếu tinh thần chiến đấu của binh lính địch, tiến tới làm tan rã quân địch, thường có lẻ tẻ lính nguỵ, lính nước ngoài và lính da đen ra đầu hàng quân đội Việt Nam.

Biện pháp đấu tranh quân sự chính trị phối hợp cả hai cùng tiến hành song song với tiếp thu được hiệu quả rất tốt. Đến hạ tuần tháng 4, tình cảnh của quân Pháp hết sức khó khăn. Diện tích trong vòng vây không đầy 2 km2, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của quân Pháp bị chia cắt thành nhiều đoạn, sân bay cũng bị quân đội Việt Nam chiếm một nửa. Do sợ quân đội Việt Nam tấn công, sĩ quan, binh lính Pháp suốt ngày co ro trong công sự. Trong nhà hầm chật ních thương binh, bốc mùi khó thở. Tinh thần quân Pháp sa sút cực độ. Lúc này, tập đoàn thống trị Mỹ không muốn nhìn thấy quân Pháp ở Điện Biên Phủ thất bại, đồng thời với tăng cường viện trợ cho Pháp, tiến hành đe doạ trắng trợn đối với Việt Nam, đưa hạm đội 7 đến Vịnh Bắc Bộ “diễn tập”, đánh tiếng sắp sử dụng máy bay ném bom B29 ném bom xuống trận địa quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, thậm chí để ngỏ ý muốn ném bom nguyên tử cỡ nhỏ.

Vào thời gian này quân đội Việt Nam cũng gặp một số vấn đề và khó khăn mới : do bộ đội đóng quân ngoài trời lâu ngày, số người không trực tiếp chiến đấu tăng lên, tác chiến liên tục nhiều tháng, người chỉ huy nảy sinh tư tưởng mệt mỏi, nhất là tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trỗi dậy trong cán bộ. Có những cán bộ, tinh thần trách nhiệm yếu, tính tích cực chiến đấu không cao, thậm chí xuất hiện hiện tượng nghiêm trọng kiếm cớ rời khỏi vị trí chiến đấu, báo cáo láo tình hình, không chấp hành mệnh lệnh trong tình hình chiến đấu khẩn cấp v.v... Do máy bay địch bắn phá điên cuồng và mùa mưa đến, vận tải hậu cần cũng ngày càng khó khăn. Đứng trước tình hình Mỹ đe doạ, quân Pháp giãy giụa hung hăng, trong số cán bộ cao cấp quân đội Việt Nam có những người dao động niềm tin giành toàn thắng chiến dịch, thậm chí sợ Mỹ ném bom nguyên tử, cho rằng không nên đánh tiếp nữa. Vào giờ phút then chốt quan hệ đến tiêu diệt hoàn toàn quân địch hay là công dã tràng này, Vi Quốc Thanh đã bình tĩnh suy nghĩ và phân tích khách quan cho rằng, quân đội Việt Nam tuy gặp rất nhiều khó khăn, nhưng quân Pháp càng khó khăn hơn, hơn nữa không có cách gì khắc phục được chỉ cần quân đội Việt Nam không sợ hăm doạ, không sợ khó khăn, cắn chặt răng lại, kiên trì chiến đấu, nắm chặt nhược điểm của địch, liên tục tác chiến thì có thể khắc phục được khó khăn, giành toàn thắng cho chiến dịch. Đồng chí nói với các cố vấn : “Hiện tại toàn thế giới đều nhìn về Điện Biên Phủ, chúng ta không có đường lui. Chỉ có hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tạm thời chưa đánh được, mùa mưa đến nước dìm chết chúng. Nước không dìm chết, thì khốn khó lâu ngày, chúng cũng chết. Không lấy được Điện Biên Phủ quyết không lui quân. Các đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng này”.

Vi Quốc Thanh trao đổi chân tình với Võ Nguyên Giáp, trình bày tỉ mỉ ý nghĩ trên đây của mình để thống nhất nhận thức, kiên định lòng tin. Hai người còn nghiên cứu biện pháp giải quyết vấn đề tư tưởng cán bộ và khắc phục khó khăn thực tế. Lúc này, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị mở rộng, phân tích tình hình tác chiến Điện Biên Phủ, vạch rõ thêm ý nghĩa quan trọng của chiến dịch, nhấn mạnh phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trong cán bộ, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch. Cuối tháng 4, đảng uỷ tiền phương Quân đội Nhân dân triệu tập hội nghị mở rộng để quán triệt tinh thần của hội nghị mở rộng của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Võ Nguyên Giáp báo cáo tại hội nghị chú trọng phê bình nghiêm khắc các biểu hiện của tư tưởng tiêu cực hữu khuynh trong cán bộ, đặc biệt là hành vi vô kỷ luật không chấp hành mệnh lệnh kiếm cớ rời bỏ nhiệm vụ, báo cáo láo tình hình v.v... Các cố vấn phản ánh, đây là cuộc nói chuyện chống khuynh hướng sai lầm với lập trường quan điểm rõ ràng ít có của Tổng Tư lệnh. Hội nghị này đã đặt nền móng tư tưởng cho tác chiến đợt 3, giành toàn thắng của chiến dịch.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:01:00 am
Tác chiến đợt 3, giành toàn thắng

Từ hạ tuần tháng tư, quân Pháp có dấu hiệu tăng quân cho Thượng Lào, hòng tiếp ứng cho địch đóng giữ Điện Biên Phủ chạy xuống phía nam. Vi Quốc Thanh lập tức cùng phía Việt Nam nghiên cứu, kịp thời bố trí đề phòng địch phá vây. Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc căn cứ vào tình hình quân Pháp tập trung mấy tiểu đoàn lính dù ở Hà Nội, cuối tháng 4 đầu tháng 5 hai lần điện cho Vi Quốc Thanh, nhắc đồng chí đề phòng địch nhảy dù xuống nút giao thông quan trọng ở hậu phương quân đội nhân dân, để cắt đường tiếp tế, làm rối loạn hậu phương, và hiệp đồng với quân địch ở Thượng Lào giải vây Điện Biên Phủ.

Theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Vi Quốc Thanh lại bàn với Võ Nguyên Giáp, tăng cường hơn nữa bố trí đề phòng quân địch giải vây ở hai hướng nam, bắc. Đồng thời quyết định : các đại đoàn 308, 312, 316 đêm 1/5 mở tấn công cứ điểm tây và đông sở chỉ huy Mường Thanh của quân Pháp, xiết chặt vòng vây hơn nữa. Trước hết tiêu diệt địch ở các cứ điểm đông sông Nạm Rốn rút binh lực cơ động để đối phó tình huống bất trắc. Sau khi chiến đấu bắt đầu, quân đội nhân dân rất nhanh tiêu diệt địch ở cánh sườn cứ điểm C1 và tấn công cứ điểm 505, 505A v.v.. chiến đấu đến ngày 3/5, lại tấn công tiếp cứ điểm 311A, 311B. Đến đây quân đội nhân dân đã áp sát sở chỉ huy Mường Thanh của địch.

Vi Quốc Thanh cho rằng, thời cơ tổng công kích Điện Biên Phủ đã chín muồi. Cùng với phía Việt Nam nghiên cứu, quyết định đêm 6/5 mở tổng công kích. Lúc này, đã đào xong đường ngầm thông sang đường hào cứ điểm A1, và chôn 1 tấn thuốc nổ. Sau tiếng nổ rền trời của một tấn thuốc nổ ở cứ điểm A1, cuộc tổng công kích trên toàn tuyến bắt đầu. Tất cả hoả pháo của quân đội Việt Nam kể cả pháo tên lửa 17 nòng của Trung Quốc trang bị vừa trở ra tiền tuyến cùng nã vào trận địa quân Pháp, với uy lực to lớn làm sát thương và choáng váng quân địch. Bọn địch dưới nhà hầm A1 bị thuốc nổ xé xác, bọn tàn quân trên mặt đất rất nhanh bị quét sạch. Đến sáng 7, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở cứ điểm Châu Ôn, Na Nông, 506, làm cho Mường Thanh mất bình phong cuối cùng. Quân Pháp thấy rõ thế cờ, tiêu tan hy vọng, lúc 14g ngày 7, lục tục kéo cờ trắng, nộp vũ khí đầu hàng Quân đội Nhân dân. Thiếu tướng De Castries viên chỉ huy quân Pháp đã từng hùng hổ một thời cuối cùng cúi đầu, chắp hai tay cùng nhân viên Bộ Tham mưu của y ra làm tù binh của Quân đội Nhân dân.

Ngày hôm đó, đại đoàn 304 tấn công quân địch ở Hồng Cúm, phân khu nam. Hơn 2000 tên địch đêm tối phá vây chạy xuống phía nam, bị quân đội Việt Nam truy đuổi tiêu diệt vào nửa đêm. Đến đây, chiến dịch Điện Biên Phủ trải qua 55 ngày đêm, kết thúc với thắng lợi to lớn của quân đội Việt Nam. Thành quả chiến thắng Điện Biên Phủ rực rỡ, tiêu diệt tất cả 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, kể cả bộ đội công binh, thiết giáp, vận tải v.v... tất cả là 16.200 tên địch. Trong đó có 10.903 tù binh, bao gồm 41 sĩ quan cấp tướng tá, 1.749 sĩ quan cấp uý, bắn rơi bắn hỏng 62 máy bay thu 30 khẩu trọng pháo, 6 xe tăng hơn 30.000 chiếc dù và số lớn vũ khí đạn dược và vật tư quân dụng khác.

Chiến thắng Điện Biên Phủ như đã làm chấn động thế giới, càng chấn động nước Pháp. Chính phủ Pháp treo cờ rủ để tang cho các tướng sĩ trận vong ở Điện Biên Phủ, tập đoàn thống trị thốt lên tiếng ai oán và lời than vãn, còn những người tiến bộ trên toàn thế giới thì reo hò mừng vui. Ngày thứ hai kết thúc thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ, tức ngày 8/5/1954, chính là ngày hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương. Sự trùng hợp lịch sử này lại bao hàm nhân tố tất nhiên. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã phối hợp mạnh mẽ với đấu tranh ngoại giao ở hội nghị Genève, nó làm cho đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam không chỉ ở vào vị thế của người chống xâm lược, chính nghĩa, mà còn ở vào vị thế của người chiến thắng.

Đoàn đại biểu chính phủ Pháp không chỉ ở vào vị thế của kẻ xâm lược mà còn ở vào vị thế của kẻ thất bại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã mở đường cho hội nghị Genève cuối cùng đi đến hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Nhưng sau khi hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương, đoàn đại biểu Pháp lại ra sức vẽ vời, xuyên tạc sự thật, vu khống công kích Việt Nam vấn đề đưa thương binh về nước, làm cho hội nghị trước tiến triển khai đấu tranh xoay quanh vấn đề phóng thích thương binh Pháp. Do đoàn đại biểu Việt Nam không có điện đài liên hệ trong nước, nên Trung ương đoàn, đoàn đại biểu chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai điện hỏi Vi Quốc Thanh về tình hình liên quan đến vấn đề phóng thích thương binh. Ngày 13/5 Chu Ân Lai gửi điện cho Vi Quốc Thanh nói : “Các nước phương Tây đang lợi dụng vấn đề thương binh ở Điện Biên Phủ để chỉ trích Liên Xô. Phía nhân sĩ tiến bộ và bạn bè mong muốn kịp thời có được tư liệu liên quan đến tình hình xử lý thương binh của phía địch ở Điện Biên Phủ, có thể điện cho biết bất cứ vào lúc nào về tình hình hai bên thương lượng thả thương binh binh nặng của phía địch và tình hình tiến triển cụ thể trong việc chuyên chở thương binh được thả để chuyển cho Phạm Văn Đồng và đoàn đại biểu Liên Xô, để có căn cứ tuyên truyền, đập tan âm mưu của địch”. Sau đó, Chu Ân Lai căn cứ và tình hình phía Pháp nói phía Việt Nam chỉ thả thương binh người nước ngoài, không thả thương binh người Việt Nam, công kích Việt Nam “kỳ thị dân tộc”, ngày 15/5 một lần nữa Chu Ân Lai điện cho Vi Quốc Thanh hỏi : “ Trong đợt đầu thả thương binh nặng có thương binh nguỵ quân Việt Nam hay không, và nếu có, nếu đợt này không có, thì trong danh sách đợt hai nên có thương binh nguỵ quân Việt Nam, và cho công bố ”.

Lúc này, ở Điện Biên Phủ cũng tiến hành cuộc đấu tranh xoay quanh vấn đề thả tù binh, bị thương nặng của quân Pháp. Theo yêu cầu của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam cho phép phía Pháp chở tù binh bị thương nặng của họ và cử đoàn đại biểu đến Điện Biên Phủ để bàn cách chở cụ thể, ngày 13/5 phía Pháp cử đoàn đại biểu do giáo sư Huard dẫn đầu đến Điện Biên Phủ, thương lượng với phía Việt Nam và đạt được thoả thuận như sau : “ Vì sân bay khó sửa chữa nên phía Pháp dùng máy bay trực thăng và máy bay vận tải cỡ nhỏ để chuyên chở tù binh bị thương. Trong thời gian này, phía Pháp bảo đảm ngừng hoạt động máy bay oanh tạc xung quanh Điện Biên Phủ 10 km và trên tuyến đường từ Điện Biên Phủ đi Tuần Giáo dọc quốc lộ số 41 đến Sơn La ”. Ngày hôm sau, thoả thuận được Bộ chỉ huy hai bên phê chuẩn có hiệu lực. Đợt đầu tiên tù binh bị thương nặng được chở về Hà Nội.

Phía Pháp lập tức phát hiện thoả thuận trên có lợi cho Việt Nam, phía Việt Nam có thể nhân cơ hội này vận chuyển số lớn vật tư đã thu được ra ngoài Điện Biên Phủ. Vì thế phía Pháp bác bỏ thoả thuận trước, ngày 16/5 đổi lại cử đoàn đại biểu do thiếu tá Jamis dẫn đầu đi Điện Biên Phủ đưa ra kiến nghị mới với phía Việt Nam, yêu cầu sửa chữa sân bay, để máy bay vận tải cỡ lớn vận chuyển thương binh, thay đổi điều khoản máy bay quân Pháp ngừng hoạt động bắn phá quốc lộ 41. Khi Việt Nam chưa trả lời, phía Pháp đã đơn phương ngừng chuyên chở thương binh nặng của họ và khôi phục hoạt động của máy bay trên tuyến quốc lộ 41. Phía Việt Nam lập tức vạch trần đầy đủ hành vi lật lọng đó của phía Pháp.

Vi Quốc Thanh tuân theo chỉ thị của Chu Ân Lai, trên đường từ Điện Biên Phủ trở về hậu phương, nhiều lần cùng phía Việt Nam nghiên cứu vấn đề thả tù binh bị thương, áp dụng một số biện pháp quan trọng và thuyết phục phía Việt Nam thả một số tù binh bị thương của quân nguỵ Việt Nam. Vi Quốc Thanh đã điện báo kịp thời cho Chu Ân Lai những biện pháp của phía Việt Nam thả tù binh bị thương, tình hình tiến triển thả tù binh hằng ngày và cả tài liệu Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam vạch trần phía Pháp phá hoại thoả thuận chuyên chở tù binh bị thương, từ đó làm cho đoàn đại biểu Việt Nam có sự thực xác đáng vạch trần mạnh mẽ âm mưu của phía Pháp lấy vấn đề tù binh bị thương làm cái cớ để phá hoại đàm phán hoà bình Genève.

Trải qua hơn hai tháng đấu tranh đàm phán, cuối cùng ngày 20/7, hội nghị Genève đạt được Hiệp định lập lại hoà bình ở Đông Dương. Hiệp định quy định : “ Các bên có liên quan ở Việt Nam, Lào, Campuchia chấm dứt hành động thù địch, thực hiện ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, chính phủ Pháp sẽ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân đội của mình ra khỏi Đông Dương, lấy vĩ tuyến 170 Bắc làm giới tuyến quân sự tạm thời, lực lượng vũ trang Việt Nam tập kết ở phía bắc giới tuyến quân đội Pháp tập kết ở phía nam giới tuyến ”.



Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:01:34 am
Ngày 22/7, hai bên Việt – Pháp ra lệnh ngừng bắn. Cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam trải qua hơn 8 năm kết thúc thắng lợi, hoà bình được lập lại ở Đông Dương. Đến đây, nhiệm vụ của Vi Quốc Thanh lãnh đạo đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp hoàn thành thắng lợi. Trong thời gian công tác ở Việt Nam, Vi Quốc Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiệt tình và tín nhiệm rất lớn. Một số kiến nghị trọng đại của đồng chí liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội Việt Nam đều do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận quyết định. Sau đó Tổng Quân uỷ và cơ quan Bộ Tổng Tham mưu tổ chức thực hiện. Hồ Chí Minh nhiều lần đến nơi ở của Đoàn cố vấn thăm Vi Quốc Thanh và các cố vấn, thăm hỏi ân cần, quan tâm hết mực, có lúc còn mời Vi Quốc Thanh và Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm cùng đến chỗ ở của Người ăn cơm, luận bàn chiến sự, kể chuyện gia đình, tự do thoải mái giãi bày tâm sự. Hồ Chí Minh còn tặng thơ cho Vi Quốc Thanh. Đó là một ngày sau chiến dịch Biên Giới, Hồ Chí Minh bất ngờ đến thăm đoàn cố vấn, gặp lúc Vi Quốc Thanh không có nhà. Ngày hôm sau, Hồ Chí Minh cho người đưa đến cho Vi Quốc Thanh một bài thơ chữ Hán

Bách lý tầm quân vi ngộ quân,
Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân.
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân.

(Trăm dặm tìm bạn nhưng không gặp,
vó ngựa dẫm nát mây đỉnh núi.
Quay về tình cờ gặp cây mai rừng,
mỗi đoá hoa vàng một điểm xuân)

Bày tỏ tình nghĩa sâu nặng của Người đối với Vi Quốc Thanh – cũng là đối với nhân dân Trung Quốc. Khi Vi Quốc Thanh hoàn thành nhiệm vụ giúp Việt Nam sắp về nước, Hồ Chí Minh và mấy vị thành viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam : Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh chiêu đãi Vi Quốc Thanh tại phủ Chủ tịch Hà Nội. Trước đó phía Việt Nam đã gửi giấy mời Vi Quốc Thanh và thư ký Vương Chấn Hoa. Tối hôm đó Vi Quốc Thanh dẫn thư ký đến dự tiệc. Trong phủ Chủ tịch ánh đèn sáng choang. Khi Vi Quốc Thanh đến, Hồ Chí Minh và từng người ôm hôn đồng chí. Ngồi ở phòng khách rộng rãi sáng sủa một lát, rồi chủ khách 7 người đi vào phòng tiệc ngồi vây quanh chiếc bàn hình chữ nhật.

Hồ Chí Minh ngồi chính giữa phía chiều dài, bên phải là Vi Quốc Thanh, bên trái là Tổng Bí thư Trường Chinh. Buổi tiệc bắt đầu, Hồ Chí Minh chúc mấy câu ngắn gọn bằng tiếng Việt, ngỏ ý thư ký phiên dịch. Thư ký dịch được mấy câu thì ấp úng. Vi Quốc Thanh vội đỡ lời nói : “ Phiên dịch Hầu Hàn Giang đã về nước. Người thư ký này học được ít tiếng Việt, khó hoàn thành nhiệm vụ này lắm ! ” Hồ Chí Minh nghe xong cười nói : “ À ! Chẳng sao, tôi sẽ nói tiếng Hán vậy, lát nữa khi đồng chí nói chuyện với Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, tôi làm phiên dịch ! ” Trong 5 thành viên phía Việt Nam, Hồ, Phạm, Võ đều biết chữ Hán và nói được tiếng Trung Quốc, Trường Chinh chỉ biết chữ Hán, không biết nói tiếng Trung Quốc, Nguyễn Chí Thanh biết chút ít chữ Hán cũng không nói được tiếng Trung Quốc. Vì thế sau lời chúc Hồ Chí Minh đích thân làm phiên dịch.

Mọi người và Vi Quốc Thanh trò chuyện chân tình nồng nhiệt, thể hiện tình hữu nghị chiến đấu lưu luyến bịn rịn. 34 năm sau, tức tháng 9 năm 1990, khi Bắc Kinh tổ chức Á vận hội, Võ Nguyên Giáp nhận lời mời đến Bắc Kinh khai mạc. Lúc này Vi Quốc Thanh đã qua đời hơn một năm. Võ Nguyên Giáp có nhã ý gặp thăm Hứa Kỳ Thanh, phu nhân của Vi Quốc Thanh, và con gái Vi Tiểu Nhạn. Khi Hứa Kỳ Thanh mời Võ Nguyên Giáp nói đôi lời về Vi Quốc Thanh, đồng chí trầm tư một lát rồi đánh giá như sau : “ Đồng chí Vi Quốc Thanh là con người kiên định. Thời kỳ tôi cùng làm việc với đồng chí là thời kỳ hoàng kim trong lịch sử của tôi. Chúng tôi sống với nhau trong những ngày Việt Nam gian khổ nhất. Đồng chí rất kiên định. Khi đồng chí nói sắp rời Việt Nam, chúng tôi cùng nhìn lại công tác mấy năm qua, quan hệ giữa chúng tôi rất tốt. Đồng chí tặng tôi một bức hoành xinh đẹp “ Gió đông đón khải hoàn ” vẫn treo trong phòng làm việc của tôi, người bạn tri kỷ nhất của tôi là đồng chí Vi Quốc Thanh ”.

Công tác của đồng chí Vi Quốc Thanh dẫn đầu Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam và những đóng góp của đồng chí cho cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam là một trang vẻ vang trong lịch sử Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Tình hữu nghị chiến đấu gắn bó giữa nhân dân và quân đội hai nước Trung – Việt sẽ trường tồn trong lịch sử hai nước Trung – Việt, nhân dân hai nước mãi mãi không bao giờ quên.

Vu Hoá Thầm

(đăng trong Thượng tướng phong vân lục
nhà xuất bản Đại Bách Khoa toàn thư xuất bản năm 2000.
Khi đưa vào tập sách này có sửa chữa đôi chữ cá biệt ;
tác giả là Vương Chấn Hoa, bút danh là Vu Hóa Thầm)



1 Légion Etrangère (chú thích của Diễn Đàn)

2 Đúng hơn, đó là những binh đoàn Âu-Phi, gồm thiểu số là bính lính Pháp, đa số là người Bắc Phi (Ả rập, Kabyle) và Tây Phi (da đen).

3 Xem hồi kí của La Quý Ba

4 Đây bắt đầu quá trình Mao hoá Quân đội Nhân dân, gạt bỏ các thành phần “không cơ bản”. Trong một hồi ký, Võ Nguyên Giáp kể lại rằng trong các lớp huấn luyện, cố vấn Trung Quốc thấy cán bộ Việt Nam ghi chép rất nhanh, bèn kết luận đây là nhừng phần tử “phức tạp”…

5 Theo những thông tin của chúng tôi, lần này Stalin không tiếp Hồ Chí Minh, một cách để làm sức ép. Trong một bức thiệp gửi Stalin, chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ ý tiếc không được gặp Stalin và hứa sẽ tiến hành cải cách ruộng đất.

6 Nội dung cuộc trao đổi này thực ra là nội dung cuộc găp Stalin – Hồ Chí Minh tháng 2.1950 (xem hồi kí của Khrushev và Võ Nguyên Giáp). Cách trình bày của tác giả hàm ý giảm nhẹ trách nhiệm của Trung Quốc trong cuộc cải cách ruông đất.

7 Dịch giả Dương Danh Dy phiên âm từ Trung văn. Có lẽ là Tou Samouth, chủ tịch Mặt trận Issarak Thống nhất, bị chính quyền Sihanouk ám sát năm 1962 (cũng có nguồn tin cho rằng Pol Pot cũng nhúng tay vào cái chết của lãnh tụ Tou Samouth).

8 Sự thực đến cuối trận đánh, De Castries mới được phong thiếu tướng.

9 Ở đây, tác giả hoàn toàn viết sai sự thật. Quyết định thay đổi cách đánh là của đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 25.1.1954 (“quyết định khó nhất đời tôi”), giờ chót có sự ủng hộ của Vi Quốc Thanh. Bộ chính trị ĐCSVN ở xa, mấy ngày sau mới được báo cáo và tán thành. Năm 2004, trong dịp kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, phía Trung Quốc có rò rỉ tin đồn là quyết định ấy dã được chính Mao Trạch Đông chuẩn y cho Vi Quốc Thanh. Nhưng cuối cùng, tại cuộc hội thảo ở Bắc Kinh, họ đã phải thừa nhận là bức điện này, ngày 27.1, Vi Quốc Thanh mới nhận được (bài viết này cũng thừa nhận ngày 27.1, nhưng trước đó lại trình bày lươn lẹo0. Có thể tham khảo tường trình về cuộc tranh luận này của nhà sử học Pháp Pierre Journoud Paris, Ha Noi, Pekin

10 Trung tá Charles Piroth (1906-1954) đã tham gia chiến đấu chống Đức. Ba lần sang Việt Nam trong hàng ngũ quân đội thực dân. Lần đầu, trong một trận đánh ở Thủ Dầu Một (tháng 12-1946) bị thương, phải cưa cụt cánh tay trái (không gây mê). Trước khi trận Điên Biên Phủ bắt đầu, Piroth cam đoan sẽ dập tắt ‘đại bác của Giáp’ ngay từ giờ đầu (điều này chắc sẽ xảy ra nếu Võ Nguyên Giáp không sáng suốt và dũng cảm thay đổi phương châm tiến công ngày 25.1.1954). Ngày 15.3, sau hai đêm và một ngày, pháo binh của Piroth hoàn toàn bất lực trước hoả lực của QĐND, không làm sao bảo vệ được các cứ điểm Him Lam và Độc Lập. Trung tá Piroth đi một vòng xin lỗi chiến hữu (C’est ma faute !), trở về boong-ke, rút chốt lựu đạn đeo trước ngực. Bộ chỉ huy của đại tá Christian de Castries giấu nhẹm tin Piroth tự tử vói binh sĩ ở Điện Biên Phủ, chôn cất Piroth ngay trong hầm. Nhưng báo chí Pháp được tin (do một nguồn tin “ẩn danh” báo qua vô tuyến) và khi báo Pháp được thả dù tiếp tế xuống Điện Biên Phủ, tin này đã lan ra các đơn vị “quân dội Liên Hiệp Pháp”, tác động như một tiếng sét giáng vào tinh thần binh sĩ.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:34:40 pm
ĐỒNG CHÍ TRẦN CANH TRƯỚC VÀ SAU CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI VIỆT NAM
Vương Nghiên Tuyền

Tháng 7 năm 1950, theo lời mời của chủ tịch Hồ Chí Minh – Việt Nam, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao Chủ tịch cử đồng chí Trần Canh làm đại diện Trung ương Đảng sang Việt Nam, giúp Bộ Tổng Quân đội Nhân dân Việt Nam tổ chức chiến dịch biên giới. Lúc bấy giờ, đồng chí Trần Canh đang giữ nhiều chức vụ : Uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, Phó tư lệnh quân khu Tây Nam quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, Tư lệnh quân khu Vân Nam, Tư lệnh kiêm chính uỷ binh đoàn số 4, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vân Nam, Chủ nhiệm Uỷ ban quân quản, đã nhận nhiệm vụ vẻ vang và gian khổ này trong tình hình Vân Nam vừa mới giải phóng trăm nghìn việc đang chờ giải quyết, bận rộn một ngày đêm.

 Khi đồng chí Trần Canh từ Côn Minh đi Việt Nam, đưa điều động 10 cán bộ cấp Đại đoàn ở cơ quan và bộ đội binh đoàn số 4 đi theo đồng chí. Tôi được điều động từ bộ đội đi theo đoàn, làm Tham mưu, thu thập tình hình, làm chút ít công việc cụ thể trước khi chiến đấu. Sau khi đến Việt Nam, khi cuộc chiến đấu sắp bắt đầu, vì đồng chí Ngô Hiệu Mẫn được binh đoàn số 4 cử làm cố vấn cho đại đoàn 308 quân đội Việt Nam bị ốm, cần có người khác thay, được Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam đồng ý, đồng chí Trần Canh và đồng chí Vi Quốc Thanh (nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam làm đoàn trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc) lập tức cử tôi làm cố vấn đại đoàn 308. Do nguyên nhân trên tôi may mắn được tiếp xúc với đồng chí Trần Canh trong mấy tháng, tôi đã được giáo dục chủ nghĩa quốc tế và giáo dục tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông sâu sắc từ trong thực tiễn cụ thể của đồng chí Trần Canh.


Thứ nhất, mẫu mực của chủ nghĩa quốc tế vô sản, ân cần dạy dỗ, hành trình gian khổ, nói và làm nhất trí.

Đồng chí Trần Canh dẫn đoàn chúng tôi hơn 170 người (bao gồm phân đội cảnh vệ, phân đội vận tải, vận tải những thứ tặng lãnh đạo Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, ngày 7/7/1950 xuất phát từ Côn Minh, tối 14/8 thì đến Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam ở Đại Phi, huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng Việt Nam. Trong hơn một tháng đó, ngoài việc từ Côn Minh đến Khai Viễn đi tàu hoả, từ Khai Viễn đến Vân Sơn ngồi ôtô ra, chặng đường còn lại đều đi ngựa hoặc đi bộ. Lúc này đang là mùa mưa, trời tối sầm và mưa râm liên miên, mưa to xối xả, những nơi đi qua đều là đồi núi và ruộng lúa ngập nước, rất nhiều lúc ngựa cũng không cưỡi được, đành phải đi bộ.

 Hai chân của Trần Canh đều bị thương nặng trong chiến tranh trong nước, chẳng phải nói con đường khó đi như thế, ngay cả đi con đường bình thường cũng đã là vất vả và đau đớn. Sau khi xuất phát từ huyện Vân Sơn được ba bốn ngày, thì bệnh đau răng của đồng chí Trần Canh tái phát, đau đến mức đêm không ngủ được. Tuy vậy, đồng chí vẫn kiên trì hành quân cùng với các đồng chí, mọi người đều lo lắng cho sức khoẻ và an toàn của đồng chí. Tỉnh lỵ các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn v.v... ở Việt Nam mà chúng tôi đi qua lúc bấy giờ, tuy đều nằm trong vùng kiểm soát của quân đội Việt Nam, nhưng từ Hà Giang đến Tuyên Quang, từ Tuyên Quang đến nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lại ngược bắc lên huyện Quảng Uyên của Cao Bằng, trên thực tế đều hành quân trong tình hình sẵn sàng chiến đấu, lúc nào cũng phải đề phòng địch oanh tạc và đặc vụ địch tấn công. Đồng chí Trần Canh chịu đựng những cơn đau răng dữ dội, lê đôi chân bị thương nặng hành quân sẵn sàng chiến đấu trong mùa mưa dài. Ngoài việc hằng ngày tiếp xúc các đồng chí đón tiếp của Chính quyền, bộ đội địa phương, còn tranh thủ mọi thời cơ thu thập tình hình mọi mặt của quân Pháp và Việt Nam, chẳng kể ngày đêm suy nghĩ vấn đề hỗ trợ Việt Nam đánh thắng chiến dịch lúc bấy giờ, đồng thời quan tâm tất cả các đồng chí cùng đi về chính trị, công tác, an toàn, đời sống.

Trước khi xuất phát từ Côn Minh, đến 1/11/1950 hoàn thành nhiệm vụ rời Việt Nam về nước, đồng chí Trần Canh thường xuyên nhấn mạnh với tất cả các đồng chí Trung Quốc đã tiếp xúc với đồng chí : Chúng ta nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng, Chu Tổng tư lệnh cử chúng ta sang Việt Nam chấp hành nhiệm vụ quốc tế. Chúng ta phải tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân các dân tộc Việt Nam toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân Việt Nam, tôn trọng sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khắc phục mọi khó khăn trở ngại. Không tiếc bất cứ hy sinh nào, dốc hết tâm sức hoàn thành mọi nhiệm vụ Mao Chủ tịch và Hồ Chủ tịch giao cho chúng ta, phải xử lý tốt quan hệ đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam, bất cứ việc gì cũng phải nghĩ đến tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, tuyệt đối không được phụ lòng mong đợi của Mao Chủ tịch, Hồ Chủ tịch. Đồng chí Trần Canh giáo dục chúng tôi như vậy, đồng chí tự làm gương trước, nén chịu cơn đau thương tật và mệt nhọc trên đường đi, dốc toàn bộ tinh lực vào điều tra nghiên cứu, vào suy nghĩ vấn đề tác chiến chống đế quốc Pháp xâm lược quan hệ đến lợi ích lớn nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam, vào việc hỗ trợ Việt Nam đánh thắng chiến dịch Biên Giới.

Trước khi đồng chí Trần Canh sang Việt Nam, tháng 5/1950 đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực của QĐNDVN hơn 10.000 người đã đến tập kết tại vùng Nghiên Sơn, Vân Nam, nhận vũ khí, trang bị, khí tài, trang phục v.v... của Trung Quốc viện trợ, tiến hành chỉnh huấn trước chiến dịch biên giới dưới sự hỗ trợ của binh đoàn 4 Quân Giải phóng. Quân Khu Vân Nam, binh đoàn 4 cử nguyên Tư lệnh biên khu Vân Nam – Quý Châu, Phó tư lệnh quân khu Vân Nam, Trang Điền và quân đoàn trưởng Chu Hy Hán, quân đoàn phó Trần Canh quân đoàn 13 binh đoàn 4, dẫn cán bộ của một đại đoàn từ đại đoàn đến trung đội của một sư, hỗ trợ đại đoàn 308 công tác hai tháng ở doanh trại Nghiên Sơn. Ngày 10/7, ngay sau khi đồng chí Trần Canh đến Nghiên Sơn, lập tức thu thập tình hình của Ngô Hiệu Mẫn, được binh đoàn 4 cử làm cố vấn đại đoàn 308 báo cáo ; nghe Song Hào – chính uỷ đại đoàn 308 và chính uỷ Trung đoàn 165 trung đoàn chủ lực trên chiến trường Tây Bắc quân đội Việt Nam giới thiệu tình hình ; nghe Trang Điền, Chu Hy Hán hỗ trợ mọi mặt công tác cho đại đoàn 308 trao đổi tình hình, nghiên cứu quyết định ngay tại chỗ những vấn đề cần giải quyết, thảo luận vấn đề chiến dịch mà quân đội Việt Nam sắp bắt đầu.

 Lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam đã xác định cần tập trung đại đoàn 308 và hai trung đoàn 174, 209 do Bộ Tổng trực tiếp nắm, tiến hành chiến dịch biên giới ở phía Việt Nam, biên giới Trung – Việt, nhưng hướng chính của chiến dịch liệu có phải ở vùng Cao Bằng chiến trường Đông Bắc hay không thì vẫn chưa có quyết định cuối cùng. Sau khi sư 308 được chuẩn bị trang bị, huấn luyện ở Vân Nam thì xuất kích đánh Lào Cai. Đồng chí Trần Canh căn cứ vào tình hình tìm hiểu được, cho rằng hướng chính của chiến dịch nên đặt ở vùng Cao Bằng, chiến trường Đông Bắc, đồng thời báo cáo ý kiến đó lên Quân uỷ Trung ương, Mao Chủ tịch và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng quân đội Việt Nam cũng quyết định rất nhanh đặt hướng chính của chiến dịch ở vùng Cao Bằng chiến trường Đông Bắc, coi vùng Lào Cai của chiến trường Tây Bắc là hướng phụ của chiến dịch.

Ngày 20/7, Trần Canh cùng đoàn từ biên giới huyện Ma Li Phô đi vào địa phận tỉnh Hà Giang. Dọc đường, đồng chí Trần Canh tiếp xúc với nhiều cán bộ phụ trách quân chính Việt Nam, lại hiểu được nhiều tình hình của quân xâm lược Pháp và địa phương, quân đội Việt Nam, còn tiếp xúc với bộ đội của trung đoàn 165 quân đội Việt Nam ở Vĩnh Tuy giữa Hà Giang – Tuyên Quang. Căn cứ vào tình hình và vấn đề mà cán bộ phụ trách quân chính Việt Nam cho biết, đồng chí Trần Canh cảm thấy quân đội Việt Nam chưa xác định rõ ràng mục địch chiến dịch sắp tiến hành, các đồng chí rất ít bàn đến vấn đề làm thế nào để tiêu diệt sinh lực địch, giành chủ động chiến trường; mà nói nhiều đến đánh chiếm Lào Cai như thế nào, đánh chiếm Cao Bằng như thế nào, tập trung vào đánh lấy thành phố, thị trấn, đánh lấy địa phương. Đồng chí Trần Canh qua nhiều suy nghĩ trăn trở, cho rằng đây là vấn đề lớn quan hệ đến tư tưởng chỉ đạo tác chiến cần phải sớm giải quyết, vì thế trước khi vào địa phận tỉnh Tuyên Quang, đã gọi điện ngay cho La Quý Ba đang ở chỗ Chủ tịch Hồ Chí Minh (theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam làm cố vấn chính trị, về sau làm Đại sứ ở Việt Nam), trao đổi với đồng chí giải quyết vấn đề này như thế nào,


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:35:11 pm
 Thời gian đồng chí Trần Canh xuất phát từ Côn Minh là sau hội nghị toàn thể lần thứ 3 Khoá 7 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng là sau khi đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh Triều Tiên. Đồng chí không chỉ tập trung suy nghĩ vấn đề hỗ trợ Việt Nam tác chiến, mà còn cũng thường xuyên theo dõi chặt chẽ tình hình mọi mặt trong nước và tình hình chiến trường Triều Tiên. Từ Côn Minh, đến huyện biên giới Ma Li Phô, đồng chí không ngừng truyền đạt tinh thần hội nghị Trung ương 3 cho cán bộ, đảng, chính quyền quân đội mà đồng chí đã gặp, thăm hỏi tình hình mọi mặt liên quan đến tư tưởng chính trị, tài chính kinh tế, an ninh xã hội v.v... và nêu ra ý kiến công tác cụ thể. Trên đường đi, mỗi khi đến giờ Tân Hoa xã phát tin tức thời sự và tư liệu tham khảo, đều yêu cầu đài vô tuyến điện đi theo dừng lại ghi chép, đồng chí xem tỉ mỉ nội dung ghi chép và bảo những người cùng đi chuyền nhau xem, làm cho mọi người đều có hiểu biết cơ bản những việc lớn trên quốc tế, trong nước và tình hình chuyển biến hàng ngày trên chiến trường Triều Tiên. Sau khi đến nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí cảm thấy phía Việt Nam không nhanh nhạy lắm đối với tin tức quốc tế, bèn kiến nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh kiện toàn cơ quan thu thập tình hình quốc tế, chú ý theo dõi sự thay đổi tình hình các nơi trên thế giới. Trong công tác sinh hoạt hàng ngày của đồng chí Trần Canh có thể thấy rõ, đồng chí là một người quốc tế vô sản trung thành lúc nào cũng làm tốt việc chuẩn bị chấp hành một nhiệm vụ quốc tế.

Tháng 11 cùng năm, sau khi đồng chí từ chiến trường Việt Nam về nước chưa được nghỉ ngơi lại tới ngay chiến trường Triều Tiên. Trong cuộc hành trình hết nơi này đến nơi khác ở Việt Nam, đồng chí Trần Canh không chỉ quan tâm vấn đề đấu tranh quân sự của Việt Nam, cũng rất quan tâm đến các vấn đề trong quần chúng địa phương Việt Nam. Lúc bấy giờ bọn đế quốc Pháp ngoài việc ráo riết tấn công đồng bằng Bắc Bộ ra, đồng thời tăng cường xâm lược chính trị, kinh tế đối với Việt Nam. Để phân hoá lực lượng kháng chiến của Việt Nam, bọn đế quốc Pháp lợi dụng bọn phản động Việt Nam tiến hành các trò lừa gạt, quấy rối ở vùng các dân tộc thiểu số Bắc Bộ, làm cho quần chúng ở một số vùng dân tộc thiểu số có sự hiểu nhầm, tình hình có những cái không bình thường lắm. Để bóp chết lực lượng kháng chiến của Việt Nam, về vật chất kinh tế, quân Pháp tăng cường kiểm soát vùng sản xuất lương thực miền Bắc Việt Nam phá hoại kinh tế, bao vây kinh tế, làm cho đời sống nhân dân trong vùng quân đội Việt Nam kiểm soát ngày càng khó khăn, vật giá lên cao, đồng bạc ngày càng mất giá. Đứng trước tình hình đó, đồng chí Trần Canh đưa ra kiến nghị với phía Việt Nam tăng cường công tác dân tộc thiểu số, củng cố đoàn kết giữa các dân tộc, đưa ra kiến nghị tăng cường công tác tài chính kinh tế, đồng thời kiến nghị chính phủ Trung Quốc, giúp Việt Nam tăng cường công tác tài chính, chỉnh đốn tiền tệ, in đồng tiền mới. Những kiến nghị đó đều có tác dụng nhất định đối với việc đập tan âm mưu của đế quốc Pháp chia rẽ lực lượng chống Pháp của Việt Nam, khắc phục khó khăn kinh tế khá nghiêm trọng lúc bấy giờ.

Đồng chí Trần Canh sau khi vào đến địa phận Việt Nam chẳng bao lâu cảm động trước tinh thần phấn đấu gian khổ, đầy hy sinh của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp, nhất là cảm động trước sự cần cù dũng cảm của đông đảo phụ nữ lao động Việt Nam. Lúc bấy giờ phần lớn nam giới ở căn cứ địa được động viên vào bộ đội, chính quyền, công an cách gọi của người Việt Nam công tác việc sản xuất ở nông thôn, mọi việc phục vụ thời chiến, công tác chi viện tiền tuyến Việt Nam đều đè lên vai của đông đảo phụ nữ lao động. Mỗi người chúng tôi trong đoàn đều rất cảm động trước tinh thần cống hiến của phụ nữ Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Pháp cứu nước. Đồng chí Trần Canh đi đến đâu cũng nói đến sự vĩ đại của phụ nữ Việt Nam, kiến nghị phía Việt Nam chú ý bồi dưỡng cán bộ phụ nữ, nâng cao địa vị xã hội của họ. Điều đó thể hiện đầy đủ quan điểm quần chúng vững chắc, tin tưởng quần chúng, dựa vào quần chúng, phục vụ quần chúng và phẩm chất cao quý của người cộng sản của đồng chí Trần Canh.

Đồng chí Trần Canh rất quan tâm đến tất cả cán bộ đi theo đoàn, khiến mọi người khắc phục tương đối thuận lợi mọi khó khăn gặp phải, hoàn thành được nhiệm vụ phải hoàn thành. Lúc bấy giờ tình hình tài chính kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn trang bị của bộ đội khá đơn sơ, ngay cả áo mưa cũng không có, khi chúng tôi rời Côn Minh mỗi người được phát một cái ô đi mưa. Sau khi đến chỗ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh nói người Việt Nam rất ít dùng ô đi mưa, các đồng chí dùng ô sẽ để lộ là người Trung Quốc, không có lợi cho bảo mật. Chủ tịch tự tay thu hết ô đi mưa, phát cho mỗi người một chiếc mũ lá cọ, cho nên trên đường hành quân thường xuyên bị mưa thấm ướt. Đồng chí Trần Canh cũng như mọi người bị mưa ướt sũng, lội đường bùn, trên đường hành quân vẫn hay kể chuyện tiếu lâm, làm cho tinh thần mọi người vui vẻ vượt khó tiến lên.

Chúng tôi đều là người miền bắc, trong hoàn cảnh như ở Việt Nam, thường xuyên hành quân trong mưa rất dễ bị sốt rét ác tính, để đề phòng sốt rét ác tính lây lan, đồng chí Trần Canh hàng ngày đích thân đôn đốc cán bộ chiến sĩ uống thuốc chống sốt rét đúng giờ, sau cơn mưa, đích thân đôn đốc mọi người hong khô quần áo, uống canh ớt, tăng sức chống bệnh. Không có sự quan tâm tỉ mỉ chu đáo của đồng chí Trần Canh về chính trị, đời sống thì trong tình hình lúc bấy giờ khó có thể làm cho tất cả những người đi theo đoàn có sức khoẻ để hoàn thành nhiệm vụ.


Thứ hai, với tinh thần quốc tế vô sản cao độ, với thái độ chân thành, thẳng thắn, khiêm tốn, nhẫn nại, hỗ trợ Quân đội Nhân dân Việt Nam đi lên một giai đoạn chiến lược mới trong việc hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch biên giới.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:35:58 pm
1. Phân tích nhược điểm của “kế hoạch Revers” của quân Pháp

Ngày 28/7/1950, sau khi đến nơi ở của chủ tịch Hồ Chí Minh cách huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang Việt Nam 12km về phía bắc, đồng chí Trần Canh dẫn chúng tôi lần lượt nghe Chủ nhiệm phòng thư ký Quân uỷ Quân đội Việt Nam Đỗ Đức Kiên, Phó Tổng tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu v.v... giới thiệu tình hình địch ta. Ngày 14/8 sau khi đến Bộ chỉ huy tiền tuyến Bộ tổng quân đội Việt Nam ở huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng, lại được nghe Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam, Hoàng Văn Thái và những người phục trách các cục tác chiến, tình báo của quân đội Việt Nam giới thiệu tình hình chung liên quan đến địch ta và giới thiệu tình hình cụ thể chiến trường Đông Bắc trên tuyến biên giới Cao Bằng – Đông Khê – Thất Khê – Đôn Sơn – Đình Lập. Thông qua giới thiệu tình hình trên, chúng tôi được biết từ đầu năm 1949, sau khi đế quốc Pháp cử Tổng tham mưu trưởng của họ là Revers đến Đông Dương làm cố vấn cao cấp, Tổng chỉ huy, đã đưa ra cái gọi là “kế hoạch Revers”. Tinh thần chủ yếu của kế hoạch này là tăng cường binh lực, đặt trọng điểm tấn công quân sự ở Bắc Bộ Việt Nam, khống chế hoàn toàn vùng sản xuất lương thực đông dân cư đồng bằng sông Hồng, mở rộng phạm vi chiếm đóng vùng đồi núi, phong toả biên giới Trung – Việt, tăng cường binh lực cơ động, phong toả hơn nữa căn cứ địa Việt Bắc, phá hoại căn cứ địa, đồng thời bao vây kinh tế quân dân, căn cứ địa, đi đôi với điều đó tăng cường hoạt động âm mưu chính trị phản động, tăng cường nguỵ quyền, mở rộng nguỵ quân, chia rẽ đoàn kết dân tộc tổ chức các nước bù nhìn “nước Nùng” “nước dân tộc Mán”, “nước Thái” v.v...

Kết quả của việc thực hiện kế hoạch phản động Revers là đến tháng 7, 8 năm 1950, tổng binh lực của quân xâm lược Pháp ở Việt Nam, Campuchia, Lào đã lên đến 230.000 người, trong đó quân Pháp khoảng bốn năm chục ngàn người, lính đánh thuê châu Âu, lính da đen châu Phi khoảng sáu bảy chục ngàn người, còn lại là quân nguỵ bản xứ, không quân có 150 chiếc máy bay, máy bay vận tải khu trục một thứ một nửa, 2/3 máy bay phân bổ ở các sân bay Bắc Bộ Việt Nam. Lục quân ở Bắc Bộ Việt Nam có hơn 75.000 người, phần lớn phân tán phòng giữ cảnh giới, binh lực cơ động khoảng 10 đến 12 tiểu đoàn, ngoài ra có 4, 5 tiểu đoàn lính dù có thể cơ động.

Quân Pháp từng bước mở rộng vùng chiếm đóng đồng bằng sông Hồng trong khi thực hiện kế hoạch Revers. Sau khi chiếm tỉnh lỵ các tỉnh Thái Bình, Phủ Lý, Ninh BÌnh v.v... vào tháng 2, 4, 5 năm 1950, cơ bản kiểm soát vùng sản xuất lương thực đồng bằng sông Hồng làm cho căn cứ địa Bắc Bộ khó khăn về kinh tế, cung cấp cho quân đội. Ở vùng núi biên giới, do quân đội Việt Nam không ngừng tấn công, nhất là tháng 5/1950, trung đoàn 174 quân đội Việt Nam mở cuộc tấn công tương đối lớn vào quân địch đóng giữ Đông Khê, bọn địch bị đòn nặng, quân Pháp rút một số cứ điểm phân tán, tăng cường binh lực và chỉ huy cho các cứ điểm chủ yếu ở Cao Bằng – Đông Khê – Thất Khê – Na Sầm v.v..

Sau khi tìm hiểu tình hình trên đây, đồng chí Trần Canh cho rằng, bọn đế quốc Pháp bị suy yếu rất nhiều trong chiến tranh thế giới thứ hai, số quân xâm lược trên toàn Đông Dương tuy có trên 200.000, nhưng thành phần rất phức tạp, phần lớn binh lực dùng vào phân tán phòng giữ cảnh giới, binh lực cơ động không nhiều, muốn tăng viện binh lực từ nước Pháp cũng rất khó khăn, hơn nữa binh lực cơ động cũng không thể tăng thêm nhiều được, đó là nhược điểm của quân Pháp. Không có cách gì giải quyết được. Chỉ cần tiêu diệt được sinh lực của chúng, nhất là tiêu diệt lực lượng cơ động của chúng, đế quốc Pháp bị đánh rối loạn ở phòng tuyến Bắc Bộ Việt Nam thì “kế hoạch Revers” sẽ bị phá sản, quân đội Việt Nam có khả năng giành được thắng lợi của chiến dịch biên giới, từ bị động biến thành chủ động.




Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:36:23 pm
2. Nêu ra vấn đề Quân đội Nhân dân Việt Nam
đứng trước ba chuyển biến

Sau khi tìm hiểu tình hình của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đồng chí Trần Canh cho rằng quân đội Việt Nam nên nhanh chóng hoàn thành quá trình từ đội du kích phân tán chuyển biến thành quân chính quy tập trung một phần, từ đánh du kích phân tán chuyển sang đánh vận động tập trung thích đáng, từ đánh tiêu hao chuyển sang đánh tiêu diệt.

Theo giới thiệu của Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Việt Nam, trong tháng 7, 8, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương của QĐNDVN có khoảng 160.000 người ; tháng 8/1949 bắt đầu thành lập đại đoàn 308, tháng 2/1950 bắt đầu thành lập đại đoàn 304, các đơn vị khác đều là trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Chuẩn bị dùng cho hướng chính của chiến dịch biên giới vùng Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê có 18 tiểu đoàn bộ binh gồm 3 trung đoàn 36, 88, 102 của đại đoàn 308, 2 trung đoàn 174, 209 trực thuộc Bộ Tổng, 3 tiểu đoàn độc lập 11, 426, 428 v.v.. cộng với pháo binh, công binh khoảng 20.000 người. những bộ đội này do hoạt động phân tán lâu dài, đại đoàn đã thành lập nhưng chưa tập trung, càng chưa qua tác chiến tập trung, thời gian hoạt động tập trung của trung đoàn cũng không nhiều cho nên hiện tượng tản mạn, không tuân thủ giờ giấc, chấp hành mệnh lệnh còn lỏng lẻo v.v... khá phổ biến, tập trung được một trung đoàn tác chiến cũng khó khăn. Tháng 2/1950, trung đoàn 102 của đại đoàn 308 tấn công cứ điểm Phố Ràng nam Lào Cai, chiến trường Tây Bắc, tháng 5 trung đoàn 174 tấn công cứ điểm Đông Khê nằm giữa Cao Bằng – Thất Khê, quân đội Việt Nam cho rằng là cuộc chiến đấu thắng lợi chưa từng có, trên thực tế đều là đánh tiêu hao mình bị thương vong, tiêu hao không ít, bọn địch bị bắt không nhiều.

Căn cứ vào tình hình thực tế của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ đồng chí Trần Canh cho rằng cần tập trung tiến hành chiến dịch biên giới, đây là việc chưa từng có trong lịch sử quân đội Việt Nam, đối mặt với vấn đề to lớn ; từ đội du kích chuyển sang quân chính quy, từ đánh du kích chuyển sang đánh vận động, từ đánh tiêu hao chuyển sang đánh tiêu diệt. Để hỗ trợ Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam, giải quyết những vấn đề chuyển biến cần phải giải quyết này, đưa việc xây dựng và tác chiến của quân đội Việt Nam bước lên giai đoạn chiến lược mới, đồng chí Trần Canh đã làm rất nhiều việc, bền bỉ, ngoan cường, dốc hết tinh lực và thể lực to lớn, trải qua những ngày đêm gian khổ hơn nhiều so với trong nước đã thể hiện đầy đủ hình ảnh vẻ vang của chiến sĩ quốc tế vô sản trung thành.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:36:55 pm
3. Tư tưởng chỉ đạo và vấn đề cách đánh của chiến dịch Biên Giới

Trước khi đồng chí Trần Canh sang Việt Nam, quân đội Việt Nam từ trên xuống dưới coi việc tấn công thành phố, thị trấn, chiếm đóng địa phương trong chiến đấu là thắng lợi, còn việc tiêu diệt được bao nhiêu sinh lực địch, thu được bao nhiêu vũ khí đạn dược của địch v.v... thì ít suy tính đến. Vì thế, khi nghiên cứu cách đánh của chiến dịch biên giới đã nẩy sinh bất đồng, không ít viên chỉ huy của phía Việt Nam chủ trương đánh Cao Bằng trước, để mở nút giao thông với Trung Quốc. Lúc đó, quân địch đóng giữ Cao Bằng đã được tăng cường, đã tăng thêm 3 tiểu đoàn, cử viên chỉ huy trung tá vốn ở Thất Khê đến tăng cường chỉ huy, công sự khá kiên cố, địa hình ba mặt là nước, một mặt là núi, có lợi cho phòng thủ. Theo tình hình thực tế của quân đội Việt Nam là khó tiêu diệt quân địch ở Cao Bằng, dù may mắn có thể tấn công lấy Cao Bằng cũng sẽ trả giá đắt.

Vì vậy đồng chí Trần Canh kiến nghị với phía Việt Nam : không đánh trước cứ điểm Cao Bằng tương đối lớn, mà đánh trước cứ điểm Đông Khê tương đối nhỏ làm cô lập cứ điểm Cao Bằng, buộc định tăng viện, tranh thủ tiêu diệt viện binh của địch trong vận động dã ngoại, như vậy vừa có thể tiêu diệt sinh lực địch, rèn luyện nâng cao sức chiến đấu của quân đội Việt Nam, vừa có thể làm cho cứ điểm Cao Bằng bị cô lập biến thành điểm yếu tương đối, để sau đó tấn công tiêu diệt nó, hoàn thành nhiệm vụ khai thông tuyến giao thông quốc tế. Kiến nghị của đồng chí Trần Canh không được chỉ huy phía Việt Nam chấp nhận ngay, có khá đông chỉ huy đưa ra ý kiến khác nhau, họ cho rằng : nên đánh địch ở Cao Bằng trước như vậy có thể phát huy ưu thế của quân đội Việt Nam ; nếu đánh Đông Khê trước, rồi đánh viện binh hoặc chuyển sang đánh Cao Bằng, như vậy lực lượng của quân đội Việt Nam sẽ bị tiêu hao trong chiến đấu ở Đông Khê v.v.., còn quân địch ở Cao Bằng càng cảnh giác tăng cường lực lượng phòng ngự, đánh Cao Bằng sẽ mất thời cơ, càng không dễ đánh. Do đó kiên trì ý kiến đánh Cao Bằng trước. Đồng chí nhiều lần vận dụng thực tế trên chiến trường để thuyết phục giải thích, các đồng chí ấy mới tiếp nhận kiến nghị của mình, bắt đầu xây dựng tư tưởng mục đích của chiến dịch trước hết là tiêu diệt sinh lực địch, chấp nhận đánh Đông Khê trước, thực hiện cách đánh tiêu diệt sinh lực địch trong vận động, rồi đánh lấy và giữ chặt nút giao thông Cao Bằng.

Đi đôi với chuyển biến tư tưởng chiến thuật, đồng chí Trần Canh thẳng thắn nêu ra vấn đề quan hệ giữa cán bộ, chiến sĩ tồn tại trong quân đội Việt Nam lúc bấy giờ, nêu rõ cán bộ không quan tâm, không yêu mến chiến sĩ, tuỳ ý làm nhục và trừng phạt nhân thân đối với chiến sĩ và cán bộ cấp dưới, là hiện tượng không nên có trong quân đội nhân dân, là cách làm suy yếu sức chiến đấu của bộ đội, nên kiên quyết sửa đổi, xây dựng phong cách cán bộ yêu mến chiến sĩ, chiến sĩ yêu quý cán bộ, cán bộ phải coi chiến sĩ là anh em cùng giai cấp của mình, tích cực giải quyết những khó khăn của chiến sĩ, quan tâm nỗi khổ của chiến sĩ, làm cho chiến sĩ cảm thấy ấm áp từ đó tăng cường đoàn kết trong bộ đội không sợ bất cứ khó khăn hiểm trở nào, không sợ hy sinh chịu đựng được thử thách chiến đấu ác liệt bồi dưỡng tác phong chiến đấu ngoan cường, như vậy mới có thể thích ứng với yêu cầu đánh công kiên, đánh vận động.

Trong khi hỗ trợ quân đội Việt Nam tác chiến, đồng chí Trần Canh không một phút lơi lỏng yêu cầu xây dựng bộ đội, nhằm vào vấn đề cụ thể tồn tại trong quân đội Việt Nam, lúc đó phân chia trước sau, phân chia chủ yếu vào thứ yếu, từng bước nêu ra kiến nghị tăng cường xây dựng quân đội nhân dân, làm cho tác chiến và xây dựng quân đội Việt Nam tiến hành đồng thời.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:37:43 pm
4. Vào giờ phút then chốt tấn công tiêu diệt địch ở Đông Khê, cổ vũ quân đội Việt Nam chiến đấu ngoan cường, xây dựng tác phong chiến đấu tốt

Đông Khê nằm trên quốc lộ 4 biên giới Đông bắc Việt Nam, ở giữa Cao Bằng và Thất Khê, lúc đó có hai đội lính đánh thuê Âu – Phi, một trung đội nguỵ quân đóng giữa, cộng thêm phân đội pháo binh, có tất cả hơn 350 tên có công sự cấu trúc tương đối chắc. Phía bắc, Đông Khê cách Cao Bằng 45 km, phía nam cách Thất Khê 25 km : Đường từ Cao Bằng đi Thất Khê đại thể là hướng Tây bắc, Đông nam, hai bên đường đều là đồi núi, phía đông phần nhiều là núi đá, phía tây ngoài núi đá xen giữa là có đất đồi, rừng cây dày đặc, ngoài một số đường mòn có thể miễn cưỡng đi được ra, những nơi còn lại rất khó đi, lúc đó chúng tôi còn rất trẻ, dùng cả chân tay mới có thể bò qua những quả núi.

Ngày 16/9/1950, chiến dịch Biên Giới của quân đội Việt Nam bắt đầu bằng việc nổ súng vào Đông Khê. Kế hoạch chiến dịch của Bộ Tổng quân đội Việt Nam là đánh chiếm Đông Khê, đánh địch tăng viện rồi tuỳ tình hình đánh Thất Khê, đánh Cao Bằng, dự tính toàn bộ chiến dịch hoàn thành trong 30 đến 40 ngày. Bố trí khởi đầu chiến dịch là dùng trung đoàn 174, 209, tiểu đoàn độc lập 11, 426 và ba tiểu đoàn pháo binh làm nhiệm vụ tấn công tiêu diệt địch ở Đông Khê, đại đoàn 308 phục kích ở giữa Đông Khê, Thất Khê, sẵn sàng tiêu diệt địch tăng viện cho Đông Khê, tiểu đoàn độc lập 428 và bộ đội địa phương tỉnh Lạng Sơn, theo dõi chặn đánh địch ở Na Sầm, Lạng Sơn có thể tăng viện cho phía bắc, nắm vững động tĩnh của địch, bộ đội địa phương tỉnh Cao Bằng tập kích quấy rối địch ở Cao Bằng, nắm vững động tĩnh của địch ở Cao Bằng. Bộ đội Việt Nam nói trên đều mới được phát vũ khí của Trung Quốc viện trợ, hoả lực tương đối mạnh.

Theo đồng chí trong Bộ Tổng quân đội Việt Nam giới thiệu, quân số bộ đội tham chiến tương đối đầy đủ, trung đoàn 147, trung đoàn 209, cộng với 2 tiểu đoàn độc lập và 3 tiểu đoàn pháo binh và phân đội công binh, tổng binh lực trên 7000 người, gần gấp 20 lần quân địch đóng giữ Đông Khê. Với binh lực, hoả lực ưu thế tuyệt đối như vậy tấn công cứ điểm Đông Khê, đánh suốt đêm 16/9, đến khi rạng sáng ngày 17, lại bị địch phản kích, nguyên nhân chủ yếu là về mặt chỉ huy tư tưởng tiêu cực đánh được thì đánh, đánh không được thì rút, chỉ huy của trung đoàn, tiểu đoàn cách đại đội đều xa không thể nắm chính xác tình hình địch ta, thực hiện chỉ huy chiến trường kịp thời, thậm chí báo cáo sai tình huống, thổi phồng tình hình của địch, có hơn 2 đại đội địch đóng giữ nói vống lên là hơn 2 tiểu đoàn.

Một trung đoàn tấn công một đại đội ở cứ điểm Đông Khê lại báo cáo một tiểu đoàn tấn công. Rạng sáng ngày 17, máy bay địch đến, mới phản kích nhỏ nhưng do bộ đội tiến công không có chỉ huy của cấp trên, nên tự rút khỏi chiến đấu. Cán bộ cơ sở, nhất là đông đảo binh sĩ đánh trận anh dũng, nhưng do thiếu chỉ huy xứng đáng, chiến đấu và hy sinh anh dũng mà không may lại được thắng lợi xứng đáng.

Ngày 17, Tư lệnh Bộ Tổng chỉ huy mặt trận chỉnh đốn bộ đội tiếp tục tấn công, quy định chạng vạng tối 17, tổng công kích nhưng lại lùi đến 21g hôm đó mới bắt đầu. Cuộc tấn công lần thứ hai về mặt chỉ huy vẫn không tiếp thụ bài học, không nghiêm khắc tuân thủ thời gian, mỗi đơn vị một phách, không hiệp đồng với nhau, đến nỗi tấn công ba giờ đồng hồ, vẫn không đột phá trận địa trung tâm của địch, thậm chí có chỉ huy không muốn tiếp tục tấn công. Vào giờ phút then chốt của thành bại đồng chí Trần Canh nêu ra kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho bộ đội không tiếc bất cứ giá nào kiên quyết tấn công tiêu diệt địch ở Đông Khê, nói rõ vào giờ phút then chốt, thương vong tương đối lớn, cần cổ vũ bộ đội chiến đấu ngoan cường đến thắng lợi mới có thể xây dựng tác phong chiến đấu tốt đẹp, và kiến nghị điều chỉnh bố trí bốn phía tấn công địch cùng một lúc. Hồ Chủ tịch, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp hoàn toàn đồng ý kiến nghị của đồng chí Trần Canh, ra lệnh cho bộ đội công kích sau khi điều chỉnh bố trí kiên quyết tấn công.

Sau khi mở lại cuộc tấn công, đột phá rất nhanh trận địa trung tâm của địch, đánh vào trong lòng địch, đến 8g sáng ngày 18, tiêu diệt toàn bộ hơn 270 tên địch, thu toàn bộ vũ khí đạn dược của chúng. Đấy là lần đầu tiên quân đội Việt Nam tiêu diệt gọn cứ điểm địch có hai đại đội đóng giữ. Cuộc chiến đấu ở Đông Khê vừa kết thúc, đồng chí Trần Canh kiến nghị với Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ; chỉnh đốn bộ đội, tổng kết bài học kinh nghiệm, biểu dương những người có công, đề bạt cốt cán chiến đấu anh dũng, bổ sung đội ngũ cán bộ, tăng cường giáo dục tác phong kỷ luật, giới thiệu kinh nghiệm cụ thể cho tất cả bộ đội tham gia chiến đấu trên cơ sở tổng kết nghiêm túc. Bộ chỉ huy tiền phương hoàn toàn đồng ý kiến nghị của đồng chí Trần Canh, về sau còn cử đồng chí Hoàng Văn Thái, Tổng tham mưu trưởng đến đại đoàn 308 giới thiệu kinh nghiệm chiến đấu ở Đông Khê. Trong giới thiệu, sau khi nói đến kinh nghiệm thành công và sự tích anh hùng của bộ đội tấn công, Hoàng Văn Thái nói rõ với cán bộ toàn bộ vấn đề tồn tại về mặt chỉ huy của trung đoàn, tiểu đoàn trong tấn công, nguyên nhân tấn công thất bại ngày 17, làm cho cán bộ của đại đoàn 308 cũng được giáo dục, một số cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở cảm thấy thấm thía tầm quan trọng của việc bồi dưỡng tác phong chiến đấu, tăng cường kỹ thuật chiến trường. Điều đó đã có tác dụng rõ rệt đối với việc hoàn thành nhiệm vụ tiếp theo.




Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:38:13 pm
5. Những ngày đêm chờ đợi thời cơ
tiêu diệt địch sau khi kết thúc cuộc chiến ở Đông Khê

Trong cuộc chiến đấu Đông Khê, lần đầu tiên trong lịch sử quân đội Việt Nam tấn công một cứ điểm địch có hai đại đội đóng giữ, là một cuộc chiến đấu thắng lợi nhưng không phải là một cuộc chiến đấu thành công. Ta thương vong hơn 500 người, chỉ tiêu diệt hơn 270 tên địch. Lúc đó quân đội Việt Nam đưa tin nói tiêu diệt hơn 800 tên địch, là một sự cổ vũ rất lớn đối với quân dân Việt Nam, tinh thần của quân dân nói chung lên cao. Ngoài ra tác dụng của cuộc chiến đấu Đông Khê trong toàn bộ chiến dịch rất lớn. Sau khi quân đội Việt Nam tiêu diệt quân địch ở Đông Khê kiểm soát khu vực Đông Khê đã cắt ngang phòng tuyến biên giới đông bắc của đich, Cao Bằng hoàn toàn rơi vào cô lập. Cứ điểm Cao Bằng khá kiên cố lâu nay đã trở thành chiếc ba lô trên vai quân Pháp vừa khó cố thủ, vừa khó rút lui, đồng thời trở thành vật cầm đồ bị túm chặt bím tóc trong tay quân đội Việt Nam. Trong toàn bộ chiến dịch, quân đội Việt Nam ở vào thế chủ động càng có lợi, quân Pháp thì càng thêm bị động. Thực tiễn chứng minh đồng chí Trần Canh kiến nghị đánh Đông Khê trong chiến dịch biên giới là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng củng cố phát triển bước mở đầu tốt đẹp này luôn luôn nắm chắc quyền chủ động giành toàn thắng cho chiến dịch, theo tình hình lúc bấy giờ vẫn không phải là việc dễ dàng.

Sau trận chiến đấu Đông Khê, Bổ Tổng chỉ huy quân xâm lược Pháp, chủ yếu áp dụng hai biện pháp nhằm thoát khỏi thế bị động ở vùng biên giới, một là tập trung lực lượng tiếp ứng cho quân đóng giữ Cao Bằng rút lui. Sau khi quân địch ở Đông Khê bị tiêu diệt, bọn địch nhanh chóng tập kết ở Thất Khê bốn tiểu đoàn chủ lực (2 tiểu đoàn lính đánh thuê Âu – Phi, 1 tiểu đoàn lính da đen Bắc Phi, 1 tiểu đoàn lính dù), thành lập binh đoàn cơ động do Trung tá Lepage chỉ huy nhằm cơ hội tiến lên phía bắc tiếp ứng cho quân địch ở Cao Bằng rút lui. Hai là lúc đó quân địch cơ bản hiểu được chủ lực quân đội Việt Nam nằm ở gần Đông Khê, biết rõ chỉ có 4 tiểu đoàn của Thất Khê tiến lên phía bắc là nguy hiểm, không thể đạt mục đích, vì thế lại vơ vét 5 tiểu đoàn lực lượng cơ động tại Bắc Bộ Việt Nam tấn công Thái Nguyên, âm mưu sau khi chiếm tỉnh lỵ Thái Nguyên, đe doạ cơ quan đầu não của Đảng, chính quyền, quân đội Việt Nam đóng ở bắc huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang, thu hút chủ lực quân đội Việt Nam ở vùng Đông Khê tạo điều kiện cần thiết cho quân địch ở Cao Bằng rút lui. Sau khi áp dụng hai biện pháp này, quân địch ngày đêm hy vọng quân đội Việt Nam mắc sai lầm về chỉ huy để thoát khỏi cảnh khó khăn bị động của chúng. Trung tá Lepage chỉ huy 4 tiểu đoàn quân Pháp dùng một phương tiện liên tục trinh sát động tĩnh của chủ lực quân đội Việt Nam ở vùng Đông Khê, chờ thời cơ tấn công lên phía bắc. Từ ngày 20/9, trở đi, bọn địch liên tiếp cho trinh sát mặc thường phục, phân đội dò la vũ trang đến vùng Bò Mã đông bắc Thất Khê, Lũng Phì bắc Thất Khê v.v.. thám thính dò la tình hình quân đội Việt Nam. Còn quân đội Việt Nam không nghiêm chỉnh chấp hành, lơ là cảnh giác, không đánh trả thích đáng trinh sát mặc thường phục, phân đội dò la vũ trang do Lepage cử đi, làm cho bọn định có cảm giác sai lầm nhất định.

Đúng ra, sau khi kết thúc trận đánh Đông Khê quân đội Việt Nam vốn dự định, nếu viện binh của địch không đến thì tấn công tiêu diệt quân địch ở Thất Khê. Ngày 19/9 truyền đạt lệnh chuẩn bị tấn công tiêu diệt địch ở Thất Khê cho đại đoàn 308, trung đoàn 174, trung đoàn 209. Trung đoàn 174 tiến một đoạn về phía Tây nam Thất Khê. Sau cuối, biết quân địch ở Thất Khê đã tập kết 4 tiểu đoàn, theo kinh nghiệm chiến đấu ở Đông Khê, với lực lượng quân đội Việt Nam lúc đó, muốn tiêu diệt cứ điểm Thất Khê có 4 tiểu đoàn chốt giữ là khó khăn, theo kiến nghị của Trần Canh, Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam rút lại lệnh chuẩn bị tấn công tiêu diệt địch ở Thất Khê đã truyền đạt xuống dưới mà sửa lại là tiếp tục nắm tình hình, chờ thời cơ, tiêu diệt địch trong 10 ngày chờ thời cơ, vì bọn địch ở Thất Khê vẫn không động tĩnh một số cán bộ quân đội Việt Nam, trên cơ sở ý kiến trước đây không đồng ý đánh Đông Khê trước, chủ trương đánh Cao Bằng trước, lại có lời oán trách nói đánh Đông Khê là sai lầm, làm tiêu hao lực lượng của mình, lại không có viện binh để đánh, cuối cùng để mất thời cơ có lợi đánh Cao Bằng. Theo họ, không thể thực hiện được kế hoạch của chiến dịch. Thốt ra những lời than vãn đó không phải là cán bộ cơ sở, mà là cán bộ tiểu đoàn trở lên.

Lúc đó cán bộ tiểu đoàn trở lên đều biết Trần Canh của Trung Quốc đang giúp quân đội Việt Nam tổ chức chiến dịch Biên Giới. Cũng biết được đánh Đông Khê trước là kiến nghị của đồng chí Trần Canh nêu ra với quân đội Việt Nam. Cho nên những lời bàn tán, bực dọc đó thực tế cũng là sự hoài nghi đối với năng lực chỉ huy tác chiến của đồng chí Trần Canh, là một biểu hiện tự cho mình hơn người của số ít cán bộ quân đội Việt Nam. Những lời bàn tán đó được phản ánh đến tai đồng chí Trần Canh thông qua cố vấn Trung Quốc ở các cấp trong quân đội Việt Nam. Đồng chí Trần Canh không để ý kĩ những lời bàn tán đó mà tập trung sức chú ý vào động hướng của Bộ Tổng chỉ huy quân Pháp, đồng chí tin chắc Revers không thể bỏ mặc hơn 1000 lính địch ở Cao Bằng, Bộ Tổng chỉ huy quân Pháp nhất định sẽ có hành động trên cơ sở bố trí đã được vạch ra. Lúc này hai bên địch ta đều quan sát hành động sắp tới của đối phương, đều hy vọng đối phương mắc sai lầm trong hành động sắp tới, để mình có thể lợi dụng được. Đồng chí Trần Canh cho rằng, trong chiến dịch quân đội Việt Nam đã ở thế chủ động, quân Pháp ở thế bị động, quân Pháp còn sốt ruột hơn nhiều quân đội Việt Nam, chúng không kiên trì được lâu, sắp tới sẽ có hành động, tuyệt đối không được chao đảo trước những lời bàn tán, trách móc ngông cuồng vô lối của số rất ít người trong quân đội Việt Nam, nên kiên trì sau khi địch có hành động tiếp theo, tìm cơ hội có lợi cho quân đội Việt Nam, rồi hãy hành động. Về tính kiên trì, tính kiên nhẫn thì hoàn toàn hơn hẳn Tổng chỉ huy của quân Pháp. Nhưng trước địch phá rối và những lời oán của số rất ít người trong quân đội Việt Nam, trong thời gian mười ngày này kiên trì được chủ trương của mình không phải là chuyện dễ, thậm chí có lúc còn khó khăn hơn kiên trì tinh thần ngoan cường chiến đấu đến cùng trong cuộc vật lộn ác liệt. Điều không may là vì vất vả mệt mỏi lâu ngày lúc này, đồng chí Trần Canh lại mắc bệnh sốt rét. Lúc này đồng chí Vi Quốc Thanh bị ốm đã đi Long Châu chữa bệnh, đồng chí Trần Canh trong cơn đau bệnh tật phải đối phó với tình hình trong và ngoài có nhiều diễn biến phức tạp, càng khó khăn hơn. Nhưng đồng chí Trần Canh cuối cùng không hổ thẹn là một danh tướng đã quen nhiều thử thách chiến trường vẫn ung dung đối phó với tình hình, hỗ trợ quân đội Việt Nam giữ vững thế chủ động chiến dịch đã giành được, ý chí kiên cường của đồng chí, đã bẻ gãy quỷ kế của Tổng chỉ huy quân Pháp, loại trừ quấy nhiễu của một số người trong quân đội Việt Nam, nắm bắt được thời cơ tiêu diệt số lớn sinh lực địch.




Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:39:02 pm
6. Đưa ra kiến nghị vào giờ phút then chốt tiêu diệt hai binh đoàn Lepage, Charton và sự cổ vũ đối với quân đội Việt Nam

Sau khi trải qua cuộc đọ sức âm thầm giữa cơ quan chỉ huy quân đội hai bên Việt – Pháp trong tháng 9, cuối cùng Bộ Tổng chỉ huy quân Pháp mắc phải sai lầm. Họ cho rằng hành động của lực lượng cơ động chủ yếu của họ tiến vào tỉnh lỵ Thái Nguyên đã có tác dụng, chủ lực của quân đội Việt Nam ở Đông Khê bị hành động của họ ở Thái Nguyên thu hút, thời cơ Lepage tiến lên phía bắc tiếp ứng cho Charton chạy về phía nam đã đến, vì thế ra lệnh cho Lepage từ Thất Khê tiến đánh Đông Khê, tiếp ứng cho Charton chạy về phía nam. Bốn tiểu đoàn tinh nhuệ quân Pháp do Lepage chỉ huy ngày 1/10/1950 tiến đánh Đông Khê, bị trung đoàn 209 quân đội Việt Nam chặn đánh ở khu vực nam Đông Khê. Binh đoàn Lepage chiếm đóng mấy điểm cao ở nam Đông Khê, chưa thực hiện được ý đồ đánh chiếm Đông Khê. Ngày 2/10 các đơn vị đại đoàn 308, trung đoàn 209, tiểu đoàn độc lập 11 v.v.. lần lượt tấn công quân địch đóng ở các điểm cao nam Đông Khê, nhưng ngoài trung đoàn 88 của đại đoàn 308 tấn công quân địch ở điểm cao đông bắc, Lũng Phầy nam Đông Khê thuận lợi ra, tấn công các điểm còn lại đều không thành công. Quân Pháp chịu sức ép khá mạnh trước đòn tấn công của quân đội Việt Nam, song còn có thể củng cố trận địa đã chiếm đóng. Lúc này, Bộ Tổng chỉ huy quân Pháp ra lệnh cho Charton ở Cao Bằng dẫn bộ đội từ Cao Bằng chạy về phía nam (tháng 6/1950, quân Pháp tăng cường binh lực và lực lượng chỉ huy cho cứ điểm Cao Bằng) quân địch ở Cao Bằng lúc đó do Hà Nội chỉ huy trực tiếp. Rạng sáng ngày 3, Charton bỏ Cao Bằng, dẫn quân chạy về phía nam, mong được Lepage tiếp ứng, thoát khỏi cảnh khó khăn.

Ngày 3/10, quân đội Việt Nam tiếp tục tấn công quân lính của Lepage, cảm thấy khó chống đỡ, tối mồng 3 luồn rừng chạy về vùng núi Cốc Xá cách tây quốc lộ 4, tây nam Đông Khê chằng 7km, hòng lợi dụng núi Cốc Xá chống lại tấn công của quân đội Việt Nam, tiếp ứng cho binh đoàn Charton chạy về phía nam. Các đơn vị quân đội Việt Nam chưa qua huấn luyện và rèn luyện chiến đấu nghiêm khắc, qua ba ngày mồng 1, 2, 3 chiến đấu lại có thương vong, có đơn vị kêu mệt tự động ngừng tiến công, không tiếp cận địch làm cho Lepage được một đêm mồng 3 ung dung từ các điểm cao Đông Khê di chuyển sang các điểm cao của núi Cốc Xá.

Núi Cốc Xá là núi đá vôi, địa thế hiểm trở, có một dãy điểm cao, nơi thấp cách mặt biển 477 mét, nơi cao cách mặt biển 765 mét phòng thủ dễ tấn công khó. Rạng sáng ngày 4/10, quân đội Việt Nam mới phát hiện bọn địch trước mặt mình đã di chuyển đi nơi khác. Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ra lệnh cho các bộ đội truy kích theo hướng Tây nam Đông Khê. Nhưng truyền đạt mệnh lệnh xuống bộ đội rất chậm, hành động rất lề mề, thậm chí có đơn vị còn muốn tiếp tục nghỉ ngơi, ngày 4 cơ bản không bắt được địch. Ngày 5, các đơn vị bộ đội Việt Nam tấn công quân Pháp chiếm các điểm cao của núi Cốc Xá, tuy có sát thương quân địch, nhưng không nơi nào thành công.

Ngày 5, quân lính của Charton ở Cao Bằng tiến vào vùng Mai Nông cách tây bắc Đông Khê hơn 10km, được biết bộ đội tiếp ứng của Lepage không chiếm được Đông Khê, đã chuyển sang vùng núi Cốc Xá tây nam Đông Khê, tình cảnh rất khó khăn buộc phải đốt cháy ôtô, quân nhu, hoả pháo mang theo trên quốc lộ 4 gần Mai Nông, rồi bỏ quốc lộ đi vào đường mòn trong rừng núi phía tây, lần theo hướng điểm cao 477 núi Cốc Xá có quân của Lepage chiếm đóng, hòng tháo chạy theo hướng Thất Khê, dưới sự yểm trợ của Lepage. Nhìn thấy Charton sắp gặp Lepage ở điểm cao 477. Trong giờ phút khẩn cấp này, đồng chí Trần Canh kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam : “ Không tiếc mọi giá, kiên quyết tiêu diệt trước tiên bốn tiểu đoàn quân của Lepage ở vùng núi Cốc Xá trước sáng sớm ngày 7. Sau khi tiêu diệt binh đoàn Lepage, lập tức chuyển binh lực tiêu diệt quân lính Charton, tuyệt đối không được để cho hai binh đoàn Charton và Lepage hội quân chạy về Thất Khê, đánh mất thắng lợi chiến dịch đã cầm chắc trong tay, vứt hết chiến công trước đó ”, và kiến nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng chỉ huy tiền phương cổ vũ bộ đội phát huy tinh thần anh dũng ngoan cường không sợ vất vả, không sợ hy sinh, rèn luyện bộ đội trong chiến dịch biên giới trở thành bộ đội có tác phong chiến đấu tốt đẹp.

Hồ Chủ tịch và Bộ Tổng chỉ huy tiền phương hoàn toàn đồng ý kiến nghị của đồng chí Trần Canh, truyền đạt mệnh lệnh nghiêm khắc cho bộ đội đang tiến công vào vùng núi Cốc Xá. Biện pháp quả cảm kiên quyết về mặt chỉ huy chiến dịch của quân đội Việt Nam làm cho hành vi yếu đuối sai lầm của cơ quan chỉ huy chiến thuật cấp dưới khó tiếp tục được nữa. Ngày 6/10, các đơn vị quân đội Việt Nam, các đơn vị thuộc đại đoàn 308 tấn công các điểm cao núi Cốc Xá, tích cực hơn trước. Quân lính của Lepage qua 5 ngày bị quân đội Việt Nam tấn công rất khốn đốn hoang mang, mất hết ý chí chiến đấu, lại không chịu nổi đòn đánh của ngày thứ sáu, các điểm cao khống chế đều bị quân đội Việt Nam chiếm được rất nhanh. Trước đòn công kích liên tục của quân đội Việt Nam, bốn tiểu đoàn của Lepage bị tiêu diệt trước rạng sáng ngày 7/10, trung tá Lepage và một trung tá quân y cũng bị quân đội Việt Nam bắt sống. Trước đó, ngày 5/10 Charton dẫn quân đi vào đường mòn trong rừng, trong khi Lepage chưa bị bao vây, Bộ Tổng chỉ huy quân Pháp ra lệnh khẩn cấp cho Labaume chỉ huy bốn đại đội Âu – Phi từ Thất Khê tiến lên phía bắc, tiếp ứng cho Lepage và Charton. Sáng ngày 7, khi binh đoàn Lepage bị tiêu diệt, binh đoàn Charton tiến đến điểm cao 477 của núi Cốc Xá, muốn tiếp tục tháo chạy về phía nam, nhưng lập tức bị quân đội Việt Nam chặn đánh. Trải qua chiến đấu cả ngày 7/10, khoảng ba tiểu đoàn của Charton (trong đó có 1 tiểu đoàn nguỵ quân) bị quân đội Việt Nam tiêu diệt ở điểm cao 477 và trong vùng cách điểm cao này khoảng 4km về phía nam, trung tá Charton cũng bị quân đội Việt Nam bắt làm tù binh : Labaume thấy tình hình bi đát, hoảng hốt tháo chạy về Thất Khê.

Trải qua bảy ngày đêm chiến đấu liên tiếp, binh lực của hai binh đoàn, bảy tiểu đoàn khoảng 4000 người do Lepage, Charton chỉ huy bị quân đội Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn ở giữa các điểm cao núi Cốc Xá tây nam Đông Khê, đến Nà Cao số lượng quân địch bị quân đội Việt Nam tiêu diệt vượt xa kế hoạch ban đầu của chiến dịch. Đây là lần tác chiến đại binh đoàn đầu tiên trong lịch sử quân đội Việt Nam dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tổng, cũng là lần tác chiến đầu tiên của bộ đội toàn đại đoàn 308 quân đội Việt Nam dưới sự chỉ huy trực tiếp của cơ quan tác chiến đại đoàn mặc dù trong đó có bao nhiêu vấn đề, cuối cùng vẫn tiêu diệt được quân địch. Phải nói rằng đánh tiêu diệt lần này đã mở đầu tốt cho Bộ Tổng quân đội Việt Nam chỉ huy tác chiến đại binh đoàn, cho toàn đại đoàn 308 cùng tác chiến. Trong tác chiến mấy ngày 5, 6, 7 tháng 10 tiêu diệt hai binh đoàn quân Pháp, các chỉ huy của các bộ đội và của đại doàn 308 từ trên xuống dưới khá giỏi, trong đó nổi lên vai trò của tiền đoàn 89, trung đoàn 36, tiểu đoàn 29 của trung đoàn 88, tiểu đoàn 18 của trung đoàn 102 thuộc đại đoàn 308 và tiểu đoàn độc lập 11 (tạm thời thuộc đại đoàn 308 chỉ huy). Các chỉ huy quân đội Việt Nam hy sinh trong chiến dịch đã lập nên chiến công to lớn cho sự nghiệp giải phóng Việt Nam, nhân dân Việt Nam sẽ mãi tưởng nhớ họ.

Sau khi hai binh đoàn do Lepage, Charton chỉ huy bị tiêu diệt, quân đội Việt Nam tiếp tục lùng bắt tàn quân địch trên chiến trường suốt một ngày, dự định 10/10 tấn công Thất Khê nhưng trước khi công kích, bọn địch ở Thất Khê đã tháo chạy bằng đường bộ, đường không. Quân đội Việt Nam lập tức giải phóng Thất Khê và cho một bộ phận binh lực truy kích về hướng Na Sầm từ ngày 13 đến 20/10, bọn địch ở Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập, Yên Châu, Tiên Yên lần lượt bỏ chạy. Phòng tuyến biên giới từ Cao Bằng đến Tiên Yên hơn 300 km quân xâm lược Pháp xây dựng ba năm bị đập tan hoàn toàn. Tuyến giao thông quốc tế giữa Việt Nam với Quảng Tây, Quảng Đông – Trung Quốc được khai thông hoàn toàn. Đến đây, mục đích tổ chức chiến dịch biên giới của quân đội Việt Nam đã thực hiện vượt mức.




Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:39:44 pm
7. Xua tan mối nghi ngờ của cán bộ quân đội Việt Nam trong thực tiễn chiến dịch, tăng thêm sự tin cậy và tình hữu nghị

Sau tháng 4/1950, trung đoàn 174, 209, tiểu đoàn độc lập 246, 248 và bộ đội thuộc đại đoàn 308 và tiểu đoàn độc lập 11, lần lượt đến Quảng Tây, Vân Nam nhận trang bị vũ khí của Trung Quốc viện trợ, tiến hành huấn luyện dưới sự hỗ trợ của cố vấn Trung Quốc được cử đến. Trong huấn luyện, do tư tưởng xây dựng quân đội, tư tưởng chiến thuật của hai bên có khác nhau, cán bộ quân đội Việt Nam, nhất là số khá đông người trong cán bộ tiểu đoàn trở lên, có thái độ hoài nghi và không hoàn toàn đồng ý với chế độ quân đội nhân dân, tư tưởng chiến thuật, nguyên tắc chiến thuật, động tác chiến thuật v.v.. của chiến tranh nhân dân mà cán bộ quân giải phóng nhân dân Trung Quốc lên lớp.

Qua mấy tháng thảo luận và giới thiệu kinh nghiệm, đa số cán bộ nhìn thấy vấn đề của bản thân quân đội Việt Nam với mức độ khác nhau, nhữung nghi ngờ ban đầu có bớt đi, nhưng chưa xua tan, nghi ngờ đó không chỉ là sự nghi ngờ đối với bộ phận cán bộ quân giải phóng, mà còn là sự nghi ngờ đối với nguyên tắc xây dựng quân đội, tư tưởng chiến thuật của quân giải phóng, như trong thảo luận cách đánh của chiến dịch biên giới trong quá trình tiến hành chiến dịch biên giới thái độ nghi ngờ đó khá rõ nét. Sau khi tiêu diệt toàn bộ hai binh đoàn quân Pháp ở tây nam Đông Khê, ngay cả tấn công các thành phố thị trấn Cao Bằng, Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn v.v.. hoàn thành vượt mức nhiệm vụ chiến dịch, thực tiễn chứng minh tư tưởng chiến thuật, tư tưởng xây dựng quân đội của quân giải phóng lấy ý kiến của đồng chí Trần Canh làm đại diện là hoàn toàn đúng đắn, lúc đó mới xua tan nỗi nghi ngờ trong đa số cán bộ quân đội Việt Nam, tăng thêm sự tin cậy và tình hữu nghị chiến đấu. Họ bàn luận sôi nổi, tỏ lời ca ngợi nói Tư lệnh như đồng chí Trần Canh, Trung Quốc được có mấy người !

Trong quá trình tiến hành chiến dịch biên giới, đồng chí Trần Canh lê đôi chân bị thượng, chịu đựng mọi đau đớn bệnh tật, không kể ngày đêm, dốc hết tâm sức, không tiếc bất cứ hy sinh nào để làm việc lo toan vất vả. Lúc bấy giờ, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam của Trung Quốc giáp Việt Nam vừa mới giải phóng, khó khăn các mặt phương đổi nghiêm trọng, lương thực rất hiếm. Thời gian chiến dịch biên giới, Cục Trung Nam phân cục Hoa Nam Đảng Cộng sản Trung Quốc bố trí ôtô chở gạo của Hồ Nam đến biên giới Việt Nam, từ biên giới lại chở ra tiền tuyến, đều phải dựa vào sức người vận chuyển. Đồng chí Trần Canh tích cực tổ chức cán bộ, chiến sĩ đi theo, tham gia vào hàng ngũ vận chuyển lương thực, cùng với dân công Việt Nam chở gạo ra tiền tuyến. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy hình ảnh này, hết sức cảm động, biểu dương tại chỗ và kêu gọi cán bộ Việt Nam học tập tinh thần quốc tế và tinh thần tất cả cho tiền tuyến của các đồng chí Trung Quốc.

Lúc đó đường sắt nội địa Quảng Tây chưa thông, bọn tàn quân Tưởng Giới Thạch hoạt động khá điên cuồng, để bào vệ tuyến giao thông nội địa Quảng Tây đến biên giới Việt Nam, đã từng huy động một bộ phận quân đội. Và trong tình hình ôtô của chính Trung Quốc rất ít, để bảo đảm cung cấp cho chiến dịch biên giới Việt Nam, theo đề nghị của đồng chí Trần Canh, quân khu Trung Nam còn cho xe của hai trung đoàn ôtô, phục vụ cung cấp cho chiến dịch của quân đội Việt Nam. Tình hình trên đây, nói lên đầy đủ Đảng Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc, quân đội nhân dân Trung Quốc và các đồng chí Trung Quốc ở Việt Nam mà đồng chí Trần Canh v.v... là đại diện đã làm việc một cách trung thực theo nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản, là hoàn toàn trung thực với sứ mệnh mà mình gánh vác. Từ trong thực tiễn, đông đảo cán bộ chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam hiểu được ý nghĩa của tình hữu nghị chiến đấu Trung – Việt mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “ Vừa là đồng chí, vừa là anh em ”. Trải qua chiến dịch biên giới, tình hữu nghị chiến đấu của hai đảng hai nước, hai quân đội Trung – Việt bước vào một giai đoạn mới.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:40:44 pm
8. Trong công tác bề bộn sau chiến dịch, đã từ mặt thực tiễn, lý luận giúp đỡ quân đội Việt Nam
đặt cơ sở cho thực hiện chuyển biến chiến lược


Khi chiến dịch biên giới cơ bản kết thúc, đồng chí Trần Canh lập tức đề xuất kiến nghị toàn diện về công tác sau chiến đấu với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam, và nhấn mạnh phải nắm lấy công tác tổng kết chiến dịch. Vì vậy, sau giải phóng Thất Khê ngày 10/10, đồng chí lợi dụng mọi cơ hội, mời cán bộ đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam tọa đàm, đề nghị các đồng chí đó trao đổi quá trình tác chiến, bài học kinh nghiệm, cảm nhận cụ thể v.v.., cũng thu thập các báo cáo của cố vấn Trung Quốc các cấp hỗ trợ công tác của quân đội Việt Nam, và quan sát tại chỗ các hiện trường chiến đấu, từ Thất Khê đến Cao Bằng, sau đó triệu tập các đồng chí liên quan tiến hành nghiên cứu nhiều lần, cuối cùng viết ra đề cương phát biểu tổng kết chiến dịch toàn diện. Đề cương phát biểu tổng kết này lấy tư tưởng quân đội nhân dân, chiến tranh nhân dân của đồng chí Mao Trạch Đông, kết hợp với thực tế xây dựng, tác chiến của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ, tổng kết một loạt vấn đề trọng đại về tư tưởng chiến thuật, chỉ huy chiến trường, tác phong chiến đấu, sự lãnh đạo của Đảng, công tác chính trị, bảo đảm hậu cần, đào tạo cán bộ, quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ, quan hệ giữa quân với dân v.v.. của quân đội Việt Nam, đã trình bày có hệ thống về mặt thực tiễn, lý luận việc quân đội Việt Nam thực hiện ba chuyển biến lớn từ đánh du kích đến đánh vận động, từ đội du kích đến quân chính quy, từ đánh tiêu hao đến đánh tiêu diệt; thẳng thắn, thành khẩn, khá sắc bén nêu lên những vấn đề tồn tại, đồng thời đưa ra kiến nghị tương ứng giải quyết vấn đề.

Vì nội dung sinh động, thực tế, phù hợp với nhu cầu bức thiết của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ cho nên bài phát biểu tổng kết tuy rất dài, trình bày hơn 2 ngày, nhưng người nghe dù là cán bộ Việt Nam hay cố vấn Trung Quốc, tuyệt đại đa số đều cảm thấy rất thích thú, cho rằng được một lần giáo dục tư tưởng về quân đội nhân dân, chiến tranh nhân dân thực tế, có hệ thống, cho rằng công tác của đồng chí Trần Canh ở Việt Nam gần bốn tháng đã đặt cơ sở cho việc giúp đỡ Quân đội Nhân dân Việt Nam hoàn thành việc chuyển biến có tính lịch sử, có tính chiến lược cả về mặt lý luận và thực tiễn, hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ mà hai đảng Trung – Việt, Mao Chủ tịch, Hồ Chủ tịch giao cho đồng chí trong chuyến công tác tại Việt Nam.

Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng, đồng chí Thiếu Kỳ, Chu Tổng tư lệnh đều rất quan tâm đến cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam lúc bấy giờ. Trước và sau chiến dịch biên giới, những kiến nghị quan trọng đồng chí Trần Canh đề xuất với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam, đều báo cáo xin chỉ thị trước Quân uỷ Trung ương Trung Quốc và Mao Chủ tịch. Về những vấn đề hệ trọng, ngoài đồng ý với ý kiến của đồng chí Trần Canh, Mao Chủ tịch còn nêu thêm vấn đề cần chú ý. Hễ thuộc về vấn đề Mao Chủ tịch nêu rõ, đồng chí Trần Canh đều báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với đồng chí Trần Canh : “ Quân đội giao cho đồng chí chỉ huy chiến dịch Biên Giới chỉ được thắng, không được thua ”. Khi Hồ Chủ tịch nói chuyện với cán bộ tiểu đoàn trở lên của quân đội Việt Nam, nói rõ : “ Trần Canh là quen biết cũ của Bác (tức bạn cũ, vì năm 1925, 1926 hai người cùng làm việc ở Quảng Châu), các cấp quân đội đều phải nghe đồng chí chỉ huy ”. Đồng chí Trần Canh từ đầu chí cuối luôn đặt mình ở vào địa vị hỗ trợ công tác, mỗi lần nêu ra ý kiến của mình đều dưới hình thức kiến nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đồng chí Trần Canh là đại diện của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam, vào giờ phút then chốt của chiến dịch Biên Giới đều kiên quyết ủng hộ kiến nghị của đồng chí Trần Canh nêu ra, và đều lấy danh nghĩa của mình nêu lên yêu cầu và mong muốn rõ ràng dưới hình thức ra chỉ thị, viết thư truyền đạt, cho tất cả bộ đội tham gia chiến đấu, có cái còn truyền đạt cho Đảng, chính quyền, nhân dân địa phương v.v.. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, có uy tín cao cả trong đông đảo quân dân Việt Nam, đều tin tưởng sâu sắc mỗi lời nói việc làm của Hồ Chủ tịch, đều kiên quyết quán triệt chấp hành chỉ thị của Hồ Chủ tịch. Lời nói, chỉ thị, mong muốn, yêu cầu của Hồ Chủ tịch cứ vậy lúc then chốt của chiến dịch đều nâng cao tính tích cực chiến đấu và dũng khí khắc phục khó khăn của toàn thể cán bộ, chiến sĩ, trở thành động lực thúc đẩy chiến đấu, chiến dịch phát triển thắng lợi.

Sự hợp tác chặt chẽ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trần Canh trong chiến dịch Biên Giới, thực là một mẫu mực của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Sau khi kết thúc thắng lợi chiến dịch Biên Giới, có một đồng chí phụ trách trong Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam khi biểu thị cám ơn đồng chí Trần Canh, đã khiêm tốn nói : “ Chiến dịch Biên Giới là sự chiến thắng của chỉ huy Trung Quốc, vũ khí đạn dược Trung Quốc, cung cấp hậu cần Trung Quốc cộng với binh sĩ Việt Nam ”. Đồng chí Trần Canh nhằm vào câu nói này, đã nói rõ trong bài phát biểu tổng kết : “ Chiến dịch Biên Giới giành được thắng lợi là kết quả của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam kiên cường lãnh đạo, chỉ huy đúng đắn và đông đảo cán bộ, chiến sĩ quân đội Việt Nam anh dũng chiến đấu và cả cơ quan Đảng, chính quyền địa phương, nhân dân các dân tộc Việt Nam, dốc toàn lực chi viện, tham gia chiến đấu. Trung Quốc chúng tôi chỉ đóng vai trò hỗ trợ, người cộng sản Trung Quốc chúng tôi sang Việt Nam hỗ trợ tác chiến, đổ máu, đổ mồ hôi là phận sự của mình ”.

Đề cương bài phát biểu tổng kết của đồng chí Trần Canh sau chiến dịch Biên Giới từng gửi lên Chủ tịch Hồ Chí Minh phê duyệt. Hồ Chủ Tịch bày tỏ hoàn toàn đồng ý, và nói tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông thích hợp với Việt Nam, gửi lời cảm ơn sự viện trợ to lớn của Chủ tịch Mao Trạch Đông, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc đối với cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam. Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng nói khi phát biểu tại hội nghị cán bộ quân đội Việt Nam : “ Tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông hoàn toàn thích hợp với chiến trường Việt Nam, gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Mao Chủ tịch, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, toàn thể các đồng chí cố vấn. Những lời nói đó đã đại diện cho tâm nguyện đông đảo quân dân Việt Nam ”.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:42:09 pm
Thứ ba : Ý nghĩa và ảnh hưởng của chiến dịch Biên Giới.

Chiến dịch biên giới có ý nghĩa to lớn, ảnh hưởng sâu xa, chủ yếu biểu hiện ở mấy điểm sau đây :

   1.      Làm thay đổi tình thế của cuộc đấu tranh chống Pháp ở Bắc Bộ Việt Nam, làm cho quân đội Việt Nam giành quyền chủ động ở Bắc Bộ Việt Nam.

Trước chiến dịch biên giới, xu thế phát triển của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam nói chung là tốt, tranh nhưng quân xâm lược Pháp đẩy mạnh cái gọi là kết quả của “Kế hoạch Revers” làm cho Bắc Bộ Việt Nam về quân sự, kinh tế chính trị đều bị ảnh hưởng khá nặng, căn cứ địa chủ yếu của Việt Nam, trụ sở cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, quân đội Việt Nam trên thực tế nằm trong bao vây đe dọa của quân Pháp, quân Pháp hoạt động khá điên cuồng. Thông qua chiến dịch biên giới quân đội Việt Nam đã tiêu diệt một bộ phận khá lớn lực lượng cơ động của quân Pháp ở Bắc Bộ, đập tan hoàn toàn phòng tuyến của quân Pháp ở biên giới Đông Bắc, mở rộng vùng giải phóng khai thông tuyến biên giới Việt Nam – Quảng Tây Trung Quốc hơn 300 km, cải thiện tình thế chiến lược của căn cứ địa Bắc Bộ, làm cho quân đội Việt Nam giành được quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ Việt Nam, cổ vũ mạnh mẽ ý chí chiến đấu và niềm tin thắng lợi của quân dân chống Pháp, dập tắt khí thế hung hăng phản động của quân xâm lược Pháp và tay sai của chúng. Sau chiến dịch biên giới, Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền bù nhìn Bảo Đại được đế quốc Pháp nâng đỡ, than vãn rằng: “Gần đây có thể còn thất bại thảm hại hơn”. “Kế hoạch Revers” tuyên bố phá sản hoàn toàn. Bản thân Revers sau chiến dịch Biên Giới không thể không lẻn về Pháp.

Ảnh hưởng thắng lợi của chiến dịch biên giới còn vượt xa phạm vi biên giới đông bắc Việt Nam. Ngày 10/10, quân Pháp xâm lược căn cứ địa Việt Bắc hòng đe doạ cơ quan đầu não của Việt Nam không thể không rút khỏi thành phố Thái Nguyên. Ngày 4/10 trên chiến trường Tây Bắc, quân Pháp không thể không rút khỏi thị trấn Lào Cai và Sapa, làm cho liên hệ giữa chiến trường Tây Bắc Việt Nam và Vân Nam Trung Quốc càng chặt chẽ, thuận lợi hơn. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, trước đòn tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại chỗ, quân Pháp cũng không thể không rút khỏi vùng chiếm đóng ở tỉnh Hòa Bình, làm cho hành lang Đông tây Hải Phòng, Hà Nội, Hòa Bình, Mộc Châu, Sơn La, phòng tuyến chia cắt chiến trường Bắc Bộ Việt Nam mà quân Pháp dày công xây dựng bị đột phá ở giữa, mối liên hệ giữa Bắc Bộ với Trung bộ, Nam bộ Việt Nam từ đây càng thêm thuận lợi. Những điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển của tình hình kháng chiến toàn quốc Việt Nam.

2. Phát triển quan hệ kiểu mới chi viện lẫn nhau của chủ nghĩa quốc tế

Ngày 1/10/1949 nước Cộng hoà nhân dân Trung Quốc được thành lập và lấy đó làm tiêu chí thắng lợi của cách mạng Trung Quốc đã có tác dụng thúc đẩy đối với sự phát triển của tình hình cách mạng thế giới. Nếu không có thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, không có sự chi viện đắc lực của Trung Quốc thì giành được thắng lợi của chiến dịch Biên Giới Việt Nam tháng 9, 10 năm 1950 là điều không thể tưởng tượng được. Thắng lợi của của chiến dịch Biên Giới buộc quân xâm lược Pháp rút khỏi tuyệt đại bộ phận cứ điểm lớn nhỏ bố trí từ trên biên giới Trung – Việt, làm cho tàn quân thổ phỉ đặc vụ Quốc dân đảng chạy sang Việt Nam mất sự ủng hộ, có lợi cho cuộc đấu tranh quét sạch thổ phỉ đặc vụ đang tiến hành ở Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, lúc bấy giờ, có lợi cho Trung Quốc củng cố quốc phòng ở biên giới phía Nam. Cho nên Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng khi trao đổi với lãnh đạo Việt Nam thường nói câu : “ Viện trợ là viện trợ lẫn nhau, chúng tôi chi viện cho các đồng chí, các đồng chí cũng chi viện cho chúng tôi. Đó là quan hệ kiểu mới chi viện lẫn nhau của chủ nghĩa quốc tế ”.


3. Làm rung động chủ nghĩa đế quốc, cổ vũ lực lượng cách mạng dân tộc dân chủ thế giới, ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Triều Tiên

Thắng lợi của chiến dịch biên giới làm cho phe đế quốc vô cùng hoảng sợ. Trước tiên làm cho đế quốc Pháp cảm thấy kinh ngạc. Quốc hội Pháp một phen rối loạn, nói chính phủ che giấu chân tướng nghiêm trọng của tình hình Việt Nam, vì thế liên tiếp cử Bộ trưởng hải ngoại, đại diện toàn quyền ở Maroc sang Việt Nam điều tra sự thật, sau khi điều tra về nói, vũ trang của nhân dân Việt Nam về số lượng, chiến thuật đều có thay đổi rất lớn, Pháp cần phải thành lập binh đoàn cơ động lớn ở Việt Nam, mới có thể ứng phó tình hình ngày càng nghiêm trọng. Anh hốt hoảng kêu lên Trung Quốc, Việt Nam đã làm cho Pháp rơi vào vũng lầy, và vội vã cử người đến Sài Gòn, bàn thảo vấn đề viện trợ cho thế lực phản động Việt Nam.

Đế quốc Mỹ gào thét dù thế nào chăng nữa cũng quyết không thể để Việt Nam rơi vào tay cộng sản, ra sức cổ xuý trong viện trợ quân sự đối ngoại của Mỹ năm 1951, Pháp và Chính quyền bù nhìn Bảo Đại Việt Nam đều được quyền ưu tiên. Ngày 23/12/1950 Mỹ ký với Pháp và chính quyền bù nhìn Bảo Đại Việt Nam hiệp định chính thức về viện trợ quân sự, tăng viện trợ chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương từ 52 tỷ Franc năm 1950 lên 62 tỷ Franc. Chính phủ Anh, Mỹ ra sức ủng hộ Chính phủ Pháp, lo lắng Pháp bị đánh bại hoàn toàn ở Việt Nam, ảnh hưởng đến ách cai trị thuộc địa của họ. Đế quốc Mỹ viện trợ cho nguỵ quyền Việt Nam được Pháp nâng đỡ, còn có ý đồ khác là nhằm thay thế địa vị cai trị thực dân của Pháp ở Việt Nam trong quá trình thọc tay vào Việt Nam. Điều đó làm cho mâu thuẫn Mỹ - Pháp ở Việt Nam sâu sắc thêm.

Khi bắt đầu chiến dịch Biên Giới, chính là lúc quân Mỹ đổ bộ lên Nhân Xuyên – Triều Tiên, cũng là lúc cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Triều Tiên khá gian khổ. Thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, trở thành sự viện trợ mạnh mẽ đối với nhân dân Triều Tiên. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhân dân các thuộc địa dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc sôi nổi yêu cầu độc lập, tiến hành cuộc đấu tranh bằng nhiều hình thức với chủ nghĩa đế quốc, có những nơi triển khai đấu tranh vũ trang. Đông đảo nhân dân thuộc địa dưới sự thống trị của đế quốc Pháp cũng tiến hành đấu tranh nhiều hình thức với đế quốc Pháp.

Thắng lợi của chiến dịch Biên Giới Việt Nam, sự phát triển của tình hình đấu tranh vũ trang của Việt Nam chống đế quốc Pháp là một cổ vũ rất lớn đối với cuộc đấu tranh chống đế quốc của nhân dân các thuộc địa trên toàn thế giới. Được sự cổ vũ này, cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân thuộc địa Pháp ở châu Phi cũng được phát hiện nhanh chóng và ngược lại cũng thúc đẩy tích cực cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam.

Tóm lại, ảnh hưởng thắng lợi của chiến dịch Biên Giới đối với mọi mặt là to lớn, sâu xa. Nhân dân hai nước Trung – Việt mãi mãi không bao giờ quên cống hiến to lớn của đồng chí Trần Canh đối với cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, đối với xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thời gian chiến dịch biên giới. Tình hữu nghị nồng thắm mà Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho nhân dân hai nước Trung – Việt sẽ mãi mãi ghi vào sử sách của hai nước Trung – Việt.


Phụ lục

Ngày 7/7/1950, khi đồng chí Trần Canh từ Côn Minh Trung Quốc lên đường sang Việt Nam, cán bộ cùng đi với đồng chí có : Hoàng Kính Văn, Tăng Diên Vỹ, Vương Nghiên Tuyền, Lương Trung Ngọc, Vương Chấn Phu, Trương Nãi Chiêm, Lưu Sư Tường, Đỗ Kiến Hoa, Dương Tiến, Hoàng Vi, Châu Dật Chi.

Tổ trưởng cơ yếu : Phó Hiếu Trung ; nhân viên cơ yếu : Nhạc Tinh Chiếu, Diên Nguyệt Canh

Nhân viên cơ yếu phân xã Tân Hoa : Triệu Tích Phong.

Chủ nhiệm báo vụ điện đài : Tống Nhược Thạch.

Báo vụ viên : Trần Thủ Thành, Địch Anh Kiệt.

Cơ yếu viên : Lý Quế Minh.

Đội trưởng y tế : Trần Bình Sơn, y tá Tập Tùng Anh

Trợ lý : Mạnh Đông Thăng, Phó chính trị viên : Trương Ngọc Phong.

Phụ trách bảo vệ : Hàn Lộc Tướng.

Tham mưu ; Châu Khuê.

Quản lý : Lý Học Thư

Kế toán : Dương Đồng Văn

Phóng viên nhiếp ảnh : Hà Thiệu Vũ.

Đại đội trưởng Đại đội bảo vệ : Vương Vĩnh Pháp, chính trị viên Hàn Lộc Tướng.

Người phụ trách đoàn cố vấn quân sự của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc bên cạnh Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1950.

Đoàn trưởng Đoàn cố vấn : Vi Quốc Thanh.

Tham mưu trưởng : Mai Gia Sinh.

Chủ nhiệm chính trị : Đặng Dật Phàm.

Cố vấn, nhân viên y tế, cán bộ trong Ban chỉ huy Đoàn cố vấn do Dã chiến quân số 3, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc bố trí.

Cố vấn cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn của Đại đoàn 304 Quân đội Nhân dân Việt Nam do Dã chiến quân số 3 Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc bố trí.

Cố vấn cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn của Đại đoàn 312 Quân đội Nhân dân Việt Nam do Dã chiến quân số 4 Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc bố trí.

Cố vấn cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn của Đại đoàn 308 Quân đội Nhân dân Việt Nam đều do Dã chiến quân số 2 Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc bố trí (Dã chiến quân 2 lệnh cho Binh đoàn số 4 phụ trách bố trí).

Tháng 9/1950 khi chiến dịch Biên Giới bắt đầu, binh đoàn số 4 Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc cử cố vấn và các nhân viên công tác cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn của đại đoàn 308 Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cố vấn đại đoàn : Vương Nghiên Tuyền.

Cố vấn trung đoàn : Diêm Thử Khánh (trước chiến dịch, cử đến trung đoàn 165).

Chu Diêu Hoa (Trung đoàn 88, đại đoàn 308)

Điền Đại Bang (Trung đoàn 102, đại đoàn 308)

Cố vấn tiểu đoàn, Lưu Chấn Hải, Đinh Chấn Quang, Lý Văn Đạt, Bành Chi Lan, Thôi Ngô, (năm người này trước chiến dịch theo Diêm Thủ Khánh về trung đoàn 165), Trương Tường, Triệu Thuỵ Lai, Chu Ngọc Đường, Quý Lai Hỷ, Vương Tuyết Hưởng, Lý Ngọc Tiên, Trần Ngũ Quan, Triệu Tồn Hiếu, Tiết Tảo Ngọc, Quách Minh Kiếm, Vương Vĩnh Đức, Lý Tiên Xuân, An Đình Lan, Quách Hữu Phú (đại đội sơn pháo), Từ Hán Văn.

Về sau Trương Tường, Triệu Thuỵ Lai đến làm cố vấn trung đoàn 36.

Trợ lý cố vấn đại đoàn : La Tự Hiền, Hồ Thiên Thuỷ.

Bác sỹ : Lý Kiện Hoa.

Đội trưởng điện đài : Vương Nghị.

Báo vụ viên : Tôn Đức Tu, Tương Sinh Hoa.

Tổ trưởng cơ yếu : Dương Cẩm Sơn, nhân viên dịch điện : Từ Văn Cương.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:44:37 pm
ĐỒNG CHÍ TRẦN CANH TRONG VIỆN TRỢ VIỆT NAM CHỐNG PHÁP
Trương Quảng Hoa

Rất nhiều người đều biết công lao hiển hách của đồng chí Trần Canh trong chiến tranh cách mạng Trung Quốc. Nhưng rất ít ai biết đến đồng chí đã có những đóng góp lớn đối với cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam.

Sang Việt Nam với cương vị đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc

Đầu năm 1950, Hồ Chí Minh Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam bí mật thăm Bắc Kinh, tranh thủ sự ủng hộ cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam. Lúc đó, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang ở thăm Moskva, Chủ tịch liền đi ngay sang Moskva, cùng Mao Trạch Đông, Stalin trao đổi vấn đề trọng đại liên quan đến chiến tranh Việt Nam chống Pháp. Stalin nói, tình hình Trung Quốc và Việt Nam gần giống nhau, tiếp giáp lãnh thổ, nhiệm vụ viện trở đấu tranh cách mạng của Việt Nam chủ yếu nên do Trung Quốc phụ trách.

 Lúc bấy giờ Trung Quốc mới ra đời, vết thương chiến tranh đầy mình, kinh tế khó khăn chồng chất, nhưng để chi viện cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nước, đảng anh em Việt Nam, và đập tan sự bao vây của các nước đế quốc đối với Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc quyết định chấp nhận yêu cầu của Hồ Chí Minh. Sau khi hai bên Trung Quốc – Việt Nam trao đổi cho rằng, để việc viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam tiến hành thuận lợi, trước tiên cần tổ chức một chiến dịch ở biên giới Trung – Việt, để khai thông tuyến giao thông vận tải giữa hai nước, mở ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp. Vì vậy, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa tích cực thành lập đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh làm đoàn trưởng, vừa điện báo cho Trần Canh Phó tư lệnh quân khu Tây Nam, kiêm Tư lệnh quân khu Vân Nam, đi sang trước Việt Nam giúp tổ chức và chỉ huy chiến dịch biên giới.

Sau khi Trần Canh sang Việt Nam với cương vị là đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngày 18/6 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ thị rõ ràng nhiệm vụ của Trần Canh đi Việt Nam : “ Ngoài bàn bạc và giải quyết một số vấn đề cụ thể với phía Việt Nam ra, nhiệm vụ chủ yếu nên căn cứ vào tình hình mọi mặt của Việt Nam, vạch ra một kế hoạch quân sự đại thể thiết thực khả thi, để căn cứ vào kế hoạch đó cung cấp các loại viện trợ...”. Sau đó không lâu, Trung ương lại yêu cầu rõ ràng Trần Canh : “ Ở Việt Nam nên giúp các đồng chí ấy đánh mấy trận, mở ra một cục diện tương đối ”.

Ngày 7/7/1950 Trần Canh dẫn đầu Tổ công tác gồm cán bộ quân sự, chính trị hậu cần rời Côn Minh lên đường sang Việt Nam. Đúng lúc giữa hè oi bức, nóng như đổ lửa, có lúc mưa to dầm dề, hằng ngay đi trên đường núi và lội trong ruộng lúa ngập nước, làm cho Trần Canh bị thương nặng hai chân cảm thấy vô cùng khó khăn và vất vả. Đồng chí viết trong nhật ký : “ Sang Việt Nam vào mùa mưa... sáng dậy, mưa vẫn như trút nước ”, “ Thời tiết oi bức, núi cao đường mòn, bùn trơn khó đi, có ngựa cũng không cưỡi được. Xuống núi đến sông Thanh Thuỷ đã mệt nhoài ”, “ Qua cầu, Đảng Cộng sản Việt Nam cử người dựng lều đón tiếp, có các loại thức uống và hoa quả. Đói khát, đến đây ăn như hùm như hổ. Nghỉ ngơi một lát, lập tức ra lệnh cho các đồng chí trong đoàn đại biểu triển khai hoạt động điều tra. Một đêm mưa to, răng đau dữ dội ”.

Trong hai mươi ngày đêm gian khổ đó Trần Canh lê đôi chân bị thương, chịu đựng từng cơn đau răng dữ dội, trên đường đi vẫn cười nói tự nhiên. Đồng chí vừa đi vừa chăm chú điều tra nghiên cứu, nắm vững tình hình liên quan đến tác chiến, xem xét tỉ mỉ vấn đề tác chiến từ nay về sau của quân đội Việt Nam. Ngày 20/7, Trần Canh điện báo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và La Quý Ba (về sau làm đoàn trưởng đoàn cố vấn chính trị Trung Quốc, Đại sứ Trung Quốc đầu tiên tại Việt Nam) đã có mặt tại Việt Nam và nói : “ Theo tôi tìm hiểu dọc đường đi quân Pháp ở Việt Nam chưa có khả năng tấn công, bọn địch ở Lạng Sơn, Lào Cai v.v. còn khống chế binh lực cơ động tương đối với thuyết hiện thực, quân đội Việt Nam chưa giành được chủ động hoàn toàn, một bộ phận chủ lực quân đội Việt Nam, sau khi qua Quảng Tây, Vân Nam chỉnh huấn trang bị, tinh thần rất cao, nhưng cán bộ tiểu đoàn trở lên phần nhiều là phần tử tri thức mới, khả năng chỉ huy thực tế tương đối ít, phương châm tác chiến ở Bắc Bộ Việt Nam hiện nay nên tranh thủ tiêu diệt bộ đội cơ động của địch trong dã chiến, trước hết, nhổ một số cứ điểm cô lập tương đối nhỏ, giành thắng lợi, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao và củng cố tinh thần bộ đội, tranh thủ chủ động hoàn toàn, từng bước chuyển sang tác chiến quy mô lớn ; phía Việt Nam đã quyết định đánh Cao Bằng trước ; kiến nghị bao vây tấn công bộ đội ở Cao Bằng, đánh chiếm trước cứ điểm cô lập ở vòng ngoài, rút kinh nghiệm, nếu địch ở Cao Bằng ra chi viện, tranh thủ tiêu diệt một bộ phận của chúng ở dã ngoại, tạo điều kiện có lợi cho đánh chiếm Cao Bằng, rồi đánh lấy Cao Bằng sau...”

Ý kiến của Trần Canh được Quân uỷ Trung Quốc tán thành. Ngày 26/7, Quân uỷ Trung ương điện trả lời Trần Canh : “ Chúng tôi cho rằng ý kiến của đồng chí là đúng, quân đội Việt Nam nên đánh trận nhỏ trước, từng bước luyện tập, có thể đánh trận lớn hơn một chút. Sau đó mới có thể đánh trận tương đối lớn. Trước mắt chưa nên đánh Cao Bằng, đánh cứ điểm nhỏ trước, đồng thời tranh thủ vây thành chặn viện là thích hợp ”.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:45:12 pm
Gặp Hồ Chí Minh trong rừng sâu

Hồ Chí Minh và Trần Canh biết nhau ở Quảng Châu ngay từ thời kỳ đại cách mạng Trung Quốc. Ngày 27/7, sau bao nhiêu năm xa cách, họ lại gặp nhau trong rừng nguyên thuỷ Bắc bộ Việt Nam, hai người cảm động ôm chặt lấy nhau, phấn khởi nói : “ Chúng ta lại gặp nhau rồi ! ”

Ngay đêm hôm đến trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trần Canh và Hồ Chí Minh đã tiến hành hội đàm thân thiết. Hồ Chí Minh rất tán thưởng quan điểm của Trần Canh và yêu cầu Trần Canh nhanh chóng ra Bộ chỉ huy tiền phương hỗ trợ chức chỉ huy chiến dịch này.

Ngày 30/7, tức trước ngày Trần Canh rời trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một hôm Hồ Chí Minh mời Trần Canh và La Quý Ba đến gian nhà sàn lợp nan, nơi ở của Chủ tịch trong rừng trúc. Trần Canh nhìn bốn phía xung quanh, trong nhà, chỉ có một chiếc giường, một bàn một ghế, trên giường trải một tấm thảm, trên bàn đặt một máy chữ và mấy quyển sách, đồng chí bất giác quay người nhìn người bạn cũ của mình với tấm lòng trìu mến nói : “ Hồ chủ tịch quá giản dị, thật đáng kính, đáng kính ”. Hồ Chí Minh càng không khỏi nhớ lại tình hình thời kỳ đại cách mạng ở Quảng Châu, thời kỳ chống Nhật ở Diên An. Khi nhắc đến hai người bạn cũ lại gặp nhau trong cuộc sống chiến đấu gian khổ, Hồ Chí Minh thông thạo nói và viết chữ Hán, liền ngâm thơ : “ Cao sĩ nằm trên núi đá lởm chởm, anh hùng đến trong rừng sâu thăm thẳm ”, thể hiện tấm lòng phấn khởi của Người khi gặp lại Trần Canh. Ngày 31/7 Trần Canh cùng đoàn lên đường đến Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam đóng ở Quảng Uyên.

Khi Hồ Chí Minh đi ra tận bìa rừng để tiễn Trần Canh, nhìn thấy trong tay mỗi người trong đoàn Trần Canh ai nấy đều cầm chiếc ô che mưa mang từ trong nước, bèn chỉ tay vào ô của Trần Canh nói : “ Cái này không được ”. Người nhìn thấy Trần Canh mặt ngơ ngác, lại nói : “ Người Việt Nam chúng tôi đi đường rừng rất ít người cầm ô, để bảo mật và khỏi lộ thân phận, phải đổi trang phục cho các đồng chí ”. Tiếp đó, Hồ Chí Minh tự tay thu lại chiếc ô của Trần Canh, phát cho mỗi người một mũ lá cọ và dặn đi dặn lại Trần Canh, trên đường phải đề cao cảnh giác, chú ý an toàn.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:45:47 pm
Thuyết phục cán bộ quân đội Việt Nam đánh Đông Khê trước.

Ngày 14/8, đoàn Trần Canh đến Bộ chỉ huy tiền phương ở Quảng Uyên, gặp Đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn đã đến đó trước hai ngày.

Trần Canh không quản mệt mỏi, tranh thủ thời gian cùng Vi Quốc Thanh nghe Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Hoàng Văn Thái và các đơn vị tác chiến giới thiệu tình hình liên quan đến hai bên địch ta, nhất là tình hình cụ thể của chiến trường Đông Bắc. Toàn cảnh của chiến khu Việt Nam tức thì hiện lên trong đầu óc của Trần Canh. Tổng binh lực của quân Pháp ở Đông Dương có khoảng 230.000 người, trong đó bộ đội gốc Pháp hơn 40.000 người còn lại là lính đánh thuê châu Âu, châu Phi và quân nguỵ Việt Nam.

Binh lực ở vùng Bắc Bộ Việt Nam là hơn 70.000 người, 100 máy bay (máy bay chiến đấu và máy bay vận tải mỗi thứ một nửa). Trong tấn công mùa xuân 1950, quân Pháp đánh chiếm các tỉnh Thái Nguyên, Hà Nam và Ninh Bình, cơ bản khống chế vùng sản xuất lương thực đồng bằng sông Hồng. Ở biên giới Trung – Việt tiếp giáp với Quảng Tây, tổng binh lực của quân Pháp khoảng 11.000 người, cơ bản ở thế thủ, lập tuyến phòng ngự trọng điểm dọc quốc lộ 4. Tháng 5/1950 quân đội Việt Nam công kích Đông Khê, cứ điểm nhỏ nằm giữa Cao Bằng, Thất Khê, tuy cuối cùng không công kích được, nhưng thực tế làm cho quân Pháp sợ khiếp vía. Sau đó quân Pháp tăng cường lực lượng phòng thủ cứ điểm biên giới Cao Bằng, Đông Khê và Thất Khê.

Tổng binh lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam khoảng 160.000 người trong đó bộ đội thuộc đại đoàn 308 có tất cả hơn 20.000 người do Bộ Tổng trực tiếp nắm, toàn bộ tập trung ở gần Cao Bằng. Quân Pháp ở vùng Cao Bằng chỉ có hơn 2000 tên, quân đội Việt Nam chiếm ưu thế tuyệt đối về số lượng. Đánh tốt, chiến dịch biên giới thì quân đội Việt Nam có thể giành được chủ động về chiến lược. Để tìm hiểu cụ thể tình hình chiến trường, Trần Canh cử người đi trinh sát thực địa Cao Bằng, phát hiện quân đóng giữ Cao Bằng đã tăng thêm 3 tiểu đoàn khoảng 1500 tên, ba mặt là nước, một mặt là núi dễ phòng thủ, khó tấn công, là cục xương rất khó gặm, với kỹ thuật tác chiến và tố chất tâm lý của quân đội Việt Nam trước mắt, tấn công Cao Bằng trước là cả một vấn đề, khó khăn rất lớn.

Trần Canh trầm ngâm suy nghĩ. Đồng chí vừa nghe báo cáo, vừa từ từ đưa ánh mắt lên bản đồ, nhìn qua Cao Bằng dần dần di chuyển xuống đông nam Cao Bằng 45km, rồi ngắm kỹ hướng phía nam, rồi đi qua Thất Khê, Nà Sầm, một lần nữa dừng lại ở Lạng Sơn. Sau một lúc im lặng, cuối cùng Trần Canh phát biểu, đồng chí cất cao giọng nói : “ Tác chiến trận đầu biên giới, đánh từ đâu rất then chốt, vấn đề này cần giải quyết nghiêm túc, đánh trận đầu, phải thắng ! Tôi thấy Đông Khê là nơi thích hợp nhất. Đánh chiếm được Đông Khê thì quyền chủ động của toàn bộ chiến dịch nắm chắc trong tay chúng ta ”.

Đông Khê là điểm giao nhau từ cửa Thuỷ Khẩu, Quảng Tây Trung Quốc qua cửa Bố Cục đi vào quốc lộ Việt Nam, thị trấn rất nhỏ này là điểm cao nhỏ nhổ lên ở phía bắc thung lũng bốn bề là núi chặn đứng con đường Trung – Việt hướng này, quốc lộ 4 từ tây bắc sang đông nam cũng đi qua thị trấn, phía tây bắc thị trấn là Cao Bằng, phía nam là Thất Khê, tấn công lấy Đông Khê thì chặt đứng ngang lưng hệ thống phòng ngự của quân Pháp trên tuyến này. Vi Quốc Thanh và cố vấn quân sự Trung Quốc nhất trí đồng ý ý kiến của Trần Canh, nhưng có cán bộ quân đội Việt Nam lại không thông. Trần Canh nói, hiện nay quân Pháp ở Việt Nam nói chung trong tình thế bất lợi, từ bản quốc tăng số lớn quân tấn công sang Việt Nam cũng rất khó khăn, trước mắt Quân đội Nhân dân Việt Nam đang từ đánh du kích phân tán chuyển sang đánh chính quy tương đối tập trung, từ đội du kích không tập trung lớn chuyển sang quân chính quy tương đối tập trung, từ đánh tiêu hao chuyển sang đánh công kiên và đánh tiêu diệt, muốn hoàn thành thuận lợi quá trình chuyển biến này, cần phải làm rất nhiều công việc gian khổ tỉ mỉ, chiến dịch trước mắt là mở đầu của chuyển biến này, cần phải bảo đảm trận đầu thắng lợi, theo thực lực của quân đội Việt Nam hiện nay một trận đánh lấy Cao Bằng là rất khó khăn, dù cho dốc toàn lực gắng gượng lấy được Cao Bằng, thì quân đội Việt Nam cũng sẽ tổn thất nặng nề, rất có thể lợi bất cập hại. Nếu đánh Đông Khê trước, nơi địch phòng thủ tương đối yếu, chiếm được Đông Khê, toàn cục chiến dịch sẽ sôi động lên, cũng dễ giải quyết quân địch ở Cao Bằng.

Trải qua bàn bạc cọ xát nhiều lần Trần Canh và Võ Nguyên Giáp cuối cùng đi đến nhận thức chung. Ngay sau đó, ngày 22/8 Trần Canh báo cáo kế hoạch tác chiến cùng với Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc vạch ra về Quân uỷ Trung Quốc. Lúc này, Hồ Chí Minh cũng đến Quảng Uyên, Bộ chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đồng ý kế hoạch tác chiến của Trần Canh nêu ra, ngày 24/8 Trần Canh lại nhận được điện trả lời : “ đồng ý ” của Quân uỷ Trung Quốc, quyết tâm tác chiến của Trần Canh càng kiên định hơn. Ngày 23-24 tháng 8, Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam triệu tập hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên của các bộ đội tham chiến trong chiến dịch biên giới, Trần Canh được mời tham gia hội nghị. Sau khi Võ Nguyên Giáp tuyên bố xong kế hoạch tác chiến, muốn nghe ý kiến của mọi người. Trung đoàn trưởng trung đoàn 102 Nguyễn Hữu An vẫn chủ trương đánh Cao Bằng trước. Đồng chí nói : “ Lực lượng của chúng ta có hạn nên tập trung binh lực một trận đánh lấy Cao Bằng. Nếu đánh Đông Khê trước, lực lượng bị tiêu hao, thì làm sao đánh được Cao Bằng ? Không đánh được Cao Bằng thì làm thế nào có thể phá vỡ phong toả biên giới của quân Pháp ? ”. Trung đoàn trưởng trung đoàn 88 Thái Dũng cũng nói : “ Nhân lúc quân địch chưa kịp tăng viện nếu chúng ta tấn công Cao Bằng ngay từ đầu, chẳng phải khả năng giành thắng lợi rất lớn hay sao ? Nếu đánh Đông Khê trước bọn địch ở Cao Bằng tăng cường công sự, chẳng phải tăng thêm khó khăn tấn công Cao Bằng hay sao ? ”.

Trần Canh bình tĩnh nghe hết ý kiến của các đồng chí đó, thừa nhận suy nghĩ của đồng chí đó có lý nhất định. Nhưng Trần Canh kiên nhẫn giải thích nói điểm đột phá đánh trận của chúng ta là gì ? Nhìn bề ngoài, phong toả của quân Pháp đã hình thành từ mấy cứ điểm quan trọng Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Nà Sầm, Lạng Sơn v.v.. Nhưng chỉ cần đánh lấy Cao Bằng, thì tuyến phong toả của quân Pháp sẽ sụp. Những cứ điểm của quân Pháp dựa vào cái gì để phát huy tác dụng ? Dựa vào quân đồn trú, kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc chúng tôi là : Tập trung binh lực ưu thế, tiêu diệt sinh lực địch, là quan trọng nhất, trong chiến tranh giải phóng điểm đột phá đánh trận của chúng tôi chủ yếu là tiêu diệt sinh lực địch, ngay cả mấy chiến dịch lớn Liêu Thẩm, Hoài Hải, Bình Tân ở giai đoạn quyết chiến cũng là như thế. Kết quả mỗi một chiến dịch đều tiêu diệt mấy vạn, mấy chục vạn quân địch, toàn quốc tương đối nhanh chóng được giải phóng. Nhân lúc địch phòng ngự sơ hở, bất ngờ tấn công Cao Bằng, hoặc thời kỳ đầu chiến đấu cũng sẽ giành được thắng lợi đó, nhưng chúng ta có thể một đấm đánh gục quân địch được không ? Nếu một đấm đánh trúng nhưng không đánh gục quân địch, nó còn có thể chiến đấu với chúng ta, sau lưng lại có quân địch ở Đông Khê, Thất Khê, Lạng Sơn, thừa thế xông tới, chúng ta sẽ không bị địch đánh ở mấy mặt hay sao ? Nhưng đánh trước Đông Khê thì khác, bọn địch ở Cao Bằng, Thất Khê, Lạng Sơn như chim chết hụt, chúng ta lấy nhàn nhã đối phó vất vả, kẻ nào đưa quân tăng viện thì đấm kẻ đó, tiêu diệt địch ở ngoài công sự, đó là cuộc chiến đấu dễ dàng hơn nhiều ! Cuối cùng Trần Canh cười nói : “ Thay đổi kế hoạch, tất nhiên chúng ta phải nghiêm túc nói rõ nguyên nhân cho bộ đội biết, dù cho số ít người có tâm tư, chỉ cần đánh thắng trận thì có nói gì cũng dễ đánh thắng liên tục, cái giá phải trả lại nhỏ, thì ai còn ý kiến gì nữa ”.

Những lời nói của đồng chí Trần Canh khiến các đồng chí Việt Nam đi sâu thảo luận thêm, cuối cùng đã thống nhất tư tưởng với kế hoạch đánh Đông Khê trước. Sau hội nghị của Bộ chỉ huy tiền phương vào một ngày thượng tuần tháng 9, Hồ Chí Minh nắm chặt tay Trần Canh nói : “ Tôi muốn nhờ đồng chí bao luôn thắng lợi chiến đấu Đông Khê, cũng bao luôn thắng lợi của chiến dịch Biên Giới ”. Trần Canh phấn khởi nói : “ Tôi nhất định sẽ đem hết sức giúp đánh tốt trận này, nhưng đánh trận chủ yếu vẫn dựa vào các chỉ huy quân đội Việt Nam và quần chúng nhân dân ”.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 05:46:28 pm
Chiến dịch biên giới giành thắng lợi hoàn toàn

Trung tuần tháng 9, công tác chuẩn bị cho chiến dịch biên giới cơ bản hoàn thành, Trần Canh, Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp từ Quảng Uyên chuyển xuống khu Bản Viễn đông Đông Khê, gần sở chỉ huy tác chiến trận đầu chiến dịch biên giới – chiến đấu Đông Khê.

Ngày 16/9, bắt đầu tấn công Đông Khê. Mở đầu rất là thuận lợi, nhanh chóng áp sát công sự chính của địch. Nhưng chiến đấu đến sáng 17, quân địch được không quân yểm hộ phản kích, có đơn vị bộ đội tiến công phía trước đã rút lui khỏi trận địa đã chiếm được. Trần Canh đich thân đến Bộ chỉ huy tiền phương tìm hiểu tình hình cùng với Võ Nguyên Giáp v.v.. nghiên cứu nguyên nhân trắc trở, nêu ra ý kiến tác chiến mới, nhưng do hợp đồng tác chiến kém, đánh đến đêm 17 vẫn không tiến triển rõ rệt. Có bộ đội lại nảy sinh dao động quyết tâm tấn công. Vào giờ phút then chốt này, Trần Canh kiến nghị với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cần phải nghiêm khắc ra lệnh cho bộ đội không tiếc bất cứ giá nào, tiếp tục kiên trì, đồng thời kiến nghị điều chỉnh bố trí, thực hiện tấn công bốn mẳttọng điểm ở hai mặt nam, bắc.

Sau khi bộ đội mở lại tấn công lần nữa, rất nhanh phát triển vào sâu trong lòng địch, chiến đấu đến 8g sáng ngày 18, cuối cùng đã tiêu diệt hơn 270 tên địch đóng giữ Đông Khê, thu rất nhiều vũ khí đạn dược và vật tư khác. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử quân đội Việt Nam tấn công tiêu diệt cứ điểm có hai đại đội địch đóng giữ. Sau khi cuộc chiến đấu Đông Khê kết thúc, Hồ Chí Minh thăm dò ý kiến của Trần Canh đối với trận Đông Khê, suốt hai ngày căng thẳng suy nghĩ rất nhiều, Trần Canh chậm rãi nói : “ Trận đánh Đông Khê đã thắng, ý nghĩa rất lớn, nhưng phải nói rằng đó không phải là cuộc chiến đấu thành công, quân ta thương vong hơn 500 người mà tiêu diệt không đầy 300 tên địch, cái giá quá lớn ”. Khi đề cập đến những vấn đề của quân đội nhân dân bộc lộ ra trong chiến đấu, Trần Canh thẳng thắn nói với Hồ Chí Minh : “ Nghiên cứu quá trình chiến đấu, chiến sĩ dũng cảm nhưng điều then chốt là có những cán bộ thiếu kinh nghiệm tác chiến, năng lực chỉ huy kém, không áp sát mặt trận chỉ huy. Từ nay về sau cần lựa chọn đề bạt cán bộ trong số chiến sĩ cũ và cốt cán chiến đấu có kinh nghiệm thực tiễn ”. Hồ Chí Minh nghe gật đầu liên tiếp.

Ngày hôm sau, Trần Canh sốt cao, chẩn đoán là sốt rét ác tính, nằm bẹp trên giường suốt một tuần. Thời gian này bốn tiểu đoàn địch đã tập kết ở Thất Khê. Trần Canh suy nghĩ, theo tình hình chiến đấu ở Đông Khê, quân đội Việt Nam với lực lượng hiện có, đánh chiếm Thất Khê rất khó khăn, vì vậy đồng chí cùng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp nghiên cứu quyết định, bỏ kế hoạch tấn công Thất Khê trước đấy, thay vào đó mai phục ở nam Đông Khê, để tiêu diệt địch tiến lên bắc Đông Khê. Lúc này quân Pháp ở Thất Khê vẫn án binh bất động, lại tập kết 5 tiểu đoàn binh lực tấn công Thái Nguyên, trực tiếp đe doạ an toàn của cơ quan đầu não Đảng, chính quyền, quân đội Việt Nam. Lúc này một số cán bộ quân đội Việt Nam chủ trương bỏ mai phục, đưa quân về Thái Nguyên.

Trần Canh thấy tình hình đó, kiên quyết trình bày với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, tấn công Thái Nguyên là âm mưu quỷ kế của đich, mục đích là dụ quân ta rút khỏi Đông Khê, bảo đảm an toàn cho quân địch ở Cao Bằng khi rút chạy xuống phía nam, nhất thiết không được mắc mưu địch. Quả nhiên, không ngoài dự kiến của Trần Canh, ngày 30/9, quân địch ở Thất Khê bắt đầu tiến lên phía bắc, ngày 3/10, quân địch ở Cao Bằng cũng bỏ thị xã chạy xuống phía nam. Hai cánh quân do Lepage và Charton chỉ huy hòng sau khi hội quân ở Đông Khê sẽ chạy về Thất Khê, Lạng Sơn để tránh số phận bị tiêu diệt. Do binh đoàn Lepage từ Thất Khê tiến lên phía bắc, bị quân đội Việt Nam kiên quyết đánh chặn, ngày 4/10 chuyển sang vùng núi Cốc Xá ở tây nam Đông Khê. Trong tấn công ngày 5/10, quân đội Việt Nam bị thương vong khá lớn. Đại đoàn 308 chiến đấu liên tục 4 ngày liền, đứng trước một vấn đề là tạm dừng tiến công hay là kiên quyết đánh tiếp. Vào giờ phút then chốt này Trần Canh nói dứt khoát với Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam trong máy điện thoại : “ Trận này không đánh thì không có trận nào có thể đánh được ” rồi nói tiếp một cách chân thành thắm thiết : “ Vào giờ phút then chốt của chiến dịch, Bộ chỉ huy dao động sẽ chôn vùi thắng lợi của chiến dịch ”.

Trần Canh ngắt máy điện thoại, lập tức cầm bút viết một bức thư ngắn cho Hồ Chí Minh, mong Hồ Chí Minh cổ vũ các chỉ huy tiền phương hạ quyết tâm kiên trì đến cùng, tập trung lực lượng tiêu diệt binh đoàn Lepage trước, sau đó lập tức tiêu diệt binh đoàn Charton giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch. Trước những đòn đánh kiên quyết của quân đội Việt Nam, tình hình chiến trường chuyển biến nhanh chóng. Đến ngày 7/10, hai cánh quân địch lần lượt bị quân đội Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn, Lepage, Charton và tham mưu của họ và tỉnh trưởng tỉnh Cao Bằng của nguỵ quyền Việt Nam đều bị bắt sống.

Chiến dịch Biên Giới tiêu diệt tất cả 8 tiểu đoàn, hơn 8000 người, toàn bộ phòng tuyến của quân Pháp trên biên giới Trung – Việt sụp đổ, bọn địch ở Đồng Đăng, Yên Đình, Lạng Sơn v.v. tháo chạy tan tác, bọn địch tấn công Thái Nguyên sau khi bị tổn thất hơn 600 tên cũng rút khỏi Thái Nguyên, bọn địch ở Lào Cai, Tây Bắc cũng hốt hoảng chạy, mục đích dự kiến của chiến dịch được thực hiện hoàn toàn.
 

(đăng trên “ Xuân Thu Viêm Hoàng ” số 9 năm 1999,
với tiêu đề là : “ Đại tướng Trần Canh trong
viện trợ Việt Nam chống Pháp ”,
khi đưa in vào tập sách này, tác giả có sửa chữa đôi chút).


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:06:53 pm
VẤN ĐỀ PHƯƠNG HƯỚNG CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM CHỐNG PHÁP
Vương Nghiên Tuyền

Sau chiến dịch biên giới Việt Nam tháng 10 năm 1950, tôi tiếp tục ở lại làm cố vấn đại đoàn 308. Năm 1953 đến 1954 tôi về nước học tập hệ cao cấp Học viện quân sự Nam Kinh, đầu năm 1955 lại được lệnh sang công tác ở Đoàn cố vấn quân sự nước ta tại Việt Nam. Mùa xuân 1956, bỏ tên Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam, đổi lại là Tổ chuyên gia quân sự tại Việt Nam, tôi làm tổ trưởng. Tháng 7/1957 tôi về nước. Trong thời gian này, Trung ương Đảng ta đã nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5/1956 cử đồng chí Trần Canh sang Việt Nam hỗ trợ quân đội Việt Nam xây dựng phương án tác chiến phòng ngự, tôi có may mắn lại theo đồng chí Trần Canh đi khảo sát tại chỗ những nơi Đồng Hới bắc vĩ tuyến 17 Việt Nam, Nghệ Tĩnh, Thanh Hoá, Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai, Yên Bái, Mộc Châu, Sơn La, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ v.v.. Trong khi khảo sát, đồng chí Trần Canh và Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trao đổi một số vấn đề liên quan đến các chiến dịch chủ yếu trong chiến tranh chống Pháp. Khi khảo sát Điện Biên Phủ, phía Việt Nam giới thiệu khá tỉ mỉ tình hình chiến dịch Điện Biên Phủ. Tôi cho rằng, trong thời gian chống Pháp từ 1951 đến 1954, trong cán bộ lãnh đạo chủ chốt của quân đội Việt Nam luôn luôn có sự bất đồng nào đó về mặt lựa chọn liên quan đến phương hướng chiến lược, đó là vấn đề đặt hướng tấn công chính vào vùng đồng bằng Bắc Bộ hay là ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam và vùng núi Thượng Lào. Nhân đây tôi muốn tường thuật lại khái quát một số tình hình mà phía Trung Quốc và phía Việt Nam đề cập đến, bản thân tôi đã trải nghiệm lúc bấy giờ và tìm hiểu được trong chuyến khảo sát thực địa lần này.

Thứ nhất : Tình hình chiến tranh chống Pháp sau chiến dịch biên giới Việt Nam năm 1950 và vấn đề hướng phát triển của hai bên Pháp – Việt

Trong tháng 9, 10 năm 1950, Việt Nam giành được thắng lợi chiến dịch Biên Giới, giải phóng Cao Bằng, Lạng Sơn, Đình Lập, Tiên Yên, Lào Cai, khai thông tuyến giao thông với Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, phá vỡ bao vây của quân Pháp đối với căn cứ địa chủ yếu Bắc Bộ Việt Nam, quân đội Việt Nam nắm chắc quyền chủ động chiến trường ở vùng Bắc Bộ Việt Nam, đồng thời còn giải phóng vùng Hoà Bình, đột phá hành lang Hải Phòng, Hà Nội, Hoà Bình, Sơn La do địch kiểm soát, mở tuyến giao thông giữa căn cứ địa chủ yếu Bắc Bộ với Trung Bộ, tạo điều kiện có lợi hơn cho chiến tranh chống Pháp của Việt Nam. Nhưng nói về tình hình chiến tranh chống Pháp của cả ba nước Đông Dương, Việt Nam, Campuchia, Lào, quân Pháp lúc bấy giờ vẫn chiếm ưu thế, cơ bản khống chế vùng sản xuất lương thực đồng bằng đông dân cư, lại khống chế phần lớn vùng núi có giá trị chiến lược quan trọng, nói tóm lại, quân Pháp vẫn đang nắm quyền chủ động chiến lược. Sau chiến dịch biên giới, đã phá vỡ bao vây từ phía đông, phía bắc của quân Pháp đối với căn cứ địa chủ yếu Việt Bắc (vùng Thái Nguyên, Truyên Quang, Bắc Cạn), nhưng vùng núi rộng lớn Lai Châu, Sơn La, Tây Bắc Việt Nam, Nghĩa Lộ, Phù Yên, Tây Yên Bái v.v. và vùng núi rộng lớn của Lào vẫn trong tay quân Pháp; quân Pháp vẫn đóng trên các điểm cao đe doạ căn cứ địa Việt Bắc từ phía tây, đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam ở phía nam căn cứ địa, là vùng tập kết chủ lực của quân Pháp, căn cứ địa Việt Bắc, trụ sở cơ quan đầu não của Đảng, chính quyền, quân đội Việt Nam vẫn trong vòng uy hiếp của quân Pháp, vẫn chưa phải là hậu phương ổn định, an toàn. Vì vậy, Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông từ năm 1951 thông qua Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam đã nêu ra kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam phát triển lên vùng núi Tây Bắc Việt Nam và vùng núi Thượng Lào, nhưng không được phía Việt Nam chấp nhận.

Sau chiến dịch biên giới, Revers, nguyên Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương bị triệu hồi về nước. Ngày 6/12/1950, Pháp cử Jean de Lattre de Tassigny, Tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, kiêm Cao uỷ. Sau khi đến nhậm chức, De Lattre vẫn tiếp tục đặt trọng điểm tấn công vào Bắc Bộ Việt Nam, mở rộng lực lượng cơ động, phát triển nguỵ quân, tiến hành cái gọi là “chiến tranh tổng lực”, xây dựng cái gọi là “phòng tuyến boongke”, tạo ra vùng trắng, âm mưu khống chế toàn diện đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, trên cơ sở đó cơ bản khống chế uy hiếp hơn nữa căn cứ địa Bắc Bộ Việt Nam. Cái gọi là “phòng tuyến boongke” của De Lattre, tức là từ Hòn Gai theo hướng tây qua Đông Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Vĩnh Phúc rồi theo hướng nam qua Sơn Tây, Hà Nam đến Ninh Bình, tiếp tục xây thêm công sự trên cơ sở công sự, cứ điểm sẵn có, hình thành một phòng tuyến kiên cố, nhằm cắt đứt liên hệ giữa đồng bằng và miền núi Bắc Bộ Việt Nam, hòng lấy đó để khống chế toàn diện vùng đồng bằng, uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc. Trên phòng tuyến và bên trong phòng tuyến này, tập kết lực lượng phòng giữ cảnh giới chủ yếu và bộ đội cơ động của Pháp, là vùng chiếm đóng của quân chủ lực Pháp là điểm mạnh về bố trí chiến lược của quân Pháp ; Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ ở Bắc Bộ Việt Nam và vùng núi rộng lớn Sầm Nứa, Xiêng Khng, Phông Xa Lì v.v.. của Thượng Lào là vùng chiến lược và hậu phương quan trọng của quân Pháp, nhưng binh lực tương đối ít, tương đối yếu – là vùng yếu của quân Pháp. Trong tình hình trên về tổng thể quân Pháp vẫn chiếm ưu thế, quân đội Việt Nam vẫn ở thế yếu, căn cứ địa chủ yếu Việt Bắc vẫn chưa ổn định, không thể trở thành hậu phương an toàn, để làm suy yếu quân Pháp phát triển lực lượng chống Pháp, mở rộng vùng giải phóng xây dựng căn cứ địa Việt Bắc ổn định, xây dựng hậu phương an toàn, rộng lớn cho chiến tranh chống Pháp, thúc đẩy cuộc kháng chiến toàn quốc phát triển thắng lợi, thì hướng tấn công chủ yếu, hướng phát triển của quân đội Việt Nam đặt ở Tây Bắc và vùng núi Thượng Lào, nơi địch yếu về chiến lược về bố trí, hay là đặt ở nơi đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam nơi mà địch khá mạnh về chiến lược, về bố trí và sẵn sàng chống lại ? Theo tình hình chung, phải nói rằng sự lựa chọn này không khó, nhưng trong cán bộ lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ thì trở thành vấn đề tương đối nan giải.

Ngay từ tháng 8/1950, khi Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam giới thiệu tình hình cho những cán bộ đi theo đồng chí Trần Canh, nói rất rõ ràng, vùng Tây Bắc Việt Nam là vùng tập trung dân tộc thiểu số, ngôn ngữ không thông, công tác cơ sở yếu, núi cao rừng rậm, đất rộng người thưa, thiếu thốn lương thực, giao thông không tiện, tác chiến đại binh đoàn rất khó khăn, và nói dù cho giải phóng vùng núi Tây Bắc cũng không giải quyết nổi những vấn đề mà Việt Nam đối mặt lúc bấy giờ, cho nên sau khi chiến dịch biên giới sẽ chuẩn bị phát triển về vùng trung du hoặc phát triển theo hướng Hoà Bình ; vùng trung du tức là vùng đồng bằng phía bắc Hà Nội. Sau chiến dịch biên giới, quân đội Việt Nam hành động theo phương án dự kiến này. Sau khi xem xét các mặt, đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc cũng đồng ý phương án đó.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:07:43 pm
Thứ hai : Hướng tác chiến của quân đội Việt Nam nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ, mở ba chiến dịch từ 12/1950 đến 6/1951.

Chiến dịch biên giới kết thúc thắng lợi, tình hình chiến tranh chống Pháp ở miền Bắc Việt Nam rất tốt, quyền chủ động nằm trong tay quân đội Việt Nam, ở mức độ khá lớn. Nhưng làm thế nào để giữ vững quyền chủ động, phát triển tình hình tốt hơn, vẫn chưa phải là việc dễ dàng ở Việt Nam lúc bấy giờ. Do có những cán bộ lãnh đạo Việt Nam không muốn chấp nhận kiến nghị phát triển lên vùng núi Tây Bắc Việt Nam, bị tư tưởng “tốc thắng” chi phối, đặt trọng điểm tấn công chiến lược vào vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, từ tháng 12/1950 đến 6/1951, sử dụng bộ đội chủ lực liên tiếp mở ba chiến dịch.

Từ 25/12/1950 đến 17/1/1951, mở chiến dịch trung du sông Hồng, Việt Nam gọi là “chiến dịch Trần Hưng Đạo”. Vùng tiến hành chiến dịch đầu tiên tại huyện Kim Anh, huyện Đa Phúc của tỉnh Vĩnh Phúc, và huyện Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội 30km về phía bắc, sau đó chuyển sang bắc, đông Vĩnh Yên tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Phúc. Điều động bộ đội chủ lực là trung đoàn 36, 88, 102 của sư 308 và trung đoàn 141, 209 của sư 312 vào hướng chính của chiến dịch. Sau chiến dịch biên giới đến 6 tháng đầu năm 1951, quân đội Việt Nam lần lượt thành lập đại đoàn (sư) 312, đại đoàn (sư) 320, đại đoàn (sư) 316 và đại đoàn công pháo (sư) 351.

Về phía địch, sau khi De Lattre giữ chức Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương đã tăng cường xây dựng bộ đội cơ động, năm 1951 từng bước thành lập 2 đại đoàn cơ động. Sư cơ động thứ nhất do Le Blanc chỉ huy đóng ở Hà Nội, sư cơ động thứ hai do Debechou chỉ huy, đóng ở Hải Dương (trên quốc lộ 5 phía tây Hải Phòng). Có tất cả 7 trung đoàn cơ động. Mỗi trung đoàn có từ 4 đến 6 tiểu đoàn. Tuyệt đại bộ phận trong những tiểu đoàn này là lính Âu Phi, chỉ có 5 tiểu đoàn nguỵ quân, ngoài ra còn tăng cường lính dù, pháo binh, công binh. Ngày 20/3 đến 7/7/1951 trên quốc lộ 18 từ Phả Lại đến Uông Bí, cách Hải Phòng 20, 30 km về phía bắc, tây bắc, quân đội Việt Nam lại mở một chiến dịch ở vùng phía bắc sông Bạch Đằng, Việt Nam gọi là “chiến dịch Hoàng Hoa Thám”. Bộ đội chủ yếu tham gia chiến đấu ở hướng chính của chiến dịch là trung đoàn 36, 88, 102 của đại đoàn 308, trung đoàn 141, 209 của đại đoàn 312, trung đoàn 98, 174 của đại đoàn 316.

Ngày 28/5 đến 24/6/1951, vùng Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, phía nam Liên khu 3 (trọng điểm ở hữu ngạn sông Đáy tỉnh Ninh Bình) quân đội Việt Nam lại mở chiến dịch gọi là “chiến dịch Quang Trung”. Bộ đội chủ lực tham gia chiến đấu ở hướng chính chiến dịch là trung đoàn 36, 88, 102 của đại đoàn 308, trung đoàn 9, 57, trung đoàn 66 của đại đoàn 304. Đại đoàn 308 đánh trước thị xã Ninh Bình, trong khi tiêu diệt quân địch đóng giữ Ninh Bình, đã bắn chết trung úy Bernard, con của De Lattre, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương, tại cứ điểm Âu Hà bên bờ sông Đáy. Sau đó gặp khó khăn khi công kích cứ điểm Non Nước.

Ba chiến dịch nói trên đều tiến hành ở ven đồng bằng Bắc Bộ, trên cái gọi là “phòng tuyến boongke” của quân Pháp, hơn nữa lại tiến hành từ điểm khởi đầu và điểm kết thúc ở mặt chính và hai bên sườn của “phòng tuyến boongke” dựa vào sông, ven biển nói chung là chiến dịch tiến công cứng chạm cứng. Vì vậy kết quả của ba chiến dịch đều không lý tưởng, hơn nữa, càng đánh càng không lý tưởng. Những cứ điểm cần đánh, một số không đánh được, mà dù cho đánh được, tuyệt đại bộ phận cũng không củng cố nổi, được rồi lại mất. Trong kế hoạch đánh viện binh có cái không đánh được, có cái đánh được nhưng rất ít khi trở thành tiêu diệt chiến. Nói chung lại, cả ba chiến dịch không đạt được mục đích tiêu diệt số lượng lớn sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, phát triển tình hình rất tốt do chiến dịch biên giới tạo ra.

Trong khi quân Pháp âm mưu phá hoại và “càn quét”, tư tưởng của cán bộ đảng, chính quyền, quân đội địa phương dao động, chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có hiện tượng co lại. Tất cả những điều đó đều ảnh hướng đến cán bộ quân đội Việt Nam, một số cán bộ bắt đầu suy nghĩ tới vấn đề cơ bản của tác chiến và xây dựng quân đội. Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam lúc bấy giờ có bất đồng với cán bộ lãnh đạo chủ chốt của quân đội Việt Nam trên vấn đề phương hướng phát triển chiến lược cũng có những quan điểm không giống nhau lắm trên vấn đề phát động quần chúng, trên vấn đề công tác chính trị bộ đội. Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 của Việt Nam giành được thắng lợi, trong “Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng Việt Nam ngày 25/11 năm đó, rõ ràng nhắc đến vấn đề phải “cải thiện đời sống nhân dân”, “động viên lực lượng toàn dân kháng chiến” nhưng mãi đến đầu những năm 50, đời sống của đông đảo nông dân nghèo khổ vẫn chịu sự bóc lột nặng nề của địa chủ và những kẻ cho vay nặng lãi. Thậm chí có những cán bộ địa phương, cán bộ quân đội xuất thân từ gia đình bóc lột, không chút giấu diếm chống lại giảm tô giảm tức cho nông dân nghèo khổ. Cho nên tính tich cực kháng chiến của đông đảo nông dân bị kìm hãm rất lớn, tinh thần chủ động cũng không được phát huy đầy đủ, đông đảo chiến sĩ trong bộ đội đa số chỉ biết làm theo mệnh lệnh, thiếu tinh thần trách nhiệm và tinh thần chủ động tích cực của người làm chủ. Tất cả những người trong đoàn cố vấn chúng tôi cho rằng như thế không thể giải thoát được nỗi khổ của đông đảo quần chúng cơ bản, không nghiêm chỉnh giải quyết vấn đề đời sống của người dân, không thể nào phát động đầy đủ quần chúng, tất nhiên cũng khó kiên trì chiến tranh chống Pháp lâu dài. Nhưng không ít các đồng chí Việt Nam không đồng ý, không coi trọng lắm ý kiến của cố vấn Trung Quốc phát động quần chúng, bất đồng về vấn đề tăng cường công tác chính trị bộ đội, cũng bắt đầu rõ rệt. Tháng 8/1950, sau khi đoàn cố vấn Trung Quốc đến Việt Nam, phía Việt Nam chỉ cần cố vấn giúp đỡ về công tác quân sự, còn về công tác chính trị không muốn để cho cố vấn nhúng tay vào. Căn cứ vào tình hình tư tưởng chính trị và tình hình quan hệ nội bộ, của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ, các cố vấn Trung Quốc cảm thấy nếu không tăng cường xây dựng công tác chính trị, thì quân đội Việt Nam khó kiên trì kháng chiến lâu dài.

Sau chiến dịch Biên Giới, nhất là sau ba chiến dịch ở ven đồng bằng Bắc Bộ, các cố vấn Trung Quốc đề xuất thêm, nếu không tăng cường công tác chính trị cho bộ đội thì sẽ gặp khó khăn nhiều hơn khi tiếp tục tác chiến. Bất đồng về mấy mặt trên đây hay là nói những cách nhìn bất đồng nào đó, sau ba chiến dịch ven đồng bằng đều được đề xuất tương đối rõ, sự phát triển của tình hình làm cho các đồng chí Việt Nam không thể không suy xét những vấn đề này [1].


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:08:18 pm
Thứ ba : Quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ hai Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đối với vấn đề quân sự : Quân Pháp chiếm lại vùng Hoà Bình, quân đội Việt Nam tiến hành chiến dịch Hoà Bình

Ngày 27/9 đến 5/10 năm 1951, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp hội nghị toàn thể lần thứ hai, phân tích tình hình chiến tranh chống Pháp. Hội nghị nêu rõ : “ quân đội Việt Nam vẫn chưa giành được ưu thế về quân sự, vẫn chưa đập tan phòng tuyến của đich, vẫn chưa thay đổi tình hình đồng bằng Bắc Bộ ”; quân Pháp “ tăng cường chiến tranh toàn diện ở vùng địch chiếm và vùng du kích ”, làm cho chiến tranh du kích của Việt Nam “ gặp rất nhiều khó khăn mới ”, “ về mặt xây dựng bộ đội chủ lực, chất lượng chưa theo kịp số lượng, đánh du kích sau lưng địch không triển khai mạnh mẽ, chưa thể phối hợp mạnh mẽ với chiến trường chính ”. Hội nghị quyết định “ ra sức đập tan âm mưu thâm độc của địch lấy chiến tranh nuôi chiến tranh dùng người Việt đánh người Việt, củng cố và phát triển lực lượng kháng chiến toàn quốc, toàn dân, nâng cao chất lượng bộ đội chủ lực, ra sức tăng cường xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích ”, “ phát triển đánh du kích ”, “ nâng cao tinh thần chiến đấu anh dũng của bộ đội ”. Vì vậy hội nghị ra “ nghị quyết về nhiệm vụ và phương châm công tác ở vùng địch chiếm và vùng du kích ”, yêu cầu đảng uỷ các cấp coi trọng sự lãnh đạo thống nhất đối với đấu tranh trên mọi mặt, chỉ đạo chặt chẽ công tác quân sự, căn cứ vào tình hình so sánh lực lượng địch ta, quy định tương ứng nhiệm vụ và phương châm đấu tranh, nắm bắt khắc phục tư tưởng “ tả ”, hữu khuynh tồn tại, trong bộ đội còn phải chống quân điểm quân sự đơn thuần. Để nâng cao chất lượng bộ đội, phát triển chiến tranh du kích, Tổng quân uỷ ra quyết định : thay đổi hình thức hoạt động của bộ đội chủ lực, làm cho nó thích ứng với nhu cầu của phát triển chiến tranh du kích, phương châm hoạt động là phân tán chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương, luân lưu tác chiến, bộ đội chủ lực bất cứ lúc nào cũng phải có một bộ phận tốc chiến, một bộ phận huấn luyện, một bộ phận đánh địch ở ngoại tuyến, một bộ phận đánh địch ở sau lưng địch, tác chiến kết hợp với công tác làm tan rã quân nguỵ.

Và quyết định thượng tuần tháng 10, đại đoàn 312 tấn công địch ở vùng Nghĩa Lộ Tây Bắc. Nhưng đến thượng tuần tháng 10, trên thực tế đại đoàn 312 không đi Nghĩa Lộ đánh địch. Từ nội dung của quyết định, nghị quyết nói trên có thể thấy, Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ cảm thấy một số vấn đề cải tiến đang tồn tại trong chiến tranh chống Pháp, nhưng không đi sâu trình bày, không nêu ra việc giải quyết căn bản vấn đề phát động quần chúng nông dân cần giải quyết lúc bấy giờ, cũng không nêu ra rõ ràng vấn đề tăng cường công tác tư tưởng chính trị bộ đội thay đổi phương hướng phát triển chiến lược, chủ lực vẫn quanh quẩn xung quanh đồng bằng Bắc Bộ. Tất cả các biện pháp chỉ là giải quyết một cách tương ứng một số vấn đề cụ thể.

Vì vậy sau hội nghị lần này, vẫn chưa thay đổi được tình hình vẫn từng bước phát triển bất lợi đối với kháng chiến ở Bắc Bộ Việt Nam lúc bấy giờ. Còn quân Pháp thì tương đối đứng chắc chân trên trận địa, và có sự phát triển, thậm chí De Lattre cho rằng, đã đến lúc bắt đầu phản công, giành quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ. Đây là hậu quả của quân đội Việt Nam kiên trì phương hướng phát triển chiến lược nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ, nơi bọn địch có quân đội mạnh. Mùa đông năm 1951, tổng binh lực của quân Pháp ở Đông Dương từ 230.000 người năm 1950, tăng lên hơn 330.000 người. Ngày 9 đến 14/11/1951 De Lattre đưa 20 tiểu đoàn binh lực đánh chiếm Hoà Bình, trong thời gian này lúc sử dụng binh lực nhiều nhất lên 27, 28 tiểu đoàn, mục đích nhằm khôi phục lại hành lang Hải Phòng, Hà Nội, Hoà Bình, Sơn La đã bị quân đội Việt Nam đột phá, chia cắt lại Bắc Bộ Việt Nam, cắt đứt tuyến đường liên lạc tiếp tế giữa chiến trường Bắc Bộ và chiến trường Trung Bộ, thu hút và tiêu diệt chủ lực quân đội Việt Nam. Bố trí cụ thể của quân Pháp là : bố trí ở vùng Hoà Bình binh lực trên 8 tiểu đoàn, hình thành trận địa phòng ngự tập đoàn cứ điểm, binh lực còn lại lần lượt bố trí ở hai bờ sông Đà, bắc và đông bắc Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6 đông Hoà Bình, để mở rộng vùng chiếm đóng, bảo vệ tuyến vận tải.

Trong tình hình quân Pháp mở lại tấn công quy mô lớn vào Bắc Bộ Việt Nam, Bộ tổng quân đội Việt Nam mời các đồng chí cố vấn Trung Quốc nghiên cứu tình hình và xác định quyết tâm và bố trí. Qua nghiên cứu cho rằng, cuộc tấn công lớn của địch tạm thời gây không ít khó khăn cho phía Việt Nam, nhưng quân địch sử dụng số lớn lực lượng cơ động ở Hoà Bình và vùng rộng lớn ở bắc và đông tỉnh này, dựa vào công sự xây dựng tạm thời, bảo vệ tuyến giao thông khá dài, đã tăng thêm nhiều cơ hội cho quân đội Việt Nam tiêu diệt sinh lực địch ; đồng thời quân Pháp đánh chiếm Hoà Bình là điều động quân từ vùng đồng bằng, vùng đồng bằng tương đối trống, tạo cơ hội rất tốt cho quân đội Việt Nam khôi phục phát triển đánh du kích ở đồng bằng ; nếu chiến trường chính diện Hoà Bình phối hợp tốt với chiến trường sau lưng địch ở đồng bằng, thì không khó tiêu diệt và đuổi cổ quân Pháp xâm chiếm Hoà Bình. Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng quân đội Việt Nam quyết tâm mở chiến dịch Hoà Bình, động viên toàn bộ lực lượng, đập tan cuộc tấn công của quân Pháp lên Hoà Bình, đồng thời khôi phục, phát triển chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng trong quá trình chiến đấu. Vì vậy ngày 24/11/1951, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra : “ nhiệm vụ và chỉ thị về đập tan quân địch tấn công Hoà Bình ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư cho toàn thể cán bộ chỉ huy bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, nêu rõ “ địch tự động ra cho chúng ta đánh ”, là một cơ hội tiêu diệt địch rất tốt, phải tích cực chủ động, kiên quyết chiến đấu ngoan cường, các mặt phối hợp chặt chẽ, đập tan kế hoạch tấn công mùa đông của địch, phát triển lực lượng chống Pháp. Bố trí cơ bản của chiến dịch là các đại đoàn : 304, 308, 312 và đại đoàn công pháo 351 tiêu diệt bộ đội cơ động quân Pháp ở trận Hoà Bình, đại đoàn 320, 316 kết hợp với bộ đội địa phương và quần chúng nhân dân phát triển chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng từ hai hướng nam bắc, tiêu diệt nguỵ quyền, làm tan rã nguỵ quân, xây dựng rộng rãi tổ chức cơ sở kháng chiến. Bố trí cụ thể của mặt trận Hoà Bình là : đợt 1 của chiến dịch đặt trọng điểm công kích vào hai bờ sông Đà bắc Hoà Bình, đại đoàn 308 ở tả ngạn, 312 ở hữu ngạn, tìm cơ hội tiêu diệt cứ điểm của địch, phục kích bộ đội vận tải của chúng ; pháo binh của đại đoàn 351 bố trí ở bên bờ sông Đà, với sự phối hợp của bộ đội đại đoàn 308, 312, phong t giao thông trên toàn sông của địch, tiêu diệt thuyền bè của địch, cố gắng buộc địch rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà, mở rộng vùng chiếm đóng của quân đội Việt Nam ; đại đoàn 304 tấn công quân địch ở Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6, phía đông Hoà Bình cắt đứt tuyến giao thông tiếp tế đường số 6 của địch, kiềm chế địch ở Hoà Bình hiệp đồng tác chiến với chủ lực phía bắc. Đợt 1 chiến dịch bắt đầu từ ngày 10/12/1951, đại đoàn 308 dưới sự chỉ huy của Vương Thừa Vũ, Song Hào, đại đoàn 312 dưới sự chỉ huy của Lê Trọng Tấn, Trần Độ, sư 304 dưới sự chỉ huy của Hoàng Minh Thảo, Lê Chưởng, đạị đoàn công pháo 351 dưới sự chỉ huy của Phạm Ngọc Mậu, đại đoàn 316 dưới sự chỉ huy của Lê Quảng Ba, Chu Huy Mân, đại đoàn 320 dưới sự chỉ huy của Văn Tiến Dũng đều đánh rất tốt, đánh nhiều trận công kiên, phục kích, chặn viện, tiêu diệt nhiều địch làm tan rã không ít nguỵ quyền, nguỵ quân. Trong đó có cuộc chiến đấu của trung đoàn 88 đại đoàn 308 đánh cứ điểm Tu Vũ cách bắc Hoà Bình 30km là nổi bật nhất. Tu Vũ là cứ điểm then chốt của quân Pháp chiếm giữ hai bờ sông Đà. Ở hai bờ sông Đà có một tiểu đoàn Âu Phi đóng giữ có chi viện của hỏa lực tại các cứ điểm lân cận. Đêm 10/2/1951 Trung đoàn 88 qua năm giờ đồng hồ chiến đấu ác liệt, ngoan cường, đã tiêu diệt quân địch đóng giữ Tu Vũ, giáng một đòn nặng nề vào khí thế hung hăng của quân Pháp, có tác dụng rất lớn buộc quân Pháp rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà.

Các bộ đội tham gia chiến đấu đến tháng 12/1951, làm cho tuyến giao thông sông Đà, tuyến giao thông quốc lộ 6 của địch ở Hoà Bình bị cắt đứt, quân địch đóng giữ Hoà Bình bị cô lập, nguyên Tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu của Pháp, Cao uỷ Pháp, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương De Lattre đứng trước tình thế thất bại dồn dập, ấm ức đổ bệnh mà chết. Nước Pháp lại cử Le Tourneau làm Cao uỷ ở Đông Dương. Ngày 8/1/1952, Salan bị buộc phải rút khỏi vùng chiếm đóng hai bờ sông Đà, bắc Hoà Bình. Số quân rút đi, một phần dùng để tăng cường phòng ngự cho Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6 đông Hoà Bình, một phần đưa về vùng đồng bằng để đối phó với chiến tranh du kích phát triển trở lại. Đến đây, đợt 1 chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi. Nhiệm vụ của đợt 2 chiến dịch Hoà Bình là tập trung lực lượng vây đánh quân địch ở Hoà Bình và dọc tuyến quốc lộ 6, buộc địch hoàn toàn rút khỏi vùng chiếm đóng Hoà Bình, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích. Cuộc chiến đấu đợt 2 bắt đầu từ ngày 8/11/1952. Các đại đoàn chủ lực bộ đội địa phương, dân quân du kích đều đánh rất tốt. Nhất là đại đoàn 316 vượt qua “phòng tuyến boongke” của quân Pháp trên dọc tuyến quốc lộ 18 đồng bằng Bắc Bộ, đi vào đánh địch ở hai bên sườn quốc lộ 5 Hà Nội đi Hải Phòng ; đại đoàn 320 đánh địch ở vùng đồng bằng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, trừng trị Việt gian làm tan rã nguỵ quân, nguỵ quyền, Trung đoàn 66 đại đoàn 304 tiến vào địa giới tỉnh Hà Đông, tạo nên mối đe doạ với Hà Nội. Cuộc chiến đấu của những bộ đội đã gây phấn chấn mạnh mẽ cho nhân dân vùng sau lưng địch, đánh vào khí thế phản động của địch, làm cho hàng vạn nguỵ quân, nhân viên nguỵ quyền rời bỏ quân Pháp, kẻ chạy trốn, kẻ đầu hàng, tổ chức cơ sở sau lưng địch của Việt Nam đã im ắng lại được khôi phục, và xây dựng được nhiều tổ chức cơ sở mới, chiến tranh du kích sau lưng địch phát triển.

Điều đó có tác dụng rất lớn đối với cô lập quân địch ở Hoà Bình, đập tan hoàn toàn cuộc tấn công Hoà Bình của quân địch. Ngày 23/2, quân địch xâm chiếm Hoà Bình, trong tình hình chiến trường chính và hậu phương đều bị tấn công nặng nề, không thể không rút lui thảm hại. Trong cả chiến dịch, đã tiêu diệt số lớn quân địch, làm tan rã số lớn nguỵ quân, mở rộng vùng giải phóng, phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch, làm cho căn cứ địa du kích, khu du kích phân tán từ Bắc Giang đến Bắc Ninh, rồi đến hai bên quốc lộ 5, cho đến Hưng yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình v.v.. đều có thể liên hệ với nhau. Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi.

Chiến dịch Hoà Bình trải qua ba tháng đã có tác dụng bước ngoặt nhất định dù đối với quân Pháp hay với quân đội Việt Nam. Tình hình quân Pháp dần dần phát triển trong năm 1951, đến chiến dịch Hoà Bình thì đi xuống. Sau chiến dịch Hoà Bình kết thúc, quân Pháp không thể mở nổi cuộc tiến công nào có tiếng vang lớn nữa. Tình hình bất lợi của quân đội Việt Nam từng bước thể hiện trong năm 1952, trải qua chiến dịch Hoà Bình có chuyển biến, nhất là chiến tranh du kích, sau lưng địch ở đồng bằng đã phát triển trở lại. So sánh thay đổi tình hình trước và sau chiến dịch Hoà Bình, quân đội Việt Nam đã nhìn thấy rõ hơn vấn đề tồn tại của mình về tác chiến, về xây dựng. Điều đó đã tạo tiền đề cho việc giải quyết cơ bản những vấn đề tồn tại, phát triển cục diện thắng lợi mới.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:10:10 pm
Thứ tư : Quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ ba Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề quân sự ; quân đội nhân dân tiến hành chỉnh huấn chính trị, bắt đầu chuyển biến phương hướng phát triển chiến lược, tiến quân lên Tây Bắc, mở ra cục diện thắng lợi mới

Tháng 4/1952, Hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam suy tính tới kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, chỉ rõ : “ đã có tiến bộ rất lớn, nhưng còn có rất nhiều nhược điểm, như trình độ kỹ thuật, chiến thuật còn thấp, nhất là trình độ chính trị còn chưa nâng cao, lập trường giai cấp chưa vững, cán bộ công nông chưa được đề bạt xứng đáng ”. Hội nghị thông qua nghị quyết nêu rõ : “ Muốn làm cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng, thì phải cải thiện đời sống của bộ đội, nâng cao trình độ chiến thuật kỹ thuật, nhất là phải tiến hành giáo dục chính trị và giáo dục tư tưởng đối với bộ đội làm cho quân đội có lập trường giai cấp rõ ràng, tức lập trường của quân đội nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo và xây dựng cho quân đội tư tưởng giai cấp vô sản, khắc phục tư tưởng phi giai cấp vô sản, làm cho quân đội ta thực sự trở thành một quân đội cách mạng của nhân dân ”. Căn cứ vào nghị quyết này, tuyệt đại bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cơ quan trường hợc ở Trung Bộ, Bắc Bộ Việt Nam từ tháng 5/1952 kế tiếp nhau tiến hành chỉnh huấn chính trị dưới sự giúp đỡ cụ thể của cố vấn Trung Quốc. Đây là một cuộc vận động giáo dục và học tập chính trị tập trung nhất, rộng rãi nhất từ khi quân đội Việt Nam ra đời đến nay, cán bộ đại đội trở lên học tập giáo trình “ mấy vấn đề của cách mạng Việt Nam ”, cán bộ chiến sĩ tiểu đội trung đội học tập “ quân đội nhân dân Việt Nam ” và “ kháng chiến trường kỳ gian khổ nhất định thắng lợi ” v.v.. Để làm tốt chỉnh huấn, theo ý kiến của các đồng chí Trung Quốc, Tổng quân uỷ mở trường chính trị trung cấp, tiến hành giáo dục cán bộ trung cao cấp trước. Phương châm và biện pháp học tập là cởi mở tư tưởng, lý luận liên hệ thực tế, so sánh nhận thức cũ mới, tiến hành thảo luận, vạch rõ ranh giới giữa đúng đắn và sai lầm, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm.

Tăng cường công tác chính trị tư tưởng cho bộ đội đi sâu tiến hành giáo dục chính trị cơ bản, đó là kiến nghị của cố vấn Trung Quốc được nhiều lần nêu ra kể từ khi bắt đầu công tác giúp đỡ quân đội Việt Nam tháng 8/1950, là kiến nghị mà đồng chí Trần Canh nhiều lần nhấn mạnh trong công tác giúp đỡ quân đội Việt Nam ở Việt Nam năm 1950, nhưng năm 1950, 1951 không được phía Việt Nam coi trọng, thậm chí có cán bộ lãnh đạo không đồng ý. Năm 1952, phía Việt Nam từ Trung ương Đảng Lao động, Quân uỷ Trung ương đến các Tổng cục quân đội nhân dân nhấn mạnh công tác tư tưởng chính trị tất cả các cố vấn đều rất phấn khởi, dốc sức giúp đỡ từ xác định mục đích, nội dung, phương châm, chính sách, biện pháp đến tổ chức thực hiện. Phía Việt Nam từ trên xuống dưới cũng tương đối coi trọng một loạt kiến nghị của cố vấn Trung Quốc trong chỉnh huấn chính trị. Cuộc chỉnh huấn chính trị lần này đạt thành tích khá tốt qua chỉnh huấn, bước đầu nâng cao giác ngộ giai cấp của quân đội Việt Nam, làm cho cán bộ chiến sĩ nhận rõ mục đích của chiến tranh chống Pháp, vạch rõ ranh giới giữa ta bạn thù, xác định rõ bản chất và nhiệm vụ của quân đội nhân dân, uốn nắn thái độ đối với cốt cán chiến đấu công nông, nâng cao tinh thần trách nhiệm chính trị, tăng cường tinh thần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, cải thiện quan hệ nội bộ bộ đội và quan hệ quân dân, xây dựng quyết tâm chiến đấu đến cùng cho kháng chiến thắng lợi, cách mạng Việt Nam thắng lợi.

Theo tinh thần nghị quyết hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, năm 1952, dưới sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra “ nghị quyết về chế độ Đảng uỷ trong bộ đội chủ lực ”, quy định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng uỷ các cấp trong quân đội Việt Nam và quan hệ với đảng uỷ cao cấp địa phương, nghị quyết đó có tác dụng quan trọng trong việc Đảng Lao động Việt Nam tăng cường sự lãnh đạo đối với bộ đội, tăng cường xây dựng chi bộ của đảng. Bộ tổng còn ra chỉ thị coi trọng đề bạt cốt cát chiến đấu công nông bổ sung đội ngũ cán bộ, nhằm tư tưởng coi thường cốt cán, công nông tồn tại khá phổ biến, ngay sau đó đã mạnh dạn đề bạt một loạt cốt cán chiến đấu đã trải qua thử thách chiến đấu, làm lãnh đạo các cấp từ trung đoàn trở xuống.

Để bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ của cán bộ công nông, quân đội Việt Nam còn tăng cường lực lượng lãnh đạo cho trường lục quân, cử Lê Thiết Hùng làm Hiệu trưởng, Trần Tử Bình làm Chính uỷ. Đồng thời với việc tăng cường công tác chính trị, sự lãnh đạo của đảng, công tác cán bộ, được sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, quân đội Việt Nam còn chỉnh đốn công tác của các cơ quan quân sự chính trị ; hậu cần các cấp, tăng cường xây dựng tổ chức. Qua chỉnh huấn chính trị và xây dựng chỉnh đốn toàn diện cơ quan quân sự, chính trị, hậu cần, quân đội Việt Nam trên các chiều hướng, nhất là bộ đội chủ lực trên chiến trường Bắc Bộ, đã nâng cao rõ rệt sức chiến đấu, đặt cơ sở tương đối tốt cho nhiệm vụ nặng nề sau này.

Với nhiều lần kiến nghị của Mao Chủ tịch, Quân uỷ Trung ương và Đoàn cố vấn Trung Quốc, sau khi trải qua ba chiến dịch của quân đội Việt Nam vào 6 tháng đầu năm 1951 và thể nghiệm thực tế do việc quân Pháp tấn công Hoà Bình mùa đông, tháng 4/1952, hội nghị toàn thể lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định rõ ràng chấp nhận kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, quyết định từ nay chuyển hướng tấn công chính của bộ đội chủ lực lên vùng núi Tây Bắc, do đó bắt đầu chuyển hướng chiến lược.

Vùng núi Tây Bắc Việt Nam là một vùng chiến lược quan trọng của quân Pháp đe doạ căn cứ địa Việt Bắc và yểm trợ vùng Thượng Lào, có quan hệ an nguy rất lớn đối với việc đồng bằng Bắc Bộ bị quân Pháp khống chế. Đối với lực lượng chống Pháp của Việt Nam mà nói, là vùng chiến lược vô cùng quan trọng, quan hệ đến việc xây dựng hậu phương lớn ổn định, an toàn, phát triển thuận lợi tình thế rất tốt của cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam và việc có giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương hay không. Binh lực của quân Pháp lên bảy phần tại Vùng Tây Bắc Việt Nam có 8 tiểu đoàn 41 đại đội phân tán đóng giữ các cứ điểm quan trọng, phần lớn là nguỵ quân, sức chiến đấu không mạnh. Công sự phần nhiều không kiên cố. Những vùng Tây Bắc là vùng tập trung dân tộc thiểu số, lại là vùng núi, giao thông rất không thuận tiện, sản lượng lương thực không nhiều, dân cư thưa thớt, những điều đó gây khó khăn rất lớn cho việc tiến quân vào vùng này. Được sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, để thực hiện quyết tâm tiêu diệt quân địch ở Tây Bắc, giải phóng vùng Tây Bắc, phía Việt Nam đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị, kiện toàn cơ quan hậu cần, phân phát “ điều lệ dân công ”, ra “ nghị quyết về chính sách phát động dân tộc thiểu số ”. Để xây dựng quan hệ quân dân tốt đẹp, Hồ Chủ tịch còn đích thân khởi thảo “ tám mệnh lệnh của Chính phủ gửi bộ đội và vùng mới giải phóng ”, Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, các Tổng cục quân đội nhân dân, các bộ độ tham gia chiến đấu cũng đều làm rất nhiều công tác chuẩn bị tương ứng. Những việc làm đó đều bảo đảm đắc lực cho hành động quân sự tiến quân lên Tây Bắc sau này thuận lợi.

Bộ đội chủ lực tiến quân lên Tây Bắc là đại đoàn 308, 312, 316, đại đoàn công pháo 351, trung đoàn 148, đại đoàn 320, 304 tấn công và kiềm chế địch ở vùng đồng bằng tả hữu ngạn sông Hồng. Các đồng chí trong đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đi theo chủ lực quân đội Việt Nam lên Tây Bắc hỗ trợ chỉ huy tác chiến. Ngày 14/10/1952 bắt đầu chiến dịch tiến quân lên Tây Bắc. Các đại đoàn và trung đoàn 148 trải qua 13 ngày hành quân và chiến đấu gian khổ, đã tiêu diệt quân địch ở vùng Nghĩa Lộ, Phù Yên, Vạn Yên, Quỳnh Nhai... và giải phóng những vùng này. Sau khi bị tấn công địch hốt hoảng điều 9 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ, tăng viện cho vùng hữu ngạn sông Đà, đồng thời điều động 3 binh đoàn cơ động do De Linarès chỉ huy quân Pháp ở Bắc Bộ chỉ huy tiến quân lên Phú Thọ, hòng phá hoại hậu phương chiến dịch của quân đội Việt Nam, để giải vây cho Tây Bắc.

Để bảo đảm chiến dịch Tây Bắc tiếp tục tiến hành thắng lợi, quân đội Việt Nam cho trung đoàn 36 thuộc sư 308, trung đoàn 176 thuộc đại đoàn 316 kết hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích chặn đánh cánh quân này. Trải qua hơn nửa tháng chiến đấu đã khiến chúng không đạt được mục đích mong muốn, phải rút về đồng bằng một cách thảm hại. Sau đó, trung đoàn 88, trung đoàn 102 thuộc đại đoàn 308, trung đoàn 141, 209, thuộc đại đoàn 312, trung đoàn 98, 174 thuộc đại đoàn 316 bắt đầu đợt 2 chiến dịch Tây Bắc vào ngày 15/11/1952. Các trung đoàn nhanh chóng vượt qua sông Đà, triển khai bao vây tấn công quân địch ở các vùng dự định qua 6 ngày đêm liên tục tác chiến giải phóng các thị xã, thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Sơn La, Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ v.v.. tiêu diệt số lớn quân địch ngoài nửa phía bắc của tỉnh Lai Châu và vùng Nà Sản của tỉnh Sơn La ra, còn toàn bộ vùng Tây Bắc rộng lớn đều nằm trong vùng kiểm soát của quân đội Việt Nam.

Tàn quân địch ở tỉnh Sơn La có khoảng 8 tiểu đoàn binh lực, ngày 22/11 tháo chạy tập trung về Nà Sản cách Sơn La 20 km về phía nam, gấp rút xây đắp công sự, nhanh chóng hình thành một cụm cứ điểm ở vùng Nà Sản. Đêm 30/11, quân đội Việt Nam tấn công cứ điểm vòng ngoài Nà Sản, tiêu diệt một số quân địch. Để đối phó với quân đội Việt Nam, quân Pháp nhanh chóng cho hai tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản. Vì đã đạt được mục đích dự định, theo kiến nghị của các đồng chí Trung Quốc, quân đội Việt Nam chủ động đúng lúc ngừng tiến công quân địch ở Nà Sản, ngày 10/12 kết thúc thắng lợi chiến dịch Tây Bắc kéo dài gần hai tháng.

Trong quá trình tiến hành chiến dịch Tây Bắc, đại đoàn 304, 320 tích cực tấn công quân Pháp, quân nguỵ ở vùng đồng bằng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình v.v.. công phá một loạt cứ điểm, tiêu diệt nhiều địch, làm tan rã số lớn nguỵ quyền cơ sở, phối hợp tác chiến mạnh mẽ với chiến trường chính Tây Bắc. Do chiến tranh du kích ở các chiến trường năm 1952 có phát triển tương đối rõ rệt, đã tạo điều kiện cho trung đoàn 18, trung đoàn 95, trung đoàn 101 của ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên tập trung xây dựng đại đoàn chính quy, đại đoàn 325 quân đội Việt Nam chính thức thành lập vào mùa đông 1952.

Trong chiến dịch Tây Bắc, hai chiến trường vùng núi và đồng bằng đều tiêu diệt rất nhiều quân địch, giải phóng toàn bộ tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện phía nam tỉnh Lai Châu, hai huyện phía tây tỉnh Yên Bái tất cả khoảng 28.000 km2 và hơn 250.000 dân làm cho vùng núi Tây Bắc liền một dải với căn cứ địa Việt Bắc, hình thành một hậu phương tương đối ổn định an toàn, mở đầu tốt đẹp cho sự chuyển hướng chiến lược tạo điều kiện tốt cho tiếp tục tiến quân sau đó. Đáng tiếc là năm 1952 phía Việt Nam vẫn chưa đưa ra biện pháp quyết sách mạnh mẽ đối với vấn đề phát động nông dân.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:10:57 pm
Thứ năm : Hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam năm 1953 thông qua “ Dự thảo cương lĩnh về chính sách ruộng đất ”; quân đội Việt Nam tiếp tục chấp hành quyết định chuyển hướng chiến lược, tiến quân lên Thượng Lào

Tháng 1/1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị toàn thể lần thứ 4, thông qua “ Dự thảo cương lĩnh về chính sách ruộng đất ”, quyết định phát động đông đảo nông dân vùng giải phóng tiến hành triệt để giảm tô, giảm tức động viên hơn nữa tính tích cực của đông đảo nông dân tham gia chiến tranh chống Pháp trên các mặt chính trị, kinh tế. Đó là một quyết định có ý nghĩa lịch sử. Trước đó, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nhiều lần nêu kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị lãnh đạo khác của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam về việc thực hành giảm tô, giảm tức, giảm nhẹ gánh nặng của nông dân, cải thiện đời sống nông dân ở vùng giải phòng Việt Nam, các cố vấn Trung Quốc trong Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng sớm cảm thấy nếu không thực hành giảm tô, giảm tức, phát động hơn nữa nhiệt tình của nông dân tham gia chiến đấu thì muốn kiên trì cuộc chiến tranh chống Pháp lâu dài đến thắng lợi cuối cùng là có khó khăn. Sau khi Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra quyết định phát động nông dân thực hành giảm tô, giảm tức, toàn thể cố vấn đều phấn khởi vui mừng, cho rằng, một vấn đề cơ bản trong chiến tranh chống Pháp mong đợi đã lâu bắt đầu được giải quyết, cơ sở quần chúng của chiến tranh chống Pháp sẽ càng thêm sâu rộng hơn, cùng với sự chuyển hướng chiến lược quyết định năm 1952, tăng cường công tác chính trị cho bộ đội, nâng cao giác ngộ chính trị của cán bộ chỉ huy nhất định sẽ thúc đẩy rất mạnh mẽ cuộc chiến tranh chống Pháp phát triển, thắng lợi của chiến tranh chống Pháp có thể đếm từng ngày.

Để tiếp tục thi hành quyết định chuyển hướng chiến lược, mùa xuân 1953, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận kiến nghị của phía Trung Quốc, cùng với Chính phủ kháng chiến Lào quyết định : Cử quân đội nhân dân Việt Nam sang Lào cùng với quân giải phóng Pathet Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch giải phóng Sầm Nứa, mở rộng căn cứ địa du kích, phát triển chiến tranh chống Pháp của nhân dân Lào.

Lúc đó Thượng Lào là vùng chiến lược và hậu phương quan trọng của quân Pháp. Sau khi thất bại ở Tây Bắc Việt Nam, quân Pháp tăng cường phòng ngự ở Thượng Lào, xây dựng Sầm Nứa thành cụm cứ điểm có ba tiểu đoàn phòng thủ. Thượng Lào là vùng núi lớn, điều kiện khí hậu điều kiện giao thông kém hơn vùng Tây Bắc Việt Nam, tác chiến ở đây khó khăn hơn nhiều so với tác chiến ở Tây Bắc Việt Nam. Nhưng quân đội nhân dân Việt Nam trải qua chỉnh huấn chính trị, qua rèn luyện tại chiến dịch Tây Bắc, quyết tâm và năng lực khắc phục khó khăn giành thắng lợi đã nâng cao. Được sự giúp đỡ cụ thể của cố vấn Trung Quốc, qua chuẩn bị một thời gian ngắn, mở chiến dịch Thượng Lào ngày 8/4/1953. Quân đội Việt Nam và quân giải phóng Pathet Lào tham gia chiến đấu chia làm ba mũi tấn công. Các đại đoàn 308, 316, 312 tấn công Sầm Nứa theo quốc lộ 6, mũi thứ hai là đại đoàn 304, xuất phát từ Nghệ An tấn công Xiêng Khoảng theo quốc lộ 7, cắt đứt đường rút lui của địch chạy từ nam Sầm Nứa, mũi thứ ba là trung đoàn 148 chủ lực chiến trường Tây Bắc Việt Nam từ Điện Biên Phủ tiến công vào bắc Sầm Nứa, đe doạ Luông Prabang.

Sau khi phát hiện liên quân Lào – Việt xuất quân tấn công Thượng Lào, đêm 12/4 quân Pháp bỏ Sầm Nứa tháo chạy, từ đó chiến dịch Thượng Lào diễn biến thành một cuộc truy kích chiến lâu dài gian khổ. Quân đội Việt Nam phát huy tinh thần ngoan cường của chiến dịch Tây Bắc truy diệt quân địch, sau khi được tin quân Pháp tháo chạy, bất chấp vất vả hành quân đường dài, lập tức truy kích. Chiều tối 13/4, bộ đội đi đầu giải phóng thị xã Sầm Nứa, lúc này bọn địch đã chạy được 19 giờ, quân đội Việt Nam tiếp tục hành quân gấp rút qua truy kích bảy ngày đêm liên tục hầu như tiêu diệt toàn bộ quân địch tháo chạy. Bộ đội đại đoàn 304 tiến công theo quốc lộ 7 cũng nhanh chóng giải phóng Xiêng Khoảng. Cuộc tấn công của trung đoàn 148 cũng thuận lợi như thế, làm cho Luông Prabang bị đe doạ. Để ngăn chặn tình thế thất bại phát triển, quân địch ở Thượng Lào đưa thêm bộ đội lên Mường Xay, Luông Prabang, Cánh đồng Chum và tạm thời trụ được.

Bộ đội chủ yếu tham gia chiến dịch Thượng Lào từ nơi xuất phát đến thị xã Sầm Nứa hơn 300km, từ Sầm Nứa truy kích địch cách nhau 270 km, trên chặng đường hơn 570 km đó đều là vùng núi cao, hành quân rất khó khăn. Trong trận truy diệt địch đường dài gian khổ này, quân đội Việt Nam được rèn luyện mới, tạo điều kiện có lợi cho tấn công chiến lược Đông Xuân 1953/1954. Chiến dịch Thượng Lào gian khổ, kết thúc thắng lợi vào ngày 3/5/1953, liên quân Việt – Lào đã tiêu diệt quân địch ở Sầm Nứa và số địch tháo chạy, giải phóng toàn tỉnh Sầm Nứa và một phần của hai tỉnh Xiêng Khoảng và Phong Xalì, tất cả 300.000 dân, mở rộng căn cứ địa kháng chiến tranh chống Pháp của Lào, làm cho Sầm Nứa liền một dải với Tây Bắc và căn cứ địa Việt Bắc Việt Nam hình thành hậu phương lớn của chiến tranh chống Pháp toàn Đông Dương. Quân đội Việt Nam nắm vững thêm quyền chủ động chiến lược trong chiến tranh chống Pháp ở Đông Dương. Lúc này càng có nhiều người nhận thức và lý giải được tính đúng đắn của chuyển hướng chiến lược của quân đội Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:11:32 pm
Thứ sáu : Chỉnh quân chính trị của quân đội nhân dân Việt Nam năm 1953

Hội nghị toàn thể lần thứ 4 Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thông qua “Dự thảo cương lĩnh và chính sách ruộng đất” tháng 1-1953, còn ra quyết định về các vấn đề tình hình chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, nhiệm vụ chiến lược xây dựng bộ đội v.v..., nhấn mạnh cần tăng cường công tác chính trị cho bộ đội, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quân đội, nâng cao trình độ chính trị giác ngộ giai cấp của cán bộ chỉ huy quân đội, bảo đảm chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, tự giác tuân thủ kỷ luật chính trị, quân sự, thực hành dân chủ quân sự, chính trị kinh tế. Để quán triệt tinh thần của hội nghị năm 1953, Tổng Quân uỷ tham khảo tinh thần kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc ra quyết định chỉnh quân chính trị. Mục đích của chỉnh quân chính trị là : “nâng cao một bước giác ngộ giai cấp của bộ đội, làm trong sạch và củng cố tổ chức, nâng cao sức chiến đấu của bộ đội, làm cho bộ đội trở thành một đội ngũ lớn mạnh kiên quyết ủng hộ chính sách giảm tô, giảm tức của Đảng và Chính phủ”. Nội dung học tập chủ yếu là phát động quần chúng thực hành chính sách giảm tô, giảm tức và các vấn đề có liên quan. Phương châm chỉ đạo của chỉnh quân là nghiêm túc thận trọng, lấy giáo dục là chính, tiến hành điều chỉnh cần thiết về tổ chức. Để làm tốt việc chỉnh quân chính trị sâu sắc nghiêm túc chưa từng có lần này, ngày 6/3 Bộ tổng mở lớp học tập chỉnh quân chính trị cho cán bộ trung cao cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lên lớp, giảng về mục đích, ý nghĩa, phương châm của chỉnh quân chính trị, nêu rõ: “dù có bao nhiêu vũ khí tinh nhuệ, nhưng nếu con người (cán bộ, chiến sĩ) không có lập trường kiên định, quan điểm đúng đắn, tư tưởng lành mạnh và tinh thần toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, thì những vũ khí đó đều không có ích gì”. Và nói: “ai cũng có thể tiến bộ, mọi người phải có quyết tâm cải tạo, tự mình phải cải tạo, quyết tâm tranh thủ tiến bộ”. Tháng 7 và tháng 8, cán bộ sơ cấp và chiến sĩ cũng tiến hành rộng khắp học tập chỉnh quân chính trị.

Năm 1953 vùng giải phóng Việt Nam phát động quần chúng nông dân thực hành giảm tô, giảm tức chống Việt gian, chống ác bá, thực chất là một cuộc đấu tranh phong kiến dưới tiền đề chống Pháp, là một cuộc cách mạng làm chấn động cả Việt Nam, cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống và tư tưởng chính trị của cán bộ chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam từ trên xuống dưới đều cho rằng, chỉnh quân chính trị rất kịp thời rất quan trọng cần phải làm tốt. Tiến hành chỉnh quân chính trị là điều cố vấn Trung Quốc mong muốn từ lâu, và nhiều lần kiến nghị với Việt Nam. Sau khi Tổng Quân uỷ QĐND Việt Nam quyết định chỉnh quân chính trị, tất cả cố vấn Trung Quốc trong quân đội Việt Nam đều được động viên, lao vào vông tác giúp quân đội Việt Nam.

Làm tốt cuộc vận động chỉnh quân chính trị, tích cực giúp đỡ quân đội Việt Nam nhận thức đúng đắn và quán triệt quyết định của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phát động quần chúng giảm tô, giảm tức, hỗ trợ các cấp quân đội Việt Nam làm tốt cải tạo tư tưởng, tranh thủ tiến bộ chính trị, thực hiện mục đích chỉnh quân chính trị của Tổng quân uỷ đề ra xứng đáng với lòng mong đợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam.

Qua chỉnh huấn chính trị, đông đảo cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam đã nâng cao giác ngộ chính trị, làm rõ ranh giới giữa lao động và bóc lột, ghi sâu lòng căm thù đối với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phong kiến, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người làm chủ. Các cán bộ chỉ huy xuất thân từ nông dân lao động đã xoá bỏ tư tưởng tự ti, nâng cao lòng tin, tính tích cực chính trị càng lên cao. Cán bộ xuất thân từ giai cấp bóc lột quyết tâm xoá bỏ tư tưởng giai cấp bóc lột, tiến hành tự cải tạo, xây dựng tư tưởng tôn trọng chiến sĩ, trong phong trào giảm tô, giảm tức kiên định đứng về phía nhân dân lao động. Đoàn kết trong nội bộ quân đội, giữa quân đội và nhân dân được nâng lên một mức mới, tăng thêm tình hữu ái và đoàn kết giai cấp, tính tích cực kháng chiến của quân dân Việt Nam và sức chiến đấu của bộ đội Việt Nam được nâng cao rất nhiều. Trên cơ sở giáo dục chỉnh huấn chính trị, tiến hành chỉnh đốn tổ chức, làm cho gần 10.000 cán bộ xuất thân từ công nông được thử thách trong chiến đấu đảm nhiệm các chức vụ quan trọng hơn, cơ quan quân sự, chính trị hậu cần các cấp trong quân đội cũng được bổ sung, lãnh đạo của Đảng các cấp được kiện toàn hơn trước, sức chiến đấu của chi bộ được nâng cao. Thông qua chỉnh quân chính trị, quân đội nhân dân Việt Nam về mặt công tác tư tưởng, chính trị hay mặt xây dựng tổ chức đều có bước nhảy vọt về chất, tinh thần muốn chiến đấu có nhiều cống hiến cho chiến tranh chống Pháp trong cán bộ chỉ huy lên cao hơn bao giờ hết, rất ít thấy tư tưởng hữu khuynh đã từng xuất hiện một dạo vào năm 1951, tư tưởng ngại khó ngại khổ đã từng xuất hiện một dạo vào năm 1952. Những điều đó đã đặt cơ sở chính trị và tổ chức cho các cuộc tấn công chiến lược, quyết chiến chiến lược sau này.

Trên cơ sở chỉnh quân chính trị, tiến hành chỉnh huấn quân sự, tăng cường công tác xây dựng binh chủng và tiếp tế hậu cần và công tác chuẩn bị chiến đấu trên các mặt khác, cung cấp bảo đảm cần thiết cho cuộc tấn công chiến lược, quyết chiến chiến lược.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:12:16 pm
Thứ bảy : Tình hình chiến tranh chống Pháp của Việt Nam xuân năm 1953-1954 ; quân đội Việt Nam tiếp tục quán triệt quyết định chuyển hướng chiến lược, bố trí tấn công chiến lược quy mô lớn

Sau nhiều lần thất bại trong các chiến dịch Hoà Bình, chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Thượng Lào, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương Xa Lăng bị triệu hồi về nước. Ngày 7/5/1953 đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ thoả thuận cử Henri Navarre làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Đế quốc Pháp, Mỹ có ý đồ, bắt đầu từ sáu tháng cuối năm 1953 làm cho thế thất bại của chiến tranh xâm lược chuyển biến từng bước về thế đã vạch ra cái gọi là “Kế hoạch Navarre”. Đối mặt với sự thất bại của quân Pháp lúc bấy giờ, “kế hoạch Navarre” đề xuất “Sẽ không có bất cứ rút lui nào nữa”, điều kiện quân sự của phương thức giải quyết chính trị thể diện là giữ vững trận địa và hoàn thiện những trận địa này”.

Nội dung của “Kế hoạch Navarre” là ra sức phát triển nguỵ quyền, mở rộng nguỵ quân, tập trung chiếm đóng của Pháp, biên chế lại thành đại đoàn cơ động, đến năm 1954 phải xây dựng được 7 đại đoàn cơ động, để năm 1955 quyết chiến với chủ lực quân đội nhân dân Việt Nam ở Bắc Bộ, giành toàn thắng ; xuân năm 1953 – 1954 giữ vững thế phòng ngự chiến lược, tránh quyết chiến ở Bắc Bộ, để tập trung lực lượng tiêu diệt du kích ở Nam Bộ, Trung Bộ Việt Nam, chiếm đóng vùng du kích, căn cứ địa du kích, ổn định hậu phương của quân Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch này được Mỹ ủng hộ. Ngày 24/7/1953, Ủy ban quốc phòng quốc gia Pháp do Tổng thống đứng đầu thông qua “Kế hoạch Navarre”. Để thực hiện kế hoạch này, nước Pháp điều động 12 tiểu đoàn chủ lực từ bản xứ, Bắc Phi, Triều Tiên tăng viện cho quân Pháp ở Đông Dương. Nguỵ quyền Bảo Đại Việt Nam ra lệnh tổng động viên, quyết bắt cho được 10 vạn thanh niên để mở rộng quân nguỵ. Mỹ chi 400 triệu đô la cho xây dựng nguỵ quân Việt Nam, và quyết định tăng thêm 90% viện trợ quân sự cho Pháp từ 650 triệu đô la năm 1953, tăng lên đến 1.264 triệu đô la năm 1954, chiếm 73% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, và cung cấp số lớn trang bị máy bay tàu chiến v.v.. kết quả chấp hành “Kế hoạch Navarre”, từ 5/1953 đến 3/1954 nguỵ quân Việt Nam tăng thêm 95.000 người, thành lập mới 107 tiểu đoàn, bộ đội cơ động của địch có 100 tiểu đoàn lính bộ binh, 10 tiểu đoàn lính dù, tổng binh lực lên 480.000 người, trong đó nguỵ quân khng 330.000 người.

Để thực hiện “Kế hoạch Navarre”, quân xâm lược Pháp ráo riết “càn quét” Nam Bộ, Trung Bộ và vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tập trung số lớn lực lượng phòng bị cảnh giác và một nửa binh lực cơ động, tất cả có 106 tiểu đoàn vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, tấn công điên cuồng vào quân du kích ở Nam Định, Kiến An. Đưa số đông đặc vụ, thổ phỉ thu thập tình báo, tiến hành phá hoại căn cứ địa Việt Bắc. Tháng 7/1953, quân Pháp sử dụng lính dù đánh phá Lạng Sơn. Để tăng cường lực lượng cơ động, tháng 8/1953, quân Pháp ở Nà Sản vận chuyển máy bay đến đồng bằng Bắc Bộ. Quân Pháp tiến hành chuẩn bị quyết chiến với quân đội nhân dân Việt Nam trong khi tạm thời giữ thế phòng ngự.

Từ năm 1952 đến xuân 1953, Việt Nam liên tiếp giành thắng lợi ba chiến dịch Trung ương Đảng Việt Nam quyết định thực hành giảm tô, giảm tức ở căn cứ địa Việt Bắc, quân đội nhân dân quyết định tiến hành chỉnh quân chính trị, ý chí chiến đấu của quân dân tăng lên cao, lực lượng chống Pháp phát triển nhanh chóng, tình hình rất tốt. Ngày 27/7/1953, đế quốc Mỹ buộc phải ký vào hiệp định đình chiến Triều Tiên thế lực xâm lược của chủ nghĩa đế quốc trên quốc tế gặp khó khăn, lực lượng hoà bình phát triển, rất có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam. Trong tình hình đó, tháng 9/1953 Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập hội nghị quân sự, thảo luận vấn đề tác chiến đông xuân 1953-1954. Tại hội nghị có hai loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất: tập trung toàn bộ hoặc phần lớn chủ lực ở đồng bằng, hoạt động tương đối phân tán tranh thủ tiêu diệt một bộ phận quân địch, đợi địch bị tổn thất đến mức nhất định, sau khi vùng giải phóng được củng cố, rồi căn cứ vào tình hình sẽ quyết định lưu bộ đội chủ lực tiếp tục lùng ở đồng bằng hay là điều sang hướng khác. Trên thực tế ý kiến này cho rằng quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ ba Trung ương Đảng Lao động Việt Nam năm 1952 chuyển hướng tấn công chính của bộ đội chủ lực lên Tây Bắc là sai lầm, nên trở về quyết định của hội nghị toàn thể lần thứ hai Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tháng 9/1951 về nhiệm vụ quân sự, là tư tưởng bất mãn với kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, là muốn đi con đường quay đầu lại. Việc đến tháng 9/1953 còn nêu ý kiến này, cho thấy rõ mức độ nghiêm trọng của những trở lực đối với chuyển hướng chiến lược trong cán bộ lãnh đạo Việt Nam, nguyên nhân chủ yếu của nó là vấn đề trình độ chính trị, trình độ quân sự và vấn đề sợ khổ sợ khó, không tin tưởng lắm vào dân tộc thiểu số. Loại ý kiến thứ hai là : chủ lực của địch đang tập trung cao độ ở đồng bằng Bắc Bộ, chiến trường đồng bằng có lợi cho địch, địch đang hy vọng chủ lực ta chạm trán với chúng, chủ lực hướng về đồng bằng chỉ có thể giành được thắng lợi có hạn, không thể thay đổi tình hình chiến sự, còn bị tiêu hao ; Tây Bắc và Lào là vùng chiến lược quan trọng của địch (yếu kém) mà lại không thể từ bỏ, để chủ lực tiếp tục nhằm vào hướng này, có thể buộc lực lượng cơ động của địch ở đồng bằng phân tán phần lớn, thuận tiện cho việc tìm cơ hội tiêu diệt sinh lực địch, trên các chiến trường sau lưng địch tăng cường chiến tranh du kích tạo điều kiện giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.

Chủ lực tiếp tục hướng vào Tây Bắc, Lào, tuy giao thông vận tải khó khăn rất lớn nhưng thực tiễn đã chứng minh có thể giải quyết được. Kết quả thảo luận là Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định chuyển hướng chiến lược là chính xác, phê chuẩn ý kiến thứ hai. Kết luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “không thay đổi phương hướng chiến lược”. Bộ Chính trị thông qua “kế hoạch tác chiến đông xuân 1953-1954”, yêu cầu chiến trường chính sử dụng bộ đội chủ lực mở ba cuộc tấn công lớn. Mục đích tấn công là : (1) tiêu diệt địch đóng ở Lai Châu, giải phóng toàn bộ Tây Bắc, phối hợp với bộ đội kháng chiến Pathet Lào giải phóng Phong Xalì ; (2) phối hợp với bộ đội kháng chiến Pathet Lào và quân giải phóng mặt trận tự do Campuchia, tiêu diệt sinh lực địch ở Trung Lào, Thượng Lào và đông bắc Campuchia, mở rộng vùng giải phóng đến Bắc Sài Gòn, khai thông tuyến giao thông nam bắc Đông Dương ; (3) giành lấy vùng quan trọng chiến lược Tây Nguyên trước tiên giành lấy vùng bắc Tây Nguyên đập tan âm mưu của địch là phá hoại, tiêu diệt chiến tranh du kích ở Nam Bộ, Trung Bộ. Kế hoạch còn quy định đưa một bộ phận chủ lực đi sâu vào sau lưng địch, phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích phát triển chiến tranh du kích sau lưng địch, đập tan kế hoạch “bình định”, thu hẹp vùng địch chiếm đóng, mở rộng vùng giải phóng, phối hợp tác chiến với chiến trường chính.

Để bảo đảm chắc chắn thực hiện kế hoạch tác chiến đông xuân, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, các Tổng cục QĐNDVN còn triệu tập một loạt cuộc họp làm các công tác cụ thể trước khi tấn công, động viên 100.000 dân công, gia cố và mở rộng mạng lưới giao thông để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ vận tải khó khăn nặng nề phục vụ tác chiến miền núi. Chĩa hướng tấn công chiến lược vào Tây Bắc và Lào ; là chủ trương nhất quán và kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Đoàn cố vấn Trung Quốc. Toàn thể cán bộ của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc nhất trí ủng hộ kết luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì không thay đổi “phương hướng chiến lược”, và dốc sức hỗ trợ Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam vạch kế hoạch tác chiến tổ chức thực thi những kế hoạch đó trong điều kiện cực kỳ gian khổ.

Chủ lực Việt Nam tiến công Tây Bắc Việt Nam và Lào, chiến dịch Tây Bắc bắt đầu từ tháng 10/1952, phải nói là một chiến dịch tiến công mang tính chiến lược, bởi vì nơi tấn công đối với hai bên Pháp, Việt mà nói đều là vùng chiến lược quan trọng, quân đội Việt Nam giành được những nơi này từ trong tay Pháp tức là tính chiến lược của quân đội Việt Nam được phát triển, tính chiến lược của quân Pháp là rút lui. Căn cứ theo tình thế và ý đồ của hai bên Việt – Pháp lúc bấy giờ để so sánh thì càng thấy là kế hoạch tác chiến Đông xuân 1953-1954 kế hoạch tấn công chiến lược của quân đội Việt Nam. Trong cán bộ lãnh đạo phía Việt Nam có người không đồng ý chủ lực quân đội Việt Nam nhằm vào Tây Bắc, còn người đồng ý cũng nhận thức rất không đầy đủ ý nghĩa chiến lược quan trọng của việc giải phóng Tây Bắc Việt Nam, Lào, cho nên lúc đó không muốn gọi những chiến dịch này là chiến dịch tấn công chiến lược. Qua đó có thể thấy được việc thực hành chuyển hướng chiến lược cực kỳ quan trọng này trong cán bộ lãnh đạo quân đội Việt Nam lúc bấy giờ gian nan biết chừng nào. Sự thực là theo tình hình của hai bên Pháp – Việt lúc đó, chiến dịch tấn công chiến lược này của quân đội Việt Nam đang tạo điều kiện có lợi cho quyết chiến chiến lược.

Mùa đông năm 1953, khi phía Việt Nam sắp bắt đầu chiến dịch tấn công thì trên quốc tế chuẩn bị triệu tập hội nghị Genève giải quyết vấn đề sau đình chiến ở Triều Tiên. Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai kiến nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cuộc tấn công ngoại giao, tranh thủ thúc đẩy triệu tập một hội nghị giải quyết vấn đề Việt Nam tại hội nghị Genève. Tháng 11/1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tuyên bố, nêu rõ : “Nếu Chính phủ Pháp rút bài học trong chiến tranh Việt Nam mấy năm qua, vui lòng thông qua hiệp thương để thực hiện đình chiến ở Việt Nam và giải quyết vấn đề Việt Nam bằng phương thức hoà bình. Nếu như vậy, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và nhân dân vui lòng chấp nhận ý đồ đó. Cơ sở của đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp chân thành tôn trọng độc lập thật sự của Việt Nam”. Ngoài ra còn đưa ra đề nghị triệu tập một hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Việt Nam. Đồng thời, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra thông tri trong Đảng, trong quân đội, nêu rõ : “Tuyệt đối không nên có ảo tưởng hoà bình sẽ đến rất nhanh và dễ dàng. Chúng ta phải tăng cường kháng chiến, tiêu diệt càng nhiều sinh lực địch, chỉ có như vậy địch mới chấp nhận đàm phán giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam, tôn trọng tự do, chủ quyền độc lập của nhân dân ta”. Theo bố tri chính trị này, ý nghĩa chính trị của cuộc tấn công chiến lược đông xuân của quân đội Việt Nam càng to lớn hơn, càng mang tính chất tạo điều kiện có lợi cho quyết chiến chiến lược. Tình hình thực tế sau này đúng là đã phát triển như vậy.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:12:56 pm
Thứ tám : Tiến công chiến lược của quân đội Việt Nam đông xuân 1953-1954, sự chống cự liều chết của quân Pháp, từng bước hình thành tình thế quyết chiến chiến lược

Theo kế hoạch tấn công đã định, trung tuần tháng 11/1953 quân đội Việt Nam bắt đầu tiến lên Tây Bắc Việt Nam tác chiến đã định. Sau khi biết quân đội Việt Nam hành động, cảm thấy sâu sắc đang đứng trước nguy cơ mất quyền chủ động về chiến lược, ngày 20/11, quân Pháp một mặt do tướng Guth dẫn sáu tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, một mặt điều binh đoàn cơ động số 2 và hai tiểu đoàn cơ động từ Trung Bộ tăng viện cho Trung Lào. Ngày 25/11, lại đưa 6 tiểu đoàn chiếm đóng Mường Khê, Mường Khay ở Thượng Lào, xây dựng phòng tuyến nam Ô Giang nối liền Thượng Lào và Điện Biên Phủ. Như vậy bố trí sơ bộ của hai bên Việt – Pháp trong việc giành lấy vùng chiến lược quan trọng Tây Bắc Việt Nam, Thượng Lào, Trung Lào đã hình thành. Bố trí của quân Pháp, coi Điện Biên Phủ là “ngã tư chiến lược quan trọng” là “căn cứ không quân và lục quân quan trọng” duy trì chiến tranh xâm lược. Ngày 3/12, Tổng chỉ huy quân Pháp Navarre quyết định “không tiếc bất cứ giá nào giữ vững cứ điểm này” tuyên bố phải “nghiền nát” bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam tại Điện Biên Phủ, vì thế đã nhanh chóng điều động cho Điện Biên Phủ, bày sẵn tư thế liều chết chống lại quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.

Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thảo luận đúng lúc tình hình quân sự, nghiên cứu phê chuẩn quyết tâm và kế hoạch tác chiến của Tổng quân uỷ Việt Nam do Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Việt Nam vạch ra, quyết định tiếp tục chấp hành kế hoạch trước đây, giải phóng Lai Châu, Phong Xalì và Trung Lào, đồng thời quyết định tiếp theo đó “mở chiến dịch Điện Biên Phủ”, cho rằng Điện Biên Phủ là cụm cứ điểm lớn mạnh, nhưng có nhược điểm chí mạng, trơ trọi một mình, tất cả đều phải dựa vào không vận chi viện, cung cấp. Để bảo đảm chiến dịch Điện Biên Phủ tiến hành thuận lợi, Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng chỉ huy, Chính phủ Việt Nam thành lập Ủy ban cung cấp tiền tuyến Trung ương do Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch, các nơi cũng thành lập Ban cung cấp tiền tuyến địa phương, Tổng quân uỷ cử Trần Đăng Ninh phụ trách giải quyết toàn diện vấn đề đường sá và cung cấp hậu cần cho tiền tuyến Điện Biên Phủ. Đồng thời quyết định điều động hàng loạt dân quân bảo đảm nhu cầu cấp bách sửa chữa đường sá lên Điện Biên Phủ.

Căn cứ theo kế hoạch tác chiến được Bộ Chính trị phê chuẩn, Đảng uỷ mặt trận một mặt gấp rút chuẩn bị tác chiến Điện Biên Phủ, một mặt ra lệnh cho các bộ đội triển khai tiến công theo kế hoạch đã định, ra lệnh cho đại đoàn 312, sư 316 tiến thẳng lên Tây Bắc. Ngày 7/12, bọn địch ở Lai Châu tháo chạy về phía nam, bị đại đoàn 316 tiêu diệt một bộ phận ở giữa Lai Châu – Điện Biên Phủ, Lai Châu được giải phóng nhanh chóng. Các đại đoàn 308, 351 được lệnh tiến gấp lên Điện Biên Phủ, tăng cường binh lực của quân đội Việt Nam bao vây Điện Biên Phủ. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và Trần Quý Hai được lệnh tăng cường chỉ huy bộ đội Trung, Thượng Lào, trung đoàn 101 của dại đoàn 325, trung đoàn 66 của đại đoàn 304 tiến công Trung, Hạ Lào cùng quân giải phóng Pathet Là tổ thành liên quân Việt – Lào, đánh rất tốt, tiêu diệt nhiều quân xâm lược Pháp, đến 25/12 tiến sát sông Mekong giải phóng thị trấn Thakhek Trung Lào và vùng đông Savanakhet, đại bộ phận vùng Trung Lào có giá trị chiến lược được giải phóng, quân Pháp không thể không điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ tăng viện cho Seno và Savanakhet cứ điểm còn lại ở Trung Lào. Quân đội Việt Nam theo kế hoạch tác chiến đã định, cho tiểu đoàn 436 trung đoàn 101 tiến xuống Hạ Lào, hành quân cấp tốc hơn 300km trong điều kiện hết sức khó khăn ngày 31/1/1954 bất ngờ tấn công Attopeu thị trấn quan trọng tại Hạ Lào, tiêu diệt hơn một tiểu đoàn và thừa thắng phát triển sang Saravane cơ bản giải phóng cao nguyên Bôlôven có giá trị chiến lược quan trọng. Tiếp đó chủ lực trung đoàn 101 tiến xuống phía nam vùng Đông bắc Campuchia, phối hợp với bộ đội mặt trận tự do Campuchia giải phóng Veunsai, Siembang, hình thành sự đe doạ đối với tỉnh lỵ StungTreng, đồng thời bộ đội Mặt trận tự do vùng đông Campuchia tăng cường hoạt động, giải phóng phần lớn tỉnh Kampong Cham. Đến đây, căn cứ địa vùng đông, Đông bắc Campuchia liền một dải với vùng giải phóng Hạ Lào, Trung Lào, về cơ bản đã thực hiện kế hoạch khai thông tuyến giao thống chiến lược Nam bắc Đông Dương đã định. Quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội Mặt trận tự do Campuchia với binh lực có hạn, trong thời gian rất ngắn đã giải phóng một vùng rộng lớn có ý nghĩa chiến lược quan trọng Trung Lào, Hạ Lào, đông bắc Campuchia, tiêu diệt nhiều địch, phân tán lực lượng cơ động của quân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục phát triển tấn công chiến lược, quyết chiến Điện Biên Phủ.

Ngày 27/1/1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ liên khu 5 do Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyên Chánh làm Bí thư và dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Liên khu 5, trung đoàn 108, trung đoàn 803 chủ lực liên khu 5 quân đội Việt Nam kiên quyết chấp hành kế hoạch tác chiến đã định, mở cuộc tấn công vào vùng Tây Nguyên có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Bộ đội truy diệt địch trong vùng rừng rậm hơn 300km, áp sát thành phố KonTum tấn công thị xã Plâycu, ngày 5/2 giải phóng thị xã KonTum, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở bắc Tây Nguyên và tiếp tục tiến xuống phía nam áp sát quốc lộ 19 buộc quân Pháp không thể không huy động lực lượng cơ động tăng viện cho một số cứ điểm ở Playcu và nam Tây Nguyên. Điều này đã làm phân tán hơn nữa lực lượng cơ động của địch, tạo điều kiện rất có lợi cho quyết chiến Điện Biên Phủ.

Đến đây sáu con đường đông tây Việt Nam sang Lào, Campuchia đường 9, 7, 8, 12, 9, 19 v.v... đều do Việt Nam khống chế, tuyến giao thông chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương hầu như bị cắt đứt toàn bộ. Trong tình hình có lợi, để cô lập quân địch ở Điện Biên Phủ theo kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, đại đoàn 308 chuẩn bị tấn công Điện Biên Phủ được lệnh tiến công phòng tuyến Nam Ô Giang của quân Pháp ở Thượng Lào. Đại đoàn 308 khắc phục khó khăn rất lớn hành quân cấp tốc hơn 200km, sau ngày 31/1 và 3/2, lần lượt tiêu diệt mười mấy đại đội ở Mường Khay, Mường Khè, Na Ngầm (Ngum), phá huỷ phòng tuyến nam Ô Giang của địch, tiến đến bờ sông Mekong, cách Luong Prabang 15km, cắt đứt đường liên lạc chiến lược giữa Thượng Lào và Điện Biên Phủ buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng cơ động tăng viện Luông Prabang. Đồng thời liên quân Việt Lào phát triển lên phía bắc, giải phóng toàn tỉnh Phong Xalì.

Trong thời gian tác chiến Đông xuân, đại đoàn 320 và bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích trên các chiến trường cũng theo kế hoạch, nhiệm vụ đã định, triển khai tác chiến tích cực sau lưng địch, đánh địch, phát triển chiến tranh du kích, kiềm chế, phân tán lực lượng của địch, phối hợp mạnh mẽ với tấn công của chiến trường chính. Như vậy, quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội Mặt trận tự do Campuchia trải qua hai tháng tác chiến anh dũng, gian khổ đã đập tan hoàn toàn âm mưu ý đồ của quân Pháp ngăn chặn cuộc tấn công chiến lược của quân đội Việt Nam đập tan mộng tưởng của “Kế hoạch Navarre” sẽ không có bất cứ rút lui nào nữa, tiêu diệt số lớn quân địch, giành lại hầu hết các vùng trọng điểm chiến lược cao nguyên Đông Dương, làm cho bố cục chiến lược của quân Pháp ở Đông Dương tản mác manh mún, tạo điều kiện có lợi cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

Thắng lợi của tác chiến tiến công chiến lược đã thuyết minh sự đúng đắn của chuyển hướng chiến lược của quân đội Việt Nam và chứng minh ý nghĩa trọng đại của nó.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:14:07 pm
Thứ chín : Chiến dịch Điện Biên Phủ của quân đội Việt Nam tiến hành mùa xuân 1954, là trận quyết chiến chiến lược của hai quân đội Việt – Pháp, quân đội Việt Nam giành được thắng lợi quyết chiến

Sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ ngày 20/11/1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, gia tăng công sự, tích trữ vũ khí, đạn dược và các loại vật tư, đến 3/1954, quân Pháp đã có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội ở Điện Biên Phủ. Về sau trong quá trình chiến dịch quân Pháp lại tăng viện 5 tiểu đoàn tất cả có đến 17 tiểu đoàn bộ binh, lính dù, phần lớn là bộ đội tinh nhuệ. Hầu như toàn bộ lính nhảy dù của quân Pháp ở Đông Dương đều ở đây, còn có các bộ đội pháo binh, bộ đội công binh, bộ đội xe tăng, phân đội súng phun lửa và đội máy bay trực chiến (14 chiếc), tổng binh lực khng hơn 16.000 người. Cấu trúc công sự của quân Pháp ở Điện Biên Phủ khá kiên cố, chia làm 8 cụm cứ điểm, ba phân khu phòng ngự. Vùng trung tâm Mường Thanh là phân khu phòng ngự trung tâm (bao gồm các điểm cao trong khng 1,500 km phía đông Mường Thanh), hai phần ba lực lượng của địch tập trung ở đây, cơ quan chỉ huy trận địa pháo binh, kho bãi hậu cần, sân bay chính cũng đều ở đây. Đồi Độc Lập cách Mường Thanh khng 4km về phía bắc cụm cứ điểm Bản Kéo, cách khng 2,500km chếch về phía tây bắc là phân khu phòng ngự phía bắc, cụm cứ điểm Him Lam cách mường Thanh 2,500km về phía đông (thuộc phân khu trung tâm Mường Thanh) tạo nên bình phong phía bắc Điện Biên Phủ. Vùng Hồng Cúm cách Mường Thanh khng 5km về phía nam là phân khu phòng ngự phía nam, không có sân bay và trận địa pháo binh, chịu trách nhiệm ngăn chặn quân đội Việt Nam tiến công từ phía nam. Quân Pháp dựa vào binh lực 16.000 người, hoả lực tương đối mạnh và thiết bị phòng ngự phụ khá dày đặc, xây dựng Điện Biên Phủ thành cụm cứ điểm lớn mạnh chưa từng có ở Đông Dương. Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, Tham mưu trưởng hải lục không quân của nước Pháp và Tướng O'Daniel (Mỹ) sau khi đích thân thị sát cụm cứ điểm Điện Biên Phủ nhất trí cho rằng : “một pháo đài bất khả xâm phạm”, “Verdun của Đông Nam Á”, đều ca ngợi quyết tâm của Navarre quyết chiến với quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, đều tin tưởng nhất định có thể đánh bại quân đội Việt Nam, tiêu hao bộ đội chủ lực của quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ.

Binh lực, hoả lực công sự của quân Pháp ở Điện Biên Phủ quả là tương đối mạnh, nhưng cần phải thấy rằng, lúc đó bất kể tình hình chung trên chiến trường Đông Dương hay tình hình chiến trường Điện Biên Phủ, đều có lợi cho quân đội Việt Nam, mà không có lợi cho quân Pháp, quân Pháp ở Điện Biên Phủ có thể bị tiêu diệt, kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai với Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ là hoàn toàn đúng đắn, quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ cũng hoàn toàn đúng đắn. Trước hết, tình hình quốc tế lúc bấy giờ có lợi cho Việt Nam. Tập đoàn đế quốc (kể cả đế quốc Pháp) đứng đầu là đế quốc Mỹ bị thất bại trên chiến trường Triều Tiên đang đi xuống dốc. Kinh tế của đế quốc Pháp lúc bấy giờ rất khó khăn, khó đáp ứng nổi kinh phí đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa của Pháp. Có đến 73% chi phí quân sự của Pháp ở Đông Dương năm 1954 là do Mỹ viện trợ. Cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam là chính nghĩa, được tất cả lực lượng yêu chuộng hoà bình và lực lượng dân chủ trên thế giới ủng hộ, quốc tế đồng thanh lên án hành động xâm lược tàn bạo của Pháp ở Việt Nam ; Pháp rất cô lập ; hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Việt Nam đang chuẩn bị triệu tập đã bức thiết yêu cầu quân đội nhân dân Việt Nam phải đánh một trận thắng lớn thật nhanh, cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Triều Tiên và nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi, có thể chi viện cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam mạnh mẽ hơn.

Thứ hai, quân Pháp trên chiến trường Đông Dương liên tiếp bị thất bại, quân đội Việt Nam thắng lợi dồn dập. Sau khi chuyển hướng chiến lược, quân đội Việt Nam qua mấy cuộc tiến công chiến lược đã khống chế phần lớn cao nguyên và tuyến giao thông có giá trị chiến lược, bố trí phòng ngự của quân Pháp đã bắt đầu manh mún, tản mác, quyền chủ động chiến lược trên chiến trường toàn Đông Dương đã từng bước rơi vào tay quân đội Việt Nam. Sau khi vùng giải phóng Việt Nam phát động quần chúng tiến hành giảm tô, giảm tức, quân đội Việt Nam trải qua chỉnh quân chính trị, chỉnh huấn quân sự, chỉnh đốn tổ chức và rèn luyện tiến quân lên Tây Bắc, Lào, nhiệt tình và sức chiến đấu chống Pháp lên cao và tăng cường chưa từng có. Những điều đó đã tạo điều kiện cơ bản cho quân đội Việt Nam quyết chiến với quân Pháp. Còn quân Pháp do chấp hành “kế hoạch Navarre” điên cuồng bắt lính, cướp bóc lương thực, đã rơi sâu vào trong vòng vây của nhân dân Việt Nam ; trước tấn công quy mô lớn của quân đội Việt Nam, số lớn bộ đội cơ động phân tán, càng lộ rõ thiếu binh lực, chuẩn bị quyết chiến với quân đội Việt Nam rất không đầy đủ.

Thứ ba, đối với bản thân chiến dịch Điện Biên Phủ mà nói, ưu thế cũng ở phía Việt Nam. Để ngăn chặn, phá hoại tiến công chiến lược quả quân đội Việt Nam lên Tây Bắc Việt Nam, Lào, quân Pháp không thể không tập kết nhiều binh lính ở Điện Biên Phủ, liều mạng với quân đội Việt Nam, tiến hành quyết chiến. Hai bên quyết chiến ở Điện Biên Phủ đều cách xa hậu phương của mình, nhưng trong giải quyết vấn đề giao thông cung cấp, tình hình của quân đội Việt Nam tốt hơn nhiều quân Pháp. Quân Pháp chỉ dựa vào vận tải đường không, bị hạn chế mọi mặt rất lớn. Quân đội Việt Nam có thể dựa vào ôtô, xe đạp để vận tải, ngựa thồ, mang vác v.v.. cung cấp nhu cầu cho tiền tuyến. Lúc bấy giờ tàu hỏa trong nội địa Quảng Tây đã thông đến Bằng Tường biên giới Mục Nam quan chở vũ khí, đạn dược trang bị, vật tư sang Việt Nam, chi viện cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc còn cứ không ít công nhân sửa đường hỗ trợ nhân dân các dân tộc Việt Nam sửa chữa đường sá, bảo đảm cho ôtô vận tải đến tận tiền tuyến Điện Biên Phủ. Lúc bấy giờ phần lớn ôtô của Trung Quốc đều mua của Liên Xô. Chính phủ Trung Quốc đem một số lượng khá lớn ôtô, chi viện vô giá cho quyết chiến Điện Biên Phủ của Việt Nam.

Vì vậy quân đội Việt Nam ở thế có lợi hơn quân Pháp trên vấn đề nan giải là vận tải cung cấp. Quân Pháp không thể lấy được bất cứ thứ gì ở Điện Biên Phủ ngoài một số vật tư được vận chuyển bằng máy bay; quân đội Việt Nam còn có thể được các dân tộc thiểu số địa phương ra sức chi viện ngoài dựa vào hậu phương vận tải, có một số người trong quân đội Việt Nam không tin tưởng lắm quần chúng dân tộc thiểu số, nhưng tính tích cực của quần chúng dân tộc thiểu số đối với chiến tranh chống Pháp trên thực tế không kém quần chúng dân tộc Kinh. Lương thực dùng cho bộ đội dân công tiền tuyến Điện Biên Phủ là một việc chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong nhiệm vụ vận tải cung cấp, ngoài lương thực của Trung Quốc cung cấp, lương thực của Việt Nam chuẩn bị khoảng 27.400 tấn, trong đó quần chúng dân tộc thiểu số đóng góp hơn 7.300 tấn, khoảng 1/4 lương thực của Việt Nam chuẩn bị. Điều đó giảm nhẹ rất nhiều việc chuẩn bị lương thực cho quân đội và nhiệm vụ vận tải. Ngoài ra, nói về địa hình, Điện Biên Phủ là một lòng chảo nhỏ của vùng Tây Bắc Việt Nam sát với biên giới Lào, nam bắc dài khoảng 17km, đông tây rộng khoảng sáu bảy km, chung quanh là gò đồi, đất núi, có lợi cho quân đội Việt Nam tác chiến, so sánh tình thế (quân Pháp hoàn toàn bị quân đội Việt Nam bao vây), binh lực hoả lực của hai bên Việt – Pháp ở tiền tuyến Điện Biên Phủ cũng đều có lợi cho quân đội Việt Nam.

Tóm lại, phân tích các mặt tình hình quốc tế, tình hình chiến trường Đông Dương, tình hình tiền tuyến Điện Biên Phủ quyết chiến ở Điện Biên Phủ không có lợi quân Pháp, có lợi cho quân đội Việt Nam, là thời cơ chiến đấu tốt hiếm có của quân đội Việt Nam. Từ nhu cầu của Việt Nam trong đấu tranh chính trị quốc tế lúc bấy giờ mà nói, càng nên kiên quyết đánh trận này. Nhưng lãnh đạo quân đội Việt Nam lúc bấy giờ có người nhận thức đối với những vấn đề đó còn rất không rõ ràng do đó trong quá trình tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ cũng không phải hoàn toàn thuận buồm xuôi gió.

Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai kiến nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm chắc thời cơ có lợi, tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ là để quyết chiến với quân Pháp, làm cho Việt Nam ở vào vị thế có lợi trong đấu tranh chính trị quốc tế. Vì vậy, Chính phủ Trung Quốc ngoài việc dốc sức chi viện ra, còn luôn luôn thông qua Trưởng đoàn cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh kịp thời nêu ra kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam đối với tác chiến của quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ, các cố vấn quân sự Trung Quốc theo ý định của lãnh đạo hai bên Trung – Việt, đã hết sức cùng với cán bộ chỉ huy quân đội Việt Nam, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu, tận tâm tận lực hỗ trợ quân đội Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn quân Pháp ở Điện Biên Phủ.

Để tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, đến khoảng tháng 1/1954 Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh Tổng Quân uỷ đã tập trung ở chiến trường Điện Biên Phủ 4 đại đoàn chủ lực của quân đội Việt Nam, đại đoàn 308 (trung đoàn 36, 88, 102), đại đoàn 312 (trung đoàn 141, 165, 209), đại đoàn 316 (trung đoàn 98, 174, 176), đại đoàn 304 (trung đoàn 9, 57, thiếu trung đoàn 66), tất cả 11 trung đoàn bộ binh, còn có toàn bộ đại đoàn công pháo 351 (24 khẩu pháo 105ly, 20 khẩu pháo 75 ly, 16 khẩu súng cối 120 ly một số khẩu cao xạ pháo, súng máy cao xạ, 1 trung đoàn công binh), quả là quyết tâm lớn chưa từng có.

Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc và Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam vốn định nhanh chóng tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ với phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” và định ngày 25/1 tổng tấn công quân Pháp. Sau đó suy tính tới việc quân Pháp đã chiếm đóng hơn 2 tháng, công sự tương đối kiên cố, chuẩn bị tương đối đầy đủ, nếu đánh nhanh thắng nhanh, trong thời gian ngắn tiêu diệt toàn bộ hơn một vạn mấy nghìn quân Pháp là rất khó khăn, theo kiến nghị của Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng Quân uỷ nghiên cứu lại tình hình Điện Biên Phủ xác định thay đổi phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” thành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước”, và điều chỉnh lại bố trí theo phương châm mới. Phía Trung Quốc, quân uỷ Trung ương bày tỏ đồng ý và đề ra ý kiến cụ thể rõ ràng về vấn đề này 2. Đảng uỷ mặt trận quân đội Việt Nam kiên quyết chấp hành quyết định mới. Thực hành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước”, mỗi lần chiến đấu có thể tập trung binh lực, hỏa lực ưu thế tuyệt đối công kích một vài điểm, có thể từng bước tiêu diệt địch bằng cách bóc vỏ măng tương đối chắc chắn, hoàn toàn nắm vững quyền chủ động chiến hướng, cuối cùng mở tổng công kích tiêu diệt toàn bộ địch. Sự thực sau đó chứng minh thực hành phương châm “đánh chắc thắng chắc” “thúc đẩy từng bước” là đúng đắn.

Sau khi thay đổi phương châm tác chiến, quân đội Việt Nam ngoài tiếp tục tăng cường các công tác chuẩn bị ở tiền tuyến và hậu phương, còn cử đại đoàn 308 tiến về phía tây, đập tan phòng tuyến nam Ô Giang của quân Pháp ở Thượng Lào, cô lập hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ. Sư 308 hoàn thành nhiệm vụ trở lại tiền tuyến Điện Biên Phủ vào nửa sau tháng 2/1954. Thời gian này các sư chủ lực khác ở Điện Biên Phủ không ngừng đánh quân Pháp, đi lùng, quan sát, tiêu hao quân Pháp, bảo đảm các công tác chuẩn bị cho tiền tuyến tiến hành thuận lợi. Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt của quân đội Việt Nam ở mặt trận Điện Biên Phủ đã hoàn tất. Ngày 11/3 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể cán bộ chỉ huy, bộ đội tiền tuyến đã được cổ vũ rất lớn. Ngày 13/3, quân đội Việt Nam mở cuộc tiến công quân Pháp ở Điện Biên Phủ, chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu.

Đợt 1 chiến dịch là tấn công chiếm ba cụm cứ điểm quân Pháp được phòng thủ nghiêm ngặt ở phía bắc Điện Biên Phủ, cụm cứ điểm Him Lam, cụm cứ điểm đồi Độc Lập, cụm cứ điểm Bản Kéo, đe doạ phân khu trung tâm phòng ngự và sân bay của quân Pháp từ mặt bắc, giành lấy trận địa xuất phát tổng công kích từ mặt bắc. Cụm cứ điểm Him Lam ở Đông bắc Điện Biên Phủ, kiểm soát con đường từ hướng Đông bắc theo đường Tuần Giáo đi vào Điện Biên Phủ, có 5 đại đội quân Pháp canh giữ. Đồi Độc Lập ở chính bắc Điện Biên Phủ, dài khng hơn 700 mét, có 5 đại đội quân Pháp và 4 khẩu pháo cối 120mm canh giữ, nhiệm vụ của nó ngoài đề phòng quân đội Việt Nam tấn công Điện Biên Phủ từ hướng bắc, còn phụ trách bảo vệ an toàn sân bay Mường Thanh. Bốn trung đoàn 88, 141, 165, 209 của đại đoàn 308, 312 và một nửa lực lượng của đại đoàn công pháo 351, từ 15h ngày 13/3 đến ngày 17/3, trải qua chiến đấu ác liệt, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở ba cụm cứ điểm và còn đánh lui quân địch không ngừng phản kích, phá huỷ một phần trận địa pháo binh và kho thàng của địch, kiểm soát đồi Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo tạo nên mối đe doạ trực tiếp mặt bắc Mường Thanh của Điện Biên Phủ. Ngày 16/3, quân Pháp lại cho ba tiểu đoàn nhảy dù tăng viện cho Điện Biên Phủ để bù lấp tiêu hao và tổn thất.

Đợt 2 chiến dịch là tiến công cụm cứ điểm quân Pháp ở các điểm cao phía đông Điện Biên Phủ, giành lấy trận địa xuất phát tổng công kích quân địch ở Điện Biên Phủ. Phía dưới các điểm cao phía đông là phân khu phòng ngự trung tâm Mường Thanh – Điện Biên Phủ, cách phân khu trung tâm Mường Thanh và sân bay Mường Thanh nơi xa khng 1500 mét, nơi gần khoảng 500 mét, là dải đất trọng điểm phòng ngự của quân Pháp, có khoảng hơn 4 tiểu đoàn phòng thủ. Quân đội Việt Nam sử dụng đại đoàn 312, 316 vào 17g ngày 30/3 tiến công quân Pháp ở các điểm cao phía đông, đêm hôm đó đánh chiếm 2/3 đồi E đông bắc, đồi D phía đông chếch bắc, đồi C1 phía đông và đồi A1 phía đông chếch nam. Đồi A1 là một điểm cao áp sát phân khu phòng ngự trung tâm Mường Thanh tương đối gần, địa thế khá cao, rất quan trọng đối với quân Pháp phòng thủ Điện Biên Phủ. Rạng sáng ngày 31/3, quân Pháp tổ chức số lớn binh lực dưới sự chi viện của pháo binh, xe tăng phản kích quân đội Việt Nam đánh lên đồi A1. Đến ngày 4/4, hai bên Việt – Pháp trải qua nhiều lần giành giật quyết liệt, giằng co qua lại, mỗi bên chiếm một nửa điểm cao, hình thành trạng thái cầm cự. Ngày 8/4, quân Pháp lại cho nhảy dù một tiểu đoàn xuống Điện Biên Phủ để bổ sung tổn thất. Sáng sớm ngày 9/4 quân Pháp phản kích quân đội Việt Nam đánh chiếm đồi C1. Đồi C1 cách đồi A1 tương đối gần, cũng là một điểm cao quan trọng, hai bên trải qua giành giật nhiều lần suốt bốn ngày đêm, cuối cùng cũng như thế, mỗi bên chiếm một nửa điểm cao, hình thành cầm cự, trải qua hơn 10 ngày chiến đấu ác liệt, ngoài tiêu diệt không ít sinh lực địch, quân đội Việt Nam đã đánh chiếm một số điểm cao quan trọng phía đông Điện Biên Phủ. Đồng thời quân đội Việt Nam cũng có không ít thương vong, bộ đội tiến lên khó khăn khá lớn, thực tế hình thành trạng thái giằng co và cầm cự.



Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:14:21 pm
Căn cứ theo tình hình địch trinh sát được, để phá vỡ trạng thái hai bên cầm cự, quán triệt tốt hơn nữa phương châm “đánh chắc thắng chắc”, quân đội Việt Nam chấp nhận kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, quyết định tăng cường cấu trúc trận địa tiến công, đào công sự xung quanh trận địa địch, không ngừng áp sát địch, chia cắt địch, đánh lấy từng trận địa địch, giành lấy địa vị xuất phát có lợi, mở cuộc tổng công kích địch, đồng thời đào hào vào trận địa chủ yếu đồi A1 của địch khống chế, chuẩn bị phối hợp tác chiến bằng bộc phá đường hào, giành lấy trận địa chủ yếu đó.

Căn cứ quyết định này, quân đội Việt Nam điều chỉnh bố trí lấy trung tâm phòng ngự Mường Thanh của địch làm mục tiêu, dại đoàn 308 phụ trách xây dựng trận địa phía tây, đại đoàn 312 phụ trách xây dựng trận địa phía bắc, đại đoàn 316 phụ trách xây dựng trận địa phía đông, trung đoàn 57 của đại đoàn 304 phụ trách xây dựng trận địa giữa phân khu Hồng Cúm (phân khu nam của quân Pháp) và phân khu trung tâm Mường Thanh. Quân đội Việt Nam chưa có kinh nghiệm về phương pháp xây dựng trận địa tiến công áp sát địch, cố vấn Trung Quốc đi sâu vào các bộ đội tấn công chính ; hỗ trợ chỉ đạo cụ thể. Xây dựng trận địa tiến công đồ sộ là một công trình rất gian khổ, đồng thời còn phải sẵn sàng đánh lui phản kích của địch, đánh lấy trận địa của địch, cũng rất căng thẳng để lâu sẽ xuất hiện tư tưởng sợ vất vả, sợ làm công sự. Qua làm công tác tư tưởng chính trị sâu sắc, khắc phục những tư tưởng đó đã xây dựng được tư tưởng không sợ vất vả, không sợ gian khổ. Kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân đich, quân đội Việt Nam triển khai thi đua đào đắp công sự sôi nổi xung quanh Điện Biên Phủ, quân Pháp quyết chiến với quân đội Việt Nam, liều mình cựa quậy, thường xuyên tiến hành các cuộc phản kích qui mô và quân đội Việt Nam, và cho nhiều máy bay thay nhau bắn phá trận địa của quân đội Việt Nam, có ngày xuất kích hơn 250 lần/chiếc.

Bom napan của địch hầu như thiêu rụi cây cối trên các đỉnh núi phía đông Điện Biên Phủ. Để đối phó với bắn phá của địch, phong tỏa chi viện của địch từ trên không cho quân đóng giữ Điện Biên Phủ, dưới sự giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc, bộ đội pháo cao xạ kịp thời chi viện mạnh mẽ quân đội Việt Nam, khống chế vùng trời Điện Biên Phủ. Để đối phó với phản kích của địch, quân đội Việt Nam chấp nhận kiến nghị của cố vấn Trung Quốc, áp dụng biện pháp chủ động đánh địch triển khai thi đua các tay súng thần, tay pháo thần tiêu diệt địch, đánh cho sĩ quan binh lsinh Pháp co vòi trong trận địa không dám làm liều. Công sự của quân đội Việt Nam ngày càng áp sát địch, không ít trận địa địch bị quân đội Việt Nam đánh chiếm, liên hệ giữa phân khu nam và phân khu trung tâm của địch bị cắt đứt, sân bay Mường Thanh bị khống chế, cuối cùng diện tích địch khống chế ở phân khu trung tâm Mường Thanh chỉ còn khng một cây số vuông. Vào giờ phút quan trọng này để cứu vãn quân Pháp ở Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ đưa hai tàu hàng không mẫu hạm vào vịnh Bắc Bộ để đe doạ, chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đưa ra kế hoạch sử dụng máy bay ném bom chiến lược B-29 ném bom xuống quân đội Việt Nam ở Điện Biên Phủ và bắn tin sẽ sử dụng bom nguyên tử, nhưng do sợ nhân dân thế giới phản đối trên thực tế không dám manh động.

Ngày 26/4/1954, hội nghị Genève có đại biểu của 23 nước Trung Quốc, Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Triều Tiên (kể cả Nam Triều Tiên), Việt Nam (có cả Nam Việt Nam 3), Lào, Campuchia v.v... tham gia khai mạc. Hội nghị chưa đi đến thoả thuận khi thảo luận vấn đề Triều Tiên. Khi thảo luận vấn đề Đông Dương, hội nghị có bất đồng, thái độ của đại biểu Chính phủ Pháp Laniel kiên trì chiến tranh thực dân rất xấu. Để tranh thủ triệu tập hội nghị Genève thảo luận vấn đề Việt Nam có hiệu quả, Trưởng đoàn Đoàn đại biểu Chính phủ Trung Quốc Chu Ân Lai thông qua điện đài vô tuyến thường xuyên tìm hiểu tình hình chiến trường qua Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đang hỗ trợ quân đội Việt Nam tác chiến ở Điện Biên Phủ, cổ vũ hỗ trợ quân đội Việt Nam nhanh chóng tiêu diệt quân Pháp ở Điện Biên Phủ để tranh thủ vị thế chính trị có lợi cho Việt Nam ở hội nghị Genève.

Trước đó ngày 19/4, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã họp thảo luận tình hình chiến trường Điện Biên Phủ cho rằng : “Quân đội Việt Nam đã giành được thắng lợi trong tấn công hai đợt trước, đã tạo điều kiện cơ bản cho tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ”. Nhưng tư tưởng hữu khuynh còn tồn tại nghiêm trọng, gây nên tổn thất hoặc ít hoặc nhiều không cần thiết, ảnh hưởng đến thành quả thắng lợi ở mức độ nào đó. Hội nghị đề xuất chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với tình hình quân sự và chính trị ở Đông Dương, đối với sự trưởng thành của quân đội Việt Nam và đối với việc bảo vệ hoà bình thế giới, nhất là vào lúc hội nghị Geneve sắp triệu tập lại càng như vậy. Hội nghị vạch rõ, cần phải nỗ lực khắc phục tư tưởng hữu khuynh, kiên định lòng tin, tăng cường tinh thần trách nhiệm, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Và quyết định đánh toàn đảng, toàn dân, chính quyền các cấp dốc toàn lực chi viện Điện Biên Phủ, làm tốt mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch toàn thắng.

Đêm 1/5, tiến công đợt 3 chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Chiến đấu đến ngày 3/5, trung đoàn 98 của đại đoàn 316 đã tiêu diệt quân địch khống chế sườn phía tây đồi C1 đông Điện Biên Phủ; trung đoàn 209 đại đoàn 312 phá huỷ hai cứ điểm dưới chân núi bên bờ sông Trắc phía đông Điện Biên Phủ, trung đoàn 88, trung đoàn 36 của đại đoàn 308 lần lượt đánh chiếm 2 cứ điểm phía tây Mường Thanh, cách sở tổng chỉ huy của địch chỉ có 300 mét. Ngày 4/5, địch cho một tiểu đoàn cuối cùng nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và chuẩn bị đêm mồng 7 phá vây chạy trốn sang hướng Lào. 21g ngày 6/5, lấy bộc phá đường hào thông tới trung tâm trận địa địch đồi A1 làm tín hiệu, quân đội Việt Nam mở tổng công kích địch ở Điện Biên Phủ, các sư hiệp lực tấn công địch. Sáng ngày 7/5, quân địch vẫn tổ chức phản kích chiến đấu đến 14g ngày 7, quân Pháp bắt đầu kéo cờ trắng đầu hàng. Sau đó, quân đội Việt Nam vào bên trong đến đến đâu quân Pháp ở đó kéo cờ trắng đến đó. 17g30 ngày 7, Tướng De Castries viên chỉ huy cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ và toàn bộ sĩ quan bộ tham mưu của ông ta bị quân đội Việt Nam bắt làm tù binh, gần 10.000 quân Pháp trong công sự ra đầu hàng. Tối ngày 7, đại đoàn 304 tấn công vào Hồng Cúm hơn 2000 quân Pháp trốn chạy sang Lào, bị tiêu diệt toàn bộ ở dã ngoại. Quyết chiến Điện Biên Phủ trải qua 55 ngày đêm đã kết thúc thắng lợi. “Kế hoạch Navarre” của quân Pháp phá sản hoàn toàn. Không lâu, Chính phủ Laniel của Pháp tuyên bố từ chức.

Sau khi hơn 10.000 quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn, ngày 7/5, ở hội nghị Genève, đoàn đại biểu của Chính phủ Laniel Pháp không thể không co lại, buộc phải đồng ý triệu tập hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương. Ngày 8/5, hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương bắt đầu tiến hành. Đoàn đại biểu Chính phủ Pháp lúc này không chỉ ở vị thế của kẻ xâm lược phi chính nghĩa mà còn ở vị thế bất lợi của kẻ chiến bại. Ngược lại, Đoàn trưởng Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng không chỉ ở vị thế chính nghĩa chống bọn xâm lược, mà còn ở vị thế cực kỳ có lợi giành được chiến thắng to lớn trong chiến tranh. Thế nhưng do đại biểu Mỹ phá hoại và đại biểu chính phủ Laniel Pháp cản trở, hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương chưa thể đi đến hiệp nghị nhanh chóng, cuộc chiến đấu trên chiến trường Đông Dương vẫn tiếp tục.

Được thắng lợi Điện Biên Phủ cổ vũ, quân đội Việt Nam, quân giải phóng Pathet Lào, bộ đội mặt trận tự do Campuchia trên các chiến trường Đông Dương triển khai toàn diện tấn công quân Pháp, tiêu diệt rất nhiều quân Pháp và quân nguỵ, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, trong đó đặc biệt là cuộc chiến đấu của trung đoàn 96 quân đội Việt Nam ngày 24/6 trên quốc lộ 19 An Khê đi Pleiku tiêu diệt 1 trung đoàn bộ binh, và 1 tiểu đoàn pháo binh của binh đoàn cơ động 100 tinh nhuệ của quân Pháp, giáng một đòn nặng nề vào quân Pháp. Tháng 6/1954, Chính phủ Laniel Pháp từ chức, Chính phủ Mendès-France lên thay, buộc phải có thái độ tương đối hiện thực. Hội nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương đàm phán đến ngày 21/7 đạt được hiệp định về khôi phục hoà bình ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu của Hiệp định là đình chỉ hành động đối địch ở ba nước Đông Dương, các nước tham dự hội nghị bảo đảm tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp nội bộ của ba nước, ba nước lần lượt tổ chức bầu cử tự do toàn quốc vào tháng 7/1956. Mỹ kiên trì dã tâm đối với ba nước Đông Dương không chịu ký tên vào hiệp định này, nhưng ra tuyến bố giả vờ Mỹ không sử dụng vũ lực để gây cản trở thực thi hiệp định.

Trước khi ký hiệp định Genève về vấn đề Đông Dương, trước cuộc đấu tranh đe doạ tấn công của nhân dân, quân đội ba nước Đông Dương, quân Pháp rút dần khỏi đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Ngày 10/6 rút khỏi Việt Trì, ngày 28, 29, 30 rút khỏi Thái Bình, Phát Diệm, Bùi Chu, Ninh Bình, ngày 1/7 rút khỏi Nam ĐỊnh, ngày 3/7 rút khỏi Phủ Lý. Đến đây, ngoài tuyến Hà Nội – Hải Phòng – Sơn Tây và vùng chật hẹp dọc hai bên đường, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam do quân đội Việt Nam kiểm soát. Phép biện chứng của chiến tranh là như vậy, năm 1951 quân đội Việt Nam đưa chủ lực nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ, không những không lấy được đồng bằng, mà ngược lại làm cho chiến tranh du kích ở đồng bằng xuất hiện hiện tượng co cụm ; mùa đông năm 1952, bắt đầu đưa chủ lực vào vùng núi, sau 20 tháng, không chỉ khống chế miền núi mà còn nắm cả đồng bằng trong tay. Ngày 21/7/1954, hội nghị Geneve về vấn đề Đông Dương ký kết hiệp định, tuyên bố bế mạc. Ngày 22/7, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ra lệnh chiến trường Việt Nam ngừng bắn, cuộc chiến tranh chống đế quốc Pháp xâm lược bắt đầu từ ngày 23/9/1945 kết thúc thắng lợi. Theo hiệp định quân đội Việt Nam tiến vào Hà Nội, quân Pháp hoàn toàn rút lui. Ngày 1/1/1955, nhân dân Hà Nội mittinh chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh thắng lợi trở về Hà Nội. Ngày 16/5/1955 đại đoàn 320 quân đội Việt Nam tiếp quản Hải Phòng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng.

Theo hiệp định Geneve, bộ đội và quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia tập kết tại miền nam Việt Nam sau khi rút về miền Bắc Việt Nam, đã biên chế thành đại đoàn 330, 338, 305, 324, 335.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Năm, 2009, 07:16:08 pm
Thứ mười : Đã có phương hướng phát triển chiến lược đúng đắn, còn phải có đông đảo quần chúng nhân dân và đông đảo cán bộ chỉ huy dốc sức tham gia chiến đấu, mới có thể giành được thắng lợi

Năm 1951, quân đội Việt Nam chưa chấp nhận kiến nghị đặt hướng phát triển chiến lược nhằm vào Tây Bắc, Lào đặt hướng phát triển chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam có trọng binh quân Pháp đóng giữ, đánh phá cái gọi là phòng tuyến “boongke” của quân Pháp, nhiều lần không đạt được mục đích chiến dịch, không những không thể thay đổi tình hình đồng bằng Bắc Bộ, mà còn hầu như đánh mất quyền chủ động chiến trường Bắc Bộ Việt Nam đã giành được qua chiến dịch biên giới, ngược lại quân Pháp đã chuyển từ thế thủ sang thế công, đánh chiếm vùng Hoà Bình lần nữa. Mùa đông năm 1952 quân đội Việt Nam bắt đầu chấp nhận kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, sử dụng chủ lực vào vùng Tây Bắc Việt Nam có vị thế chiến lược quan trọng, binh lực địch suy yếu, đã giành được thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc mùa đông năm 1952, chiến dịch Thượng Lào mùa xuân 1953, làm cho tình hình chung trên chiến trường Đông Dương bắt đầu có thay đổi, bất lợi cho quân Pháp, có lợi cho quân đội Việt Nam.

Tháng 9/1953, trong cán bộ lãnh đạo Việt Nam, có một số người nêu ra ý kiến khác với hướng chiến lược và tiếp tục nhằm vào Tây Bắc, Lào, nảy sinh dao động lại muốn sử dụng bộ đội chủ lực vào đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Rất may là, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì áp dụng kiến nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, tiếp tục đưa chủ lực nhằm vào Tây Bắc, Lào và giành được thắng lợi rất lớn trong tấn công chiến lược đông xuân 1953-1954, không những làm rối loại bố trí chiến lược của quân Pháp, giành quyền chủ động về chiến lược, mà còn giữ chân quân Pháp ở Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cho quân đội Việt Nam tiến hành quyết chiến chiến lược với quân Pháp.

Thượng tuần tháng 5 năm 1956, tôi theo đồng chí Trần Canh đến xem địa hình hình Điện Biên Phủ, khi ôtô đi qua thượng nguồn sông Nậm Hu phía tây Tuần Giáo một cán bộ cơ sở của quân đội Việt Nam nói với tôi : Con sông này đến mùa mưa, ôtô không thể vượt qua được, khi chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, nếu ngày 10/5 (mùa mưa ở miền Bắc Việt Nam nói chung bắt đầu trước sau trung tuần tháng 5) vẫn không thể giải quyết được chiến đấu, dù cho các đồng chí Trung Quốc nói thế nào chúng tôi cũng không đánh. Liên hệ một số tình hình của phía quân đội Việt Nam vào lúc căng thẳng nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 4/1954, cách nói của vị cán bộ phụ trách là đáng tin. Phương châm đặt phương hướng phát triển chiến lược nhằm vào Tây Bắc, Lào mà Mao Chủ tịch kiến nghị, Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định, dắt dẫn chiến tranh chống Pháp giành được thắng lợi, đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn.

Trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam trên vấn đề quán triệt chuyển hướng chiến lược trọng đại từ 1951 đến 1954, đã trải qua một quá trình quanh co, phức tạp. Mặt khác, hướng chiến lược đúng hay không, rõ ràng là có vai trò quyết định với sự phát triển của tình hình. Nhưng, nếu không có sự phát động đầy đủ và sự ủng hộ tích cực đối với chiến tranh của đông đảo quần chúng nhân dân không có cán bộ chỉ huy có giác ngộ chính trị cao tích cực lao vào cuộc chiến tranh, dù cho hướng chiến lược đúng đắn đến đâu, vẫn không làm được. Thử nghĩ, nếu đầu năm 1953 vẫn không giảm tô, giảm tức, đi sâu phát động quần chúng nông dân, cũng không tiến hành chỉnh quân chính trị, dù cho đã chuyển hướng chiến lược, e rằng cũng khó khắc phục những khó khăn nghiêm trọng khi tiến công lên Tây Bắc, Lào, khó mà kiên trì lâu dài trên chiến trường tàn khốc quyết chiến Điện Biên Phủ. Đi sâu phát động quần chúng, được đông đảo quần chúng nhân dân hết lòng ủng hộ, đi sâu chỉnh quân chính trị nâng cao giác ngộ chính trị của đông đảo cán bộ chỉ huy và tăng cường tinh thần anh dũng tác chiến là bảo đảm căn bản cho sự quán triệt chấp hành phương hướng phát triển chiến lược đúng đắn.

Trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tiến hành viện trợ to lớn cho Việt Nam, đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự viện trợ vẻ vang, vô tư đó sẽ mãi mãi ghi vào sử sách phong trào cộng sản quốc tế.


1 Không thích hợp - altus.

2 Đoạn này là một điển hình về sự “viết lại lịch sử” của phía Trung Quốc. Sự thật, trứoc khi đại tướng Võ Nguyên Giáp và Vi Quốc Thanh tới chiến trường, Bộ tham mưu chiến dịch nghe lời cố vấn Mai Gia Sinh, đã lên kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh”, kéo pháo “vào” để bắn thẳng xuống tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và dùng chiến thuật “biển người” (cách đánh cố hữu của quân đội Trung Quốc ở Triều Tiên (sẽ được tái bản và thất bại năm 1979 ở biên giới phía bắc). Quyết định thay đổi kế hoạch, chuyển sang “đánh chắc thắng chắc” và kéo pháo “ra” là quyết định cá nhân ngày 25.1.1954 tướng Giáp. Lúc đó, việc liên lạc giữa Bộ chỉ huy ở Điện Biên Phủ với Bộ chính trị ở Việt Bắc không dùng vô tuyến điện, mà dùng ngựa, nên đi về phải nhiều ngày. Tướng Giáp đã lấy trách nhiệm của vị “tướng ngoài mặt trận” và ông đã tranh thủ được sự đồng tình của Vi Quốc Thanh. Họ Vi gửi điện về Bắc Kinh xin ý kiến Mao Trạch Đông. Tại cuộc hội thảo kỉ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ họp tại Bắc Kinh tháng 6.2004 (sau khoá họp ở Paris và Hà Nội), các nhà sử học Trung Quốc đã phải thừa nhận rằng bức điện chuẩn y của Mao, mãi đến ngày 27.1.1954, Vi Quốc Thanh mới nhận được, tức là 2 ngày sau khi đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh đổi kế hoạch. Như vậy, cách trình bày của tác giả hoàn toàn sai lệch, đổi trắng thay đen để đề cao vai trò của đoàn cố vấn Trung Quốc.

3 Ý nói chính quyền bù nhìn Bảo Đại (Quốc gia Việt Nam). Những cụm từ “miền Bắc Việt Nam”, “miền Nam Việt Nam” chỉ xuất hiện sau ngày ký kết Hiệp định Genève (20.7.1954)



Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:01:53 am
GHI LẠI CHẶNG ĐƯỜNG THAM GIA ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ SANG VIỆT NAM
Độc Kim Ba

I. Chỉ thị của các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc

Hạ tuần tháng 4 năm 1950, tôi đang làm Trung đoàn trưởng trung đoàn pháo binh tại quân đoàn 32, vừa từ Thanh Đảo chuyển về Kiến Âu, Phúc Kiến, chuẩn bị tham gia chiến dịch giải phóng Kim Môn, Đài Loan. Thượng tuần tháng 5, bỗng nhận được lệnh bất ngờ, bổ nhiệm tôi làm cố vấn pháo binh tham gia Đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam và lập tức có mặt tại Bộ tư lệnh quân khu Hoa Đông, Nam Kinh. Trung tuần tháng 5, tôi đến Nam Kinh, sau khi báo cáo có mặt, tôi được giới thiệu với đồng chí Mai Gia Sinh tham mưu trưởng đoàn cố vấn. Đồng chí cho tôi biết Ban chỉ huy đoàn cố vấn do quân khu Hoa Đông thành lập, đoàn trưởng Đoàn cố vấn là đồng chí Vi Quốc Thanh, Chủ nhiệm Ban chính trị là đồng chí Đặng Dật Phàm, và giới thiệu đại để tình hình biên chế, tổ chức của đoàn cố vấn. Cuối cùng đồng chí bảo tôi chỗ sau khi mọi người đến đầy đủ, có thể đi Bắc Kinh nhận nhiệm vụ. Khoảng 20/6 Tham mưu trưởng Mai Gia Sinh, Chủ nhiệm Đặng Dật Phầm dẫn đầu cán bộ trung đoàn trở lên trong đoàn cố vấn đi Bắc Kinh. Lúc đó Phó tư lệnh quân khu Hoa Đông Túc Dụ cũng đi Bắc Kinh, chúng tôi cũng ngồi xe riêng của đồng chí. Sau khi đến Bắc Kinh ở khách sạn Hương Thôn cũng là chiêu đãi sở của quân ủy Trung ương. Lúc đó đoàn trưởng Vi Quốc Thanh cũng ở trên một lầu nhỏ trong khách sạn này.

Sau khi chúng tôi gặp Vi Quốc Thanh, đồng chí dặn chúng tôi không nên đi ra ngoài chờ thủ trưởng Trung ương tiếp kiến. Nhưng lúc đó, tình hình chiến tranh Triều Tiên căng thẳng, các đồng chí lãnh đạo Trung ương rất bận, buổi tiếp tạm thời hoãn lại. Chiêu đãi sở tổ chức cho chúng tôi đi xem thành phố Bắc Kinh. Ngày 25/6, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, buổi tiếp lại hoãn. Tuyệt đại đa số chúng tôi lần đầu tiên đến Bắc Kinh, nhân dịp này đều muốn xem một lượt các phố chính, danh lam thắng cảnh của Bắc Kinh. Ở chiêu đãi sở, chúng tôi được báo bốn vị lãnh đạo Trung ương : Mao Chủ tịch, Phó chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai, Tổng tư lệnh Chu Đức cùng tiếp chúng tôi long trọng, mọi người không ai đoán trước nên phấn khởi lạ thường.

Sáng 27/6, Đoàn cố vấn đi công tác ở Việt Nam gần 40 người kể cả nhân viên cơ yếu lên hai xe khách đến Phong Trạch viên, Trung Nam Hải vào một căn phòng rất rộng rãi, tấm biển trên cửa đề chữ “Di niên đường”. Đây là một kiến trúc kiểu cũ, các cửa đều chạm hoa, trong phòng trống trơn, không có thảm, cũng không có salông, cũng không bầy sẵn trà, thuốc, không bày biện thứ gì cả. Ở góc đông bắc phòng đặt hai chiếc bàn, mấy chục chiếc ghế tựa và ghế đẩu quanh hai chiếc bàn làm thành nửa vòng tròn. Trên tường bốn phía xung quanh treo nhiều bức hoạ cung đình nhà Thanh, rất cổ kính. Trong một ngôi nhà có mấy nam nhân viên phục vụ.

Một số chúng tôi xem các bức hoạ trong phòng chở thủ trưởng đến. Chưa đầy 20 phút, nhân viên công tác nói Thủ trưởng đến rồi. Chúng tôi vội vàng về chỗ đứng. Tổng tư lệnh Chu Đức vào trước, theo sau là Phó chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ và đồng chí Vương Quang Mỹ cũng bước vào mọi người vỗ tay chào mừng. Lần đầu tiên tôi được gặp Lưu phó chủ tịch, còn Chu Tổng tư lệnh thì tôi đã gặp nhiều lần trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, đồng chí không thay đổi mấy. Các đồng chí xem ra rất mạnh khoẻ, chào mọi người và sau khi hàn huyên mấy câu với các thủ trưởng Vi, Mai, Đặng liền mời mọi người ngồi xuống, các đồng chí cùng ngồi bên hai bàn. Đồng chí Vương Quang Mỹ đứng bên Lưu Phó chủ tịch.

Tiếp đó Lưu Phó chủ tịch đứng dậy nói : “ Hôm nay mời các đồng chí đến đây là để bàn vấn đề các đồng chí đi công tác ở Việt Nam. Lẽ ra Mao Chủ tịch, Chu Thủ tướng cùng tiếp các đồng chí, nhưng Triều Tiên đã đánh nhau rồi, các đồng chí đều đã xem báo, tình hình rất căng thẳng. Sợ bọn đế quốc nhúng tay vào điều này quan hệ đến vận mệnh của Triều Tiên, cũng quan hệ đến an ninh của đất nước chúng ta, cho nên Trung ương rất quan tâm đến tình hình, rất bận. Mấy hôm nay Chủ tịch rất vất vả, làm việc ban đêm, ban ngày nghỉ, bây giờ chủ tịch đang nghỉ, chúng tôi không đánh thức Chủ tịch. Chu Thủ tướng đang bận họp, cũng không thể đến được, chỉ có hai chúng tôi trao đổi với mọi người ! Nói thế nào đây nhỉ, toạ đàm vậy ! Hay là các đồng chí nói trước có vấn đề gì, có quan điểm gì không ? ”

Lưu Phó chủ tịch tỏ ý mời mọi người phát biểu, nhưng trong phòng im phăng phắc, không ai nói gì. Sau một lát, Lưu Phó chủ tịch nói “ Tổng tư lệnh, thế đồng chí nói trước đi ”. Chu Tổng tư lệnh nói : “ Phó chủ tịch nói trước đi ! ”.

Vì thế Lưu Phó chủ tịch đi thẳng vào vấn đề nói “ Nghe nói có đồng chí không muốn sang Việt Nam công tác, nguyên nhân gì vậy Có thể nêu ra trao đổi được không. Có gì thì nói thẳng. Nếu lý do chính đáng có thể xem xét không đi. Đồng chí nào đó nói đi ”. Nhìn thấy không có ai nói gì, ngừng một lát, Lưu Phó chủ tịch nói : “ Không có ai nói thì tôi nói. Lần này các đồng chí sang Việt Nam công tác là một việc lớn là chấp hành một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Trung ương đưa ra quyết định này là có lý do quan trọng, là đi giúp người ta giải phóng. Các đồng chí đến đó, phải giúp Việt Nam xây dựng quân đội chính quy, tiến hành tác chiến chính quy, và nhất định phải tổ chức đánh thắng trận, nhiệm vụ lớn lao ! Vì vậy các đồng chí đi hay không là vấn đề nguyên tắc, là vấn đề lập trường của người Cộng sản”.

Lưu Phó chủ tịch nói, mọi người đều là đảng viên cả. Người cộng sản nhìn nhận vấn đề này như thế nào. Chúng ta đã giải phóng, trên thực tế điều này, phải suy nghĩ sâu sắc, Đài Loan vẫn chưa giải phóng. Rất nhiều đảo, chưa được giải phóng. Trên đại lục còn có thế lực tàn dư và kẻ thù ẩn náu, nhiệm vụ của chúng ta còn rất nặng nề. Mao Chủ tịch nói, đó chỉ là bước đầu tiên trong cuộc vạn lý trường chinh, các đồng chí hiểu như thế nào Chúng ta đã giải phóng đại lục, Tưởng Giới Thạch liệu có cam chịu không  ? Chủ nghĩa đế quốc đặc biệt là đế quốc Mỹ có cam chịu không ? Đài Loan còn mấy chục vạn quân đội lại đang chiếm một số đảo ven biển, chuẩn bị làm gì ? Chẳng phải là âm mưu phản công đại lục hay sao ? Chúng ta thấm nhuần bài học lịch sử, các đồng chí đã đi xem Cố cung chưa ? Lý Tự Thành chẳng phải đã chiếm Bắc Kinh tiến vào Cố cung rồi sao ? Kết quả thế nào ? Bộ đội của Lý Tự Thành kiêu ngạo, tưởng rằng việc lớn đã xong, không ngờ một bộ phận thế lực còn lại của triều Minh liên hệ với tộc Mãn tiến vào cửa quan, chưa được mấy ngày là mất. Hiện nay đằng sau Tưởng Giới Thạch có đế quốc Mỹ rất lớn mạnh, nếu câu kết lại phản công đại lục nguy hiểm đó chẳng phải rõ ràng sao ! Người cộng sản có thể xem thường được sao ? Nếu Triều Tiên, Việt Nam bị đế quốc chiếm đóng hình thành sự bao vây đối với chúng ta ở phía Đông, phía Nam của chúng ta liệu chúng ta có an toàn không ? Đó là điều đầu tiên muốn các đồng chí suy nghĩ kỹ.

Người cộng sản là người quốc tế chủ nghĩa, chủ nghĩa quốc tế tức là không chỉ giải phóng quốc gia dân tộc mình, mà còn phải giải phóng tất cả các quốc gia và dân tộc bị áp bức trên thế giới, kể cả nhân dân bị áp bức của nước đế quốc, xây dựng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trên toàn thế giới. Các đồng chí nghĩ xem nhiệm vụ đó to lớn biết bao, gian khổ biết bao, có thể gọi là mới bắt đầu, không phải đã hoàn thành nhiệm vụ, đó chẳng phải là việc rất rõ ràng hay sao ? Vì vậy, chúng ta không có lý do để thoả mãn, không có lý do để kiêu căng không thể có tư tưởng hưởng lạc, không thể xả hơi. Còn nói về Việt Nam, họ bị chủ nghĩa đế quốc xâm lược áp bức không kém chúng ta, nỗi đau khổ phải chịu đựng còn nặng hơn chúng ta, như trong nước sôi lửa bỏng. Chúng ta là láng giềng gần gũi, nhân dân hai bên trên biên giới đều có họ hàng thân thích, chúng ta có thể khoanh tay ngồi nhìn không cứu sao ? Hơn nữa, nếu Việt Nam hoàn toàn bị Pháp chiếm đóng, khống chế liệu biên giới của chúng ta có an toàn được không ? Nếu họ bị chinh phục chúng ta sẽ bị đe doạ trực tiếp. Vì vậy viện trợ Việt Nam vừa là nghĩa vụ quốc tế, cũng vừa là để củng cố thắng lợi của chúng ta.

Phó chủ tịch Lưu nói tiếp, mọi người đều biết, trong quá trình cách mạng của nước ta, cũng có rất nhiều người cộng sản nước khác tham gia cuộc đấu tranh của chúng ta đổi máu, hy sinh, trong đó có đồng chí Việt Nam, đồng chí Triều Tiên, còn có các đồng chí thuộc nước khác, Béthune chẳng phải đã hy sinh ở nước ta đó sao ? Vì sao họ làm như vậy ? Đó là tinh thần quốc tế chủ nghĩa, chúng ta phải học tập họ. Không nên chỉ thấy trước mắt, chỉ thấy gia đình nhỏ của mình, chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt, phải nhìn xa hơn, tấm lòng phải rộng mở hơn, mới là khí phách của người cộng sản, mới đáng gọi là một người cộng sản. Cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi, khó khăn không ít, thời gian cũng không thể quá nhanh, tôi thấy cần chuẩn bị ba năm. Trong công tác, các đồng chí đặc biệt chú ý làm tốt đoàn kết với các đồng chí Việt Nam, làm cố vấn tức là đề ra kiến nghị và biện pháp, còn việc quyết định để người ta làm, quan hệ tốt thì người ta có thể nghe ý kiến của các đồng chí. Tôi nói những điều này các đồng chí xem có đúng không có ý kiến gì khác thì có thể thảo luận. Tổng tư lệnh đồng chí xem có phải thế không ?

Phó chủ tịch nói khoảng nửa giờ. Tổng tư lệnh Chu tiếp lời nói : « Đồng chí nói rất hay, tôi hoàn toàn tán thành ». Phó chủ tịch Lưu nói : Đề nghị đồng chí nói một chút về vấn đề nhiệm vụ, cách làm việc của họ khi đến đó. Tổng tư lệnh chu nói : Tôi hoàn toàn đồng ý những điều Phó chủ tịch Lưu đã nói. Người cộng sản chúng ta là người quốc tế chủ nghĩa, có nghĩa vụ giúp đỡ nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh giải phóng, cần phải coi đó là nhiệm vụ quốc tế quan trọng và phải nghiêm túc làm tốt công tác bảo mật. Phải không tiếc mọi thứ giúp họ đến thắng lợi. Người cộng sản phải nên như thế. Nhiệm vụ của các đồng chí đi Việt Nam lần này rất quan trọng, rất gian nan, cũng rất vinh quang. Các đồng chí đi làm gì ? Không phải như làm cán bộ ngoại giao mà là đi giúp người ta đánh trận, phải ra chiến trường. Giúp đỡ không phải là thay thế, không phải đẩy người ta ra ngoài, mà là đề xuất ý kiến, nghĩ ra biện pháp, lúc bình thường giới thiệu kinh nghiệm của chúng ta, lúc chiến đấu phân tích tình hình địch, đề xuất ý kiến. Phải tìm hiểu tình hình của người ta. Người ta cũng có kinh nghiệm không nên coi thường kinh nghiệm của người ta. Giới thiệu kinh nghiệm của chúng ta phải sát tình hình thực tế của người ta, không được rập khuôn kinh nghiệm của chúng ta. Cho nên phải tìm hiểu tình hình của người ta, nghiên cứu tình hình của người ta.

Tổng tư lệnh Chu nói, trên hành động quân sự phải thực sự cầu thị, xuất phát từ tình hình thực tế, không được hành động nóng vội nguyên tắc là có vũ khí gì thì đánh trận nấy, phải vừa dũng cảm lại vừa khôn khéo linh hoạt cơ động đặc biệt quan trọng. Tình hình hiện nay của họ giống như thời chiến tranh chống Nhật của chúng ta, phải chăng nên lấy đánh du kích là chính, trong điều kiện có lợi đánh thử vận động chiến. Còn về cách đánh cụ thể tôi thấy kinh nghiệm trước đây của chúng ta có thể ứng dụng được. Muốn đánh thắng trận, xây dựng bộ đội là điều kiện tiên quyết, không có một quân đội tốt thì khó đánh trận tốt. Kinh nghiệm xây dựng quân đội của chúng ta, tôi thấy đều có thể dùng được. Muốn xây dựng một quân đội nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì phải làm tốt quan hệ quân dân, quan hệ quân chính, quan hệ cán bộ chiến sĩ. Kinh nghiệm của chúng ta có thể dùng được. Còn phải huấn luyện học tập sử dụng vũ khí. Công tác chính trị của quân đội rất quan trọng, càng là sở trường của chúng ta, không có công tác chính trị hoặc công tác chính trị không mạnh, thì không thể xây dựng tốt quân đội, không đánh trận tốt được. Tổng tư lệnh Chu nói tiếp, hoàn cảnh Việt Nam rất gian khổ, các đồng chí phải chuẩn bị chịu gian khổ, phải mang theo tác phong gian khổ chất phác. Như vậy có thể lấy mình làm gương cũng giữ được tác phong tốt của mình. Tôi đã thấy bản kê đồ dùng của các đồng chí, phải mang theo có một số cái không cần lắm như giầy da, ở đó còn phải ở nhà nông thôn, khắp nơi ruộng lúa nước, rừng núi, giầy da không dùng được chiến đấu mà mang theo thì rất nặng, nên mang nhiều giầy cỏ, giầy vải, thích hợp hơn, đồng hồ có cần mỗi người 1 chiếc không ? Tôi thấy đồng chí lãnh đạo có là được rồi đánh du kích, cũng không cần lắm, nghe nói những mấy chục tệ một chiếc (lúc đó một nhân dân tệ đổi được 1 nhân dân tệ mới sau này). Viết chữ đẹp không phải do cây bút. Mao Chủ tịch viết chữ đẹp, người không có bút máy Parker, chỉ có mấy cây bút lông, đôi khi còn dùng cả bút chì. Tôi thấy bút máy Tân Hoa của chúng ta mới sản xuất cũng rất tốt, lại rẻ, dễ dùng có thể phát mỗi người mỗi chiếc, quần áo không cần như nhà ngoại giao, không cần loại vải này loại vải nọ, mang nhiều một chút quần áo thường, họ đánh du kích đều mặc quần áo thường, gần đây thành lập quân chính quy, nghe nói quân phục chính quy cũng chưa được phát hết. Chúng ta có thể may một ít quần áo giống như quân phục của họ. Không nên riêng biệt. Quân đội họ khổ như thế anh mặc âu phục còn ra làm sao ! Tổng tư lệnh Chu chưa nói xong, chúng tôi phát hiện ngoài sân, đồng chí Vương Quang Mỹ đưa Mao Chủ tịch từ từ đi vào, Phó chủ tịch Lưu nhìn qua cửa sổ cũng thấy Mao Chủ tịch đến, mọi người đều đứng dậy vỗ tay. Mao Chủ tịch bước vào nhà. Lúc này, người đã hơn 50 tuổi, không thấy tóc bạc, da dẻ hồng hào thân hình béo hơn khi tôi gặp Người ở Diên An, xem ra rất tinh thần.




Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:02:38 am
Phó chủ tịch Lưu nói với Mao Chủ tịch : Các đồng chí ấy đến được một giờ rồi. Mấy hôm nay Chủ tịch rất mệt, muốn để chủ tịch ngủ thêm một lúc nên không đánh thức. Mao Chủ tịch nói : “ À ! Không ngủ được ”. Người bắt tay trước ba vị Vi, Mai, Đặng, nói chuyện một lát, rồi lại bắt tay từng người hỏi tình hình mọi người tên họ, tuổi tác, quê quán, chức vụ gia đình v.v... còn hỏi có khó khăn gì. Phó chủ tịch Lưu đề nghị Mao Chủ tịch nói chuyện. Mao Chủ tịch nói : “ Các đồng chí đã nói cả rồi, tôi nói lại sẽ trùng ”. Lúc này, Lưu, Chủ và cả Vi, Mai, Đặng đều nói xin chủ tịch nói vài lời, cho thêm chỉ thị. Mao Chủ tịch bảo chúng tôi ngồi xuống, Người đứng giữa chúng tôi.

Mao Chủ tịch nói : « Lần này các đồng chí đi làm cố vấn, là một việc lớn, việc mới, nhà nước, đảng và quân đội chúng ta lần đầu tiên cử đoàn cố vấn ra nước ngoài, ý nghĩa rất to lớn, là vinh quang của chúng ta. Các đồng chí chấp hành một nhiệm vụ rất quan trọng, rất vẻ vang. Mong các đồng chí có thành tích tốt, đạt được kinh nghiệm tốt. Cùng với sự phát triển của công cuộc xây dựng đất nước và quân đội, theo sự thay đổi của tình hình quốc tế, chúng ta còn có thể cử nhiều cố vấn ra nước ngoài, giúp đỡ cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc, các nước bị áp bức. Đó là vấn đề của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đó là nhiệm vụ của người cộng sản. Trên thế giới còn rất nhiều nước dân tộc bị áp bức, bị xâm lược họ ở dưới gót sắt của chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta không chỉ đồng tình với họ, còn phải chìa hai tay ra viện trợ họ. Không nên vì chúng ta đã đánh bại Tưởng Giới Thạch thì cho rằng nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành. Nhà nước ta muốn củng cố còn phải thấy chủ nghĩa đế quốc rất lớn mạnh, chúng sẽ không can tâm chịu thất bại ở Trung Quốc. Hành động của chúng ở Triểu Tiên, ở Việt Nam là muốn tạo nên tình thế bao vây chúng ta, một khi có cơ hội là sẽ trực tiếp đối với chúng ta, cho nên giúp đỡ họ cũng có lợi đối với an ninh của chính chúng ta, vì giúp đỡ các dân tộc anh em, các đồng chí đi công tác là một công đôi việc. Đó là nguyên nhân quan trọng chúng ta phải cử đoàn cố vấn ».

Mao Chủ tịch nói tiếp, trong quá trình cách mạng Trung Quốc chúng ta, rất nhiều bạn bè quốc tế tham gia cuộc đấu tranh của chúng ta, đồng chí Hồ Chí Minh đã tham gia từ thời Đại cách mạng Trung Quốc, còn rất nhiều đồng chí Việt Nam đổ máu hy sinh cho cách mạng Trung Quốc. Tất nhiên còn có các nước khác mà mọi người đều biết. Họ làm như vậy dưới sự chỉ đạo của tư tưởng quốc tế chủ nghĩa. Người ta có tư tưởng chủ nghĩa quốc tế, chúng ta cũng cần phải có. Lời xưa nói, nhận được một chút ân huệ của người đời phải coi như là suối nguồn để báo đáp, tất nhiên đó là nói từ mặt tiêu cực, còn nói từ mặt tích cực tức là thi hành nghĩa vụ chủ nghĩa quốc tế. Còn có một nguyên nhân trực tiếp vào dịp tết, tôi chẳng phải ở Moscow sao ? Đồng chí Hồ Chí Minh cũng đến đó. Đồng chí đi nhờ Liên Xô viện trợ. Ở Moskva Stalin không muốn tiếp Hồ Chí Minh cho lắm. Stalin không hiểu Hồ Chí Minh, nói không biết Hồ có phải là người mác xít không. Tôi nói Hồ là người Mác xít, là lãnh tụ cách mạng của nhân dân Việt Nam, tiếp đồng chí ấy thì tốt. Thế là Stalin tiếp đồng chí. Nhưng khi Hồ Chí Minh nêu ra yêu cầu Liên Xô viện trợ, thì Stalin không đồng ý, nhất là không đồng ý cử cố vấn. Trên đường về, Hồ Chí Minh nói đến vấn đề này, đồng chí yêu cầu chúng ta cử đoàn cố vấn. Tôi nói, viện trợ vật chất, tất nhiên chúng tôi phải cố hết sức làm, cũng có thể giúp các đồng chí huấn luyện một phần bộ đội, còn về cử đoàn cố vấn, chúng tôi làm không tốt lắm, bởi vì cán bộ của chúng tôi đa phần không được huấn luyện chính quy, đánh trận có những kinh nghiệm, nhưng chưa qua trường chuyên môn. Đồng chí Hồ Chí Minh cứ một mực yêu cầu. Tôi nói cá nhân tôi không có ý kiến, trở về bàn với các đồng chí Trung ương, nếu cử cũng là cố vấn vườn thôi ! Thật vậy, chúng ta vẫn đều là quê mùa cả thôi. Song Hồ Chí Minh vẫn cần, sau khi tôi về, Trung ương nghiên cứu mọi người nhất trí đồng ý cử đoàn cố vấn. Hiện tại, có một đoàn công tác (chỉ đồng chí La Quý Ba) ở Việt Nam, căn cứ theo tình hình các đồng chí tìm hiểu được nên đã quyết định cử đoàn cố vấn quy mô như thế này. Điều này cần các đồng chí vất vả một lần nữa. Còn chuẩn bị cho đồng chí Trần Canh đi trước một bước, đồng chí ấy quen biết đồng chí Hồ Chí Minh và ở tiểu đoàn biên giới giúp họ biên chế tổ chức bộ đội, trang bị vũ khí, đồng chí ấy đi hỗ trợ các đồng chí một thời gian.

Mao Chủ tịch nói, lần này cử đồng chí Vi Quốc Thanh làm đoàn trưởng đoàn cố vấn, vốn định để đồng chí đi làm việc ở Liên Hợp Quốc, nhưng Liên Hợp Quốc dưới sự thao túng của Mỹ không cho chúng ta vào, nó còn có Tưởng Giới Thạch ; về sau lại chuẩn bị để đồng chí đi Anh làm đại sứ, nhưng Anh vẫn còn lưỡng lự nước đôi với chúng ta, ở đó chỉ có cấp thấp, không cử Đại sứ. Thế là bảo đồng chí đi Việt Nam làm Trưởng đoàn cố vấn. Đồng chí đồng ý ngay như vậy rất tốt ! Người cộng sản, ở đâu cần thì đến đó, có thể đi đến nơi có hoàn cảnh thoải mái, cũng có thể đi đến nơi gian khổ, miễn là có nhu cầu công tác, mọi thứ khác đều không tính toán. Điều đó, các đồng chí phải học tập đồng chí Vi Quốc Thanh.

Mao Chủ tịch nói, nhiệm vụ của các đồng chí là giúp người ta đánh trận. Hiện giờ họ vẫn đánh du kích, chưa đánh trận tương đối lớn, chủ yếu là phân tán đánh du kích. Quân Pháp hiện giờ chủ yếu khống chế thành thị, đường giao thông, các cảng ven biển, quân đội Việt Nam chiếm nông thôn rộng lớn. Điều đó gần giống tình hình chiến tranh chống Nhật của chúng ta. Nhưng chỉ đánh du kích thôi không được, muốn giành thắng lợi phải đánh trận lớn hơn, có thể công kiên có thể đánh vận động chiến, mới có thể chuyển sang phản công đánh bại nước Pháp. Các đồng chí đến Việt Nam trước hết phải giúp đánh thắng trận, mở ra một vùng để tập trung bộ đội, sau đó đánh trận sẽ càng đánh càng lớn. Muốn đánh trận lớn phải có bộ đội tập trung lớn một chút, trước mắt họ đã thành lập một số, chúng ta giúp trang bị. Còn phải tập trung thêm một số bộ đội có kinh nghiệm chiến đấu biên chế thành quân đội chính quy, qua huấn luyện, đánh một số trận lớn, dần dần phát triển lớn mạnh. Tất nhiên không thể làm suy yếu cách đánh du kích, phải có những đội du kích được nâng cấp, còn phải mở rộng đội du kích, về mặt này các đồng chí có kinh nghiệm. Nói tóm lại đánh du kích vẫn là chính, nhưng các đồng chí phải giúp họ xây dựng bộ đội chính quy, bày cho họ có thể đánh chính quy, còn đánh du kích tự họ có kinh nghiệm, do họ từ làm lấy. Chuyển sang vận động chiến phải chú ý bước đi, làm nhiều điều tra nghiên cứu, có thể đánh trận lớn bao nhiêu ? Không nên mở quá to. Đánh mấy trận nhỏ, rèn luyện bộ đội, nâng cao lòng tin dũng khí đánh trận đầu phải thắng. Đánh trước mấy trận thắng cầm chắc, thì dễ làm, sẽ mở ra cục diện mới. Không nên quên nguyên tắc của chiến tranh giải phóng, mỗi lần đều phải tập trung ưu thế binh lực nhất định, phải có ưu thế gấp 3, 5 lần thậm chí lớn hơn nhiều lần, không đánh thì thôi, đã đánh thì phải thắng. Vận động chiến vẫn lấy tiêu diệt sinh lực địch là chính. Đánh chiếm cứ điểm ở thành thị là thứ. Tiêu hao địch đến một mức nhất định, tất nhiên phải đánh chiếm các địa phương nhưng đó là việc của thời kỳ sau. Lần đầu đánh vận động chiến, chủ yếu xem tiêu diệt được bao nhiêu địch, nhất định phải đánh tiêu diệt chiến. Cho nên đi đánh thì phải tập trung trước bộ đội, tăng cường trang bị, huấn luyện phải có pháo binh. Phải học biết công kiên, không công kiên thì không đánh được viện binh, không đánh được cứ điểm thì không thể tiêu diệt nhiều địch hơn. Đánh đêm, đánh gần, đánh bộc phá, đâm lê, đều phải bày cho họ. Chủ lực biên chế bao lớn còn phải xem tình hình để quyết định, cho nên phải điều tra nghiên cứu nhiều. Căn cứ theo tình hình thực tế của người ta truyền thụ kinh nghiệm của chúng ta, phải thực sự cầu thị, nhất thiết không được cứng nhắc đem kinh nghiệm của chúng ta bất kể tình hình như thế nào, gán cho người ta điều đó chỉ làm hỏng việc, nhất thiết không được nôn nóng muốn thành công ngay.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:03:08 am
Mao Chủ tịch nói : “ Muốn xây dựng một bộ đội dã chiến vững mạnh đánh không đổ đập không nát, cần có một loạt cán bộ có giác ngộ có thể đánh trận, có thể luyện quân. Nhà trường là một biện pháp đào tạo cán bộ, chúng ta cũng phải giúp họ làm. Nhưng chỉ có nhà trường chưa đủ, còn phải đào tạo trong công tác thực tế và trong chỉ huy chiến đấu thực tế. Điều đó phải dựa vào các đồng chí, từ công tác chi bộ, công tác tư tưởng chính trị, công tác quản lý, huấn luyện cho đến chỉ huy tác chiến, tác phong chiến đấu đều phải hỗ trợ họ trong đấu tranh thực tế, ngoài việc các đồng chí lấy mình làm gương ra, còn phải giới thiệu cho người ta kinh nghiệm của chính các đồng chí. Đánh một trận, tiến một bước, không ngừng tổng kết bài học kinh nghiệm, khi cần thiết huấn luyện ngắn ngày giữa lúc nghỉ chiến đấu. Bỏ hết công sức thì công việc sẽ mặc nhiên thành công, điều này đòi hỏi phải rất nhẫn nại, đồng thời cũng phải khiêm tốn học tập kinh nghiệm của người ta để nâng cao mình. Tự mình không ngừng nâng cao mới có thể thường xuyên giúp đỡ người ta ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Làm thế nào để làm tốt cố vấn, điều đó phải nghiên cứu nghiêm chỉnh. Cố vấn tức là cố vấn, trên thực tế tức là tham mưu, làm tốt tham mưu cho đồng chí lãnh đạo của người ta. Tham mưu tức là đề xuất ý kiến, nghĩ ra biện pháp hỗ trợ lãnh đạo, không được bao biện làm thay, càng không thể làm thái thượng hoàng, ra mệnh lệnh. Cần phải đoàn kết tốt với người ta, nhất là đoàn kết tốt với người lãnh đạo Việt Nam, phải thực sự chú ý làm không tốt đoàn kết thì thà không làm còn hơn. Chỉ có làm tốt quan hệ với người ta không nên coi thường người ta, không nên vỗ ngực là người thắng lợi, không nên lên mặt dạy đời, nhất thiết phải đề phòng kiêu căng, thái độ của các đồng chí phải đúng đắn, đã là thành tâm thiện chí giúp đỡ người ta thì phải coi sự nghiệp giải phóng của họ là sự nghiệp của chính chúng ta để làm. Có tư tưởng đó mới có thể làm tốt công tác. Cho nên các đồng chí phải yêu quý từng ngọn cỏ gốc cây con sông quả núi ở đó, phải yêu mến nhân dân ở đó, phải như ỏ Trung Quốc, tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân, tuân theo ba kỷ luật lớn tám điều chú ý ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Muốn làm tốt đoàn kết, chúng ta nhất định phải khiêm tốn. Sau khi đến gặp người ta, trước hết phải xin lỗi người ta, bởi vì tổ tiên của chúng ta xưa kia có lỗi với người ta. Một thời gian dài Việt Nam là thuộc địa của Trung Quốc là từ triều Hán ! Thời kỳ Đông Hán chẳng phải có Mã Viện “ da ngựa bọc thân ” đó sao ! Là một viên đại tướng của Đông Hán, chính ông đã chính phục Việt Nam “ Mã Viện chinh Giao Chỉ ” chính là chuyện này, Mã Viện được phong làm Phục Ba tướng quân trong lịch sử gọi ông là Mã Phục Ba. Bộ đội của ông đại bộ phận không trở về, ở lại đó và kết hôn với phụ nữ ở đó, lập gia đình xây sự nghiệp ở đó. Bộ đội các vương triều về sau cử đi cũng phần nhiều như thế ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp như thế nào ? Đó là những năm cuối triều Thanh, có tướng quân tên là Phùng Tử Tài trấn giữ Trấn nam quan, Pháp xâm lược Việt Nam, Phùng Tử Tài đánh một trận ở Trấn nam quan. Quân đội của Phùng Tử Tài đánh bại quân đội Pháp, quân đội Pháp thất bại rất thảm hại, Phùng Tử Tài giành được thắng lợi rất lớn. Nhưng triều Thanh thối nát cực độ, thông tin lạc hậu, khi triều Thanh chưa nhận được tin thắng lợi thì công sứ Pháp ở Triều Thanh thừa cơ lừa bịp nói họ đánh thắng trận, phải tiến quân vào Trung Quốc. Hăm doạ triều Thanh buộc triều Thanh hiệp ước cắt đất bồi thường cầu hòa, nhượng Việt Nam cho Pháp. Sau khi ký hiệp ước, tin vui thắng lợi mới đến Bắc Kinh, thế là Việt Nam biến thành thuộc địa của Pháp (1). Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, Đức chiếm đóng lãnh thổ Pháp, Pháp cũng không kham nổi Việt Nam, đế quốc Nhật thừa cơ tiến vào, chiếm đóng Việt Nam. Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945 kết thúc, sau khi Nhật Bản đầu hàng, đội du kích của Hồ Chí Minh tiến về Hà Nội thành lập chính phủ. Không bao lâu Pháp khôi phục lại, lại đưa quân xâm lược Việt Nam, lại đẩy Hồ Chí Minh ra khỏi Hà Nội. Hồ Chí Minh lại đánh du kích mấy năm. Lúc này là thời kỳ chiến tranh giải phóng của chúng ta không có cách nào viện trợ họ được. Bây giờ chúng ta vừa giải phóng thì bắt đầu viện trợ ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Các đồng chí phải hiểu rõ những tình hình này, trước tiên nói rõ tổ tiên của chúng ta có lỗi với họ, sau đó hãy nói rõ chúng ta là người cộng sản, Trung Quốc là nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thực hiện chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản, khác với chủ nghĩa phong kiến, khác với chủ nghĩa đế quốc chúng ta viện trợ họ là hoàn toàn vô tư, là thành tâm thiện chí, hỗ trợ họ đánh bại nước Pháp, giành giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau thắng lợi họ xây dựng nhà nước độc lập tự chủ, với đảng, nhà nước, quân đội chúng ta, là quan hệ đảng, nhà nước và quân đội như anh em ”.

Mao Chủ tịch một lần nữa nhấn mạnh nói, các đồng chí đi phải làm tốt công tác đoàn kết, phải tiếp thu những bài học. Lòng dạ quá hẹp hòi không tốt, người cách mạng không nên kèn cựa danh lợi địa vị, không nên tính toán được mất. Điều đó không có lợi cho đảng, không có lợi cho đất nước, không có lợi cho sự nghiệp giải phóng, Các đồng chí đi phải khiêm tốn, không được coi thường người ta, cho mình có cái gì ghê gớm. Có thể nói với họ, chúng tôi cũng có thất bại. Giới thiệu nhiều cho họ bài học kinh nghiệm, ít nói “ qua năm ải chém sáu tướng ”, trong quá trình giúp người ta, phải thường xuyên kiểm điểm lời nói và hành động của mình. Nhất thiết phải tôn trọng sự lãnh đạo của người ta, các đồng chí làm không tốt cũng sẽ làm tổn hại quan hệ hai nước, trách nhiệm to lớn, nhất định phải xử sự cẩn thận.

Mao Chủ tịch nói tiếp : “ Còn có một vấn đề, tức là phải chú ý làm cho các đồng chí Việt Nam hiểu rõ ý nghĩa quan trọng của tự lực cánh sinh. Cách mạng phải tranh thủ viện trợ bên ngoài, nhưng không thể dựa vào viện trợ bên ngoài. Về mặt này cũng phải giúp đỡ nhiều. Đó không phải chỉ vì chúng ta nghèo, không thể bao cả nhu cầu của họ. Nghèo cũng là sự thực, hơn 100 năm nay, nỗi lo thù trong giặc ngoài, chiến tranh liên miên làm cho chúng ta rất nghèo, nhưng chúng ta viện trợ dân tộc bị áp bức, là vô tư, là đem hết mọi nỗ lực, thậm chí phải hy sinh. Nhưng nước chúng ta cần viện trợ cũng không chỉ có Việt Nam, chúng ta vừa thắng lợi, không ít đảng anh em đều yêu cầu chúng ta viện trợ, tất nhiên chúng ta sẽ phân rõ nhẹ, nặng, hoãn, gấp, nhưng viện trợ của chúng ta rốt cuộc là có hạn. Ý nghĩa quan trọng của tự lực cánh sinh ở chỗ tự mình có tư tưởng, tinh thần, và phương pháp khắc phúc khó khăn, mặt này chúng ta có kinh nghiệm phương pháp, cho nên nên giới thiệu cho họ. Một quốc gia, một đảng, một quân đội phải có tư tưởng tự lực cánh sinh, có tinh thần khắc phục khó khăn có biện pháp và khả năng khắc phục khó khăn thì quốc gia đó, đảng, nhân dân, quân đội đó mới là kiên cường, mới có hy vọng thắng lợi; thắng lợi rồi mới có sức mạnh xây dựng đất nước mình, mới có thể giàu mạnh mới là độc lập giải phóng thật sự, mới là thắng lợi thực sự ”.

Mao Chủ tịch nói : “ Phải đặc biệt chú ý vấn đề bảo mật. Tên “ đoàn cố vấn ” các đồng chí không nên gọi tuỳ tiện, phải có biệt hiệu, nếu đế quốc biết chúng ta cử cố vấn, nhất định sẽ gây chuyện, kiếm cớ quấy chúng ta là mánh khoé quen dùng của chúng. Vì vậy không nên cho chúng cơ hội kiếm cớ, cho nên hành động của các đồng chí phải tuyệt đối giữ bí mật, không nên khoe khoang, ngay cả bạn bè thân cũng phải giữ bí mật, mặc thường phục hoặc quân phục Việt Nam, quân phục của chúng ta nhất thiết không được mang đi. Ở Việt Nam không nên đi ra ngoài tuỳ ý, không nên đi một mình, khi tác chiến hết sức thận trọng, không nên quá áp sát tiền tuyến, tránh bị địch bắt làm tù binh tạo cớ. Và lại làm cố vấn cũng không thể thay thế người ta chỉ huy, cũng không cần xung phong hãm trận. Không cần thiết ra tuyến đầu trực tiếp tiếp xúc với địch. Tất nhiên, nhỡ bị địch bắt làm tù binh cũng không sao, bọn chúng chẳng phải công khai viện trợ cho phái phản động là gì ? Chúng ta viện trợ dân tộc bị xâm lược là chính nghĩa, chúng ta làm là để chống lại hành động của chúng, chẳng là không làm ầm ĩ lên mà thôi ! Song, để giảm bớt những việc không cần thiết xảy ra để không cho địch bắt sống thì tốt. Các đồng chí phải nghĩ nhiều biện pháp, giữ nghiêm cơ mật ”.

Cuối cùng Mao Chủ tịch quan tâm hỏi : “ Đồ dùng mang theo đã định xong chưa ? ”. Chu Tổng tư lệnh nói : “ Các đồng chí có một bản kê, còn phải để cấp dưới nghiên cứu, có những cái hình như không cần thiết lắm, hoặc không cần nhiều như đồng hồ, giày da, bút máy Parker v.v...” Mao Chủ tịch nói : “ Tổng tư lệnh duyệt là không cần bảo người khác nghiên cứu, càng ít người biết càng tốt. Đồng chí rộng lượng một chút. Đồng hồ, giày da, bút máy, đều thoả mãn hết yêu cầu của các đồng chí, lần đầu tiên cử đoàn cố vấn mà ! Đại diện cho đất nước chúng ta, chúng ta có khó khăn mấy cũng không coi những thứ đó là cái gì lớn. Các đồng chí thấy thấy nào ? ” Phó chủ tịch Lưu, Tổng tư lệnh Chu đều nói : “ Tốt ”. “ Thế thì theo bản kê này đi ! ”: Mao chủ tịch lại nói : “ Sinh hoạt phí của các đồng chí cũng tăng chút ít ! Và gửi những thứ an cữ gia đình. Theo tập quán cũ, lấy danh nghĩa cứu tế cấp một số gạo gì đó, những việc đó cần làm. Còn có khó khăn gì đặc biệt thì giải quyết. Đồng chí Vi Quốc Thanh, những việc này giao cho đồng chí ! ”. Mao Chủ tịch lại hỏi Phó chủ tịch Lưu, Tổng tư lệnh Chu còn có nói gì nữa không, hai vị đều nói không, cuối cùng Mao Chủ tịch nói : “ Thế nhé, chúc các đồng chí mạnh khoẻ thắng lợi ! ”. Mọi người đứng dậy vỗ tay. Mao Chủ tịch, Phó chủ tịch Lưu, Tổng tư lệnh Chu, bắt tay tạm biệt từng người chúng tôi. Mao Chủ tịch vẫn do đồng chí Vương Quang Mỹ đưa Mao Chủ tịch ra về, buổi tiếp đến đây kết thúc.

Ngày hôm sau hoặc ngày thứ ba gì đó đã mời đồng chí Hồng Thuý (tức đồng chí Nguyễn Sơn) giới thiệu tình hình Việt Nam. Đồng chí chủ yếu nói về : địa hình, khí hậu, phong thổ, nhân tình, tình hình địch ta, phương pháp tác chiến v.v.. Sau đó chúng tôi trở về Nam Kinh, khẩn trương chuẩn bị rời đất nước.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:03:54 am
2. Trước và sau chiến dịch biên giới

 
Ngày 19/7/1950 Ban chỉ huy Đoàn cố vấn và cố vấn của một đại đoàn (từ cấp tiểu đoàn đến cấp đại đoàn) tất cả gần 20 người xuất phát từ Nam Kinh qua Thượng Hải, Hàng Châu, Hành Dương đến Liễu Châu, lại lên xe ôtô đến Nam Ninh. Sau khi tiến hành giáo dục trước khi ra nước ngòai, lập tức lên ôtô đến Tịnh Tây. Đêm 11/8 cán bộ ở phòng tiếp tân Việt Nam đưa chúng tôi lên ôtô vào lãnh thổ Việt Nam. Sáng sớm ngày 12 đển Quảng Uyên, đi bộ bốn năm cây số đến trụ sở Bộ Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam thì trời vừa sáng. Người phụ trách ở đấy là Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, còn có Ủy viên Trung ương Trần Đăng Ninh (phụ trách công tác hậu cần), Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Sau khi trời sáng, nghỉ một lát, rồi họp hội nghị chào mừng ngắn gọn, sau đó khẩn trương đi vào hoạt động tìm hiểu tình hình. Thông qua giới thiệu của Bộ Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam và vài ngày sau đồng chí Trần Canh đến, nói thêm tình hình đồng chí tìm hiểu được trên đường từ Vân Nam đến Việt Nam, đã cho chúng tôi hiểu đại thể về quân đội nhân dân Việt Nam và quân xâm lược Pháp như sau :

1. Quân đội Việt Nam : phần lớn là tác chiến du kích, chưa qua chiến đấu tiêu diệt binh lực một đại đội địch trở lên. Trước mắt đã thành lập Đại đoàn tức đại đoàn 308, binh đoàn số 4 quân khu Vân Nam Trung Quốc cử đồng chí Vương Nghiên Tuyền làm cố vấn, được Trung Quốc, trang bị đầy đủ đã tiến hành chỉnh huấn, hiện đã di chuyển đến vùng Tây Bắc Cao Bằng. Đại đoàn này có 3 trung đoàn, một tiểu đoàn pháo binh. Hai đại đoàn khác đang thành lập là đại đoàn 304 và đại đoàn 312. Hai đại đoàn này do đang biên chế tổ chức trang bị, chưa thể đảm nhận nhiệm vụ tác chiến lớn. Cố vấn của đại đoàn 304 là đồng chí Chu Hạc Vân là cán bộ của quân khu Hoa Đông cử đến, lần này sang Việt Nam cùng với Ban chỉ huy đoàn cố vấn. Ngoài ra có hai trung đoàn độc lập đã trang bị đầy đủ, tức trung đoàn 174 và trung đoàn 209. Trung đoàn 74 đã có cố vấn là đồng chí Trương Chí Thiện. Còn có 1 trung đoàn pháo binh, tức trung đoàn 95, đã trang bị đầy đủ sơn pháo, do Trung Quốc trang bị, đã trải qua mấy tháng huấn luyện, đang tập kết ở bắc Cao Bằng. Còn có một số tiểu đoàn độc lập. Chủ lực có thể tham gia tác chiến là đại đoàn 308, trung đoàn 174, 209, trung đoàn pháo binh 95 và 2 tiểu đoàn bộ binh độc lập. Ban chỉ huy đại đoàn chưa chỉ huy tập trung tác chiến ba trung đoàn, Ban chỉ huy trung đoàn cũng rất ít có kinh nghiệm tập trung tác chiến ba tiểu đoàn.

Còn lại là đội du kích, trải khắp cả nước, nằm ở vùng nông thôn rộng lớn, tiến hành tác chiến du kích nhỏ. Võ Nguyên Giáp từng nói đùa : “Đại đoàn 308 tượng trưng Bát lộ quân của Tây Bắc, cho nên các đồng chí Bát lộ quân trước đây làm cố vấn, đại đoàn 304 tượng trưng Tân tứ quân của Trung Quốc, thì do các đồng chí Tân tứ quân trước đây làm cố vấn.

2. Quân Pháp : Tổ chức rất phức tạp. Đại thể chia làm hai loại. Một loại là binh đoàn người da trắng, còn gọi là binh đoàn lê dương, phần đông là lính Đức và sĩ quan cấp dưới của Đức sau khi đầu hàng, cộng với binh lính và lao động khổ sai các nước Đông Âu, Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari, Bulgari, Nam Tư, Rumani v.v.. bị quân Đức bắt làm tù binh tổ chức nên, chỉ huy tiểu đội trở lên là người Pháp, trong đó tuy có số ít binh lính Pháp, nhưng đa phần là những tù phạm bị xử mấy năm tù thì phục dịch quân đội mấy năm. Trong những người này binh lính Đức chiếm tỉ lệ khá lớn, có khi cả trung đội, tiểu đội đều là người Đức. Một loại khác là binh đoàn người da đen do quân đội thuộc địa thành lập, đại bộ phận là bộ đội Maroc, Algérie, còn gọi là binh đoàn Maroc, binh đoàn Algérie, cũng có số ít người da đen Nam Phi 2. Chỉ huy chính của các binh đoàn này là người Pháp. Hoạt động tác chiến của quân Pháp cũng chủ yếu là lấy tiển đoàn (có 3 đến 5 đại đội) là chính, rất ít tập trung tác chiến vài tiểu đoàn.

Nhưng ở Hà Nội, Lạng Sơn theo người ta nói có binh đoàn gồm 3 đến 5 tiểu đoàn. Người Pháp chia những bộ đội này thành bộ đội canh giới phòng thủ và bộ đội cơ động. Thành phố thị trấn quan trọng dọc đường sắt, quốc lộ và cảng biển đều do bộ đội cảnh giới, phòng thủ đóng giữ. Bộ đội cơ động dùng để chi viện bộ đội cảnh giới phòng thủ, trong đó có những tiểu đoàn lính dù có thể kịp thời nhảy dù chi viện. Còn có một bộ phận nguỵ quân, sức chiến đấu rất yếu, cũng chủ yếu chốt giữ cứ điểm, phần lớn ở ven biển và nội địa.

 

Trong quá trình phía Việt Nam giới thiệu tình hình, chúng tôi hiểu được phía Việt Nam từ Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đến người phụ trách chủ chốt các cơ quan đều nói đang chuẩn bị “tổng phản công”. Tổng phản công có nghĩa là quyết chiến, nhưng theo tình hình Việt Nam lúc bấy giờ, phải nói là không có tình hình đó. Chủ lực quân đội Việt Nam chỉ có một đại đoàn, hai trung đoàn, một trung đoàn pháo, chưa có kinh nghiệm, tác chiến quy mô lớn, ngay đánh công kiên cỡ nhỏ, hoặc đánh dã chiến tiêu diệt một tiểu đoàn địch trở lên đều không nắm chắc làm sao có thể “tổng phản công”; ngoài ra trận đánh lớn mà họ chuẩn bị đánh lúc đó là chuẩn bị “chiến dịch Cao Bằng”, điểm tập trung là muốn đánh thành phố lớn, ý tưởng đấy cụ thể là hễ bắt đầu thì đánh Cao Bằng. Cao Bằng là tỉnh lẻ, thuộc thành phố loại vừa, là cứ điểm nổi bật của địch ở Việt Bắc, bố trí phòng thủ rất nghiệm ngặt, công sự kiên cố, là quả hồ đào cứng, dự đoán quân đội Việt Nam rất khó gặm. Họ không hề nói đến tiêu diệt sinh lực địch như thế nào. Trong so sánh binh lực hai bên địch chiếm ưu thế, không trải qua tiêu diệt lớn sinh lực địch, chỉ lấy tấn công thành phố làm mục tiêu chính, càng không thể đạt mục đích “tổng phản công”. Căn cứ vào những điều đó, Trần Canh, Vi Quốc Thanh và các đồng chí phụ trách trong đoàn cố vấn đều giới thiệu kinh nghiệm của chúng ta, tuyên truyền tư tưởng quân sự của Mao Chủ tịch, đề xuất lấy tiêu diệt sinh lực địch làm mục tiêu, chiếm thành thị là phụ, chiếm các địa phương phải trên cơ sở tiêu diệt sinh lực địch mới có thể củng cố, nói rõ quân Pháp bổ sung khó khăn, cách xa nước Pháp, tác chiến vượt trùng dương, nhiều khó khăn ; quân đội Việt Nam chiếm nông thôn rộng lớn, dư địa tiến thoái lớn, dễ đánh dã chiến, điều động địch, cơ động tiêu diệt địch trong dã chiến, như vậy dễ đánh dễ thắng. Lúc này Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Bộ chỉ huy tiền tuyến, ngày 11/9 tiếp các đồng chí Đoàn cố vấn rồi chỉ thị cán bộ Việt Nam phải đoàn kết tốt, cán bộ phải học tập tốt các đồng chí Trung Quốc, học tập lẫn nhau, phải cần kiệm, tiết kiệm mọi vật tư, phải dựa vào quần chúng nhân dân, nỗ lực công tác v.v... Bài nói của Hồ chủ tịch đã cổ vũ rất lớn mọi người. Những người trong đoàn cố vấn và số đi theo đồng chí Trần Canh đã nghiên cứu một phương án tác chiến đánh cứ điểm Đông Khê chặn viện. Đông Khê ở cách Cao Bằng 40 km về phía Nam, bốn bề là núi, ở giữa là một thung lũng nhỏ, phía bắc thung lũng dựa vào núi có một thung lũng nhỏ cứ điểm quân Pháp đóng ở đây lúc đó tìm hiểu biết địch đóng giữ Đông Khê một tiểu đoàn, có một số pháo binh, tổng binh lực khoảng bảy, tám trăm người. Về sau kết quả chiến đấu thực tế cho thấy chỉ có một ban chỉ huy tiểu đoàn và hai đại đội địch, kể cả pháo binh, tổng cộng không đến 400 người (tình báo quân đội Việt Nam rất không chính xác). Mở màn từ căn cứ Đông Khê có rất nhiều cái lợi. Đây là một nhược điểm của địch, dễ công khó thủ, phía đông bắc điểm cao nhỏ của cứ điểm này liền với núi cao, nếu công từ trên núi, đứng trên cao nhìn xuống, núi rừng dày đặc, dễ ẩn nấp ; đây lại là một trọng điểm của địch nắm giữ Lạng Sơn – Cao Bằng trên đường quốc lộ 4 cách Cao Bằng 40km về phía bắc, cách Lạng Sơn 60, 70km về phía nam.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:04:31 am
Chặn đúng giao điểm quốc lộ từ cửa Thuỷ Khẩu Quảng Tây Trung Quốc đi vào Việt Nam, cách cửa Thuỷ Khẩu chừng 10km, có thể phong toả giao thông với Trung Quốc nếu mở được Đông Khê phía bắc có thể đe doạ Cao Bằng lại có thể đột phá phong toả từ Trung Quốc đến nội địa Việt Nam. Vì vậy, đánh Đông Khê địch phải tiếp viện, có thể tạo cơ hội đánh chặn viện. Nếu địch từ Thất Khê ở phía nam lên tăng viện, sẽ có chiến trường tốt đánh chặn viện ở nơi cách Đông Khê 20 km ; nếu địch ở Cao Bằng tăng viện xuống phía nam thì núi non nhiều cũng dễ đánh ; nếu địch cho lính dù nhảy xuống lòng chảo thì càng dễ đánh. Nếu quân đội Việt Nam công kiên bất lợi, có thể cơ động đôi thành vây điểm chặn viện ; xung quanh lòng chảo Đông Khê núi rừng rậm rạp dễ cho ta đóng quân số lớn. Phương án tác chiến này sau khi nội bộ Đoàn cố vấn thống nhất ý kiến do Thủ trưởng Trần, Vi, Mai, Đặng chính thức đề xuất kiến nghị lên Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, và giải thích đầy đủ, nói rõ ý nghĩa to lớn của việc đánh trận đầu phải thắng, vì vậy lúc bắt đầu không cần nói lớn, không cần vội đánh thành thị lớn, chủ yếu cần tiêu diệt sinh lực địch. Dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cơ quan lãnh đạo quân đội Việt Nam chấp nhận kiến nghị của chúng ta.

Sau đó thảo luận ý đồ, quy mô và bố trí chiến dịch, đại thể là : đầu tiên đánh Đông Khê, sau thắng lợi, nếu địch không tăng viện thì đánh Thất Khê. Như vậy có thể mở ra một cửa ngõ lớn trên tuyến phong toả biên giới. Sau đó tranh thủ đánh chặn viện và xem tình hình tiến lên phía bắc đe doạ Cao Bằng buộc địch bỏ chạy, tiêu diệt địch ở Cao Bằng trong dã chiến. Bố trí : trung đoàn 174 công kiên Đông Khê có một tiểu đoàn pháo binh phối hợp ; trung đoàn 209 bố trí ở đông thung lũng, sẵn sàng đánh lính nhảy dù do địch thả xuống, có một hoặc hai tiểu đoàn độc lập phối hợp ; đại đoàn 308 ở phía đông nam Đông Khê, đánh địch ở Thất Khê đến chi viện có hai tiểu đoàn pháo binh phối hợp.

Lúc này, tham mưu trưởng Mai Gia Sinh ra lệnh cho tôi cấp tốc đi xuống trung đoàn sơn pháo 95, với nguyên tắc không được bộc lộ ý đồ chung và địa điểm cụ thể, giúp đỡ trung đoàn pháo binh tiến hành công tác chuẩn bị chiến đấu và cùng theo trung đoàn này đến địa điểm chiến đấu. Tham mưu trưởng Mai Gia Sinh chỉ định tôi phụ trách công tác của Phòng tham mưu Ban chỉ huy Đoàn cố vấn kiêm nhiệm cố vấn pháo binh. Tôi mang theo phiên dịch Hoàng Đôn đi xuống trung đoàn 95. Trung đoàn này đóng ở trong bản gần đấy. Chính ủy là Hoàng Phương, trung đoàn phó tên là “Ước” làm sĩ quan pháo binh trong quân đội Pháp. Quân đội Việt Nam vốn có một đại đội pháo binh, chỉ có một khẩu sơn pháo của Nhật Bản mấy tháng trước có đánh Đông Khê, cũng phối hợp với trung đoàn 174, nhưng không lấy được cứ điểm. Đại đội này hiện nay cũng trong biên chế trong trung đoàn 95. Sau khi thành lập trung đoàn 95 ở Quảng Tây – Trung Quốc đã trang bị 2 tiểu đoàn sơn pháo kiểu Mỹ, 1 tiểu đoàn sơn pháo kiểu 41, lừa ngựa đầy đủ, nhưng lừa ngựa phương bắc không hợp với phương nam, bị bệnh chết không ít. Họ lại không có kinh nghiệm nuôi lừa ngựa, cũng không có thức ăn tinh gồm các loại đậu v.v.. đều chăn thả ăn cỏ dại, nên lừa ngựa rất gầy yếu, có con bệnh tật không thể thồ nổi súng. Pháo thủ của trung đoàn này có một bộ phận người Kinh, trình độ văn hoá tương đối cao, còn lại đại đa số là người dân tộc Nùng ở phía bắc Việt Nam, trình độ văn hoá thấp, nhưng có thể chịu khổ chịu khó. Khi họ hành quân, các chiến sĩ thường vác pháo, rất ít dùng đến lừa ngựa, cho nên cũng không luyến tiếc ngựa mấy. Như vậy đến khi tác chiến, hoả pháo của trung đoàn không thể dùng hết được, chiến sĩ vác pháo hành động cũng chậm chạp, trong tình hình khẩn cấp rất khó kịp thời tham gia chiến đấu. Nhưng nếu có đường khi lừa ngựa có thể kéo được thì tình hình sẽ tốt hơn nhiều.

Trước khi lên đường đi xuống trung đoàn 95, Mai tham mưu trưởng đã bảo tôi biết thời gian bắt đầu chiến dịch khoảng trung tuần tháng 9, công tác chuẩn bị chiến đấu phải hoàn thành vào thượng tuần tháng 9, cho nên thời gian, tôi tìm hiểu tình hình rất ngắn. Sau khi đến trung đoàn tôi bắt đầu ngay, một mặt kiểm tra, một mặt giới thiệu công việc chuẩn bị chiến đấu như công tác chính trị, công tác hậu cần, cung cấp đạn dược và tình hình kỹ thuật chiến thuật của pháo ; giới thiệu tổ chức chỉ huy trong công kiên dùng số ít pháo bắn gần và đa số pháo phối hợp ; nói rõ các vấn đề đa số pháo đánh đột phá khẩu trong công kiên, nên áp dụng trực tiếp ngắm bắn (vì xung quanh cứ điểm của địch đều là lô cốt ngầm) v.v. Khi tôi giảng giải kỹ chiến thuật, vị tiểu đoàn phó “Ước” không nói năng gì, ông ta hoài nghi nhưng lại không dám phát biểu ý kiến bất đồng, Hoàng Phượng cũng nửa vời. Nhưng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn số 3 của họ – Doãn Tuế – cảm thấy rất hứng thú với kinh nghiệm, biện pháp tôi giới thiệu, hỏi han tỉ mỉ, thái độ rất tích cực. Người này là cựu đội viên du kích, nhập ngũ từ thời kỳ đấu chiến tranh chống Nhật, có kinh nghiệm tác chiến cơ sở, văn hoá không cao lắm, nhưng nhanh nhậy lão luyện. Lúc này tôi đã ngầm chọn tiểu đoàn của ông phối hợp với trung đoàn 174 đánh công kiên, lấy tiểu đoàn của ông là trọng điểm để công tác, ông cũng biểu thị khi đánh trận, sẽ dẫn một đại đội đến gần địch nổ súng, để rút kinh nghiệm. Tôi giới thiệu kinh nghiệm của chúng ta với ông, nói rõ cách đánh này không áp dụng trong quân đội cũ. Nó là hành động pháo đi theo bộ binh, nói về mặt chiến thuật, tôi nói chúng ta nhiều lần sử dụng cách đánh này trong các trận chiến đấu lớn nhỏ của cuộc chiến tranh trong nước, hiệu quả lớn mà thương vong ít, thường làm địch bất ngờ. Thế là chọn ra một đại đội giảng giải một loạt động tác và biện pháp từ tiếp cận địch, chuyển pháo bằng sức người, đến ẩn nấp, ngắm đúng mục tiêu, và diễn tập thực địa, họ nắm vững rất nhanh. Lúc đó quân đội ta ở Quảng Tây cử một đại đội phó và hai chiến sĩ dạy kỹ thuật trong trung đoàn này. Tôi tạm thời điều động ba người ấy đến giúp đại đội này. Nhưng dặn họ khi tác chiến, không theo hành động của đại đội này, mà theo phối hợp hành động của một tiểu đoàn trong hai tiểu đoàn của đại đoàn 308. Nhưng việc này đều chưa bộc lộ ý đồ tác chiến, họ chỉ biết sắp đánh nhau, không biết gì các cái khác.

Khoảng 10/9, trung đoàn 95 được lệnh tiến về một nơi cách Đông Khê 10km về phía đông chờ lệnh. Khi hành quân đều đi ban đêm, ban ngày nghỉ trong rừng. Trời xẩm tối các con vắt trong rừng hoạt động điên cuồng, từ trên ngọn cây rơi xuống trên người, trên cổ, khi hút máu không có một chút cảm giác gì, đến lúc no thì rơi xuống đất, chỗ hút máu vẫn tiếp tục chảy máu, ướt đẫm áo, giống như người bị thương. Các chiến sĩ vác pháo hết sức vất vả nhưng không kêu ca.

Khi tìm hiểu tình hình Đoàn cố vấn được biết quân Pháp cắm đầy vỏ chai rượu xung quanh cứ điểm để đối phó với quân đội Việt Nam đi chân đất. Đoàn cố vấn bảo bộ đội đột kích chuẩn bị vải lót, chờ khi xung kích lót trên vỏ chai, và điện gấp về nước gửi cho một số giày thể thao đế cao su đem phát cho đội biệt kích. Pháo binh cũng được phát một ít. Nhưng chiến sĩ đi chân đất quen, mang giày thấy khó chịu, cho nên họ vẫn đi chân đất vác pháo. Hành quân không đội hình, phần nhiều là chỉ huy cấp trên chỉ định địa điểm tập kết, thời gian đến, còn cách đi như thế nào tự mình tự do quyết định, đi đường nào cũng tự chọn. Sau khi chỉ định xong địa điểm tập kết thời gian đến cán bộ đại đội trở lên đi ngựa, không quản bộ đội. Kiểu hành quân tự do đó, tốc độ rất chậm, dù bộ binh hay pháo binh, một ngày đi không được 20 km. Họ nghe nói trong chiến tranh giải phóng chúng ta một ngày ba bốn mươi cây số, nhất là có lúc có thể đến 50-80 cây số, cảm thấy không tin, cho rằng căn bản không thể được.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:05:26 am
Quân nhu và lương thực của quân đội Việt Nam đều do dân công vận tải. Những dân công này hầu hết là nữ thanh niên dân tộc Nùng, không có nam giới. Bởi vì con trai có sức lao động khoẻ, phần lớn đều đi lính, mà lúc đó tỉ lệ con gái và con trai Việt Nam rất chênh lệch, người ta nói con trai ở Bắc Bộ Việt Nam có thể lấy hai, ba vợ. Vợ như người làm thuê, họ làm lụng ngoài đồng, chăm lo gia đình, chi viện tiền tuyến, tất cả đều do họ làm, cũng có rất nhiều chị em bốn mươi, năm mươi tuổi vẫn chưa lấy chồng. Chúng tôi thấy chi viện tiền tuyến đều là phụ nữ, họ chủ yếu vận tải lương thực của Trung Quốc viện trợ trên biên giới Việt – Trung ra tiền tuyến, đều chặt một cây tre tuỳ ý, chẻ làm đôi, làm chiếc đòn gánh đơn giản, có khi dùng cả sào tre đan sọt thô sơ treo ở hai đầu gánh lót lá chuối đổ lương thực và gánh ra tiền tuyến. Đội ngũ của họ lại còn chỉnh tề hơn quân đội, cứ từng hàng nối đuôi nhau, vừa đi vừa hát dân ca, khi ăn thì lấy nồi đồng mang theo, đặt bếp, đối lúa nấu cơm, không có rau, chỉ có ít muối, hái một ít ớt rừng để ăn. Bộ đội cũng không có rau gì, ăn ớt rừng. Các cố vấn chúng tôi cũng thường xuyên như thế. Ớt rừng đầy núi, bất cứ lúc nào ở đâu cũng hái được, lớn bé gần bằng hạt ngô hơi dài hơn chút ít, rất cay, hái về lấy viên đá rửa sạch đập nát, trộn với muối là ăn được. Tôi nhiều lần ăn thứ ớt này đến nỗi đau dạ dày, sau khi về nước nhiều năm mới khỏi.

Sau khi đội ngũ đến nơi tập kết, mệnh lệnh chiến đấu cũng đã truyền xuống. Tôi lập tức kiến nghị điều tiểu đoàn 3 phối hợp với trung đoàn 174 đánh Đông Khê, cho một đại đội tiến sát bắt gần, sau khi hoàn thành nhiệm vụ vẫn phối hợp hành động với trung đoàn 174. Hai đại đội khác của tiểu đoàn số 3 đánh chiếm trận địa ở đông Đông Khê, tham gia chuẩn bị hoả pháo, sau khi chuẩn bị xong hoả pháo phối hợp với trung đoàn 209 đánh địch có thể nhảy dù. Hai đại đội này do tiểu đoàn phó “Ước” phụ trách. Tôi cũng chuẩn bị đi xuống hai đại đội này. Hai tiểu đoàn khác do Chính uỷ dẫn đầu đi xuống đại đoàn 308, chuẩn bị đánh viện binh địch trên mặt đất. Đêm 15/9, trung đoàn 174 tập kích hai cứ điểm tiền tiêu nhỏ của địch ở Đông Khê, để quét sạch vòng ngoài, chuẩn bị tổng công kích. Đại đội pháo thực hiện kế hoạch tiến sát bắn gần, lợi dụng cơ hội địch chú ý tình hình cứ điểm tiền tiêu, lẳng lặng đi vào trận địa, lợi dụng cỏ dày ẩn nấp, lính tráng rút vào trong rừng chân núi gần đó, chuẩn bị chiều 16. Khi chuẩn bị xong hoả lực tiến vào trận địa, phá huỷ lô cốt ngầm tiền duyên của địch.

Chiều 16/9, trước khi tổng công kích bắt đầu tôi leo lên đỉnh núi của trận địa mà hai đại đội trinh sát của tiểu đoàn phó tiểu đoàn 3 cũng đặt ở một đầu của đỉnh núi này, cách trận địa pháo hơn 100 mét. Khi tôi lên, đại bộ phận hoả pháo đã vào trận địa, nhưng vẫn còn có hai khẩu pháo nằm trên dốc, rất khó khiêng lên núi. Tôi quen thuộc địa hình gần Đông Khê, nhớ lại đối chiếu với bản đồ. Khi quan sát trận địa pháo phát hiện một số đồ hộp cho thấy bọn địch từng đến đây. Sau khi tìm hiểu thêm, mới biết mấy tháng trước khi đánh Đông Khê, trận địa của đại đội pháo binh quân đội Việt Nam ở đây. Điều đó rất nguy hiểm, địch đã dò la nơi đây, một khi đánh trận thì nơi đây là đối tượng tấn công của hoả lực địch. Tôi nhắc “Ước”, nói rõ điều đó đi ngược tri thức cơ bản lựa chọn trận địa nhưng bây giờ không thể nào thay đổi, đành phải để họ gấp rút đào nhiều hầm cá nhân tránh đạn. Chúng tôi cũng đào hầm cá nhân ở nơi quan sát. Quả nhiên hoả lực chờ sẵn bắt đầu, đạn pháo của địch nổ tới tấp trên đỉnh núi này, trận địa chìm trong khói đạn rất nhiều đạn pháo rơi xung quanh chúng tôi. Nhưng phía ta vẫn ngoan cường, vẫn tiếp tục nã pháo điểm rơi của đạn pháo cũng khá chính xác, trừ một số ít ra ngoài còn đại đa số đạn pháo đều rơi vào trong cứ điểm Đông Khê. Chẳng mấy chốc, pháo binh tiến sát bắn gần nổ súng, đánh rất tốt, công sự phía đông cứ điểm chìm trong khói lửa dày đặc. Hoả lực của địch thưa dần. Trên trận địa có thương vong.

Sau khi kết thúc chuẩn bị hoả lực, tôi lập tức kiến nghị chuyển xuống dưới núi chờ lệnh và bắt liên lạc với trung đoàn 209. Lúc này pháo binh địch ở Đông Khê không nổ súng nữa, các tiếng súng khác cũng im ắng. Tôi xuống núi về Ban chỉ huy tiểu đoàn tạm thời của “Ước”, 14 người. Đêm hôm đó, tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ suốt đêm, trong lúc đó, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn gọi điện cho tôi, bảo tôi về gấp Ban chỉ huy. Sáng sớm ngày 17, tôi nêu những việc cần chú ý khi đánh nhảy dù với “Ước” và các cán bộ của đại đội pháo binh, chủ yếu là đề phòng hoả lực yểm hộ trên không của địch khi nhảy dù, trận địa pháo không nên chọn trên đồi núi mà nên chọn ven rừng cây hai bên đồi núi hoặc trong cỏ rậm, phân tán ra, đào hầm cá nhân v.v.. Họ đã liên hệ với trung đoàn 209, tôi để họ yêu cầu trung đoàn 209 yểm hộ họ trên mặt đất.

Sau khi ăn sáng, tôi và phiên dịch lập tức lên đường. Lúc này Đông Khê chỉ còn tiếng súng lẻ tẻ. Khi đi qua Đông Khê đến gần quốc lộ Thuỷ Khẩu, gặp một thương binh, cánh tay trái băng bó một miếng băng đỡ tay quàng lên cổ, tay trái chống cây gậy, lảo đảo lê bước, sắc mặt vàng nhợt. Tôi qua phiên dịch hỏi anh bị thương như thế nào. Anh nói khi anh phá lô cốt ngầm của địch, trên đường tiến lên bị lựu đạn địch làm bị thương cánh tay trái, anh còn một tay vẫn đưa thuốc nổ lên làm nổ tung lô cốt ngầm của địch, sau khi trở về mới phát hiện mình đứt khớp xương tay trái chỉ còn dính một miếng da chưa đứt. Anh bảo tiểu đội trưởng cắt miếng da đó đi, tiểu đội trưởng cắt cho anh và đưa anh về nơi băng bó, băng bó xong chờ cáng đưa về bệnh viện, vẫn chưa đến lượt anh, nói cáng chỉ khiêng những ai không đi được, vì anh có thể đi được, nên bảo anh đi theo cáng. Anh đi rất chậm, rời lại sau, anh nói tên anh, bây giờ tôi chỉ còn nhớ anh họ Trần. Tôi thấy công tác cứu hộ chiến trường có chuyện lạ nên hơi tức giận. Một chiến sĩ mất một cánh tay lại là nhân vật dạng anh hùng mà để anh tự đi tìm bệnh viện (bệnh viện ở trong biên giới Việt Nam đối diện Thuỷ Khẩu). Tôi vội bảo phiên dịch và bảo vệ của tôi tìm một chiếc cáng. Họ đi không xa thấy mấy chiếc cáng của những người ẩn nấp máy bay ở gần đó, họ xin một chiếc để khiêng anh đi.

Sau đó tôi tìm được Bộ chỉ huy tiền tuyến của Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam. Đoàn cố vấn ở trong khe núi gần đó. Ở đây rừng cây rậm rạp, có một hang đá to tự nhiên, mọi người làm việc ở cửa hang, đêm đến thì ở trong hang. Tôi gặp Mai tham mưu trưởng báo cáo tình hình với đồng chí. Đồng chí bảo tôi Đông Khê đã công phá nhưng không bắt được tù binh nào. Họ đang tra hỏi. Hiện tượng này không bình thường. Sau đó vất vả mới bắt liên lạc được điện thoại với trung đoàn 174, theo trung đoàn trưởng nói : “ Tù binh không có ”, “ Tiểu đoàn lộn xộn ” ở Việt Nam là câu chửi thề gần như chữ “khốn kiếp”. Đồng chí Trương Chí Thiện nói : “ Địch không thể chạy thoát, trước nói địch có bảy tám trăm tên, nhưng thi thể chỉ có hơn 100, còn lại đi đâu, ngay thương binh địch cũng không bắt được, rất khả nghi. Tôi cho rằng cuộc chiến đấu chưa kết thúc. Mai tham mưu trưởng bảo tôi giúp trung đoàn làm rõ tình hình, vẫn phải làm tốt việc chuẩn bị chiến đấu không được sơ xểnh, xem sau khi trời tối địch có ra phá vây không, phải theo dõi chặt chẽ ”.

Sau cơm trưa, số máy bay địch tăng thêm nhưng không nhảy dù, mặt đất cũng không có tin tăng viện. Chẳng bao lâu Bộ tổng báo cho biết bộ đội của trung đoàn 174 đánh chiếm Đông Khê bị địch phản kích, bọn địch nấp trong hầm ngầm. Đoàn cố vấn lập tức kiến nghị : bao vây chặt Đông Khê, đề phòng chúng phá vây. Sau trời tối mở lại cuộc công kích nếu địch còn nấp trong hầm ngầm thì phải tìm cửa hầm, đặt thuốc nổ, cho nổ từng đoạn một rất có hiệu quả. Rất nhanh bọn địch đầu hàng. Cuộc chiến đấu kết thúc trước trời hửng sáng. Hơn 200 tù binh địch (kể cả thương binh) qua thẩm vấn tù binh mới biết địch chỉ có ban chỉ huy một tiểu đoàn (một tiểu đoàn phó) hai đại đội bộ binh và hơn 10 khẩu pháo, tất cả hơn 380 người. Hoả lực có trọng pháo của Pháp, sơn pháo, pháo cối, chủng loại pháo hỗn tạp. Từ ngày 18, vẫn chờ đánh địch tăng viện, nhưng không có tăm hơi gì. Máy bay địch cũng không nhiều, xem ra chủ yếu là trinh sát thỉnh thoảng bắn vu vơ, cũng không giống như trinh sát hoả lực.

Tin từ hướng Thất Khê, Cao Bằng cũng đều nói không có động tĩnh gì. Qua hai ngày nữa, ngoài địch ở mấy cứ điểm nhỏ tương đối xa ngoại vi Cao Bằng rút về Cao Bằng ra, vẫn không có tình hình quan trọng khác. Lúc này xem xét lệnh cho đại đoàn 308 tiến quân lên Thất Khê, chuẩn bị đánh lấy lại cứ điểm Thất Khê. Trung đoàn 174, 209 đến nam Thất Khê để chuẩn bị đánh chi viện. Chúng tôi được biết ở chỗ đồng chí Trương Chí Thiện cố vấn trung đoàn 174 ; lần này trung đoàn 174 thương vong rất lớn, nhưng họ không biết con số thực tế, phía Việt Nam không nói thực, đồng chí dự tính số người thương vong có thể lớn gấp đôi số địch bị diệt, là cuộc chiến đấu lợi bất cập hại. Nguyên nhân là cán bộ chỉ huy đại đội trở lên của quân đội Việt Nam không dám áp sát mặt trận chỉ huy, sau khi đánh vào cứ điểm bộ đội tự tác chiến, rất hỗn loạn, cho nên thương vong nhiều không cần thiết.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:06:16 am
Lúc rỗi việc, Mai tham mưu trưởng báo tôi đi gặp tù binh, ngầm ghi lại con số, xem có khớp với báo cáo hay không, nhưng không trực tiếp nói chuyện với tù binh. Tôi và phiên dịch đi. Cách Ban chỉ huy Đoàn cố vấn chừng năm cây số, trên dốc nhỏ có một dãy nhà tre lá, không có dân, nhìn thấy tù binh ngồi trước nhà, có mấy thương binh nhẹ cũng có vài người đứng tán chuyện. Trong nhà còn có mấy chục người nằm ngổn ngang, cũng có thương binh hoặc bệnh nhân. Tôi tính đại khái từng nhóm một, con số trên 200, đều là người da trắng, khớp với báo cáo. Khi tôi kiểm tra, các tù binh nhìn tôi có vẻ nghi ngờ, họ có thể thấy tôi không giống người Việt Nam, nhưng tôi không nói họ cũng khó đoán. Ở xung quanh tù binh chỉ có ba bốn lính cảnh vệ của quân đội Việt Nam. Tôi vô ý vứt trên đất mẩu thuốc lá hút xong bỗng một tù binh chạy đến nhặt lên hút, một người khác chạy lại giành lấy hút, lại có người chạy lại giật lấy, dập lửa bỏ vào miệng nhai. Tôi suýt buột cười, lấy hết số thuốc còn lại vứt cho họ, một trận nhốn nháo, náo động giành nhau thuốc nổi lên, khiến tôi được một trận cười no nê trước việc làm của các tù binh tự cho là dân tộc thượng đẳng. Thuốc lá đó là bao thuốc Pháp trung đoàn 95 tặng tôi, cũng không để lộ cương vị của tôi.

Lúc này hãy còn sớm, tôi và phiên dịch đi vòng qua Đông Khê, bởi vì tôi vẫn không tìm được Doãn Tuế, không hiểu được tình hình cặn kẽ của họ đánh trận cho nên muốn đi Đông Khê xem tình hình đánh trận thực tế. Xem Đông Khê một vòng thấy lô cốt ngầm phía đông bị đánh tan, trong đó còn có hoả pháo và các người, có pháo đã bị đánh hỏng, có cái còn tốt cũng chưa mang đi. Phía tây chỉ có một số lô cốt ngầm bị đánh sập, như nổ thuốc súng, còn có một số tương đối hoàn chỉnh. Thi thể nhìn thấy khắp nơi. Tôi cũng thấy vị trí của phía ta áp sát bắn gần cách lô cốt địch khoảng 500-600 mét, không có vết máu (sau này tìm hiểu không có thương vong), chỉ có những hòm đạn pháo vỡ, mấy vỏ đạn chưa mang đi. Xem ra họ đánh quả là rất tốt. Trở về Ban chỉ huy Đoàn cố vấn gần chập tối, sau khi báo cáo Mai tham mưu trưởng, đồng chí bảo tôi : Kế hoạch đánh Thất Khê tạm dừng. Vì có tình báo nói địch đang tấn công Thái Nguyên (hậu phương lớn của quân đội Việt Nam ở gần Thái Nguyên), Thất Khê cũng đã tăng quân địch có bốn đến năm tiểu đoàn, thậm chí nhiều hơn, có thể âm mưu chiếm lại Đông Khê. Đã ra lệnh cho Trung đoàn 209 giữ Đông Khê, đổi trung đoàn 174 làm đội dự bị, đại đoàn 304 chuẩn bị bao vây tiêu diệt trong khi vận động.

Nhưng qua mấy ngày địch vẫn chưa có động tĩnh, song theo báo cáo Thái Nguyên đã bị tấn công. Địch đã tập trung trọng binh ở Thất Khê, không thể không hành động, chỉ có kiên nhẫn chờ đợi. Đoàn cố vấn kiến nghị không nên mất tỉnh táo trước tin tức từ Thái Nguyên truyền về nên tập trung sức chú ý vào phía địch ở Thất Khê. Đến cuối tháng 9, vẫn chưa thấy địch hành động. Lúc này, quân đội Việt Nam thiếu lương thực, có đơn vị bộ đội tự đi đến gần Thuỷ Khẩu thồ lương thực, có đơn vị đến nhà dân kiếm ăn. Chuẩn bị chiến đấu có lơ là, song lúc đó chúng tôi chưa biết. Trời mưa dầm dề, chúng tôi có những người ra nước ngoài không mang chăn, ngay cả áo len cộc tay cũng không có, nhiệt độ xuống, nhất là về đêm tương đối lạnh đành phải kiếm ít rơm chui vào trong để nghỉ. Chiều 1/10, một tiểu đoàn địch bỗng xuất hiện ở nam Đông Khê thật là bất ngờ, không hay biết tí gì. Mai tham mưu trưởng lập tức dẫn tôi và đồng chí Nghê Hữu Thạch đến Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng quân đội Việt Nam, Võ Nguyên Giáp nói theo báo cáo của đại đoàn 308, họ đang tập trung bộ đội vận tải lương thực, chuẩn bị xuất kích, nhưng tập trung bộ đội có khó khăn, có những tiểu đoàn, đại đội không tìm thấy người lãnh đạo ; trung đoàn 209 báo cáo nói, sau khi địch gặp quân ta đánh chặn ở vùng nam Đông Khê đã rút lui (phía nam Đông Khê có một ngọn núi dốc đứng chơ vơ một mình trên đó, có công sự rất kiên cố, quân Pháp lợi dụng hang đá thiên nhiên xây nên) sau chiến đấu Đông Khê do một trung đội của trung đoàn 209 khống chế. Lúc này điện đài nhận được tin quân Pháp cầu viện nói ở Đông Khê bị quân đội Việt Nam chống cự kiên cường yêu cầu cho chi viện tấn công Đông Khê. Thì ra dã chiến quân Pháp không mang vũ khí nặng, nếu cần thì nhờ không quân ném bom. Đồng thời chúng cũng không mang theo lương thực, thức ăn đều là thực phẩm từ trên không xuống, một ngày hai lần, mỗi một dù mang một hòm giấy trong đó đựng thức ăn một bữa cho cả trung đội, trong đó có 50 gói bích quy, mỗi gói 20 miếng, trong đó có một gói muối, một viên thuốc để uống nước lã (khi uống bỏ vào trong nước lã có thể khử độc không đau bụng) còn có 2 tờ giấy một cái phong bì hai tờ giấy viết thư, gói của trung đội trưởng cũng vậy, chỉ khác là thay muối bằng đường. Thiếu tá trở lên, mỗi người một thùng giấy trong đó có rượu, lạp xường, thuốc lá, đồ hộp v.v... khỏi phải nói, một người chứ mười người cũng đủ ăn.

Lúc này Tham mưu trưởng Mai kiến nghị đưa một tiểu đoàn đến nơi cách nam Đông Khê hơn 10 km chiếm đóng một góc núi ở đó, cắt đứt đường rút lui của địch, hình thành thế bao vây. Thoáng một cái trời đã tối xẩm, theo tìm hiểu, bộ đội của chúng ta, ngoài khi bắt đầu đánh núi nam Đông Khê ra, chưa tiếp xúc với kẻ địch, tình hình vẫn chưa rõ ràng. Tham mưu trưởng Mai bảo tôi và đồng chí Nghê Hữu Thạch thay nhau trực ban ở Bộ chỉ huy tiền phương Bổ Tổng quân đội Việt Nam, có tình hình gì quan trọng lập tức báo cho đồng chí. Đêm đó không có việc gì lớn, nhưng theo tìm hiểu, con số địch phản công Đông Khê rất lớn, dứt khoát không chỉ một tiểu đoàn. Tảng sáng ngày hôm sau, điện đài nhận được địch gọi nhau, nói chúng đã bị bao vây, đường rút lui bị quân Việt Nam cắt đứt, yêu cầu quân Pháp ở nam Thất Khê tấn công eo núi cách nam Đông Khê hơn 10 km. Điều đó nói lên nơi đó đã bị quân đội Việt Nam chiếm lĩnh. Sau đó qua tìm hiểu biết là đại đội cảnh vệ của đại đoàn 308, bởi vì lúc đó vẫn chưa tập họp được bộ đội trung đoàn, số tập họp được đã ra tiền tuyến, một lúc không thể đưa bộ đội cắt đứt đường rút lui của địch, cho nên cử đại đội cảnh vệ của đại đoàn ra. Đêm đó tình hình rất hỗn loạn, song trước khi trời sáng đã có bộ đội áp sát địch, bắt đầu nghe tiếng súng giao tranh.

Ngày 2/10, không có đánh nhau gì lớn, đại đoàn 308 vẫn chưa mở công kích, sáng hôm đó, địch thả dù 4 khẩu sơn pháo 90 mm của Anh, trong đó có một khẩu rơi vào trận địa của quân đội Việt Nam. Nhưng địch tiến gần vùng núi tây nam Đông Khê, chiếm lĩnh mấy quả đồi cố thủ, cũng không dùng sơn pháo thả dù để tấn công Đông Khê, khoảng 10g, được máy bay chiến đấu yểm trợ, mười mấy chiếc máy bay vận tải thả dù lương thực xuống gần các đỉnh đồi quân Pháp chiếm đóng, có rất nhiều thực phẩm rơi trong trận địa quân đội Việt Nam, cũng có nhiều rơi giữa địch và ta, hai bên dùng súng trường bắn nhau để giành lấy thùng giấy đựng thực phẩm, khoảng 4 giờ chiều, lại xuất hiện tình trạng tương tự. Tuy trước sau không có chiến đấu lớn, nhưng dần dần điều tra rõ địch có 4 tiểu đoàn, biên chế thành một binh đoàn, chỉ huy là trung tá Lepage là anh hùng của nước Pháp lãnh đạo bộ đội người da đen chống Đức ở Bắc Phi thời chiến tranh thế giới thứ hai, chuyên thống lĩnh bộ đội người da đen. Binh đoàn Lepage này quản lý ba tiểu đoàn người da đen, binh lính đều là người Maroc và Algerie, Bắc Phi, còn có một tiểu đoàn lính dù người da trắng. Hôm đó chưa xảy ra đánh nhau lớn, xem ra có ba nguyên nhân : một là – quân đội Việt Nam chưa hoàn toàn tới tuyến một số đã tới vẫn chưa quen thuộc tình hình địa hình ở nơi đã đến lắm, không dám tiến công mạo hiểm, hai là – ban ngày quân đội Việt Nam sợ máy bay, cũng không muốn hành động; ba là – Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng quân đội Việt Nam thấy binh lực địch quá lớn, có chút do dự không nghiêm khắc yêu cầu cấp dưới tiến công. Lúc này chúng tôi kiến nghị với Hoàng Văn Thái đánh dã chiến là cơ hội tốt binh lực địch tuy nhiều, nhưng không tấn công Đông Khê mà lại kêu cứu chứng tỏ địch hoang mang, không nên bỏ lỡ thời cơ tốt. Hoàng Văn Thái tuy có nói với Võ Nguyên Giáp, thấy điệu bộ của Võ Nguyên Giáp nên chưa hạ quyết tâm đánh tiếp. Chúng tôi lập tức báo cáo với tham mưu trưởng Mai, Mai nói với Trần, Vi. Lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trần Canh, Vi Quốc Thanh cả ba người ở trong một bản gần đó. Trần, Vi nêu kiến nghị với Hồ. Thái độ Hồ kiên quyết lệnh cho Võ Nguyên Giáp nghiêm khắc yêu cầu bộ đội nhất định phải nắm lấy thời cơ tiêu diệt toán địch này. Tối hôm đó, bộ đội của đại đoàn 308, cơ bản đến đông đủ, việc bố trí mới gọi là hoàn tất. Tuy chưa đánh lớn, nhưng địch lại đi lên dựa vào hướng tây, quân đội Việt Nam lại tiến gần mấy cây số, xa lòng chảo Đông Khê, đi vào trong rừng, điều kiện phòng không tốt hơn nhiều. Nhưng chỉ bắn tỉa địch, không xung phong.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:06:53 am
Sáng 3/10, có khoảng 1 tiểu đoàn địch ở Thất Khê ra chi viện. Bộ đội ta phụ trách cắt đứt đường rút lui của binh đoàn Lepage, đánh chặn viện, địch bắt đầu lùi về phía sau, ngừng tiến công, án binh bất động, ở thế giằng co với bộ đội phía ta. Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng quân đội Việt Nam truyền đạt chỉ thị kiên quyết tiêu diệt toán quân này. Đại đoàn 308, trung đoàn 209 mở cuộc tấn công địch tương đối lớn, nhưng thu hoạch không lớn. Chỉ khi nào máy bay địch đưa thực phẩm xuất hiện thì nổ súng nhiều, xem ra là để tranh thủ ném thực phẩm. Có thể vì rừng rậm, hiệu quả thả không tốt, nên máy bay địch thả dồn dập, hầu như cả ngày. Quân đội Việt Nam đưa cơm rất không kịp thời, khi đưa cơm lại thường tìm không thấy bộ đội, thực phẩm địch thả xuống giúp quân đội Việt Nam rất nhiều. Sau này cùng với việc quân địch dần dần giảm bớt, nơi chiếm đóng cũng không ngừng thu hẹp, quân đội Việt Nam thu được thực phẩm của địch ngày càng nhiều, dù mình không đưa cơm cũng không đói. Chiều hôm đó được biết địch ở Cao Bằng đã bỏ Cao Bằng, Trung tá Charton dẫn khoảng 3 tiểu đoàn chạy xuống phía nam đi theo quốc lộ 4. Lúc này đã rõ, nhiệm vụ của binh đoàn Lepage là hỗ trợ binh đoàn Charton rút khỏi Cao Bằng. Chúng tôi lập tức báo cáo tình hình với Tham mưu trưởng Mai.

Đồng chí chỉ thị cho chúng tôi: tình hình này rất có lợi. Bây giờ phải bám chặt binh đoàn Lepage, không được lơi lỏng, phải ráo riết đốc thúc bộ đội tấn công mạnh, tiêu diệt binh đoàn Lepage trước khi địch hội quân, nếu chúng hội quân thành công, sẽ gây thêm rất nhiều khó khăn cho chiến đấu. Phải điều động bộ đội đi ngăn chặn binh đoàn Charton, ngăn cản chúng tiến lên. Mai lại đến chỗ Hồ, Trần, Vi chúng tôi nói với Hoàng Văn Thái ý kiến của Mai. Hoàng nói cử bộ đội đi đánh chặn binh đoàn Charton có khó khăn, bây giờ không còn bộ đội nào có thể cử đi được nữa, đại đoàn 308, trung đoàn 209 còn 1 tiểu đoàn, đều đã dùng ở phía binh đoàn Lepage, chỉ có trung đoàn 174 là đội dự bị của Bộ Tổng, nếu đi thì chỉ có cho trung đoàn này đi; mà xét thấy binh đoàn Lepage vẫn chưa tổng thương nguyên khí nên không thể động đến. Đề nghị phía Việt Nam điều bộ đội địa phương giám thị Cao Bằng đi làm nhiệm vụ này, phía Việt Nam nói không liên hệ được, không biết bộ đội bây giờ ở đâu. Lúc này Võ Nguyên Giáp về thì ra đồng chí ấy cũng đến chỗ Hồ, Trần, Vi. Tình hình sau khi trở về đồng chí nói giống như chỉ thị của Tham mưu trưởng Mai cho chúng tôi. Khi bàn đến việc cử bộ đội đi đánh chặn viện binh đoàn Charton, Võ Nguyên Giáp đã cử người đi bắc Đông Khê, tìm bộ đội địa phương hoặc đội du kích ra đánh làm chậm bước tiến của chúng. Sự thực là sau khi địch rút khỏi Cao Bằng, bộ đội địa phương giám thị chúng ta phát hiện và đuổi theo bám sát chúng. Tối mồng 3 họ tấn công binh đoàn Charton, địch rất hoảng sợ, lập tức phóng lửa đốt cháy hơn 50 chiếc ôtô và hơn 10 khẩu pháo mang theo, bỏ quốc lộ 4, luồn rừng phía tây quốc lộ 4. Bộ đội địa phương quân đội Việt Nam không tìm được hướng đi của địch. Ôtô bị đốt có cái có thể sửa lại dùng được, và pháo bị đốt cũng không nghiêm trọng, sau khi sửa chữa phần lớn đều sử dụng được.

Tuy nhất thời không rõ hướng đi của binh đoàn Charton, nhưng quân đội Việt Nam thường xuyên có thể thu được liên hệ vô tuyến điện giữa Lepage và Charton. Lepage bảo Charton tiến nhanh về phía ông ta; còn Charton nói vì quân đội Việt Nam đánh chặn, núi cao rừng rậm, không có đường đi, hành động khó khăn, muốn binh đoàn Lepage đưa quân đến đón. Mấy lần nghe được nội dung đại thể như thế, qua đó có thể phán đoán khoảng cách và phương hướng của hai toán quân này ; cho thấy chúng rất hoảng sợ, cũng rất khó khăn. Bộ tổng chỉ huy quân đội Việt Nam từ đó cũng yên tâm hơn, vì thế chuyển tâm chỉ huy công kích vào binh đoàn Lepage. Thế nhưng, rạng sáng ngày 4, đại đoàn 308 báo cáo, bộ đội mất hút binh đoàn Lepage không biết địch chạy trốn lúc nào. Mọi người rất ngạc nhiên, e rằng địch đã chạy thoát. Nhưng qua bình tĩnh phân tích cho rằng địch không thể về Thất Khê vì binh đoàn Charton còn ở phía bắc, Lepage không thể bỏ mặc, nên kiến nghị phía Việt Nam cho đại đoàn 308 tìm kiếm dấu vết địch rút lui, đuổi theo địch bám chặt không rời. Ngày 4 không biết địch ở đâu, sáng ngày 5, đại đoàn 308 mới báo cáo đêm ngày 4 đã đuổi kịp địch, té ra địch đi bốn, năm km về hướng tây, chiếm một núi cao rất dốc, gọi là núi Cốc Xá, nơi này núi cao rừng rậm, dễ phòng thủ khó tấn công. Hoả pháo của Việt Nam tiến lên trong rừng rậm rất khó khăn, không có đường, sơn pháo cũng rất khó sử dụng, nhưng pháo cối thì có thể được. Bộ đội rất vất vả, thương vong cũng rất lớn, yêu cầu nghỉ chỉnh đốn. Ý của Võ Nguyên Giáp đã đánh 4 hôm bộ đội thật ra rất mệt, nên xem xét ý kiến của bộ đội. Chúng tôi kiến nghị Hoàng Văn Thái, trong giờ phút then chốt này không nên ngừng công kích, không thể để cho địch được dịp xả hơi. Lúc này Võ Nguyên Giáp bảo Hoàng Văn Thái bảo đại đoàn 308 chờ lệnh. Đồng chí lại đến chỗ Hồ, Trần, Vi, lúc này chúng tôi liên hệ được điện thoại với đồng chí cố vấn đại đoàn 308 Vương Nghiên Tuyền, đồng chí nói thương vong không lớn, lần thương vong lớn nhất là lúc bộ đội giành thực phẩm thả dù, thì ra địch cố ý ném một số thực phẩm xuống hậu phương trận địa của quân đội Việt Nam dụ rất nhiều chiến sĩ ta ra lấy, nhưng những lần thả tiếp theo không phải là thực phẩm mà là tạc đạn, cách mặt đất chừng 20 mét thị đạn nổ trên không, gây thương vong cho gần 1 đại đội của quân đội Việt Nam. Quân đội Việt Nam muốn ngừng công kích tiến hành chỉnh đốn chủ yếu là vì chiến đấu bốn ngày liên tục, khi truy kích binh đoàn Lepage, hành động trong rừng nguyên thuỷ rất khó khăn, bộ đội mệt mỏi, tác phong không nhanh nhẹ, sợ khổ, sợ hy sinh, vả lại chủ yếu là vấn đề cán bộ.

Sau khi chúng tôi báo cáo tình hình với tham mưu trưởng Mai, đồng chí nói : “Trần, Vi chủ yếu nói vấn đề tác phong chiến đấu với Hồ, thái độ của Hồ kiên quyết rõ ràng : Khi Võ Nguyên Giáp đến, Hồ đã chỉ thị cho Võ phải động viên bộ đội kiên quyết ngoan cường, phải có tinh thần không sợ khổ, không sợ chết, không sợ mệt, tác chiến liên tục, kiên quyết bám địch không rời, liên tục công kích, nhất định tiêu diệt được binh đoàn Lepage trước khi địch hội quân v.v.. Khi chúng tôi trở về Bộ chỉ huy tiền tuyền, Bộ Tổng thì Võ Nguyên Giáp đang gọi điện thoại cho đại đoàn 308. Thông qua Hoàng Văn Thái được biết Võ Nguyên Giáp truyền đạt chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đại đoàn 308. Trong lúc rỗi rãi trong chuyện trò với Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái chúng tôi nói rõ, quân ta mệt, quân địch cũng mệt, quân ta có thương vong, quân địch thương vong còn lớn hơn ta, bây giờ địch ở vị thế bị động bị đánh, sợ bị tiêu diệt, kinh hồn táng đởm, chúng ta đánh chúng không có lo ngại gì. So sánh thì phía ta có lợi, chỉ cần nói rõ những điều đó với cấp dưới, làm tốt công tác tư tưởng chính trị chiến trường, có lòng tin thì sẽ có quyết tâm, thì sẽ nâng cao dũng khí, nâng cao ý chí chiến đấu, có thể đánh thắng. Giữa chúng tôi với Võ, Hoàng nói chuyện không cần phiên dịch. Võ nói, những điều đó Hồ Chủ tịch cũng đã phân tích, lãnh đạo của đại đoàn 308 đã tiếp nhận ý kiến của Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng. Có điều ngày 5 này vẫn phẳng lặng, không có tin tức gì làm người ta vui mừng.

Đêm 5/10 cuộc chiến bỗng trở nên ác liệt. Từ sáng ngày 6, liên tiếp truyền đến tin tức chiếm được trận địa nào đó của địch, bắt một số tù binh địch. Ngày 6 xem ra chiến đấu rất tốt, dự đoán thời gian binh đoàn Lepage bị tiêu diệt sẽ không lâu. Nhưng đêm hôm đó, máy thu thanh của đồng chí Vi Quốc Thanh mang theo nhận được tin của AFP nói hai binh đoàn Lepage và Charton đã hội quân, sau khi hai binh đoàn này hội quân sẽ kết thành binh đoàn cực mạnh trên chiến trường Đông Dương, bất khả chiến thắng. Nhưng kết quả điều tra, không phát hiện binh đoàn Charton, quả núi bị binh đoàn Lepage chiếm giữ phần lớn bị ta tấn công, tàn quân địch chỉ cố giữ một chỗ rất nhỏ. Song dự đoán binh đoàn Charton cũng ở gần đó. Bộ chỉ huy tiền phương đốc thúc Đại đoàn 308 ráo riết tấn công, không để cho địch có cơ hội xả hơi.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:07:24 am
Sáng 7/10 được báo cáo Lepage đã bị bắt, chỉ huy phó của y bị bắn chết, đồng thời phát hiện binh đoàn Charton ở gần đó, đã vòng qua núi Cốc Xá, nhưng hành động chậm chạp Đại đoàn 308 đã ra lệnh cho bộ đội thừa thắng truy kích. Lúc này Bộ chỉ huy tiền phương hết sức phấn khởi vui mừng. Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chỉ thị cho Võ Nguyên Giáp, nhân lúc sĩ khí dâng cao phát huy tinh thần liên tục tác chiến, bám chặt binh đoàn Charton tiêu diệt chúng, hiện giờ chúng đang trong cảnh khó khăn, quyết không để cho chúng có cơ hội nghỉ ngơi. Võ Nguyên Giáp cũng rất phấn khởi nói với Hồ, Trần, Vi đại đoàn 308 đã ra lệnh cho bộ đội xuất phát ngày hôm đó liên tiếp truyền về báo cáo bắt được bao nhiêu tù binh. Về sau con số lên đến 10.000 người, rõ ràng là trong đó có báo cáo trùng lặp và báo cáo vống lên, nhưng cũng chứng tỏ thắng lợi là khẳng định. Chiều 7 truyền đến tin Charton bị bắt. Đến đây hai binh đoàn quân Pháp đều bị tiêu diệt, nhưng vẫn còn không ít binh lính chạy trốn vào rừng, một bộ phận quân đội Việt Nam tiếp tục lùng sục trong núi tìm bắt tàn quân. Lúc này một tiểu đoàn từ Thất Khê kéo ra chi viện cũng phải bỏ chạy về Thất Khê. Tiếp đó Hồ, Trần, Vi chỉ thị Bộ chỉ huy tiền phương Bộ Tổng tập kết bộ đội, bổ sung đạn dược lương thực, chuẩn bị nhanh chóng đánh lấy Thất Khê. Dự kiến ngày 10/10 đánh Thất Khê, nhưng đến hôm đó công tác chuẩn bị chưa xong, dọn dẹp chiến trường tốn rất nhiều người, ngay một lúc điều về không kịp. Đêm hôm đó phát hiện địch bỏ trốn Thất Khê. Đến lúc này bộ đội đều cho rằng chiến dịch đã kết thúc, khắp nơi hớn hở vui mừng.

Khi chúng tôi chào từ biệt Bộ chỉ huy tiền phương trở về Đoàn cố vấn, Hoàng Văn Thái nói : “ Lần này Đoàn cố vấn giúp chúng tôi rất lớn, Việt Nam chúng tôi chưa thể đánh một trận lớn như thế này, tư tưởng quân sự Mao Trạch Đông thật vĩ đại, dùng ở đâu thì thắng lợi ở đó, rất cảm ơn các đồng chí ”. Chúng tôi nói : “ Thắng lợi này là kết quả của lãnh đạo của Việt Nam và nỗ lực chung của chiến sĩ, Hồ Chủ tịch, Võ Tổng tư lệnh, còn có đồng chí, Chủ nhiệm Trần Đăng Ninh, chỉ huy có phương pháp, kiên quyết quả đoán, cộng với cán bộ chỉ huy và binh sĩ cấp dưới dũng cảm, ngoan cường. Không sợ khổ, không sợ chết. Còn có dân công chi viện tiền tuyến, cùng chung nỗ lực giành được thắng lợi. Thắng lợi lần này có rất nhiều kinh nghiệm, sau trận đánh cần tổng kết thật tốt, tất nhiên cũng có chỗ thất bại và sai sót cũng cần tổng kết, rút ra bài học, như vậy có thể nâng cao bộ đội lên một bước lớn. Đánh một trận, tiến một bước. Hy vọng trong tổng kết lại đạt được thành công ”.

Sau khi về làm báo cáo tóm tắt với tham mưu trưởng Mai, đồng chí bảo chúng tôi nghỉ ngơi. Thật vậy, mấy ngày đêm vất vả rất ít ngủ, chúng tôi đều chuẩn bị ngủ mấy ngày cho đã. Nhưng trưa hôm sau, tham mưu trưởng Mai lại giao nhiệm vụ cho tôi. Thì ra Võ Nguyên Giáp muốn đi thị sát hiện trường tác chiến, tham mưu trưởng Mai bảo tôi và trưởng phòng Vương Chấn Phu của đồng chí Trần Canh cùng đi, chủ yếu liên hệ với cố vấn, lựa chọn cán bộ chiến sĩ cấp dưới có biểu hiện tốt trong chiến đấu nói ngay tại hiện trường để Võ hiểu được bên dưới có nhân tài. Kinh nghiệm phong phú tác chiến dũng cảm, giỏi chỉ huy ; cần đề bạt thì đề bạt, chủ yếu là nhân tài dưới cấp đại đội, kể cả chiến sĩ. Bởi vì cán bộ của quân đội Việt Nam không phải đề bạt từ trong chiến sĩ, mà là học sinh được tuyển chọn đưa đi học tập huấn luyện quân sự ba tháng đến nửa năm, sau đó đưa xuống làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, cho nên khi đánh trận, những cán bộ này đều có biểu hiện tốt, nhưng có khá nhiều sợ chiến đấu, không biết đánh giặc, không biết chỉ huy. Chiến đấu giành được thắng lợi đều chỉ biểu dương chỉ huy, nhưng tác chiến thật sự là ở bên dưới. Ý kiến của tham mưu trưởng Mai là muốn đề Võ Nguyên Giáp thông qua khảo sát thực tế cơ sở cho việc thay đổi chế độ này của quân đội Việt Nam.

Chiều tối 12/10, tôi và Vương trưởng phòng, Hoàng Đôn phiên dịch của tôi, cùng với Võ Nguyên Giáp ngồi lên chiếc xe Jeep mui trần của Mỹ vừa mới lấy được. Võ Nguyên Giáp nói đi Thất Khê trước để tham gia đại hội mừng thắng lợi, sau đó đi xuống bộ đội chọn một số chỉ huy rồi đến chiến trường tiêu diệt Lepage, Charton, để nghe họ nói về cuộc chiến đấu đã qua. Chúng tôi kiến nghị với đồng chí, còn phải chọn trung đội trưởng, tiểu đội trưởng và chiến sĩ tác chiến tốt thì nói càng sinh động hơn, đồng chí đồng ý.

Chúng tôi lắc lư một hồi trên con đường làng chật hẹp, đi lên quốc lộ 4, chạy nhanh về Thất Khê. Trời tối dần, khi sắp đến Thất Khê, bên đường bên trái loé lên một bóng đen, Võ lập tức bảo dừng xe, rồi nhảy xuống xe nhanh như chớp chạy vội đến bóng đen đó, chúng tôi cũng vội vàng xuống xe đuổi theo. Thì ra bóng đen ấy lại là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đi chân đất, mặc quần áo thường dân, quần xắn lên đầu gối, đầu chít đầy vải băng, chỉ để hở hai mắt và mũi. Khi nói mới gỡ băng trên miệng, rất giống một thương binh. Chúng tôi biết Người không bị thương, đó chỉ là hoá trang, bởi vì khi đi ra ngoài Người đều phải hoá trang. Lúc này một chàng trai chạy đến, đồng chí ấy là lính bảo vệ của Hồ cũng hoá trang, trên lưng một khẩu tiểu liên, một mảnh vải quàng trên cổ, giống như chiếc áo choàng, che kín khẩu súng. Hồ chủ tịch cũng đến đại đoàn 308, Võ mời Người lên xe, Người kiên quyết không lên, chúng tôi lại mời Người lên xe, cũng vô ích, cuối cùng Người không lên xe, chúng tôi đành phải đi trước.

Đến Thất Khê trời tối đen như mực, không thấy rõ thứ gì, nhưng nhìn thấy nhiều quân nhân đi lại. Trên quảng trường rất lớn có thể là sân bay, bộ đội sắp hàng ngồi chung quanh. Dọc theo dãy ngồi của bộ đội, cứ cách mấy chục mét có một đống lửa trải, các chiến sĩ cất cao tiếng hát quốc ca Việt Nam. Không gặp người của Đại đoàn, mấy người phụ trách trung đoàn đón chúng tôi, đưa Võ Nguyên Giáp đi quanh một vòng, chúng tôi theo sau. Các chiến sĩ hô to khẩu hiệu : “ Hồ Chí Minh muôn năm ”, “ Mao Trạch Đông muôn năm ”. “ Muôn năm ” nghĩa là vạn tuế. Khi Võ Nguyên Giáp, đi một vòng chào các chiến sĩ, nói các đồng chí “ vất vả quá ” như đi duyệt binh. Lúc này, chúng tôi kiến nghị nhanh chóng kết thúc nghi lễ để đề phòng máy bay địch bắn phá, và khuyên Võ rời hiện trường thật nhanh. Võ đồng ý, sau khi chỉ thị cho mấy người phụ trách, chúng tôi đến đại đoàn bộ cách mấy cây số.

Ngày hôm sau được biết Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đến đại đoàn, nhưng sau khi trời sáng lại đi. Chúng tôi nghe đại đoàn báo cáo tình hình chiến đấu vừa qua với Võ Nguyên Giáp, là Tham mưu trưởng báo cáo, không nói khuyết điểm nhiều chỉ nói chỉ huy các cấp giỏi như thế nào, nội dung trống rỗng. Trình bày quá trình chiến đấu cũng rất sơ sài. Sau đó Vương trưởng phòng nói nhiệm vụ của chúng tôi đến đây với đồng chí Vương Nghiên Tuyền, cố vấn đại đoàn, yêu cầu đồng chí này thông qua cố vấn trung đoàn, tiểu đoàn lựa chọn một số nhân vật nổi bật trong chiến đấu bất kể cấp nào cũng được, nhưng chú trọng lựa chọn trong cơ sở. Thì ra, trước khi xuất phát, Võ Nguyên Giáp đã báo cho đại đoàn 308 muốn đi xem nơi nào. Cho nên đại đoàn 308 đã có sự sắp xếp, thi thể địch trên chiến trường cũng đã chôn cất qua loa. Chúng tôi mất hai ngày đi xem các nơi chiến đấu ngày mùng 2, 3 nơi một tiểu đoàn trưởng quân đội Việt Nam hy sinh và vùng núi Cốc Xá. Tiểu đoàn trưởng quân đội Việt Nam hy sinh vì quân Pháp ném bom napan, đốt cháy cả một cánh rừng, sở chỉ huy của tiểu đoàn trưởng ở trong rừng này, một số cán bộ chiến sĩ cũng bị chết cháy. Về sau còn tổ chức quốc tang đối với Tiểu đoàn trưởng này. Tại hai nơi khác đều do cán bộ của tiểu đoàn, đại đội kể lại quá trình chiến đấu, còn chiến sĩ cơ sở cần lựa chọn (đa số là tiểu đội trưởng) thì kể hành động cụ thể của họ trong tác chiến. Trong quá trình này, tôi phát hiện chức vụ cán bộ chỉ huy càng cao, càng không hiểu rõ tình hình chiến đấu cụ thể, họ có thể chỉ huy bộ đội khi tiếp cận địch, cũng có thể chỉ huy khi hai bên bắn nhau, một khi bắt đầu xung kích thì họ không hiểu tình hình. Ngược lại, cán bộ cơ sở đa số là tiểu đội trưởng, tiểu đội phó cũng có vài trung đội trưởng và chiến sĩ, khi kể về xung kích, vu hồi hoặc đột kích trận địa địch, đánh như thế nào, bắt địch như thế nào, kể rất cụ thể, và đều là hành động tự động, không có chỉ huy của cấp trên. Có một điều đội trưởng kể rất hình ảnh, họ công kích một quả núi, khi vận động lên trước, đi một lúc không thấy người chỉ huy đâu mấy tiểu đội trưởng bàn với nhau khi đánh thì ai thu hút hoả lực của địch, ai dẫn bao nhiêu người vu hồi, ai dẫn bao nhiêu người đột kích v.v.. phân công rõ ràng đâu vào đấy. Còn quân Pháp sợ nhất vu hồi và bao vây, một khi phát hiện bên sườn và sau lưng có quân đội Việt Nam thì khiếp đảm kinh hoàng, lúc này xung kích thì rất có lợi. Họ cũng nói đánh nhau ác liệt, nhưng khi nói đến xung kích thì xem ra không có gì ác liệt vì quân đội Việt Nam một khi xung kích thì địch bỏ chạy, chạy không thoát thì nộp súng. Quân Pháp đánh trận một là dựa vào hoả lực, hai là dựa vào công sự, công sự trong dã chiến sơ sài chủ yếu dựa vào hoả lực. Rất nhiều tiểu đội trưởng đều nói kinh nghiệm kiềm chế và thu hút hoả lực của địch. Trong chiến đấu, kiềm chế và thu hút hoả lực của địch trước, sau đó vu hồi qua bên sườn hoặc sau lưng địch, rồi bất ngờ xung kích, thương vong nhỏ, thu hoạch lớn. Một tiểu đội trưởng kể lại sự tích chiến đấu của đồng chí, đã chỉ huy quân số gần một đại đội tổ chức hoả lực như thế nào, vu hồi như thế nào, leo lên đỉnh núi dốc đứng như thế nào, xuất kỳ bất ý xông vào trên địa địch như thế nào để chiếm được mỏm núi, bắt 60, 70 tên địch làm tù binh. Còn có một trung đội trưởng thành tích chiếm đấu không kém người tiểu đội trưởng này. Núi Cốc Xá xung quanh đều là vách đứng, chỉ có phía tây nam có thể leo lên. Con đường này do một tiểu đội trưởng dẫn mấy chiến sĩ tìm được, ban đêm mò lên, nổ súng bất ngờ, địch hoảng loạn không biết quân đội Việt Nam lên bao nhiêu người, bỏ cửa rừng chạy trốn, bộ đội lớn Việt Nam mới từ đấy leo lên núi, sau đó lần từng cái hang bắt địch, chỉ cần ném mấy quả lựu đạn vào cửa hang, quét một tràng liên thanh, thì địch đầu hàng. Lepage bị bắt làm tù binh trong hang núi đó.

Nói tóm lại, Võ Nguyên Giáp đã thấy rõ, hễ khi xung phong hãm trận phần nhiều các tiểu đội trưởng chỉ huy đánh trận. Chỉ huy đại đội trở lên chỉ có thể bố trí trước khi xung phong không chỉ huy tại trận. Chỉ huy trung đội đích thân dẫn đội xung phong cũng không nhiều. Vì vậy Võ Nguyên Giáp tạm thời quyết định, xuống bộ đội mở ba buổi chiến sĩ toạ đàm, mỗi trung đoàn chọn khoảng 20 tiểu đội trưởng, chiến sĩ, họp nửa ngày, kể cả đi đường mất hơn hai ngày. Trong các buổi toạ đàm này đã kiểm chứng thêm những ấn tượng mà thị sát chiến trường đạt được. Sau đó Võ Nguyên Giáp nói với chúng tôi : “ Bộ đội cấp dưới có những nhân tài cầm quân đánh giặc, ý kiến của các đồng chí rất đúng, phải từ bên dưới tìm người có kinh nghiệm tác chiến đưa lên cương vị của bộ đội, đó là vấn đề quan trọng trong xây dựng quân đội ”.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:07:52 am
Lẽ ra, ngày hôm sau (khoảng 20/10) phải về Bộ chỉ huy tiền tuyến, nhưng đêm đó nhận được điện của Bộ chỉ huy tiền tuyến ; Lạng Sơn đã giải phóng. Võ điện hỏi tình hình tỉ mỉ. Rạng sáng, điện của Bộ chỉ huy tiền phương nói : “ Địch ở Lạng Sơn đúng là đã tháo chạy, bọn địch ở Hà Nội hết sức hoảng sợ ”. Trần, Vi, Đặng kiến nghị cấp tốc lên Lạng Sơn và ra lệnh cho bộ đội tập kết ở gần Lạng Sơn, chuẩn bị tiến quân về Hà Nội. Võ Nguyên Giáp điện trả lời đồng ý, lập tức báo cho đại đoàn 308 tiến lên Lạng Sơn. Chúng tôi lập tức xuất phát lên chiếc xe Jeep của Võ. Đi được một đoạn, đến chỗ eo núi phát hiện cầu bị địch tháo chạy đánh sập, đành cho xe Jeep về Cao Bằng, chúng tôi đi bộ lên Lạng Sơn.

Trên đường, chúng tôi gặp một số chiến sĩ Việt Nam, hỏi thăm quá trình giải phóng Lạng Sơn mỗi người nói một khác, khó biết chính xác. Tình hình đại thể là : Việc binh đoàn Lepage, Charton bị tiêu diệt làm cho địch ở Thất Khê sợ vỡ mật, sĩ quan của phân khu và một tiểu đoàn lên máy bay chạy trốn. Số còn lại chạy trốn trên bộ như chim vỡ tổ, chạy đến cứ điểm sau là nói đại quân Việt Minh đã đến rồi, lính trong cứ điểm đó cũng chạy theo. Có người chạy thẳng về Hà Nội, có người theo quốc lộ 4 chạy về Lạng Sơn, Nà Sầm, Đồng Đăng cũng kinh hoàng. Trong tay Tư lệnh Lạng Sơn còn có một tiểu đoàn, đưa đến Đồng Đăng để đánh chặn quân đội Việt Nam ; tiểu đoàn này đến Đồng Đăng, bị ảnh hưởng của quân tháo chạy, vô cùng sợ hãi, cũng chạy trốn tứ tung. Người ta nói tiểu đoàn trưởng dẫn một số tàn quân ra đầu hàng bộ đội của ta ở Trấn Nam quan (thực ra chỉ là một đại đội phó dẫn mấy chục binh lính). Một trung đội Việt Nam truy kích tàn quân Pháp khi truy đến Lạng Sơn, viên Tư lệnh Bắc Bộ Việt Nam vứt tất cả quân nhu, lên máy bay chạy trốn. Trung đội này tiến vào Lạng Sơn, thì Lạng Sơn giải phóng. Hai ngày sau chúng tôi đến Lạng Sơn nhìn thấy khắp nơi bừa bãi. Hang động Lạng Sơn rất nhiều, đều là kho tàng của quân Pháp tàng trữ súng ống, khí tài, đạn dược lương thực. Lương thực đã bị cư dân lấy đi rất nhiều có cửa hàng chất đầy bột mì, dày đến 10 phân dẫm lên chắc nịch. Các kho đạn dược, súng ống, có quân đội Việt Nam bảo vệ. Trong một doanh trại có mấy chục chiếc ôtô còn nguyên, nhưng phần lớn lốp xe bị cắt, người trong quân đội Việt Nam cắt đem làm dép cao su đơn giản (giống như dép lê). Chúng tôi gặp một trung đội trưởng quân đội Việt Nam đề nghị họ cử người đến trước cửa kho làm công tác trông coi. Ngày hôm sau, các đồng chí lãnh đạo Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Đặng Dật Phàm, Bộ chỉ huy tiền phương Việt Nam cũng đến trú ở ngoại ô (vì máy bay Pháp đã bắt đầu bắn phá Lạng Sơn). Lúc này có người lãnh đạo Việt Nam bàn tán rằng, nếu thừa thắng xốc tới đánh lấy Hà Nội thì tốt biết mấy ! Có người nói đánh Hà Nội cần phải đánh sân bay Gia Lâm trước, đồng thời cắt đứt con đường của địch từ Hà Nội thông ra các cảng ven biển như Hải Phòng v.v... đề phòng địch chạy thoát từ đường không, đường biển. Sau đó bao vây Hà Nội buộc địch tháo chạy về phía nam tiến bộ và tiêu diệt chúng trong vận động. Đồng chí Trần Canh trong lúc rỗi rãi cũng từng nói với Võ Nguyên Giáp : Nếu Trung Quốc cho tôi một quân đoàn, có thể đánh thẳng tới Hà Nội, nhanh chóng giải phóng Việt Nam. Song lúc bấy giờ tình hình Triểu Tiên căng thẳng, sau khi quân Mỹ đổ bộ lên Nhân Xuyên, tình hình chiến sự Triều Tiên xấu đi biên giới đông bắc của Trung Quốc bị đe doạ, để bảo vệ an ninh quốc gia Trung Quốc phải tính đến chống Mỹ viện Triều, không thể tác chiến cả hai phía, không đưa quân sang Việt Nam. Trên thực tế lúc bấy giờ điều kiện của Việt Nam đánh thành phố lớn cũng chưa chín muồi, nên chọn chiến trường khác, mở rộng chiến tranh du kích, phối hợp với vận động chiến, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, không nên vội đánh thành phố lớn. Nôn nóng muốn thành công ngay ngược lại không có lợi. Do bộ đội chủ lực tập kết chưa xong, có những bộ đội lùng sục trong núi vẫn chưa về, bộ đội cần nghỉ ngơi chỉnh đốn, việc tấn công Hà Nội chỉ là chuyện bàn tán mà thôi.

Đến đây chiến dịch kết thúc thắng lợi với kết quả vượt xa mục đích dự kiến, giải phóng toàn bộ quốc lộ 4 phong toả đoạn Lạng Sơn đến Cao Bằng trên biên giới Trung – Việt, cũng xoá bỏ sự phong toả biên giới từ Lạng Sơn đến Lào Cai. Do đó mà chiến dịch này không gọi là chiến dịch Cao Bằng nữa mà đổi lại là chiến dịch biên giới. Toàn bộ chiến dịch đã làm chết, bị thương và bắt làm tù binh hơn 8.000 tên địch. Tổng binh lực của Pháp ở Bắc Bộ Việt Nam (không đến 15000 người) phần lớn bị tiêu diệt, thu phục rất nhiều thành phố thị trấn lớn nhỏ biên giới bao gồm tỉnh lỵ Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai v.v.. Sau chiến dịch, Tổng tư lệnh quân Pháp ở Việt Nam (tướng ba sao), Tư lệnh Bắc Bộ Việt Nam (tướng hai sao) đều bị cách chức. Thượng tuần tháng 11, Đoàn cố vấn trở về Quảng Uyên chuẩn bị tham gia tổng kết, đồng chí Trần Canh cũng về nước vào lúc này.

Sau chiến dịch biên giới, quan hệ giữa cán bộ cố vấn Trung Quốc và cán bộ quân đội phía Việt Nam càng mật thiết hơn. Trước đây cán bộ quân đội Việt Nam ít nhiều giữ thái độ hoài nghi đối với chúng tôi, giới thiệu tình hình có nhiều bảo lưu, khuyết điểm nội bộ không muốn thổ lộ với chúng tôi, đối với kiến nghị của chúng tôi, bề ngoài tiếp thu, bên trong không thực thi tất cả. Bây giờ tình hình thay đổi rất nhiều, chiến sĩ gặp chúng tôi đều rất thân thiết, nhân dân thấy chúng tôi cũng dám lại gần, chĩa ngón cái với chúng tôi; cán bộ nêu ra nhiều vấn đề với chúng tôi hơn, dám nói ra những vấn đề họ còn vướng mắc, đề nghị chúng tôi nói cách giải quyết, kiến nghị của chúng tôi cũng dễ được chấp nhận. Ví như, một tiểu đội trưởng chỉ huy bảy, tám mươi người tác chiến được đề bạt ngay làm đại đội trưởng và hơn nữa còn đề bạt, không ít chiến sĩ làm cán bộ. Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn 95 Doãn Tuế được đề bạt làm Phó trung đoàn trưởng, thay thế vị trí của “Ước”, “Ước” được điều về Bộ Tổng tham mưu (năm 1958 khi tôi học tập ở Học viện pháo binh Tuyên Hoá, Doãn Tuế cũng đến học tập ở viện này, lúc đó đồng chí đã là Phó tham mưu trưởng pháo binh quân đội Việt Nam, năm 1972 khi Võ Nguyên Giáp đi thăm Tây An, đồng chí Tư lệnh quân khu Lan Châu Bì Định Quân dẫn tôi đi theo, Võ Nguyên Giáp cho tôi biết Doãn Tuế đã là Tư lệnh Pháo binh của quân đội Việt Nam). Họ nhiệt liệt ca ngợi Mao Chủ tịch thực sự vĩ đại, tư tưởng Mao Trạch Đông cũng thích hợp với Việt Nam, cán bộ chiến sĩ đều có cảm nhận điều đó.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:08:25 am
3. Từ chiến dịch Trung Du đến chiến dịch Hoà Bình

 
Sau chiến dịch Biên Giới phần lớn vùng núi phía bắc Việt Nam đã được giải phóng, biên giới Trung – Việt từ Lạng Sơn đến Cao Bằng đã khai thông toàn bộ, vật tư của ta viện trợ cho Việt Nam có thể đi thông suốt, đó là điều kiện rất có lợi cho sự tăng cường đấu tranh chống Pháp của Việt Nam, tinh thần ý chí của binh sĩ quân đội Việt Nam lên cao, lòng tin kháng chiến nâng lên rất nhiều. Bộ đội rèn luyện một trận đánh lớn bao gồm công kiên, vu hồi bao vây, đánh địch trong vận động hoặc vừa mới đóng quân. Vũ khi trang bị của bộ đội được cải thiện rất nhiều, đại đoàn 304, 312 cũng tổ chức xây dựng cải thiện trang bị xong xuôi, một bộ phận còn tham gia tác chiến, ngoài ra còn bắt đầu tổ chức xây dựng binh chủng kỹ thuật như thành lập đại đoàn công pháo 351 (gồm trung đoàn sơn pháo 95, trung đoàn trọng pháo 34 và một trung đoàn công binh), Nhưng đã nảy sinh một vấn đề làm người ta lo lắng. Phía Việt Nam có người lãnh đạo có tư tưởng kiêu căng mù quáng lại bộc lộ ra. Khẩu hiệu “tổng phản công” lại dâng cao, chủ yếu thể hiện trong việc lựa chọn hướng tác chiến tiếp theo.

Sau giải phóng Lạng Sơn, phía Việt Nam có tính đến nhanh chóng tập kết bộ đội, nhân lúc quân Pháp hỗn loạn, một đòn tấn công sân bay Gia Lâm, đe doạ Hà Nội và bao vây Hải Phòng, vít chặt tuyến đường quân Pháp tháo chạy trên không và trên biển buộc địch chạy trốn bằng đường bộ và tiêu diệt chúng trong vận động. Nhưng lúc đó xem ra, năng lực tổ chức chỉ huy của quân đội Việt Nam chưa ổn, bộ đội mỗi nơi làm theo ý của mình không thể tập kết được ngay, nếu có tập kết được cũng không biết mất bao nhiêu thời gian, ngày tháng kéo dài sẽ mất thời cơ ; đồng thời cũng tính tới việc có thể bị quân Pháp oanh tạc, phá huỷ Thủ đô. Tóm lại lực lượng của quân đội Việt Nam và công tác đảng lúc bấy giờ không thể nào đánh lấy Hà Nội, không đủ sức tiếp quản Hà Nội. Xét về mặt chiến lược vẫn là địch mạnh ta yếu thời cơ đánh thành thị lớn chưa chín muồi, vì thế Trung ương Đảng ta kiến nghị không đánh Hà Nội, vẫn lấy tiêu diệt sinh lực địch làm mục tiêu chính, đánh lấy thành thị là phụ, Hình như phía Việt Nam nhận thức chưa đầy đủ những vấn đề quan trọng đó.

Sau chiến dịch biên giới, cố vấn các cấp đều kiến nghị làm tốt việc tổng kết chiến đấu chiến dịch để đánh một trận, tiến thêm một bước, biểu dương tiên tiến, tìm ra bài học kinh nghiệm, khắc phục khuyết điểm sai lầm, nâng cao tố chất bộ đội hơn nữa. Lúc đó phía Việt Nam có người còn không biết và không quen, không thạo nghiêm chỉnh tổng kết xem xét tình huống thực tế và phân tích vấn đề của mình, say sưa trong thắng lợi, không thể nghiêm chỉnh phân tích nguyên nhân và điều kiện chủ quan, khách quan giành được thắng lợi, trái lại đánh giá quá cao lực lượng của mình.

Chiến dịch Biên Giới kết thúc, tức vào đầu tháng 11/1950, Đoàn cố vấn rút bỏ cố vấn cấp tiểu đoàn. Vì sao vậy ? Có thể lãnh đạo phía Việt Nam không nhận thức đầy đủ, không nghiên cứu nghiêm chỉnh đối với việc này. Đó là vì : Trong trác chiến, cán bộ chỉ huy cấp giữa và cấp dưới của phía Việt Nam, chủ yếu là hai cấp tiểu đoàn, đại đội không dám áp sát tuyến một để nắm bộ đội, chỉ huy cụ thể thực địa, một khi đánh trận, phân đội cơ sở làm theo ý của mình, không hình thành sức mạnh công kích mạnh mẽ. Còn cố vấn cấp tiểu đoàn của chúng ta cử xuống đều là các đồng chí chiến đấu dũng cảm được lựa chọn, là những chiến tướng từng lãnh đạo phân đội dưới tiểu đoàn xung phong hãm trận, và nhiều người đã lập chiến công. Một khi họ đến chiến trường, bao giờ cũng quen đến tuyến một, trực tiếp nắm và chỉ huy bộ đội tác chiến, dẫn đầu xung trận, anh dũng tiến lên bất chấp an nguy cá nhân, điều đó đa số chỉ huy cấp tiểu đoàn, đại đội phía Việt Nam không làm được.

Tất nhiên trong cán bộ tiểu đoàn, đại đội phía Việt Nam cũng có người có dũng khí nhưng họ thiếu kinh nghiệm thực tiễn nhất là thiếu kinh nghiệm tổ chức chỉ huy đánh trận lớn, đánh trận ác liệt. Điều đó đã hình thành một mâu thuẫn rõ rệt, xuất hiện sự không nhịp nhàng, không hài hoà giữa lãnh đạo tiểu đoàn phía Việt Nam với cố vấn cấp tiểu đoàn chúng ta lại thêm có phiên dịch cũng không muốn theo cố vấn tiểu đoàn mạo hiểm ra tuyến một, lợi dụng điều kiện thuận lợi phiên dịch của mình thêm mắm thêm dấm vào trong đó, làm nghiêm trọng thêm mâu thuẫn trên, do đó phía Việt Nam phản ánh khá nhiều, Đoàn cố vấn không thể không rút bỏ cố vấn cấp tiểu đoàn sau khi phía Việt Nam đồng ý. Vì chú ý toàn cục, vì tình hữu nghị và đoàn kết, tránh xảy ra vấn đề ảnh hưởng tới quan hệ Trung – Việt, Đoàn cố vấn làm như thế là đúng đắn. Còn phía Việt Nam không thấy làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến vấn đề nâng cao năng lực chỉ huy của tiểu đoàn, đại đội của họ. Họ không hiểu vai trò của cố vấn tiểu đoàn trong chiến dịch Biên Giới, trong các chiến dịch về sau, do không có cố vấn tiểu đoàn, bộ đội gặp cơ hội tiêu diệt địch có lúc cũng chỉ có thể trở thành trận đánh làm tan rã. Do một số người phía Việt Nam kiêu căng mù quáng, đánh giá quá cao lực lượng của mình, trên vấn đề chiến dịch tiếp theo tiến hành ở đâu, nhận thức giữa Đoàn cố vấn và lãnh đạo quân đội Việt Nam không hoàn toàn nhất trí.

Sau chiến dịch Biên Giới, Đoàn cố vấn từng đề nghị mở chiến trường ở vùng Tây Bắc, đánh mấy chiến dịch, giành lấy vùng núi Tây Bắc, mà có thể mở rộng và củng cố căn cứ địa quân đội Việt Nam chiếm giữ, lại có thể nhìn xuống đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, tiến có thể công, thoái có thể thủ, nắm quyền chủ động chiến lược. hơn nữa xét thấy quân đội Việt Nam thiếu lực lượng phòng không, chống tăng, ở vùng núi Tây Bắc, núi cao rừng rậm, địa hình phức tạp, tiện lợi cho trang bị yếu kém đánh thắng địch có trang bị ưu thế. Đồng thời cử một bộ phận bộ đội đánh bật cứ điểm quân địch chưa rút ở vùng đông bắc Hà Nội, củng cố vùng giải phóng đã mở rộng. Kiến nghị này, họ chưa đồng ý, kiên trì muốn đánh lấy đồng bằng Bắc Bộ, uy hiếp Hà Nội.

Trung tuần tháng 11/1950 ở gần Tả Trúc, tây bắc Thái Nguyên, triệu tập hội nghị tổng kết cán bộ cơ quan và cấp trung đoàn trở lên tham gia. Tại hội nghị này, ngoài việc tổng kết bài học kinh nghiệm, còn bố trí kế hoạch chiến dịch tiếp theo ra, còn dự định chỉ tên phê bình mấy cán bộ trung đoàn trở lên chấp hành lệnh không tốt, chỉ huy sai sót, trong đó có một cán bộ đại đoàn. Do nguyên nhân nào đó, Võ Nguyên Giáp không chỉ tên phê bình mấy cán bộ này mời riêng nhưng cũng khá nhẹ nhàng, không đủ mức nghiêm nhất. Trường Chinh và Phạm Văn Đồng tham gia hội nghị. Tại hội nghị, tuy Trường Chinh phê bình mấy cán bộ này. Võ Nguyên Giáp chỉ phát biểu tổng kết và chỉ phê bình qua loa không nêu tên đối với khuyết điểm sai lầm. Phạm Văn Đồng phát biểu càng ôn hoà. Khi toạ đàm, trong quá trình mọi người phát biểu ý kiến, Phạm Văn Đồng còn nêu ra vấn đề : “ Vì sao có cố vấn, thương vong của chúng ta vẫn lớn như thế ? ” chứng tỏ ông không hiểu đánh trận. Trong chiến dịch Biên Giới, quân đội Việt Nam thương vong ngàn người, còn diệt địch là 8000 người, so sánh địch ta là chiến dịch xuất sắc trong lịch sử chiến tranh. Điều này cũng chứng tỏ là một cán bộ lãnh đạo, không có nhận thức đối với tính lâu dài, tính tàn khốc của chiến tranh, thiếu nghiên cứu tối thiểu với hiện thực địch mạnh ta yếu, tưởng rằng giành được thắng lợi là dễ như trở bàn tay, không cần trả giá. Tư tưởng “thắng mạnh” đó của họ cũng tìm được cội nguồn rồi. Cho nên tại hội nghị tổng kết lần này, tiếng nói “tổng phản công”, “giành lấy đồng bằng Bắc Bộ” “cô lập Hà Nội, lấy lại Hà Nội” tương đối nhiều, đối với việc tổng kết bài học kinh nghiệm, tìm ra vấn đề giải quyết vấn đề, hội nghị thảo luận không nghiêm chỉnh lắm, thiếu sâu sắc, qua loa xong chuyện, nhưng lại rất sôi nổi trong việc biểu dương sự tích tiên tiến của cán bộ. Cái cần biểu dương tất nhiên phải biểu dương, nhưng có những sự tích rất bình thường. Ví như trung đoàn khi công kích lô cốt ngầm ở Đông Khê, mấy lần đặt thuốc nổ đều không thành công. Hoả lực địch rất điên cuồng, một tiểu đội trưởng ra lệnh cho một chiến sĩ dùng lựu đạn phá lỗ châu mai, chiến sĩ này trong khi tiến lên bị thương, nhưng kiên trì mò đến lỗ châu mai, tự hy sinh oanh liệt, để bảo đảm cho bộ đội đánh tan lô cốt ngầm này. Một chiến sĩ vĩ đại như thế không biểu dương, nhưng cán bộ có liên quan cấp đại đội trở lên lại được biểu dương vì sự tích đó. Chiến dịch Biên Giới thắng lợi to lớn như vậy, quân đội Việt Nam lại lần đầu tiên tác chiến với quy mô lớn như vậy mà không được tổng kết nghiêm túc, đối với xây dựng quân đội Việt Nam mà nói là điều hết sức đáng tiếc.

Hạ tuần tháng 11/1950, tức sau hội nghị tổng kết, phía Việt Nam nêu ra tổ chức một chiến dịch ở vùng trung du sông Hồng tây bắc Hà Nội, đó tức là chiến dịch trung du. Đoàn cố vấn tuy vẫn cho rằng nên tìm thời cơ chiến đấu ở vùng núi Tây Bắc, nhưng chưa được phía Việt Nam chấp nhận. Tính đến toàn cục, tính đến đoàn kết, không thể tiếp tục tranh luận, Đoàn cố vấn đã đồng ý với ý kiến của họ, nhưng căn cứ vào nhược điểm của quân đội Việt Nam bộc lộ ra trong chiến dịch biên giới, đã đề xuất một số vấn đề cần giải quyết và chú ý trong chiến dịch như vấn đề cán bộ chỉ huy đại đội lên nắm bộ đội áp sát tuyến một chỉ huy trong tác chiến như thế nào, vấn đề phòng không máy bay buộc máy bay địch không dám bay thấp ; và giới thiệu cách làm trong chiến tranh giải phóng Trung Quốc, vấn đề đánh xe tăng (xe tăng quân Pháp đều là xe tăng bọc thép lội nước cỡ siêu nhỏ, vả lại số lượng rất ít) và cả khuyết điểm bộc lộ ra trong chiến dịch biên giới cần khắc phục trong công kiên, dã chiến v.v...

Chiến dịch sắp xếp bắt đầu từ hạ tuần tháng 12/1950. Kế hoạch chiến dịch là : đại đoàn 308 cùng với trung đoàn 209, trung đoàn 141, hai tiểu đoàn của trung đoàn sơn pháo 95 chọn mấy cứ điểm trong vùng có lợi, chủ yếu dọc phía bắc đồng bằng Bắc Bộ đến bờ bắc sông Hồng từ bắc Hà Nội đến vùng Vĩnh Yên, Phú Thọ, tây bắc Hà Nội, để tấn công tạo thời cơ đánh địch tăng viện. Ngoài ra lệnh cho trung đoàn 174, trung đoàn 98, 1 tiểu đoàn sơn pháo ở tuyến từ Tiên Yên đến Hải Ninh, đông bắc Hà Nội cũng chọn mấy cứ điểm tấn công, sau đó đánh chặn viện, ngăn chặn địch mở rộng ra đông bắc (lúc này quân Pháp đã khôi phục một số cứ điểm đã bỏ ở Đông bắc).


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:08:57 am
Ngày 17 hoặc 18 tháng 12 năm 1950, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam xuất phát từ Tả Trúc, tiến đến vùng trung du sông Hồng. Lúc này miền bắc Trung Quốc là mùa đông giá rét, còn ở đây lại như mùa xuân, nước trong đồng phẳng như mặt gương, từng tốp hai ba phụ nữ nông thôn khom lưng cấy mạ, trong ruộng lúa nhô lên gò đất lớn nhỏ, trên những gò đất ấy đều là rừng cây hoặc rừng tre um tùm hoặc là rừng cây cọ, lá cây cọ giống như lá dùng làm quạt lá chuối của ta, nhưng rất to, đường kính khoảng một mét, có cốt cách riêng, xinh xắn. Trên đường, chim hót trên cành, từng đàn chim oanh ca lông màu sặc sỡ ríu rít trên cây, cũng thường thấy đàn bướm đủ sắc màu tung tăng bay lượn. Nhưng đêm đến, nhiệt độ xuống thấp, ở trong nhà tre, bốn phía gió lùa, lại cảm thấy lạnh thấu xương. Ở đây không như dân tộc Nùng vùng núi Việt Bắc không có nhà sàn đơn sơ phần nhiều là nhà tranh xây trên gò đất giữa đồng, trong nhà cũng giống như dân tộc Nùng dùng cả thân cây nhóm lửa, một đầu châm lửa để lâu không tắt, khi nấu cơm cho một ít cành khô thì bốc lửa, bình thường không có ngọn lửa, chỉ có tro ủ, người ta nói các loài rắn độc hoặc dã thú không dám đến gần ; ban đêm chúng tôi ngủ gật xung quanh đống lửa như vậy.

Ngày 22 hoặc 23 tháng 12, chúng tôi đi lên phía phải một quả núi lớn đen ngòm bao phủ trong mây mù, đó là núi Tam Đảo, nơi nghỉ mát nổi tiếng ở tây bắc Hà Nội, cũng là đích đến của chúng tôi, chúng tôi sẽ hỗ trợ phía Việt Nam tác chiến trên đỉnh núi đó. Gần trưa, mới đến chân núi, vào một thôn làng ở giữa đồng lúa ăn cơm trưa. Thôn này có mười mấy hộ, xung quanh là tre xanh um tùm, làm bức tường vây tự nhiên, nhà cửa cũng làm bằng tre. Dáng người ở đây có khác với nơi khác đã gặp, dù nam hay nữ đều có nước da sáng sủa, cử chỉ nhỏ nhẹ, nam thường mặc quần áo màu vàng đất, màu nâu, áo ngắn tay, quần rộng ống, nữ mặc váy dài liền áo vải xanh một màu có hoa văn nhỏ thêu chỉ trắng, trên bắp chân quấn vài hoa văn xanh trắng giống như miếng băng quấn của chiến sĩ chúng ta thời kỳ chiến tranh chống Nhật. Thì ra đây là một chi của dân tộc Mèo, là vùng tập cư của Mèo trắng. Dân tộc Mèo có mấy chi, Mèo đỏ, Mèo đen, Mèo trắng, Mèo hoa. Mèo đỏ, Mèo đen thân lùn và béo, da ngăm đen, Mèo hoa và Mèo trắng gần giống nhau. Mèo trắng của thôn này rất hiếu khách. Chúng tôi ăn trưa ở đây, chuyện trò vui vẻ với họ, rất chan hoà.

Ăn cơm xong nghỉ một lúc rồi tiến lên núi Tam Đảo, đi khoảng năm, sáu cây số thì bắt đầu leo núi. Dốc phía nam núi, có đường nhựa do người Pháp làm, nhưng chúng tôi leo lên dốc phía bắc. Dốc phía bắc dựng đứng, trong đá lổn nhổn có một lối mòn. Núi này cao như Thái Sơn, khí hậu tuy không nóng nhưng chúng tôi leo núi mồ hôi chảy thấm lưng, và thỉnh thoảng xuyên qua một cánh rừng, con vắt thường bám cổ chúng tôi, mồ hôi và máu có lúc ướt cả quần áo, như bị thương vậy. Leo một mạch đến chiều, sức cùng lực kiệt, tối đến mặt trăng đằng đông xuất hiện qua mây mù, mới leo đến đỉnh núi. Nhìn ra xung quanh tối đen ngòm không thấy rõ cái gì, thì ra chúng tôi đã ở trên mây mù. Trên đỉnh núi thấp thoáng tản mác bảy tám ngôi biệt thự nhỏ. Nhà còn nguyên nhưng cửa giả đã hư hỏng, đồ đạc trống trơn, chúng tôi bẻ một ít cành cây làm chổi, quét bụi, tìm mấy tấm ván hỏng làm nơi có thể ngủ được, tìm cây khô đốt một đống lửa ở giữa nhà, ăn tối xong rửa chân đi ngủ. Vào mùa đông, đến nơi nghỉ mát, chăn áo mỏng manh, rét đến khó ngủ. Nhưng do quá mệt vẫn ngủ say.

Phiên dịch bảo chúng tôi trên núi này có thể nhìn thấy mặt trời mọc. Cho nên ngày hôm sau dậy thật sớm, chạy đến tảng đá to ở phía đông núi để nhìn mặt trời mọc. Lưng chừng núi vẫn bao bọc mây mù, bầu trời chỉ có mấy đám mây trắng nhỏ, đằng đông đã từ màu trắng bạc dần dần biến thành màu đỏ, trên vừng mây phía xa, từ từ ló lên mặt trời hồng, nhìn như là trồi lên từ trong nước biển trên thực tế là bên trên mây mù. Sau khi mặt trời đỏ mọc lên, đằng đông muôn ánh sáng màu. Ngoài cái đó ra cũng không có chỗ nào kỳ thú chỉ thấy mặt trời to hơn. Nhìn sang bên trái, muốn xem dưới núi như thế nào, nhưng mây ở giữa núi, cũng không nhìn rõ những gì ở dưới.

Trên một quả núi khác trước mặt chúng tôi thấp hơn quả núi chúng tôi đang đứng cũng có mấy ngôi nhà biệt thự đó là Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam, nhìn thì rất gần, nhưng đi lại rất xa. Ở nơi cao về phía bắc quả núi của chúng tôi có một miếu thờ, đi tới xem, cửa ngõ đều hoàn chỉnh, giữa ban thờ trong miếu có một tượng thần bằng đồng đen, dáng như Quan Công của Trung Quốc nhưng mặt không đỏ, thì ra đó là Mã Viện, đó là miếu tướng quân Phục Ba. Xung quanh ban thờ và cả trên tường, đều treo bức trướng lớn bằng lụa, bằng vải nhỏ màu đỏ, viết chữ Trung Quốc “Tá ngã xích tử” “phổ cứu chúng sinh” “đệ tử ... kính hiến” v.v... trên nền đất còn có dấu vết đốt vàng mã, lư hương còn tro mới, chứng tỏ thường xuyên có người đến đây cúng bái. Phiên dịch nói, miếu Phục Ba tướng quân ở Việt Nam đâu đâu cũng có, hương hoả không kém miếu Phật Như Lai 3.

Hai ba ngày tới, chiến đấu chưa bắt đầu. Lần này chúng tôi không thường xuyên ở bàn chủ nhân Bộ chỉ huy tiền phương mà chỉ thường chạy đi tìm hiểu tình hình, trở về báo cáo Thủ trưởng Đoàn cố vấn. Thủ trưởng đoàn cố vấn đôi khi cũng tự đi. Có lúc trời nắng, có thể nhìn thấy hai bờ sông Hồng dưới núi, cảm giác rất xa, thị trấn ẩn trong lá xanh cũng không thấy rõ cái gì. Có lúc có máy bay bay qua bay lại, nhưng nhìn xuống, độ cao của nó vẫn không cao bằng núi này.

Đêm 25/12 cuộc chiến bắt đầu, hướng Vĩnh Yên, ở phía đông nam núi này. Đánh trước mấy cứ điểm gần Vĩnh Yên, đều đánh được trong đó còn có huyện lỵ. Nhưng chiến thuật của địch thay đổi, khi tăng viện chúng áp dụng cách làm hết sức cẩn thận, trước tiên dùng pháo bắn vào các địa điểm trên hướng quân Pháp tiến lên, dự đoán có quân đội Việt Nam ẩn nấp, máy bay oanh tạc ở những nơi xa hơn một chút, khi cho là đã an toàn, bộ binh mới thẳng tiến lên, nơi nào tầm pháo chưa đến, thì bộ binh dừng lại, đắp công sự dã chiến đơn giản chiếm giữ, pháo binh đuổi theo, khi đến phía sau điểm bộ binh đóng giữ thì chiếm lấy trận địa rồi phát huy hoả lực, phối hợp với máy bay đánh tiếp trận nữa. Bộ binh lại tiếp tục tiến lên, cứ như thế tiến hành nhiều lần. Tuy vậy, vẫn bị quân đội Việt Nam đánh mai phục. Thế nhưng không chờ quân đội Việt Nam bao vây một khi đọ súng quân Pháp tháo chạy tứ tung, ôtô kéo pháo cũng nhanh chóng rút lui, chiến đấu kết thúc rất nhanh. Lần này có hai tiểu đoàn, bắt tù binh tại chỗ không nhiều, trong khi tiếp tục lùng sục đã bắt được một số trốn trong rừng, trong làng. Máy bay Pháp yểm hộ trên trời. Quân đội Việt Nam không dám dùng vũ khí nhẹ bắn máy bay, họ cho rằng không có hiệu quả, thậm chí có người cho rằng dùng vũ khí nhẹ bắn máy bay sẽ gọi máy bay tới cho nên khi máy bay đến thì ẩn nấp tránh đi, mặc cho máy bay bắn phá, máy bay cũng cố bay thấp, khiến quân đội Việt Nam không dám động đậy, động tác chậm chạp, quân Pháp thừa cơ bỏ chạy, không ít tên địch chạy thoát. Đánh tan rã được một trận quân đội Việt Nam cho rằng đó là một thắng lợi lớn, báo cáo vống lên là tiêu diệt được hai tiểu đoàn địch cộng với đánh cứ điểm, nói bắn chết 800 tên đich, bắt làm tù binh 700 tên. Sơn pháo lần này ngoài một bộ phận tham gia đánh cứ điểm thực hiện bắn sát cự ly gần ra, đã không sử dụng trong dã chiến. Tiếp đó lại đánh hai cứ điểm, địch căn bản không đến cứu viện, đánh phải dừng lại.

Bộ đội nghỉ ngơi chỉnh đốn một tuần rồi di chuyển đến vùng Việt Trì, Phú Thọ, khoảng ngày 10/1/1951 lại cũng như lần trước, đánh mấy cứ điểm khoảng 2 tiểu đoàn địch ở Phú Thọ ra chi viện, vừa tiếp xúc thì tháo chạy, lại không thể tiêu diệt hết địch. Quân đội Việt Nam vẫn báo lên là tiêu diệt được hai tiểu đoàn, sau đó tiếp tục đánh mấy cứ điểm nữa, địch không ra cứu viện. Ngày 20/1, chiến dịch kết thúc. Chiến dịch lần này bao gồm, vùng ven biển đông bắc Hà Nội, phía Việt Nam nói đánh tất cả 10 cứ điểm, bắn chết làm bị thương và bắt làm tù binh hơn 4000 tên địch (trên thực tế không tới con số này), còn thương vong của mình còn lớn hơn chiến dịch Biên Giới. Hai trung đoàn 174, 98 đánh ở vùng ven biển đông bắc Hà Nội cũng không lý tưởng lắm, chủ yếu là địch rất ít ra chi viện. Chỉ nhổ cứ điểm thu hoạch không nhiều. Vì vậy mục đích của chiến dịch lần này không thực hiện được, phía mình thương vong không nhỏ, mà tiêu diệt địch không nhiều muốn kiểm soát đồng bằng Bắc Bộ nhưng không làm được, ngược lại do mù quáng nâng cấp mở rộng đội du kích thành chủ lực quân dã chiến nên đã làm suy yếu chiến tranh du kích ở đồng bằng, quân địch thừa cơ len vào, lại xây dựng được rất nhiều nguỵ quyền, một số vùng đồng bằng vốn đã được Việt Nam kiểm soát lại bị mất. Đó là kết quả của việc thiếu đầu óc chiến lược. Sau chiến dịch lần này sĩ khí bị ảnh hưởng rất lớn, còn kẻ địch, ngược lại càng hung hăng.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:09:28 am
Lãnh đạo phía Việt Nam tuy chưa thu được chiến quả lý tưởng trong chiến dịch Trung Du, nhưng vẫn chưa cam tâm. Trung du không thành, lại chuyển sang vùng đông bắc Hà Nội cũng tức là vùng bắc châu thổ sông Hồng, định làm cái gì ở đông bắc Việt Nam. Trung du không thành công, chuyển sang hạ du, mục đích vẫn là muốn khống chế vùng phía đông đồng bằng, “uy hiếp Hà Nội”. Lúc này tướng de Lattre de Tassigny đã được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân Pháp ở Việt Nam, ông ta từng bước ổn định tinh thần hoang mang sợ hãi của vùng Pháp chiếm do chiến dịch Biên Giới gây ra, khôi phục một số thị trấn bị Pháp bỏ tại một số vùng đông bắc Hà Nội khi hốt hoảng rút lui trong chiến dịch Biên Giới, tăng cường phòng vệ, rút bỏ một số cứ điểm cô lập, và xây cứ điểm xung quanh cứ điểm trọng điểm, hoả pháo có thể chi viện cho nhau, áp dụng biện pháp trong tình hình bình thường không đưa quân chi viện, tránh đánh dã chiến, chú trọng tăng cường kết hợp, giữa hoả lực trên không với hoả lực mặt đất, phát huy ưu thế hoả lực của mình.

Trong tình hình, không thuyết phục được lãnh đạo quân đội Việt Nam, Đoàn cố vấn kiến nghị cách đánh cắm chắc đánh chắc tức đánh Móng Cái trước. Quân Pháp đã từng bỏ Móng Cái trong chiến dịch Biên Giới, sau đó không bao lâu quay lại chiếm đóng. Đánh Móng Cái trước, lưng dựa vào Trung Quốc, đánh lấy được dễ cố thủ và từ đó phát triển xuống phía nam. Nhưng phía Việt Nam không muốn đánh, vì ở đó có một đám vũ trang đặc vụ của Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, nên có phần sợ bọn chúng. Khi Quảng Tây Trung Quốc giải phóng, hơn 20.000 quân của Hoàng Kiệt Bộ, Quốc dân đảng chạy sang Việt Nam, sau đó tập kết ở vùng đồng bằng sông Hồng, sau đó đi sang Đài Loan bằng đường biển, để lại một số vũ trang đặc vụ ở biên giới Trung – Việt. Bọn chúng đóng ở Móng Cái, không dám công khai quấy rối Trung Quốc, chỉ có thể ngầm đưa đặc vụ vào nhưng rất nguy hại cho tài sản tính mệnh của nhân dân Việt Nam. Khi Hoàng Kiệt Bộ đi Đài Loan, còn có một số người không muốn đi đã lang bạt ở Việt Nam hoạt động, không ít kẻ tham gia nguỵ quyền Việt Nam. Trong chiến dịch trung du, trung đoàn 174, 98 hành động ở đông bắc Hà Nội, có một trung đoàn. Khi đánh cứ điểm ngoại vi của một cứ điểm đánh suốt đêm, rất gian khổ đến lúc trời sáng mới hạ được. Trinh sát ban đầu là lính da đen, hơn 40 người, nhưng đánh xong xem lại chỉ có bảy lính Quốc dân đảng (tham gia nguỵ quân Việt Nam), trong đó có một phụ nữ bắn chết 5 người bắt sống 2 người đàn ông, còn mình thương vong 30 người. Lúc bình thường quân đội Việt Nam áp giải tù binh, đều là trước sau mỗi đầu một người lính cầm súng, ở giữa mấy chục tù binh. Lần này áp giải hai tù binh Quốc dân đảng cũng phái hai binh sĩ, kết quả trên đường đi hai tên tù binh này cướp súng của hai người áp giải chạy trốn. Cho nên họ rằng bộ đội Quốc dân đảng nguy hiểm. Không dám đánh Móng Cái lắm. Ngoài ra họ nôn nóng “uy hiếp Hà Nội” nói chung con mắt lúc nào cũng nhằm vào đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng. Vì vậy quyết định mở chiến dịch đông bắc trên quốc lộ 18 giữa Mạo Khê – Yên Lập. Bộ đội dã chiến tham gia chiến dịch này ngoài đại đoàn 308, còn có trung đoàn 174, 98 (dự định biên chế thành đại đoàn 316) trung đoàn 209, 141 (định biên chế thành đại đoàn 312). Đồng thời còn có trung đoàn sơn pháo 95.

Trung tuần tháng 3, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn và Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam tiến lên Lạng Sơn, từ vùng nam Lạng Sơn, bắc Phủ Lạng Thương, tiến vào phía đông vùng núi đồi đông bắc. Ở đây rừng cây tương đối ít, làng mạc tương đối nhiều, tình hình xã hội tương đối phức tạp, cho nên hành quân ban đêm, ban ngày nghỉ. Khi nghỉ cũng không ở trong làng mà ở trong rừng, cách xa làng mạc. Thực ra không thể bảo mật được. Bộ đội dân công rồng rắn suốt ngày liên tục, không thể bảo mật được, dù ban ngày hay ban đêm cũng bất kể gió mưa, lúc nào cũng thấy họ đang hành động. Vì vậy, nhiều nhất cũng chỉ có thể giữ được những bị mật cho những hành động của Đoàn cố vấn. Khi chúng tôi đến một chỗ trong rừng ở đó đã có công binh quân đội Việt Nam dựng nhà tranh cho chúng tôi, Ban chỉ huy đóng gần đó. Đêm 23/3 cuộc chiến đấu bắt đầu. Đánh lấy được mấy cứ điểm nhưng địch không tăng viện máy bay địch thường bay như con thoi trên đầu chúng tôi, bắn phá, ném bom, quân đội Việt Nam ban ngày ẩn nấp nên cũng không có thương vong lớn. Nhưng nghe nói, đánh cứ điểm thương vong không nhỏ. Sơn pháo tuy cũng có áp sát bắn gần, nhưng bị cứ điểm khác chi viện hoả lực, trong quá trình đánh, ngoài hoả lực của cứ điểm bị đánh uy hiếp còn bị hoả lực của cứ điểm khác uy hiếp. Cứ điểm đánh không lý tưởng thường thường là quân đội Việt Nam thương vong lớn hơn thương vong của địch trong cứ điểm bị đánh được.

Cách mấy hôm lại đánh vài cứ điểm và cứ làm như thế. Trước sau đánh 11 cứ điểm, còn 2 cứ điểm chưa đánh được quân địch không chịu ra cứu viện. Xem ra chiến thuật của địch đã thay đổi. Bị tiêu hao trên cứ điểm, như vậy quân đội Việt Nam bị thiệt, chỉ đánh cứ điểm, không đánh được tăng viện, điều đó rất bất lợi cho quân đội Việt Nam. Đến thượng tuần tháng 4, tình hình không thay đổi, đành kết thúc chiến dịch, ta thương vong 1700 người, tiêu diệt khoảng 1200 địch, được không bù mất, chiến dịch kết thúc, chúng tôi lại về chỗ cũ Tả Trúc. Sau đó chẳng bao lâu, tôi bị tê thần kinh trên mắt phải về Nam Ninh chữa bệnh.

Từ Nam Ninh đến Ban chỉ huy Đoàn cố vấn đã là tháng 6. Đoàn cố vấn lại dời địa điểm mới, cách Bắc Kạn hơn 10 km, vì phía bắc nơi đó gọi là Tả Mây, thực tế là ở trong hang núi gần Tả Mây. Đi dọc theo con suối nhỏ quanh co, khoảng năm sáu cây số có một hẻm núi nhỏ đường kính không đến 1 km, trên dốc núi xung quanh, dưới rừng cây phủ kín, công binh Việt Nam làm rất nhiều nhà tre kiểu dáng rất mới lạ, có cái như ngồi nhà tây nhỏ. Đoàn cố vấn ở trên dốc bắc và dốc đông. Ở đây là khu rừng nguyên thuỷ cây rừng là loại dây leo như mây song và tre, trúc, quấn quít chằng chịt, rất khó đi. Có nhiều loại cây và nhiều cây ăn quả mọc hoang. Sau nhà tôi ở có một cây mít, trên cành cây to có ba bốn quả mít, rất thơm. Chuối tây, chuối tiêu, quít mọc dại thấy khắp nơi, còn có các loại hoa không biết tên. Động vật hoang dã cũng rất nhiều, có khỉ, bò rừng, hươu, trong suối có cá chép. Các ông lão trong địa phương bảo với tôi, trong núi sâu có một loại “đười ươi”. Sau khi thấy người nó chồm dậy túm lấy hai cánh tay anh, sau đó ngửng mặt lên trời cười hà hà rất to, cười rất lâu, sau đó ăn thịt anh. Họ nói : “ Anh gặp loại động vật này đừng sợ, khi đi vào núi sâu trong tay chuẩn bị hai cây gậy to nhỏ gần như hai cánh tay, thấy nó không nên chạy, chạy không được, đưa hai cây gậy cho nó, nó tưởng là túm được hai cánh tay của anh, nhân lúc nó ngửng mặt lên trời thì lặng lẽ chạy trốn, đến lúc nó cười xong thì anh đã chạy rất xa rồi, có thế tránh được tai nạn này ”. Chúng tôi không vào rừng sâu nên không biết đây là tin đồn hay quả thực vẫn còn loại động vật này. Buổi sáng hằng ngày, trời vừa tờ mờ sáng, động vật trong rừng bắt đầu nhốn nháo cả lên, các loại chim thét ra đủ loại tiếng kêu ầm ĩ, làm bạn không ngủ được. Nhất là có một loại thú nhỏ, màu đen dạ bụng trắng, đầu to như đầu mèo nhưng thân nhô cao, dài hơn cánh tay con người, nhảy từ cành cây này sang cành cây khác, rất linh hoạt, tiếng kêu giống hệt tiếng súng đại liên, khi trời sắp sáng bỗng kêu lên trên cây gần nhà, lần đầu tiên nghe thấy, tưởng bị đột kích, sợ thót tim.

Tôi về Ban chỉ huy Đoàn cố vấn được biết đến tháng 6, hai đại đoàn 308 và 304 ở vùng Ninh Bình phía nam đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, đã đánh một trận ngoài kế hoạch, cũng gọi là chiến dịch Bình Minh, lấy được Ninh Bình. Lần tác chiến này gần giống chiến dịch Trung Du, nhưng lần này nhìn thấy mấy xe tăng lưỡng dụng nho nhỏ của quân Pháp (tôi nhớ hình như bắt được hai chiếc, đã bắn hỏng). Do ở vùng lúa nước, quân đội Việt Nam lại tránh tác chiến ban ngày, sợ máy bay, sợ xe tăng, lại sợ địa đạo, cho nên vẫn là đánh cho tan rã, chứng tỏ ở vùng đồng bằng, quân đội Việt Nam không thể đánh trận như chiến dịch biên giới. Thời gian chiến dịch này kết thúc rất nhanh.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:09:53 am
Cuối năm 1951, lại đánh chiến dịch Hoà Bình. Sau chiến dịch Trung Du và Đông Bắc v.v.. đầu óc của phía Việt Nam tỉnh táo hơn. Họ thấy được vì nôn nóng muốn thành công ngay, cơ bản đánh mất quyền chủ động chiến trường giành được từ chiến dịch Biên Giới, thương vong của mình không nhỏ mà lại không tiêu diệt nhiều sinh lực địch ; cũng không mở rộng được vùng giải phóng, ngược lại vùng du kích bị thu hẹp. Còn địch lại xây dựng phòng tuyến boongke trên tuyến từ Hải Phòng qua Hà Nội, Hoà Bình đến Sơn La, để khống chế vùng đồng bằng, cắt đứt đường thông thương Bắc Nam của quân đội Việt Nam, cô lập Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam. Đoàn cố vấn căn cứ vào đó kiến nghị :

1– Căn cứ tình hình của địch và kinh nghiệm của mấy chiến dịch về chiến thuật phải điều chỉnh lớn, không đánh trận lớn, không đánh cứ điểm lớn, mà đánh cứ điểm nhỏ phân tán, cô lập của địch.

2- “Phòng tuyến boongke” từ Hoà Bình lên hướng tây là đồi núi là vùng địch phòng thủ mỏng yếu, các cứ điểm dựa vào tiếp tế bằng đường không không phải dễ, dựa vào vận tải đường bộ và sông Đà tương đối nhiều, có thể đánh đội vận tải của chúng.

3- Điều động đại đoàn 316, 320 được thành lập từ đội du kích, vào vùng du kích cũ ở đồng bằng, phân tán đánh du kích, đập tan nguỵ quyền, khôi phục chính quyền của mình, làm tan rã quân nguỵ, phục hồi chiến tranh du kích ở đồng bằng, mở rộng đội du kích.

Từ bài học kinh nghiệm của các chiến dịch trước quân đội Việt Nam đã đồng ý kiến nghị trên, tiến hành bố trí chiến dịch. Lần này về cơ bản đều sử dụng tất cả bộ đội chủ lực. Đại đoàn 308 và 312 phá hoại đường giao thông của địch ở hai bờ sông Đà, đánh đội vận tải của địch và cứ điểm yếu của địch, trung đoàn sơn pháo 95 của đại đoàn công pháo 351, lần lượt điều động phối hợp với hai đại đoàn này, đại đoàn 304 ở gần Hoà Bình, có nhiệm vụ giống như đại đoàn 308, 312, đại đoàn 316 đến quốc lộ 18 đông bắc, Hà Nội chạy về hướng Hải Phòng, phân tán đánh địch, khôi phục vùng du kích, đại đoàn 320 đến Nam Định, Ninh Bình vùng đồng bằng. Các đại đoàn đều có nhiệm vụ đánh sập nguỵ quyền, làm ta rã nguỵ quân, mở rộng đội du kích, khôi phục chính quyền địa phương, tổ chức quần chúng chống Pháp v.v... Do đánh trận nhỏ là chính, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn không ra tiền phương, lợi dụng thời gian này, căn cứ bài học kinh nghiệm của mấy chiến dịch trước, nghiên cứu chỉnh quân chính trị nâng cao sức chiến đấu, và báo cáo xin chỉ thị Trung ương Đảng ta. Lúc này, tôi kiêm nhiệm cố vấn đại đoàn công pháo 351, đi công tác một thời gian ở đại đoàn này, chủ yếu giới thiệu những vấn đề như : công tác chính trị của đảng, quản lý hành chính, công tác hậu cần v.v.. về mặt kỹ thuật pháo binh họ đã có huấn luyện riêng, tôi chỉ giới thiệu tri thức và kinh nghiệm sử dụng trọng pháo trong tác chiến. Vì đánh phân tán, đánh trận nhỏ nên thời gian chiến dịch này tương đối dài. Nhờ chuyển biến kỹ thuật, thu được kết quả rất tốt. Không chỉ đánh một số cứ điểm, chủ yếu đã dập tan “phòng tuyến Boongke” đánh lấy Hoà Bình, làm tan rã số lớn nguỵ quân, theo báo cáo có hơn 10.000 người. Khôi phục chính quyền kháng chiến cơ sở vùng đồng bằng, phá tan hàng loạt nguỵ quyền, có nhiều căn cứ địa và vùng du kích bắt liên lạc được với nhau, phá vỡ phong toả của địch, tình hình có sự chuyển biến rất lớn. Khí thế hung hăng của quân Pháp một lần nữa bị đập tan, tình hình bất lợi của quân đội Việt Nam có cơ hội chuyển biến tốt, chiến dịch bắt đầu từ thượng tuần tháng 12/1951 đến hạ tuần tháng 2/1952 mới kết thúc.

Qua mấy chiến dịch, có cái thành công và không thành công, phía Việt Nam bắt đầu nhận thức được giành được thắng lợi không phải dễ như trở bàn tay. Ngoài cơ quan chỉ huy có tư tưởng chiến lược chiến thuật đúng đắn, còn phải có cán bộ quán triệt chấp hành đúng đắn, còn phải có một đội ngũ kiên cường, sự kết hợp lẫn nhau giữa công tác đảng, chính quyền, quân đội v.v... những điều kiện đó không đầy đủ thì đều không thể nói đến phản công, thắng lợi. Những vấn đề này lãnh đạo Trung ương Đảng ta đã nhìn thấy trước từ lâu và đã nêu ra trong chỉ thị khi tiếp chúng tôi. Còn cần nêu cao toàn diện tố chất của cán bộ, quân đội, không chỉ là đánh trận, còn phải có phương hướng chính trị kiên định, trình độ, chính sách, tri thức chiến lược chiến thuật, điều đó đòi hỏi tăng cường công tác chính trị của đảng, tăng cường xây dựng quân đội. Cần mở lớp huấn luyện cán bộ, tăng cường xây dựng đảng, giáo dục cán bộ làm thế nào để làm tốt công tác chính trị, công tác quản lý hành chính và một loạt công tác khác. Sau chiến dịch Hoà Bình, công việc này từng bước triển khai. Vì vậy, Trung ương Đảng ta nêu ra rất nhiều ý kiến có tính xây dựng với phía Việt Nam. Lúc này tôi được lệnh trở về nước nên không biết được tình hình công tác sau này.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:10:27 am
4. Mấy câu chuyện dân dã

1. Sau khi kết thúc chiến dịch Đông Bắc từng nghe có người gọi chiến dịch này là “chiến dịch Hoàng Hoa Thám”, và biết Hoàng Hoa Thám là một vị anh hùng dân tộc Việt Nam. Chúng tôi đều không để tâm lắm, tưởng rằng lấy anh hùng dân tộc đặt tên cho một chiến dịch cũng không có gì phải bàn tán. Tại hội nghị tổng kết chiến dịch Đông Bắc, khi Võ Nguyên Giáp phát biểu, chính thức nói chiến dịch Đông Bắc là “chiến dịch Hoàng Hoa Thám”. Vì vậy tôi đã hỏi kỹ phiên dịch Hoàng Đôn. Anh ta nói: “Hoàng Hoa Thám là anh hùng chống quân Thanh trong thời kỳ Triều Thanh Trung Quốc xâm lược Việt Nam, địa điểm đại để cũng là chiến trường của chiến dịch Đông Bắc lần này, Hoàng Hoa Thám đánh bại quân Thanh ở đây, trở thành anh hùng dân tộc Việt Nam. Tôi vốn cho là Hoàng Hoa Thám là anh hùng đấu tranh chống Pháp! Không ngờ Việt Nam lấy ngay một tên người như thế để đặt tên cho chiến dịch Đông Bắc. Xem xét từ mục đích đến đại cục nên gọi là “chiến dịch Đông Bắc” thì lẽ ra chiến dịch này xác đáng hơn. Bây giờ có sự thay đổi đó là có dụng tâm. Tôi từng hỏi phiên dịch Hoàng Đôn, có biết điều đó là vì sao không ? Anh nói anh không biết, liệu có phải anh ta thật sự không biết hay không rõ. Lúc bình thường, tôi và phiên dịch quan hệ rất thoải mái, bây giờ làm tôi phải chú ý. Việc này tôi đã báo cáo với tham mưu trưởng Mai và đề nghị đồng chí chú ý quan hệ với phiên dịch báo cho Đoàn cố vấn biết đồng chí tỏ ý đồng ý.

Trước đó, sau chiến dịch trung du, phía Việt Nam gọi chiến dịch này là “chiến dịch Trần Hưng Đạo mà Trần Hưng Đạo nghe nói là “anh hùng” chống quân đội triều Nguyên Trung Quốc ở vùng Việt Trì. Nhớ lại sau một chiến dịch khác cũng có trường hợp tương tự, nhưng tôi không nhớ tên cái gọi là anh hùng đặt cho chiến dịch đó.

Trước chiến dịch biên giới Hoà Bình, Đoàn cố vấn ở trong hẻm núi vùng Tả Mây. Có một hôm phía Việt Nam thông tri cho chúng tôi họ tổ chức hai buổi dạ hội, mời chúng tôi tham gia. Một buổi là biểu diễn nhạc giao hưởng, một buổi là Việt kịch (thì ra Việt kịch ở Việt Nam là “quốc kịch” của họ), bảo chúng tôi tự do tham gia. Bởi vì nghe không hiểu nên tôi không tham gia. Theo đồng chí nghe nhạc giao hưởng về nói lại, đoàn nhạc giao hưởng mang từ Hà Nội lên, ở Hà Nội là đoàn nhạc cao cấp nhất, do thống đốc quân Pháp ở Việt Nam trước đây thành lập, nhạc khí rất quý, có những cái làm bằng bạc, nhưng rất tiếc nghe không hiểu, không thể nào thưởng thức được. Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh rất thích Việt kịch, đồng chí đi xem nhưng lạc đường phải quay về. Thì ra Việt kịch đó lại là tiết mục biểu diễn Việt Nam đánh bại quân đội triều Thanh 4.

2. Trước chiến dịch Trung Du, Ban chỉ huy Đoàn cố vấn chúng tôi đi Tam Đảo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đi một nơi nào đó, ngày đầu tiên đi cùng đường với chúng tôi. Hồ Chí Minh và Trưởng đoàn Vi Quốc Thanh đi ngựa, nhìn thấy trên gò cao phía bên kia ruộng lúa bên đường có một đám bò đầu to lông vàng tươi, Vi Quốc Thanh phấn khởi ca ngợi nói : “ Con bò này thật đẹp, vừa cao vừa to, hình dáng màu sắc đều rất đẹp, là loại giống tốt ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “ Đúng vậy, nhưng rất đáng tiếc, chẳng bao lâu sẽ bị Đoàn cố vấn ăn sạch ”. Vi Quốc Thanh rất ngạc nhiên : “ Hồ chủ tịch có ý kiến gì đối với Đoàn cố vấn không ? Nếu Đoàn cố vấn có sai lầm gì, xin Hồ chủ tịch phê bình, chúng tôi nhất định sửa chữa ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “ Theo người ta nói, các đồng chí Đoàn cố vấn yêu cầu ăn cơm rất cao, bây giờ Đoàn cố vấn hơn 300 người (kể cả người đi theo cố vấn, người Việt Nam cũng gọi bảo vệ v.v... là cố vấn), mỗi ngày mỗi người phải ăn hết một con bò và một con gà. Mãi như thế chúng tôi chịu không nổi ! ” Vi Quốc Thanh nói : “ Hồ Chủ tịch! Việc này sợ không đúng sự thật. Tình hình sinh hoạt của cố vấn ở các đơn vị bộ đội, tôi không rõ lắm, nhưng tình hình ở Ban chỉ huy Đoàn cố vấn quyết không phải như vậy. Xin Chủ tịch kiểm tra thêm, tôi cũng kiểm tra lại, nếu quả thực như vậy, chúng tôi chịu trách nhiệm bồi thường hơn nữa sẽ kiên quyết sửa chữa. Không nên vì những việc đó ảnh hưởng đến quan hệ của chúng ta ”. Sau khi chiến dịch Trung Du trở về, Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh nói với các đồng chí tham mưu trưởng Mai, Chủ nhiệm Đặng, cố vấn hậu cần Mã Tây Phu về vấn đề “một con bò, một con gà” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với đồng chí, bảo các đồng chí đó lần lượt đi điều tra.

Tham mưu trưởng Mai bảo chúng tôi cùng đi điều tra, và nói tỉ mỉ cho chúng tôi biết tình hình Hồ Chủ tịch nói chuyện với Vi đoàn trưởng, chủ yếu bảo chúng tôi tìm hiểu tình hình thực tế, chuẩn bị tài liệu, báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau này chúng tôi nhiều lần nói việc này với tham mưu trưởng Mai, Vi đoàn trưởng. Nội dung đại thể là : bữa ăn chính bình thường của Ban chỉ huy Đoàn cố vấn là gạo của Trung Quốc viện trợ. Rau tươi như rau cải, cà, cà chua, không thấy ở Việt Nam, nhân dân cũng không trồng. Về thịt, thì ăn thịt gà nhiều hơn, khoảng một tuần một lần. Đó là vì phong tục của Việt Nam như vậy. Nông thôn Việt Nam không ăn trứng gà, gà mái đẻ trứng không lấy trong ổ ra, đẻ 10 đến 12 trứng thì tự động ấp ra gà con. Sau khi gà con lớn lúc đó có thể phân biệt con gà mái, một con gà trống, số còn lại không phân biệt trống mái đều đem thiến, gà thiến đó lớn lên cao to, mỗi con đều nặng đến bốn năm kilô, họ ăn thịt gà chứ không ăn trứng gà. Cán bộ Việt Nam hầu hết trong túi áo đều có một ống chì con, như cái nắp bút, trong đó đựng mấy chục cái tăm rất nhỏ, khi ăn thịt gà, thì dùng cái đó xỉa răng, chứng tỏ họ cũng thường xuyên ăn thịt gà. Chúng tôi ăn thịt gà không thể nhiều hơn họ. Còn thịt lợn khoảng một tuần một hai lần, Việt Nam nuôi lợn đều lớn đến ba, bốn mươi kilô thì giết, không có lợn to đến 50, 100 kilô. Còn thịt bò, ăn rất ít, tổng cộng chỉ có vài lần.

Theo người ta nói, ở Việt Nam ăn cá không khó khăn, nhưng cũng rất ít thấy. Thời chiến, có gì ăn nấy mức độ không quá mức bình thường, thậm chí trong hành quân, ăn cơm nắm nguội, ăn ớt rừng, uống nước lã là chuyện thường xuyên. Có một lần Ban chỉ huy Đoàn cố vấn đi nhầm đường, đến một quả núi lớn không người, buổi trưa không có cơm ăn. Vi đoàn trưởng bảo chúng tôi đào măng nấu ăn, bởi vì không biết có loại măng đắng, nấu phải măng đắng, nên không ăn được trở thành chuyện cười. Vi Quốc Thanh còn nói, con trai miền bắc đến miền nam phải học biết sinh hoạt ở miền nam, nếu không sẽ bị đói. Như vậy, đại thể tính ra mỗi ngày cũng không ăn hết một con gà, còn nói chi cái thứ sơn hào hải vị khác. Còn các cố vấn trong bộ đội sinh hoạt đại thể cũng như vậy. Cũng thường nghe họ nói đời sống quá đơn điệu, cũng không có rượu. Sau chiến dịch biên giới có tặng cho Đoàn cố vấn một ít rượu của Pháp, lấy được chỉ có mấy chai ngon một chút, còn phần lớn là rượu bình thường để cho binh sĩ uống. Đưa đến cho đoàn hai thùng rượu nho, loại rượu nho chất lượng kém, lính người da đen thường uống rượu này, còn binh đoàn người da trắng thì không uống, lấy nó để tắm. Mở nắp thùng ra, sĩ quan tắm trước một lúc, sau đó theo cấp bậc lần lượt từng người thay nhau tắm. Người ta nói tắm rượu này để phòng bệnh sốt rét. Cho chúng tôi uống loại rượu này, chúng tôi đều không uống, mọi người thường bàn tán chuyện này. Dù có tình thế nào chăng nữa cũng không thể nói một ngày một con bò, một con gà. Chúng tôi phân tích đến, một là có thể có người tham ô, hai là có thể có người làm trò ma, phá hoại tình hữu nghị giữa chúng ta với các đồng chí Việt Nam, điều này phải đặc biệt cảnh giác. Các đồng chí kiến nghị, cung cấp sinh hoạt cho cố vấn chúng tôi, đổi lại do trong nước cung cấp. Văn phòng Đoàn cố vấn ở Nam Ninh lúc đó (tên đầy đủ là Văn phòng đoàn công tác Hoa Nam ở Nam Ninh, trên thực tế là Tổng cục Hậu cần chi viện Việt Nam) đã thành lập hoàn thiện, Thủ trưởng Đoàn cố vấn đồng ý ý kiến này, giao cho đồng chí Mã Tây Phu phụ trách.

Tháng 6, 7 năm 1951, khi Đoàn cố vấn ở Tả Mây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Đoàn cố vấn và ở lại với Đoàn cố vấn. Chủ tịch đến để tìm hiểu tình hình. Chủ tịch thường đi lại ở Phòng tham mưu, Ban chính trị, Ban hậu cần tìm hiểu tình hình sinh hoạt của chúng tôi, chúng tôi đều trả lời đúng sự thực. Lúc này chúng tôi bỗng được ăn một lần bít tết. Người ta nói đây là món ăn nổi tiếng của Pháp, làm bằng thịt bò tơ, nhưng chúng tôi ăn vào thấy khó nuốt, một là gặm không nổi, hai là gặm một miếng còn có máu tươi, ba là mùi vị không ngon còn có mùi tanh. Chúng tôi ý thức được đây là người đầu bếp cố ý để Chủ tịch Hồ Chí Minh xem. Bởi vì người ta nói thịt bò làm bít tết chỉ có một bộ phận trên thân con bò có thể làm được, nhiều người như thế này ăn bít tết, mấy con bò cho đủ. Các làm này muốn phủ một tấm màn, nhưng ngược lại bộc lộ ra càng nhanh. Khoảng hơn nửa tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về, nhưng sau đó không lâu trở lại vẫn ở Ban chỉ huy Đoàn cố vấn và rất thân thiết nói cười với mọi người. Từ đó về sau, mỗi lần Chủ tịch đến Bộ Tổng tư lệnh quân đội Việt Nam đều ở Ban chỉ huy Đoàn cố vấn, mỗi lần Hồ chủ tịch ra ngoài đều phải hoá trang, bác sĩ Chu Hy Tường ở Phòng Tham mưu chúng tôi thành nhà hoá trang chuyên nghiệp của Chủ tịch. Bởi vì Chủ tịch Hồ Chí Minh thích hoá trang thành thương binh, trên đầu băng bó có thể che bộ râu. Điều đó trở thành một nhiệm vụ của đồng chí Chu Hy Tường. Chúng tôi càm thấy được Chủ tịch đã rõ việc “một con bò, một con gà”.

Quả nhiên không lâu có một hôm phiên dịch cho chúng tôi biết phòng giao tế của phía Việt Nam xảy ra vụ tham ô lớn, nhiều người bị bắt 5. Còn nghe nói Phó trưởng phòng của Phòng giao tế bị xử tử hình. Lúc này Văn phòng Đoàn công tác Hoa Nam ở Nam Ninh đã bắt đầu cung cấp một phần đồ dùng sinh hoạt của chúng tôi, không lâu sau đó toàn bộ do Trung Quốc cung cấp. Trung Quốc còn định kỳ gửi tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh mấy thùng sắt to, trong đó có những hộp to nhỏ đựng bánh bích quy, đồ điểm tâm, sữa, các loại đồ hộp, lạp xường v.v... Viện trợ của chúng ta đối với Việt Nam thực là thành tâm chí thiện hơn nữa rất chu đáo. Thế nhưng một số người phía Việt Nam làm cái trò mất nhân tâm, phá hoại tình hữu nghị của nhân dân Trung – Việt là rất không nên .


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:11:06 am
3. Khi tiêu diệt binh đoàn Lepage, viên phó tư lệnh của Lepage bị quân đội Việt Nam bắn chết. Vì vậy sau khi bị bắt làm tù bình Lepage đã đề xuất phản đối phía Việt Nam, nói quân đội Việt Nam bắn chết tù binh là hành vi của người dã man. Ông ta tự xưng là dân tộc thượng đẳng, nói người Việt Nam không văn minh, không khai hoá, ông ta đòi bồi thường thiệt hại, yêu cầu an ủi đòi trừng phạt “hung thủ giết người”, Lepage rất điên cuồng ngạo mạn, làm cho người Việt Nam không có biện pháp, không biết nên như thế nào cho phải. Vì vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi đồng chí Trần Canh và đồng chí Vi Quốc Thanh xử lý trường hợp này như thế nào. Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh nói con người đó bị giết như thế nào, phải làm rõ tình hình lúc đó là giết nhầm hay là cố ý giết, nếu là giết nhầm thì là việc thường có trên chiến trường, phản đối cái gì, nhảm nhí. Đồng chí Trần Canh nói, trước hết phải điều tra rõ tình hình rồi hãy nói Lepage điên cuồng như thế, có gì ghê gớm, một là tù binh mà dám coi thường các đồng chí như vậy, phải dẹp ngay cái uy của hắn, trước hết điều tra rõ tình hình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : đã điều tra tình hình Lepage và họ núp trong hang, chiến sĩ chúng ta gọi họ ra hàng, Phó tư lệnh ra trước, khom lưng, lúc đó chiến sĩ ta không biết ông ta làm gì cũng không rõ có phải ông ta ra đây hàng hay không nên đã bắn chết ông ta, còn thu một khẩu súng lục. Xem ra là giết nhầm, Trần Canh cười nói : “ Dễ thôi ! Đồng chí cử một người năng nổ đi gặp Lepage dạy cho ông ta một trận, nói các ông chỗ nào là dân tộc thượng đẳng, mà ngay đến đầu hàng cũng không biết. Muốn đầu hàng trước hết phải bỏ súng xuống hoặc vứt ra khỏi hang, kéo cờ trắng hoặc cầm khăn tay trắng, giơ tay lên. Ông cầm súng lục đi ra là đầu hàng hay là chống lại ? Ngay chút tri thức này cũng không biết còn gì là dân tộc thượng đẳng, còn gì là văn minh hay là tư lệnh nữa ! Bắn chết nó cũng đáng. Còn phải bảo cho ông ta biết, bảo ông ta viết thư về nước, bảo bộ đội của họ tăng cường học môn nộp súng đầu hàng như thế nào, không nên để mất mặt người Pháp trên chiến trường v.v...” Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe xong cười mãi không thôi. Đoàn trưởng Vi nói : “ Không nên khách khí đối với bọn đế quốc, không những phải bác lại kháng nghị của ông ta, còn phải chỉ trích ông ta, đánh tan hung hăng đế quốc của ông ta. Bọn chúng xâm lược lãnh thổ nước khác, cướp đoạt tài sản nước khác, nô dịch nhân dân nước khác, đốt, giết, hãm hiếp, cướp bóc không chừa thứ gì, là dã man nhất, dân tộc thượng đẳng cái gì ? Chúng ta tự vệ, chống lại xâm lược để giành lấy giải phóng là chính nghĩa, chúng ta chống lại và phản đối dã man, bọn chúng mới là bon đế quốc dã man nhất.

Tất nhiên cũng phải giáo dục bộ đội của mình phải tôn trọng kỷ luật chiến trường, không nên vi phạm chính sách tù binh. Nhưng vẫn phải có lòng tự tôn dân tộc, tiến hành giáo dục khí thánh dân tộc, không nên coi bọn đế quốc là dân tộc thượng đẳng gì cả, phải xem thường chúng, không nên coi thường mình, không nên hạ thấp mình, chúng ta không xâm lược giành lấy giải phóng là sự nghiệp chính nghĩa cao cả phải xé toang mặt nạ giả dối của cái gọi là dân tộc thượng đẳng, phải đề cao chí khí của mình, dẹp uy phong của địch ”. Hồ Chủ tịch nói : “ Các đồng chí nói rất hay, rất tốt ”. Về sau nghe nói Việt Nam cử người đi báo lại Lepage, làm cho ông ta không nói được lời nào, dẹp yên cơn sóng gió nhỏ đó 6.

4. Quân Pháp đều đồng loạt phá huỷ, biến thành bình địa những thành phố chúng rút bỏ. Cho nên ở vùng giải phóng Việt Nam, một số thành phố thị trấn có trên bản đồ, đến thực địa lại không thấy đâu cả vì đã bị phá huỷ không còn cái gì, nhiều lắm thấy được một số đống đổ nát. Quân Pháp bắn phá Lạng Sơn có tính huỷ diệt. Nhưng trung tâm thị xã Lạng Sơn có một khu tập trung dân cư Hoa kiều hình chữ nhật, tình hình kỳ lạ. Khi quân Pháp bắn phá Lạng Sơn, xung quanh đều phá nát, khu Hoa kiều lại bình yên vô sự, mà khu này chỉ cách một đường phố với xung quanh 7. Ở Cao Bằng cách Lạng Sơn không xa, tôi đã một lần bị máy bay địch ném bom. Khi chúng tôi ở Lạng Sơn, vì không thể đánh Hà Nội ngay một lúc, nên Bộ chỉ huy tiền tuyến quân đội Việt Nam và Đoàn cố vấn quyết định về chỗ cũ Quảng Uyên, sau đó dời đến gần Tả Trúc vùng tây bắc Thái Nguyên, cơ quan đầu não của đảng, chính phủ Việt Nam đóng phân tán ở vùng này. Lúc này phía Việt Nam quyết định tổ chức ở Cao Bằng buổi liên hoan lớn chào mừng thắng lợi chiến dịch biên giới, và mời Đoàn cố vấn tham gia. Đoàn cố vấn vẫn suy nghĩ mãi khuyên họ nên cẩn thận vì Cao Bằng chưa bị ném bom, cho nên địch không thể để yên. Vì sao ném bom Lạng Sơn mà không ném bom Cao Bằng, trong đó chắc có vấn đề. Cho nên phải cẩn thận còn kiến nghị phía Việt Nam phân tán tổ chức liên hoan nhỏ, tránh xảy ra đáng tiếc.

Một số người phía Việt Nam bị thắng lợi làm cho mê mẩn, không tiếp thu lời khuyên của Đoàn cố vấn, cho rằng họp buổi tối sẽ không có chuyện gì. Vì thế chọn một ngày cuối tháng 10, lúc 8g tối bắt đầu lễ chúc mứng, hẹn Đoàn cố vấn hôm đó đến Cao Bằng, ở trong một nhà thờ của Pháp đêm đó tham gia hội nghị hôm sau đi lên hướng Tả Trúc. Vì vậy tham mưu trưởng Mai bảo tôi không về Quảng Uyên mà lên thẳng Cao Bằng, sắp xếp chỗ ở cho Đoàn cố vấn, tìm hiểu tình hình tổ chức hội nghị, tôi đến Cao Bằng. Khi đến Cao Bằng còn hai hôm nữa mới họp, tôi đi xem địa hình và trình khu phố xung quanh Cao Bằng. Cao Bằng ở hai bên thung lũng sông khá rộng bốn bề là núi, núi phía tây tương đối thấp, khu phố ở dưới dốc núi, phía đông khu phố là một con sông không lớn, phía đông con sông là sân bay. Xóm làng nằm rải rác dưới chân núi xung quanh. Thấp thoáng có thể nhìn thấy lô cốt công sự của quân Pháp xây trên đỉnh núi.

Khu thành phố không lớn, chỉ có khoảng 20.000 dân, ở Trung Quốc chỉ là thị trấn nhỏ, nhưng ở Việt Nam lại là tỉnh lỵ, gọi là thành phố hạng vừa. Nó chỉ có một đường phố theo hướng nam bắc, cửa hiệu, phần nhiều cửa hàng chưa mở cửa, chỉ có mấy cửa hàng ăn nhỏ mở cửa kinh doanh, bán phở, gà xé phay, cũng có những quầy hoa quả chuôi tây, chuối tiêu, quít, phần đông là phụ nữ. Không có nhà cao cửa rộng, phía bắc khu phố có một quảng trường, có một gò đất đã dựng lều, đặt ghế đẩu giống như sân khấu chúng ta biểu diễn trong những năm chiến tranh, dán khá nhiều biểu ngữ. Quảng trường đó vốn có thể là thao trường của quân Pháp, xung quanh còn có dây thép gai, người trên phố không nhiều, binh lính thì không ít. Trong nhân dân phần đông là phụ nữ, đàn ông chỉ có cụ già và trẻ em. Phụ nữ Việt Nam có tập quán nhai trầu, người ta nói có thể bảo vệ răng lợi, nhai lâu, răng trở nên đen, họ cho đó là đẹp 8. Ở nông thôn phần nhiều là phụ nữ lớn tuổi ăn trầu, ở Cao Bằng nhìn thấy phụ nữ trẻ tuổi cũng ăn trầu. Khi nhai trầu cau nước dãi biến thành màu đỏ, nhỏ ra như máu. Họ vừa đi vừa nhai, vừa nhổ nước đôi. Nhà thờ chuẩn bị cho Đoàn cố vấn ở trên một dốc núi nhỏ tây nam thành phố.

Thị xã Cao Bằng, hai mặt nam tây đều có những cây đại thụ chọc trời, cách khu thị xã bốn, năm trăm mét. Nhà cửa hoàn chỉnh, nhưng đồ dùng trong nhà không có gì. Bên ngoài có không ít công sự của quân Pháp, lô cốt phần nhiều xây bằng đá và xi măng, các con hào đều giống như dã chiến, không đậy nắp, chai rượu, vỏ đồ hộp bừa bãi khắp nơi. Giống như Đông Khê xung quanh lô cốt cắm đầy mảnh chai. Chờ đến chiều hôm khai mạc hội nghị Đoàn cố vấn vẫn chưa đến. Vốn định 8g tối khai mạc, 7g30 bộ đội đã vào hội trường. Khi mặt trời lặn đã là 7h, vẫn không thấy Đoàn cố vấn đến. Tôi đoán họ không đến chúng tôi đi ăn cơm, chuẩn bị 8g đi xem tình hình khai mạc.

Vừa ăn cơm xong, hai người của Phòng giao tế đến nói, Đoàn cố vấn đã đến tây Việt Bắc, không dự họp được, bảo tôi đi nhanh về Đoàn cố vấn. Tôi thu dọn hành lý, chuẩn bị lướt qua hội trường xem sao rồi lên đường đuổi theo Đoàn cố vấn suốt đêm. Chính vào lúc này thỉnh thoảng vọng lại tiếng đì đoàng, đó là tiếng máy bay ném bom. Tuy biết quân Pháp nói chúng không ném bom nhà thờ, nhưng để đề phòng vạn nhất, chúng tôi vẫn phải chạy ra bên ngoài nhà thờ, chui vào những chiến hào mà quân Pháp bỏ lại. Tiếng ầm càng ngày càng lớn. Tuy màn đêm buông xuống, nhưng bầu trời trong xanh lồng lộng nhìn thấy máy bay rất rõ, trước 5 chiếc sau ba chiếc, lại 5 chiếc lại ba chiếc đằng sau vẫn 5 chiếc, ba chiếc, nối đuôi nhau mỗi tốp đều thành hình chữ “nhân” cũng không chúc xuống, cứ thế ném bom xuống phía nam Cao Bằng. Chúng tôi cảm giác bom đó sắp rơi trên đầu chúng tôi, nhưng không xảy ra. Không lâu sau, tiếng nổ trong thị xã vang lên, khối bốc lên nồng nặc tia lửa bay đầy trời. Có những người dân chạy đến gần nhà thờ, có hai phụ nữ trung niên chạy đên con hào chúng tôi. Họ quỳ trong hào, một người trước ngực đeo thánh giá; miệng niệm “a men”, “a men”, một người chấp hai tay, nhắm mắt, miệng nói “cám ơn thượng đế”, “cám ơn thượng đế”. Cảm ơn có thể là biến âm của hai chữ “cảm ân” của Trung Quốc, “thượng đế” phát âm gần giống Trung Quốc, nên nghe ra. Máy bay Pháp làm xong nhiệm vụ, lượn vòng qua trái trên bầu trời phía bắc Cao Bằng rồi bay về theo đội hình cũ, còn ở phía nam, máy bay 5 chiếc, 3 chiếc lần lượt đến ném bom, khoảng nửa giờ mới thôi.

Tôi vốn muốn đi xem tình hình ném bom, nhưng người của Phòng Giao tế kiên quyết không đồng ý, sợ máy bay đến ném bom lần nữa, nói họ không chịu trách nhiệm, đành phải nghe theo họ. Nhưng vì có hai quả bom rơi trên dốc núi phía đông chúng tôi, khiến ngựa của tôi sợ chạy mất. Trời tối rồi tìm ngựa rất lâu, sai khi tìm được vất hành lý lên, từ đường mòn xuống dốc núi theo hướng tây ra đường cái, lúc này sắp đến 9g. Đến chỗ ở của Đoàn cố vấn gần nửa đêm. Ngày hôm sau, tôi báo cáo tham mưu trưởng Mai tình hình chuyến đi này, hỏi các đồng chí vì sao không đi Cao Bằng, có phải được tin tình báo địch ném bom hay không. Đồng chí nói mấy ngày đó máy bay địch không hoạt động, tình hình khác thường, dự đoán địch được tin tình báo quân đội Việt Nam hoạt động ở Cao Bằng. Lần này quân Pháp chọn thời gian ném bom vào đúng thời gian quân đội Việt Nam tiến vào hội trường, cho thấy bảo mật của quân đội Việt Nam có vấn đề, nội bộ có gián điệp hay không cũng rất khả nghi, hoặc Cao Bằng có đặc vụ ngầm của địch. Đồng chí nói : “ Chiều hôm qua khi sắp đến vùng bắc Cao Bằng, cảm thấy tình hình không bình thường, quyết định không tham gia và kiến nghị Việt Nam chú ý, họ đồng ý lùi lại hội nghị lại nửa giờ, không biết lần này thiệt hại ra sao. Chúng tôi cử người đi gặp đồng chí gặp không ? ”. Tôi nói : “ Các đồng chí ấy vừa đến thì máy bay đến, vừa may chúng tôi chưa vào hội trường ”.

Sau đó nghe nói lúc đó bộ đội Việt Nam chưa vào hội trường, nhưng trong khu phố có nhiều quân nhân. Lần ném bom này, không tính người dân quân đội Việt Nam thương vong khoảng 200 người, hy sinh vô ích, thật là đáng tiếc. Sau đó, tôi từng đi qua Cao Bằng, cả thị xã bị tàn phá, đâu đâu cũng thấy tường nhà đổ nát, gạch ngói từng đống không còn một ngôi nhà nguyên vẹn. Đó là kiệt tác của bọn xâm lược tự xưng là “dân tộc thượng đẳng” “dân tộc văn minh”.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 14 Tháng Năm, 2009, 07:13:07 am
5. Hạ tuần tháng 6/1951, tôi từ Nam Ninh chữa bệnh trở về Ban chỉ huy Đoàn cố vấn nghe nói tháng 6 trong tác chiến vùng Ninh Bình, khi đại đoàn 308 đánh một cứ điểm, đã bắn chết trung úy Bernard con của Tướng De Lattre Tổng tư lệnh quân Pháp ở Việt Nam vừa mới nhận chức chưa bao lâu. Khoảng một tháng sau, Tư lệnh không quân Pháp tại Việt Nam (không rõ tên) là một trung tướng không quân, anh hùng không quân của Pháp thời chiến tranh thế giới thứ hai, đáp chiếc máy bay ném bom hạng nhẹ vượt qua biên giới Việt Nam, bị súng máy cao xạ bắn trung vùng trời Trung Quốc (sau chiến dịch biên giới máy bay Pháp nhiều lần quấy rối vùng biên giới Trung Quốc từng ném bom, Đức Bảo, Tịnh Tây v.v... của Quảng Tây). Chiếc máy bay này hoảng hốt tháo chay, khi đến Cao Bằng không thể tiếp tục bay nữa, buộc hạ cánh xuống sân bay Cao Bằng, trên máy bay vốn còn một quả bom chưa ném, không biết là trước khi hạ cánh mới nghĩ ra phải ném đi hay là khi hạ cánh quả bom rơi xuống trước, kết quả máy bay vừa hạ cánh, bom cũng nổ luôn trên sân bay, đuôi máy bay bị bốc cháy, người trên máy bay trừ tổ lái ra, vị tư lệnh không quân đó, một thượng úy, một phụ nữ đều bị chết cháy. De Lattre de Tassigny và phía Việt Nam đàm phán muốn đổi tù chính trị phạm của phía Việt Nam giam tại Hà Nội lấy thi thể trên chiếc máy bay này. Phía Việt Nam nêu giá rất cao, đưa ra danh sách chính trị phạm có hàng trăm người, đòi De Lattre phóng thích, còn đòi rất nhiều tiền, không đi đến thoả thuận. Nhưng De Lattre đưa thi thể của trung uý Bernard con ông ta bị chết trận về nước, chôn bên cạnh mộ Napoléon ; làm cho người Pháp và quân đội Pháp bất mãn rất lớn, chỉ trích ông ta không đòi được thi thể của trung tướng không quân, lại chỉ lo đưa thi thể của con mình về nước, còn chôn cạnh Napoléon, làm cho De Lattre lâm vào tình thế bối rối trăm bề 9.

Đánh trận tại Việt Nam không được như ý, tình cảnh chiến tranh của ông ta ngày càng khó khăn, chiến dịch biên giới Hoà Bình lại làm ông ta sứt đầu mẻ trán, khiến ông ta hết sức lo âu, chẳng bao lâu đổ bệnh. Cuối năm 1951, trong chiến dịch biên giới ông ta từ biệt cõi đời cũng đi gặp Napoléon.




1 Sau những lời lẽ hoa mĩ, dạt dào tinh thần quốc tế chủ nghĩa, vẫn là cái nhìn đại Hán, coi việc Pháp xâm lược Việt Nam và việc kí kết Hiệp định Pháp-Thanh là Trung Quốc « mất » Việt Nam.

2 Đúng hơn là Nam Sa mạc Sahara, thuộc khu vực « Châu Phi Đen ».

3 Đúng là ở Việt Nam có những nơi thờ Mã Viện (xem bản tin BBC) nhưng phần lớn là những đền thờ của Hoa kiều, và có sự lẫn lộn (vô tình hay cố ý) giữa Mã Viện và Bạch Mã.

4 Tình hình là đồng chí này không biết gì về Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, về lịch sử Việt Nam nói chung, và từ đó cũng không chịu học thêm (không kể là nghe tới kịch Việt Nam lại tưởng là « Việt kịch » của trung Quốc). Lại phản ứng rất ư là đại hán, quên cả lời dặn của bác Mao là sang Việt Nam phải xin lỗi về tội ác của Mã Viện. Hay là đồng chí hiểu rõ bác Mao « nói dzậy mà không phải dzậy » ?

5 Đây có lẽ không phải là vụ án tham ô nổi tiếng mà thủ phạm số 1 là đại tá Trần Dụ Châu, phụ trách Nha quân nhu, vì Trần Dụ Châu đã bị tuyên án tử hình ngày 5.9.1950 tức là trước chiến dịch Biên Giới (xem loạt bài của Hồng Hà, báo Cứu Quốc, do Công an Nhân dân đăng lại ngày 24 và 25.8.2005. Vụ tham ô nói tới trong bài này có thể có thực, nhưng khó tin rằng chủ tịch Hồ Chí Minh có thể nói với Vi Quốc Thanh là cố vấn Trung Quốc « mỗi ngày mỗi người ăn một con bò và một con gà »

6 Câu chuyện này hơi lố bịch, đúng là đồng chí cố vấn coi Hồ Chí Minh bằng vung, và coi người đọc không ra gì.

7 Đây là một điển hình về « u mặc đen » của tác giả : như vậy năm 1950 Pháp rút khỏi Lạng Sơn, phá sạch thành phố, nhưng còn để lại khu Hoa Kiều. 29 năm sau, một đạo quân xâm lược, khi rút khỏi cũng thị xã Lạng Sơn thì toàn bộ thành phố đã trở thành bình địa (cuốn sách này xuất bản năm 2002, tức là 23 năm sau cuộc xâm lược của Quân giải phóng Trung Quốc).

8 Một thí dụ khác về hiểu biết hạn hẹp của tác giả về văn hoá Việt Nam. Cũng không nên trách vì nghe nói gần đây có một tác giả Việt Nam viết sách bằng tiếng Pháp giới thiệu văn hoá Việt Nam cũng đùa dai, nói các bà già ăn trầu nên răng đen.

9 Không đúng, lễ truy điệu trung uý Bernard de Lattre có tổ chức ở điện Invalides (nơi giữ hài cốt Napoléon), nhưng sau đó thi hài được chôn ở vùng Vendée miền tây nước Pháp.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 04:57:30 am
ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ TRUNG QUỐC VÀ CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG PHÁP CỦA VIỆT NAM
Trương Quảng Hoa

Đầu năm 1950, theo yêu cầu của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc quyết định thi hành nghĩa vụ quốc tế, dốc mọi nỗ lực viện trợ cuộc đấu tranh chống pháp của nhân dân Việt Nam trong tình hình đất nước còn rất khó khăn, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tuân theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quân uỷ Trung ương, từ tháng 3/1950 đến tháng 7/1954 đã cung cấp số lớn trang bị vũ khí và vật tư quân nhu hậu cần cho quân đội Việt Nam, giúp huấn luyện bộ đội chủ lực quân đội Việt Nam. Đồng thời nhận lời cử Đoàn cố vấn quân sự, giúp đỡ toàn diện xây dựng quân đội Việt Nam, hỗ trợ tổ chức chỉ huy tác chiến, đã có đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam.

Stalin nói việc viện trợ Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định cử Đoàn cố vấn quân sự

 Tháng 9 năm 1949, vào lúc đấu tranh cách mạng Trung Quốc giành được thắng lợi cơ bản, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đồng chí Lý Ban đã từng làm việc nhiều năm ở Trung Quốc, mang bức thư viết tay của Người đến Trung Quốc trực tiếp liên hệ với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc yêu cầu Trung Quốc viện trợ cuộc đấu tranh giải phóng của Việt Nam. Ngày 1/10/1949, sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, quan hệ hai đảng, hai nước Trung – Việt bước vào giai đoạn phát triển mới. Ngày 18/1/1950, hai nước Trung – Việt lập quan hệ ngoại giao, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với sự giúp đỡ và liên hệ của Trung Quốc, Liên Xô và rất nhiều nước Đông Âu cũng kế tiếp nhau công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Ngày 30/1/1950, Hồ Chí Minh bí mật đến Bắc Kinh. Lúc đó, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang ở thăm Moskva, Lưu Thiếu Kỳ thay mặt Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc biểu thị rõ, Trung Quốc sẵn sàng viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam, dù việc đó làm cho Pháp bất mãn, đẩy lùi việc công nhận Trung Quốc cũng không tiếc, Lưu Thiếu Kỳ còn nhanh chóng thu xếp cho Hồ Chí Minh đi Moskva gặp Stalin, Mao Trạch Đông cùng bàn kế sách viện trợ Việt Nam chống Pháp. Ngày 6/2, Hồ Chí Minh đến Moskva. Mấy hôm sau Stalin tiếp Hồ Chí Minh có Đại sứ Trung Quốc tại Liên Xô Vương Gia Tường tham gia. Sau khi Hồ Chí Minh tóm tắt tình hình đấu tranh chống Pháp của Việt Nam và nêu ra yêu cầu Liên Xô viện trợ, Stalin nói, Việt Nam và Trung Quốc vị trí địa lý kề nhau, tình hình hai nước có rất nhiều chỗ tương đồng, công việc viện trợ chủ yếu do Trung Quốc phụ trách. Sau đó Hồ Chí Minh lại yêu cầu hai nước Việt Nam, Liên Xô cũng ký một hiệp ước hợp tác hữu nghị, Stalin từ chối khéo.

Ngày 17/2, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh cùng lên tàu về Trung Quốc. Trên tàu lửa, Hồ Chí Minh một lần nữa nêu ra với Mao Trạch Đông yêu cầu Trung Quốc viện trợ vật tư quân sự và cố vấn quân sự cho Việt Nam. Mao Trạch Đông biểu thị rõ, viện trợ về vật tư quân sự thì cố hết sức tương trợ. Đây là trách nhiệm quốc tế của một nước cách mạng thắng lợi như chúng tôi phải làm, còn cán bộ quân sự Trung Quốc phần nhiều trưởng thành từ quê mùa, nếu các đồng chí thật sự cần thì cũng là “ cố vấn vườn ” thôi ! Hồ Chí Minh nói “ cố vấn vườn ” chúng tôi cũng cần, chúng tôi tin các đồng chí đó có thể giúp chúng tôi đánh bại người Pháp, các đồng chí chẳng phải đã tiêu diệt quân đội Quốc dân đảng được Mỹ hết sức viện trợ đó sao ? Mao Trạch Đông nói việc này sau khi về Bắc Kinh, Trung ương chúng tôi sẽ nhanh chóng nghiên cứu đưa ra quyết định.

Ngày 4/3 sau khi về đến Bắc Kinh chẳng bao lâu, Mao Trạch Đông cùng các đồng chí lãnh đạo Trung ương, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức v.v.. nghiêm chỉnh nghiên cứu vấn đề Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, cho rằng sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, chúng ta có trách nhiệm, chi viện và giúp đỡ, đó cũng là điều cần thiết để củng cố thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, phá vỡ bao vây của đế quốc đối với Trung Quốc mới. Sau khi đến Bắc Kinh, Hồ Chí Minh nói với Hoàng Văn Hoan đang ở Bắc Kinh, các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đồng ý giúp chúng ta tiến hành chiến tranh chống Pháp, trong lúc vừa mới thắng lợi, mọi mặt rất khó khăn, các đồng chí ấy vui vẻ đồng ý đem hết sức chi viện không hoàn lại cho Việt Nam, thật là điều đáng quý, hiếm có ! Trọng điểm công tác ở nước ngoài của chúng ta từ nay về sau nên chuyển từ Thái Lan sang Trung Quốc, đồng chí sẽ là đại diện của đảng và nhà nước ta cử sang Trung Quốc. Sau đó, Hồ Chí Minh nhanh chóng trở về Việt Nam.

Trước khi Hồ Chí Minh đến Bắc Kinh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cử La Quý Ba làm đại diện liên lạc Trung ương sang Việt Nam. Sau khi được biết Hồ Chí Minh đã đến bắc Kinh, La Quý Ba sau khi vòng vèo một thời gian, mãi đến tháng 3 mới đến Việt Nam, sau khi cùng với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu, La Quý Ba điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nói để cho vật tư viện trợ Việt Nam chống Pháp, đưa vào Việt Nam thuận lợi cần phải đánh trước một trận ở biên giới Trung – Việt, nhằm khai thông con đường quan trọng, đồng thời trong điện cũng báo cáo ý kiến của phía Việt Nam yêu cầu nhanh chóng cử Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Quân uỷ Trung ương Trung Quốc lập tức nghiên cứu quyết định, tổ chức một Đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh nguyên Chính uỷ binh đoàn 10 Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, văn võ song toàn, làm Trưởng đoàn đi Việt Nam.

Đầu tháng 4, Vi Quốc Thanh đã ở Bắc Kinh theo chỉ thị của Lưu Thiếu Kỳ, xin ý kiến mấy vị lãnh đạo Dã chiến quân Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài, Lâm Bưu đang họp ở Bắc Kinh về lựa chọn điều động cán bộ cần thiết để tổ chức Đoàn cố vấn, lãnh đạo các Dã chiến quân đều biểu thị ủng hộ tích cực. Đặng Tiểu Bình nêu ra, các cố vấn có thể do các Dã chiến quân lựa chọn điều động, còn để công tác tiện lợi, cán bộ Ban chỉ huy có thể do Dã chiến quân số 3 lựa chọn điều động. Trung tuần tháng 4, Quân uỷ Trung ương truyền đạt mệnh lệnh cho Dã chiến quân số 2, số 3, số 4 về việc lựa chọn điều động nhân viên cố vấn và nhân viên công tác các cấp. Đảng uỷ và thủ trưởng các dã chiến quân rất coi trọng công tác này, rất nhanh lựa chọn điều động 59 cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần từ tiểu đoàn trở lên có kinh nghiệm chiến đấu thực tế và trình độ chính trị nhất định, trong đó có 33 cán bộ cấp tiểu đoàn, 17 cán bộ cấp trung đoàn, 6 cán bộ cấp đại đoàn, 2 cán bộ cấp quân đoàn, 1 cán bộ cấp binh đoàn, cùng với nhân viên công tác khác, tất cả có 281 người tổ chức thành Đoàn cố vấn quân sự.

Tiếp theo đó, Quân uỷ Trung ương căn cứ ý kiến của Nhiếp Vinh Trăn ngày 20/5 và chỉ thị của Lưu Thiếu Kỳ cùng ngày, điện cho cán bộ trung đoàn trở lên sang Việt Nam làm cố vấn về Bắc Kinh lên nhận chỉ thị trực tiếp. Ngoài Vi Quốc Thanh đã có mặt tại Bắc Kinh, do thời gian báo điều động cán bộ không thống nhất và nguyên nhân khác, đến trung tuần tháng 6, chỉ có Phó đoàn trưởng Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm v.v... hơn 20 người đến Bắc Kinh, chờ tiếp kiến. Ngày 27/6, đúng hai ngày sau nổ ra chiến tranh Triều Tiên, ngày Tổng thống Mỹ Truman tuyên bố vũ trang can thiệp nội bộ Triều Tiên và đưa hạm đội 7 xâm chiếm Đài Loan Trung Quốc, các vị lãnh đạo chủ chốt của đảng và nhà nước Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức trong vô vùng bận rộn đã gặp gỡ các cố vấn đến Bắc Kinh tại Di Niên đường Trung Nam Hải, những người đến dự được cổ vũ sâu sắc. Hôm đó Chu Ân Lai có việc khẩn cấp, không thể tham gia buổi tiếp.

Hai hôm sau, mời Hồng Thuỷ (tức Nguyễn Sơn), nguyên Tư lệnh Liên khu 4 Việt Nam, giới thiệu với các cố vấn về phong thổ, địa lý, khí hậu Việt Nam, tình hình địch ta và tình hình quân đội Việt Nam. Hồng Thuỷ gốc người Hà Nội, năm 1925 vào học trường quân sự Hoàng Phố, tham gia khởi nghĩa Quảng Châu và trường chinh, năm 1945 sang Việt Nam tham gia chiến tranh chống Pháp, giữ chức Tư lệnh kiêm chính uỷ Liên khu 4, năm 1950 trở lại Trung Quốc nên đồng chí khá am hiểu tình hình Việt Nam. Hạ tuần tháng 7, ngoài các cố vấn đến từ Dã chiến quân 2 đi theo Trần Canh sang Việt Nam, những người còn lại đều tập kết đúng ngày tại Nam Ninh, chính thức thành lập Đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam. Để giữ bí mật, Đoàn cố vấn mang biệt hiệu “ Đoàn công tác Hoa Nam ” để liên hệ với bên ngoài. Trong thời gian tập kết ở Nam Ninh, Vi Quốc Thanh truyền đạt cho các cố vấn tinh thần chỉ thị của các đồng chí lãnh đạo Trung ương, tổ chức học tập, thảo luận để nâng cao nhận thức, uốn nắn thái độ, xây dựng “ quy tắc công tác của Đoàn cố vấn quân sự ”, yêu cầu mọi người nghiêm chỉnh triệt để chấp hành. Đồng thời thành lập Đảng uỷ Đoàn cố vấn quân sự được Trung ương phê chuẩn, 6 người là Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, Mã Tây Phu, Lý Văn Nhất, Đặng Thanh Hà làm uỷ viên ; Vi Quốc Thanh làm Bí thư, Đặng Dật Phàm làm Phó bí thư.

Trong thời gian này, Hoàng Văn Hoan đã được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ Bắc Kinh xuống Nam Ninh để giới thiệu cho Đoàn cố vấn quân sự tình hình Việt Nam và quân đội nhân dân Việt Nam và đưa Đoàn cố vấn vào Việt Nam. Những đồng chí phụ trách quân khu Quảng Tây, Trương Vân Dật, Lý Thiên Hựu, Mặc Văn Hoa rất quan tâm và ủng hộ công việc chuẩn bị trước khi Đoàn cố vấn ra nước ngoài, và bố trí chu đáo công tác bảo vệ an ninh trên đường đi. Ngày 9/8/1950, Đoàn cố vấn quân sự lên đường từ Nam Ninh, qua Điền Đông, Bách Sắc, Tịnh Tây, rạng sáng ngày 12/8 đến Bộ chỉ huy tiền phương chiến dịch biên giới quân đội nhân dân ở Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng. Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 04:58:09 am
Tại cuộc nói chuyện ở Di Niên đường, Lãnh đạo Trung ương giao cho Đoàn cố vấn hai nhiệm vụ

Cử Đoàn cố vấn quân sự sang đảng anh em và nước láng giềng hữu nghị, đây là lần đầu tiên trong lịch sử đảng cộng sản Trung Quốc, và trong lịch sử phong trào cộng sản quốc tế cũng không có kinh nghiệm thành công. Trong đấu tranh cách mạng lâu dài, tuy đảng cộng sản Trung Quốc đã tích luỹ kinh nghiệm đấu tranh quân sự phong phú, nhưng muốn vận dụng những kinh nghiệm đó vào một nước và quân đội khác, tất nhiên là một việc hết sức gian khổ và phức tạp. Và việc Đoàn cố vấn quân sự có thể thực hiện đúng đắn nghĩa vụ quốc tế, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lớn lao mà mình gánh vác hay không, sẽ là vấn đề trọng đại ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam và quan hệ hai đảng, hai nước Trung – Việt. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hết sức coi trọng vấn đề này. Vì vậy, khi Đoàn cố vấn quân sự quân sự thành lập sơ bộ, trong buổi tiếp ngày 27/6, các vị lãnh đạo Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức đã chỉ thị rõ ràng, sâu sắc và cặn kẽ tỉ mỉ về ý nghĩa, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo cũng như phương pháp làm việc, tác phong v.v.. của Đoàn cố vấn quân sự sang công tác tại Việt Nam.

Căn cứ vào yêu cầu của phía Việt Nam và tình hình đấu tranh giải phóng của Việt Nam, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc giao cho Đoàn cố vấn quân sự hai nhiệm vụ : một là giúp Việt Nam đánh thắng trận, tống cổ bọn xâm lược Pháp ; hai là giúp Việt Nam xây dựng quân đội chính quy. Mao Trạch Đông nói : “ Các đồng chí đến Việt Nam, trước hết phải giúp đánh thắng trận. Mở ra một địa phương để tập trung quân đội, sau đó sẽ càng đánh càng lớn ”. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Sau khi các đồng chí đi, phải giúp Việt Nam xây dựng một quân đội chính quy, từng bước có thể tác chiến chính quy, và nhất định phải tổ chức đánh thắng trận. Đánh trận sẽ có nhiều thương vong, phải đào tạo hàng loạt cán bộ huấn luyện ”. Chu Đức nói, nhất định phải giúp Việt Nam xây dựng tốt quân đội, phải đánh thắng trận. Đồng chí còn nói, nguyên tắc của chúng ta là có con người như thế nào thì đánh trận như thế ấy. Đánh lúc nào ? Phải tìm cơ hội thích đáng, không thể làm theo cách làm của chúng ta trước đây, cần phải biết đánh trận dũng cảm và khôn khéo, quan trọng nhất là khôn khéo, bởi vì trang bị vũ khí của địch mạnh hơn Việt Nam. Còn phải giúp họ làm tốt công tác đối với quân địch, ưu đãi tù binh, đó là kinh nghiệm quý báu chiến thắng kẻ thù.

Phát biểu trong cuộc gặp lần này, các đồng chí lãnh đạo Trung ương còn nhấn mạnh chỉ rõ tư tưởng chỉ đạo công tác của Đoàn cố vấn quân sự, nêu ra yêu cầu nghiêm khắc đối với thái độ công tác, phương pháp công tác, tác phong tư tưởng, đặc biệt là đoàn kết tốt với phía Việt Nam. Một là, phải phát huy tinh thần quốc tế chủ nghĩa. Mao Trạch Đông nói : “ Không phải tôi muốn cử các đồng chí đi Việt Nam, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu tôi. Ai bảo cách mạng chúng ta thắng lợi trước ! Thế thì phải giúp đỡ người ta, đó gọi là chủ nghĩa quốc tế ”. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Trung ương ra quyết định này là có lý do to lớn, Việt Nam là nơi khiến người ta để mắt tới nhiều nhất trên thế giới hiện nay, nhiệm vụ của các đồng chí chấp hành lần này có ý nghĩa thế giới. Đây là công việc cần phải làm, nếu chúng ta không đi giúp Việt Nam, để cho bọn địch nằm lì ở đó, khó khăn của chúng ta cũng sẽ lớn hơn, rắc rối cũng sẽ lớn hơn ”. Chu Đức nói : “ Chúng ta là người theo chủ nghĩa quốc tế, cần phải coi việc giúp Việt Nam là nhiệm vụ quốc tế lớn lao, phải không tiếc mọi thứ giúp họ đến thắng lợi ”. Mao Trạch Đông còn đặc biệt nhấn mạnh, toàn thể các đồng chí trong đoàn cố vấn phải coi sự nghiệp của nhân dân Việt Nam là sự nghiệp của mình để hành động.

Hai là, phải đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam. Mao Trạch Đông nói : “ Việc đầu tiên sau khi các đồng chí đi là phải đoàn kết tốt với các đồng chí Việt Nam nhất là phải đoàn kết tốt với lãnh đạo Việt Nam. Phải chú ý đoàn kết không tốt thì thà không làm còn hơn ”. Chủ tịch còn nói : “ Việt Nam là một dân tộc tốt, tình hình cách mạng mấy năm gần đây phát triển nhanh, thành tích rất tốt, không nên coi thường người ta. Đứng trước quần chúng Việt Nam không được biểu hiện tư tưởng kiêu căng chúng ta là người chiến thắng. Thắng lợi của chúng ta, mọi người đều biết, không cần chúng ta bày tỏ ”. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Mọi người phải chú ý thận trọng, không nên có bất cứ biểu hiện nào coi thường người ta, không nên tỏ vẻ nước lớn. Sau khi các đồng chí đi ngoài giúp Việt Nam xây dựng quân đội, đánh giặc ra, nên ít phát biểu ý kiến bởi vì nói nhiều dễ gây hiểu nhầm. Tất nhiên phải tích cực nêu ý kiến về mặt quân sự, nhưng phải chú ý ít phê bình làm nhiều thao tác làm mẫu. Có thể nêu nhiều biện pháp để cho người ta lựa chọn quyết định, người ta cũng có thể không nghe ý kiến của đồng chí. Nhưng nếu quan hệ tốt thì ý kiến của đồng chí sẽ được áp dụng ”.

Ba là, phải xuất phát từ thực tế của Việt Nam, Mao Trạch Đông nêu rõ : “ Muốn giúp người ta cho tốt, chỉ dựa vào ý muốn chủ quan thì không ổn, cần phải căn cứ vào tình hình thực tế giúp đỡ cho xác đáng. Phải bàn bạc kỹ lưỡng với người ta, có thể nói cho người ta biết, chúng ta cũng có thất bại, giới thiệu nhiều bài học cho họ, ít nói : 'Qua năm ải chém sáu tướng' ”. Người còn căn dặn, trong quá trình giúp người ta, phải thường xuyên kiểm tra lời nói và việc làm của mình, mỗi ngày một lần, ba ngày một lần, ít nhất phải mỗi tuần một lần. Phải kiểm điểm cái nào chúng ta làm đúng cái nào chúng ta làm sai. Chu Đức cũng chỉ rõ : “ Về hành động quân sự, nhất thiết phải xuất phát từ thực tế, thực sự cầu thị không được nóng vội, phải nói cho họ biết kinh nghiệm thất bại của chúng ta, để họ được gợi ý giáo dục từ trong đó ”.

Bốn là, phải giúp Việt Nam đi trên con đường tự lực cánh sinh. Trong phát biểu, Chu Đức lấy kinh nghiệm lịch sử của cách mạng Trung Quốc để nói lên ý nghĩa cực kỳ quan trọng của việc giúp Việt Nam đi con đường tự lực cánh sinh. Đồng chí nói : “ Sự giúp đỡ của chúng ta không phải là biện pháp duy nhất, phải nói cho họ biết đi con đường tự lực cánh sinh. Kinh nghiệm của chiến tranh cách mạng Trung Quốc là chủ yếu dựa vào lấy vũ khí địch đánh địch, đồng thời cũng dựa vào mình sản xuất vũ khí. Tự lực cánh sinh là cái gốc thắng lợi của cách mạng chúng ta, chúng ta có lựu đạn, có tinh thần dũng cảm, nhào nặn nó lại, nò còn có ích, còn tốt hơn máy bay đại bác. Chiến tranh của chúng ta trước tiên dựa vào thuốc nổ đánh giặc, về sau mới lấy được đại bác của địch ”. Chu Đức còn nhấn mạnh nói, dù thế nào chăng nữa cũng phải giúp Việt Nam xây dựng căn cứ địa vững chắc kiên trì nguyên tắc và tinh thần tự lực cánh sinh.

Năm là, phải phát huy tinh thần phấn đấu gian khổ. Mao Trạch Đông nói : “ Tôi biết, cử các đồng chí đến một nơi rất khổ, đứng trước nhiệm vụ rất nặng nề, nếu mắc bệnh sốt rét còn có nguy hiểm hy sinh. Cho nên nhất định phải chuẩn bị tư tưởng khắc phục khó khăn không nên tính toán nhiều đến thuận lợi ”. Chủ tịch còn nói, bao giờ các đồng chí có thể trở về ? Không nên vội, các đồng chí đi Việt Nam không chỉ phải chuẩn bị khắc phục khó khăn còn phải chuẩn bị thời gian cũng không thể quá ngắn như vậy sẽ làm người ta thất vọng. Lưu Thiếu Kỳ nói : “ Thời gian thắng lợi của cách mạng Việt Nam sẽ không quá nhanh, bởi vì kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc, tôi thấy cần chuẩn bị ba năm ”. Chu Đức cũng nói : “ Các đồng chí sang Việt Nam công tác là rất gian khổ, phải tính đến phấn đấu gian khổ lâu dài ”.

Những chỉ thị quan trọng này của các đồng chí lãnh đạo Trung ương là kim chỉ nam hành động của Đoàn cố vấn quân sự, tiến hành viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp. Những chỉ thị đó đã đóng vai trò chỉ đạo to lớn đối với Đoàn cố vấn quân sự thi hành đúng đắn nghĩa vụ quốc tế, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lớn lao mà mình gánh vác.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 04:58:41 am
Bàn bạc quyết định đánh Đông Khê trước, chiến dịch biên giới giành được thắng lợi hoàn toàn

Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc vừa tiến vào lãnh thổ Việt Nam là lập tức lao vào chiến dịch biên giới nhằm khai thông tuyến giao thông vận tải giữa hai nước, mở ra cục diện có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp. Để bắt đầu tổ chức chiến dịch biên giới trong kế hoạch được tích cực tính toán trước khi Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đến Việt Nam, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc định Phó tổng tư lệnh quân khu Tây Nam kiêm Tư lệnh quân khu Côn Minh Trần Canh ở gần đi trước sang Việt Nam, với cương vị đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 7/7, Trần Canh rời Côn Minh, ngày 28 gặp Hồ Chí Minh, ngày 14/8 đến Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam ở Quảng Uyên và gặp Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc do Vi Quốc Thanh dẫn đầu đã đến đây trước hai ngày, nhanh chóng nắm bắt kế hoạch cụ thể chiến dịch biên giới và công việc chuẩn bị trước cuộc chiến.

Trần Canh, Vi Quốc Thanh v.v... nghe thêm Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và cơ quan tác chiến tình báo v.v.. giới thiệu tình hình liên quan hai bên địch ta, nhất là tình hình cụ thể chiến trường Đông Bắc, toàn cảnh khu vực chiến đấu Việt Nam hiện ra trong đầu óc họ. Tổng binh lực của quân Pháp ở Đông Dương có khoảng 230.000 người, trong đó bộ đội gốc Pháp hơn 40.000 người, còn lại là lính đánh thuê Âu – Phi và nguỵ quân Việt Nam. Binh lực ở Bắc bộ Việt Nam là 70.000 người, hơn 100 máy bay (máy bay chiến đấu và máy bay vận tải, mỗi thứ một nửa). Trong thế công mùa xuân năm 1950, quân Pháp đã đánh chiếm tỉnh Thái Nguyên, Hà Nam và Ninh Bình, cơ bản khống chế vựa lúa đồng bằng sông Hồng. Ở biên giới Trung – Việt tiếp giáp với Quảng Tây, binh lực quân Pháp có 11.000 người, đại thể ở vào thế thủ bố phòng trọng điểm dọc quốc lộ 4. Tháng 5/1950, quân đội Việt Nam mở công kích vào Đông Khê, cứ điểm nhỏ nằm giữa Cao Bằng, Thất Khê, nhưng không hiệu quả. Sau đó, quân Pháp tăng cường lực lượng phòng thủ các cứ điểm Cao Bằng, Thất Khê và Đông Khê v.v...

Tổng binh lực của quân đội Việt Nam khoảng 160.000 người, trong đó chủ lực là bộ đội của năm trung đoàn thuộc đại đoàn 308 v.v... vừa trải qua hơn ba tháng huấn luyện ở Vân Nam, Quảng Tây, Trung Quốc và thay toàn bộ trang bị, tất cả có hơn 20.000 người, do Bộ tổng tư lệnh trực tiếp nắm giữ, toàn bộ hiện tập trung ở gần Cao Bằng. Quân Pháp ở Cao Bằng có khoảng 2000 người, quân đội Việt Nam chiếm ưu thế tuyệt đối về số người hơn nữa sĩ khí quân đội Việt Nam đang lên cao. Từ trên xuống dưới quân đội Việt Nam khi bắt đầu đều chủ trương chiến dịch Biên Giới sẽ tấn công Cao Bằng trước và đã chuẩn bị dư luận và động viên rất nhiều để làm việc này. Khi nghiên cứu trận đầu của chiến dịch, ra tay từ đâu, Trần Canh, Vi Quốc Thanh và các đồng chí cố vấn quân sự nhất trí cho rằng, trận đầu nên tấn công Đông Khê, đánh lấy Đông Khê, quyền chủ động toàn bộ chiến dịch nắm chắc trong tay quân đội Việt Nam. Không ít cán bộ trung đoàn trở lên của quân đội Việt Nam chủ trương đánh Cao Bằng trước, nói nếu đánh Đông Khê trước, địch tăng cường phòng ngự Cao Bằng thì càng khó đánh Cao Bằng. Để thuyết phục cán bộ quân đội Việt Nam, tại hội nghị cán bộ ngày 23, 24 tháng 8, tập đoàn cứ điểm và Vi Quốc Thanh đã trình bày lý lẽ có lợi vì sao đánh Đông Khê trước, cuối cùng thống nhất tư tưởng vào kế hoạch đánh Đông Khê trước.

Trung tuần tháng 9, được sự giúp đỡ cụ thể của cố vấn Trung Quốc, công việc chuẩn bị cho chiến dịch Biên Giới cơ bản hoàn thành, Trần Canh, Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp từ Quảng Uyên chuyển ra vùng Bản Viên phía đông Đông Khê, để chỉ huy gần cuộc chiến tấn công Đông Khê. Ngày 16/9, cuộc chiến đấu tấn công Đông Khê nổ súng. Khi bắt đầu tương đối thuận lợi, rất nhanh áp sát công sự trọng điểm của địch, nhưng chiến đấu đến sáng ngày 17, bọn địch phản kích dưới sự yểm trợ của lính nhảy dù, bộ đội tấn công tiền duyên của ta rút khỏi trận địa. Vào giờ phút then chốt này, sau khi đến Bộ chỉ huy tiền phương tìm hiểu cụ thể tình hình, Trần Canh nêu ra với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, cần phải ra lệnh cho bộ đội, không tiếc bất cứ giá nào, tiếp tục kiên trì, đồng thời kiến nghị điều chỉnh lại bố trí, công kích từ bốn phía, trọng điểm là phía nam, bắc. Sau khi bộ đội mở lại cuộc công kích, rất nhanh phát triển vào trung tâm, chiến đấu đến 18g, cuối cùng tiêu diệt hơn 270 tên địch đóng giữ Đông Khê thu nhiều vũ khí đạn dược và vật tư quân dụng khác. Đây là lần đầu tiên trong lịch sư quân đội Việt Nam tấn công tiêu diệt cứ điểm có hai đại đội địch đóng giữ. Nhưng đang lúc này Vi Quốc Thanh ngã bệnh sốt cao, không thể không về Long Châu chữa bệnh. Trọng trách giúp chỉ huy chiến dịch biên giới đành phải giao hoàn toàn cho Trần Canh và các cố vấn Trung Quốc khác gánh vác.

Sau khi kết thúc trận đánh Đông Khê Hồ Chí Minh thăm dò ý kiến của Trần Canh về trận đánh này, Trần Canh trả lời rằng : “ Trận Đông Khê đã thắng, ý nghĩa rất lớn, nhưng phải nói rằng đây không phải là cuộc chiến đấu thành công, quân đội nhân dân thương vong hơn 500, tiêu diệt địch lại không đến 300, trả giá quá lớn ”. Khi nói đến vấn đề của quân đội nhân dân bộc lộ ra trong chiến đấu, Trần Canh nói : “ Chiến sĩ dũng cảm then chốt là không ít cán bộ thiếu kinh nghiệm tác chiến kém năng lực chỉ huy, ở quá xa trận địa, từ nay về sau nên lựa chọn đề bạt cán bộ từ trong chiến sĩ cũ và cốt cán chiến đấu có kinh nghiệm thực tiễn ”. Hồ Chí Minh nghe chốc chốc lại gật đầu.

Kế hoạch cũ là đánh Thất Khê sau khi lấy Đông Khê, lúc này ở Thất Khê địch tăng quân lên đến 4 tiểu đoàn, xét tình hình tấn công Đông Khê, quân đội Việt Nam với lực lượng hiện có tấn công Thất Khê rõ ràng là khó khăn. Vì vậy sau khi Trần Canh và Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp nghiên cứu bỏ kế hoạch cũ tấn công Thất Khê, chuyển sang mai phục ở nam Đông Khê, để chờ tiêu diệt địch từ Thất Khê tiến lên phía bắc. Lúc này quân Pháp ở Thất Khê án binh bất động, lại tập kết 5 tiểu đoàn binh lực tấn công Thái Nguyên trực tiếp đe doạ an ninh của cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ Việt Nam. Một số cán bộ quân đội Việt Nam chủ trương bỏ mai phục kéo quân về Thái Nguyên. Trần Canh quả đoán biểu thị với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, tấn công Thái Nguyên là quỷ kế của địch, mục đích là dụ quân ta rút về để bảo đảm an toàn cho địch ở Cao Bằng rút về phía nam, nhất thiết không được mắc lừa, và kiến nghị cho một trung đoàn làm động tác giả vờ rút lui. Quả nhiên không ngoài dự đoán của Trần Canh, ngày 30/9, bọn địch ở Thất Khê bắt đầu tiến lên phía bắc, ngày 3/10 bọn địch ở Cao Bằng cũng bỏ thành kéo xuống phía nam. Hai cánh quân Pháp do Lepage và Charton chỉ huy này mưu toan sau khi hội quân ở Đông Khê chạy về Thất Khê, Lạng Sơn để tránh số phận bị tiêu diệt.

Binh đoàn Lepage tiến lên phía bắc bị quân đội Việt Nam kiên quyết chặn đánh ngày 4/10 chuyển lên vùng núi Cốc Xá, tây nam Đông Khê. Trong cuộc tấn công ngày 5/10, quân đội Việt Nam thương vong tương đối nhiều, đại đoàn 308 liên tục tác chiến 4 ngày liền đứng trước một vấn đề tạm ngừng tấn công hay là kiên quyết đánh tiếp. Vào giờ phút then chốt này, Trần Canh nói với Võ Nguyên Giáp trong điện thoại : “ Trận này không đánh thì không có trận nào có thể đánh được ”, “ nếu bộ chỉ huy dao động thì sẽ chôn vui thắng lợi của chiến dịch ”. Sau khi ngắt điện thoại, đồng chí lại lập tức báo cáo Hồ Chí Minh, mong Hồ Chí Minh lập tức cổ vũ cán bộ chiến sĩ tiền phương hạ quyết tâm, kiên trì đến cùng, tập trung lực lượng tiêu diệt binh đoàn Lepage trước, sau đó tiêu diệt nốt binh đoàn Charton, giành toàn thắng của chiến dịch. Hồ Chí Minh hoàn toàn đồng ý ý kiến của Trần Canh, nhanh chóng ra lời kêu gọi yêu cầu bộ đội “ phải kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch, giành toàn thắng ”.

Trước đòn tấn công kiên quyết của quân đội Việt Nam, tình hình chiến trường chuyển biến nhanh chóng. Đến ngày 7/10, hai cánh quân địch lần lượt bị quân đội nhân dân tiêu diệt hoàn toàn, Lepage, Charton cùng các tham mưu của họ và tỉnh trưởng nguỵ quyền Cao Bằng đều bị bắt sống. chiến dịch biên giới tiêu diệt 8 tiểu đoàn hơn 800 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn biên giới Trung – Việt khai thông tuyến giao thông với Trung Quốc phá vỡ bao vây của quân Pháp đối với căn cứ địa Việt Bắc, quân đội nhân dân có khoảng đất trống vu hồi rộng lớn. Đến ngày 23/10 quân Pháp đóng giữ trên biên giới dài hơn trăm cây số lần lũ lượt rút lui, từ Đồng Đăng, Na Sầm, Lạng Sơn, Đình Lập, Yên Châu v.v... rút về gần Tiên Yên ven biển. Tình hình chiến trường Việt Nam từ đó có bước ngoặt quân đội nhân dân từ bị động phòng ngự chuyển sang chủ động tấn công, từ đánh du kích chuyển sang giai đoạn mới đánh vận động công kiên kết hợp với đánh du kích, bắt đầu nắm vững quyền chủ động hành động chiến lược.

Hồ Chí Minh hết sức vui mừng, nói tại hội nghị tổng kết chiến dịch : chúng ta đã đánh hai trận thắng, một là chúng ta đã tiêu diệt địch, giải phóng Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê v.v.. hai là chúng ta đã thấy được ưu điểm và khuyết điểm của mình. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh chỉ rõ : thắng lợi của chiến dịch biên giới là một thắng lợi lớn nhất từ khi Việt Nam kháng chiến đến nay, là thắng lợi của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Thắng lợi trận đầu sau khi Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc đến Việt Nam đã giành được sự tin cậy của quân đội nhân dân Việt Nam đối với cố vấn Trung Quốc, mở ra cục diện cho Đoàn cố vấn quân sự triển khai công tác. Ngày 1/11, Trần Canh đã hoàn thành nhiệm vụ công tác ở Việt Nam về nước.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 04:59:19 am
Sau bốn lần tác chiến ở đồng bằng, chuyển hướng chiến lược lên vùng Tây Bắc.

Quân đội Việt Nam, giành được thắng lợi to lớn trong chiến dịch biên giới, nhưng nhìn chung cả nước Việt Nam, quân Pháp vẫn chiếm nhiều ưu thế, đang khống chế Nam Bộ và vùng rộng lớn Trung Bộ, ở Bắc Bộ cũng vẫn khống chế vựa lúa đồng bằng đông dân cư và vùng núi Tây Bắc có giá trị chiến lược quan trọng. Bọn xâm lược Pháp mưu toan chiếm lại vùng biên giới Đông Bắc, và tiếp tục duy trì chiến tranh xâm lược, nhưng lực bất tòng tâm, không thể không ngày càng phải dựa vào viện trợ của Mỹ. Ngày 23/12/1950, Mỹ, Pháp và chính quyền bù nhìn Bảo Đại đã ký hiệp định chính thức về viện trợ quân sự, sau đó Mỹ cung cấp số lớn viện trợ. Ngày 6/12/1950, Pháp cử nguyên Tư lệnh lục quân liên minh Tây Âu Jean de Lattre de Tassigny giữ chức Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp. Sau khi lên nhậm chức, Tassigny lập tức đưa ra “kế hoạch bốn điểm”, nội dung trung tâm là tập trung bộ đội tinh nhuệ gốc Âu – Phi, thành lập bộ đội cơ động lớn mạnh, ở đồng bằng Bắc Bộ và vùng trung du xây dựng công sự phòng ngự chùm lô cốt ngầm kiên cố, để đề phòng quân đội Việt Nam tấn công và ráo riết càn quét vùng chiếm đóng và vùng du kích, thực hiện cái gọi là “chiến tranh tổng lực”.

Căn cứ vào tình hình này lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự và lãnh đạo quân đội nhân dân cùng nhau nghiên cứu xác định chọn bộ phận mỏng yếu của địch ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ để thực thi tấn công tác chiến. Kế hoạch này báo cáo Quân uỷ Trung ương Trung Quốc và được đồng ý. Đồng thời được Tổng quân uỷ quân đội nhân dân thảo luận và được Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phê chuẩn. Chiến dịch đầu tiên của vùng đồng bằng là chiến dịch Trung Du sông Hồng (Việt Nam gọi là chiến dịch Trần Hưng Đạo). Bắt đầu từ ngày 25/12/1950, trước tiên tấn công phòng tuyến cụm lô cốt ngầm ở vùng giáp ranh hai tỉnh Vĩnh Phúc và Bắc Ninh cách Hà Nội 30 km về phía bắc áp dụng chiến thuật bôn tập, bất ngờ, tốc chiến tốc quyết, một mạch tấn công liền 5 cứ điểm cụm lô cốt ngầm tiền tuyến Kim Anh, Đa Phúc, Yên Phong, sau đó tập trung 5 trung đoàn tấn công vào vùng bắc Vĩnh Yên, đến ngày 17/1/1951 thì kết thúc. Chiến dịch này là chiến dịch Đông Bắc (Việt Nam gọi là chiến dịch Hoàng Hoa Thám). Từ ngày 20/3 đến 7/4, tiến hành ở vùng gần Uông Bí trên quốc lộ 18 cách Hải Phòng 30 km về phía bắc, bắt đầu đánh chiếm một số cứ điểm của quân Pháp, do không đủ sức, bảo đảm hậu cần, không thể đánh tiếp. Chiến dịch này bắn chết bắt sống 1175 tên địch, quân đội nhân dân thương vong hơn 1700 người.

Thứ ba là chiến dịch Ninh Bình (Việt Nam gọi là chiến dịch Quang Trung) tiến hành từ ngày 28/5 đến 20/6 ở vùng Hà Nam, Nam Ninh, Ninh Bình thuộc liên khu 3. Đợt 1, đánh chiếm Ninh Bình và hơn 10 cứ điểm phía nam Ninh Bình, đợt 2 tấn công cứ điểm đều không thành công và thương vong tương đối lớn. Tác chiến lần này tiêu diệt tất cả hơn 3100 tên địch, đánh chiếm 22 cứ điểm. Ba lần tác chiến trung du, đông bắc, Ninh Bình là hành động đầu tiên của quân đội nhân dân tấn công vào nơi phòng thủ kiên cố của địch ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ, tiêu diệt tổng cộng hơn 6000 tên địch quân đội nhân dân tiêu hao không ít lực lượng. Do quân Pháp có phòng tuyến và cụ cứ điểm kiên cố, trang bị kỹ thuật và điều kiện giao thông hơn hẳn, phát huy đầy đủ ưu thế pháo binh, không quân và binh lực cơ động nhanh chóng, có thể tập trung kịp thời tiến hành phản kích, quân đội nhân dân hoặc vì thông tin liên lạc không thông, nắm tình hình không kịp thời để mất thời cơ chiến đấu, hoặc vì lực lượng tiếp ứng phía sau không liên tục, so sánh binh lực có thay đổi mà không thể hoàn thành kế hoạch dự kiến, thành quả chiến đấu tất nhiên rất không lý tưởng.

Ba chiến dịch này đều là lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm v.v... và lãnh đạo quân đội nhân dân Võ Nguyên Giáp v.v... cùng tổ chức chỉ huy. Khi tiến hành tổng kết ba chiến dịch, Đoàn cố vấn quân sự và Bộ Tổng Tham mưu quân đội nhân dân cùng phân tích nghiên cứu, trong khi khẳng định thành quả đạt được và kinh nghiệm thành công, nhấn mạnh rút bài học bổ ích trong một số vấp váp nào đó. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với Đoàn cố vấn quân sự nhận thức và nắm vững quy luật khách quan của chiến trường Việt Nam, hiểu rõ hơn quân đội nhân dân tiến hành tác chiến quy mô tương đối lớn ở vùng đồng bằng có trọng binh địch phòng thủ, thời cơ chưa chín muồi, cần phải giúp phía Việt Nam đưa ra chỉ đạo chiến lược sát thực tế hơn, để mong giành được thắng lợi lớn hơn.

Sau ba lần tác chiến ở đồng bằng, đồng thời với việc giúp quân đội Việt Nam huấn luyện quân sự và mở rộng biên chế quân đội, Đoàn cố vấn quân sự kiến nghị phía Việt Nam đưa một bộ phận bộ đội chủ lực vào vùng đồng bằng sau lưng địch, đánh địch, phục hồi căn cứ địa du kích sau lưng địch, ra sức đẩy mạnh đánh du kích sau lưng địch. Phía Việt Nam tiếp thu kiến nghị này, chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng sau lưng địch phát triển rất mạnh.

Tháng 1/1952, Pháp cử Salan thay De Lattre, giữ chức Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương. Hạ tuần tháng 12/1951 đến hạ tuần tháng 2/1952, Bộ Tổng quân đội nhân dân tổ chức chiến dịch Hoà Bình, mục đích là khôi phục và phát triển căn cứ địa du kích sau lưng địch, tiêu diệt một phần sinh lực quân Pháp, đập tan âm mưu của quân Pháp mưu toan cắt đứt tuyến giao thông Nam bắc Việt Nam. Chiến dịch giành được thắng lợi tương đối lớn. Lúc này Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh đều chữa bệnh trong nước, cán bộ đoàn cố vấn đang tập huấn, tổng kết hơn một năm công tác, cho nên không ra tiền phương giúp chỉ huy, nhưng đoàn cố vấn vẫn giữ liên hệ với Bộ Tổng quân đội nhân dân, tìm hiểu tình hình chiến dịch và đề xuất kiến nghị cần thiết.

Cuối năm 1951 đến đầu năm 1952, Đoàn cố vấn căn cứ tinh thần chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quân uỷ Trung ương, kết hợp tình hình bốn lần tác chiến ở vùng đồng bằng, đi sâu nghiên cứu sự phát triển thay đổi của tình hình chiến trường Việt Nam, đề xuất kiến nghị với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng quân uỷ về chuyển hướng chiến lược lên vùng Tây Bắc, đồng thời nêu lên ý kiến chuyên đề “về vấn đề nghiên cứu tình hình địch ta ở Bắc bộ và nhiệm vụ phương châm từ nay về sau” và “nhiệm vụ và phương châm năm 1952”. Vùng Tây Bắc Việt Nam là nơi cư trú của các dân tộc thiểu số, núi cao rừng rậm, đất rộng người thưa, nằm ở vùng tam giác biên giới ba nước Việt Nam, Lào, Trung Quốc vị thế chiến lược quan trọng. Đoàn cố vấn quân sự cho rằng, giải phóng Tây Bắc có thể giải toả mối đe doạ sau lưng của căn cứ địa Việt Bắc, giành được hậu phương chiến lược và khu vực vu hồi rộng lớn hơn, việc bảo đảm hậu cần, bộ đội hành động tác chiến ở vùng Tây Bắc có khó khăn nhất định, nhưng chỉ cần làm tốt động viên giáo dục bộ đội và công tác chuẩn bị chu đáo thì những vấn đề đó có thể giải quyết được.

Quân Pháp lâu nay luôn coi Tây Bắc là “vùng an toàn” binh lực canh giữ có 8 tiểu đoàn 41 đại đội, đóng chốt trong 141 cứ điểm, mỗi cứ điểm nhiều nhất có 1 đến 2 đại đội, ít nhất 1 đến 2 trung đội, phần đông là quân nguỵ, sức chiến đấu kém. Sau khi Đoàn cố vấn quân sự đưa ra kiến nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân đến dự hội nghị, kiên nhẫn làm công tác thuyết phục đối với những băn khoăn lo lắng, cuối cùng làm cho trên dưới đi đến đồng thuận.

Tháng 4/1952, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết về chuyển hướng chiến lược bộ đội lên vùng Tây Bắc, tổ chức chiến dịch Tây Bắc. Hồ Chí Minh yêu cầu các đồng chí cố vấn Trung Quốc nhanh chóng giúp vạch kế hoạch tác chiến và làm tốt các công việc chuẩn bị, hoàn thành nhiệm vụ tác chiến Tây Bắc. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trong điện trả lời bày tỏ tán thành và nêu ra rõ ràng : “ Chiến dịch Tây Bắc phải áp dụng phương châm “đánh chắc tiến chắc, không đánh thì thôi, đã đánh phải thắng” ”. Sau khi hỗ trợ Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam vạch ra kế hoạch tác chiến đánh lấy Nghĩa Lộ, Sơn La trước, sau đó giải phóng Lai Châu, Đoàn cố vấn quân sự lại giúp quân đội Việt Nam làm tốt công việc chuẩn bị trước chiến dịch, động viên giáo dục, huấn luyện công kiên và bảo đảm hậu cần v.v..

Ngày 10/10, tám trung đoàn bộ đội chủ lực đại đoàn 308, 312 quân đội Việt Nam từ căn cứ địa Việt Bắc tiến lên Tây Bắc. Lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự và cố vấn các đại đoàn, trung đoàn cùng đi với quân đội Việt Nam và dân công, kín đáo đến nơi tập kết. Ngày 14, bắt đầu tấn công vào cứ điểm ở Nghĩa Lộ, Bố Trương v.v... tác chiến đợt một đến ngày 23, đánh chiếm tất cả 35 cứ điểm, bắn chết bị thương bắt sống hơn 1700 tên địch, quân đội nhân dân thương vong 947 người. Để loại trừ đe doạ sau lưng Yên Bái, Phú Thọ, Hoà Bình, mở đường tiến vào Thượng Lào triển khai chiến tranh du kích, củng cố vùng bắc sông Đà, ngày 15/11, quân đội nhân dân bắt đầu tác chiến đợt hai chiến dịch Tây Bắc sáu trung đoàn chủ lực vượt sông Đà, trải qua 6 ngày đêm chiến đấu đã giải phóng các thị trấn quan trọng Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu, Tuần Giáo v.v... tiêu diệt số lớn quân địch.

Ngày 22/11, quân Pháp bỏ Sơn La, 8 tiểu đoàn địch tháo chạy về vùng Nà Sản cách Sơn La 20 km về phía nam, gấp rút xây dựng 21 cụm cứ điểm. Sau đó, quân Pháp lại cho 2 tiểu đoàn nhảy dù xuống Nà Sản, quân đóng giữ ở đây lên đến hơn 7000 tên, âm mưu lấy cứ điểm này để tiêu hao sinh lực của quân đội nhân dân. Vi Quốc Thanh cho rằng đánh tiếp không lợi, qua thỉnh thi quân uỷ Trung ương và cùng với phía Việt Nam nghiên cứu đã dừng cuộc tiến công Nà Sản. Ngày 10/12 chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi. Trong chiến dịch Tây Bắc, quân đội nhân dân đã tiêu diệt 13.800 tên địch, giải phóng khoảng 28.500 km2 đất đai và 250.000 dân. Toàn bộ vùng Tây Bắc trừ Nà Sản của tỉnh Sơn La và nửa phía bắc của tỉnh Lai Châu, đều do quân đội nhân dân kiểm soát toàn bộ. Điều đó đã tạo điều kiện rất có lợi cho chiến dịch Thượng Lào và thắng lợi quyết chiến Điện Biên Phủ.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 04:59:52 am
Thắng lợi quyết chiến Điện Biên Phủ, quân Pháp buộc phải rút khỏi Đông Dương.

Ngày 13/3/1953, Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh dẫn đầu một bộ phận cố vấn theo bộ chỉ huy tiền phương quân đội nhân dân lên Thượng Lào giúp tổ chức và chỉ huy chiến dịch Thượng Lào. Vùng Thượng Lào tức là vùng phía bắc nước Lào. Bộ đội các đại đoàn 304, 308, 312, 316, quân đội nhân dân vừa vào vùng Thượng Lào, thì quân Pháp bắt đầu rút lui lớn, quân Pháp chạy khỏi Sầm Nứa bị quân đội Việt Nam tiến lên miền tây chặn đường rút lui, bị bao vây tiêu diệt hơn 1000 tên, bọn địch ở cứ điểm quan trọng Mường Khay, Xiêng Khoảng v.v.. cũng nghe tin tháo chạy hoảng loạn, chạy về Cánh đồng chum. Ở hướng Phong Xalì và Mường Xây, quân đội nhân dân cũng đánh chiếm 4 cứ điểm, quân Pháp tháo chạy về Luông Prabang. Chiến dịch Thượng Lào bắt đầu từ trung tuần tháng 4 đến 3/5 kết thúc, tổng cộng tiêu diệt 3 tiểu đoàn và 11 đại đội, giải phóng toàn bộ Sầm Nứa và một phần tỉnh Xiêng Khoảng tỉnh Phong Xalì, mở rộng căn cứ địa kháng chiến của Lào, làm cho nó nối liền một dải với Tây Bắc, căn cứ địa Việt Bắc của Việt Nam, hình thành hậu phương lớn của chiến tranh Đông Dương chống Pháp.

Sau khi quân Pháp bị thất bại thảm hại ở vùng Thượng Lào, Chính phủ Pháp thay Salan, cử Navarre làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Navarre vừa nhận chức đã đưa ra phương châm quân sự “nam trước bắc sau” và kế hoạch “tập trung tổ chức tập đoàn chủ lực, chấp hành tác chiến cơ động”, hòng chiếm đóng toàn bộ Nam Bộ, Trung Bộ trước mùa xuân năm 1954, sau đó tập trung binh lực quyết chiến với quân đội nhân dân Việt Nam ở Bắc Bộ, giành thắng lợi quyết chiến. Vì vậy, đã có điều động 12 tiểu đoàn từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên tăng viện cho quân viễn chinh xâm lược Việt Nam ; đồng thời chính quyền bù nhìn Bảo Đại cũng bổ sung 95.000 quân nguỵ. Trung tuần tháng 8 năm 1953, quân Pháp rút khỏi Nà Sản, kế hoạch tác chiến của quân đội nhân dân định lấy Nà Sản làm mục tiêu chính phải thay đổi. Ngày 13/8, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam điện đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc “giúp đề xuất ý kiến” “đối với vấn đề nhận thức tình hình và phương hướng chiến lược từ nay về sau”. Đồng thời, Bộ tổng quân đội nhân dân đặt lại kế hoạch tác chiến mùa đông, đặt phương hướng tác chiến vào đồng bằng Bắc bộ, bổ kế hoạch trước đây đánh lấy Lai Châu, rút bộ đội bao vây Nà Sản về Thanh Hoá.

Ngày 27, 29 tháng 8, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc hai lần điện cho Đoàn cố vấn quân sự và Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phân tích tình hình từ sau khi Navarre lên nhậm chức, trong điện ngày 29 nêu ra rõ ràng : “ Trước tiên tiêu diệt địch ở vùng Lai Châu, giải phóng miền Bắc và miền Trung nước Lào, sau đó từng bước đẩy lùi chiến trường xuống Nam Lào, Cao Miên, uy hiếp Sài Gòn. Làm như vậy thì có thể thu hẹp nguồn lính nguỵ, nguồn tài chính, phân tán binh lực quân Pháp, làm cho nó rơi vào bị động ”. “ Đó là điều kiện tiên quyết để đánh lấy đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam ”. “ Thực hiện kế hoạch chiến lược này đủ để đánh bại ách cai trị thực dân của đế quốc Pháp ở Việt Nam, Lào, Cao Miên, nhưng cần phải khắc phục mọi khó khăn cần phải tính toán lâu dài ”. Thực hiện kế hoạch chiến lược này sẽ làm cho kế hoạch và ý đồ của Navarre hoàn toàn thất bại.

Tháng 9/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp thảo luận phương án tác chiến mùa đông của quân đội nhân dân, Hồ Chí Minh rút ra kết luận : “ Hướng chiến lược không thay đổi ”. Hội nghị khẳng định phương án đặt hướng tấn công chính vào Tây Bắc và Thượng Lào do Đoàn cố vấn quân sự kiến nghị. Ngày 25/10/1953 sau khi từ Bắc Kinh trở lại Việt Nam, Vi Quốc Thanh gặp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp truyền đạt thêm ý kiến cụ thể của Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài về kế hoạch chiến lược đánh lấy Tây Bắc và Thượng Lào trước, tiến tới đẩy xuống phía nam và chuyển văn bản kế hoạch Navarre mà Trung ương Đảng Cộng sản có được, Hồ Chí Minh rất tán thành và phấn khởi. Vì thế Võ Nguyên Giáp cũng tích cực quán triệt kế hoạch tác chiến ở Tây Bắc và Thượng Lào. Ngày 20/11, trong khi quân đội nhân dân đang chuẩn bị mở chiến dịch Tây Bắc lần thứ hai tiến quân lên Lai Châu, thì Navarre cho 6 tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ vùng xung yếu chiến lược ở Tây Bắc sát biên giới Lào và tiếp tục tăng cường binh lực, mở sân bay, xây công sự, tích trữ vật tư, xây dựng tập đoàn cứ điểm kiên có, đồng thời tăng quân cho Thượng Lào, xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu, liên kết Thượng Lào với Điện Biên Phủ, hòng ngăn chặn quân đội nhân dân giải phóng hoàn toàn Tây Bắc và tiến quân sang Thượng Lào.

Căn cứ tình hình địch có thay đổi, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự lập tức cùng Tổng Quân uỷ quân đội nhân dân nghiên cứu, quyết định điều chỉnh kế hoạch tác chiến, đánh Lai Châu trước, đánh Điện Biên Phủ sau, và sắp xếp điều thêm bộ đội bộ binh, cao xạ, pháo binh, công binh v.v... tập trung vật tư tác chiến, chuẩn bị cho tấn công Điện Biên Phủ. Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp thảo luận quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại đoàn 316 trên đường tiến quân lên Tây Bắc được biết ngày 7/12 bọn địch ở Lai Châu rút về Điện Biên Phủ lập tức theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy tiền phương quân đội nhân dân, truy kích địch, tiêu diệt phần lớn, bọn địch còn sống sót tháo chạy về Điện Biên Phủ, toàn bộ vùng Lai Châu được giải phóng. Sau đó, các đại đoàn 316, 308 hình thành bao vây Điện Biên Phủ từ hai hướng nam, bắc, bộ đội tham chiến khác cũng theo thời gian dự định tiến vào vị trí xung quanh Điện Biên Phủ.

Lúc đó, quân Pháp phòng thủ Điện Biên Phủ chỉ có 6 tiểu đoàn, công sự cũng không kiên cố lắm, để không bỏ lỡ thời cơ, đã từng có ý tưởng mở công kích bất ngờ một đấm tiêu diệt ngay quân địch. Nhưng do núi cao rừng rậm, hoả pháo của quân đội nhân dân không thể tiến vào vị trí chỉ định đúng hẹn, còn binh lực quân Pháp đã rất nhanh tăng lên đến 16 tiểu đoàn, và chia làm ba phân khu nam, bắc và trung tâm, xây dựng 8 cụm cứ điểm gồm 49 cứ điểm lớn nhỏ và 2 sân bay dã chiến. Bộ trưởng Quốc phòng và tướng lĩnh cao cấp Pháp sau khi thị sát về khoác lác nói Điện Biên Phủ là “thành trì không thể công phá” là “Verdun” của Đông Nam Á. Tất nhiên trong tình hình đó, khó thực hiện “đánh nhanh thắng nhanh”. Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh và lãnh đạo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp sau khi nghiên cứu, nhất trí cho rằng, quyết tâm giải phóng Điện Biên Phủ không được dao động, và xác định thay “đánh nhanh thắng nhanh” thành “đánh chắc thắng chắc”, áp dụng phương pháp tác chiến bao vậy chặt, chia cắt đánh chiếm từng cứ điểm một, siết chặt từng bước, bóc vỏ từng lớp, kiểu sóng xô, cuối cùng mở tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch đóng giữ 1.

Để phá ưu thế trên không của quân Pháp, đoàn cố vấn kiến nghị quân đội Việt Nam dùng pháo kìm hãm, máy bay Pháp cất cánh và hạ cánh, phá hỏng sân bay, đánh và hạn chế hoạt động trên không của máy bay Pháp. Đồng thời kiến nghị 4 tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly quân đội Việt Nam đang trang bị, luyện tập ở Trung Quốc trở về Việt Nam trước thời hạn để tham gia chiến đấu. Sau khi quân đội Việt Nam tiếp nhận kiến nghị này đã lần lượt bắn rơi, bắn bị thương hơn 50 máy bay Pháp, chi viện trên không của quân Pháp ngày càng khó khăn, tinh thần binh lính cũng ngày càng sa sút.

Dưới sự lãnh đạo của Đoàn cố vấn quân sự, quân đội Việt Nam học tập quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc trên chiến trường Triều Tiên, triển khai hoạt động bắn tỉa, pháo tỉa, buộc quân Pháp không dám ra ngoài công sự hoạt động, luôn luôn ở trong trạng thái nơm nớp lo sợ suốt ngày. Đồng thời cố vấn công binh và hơn 10 nhân viên công trình công binh điều từ chiến trường Triều Tiên, đi sâu vào trận địa tiền tuyến, chỉ đạo cụ thể quân đội Việt Nam xây công sự và đào hào đến phía trước trận địa quân Pháp tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu diệt từng cứ điểm. Sau khi hoàn thành các công việc chuẩn bị ngày 13 và 30 tháng 3 năm 1954, quân đội Việt Nam lần lượt mở cuộc tác chiến đợt 1, đợt 2, liên tiếp đánh chiếm cụm cứ điểm của phân khu bắc và tất cả các điểm cao ở phía đông và một loạt cứ điểm ở hai sườn tây, bắc của khu trung tâm Mường Thanh và chiếm sân bay Mường Thanh, cắt đứt liên hệ giữa khu trung tâm và khu nam. Đến đây, khu trung tâm của quân Pháp cô lập đã nằm trong vòng khống chế hoả lực của quân đội Việt Nam.

Vào giờ phút then chốt này, Mỹ đưa hai tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ, tiến hành diễn tập quân sự qui mô lớn, chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ Arthur W. Radford ngang nhiên tuyên bố, sẵn sàng dùng máy bay chiến lược B29 ném bom quy mô lớn xuống quân đội nhân dân bao vây Điện Biên Phủ và ngỏ ý sẽ xem xét “sử dụng bom nguyên tử” ở Việt Nam. Vi Quốc Thanh nói với lãnh đạo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam, mục đích doạ dẫm chiến tranh của Mỹ là ép quân đội Việt Nam rút khỏi Điện Biên Phủ, giải vây cho quân Pháp đang rơi vào tuyệt vọng, quân đội Việt Nam đã có đủ điều kiện mở tổng công kích tiêu diệt quân địch, quyết không thể là công dã trang, để mất thời cơ tốt đẹp. Quân đội Việt Nam qua nhiều lần suy nghĩ, quyết định mở tổng công kích trước khi nước sông tràn bờ.

Đồng thời vật tư đạn dược v.v... cho tổng công kích đã từ Trung Quốc chuyển đến, một tiểu đoàn pháo DKZ-75 và một tiểu đoàn hoả tiễn trang bị huấn luyện ở Trung Quốc cũng kế tiếp nhau đến. Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Đoàn cố vấn : “ Để tiêu diệt toàn bộ quân địch, giành toàn thắng chiến dịch, phải tổ chức thật tốt phát huy hoả lực pháo, không nên tiếc tiêu hao đạn pháo. Chúng tôi sẽ cung cấp, vận chuyển đạn pháo đầy đủ ”. Đêm 1/5, tổng công kích chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Dưới sự yểm trợ của hoả lực pháo lớn mạnh, quân đội Việt Nam mở tấn công mãnh liệt vào Điện Biên Phủ. Chiều tối ngày 6, quân đội Việt Nam pháo kích dữ dội vào cứ điểm trung tâm quân Pháp, 12 khẩu hoả tiễn 6 nòng vừa vào trận địa đã phát huy uy lực, phá huỷ hết cứ điểm này đến cứ điểm khác của quân Pháp. 17g30’ ngày 7, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ, chuẩn tướng De Castries và sĩ quan Ban tham mưu của y lần lượt đi ra khỏi hầm ngầm sở chỉ huy, cầm cờ trắng đầu hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ cả thế giới theo dõi đã kết thúc thắng lợi, tiêu diệt toàn bộ 16.000 lính Pháp và lính nguỵ và thu được rất nhiều vật tư quân dụng.

Thắng lợi quyết chiến Điện Biên Phủ, rất nhanh dẫn đến ký kết Hiệp định đình chiến Đông Dương ở hội nghị Genève, quân Pháp rút khỏi ba nước Việt Nam, Lào, Cao Miên. Miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng. Thắng lợi của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam đã đặt nền móng vững chắc cho độc lập hoàn toàn của dân tộc và giải phóng triệt để của nhân dân Việt Nam


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:00:26 am
Giúp xây dựng quân đội Việt Nam, tố chất và sức chiến đấu của bộ đội không ngừng được nâng cao.

Đồng thời với việc giúp quân đội Việt Nam tổ chức chỉ huy tác chiến, Đoàn cố vấn quân sự còn từ nhiều mặt giúp quân đội Việt Nam tiến hành xây dựng, không ngừng nâng cao tố chất và sức chiến đấu của quân đội. Chiến dịch biên giới vừa kết thúc, Đoàn cố vấn quân sự theo chỉ thị của quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kết hợp với tình hình thực tế của quân đội nhân dân Việt Nam, đưa ra kiến nghị phát triển bộ đội chủ lực nhiều hơn. Sau khi cùng với Bộ tổng quân đội nhân dân nghiên cứu đầu năm 1951 giúp quân đội Việt Nam khởi thảo “phương án xây dựng bộ độ chủ lực” và kế hoạch biên chế trang bị. Sau khi được Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phê chuẩn trên cơ sở sư 308, 312 và sư 304 đã được thành lập, thành lập hai đại đoàn bộ binh 320, 316 và một đại đoàn công pháo gồm 3 trung đoàn pháo binh và 1 trung đoàn công binh do Trung Quốc trang bị. Vào cuối năm này, quân đội nhân dân thành lập thêm đại đoàn bộ binh 325 tại chiến trường Trung bộ. Đến đây, trong hơn một năm, quân đội nhân dân đã từng bước phát triển lực lượng vũ trang chính quy có 6 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo. Theo yêu cầu của phía Việt Nam, Đoàn cố vấn cử nhóm cố vấn xuống các sư, cấp đại đoàn, trung đoàn đều có cố vấn Trung Quốc.

Ban đầu cấp tiểu đoàn cũng đều có cố vấn, sau chiến dịch biên giới đều rút về hết. Do bộ đội mở rộng, thống nhất biên chế, cải thiện trang bị, tăng cường huấn luyện, nên sức chiến đấu của bộ đội được nâng cao rõ rệt, điều đó đã đặt cơ sở cho sự chuyển biến đầu tiên về tư tưởng chỉ đạo quân sự, tức chuyển biến từ đánh du kích lên đánh vận động, đánh công kiên. Sau chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào năm 1953, bắt đầu chuyển biến tư tưởng chỉ đạo quân sự lần thứ hai, tức chuyển biến từ đánh công kiên qui mô nhỏ lên đánh công kiên qui mô lớn. Để thích ứng với nhu cầu chuyển biến đó, Trung Quốc viện trợ xây dựng thêm bộ đội trọng pháo, cao xạ pháo. Đoàn cố vấn quân sự còn giúp biên soạn tài liệu tấn công tập đoàn cứ điểm, thống nhất tư tưởng tác chiến, tăng cường huấn luyện kỹ thuật chiến thuật công kiên, nâng cao rất nhiều năng lực tác chiến công kiên của bộ đội.

Sau khi ký Hiệp định Genève năm 1954, Việt Nam thực hiện đình chiến từ môi trường chiến tranh chuyển sang môi trường hoà bình tứng bước thực hiện xây dựng quân đội theo hướng phát triển chính quy hoá, hiện đại hoá, lại một lần nữa chuyển biến tư tưởng chỉ đạo của quân đội Việt Nam. Dưới sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn quân sự, quân đội nhân dân thống nhất hơn nữa biên chế toàn quân, cải thiện trang bị, thành lập mới và thành lập thêm bộ đội binh chủng đặc biệt, giúp nghiên cứu và bố trí vấn đề tác chiến tương lai của quân đội, tiến hành huấn luyện chính quy có hệ thống đối với bộ đội, làm cho bộ mặt bộ đội đổi mới, nâng cao thêm một bước sức chiến đấu. Đi đôi với tăng cường xây dựng quân sự cho bộ đội, việc xây dựng chính trị trong quân đội cũng được tăng cường rất nhiều. Trước, sau chiến dịch biên giới để bảo đảm chiến dịch thắng lợi Đoàn cố vấn quân sự đã bắt tay vào việc bồi dưỡng cán bộ, ra sức tăng cường xây dựng chính trị quân đội Việt Nam, tăng cường lãnh đạo tư tưởng đối với bộ đội, tăng cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến. Trong thời gian mấy năm, đoàn cố vấn giúp quân đội Việt Nam có kế hoạch, có bước đi ra sức triển khai nhiều đợt giáo dục tư tưởng chính trị lớn về tình hình thế giới, chỉnh huấn chính trị, chỉnh quân chính trị v.v.. đã nâng cao rất nhiều giác ngộ chính trị của chỉ huy bộ đội, làm trong sạch tổ chức, kích thích nhiệt tình kháng chiến lớn lao và tinh thần chiến đấu quên mình của cán bộ chiến sĩ.

Đồng thời với những việc đó còn ra sức giúp quân đội Việt Nam xây dựng đảng. Sau khi công khai tổ chức đảng trong quân đội giúp xây dựng và kiện toàn chế độ đảng uỷ xây dựng điều lệ công tác của đảng uỷ và chi bộ. Cơ quan chính trị các cấp và ban ngành nghiệp vụ cũng từng bước được kiện toàn, xác định rõ ràng chức trách công tác, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nghiệp vụ và xây dựng nghiệp vụ của các ban ngành cũng được tăng cường. Đoàn cố vấn quân sự đã làm rất nhiều việc về giúp quân đội Việt Nam đào tạo cán bộ, thành tích nổi bật. Cố vấn chính trị giúp Tổng cục Chính trị quân đội Việt Nam tổ chức lớp huấn luyện luân phiên trọng điểm là đào tạo cán bộ trung cao cấp, lần lượt mở được 8 đợt, đào tạo hàng loạt cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần. Dưới sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn, các đại đoàn và các liên khu cũng mở nhiều lớp huấn luyện luân phiên cho cán bộ cơ sở. Trường sĩ quan lục quân Việt Nam do Trung Quốc giúp mở ở Vân Nam (về sau dời sang Quảng Tây, sau đình chiến dời về Sơn Tây) cũng có cố vấn Trung Quốc giúp công tác toàn diện trong mấy năm đã đào tạo trên một vạn cán bộ, đóng vai trò quan trọng đối với tăng cường đội ngũ cán bộ quân đội nhân dân.

Còn giúp giải quyết một vấn đề quan trọng trong công tác cán bộ là từ trong thực tiễn chiến tranh điều chỉnh đường lối, phương châm và chính sách công tác cán bộ. Thực hành phương châm lấy công nông làm nòng cốt, đồng thời cũng coi trọng việc đào tạo và sử dụng cán bộ xuất thân không phải công nông, làm cho số lớn cán bộ công nông ưu tú trong bộ đội trưởng thành nhanh chóng, đề bạt vào cương vị lãnh đạo quan trọng cán bộ xuất thân không phải công nông cũng nâng cao giác ngộ tư tưởng, kiên định lập trường chính trị. Về xây dựng hậu cần quân đội nhân dân, chủ yếu giúp xây dựng tư tưởng chỉ đạo xây dựng hậu cần đúng đắn, coi phục vụ tiền tuyến, phục vụ bộ đội, bảo đảm tác chiến thắng lợi là nhiệm vụ trung tâm của công tác hậu cần; giúp xây dựng, kiện toàn và điều chỉnh tổ chức hậu cần các cấp, tăng cường công tác chính trị của hệ thống hậu cần, bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ và tác phong cần kiệm chất phác của cán bộ hậu cần ; giúp xây dựng và hoàn thiện các nội quy điều lệ chế độ, chỉnh đốn công tác tài chính kinh tế tăng cường quản lý tài chính kinh tế, làm cho các các công tác hậu cần từng bước đi vào quỹ đạo, không ngừng nâng cao năng lực bảo đảm.

Về mặt giúp xây dựng hậu phương, cũng làm rất nhiều việc. Khôi phục và xây dựng các đường lớn đi vào căn cứ địa, hậu phương của quân đội nhân dân. Việc xây dựng tuyến giao thông vận tải thuỷ bộ thông ra tiền tuyến và cả việc xây dựng binh trạm và hệ thống cứu hộ bệnh viện v.v... đều tiến hành dưới sự viện trợ của Trung Quốc và giúp đỡ của đoàn cố vấn. Trong các chiến dịch, từ chuẩn bị hậu cần trước chiến dịch đến việc thực hiện bảo đảm hậu cần trong quá trình chiến dịch, đều do Đoàn cố vấn quân sự giúp đỡ cụ thể Tổng cục hậu cần quân đội nhân dân tiến hành. Nhờ công tác bảo đảm hậu cần cho chiến dịch ngày càng tốt đã phát huy vai trò phục vụ giành thắng lợi của các chiến dịch. Quân đội xây dựng và phát triển lớn mạnh tất nhiên gắn liền với trang bị vũ khí được cải thiện và bổ sung đầy đủ. Trong chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, Trung Quốc là nước duy nhất cung cấp rất nhiều viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam, từ súng đạn đến ca tráng men, khăn mặt cần gì có nấy. Theo thống kê chưa đầy dủ trong chiến tranh chống Pháp Trung Quốc viện trợ cho quân đội nhân dân Việt Nam 155.000 khẩu súng, 57.850.000 viên đạn, 3.692 khẩu pháo, 1.085.000 viên đạn pháo, 840.000 quả lựu đạn, 1231 ôtô, hơn 1.400.000 bộ quân phục, 15.000 tấn lương thực và thực phẩm phụ, 26.000 tấn xăng dầu và rất nhiều thuốc men và vật tư quan trọng khác. Các cố vấn liên quan trong Đoàn cố vấn quân sự và văn phòng của Ban hậu cần quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đặt tại Nam Ninh đã làm rất nhiều công việc về mặt này.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:01:17 am
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đúng đắn, bảo đảm cho Đoàn cố vấn quân sự hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lịch sử.

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương rất coi trọng công tác của Đoàn cố vấn quân sự. Trước khi ra nước ngoài, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức v.v.. đích thân gặp gỡ đoàn viên đoàn cố vấn, ra chỉ thị rõ ràng, nêu yêu cầu nghiêm khắc, trong quá trình công tác ở Việt Nam, lãnh đạo Trung ương cũng rất quan tâm, nhiều lần cho chỉ thị quan trọng. Các kiến nghị quan trọng liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội của đoàn cố vấn nêu ra với phía Việt Nam đều được Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Bành Đức Hoài v.v.. đích thân phê duyệt. Rất nhiều bức điện của Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương gửi cho Đoàn cố vấn quân sự đều do Mao Trạch Đông đích thân nêu ra. Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương đều có chỉ thị cụ thể đối với mỗi chiến dịch quan trọng và mỗi một công tác quan trọng. Khi Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và La Quý Ba về nước, các đồng chí lãnh đạo Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, La Vinh Hằng, Vương Gia Tường v.v... nhiều lần gặp mặt, thăm hỏi tình hình và cho chỉ thị. Sự lãnh đạo đúng đắn và quan tâm thắm thiết của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương là một bảo đảm căn bản cho Đoàn cố vấn quân sự hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp.

Ngày 29/9/1952, Trung ương Đảng gửi điện hỏi thăm động viên toàn thể các đồng chí trong đoàn cố vấn, nêu rõ công tác của đoàn cố vấn có thành tích, “ điều đó có ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc, và cũng có ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh của phe dân chủ thế giới ”. Đồng thời nêu lên “ các đồng chí nhất thiết không được vì thế mà kiêu căng tự mãn ”, “ các đồng chí còn có khuyết điểm ở mức độ khác nhau ”, “ mong các đồng chí nhanh chóng sửa chữa, để nâng cao công tác lên một bước, hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang mà Trung ương giao cho các đồng chí ”. Toàn thể đoàn viên Đoàn cố vấn được cổ vũ và giáo dục rất lớn từ những chỉ thị đó. Ngày 23/9/1953, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra chỉ thị về công tác của đoàn cố vấn, nhấn mạnh làm cố vấn ở nước anh em thì dù là đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc hay là đối với đảng anh em đều là trách nhiệm chính trị vô cùng trọng đại, phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ, cố hết sức tránh không làm vướng chân người ta. Trung ương đặc biệt chỉ rõ : quan hệ giữa cố vấn và Đảng Cộng sản Việt Nam là quan hệ giữa các đồng chí đảng anh em. Cố vấn không thể tự ra tay, cũng không thể là Thủ trưởng phụ trách chỉ có thể đề xuất kiến nghị cần thiết, và chỉ giới hạn trong những vấn đề tương đối lớn. Không được cưỡng ép đối phương chấp nhận, không nên can thiệp vào nhân sự của đối phương, không nên ra sân khấu biểu diễn, càng không nên ra sân khấu đóng vai chính, phải kiên quyết đề phòng và sửa chữa cách làm sai lầm bao biện làm thay, khách lấn chủ.

Tháng 8/1954, sau khi ký kết hiệp định đình chiến Đông Dương, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định chính thức thành lập Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam. Ngày 1/9 Đại sứ đầu tiên La Quý Ba trình quốc thư lên Hồ Chí Minh, Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam chính thức ra mắt. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu ra kiến nghị với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước rút hai Đoàn cố vấn quân sự và chính trị Trung Quốc sau khi thảo luận Trung ương Đảng Việt Nam đồng ý rút bộ máy tổ chức và tên gọi của đoàn cố vấn tán thành từ nay về sau công khai mời cố vấn. Cố vấn hệ thống quân sự vẫn phải giúp công tác với phương thức thích đáng. Tháng 10/1954, Hà Nội giải phóng. Hạ tuần tháng 10, theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đoàn cố vấn quân sự theo Bộ Tổng quân đội nhân dân Việt Nam về Hà Nội. Lúc này, đoàn cố vấn phần đông là đoàn viên điều động thay thế từ sau năm 1953, trong đó nhân viên điện đài, cung cấp, y tế v.v... chiếm tỉ lệ khá lớn. Phó tổng cố vấn tức phó đoàn trưởng Đoàn cố vấn quân sự Mai Gia Sinh và một số cố vấn cấp đại đoàn, trung đoàn đang nghỉ ở trong nước, theo chỉ thị của Trung ương không trở lại công tác ở Việt Nam nữa.

Ngày 18/7/1955, trong thời gian Vi Quốc Thanh về nghỉ ở Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình có chỉ thị tỉ mỉ về vấn đề rút Đoàn cố vấn quân sự. Các đồng chí nhấn mạnh chỉ ra, căn cứ vào tình thế mới, Đoàn cố vấn quân sự phải chia từng bước rút về, Đoàn cố vấn quân sự đã giúp đỡ Việt Nam, tổ chức xây dựng bộ đội, huấn luyện bộ đội, tổ chức tác chiến v.v.. đều đạt rất nhiều thành tích, cũng có thành tích giúp tiếp quản thành phố. Trước khi rút về, phải giáo dục toàn thể đoàn viên không được có bất cứ lơ là nào, phải làm tốt công tác từ đầu đến cuối. Hạ tuần tháng 8, Vi Quốc Thanh trở lại Hà Nội, truyền đạt chỉ thị của Trung ương Đảng và lãnh đạo Trung ương cho Đoàn cố vấn quân sự. Lúc này, Đoàn cố vấn quân sự còn có nhóm cố vấn quân sự, chính trị, hậu cần, pháo binh, công binh, hàng không dân dụng v.v... có mấy chục cố vấn và nhân viên kỹ thuật và hơn 40 nhân viên cơ quan Ban chỉ huy đoàn cố vấn. Ngày 2/9, Đảng uỷ Đoàn cố vấn quân sự đưa ra kế hoạch cụ thể để quán triệt chấp hành chỉ thị của Trung ương, xác định trong tháng 9, tháng 10 và cuối năm hoặc mùa xuân sang năm chia làm ba đợt rút về nước, chuyên gia quân sự và nhân viên kỹ thuật đười mời giao cho Phòng Tuỳ viên quân sự Đại sứ quán lãnh đạo, và đề ra yêu cầu cụ thể đối với bảo đảm làm tốt các công tác và làm tốt đoàn kết trong ngoài v.v... trước khi rút.

Ngày 24/12/1955, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra thông báo chung “quyết định về việc rút Đoàn cố vấn quân sự nước ta tại quân đội Việt Nam và cử chuyên gia quân sự ”, đồng thời chỉ định Vương Nghiên Tuyền làm Tổ trưởng tổ chuyên gia, Quốc Lâm Chi làm bí thư đảng uỷ Tổ chuyên gia. Quyết định này của Chính phủ Trung Quốc được đưa ra trong tình hình phía Việt Nam nhiều lần yêu cầu Trung Quốc tiếp tục cử cố vấn quân sự. Cùng ngày, Bành Đức Hoài viết thư cho Võ Nguyên Giáp. Cuối tháng, Vi Quốc Thanh mang thư trở lại Hà Nội, sau một thời gian giúp Bộ Tổng quân đội Việt Nam, năm 1956, Vi Quốc Thanh trở về Bắc Kinh. Công tác của Đoàn cố vấn quân sự đến đây kết thúc hoàn toàn.

Ở đây còn phải nhấn mạnh nói rõ, trong thời gian Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc công tác tại Việt Nam, được sự quan tâm nhiệt tình, tín nhiệm và ủng hộ rất lớn của lãnh tụ nhân dân Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản, Tổng Quân uỷ Việt Nam. Hồ Chí Minh nhiều lần đã nói : “ Tôi tín nhiệm tuyệt đối ” đối với cố vấn Trung Quốc. Những kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự đối với quyết sách lớn liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội v.v... của Việt Nam đều được Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị Trung ương Đảng thảo luận quyết định, sau đó giao cho Tổng Quân uỷ và cơ quan Bộ tổng Việt Nam tổ chức thực hiện. Tổng quân uỷ và Bộ tổng Việt Nam cũng rất quan tâm, tôn trọng và ủng hộ đoàn cố vấn, và cùng với sự phát triển của thực tiễn, họ “ càng tin vào tính đúng đắn của tư tưởng Mao Trạch Đông và kinh nghiệm của quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ”. Những điều đó chính là điều kiện quan trọng để Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc hoàn thành thuận lợi nhiệm vụ giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp.

Trương Quảng Hoa

(đăng trong Làn sóng trăm năm số 4-5 năm 2000,
khi đăng vào sách này, tác giả có sửa đổi một ít câu chữ)




1 Sự thực, Mai Gia Sinh chủ trương « đánh nhanh, thắng nhanh », dùng « biển người » để ồ ạt tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, và tiền trạm của Bộ tham mưu chiến dịch đã nghe theo ý kiến này. Khi tướng Giáp từ Việt Bắc tới vùng lòng chảo thì các khẩu pháo đã được « kéo vào » và toàn quẫn đã chuẩn bị thi hành kế hoạch tác chiến ấy. Thay đổi cách đánh là quyết định cá nhân của đại tướng Võ Nguyên Giáp (Bộ chính trị ĐCS, nhiều ngày sau mới nhận được báo cáo). Ông đã tranh thủ được sự ủng hộ của Vi Quốc Thanh. Họ Vi thỉnh thị ý kiến của Bắc Kinh. Điện chuẩn y của Bắc Kinh tới ngày 27.1.1954, tức là hai ngày sau khi tướng Giáp quyết định và kế hoạch mới bắt đầu được thi hành. Xem chú thích ở các phần (3) và (6).


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:02:57 am
NHÌN LẠI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
Như Phụng Nhất

Sau khi ký kết hiệp định đàm phán đình chiến Triều Tiên ngày 27/7/1953 tình hình chiến trường Đông Dương trở thành vấn đề được mọi người rất quan tâm. Trận Điện Biên Phủ đã thực tế trở thành tiêu điểm giải quyết vấn đề này. Nhân dân cách mạng toàn thế giới đều khao khát cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi. Nhìn lại tác chiến Điện Biên Phủ, quả thực có rất nhiều cảm xúc. Lúc đó, dưới sự lãnh đạo của Chánh phó Tổng cố vấn Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc cử sang Việt Nam người viết bài này đã tham gia cả quá trình thai nghén, chuẩn bị, tổ chức và thực thi tác chiến đông xuân 1953/1954 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bây giờ vẫn còn đọng trong trí nhớ, nhìn lại mấy vấn đề dưới đây.

I.

Chiến dịch đông xuân 1953/1954 của Quân đội nhân dân Việt Nam rốt cuộc nên chọn hướng nào, vùng nào để tiến hành, tiếp tục lên vùng Tây Bắc, vùng Thượng, Trung Lào nơi phạm vi hoạt động rộng lớn, sự thống trị của địch bạc nhược, binh lực phân tán, bố phòng không kiên cố để tìm cơ hội tác chiến, hay là về đồng bằng sông Hồng nơi trọng binh địch tập kết, bố phòng kiên cố, phạm vi hoạt động chật hẹp để tìm cơ hội tác chiến, đây là chỗ bất đồng quan trọng về lựa chọn hướng tác chiến tồn tại trong thời gian khá dài giữa đồng chí lãnh đạo đoàn cố vấn và cán bộ lãnh đạo của Quân đội nhân dân lúc bấy giờ. Rất rõ ràng, cái trước là tìm điểm yếu đánh, cái sau xông vào chỗ cứng. Theo tình hình chiến trường Đông Dương và thực lực, trình độ chiến thuật, kỹ thuật, tố chất tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ thì không nên tiến hành tác chiến công kiên ở đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Để giải quyết vấn đề này, hạ tuần tháng 5 năm 1953, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự cùng với nhà cầm quyền tối cao Quân đội nhân dân lúc bấy giờ bàn bạc quyết định, tập trung một bộ phận cán bộ cao cấp hiệp đồng với bộ phận cố vấn thành lập ban biên tập và thẩm định, thông qua nghiên cứu đặc điểm bố phòng của địch, biên soạn tài liệu quân sự, tập huấn cán bộ, để thống nhất tư tưởng tác chiến. Nhiệm vụ này trải qua thời gian hơn 5 tháng đến hội nghị tác chiến Quân đội nhân dân tháng 11/1953, mới hoàn thành, đã hình thành phương án ý tưởng chủ lực tiến quân lên Tây Bắc, đánh lấy Lai Châu tác chiến ở hướng Thượng, Trung Lào. Phát biểu của đồng chí Vi Quốc Thanh, Tổng cố vấn quân sự tại hội nghị tác chiến quân đội nhân dân ngày 24/11/1953 đã có tác dụng hết sức quan trọng đối với việc hình thành từng bước phương án tác chiến này. Lúc đó, đồng chí lấy những sự thật sinh động của Trung ương Đảng ta kiên trì biến khu Thiểm, Cam, Ninh 13 năm và cuối cùng giành được thắng lợi toàn quốc, trình bày sâu sắc ý nghĩa chiến lược sâu xa của chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên Tây Bắc và Thượng, Trung Lào tác chiến, đã thuyết phục mạnh mẽ cán bộ cao cấp trong Quân đội nhân dân có ý kiến bất đồng đối với tác chiến ở vùng Tây Bắc không ít cán bộ Quân đội nhân dân nói phát biểu của đồng chí cố vấn rất có sức thuyết phục, thực sự đã giải quyết về mặt tư tưởng vấn đề tiếp tục lên Tây Bắc tác chiến.

Kế đến là quyết sách tiến quân lên Trung Lào tác chiến đã có tác dụng thúc đẩy đối với sự hình thành phương án tác chiến nói trên. Lúc đó quân Pháp đang tập trung một bộ phận binh lực cơ động tiến hành “càn quét” ở Nam Bộ. Để phối hợp tác chiến ở miền nam, đồng chí La Quý Ba lãnh đạo đoàn cố vấn từng kiến nghị với phía Việt Nam tại ngã ba quốc lộ 8, quốc lộ 12, chạy dọc theo dãy núi Trường Sơn xuyên qua quốc lộ 9 làm một con đường chạy thẳng tới Nam Bộ (tức sau này người ta gọi là đường mòn Hồ Chí Minh), khai thông liên hệ giữa Nam Bộ và Bắc Bộ. Trong khi cùng với Cục Tác chiến Việt Nam trao đổi vấn đề này và nghiên cứu tình hình địch, phát hiện binh lực địch phân bố trên quốc lộ 8, 12 rất mỏng yếu. Hai tiểu đoàn địch bố trí trong 38 cứ điểm, mỗi cứ điểm lớn là một đại đội, nhỏ là một tiểu đội, đông tây kéo dài 150 km, nam bắc cách nhau hơn 100 km. Quân đội nhân dân Việt Nam đồng ý kiến nghị của đoàn cố vấn, quyết định tháng 12/1953 tiến quân lên Trung Lào quét sạch cứ điểm của địch phân tán trên quốc lộ 8, 12. Hai trung đoàn của đại đoàn 304 chấp hành nhiệm vụ này rất thuận lợi, trong thời gian rất ngắn đã tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn địch trên hai quốc lộ này, trực tiếp áp sát Thakhẹt, Savanakhet. Lúc này địch điều động tám, chín tiểu đoàn cơ động nhảy dù xuống Trung Lào. Hành động này một lần nữa phân tán binh lực cơ động của địch. Mặc dù bộ đội tiến đến Trung Lào tiến triển không lớn sau khi địch tăng viện, nhưng quần nhau với địch trong thời gian dài ở Thakhẹt, Savanakhẹt và đường 9, đã kiềm chế binh lực cơ động của địch, làm cho chúng không thể điều đi nơi khác, chi viện mạnh mẽ cho tác chiến ở chiến trường Tây Bắc. Thắng lợi của tiến quân lên Trung Lào cũng có lợi cho khai thông tư tưởng của cán bộ quân đội nhân dân lên vùng tây bắc và vùng binh lực địch mỏng yếu tác chiến.

Mục tiêu tiến quân lên Tây Bắc dự tính đấy lấy Nà Sản. Do địch ở Nà Sản tháng 8 bỏ chạy, sau chuyển sang công kích Lai Châu. Khi chủ lực quân đội Việt Nam đang chuẩn bị tiến quân lên Tây Bắc, thì bọn địch ở Lai Châu có triệu chứng rút lui, nhưng đồng thời địch cho 4 tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và không ngừng tăng thêm. Sau khi chủ lực quân đội Việt Nam tiêu diệt một bộ phận địch trong vận động lên Thượng Lào và vùng Lai Châu quay về bao vây Điện Biên Phủ. Đây chính là nguyên nhân của sự tác chiến Điện Biên Phủ.


II

Đi đôi với giải quyết vấn đề chọn hướng, vùng tác chiển trong cán bộ lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam, còn phải giải quyết vấn đề “ đánh trận gì, đánh như thế nào ” trong bộ đội.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, đến năm 1953 ở Bắc Bộ có 5 đại đoàn bộ đội chính quy. Ngoài một đại đoàn (đại đoàn 320) thường xuyên phân tán ở vùng tả, hữu ngạn đồng bằng sông Hồng để kiên trì chiến tranh du kích đồng bằng ra, có thể tập trung bốn đại đoàn chính quy tác chiến cơ động. Những bộ đội này từ đánh du kích phân tán, từng bước phát triển lên có thể đánh vận động quy mô như chiến dịch biên giới, cũng có thể đánh công kiên quy mô một lần tiêu diệt hai ba tiểu đoàn như chiến dịch Biên Giới, Tây Bắc, Thượng Lào. Nhưng đánh công kiên, quy mô lớn hơn, thời gian kéo dài hơn thì chưa trải qua. Khi nghiên cứu đánh cứ điểm Nà Sản, một cán bộ phụ trách quân đội nhân dân thổ lộ với tác giả : “ Nếu binh lực bố phòng của địch trong vòng 6 tiểu đoàn thì chắc chắn tiêu diệt; nếu địch bố phòng 8 tiểu đoàn, có thể miễn cưỡng đánh được, nhưng không chắc lắm ”.

Cùng với sự phát triển của tình hình đấu tranh bố phòng cụm cứ điểm có tính tập đoàn của địch xuất hiện, làm cho phương thức đánh công kiên mang tính tập kích trước đây đã không thể thích ứng với nhu cầu của tác chiến, hơn nữa, bộ đội đã bắt đầu trang bị lựu pháo 105 và vũ khí cao xạ phòng không. Như vậy một loạt vấn đề mở thông đường, xây trận địa, sửa đường, tập kết lương thực súng đạn v.v... đều là những vấn đề thực hiện mới đối với đông đảo cán bộ chỉ huy quân đội nhân dân. Để giải quyết mâu thuẫn trên đây, khi xác định nhiệm vụ thành lập Ban biên tập thẩm định, đồng chí Vi Quốc Thanh Tổng cố vấn Đoàn cố vấn quân sự nhấn mạnh phải làm tốt cơ sở bảo đảm chiến thuật cho chiến dịch Đông xuân. Đồng chí nêu lên cụ thể : phía ta xây dựng đề cương giao cho cán bộ phía ban tổ chức nghiên cứu chiến thuật, thông qua nghiên cứu chú trọng tìm hiểu tình hình, biên soạn tài liệu quân sự, chủ yếu là chiến đấu công kiên, viết từ động tác của người lính, viết đến chiến thuật công kiên hợp thành của tiểu đội, trung đội, đại đội tiểu đoàn cho đến trung đoàn, lấy cứ điểm Nà Sản vùng Tây Bắc lúc bấy giờ làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu, khảo sát và chọn tốt bài diễn tập, tổ chức diễn tập, huấn luyện một tốp giáo viên, chuẩn bị tốt cho huấn luyện quân sự bộ đội trước chiến dịch, nghiêm túc làm tốt bảo đảm chiến thuật cho chiến dịch Đông xuân.

Ngày 29/5/1953, khi triệu tập một số đồng chí cố vấn bàn về giáo dục chiến thuật công kiên cho bộ đội phía bạn, đồng chí Vi Quốc Thanh nhấn mạnh : “ Phải xoay chuyển tư tưởng của bộ đội không muốn làm công sự, phải học biết xây công sự, thao tác cuối cùng, xây dựng trận địa tấn công ; học biết đào hào, tích trữ lương thực, đạn dược, sử dụng hoả pháo, phải học biết khống chế sân bay địch, nghiên cứu đặc điểm của địch có thể tốn ít thời gian hơn, biên soạn tài liệu và huấn luyện bộ đội công kiên cần phải tốn nhiều thời gian, biên soạn tài liệu không những giải quyết vấn đề tác chiến hiện thực mà còn phải đặt cơ sở mạnh mẽ cho tác chiến công kiên sau này. Điều đó vừa phải có nội dung tương đối toàn diện, lại cần phải làm nổi bật trọng điểm. Phải coi đó là một chuyển biến về tư tưởng chiến thuật của quân đội Việt Nam ”. Đồng chí còn nhấn mạnh nói, tác chiến Đông Xuân có ý nghĩa quan trọng đối với sự chuyển biến tình hình Việt Nam từ nay về sau, vì vậy cần phải coi công tác hiện nay là nhiệm vụ tác chiến để hoàn thành. Thực tiễn chứng minh, những ý kiến này hoàn toàn phù hợp tình hình chiến trường Đông Dương lúc bấy giờ và thực tế của bộ đội Quân đội nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ.

Ngày 30/5/1953, sau khi nghe Ban biên tập thẩm định báo cáo vấn đề biên soạn tài liệu giảng dạy Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ngoài việc nói thêm tầm quan trọng của biên soạn tài liệu giảng dạy còn nhấn manh : phải lấy học tập kinh nghiệm của Trung Quốc làm chính, phải giáo dục Quân đội nhân dân cần phải học thật tốt kinh nghiệm của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Ban biên tập và thẩm định gồm số ít cố vấn, đồng chí phụ trách ban ngành liên quan của Bộ Tổng Quân đội nhân dân và một số đồng chí phụ trách của các đại đoàn tổ thành, bắt đầu từ tháng 6 năm 1953 bắt tay nghiên cứu tình hình hai bên địch ta, áp dụng phương pháp vừa nghiên cứu, vừa biên soạn vừa thẩm tra, vừa sửa chữa bản thảo, tiến hành công việc biên soạn giáo trình. Quá trình này trên thực tế cũng là quá trình khai thông tư tưởng tác chiến của cán bộ biên soạn. Kết hợp với tiến hành công tác biên soạn, chúng ta không ngừng giới thiệu kinh nghiệm liên quan. Tháng 7 công việc biên soạn giáo trình cơ bản hoàn thành, tháng 8 bắt đầu khảo sát, lực chọn địa điểm diễn tập và chuẩn bị phương án diễn tập, tháng 9 bắt đầu tập huấn và diễn tập làm mẫu cho cán bộ trung đoàn trở lên. Những hoạt động này đã làm tương đối tốt công việc chuẩn bị huấn luyện, quân sự của Quân đội nhân dân.

Sau khi xem giáo trình biên soạn, Võ Nguyên Giáp biểu thị tán thành, đồng thời nêu ra : có thể bổ sung cụ thể một số đặc điểm tác chiến ban đêm và nội dung mấy cách đánh trong tình hình khác nhau được không, đồng thời nêu lên trong giáo trình nội dung hợp đồng giữa bộ binh, pháo binh yêu cầu đối với cán bộ của họ có cao hơn được không : đối với những vấn đề này, nhóm biên soạn đều có bổ sung và sửa đổi, điều chỉnh cần thiết trong thẩm định lại. Đoàn cố vấn quân sự và Bộ Tổng quân đội Việt Nam sau khi trao đổi cho rằng, trong tháng 9 nhất định phải hoàn thành nhiệm vụ tập huấn cán bộ, đợt đầu huấn luyện cấp phó, đợt hai huấn luyện cấp trưởng. Với sự hiệp đồng giữa cố vấn Trung Quốc và Ban biên tập thẩm định đã thực hiện thuận lợi nhiệm vụ huấn luyện cán bộ theo thời gian đã định. Để thực hiện nhiệm vụ huấn luyện cán bộ nói trên, các đồng chí lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự đã nhiều lần dặn dò các đồng chí cố vấn liên quan cần phải kiên trì nguyên tắc công tác và phương pháp công tác đúng đắn. Yêu cầu các đồng chí cố vấn coi trọng cao độ về tư tưởng nghiêm túc, thành khẩn, khiêm tốn, kiên nhẫn và tỉ mỉ về thái độ, nhấn mạnh chỉ được làm tốt, không được làm xấu. Đồng thời nhiều lần vạch rõ : ở trong nước, công tác làm sai dễ sửa chữa, làm cố vấn, công tác làm sai thì không dễ sửa chữa cho nên phải làm việc hết sức tỉ mỉ thận trọng. Lãnh đạo đoàn cố vấn còn đặc biệt nhấn mạnh ; không nên lấy trình độ quân đội Trung Quốc để đánh giá trình độ của quân đội bạn, không nên chỉ thấy khuyết điểm của bộ đội bạn, mà phải thấy nhiều ưu điểm của họ, những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến phương châm chính sách càng phải thận trọng xem xét, nhiều thỉnh thị báo cáo, không nên bày tỏ thái độ một cách tuỳ tiện hời hợt. Các cố vấn đã nghiêm chỉnh quán triệt chấp hành những yêu cầu và nguyên tắc đó trong thực tiễn công tác.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:03:54 am
III

Trên cơ sở cơ bản thống nhất tư tưởng và làm tốt bảo đảm chiến thuật, Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu tiến quân lên vùng Tây Bắc Việt Nam, vào trung tuần tháng 11/1953. Trong quá trình tiến quân, một vấn đề hiện thực đặt ra trước mắt bộ đội chủ lực lúc bấy giờ là : có nên giữ thái độ tích cực tranh thủ tiêu diệt bọn địch ở Lai Châu hay không ? Trong tình hình binh lực địch ở Điện Biên Phủ tăng lên trên 15 tiểu đoàn còn dám đánh hay không ? Đồng thời một loạt vấn đề tuyến đường cung cấp lên Tây Bắc khá dài, tình trạng đường vận tải tương đối kém, các vũ khí nặng như lựu pháo 105, cao xạ pháo 37 v.v... đều lần đầu vận động đường xa, mở thông đường, xây dựng trận địa bộ đội cung cấp v.v... đã làm cho rất nhiều đồng chí quân đội Việt Nam cảm thấy khó khăn rất lớn, lo lắng rất nhiều. Vì vậy trên đường hành quân, bộ đội hơi lề mề, ba ngày hành quân thì nghỉ một ngày, đi một tuần nghỉ hai, ba ngày. Mỗi ngày hành quân chỉ được 25 km. Hành trình 200 km, dự tính đi 20 ngày.

Bọn địch ở Lai Châu trên thực tế chỉ có 1 tiểu đoàn bộ binh và hơn 10 đại đội vũ trang địa phương. Khi phát hiện địch rút về Điện Biên Phủ, quân đội Việt Nam sử dụng hai trung đoàn bộ binh truy kích tiêu diệt. Bộ đội cử đi chưa thể áp dụng phương thức bôn tập tích cực, hoặc chặn đánh mai phục giữa đường, để tiêu diệt, mà là tiến hành theo cách thông thường, làm cho phần lớn quân địch chạy thoát, chỉ bắt sống được bảy tám chục tên tản mát giữa đường. Lúc đó có người bàn tán rằng : cứ điểm Lai Châu gần biên giới Trung Quốc, đánh Lai Châu để người Trung Quốc đánh, đánh cho Trung Quốc. Thật là luận điệu kỳ lạ. Trong khi bộ đội hành quân, Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam có đồng chí hai lần thăm dò ý kiến của cố vấn : “ Binh lực của địch ở Điện Biên Phủ tăng lên trên 10 tiểu đoàn, làm thế nào ? Tăng lên trên 15 tiểu đoàn làm thế nào ? ”. Có ý là đánh hay không ? Chứng tỏ quân đội Việt Nam có cán bộ băn khoăn lo lắng rất nhiều đối với công phá cứ điểm có trên 10 tiểu đoàn binh lực đóng giữ. Sau khi quân địch ở Điện Biên Phủ bị bao vây, do ở gần chiến trường đều là rừng núi, không có đường đi, lựu pháo 105, cao xạ pháo 37 lần đầu tiên ra trận đi vào trận địa cực kỳ khó khăn. Sau khi Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp nghiên cứu quyết định động viên cán bộ chiến sĩ dùng sức người kéo pháo, bắt đầu mỗi ngày kéo 500 mét, 1000 mét về sau mỗi ngày có thể kéo ba đến năm kilômét vừa kéo pháo vừa làm đường gần một tháng mới đưa đại pháo vào trận địa dự kiến.

Đang lúc tiền phương tiến hành chuẩn bị tác chiến khẩn trương, ngày 23/11/1953 Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN Văn Tiến Dũng cử Cục trưởng Tác chiến Hà Văn Lâu gặp cố vấn Trung Quốc bàn vấn đề. Hà Văn Lâu trình bày bọn địch ở hai nơi Điện Biên Phủ, Trung Lào đều tăng trọng binh, tấn công Điện Biên Phủ có thể gặp khá nhiều khó khăn, đồng thời cảm thấy tuyến đường cung cấp cho hai hướng tác chiến tương đối dài, cung cấp có không ít khó khăn. Lúc đó tôi trả lời rằng : “ Binh lực cơ động đội dự bị chiến lược của địch đều bị ta phân tán, binh lực ta đã tập trung, đang là thời cơ tốt cho hai nơi tiêu diệt địch ”. Tôi còn nói : “ Khi hai trung đoàn của đại đoàn 304 tiến quân lên Trung Lào, vấn đề lo lắng lớn nhất là cung cấp khó khăn, nhưng sau khi bộ đội tiến lên đã đánh thắng trận, Liên khu 4 từng báo cáo nói Trung Lào có tăng thêm hai trung đoàn thì về cung cấp cũng không thành vấn đề. Bây giờ vẫn là binh lực của hai trung đoàn trước đây, đang phát triển thắng lợi, mở rộng chiến quả lại chưa tăng quân có chút khó khăn cũng có thể khắc phục được. Khi bộ đội chủ lực tiến quân lên Tây Bắc mọi người lo lắng lớn nhất cũng là vấn đề cung cấp, kết quả vẫn chẳng phải là khắc phục một cách thắng lợi đó sao ! Tôi lại nói vấn đề bây giờ là phải dám khắc phục khó khăn để giành thắng lợi, không nên sợ khó khăn quá đáng ”. Nghe những ý kiến này, hai đồng chí Văn Tiến Dũng và Hà Văn Lâu vui vẻ gật đầu tán thành. Sau đó tôi nghĩ, lần hẹn gặp này phải chăng định dùng phương thức đó để yêu cầu viện trợ mới nhưng do phía bạn trong trao đổi không đề cập đến vấn đề này, nên tôi cũng không tiện nói nhiều, chỉ phân tích cần thiết theo vấn đề tình thế. Trên thực tế, trong tác chiến Điện Biên Phủ ngoài kế hoạch năm ra Trung Quốc đã tăng thêm viện trợ rất nhiều vật tư quân sự.


IV

Tình hình địch ở Điện Biên Phủ không ngừng tăng quân và bộ đội Việt Nam từng bước hoàn thành thế bao vây địch, thời gian công tác chuẩn bị đã hơn hai tháng. Lúc này dám phát động công kích hay không, công kích vào lúc nào là vấn đề suy xét rất nhiều của những người chỉ huy tiền phương phía bạn. Vì vậy Chánh, Phó Tổng cố vấn Đoàn cố vấn quân sự đích thân ra mặt trận, cùng với các đồng chí Bộ chỉ huy tiền phương quân đội Việt Nam nghiên cứu, đề xuất ý kiến từ khảo sát đến bố trí, từ chiến thuật đến kỹ thuật, lựa chọn điểm công kích như thế nào, xoay quanh vấn đề tập trung binh lực, hoả lực như thế nào và xây dựng trận địa công kích như thế nào v.v.., và nghiêm chỉnh thông qua các đồng chí cố vấn của đại đoàn đi vào phân đội hỗ trợ cụ thể, tổ chức thực hiện.

Đứng trước binh lực hơn 20 tiểu đoàn địch đóng giữ Điện Biên Phủ lúc bấy giờ và công sự phòng ngự tập đoàn cứ điểm có diện tích rộng, vấn đề then chốt là : “ trận đầu ” phải thắng, nhưng làm thế nào để thắng. Điều đó liên quan đến toàn bộ chiến dịch có thể đánh liên tục, không ngừng, tiêu diệt toàn bộ, giành toàn thắng hay không. Vì vậy, lúc đó cùng với Bộ chỉ huy tiền phương nghiên cứu quyết định, xác định “ trận đầu ” dùng hai đại đoàn chủ lực cùng một lúc tấn công tiêu diệt cứ điểm một tiểu đoàn địch. Để nắm chắc thắng lợi hơn, Bộ chỉ huy tiền phương đã tạm thời thay đổi thành lần lượt công kích, tức là đêm 13/3 đại đoàn 312 công kích trước một tiểu đoàn địch ở cứ điểm Him Lam, đêm 14 đại đoàn 308 công kích một tiểu đoàn địch ở đồi Độc Lập. Như vậy hai tiểu đoàn lựu pháo 105 của phía Việt Nam có thể sử dụng tập trung hoả lực mức độ lớn hơn, càng nắm chắc chiến thắng hơn. Sau này xem lại, quyết định và thay đổi như thế là đúng đắn. Tấn công cứ điểm Him Lam rất thuận lợi lúc 20h tiêu diệt toàn bộ địch đóng giữ, chiếm lĩnh cứ điểm. Đêm 14, đại đoàn 308 mở công kích vào bọn địch ở đồi Độc Lập theo kế hoạch, pháo bộ binh đi theo chưa đến kịp giờ, sau khi bắt đầu công kích, hoả lực gián đoạn một hồi, bọn địch lập tức báo cáo lên trên “đêm nay bình yên vô sự”, không ngờ lúc tờ mờ sáng, bộ đội Việt Nam lại bắt đầu tấn công địch buộc phải đầu hàng trong hoảng loạn. Bọn địch chi viện cũng hoảng sợ rút lui trước sự pháo kích của phía Việt Nam.

 Sau khi địch đóng giữ ở Him Lam và đồi Độc Lập bị tiêu diệt hoàn toàn, một tiểu đoàn quân nguỵ đóng giữ Bản Kéo hoang mang cực độ. Đêm 17, hai đại đội và hai trung đội này đầu hàng phía Việt Nam. Như vậy tác chiến Điện Biên Phủ trận đầu phải thắng chính thức mở màn, hai đêm tiêu diệt gọn nhẹ hai tiểu đoàn địch. Sau đó bộ đội Việt Nam chuyển vào tổng kết kinh nghiệm “ trận đầu ” và chuẩn bị khẩn trương cho tác chiến đợt hai. Tác chiến đợt hai qua hai tuần chuẩn bị, đêm 30/3 chính thức nổ súng, về bố trí phía Việt Nam dùng ba đại đoàn mỗi đại đoàn chọn một cứ điểm địch trước mặt để công kích. Sau khi thuận lợi phát triển vào sâu bên trong theo hướng phát triển của mỗi đại đoàn dự định cho đến khi đạt mục đích cuối cùng tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Sau khi mở công kích, bộ đội qua một đêm chiến đấu ác liệt chỉ chiếm được các cứ điểm trước mặt. Vì gặp phải cụm cứ điểm bên trong của địch phản kích dữ dội, vô kế khả thi, công kích liên tục năm đêm đều tiến triển không lớn. Thậm chí có bộ đội cơ chế hỗn loạn, mất khả năng đánh tiếp, lần lượt lợi dụng công sự địch chiếm được, cố giữ trận địa đã chiếm, chuyển vào phòng ngự, hình thành thế cầm cự với địch... Lúc này lại triệu tập hội nghị cán bộ, tổng kết bài học kinh nghiệm, cho rằng chủ yếu là nghiên cứu, nhận thức không đầy đủ đặc điểm của bố phòng tập đoàn cứ điểm của địch – vừa có thể cố thủ độc lập, vừa cấu thành hệ thống chi viện hoả lực dày đặc.

Vì vậy khi địch nắm được quy luật chuẩn bị hoả lực của ta, khi bộ binh ta bắt đầu xung kích, lợi dụng khe hở gián đoạn hoả lực của ta hoặc thời cơ kéo dài xạ kích địch phản kích lại hoả lực của ta, gây thương vong khá lớn cho bộ đội, khiến công kích bị trở ngại, cán bộ lại thiếu kinh nghiệm chỉ huy tác chiến liên tục, tỏ ra bất lực trước tình hình thay đổi ; toàn bộ việc bố trí còn thiếu đội dự bị chiến dịch, tất cả bộ đội hầu như triển khai toàn diện, vì vậy một khi công kích bị trở ngại, là không có khả năng đánh tiếp ngay. Dự định thông qua tác chiến đợt hai một cú đấm tiêu diệt toàn bộ quân đich, kết quả là dục tốc bất đạt, hình thành thế giằng co. Đúng vào lúc này đầu sỏ đế quốc Mỹ Dulles bay đến Sài Gòn loè bịp dọa dẫm, đồng thời mùa mưa sắp đến. Đứng trước hiện thực này, tiếp tục kiên trì đánh tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch, giành toàn thắng hay là bỏ dở giữa chừng, lui quân kéo về ? Điều này không thể không là một thử thách ác liệt đối với người chỉ huy tiền phương của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ. Có cán bộ phụ trách quân đội Việt Nam, luôn luôn phản ánh một số tâm tư lo ngại, từng hỏi cố vấn Vi Quốc Thanh : “ Nếu tiếp tục đánh, Dulles ném bom nguyên tử thì làm thế nào ? ”. Vi Quốc Thanh nói : “ Đừng sợ hắn doạ, khi chiến tranh Triều Tiên, Mỹ cũng doạ Trung Quốc, chúng ta nhất định phải kiên định quyết tâm tiếp tục chiến đấu, quyết không thể dao động quyết tâm ”.

Cũng đúng vào lúc này, hội nghị Genève sắp triệu tập. Các đồng chí lãnh đạo nước ta hết sức quan tâm đến thắng lợi của trận đánh lần này. Bộ trưởng Bành Đức Hòai còn căn cứ vào tình hình tác chiến lúc đó và ý kiến của Đoàn cố vấn quân sự, chỉ thị rõ ràng xác đáng, nên áp dụng phương châm đánh chắc thắng chắc, dùng cách thức gọt củ cải bóc vỏ ngô, chuẩn bị đầy đủ để tiêu diệt địch trước mắt, chuẩn bị tốt hơn tiêu diệt từng cứ điểm của địch, gọt đến một mức nhất định, đến một lúc nhất định thì mở tổng công kích tập trung tiêu diệt địch. Theo tinh thần đó, bộ đội có thể tiến hành luân phiên chuẩn bị, luân phiên tác chiến, luân phiên chấn chỉnh bổ sung, vừa đánh, vừa bổ sung, vừa chỉnh đốn có thể luôn luôn đứng ở vị thế chủ động. Sau khi tác chiến đợt hai Điện Biên Phủ đi vào cầm cự, lập tức dụng cách đánh nói trên, phía Việt Nam gọi là tác chiến đợt ba.

Tác chiến đợt ba, bộ đội Việt Nam cùng với pháo DKZ-75 không ngừng tiêu diệt cứ điểm tiểu đội, trung đội, đại đội địch ở từng nơi, từng bước áp sát sân bay địch, cho đến khống chế sân bay, cắt đứt viện trợ trên không, thả dù của địch, từ đó tăng thêm khó khăn cho địch cố thủ. Vào thời gian này bọn địch ở Điện Biên Phủ báo cáo với Hà Nội “ Xem ra Điện Biên Phủ không còn hy vọng ”. Pháo hoả tiễn nhiều nòng của Trung Quốc điều động cũng được đưa vào chiến trường. Bọn địch hoảng hốt la lên : “ Hoả lực pháo binh của Việt Nam còn mạnh hơn hoả lực chiến dịch Verdun, tương tự hoả lực của quân Liên Xô công phá Berlin ”. Mặc dù như vậy, bọn địch vẫn không cam chịu thất bại cuối tháng 4 đầu tháng 5, địch điều từ Hà Nội ba tiểu đoàn lính dù nhảy xuống Điện Biên Phủ. Những lính dù này vừa chạm đất đã bị quân đội Việt Nam tiêu diệt rất nhanh.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:04:19 am
 Lúc bấy giờ đế quốc Pháp có tất cả 8 tiểu đoàn lính dù ở chiến trường Đông Dương, trong đó có 6 tiểu đoàn bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ. Trong tình hình như vậy bộ đội Việt Nam trải qua hơn 20 ngày đánh chắc thắng chắc, cứ đánh nhỏ, đánh vặt, không ngừng giành được thắng lợi, củng cố mở rộng trận địa vốn có, thu hẹp địa bàn địch cố thủ ; đồng thời bộ đội Việt Nam trải qua chỉnh đốn bổ sung đã dần dần khôi phục tinh thần và cơ chế. Nhất là sau khi khống chế sân bay địch, cắt đứt đường vận tải trên không của địch, chúng chỉ còn dựa vào thả dù tiếp tế, mà trên một nửa vật tư ném xuống rơi vào vùng khống chế của phía Việt Nam. Điều đó chuẩn bị điều kiện có lợi, đặt cơ sở có lợi cho tác chiến đợt bốn tổng công kích.

Mùa mưa sắp đến, hội nghị Genève tới gần, Vi Quốc Thanh và Võ Nguyên Giáp nghiên cứu quyết định chuẩn bị thật nhanh mở tổng công kích. Tổng công kích quân địch ở Điện Biên Phủ (Việt Nam gọi là tác chiến đợt bốn) bắt đầu từ đêm 6/5. Dưới sự chi viện của pháo hoả tiễn nhiều nòng, bộ đội Việt Nam trải qua một đêm chiến đấu ác liệt đã đánh chiếm ba cứ điểm quan trọng then chốt trong bố phòng của địch ở Điện Biên Phủ, tức là cứ điểm A, cứ điểm C và Châu Ôn. Đó cũng là ba cứ điểm quan trọng nhiều lần giành giật với địch từ tác chiến đợt hai trở đi. Phản kích của địch đều bị đập tan, lính nhảy dù cũng bị tiêu diệt toàn bộ ngay trong đêm đó. Đến đây, địch đã ở vào trạng thái tuyệt vọng, viên chỉ huy địch cố thủ, chuẩn tướng De Castries báo cáo với Hà Nội nói : “ Tiếp tục chống cự đã vô vọng ”. Viên chỉ huy Bắc Bộ cho phép ông ta “ tự xử lý ”.

Sáng ngày 7/5, phía địch ngừng bắn, quân đội Việt Nam trong khi áp sát cứ điểm địch, bọn địch không bắn súng, mà từ lỗ châu mai lần lượt thò ra các vật khăn trắng, mảnh vải trắng, tờ giấy trắng v.v.. để biểu thị đầu hàng. Buổi chiều, trong lô cốt bốn bề của địch lũ lượt giương cờ trắng. Bộ chỉ huy địch ở Mường Thanh cũng giương cao cờ trắng, bọn địch cố thủ cũng đầu hàng toàn bộ. Bộ đội Việt Nam chia nhau đi tiếp nhận đầu hàng. Tác chiến Điện Biên Phủ bắt đầu từ 13/3, trải qua 57 ngày đêm đến đây kết thúc thắng lợi ; tác chiến Đông Xuân bắt đầu từ tháng 12/1953, trải qua hơn 5 tháng chiến đấu căng thẳng, đến đây cũng kết thúc thắng lợi. Thắng lợi của tác chiến Điện Biên Phủ đã gạt bỏ trở ngại, lót đường cho việc ký kết hiệp định Genève. Nhân dân Việt Nam từ đây có một nửa giang sơn thoát khỏi cảnh đen tối và một chính quyền dân chủ nhân dân độc lập tự chủ, đích thực. Chính phủ Trung Quốc đi đầu cử La Quý Ba nguyên Đoàn trưởng đoàn cố vấn chính trị Trung Quốc tại Việt Nam làm Đại sứ tại Việt Nam, Liên Xô và những nước Đông Âu cũng kế tiếp cử Đại sứ.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu đứng sừng sững kiên cường ở phương Đông của thế giới. Ngày 8/5 hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương và ngày 20/7 ký hiệp định đình chiến. Pháp buộc phải thừa nhận độc lập của Việt Nam rút khỏi ba nước Đông Dương, cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam kết thúc thắng lợi. Thắng lợi của chiến dịch Biên Giới mùa thu năm 1950 đã củng cố mở rộng phát triển căn cứ địa chống Pháp Việt Bắc, tạo điều kiện thuận lợi, đặt cơ sở mạnh mẽ cho giải phóng Bắc Bộ Việt Nam. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã tạo điều kiện thuận lợt đặt cơ sở vững chắc cho giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Việt Nam, đánh đuổi thực dân Pháp và đánh bại xâm lược Mỹ về sau.

Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thuộc địa, nửa thuộc địa còn chưa được giải phóng lúc bấy giờ. Cuộc đấu tranh giải phóng của rất nhiều dân tộc và nhân dân bị áp bức ở Châu Á, Châu Phi v.v. từ đó về sau càng phát triển sôi nổi hơn nữa. Thắng lợi của tác chiến Điện Biên Phủ đã bồi dưỡng và rèn luyện mạnh mẽ khả năng công kiên của Quân đội nhân dân vào tập đoàn cứ điểm, cũng rèn luyện năng lực chỉ huy của Quân đội nhân dân, tổ chức tác chiến tập đoàn tương đối lớn. Lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản và Tổng quân ủy Việt Nam đều thấu hiểu và nhận thức sâu sắc điều đó. Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ huy tiến quân giải phóng miền Nam Việt Nam thập kỷ 70 thế kỷ XX từng nói : “ Phải có một số trận đánh tiêu diệt có tính chiến lược lớn như Điện Biên Phủ, chỉ cần có hai ba trận lớn như thế, thì địch sẽ nhanh chóng sụp đổ ”. Đó là quan điểm của họ đối với chiến dịch Điện Biên Phủ, cũng là phương châm chỉ đạo về quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam giải phóng miền nam.

Chiến dịch Điện Biên Phủ đã trôi qua hơn 40 năm, những ấn tượng trong ký ức người ta dần dần biến mất. Nhưng những người làm công tác sử học của hai nước Trung – Việt sẽ không quên sự kiện này, Tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy chiến dịch này năm đó càng không quên, người con gái của vợ ông sinh ra sau chiến tranh được đặt tên là “ Điện Biên ” để kỷ niệm thắng lợi to lớn quyết định vận mệnh của nhân dân các dân tộc Việt Nam này.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:06:12 am
ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ VIỆN TRỢ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP CỦA VIỆT NAM
Trương Quảng Hoa

Từ tháng 8 năm 1950 đến đầu năm 1956, Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc giúp Quân đội nhân dân Việt Nam tác chiến và xây dựng, đã làm rất nhiều việc. Đồng thời, Đoàn cố vấn quân sự còn coi trọng xây dựng nội bộ, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, không ngừng cải tiến lề lối làm việc. Sau khi cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam giành được thắng lợi, lập lại hoà bình ở Đông Dương, nhiệm vụ lịch sử viện trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam mà Đoàn cố vấn quân sự gánh vác hoàn thành thắng lợi. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kịp thời ra quyết định từng bước rút Đoàn cố vấn quân sự đến mùa xuân 1956, toàn thể đoàn viên đoàn cố vấn đã rút về nước. Hành động thực tế của Đoàn cố vấn quân sự gương mẫu chấp hành nhiệm vụ quốc tế đã tăng thêm tình hữu nghị chiến đấu giữa nhân dân hai nước Trung – Việt.

I. Đoàn cố vấn quân sự hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lịch sử


Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quân uỷ Trung ương, được sự quan tâm và ủng hộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Đoàn cố vấn quân sự phát huy tinh thần quốc tế vô sản, đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc tế gian khổ và vẻ vang của đảng giao cho, đã cống hiến sức mình vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam và lập lại hoà bình ở Đông Dương.

Trong thời gian hơn 5 năm, Đoàn cố vấn quân sự chủ yếu làm mấy việc dưới đây.

Thứ nhất : Giúp Quân đội nhân dân tổ chức chỉ huy tác chiến, giành thắng lợi chiến tranh chống Pháp.

Căn cứ vào chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và thực tế đấu tranh của Việt Nam, Đoàn cố vấn quân sự coi việc gúp quân đội tổ chức chỉ huy tác chiến, không ngừng giành thắng lợi trong chiến dịch, chiến đấu, đánh bại bọn xâm lược Pháp là nhiệm vụ trung tâm của mình. Từ tháng 8 năm 1950 Đoàn cố vấn quân sự sang đến Việt Nam đến đình chiến Đông Dương năm 1954, Quân đội nhân dân lần lượt tiến hành tám chiến dịch quy mô tương đối lớn : Biên giới, Trung du, Đông bắc, Ninh Bình, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Trừ chiến dịch Hoà Bình, do Đoàn cố vấn quân sự đang tập huấn chỉnh đốn chưa ra mặt trận trực tiếp giúp chỉ huy ra, còn các chiến dịch khác đều tiến hành dưới sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn quân sự từ quyết sách đến tổ chức thực hiện trong suốt quá trình chiến dịch.

Trong tám chiến dịch nói trên, đặc biệt quan trọng là ba lần thắng lợi Biên Giới, Tây Bắc, Điện Biên Phủ, Đoàn cố vấn quân sự đều đưa ra đúng lúc kiến nghị có tính chiến lược và giúp vạch kế hoạch tác chiến chu đáo, thực thi tổ chức chỉ huy linh hoạt cơ động, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Tổng quân uỷ, Quân đội nhân dân anh dũng tác chiến, đã đập tan thắng lợi các kế hoạch chiến tranh từ De Lattre de Tassigny đến Navarre, từng bước giành được thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp. Đồng thời Quân đội nhân dân được rèn luyện và thử thách trong chiến đấu thực tế, nhanh chóng trở thành một quân đội cách mạng có thể nắm vững và vận dụng chiến lược chiến thuật của chiến tranh nhân dân, có khả năng tác chiến kiên cường.

Thứ hai : Giúp quân đội nhân dân tăng cường xây dựng quân sự, nâng cao tố chất quân sự của bộ đội.

Căn cứ theo yêu cầu phát triển của tình hình Đoàn cố vấn quân sự giúp Quân đội nhân dân thực hiện ba lần chuyển biến về tư tưởng chỉ đạo tác chiến và xây dựng quân đội, tiến hành ba lần chỉnh đốn biên chế tổ chức trang bị và huấn luyện quân sự có tính toàn quân. Lần thứ nhất, là chuyển biến từ đánh du kích lên đánh vận động bắt đầu từ chiến dịch biên giới năm 1950. Thích ứng nhu cầu của chuyển biến này, được Trung Quốc viện trợ và Đoàn cố vấn quân sự giúp đỡ cụ thể, Quân đội nhân dân lần lượt thành lập 6 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo thống nhất biên chế, cải thiện trang bị, tăng cường huấn luyện chiến thuật kỹ thuật bước đầu nắm vững cách đánh vận động và năm kỹ thuật lớn. Sức chiến đấu nâng cao rõ rệt.

Lần thứ hai là chuyển biến từ đánh công kiên quy mô nhỏ lên đánh công kiên quy mô lớn từ sau chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào năm 1953. Thích ứng nhu cầu của chuyển biến này, Trung Quốc viện trợ quân đội nhân dân thành lập thêm bộ đội trọng pháo, cao xạ pháo, Đoàn cố vấn quân sự giúp biên soạn tài liệu công kiên tập đoàn cứ điểm, thống nhất tư tưởng tác chiến, tăng cường huấn luyện chiến thuật kỹ thuật công kiên, nâng cao năng lực tác chiến công kiên của bộ đội.

Lần thứ ba là chuyển biến từ môi trường chiến tranh sang môi trường hoà bình, từng bước thực hiện chính quy hoá hiện đại hoá quân đội từ sau khi Việt Nam thực hiện đình chiến. Được Trung Quốc viện trợ và Đoàn cố vấn quân sự giúp đỡ, quân đội nhân dân thống nhất hơn nữa biên chế toàn quân, cải thiện thêm một bước trang bị mới và tăng cường bộ đội đặc chủng tiến hành huấn luyện chính quy có hệ thống đối với bộ đội, làm cho bộ mặt bộ đội đổi mới.

Thứ ba : Giúp Quân đội nhân dân tăng cường xây dựng chính trị, nâng cao tố chất chính trị của quân đội.

Một là, giúp đặt đúng vị trí và vai trò xứng đáng của công tác chính trị trong quân đội, chú trọng tăng cường lãnh đạo tư tưởng, tăng cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến, bắt tay từ giáo dục cơ bản, có bước đi tổ chức tiến hành bốn đợt giáo dục tư tưởng chính trị lớn trong toàn quân, từ đó nâng cao rất nhiều giác ngộ chính trị của bộ đội, khích lệ nhiệt tình kháng chiến to lớn và tinh thần chiến đấu quên mình bảo đảm thắng lợi của chiến dịch và hoàn thành mọi nhiệm vụ, đồng thời làm cho cán bộ các cấp trong Quân đội nhân dân nhận thức được tính chất cực kỳ quan trọng của việc tăng cường lãnh đạo chính trị tư tưởng của đảng, từng bước học hỏi bản lĩnh tiến hành công tác chính trị tư tưởng, điều đó có ý nghĩa sâu xa đối với việc xây dựng Quân đội nhân dân.

Hai là, giúp tăng cường xây dựng đảng trong quân đội. Sau khi công khai tổ chức của Đảng Lao động trong quân đội, giúp xây dựng và kiện toàn chế độ đảng uỷ, xây dựng tập thể đảng uỷ, làm sống động sinh hoạt đảng, tăng cường xây dựng cơ sở đảng, chỉnh quân chính trị năm 1953, làm trong sạch đội ngũ của đảng. Những biện pháp cơ bản này đã nâng cao rất lớn sức chiến đấu của đảng uỷ và chi bộ các cấp.

Ba là, giúp Tổng cục Chính trị xây dựng kiện toàn bộ máy các ban nghiệp vụ, xác định rõ ràng chức trách công việc, huấn luyện cán bộ nghiệp vụ, tăng cường xây dựng nghiệp vụ, không ngừng tổng kết kinh nghiệm công tác chính trị và tăng cường chỉ đạo công tác, làm cho cơ quan chính trị các cấp và các loại nghiệp vụ ngày càng kiện toàn và hoàn thiện.

Giới thiệu có hệ thống kinh nghiệm công tác chính trị thời chiến của quân đội Trung Quốc cho Tổng cục chính trị quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân theo kiến nghị của cố vấn Trung Quốc triển khai các hoạt động tôn trọng cán bộ, yêu quý chiến sĩ, phát huy dân chủ, thi đua giết giặc lập công v.v.. đã có tác dụng rất lớn đối với giành thắng lợi tác chiến.

Thứ tư : Giúp Quân đội nhân dân đào tạo huấn luyện cán bộ, nâng cao tố chất của đội ngũ cán bộ.

Một là, giúp đào tạo, nâng cao cán bộ. Đây là một khâu quan trọng để làm tốt việc xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân, bảo đảm nhu cầu tác chiến và xây dựng quân đội. Giúp tổ chức các lớp huấn luyện luân phiên các cấp nhiều khoá, bồi dưỡng huấn luyện cán bộ mọi mặt. Nhất là nhóm cố vấn chính trị giúp Tổng cục chính trị tổ chức lớp huấn luyện luân phiên trọng điểm là đào tạo huấn luyện cán bộ trung cao cấp, lần lượt tổ chức được 8 khoá, đã đào tạo huấn luyện hàng loạt cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần, đạt hiệu quả rõ rệt. Trường sĩ quan lục quân do Trung Quốc giúp đỡ mở tại Vân Nam (sau dời về Quảng Tây, sau đình chiến dời về Hà Nội) cũng cử cố vấn Trung Quốc đến giúp mọi mặt trong mấy năm đã đào tạo huấn luyện trên một vạn cán bộ, đã đóng vai trò quan trọng đối với tăng cường đội ngũ cán bộ quân đội nhân dân.

Hai là, sau chiến dịch biên giới, kịp thời nắm bắt giúp giải quyết vấn đề đường lối, phương châm chinhs ách cán bộ. Thực hành phương châm lấy công nông làm nòng cốt, đồng thời cũng coi trọng việc bồi dưỡng và sử dụng cán bộ xuất thân không phải công nông, uốn nắn cách làm chỉ chú ý đề bạt cán bộ trong phần tử trí thức, làm cho số lớn cán bộ công nông ưu tú trong bộ đội trưởng thành nhanh chóng, cán bộ xuất thân không phải công nông cũng nâng cao giác ngộ, kiên định lập trường chính trị.

Thứ năm : Giúp Quân đội nhân dân tăng cường xây dựng hậu cần, nâng cao năng lực bảo đảm hậu cần.

Một là, giúp Quân đội nhân dân tăng cường xây dựng cơ bản hậu cần. Ngay từ đầu giúp hậu cần xây dựng tư tưởng chỉ đạo đúng đắn coi việc phục vụ tiền tuyến, phục vụ bộ đội, bảo đảm tác chiến thắng lợi là nhiệm vụ trung tâm của công tác hậu cần. Giúp xây dựng, kiện toàn và chỉnh đốn tổ chức hậu cần các cấp, tăng cường công tác chính trị của hệ thống hậu cần và quản lý cán bộ hậu cần, bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ và tác phong cần cù tiết kiệm của cán bộ hậu cần. Giúp xây dựng và hoàn thiện các quy tắc điều lệ chế độ, chỉnh đốn công tác tài chính kinh tế, tăng cường quản lý tài chính kinh tế, từng bước khắc phục hỗn loạn về cung cấp quân nhu và công tác bảo đảm hậu cần khác tồn tại do không có quy chế điều lệ để tuân theo, làm cho công tác hậu cần từng bước đi vào quỹ đạo không ngừng nâng cao năng lực bảo đảm.

Hai là, giúp làm tốt xây dựng hậu phương, nâng cao năng lực bảo đảm hậu cần sau chiến dịch. Sữa chữa, làm mới các con đường ở căn cứ địa hậu phương của quân đội nhân dân, xây dựng tuyến giao thông vận tải thuỷ bộ thông ra tiền tuyến, và cả việc xây dựng binh trạm và hệ thống cấp cứu chữa bệnh v.v.. đều tiến hành dưới sự viện trợ rất lớn của Trung Quốc và giúp đỡ của cố vấn Trung Quốc. Trong mấy chiến dịch lớn, từ chuẩn bị hậu cần trước chiến dịch đến thực thi các bảo đảm hậu cần trong quá trình chiến dịch, đều được Đoàn cố vấn quân sự hỗ trợ cụ thể, Tổng cục hậu cần Quân đội nhân dân lãnh đạo tiến hành. Rất nhiều kiến nghị đúng lúc, sát thực tế của cố vấn giúp phía Việt Nam tránh được sai sót, cải tiến công tác, khắc phục khó khăn, bảo đảm nhu cầu của tiền tuyến. Với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ hậu cần quân đội nhân dân, công tác bảo đảm hậu cần chiến dịch ngày càng tốt, đóng vai trò xứng đáng trong việc giành thắng lợi của chiến dịch.

Thứ sáu : Hỗ trợ làm tốt công tác viện trợ vật tư quân sự cho Việt Nam, bảo đảm nhu cầu tác chiến và xây dựng của Quân đội nhân dân.

Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, Trung Quốc là nước duy nhất cung cấp số lớn viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam. Theo thống kê chưa đầy đủ trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp Trung Quốc đã viện trợ cho Quân đội nhân dân Việt Nam 155.000 khẩu súng các loại, 57.850.000 viên đạn các loại, 3692 khẩu pháo các loại, 1.080.000 đạn pháo các loại, 840.000 quả lựu đạn, 1231 ôtô, 1.400.000 bộ quân phục, hơn 14.000 tấn lương thực và thực phẩm phụ hơn 26.000 tấn dầu, và rất nhiều thuốc men và vật tư quân dụng khác.

Viện trợ vật tư quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam bắt đầu từ tháng 6 đầu năm 1950. Sau khi Đoàn cố vấn quân sự vào Việt Nam, căn cứ vào tình hình cụ thể và yêu cầu của Bộ tổng Quân đội nhân dân, đã giúp phía Việt Nam vạch kế hoạch yêu cầu vật tư viện trợ nửa năm hoặc cả năm, đề xuất kiến nghị với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc xem xét kế hoạch viện trợ. Khi cần thiết, còn căn cứ vào nhu thực tế của tác chiến Quân đội nhân dân, đáp ứng yêu cầu của phía Việt Nam, kịp thời đề xuất kiến nghị viện trợ khẩn cấp tạm thời với Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, để bảo đảm nhu cầu của tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung Quốc đã tăng thêm rất nhiều viện trợ trang bị và vật tư quân sự như ôtô, súng ống, xăng dầu, đạn dược, lương thực v.v..

Công tác sáu mặt trên đây của Đoàn cố vấn quân sự đều tuân theo nguyên tắc tư tưởng của Mao Trạch Đông về chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, kết hợp với tình hình đã hoàn thành mỹ mãn hai nhiệm vụ to lớn giúp Việt Nam đánh thắng trận và xây dựng quân đội chính quy mà Trung ương Đảng Trung Quốc giao cho.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:06:42 am
II. Sự lãnh đạo kiên cường, kịp thời của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với Đoàn cố vấn quân sự

Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương Trung Quốc rất quan tâm và coi trọng công tác của Đoàn cố vấn quân sự. Trước khi ra nước ngoài, lãnh đạo Trung ương Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức đích thân gặp gỡ các cố vấn, ân cần dặn dò ý nghĩa to lớn của công tác ở Việt Nam, giao rõ nhiệm vụ, và đưa ra yêu cầu nghiêm khắc. Trong thời gian đoàn cố vấn ở Việt Nam, các kiến nghị quan trọng liên quan đến tác chiến và xây dựng quân đội nêu ra với phía Việt Nam đều qua Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai v.v.. phê duyệt. Trong các điện chỉ thị của Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương gửi cho Đoàn cố vấn quân sự có rất nhiều cái tự tay Mao Trạch Đông chấp bút. Mỗi một chiến dịch quan trọng và mỗi một công việc quan trọng, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân uỷ Trung ương đều có chỉ thị cụ thể cho Đoàn cố vấn. Sự lãnh đạo kiên cường, kịp thời của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là bảo đảm căn bản cho Đoàn cố vấn quân sự hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp.

Trong thời gian Đoàn cố vấn quân sự công tác tại Việt Nam, toàn thể đồng chí ghi nhớ chỉ thị của các đồng chí lãnh đạo Trung ương, thành tâm thiện chí phục vụ sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam với nhiệt tình chính trị tràn đầy. Các đồng chí và cán bộ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam cùng hành quân đánh giặc, ăn ngủ ngoài trời, đồng cam cộng khổ, đoàn kết hợp tác, quân hệ chan hoà. Thi hành nghĩa vụ quốc tế bằng hành động thực tế gương mẫu được Quân đội nhân dân từ trên xuống dưới nhất trí đánh giá tốt. Nhưng do nguyên nhân chủ khách quan sống ở môi trường nước ngoài lâu dài, phân tán chấp hành nhiệm vụ, thiếu kinh nghiệm công tác nước ngoài v.v... nên trong công tác cũng nảy sinh một số vấn đề. Nhất là ở giai đoạn đầu sang Việt Nam công tác có nhiều đồng chí có lúc chủ quan, nóng vội trong công tác không chú ý lắm đến phương thức, phương pháp hoặc bao biện làm thay, thiếu điều tra nghiên cứu có hệ thống, giới thiệu kinh nghiệm Trung Quốc không chú ý lắm đến tình hình thực tế của Việt Nam, yêu cầu quá cao, quá gấp đối với phía Việt Nam, công tác thiếu trọng điểm, dẫn đến có lúc ảnh hưởng đến hiệu quả công tác.

Nhằm vào tình hình nói trên, sau ba chiến dịch vùng đồng bằng, Đoàn cố vấn quân sự tập trung toàn thể cố vấn và nhân viên công tác tiến hành một cuộc chỉnh đốn tư tưởng và tổ chức từ tháng 11/1951 đến đầu 1952. Trong cuộc chỉnh huấn này, chú trọng giáo dục chủ nghĩa quốc tế, tổng kết công tác hơn một năm qua, liên hệ tư tưởng cá nhân và thực tế công tác, trao đổi kinh nghiệm, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình. Đồng thời, thành khẩn trưng cầu ý kiến của phía Việt Nam, và mời lãnh đạo Quân đội nhân dân giới thiệu có hệ thống lịch sử, tình hình hiện thực của Quân đội nhân dân và tình hình quân địch. Qua cuộc chỉnh đốn lần này đã làm sâu sắc thêm hiểu biết về nhiệm vụ công tác của đoàn cố vấn, uốn nắn hơn nữa thái độ công tác, nâng cao tính tự giác chấp hành “quy tắc công tác của đoàn cố vấn”, tăng cường đìều tra nghiên cứu tình hình Việt Nam, làm cho kinh nghiệm Trung Quốc và thực tế Việt Nam được kết hợp một cách chặt chẽ hơn.

Sau đó dưới sự chủ trì của Đặng Dật Phàm, đã tăng cường công tác tư tưởng đối với các cố vấn, sinh hoạt đảng đều đặn, quản lý chặt chẽ cán bộ đi cùng, bảo đảm hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Trên cơ sở chỉnh đốn tư tưởng, đã tiến hành điều chỉnh tổ chức tương đối lớn. Rút bỏ cố vấn đơn vị tiểu đoàn Quân đội nhân dân. Đầu năm 1952 điều một số cố vấn cấp đại đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn về nước và tinh giảm số lớn cán bộ đi cùng, làm cho bộ máy tổ chức của Đoàn cố vấn quân sự tương đối tinh gọn, từ lúc bắt đầu gần 300 người giảm xuống còn hơn 100 người. Sau đó Đoàn cố vấn quân sự đặt trọng điểm giúp quân đội và Bộ Tổng và mấy đại đoàn chủ lực, các đại đoàn 308, 312, 316 và đại đoàn công pháo 351, để nhóm cố vấn tinh gọn, đơn vị dưới trung đoàn nói chung không cử cố vấn nữa. Chẳng bao lâu, Nguyễn Chí Thanh thay mặt Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nêu ra yêu cầu cử thêm cố vấn các ban chủ yếu của Bộ Tổng tham mưu và cố vấn chính trị của đại đoàn chủ lực. Tháng 5, 7 năm 1952, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp nhận yêu cầu của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, lại tiếp tục cử một đợt cố vấn quân sự, chính trị, hậu cần. Hạ tuần tháng 6, tại Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ tiếp một số cán bộ mới sắp cử sang công tác tại Việt Nam, một lần nữa ra chỉ thị quan trọng về ý nghĩa to lớn sang công tác tại Việt Nam và làm thế nào để làm tốt công tác cố vấn.

Đoàn trưởng Đoàn cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh về nước nghỉ chữa bệnh sau khi kết thúc chiến dịch Ninh Bình tháng 6/1951, Quân uỷ Trung ương xét thấy tình hình sức khoẻ đồng chí tạm thời không thể trở lại Việt Nam công tác, nên ngày 29/5/1952, bổ nhiệm La Quý Ba kiêm làm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, Mai Gia Sinh làm Phó đoàn trưởng thứ nhất, Đặng Dật Phàm làm Phó đoàn trưởng thứ hai. Ngày 15/6, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc phê chuẩn hợp nhất Đoàn cố vấn quân sự và Đoàn cố vấn chính trị. Đoàn cố vấn chính trị do La Quý Ba lãnh đạo thành lập 11/1950, Đoàn cố vấn quân sự, chính trị thông báo tình hình cho nhau, phối hợp chặt chẽ với nhau trên công tác. Sau khi La Quý Ba kiêm nhiệm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn quân sự, hai đoàn cố vấn hợp lại, công tác càng thêm thuận tiện.

Ngày 29/9/1952, trước ngày Quốc khánh lần thứ ba nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi thư thăm hỏi động viên La Quý Ba và toàn thể cố vấn cùng nhân viên công tác trong đoàn cố vấn. Trung ương ngỏ lời “ thăm hỏi động viên thắm thiết nỗi vất vả hai năm qua ”, nêu rõ công tác của đoàn cố vấn “ đạt thành tích nhất định ”, “ Điều đó không những có ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc mà còn có ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh của phe dân chủ thế giới ”. Đồng thời chỉ rõ : “ Các đồng chí nhất thiết không được vì thế mà kiêu căng tự mãn ”, “ các đồng chí còn có khuyết điểm với mức độ khác nhau ” “ mong các đồng chí nhanh chóng sửa chữa ” “ để nâng cao công tác lên một bước ”, “ hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang mà Trung ương giao cho các đồng chí ”. Bức điện vừa động viên vừa phê bình vừa hy vọng đó đã khích lệ và giáo dục rất lớn đối với toàn thể đoàn viên đoàn cố vấn.

Tháng 5/1953, Đoàn cố vấn căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn hơn hai năm qua và nhu cầu triển khai công việc hơn nữa, đã xây dựng lại “quy tắc công tác Đoàn cố vấn”. “quy tắc” mới so với “quy tắc” cũ, nội dung đầy đủ hơn, quy định chi tiết hơn, yêu cầu chặt chẽ hơn. Sau khi báo cáo “quy tắc công tác Đoàn cố vấn” lên Trung ương, Mao Chủ tịch đích thân sửa chữa bổ sung. Ngày 29/5, Trung ương Đảng phên chuẩn công bố thi hành.

Ngày 23/9/1953, Trung ương Đảng ra “chỉ thị về công tác cố vấn” nêu rõ : Làm cố vấn ở nước anh em, dù đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc hay đối với đảng anh em đều là một trách nhiệm chính trị cực kỳ to lớn. Chúng ta phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ đảng anh em, nhưng phải cố hết sức tránh giúp sai. Vì vậy, đoàn cố vấn phải xử lý đúng đắn quan hệ ba mặt : quan hệ cố vấn các cấp với Ban chỉ huy đoàn cố vấn và Ban chỉ huy đối với Trung ương ; quan hệ Trung ương đối với Ban chỉ huy đoàn cố vấn và Ban chỉ huy đối với các cố vấn; quan hệ Ban chỉ huy đoàn cố vấn đối với Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, các cố vấn đối với tổ chức các cấp Đảng Lao động Việt Nam ở đơn vị mình công tác. Xử lý quan hệ ba mặt này như thế nào cho tốt, “chỉ thị” nêu rõ ràng xác đáng : quan hệ của cố vấn đối với cố vấn cấp trên và ban chỉ huy đoàn cố vấn đối với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải chặt chẽ hơn, báo cáo nhiều hơn, phản ánh tình hình nhiều hơn hiện nay. Chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và chỉ thị của Ban chỉ huy đoàn cố vấn đối với cố vấn cấp dưới đều không phải là chỉ thị đối với Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và tổ chức các cấp của họ. Sau khi cố vấn nhận được chỉ thị của cấp trên phải nghiên cứu những chỉ thị đó đã thoả đáng chưa, thời cơ đề xuất với đối phương đã chín muồi chưa, chứ không nên vừa nhận chỉ thị cấp trên là lập tức đề xuất kiến nghị đối phương mà chẳng suy nghĩ gì cả. Quan hệ giữa cố vấn và đảng Lao động Việt Nam là quan hệ với đồng chí đảng anh em. Cố vấn không được tự mình ra tay, cũng không được thủ trưởng phụ trách, càng không được tự mình xuất diện đấu tranh với tư tưởng sai lầm trong đảng Lao động Việt Nam.

Đề xuất kiến nghị cần thiết, chỉ nên gói gọn trong những vấn đề tương đối lớn. Không nên cưỡng ép đối phương chấp nhận, cũng không nên can thiệp vào nhân sự của đối phương. Cố vấn nên đứng sau màn, không nên ra sân khấu biểu diễn, càng không nên ra sân khấu đóng vai chính. “Chỉ thị” nghiêm túc phê bình cách làm sai lầm bao biện làm thay, khách lấn chủ nào đó trong công tác cố vấn.

Chỉ thị trên của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là văn kiện quan trọng về chuẩn tắc quan hệ giữa đảng anh em, các nước anh em, là kim chỉ nam hành động của công tác cố vấn. Lãnh đạo đoàn cố vấn rất coi trọng, tổ chức cho toàn thể cố vấn nghiêm chỉnh học tập, liên hệ thực tế tự kiểm điểm kiên quyết quán triệt tinh thần chỉ thị của Trung ương và trong công tác thực tế, toàn tâm toàn ý, phục vụ sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam có hiệu quả hơn. Sau khi Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc bổ nhiệm Vi Quốc Thanh làm Tổng cố vấn quân sự, La Quý Ba làm Tổng cố vấn chính trị, tháng 5/1954, chia tách bộ máy Đoàn cố vấn quân sự và Đoàn cố vấn chính trị. Ngày 22/5, Trung ương Đảng Cộng satn Trung Quốc ra “ chỉ thị Đoàn cố vấn cần học tập văn kiện hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ tư tiến hành kiểm tra tư tưởng đối với Đoàn cố vấn quân sự, chính trị, yêu cầu Đoàn cố vấn kết hợp thực tế học tập nghị quyết của hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ tư khoá 7, giải quyết những tư tưởng ảnh hưởng đến công tác, ảnh hướng đến đoàn kết tồn tại trong nội bộ, để tăng cường đoàn kết trong đảng và đoàn kết với đảng anh em ”. Từ ngày 21/6 đến 7/7, Đoàn cố vấn quân sự tập trung toàn thể cố vấn để truyền đạt, học tập văn kiện hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ tư của đảng. Học tập lần này lấy nghị quyết hội nghị toàn thể Trung ương 4 dẫn đầu tiến hành kiểm điểm, triển khai phê bình và tự phê bình, rút bài học kinh nghiệm, đã thống nhất nhận thức, tăng cường đoàn kết.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:07:15 am
III. Rút Đoàn cố vấn quân sự

Hạ tuần tháng 8 năm 1954, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định chính thức thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam. Ngày 1/9, Đại sứ đầu tiên La Quý Ba trình quốc thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam chính thức thành lập.

Trung tuần tháng 9, La Quý Ba chuyển đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về việc rút dần Đoàn cố vấn quân sự, chính trị lên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trưng cầu ý kiến của phía Việt Nam. Sau khi Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận, bày tỏ đồng ý rút bộ máy tổ chức và tên gọi Đoàn cố vấn, tán thành từ nay về sau công khai mời cố vấn nhưng cho rằng cố vấn hệ thống quân sự này không nên áp dụng biện pháp mời công khai, vẫn nên giúp đỡ công tác bằng phương thức bí mật.

Ngày 10/10/1954, Đoàn cố vấn quân sự theo Bộ tổng Quân đội nhân dân về Hà Nội. Lúc này đoàn cố vấn có tất cả 237 người, trong đó nhân viên công tác bảo đảm cung cấp, y tế, điện đài v.v... chiếm đa số. Theo chỉ thị của Trung ương Đảng rút dần Đoàn cố vấn quân sự, Phó tổng cố vấn Mai Gia Sinh và một số cố vấn đại đoàn, trung đoàn đang nghỉ ở trong nước không phải sang Việt Nam công tác nữa. Tháng 7, 8 năm 1955, trong thời gian Vi Quốc Thanh nghỉ ở Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình đã có chỉ thị về rút cố vấn của Đoàn cố vấn quân sự. Lưu Thiếu Kỳ nêu rõ, căn cứ vào tình thế mới, Đoàn cố vấn quân sự phải chia đợt rút về. Đoàn cố vấn đã giúp Việt Nam xây dựng bộ đội, huấn luyện bộ đội, tổ chức tác chiến v.v... đều đạt được rất nhiều thành tích. Về mặt giúp tiếp quản thành phố cũng có thành tích. Trước khi rút phải giáo dục toàn thể nhân viên không được có bất cứ chểnh mảng nào, phải làm tốt công việc từ đầu đến cuối. Trong công tác nếu mắc khuyết điểm sai lầm thì nên nghiêm chỉnh tự phê bình cố gắng làm tốt công tác đoàn kết. Đồng chí Đặng Tiểu Bình cũng nhấn mạnh, các đồng chí chúng ta công tác ở Việt Nam phải tích cực làm những công việc phải làm, phải đứng trên lập trường của nhân dân Việt Nam để làm việc, phải đoàn kết và tôn trọng các đồng chí Việt Nam, không được tuỳ tiện nêu ý kiến, làm sai còn phải bị phê bình.

Hạ tuần tháng 8, Vi Quốc Thanh từ Bắc Kinh về Hà Nội, truyền đạt chỉ thị nói trên của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và lãnh đạo Trung ương cho Đoàn cố vấn quân sự. Lúc này Đoàn cố vấn quân sự còn có tổ cố vấn quân sự, chính trị, hậu cần, pháo binh, công binh, hàng không dân dụng v.v.. vài chục cố vấn và nhân viên kỹ thuật. Ngày 2/9, sau khi đảng uỷ Đoàn cố vấn quân sự thảo luận nghiên cứu, đã sắp xếp cụ thể để quán triệt chấp hành chỉ thị của Trung ương ; trong tháng 9, 10, cuối năm và mùa xuân năm sau, nhân viên đoàn cố vấn chia làm ba đợt rút về nước, những người được mời làm chuyên gia quân sự và nhân viên kỹ thuật giao cho Phòng Tuỳ viên quân sự Sứ quán lãnh đạo, và nêu ra yêu cầu cụ thể để bảo đảm làm tốt các công tác và làm tốt đoàn kết trong ngoài trước khi rút.

Theo sắp xếp trên đây, trung tuần tháng 9/1955, sau khi hoàn thành nhiệm vụ công tác ở Việt Nam, Phó tổng cố vấn Đặng Dật Phàm và một số cố vấn rời Hà Nội về nước. Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam Nguyễn Chí Thanh đã hai lần trò chuyện thân tình với Đặng Dật Phàm trước khi về nước, bày tỏ tấm lòng cảm kích chân thành và tình bạn chiến đấu quyến luyến, và đích thân tiễn đồng chí đến mục Nam Quan nay là Hữu Nghị quan.

Ngày 24/2/1955, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cùng ra “ quyết định về rút Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam và chuyển sang chuyên gia quân sự ”, đồng thời chỉ định Vương Nghiên Tuyền làm Tổ trưởng Tổ chuyên gia, Quốc Lâm Chi làm Bí thư đảng uỷ Tổ chuyên gia. Quyết định trên đây của Chính phủ Trung Quốc đưa ra trong tình hình phía Việt Nam nhiều lần yêu cầu Trung Quốc tiếp tục cử cố vấn quân sự. Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đoàn đại biểu quân sự Việt Nam hai lần thăm Trung Quốc vào mùa hè và mùa đông năm 1955 đều nêu ra yêu cầu tiếp tục cử cố vấn giúp Quân đội nhân dân Việt Nam. Vì vậy, đồng thời với Chính phủ Trung Quốc đưa ra quyết định này Bành Đức Hoài viết thư cho Võ Nguyên Giáp trình bày cụ thể vấn đề rút Đoàn cố vấn quân sự. Trong thư nói : “ Hoà bình đã thực hiện ở Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam đã được tôi luyện qua tám năm kháng chiến, về các mặt tác chiến hay huấn luyện đều có tiến bộ rất lớn, và thu được kinh nghiệm tác chiến khá phong phú, đã đặt nền tảng tốt đẹp đi lên hiện đại hoá chính quy hoá. Để thích ứng với tình hình trên đây, chúng tôi cho rằng cần thay đổi phương pháp hiện nay do Trung Quốc cử cố vấn quân sự giúp Quân đội nhân dân Việt Nam công tác, cho nên quyết định rút bộ máy tổ chức của Đoàn cố vấn quân sự hiện có. Nếu Quân đội nhân dân còn có công việc nào đó cần Trung Quốc giúp mà chúng tôi có thể giúp được thì chuyển sang cử cán bộ có tính chất chuyên gia đi giúp ”.

Trong thư còn nói rõ : “ Theo đề nghị của đồng chí, đồng chí Vi Quốc Thanh sẽ đi Hà Nội một thời gian ngắn, hỗ trợ Tổng quân uỷ sắp xếp một số công việc cần thiết đã thảo luận ở Bắc Kinh, sau khi làm xong những việc đó, đề nghị để đồng chí đó trở về ngay Bắc Kinh ”.

Mang theo thư Bành Đức Hoài gửi Võ Nguyên Giáp, ngày 29/12/1955 Vi Quốc Thanh rời Bắc Kinh đi Hà Nội, tiếp tục giúp Quân đội nhân dân sắp xếp công việc mà ba bên Trung Quốc, Việt Nam, Liên Xô đã thảo luận ở Bắc Kinh. Ngày 13/1/1956 một đội nhân viên cố vấn quân sự nữa về nước. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ công tác, và tham gia hội nghị cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân, nghe yêu cầu và ý kiến của phía Việt Nam đối với công tác về sau, theo chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, trung tuần tháng 3, Vi Quốc Thanh cùng với đoàn nhân viên cố vấn cuối cùng rời Hà Nội. Trước khi về, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh v.v... mở tiệc chiêu đãi Vi Quốc Thanh. Trong bữa tiệc, Hồ Chí Minh phiên dịch, mọi người trò chuyện với Vi Quốc Thanh nhiệt tình chân thành, bày tỏ tình hữu nghị chiến đấu keo sơn.

Đến đây Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lịch sử, mọi công việc kết thúc toàn bộ, cơ cấu tổ chức giải thể.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:08:09 am
IV. Tình hữu nghị chiến đấu giữa nhân dân hai nước Trung – Việt trường tồn

Trong thời gian Đoàn cố vấn quân sự công tác tại Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Tổng Quân uỷ quan tâm nhiệt tình, tín nhiệm và ủng hộ rất lớn. Hồ Chí Minh nhiều lần nói : “ Tôi tuyệt đối tín nhiệm ” cố vấn Trung Quốc, cổ vũ cố vấn tích cực nêu ra kiến nghị, làm tốt công tác. Người yêu cầu “ giữa cán bộ Trung Quốc và Việt Nam phải đoàn kết ”, yêu cầu “ cán bộ Việt Nam phải thực thà học tập cán bộ Trung Quốc ”. Các kiến nghị liên quan đến quyết sách lớn tác chiến và xây dựng quân đội của Đoàn cố vấn quân sự đối với Việt Nam đều do Hồ Chí Minh từ hội nghị Trung ương Đảng thảo luận quyết định, sau đó Tổng Quân uỷ và cơ quan Bộ Tổng tổ chức thực hiện. Tổng quân uỷ và các tổng cục Quân đội nhân dân Việt Nam cũng rất quan tâm, tôn trọng và ủng hộ đoàn cố vấn. Nhiều lần bày tỏ “ nhiệt liệt hoan nghênh ” sự giúp đỡ của đoàn cố vấn, “ gửi gắm rất nhiều hy vọng ”, “ tôn trọng chân thành ” và theo sự phát triển của thực tiễn “ càng tin vào tính đúng đắn của tư tưởng Mao Trạch Đông và kinh nghiệm của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ”.

Sự tin cậy và ủng hộ của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Tổng Quân uỷ và đông đảo cán bộ chiến sĩ Quân đội nhân dân đối với đoàn cố vấn là điều kiện quan trọng để Đoàn cố vấn quân sự hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giúp Việt Nam đấu tranh chống Pháp.

Hồ Chí Minh cũng thân thiết, tỉ mỉ quan tâm đến cuộc sống của đoàn cố vấn. Người nhiều lần tiếp kiến các cố vấn và đến thăm nơi ở của đoàn cố vấn, thăm dò ý kiến, ân cần hỏi han, thân thiết như người nhà. Hoặc mời đồng chí lãnh đạo đoàn cố vấn cùng ăn cơm, hỏi chuyện nhà, bàn chiến sự, rất thoải mái. Mỗi khi có một số nhân viên mới đến công tác, Hồ Chủ tịch, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp v.v... đều đến đoàn cố vấn chào mừng, làm cho các đồng chí mới đến được giáo dục và cổ vũ. Mùa xuân năm 1953, Hồ Chí Minh còn mời riêng các đồng chí nữ trong đoàn cố vấn đến chỗ ở của người dự tiệc trà, biểu diễn văn nghệ, cùng vui liên hoan. Người nhiều lần tham gia hoạt động chúc mừng, ngày lễ lớn của hai đảng hai nước do Đoàn cố vấn tổ chức. Mỗi khi kết thúc hoạt động Người đều hào hứng chỉ huy mọi người hát vang bài ca “ Đoàn kết là sức mạnh ”. Có lúc Người còn làm thơ để bày tỏ tình cảm sâu sắc quan tâm, tin cậy, hữu nghị đối với đoàn cố vấn. Khi kết thúc chiến dịch biên giới, Hồ Chí Minh cho người đem tặng Trần Canh, Vi Quốc Thanh mấy chai rượu sâm banh của Pháp thu được trên chiến trường và kèm theo bài thơ chữ Hán :

Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi.
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Địch binh hưu phóng nhất nhân hồi ”.

Tam dịch như sau :

“ Sâm banh một cốc rượu ngon
Vừa nâng bỗng một tiếng đờn cất lên
Uống say ở chốn sa trường
Mà quân địch vẫn không đường thoát thân ”

Dạt dào niềm vui, phấn khởi chiến thắng biên giới. Có một lần Hồ Chí Minh đến thăm nơi ở của đoàn cố vấn, gặp lúc Vi Quốc Thanh v.v... không có ở nhà. Hôm sau, Chủ tịch cho người đưa đến Vi Quốc Thanh một bài thơ :

“ Bách lý tầm quân vị ngộ quân
Mã đề đạp túy lĩnh đầu vân
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân ”.

Tạm dịch là :

“ Trăm dặm tìm anh chẳng gặp anh,
Vó ngựa trèo lên đỉnh núi xanh.
Trở về bỗng thấy nhành mai núi.
Mỗi đoá hoa vàng, một điểm xuân ”.

Bày tỏ tình cảm nồng nàn của Người đối với Đoàn cố vấn quân sự - cũng là đối với nhân dân Trung Quốc.

Toàn thể đồng chí Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc với tinh thần quốc tế vô sản cao độ, cùng đông đảo chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam đồng cam cộng khổ, hoạn nạn có nhau, không sợ ngày hè nắng gắt, không sợ khó khăn và hy sinh, làm việc cần cù vì sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam. Thậm chí có đồng chí hiến dâng tuổi trẻ của mình yên nghỉ lâu dài trên mảnh đất Việt Nam. Họ đã vun xới thêm tình hữu nghị giữa nhân dân và quân đội hai nước Trung – Việt bằng tư tưởng phẩm chất đạo đức cao cả và hành động thực tế gương mẫu, được phía Việt Nam ca ngợi, Đảng, Chính phủ và quân đội Việt Nam đánh giá rất cao và cổ vũ rất lớn công tác của Đoàn cố vấn quân sự.

Tháng 7/1952, trong thư góp ý kiến của Tổng Quân uỷ quân đội nhân dân Việt Nam gửi đoàn cố vấn có nói : “ Nhờ có tư tưởng quân sự đúng đắn của Mao Chủ tịch và sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí, không những Quân đội nhân dân Việt Nam có tiến bộ, mà mấy đồng chí Tổng Quân uỷ chúng tôi cũng học tập tư tưởng và tác phong của các đồng chí ”. Ngày 2/1/1954, trong thư của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nói : “ Trong hơn một năm qua chúng tôi rất có tiến bộ. Sở dĩ có những tiến bộ đó, là do sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, sự chiến đấu dũng cảm của nhân dân, công tác tích cực của cán bộ. Và quan trọng hơn là được sự chỉ dẫn quý báu của các đồng chí và sự giúp đỡ hết mình của các đồng chí cố vấn ”.

Ngày 28/10/1955, Võ Nguyên Giáp nói khi hội đàm với Bành Đức Hoài : “ Cố vấn Trung Quốc giúp đỡ chúng tôi rất lớn, tình đoàn kết giữa chúng ta cũng rất tốt. Cán bộ của quân đội Việt Nam không chỉ rất khâm phục, mà còn rất có cảm tình với đồng chí Vi Quốc Thanh ”. Để biểu dương công tác của đoàn cố vấn, sau chiến dịch biên giới năm 1950, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tặng “ kỷ niệm chương Hồ Chí Minh ” cho toàn thể các đồng chí Đoàn cố vấn quân sự. Nhân dịp quốc khánh Việt Nam 2/9/1953, lại tổ chức long trọng lễ trao huân chương ngay nơi ở Đoàn cố vấn tại Việt Bắc. Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp v.v.. đến dự. Hồ Chí Minh đích thân trao huân chương cho các đồng chí cố vấn. Trao huân chương Hồ Chí Minh hạng hai cho La Quý Ba, Vi Quốc Thanh, trao huân chương quân công hạng hai cho Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, trao huân chương quân công hạng ba cho Vương Nghiên Tuyền, Lý Văn Nhất, lần lượt trao huân chương anh hùng, chiến sĩ thi đua và huân chương kháng chiến cho hơn 30 cố vấn và nhân viên công tác khác. Đồng thời tặng kỷ niệm chương kháng chiến cho 397 nhân viên đoàn cố vấn.

Trước khi đoàn cố vấn rút về nước, lại lần lượt trao huân chương quân công và huân chương anh hùng chiến sĩ thi đua cho một số cố vấn và nhân viên công tác. Công tác của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam và những đóng góp cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam là một trang sử vẻ vang của quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Thắng lợi của chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, căn bản nhất là kết quả đổ máu hy sinh, anh dũng phấn đấu của nhân dân và quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đảng Lao động Việt Nam. Sự viện trợ quốc tế vô tư của Đảng, Chính phủ, nhân dân và quân đội Trung Quốc cũng là nhân tố không thể thiếu để nhân dân Việt Nam giành thắng lợi. Tình hữu nghị chiến đấu của nhân dân và quân đội hai nước Trung – Việt xây đắp nên tồn tại mãi mãi trong lịch sử hai nước Trung – Việt, nhân dân hai nước Trung – Việt mãi mãi không bao giờ quên.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:09:22 am
ĐẠI SỰ KÝ
Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp

Năm 1950

Tháng 1-2

Hồ Chí Minh, Chủ tịch Đảng Cộng sản Đông Dương bí mật thăm Trung Quốc, Liên Xô, đề xuất yêu cầu viện trợ Việt Nam với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định cử Đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam, đồng thời giúp đỡ vật chất giúp Việt Nam tiến hành chiến tranh chống Pháp. Trung tuần tháng giêng, La Quý Ba từ Bắc Kinh lên đường sang Việt Nam.
9/3

La Quý Ba đại diện liên lạc của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đến trụ sở Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở Việt Bắc. Ngay hôm đó trao đổi với Hồ Chí Minh vấn đề tác chiến biên giới.
Tháng 3

Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập đại đoàn 304. Trước đó, quân đội đã thành lập đại đoàn 308 và 312.
17/4

Quân uỷ Trung ương Trung Quốc thông tri cho Dã chiến quân số 2, 3, 4 Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mời Dã chiến quân chọn điều động cố vấn các cấp của mỗi đại đoàn tổ chức thành Đoàn cố vấn quân sự sang Việt Nam.
27/6

Tại Di Niên đường Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức tiếp người phụ trách Đoàn cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm và một số cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên và nhân viên công tác, cho chỉ thị quan trọng về ý nghĩa, nhiệm vụ và yêu cầu công tác tại Việt Nam.
Thượng tuần tháng 7

Trần Canh làm đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, dẫn đầu bộ phận cán bộ làm công tác cố vấn quân sự do Dã chiến quân số 2 điều động từ Vân Nam vào Việt Nam, hỗ trợ phía Việt Nam tổ chức chiến dịch biên giới và xử lý vấn đề liên quan đến viện trợ quân sự cho Việt Nam.
Hạ tuần tháng 7

Cán bộ và tuỳ tùng Đoàn cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh làm Đoàn trưởng, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm làm trợ thủ tất cả 250 người đến Nam Ninh, Quảng Tây tập huấn, truyền đạt, học tập chỉ thị quan trọng của các đồng chí lãnh đạo Trung ương và qua thảo luận nhiều lần vạch ra Qui tắc công tác của Đoàn cố vấn quân sự cần phải tuân theo.
25/7

Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương thảo luận vấn đề liên quan chiến dịch Biên Giới, quyết định cử Võ Nguyên Giáp làm Bí thư đảng uỷ mặt trận, Tổng chỉ huy kiêm chính uỷ Bộ chỉ huy chiến dịch.
8/8

Quân uỷ Trung ương Trung Quốc phê chuẩn 6 người Vi Quốc Thanh, Đặng Dật Phàm, Mã Tây Phu, Lý Văn Nhất, Đặng Thanh Hà tổ chức Đảng uỷ Đoàn cố vấn quân sự, Vi Quốc Thanh làm Bí thư, Đặng Dật Phàm làm Phó bí thư.
11/8

Đoàn cố vấn đi qua Tịnh Tây Quảng Tây vào biên giới Việt Nam, rạng sáng ngày hôm sau đến Bộ chỉ huy tiền phương Quân đội nhân dân Việt Nam ở huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng. Ngày 13, phía Việt Nam triệu tập cuộc họp chào mừng, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp, Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần Trần Đăng Ninh phát biểu ý kiến.
14/8

Trần Canh dẫn một số cán bộ đến Bộ chỉ huy tiền phương Quảng Uyên, gặp Đoàn cố vấn quân sự, thảo luận với phía Việt Nam vạch kế hoạch tác chiến chiến dịch biên giới.

Các tổ cố vấn Đoàn cố vấn quân sự lần lượt đến các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam triển khai công tác.
16/8

Đảng uỷ mặt trận Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp thu kiến nghị của Trần Canh và Đoàn cố vấn quân sự thảo luận thông qua phương án tác chiến chiến dịch Biên Giới đánh Đông Khê trước, cuối cùng tấn công Cao Bằng. Phương án tác chiến này được Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương phê chuẩn. Ngày 22, Trần Canh báo cáo phương án này cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngày 24, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện trả lời đồng ý.
23-24 tháng 8

Đảng uỷ mặt trận Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên các bộ đội tham gia chiến đấu chiến dịch Biên Giới, Võ Nguyên Giáp tuyên bố kế hoạch tác chiến chiến dịch, Trần Canh được mời phát biểu ý kiến.
11/9

Hồ Chí Minh đi thị sát mặt trận, tiếp lãnh đạo và một số cố vấn Đoàn cố vấn quân sự, và có bài phát biểu quan trọng trước cán bộ Quân đội nhân dân và đoàn cố vấn.
16/9
1-3 tháng 10

Binh đoàn Lepage quân Pháp đóng ở Thất Khê đưa quân lên phía bắc, binh đoàn Charton quân Pháp ở Cao Bằng bỏ chạy về phía nam. Trần Canh và Đoàn cố vấn hỗ trợ Bộ chỉ huy tiền phương Quân đội nhân dân điều chỉnh bố trí, tiến hành công kích hai cánh quân địch.
7/10

Quân đội nhân dân Việt Nam tiêu diệt toàn bộ binh đoàn Lepage và binh đoàn Charton của Pháp.
10-23 tháng 10

Quân Pháp rút khỏi các thị xã, thị trấn Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập, Yên Châu v.v.. chiến dịch Biên Giới kết thúc.
27-30 tháng 10

Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập hội nghị tổng kết chiến dịch Biên Giới ở Nam Sơn Việt Bắc, có cán bộ tiểu đoàn trở lên bộ đội tham gia chiến đấu tham gia, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đến dự hội nghị và có bài phát biểu quan trọng. Trần Canh được mời dự và có bài phát biểu dài.
1/11

Trần Canh hoàn thành nhiệm vụ đã định, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc phê chuẩn, lên đường về nước.
Thượng tuần tháng 12
6/12

Pháp rút chỉ huy xâm lược Việt Nam, cử De Lattre de Tassigny làm Cao uỷ Pháp kiêm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương,  thay thế Pignon và Carpentier.
Từ 25/12 đến 25/1/1951

Hỗ trợ Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức chỉ huy chiến dịch trung du sông Hồng.
27/12

Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập Sư 312
Tháng 12

Giúp Tổng cục hậu cần Quân đội nhân dân bắt đầu tiến hành công tác xây dựng cơ bản hậu cần, xây dựng và kiện toàn tổ chức hậu cần các cấp, xây dựng các chế độ điều lệ và tiêu chuẩn cung cấp v.v..


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:09:52 am
Năm 1951

Thượng tuần tháng 1

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập hội nghị cán bộ công tác chính trị cấp trung đoàn trở lên của các bộ đội tham gia chiến đấu, tổng kết kinh nghiệm công tác chính trị chiến dịch biên giới.
Tháng 2

Giúp Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức lớp huấn luyện luân lưu cán bộ đầu tiên. Sau đó liên tục tổ chức nhiều lớp huấn luyện luân lưu trọng điểm là bồi dưỡng cán bộ trung cao cấp, đào tạo rất nhiều cán bộ chính trị quân đội.
11-19 tháng 2

Đảng Cộng sản Đông Dương họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 tại Tuyên Quang. Tuyên bố thành lập Đảng Lao động Việt Nam và vạch ra Cương lĩnh, Điều lệ mới của Đảng. Đại hội quyết định phải xây dựng một quân đội nhân dân thật sự lớn mạnh với ba đặc điểm, dân tộc, nhân dân và dân chủ.
Tháng 2

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quân lần thứ nhất.
Hạ tuần tháng 2

Đoàn cố vấn quân sự và phía Việt Nam thảo luận vạch kế hoạch tác chiến chiến dịch Đông bắc.
Hạ tuần tháng 3

Giúp quân đội nhân dân tổ chức chỉ huy chiến dịch Đông bắc. Chiến dịch bắt đầu từ đêm 23-3 đến đầu tháng 4 kết thúc.
Tháng 5

Giúp Tổng cục hậu cần Quân đội nhân dân tổ chức lớp huấn luyện cán bộ hậu cần và cán bộ quân y. Sau đó nhiều lần tổ chức lớp huấn luyện luân lưu đào tạo rất nhiều cán bộ hậu cần và y tế.
Tháng 5

Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập đại đoàn 316, 351.
28/5 đến 20/6

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức chỉ huy chiến dịch Ninh Bình.

Vi Quốc Thanh về nước chữa bệnh.

Giúp bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành chỉnh huấn quân sự với nội dung chính là chiến thuật vận động chiến và 5 kỹ thuật lớn, và tiến hành giáo dục tình hình “hai phe lớn” trọng điểm đối với cán bộ.
21-30 tháng 8

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập hội nghị công tác tuyên truyền giáo dục toàn quân lần thứ nhất, vấn đề chính là tăng cường lãnh đạo tư tưởng và xác định rõ ràng tầm quan trọng của giáo dục chính trị, xác định phương châm giáo dục chính trị.
17/8 đến 4/9

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập hội nghị công tác phòng bệnh bảo vệ sức khoẻ tập trung giải quyết vấn đề phương châm công tác quân y v.v..
Tháng 11 – tháng 12

Đoàn cố vấn quân sự tập trung toàn thể cán bộ tập huấn, tổng kết một năm rưỡi công tác, tiến hành chỉnh đốn tư tưởng và tổ chức.

Thượng tuần tháng 12 đến tháng 2 năm sau.

Quân đội nhân dân Việt Nam mở chiến dịch Hoà Bình.
6/12

Mao Trạch Đông phê duyệt đồng ý ý kiến của Nhiếp Vinh Trăn, Vương Gia Tường, Dương Thượng Côn v.v.. trao đổi nêu ra, gộp cán bộ của Vi Quốc Thanh, La Quý Ba phụ trách thành Tổng đoàn cố vấn La Quý Ba làm Tổng cố vấn, cử một Phó tổng cố vấn lãnh đạo công tác quân sự.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:10:13 am
Năm 1952

Nước Pháp cử Salan thay De Lattre làm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương, Letourneau làm Cao uỷ.
Tháng 1-2

Đoàn cố vấn quân sự tinh giản số người, một bộ phận cán bộ trung đoàn, đại đoàn và đại bộ phận cán bộ cấp tiểu đoàn lần lượt điều về nước.
16/2

La Quý Ba báo cáo với Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ý kiến của đoàn cố vấn về kế hoạch tác chiến và chỉnh huấn năm 1952 của quân đội nhân dân, nêu ra trước mùa mưa tiếp tục triển khai chiến tranh du kích địch hậu là chính, đại bộ phận chủ lực tiến hành chỉnh huấn, chủ yếu là chỉnh huấn chính trị, sáu tháng cuối mở chiến dịch Tây Bắc, chuẩn bị năm tới tiến vào tác chiến ở Lào. Ngày 2-3, quân uỷ phê duyệt trả lời đồng ý.
Trung tuần tháng 3

Tổng Quân uỷ Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị mở rộng, nghiên cứu nhiệm vụ của năm 1952 và vấn đề đấu tranh sau lưng địch, La Quý Ba, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm được mời dự và phát biểu, nêu lên kiến nghị cụ thể liên quan đến vấn đề đấu tranh sau lưng địch.
Đầu tháng 4 đến tháng 8

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành chỉnh huấn chính trị. Đây là cuộc vận động cải tạo tư tưởng và giáo dục chính trị quy mô lớn đầu tiên của quân đội nhân dân.
10-30 tháng 4

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập hội nghị quân y toàn quốc. Tổng kết công tác quân y năm 1951 và nghiên cứu của kế hoạch công tác quân y năm 1952.
20/5

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam áp dụng kiến nghị của Đoàn cố vấn quân sự, ra “nghị quyết về chế độ đảng uỷ trong bộ đội chủ lực”.
29/5

Quân uỷ Trung ương Trung Quốc điện chỉ thị : Vi Quốc Thanh vì bị bệnh không thể trở sang Việt Nam công tác, La Quý Ba kiêm nhiệm Đoàn trưởng Đoàn cố vấn quân sự, Mai Gia Sinh làm Phó đoàn trưởng thứ nhất, Đặng Dật Phàm làm phó đoàn trưởng thứ hai.
15/6

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc phê chuẩn bộ máy Đoàn cố vấn quân sự và Đoàn cố vấn chính trị hợp nhất.

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc theo yêu cầu của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, quyết định điều động hơn 10 cán bộ cấp đại đoàn, trung đoàn sang Việt Nam tăng cường công tác cố vấn ở cơ quan các Tổng cục và đại đoàn quân đội nhân dân. Hạ tuần, Lưu Thiếu Kỳ tiếp 6 đồng chí mới điều động chuẩn bị sang Việt Nam tại Trung Nam Hải và cho chỉ thị quan trọng.
11/7

La Quý Ba, Mai Gia Sinh báo cáo Quân uỷ Trung ương Trung Quốc bố trí chiến dịch Tây Bắc chia hai đợt tác chiến. Ngày 22, Quân uỷ trở lời đồng ý về nguyên tắc.

Để tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân, Đoàn cố vấn quân sự nêu ra với Tổng quân uỷ ý kiến về kế hoạch xây dựng công tác quân sự, chính trị, hậu cần.

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập hội nghị công tác tổ chức toàn quân lần thứ nhất, xây dựng đề cương chủ yếu công tác chi bộ, ra nghị quyết tăng cường xây dựng công tác chi bộ.

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam triệu tập hội nghị công tác địch vận toàn quốc, tập trung thảo luận vấn đề công tác tranh thủ ngụy quân.

Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị đảng uỷ trước chiến dịch Tây Bắc, thảo luận và thông qua phương án tác chiến Tây Bắc, lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự được mời dự hội nghị.
Tháng 8 đến tháng 9

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam chỉnh đốn biên chế trang bị và tiến hành chỉnh huấn quân sự.
4/9

Quân uỷ Trung ương, Ban liên lạc Trung ương Trung Quốc phê chuẩn Ban chấp hành đảng uỷ Đoàn cố vấn sau khi hợp nhất gồm có La Quý Ba, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, Lý Văn Nhất, Mã Tây Phu, Kim Chiêu Điển, Trương Anh, Lý Hàm Trân, chỉ định La Quý Ba làm Bí thư.
Đầu tháng 9

Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, thảo luận và thông qua kế hoạch tác chiến Tây Bắc. La Quý Ba được mời dự hội nghị.
9/9

Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên bộ đội tham gia chiến đấu truyền đạt thảo luận kế hoạch chiến dịch Tây Bắc. Hồ Chí Minh đích thân đến huấn thị Lãnh đạo đoàn cố vấn và một số cố vấn được mời tham dự.

Để bảo đảm quán triệt chấp hành chính sách dân tộc thiểu số và chính sách liên quan khác trong thời gian chiến dịch Tây Bắc, phía Việt Nam áp dụng kiến nghị của Đoàn cố vấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban bố “ tám điều mệnh lệnh của Chính phủ gửi bộ đội và nhân dân vùng mới giải phóng ”, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ban bố cho toàn quân mười kỷ luật lớn và kỷ luật chiến trường.
29/9

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện hỏi thăm động viên cho La Quý Ba, và toàn thể cố vấn và nhân viên công tác đoàn cố vấn

Hồ Chí Minh bí mật đến Bắc Kinh, cùng lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc bàn bạc trao đổi vấn đề tác chiến Tây Bắc và phương châm chiến lược từ nay về sau của Việt Nam v.v...
Tháng 10 đến tháng 12

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức chỉ huy chiến dịch Tây Bắc.
Thượng tuần tháng 10

Mai Gia Sinh dẫn một bộ phận cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương Quân đội nhân dân lên mặt trận Tây Bắc.
14-23 tháng 10

Tác chiến đợt 1 chiến dịch Tây Bắc, giải phóng Nghĩa Lộ.
16/10

Vi Quốc Thanh thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, sang Việt Nam giúp Quân đội nhân dân tổ chức chỉ huy chiến dịch Tây Bắc. Ngày 24, từ Ban chỉ huy Đoàn cố vấn lên đường đi đến Bộ chỉ huy tiền phương Quân đội nhân dân ở Nghĩa Lộ để giúp công tác.
15/11-10/12

Tác chiến đợt 2 chiến dịch Tây Bắc giải phóng Sơn La. Cuối tháng 11, quân Pháp xây dựng tập đoàn cứ điểm ở Nà Sản, Quân đội nhân dân công kích không hiệu quả, chủ động ngừng công kích, kết thúc chiến dịch Tây Bắc.
Tháng 12

Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập Đại đoàn 325.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:10:48 am
Năm 1953

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, triệu tập hội nghị toàn thể lần thứ 4, thông qua “ phương án cương lĩnh về chính sách ruộng đất ”. Tháng 12, Hồ Chí Minh ban bố “ Pháp lệnh về chính sách ruộng đất ”.
Tháng 1

Vi Quốc Thanh về Bắc Kinh báo cáo tình hình và xin ý kiến công tác với Quân uỷ Trung ương.
3/2

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc : thay đổi kế hoạch đánh Nà Sản trước mùa mưa, định tổ chức chiến dịch Thượng Lào trong tháng 4. Ngày 9, Trung ương Đảng Trung Quốc trả lời tán thành.
4/3

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện chỉ thị : đồng ý ý kiến của Đoàn cố vấn quân sự dự định kiến nghị phía Việt Nam tiến hành chỉnh quân chính trị vào năm 1953, và cho chỉ thị quan trọng. Ngày 8-4 Đoàn cố vấn quân sự nêu ra kiến nghị về chỉnh quân chính trị với Tổng quân uỷ Quân đội nhân dân.
5/3

Vi Quốc Thanh từ Bắc Kinh lên đường sang Việt Nam, giúp Quân đội nhân dân tổ chức chiến dịch Thượng Lào.
8/4 đến 3/5

Giúp Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức chỉ huy chiến dịch Thượng Lào.

Pháp lại thay đổi chỉ huy xâm lược Việt Nam, Navarre thay Salan làm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch quân sự Navarre ra lò.

Trung ương Đảng Lao động và Tổng quân uỷ Việt Nam chấp nhận kiến nghị của Đoàn cố vấn, lần lượt họp hội nghị thảo luận, ra quyết định triển khai chỉnh quân chính trị trong toàn quân.
29/5

Ban bố chấp hành 14 điều “Qui tắc công tác đoàn cố vấn” của Đoàn cố vấn soạn thảo được Mao Trạch Đông đích thân sửa chữa, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc phê chuẩn.
1/6

Tổng Quân uỷ Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên, Võ Nguyên Giáp truyền đạt quyết định chỉnh quân chính trị, lãnh đạo đoàn cố vấn được mời phát biểu ý kiến.

Giúp Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân biên soạn tài liệu chiến thuật công kiên và bồi dưỡng cán bộ theo tài liệu thống nhất, và tiến hành huấn luyện quân sự với bộ đội chủ lực.

Giúp Bộ Tổng Quân đội nhân dân tổ chức lớp tập huấn chỉnh quân chính trị cho cán bộ lãnh đạo tiểu đoàn trở lên, giúp trung đoàn 102, đại đoàn 308 tiến hành thí điểm chỉnh quân chính trị.
Tháng 7-8

Giúp Quân đội nhân dân tiến hành chỉnh quân chính trị.
29/8

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi điện cho La Quý Ba, đưa ra kế hoạch chiến lược đầu tiên tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng Bắc và Trung Lào, từng bước đẩy chiến trường xuống Nam Lào và Cao Miên uy hiếp Sài Gòn để tạo điều kiện, sau đó đánh lấy đồng bằng Bắc bộ Việt Nam.
2/9

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tổ chức lễ trao huân chương tại nơi ở của Đoàn cố vấn, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đến dự, trao huân chương và gắn kỷ niệm chương kháng chiến cho nhân viên đoàn cố vấn.

Giúp Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị công tác hậu cần toàn quân, tổng kết kinh nghiệm công tác hậu cần toàn quân, quyết định phương châm công tác hậu cần từ nay về sau.
23/9

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra “chỉ thị đối với công tác đoàn cố vấn”. Đây là văn kiện có tính chất cương lĩnh chỉ đạo công tác cố vấn.
10/10

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc điện Trung ương Đảng Lao động Việt Nam : quyết định Vi Quốc Thanh làm Tổng cố vấn quân sự, phụ trách công tác về mặt giúp tác chiến và xây dựng quân đội, La Quý Ba làm Tổng cố vấn chính trị, phụ trách công tác về mặt xây dựng công tác đảng địa phương và chính sách. Tháng 5 năm sau, tách bộ máy Đoàn cố vấn quân sự và đoàn cố vấn chính trị.
25/10

Vi Quốc Thanh đến Việt Nam, lập tức cùng với phía Việt Nam nghiên cứu vấn đề tác chiến mùa đông, giúp Quân đội nhân dân bố trí toàn diện tác chiến mùa đông, đánh lấy Lai Châu là chính, và tiến công Thượng Lào, Hạ Lào và khu vực bắc Tây Nguyên.
13/11

Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận thông qua kế hoạch tác chiến mùa đông của Quân đội nhân dân.

Bộ Tổng Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị cán bộ trung đoàn trở lên, truyền đạt kế hoạch tác chiến Tây Bắc lần thứ hai và tấn công mùa đông, Vi Quốc Thanh được mời phát biểu ý kiến tại hội nghị. Sau hội nghị Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh dẫn một bộ phận cố vấn theo Bộ chỉ huy tiền phương quân đội lên mặt trận Tây Bắc.
Thượng tuần tháng 12

Căn cứ vào tình hình thay đổi quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh cùng phía Việt Nam nghiên cứu điều chỉnh bố trí tác chiến, phía Việt Nam quyết định tác chiến ở Tây Bắc, chia làm hai bước, đánh Lai Châu trước, đánh Điện Biên Phủ sau. Ngày 8-12, Vi Quốc Thanh báo cáo kế hoạch này với Quân uỷ Trung ương Trung Quốc. Ngày 10, Quân uỷ Trung ương điện trả lời đồng ý.
6/12

Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thảo luận phê chuẩn kế hoạch điều chỉnh tác chiến Tây Bắc của Tổng quân uỷ đưa ra, quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, và thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy tiền phương do Võ Nguyên Giáp làm Bí thư và Tổng chỉ huy.
7/12

Quân Pháp đóng ở Lai Châu rút chạy về Điện Biên Phủ, Quân đội nhân dân lập tức giải phóng Lai Châu và truy kích địch, tiêu diệt một bộ phận.

Theo bố trí tác chiến mùa đông, Quân đội nhân dân tiến vào Trung Lào mở công kích vào quân địch, giải phóng phần lớn Trung Lào.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:11:18 am
Năm 1954

14/1

Bộ chỉ huy tiền phương Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị cán bộ, Võ Nguyên Giáp truyền đạt kế hoạch tác chiến chiến dịch Điện Biên Phủ, Vi Quốc Thanh được mời phát biểu.
20/1 đến Thượng tuần tháng 2

Theo bố trí tác chiến mùa đông, bộ đội liên khu 5 Quân đội nhân dân tiến quân lên Tây Nguyên, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Bắc Tây Nguyên.
24/1

Do tình hình thay đổi Đoàn cố vấn và Bộ chỉ huy tiền phương bàn định, việc công kích Điện Biên Phủ trước định đánh nhanh thắng nhanh thay đổi lại thành đánh chắc thắng chắc, vững bước đẩy tới, từng bước tiêu diệt địch [Chú thích của Diễn Đàn : sự thực về quyết định quan trọng này, xem chú thích của chúng tôi ở các phần (3), (6) và (8)]

Hạ tuần tháng 1 đến Trung tuần tháng 2.

Đại đoàn 308 Quân đội nhân dân tiến lên Thượng Lào, lấy lại toàn bộ vùng lưu vực sông Nậm Hu, cô lập thêm địch ở Điện Biên Phủ.

Theo bố trí tác chiến mùa đông, Quân đội nhân dân giải phóng toàn tỉnh Mường Xay và phần lớn tỉnh Saravan Hạ Lào.
18/2

Bộ chỉ huy tiền phương Quân đội nhân dân lại triệu tập hội nghị cán bộ về vấn đề tác chiến tấn công Điện Biên Phủ, Hoàng Văn Thái báo cáo, Mai Gia Sinh được mời phát biểu ý kiến.
20/2 đến 3/3

Giúp Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị công tác bảo vệ toàn quân lần thứ nhất tổng kết công tác bảo vệ năm 1953, bố trí nhiệm vụ công tác bảo vệ năm 1954

Chu Ân Lai đề xuất để tranh thủ chủ động về ngoại giao, có thể tổ chức đánh vài trận thắng đẹp ở Việt Nam trước hội nghị Geneve hay không.
6-20 tháng 3

Giúp Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị công tác tổ chức toàn quân lần thứ hai, tổng kết kinh nghiệm công tác chi bộ trong bộ đội và kinh nghiệm đề bạt cán bộ thu đông 1953.
13/3

Tác chiến đợt 1 chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Đến ngày 17/3, Quân đội nhân dân chiếm lĩnh ba cụm cứ điểm bình phong phía bắc Điện Biên Phủ.
21/3

Đoàn cố vấn quân sự đề xuất “mấy kiến nghị công tác nhằm giành toàn thắng chiến dịch Điện Biên Phủ” với Bộ chỉ huy tiền phương Quân đội nhân dân, đề xuất ý kiến cụ thể về các biện pháp cần áp dụng trong các mặt công tác quân sự, chính trị và hậu cần sau tác chiến đợt 1.
30/3

Tác chiến đợt 2 Điện Biên Phủ bắt đầu. Sau khi Quân đội nhân dân tấn công mấy cứ điểm của quân Pháp, quân Pháp phản kích hai bên triển khai cuộc chiến giành giật quyết liệt.
Hạ tuần tháng 3 đến thượng tuần tháng 4

Ngày 27/3 và 4/4 Navarre hai lần phát thanh yêu cầu phía Việt Nam ngừng pháo kích sân bay Điện Biên Phủ để máy bay Hồng thập tự Pháp chở thương binh. Vi Quốc Thanh kiến nghị phía Việt Nam mặc kệ yêu cầu của Navarre.
4/4

Quân uỷ Trung ương Trung Quốc điện cho Vi Quốc Thanh, đưa ra kế hoạch chính tranh thủ đầu tháng 5 kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ và chuẩn bị giải phóng vùng đồng bằng sông Hồng năm 1955, và cả kế hoạch xây dựng quân đội giúp Quân đội nhân dân tổ chức trang bị bộ đội pháo binh, công binh để hoàn thành nhiệm vụ tác chiến nói trên.
9/4

Quân uỷ Trung ương Trung Quốc hai lần điện cho Vi Quốc Thanh, ra chỉ thị cụ thể đối với vấn đề chiến thuật công kích Điện Biên Phủ.
26/4

Hội nghị Geneve thảo luận vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương khai mạc.
28-30 tháng 4

Đảng uỷ mặt trận Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị mở rộng, quán triệt tinh thần hội nghị Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, nhấn mạnh khắc phục tư tưởng hữu khuynh tiêu cực trong cán bộ, tăng cường kỷ luật tổ chức.
1/5

Tác chiến đợt 3 Điện Biên Phủ bắt đầu.
6-7 tháng 5

Quân đội nhân dân mở tổng công kích vào Điện Biên Phủ tiêu diệt toàn bộ quân địch đóng giữ. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi.
8/5

Hội nghị Genève bắt đầu thảo luận vấn đề Đông Dương.
Thượng tuần tháng 6

Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định cử ba người, trong đó có Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Văn Tiến Dũng, đại biểu đàm phán đình chiến của hội nghị Genève tại Việt Nam [ họp tại Trung Giã] , và đề nghị Trung Quốc cử cố vấn đàm phán giúp công tác.
10/6

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Tổng cục Chính trị quân uỷ phê chuẩn Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm, Trương Anh, Vu Bộ Huyết, Đổng Nhân, Từ Thành Công, Thẩm Kiên Như, Hứa Pháp Thiện, Như Phu Nhất, Sử Nhất Lương là uỷ viên Đảng uỷ Đoàn cố vấn quân sự, Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Đặng Dật Phàm là uỷ viên thường vụ. Vi Quốc Thanh là Bí thư, Đặng Dật Phàm là Phó bí thư.
Tháng 6 – tháng 7

Tuân theo chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, học tập văn kiện hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ 4 khoá 7 của đảng tiến hành kiểm tra tư tưởng, tăng cường đoàn kết trong ngoài. Lãnh đạo đoàn cố vấn dẫn đầu kiểm điểm tư tưởng. Giúp Bộ tham mưu quân đội tiến hành tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ.

Quân uỷ Trung ương Trung Quốc cử nhóm cố vấn pháo binh, công binh, giúp Quân đội nhân dân trang bị huấn luyện bộ đội pháo binh, công binh.
3-5 tháng 7

Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh hội đàm tại Liễu Châu Quảng Tây, trao đổi vấn đề đường giới tuyến phân chia nam bắc đình chiến quân sự Việt Nam. Vi Quốc Thanh, La Quý Ba, Giả Phương v.v.. tham gia hội đàm.
10/7

Giả Phương làm cố vấn đàm phán đến Đoàn cố vấn quân sự, hỗ trợ Việt Nam tiến hành đàm phán đình chiến quân sự.
20/7

Ký “Hiệp định Genève”, kết thúc chiến tranh Đông Dương. Ngày hôm sau, hội nghị công bố “Tuyên ngôn chính trị” và “Hiệp định đình chiến Đông Dương”.
22/7

Bộ Tổng Tham mưu quân đội nhân ra lệnh ngừng bắn trên chiến trường Việt Nam. Chiến tranh chống Pháp của Việt Nam kết thúc thắng lợi.

Giúp Quân đội nhân dân bắt đầu tiến hành công tác chỉnh đốn biên chế toàn quân.

Giúp Quân đội nhân dân bắt đầu tiến hành giáo dục tình hình và nhiệm vụ mới, chính sách kỷ luật và Quân đội nhân dân mãi mãi là một đội quân chiến đấu.
25/8

Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định thành lập Đại sứ quan tại Việt Nam và dự định rút Đoàn cố vấn quân sự và Đoàn cố vấn chính trị. Mai Gia Sinh và một bộ phận cố vấn cấp đại đoàn, trung đoàn đang nghỉ ở Bắc Kinh không trở lại Việt Nam công tác nữa.
10/10

Quân Pháp rút khỏi Hà Nội. Hạ tuần, Đoàn cố vấn quân sự theo Bộ Tổng Quân đội nhân dân về Hà Nội.
20/10 đến 8/11

Để làm tốt việc chuẩn bị huấn luyện quân đội có hệ thống cho bộ đội chủ lực, giúp Quân đội nhân dân tập huấn phương pháp giảng dạy cán bộ tiểu đoàn trở lên.
5-15 tháng 11

Giúp Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị công tác truyên truyền giáo dục toàn quân lần thứ hai, tổng kết công tác hai năm qua, thảo luận đề cương huấn luyện, chính trị.
20/11

Giúp Quân đội nhân dân hoàn thành công tác chỉnh đốn biên chế của 6 đại đoàn chủ lực và 4 đại đoàn pháo binh.
21/11 đến 1/12

Tổng Quân uỷ Quân đội nhân dân triệu tập hội nghị cán bộ trung cao cấp, Võ Nguyên Giáp truyền đạt tinh thần hội nghị tháng 9 của Bộ chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đọc báo cáo “nỗ lực từng bước xây dựng Quân đội nhân dân chính quy hoá, hiện đại hoá”. 22 cán bộ Đoàn cố vấn quân sự được mời tham gia.
19/12

Sau khi đi nghỉ ở Bắc Kinh, Vi Quốc Thanh trở lại Ban chỉ huy Đoàn cố vấn quân sự tại Hà Nội, giúp Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân nghiên cứu vấn đề xây dựng quân đội và phương án tác chiến tương lai v.v..

Nhân viên nhóm hàng không dân dụng Đoàn cố vấn quân sự lần lượt đến Hà Nội giúp phía Việt Nam tiếp thu sân bay Gia Lâm, xây dựng công tác hàng không dân dụng.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:11:53 am
Năm 1955

Để từng bước thực hiện chính quy hoá hiện đại hoá, giúp bộ đội chủ lực Quân đội nhân dân bắt đầu tiến hành huấn luyện quân chính có hệ thống thời gian 6 tháng.

Giúp Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân bắt đầu tiến hành học tập lý luận cơ bản chủ nghĩa Mac – Lênin có hệ thống đối với cán bộ trung cao cấp.

Vi Quốc Thanh và một số cố vấn theo Võ Nguyên Giáp đi khảo sát địa hình vùng ven biển bắc vĩ tuyến 17, sau khi về cùng nghiên cứu vấn đề tác chiến tương lai.

Giúp Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân tiến hành tổng kết công tác chính trị toàn quân và soạn thảo điều lệ (dự thảo) công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
25/6 đến 15/7

Cùng lúc với Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam thăm Trung Quốc, Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đoàn đại biểu quân sự Việt Nam có Vi Quốc Thanh tháp tùng bí mật đến Bắc Kinh, cùng với Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và đại biểu phía Trung Quốc trao đổi vấn đề kế hoạch xây dựng quân đội Việt Nam, phương án tác chiến tương lai.

Giúp Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân vạch kế hoạch huấn luyện quân sự thời gian 6 tháng lần thứ 2 và một lần nữa tổ chức tập huấn phương pháp giảng dạy cho cán bộ tiểu đoàn trở lên.

Vi Quốc Thanh từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội. Ngày 29, truyền đạt chỉ thị của Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình về rút dần công tác của đoàn cố vấn cho cán bộ đại đoàn trở lên trong Đoàn cố vấn quân sự.
Thượng tuần tháng 9

Đảng uỷ Đoàn cố vấn quân sự xác định, toàn bộ cố vấn chia làm ba đợt về nước, rút hết vào mùa xuân năm sau. Sau đó Đặng Dật Phàm và một bộ nhận nhân viên cố vấn về nước.

Trường pháo binh và trường công binh được đoàn cố vấn giúp Quân đội nhân dân thành lập kế tiếp khai giảng. Trung tuần tháng 10 đến thượng tuần tháng 12. Võ Nguyên Giáp dẫn đầu Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam, có Vi Quốc Thanh bí mật đến Bắc Kinh lần thứ hai, cùng lãnh đạo quân uỷ Trung ương Trung Quốc Bành Đức Hoài và đại biểu phía Liên Xô trao đổi về kế hoạch xây dựng quân đội Việt Nam và phương án tác chiến tương lai.
24/12

Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra “quyết định về rút Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam và chuyển sang cử chuyên gia quân sự”. Đồng thời Bành Đức Hoài gửi thư báo cho Võ Nguyên Giáp về việc rút Đoàn cố vấn quân sự tại Việt Nam.

Vi Quốc Thanh mang thư của Bành Đức Hoài gửi Võ Nguyên Giáp đến Hà Nội, giúp Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân tiến hành một số công việc đã thảo luận ở Bắc Kinh.

Năm 1956


13/1

Lại một đợt nữa nhân viên đoàn cố vấn quân sự về nước.

Vi Quốc Thanh hoàn thành nhiệm vụ công tác tại Việt Nam cùng với nhân viên Đoàn cố vấn quân sự đợt cuối cùng về nước. Đoàn cố vấn quân sự hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, bộ máy tổ chức giải thể.


Tiêu đề: Re: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Năm, 2009, 05:15:39 am
LỜI CUỐI SÁCH

Đầu năm 1950, theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh để mở ra cục diện mới của cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam, giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp, bất chấp hàng loạt khó khăn mà trong nước phải đối mặt, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã kiên quyết ra quyết sách to lớn viện trợ Việt Nam chống Pháp, cung cấp số lớn trang bị quân sự và vật tư quân sự cho Việt Nam, đồng thời cử Đoàn cố vấn quân sự giúp Việt Nam xây dựng quân đội và hỗ trợ chỉ huy tác chiến.

Quyết sách to lớn này của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và quyết sách to lớn khác đưa quân tình nguyện sang Triều Tiên, chống Mỹ viện Triều, giữ nhà giữ nước đưa ra sau đó, tuy có khác nhau về đối tượng tác chiến, phương thức viện trợ và quy mô viện trợ, nhưng đều là hành động chiến lược trọng đại nhằm chống đế quốc xâm lược, chi viện nước láng giềng hữu nghị, bảo vệ độc lập quốc gia, giành giải phóng dân tộc và phá vỡ vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đối với Trung Quốc, đều là sự thống nhất giữa lập trường của chủ nghĩa quốc tế và lập trường của chủ nghĩa yêu nước, đều có ý nghĩa lịch sử to lớn.

Một số lão đồng chí đã từng công tác trong Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam đầu những năm 50 của thế kỷ 20, kết hợp từng trải của bản thân lúc bấy giờ viết nên những trang hồi ký này. Bây giờ chúng tôi biên tập bài viết của đồng chí La Quý Ba Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản – Nhớ Mao Trạch Đông với viện trợ Việt Nam chống Pháp nhân 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Mao Trạch Đông, cùng với những bài viết khác thành cuốn sách Ghi chép thực tiễn về Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, từ một mặt khác tái hiện chân thực những chuyện đã qua ít người biết đến trong lịch sử vẻ vang của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.

Những bài viết tập hợp trong cuốn sách này đều là sự trải nghiệm và nhớ lại của bản thân các tác giả bất chấp tuổi cao sức yếu, khắc phục rất nhiều khó khăn để viết ra, có mấy bài tuy có chút chồng chéo về nội dung nào đó, nhưng tác giả thuật lại từ góc độ khác nhau, và không lộ rõ sự trung lặp, mấy bài mới đăng do đồng chí Trương Quảng Hoa hỗ trợ sửa chữa hiệu đính, Đại sự ký ở cuối sách cũng do đồng chí ấy sửa chữa hiệu đính. Sau khi đọc những bài này, có thể làm người ta hiểu toàn diện hơn những sự kiện trọng đại và tình hình chiến đấu chiến dịch và những nhân vật hữu quan đương thời, do đó nó có giá trị lịch sử nhất định.

Hơn 5 năm công tác của Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam được Đảng, Chính phủ Việt Nam, và Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam ca ngợi cao độ ; đồng thời cũng được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quân uỷ Trung ương, Chủ tịch Mao Trạch Đông và các đồng chí lãnh đạo khác của Trung ương khẳng định đầy đủ. Lịch sử nhân dân Trung Quốc viện trợ Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh chống Pháp và sau đó chống Mỹ sẽ mãi mãi khắc sâu trong lòng nhân dân Trung – Việt, bài ca quốc tế cao cả mà nó phổ nhạc nhất định sẽ âm vang dài lâu trong trái tim của nhân dân hai nước Trung – Việt

Nhóm biên tập sách, Tháng 12 năm 2001

=== HẾT ===