Lịch sử Quân sự Việt Nam

Máu và Hoa => Một thời máu và hoa => Tác giả chủ đề:: Trongc6 trong 23 Tháng Tư, 2009, 04:39:52 pm



Tiêu đề: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 23 Tháng Tư, 2009, 04:39:52 pm
... Ngày này 34 năm trước...

      Cả Trung đoàn hành quân bằng xe ô tô suốt từ Đức lập, qua Sông Bé vào Bình Dương. Khí thế hừng hực. Chỉ có quân vào mà không có quân ra.

      Xe GMC lấy được của địch tại Cheo-reo ê chề. Ban hậu cần Trung đoàn hỏi xuống các đại đội bộ binh: có đồng chí nào biết lái xe?
      Tất nhiên là biết lái chứ không phải là lái xe, vì lái xe đâu có ở bộ binh. Tất cả những thằng biết lái xe đều được điều lên trung đoàn. Thằng Nhàn (Nam Hà) ở C tôi cũng lên. Không biết nó tập tọng học ở đâu mà cũng biết các động tác nổ máy, cài số, đạp ga, vặn Vo-lăng. Có lẽ nó chưa được lái xe tới nghìn mét. Không hề gì. Lên Trung đoàn tập huấn cấp tốc 1 ngày, nó cũng được giao 1 cái xe tải GMC để chở quân. Mỗi B bộ binh lên một xe. Mấy năm hành quân bộ rạc cẳng, nay được leo lên xe hành quân cơ giới sướng quá còn gì. Trung đoàn sắp xếp xen kẽ các tay lái, chạy trong đội hình, tốc độ chậm, lại chạy thẳng ban ngày, trong chúng tôi chỉ thấy sướng chứ không thấy sợ. Thế mà suốt mấy chặng đường dài, cả mấy chục xe chở cả Trung đoàn chẳng gặp sự cố gì.
       Qua nhiều vùng thấy bạt ngàn đồn điền caosu. Nhìn những hàng cây thẳng tắp rất sướng mắt. Các trạm nghỉ cũng trong rừng caosu. Nhưng thú thật là mắc võng trong rừng caosu không khoái bằng ở rừng. Cây mọc cách nhau xa quá, lại thấy cứ thông thống thế nào ấy. Nhìn phía nào cũng thấy lính, chỉ sợ mỗi chuyện địch nó phát hiện dội bom cho một trận thì khiêng nhau mệt. Nhưng có vẻ tình hình chiến trường bây giờ đang đổi khác. Suốt mấy ngày hành quân truy kích địch trên đường 7b từ Cheo-reo về đồng bằng Phú yên non tháng trước có thấy cái máy bay nào của địch đâu.

       Ngày 18/4 đã vào đến Bình Dương. Rừng lưa thưa. Chỗ này chắc cách xa địch. Đơn vị được bổ xung thêm tân binh. Lính mới nghe chuyện lính cũ vừa qua vài trận trong chiến dịch Tây Nguyên, thấy háo hức lắm, hăm hở chờ ra trận. Nhưng còn phải học chiến thuật đã. Lính cũ cũng phải học, vì chúng tôi đánh trong thành phố còn lớ ngớ lắm. Trận đánh Thị xã Tuy Hòa là trận đầu tiên trung đoàn đánh trong thành phố. Xung lực AK và M79 bắn không có vấn đề gì. Chúng tôi cứ nép dọc tường, hoặc tụt vào cửa nhà dân rồi lại thò ra bắn. Chỉ có B40 và B41 là có vấn đề. Lúc Đại đội vượt qua Nhạn Tháp đánh vòng sang đường Trần Hưng Đạo hướng ra biển thì vấp phải địch trụ lại chống cự. Đánh nhau trên mặt phố thì địch bị đẩy lùi dần. Khi vào đến gần bệnh viện (Tôi không nhớ Bệnh viện gì, nhưng chắc bệnh viện quân đội của VNCH, vì lúc làm chủ vào trong chỉ thấy toàn thương binh địch). Bọn địch trụ cả trên những căn nhà tầng 2, thò cả Rocket66 ra bắn vào đội hình đơn vị. Lính ta cũng điên tiết chổng B40, B41 lên bắn trả. Mấy thằng đứng xa chỉ bị tạt lửa nhẹ. Thằng Dung B tôi đứng gần quá, góc bắn cao nên khi quả B40 của nó nổ trúng một cửa sổ thì cu cậu cũng ngã lăn ra vì hơi lửa tạt làm xém cả quần và bắp chận. Nó nằm lăn ra giãy giụa. Thế là nó trở thành thương binh và đây cũng là trận đánh cuối cùng trong cuộc chiến tranh của nó.

      Chính vì thế, lính cũ và mới đều phải tập hết. Ai cũng phải tập bắn B40 để lúc chiến đấu còn có thể thay thế. Chúng tôi làm những cái chòi cao giả làm nhà gác hai tầng, rồi tập ngắm bắn. Quan sát góc nâng của súng khi bắn để tập thói quen nhìn khoảng cách. Có nghĩa là chỉ được bắn xa ở cự ly nào đó thôi, tập nhìn cho quen.
      Được cái ăn uống lúc này quá no đủ. Tụi lính mới bổ xung được ăn sướng vậy nên không tin rằng các anh lính cũ ngày trước nhiều tháng đói vàng mắt, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến ăn (Cái đói nó làm suy nghĩ con người nhiều lúc thấp kém thế đấy. Hạnh phúc mong ước nhiều khi chỉ là cả tiểu đội được một khúc dồi voi và nồi cơm đầy). Khoái cái nữa là ngay cạnh thao trường tạm ấy có một con suối nhỏ, rộng chỉ hơn 2 mét nhưng nước trong veo, mát vô cùng.

      Đêm 25/4, cả Tiểu đoàn chuyển quân. Du kích Củ chi dẫn chúng tôi về địa bàn của họ...



Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: mig21q trong 23 Tháng Tư, 2009, 04:46:21 pm
Chào mừng bác CCB chống Mỹ - bác Trọng - Đại đội 6. Hehe, em cứ tạm dịch thế! ;D


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: khanhhuyen trong 23 Tháng Tư, 2009, 06:47:02 pm
Chào mừng bác CCB chống Mỹ - bác Trọng - Đại đội 6. Hehe, em cứ tạm dịch thế! ;D

Nhiệt liệt chào mừng bác tham gia diễn đàn quansuVN.net,bác bắn loạt đầu công lực rất đầm ấm,chân chất của lính Việt cảm ơn bác,mong nhiều bài của bác.


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: hatuyenha trong 24 Tháng Tư, 2009, 07:49:56 am
Hân hoan đón chào đ/c CCB Trọng đại đội 6 dx ey .
QSVN nhiệt liệt chờ mong các hồi ức cực kỳ quí giá của đ/c.Nhớ càng nhiều càng ít nhé.


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Tư, 2009, 08:50:58 pm
         … Cái địa đạo Củ Chi chủ yếu dùng trong thời còn Mỹ. Tụi Mỹ càn phá ghê quá, muốn bám trụ nên phải đào địa đạo. Rồi cũng lại phải sống luôn trong địa đạo vì tụi Mỹ thường càn bất thình lình. Sau 1973 thì không còn phải sống trong địa đạo nữa. Tụi lính VNCH cũng kiềng mặt khu vùng ven này.

   Cả Tiểu đoàn chúng tôi được vào thẳng một thôn. Bây giờ cũng chẳng còn nhớ cụ thể là thôn gì, chỉ biết nơi đó thuộc Củ Chi. Mỗi C về một xóm. Một B trú tại hai nhà dân liền nhau. Chỉ có BCH đại đội được vào nhà, còn lính tráng ở tất ngoài sân vườn. Trải nilon mà nằm chứ không mắc được võng. Vùng này an toàn nên du kích đi lại trên đường thôn đàng hoàng. Chúng tôi nghỉ là chính chứ không phải tập tành gì. Tất cả các cơ số đạn được bổ sung tại chỗ. Các B tổ chức lau súng đạn, gói thủ pháo và bộc phá, chủ yếu là bộc phá ống để phá hàng rào. Lúc này chúng tôi cũng chỉ đoán là sẽ đánh cứ điểm chứ cũng chưa biết sẽ đánh nơi nào.

   Ngày hôm sau, chúng tôi được phép đi lại trong xóm, thuộc phạm vi của đại đội. Cuối xóm có một cái quán bán dưa hấu. Tôi dẫn cả B hơn chục người đến đó. Lần đầu tiên sau mấy năm, chúng tôi tiếp xúc và giao dịch với dân bằng tiền. Chả là tôi có tờ 1000 đồng miền Nam.

   Nguyên do là ngay chiều 1/4 hôm đánh Tuy Hòa, lúc một tổ 3 người chúng tôi đang làm nhiệm vụ tảo thanh thì có 2 ông nhóc địa phương xán đến. Chúng chỉ độ 13,14 tuổi, Chúng nó líu ríu kéo chúng tôi đi theo. Một lúc sau mới biết không phải chúng nó chỉ chỗ nấp của tàn quân, mà là chúng dẫn chúng tôi đến một nơi gần như một chi nhánh ngân hàng gì đó. Đã có nhiều người dân tụ tập ở đó. Chả hiểu mô tê gì, một thằng bọn tôi cũng chiều ý họ, ra oai và nổ mấy phát AK phá tung cửa. Đám dân ùa vào. Rồi họ lại ùa ra cho một thằng nhóc tiến vào trong. Nó nhanh nhẹn lôi ở đâu đó một quả US cài vào cái tủ và rút chốt rồi lăn ra nấp. chúng tôi cũng chúi vào một góc khuất. Lựu đạn nổ xong mới thấy bay tung tóe ra cơ man nào là tiền. Đám dân xô vào cướp. Chúng tôi cũng ngẩn người ra như bò đội nón. Mãi đến lúc dân chạy hết, rồi một thằng bé dúi vào tay tôi một tờ tiền trước khi lủi mất, thì ba chúng tôi mới chợt nhận ra là mình vừa tham gia thụ động vào một vụ cướp nhà băng. Lại giật mình nhớ lại động tác cài lựu đạn của thằng bé lúc nãy. Sao nó thành thạo thế và không hiểu nó lấy đâu ra quả lựu đạn. Mất cảnh giác quá, may mà không ai bị sao.

    Tôi đã cất cái tờ tiền mệnh giá 1000 đồng có in hình ông Trần Hưng Đạo ấy vào túi định giữ làm kỷ niệm. Bây giờ lính tráng muốn ăn dưa hấu, dân lại không cho như trên vùng đồng bào dân tộc thì mới chợt nhớ đến cái tờ 1000 đ ấy. Tôi đưa tờ tiền ra, mới biết là giá trị nó quá to vì cô bán hàng nói là cả bọn chúng tôi cũng không thể ăn hết được dưa ứng với tờ tiền ấy. Đúng thế thật. Chúng tôi ăn chán chê, cuối cùng chỉ hết có 300đ, còn được trả lại 700đ.

   Suốt cả ngày hôm 27/4 tôi đã quan sát ngôi nhà nhỏ nằm kế bên nhà B tôi trú nhờ. Nhà có 4 mẹ con. Đứa con gái lớn 14 tuổi, còn hai đứa em còn bé, một trai một gái. Đôi lần trong ngày, đứa con gái đi qua sân của ngôi nhà tôi trú. Tôi chú ý đến khuôn mặt trái xoan với vẻ đẹp buồn của nó. Phải thú thật rằng tôi đã hành quân qua nhiều làng quê đất Bắc, nhiều đợt phải đi tiền trạm liên hệ nơi nghỉ đêm cho đơn vị. Chúng tôi xin nhờ dân từ nếp nhà trú đêm, nước tắm giặt, thậm chí cả củi rạ nấu cơm. Đa phần các làng không còn thanh niên. Họ cũng ra chiến trường như chúng tôi. Trong làng chỉ có phụ nữ, người già và trẻ em. Giúp đỡ bộ đội lúc đầu chủ yếu là dân quân nữ. Nhưng tôi đặc biệt thích các em gái 14 tuổi. Các bạn CCB hãy nhớ lại xem, thuở ấy của các bạn ra sao. Ngẫm một chút đi sẽ hiểu tại sao lại thế. Nhờ quen các cô bé 14 tuổi, tôi luôn nắm nhanh được tình hình trong thôn và hỏi được các nhà đồng ý cho bộ đội nghỉ nhờ chỉ trong một vòng  lượn.

   Bây giờ tôi không còn nhớ tên cô bé 14 tuổi đất Củ chi ấy, nhưng tôi vẫn nhớ đôi mắt to, đẹp và đượm buồn của em. Một chút gì xao xuyến. Nhưng tình cảm đó là trong sáng, đừng ai hiểu lầm gì. Rồi tôi biết tại sao mắt cô bé đượm buồn. Ba cô là một người lính cộng hòa chết trận. Mẹ cô đang ốm. Thật lạ lùng là giữa cái mảnh đất "Củ Chi đất thép" ấy tưởng chỉ toàn có quân ta, thế mà vẫn có người đi lính cộng hòa. Có thể đó là lý do khiến du kích địa phương không cho chúng tôi vào ở nhờ nhà đó. Rồi tôi biết nhà cô bé đang hết gạo ăn, chỉ toàn ăn cháo. Tôi là người đa cảm, hay chạnh lòng trước cảnh khó của người khác, nên cứ thấy day dứt.

   9 giờ tối 27/4, đơn vị báo động hành quân ra trận. Tranh thủ lúc í ới tập hợp, tôi kéo nhanh thằng Sai (dân Hà Bắc) cùng B chạy sang nhà cô bé 14 tuổi. Mấy đứa trẻ vẫn thức bên ngọn đèn dầu cạnh người mẹ ốm. Tôi dúi vào tay cô bé 700đ tiền ăn dưa còn hôm trước và bảo thằng Sai cùng tụt nhanh hai ruột tượng gạo (mỗi cái 7 ký) của 2 đứa xuống. Tôi nói nhanh: "Các chú cho gia đình cháu, thôi đừng nói gì cả", rồi hai thằng tôi chạy nhanh ra chỗ tập hợp. Thấy thằng Sai hơi thắc mắc, tôi bảo: "Nhà đó toàn con nít, má nó ốm. Đừng lo chuyện gạo. Nếu thành tử sĩ thì tao với mày có còn ăn được đâu. Còn nếu thắng, lấy gạo của địch, lo gì". Tôi thường hay có quyết định đột xuất, quyết đoán và liều lĩnh như thế đấy. Chuyện được giấu kín. Sau trận đánh mấy hôm sau, đồ lấy của địch thừa mứa, còn ai hơi đâu lo chuyện gạo ta hay gạo địch.

   Nhưng đêm đó vẫn chỉ là báo động giả. Hành quân đi ra ngoài thôn độ ngàn mét, dừng lại nghỉ một tiếng cho nó có khí thế rồi lại quay về. Hôm sau (28/4) mới là một ngày bận rộn thật sự chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng của Trung đoàn…


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: dongadoan trong 25 Tháng Tư, 2009, 08:52:55 pm
Bác Trongc6, em tách những bài của bác ra thành một topic riêng nhé? Bác muốn đặt tên là gì? ;D


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: TQNam trong 25 Tháng Tư, 2009, 09:04:40 pm
Báo đ/c Trongc6, hình như có nhầm 1 chi tiết. Hòi đó tờ 500 đồng có in hình ông Trần Hưng Đạo là có mệnh giá lớn nhất mà?


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: Trungsy1 trong 26 Tháng Tư, 2009, 10:05:37 am
"Bây giờ tôi không còn nhớ tên cô bé 14 tuổi đất Củ chi ấy, nhưng tôi vẫn nhớ đôi mắt to, đẹp và đượm buồn của em. Một chút gì xao xuyến. Nhưng tình cảm đó là trong sáng, đừng ai hiểu lầm gì. Rồi tôi biết tại sao mắt cô bé đượm buồn. Ba cô là một người lính cộng hòa chết trận. Mẹ cô đang ốm. Thật lạ lùng là giữa cái mảnh đất "Củ Chi đất thép" ấy tưởng chỉ toàn có quân ta, thế mà vẫn có người đi lính cộng hòa. Có thể đó là lý do khiến du kích địa phương không cho chúng tôi vào ở nhờ nhà đó. Rồi tôi biết nhà cô bé đang hết gạo ăn, chỉ toàn ăn cháo. Tôi là người đa cảm, hay chạnh lòng trước cảnh khó của người khác, nên cứ thấy day dứt."

Chào bác Trongc6 ! Bác là lính trinhsat có phải không ạ? Vì em thấy trinhsat thường có cái nhìn vào bên trong như thế này!
Chúc bác khoẻ và viết đều tay!  :D


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: Phong Quảng trong 26 Tháng Tư, 2009, 10:25:39 am
Bác Trọng là f320 rồi, bác tiếp đi , chuyện của bác tuyệt lắm. Chúc bác khỏe thường xuyên tham gia vào QSVN


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: Trongc6 trong 26 Tháng Tư, 2009, 10:55:17 am
     Chào tất cả các đ/c và các bạn.

      Không biết tôi có viết được nhiều và liên tục những chuyện thường và vụn vặt của một thời lính không nữa. Vì thế các bác đặt ở đây hay bỏ ra topic riêng cũng được, tùy các bác. Còn cái tên đâu có quan trọng gì nhiều. Chỉ là dạng nhớ lại pha chút suy ngẫm thôi mà.

       Mà tự nhiên lại nghĩ vơ vẩn thế này:
       Nếu từ từ mà viết dông dài cả quãng đời quân ngũ của mình, liệu có làm rác tai các bác?


Tiêu đề: Re: Có một thời như thế (phần 3)
Gửi bởi: ahuuls trong 26 Tháng Tư, 2009, 01:31:33 pm
@Trongc6
     Chào tất cả các đ/c và các bạn.

      Không biết tôi có viết được nhiều và liên tục những chuyện thường và vụn vặt của một thời lính không nữa. Vì thế các bác đặt ở đây hay bỏ ra topic riêng cũng được, tùy các bác. Còn cái tên đâu có quan trọng gì nhiều. Chỉ là dạng nhớ lại pha chút suy ngẫm thôi mà.

       Mà tự nhiên lại nghĩ vơ vẩn thế này:
       Nếu từ từ mà viết dông dài cả quãng đời quân ngũ của mình, liệu có làm rác tai các bác?
.........................
Bác cứ khiêm tốn ,dông dài nhưng là chuyện của lính mà bác ngại gì diễn đàn này có đủ chỗ cho các câu chuyện của bác , như vậy sẽ làm cho thế hệ con cháu hiểu hơn về những hi sinh mất mát và những cống hiến của các bác hơn mà,có yêu cầu về bản đồ bác cứ yêu cầu các anh em ở đây sẽ nhiệt tình giúp cho bác ,bác cứ làm đi ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 27 Tháng Tư, 2009, 02:46:58 pm
         ... Suốt ngày 28/4, chúng tôi tập trung chuẩn bị lần cuối cùng. Mỗi người lính viết tên, đơn vị và quê quán của mình vào một tờ giấy rồi cho vào túi nilon cất nơi túi áo ngực. Ai hy sinh hay bị thương cứ nằm lại, sẽ có du kích địa phương giải quyết, còn đơn vị cứ tiến.  Chúng tôi được phổ biến là toàn sư sẽ đánh căn cứ Đồng Dù của sư 5 VNVH. Đây là trận đánh quan trọng cho một hướng tấn công vào Sài Gòn của chiến dịch HCM. Cán bộ từ Trung đội trở lên được tập trung để nghe Tiểu đoàn phổ biến nhiệm vụ. Toàn Trung đoàn sẽ tập trung một mũi cửa mở, nhưng thực chất chỉ có một D chúng tôi với sự chi viện tối đa hỏa lực của E sẽ mở cửa đột phá. Một D khác nằm phía sau dự bị và đánh chặn viện binh. Một D làm công tác đảm bảo. Sẽ có 4 xe tăng T54 phối thuộc cho cửa mở của D tôi. Trong đội hình tiểu đoàn, C5 đi đầu làm nhiệm vụ chính là phá các lớp rào để mở cửa, C tôi sẽ phụ đánh cửa mở và chiếm lô-cốt đầu cầu. Vì thế ở C tôi,  mỗi A chỉ mang theo 1 bộc phá ống. Tiểu đoàn trưởng phổ biến nhiệm vụ thông qua cái sơ đồ căn cứ vạch nguệch ngoạc trên nền bãi đất đầu thôn. Thú thực chúng tôi cũng chưa hình dung ra nổi cái căn cứ địch lớn thế nào. Ngay cả chuyện chúng có bao nhiêu quân trong đó, vũ khí ra sao cũng không được phổ biến rõ. Chỉ biết rằng cả sư cùng đánh căn cứ này trong cái thế của ta đang đà chiến thắng như chuyện đánh dọc miền Trung vừa qua, mỗi ngày ta giải phóng một tỉnh.

         Đánh trong cái khí thế ấy thì không phải lo lắng bàn cãi gì cả. Sống chết đã có số. Nhưng cái thông tin căn cứ địch có tới 8 lớp hàng rào với chiều sâu hơn 200 mét, có cả hàng rào cũi lợn thì chúng tôi cũng đã hình dung ra mở cửa sẽ vất vả thế nào. Đơn vị chúng tôi đã nhiều lần đánh cứ điểm kiên cố, nhiều trận đánh cùng xe tăng, nhưng chưa khi nào gặp hàng rào cũi lợn, kinh nghiệm phá loại rào này chưa có. Chúng tôi ngầm hiểu và lường trước đánh căn cứ này sẽ khó thế nào. Thực tế xảy ra còn hơn sức chúng tôi tưởng tượng nữa cơ. Còn sống sót sau trận đánh thật quả là "may hơn khôn".

   Cơm chiều xong, mỗi chúng tôi nhận một túi cơm kèm một ít thịt rang và chuẩn bị tiềm nhập. Trận này chúng tôi không có cả bao cát lẫn tre gỗ để vào trận làm công sự có nắp như hồi đánh địch trên Tây Nguyên. Ba-lô, súng đạn cá nhân mang theo hết. Có phải là điềm gở không, khi chỉ huy đơn vị yêu cầu tất cả chúng tôi đều phải mặc bộ quân phục mới vừa được phát bổ xung trước đó có mươi ngày?

   Tầm chín giờ tối thì đơn vị xuất phát. Du kích Củ Chi và trinh sát dẫn đường. Ra khỏi thôn một đoạn thì bắt đầu toàn là trảng trống. Đêm không trăng nhưng không gian như sáng ửng lên nhờ những vùng sáng đô thị và khu cư dân phía xa. Đường bằng, người sau bám người trước đi rất dễ. Cuối cùng chúng tôi cũng đến một cánh rừng cao su. Lại rồng rắn đi qua rừng. Chợt bừng lên một vùng không gian rộng mênh mông khi vừa qua rừng cao su. Căn cứ Đồng Dù hiện ra choáng ngợp ngay trước mắt cách chúng tôi chỉ chừng bảy tám trăm mét. Nhìn rõ ánh điện sáng dọc rào căn cứ như những cột đèn đường trong cái sân bay Bạch Mai ở Hà Nội ngày tôi còn ở nhà. Ngay thẳng hướng chúng tôi có một cái chòi gác cao đến 15 mét có mắc đèn pha rọi sáng cả một vùng không gian trước căn cứ. Nhìn rõ cả những lớp hàng rào bao quanh căn cứ. Cảm giác rất lạ trào dâng. Cứ như đi đánh trận giả ấy. Tưởng thằng địch ngồi trên chòi gác cũng thấy rõ chúng tôi, hóa ra không phải. Từ vùng sáng nhìn ra rừng cao su chắc cũng chỉ thấy lờ mờ. Chính vì thế toàn bộ C5 và các đơn vị hỏa lực của D, của E lọt vào sát trong cả hai lớp hàng rào để đào công sự mà địch vẫn không biết.

   Đại đội tôi triển khai phía sau ngoài hàng rào, cách các lô-cốt địch cũng phải gần 300 mét. Đất thịt pha cát, đã qua vài cơn mưa đầu mùa nên rất mềm. Chỉ chừng nửa tiếng, mỗi chúng tôi đã đào xong công sự cho mình. Thực chất chỉ là những cái hố cá nhân. Vì là bãi đất trống nên phía trước không được vun cao đất, chỉ đắp một quầng đất lùm lùm lên một chút làm vật che đỡ. Lạ cái là cả mấy trăm con người đào công sự rào rào như vậy mà địch vẫn không hay biết gì. Đào xong hầm vẫn còn rất sớm. Không thể ngủ, nhưng cái cảm giác bình yên lớn đến nỗi chúng tôi thoải mái nằm dài ra trên đất ngửa mặt nhìn trời đêm. Không gian mát mẻ, cảm giác như đêm hè nghịch ngợm kéo nhau ra bãi tha ma dọa nhau chán rồi ngủ quên ngoài đó…



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: trucngon trong 27 Tháng Tư, 2009, 02:52:27 pm
Bác cứ tiếp tục nhé! Những kỉ niệm về một thời oanh liệt không dễ ai có thể viết thành nhật kí. Đây là nguồn tư liệu quí và là kinh nghiệm cho thế hệ sau này. Chúc bác khoẻ! nếu có điều kiện tôi cũng xin tham gia!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 27 Tháng Tư, 2009, 03:11:01 pm
Năm 1989 tôi có dịp vào căn cứ Đồng Dù trong dịp tập huấn bảo đảm Hậu cần do sư 9 QĐ4 đăng cai. Ngồi trên xe chạy trong căn cứ đươc nhìn thấy những gì còn sót lại sau 15 năm của một cắn cứ lớn trước kia, bằng cẳm giác của người lính tôi hình dung đây là trận đánh rất khó khăn dù lúc đó ta đang mạnh như trẻ tre. Hôm nay được bác Trong c6  người thực việc thực kể lại thật sự không chỉ riêng tôi mà tất cả anh em trong QSVN đều muốn nghe về trận đánh ngày đó của f320. Bác tiếp đi nhé


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hatuyenha trong 27 Tháng Tư, 2009, 03:20:01 pm
 Bạn trong c6 thân mến,QSVN có được một người như bạn là rất tuyệt,vì có người tham gia chiến trận nhưng không viết được, mà có người viết được lại không được tham gia.Các bạn CCB ta ơi,bạn nào còn viết được còn nhớ được cố viết lại sự thật để con cháu ta biết sự thật mà chả phải con cháu đâu mà cả chính chúng ta nữa ,mặt trận này không biết hết tình hình của mặt trận kia.Sau  34 năm là quá vô giá rồi bạn ạ.
Chuyện của cả đời lính nữa,nhớ được đến đâu kể đến đó,chịu khó tý bạn nhé.
Cả bạn Trucngon nữa viết đi bạn ,hồi ức quí báu của các bạn vô giá đấy  ,chúng tôi chờ nhé.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lethaitho trong 27 Tháng Tư, 2009, 03:47:55 pm
Chào mừng bác Trongc6! Mong bác vững tay phím!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ahuuls trong 27 Tháng Tư, 2009, 07:33:32 pm
Bác tuấn sờ hay bác rongxanh làm tý bản đồ cho nó xôm ,động viên bác trongc6@ vững bước trên chiến trường giải phóng Sài-gòn đi ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tranlam99 trong 27 Tháng Tư, 2009, 09:00:20 pm
Chào bác trongc6@, dưới đây là sơ lược trận đánh của đơn vị bác qua lược sử sư đoàn 320 quân đoàn 3. Mong bác cho biết thêm về các phiên hiệu đơn vị (trung đoàn, tiểu đoàn) của bác để tiện theo dõi nhé. Ngoài ra hình như sư đoàn 320 có trung đoàn 52 chứ không có trung đoàn 9 phải không bác.

 
--------------------
Sư đoàn 320 tiến công tiêu diệt căn cứ Đồng Dù

Tổ chức chỉ huy: Thượng tá Bùi Đình Hòe - Tư lệnh Sư đoàn, Thượng tá Bùi Huy Bổng - Chính ủy Sư đoàn, Thượng tá Ngô Huy Phát - Tư lệnh phó Sư đoàn.

Mục tiêu tiến công: Căn cứ Đồng Dù thuộc huyện Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa (cũ).

5 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4, Sư đoàn nổ súng tiến công. 7 giờ 30 phút, bộ binh và xe tăng xung phong nhưng trên hai hướng cửa mở của Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 9) và Tiểu đoàn 3 (trung đoàn 48) đều bi địch bịt cửa mở.

- Hướng chủ yểu: Tiểu đoàn 1 (thiếu Đại đội 9) cùng xe tăng đánh chiếm được khu bãi tập chiến thuật bắt 50 tên, Đại đội 11 (Tiểu đoàn 3) đã chiếm được đầu cầu. 8 giờ 30 phút đến 9 giờ 30 phút Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 48) cùng 4 xe tăng đánh chiếm khu công binh, hậu cứ trung đoàn 46 bắt gần 100 tên, phát triển lên sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy; Tiểu đoàn 2 đánh vào tiểu đoàn 25 công binh bắt 30 tên, phát triển đánh chiếm khu thông tin. Đến 9 giờ, Đại đội 9 (tiểu đoàn 3) cùng 4 xe tăng đột phá được vào bên trong tổ chức thành 2 mũi chiếm khu pháo binh, hậu cứ trung đoàn 46, đánh chiếm sở chỉ huy trung đoàn 50. 10 giờ 30 phút tiểu đoàn 1 cùng xe tăng phát triển đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy bắt nhiều địch.

- Hướng thứ yếu Trung đoàn 9: 9 giờ Đại đội 7 (tiểu đoàn 5) một bộ phận dự bị cùng Tiểu đoàn 1 6 súng 12,7mm đã tiêu diệt 100 tên, bắt 135 tên (tiểu đoàn 3, trung đoàn 50, đến phản kích). Tiểu đoàn 5 (trung đoàn 9) chưa vào bên trong căn cứ, Tiểu đoàn 4 (thiếu) bị mất liên lạc với Trung đoàn nhưng đã tiêu diệt 4 xe tăng địch, bắt gần 100 tên. 10 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 5 đột phá được vào trong căn cứ chiếm khu huấn luyện bắt 200 tên, Tiểu đoàn 4 đánh chiếm khu vận tải và tiểu đoàn vận tải 333.

11 giờ 30 phút ta hoàn toàn làm chủ căn cứ Đồng Dù.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 27 Tháng Tư, 2009, 09:07:21 pm
Ngoài ra hình như sư đoàn 320 có trung đoàn 52 chứ không có trung đoàn 9 phải không bác.

e52 về QK5 giữa 72 (ở thời điểm 4/75 là lữ 52 đi cùng QĐ4).
e9/f968 về f320 khoảng cuối 74 đầu 75.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: graywolf83 trong 27 Tháng Tư, 2009, 09:45:04 pm
mong bác vững tay phím để những kẻ hậu sinh như bọn cháu hiểu đc sự khốc liệt của chiến tranh qua con mắt của những người lính chứ không phải của các đạo diễn hay những người viết sử . Đọc bài của các bác mà cháu tưởng tượng như đang tham gia trận đánh , - căng thẳng và hồi hộp  :)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 27 Tháng Tư, 2009, 10:19:16 pm
Chào bác trongc6@, dưới đây là sơ lược trận đánh của đơn vị bác qua lược sử sư đoàn 320 quân đoàn 3. Mong bác cho biết thêm về các phiên hiệu đơn vị (trung đoàn, tiểu đoàn) của bác để tiện theo dõi nhé. Ngoài ra hình như sư đoàn 320 có trung đoàn 52 chứ không có trung đoàn 9 phải không bác.
 

Hehe, có khi bác trongc6 bây giờ lại là sếp lớn ... nên ngại nói ra!  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 27 Tháng Tư, 2009, 10:52:06 pm
        Vài thông tin trả lời nhanh các bác thế này:

Trong chiến dịch HCM, F320A có các E làm nhiệm vụ sau:
- E48 mở cửa hướng Đông căn cứ Đồng Dù.
- E9b mở cửa hướng Tây Bắc căn cứ Đồng Dù.
- E64 hỗ trợ Đoàn DC 198 chiếm Cầu Bông cầu Sáng, sau đó đánh sân bay Tân Sơn Nhất.

     Căn cứ Đồng dù là hậu cứ Sư 5 VNCH chứ không phải Sư 25 (VNCH không có sư 25) chắc mấy ông viết sách nhầm vì hồi 1965 xây dựng, đây là căn cứ của sư 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ, sau khi rút thì sư 5 VNCH thế chân.

    Tôi ở D2 (K18), E9b. Trung đoàn tôi không có tiểu đoàn 4 hay tiểu đoàn 5. Chỉ có D1 (K15), D2(K18) và D3 (K16).

     Nếu tài liệu bác TranLam99 đưa ra là đúng thì tôi không còn gì để kể nữa.

     Gửi các bác lời chào trân trọng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: smilingmen trong 27 Tháng Tư, 2009, 11:00:22 pm
        Vài thông tin trả lời nhanh các bác thế này:

Trong chiến dịch HCM, F320A có các E làm nhiệm vụ sau:
- E48 mở cửa hướng Đông căn cứ Đồng Dù.
- E9b mở cửa hướng Tây Bắc căn cứ Đồng Dù.
- E64 hỗ trợ Đoàn DC 198 chiếm Cầu Bông cầu Sáng, sau đó đánh sân bay Tân Sơn Nhất.

     Căn cứ Đồng dù là hậu cứ Sư 5 VNCH chứ không phải Sư 25 (VNCH không có sư 25) chắc mấy ông viết sách nhầm vì hồi 1965 xây dựng, đây là căn cứ của sư 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ, sau khi rút thì sư 5 VNCH thế chân.

    Tôi ở D2 (K18), E9b. Trung đoàn tôi không có tiểu đoàn 4 hay tiểu đoàn 5. Chỉ có D1 (K15), D2(K18) và D3 (K16).

     Nếu tài liệu bác TranLam99 đưa ra là đúng thì tôi không còn gì để kể nữa.

     Gửi các bác lời chào trân trọng.
ấy chết, bác tranlam99 đưa ra chỉ là tài liệu thêm thôi a, còn mọi người ở đây vẫn mong được đọc tiếp bài của bác, không chỉ là diễn biến trận đánh "nhìn từ trong ra", mà còn là suy nghĩ, tình cảm,... của bác lúc đó nữa.
Thông tin của bác tranlam thì có thể đọc được trong sách, chứ thông tin của bác thì chỉ có...đợi bác viết thôi.
Rất mong được đọc bài của bác!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 27 Tháng Tư, 2009, 11:07:20 pm

ấy chết, bác tranlam99 đưa ra chỉ là tài liệu thêm thôi a, còn mọi người ở đây vẫn mong được đọc tiếp bài của bác, không chỉ là diễn biến trận đánh "nhìn từ trong ra", mà còn là suy nghĩ, tình cảm,... của bác lúc đó nữa.
Thông tin của bác tranlam thì có thể đọc được trong sách, chứ thông tin của bác thì chỉ có...đợi bác viết thôi.
Rất mong được đọc bài của bác!

Hehe, bạn smilingmen nói đúng đó bác trongc6! Cái kia là thông tin trong sách sử F320. Còn chuyện của bác là chuyện kể của lính nó có cái hay riêng bác ạ!
-------------------
PS: Cái sư 25 VNCH cũng mang tên "tia chớp nhiệt đới" như Mỹ. Năm 72 quần nhau với sư 7 chủ lực Miền tại khu vực suối Tàu Ô hơn trăm ngày!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 27 Tháng Tư, 2009, 11:19:58 pm
Bác cứ tiếp tục nhé! Những kỉ niệm về một thời oanh liệt không dễ ai có thể viết thành nhật kí. Đây là nguồn tư liệu quí và là kinh nghiệm cho thế hệ sau này. Chúc bác khoẻ! nếu có điều kiện tôi cũng xin tham gia!

Bác " Nói Thẳng" em hợp gu với bác,nên em cũng trucngon luôn.Chúc mừng bác vào quansvn.net,bác à bác đã là lính,là cựu chiến binh,đây là sân chơi của của anh em cựu chiến binh,là nơi mình kể cho nhau nghe về những năm tháng chiến tranh trong đó có mỗi chúng ta.Bác không viết là có lỗi với anh em ở đây đó,mong bài của bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tranlam99 trong 27 Tháng Tư, 2009, 11:20:39 pm
Bác trongc6 à, thông tin tôi đưa ra là ở trong topic  "Lịch sử Đại đoàn Đồng Bằng - Sư đoàn 320 - Biên niên sự kiện 1951-2005" của quansuvn thôi

http://www.quansuvn.net/index.php?topic=4593.40

Phần này chỉ cho thấy được khung cảnh của cả trận đánh để nhìn thấy được mũi tiến công của đơn vị  bác ở đâu. Còn cái ác liệt thì thấy rõ vì trung đoàn 9 của bác đã bị địch bít cửa mở. Tuy nhiên trong sách lịch sử thì nhiều khi không có sự thật thực sự vì đó là chính sử (bác cũng thông cảm, cái này các bác CCB cũng than phiền nhiều). Rất mong bác cứ kể tiếp những hồi ức của mình. 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mực tàu 4 trong 27 Tháng Tư, 2009, 11:23:54 pm
Bác TRONG c6 ! Sao thế bác ?
Bác TRANLAM 99 chỉ đưa ra  vài chi tiết mà bác ấy lấy của người khác viết để chúng ta cùng tham khảo thôi chứ có gì đâu. Mà người viết thì nhiều khi nghe kể lại hoặc cũng nhặt từ cái nguồn nào đó . Tam sao thất bản . Ngay các sự kiện lớn của lịch sử hiện đại các ông ấy còn cho con em học sai nữa là . Bác là người lính trực tiếp cầm súng trong từng trận đánh . Lời kể của bác giá trị hơn nhiều vì nó có chất thật của lính . Nó có cái thực tế của chiến trường mà các ông kia ko biết hoặc có biết thì cũng ko thể nói ra được . Tiếp đi bác . Còn 24 tiếng nữa mới tạm gọi là hết chiến dịch . Một ngày cuối của cuộc chiến (lý thuyết ) . Em chờ bác cho ra nốt những sự kiện trọng đại đời lính của bác . Rồi thời gian quân quản nữa . cái này trên QUANSUVN hình như chưa có ai  nói tới .
 Nữa đi anh !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 27 Tháng Tư, 2009, 11:45:15 pm
hehe , mỗi lần nghe cái ông mực tàu này : nữa đi anh ! là em nổi da gà  ;D chắc bác mực tàu nghe câu này mỗi ngày hay sao ấy  ;D
@trongc6 : hehe , bác kể chuyện hay lắm tiếp đi bác , anh em trong này rất thật tình chứ không có ý gì đâu ạ , xung phong tiếp bác nhá  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh moi trong 28 Tháng Tư, 2009, 02:28:06 am
hehe , mỗi lần nghe cái ông mực tàu này : nữa đi anh ! là em nổi da gà    ;D chắc bác mực tàu nghe câu này mỗi ngày hay sao ấy  ;D
  "Sư phụ" mà còn nổi da gà thì chắc anh em tôi phải nổi ... da ngỗng  ;D Cứ có bác Haanh là có .... "vui vẻ"  ;)
Gửi bác Trọng : Bác cứ tiếp đi bác ! Bọn em đang mong nghe tiếp chuyện của bác . Biết đâu sau này các ông viết sử lại tham khảo bài viết của anh em CCB ở đây để sửa lại những gì viết thiếu , sai hoặc không chính xác .


   


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hatuyenha trong 28 Tháng Tư, 2009, 08:00:26 am
Bạn Trong c6 thân ,theo tôi tư liệu của bạn là chuẩn xác ,người ta viết sai lịch sử do nhiều nguyên nhân lắm: viết theo ý xếp,do lười tìm hiểu ,có người còn có mục đích cá nhân gì gì đó nữa,vì vậy QSVN rất cần những hồi ức của các bạn CCB xịn ta.Rất mong chờ các hồi ức tiếp theo của bạn.
 Chúc bạn khỏe ,nhớ và viết được nhiều hơn cho QSVN .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lethaitho trong 28 Tháng Tư, 2009, 09:03:25 am
Bác Trongc6 ơi!

Em vừa đưa lên toàn bộ cuốn lịch sử " Đoàn Bình giã - E1, F9 ". Em muốn tận tay ngồi gõ từng chữ ( dù hơi mỏi ) để xem lại lịch sử của chính cái trung đoàn mình từng sống và chiến đấu ( nếu số hoá thì không thể xem chi tiết như ngồi đọc và gõ ). Em thấy rằng, không đâu xa mới có cách nhau 15 - 20 năm thôi, người viết sử đã quên mẹ nó các sự kiện rồi. Ngày tháng thì sai, các sự kiện thì nhầm lẫn hoặc lờ đi ( vô tình hay cố tình ). Đọc mà thấy tức anh ách bác ạ.

Diễn đàn này mở ra là nơi anh em ta nói với nhau những chuyện rất thật của đời lính, nó có thể đã được ghi lại ở đâu đó hoặc chẳng có ai thèm biết tới.

 Viết tiếp đi bác ! Bác cứ viết những gì nó đã xảy ra, bọn em ngồi hóng cổ chờ bác đó!
( Em chỉ tiếc cái thời gian bắt đầu câu chuyện của bác nó gần 30/4 quá. Giá mà bác dịch lên từ 01/03/1975 thì em thích hơn... Em hơi bị tham mà )


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 28 Tháng Tư, 2009, 09:07:45 am
Trợ lý viết sử đáng nhẽ phải nằm ở ban Tác chiến, chứ đằng này lại hay nằm ở ban Chính trị!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: trucngon trong 28 Tháng Tư, 2009, 09:12:16 am
        Vài thông tin trả lời nhanh các bác thế này:

Trong chiến dịch HCM, F320A có các E làm nhiệm vụ sau:
- E48 mở cửa hướng Đông căn cứ Đồng Dù.
- E9b mở cửa hướng Tây Bắc căn cứ Đồng Dù.
- E64 hỗ trợ Đoàn DC 198 chiếm Cầu Bông cầu Sáng, sau đó đánh sân bay Tân Sơn Nhất.

     Căn cứ Đồng dù là hậu cứ Sư 5 VNCH chứ không phải Sư 25 (VNCH không có sư 25) chắc mấy ông viết sách nhầm vì hồi 1965 xây dựng, đây là căn cứ của sư 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ, sau khi rút thì sư 5 VNCH thế chân.

    Tôi ở D2 (K18), E9b. Trung đoàn tôi không có tiểu đoàn 4 hay tiểu đoàn 5. Chỉ có D1 (K15), D2(K18) và D3 (K16).

     Nếu tài liệu bác TranLam99 đưa ra là đúng thì tôi không còn gì để kể nữa.

     Gửi các bác lời chào trân trọng.
Cho tôi được tham gia ý kiến về vấn đề này!
Đây là mũi tiến công theo hướng Tây Bắc của quân đoàn 3 do Vũ Lăng là tư lệnh, Đặng Vũ Hiệp là chính uỷ.Gồm các sư 316, 320A, và 10. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu là đập tan sư 25 nguỵ(Lý Tòng Bá là sư trưởng) tại căn cứ Đồng Dù.Sư 25 ngụy đảm nhiệm phòng thủ tại các khu vực Trảng Bàng, Củ Chi, Đồng Dù, Hậu Nghĩa.
Còn sư 5 ngụy đảm nhiệm Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương, cùng với các sư 22, 18 một số lữ thủy quân lục chiến đảm nhiệm vòng ngoài bảo vệ nội đô Sài Gòn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lethaitho trong 28 Tháng Tư, 2009, 09:14:48 am
Trợ lý viết sử đáng nhẽ phải nằm ở ban Tác chiến, chứ đằng này lại hay nằm ở ban Chính trị!

Ừ, lão trung úy Nguyễn Anh Tính này ở ban chính trị Trung đoàn thật!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 28 Tháng Tư, 2009, 09:31:17 am
      Vài lời bày tỏ với các bác:

         - Cảm ơn các bác đính chính, và tôi xin lỗi các bác là trí nhớ kém quá. Không hiểu sao tới giờ tôi (và anh em lính đồng ngũ khi gặp mặt) khi ôn về trận Đồng Dù vẫn cứ nghĩ cái Sư của chuẩn tướng VNCH Lý Tòng Bá là sư 5. Hóa ra sư 25 mới đúng. Vậy tôi sẽ sửa lại đôi chút để gửi tiếp bài các bác đọc.

       - Tôi rất sợ cái trách nhiệm viết sử, vì mình không có nhiệm vụ đó, không có tài liệu để biên soạn. Tôi chỉ xin kể để các bác nghe dưới góc độ người lính, tôi đã thấy gì, nghĩ gì, không dám có ý định đính chính sử sách. Vì thế có thể tôi kể không chính xác được cảnh toàn trận, cũng như không nói lên được rõ quân số tham gia hay số tổn thất của trận đánh, các bác bỏ qua cho.

       -@bác LeThaiTho: Khi tôi đăng ký QSVN để viết bài thì đã là ngày 23/4/2009 rồi, nên đành kể từ mốc đó. Thời gian trước thì để ngày 40/4 qua đi, tôi sẽ dần dần kể. Mà kể dông dài từ mùa xuân 1971 được không bác?




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 28 Tháng Tư, 2009, 09:37:39 am
Ái chà bác có chơi Lamson719 không? Hê hê, các bác cựu oánh Mỹ đã vào nhiều rồi!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: angko krao trong 28 Tháng Tư, 2009, 10:00:37 am
      Vài lời bày tỏ với các bác:

         - Cảm ơn các bác đính chính, và tôi xin lỗi các bác là trí nhớ kém quá....  Mà kể dông dài từ mùa xuân 1971 được không bác?

Xin chào bác Trongc6 ! Bao nhiêu năm tháng đã qua + bao biến động của cuộc sống, sự nhầm lẫn của trí nhớ là chuyện bình thường thôi bác à ! ::) Bác cứ viết tiếp những hồi ức của bác để chia sẻ cùng ACE trong QSVN. Bác cứ "dông dài" từ khi nhập ngũ, tới ngày ra quân và tới bây giờ luôn cũng được ! ;D Nhiều người ngóng bài của bác đấy!  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hatuyenha trong 28 Tháng Tư, 2009, 10:21:24 am
Hoan hô chuyện lính của đ/c Trongc6, bạn hiểu trách nhiệm viết SỬ nặng nề quá,bạn và đồng đội cửa bạn chính là  CHÍNH SỬ đấy ,tất cả anh em trong QSVN đều đang ngóng trông những dòng hồi ức của các bạn  ,đặc biệt những ngày không thể quên này đối với mỗi CCB chúng ta,bạn cứ kể nhé ,từng chuyện từng chuện mà bạn nhớ được .Cám ơn bạn nhiều.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mig21q trong 28 Tháng Tư, 2009, 11:56:36 am
Thế là bác Trọng - Đại đội 6 đã quen với tác phong của quansu rồi, tuyệt quá. Em rất tự hào là đã chào mừng bác đầu tiên ;)
Úi, bác vào Nam từ năm 71 cơ ạ, thế thì phải gọi bác bằng chú xưng cháu rồi; đến các sếp nhà cháu đến cuối 72 mới vào E271 - miền Đông Nam bộ mà cháu vẫn gọi bằng chú.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hoangdang_hm trong 28 Tháng Tư, 2009, 02:12:26 pm
 Tiếp đi bác Trọng ơi, mấy cái chiến dịch như Lam Son 719, Đồng Dù... bọn cháu toàn nghe là " đánh rất lớn, thắng lớn " mà không thấy ai mô tả chi tiết trận đánh cả. Ngoài ra, hình như bây giờ căn cứ Đồng Dù cũng trở thành doanh trại QDND rồi thì phải. Hôm nọ cháu đi Củ Chi , qua khu đó thấy vậy!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lethaitho trong 28 Tháng Tư, 2009, 02:15:56 pm
Úi giời! Quá quý quá quý!!!

Bác cứ dông dài câu chuyện để mua vui chừng...nghìn trống canh là ổn bác ạ! ;D ;D

Tính em cứ tham thế đấy, bác thông cảm và...chiều em nhé!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 28 Tháng Tư, 2009, 04:13:24 pm
          … Trời sáng dần. Cái ánh sáng của ngọn đèn pha trở nên vàng nhạt yếu ớt, nhòa dần trong không gian. Chúng tôi đã nhìn rõ bóng một tên lính đứng trong cái chòi trên cao, nhưng chắc nó cũng chưa phát hiện ra cái gì ở bãi đất trước mặt trong cảnh còn tranh tối tranh sáng thế này. Trời sáng hơn chút nữa thì có một tên lính khác lên thay gác. Thằng kia đã tụt xuống quá nửa chòi.

   5 giờ sáng.
   Đúng cái giờ nổ súng truyền thống quen thuộc của đơn vị rồi. Một vài tiếng đề-pa phía xa rồi nghe tiếng gió vút xoẹt qua đầu và tiếng pháo nổ sập vào trong căn cứ. Phía trong khu hàng rào trước mặt bừng lên chớp sáng nhòa mắt, cùng tiếng nổ rầm trời của loạt mìn định hướng C5 đánh hàng rào.  Rồi chớp lửa liên tiếp và tiếng nổ rộ lên cả vùng không gian trong khu hàng rào. Hỏa lực các loại tại chỗ của E đã khai hỏa. Tôi nhìn rõ một trái đạn DK nổ trúng cái ống đèn pha khiến nó tắt ngóm. Phát DK thứ hai nện đúng cái chòi cao có tên lính gác, cả cái chòi vỡ tung ra. Lại nhìn rõ tên lính đổi gác đang tụt phía dưới buông tay nhào luôn xuống đất. Rồi cối pháo mù trời, cả pháo to và H12 của Sư đoàn và mặt trận xoèn xoẹt bay vào nổ tung trong căn cứ, lẫn các loại cối pháo của E cấp tập nện vào khu đầu cầu. Từ phía sau nghe tiếng nổ nhằng vào nhau nhưng rất rành mạch, phân biệt rõ từng loại đạn. Tôi nhoài người nhô cao hẳn khỏi mặt đất quan sát, lúc ấy thật hệt như xem phim vậy. Đây là lần thứ hai tôi thấy tiếc là bên cạnh mình không có tay phóng viên hay quay phim quân đội nào để ghi hình lại. Sẽ là những thước phim thật và vô giá. Các hỏa lực cá nhân như B40, B41 hay cối M79 của C5 chưa thể bắn được vì tầm còn quá xa, và còn để dùng lúc xung phong. C chúng tôi cũng chỉ quan sát và chờ đợi.

   Sau chừng vài phút thì tiếng 12ly7 phía trước bắt đầu "pành pành" rộ lên. Trời chưa sáng hẳn nên còn nhìn rõ các đường đạn vạch lên nhằng nhịt trong không gian. Tôi biết là các khẩu đội này bắt đầu bắn chế áp yểm hộ cho bộ binh đem bộc phá lên phá nốt hàng rào. Theo kế hoạch, hai lớp rào ngoài cùng sẽ  do công binh E cắt phá trong đêm. Sau đó họ đặt mìn định hướng trong 4 lớp rào tiếp theo, có liên kết bằng dây nổ để nổ đồng thời khi có lệnh điểm hỏa. Hai lớp rào trong cùng sẽ do C5 đem bộc phá lên đánh. Bây giờ chính là lúc anh em C5 đang lên đánh nốt hai lớp hàng rào.

   Lúc này súng địch đủ các loại cũng bắt đầu bắn mạnh ra. Tôi vẫn nhô cao được đầu quan sát, vì các loại hỏa lực của địch đang còn tập trung bắn vào khu vực cửa mở.

   Vài chục phút trôi qua. Như các trận đánh cứ điểm thông thường thì bây giờ cửa mở đã mở thông, pháo cấp trên bắt đầu bắn chuyển làn vào trong, còn hỏa lực bộ binh tại chỗ thì cấp tập đợt hai để bộ đội xung phong. Thê đội hai cũng nhổm đít là vừa để bám theo vượt qua đầu cầu đánh thọc vào tung thâm.

   Vậy mà vẫn chưa thấy gì. Pháo cấp trên bắn vào sâu bên trong đã thấy thưa dần. Cái cứ điểm này quá lớn khiến mấy chục phút bắn pháo không đủ sức áp đảo. Ngay cả tiếng súng trên hướng cửa mở phía Đông của E48, chúng tôi cũng chẳng nghe thấy gì, chắc xa quá. Hỏa lực tại chỗ của E cũng đã nhạt dần. Chỉ còn tiếng 12ly7 thỉnh thoảng mới rộ lên một hồi, thưa thớt kèm theo tiếng bộc phá nổ loãng toẹt trong không gian mênh mông. Âm thanh thống soái bây giờ chủ yếu là tiếng cối và M72 của địch đều đặn nã ra khu cửa mở, thi thoảng xen một tràng đại liên nhưng cũng chẳng có gì là cuống quít. Chúng đang rất bình tĩnh và chắc đã từng gặp cảnh này.

   Thời gian cứ trôi. Cả C tôi (C6) đều hiểu rằng C5 chưa mở xong hàng rào và chỗ tắc nhất định là tại hàng rào cũi lợn. Nơi đó trống trải, gần địch hơn ta nên khó khăn tất không tránh khỏi. Nếu C5 không mở thông rào thì sẽ tới lượt C tôi. Điều đó cũng có nghĩa C5 đã tổn thất nặng, hết bộc phá. Hỏa lực chi viện cạn, không đủ sức áo đảo thì với hơn chục ống bộc phá trong tay, chắc chúng tôi cũng sẽ lâm cảnh như C bạn. Bộ binh đem bộc phá ống lên đánh hàng rào mà không có chi viện hỏa lực thật mạnh thì không khác gì những bia di động chậm. Mà lúc này sao vẫn chưa thấy xe tăng của ta đâu. Vẫn biết xe tăng không thể vượt qua hàng rào cũi lợn, không thể tấn công vào khi cửa mở chưa thông, nhưng chúng tôi vẫn hy vọng mơ hồ vào điều gì đó ở những chiếc lô cốt di động lúc này.

   Chừng 8 giờ sáng thì cũng có tiếng xe tăng nổ phành phạch ở hướng khu rừng cao su sau lưng chúng tôi. Một chiếc, hai chiếc… rồi bốn chiếc xuất hiện. Vượt qua phía trước mặt chúng tôi, cả 4 chiếc tăng T54 đã sắp hàng dọc thẳng hướng của mở. Nếu mọi sự tốt đẹp thì đúng như hiệp đồng, những chiếc tăng sẽ rồ máy, tăng tốc, vừa chạy vừa nã pháo và 12ly7 vào cửa mở, còn chúng tôi cũng bật dậy bám sát, vượt qua mấy trăm mét cửa mở rồi bung ra đánh cận chiến với bộ binh địch. Thế mà chúng tôi vẫn không thấy có lệnh gì. Tiến được thêm vài chục mét, nã được vài phát pháo thì cả 4 chiếc tăng bỗng lùi lại rồi xoay ngang chắn ngay trước mặt chúng tôi. Đang khi lúng túng ấy, chiếc tăng đi đầu bị pháo địch bắn cháy. Một chiếc tăng khác vừa xoay ngang chếch trước hầm tôi vài chục mét cũng ăn trọn một phát pháo địch, đứt xích. Từ một chỗ nào đó dưới gầm xe tăng, 4 người lính tăng lóp ngóp chui ra rồi lom khom chạy thẳng về hầm chúng tôi. Họ chia nhau rúc chung vào mấy cái hầm của lính B tôi, không quản chật chội. Tôi hỏi một người lính tăng: "Sao chưa vào mà các ông đã quay lui". Anh ta bảo: "Tử sĩ các ông nằm ngổn ngang chật cửa mở thì vào sao được? Chẹt nát các ông à?".

    Rồi mấy người lính tăng vừa khom người vừa chạy trở lại rừng cao su. Hai chiếc tăng kia cũng đã lùi chạy sâu vào khuất trong rừng cao su. Từ đó trở đi không còn thấy bóng dáng xe tăng phối thuộc nữa.
...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tran479 trong 28 Tháng Tư, 2009, 04:30:27 pm
Những dòng ...:"thật :"sử , ngậm ngùi mặc niệm cho người nằm xuống ở những ngày cuối cuộc chiến .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mrdonkey trong 28 Tháng Tư, 2009, 09:41:22 pm
 Cảm ơn Quân Sử Việt Nam , cảm ơn các bác các chú các cô cựu chiến binh...
 Nói lời cảm ơn có lẽ chưa đủ để thể hiện sự biết ơn của cháu , vì nhờ có những câu truyện rất "đời" về người lính của các bác  , các chú , các cô , mà cháu có được kiến thức rất bổ ích về những sự kiện lịch sử đã qua.
Sau khi đọc hồi ức của bác Trongc6 , đó cũng là cái nhìn từ phía bên kia , phía đối nghịch của cha và chú của cháu cách đây hơn 34 năm., qua đó cháu thấy được những hình ảnh rất nhân bản của chú bộ đội , không còn khô cứng và đáng sợ như trước đây nữa ( lúc đó cháu chưa biết quansuvn.net , cháu chỉ nghe những câu chuyện của cuộc chiến qua lời kể của cha và chú ) .
 Cháu sẽ chờ theo dõi từng chữ từng dòng của bác Trongc6 mỗi ngày cho đến khi bác kể hết chuyện ...   


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 28 Tháng Tư, 2009, 10:57:31 pm
             ... Thời gian lại trôi. Chẳng ai phổ biến tình hình, chẳng ai ra lệnh gì và chúng tôi vẫn ngồi trong hầm chờ đợi.

   Chợt thấy súng nổ rộ lên phía bên kia rừng cao su sau lưng. Toàn tiếng súng bộ binh. Nghe rõ tiếng B40, B41, M79 và xung lực AK. Uỳnh oàng chực hai chục phút thì thấy lính ta ào ào xông ra từ rừng cao su, tiến về phía chúng tôi. Viện binh kiểu gì thế này. Bọn mới tới té ra là lính K15 cùng E. Chúng nó là D dự bị cho D tôi (K18). Đang dự bị phía trước thì ở phía sau, chúng nó phát hiện thấy xe địch chạy rầm rầm. Hóa ra có một đơn vị địch bị ta đánh mạnh phải rút chạy từ Trảng Bàng về, định hội quân với bọn trong căn cứ Đồng dù. Bất ngờ gặp địch, K15 quay ngược lại thành đội hình phục kích, đánh luôn. Đang hoảng loạn tháo chạy, bị đánh vỗ mặt bất ngờ, cả đám quân địch tan ngay. Đánh xong, lính K15 thừa khí thế chủ động vượt luôn qua rừng cao su chi viện cho chúng tôi. Chúng nó tưởng Đồng Dù sắp giải quyết xong rồi.

   Lính K15 nằm rạp ngay trên mặt đất xen kẽ với C tôi rồi đì đùng nã súng vào căn cứ. Đúng là vô duyên. Từ đây vào đến lô-cốt (đất) của địch cũng gần ba trăm mét. Hỏa lực bộ binh thì hết tầm không tới, còn AK thì bắn chim à. Phí cả đạn.

   Tình hình trở nên bất lợi cho ta. Địch điều được cả một chiếc tăng M48 ra bít hướng cửa mở. Quan sát mãi chúng tôi cũng đã hiểu ra rằng cái căn cứ này xây dựng ác chiến thật. Bao quanh toàn bộ căn cứ (phía trong hàng rào) là một con đê đất cao chừng mét rưỡi. Trong con đê đó đó chúng mới xây lô-cốt và các công sự. Bên trong bờ đất có một con đường quai chạy sát cạnh. Ngoài các loại DK và cối từ công sự bắn ra, cái xe tăng M48 cũng như một lô-cốt di động với hỏa lực pháo bắn thẳng rất mạnh. Tất cả các cụm hỏa lực chi viện tại chỗ của E chúng tôi trên cửa mở phải thu súng tụt xuống hầm. Chỗ nào còn nhô lên hoặc lộ ra là bị pháo địch dầm nát. Lính hỏa lực E cũng hy sinh nhiều.

   Lúc này phía giữa cửa mở đã yên ắng. Địch bắt đầu rảnh tay quay sang xử lý bọn lính K15 lúc này đã lộ trơ trên mặt đất. Ngoài đạn cối (cái món này nguy hiểm vô cùng cho hầm không có nắp), chúng còn bắn quét đại liên. Chỉ một chặp sau, lính K15 phải rút vào rừng caosu, lại hy sinh và bị thương một số. Lúc này khu vực C tôi cũng nằm trong tầm đạn của địch. B tôi đã có 2 chiến sĩ bị đạn trúng đầu khi nhô lên hơi cao. Tôi lấy cái thông nòng chọc vào cái mũ tai bèo dâng cao lên một chút để thử, cũng bị ăn luôn phát đạn. Bực cả mình.

   Chưa có trận đánh nào chúng tôi lâm vào cảnh bí rì như bây giờ. Đánh trên Cao nguyên, tầm quan sát hẹp, nhiều vật che khuất che đỡ nên rất yên tâm, không có cái kiểu bị địch không chế thế này.

   Gần trưa, trời bỗng đổ mưa. Mưa rất to, nước tràn vào hầm rất nhanh, người ướt lẹp nhẹp. Rồi mưa lại đột ngột dừng, trời quang trong veo. Đất thịt pha cát nên thấm rất nhanh. Lại phải sửa lại hầm vì mưa đã làm đất cát trôi vào hầm rất nhiều.

   Thế là đã qua nửa ngày trời chúng tôi bị giam chân chết dí. Đánh đấm kiểu này chán thật. Rồi Tiểu đoàn lệnh cho C tôi cử người bò lên cửa mở giúp cho thương binh C5. Tử sĩ đã đành, nhưng thương binh cũng phải nằm bẹp từ sáng, có đưa được về phía sau đâu. Một B được cử lên. Chỉ có bò thoài loài trên mặt đất như những con thạch sùng. Địch vẫn quan sát và chúng lại nổ súng mãnh liệt. Chưa lên tới chỗ C5  mà trung đội đã bị hy sinh quá nửa. Một bên lộ diện không nổ được súng, còn một bên cứ bình tĩnh từ trong công sự ngắm bắn thì làm gì mà quân ta chả tổn thất. Tiểu đoàn đành chấp nhận thu lệnh, để bộ đội nằm tại chỗ, chờ thời cơ. Lúc này chỉ trừ C tôi còn chút hỏa lực cá nhân, còn các đơn vị khác trên cửa mở cũng hết cả đạn rồi mà không thể nào tiếp tế. C7 thì nằm tít sau chúng tôi, nhưng chúng tôi còn nằm đây thì chúng nó cũng chưa thể lên được.

   Mệt mỏi, về tinh thần là chính. Chưa lần nào chúng tôi đánh trận bị dai dẳng thế này. Trừ các trận vây ép đã xác định là dài ngày, còn các trận công phá cứ điểm khác thường chỉ gọn trong buổi sáng. Cũng có trận đánh không nổi, bị thương vong nhiều thì rút lui. Lúc này người cứ nôn nao, bồn chồn. Không thấy no, cũng không thấy đói. Nhưng vẫn phải lấy cơm ra ăn cho nó qua bữa. Trệu trạo nhai, cố nuốt. Chưa chính thức nổ súng mà tinh thần anh em trong B đã có phần giảm rồi. Chỉ huy đại đội cũng lo. Chính trị viên cũng nằm dí một chỗ, chẳng thể bò qua lại mà động viên chiến sĩ.

   Đầu giờ chiều, ta tiêu diệt được chiếc xe tăng M48 của địch. Một khấu đội DK còn sót lại trên cửa mở của Trung đoàn đã dũng cảm bất ngờ dùng DK82 bắn cháy chiếc xe tăng đó.
....


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mực tàu 4 trong 29 Tháng Tư, 2009, 02:09:31 am
Vừa đội mưa về đến nhà háo hức đọc chuyện của bác Trọng . Lòng ngậm ngùi tiếc thương bậc cha anh đã ngã xuống .Vẫn biết chiến thắng nào cũng có hy sinh mất mát. Nhưng tổn thất thế này là quá xót. Sau trận này '' Rút kinh nghiệm , xét thành tích '' ra sao bác Trọng ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hatuyenha trong 29 Tháng Tư, 2009, 10:26:16 am
Hôm nay Hà nội trời mưa,sáng lướt qua QSVN nhưng vội đi họp giao ban Đảng bộ phường nên đành ghìm cảm xúc lại đi cho kịp.
Băng mưa trở về,nước mắt tràn trề nhớ thương các đồng đội ngã xuống trước giờ chiến thắng năm 1975.
Cám ơn những hồi ức của bạn Trọng c6.Nhờ bạn  mà những thương nhớ các liệt sỹ cụ thể hơn,rõ ràng hơn,
sáng láng hơn  .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: TimeBreak trong 29 Tháng Tư, 2009, 03:56:40 pm
Cháu luôn theo sát những bài viết của các Chú, các chú đã mang lại cái khốc liệt nơi trực tiếp đối diện với họng súng kẻ thù ....

Cháu cảm ơn các Chú 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khue_caua trong 29 Tháng Tư, 2009, 04:23:11 pm
Tôi hỏi một người lính tăng: "Sao chưa vào mà các ông đã quay lui". Anh ta bảo: "Tử sĩ các ông nằm ngổn ngang chật cửa mở thì vào sao được? Chẹt nát các ông à?".

Cháu nghĩ,quân đội NDVN chiến thắng mọi kẻ thù chính là đây.Đồng đội như chân với tay bỏ làm sao được.Không thể để đồng đội hy sinh đến hai lần.Cháu có đọc"Sự kiện và nhân chứng" thấy nói trận Xuân Lộc phải xếp tử sĩ 2 bên cửa mở,chỉ để một lối để xe tăng hành tiến.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 29 Tháng Tư, 2009, 05:01:23 pm
   ...           
            Khoảng 2 giờ rưỡi chiều, phía con đường (từ Trảng bàng kéo về đi ngang qua cổng chính căn cứ Đồng Dù) bỗng rộ lên tiếng xe tăng ầm ầm. Hóa ra theo kế hoạch của trên, trong lúc Sư tôi đánh Đồng Dù chưa dứt điểm, Sư 10 đã được lệnh cùng xe tăng thẳng đường cái tiến vào Sài gòn, bỏ qua các vị trí của địch bên đường. Tất nhiên gặp chốt chặn của lính VNCH thì đánh mà tiến. Cả đoàn xe pháo của ta ầm ầm kéo qua ngay trước cổng căn cứ Đồng Dù đã đánh đòn tâm lý mạnh vào tụi lính trong căn cứ, khiến chúng hoang mang, hoảng loạn.

   Thấy có dấu hiệu địch trong căn cứ nhốn nháo, Tiểu đoàn chớp thời cơ lệnh cho bộ đội xung phong. Tôi lập tức dẫn trung đội vọt lên. Phía cứ điểm địch chỉ có một vài loạt đạn bắn thẳng ra nổ yếu ớt rồi im bặt. Chúng tôi vẫn nhằm thẳng hướng cửa mở chạy vào. Đoạn chạy qua nửa phía trong cửa mở (dài hơn trăm mét) là một cảnh tưởng gây xúc động mạnh. Xác bộ đội ta hy sinh nằm la liệt suốt dọc hai bên cửa mở. Nhiều tử sĩ nằm vắt miệng hố, nửa người dưới chìm trong đất cát vì cơn mưa, chỉ còn một phần người nhô lên, súng văng bên cạnh. Thảo nào xe tăng sợ chẹt lên tử sĩ, không dám chạy vào, cũng phải.

    Tại khu vực bố trí hỏa lực của E, cảnh tượng cũng gần như vậy. Tại khu hàng rào cũi lợn sát gần bờ đất của căn cứ, tử sĩ nhiều hơn. Tôi nhận ra cả anh Khung, một B trưởng cứng trong C tôi vừa mới được điều qua C5 làm C phó tháng trước nằm ngửa người cạnh một hố pháo.

   Cả một hàng rào cũi lợn cao 40 phân có độ rộng tới 5 mét hầu như còn nguyên. Trong lòng hàng rào này thấy lô nhô dăm ba chiếc đầu 3 râu của quả mìn râu tôm (mìn nhảy). Tôi phải nhắc anh em đi theo đúng bước chân mình, rồi bước thấp bước cao như kiểu đi tiềm nhập vượt qua khu ràng rào. Bọn địch trong công sự không bắn ra phát nào nữa, chứ nếu không làm sao chúng tôi vào nổi. Lác đác trên mặt các công sự phía trong thấy có vài tên địch phất dù trắng. Khi chúng tôi vào sát gần thì dù trắng phất nhiều hơn. Chỉ còn toàn lính, chắc tụi sĩ quan đã chạy hết.

   Bỏ qua bọn chúng, chúng tôi vượt qua con đường vành đai tiến thẳng vào trong cứ. Ngay trong căn cứ, địch cũng phân khu và ngăn cách nhau bằng một hàng rào kẽm gai đơn. Chúng tôi cứ theo hướng trung tâm tiến thẳng. Gặp rào phân khu, tôi cho bộ đội dùng bộc phá ống đánh thông rồi vượt qua. Chỗ chúng tôi tiến vào hình như là khu huấn luyện tân binh. Có đến dăm chục tên ngồi trật tự trên một bãi trống, khuơ dù trắng. Chỗ khác thì gặp rất nhiều tên bị thương xếp thành hàng, hai tay giơ cao qua đầu. Hầu như chúng tôi không phải chiến đấu. Các hỏa lực B40, B41 và M79 không bắn được phát nào. Chỉ có AK thỉnh thoảng bắn thị uy vài loạt. Một đôi chỗ thấy cửa hầm sâu, gọi hàng vài tiếng không thấy gì, chúng tôi quăng thủ pháo vào rồi vượt qua nơi khác.

          Vượt qua vài phân khu (cỡ dăm trăm mét), chúng tôi hội quân được với lính E48 cũng từ phía Đông kéo lại. Điều đó chứng tỏ tình hình E bạn cũng không hơn gì chúng tôi, và giờ này chúng nó cũng mới vào được trong cứ điểm.

   (Sau này tôi có được họp quân chính, được nghe lại chiến lệ của trận đánh Đồng Dù, nhưng nó khác xa những gì tôi đã gặp. Ngay cả những tài liệu hay sử sách sau này viết về F320, về trận Đồng Dù cũng không giống như những điều tôi đã kể trên. Có lẽ phải thế thôi, vì sự thật diễn ra trần trụi quá. Rồi sau này nữa, khi về lại Củ Chi gặp và nói chuyện với du kích hay dân Củ Chi, họ đều nói rằng năm xưa bộ đội giải phóng cũng từng đánh vào Đồng Dù của Sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ, nhưng thất bại. Họ còn khẳng định là nếu như còn trong năm 1974 thôi, thì cả sư tôi cũng chẳng thể động vào được sư 25 VNCH khi đánh vào căn cứ Đồng Dù. Tôi tin điều đó là thật, vì nếu không có sư 10 hành quân xe pháo qua gây áp lực tâm lý, chắc gì bọn địch đã buông súng đầu hàng. Đáng buồn thay).    

       Chúng tôi cùng lính E48 tổ chức tảo thanh. Nơi chúng tôi bắt tay nhau là một khu gia binh. Trong nhà nào cũng thấy đồ đạc vứt bừa bãi, lộn xộn, quang cảnh của sự tháo chạy vội vã. Rồi chúng tôi vào một khu nhà Quân tiếp vụ to lớn (giống như cửa hàng bách hóa ngoài Bắc). Hàng hóa nhiều vô kể, đủ loại, nhìn hoa cả mắt. Có rất nhiều thứ chúng tôi không biết nó là cái gì. Lính tráng xả Ak bắn tan tành (Bây giờ nghĩ lại mới thấy lãng phí, thấy vô tổ chức). Còn những món quen thuộc, thiết thân như thuốc lá (Rất nhiều thuốc Rubi Queen), đường, sữa hộp và đồ hộp thì lính thi nhau khuân ra cửa. Khuân ra rồi cũng lại vất đấy thôi vì mỗi thằng có tham cũng chỉ đem theo được một ít. Nhiều lính còn khui những chai bia 33 cổ rụt ra uống. May không ai say. Rồi chúng tôi cũng phải thu quân theo lệnh tiểu đoàn.

   Nghe trên phổ biến nhanh: Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư 25 VNCH bị du kích địa phương bắt sống hồi chiều khi đang cùng một số sĩ quan thân cận trốn ra ruộng khoai bên ngoài căn cứ Đồng Dù.
 
   Tối đó C tôi nghỉ quây lại cạnh một khu gia binh. Anh nuôi lấy gạo địch nấu cơm (gạo Thái hạt dài ngon tới mức  nấu lên chỉ cần rưới mắm cũng chén được không biết no). Thức ăn không cần nấu vì đã có đồ hộp nhiều (thịt gà, cá, thịt lợn, loại hộp 200 gam) lấy của địch, ai muốn ăn bao nhiêu tùy thích. Buổi tối không họp, không rút kinh nghiệm gì hết, tất cả ngồi nghỉ ngơi, uống cà phê hút thuốc thơm, muốn nghĩ gì thì nghĩ. Khác những trận trước vì chúng tôi không phải giải quyết thương binh tử sĩ mà được nghỉ thảnh thơi ngay sau trận đánh. Mà cũng chẳng dám nghĩ gì nhiều, vì mai chúng tôi lại hành quân tiếp, lại đánh nhau và ai biết được mình sẽ ngã xuống khi nào. Đêm đó chúng tôi trải nilon nghỉ bên ngoài, không dám vào trong nhà ngủ, đề phòng bất trắc.
...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lethaitho trong 29 Tháng Tư, 2009, 06:01:32 pm
Một sự thật trần trụi và bi thương!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mực tàu 4 trong 29 Tháng Tư, 2009, 06:19:46 pm
Phù ...!Thế chứ . Chẳng nhẽ cứ chết mãi . Đọc chuyện của bác thấy lòng khi thăng khi giáng . Còn đêm cuối cùng của cuộc chiến . Cafe thuốc thơm như vậy mà trải nilon ngủ sao đành . Biết là rất mệt nhưng cố lên bác Trọng . Đừng để đêm nay em thao thức chờ chuyện của bác .
 Nữa đi anh!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 29 Tháng Tư, 2009, 07:47:04 pm
 Em có ý kiến nhỏ với bác Trọng : hàng rào cao 40 phân mà bác gọi là hàng rào cũi lợn  thì bọn em gọi là hàng rào vướng chân .Còn hàng rào cũi lợn cũng đan ngang dọc như vậy nhưng cao quá đầu người .Em quen mấy anh bên e 48 f320 đánh Đồng dù họ cũng nói là phơi áo tại cửa mở gần nửa trăm .Có chiến thắng nào mà không xây bằng xương máu đâu ,cứ theo sử sách thì  đường ra trận toàn hoa thôi


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 29 Tháng Tư, 2009, 09:40:45 pm
Em có ý kiến nhỏ với bác Trọng : hàng rào cao 40 phân mà bác gọi là hàng rào cũi lợn  thì bọn em gọi là hàng rào vướng chân .Còn hàng rào cũi lợn cũng đan ngang dọc như vậy nhưng cao quá đầu người .Em quen mấy anh bên e 48 f320 đánh Đồng dù họ cũng nói là phơi áo tại cửa mở gần nửa trăm .Có chiến thắng nào mà không xây bằng xương máu đâu ,cứ theo sử sách thì  đường ra trận toàn hoa thối

thống kê sau chiến tranh chống Mỹ là hơn 3 triệu người Việt ngã xuống,không lẽ là bị sốt rét ác tính? Vậy mới cần đến anh em mình,kể chuyện cận cảnh hơn.Em là em chúa ngán mấy chuyện kể kiểu tổng kết báo cáo,đọc nó dội lắm.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 29 Tháng Tư, 2009, 09:45:23 pm
@Tai_Lienson:

          Có thể là sai về tên gọi hàng rào, nhưng đúng là hình dáng nó thế đấy. Lúc vào, thấy nó gần như còn nguyên. Đạn lửa chỉ làm mặt đất chỗ đó trơ ra, lộ cả đầu râu tôm của các quả mìn. Lúc đi qua phải đi từ từ, luồn chân bước thấp bước cao.

         Hướng cửa mở E48 bị tắc, chắc cũng tại cái hàng rào này. Bác cứ hình dung lính bộ binh ôm quả bộc phá ống dài 1,2 mét lom khom lên luồn vào đó đánh phá từng chút một, trong khi hỏa lực chi viện của ta nằm phía sau cả trăm mét, còn thằng địch trong công sự phía trước cách chỉ có vài chục mét, địa hình hoàn toàn trống trải thì sao mà chả thương vong nhiều.

         Lính E48 nói hy sinh chỉ có từng đó là đã bớt đi rất nhiều đấy bác ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 29 Tháng Tư, 2009, 09:56:49 pm
Viết thêm đoạn này theo yêu cầu bác Mực Tàu 4:

         Đúng là không ngủ được.

   Đơn vị nào trong trung đoàn trông coi tù binh, ở chỗ nào thì không biết. Nhưng chỗ C tôi trú quân thì mọi sự yên ắng. Trong cả căn cứ đêm đó không hề xảy ra chuyện tàn binh phản kích. Phía địch, ai chạy  đã chạy thoát, còn lại đều đã qui hàng. Có lẽ tất cả hai bên đều hiểu tình thế lúc này. Cuộc chiến đấu lần này nhất định sẽ đánh đến tận cùng, ngã ngũ bằng được mới thôi. Mà phần thắng nhất định sẽ thuộc quân giải phóng. Quân lực VNCH càng ngày càng hao quân, suy yếu trông thấy, chắc chắn không thể gượng lại được. Nhưng sự hy sinh của bộ đội ta chưa phải đã hết. Chúng tôi là người lính đang trên khí thế chiến thắng, không ai lo nghĩ gì cho riêng mình. Chẳng ai lo rằng mình có thể hy sinh hay không. Nếu chuyện phải đến thì sẽ đến, vậy thôi.

   Nhưng quả thực là đêm đó không ngủ được. Lính tráng thức đêm quen rồi, nhiều đêm còn chịu được thì đêm nay mới là đêm thứ hai chẳng có vấn đề gì. Nhưng cái thao thức này khác lúc thao thức trước giờ ra trận. Cảnh vật thì như trong đô thị, dù chỉ thắp giấy dầu. Không gian rộng thênh thang, mình như người chủ nhưng cũng chỉ được đi lại loanh quanh trong khu vực nhỏ.

   Không rút kinh nghiệm, không bàn tán, lo lắng, nhưng chúng tôi cứ nghĩ là không hiểu địch còn nhiều căn cứ thế này không. Chứ cái kiểu đánh trận như hôm nay thì không phải sở trường của chúng tôi. Chúng tôi vốn chỉ quen tác chiến rừng núi thôi. Hôm nay chúng tôi đã chiếm được căn cứ, nhưng chiến thắng không tự tin, không hồ hởi. Tổn thất nhiều quá. Nói thật là lúc đó chúng tôi chưa biết được khi nào chiến tranh sẽ kết thúc, nên chưa có cái ngậm ngùi nghĩ nhiều về đồng đội ngã xuống trước giờ chiến thắng. Suy nghĩ tình cảm cũng vẫn giống như sự tiếc thương anh em bình thường như những trận đánh khác thôi.

   Chỉ có cái khác là mọi khi đánh trận xong thì rút về hậu cứ. Bây giờ sẽ là hành quân tiếp. Mà không hiểu sao đêm đó chúng tôi không tổ chức lau chùi súng đạn. Đạn AK vẫn có một viên lên nòng như thông lệ. Cà phê thuốc lá đấy, nhưng không túm tụm đông. Không ồn ào. Mỗi người ngồi một góc rồi tự ngủ lúc nào không biết. Đêm đó vẫn phải tổ chức gác như mọi đêm…



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: smilingmen trong 29 Tháng Tư, 2009, 10:14:21 pm
Cháu đọc loạt bài vừa rồi của bác trongc6, cứ dội lên mấy băn khoăn suy nghĩ. Nhưng cũng thật may là lần lượt bác trongc6 cũng đã giải thích hết. Có thể những băn khoăn ấy không phải  của riêng ai:
- Đầu tiên, có lẽ phải đặt trận đánh trong không khí thần tốc, hơi thở gấp gáp của những ngày cuối cùng của chiến tranh. Như bác trongc6 nói chưa biết chiến tranh kết thúc lúc nào, nhưng cảm nhận chắc chắn phải rất gần rồi. Thế nên mới có chuyện bộ đội nằm phơi lưng nửa ngày trong tầm đạn địch. Nếu là 1 vài năm trước 75, chắc chẳng vị chỉ huy nào để như vậy; mà quân lực VNCH cũng sẽ gọi máy bay, gọi pháo... chứ cũng chả chịu ngồi yên trong cứ.
- Cháu có cảm giác công tác chuẩn bị cho trận đánh chưa kỹ. Bằng chứng là bộ binh đến thực địa thì gặp nhiều bất ngờ với địa hình, địa vật, biết có "hàng rào cũi lợn" mà chưa có phương án khắc phục. Thế nhưng trong hoàn cảnh của những ngày cuối tháng 4 ấy, chắc không thể trì hoãn thêm được. Và bù vào đó, là xương máu của người lính trên chiến trường.
- Cuối cùng, như bác trongc6 đã nói,
.. Nói thật là lúc đó chúng tôi chưa biết được khi nào chiến tranh sẽ kết thúc, nên chưa có cái ngậm ngùi nghĩ nhiều về đồng đội ngã xuống trước giờ chiến thắng. Suy nghĩ tình cảm cũng vẫn giống như sự tiếc thương anh em bình thường như những trận đánh khác thôi.

Bây giờ nhìn lại thì thấy xót xa quá. Nếu biết ngày mai thắng lợi, không biết tâm lý người chiến sỹ sẽ ra sao? (rất may, hay không may, là ở đời không có chữ nếu)
... ngày này 34 năm trước... các anh sống mãi, trẻ mãi tuổi đôi mươi...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hoangdang_hm trong 29 Tháng Tư, 2009, 11:38:49 pm
 Đọc bài của bác Trọng xong tự nhiên cảm thấy bức bối,ấm ức,  gần giống như khi cháu đọc xong truyện " Ăn mày dĩ vãng" của Chu Lai. Rất khó quên. Rất thực. Cái giá phải trả cho chiến thắng đắt quá mà ngày chiến thắng cũng đã gần kề rồi. Liệu những người đã ngã xuống lúc đó có khi nào nghĩ rằng chỉ ngày mai, ngày kia thôi đất nước mình sẽ độc lập không nhỉ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: daibacvn trong 30 Tháng Tư, 2009, 12:45:41 am
Đúng là chiến tranh không phải trò đùa mặc dù ai lúc đó cũng có khỉ thế cao vì chiến thắng đang rất gần... muốn giải quyết một căn cứ được xây dựng và bố trí tốt như Đồng Dù là cả một vấn đề, có lẽ lúc đó bên ta cũng không ngờ địch còn phản ứng mạnh mẽ như vậy nên có tư tưởng chủ quan chăng?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: phơn phớt trong 30 Tháng Tư, 2009, 12:50:59 am
Em có điều hơi khó hiểu muốn hỏi các bác CCB. Tại sao mình biết là phải đánh nhanh, không kịp trinh sát, nắm tình hình kỹ, địa hình lại trống trải như vậy mà không đánh luôn ban đêm, lại phải để đến sáng rõ mới đánh thì có phải càng phơi ra cho nó bắn không.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mực tàu 4 trong 30 Tháng Tư, 2009, 01:31:20 am
Em có ý kiến : Sáng nay ta tập trung theo bác Trọng vào giải phóng Sài Gòn . Vụ Đồng dù , hết chiến dịch ta lập hội nghị phân tích nguyên nhân , đánh giá vai trò của từng bộ phận , từng cá nhân . Cán bộ tham mưu các cấp tìm thêm tư liệu để tham gia hội nghị .Bác trọng sau khi cho anh em hưởng cảm xúc hoàn toàn chiến thắng . Cố nhớ lại những chi tiết của ĐD mà các nhà viết sách đã ‘’ quên’’ . Em tin bác và các chiến hữu của bác là người trong cuộc thế nào chả rõ . Chứ chúng em hậu sinh chỉ thấy nói quân ta thế mạnh như chẻ tre . Tiến tới đâu địch hoảng sợ tự tan rã đến đấy . Đánh nhau dễ quá


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: smilingmen trong 30 Tháng Tư, 2009, 02:13:34 am
Chứ chúng em hậu sinh chỉ thấy nói quân ta thế mạnh như chẻ tre . Tiến tới đâu địch hoảng sợ tự tan rã đến đấy . Đánh nhau dễ quá

Nhưng vụ Đồng Dù này thì (theo bác trongc6 kể) đúng là ta (sư 10) tiến qua, thế mạnh như chẻ tre nên định hoảng sợ tự tan rã còn gì bác  :) Nói thế không có nghĩa là không có công của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống ở cửa mở, và cả bác trongc6 và đồng đội tiến vào nữa


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mực tàu 4 trong 30 Tháng Tư, 2009, 02:55:11 am
Em ko nói là ta ko mạnh . Có mạnh thì ta mới chiến thắng toàn cuộc chứ . Trong hào quang chiến thắng vẫn có một mảng xám thương vong là điều đương nhiên . Máu cha anh ta đổ xuống ko phải là vô nghĩa . Nhưng cũng có lúc người lính nằm xuống mà ko thanh thản . Bác chưa hiểu ý em .Em muốn nói để sau ta phân tích trận ĐD .Sách vở của ta thường nói một chiều ít khi nêu cụ thể cái thương vong mất mát , cái tàn khốc đến lạnh lùng của cuộc chiến .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: barcaboy trong 30 Tháng Tư, 2009, 05:16:33 am
Bác Trọng ơi, sao đánh khó thế mà ko xin thêm pháo, thêm vài quả A-1, A-37 rải thảm thì họ khóc ra tiếng mán chứ làm sao mà sống đc!

Trong tình trạng khó khăn như thế, hỏa điểm của địch lại lộ hết ra thế rồi, câu Kachiusa vào khéo cũng giải quyết xong vấn đề tâm lý với mấy ông VNCH ở bên trong.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: danngoc trong 30 Tháng Tư, 2009, 05:22:55 am
Em nghĩ cũng có thể đây là trận nghi binh của các bác nhằm tạo điều kiện cho SƯ 10. Nghiêng mình kính cẩn các bác, kết thúc 1 sự nghiệp vĩ đại hơn 100 năm của dân tộc.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 30 Tháng Tư, 2009, 05:28:47 am
Sơ sơ thì câu chuyện của trongc6 đã lệch so với sử 320A về thời gian kết thúc trận đánh.
Sử ghi 11h30, ở đây thì khoảng 2 giờ chiều thế trận mới thay đổi (!!!)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 30 Tháng Tư, 2009, 07:41:49 am
        Gửi bác Tuaans cùng tất cả các bạn.

       Tôi vào đây kể lại vài hồi ức chỉ vì quan niệm đây là sân chơi của các CCB và những người yêu đời lính. Tôi chỉ muốn kể lại cảm nhận của mình khi đó thấy thế nào, nghĩ ra sao để chia sẻ cùng tất cả. Như bài trước tôi đã nói là tôi không có ý định đính chính cái gì cả.

       Tôi viết bài vì nghĩ đây là sân chơi tự nguyện của một tổ chức "phi chính phủ" (Tất nhiên là có những qui định phù hợp Hiến pháp). Còn nếu trang này là của Bộ QP hay Tổng cục CT lập ra thì tôi sẽ vẫn để những hồi ức của mình chỉ được ôn trong những ngày anh em lính cũ gặp mặt, không dám tự tiện post lên đây.

       Còn việc mổ xẻ tình tiết trận đánh, rút kinh nghiệm (thậm chí viết chiến lệ) thì người ta đã làm xong từ lâu rồi. Tôi cũng chỉ là một người lính đâu hiểu hết mọi thứ lúc ấy. Mình chỉ là một con "tốt", chỉ có tiến, đâu có lùi được mà lý sự.

        Mạo muội đôi lời, mong được lượng thứ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 30 Tháng Tư, 2009, 08:34:19 am
   Vừa nhận lệnh "đ/c Vợ" khẩn trương dọn dẹp để chuyển "Hậu cứ", vì thế phải vội hoàn thiện bài viết kết thúc cho trọn chiến dịch HCM, còn kịp chia tay các bác.

         Sáng ngày 30/4/1975.

   Cả đơn vị dậy từ mờ sáng. Anh nuôi nấu cơm. Tất cả ăn vội vã, đùm cơm rồi tập trung. Chúng tôi hành quân ra thẳng theo hướng cổng chính. Xe hậu cần của đơn vị đỗ sẵn ngoài cổng để các B tranh thủ bổ sung cơ số đạn. Rồi tất cả lên đường, nhằm thẳng hướng Sài gòn mà tiến. Cả đơn vị cứ rồng rắn thẳng đường cái to mà đi.

   Chừng quá nửa buổi sáng, loáng thoáng nghe chính quyền Dương Văn Minh kêu gọi binh lính VNCH buông súng. Đang ngơ ngác thì lại nghe phổ biến không được chủ quan. địch chỉ đang đánh đòn tâm lý. Lại hành quân vội vã hơn. Gần trưa nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng thật. Thế là hết đánh nhau, hết chiến tranh rồi ư. Tiểu đoàn truyền lệnh tạt vào một vườn cây ăn quả của dân bên đường để nghỉ trưa. Lệnh trên cấm không bắn súng, không hò reo. Lính tráng rì rầm bàn tán. Thuốc lá thơm bỏ ra hút thả phanh.

   Sẩm tối, đại đội được lệnh tạt vào một thôn cạnh đó để nghỉ. Chẳng biết gọi vùng này là vùng ta hay địch. Không có du kích địa phương. Nhưng người dân chấp nhận chúng tôi một cách bình thản, không tỏ ra vui mừng, không sợ sệt. Họ cho nghỉ nhờ ngoài vườn, cho củi nấu cơm. Đêm đó chúng tôi vẫn tổ chức mỗi B một trạm gác. Trong đêm, vẫn nghe thấy tiếng súng đì đạch nơi xa.

   Lại một đêm nữa không ngủ. Bây giờ mới nghĩ nhiều hơn về những thằng vừa ra đi trong trận đánh hôm qua. Bởi vì chiến thanh hình như đã kết thúc. Lúc đó chưa ai nói dến từ Giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngày 30 tháng tư chỉ mới hiểu là ngày địch đầu hàng. Nhưng rất có thể không còn đánh trận nữa.

   Hôm sau chúng tôi được nghỉ tại chỗ. Vẫn nghỉ trong vườn nhà dân, chưa được đi tắm giặt. Buổi trưa đại đội phổ biến tình hình: Đêm qua tại Sài Gòn, do say sưa chiến thắng, nhiều đơn vị không quản lý chặt để bộ đội đem súng ra bắn chơi, đã có nhiều người đi chơi lẻ đã bị bọn tàn quân thừa cơ bắn lén mà ta không phát hiện được vì lẫn tiếng súng. Tiếc thay.

   Rồi có lệnh hiện nay bộ đội trong thành phố sài Gòn quá đông nên các đơn vị còn ở ngoài không được vào nữa mà phải rút nhanh ra ngoài tạo chỗ đứng chân, đề phòng các đơn vị địch vẫn còn chưa tan rã.

   Chúng tôi rút về Củ Chi. Ngày sau nữa thì cả Sư cùng vào chia nhau đóng quân trong căn cứ Đồng Dù. Dọn dẹp nơi ở còn phát hiện nhiều thứ của địch bỏ lại. Có đơn vị còn lục ra nguyên cả một kho hậu cần của địch. Tuy có lệnh trên đem nộp tập trung để chia cho Trạm xá, Sư bộ … nhưng hầu như ai tìm thấy gì là được hưởng thứ đó. D tôi quản nguyên một kho pháo sáng, một kho đồ hộp và một bãi hơn trăm chiếc xe máy Honda địch bỏ lại.

   Đồ hộp thì đem giao lưu cùng các D khác đổi lấy đường, sữa. Pháo sáng thì đêm đêm khi gác đem ra rìa căn cứ bắn ra cánh đồng. Mỗi ống pháo sáng to như ống liều phóng B40, rút ống nắp ra lắp ngược ra ngoài rồi vỗ mạnh hoặc dập xuống nền gạch là quả pháo sáng bay vút ra, lơ lửng treo trên một cái dù nhỏ. Có đến mấy mầu sáng khác nhau.

   Riêng món xe máy thì khá đặc biệt. Cấp trên không thu (mà thu lại để làm gì vì lúc này các loại xe GMC, xe DOT, xe Jep còn để đầy trong căn cứ). Hầu như không ai biết đi, lại chẳng có xăng. Thanh niên quanh vùng rất nhạy. Nhiều gã thanh niên áo bó chẽn, quần loe ống, tóc dài đi theo đường cánh đồng lối phụ mà vào căn cứ. Họ làm quen với chúng tôi, gạ gẫm đổi chác. Lúc đầu vui vẻ, chúng tôi cho họ thích cái xe máy nào cứ lấy, tự dắt ra. Về sau chính họ đề nghị đổi hai tút thuốc lá lấy một xe. Cứ thế mà bãi xe vơi dần. Quái hơn nữa là thằng Th. "mốc", lính C5 (Lính C5 hy sinh nhiều nhưng được bổ sung san sẻ lại cho khỏi bị xóa sổ) vừa đem cho dân xe, vừa dắt dấu ra gửi nhờ nhà dân tới 3 chiếc xe Honda. (Sau này năm 1976 ra quân, nó quay lại nhà dân tìm xin lại hai chiếc, bán một chiếc lấy lộ phí và đem một chiếc ra Bắc. Nó là thằng duy nhất trong đơn vị có xe máy Honda đem về nhà khiến cả xã lác mắt).
   
          Chúng tôi ở căn cứ Đồng dù ít ngày thì được chọn một số tham gia tập đội ngũ để duyệt binh 15/5 ở Sài Gòn. Rồi thời gian sau đó lại tập tành đội ngũ, lại tập xạ kích nhưng chủ yếu vẫn là học chính trị. Đến tháng 6/1975 thì có chế độ phát phụ cấp tháng bằng tiền (tiền miền Nam). Cứ chủ nhật có chế độ nghỉ ngơi, 1/5 quân số được xe GMC của tiểu đoàn chở vào Sài Gòn chơi. Chơi theo hướng dẫn, 4 giờ chiều xe lại chở về. Phải làm thế không có mang tiếng lính tham gia chiến dịch HCM mà không biết mặt mũi Sài Gòn. Thế mà khối thằng cũng chưa biết mùi vị bát hủ tiếu như thế nào. Sài Gòn rộng quá, chỉ chơi Sài gòn một lần thì thật đúng là chỉ biết đến Sài Gòn như thày bói xem voi.

   Chúng tôi được nghe đài thường xuyên. Rồi vài bữa lại được xem truyền hình. Cái này thật mới lạ. Ở ngoài Bắc, giữa năm 1971, Hà Nội đã phát thử nghiệm chương trình truyền hình. Thế nhưng đã mấy ai được nhìn thấy cái Vô tuyến truyền hình mà trong Nam này gọi là Ti vi nó như thế nào.

          Tự nhiên thấy nhớ nhà...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 30 Tháng Tư, 2009, 09:51:36 am
   
  Tôi vào đây kể lại vài hồi ức chỉ vì quan niệm đây là sân chơi của các CCB và những người yêu đời lính. Tôi chỉ muốn kể lại cảm nhận của mình khi đó thấy thế nào, nghĩ ra sao để chia sẻ cùng tất cả. Như bài trước tôi đã nói là tôi không có ý định đính chính cái gì cả.    

Bác Trongc6 không cần phải đính chính!

Đây là "kỷ sử" của bác, là trận đánh trong ký ức hằn sâu của bác. Người trực tiếp tham gia hẳn có lý do để nhớ, có nhiều điều để nhớ hơn là các tổng hợp đôi khi sai lệch, hoặc tệ hơn là vô tình của những người được giao nhiệm vụ viết lại.
"Lịch sử trung đoàn Bình Giã" do tự tay bác Thọ gõ phím mà bác ấy thấy cũng lệch thời gian, đôi khi bức xúc nên thỉnh thoảng bác ấy lại chua thêm một đoạn "chữ nghiêng có màu vàng vàng". ;D
Các cuốn sử của các đơn vị thì nhiều ông CCB có mặt trong diễn đàn như Tran479, yta262, khanhhuyen... đều than phiền về tính chính xác.
Còn tôi thì than phiền về cách viết: Lệch thời gian là một chuyện. Song thiếu Sự kiện - vốn là cốt lõi của Sử, nhưng lại thừa khẩu hiệu với quyết tâm chung chung. Đó là cái bệnh quan liêu của các trợ lý chính trị!
Tôi muốn ví dụ như trận Uđông ròng rã cả tháng trời với rất nhiều hy sinh mất mát và hành động anh hùng của binh lính sĩ quan VN. Các chi tiết dù nhỏ nhưng chọn lọc sẽ làm người đọc hiểu hơn. Như chuyện 12 chiến sĩ trung đoàn 1 hy sinh tại bờ đông sông Mekong do đánh nhau nhầm với Hải quân ta, chuyện địch bẫy cối nổ tức thì ở U Đông, chuyện hạ sỹ Bạch Đại Nghĩa diệt cụm địch 7 tên bằng trái B.41 duy nhất...Những chi tiết điển hình không thể bỏ được
Nhưng trong Sử "Sư đoàn 9", sử Trung đoàn Bình Giã", Sử Sư đoàn 5".....vv và vv...thì chỉ vài dòng đáo qua. Trong khi những câu thường thấy điển hình chung chung xuất hiện đầy rẫy, dạng như: " ...Được sự chỉ đạo sát sao của Đảng uỷ Sư đoàn, sự quan tâm giúp đỡ của Đảng uỷ trung đoàn, sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân bạn; đơn vị củng cố quyết tâm chiến đấu....băng qua tầm hoả lực địch, tiến như vũ bão, đập tan mọi sự kháng cự của quân thù ngoan cố ....'  
Ha ha ha ...............! Hùng tráng quá !  :P :P :P


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 30 Tháng Tư, 2009, 09:56:32 am
 Được biết  bác Trinh sát bà cũng đánh Đồng dù sao không thấy phối hợp nhỉ ? hay đó là bác trọng  ?Trinh sát bà ơi bác ở đâu ???


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: china trong 30 Tháng Tư, 2009, 10:41:10 am
 Trận Đồng Dù này em đọc một bài viết trên báo  của ông Tướng nào đó bảo rằng chiếc M48(M113?!) bị một chiến sĩ bộ binh đứng thẳng lưng dùng B41 bắn hạ, chiến sĩ nào sau đó được phong anh hùng.
 Cũng theo bài báo này ngay tại cửa mở đã hy sinh hơn 100 chiến sĩ.
 Nhưng theo những tổng kết chiến dịch HCM thỉ trận Đồng Dù khác xa.
BÂy giớ nghe Bác kể mới thấy...ôi chính sử ???


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 30 Tháng Tư, 2009, 11:52:56 am
Trận Đồng Dù này em đọc một bài viết trên báo  của ông Tướng nào đó bảo rằng chiếc M48(M113?!) bị một chiến sĩ bộ binh đứng thẳng lưng dùng B41 bắn hạ, chiến sĩ nào sau đó được phong anh hùng.
 Cũng theo bài báo này ngay tại cửa mở đã hy sinh hơn 100 chiến sĩ.
 Nhưng theo những tổng kết chiến dịch HCM thỉ trận Đồng Dù khác xa.
BÂy giớ nghe Bác kể mới thấy...ôi chính sử ???
Đó là anh Sơn ở E48 320 .Anh Sơn khi đánh K là C phó cảnh vệ F .Còn tôi đọc trong  Sự kiện và nhân chứng năm 2005 có bài của nguyên chính ủy E48 nói e hy sinh 61 người .đánh Đồng dù có 3 cửa mở , mũi48 vào sớm có vẻ thiệt hại ít nhất


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: yta262 trong 30 Tháng Tư, 2009, 12:59:25 pm
...
Tôi nhoài người nhô cao hẳn khỏi mặt đất quan sát, lúc ấy thật hệt như xem phim vậy. Đây là lần thứ hai tôi thấy tiếc là bên cạnh mình không có tay phóng viên hay quay phim quân đội  nào để ghi hình lại. Sẽ là những thước phim thật và vô giá.
...


Có đó bác Trọng ơi, bác tìm thử các phim tài liệu của QDNDVN chắc sẽ thấy những thước phim của trận này:

"Sau ngày 10-3, trên các mặt trận, chiến sự diễn ra dồn dập. Cục diện giữa ta và địch càng chênh lệch rõ rệt, chiến thắng ngày càng gần. Trước tình hình đó, ĐAQĐ quyết định ra quân tổng lực. Dưới sự chỉ huy của quyền giám đốc Trần Việt, tất cả đạo diễn, biên kịch, quay phim đều được lệnh hành quân vào chiến trường. Đến lúc này, đội quân làm phim đã có mặt tại các chiến trường miền Nam gần 40 người. Họ chia làm nhiều mũi, bám theo hướng đánh của các đơn vị chủ lực. Nhóm Phạm Hanh, Lê Hợi tiến về Quảng Ngãi, nhóm Ngọc Minh,Trần Anh Trà theo lên Đà Lạt. Nhóm Chí Tân, Nguyễn Sớm tiến về Đồng Dù, Củ Chi, nhóm Hoàng Văn Bổn, Ngô Đăng Tuất theo mũi Xuân Lộc và Hồ Quốc Vi, Thành Thái, Trịnh Rãng... xuống tàu ra Côn Đảo, Trường Sa... Còn lại mũi chủ yếu do Trần Việt chỉ huy gồm : Phùng Đệ, Đặng Xuân Hải, Chí Tân, Bùi Xuân Thiện... băng qua Đà Nẵng lên Tây Nguyên, vượt Bù Đăng, Bù Đốp hội quân ở “R” để chuẩn bị cho chiến dịch thần tốc - chiến dịch Hồ Chí Minh.

Không thể nói hết được sự khó khăn gian khổ và cả sự hy sinh của những người cầm máy và tham gia làm phim. Ở Hố Nai (Xuân Lộc) cửa ngõ phía Bắc Sài Gòn đã diễn ra những trận đánh ác liệt, dai dẳng. Quân địch ngoan cố “tử thủ”. Còn các chiến sĩ Giải phóng cũng quyết sinh. Trên vai áo, trên vành mũ của họ đều được viết đậm dòng chữ “quyết thắng”. Những người làm phim cũng thực sự tham gia chiến đấu bên cạnh những người lính. Họ đã thu vào ống kính những hình ảnh quí giá của trận đánh ác liệt này. Còn ở khu vực Đồng Dù, Củ Chi, quân ta tiến đánh sư 25 của địch. Ở trận đánh này ta đã bắt sống tên tướng Lý Tòng Bá. Hai nghệ sĩ Nguyễn Sớm và Chí Tân đã ngày đêm bám sát các mũi xung kích, ngay cả lúc trời còn chưa sáng rõ để chớp thời cơ. Trước cửa mở Đồng Dù, Chí Tân đứng sau cây rơm để quay đạn bắn thẳng của địch không làm anh hề hấn gì. Nhưng, một trái pháo của địch đã hất tung cây rơm...  Riêng mũi của Phạm Huyên đã có may mắn chộp được giây phút quân ta tiến đánh vào Bộ tổng tham mưu ngụy và ghi được hình ảnh lá cờ giải phóng tung bay trên nóc nhà Bộ tổng tham mưu ngụy."

http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1229.msg46928#msg46928 (http://www.quansuvn.net/index.php?topic=1229.msg46928#msg46928)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: danngoc trong 30 Tháng Tư, 2009, 01:28:40 pm
Liên Xô khi chuẩn bị đánh Berlin đã có tổ chức khá chu đáo, cả về tâm lý lẫn trang thiết bị. Nếu như bác Trong kể thì quân ta (hay cánh của bác) không thấy chuẩn bị gì cả về tinh thần lẫn vật dụng cho Chiến thắng cuối cùng.

@bác Trong: tụi em vô cùng hưởng ứng các bác, có vài nhận xét như của bác Tuanns sẽ làm hồi ký của bác sinh động thêm mà thôi, mong bác đừng giận mà mất hứng, tư liệu của bác quý giá vô cùng, nhất là trong những ngày này.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: smilingmen trong 30 Tháng Tư, 2009, 02:41:36 pm
Bác trongc6 ạ, từ lâu cháu rất muốn biết không khí xã hội và tâm trạng người lính những ngày cuối cùng của chiến tranh giải phóng, đặc biệt là từ ngày 30/4 ra sao. Qua sách vở thì chỉ ca ngợi, miêu tả chung chung, ai cũng biết là hồ hởi, vui sướng tột cùng, nhưng cụ thể thế nào? Còn những người mà cháu có điều kiện hỏi thì vì nhiều lý do khác nhau mà không thể hiện được. Bác là người trong cuộc, lại có khả năng viết, nên những gì các bác viết ra đây đối với chúng cháu thực sự quý giá. Nếu chúng cháu có hay chen ngang hỏi han vài câu thì cũng chỉ là vì không hiểu, muốn được giải đáp thắc mắc mà thôi. Cháu hiểu là có thể đối với bác, nhiều điều không nên hỏi hay không nên đặt vấn đề, hay "không hiểu nổi tại sao chúng nó lại nghĩ (hỏi) thế?". Mong bác đừng phiền lòng nhé.
Đợi các bài tiếp theo của bác. Cháu rất muốn được sống trong không khí của ngày chiến thắng, dưới ngòi bút của bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 30 Tháng Tư, 2009, 06:33:12 pm
Sơ sơ thì câu chuyện của trongc6 đã lệch so với sử 320A về thời gian kết thúc trận đánh.
Sử ghi 11h30, ở đây thì khoảng 2 giờ chiều thế trận mới thay đổi (!!!)
Theo như bác  Trọng thì khi vào đã thấy tù binh ngồi thành hàng nghĩa là đã có đơn vị đánh qua đó, họ vào trước  đơn vị của bác Trọng


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dksaigon trong 30 Tháng Tư, 2009, 11:13:52 pm
Tôi có mặt tại sài gòn từ ngày 28/4 , nghe ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi đang ở ngòai đường phố Sài gòn từ Q10 qua Q5, sáng 30 coi như đã ngã ngũ trên đường phố dân vẫn đi lại gần như bình thường, vẫn mua bán! . Bác Trongc6 có nhận xét về dân tình người sài gòn rất đúng là bình thản không vui mừng cũng không sợ sệt!, những nhận xét này mới chỉ từ năm rồi trên một số bài viết đăng báo của các cựu chiến binh có mặt giải phóng Sài gòn 30/4. Người Sài gòn nói riêng và người miền nam ở các đô thị cũng đã quen với chiến tranh trong thành phố từ hồi Mậu thân và tâm trạng cũng biết rõ kết cuộc của cuộc chiến vào những ngày cuối tháng 4/75 với suy nghĩ cũng mong chiến tranh chấm dứt! Tâm lý và suy nghĩ về những ngày giải phóng Sài gòn, chấm dứt chiến tranh của các bác tham gia ngày ấy thì tôi cũng được nghe nhiều bác cựu nói như bác Trọng!
Đêm 30 giờ này 34 năm trước, sau những năm dài " đại bác đêm đêm vọng về thành phố " và tiếng súng giao tranh những ngày trước ngay cửa ngõ SG! thì lần đầu tiên có một đêm hoàn toàn không tiếng súng, một sự vắng lặng kỳ lạ với một thành phố lớn như SG! đêm ấy tôi ngủ trên nóc xe tải nhà đậu trên lề đường Nguyễn Hoàng Q5 với nhiều ký ức cười ra nước mắt! buổi chiều súng ống vứt đầy đường phố người lớn tránh xa thì ngược lại đám trẻ con lại nhặt súng huơ huơ rồi chỉa lên trời xiết cả băng! cảnh tượng này chắc chỉ có ở VN! rồi chuyện hôi của... mặt mày rạng rỡ cũng có, ôm đầu máu vì bị cướp lại cũng có...!
sáng mùng 1 các cửa ngõ SG kẹt cứng vì tòan bộ hệ thống đèn tín hiệu không họat động! đến tối tôi mới trở về đến được BH, nhờ đó mà cũng được tiếp xúc với các anh bộ đội Bắc Việt, cảm nhận đầu tiên là các anh cũng hiền và vui vẻ nếu không muốn nói là hơi... ngố!
Vài dòng ký ức xin được góp lại của một người dân trong những ngày lịch sử!
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 01 Tháng Năm, 2009, 09:39:38 pm
        Gửi bác Tuaans cùng tất cả các bạn.

       Tôi vào đây kể lại vài hồi ức chỉ vì quan niệm đây là sân chơi của các CCB và những người yêu đời lính. Tôi chỉ muốn kể lại cảm nhận của mình khi đó thấy thế nào, nghĩ ra sao để chia sẻ cùng tất cả. Như bài trước tôi đã nói là tôi không có ý định đính chính cái gì cả.

       Tôi viết bài vì nghĩ đây là sân chơi tự nguyện của một tổ chức "phi chính phủ" (Tất nhiên là có những qui định phù hợp Hiến pháp). Còn nếu trang này là của Bộ QP hay Tổng cục CT lập ra thì tôi sẽ vẫn để những hồi ức của mình chỉ được ôn trong những ngày anh em lính cũ gặp mặt, không dám tự tiện post lên đây.

       Còn việc mổ xẻ tình tiết trận đánh, rút kinh nghiệm (thậm chí viết chiến lệ) thì người ta đã làm xong từ lâu rồi. Tôi cũng chỉ là một người lính đâu hiểu hết mọi thứ lúc ấy. Mình chỉ là một con "tốt", chỉ có tiến, đâu có lùi được mà lý sự.

        Mạo muội đôi lời, mong được lượng thứ.


@trongc6:
Nhà em đọc về sự kiện này ở cả hai cái -sử 320 và câu chuyện kể ở đây, thấy khác thì nói khác. Đó là chuyện bình thường. Còn nói nhà em tin 1 trong hai, cái nào à? Nhà em chả tin cũng chả bác bỏ cái nào! :)
Em cũng có nhiều chuyện lắm nhưng không có khả năng viết được "mượt" như bác. Bác lính xe tăng nói đúng, thật là "những mảnh rời kí ức" ... ráp nối lại thật khó!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 02 Tháng Năm, 2009, 07:33:40 am
 Mạo muội với bác  Trọng : cũng như Tuân em mò đọc lại sử F320 và nhớ lại chuyện kể của mấy người bạn bên e48 ( Khi ở K có đi phối thuộc cùng và khi ra bắc  bọn em học bổ túc CD cùng nhau mà ) thi em nghĩ là chỉ huy D bên bác lừng khừng ,cửa mở đẫ thông ,chỉ còn cái vướng chân như bọn  em học là cứ đạp vào cọc gỗ mà chạy ,mặt khác các bác còn bộc phá ống thì cứ đút vào mà nổ  ,dễ hơn các laọi hàng rào khác là phải dựng bộc phá mới đánh được .Về thời gian khi tác chiến có trợ lý họ theo dõi ghi nhật ký rất kỹ  nhất là trận quan trọng như thế này cho nên nói sử viết sai là không công bằng ,E48 vào trong gặp các hàng rào phân khu họ hết bộc phá phải gí súng Ak bắn từng sợi dây thép gai một để mở cửa  rất lâu .Như vậy là qua bác kể tù binh đã ngồi thành hàng ,địch không phản ứng .... rõ ràng là do bạn (E48) đã làm chủ trận đánh  D mới ra lệnh cho các bác xung phong và vì địa hình rộng các bác mới có chỗ để tảo thanh .Khi viết sử hoặc báo cáo lên trên những yếu kém thường bị dấu đi do đó họ tóm các d của e9 vào luôn cùng e48 cho đẹp nên có độ lệch về thời gian


Tiêu đề: Chiến lệ
Gửi bởi: altus trong 02 Tháng Năm, 2009, 08:03:06 am
Nhân tranh luận của các bác tôi muốn hỏi.

Trước nay tôi vẫn nghĩ chính sử quân chủng, quân đoàn, sư đoàn, các đơn vị, tài liệu công khai của NXB QDND hay các quân khu... thường có nhiều yếu tố "xấu che tốt khoe", chắc các bác ở đây đều biết rõ.

Tuy nhiên theo tôi hiểu chiến lệ QDND VN thì lại khác, không công khai, và được biên soạn kỹ lưỡng, chính xác, để cán bộ chiến sỹ và các thế hệ sau rút ra những bài học, nhiều khi phải trả bằng xương máu của các lớp cha anh mới có được, để tiết kiệm máu xương cho người đi sau.

Nay bác trongc6 cho biết đến cả chiến lệ người ta cũng "đánh bóng", tôi hoang mang quá. Làm thế, có phải là một phần thiếu trách nhiệm với lớp hậu sinh? Các bác thấy thế nào?


Tiêu đề: Re: Chiến lệ
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 08:59:03 am
Nhân tranh luận của các bác tôi muốn hỏi.

Trước nay tôi vẫn nghĩ chính sử quân chủng, quân đoàn, sư đoàn, các đơn vị, tài liệu công khai của NXB QDND hay các quân khu... thường có nhiều yếu tố "xấu che tốt khoe", chắc các bác ở đây đều biết rõ.

Tuy nhiên theo tôi hiểu chiến lệ QDND VN thì lại khác, không công khai, và được biên soạn kỹ lưỡng, chính xác, để cán bộ chiến sỹ và các thế hệ sau rút ra những bài học, nhiều khi phải trả bằng xương máu của các lớp cha anh mới có được, để tiết kiệm máu xương cho người đi sau.

Nay bác trongc6 cho biết đến cả chiến lệ người ta cũng "đánh bóng", tôi hoang mang quá. Làm thế, có phải là một phần thiếu trách nhiệm với lớp hậu sinh? Các bác thấy thế nào?
Chẳng ai đi công khai những điều rút ra đuợc từ bao xương máu, để cho thằng địch nó biết, nó rút kinh nghiệm nó táng cho mình trận sau đau hơn, bác nhỉ?

Trích về Điều lệnh chiến đấu:
-------------------
SƠ kết, tổng kết chiến đấu:

- Nội dung chính cần sơ kết, tổng kết:
+ Kiểm điểm việc thực hiện quyết tâm, đánh giá kết quả, rút ưu khuyết điểm trận đánh, tìm nguyên nhân thành công và thất bại.

+ Từ kiểm điểm, rút ra những kinh nghiệm chính về địch, ta, về tổ chức chỉ huy, về kỹ thuật, chiến thuật, xây dựng huấn luyện đơn vị...

- Khi tiến hành sơ kết, tổng kết, yêu cầu phải có:
+ QUan điểm thực tiễn, tôn trọng sự thật đã xảy ra.
+ Quan điểm phát triển, rút ra những kết luận phục vụ cho xây dựng và tác chiến sắp tới.

...

- Cấp được quyền công nhận kết quả chiến đấu phải là cấp có tương đối đủ khả năng phương tiện xác minh kết quả chiến đấu. Nói chung phải là cấp sư đoàn trở lên, chủ yếu là cấp chiến dịch mới được quyền công nhận.
+ Cấp sư đoàn được quyền công nhận những trận đánh của đại đội, tiểu đoàn
+ Còn thì tập trung quyền hạn vào cấp chiến dịch và Bộ (Với chiến trường gần mà Bộ có khả năng nắm được chắc).

---------------
Đối chiếu với quy định trên, thì trận ĐỒng Dù là tấn công cỡ Sư đoàn (?) thiếu.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 09:42:15 am
Ví dụ về chuyện Báo cáo tổng kết chiến đấu trận Hội Sanh (Tài liệu do Mỹ thu được năm 1966)
(Tài liệu này em đã post bên topic Kỷ vật của các chiến sỹ QGP trong KCCM, box Xẻ dọc Trường Sơn)

(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/KCCM/1966_BaocaotrantapkichHoiSanh_Page_.jpg)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 09:42:29 am
(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/KCCM/1966_BaocaotrantapkichHoiSanh_Pa-1.jpg)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 09:42:40 am
(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/KCCM/1966_BaocaotrantapkichHoiSanh_Pa-2.jpg)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 02 Tháng Năm, 2009, 10:04:02 am
  Tôi không học về lý luận chiến lệ nhưng đã nghe nhiều về chiến lệ  thấy rằng Đã gọi là chiến lệ thì thường là trung thực về hướng ,mũi ,thời gian còn về  kết quả là còn phải bàn vì chiến lệ cũng là do người của đơn vị làm cho nên có chỗ nói quá cho "oách" ví dụ : số lượng địch bị diệt ,hoặc khi đánh gặp may địch bỏ chạy nhanh nhưng cứ nói là địch chống cự ,ta xử lý này nọ vv..


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: _new trong 02 Tháng Năm, 2009, 10:49:16 am
Em xin góp cái tranh về hàng rào cũi lợn (rào vướng chân) cho bác nào chưa biết dễ hình dung (xem lại mới thấy mình vẽ sai toét, em xin sửa):

Rào hình cũi:
(http://i84.photobucket.com/albums/k16/vo_quoc_tuan/IMG_1275.jpg)

Rào vướng chân:
(http://i84.photobucket.com/albums/k16/vo_quoc_tuan/IMG_1276.jpg)

Đây là loại rào cổ điển, dùng để chống bộ binh, trong đêm tối hoặc khói lửa mù mịt loại này rất hữu dụng để chống bộ binh đối phương xung phong. Bộc phá viên khi phá rào thả dưới chân cột rồi chạy là bay cả mảng, nhiều loại rào khác cần công phu hơn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 11:10:43 am
Trước ngày này, 34 năm trước :D

(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/30-4-1975-DuongVanMinhjpeg.jpg)


(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/30-4-1975-9.jpg)


(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/30-4-1975-6.jpg)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 02 Tháng Năm, 2009, 11:34:03 am
Các bác có nhu cầu đọc tổng kết (không phải chiến lệ) trận Đồng Dù không để em post?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongminhkh trong 02 Tháng Năm, 2009, 01:35:15 pm
Bác cứ phọt lên đi, để mọi người cùng tham khảo!  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongadoan trong 02 Tháng Năm, 2009, 03:43:36 pm
Các bác có nhu cầu đọc tổng kết (không phải chiến lệ) trận Đồng Dù không để em post?

Bác cứ phọt lên đi, để mọi người cùng tham khảo!
------------------------------------------------
 Đây, trận Đồng Dù của f320A ;D

http://www.quansuvn.net/index.php?topic=6375.new#new


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 02 Tháng Năm, 2009, 04:11:16 pm
Các bác có nhu cầu đọc tổng kết (không phải chiến lệ) trận Đồng Dù không để em post?

Bác cứ phọt lên đi, để mọi người cùng tham khảo!
------------------------------------------------
 Đây, trận Đồng Dù của f320A ;D

http://www.quansuvn.net/index.php?topic=6375.new#new

Cái này đọc sao cứ nửa kí nửa sử thế nhỉ. Em sợ nhất là thể loại này.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 02 Tháng Năm, 2009, 04:12:18 pm
Trận tiến công căn cứ Đồng Dù của Sư đoàn bộ binh 320 (thiếu) Quân đoàn 3
Ngày 29 tháng 4 năm 1975

Sau thắng lợi to lớn liên tiếp cửa quân dân ta trên khắp các chiến trường Tây Nguyên, Huế, Đà Nắng, Nha Trang, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn của địch ở quân khu 1 và 2, phá vỡ thế phòng ngự chiến lược liên hoàn của chung. Cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn tổng công kích vào sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đòn tiến công quyết định vào thủ phủ ngụy quyền Sài Gòn, Quân đoàn 3 được Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng tiến công trên   hướng tây bắc Sài Gòn. Trong đội hình quân đoàn, ngày 29 tháng 4 năm 1975, sư đoàn 320 đã tiến công căn cứ Đồng Dù, một căn cứ lớn nằm án ngữ phía tây bắc cửa ngõ Sài Gòn.

Tiến công căn cứ Đồng Dù là trận đánh mở đầu của chiến dịch, có qui mô lớn, hiệp đồng binh chủng tiến công trong điều kiện chuẩn bị gấp, địa bàn hoạt động mới, tình huống diễn biến khẩn trương, quân địch đông, hỏa lực mạnh, có công sự vững chắc,  phòng ngự liên hoàn và phản kích quyết liệt. Ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt, bắt sống và làm tan rã sư đoàn 25 ngụy, phá vỡ tuyến phòng ngự vòng ngoài trên hướng tây bắc Sài Gòn, mở cửa tạo điều kiện thuận lợi cho quân đoàn tiến công danh chiếm Sài Gòn nhanh chóng và kết thúc thắng lợi, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

I. Tình hình chung

A. Địa hình, thời tiết


Căn cứ Đồng Dù thuộc huyện Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa (cũ). Nay thuộc huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh, cách Sài Gòn 30 ki-lô-mét về phía tây bắc, nằm trên một khu gò đất có bình độ cao 12m, hình bầu dục, có chu vi gần 8.500m. Xung quanh căn cứ bằng phẳng và trống trải. Hướng bác và đông bắc là đầm lầy, cách 7 ki-lô-mét là Phú Hòa Đông.

Hướng đông và đông nam cách 12ki-lô-mét là Tân Quy. Tây và tây nam có rừng cao su kín đáo tiện cho việc cơ động và triển khai lực lượng tiến công. Nam và tây nam giáp quận ly Củ Chi. Xung quanh cứ điểm có 5 đường lớn. Đường số 2 từ Củ Chi đi qua trung tâm căn cứ lên Phú Hòa Đông. Đường 8A tỉnh lộ từ Củ Chi đi Tân Quy. Đường 15 từ Phú Hòa Đông đi Tân Quy. Đường 237 từ Trung Hòa - Đồng Dù đi ấp Chợ.  Đường 1A quốc lộ từ Đồng Chùa đi Củ Chi và ấp Chợ.

Trên các trục đường địch đều tổ chức các điểm chốt để khống chế, cơ động binh khí kỹ thuật. Thời điểm diễn ra trận đánh, thời tiết đang cuối mùa khô, không có mưa lớn, nên việc cơ động thuận tiện.

Tóm lại: Địa hình thuộc căn cứ Đồng Dù bằng phẳng và trống trải, hướng tây và tây bắc có điều kiện để triển khai lực lượng và phương tiện nhưng chỉ eo một con đường đi vào căn cứ muốn cơ động phải khắc phục nhiều. Chất đất mềm, dễ đào công sự, nhưng vật liệu không eo phải mang từ ngoài vào.


B. Tình hình địch

Nằm trên trục quốc lộ số 1 Sài Gòn đi Tây Ninh, căn cứ Đồng Dù thực sự là cánh cửa thép án ngữ phía tây bắc Sài Gòn. Từ đây còn có các trục đường giao thông thuận tiện nối với Bình Dương và Hậu Nghĩa. Đồng Dù là căn cứ phòng ngự chủ yếu trong tuyến phòng thủ ngoài Sài Gòn. Nên từ lâu Mỹ - ngụy đã ra sức xây dựng nó thành một căn cứ xuất phát hành quân hỗn hợp với qui mô lớn. Nó vốn là hang ổ của sư đoàn 25 Mỹ (tia nhớp nhiệt đới). Sau khi Mỹ rút bàn giao căn cứ lại cho sư đoàn 25 ngụy một trong những sư đoàn chủ lực mạnh của quân   ngụy.

Lực lượng địch trong căn cứ gồm: bộ tư lệnh sư đoàn 25 bộ binh, ban chỉ huy trung đoàn 50, tiểu đoàn 2 bộ binh, tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp, một chi đoàn xe tăng và hậu cứ đại đội 10/T6 tiểu đoàn 25 công binh, tiểu đoàn 25 vận tải, tiểu đoàn 25 thông tin, tiểu đoàn 333 tiếp vận (Quân khu 3), tiểu đoàn 25 chiến tranh chính trị, tiểu đoàn 25 quân y, ban chỉ huy căn cứ Củ Chi, trường huấn luyện hạ sĩ quan và binh sĩ. Tổng quân số có khoảng 3.000 tên.

Căn cứ Đồng Dù địch cấu trúc có bốn cổng ra vào: đông nam, tây nam, tây bắc và bắc - đông bắc được chia thành bốn tuyến, lực lượng chiến đấu chủ yếu ở vòng ngoài.

Tuyến ngoài cùng bao gồm hàng rào, mìn và hào chống tăng có sáu lớp rào chính, quá trình phòng ngự địch bổ sung có hướng lên tới 10 hàng rào, nhưng không thành qui luật, chiều dày hỗn hợp từ 80-100 mét, Hướng nam và đông nam, sáu hàng rào, tây nam và tây bắc, 10 hàng rào, bắc và đông bắc tám hàng rào. Xen kẽ các lớp rào địch kết hợp gài mìn, tuyến trong cùng là mìn có điều khiển. Hướng tây nam có hào phóng tăng.

Tuyến hai: Địch xây tường cao khoảng 1,2m, dày 1m, lợi dụng bờ tường chúng xây 56 lô cốt thành hình vuông bằng gỗ đất mỗi cạnh bằng 6m, nửa chìm nửa nổi, nấp bằng bao cát dày mét, ở được một tiểu đội. Từ lô cốt này đến lô cốt kia có năm đến sáu ụ súng chiến đấu cá nhân không có nắp.

Tuyến ba: Bao gồm các ụ súng chiến đấu và nhà ngủ, tuyến này không thành qui luật, giữa tuyến 2 và 3 có một đường xe chạy vòng quanh căn cứ.

Tuyến trong cùng: Là tuyến nhà ở lớp bằng tôn, xung quanh nhà xếp thùng phi đựng cát hoặc xếp bao cát dày 0,6m, cao 1,2m phân chia từng đơn vị có hàng rào ngăn cách kết hợp ụ súng chiến đấu và lô cốt giao thông hào nối liền của từng khu vực. Các sở chỉ huy từ tiểu đoàn trở lên đều xây dựng kiên cố chống được đạn pháo 105 và 155 ly. Khu sở chỉ huy sư đoàn, thông tin ở trung tâm căn cứ xây bằng bê tông cốt thép kiên cố, xen kẽ trong khụ vực có nhiều đường xe chạy, cơ động bên trong thuận tiện. Dựa vào công sự sân có cùng các chướng ngại vật đã thiết bị sần, để đối phó ngăn chặn ta tiến công từng bước và tổ chức triển khai lực lượng phản kích khi ta đánh vào trung tâm. Ngoài ra còn có lực lượng lớn địch có liên quan bao gồm: tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 ở ấp Mới, tiểu đoàn 1 trung đoàn 50 ở Trảng Bàng, trung đoàn 46 ở Đồng Chùa, trung đoàn 49 ở Trà Võ - Bến Kéo, chi đoàn thiết giáp thuộc trung đoàn 10 ở Tráng Bàng, pháo bỉnh: Phước Mỹ - Trung Hòa - Tân Quy, Lão Táo và lực lượng bảo an dân vệ: tiểu đoàn 233 ở Phú Hòa Đông, tiểu đoàn 331 ở ấp Chợ, tiểu đoàn 305 ở Đồng Chùa, Củ Chi, tiểu đoàn 320 ở Trung Hòa - Gò Nổi. Vì đây là khu vực phòng thủ vòng ngoài tây bắc Sài Gòn và cũng là đầu mối giao thông quan trọng. Khi Đồng Dù bị ta tiến công, các khu vực phụ cận trực tiếp chi viện và giải vây, ứng cứu. Thủ đoạn đối phó của chúng là dựa vào hệ thống công sự vật cản, hỏa lực bản thân ngoan cố chống trả, khi bị chọc thủng, địch có thể dùng pháo binh, xe tăng và bộ binh ra bịt cửa mở, tổ chức đánh vào bên sườn, phía sau đội hình tiến công của ta, kết hợp với lực lượng bên ngoài đến chi viện, ứng cứu đánh bật ta ra ngoài khôi phục trận địa.

Tóm lại: Hệ thống phòng thủ khu vực Củ Chi và căn cứ Đồng Dù là một hệ thống phòng thủ chặt chẽ, chu đáo, liên hoàn, chuẩn bị sẵn có quân đông, hỏa lực mạnh, các căn cứ phụ cận sẵn sàng chi viện ứng cứu khi bị tiến công đường sá cơ động thuận tiện, công sự vật cản xây dựng cơ bản và có hệ thống. Nhưng địch có những điểm yếu cơ bản là tinh thần binh lính đang bị sa sút, hoang mang do thất bại liên tiếp ở các chiến trường, dễ tan rã khi mất chỉ huy. Căn cứ rộng lớn lại nằm gần Sài Gòn, từ lâu chưa giao chiến nên ít xây dựng củng cố lại. Lực lượng phòng thủ chủ yếu là lực lượng hậu cứ, chuyên môn, phục vụ và chỉ huy nên sức chiến đấu kém, yếu về chiến thuật, sơ hở trong tổ chức phòng ngự nên khó chống đỡ khi ta tiến công đồng loạt bằng sức đột kích mạnh.


C. Tình hình ta

Tham gia trận đánh này sư đoàn bộ binh 320 (thiếu) do đồng khí Bùi Đình Hòe sư đoàn trưởng chỉ huy, trong biên chế có ba trung đoàn bộ binh và một trung đoàn pháo binh. Trung đoàn bộ binh 48, trung đoàn bộ binh 9 và trung đoàn bộ binh 64 (riêng trung đoàn 64 được đảm nhiệm hướng độc lập của quân đoàn, nên trận đánh này không tham gia chiến đấu trong đội hình của sư đoàn). Mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc khác. Mỗi tiểu đoàn có từ 220 đến 240 người, mỗi đại đội chiến đấu có từ 30-40 tay súng. Trung đoàn pháo binh 54 có hai tiểu đoàn pháo mặt đất (10, 11) gồm các loại  hỗn hợp pháo 1551y, 1051y, 851y, H12, cối 1601y, cối 1201y, và tiểu đoàn cao xạ 12 có ba đại đội súng máy cao xạ. Trong biên chế còn có các tiểu đoàn hỏa lực cối 1201y, tiểu đoàn ĐKZ, tiểu đoàn súng máy cao xạ và các tiểu đoàn bảo đảm chiến đấu như trinh sát, thông tin, công binh. Các tiểu đoàn phục vụ như quân y, vận tai, huấn luyện, được tổ chức biên chế ổn định trang bị chiến đấu hiện tại bao gồm ba khẩu 1551y, sáu khẩu 105 ly, hai khẩu 851y, một khẩu cối 1601y, một dàn H12, ba khẩu cối 1201y, 18 khẩu cối 821y, chín khẩu ĐKZ, 14 khẩu súng máy cao xạ. Trước khi bước vào chiến đấu, các đơn vị đều đã tham gia chiến đấu trong các chiến dịch ở chiến trường Tây Nguyên, nhất là trận đánh thắng định ở Cheo Reo - Phú Bổn, đã tích lũy được một số kinh nghiệm về tác chiến trong thị xã, thị trấn và huyện ly bằng nhiều hình   thức chiến thuật hiệp đồng binh chủng vời qui mô vừa và nhỏ. Đơn vị đã được rút kinh nghiệm sau đợt hoạt động chiến dịch Tây Nguyên, huấn luyện bổ sung, khí thế đơn vị phấn khởi, cán bộ và chiến sĩ đều tin tưởng quyết tâm hăng hái thi đua giết giặc lập công hoàn thành nhiệm vụ.

Cùng phối hợp tác chiến với sư đoàn trong địa bàn có sư đoàn 316 đang chốt chặn tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy ở Tràng Bàng về Củ Chi, Tây Ninh, sư đoàn 10 đang triển khai lực lượng ở phía sau sư đoàn để tiến công vào sân bay Tân Sơn Nhất sau khi ta mở thông cánh cửa Đồng Dù, phía Hậu Nghĩa có lực lượng Miền, ngoài ra còn có sự phối hợp chiến đấu của nhiều lực lượng khác.

Phối hợp chiến đấu với sư đoàn còn có lực lượng vũ trang địa phương huyện Củ Chi đã từng tham gia chiến đấu đánh độc lập, hiệp đồng với qui mô vừa và nhỏ, thông thạo địa hình có khả năng giúp đỡ và phối hợp với sư đoàn trong quá trình chiến đấu. Khu vực tác chiến là nơi tập trung dân cư đông đúc kinh tế trù phú, xã hội phức tạp nhiều giáo phái. Nhân dán sống dưới chế độ Mỹ-ngụy từ lâu bị tuyên truyền lừa bịp, ít hiểu biết về cách mạng chưa giác ngộ, ít nhiều đều có quan hệ với địch. Riêng nhân dân vùng giải phóng đã nhiều năm chiến đấu kiên cường chống Mỹ-ngụy bảo vệ cách mạng, một lòng tin tưởng vào Đảng sân sàng giúp đỡ bộ đội khi cần thiết. Đảng và chính quyền các cấp tử xã đến huyện được củng cố và phát triển, chiến đấu kiên cường, bền bỉ xứng đáng là “đất thép Củ Chi”.

Tóm lại: Các lực lượng tham gia trận đánh đều đả có kinh nghiệm chiến đấu, bộ đội phấn khởi quyết tâm cao. Mọi công tác chuẩn bị được sự chỉ đạo chỉ huy trực tiếp cửa thường vụ Bộ tư lệnh Quân đoàn. Song trước mắt cũng còn khó khăn: Thời gian làm công tác chuẩn bị ngắn, trinh sát nắm địch ngoài thực địa ít, trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng qui mô lớn đánh địch trong căn cứ kiên cố còn hạn chế, kinh nghiệm tổ chức chỉ huy chiến đấu cấp sư đoàn chưa nhiều, nên sư đoàn phải tập trung lãnh đạo chỉ huy khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 02 Tháng Năm, 2009, 04:13:09 pm
II. Tổ chức chuẩn bị

A. Chủ trương, ý định của Bộ chỉ huy chiến dịch và Bộ tư lệnh Quân đoàn 3


Cuộc tổng tiến công chiến lược của quân dân ta đã bước sang giai đoạn quyết định, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam đã bắt đầu. Để phối hợp với các hướng tiến công Sài Gòn, Bộ chỉ huy chiến dịch giao cho Quân đoàn 3 tiến công hướng tây bắc Sài Gòn, trước mắt tiến công tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy ở căn cứ Đồng Dù phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch mở thông cánh cửa tây bắc Sài Gòn cho lực lượng của quân đoàn tiến công sân bay Tân Sơn Nhất và phát triển đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định.


B. Nhiệm vụ của Sư đoàn bộ binh 320

Sư đoàn bộ binh 320 (thiếu) được tăng cường một tiểu đoàn xe tăng T54 (thiếu), 1 tiểu đoàn pháo binh 1551y (thiếu) thuộc trung đoàn 40, trung đoàn cao xạ 593 (thiếu) có nhiệm vụ:  trong ngày 29 tháng 4 tiến công tiêu diệt căn cứ Đồng Dù sau đó phát triển đánh chiếm quận lỵ Củ Chi và Tân Quy cùng các lực lượng khác của đơn vị bạn tiêu diệt sư đoàn 25 bộ binh ngụy, không cho chúng co cụm về Sài Gòn mở cửa mở hướng tây bắc Sài Gòn cho lực lượng sư đoàn 10 tiến công sân bay Tân Sơn Nhất, sau đó làm lực lượng dự bị cho quân đoàn. Khi đánh chiếm Sài Gòn thì sư đoàn tiến công đánh chiếm Quận 3, cùng đơn vị bạn phát triển đánh chiếm biệt khu thủ đô và dinh Độc Lập .


C. Công tác chuẩn bị

Ngày 16 tháng 4, cán bộ của sư đoàn và cán bộ đơn vị phối thuộc đi trinh sát nghiên cứu ngoài thực địa, ngày 24 tháng 4, báo cáo quyết tâm với quân đoàn, ngày 26 tháng 4, pháo binh hoàn thành công tác chuẩn bị vào chiếm lĩnh. Ngày 28 tháng 4, sư đoàn hoàn thành mọi công tác chuẩn bị hành quân vào vị trí tập kết.


D. Quyết tâm chiến đấu

1. Ý định chiến đấu


a - Tư tưởng chỉ đạo: Tổ chức chuẩn bị chu đáo, bí mật bất ngờ giành và giữ thế chủ động. Nắm chắc thời cơ tiến công liên tục, tập trung sức mạnh dứt điểm nhanh, tiêu diệt gọn từng mục tiêu, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch, làm chủ chiến trường.

b - Mục tiêu tiến công chủ yếu: Sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy.

c - Hướng tiến công chủ yếu: Tây bắc; hướng tiến công thứ yếu: tây nam; hướng đón lõng và chốt chặn: nam.

d - Cách đánh: Phát huy sức mạnh của binh hỏa lực trong biên chế và tăng cường, tiến công liên tục tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch, làm chủ trận địa. Đồng thời ngăn chặn bẻ gãy  các đợt phản kích của định từ nơi khác đến ứng cứu chi viện.

e - Tổ chức đội hình sử dụng lực lượng:

Sư đoàn tổ chức thành 5 bộ phận:

- Bộ phận tiến công trên hướng chủ yếu, hướng thứ yếu, đón lõng chốt chặn, hỏa lực và dự bị (riêng hỏa lực có bộ phận kìm diệt pháo địch).

- Lực lượng tiến công hướng chủ yếu: một trung đoàn bộ binh tăng cường; hướng thứ yếu: một trung đoàn bộ binh (thiếu); đón lõng chốt chặn: một đại đội bộ binh; dự bị: một tiểu đoàn bộ binh. Hỏa lực: một trung đoàn pháo (tăng cường), trung đoàn cao xạ 593 (thiếu) và cao xạ sư đoàn; hỏa lực kìm diệt pháo địch: tám cối 82 ly và một lực lượng bộ binh.

2. Nhiệm vụ của các đơn vị

a) Trung đoàn bộ binh 48: Được tăng cường một đại đội xe tăng (8 chiếc), ba khẩu pháo bắn trực tiếp (hai khẩu 105, một khẩu 85), một khẩu cối 120 ly, được chi viện trực tiếp của hỏa lực pháo binh và phòng không của sư đoàn có nhiệm vụ: Tiến công trên hướng chủ yếu của sư đoàn từ hướng tây bắc vào hình thành hai mũi đột phá: Mũi chủ yếu: Một trung đoàn bộ binh (thiếu 1 tiểu đoàn), năm xe tăng đột phá từ tây bắc vào chiếm sở chỉ huy trung tâm thông tin. Mũi thứ yếu: một tiểu đoàn bộ binh đột phá từ hướng bắc - đông bắc vào đánh chiếm khu pháo binh, thiết giáp và phát triển vào sở chi huy. Sau khi làm chủ căn cứ, để lại một lực lượng nhỏ làm chủ trận địa, một tiểu đoàn cùng đơn vị bạn phát triển đánh chiếm  quận ly Củ Chi, còn lại lực lượng sẵn sàng phát triển chiến đấu tiếp khi có lệnh.

b - Trung đoàn bộ binh 9 (thiếu tiểu đoàn bộ binh 6): Được tăng cường một trung đội xe tăng (4 chiếc), tiểu đoàn súng máy cao xạ 12,71y, hai khẩu cối 120 ly có nhiệm vụ: Đảm nhiệm tiến công trên hướng thứ yếu đột phá từ hướng tây nam vào, đánh chiếm khu thông tin, phát triển sang phía nam sở chỉ huy cùng trung đoàn 48 diệt sở chỉ huy địch, đánh chiếm liên đoàn vận tải 333 có một lực lượng ngăn chặn ở nam căn cứ không cho địch bỏ chạy về Củ Chi, Tân Quy. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhanh chóng phát triển đánh chiếm Củ Chi và Tân Quy. Hoàn thành nhiệm vụ sẵn sàng cùng đội hình sư đoàn phát triển chiến đấu tiếp.

c - Tiểu đoàn bộ binh 6 trung đoàn bộ binh 9: Làm lực lượng dự bị cho sư đoàn bố trí sau đội hình trung đoàn 48, sẵn sàng tiến công trên hướng chủ yếu của sư đoàn. Ngăn chặn và tiêu diệt lực lượng địch phản kích vào bên sườn phía sau đội hình chiến đấu của sư đoàn khi có lệnh. Sau khi làm chủ căn cứ, về đội hình của trung đoàn để phát triển chiến đấu vào Tân Quy.

d - Đại đội bộ binh thuộc tiểu đoàn 4 trung đoàn 9. Làm lực lượng đón lõng chốt chặn của sư đoàn, có nhiệm vụ chốt chặn không cho địch tháo chạy hoặc co cụm về vị trí khác.

e - Trung đoàn pháo binh 54 và tiểu đoàn lựu pháo 1551y (thiếu) thuộc trung đoàn 40, tăng cường cho trung đoàn 48 bộ binh ba khẩu pháo (2 khẩu 105, một khẩu 85) làm hỏa khí bắn thẳng, lực lượng còn lại tổ chức thành cụm pháo hỗn hợp bố trí ở tây nam Nhuận Đức, chi viện trực tiếp cho bộ binh trên hai hướng đánh chiếm căn cứ Đồng Dù và phát triển chiến đấu đánh chiếm quận ly Củ Chi, Tân Quy.   

- Trung đoàn cao xạ 593 (thiếu) chiếm lĩnh trận địa ở tây bắc Đồng Dù có nhiệm vụ tiêu diệt máy bay địch bảo vệ sở chl huy, trận địa pháo cối, đội hình chiến đấu của sư đoàn, tiêu diệt bộ binh hỏa khí địch, phá hủy công sự trận địa, xe tăng, xe bọc thép địch khi cần thiết. Sau khì hoàn thành nhiệm vụ phát triển chiến đấu tiếp cùng đội hình sư đoàn.

3. Một số nội dung chính về hiệp đồng, bảo đảm

a – Hiệp đồng.

+ Giai đoạn hành quân chiếm lĩnh trận địa, thực hành mở cửa.

Ngày N-3, pháo binh xuất phát chiếm lĩnh trận địa, kiềm chế pháo cối địch để cho đơn vị hoàn thành công tác chuẩn bị. Ngày N-l, bộ binh hành quân chiếm lĩnh trận địa, đến 5 giờ ngày N chiếm lĩnh xong. 5 giờ 30, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị sẵn sàng nổ súng. 5 giờ 30, hỏa lực chuẩn bị thời gian bắn 120 phút chia làm 4 giai đoạn.

Giai đoạn 1: Thời gian bắn 5 phút cấp tập vào sở chỉ huy, trung tâm thông tin, bộ binh lộ, trận địa pháo cối địch.

Giai đoạn 2: Thời gian 15 phút bân gián xạ vào sở chỉ huy, trung tâm thông tin. ĐKZ pháo ngắm bắn trực tiếp, cối 120 ly, cối 82 ly bần vào các mục tiêu  trên hướng cửa mở, xe tăng cơ động vào vị trí chiếm lĩnh xuất phát xung phong.

Giai đoạn 3: Thời gian 65 phút, pháo bắn gián xạ kiểm nghiệm lại phần tử, hỏa lực bắn thẳng tiêu diệt các mục tiêu trước cửa mở.

Giai đoạn 4: Thời gian 35 phút, trong đó 30 phút đầu bắn phá hoại các mục tiêu bên trong của địch, trận địa pháo cối, pháo bắn thang diệt các lâủa điểm trước cửa mở chi viện cho bộ binh mở cửa mở, phân đội mở cửa thực hành đánh bộc phá liên tục mở cửa mở, 5 phút cuối pháo bắn cấp tập vào sở chỉ huy, trận địa pháo cối chế áp bộ binh địch. Trong thời gian pháo bắn chuẩn bị, bộ binh (trừ đài quan sát) xuống hầm ẩn nấp. Công binh trong khi pháo bắn chuẩn bị giai đoạn 1, khi có lệnh cho nổ lượng mìn liên kết đồng loạt. Xe tăng cơ động vào vị trí chiếm lĩnh xuất phát xung phong dùng hỏa lực bắn thằng tham gia bắn chuẩn bị, lực lượng phòng không, sẵn sàng bắn máy bay chi viện cho đội hình chiến đấu của sư đoàn.

+ Giai đoạn đánh chiếm đầu cầu, phát triển chiến đấu bên trong:

Pháo binh chuyển làn vào bên trong chế áp sở chỉ huy, trung tâm thông tin, trận địa pháo cối địch. Pháo bắn thang tiêu diệt các mục tiêu trên cửa mở, bộ binh nhanh chóng vượt qua cửa mở, thực hành xung phong từng mũi, hướng nhanh chóng đánh chiếm các lô cốt đầu cầu tạo điều kiện cho lực lượng phía sau vào phát triển chiến đấu, khi đã chiếm được đầu cầu các mũi hướng nhanh chóng phát triển chiến đấu vào bên trong, hiệp đồng chặt chẽ, cùng xe tăng  hình thành thế bao vây tiêu diệt gọn từng mục tiêu, nhanh chóng đánh chiếm sở chỉ huy, trung tâm thông tin và các mục tiêu quan trọng khác. Pháo binh chi viện theo yêu cầu phát triển chiến đấu của bộ binh. Pháo bắn thang cơ động theo đội hình chiến đấu, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng hỏa khí bắn thẳng của địch; pháo phòng không sẵn sàng đánh máy bay bay thấp chi viện trực tiếp cho đội hình chiến đấu bảo vệ sở chl huy, trận địa pháo, cối của ta, bộ phận đón lõng, chốt chặn sẵn sàng đánh địch tháo chạy.

+ Giai đoạn làm chủ trận địa:

Để lại một lực lượng nhỏ của trung đoàn 48 truy quét bắt tù binh, thu vũ khí còn lại nhanh chóng phát triển đánh chiếm quận ly Củ Chi và Tân Quy. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ sẵn sàng phát triển chiến đấu tiếp.

+ Dự kiến một số tình huống và cách xử trí:

Địch dùng pháo, máy bay oanh tạc vào đội hình chiếm lĩnh. Nhanh chóng tìm đường vòng tránh để lại một lực lượng nhỏ giải quyết hậu quả, lực lượng còn lại vào chiếm lĩnh theo qui định. Địch sử dụng lực lượng bện ngoài đến phản kích đánh vào phía sau đội hình của ta, thì sử dụng lực lượng dự bị, công binh, pháo binh và cao xạ 12,71y để tiêu diệt. .

Địch điều lực lượng lớn ra bịt cửa mở thì sử dụng pháo binh, pháo bắn thẳng, hỏa lực xe tăng tập trung tiêu diệt, bộ binh nhanh chóng phát triển đánh vào bên sườn phía sau, nếu trường hợp không thể đượm, nhanh chóng lợi dụng kết quả cửa mở của đơn vị bạn để đưa lực lượng vào phát triển chiến đấu.

Địch tổ chức co cụm chống trả: Thì tổ chức hỏa lực bắn vào đội hình địch co cụm, pháo bắn thẳng diệt hỏa điểm, hỏa khí địch, bộ binh, xe tăng hình thành thế bao vây chia cắt tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch.

b - Bảo đảm:

- Bảo đảm nắm địch và chỉ huy: Các trung đoàn được tăng cường một bộ phận trinh sát, tổ chức đài quan sát cùng với bộ binh, kết hợp cùng địa phương nắm địch thường xuyên trong khu vực tác chiến. Sư đoàn tổ chức một đài quan sát ở Nhuận Đức khi đơn vị vào thực hành chiếm lĩnh.

Thông tin liên lạc sử dụng hết khả năng lực lượng sẵn có trong biên chế, trong thời gian chuẩn bị, chiếm lĩnh chỉ sử dụng một chiều. Trong quá trình chiến đấu sử dụng cả ba phương tiện, khi phát triển chiến đấu chủ yếu sử dụng vô tuyến điện, tổ chức làm mạng vượt cấp xuống các đơn vị trên hướng chủ yếu và độc lập.

- Bảo đảm đường cơ động: Công binh sư đoàn và quân đoàn bảo đảm đường cơ động của xe kéo pháo đến trận địa. Công binh sư đoàn dò gỡ mìn trên đường cơ động vào chiếm lĩnh trận địa và hướng phát triển chiến đấu về Tân Quy. Công binh trung đoàn đảm nhiệm trên hướng của trung đoàn cho xe tăng đi cùng vào đến cửa mở. Sư đoàn tổ chức trạm điều chỉnh hành quân vào chiếm lĩnh của các đơn vị ở Nhuận Đức.

- Đảm bảo mở cửa: Hỏa lực bân thẳng tiêu diệt các mục tiêu trên hướng mở cửa, đồng thời chi viện trong quá trình thực hành mở cửa. Triệt để lợi dụng yếu tố bí mật để cất gỡ và liên kết bộc phá đánh đồng loạt, còn lại mới tiến hành đánh bộc phá liên tục, bảo đảm mở cửa cho cả bộ binh và xe tăng, thời cơ nổ đồng loạt là khi pháo hỏa chuẩn bị trong 5 phút đầu, đánh bộc phá liên tục trong 30 phút cuối.

- Kiềm chế pháo binh địch: Ngoài kế hoạch kiềm chế các trận địa pháo cối địch theo hiệp đồng còn qui định sử dụng thêm. Trung đoàn 48 dùng hai khẩu cối 82 ly kìm chế pháo địch ở Phước Mỹ. Trung đoàn 9 dùng hai khẩu cối 82 ly và một phân đội bộ binh kìm chế pháo và vây ép địch ở Tân Quy.

Đẩy kéo pháo: Tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 48 đẩy hai khẩu 105 ly bắn thẳng vào trận địa. Tiểu đoàn 6 thuộc trung đoàn 9 đẩy một khẩu 85 ly bắn thẳng vào trận địa. Trung đoàn 54 dùng xe kéo pháo vào điểm eắt đúng 20 giờ ngày N-1 giao cho các đơn vị trên.

- Đảm bảo hậu cần: Đạn pháo theo cơ số qui định,  đạn bộ binh từ 2-3 cơ số, khi phát triển chiến đấu sử dụng cơ giới để vận chuyển bổ sung.

- Quân y: Trạm phẫu sư đoàn đặt ở nam Nhuận Đức từng trung đoàn tổ chức tuyến quân y trên các hướng, mỗi cá nhân có 1-2 băng cá nhân, hiệp đồng trước với địa phương tiếp nhận thương binh khi sư đoàn phát triển chiến đấu tiếp.

Bảo đảm phòng hóa: Mỗi người phải mang theo ruột khăn mặt hoặc băng miệng do quân y cấp, một bi - đông nước.

4 - Vị trí chỉ huy và các mốc thời gian

- Vị trí chỉ huy của sư đoàn ở Nhuận Đức. Ngày 26 tháng 4, trung đoàn 54 hoàn thành công tác chuẩn bị, chiếm lĩnh, sẵn sàng chiến đấu.

- Ngày N-1 chiếm lĩnh, đến 5 giờ ngày N chiếm lĩnh xong, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị.

- 5 giờ 30 ngày N (29-4), sẵn sàng nổ súng. 




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 02 Tháng Năm, 2009, 04:14:18 pm
III. Diễn biến chiến đấu, kết quả và ý nghĩa

A. Diễn biến chiến đấu

1 Giai đoạn hành quân chiếm lĩnh trận địa, thực hành mở cửa (từ ngày 26 đến 28 tháng 4 năm 1975)


Ngày 26 tháng 4, địch cho đại đội trinh sát của sư đoàn 25 và tiểu đoàn 320 bảo an ở Bao Cấp và Trung Hòa lấn ra tây và tây nam Nhuận Đức để phát hiện và phá thế chuẩn bị của ta.

Trung đoàn 54 cùng pháo binh của Quân đoàn 3 tập kích và kìm chế pháo cối địch ở Đồng Dù. Tiểu đoàn 6 trung đoàn 9 hành quân lên Nhuận Đức để giữ bàn đạp và tổ chức ngăn chặn địch không cho chúng nống ra các khu vực ta sẽ chiếm lĩnh.

Ngày 27 tháng 4, các trận địa pháo cối ta thực hành chiếm lĩnh xong, chuẩn bị phần tử và thực hành kìm chế pháo cối địch ở Đồng Dù.

Ngày 28 tháng 4, pháo binh vẫn tham gia thế áp trận địa pháo cối địch, 13 giờ, sở chỉ huy nhẹ sư đoàn đi trước để chỉ huy các đơn vị vào chiếm lĩnh. Trinh sát, công binh và các bộ phận đi trước chuẩn bị dẫn  đường cho các đơn vị vào chiếm lĩnh, 17 giờ, các đơn vị bắt đầu hành quân vào chiếm lĩnh, 18 giờ, sơ chỉ huy sư đoàn bắt đầu làm việc, 20 giờ, trinh sát công binh và bộ phận cán bộ đi trước đã vào đến vị trí triển khai, các đơn vị mở cửa đã tiến hành dô gỡ mìn, 22 giờ, sư đoàn lệnh cho trung đoàn 9 tăng cường thêm lực lượng đón lõng, đồng thời lệnh cho tiểu đoàn 6 và tiểu đoàn 2 đẩy pháo ngắm bắn trực tiếp vào trận địa. 24 giờ trung đoàn 593 cơ động lên khu vực tạm điều chỉnh, 2 giờ ngày 29 tháng 4, trung đoàn 9 đã vào hết vị trí triển khai chiến đấu, sư đoàn lệnh cho tiểu đoàn xe tăng lên tuyến điều chỉnh, 2 giờ 30, trung đoàn 48 đã vào hết vị trí triển khai chiến đấu. Hướng trung đoàn 48, tiểu đoàn 1 cắt triệt để 1 hàng rào, liên kết đồng loạt hai hàng rào bằng mìn tăng, còn hai hàng rào để đánh liên tục, tiểu đoàn 3 cắt triệt để ba hàng rào, liên kết đồng loạt hai hàng rào, còn hai hàng rào, để đánh liên tục.

Hướng trung đoàn 9: Tiểu đoàn 5 cật triệt để hai hàng rào, liên kết đồng loạt một hàng rào bằng mìn ĐH10 còn ba hàng rào để đánh liên tục, 4 giờ tiểu đoàn 4 trung đoàn 9 lực lượng đón lõng đã vào đến Bắc Hà, 5 giờ ngày 29 tháng 4, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, bộ đội sẵn sàng chờ lệnh nổ súng. Đúng 5 giờ 20, sau khi các đơn vì báo cáo và kiểm tra lần cuối cùng, thời tiết tốt, quan sát rõ, sư đoàn báo cáo lên quân đoàn, được quân đoàn phê chuẩn đúng 5 giờ 30 sư đoàn ra lệnh nổ súng.

5 giờ 30, pháo binh bắt đầu bắn, đồng thời trên các hướng điểm hỏa mìn đồng loạt phá hàng rào, xe tăng và cao xạ vào chiếm lĩnh trận địa và tuyến xuất phát xung phong. 6 giờ, địch cho khoảng một trung  đội theo cổng tây nam đi ra, bộ phận đón lõng của tiểu đoàn 4 trung đoàn 9 đã nổ súng ngăn chặn và tiêu diệt một số, số còn lại chạy về căn cứ và cho 1 đại đội bảo an ở nhà thờ Bắc Hà ra vây đánh sau đội hình tiểu đoàn 4. Tiểu đoàn dùng 1 đại đội (thiếu) vận động ra chặn đánh, địch bỏ chạy, ta truy kích chiến khu nhà thờ Bậc Hà và tổ chức triển khai đón lõng như nhiệm vụ được giao. Lúc này địch đã phát hiện ra hướng cửa mở của ta, chúng dùng pháo cối bắn ngăn chặn, máy bay đến oanh tạc vào phía sau đội hình trung đoàn 48, cao xạ ta bắn rơi một chiếm, riêng cửa mở tiểu đoàn 1 trung đoàn 48 địch dùng cả đạn cối hóa học nhưng ta không có ảnh hưởng gì lớn. Địch dùng tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 ở Xóm Mới và một chi đội xe tăng ở Củ Chi lên phối hợp cùng phản kích vào sau đội hình trung đoàn 9.

6 giờ 40, xe tăng hướng trung đoàn 48 vào tuyến chờ đợi dùng hỏa lực tiêu diệt các mục tiêu chi viện cho bộ binh lên đánh bộc phá liên tục. Lúc này địch điều một chi đội xe tăng cùng tiểu đoàn 2 trung đoàn 50 ra tăng cường cho khu trung tâm huấn luyện. 7 giờ chi đội xe tăng thiết giáp và một đại đội bảo an thuộc tiểu đoàn 305 lên đón tiểu đoàn 3 trung đoàn 50, bị một trung đội công binh của trung đoàn 9 ra chặn đánh diệt ba xe và một sổ địch nên chúng không đón được tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 để phản kích vào sau đội hình của ta.

7 giờ 25, các đơn vị báo cáo cửa mở đã thông, sư đoàn ra lệnh cho pháo binh chuyển làn, chi viện cho bộ binh xung phong đánh chiếm đầu cầu. Đúng 7 giờ 30, bộ binh xung phong đánh chiếm căn cứ.

2. Giai đoạn đánh chiếm đẩu cầu, phát triển chiến đấu bên trong

Từ 7 giờ 30 đến 8 giờ, địch điều bộ binh và xe tăng ra phản kích hòng bịt lấp cửa mở, chúng cho máy bay tiếp tục oanh tạc vào phía sau đội hình trung đoàn 48 và các trận địa pháo ở nam Nhuận Đức pháo binh ở Tân Quy bân mạnh vào hướng cửa mở của ta.

Về phía ta, đại đội 3 tiểu đoàn một trung đoàn 48 đã chiếm được đầu cầu, bắn cháy một xe tăng địch. Tiểu đoàn 5 trung đoàn 9 bị chặn lại ở cửa mở do còn hai hàng rào cuối cùng chưa phá được. Xe tăng trên hướng trung đoàn 48 chiếc đi đầu bị trúng đạn nằm lại ngoài hàng rào, chiếc thứ hai vào đến cửa mở bị địch bắn cháy, xe của đại đội trưởng hỏng máy phải dừng lại, còn một chiếc cùng bộ binh đột phá vào được trong căn cứ. Cao xạ trung đoàn 593 bắn rơi một máy bay A37 bảo vệ tốt đội hình chiến đấu của sư đoàn.

Từ 8 giờ đến 8 giờ 80, địch dùng xe tăng và bộ binh ra bịt cửa mở trên hai hướng của tiểu đoàn 3 trung đoàn 48, và tiểu đoàn 5 trung đoàn 9, tin trên thông báo địch sẽ dùng tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 ở Xóm Mới ra phản kích vào phía sau trung đoàn 9 ở khu rừng cao su phía tây căn cứ.

Ta, 8 giờ 30 tiểu đoàn 1 (thiếu) và xe tăng hướng tnmg đoàn 48 đã đánh chiếm được khu bãi tập chiến thuật, diệt và bắt 50 tên nhưng bị địch chặn lại không phát triển được nữa, tiêu đoàn 2 vào tiếp cũng bị địch chặn lại, ĐKZ của trung đòan bản bốn phát đều không diệt được mục  tiêu.

Đại đội 11 tiểu đoàn 3 đã chiếm được đầu cầu nhưng bị địch chặn lại, đại đội 10 vào tiếp nhưng cũng chưa phát triển được phải nằm ngoài bờ tường. Riêng tiểu đoàn 5 trung đoàn 9 vẫn chưa vào được đầu cầu pháo binh và cao xạ tổ chức bắn vào đội hình địch phản kích buộc chúng phải dừng lại.

Trước diễn biến tình hình của trận đánh, sư đoàn nhận định địch tập trung xe tăng và bộ binh ra bịt cửa mở, đồng thời kết hợp với địch bên ngoài phản kích đánh vào bên sườn phía sau đội hình ta, hòng đánh bật ta ra khỏi căn cứ. Máy bay, pháo binh địch tiếp tục chi viện đắc lực bảo vệ căn cứ Đồng Dù. Ta, trên hai hướng tiểu đoàn 3 và 5 gặp khó khăn, bị địch ngăn chặn và tập trung lực lượng đối phó nên chưa đột phá vào căn cứ được. Hướng trung đoàn 9 cửa mở chưa thông địch lại tổ chức phản kích vào sau đội hình tiểu đoàn 5. Hướng chủ yếu, tiểu đoàn 1 cơ bản đã phát triển vào được bên trong cùng xe tăng đang nhanh chóng phát triển chiến đấu.

Từ nhận định trên sư đoàn quyết tâm: Kiên quyết tập trung lực lượng, nhanh chóng tăng cường lực lượng trên hướng chủ yếu tiểu đoàn 1 trung đoàn 48 để phát triển chiến đấu thọc sâu vào sở chỉ huy sư đoàn địch và phát triển sang hai hướng tiểu đoàn 3 và 5, để hỗ trợ cho hai hướng tiếp tục đột phá phát triển vào bên trong. Đồng thời sử dụng lực lượng trung đoàn 9, kết hợp cùng pháo binh cao xạ ngăn chặn đánh bại lực lượng phản kích của địch. Sư đoàn trưởng lệnh cho pháo binh tiếp tục chi viện cho tiểu đoàn 1 trung đoàn 48 phát triển chiến đấu vào sở chỉ huy, trung tâm thông tin. Tiểu đoàn 2 trung đoàn 48 cùng tám xe tăng theo hướng của tiểu đoàn 1 phát triển chiến đấu tiến công các lực lượng địch ở hướng tiểu đoàn 3 và 5 hỗ trợ cho hai hướng này phát triển vào bên trong trung tâm căn cứ. Tiểu đoàn 1 nhanh chóng thọc sâu vào sở chi huy sư đoàn 25 ngụy, trung đoàn 9 xốc lại lực lượng tiểu đoàn 5, tập trung hỏa lực chi viện cho tiểu đoàn 5 tiếp tục đột phá, tiểu đoàn 4 và 5 cao xạ ngăn chặn và tiêu diệt tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 địch ra phản kích.

Từ 8 giờ 30 đến 9 giờ 30, địch cho tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 cùng chi đội xe tăng thiết giáp tổ chức phản kích từ ấp Mới ra sau đội hình trung đoàn 9. Trên hướng cổng chính có một bộ phận địch ra khỏi căn cứ Trên hai hướng cửa mở tiểu đoàn 3 và 5, bộ binh và xe tăng địch cơ bản đã bị ta tiêu diệt nhưng chúng vẫn ngoan cố chống cự, chờ trung đoàn 46 ở Tráng Bàng và Đồng Chùa về cứu nguy cho Đồng Dù.

Hướng chủ yếu: tiểu đoàn 1 trung đoàn 48 và xe tăng ta đã phát triển chiến đấu chiếm được khu công binh, hậu cứ trung đoàn 46, bắt gần 100 tên, đang phát triển tìm diệt sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy, tiểu đoàn 2 đánh chiếm khu thông tin, bật 30 tên, tiểu đoàn 3 cùng bốn xe tăng đột phá được vào bên trong hình thành hai mũi đánh chiếm khu pháo binh và hậu cứ trung đoàn 46 .

Hướng thứ yếu: 9 giờ, đại đội 7, tiểu đoàn 5 trung đoàn 9 cùng một bộ phận dự bị tiểu đoàn 16 cao xạ đã đánh bại địch phản kích diệt 100 tên, bắt 135 tên trong đó có tên tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó tiểu đoàn 3 trung đoàn 50, mũi tiến công của tiểu đoàn 5 vẫn bị địch ngăn chặn quyết liệt, hai khẩu ĐKZ 75 ly đều bị địch bắn hỏng, bộ binh không đột phá vào được.

Hướng đón lõng: Tuy bị mất liên lạc với trung đoàn nhưng vẫn chủ động tích cực đánh địch, diệt bốn xe tăng địch chạy ra cổng chính, buộc địch phải quay vào căn cứ, tiểu đoàn nhanh chóng truy kích vào cổng bắt 100 tên. Sau đó phối hợp cùng trung đoàn 48 phát triển chiến đấu ở trung tâm đánh chiếm liên đoàn 333 vận tải và trung tâm thông tin.

Như vậy trước nguy cơ bí tiêu diệt, địch ngoan cố chống cự nên tiểu đoàn 5 chưa vào được, lực lượng đánh bên trong chưa đánh đúng sở chỉ huy địch. Để giải quyết nhanh, làm chủ căn cứ đúng thời gian quy định, sư đoàn sử dụng bốn xe tăng dự bị cùng trung đoàn 48 và tiểu đoàn 4 nhanh chóng tiêu diệt sở chỉ huy, khu thiết giáp. Lệnh cho tiểu đoàn 5 vòng theo hướng cửa mở của tiểu đoàn 1 và cổng chính để vào căn cứ. Tiểu đoàn 6 dự bị của sư đoàn đánh trung đoàn 46 địch đang tổ chức phản kích.

Từ 9 giờ 30 đến 10 giờ 30: Hướng chủ yếu của trung đoàn 48 phát triển thuận lợi và nhanh chóng đánh chiếm được các mục tiêu quy định. Tiểu đoàn 1 và 2 sau khi đánh chiếm khu hậu cứ trung đoàn 46 địch, khụ thông tin, đến 10 giờ 30, tiểu đoàn 1 cùng xe tăng đã đánh chiếm được sở chỉ huy sư đoàn địch, sư đoàn 25 mất liên lạc hoàn toàn với bên ngoại, sư trưởng Lý Tòng Bá bỏ chạy. Tiểu đoàn 3 cùng xe tăng đánh chiếm xong trận địa pháo  ra sở chỉ huy trung đoàn 50, đánh phát triển sang khu thiết giáp và sân bay. Các mục tiêu cơ bản đã bị tiêu diệt, tnmg đoàn 48 cho một bộ phận phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương lùng sục truy quét quân địch phối hợp cùng các lực lượng vũ trang địa phương.

Hướng thứ yếu: 10 giờ 30 tiểu đoàn 5 đã đột phá vào được trong căn cứ đánh chiến khu huấn luyện bắt 200 tên, tiểu đoàn 4 đánh chiếm khu vận tải, quân y. Từ 10 giờ 30 đến 11 giờ 30 các mũi hướng phát triển thuận lợi, đánh chiếm các mục tiêu còn lại khu thiết giáp, sân bay, khu thông tin, tiểu đoàn quân y cửa địch. Đồng thời tiếp tục lùng sục truy quét tiêu diệt địch còn sống sót bật tù binh, thu vũ khí. Đúng 11 giờ 30 ngày 29 tháng 4 năm 1975, ta đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng Dù.

3. Giai đoạn làm chủ trận địa

11 giờ 30, ta đã tiêu diệt, làm chủ căn cứ Đồng Dù, tiêu diệt đại đội bảo an ở Bắc Hà. Trung đoàn 9 đánh địch phản kích ở hướng tây bấc, địch ở Củ Chi bỏ chạy tán loạn, khi trung đoàn 48 phát triển ra thì lực lượng vũ trang địa phương đã làm chủ Củ Chi. Còn Tân Quy: Sau khi ta làm chủ Đồng Dù, sư đoàn dùng pháo 155 ly kết hợp cối 82 ly bố trí kìm diệt thấy địch hoang mang rối loạn ta dùng pháo cối tập kích kết hợp với lực lượng công binh, trinh sát và cán bộ cấp phó từ trung đội đến trung đoàn đang nam địch ở đó nổ súng tiêu diệt được một số địch. Đến 13 giờ địch bỏ chạy khỏi căn cứ, bộ phận cán bộ vào căn cứ thu hai khẩu pháo 105 ly và nhiều trang bị khác.


B. Kết quả chiến đấu

1. Về địch


Loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 3000 tên trong đó diệt 500 tên (có 1 trung tá và 1 thiếu tá) bật 2.269 tên, trong đó có 1 chuẩn tướng, 1 đại tá, 3 thiếu tá, 8 đại úy và nhiều sĩ quan khác, gọi hàng gần 200 tên, thu: 904 khẩu súng các loại, trong đó có 3 khẩu 175 ly, 4 khẩu 155 ly, 2 khẩu 105 ly. Sau thu thêm 4.000 khẩu súng các loại, 100 máy thông tin, thu và phá 434 xe quân sự, trong đó 23 xe tăng và thiết giáp. Bắn cháy 11 xe tăng và 2 máy bay. Thu toàn bộ kho tàng và phương tiện chiến tranh của toàn bộ căn cứ Đồng Dù, Củ Chi và Tân Quy.

2. Về ta

Bị phá hỏng 4 xe tăng và 1 xe đạn pháo 220 viên.

Tiêu thụ: 1112 viên đạn pháo 155 ly, Đ74: 337 viên, 105 ly: 2628 viên, cối 160: 42 viên, cối 120: 131 viên, pháo 85: 145 viên, ĐKB: 99 viên, Hi2: 52 viên, pháo tăng 211 viên, ĐKZ: 245 viên, cối 82: 1328 viên, cao xạ 57 ly: 23 viên, cao xạ 37 ly: 382 viên, 12,7 ly: 9.054 viên.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Hungnt_E1F2 trong 02 Tháng Năm, 2009, 04:58:31 pm
Đọc bài này của chiangsan post lên đây, tôi mới biết là hôm qua đã chụp hình và chạm vào hiên vật lịch sử, phiên bản chiếc xe T54 số 960 đã cùng f320 đánh chiếm căn cứ Đồng Dù sáng ngày 29.4.75.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thptquochoc trong 02 Tháng Năm, 2009, 07:08:56 pm
Các bác cho cháu hỏi xe tăng 843 ở dinh độc lập hiện giờ và ở bảo tàng quân sự Việt Nam ở Hà Nội thì cái nào là thật ạ(Thật là xe nào húc dinh độc lập)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 07:30:04 pm
Các bác cho cháu hỏi xe tăng 843 ở dinh độc lập hiện giờ và ở bảo tàng quân sự Việt Nam ở Hà Nội thì cái nào là thật ạ(Thật là xe nào húc dinh độc lập)

Cái ở Hà Nội là thật.

Xe 390 thì chiếc ở Bảo tàng Tăng thiết giáp mới là thật, các xe khác chỉ là phiên bản.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: altus trong 02 Tháng Năm, 2009, 07:53:17 pm
Cái ở Hà Nội là thật.

Xe 390 thì chiếc ở Bảo tàng Tăng thiết giáp mới là thật, các xe khác chỉ là phiên bản.

Thông tin của bác đã chắc chưa đấy?  ;) Nếu đúng là thật thì bắt đầu từ năm nào?  :-\


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 08:06:59 pm
Cái ở Hà Nội là thật.

Xe 390 thì chiếc ở Bảo tàng Tăng thiết giáp mới là thật, các xe khác chỉ là phiên bản.

Thông tin của bác đã chắc chưa đấy?  ;) Nếu đúng là thật thì bắt đầu từ năm nào?  :-\

CHắc  ;D ;D

Vì em đã chụp ảnh nó mà :D  sau đó đưa trong topic về Bảo tàng tăng thiết giáp VN.

Em cũng thắc mắc, hỏi chị hướng dẫn câu y chang bác hỏi em. Chị ấy trả lời là chắc chắn, vì họ có hệ thống sổ sách theo dõi, nhận bàn giao chiếc xe này từ Quân đoàn 2 về.
Thực tế đưa xe vô đây nhưng vẫn niêm cất, nổ máy để khi cần là lăn bánh được ngay.

(http://i74.photobucket.com/albums/i268/rongxanhpmu/BaotangTTG/CIMG1765.jpg)

Hí hí, em lại nhìn thấy chiếc 960 bên cạnh, có bác sắp khóc đây
:D :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 08:47:12 pm
Bản đồ Đồng Dù, tỷ lệ 1:50.000

(http://farm2.anhso.net/PhotoHandler.ashx?actions=b&auth=27442&api=0DBF62EBE059D9747F80D5C957E517F0F9AC850DD3173963&mz=5)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: daibacvn trong 02 Tháng Năm, 2009, 08:59:21 pm
Hihihi, thật giả quan trọng gì cơ chứ - chiếc nào cũng được... bất kỳ một chiếc tăng nào đã tham gia chiến đấu cũng góp phần không ít thì nhiều đến công cuộc chiến đấu thống nhất đất nước!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongadoan trong 02 Tháng Năm, 2009, 09:03:29 pm
Bản đồ Đồng Dù, tỷ lệ 1:50.000
--------------------------------------
 @rongxanh: Cờ địch mở về Đông. ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 02 Tháng Năm, 2009, 09:31:51 pm
Bản đồ Đồng Dù, tỷ lệ 1:50.000
--------------------------------------
 @rongxanh: Cờ địch mở về Đông. ;D

Em theo sách cũ đấy ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 02 Tháng Năm, 2009, 11:44:18 pm
Có bác nào có trận Prasaut tháng 8/1978, trận Udong, trận KP S'peu tháng 2 năm 1979, thì làm ơn bốt lên cái !  ;)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: _new trong 03 Tháng Năm, 2009, 12:23:53 am
Lọ mọ lôi ra được cuốn Sử f320, thấy có cái sơ đồ:
(http://i84.photobucket.com/albums/k16/vo_quoc_tuan/dongdu.jpg)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lixeta trong 03 Tháng Năm, 2009, 09:25:32 am
Các bác cho cháu hỏi xe tăng 843 ở dinh độc lập hiện giờ và ở bảo tàng quân sự Việt Nam ở Hà Nội thì cái nào là thật ạ(Thật là xe nào húc dinh độc lập)

Cái ở Hà Nội là thật.

Xe 390 thì chiếc ở Bảo tàng Tăng thiết giáp mới là thật, các xe khác chỉ là phiên bản.

Lixeta xác nhận: Rong xanh nói chính xác đấy!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 04 Tháng Năm, 2009, 10:15:36 pm
Buồn nhỉ, bác chủ topic này chẳng phản biện lại ý kiến anh em tham gia chút nào nhỉ  ???


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mig21q trong 05 Tháng Năm, 2009, 12:27:11 pm
Theo em thì tài liệu bác Trường Sơn post lên là chính xác và cũng phù hợp với những gì bác Trọng đã trải qua!
Cảm ơn bác nhiều!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 05 Tháng Năm, 2009, 08:22:46 pm
Cái này còn chính xác hơn ;D

1. Lực lượng

-   Hướng tiến công chủ yếu: Tây Bắc căn cứ, do Trung đoàn 48 bộ binh đảm nhiệm

-   Hướng tiến công thứ yếu: Tây Nam căn cứ do Trung đoàn bộ binh 9 đảm nhiệm

-   Tiểu đoàn tăng 3 (thiếu) của Trung đoàn tăng 273 phối thuộc cho F320 (thiếu) tiến công tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, sau đó phát triển chiến đấu đánh chiếm quận lỵ Củ Chi.

-   Kế hoạch phân chia sử dụng xe tăng:
+ Đại đội tăng 7 trực tiếp chi viện cho E48, đánh chiếm sở chỉ huy F25 ngụy và 1 số mục tiêu quan trọng khác.
+ Đại đội tăng 8 (thiếu) chi viện cho E9, tham gia đánh chiếm sở chỉ huy F25 ngụy
+ 1 Trung đội (4xe) của đại đội tăng 8 làm dự bị của Sư đoàn

2.   Diễn biến

-   5h40 ngày 29/4/1975 các cụm pháo chiến dịch và cụm pháo sư đoàn bắt đầu bắn cấp tập vào Đồng Dù. D3 tăng (thiếu) tiếp tục chiếm tuyến triển khai xung phong theo thứ tự: B1/c7 (3 xe) làm nhiệm vụ ngắm bắn trực tiếp, B1/c8 (4 xe) tiến công hướng Tây Nam, B2/c7 (5 xe) tiến công hướng Tây Bắc, B2/c8 làm lực lượng dự bị dừng tại vị trí điều chỉnh.

-   6h20, d trưởng được thông báo là địch cho 3 xe M48 tiến ra hướng Tây Nam bên trong căn cứ để đối phó với E9

-   6h35 b1/c7 tiến với tốc độ cao tách khỏi đội hình lên chiếm trận địa bắn ngắm trực tiếp ở bờ nam suối  Bến Mương (bên trái cửa mở).

-   6h40 c7 tăng chiếm tuyến triển khai và bắt đầu bắn vào lô cốt tiền duyên địch, chi viện cho bộ binh lên mở nốt hàng rào cuối cùng. Địch bắn trả quyết liệt, chúng dùng cả lựu đạn cay ném vào bộ binh ta đang áp sát hàng rào.

-   7h c7 được lệnh xung phong qua cửa mở. Xe 877 dẫn đầu đội hình lao lên, đến cuối cửa mở gặp bờ tường đất quá cao, đất xốp, xe leo lên, tụt xuống bốn lần không vượt qua được, đội hình c7 ùn lại trong cửa mở. Lúc này địch đã điều 2 xe M48 ra bắn mạnh vào xe tăng và bộ binh ta ở 2 bên cửa mở. Xe 813 ở trận địa ngắm bắn trực tiếp bị trúng đạn, trưởng xe hy sinh. Phát hiện xe tăng địch, c7 liền tập trung hỏa lực tiêu diệt nhưng do vị trí triển khai hẹp, lại ở thế bất lợi gần địch, trong lúc xe địch có tường chắn nên ta khó bắn trúng. Sau 10 phút xe tăng ta mới bắn cháy 2 xe M48 của địch. Tuy nhiên do đội hình ùn lại lâu trước cửa mở nên xe của đại đội trưởng (xe 876) và xe của B phó (xe 881) bị bắn hỏng nặng. Bộ binh ta có bộ phận đã vượt tường cao vào bên trong, có bộ phận còn ở ngoài bị địch bắn trả dữ dội, không tiến lên được.

-   Trong tình thế gay go phức tạp, c trưởng c7 liền nhảy ra khỏi xe, kiểm tra bờ đất sau đó chuyển sang xe còn lại (số 896) tiếp tục chỉ huy đơn vị cùng bộ binh tổ chức xung phong qua cửa mở. Xe 896 đã khéo léo lái chếch bờ tường với góc 20 độ và vượt quá được. Các xe 877, 872 xung phong theo vết xích của xe 896 nên đều vượt được qua bờ đất.

-   Dưới sự chi viện hỏa lực mạnh của 3 xe tăng, bộ binh ta ào ào tiến lên đánh thẳng vào khu vực tiểu đoàn công binh, đánh chiếm hết mục tiêu này đến mục tiêu khác. Trước sức mạnh tiến công táo bạo dũng mãnh của xe tăng và bộ binh ta, địch không thể chống đỡ nổi, 1 số bị diệt, 1 số còn lại hoảng loạn tháo chạy. Thừa thắng c7 cùng bộ binh nhanh chóng phát triển sang khu vực tiểu đoàn truyền tin.

-   Cùng thời gian này, trên hướng cửa mở Tây Nam, sau khi 4 xe của c8 lần lượt bị bắn hỏng, bắn cháy, mất sức chiến đấu, không hoàn thành nhiệm vụ đột phá, bộ binh ta cũng gặp khó khăn, nhiều lần tổ chức xung phong nhưng bị địch chặn đứng trước cửa mở. Địch còn điều 2 xe M113 và 1 tiểu đoàn bảo an từ quận lỵ Củ Chi ra phản kích vào sau lưng E9. Chúng đã bị 1 bộ phận của E9 phái ra đánh tan.

-   Ở hướng của c7, sau khi chiếm xong khu thông tin, c trưởng quan sát thấy ở khu nhà trước mặt, có nhiều cột ăng ten, biết đó là sở chỉ huy F25 ngụy liền lệnh cho toàn c nhanh chóng chia làm 2 mũi cùng bộ binh hình thành thế bao vây chặt và tập trung hỏa lực bắn vào sở chỉ huy, đồng thời cảnh giới đề phòng địch đánh tạt sườn.

-   Địch lợi dụng từng căn nhà, đường hào ngăn chặn ta quyết liệt, bộ binh ta không phát triển lên được. Để kết thúc nhanh trận đánh, d trưởng đã trực tiếp đề nghị Sở chỉ huy F320 đưa B2/c8 dự bị bước vào chiến đấu. Được Sở chỉ huy sư đoàn chấp nhận, 4 xe T54 do chính trị viên C8 chỉ huy nhanh chóng tiến theo cửa mở phụ trên hướng chủ yếu đánh thẳng vào trận địa pháo binh, sân bay và tiến xuống phía Nam bịt chặt cửa phía Đông nam căn cứ, không cho địch rút chạy.

-   Đến 10h30 d3 tăng (thiếu) cùng bộ binh trên cả 2 hướng đánh chiếm Sở chỉ huy F25 ngụy và Bộ tham mưu của chúng. Sau đó các mũi tiến công của c7, c8 tiến đánh tiếp cácmục tiêu còn lại là xưởng sửa chữa xe cơ giới, hâu cứ trung đoàn thiết giáp, liên đoàn vận tải 233, chi viện cho bộ binh bắt tù binh, thu vũ khí.

-   11h30 ngày 29/4/1975 quân ta làm chủ căn cứ Đồng Dù, kết thúc thắng lợi trận đánh


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 05 Tháng Năm, 2009, 09:25:05 pm
Theo em thì tài liệu bác Trường Sơn post lên là chính xác và cũng phù hợp với những gì bác Trọng đã trải qua!
Cảm ơn bác nhiều!

Ngược lại là khác bạn mig21q ơi! :)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mig21q trong 06 Tháng Năm, 2009, 07:01:49 am
Ngược lại là khác bạn mig21q ơi! :)
Em thấy nó phù hợp ở chỗ là: hướng thứ yếu của trận đánh do E9 đảm nhiệm gặp nhiều khó khăn, không mở được cửa, chi viện của xe tăng chỉ có 1 Ct thiếu; hướng chủ yếu tập trung nhiều lực lượng mạnh, có 1Ct tham gia, sau bổ sung nốt 1Bt dự bị của sư đoàn, nên đã vào được tung thâm. Như vậy, E48 trên hướng chủ yếu vào căn cứ trước, E9 trên hướng thứ yếu vào căn cứ sau nên khi bác Trọng vào thì thấy quân địch đã cầm cờ trắng và sắp thành hàng.
Hôm nọ, có việc đột xuất, không ọp ở An Khánh được, tiếc quá bác ạ!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 06 Tháng Năm, 2009, 08:38:49 am
Trong các tài liệu bổ sung trên kia, hầu hết đều nói 11 giờ 30 quân ta làm chủ căn cứ. Ấy thế mà trongc6 lúc hơn 2 giờ chiều còn trú trong công sự bên ngoài căn cứ để ngắm xe tăng sư 10 chạy qua ...

He, Có vài thời điểm trong ngày không thể nhầm lẫn được đối với thằng lính. Đó là lúc sáng sớm, buổi trưa và xẩm tối ... càng không có đồng hồ càng phân biệt rõ! :)

(Hehe, cái cứ điểm An Khánh đó thật ác liệt)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: TimeBreak trong 06 Tháng Năm, 2009, 08:51:21 am
Em là hậu sinh không dám phát biểu nhiều, nhưng trong hồi ức của bác TrongC6, thì em thấy có hai điểm đáng chú ý :

1/ khi E của bác ấy thấy " địch trong căn cứ có dấu hiệu hốn loạn", đã xung phong vào, thì không bị kháng cự một chút nào - cái này khác hẳn với các đợt tấn công bị bẻ gãy ngay trước đó vài tiếng va

2/ Khi càn quét vào sâu căn cứ, thấy địch ngồi xếp hàng từng cụm, tay cầm vải/cờ/dù trắng

Cá nhân em nghĩ, việc Sư 10 rùng rùng chạy qua cổng bên kia không thể đủ làm cho quân địch trong căn cứ thay đổi hẳn như thế, chắc là đã có một đơn vị nào tiến chiếm từ hướng khác, căn cứ thất thủ và 2 hiện tượng trên thể hiện quân địch trong căn cứ đã bị giải giáp.

Em rất đồng ý với ý kiến của bác ở trên, có thể E của bác TrongC6 có nhiệm vụ đánh vỗ mặt, thu hút hỏa lực địch, nghi binh để đơn vị kia tấn công thành công

Xin các bác Cựu binh chỉ giáo


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 06 Tháng Năm, 2009, 10:04:54 am
  Time@      Đánh Đông dù  ta phải mở nhiều cửa để cửa này không mở  được thì có cửa khác   không hề có mũi nào nghi binh cả .Dĩ nhiên E48 là mũi chủ yếu thì được tăng cừong lực lựong nhiều hơn . E 9 vào sau là do chỉ huy không tốt , mở 2 cửa thì một cửa không mở được ,1 cửa (chỗ bác Trọng ) coi như xong ,chỉ còn một hàng rào vứong chân loại này dễ phá nhất ,cán bộ  D không  lên cửa mở để chỉ huy, c 6 mỗi b có một ống  bộc phá nhưng không dùng và bác trọng cứ viếc ngồi ngâm thơ mơ mộng .Còn c5 hy sinh nhiều khi mở cửa là đương nhiên  ,(quân số mỗi c khi đó chắc cũng chừng 20-30 tay súng thôi )
 E48 cán bộ d vào cửa mở để chỉ huy , lại có anh Sơn dám đứng thẳng để bắn xe tăng ( anh Sơn được tuyên dương anh hùng là do có thành tích trong trận này }bộ binh  chiếm đựoc  đầu  cầu thì F tung hết dự bị vào đây để  đánh cũng là  điều đương nhiên ., nếu C6 ở gần đó chắc chắn e9 cũng mượn cửa e48 để vào đánh các mục tiêu đã được phân  công ,
 -Nếu 48 không  chiếm được SCH f25 VNCH thì cho kẹo f10 cũng không thể hành tiến qua đâu .Mục đích đánh Đồng dù là mở đừong cho f10 thọc sâu


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ahuuls trong 06 Tháng Năm, 2009, 10:55:24 am
Lọ mọ lôi ra được cuốn Sử f320, thấy có cái sơ đồ:
(http://i84.photobucket.com/albums/k16/vo_quoc_tuan/dongdu.jpg)
.................
Theo cái này thì 1 bộ phận của d4 còn nằm phía trước đơn vị bác trongc6@,như vậy thì khi tấn công bộ phận này đã bị thương vong hết ,sau đó c5 d2 của bác mới tiếp bước tấn công(bác Khung c phó c5 hy sinh tại cửa mở).Mặc dù "Lịch sử Đại đoàn Đồng Bằng - Sư đoàn 320 - Biên niên sự kiện 1951-2005"ghi rõ là: 11h30 ta làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng dù nhưng do căn cứ rộng nên có cái không hoàn toàn ở đây .Hướng đột phá của đơn vị bác là hướng chính diện nên khó khăn là phải,có thể các hướng khác đã lên được căn cứ nhưng không phát triển được hết nên hướng của bác vẫn phải nằm chịu trận thôi.Chính những điều không trung thực khi viết sử này (có thể mang nặng nhiệm vụ tuyên truyền ) nên làm cho người đọc khó hiểu khi so sánh với thực tế của các ccb tham gia vào trận đánh.Nhưng có điều bác trongc6@ chưa có ý kiến gì về sơ đồ này nên em không dám bàn nhiều vì nó không ghi địa điểm của d1 e9b nằm ở vị trí nào và có tham gia trận này hay không?Do trận đánh cấp Sư đoàn (thiếu ) nên không hiểu d1 tham gia trận đánh là của e9b hay e48 nữa (mà sơ đồ cũng không ghi đơn vị d1 đánh ở cửa nào) nhưng trong sử ghi rõ :
"- Hướng chủ yểu: Tiểu đoàn 1 (thiếu Đại đội 9) cùng xe tăng đánh chiếm được khu bãi tập chiến thuật bắt 50 tên, Đại đội 11 (Tiểu đoàn 3) đã chiếm được đầu cầu." Làm ăn thế này thì bằng đánh đố người ta còn gì,xin bác trongc6@cho ý kiến để anh em khỏi thắc mắc đi ạ do không ghi chú cụ thể đơn vị cấp c nên chúng em không thể hiểu được vì chúng em là người ngoài cuộc,mong bài của bác!



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 06 Tháng Năm, 2009, 11:44:51 am
 Bác Ahu@ ơi  tôi hiểu sơ  đồ này ghi D4 Tây bắc là của e 48 còn  D4  Tây nam thuộc E9 ( trong sơ đồ là E3 ) không ai lại xé D4 ra làm 2  cửa mở cả ,làm thế ai chỉ huy được  D4 E3 này không mở được cửa nên vòng về đông nam vào (nhìn mũi tên )Còn D5 là D bác Trọng vì D bác Trọng vào trong bằng cửa của mình và   ở đó vẽ mũi xe tăng vòng lại ( thể hiện 4 xe dến cửa mở thi bị chặn ,lui )


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ahuuls trong 06 Tháng Năm, 2009, 11:57:34 am
tai_lienson @:
 Bác Ahu@ ơi  tôi hiểu sơ  đồ này ghi D4  Tây nam thuộc E9 ( trong sơ đồ là E3 ) không ai lại xé D4 ra làm 2  cửa mở cả ,làm thế ai chỉ huy được .Còn D5 là D bác Trọng vì D bác Trọng vào trong bằng cửa của mình và   ở đó vẽ mũi xe tăng vòng lại ( thể hiện 4 xe dến cửa mở thi bị chặn ,lui )
...................
Vì bác trongc6@ viết: " Tôi ở D2 (K18), E9b. Trung đoàn tôi không có tiểu đoàn 4 hay tiểu đoàn 5. Chỉ có D1 (K15), D2(K18) và D3 (K16)" nên em hiểu như vậy mà bác hay là khi đánh nhau dùng phiên hiệu khác hả bác? Và đây nữa:
"- E48 mở cửa hướng Đông căn cứ Đồng Dù.
- E9b mở cửa hướng Tây Bắc căn cứ Đồng Dù"
 Như vậy sơ đồ này hướng Đông của căn cứ Đồng dù là hướng nào vậy bác?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 06 Tháng Năm, 2009, 12:07:17 pm
Về chuyện phiên hiệu, e141 lúc ở f312 gồm các d 1, 2, 3; khi về f3 gồm các d 7, 8, 9.

Theo em được biết, thời chống Mỹ phiên hiệu các d trong 1 f (theo tiêu chuẩn) là 1-2-3, 4-5-6, 7-8-9 lần lượt cho 3 e theo thứ tự nhỏ đến lớn.

Cái d4 ở chỗ e48 có thể là d1, do sách in mờ các bác ạ!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ahuuls trong 06 Tháng Năm, 2009, 01:14:29 pm
chiangshan @
Về chuyện phiên hiệu, e141 lúc ở f312 gồm các d 1, 2, 3; khi về f3 gồm các d 7, 8, 9.

Theo em được biết, thời chống Mỹ phiên hiệu các d trong 1 f (theo tiêu chuẩn) là 1-2-3, 4-5-6, 7-8-9 lần lượt cho 3 e theo thứ tự nhỏ đến lớn.

Cái d4 ở chỗ e48 có thể là d1, do sách in mờ các bác ạ
.............
Như thế là hợp lý vì bác Trọng ở c6 thuộc d2(k18), như vậy hướng tây nam chỗ e3(phần chú giải chữ trắng) phải là e9 của bác Trọng,d6 làm dự bị  vào sau theo 2 hướng cửa mở của e48 và e9.Còn d4(phần chú giải chữ trắng) của e48 thực ra là d1 e48 nhưng bác Trọng viết:
'' E9b mở cửa hướng Tây Bắc căn cứ Đồng Dù" lại không hợp với sơ đồ này?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ahuuls trong 06 Tháng Năm, 2009, 02:00:24 pm
Em đọc được cái này bên: "Bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên-Quân đoàn 3 - 1964-2005 " của bác Sao vàng @ đưa sang đây để các bác tham khảo và so sánh với cái Sử F320 của bác -new@:

Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 4, Sư đoàn 320 (thiếu) được tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng (thiếu), 1 tiểu đoàn pháo 155m (thiếu), Trung đoàn phòng không 593 (thiếu) do sư đoàn trưởng Bùi Đình Hòe và chính ủy Bùi Huy Bổng chỉ huy bí mật triển khai trận địa tiến công căn cứ Đồng Dù. Bộ tư lệnh Quân đoàn cử đại tá Nguyễn Kim Tuấn phó tư lệnh trực tiếp xuống sở chỉ huy Sư đoàn 320 giáp đơn vị trong trận đánh quan trọng này.

Đồng Dù là căn cứ hỗn hợp quy mô lớn có vị trí rất quan trọng, nằm trên trục quốc lộ số 1, án ngữ phía tây bắc Sài Gòn. Đây vốn là hang ổ của sư đoàn 25 Mỹ (Tia chớp nhiệt đới) được xây dựng từ lâu, có hình bầu dục, chu vi gần 8.500m, xung quanh là vùng trắng bằng phẳng trống trải hoang tàn.

Khi Sư đoàn 320 tiến công, lực lượng địch trong căn cứ Đồng Dù gồm có: bộ tư lệnh sư đoàn 25, ban chỉ huy trung đoàn 50, tiểu đoàn 2 bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo hỗn hợp, 1 chi đoàn xe tăng và hậu cứ trung đoàn 10 thiết giáp, các tiểu đoàn công binh, thông tin, vận tải chiến tranh chính trị, quân y, tiếp vận, chỉ huy căn cứ Củ Chi, trường huấn luyện hạ sĩ quan binh sĩ. Tổng quân số khoảng 3.000 tên, trang bị có 34 xe tăng xe bọc thép, gần 5.000 khẩu súng các loại trong đó có 18 khẩu pháo lớn (có 4 khẩu 175mm - vua chiến trường).

Cậy có quân đông, lắm xe, nhiều súng, lại dựa vào hệ thống lô cốt công sự kiên cố bên trong và hệ thống vật cản bao quanh với gần chục hàng rào kẽm gai các loại có gài mìn dày đặc, nên chuẩn tướng Lý Tòng Bá (sư đoàn trưởng sư đoàn 25) rất ngoan cố, bắt quân lính "tử thủ” đến cùng. Song trong cơn hấp hối của chế độ bán nước, quân địch ở Đồng Dù tinh thần hoang mang dao động, sa sút, bị cô lập hoàn toàn, khả năng phòng giữ có hạn không thể chống đỡ nổi trước sức tiến công mạnh mẽ của Sư đoàn 320.

Đúng 5 giờ 30 phút, pháo binh Sư đoàn 320 đồng loạt bắn vào căn cứ Đồng Dù và kéo dài trong suốt 2 giờ liền. Trong tiếng gầm dữ dội của đại bác, xe tăng và pháo phòng không cơ động vào tuyến xuất phát xung phong, bộ binh trên các hướng nổ mìn định hướng và đánh bộc phá liên tục mở bung nhiều lớp rào. Sau 30 phút pháo kích, địch phát hiện được hướng cửa mở của ta và phản ứng mạnh. Chúng điều động bộ binh, xe tăng ra bịt lấp các cửa mở, đồng thời dùng máy bay, pháo cối có cả đạn hóa học đánh vào đội hình tiến công của Sư đoàn 320.

Trên hướng tiến công chủ yếu tây bắc, Trung đoàn 48 do trung đoàn trưởng Lê Quang Bình và chính ủy Đinh Hữu Tấn chỉ huy, chiến sự diễn ra quyết liệt ngay từ những phút đầu. Tại cửa mở số 1, Đại đội 3 (tiểu đoàn 1) dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Trần Nhật Tăng và chính trị viên Đào Xuân Sáng, khi mở những hàng rào trong cùng bị địch tập trung hỏa lực bắn chặn dữ dội. Được pháo cối cấp trên chi viện kịp thời, trung đội trưởng Trung đội 7 Nguyễn Hữu Gióng dũng cảm chỉ huy phân đội đánh bộc phá liên tục mở thông cửa mở. Khi hàng rào cuối cùng bị phá tung cũng là lúc các bộc phá viên Nguyễn Khắc Bảo, Nguyễn Văn Lĩnh anh dũng hy sinh.  giờ 30 phút, pháo cối ngừng bắn, bộ binh xung phong lên cửa mở nhưng bị hỏa lực xe tăng địch trong công sự bắn chặn làm một số chiến sĩ thương vong, không phát triển được. Trước tình hình đó, trung đội trưởng Trung đội 9 Vũ Văn Sơn quan sát mục tiêu, nhanh chóng chọn cách đánh rồi bất ngờ đứng thẳng dậy bắn một quả B40 tiêu diệt chiếc xe tăng. Lập tức bộ đội ào ạt xung phong đánh chiếm đầu cầu

Lúc 8 giờ, 4 xe tăng ta tiến đến khu vực cửa mở, nhưng bị địch bắn cháy 2 chiếc, 1 chiếc hỏng máy dừng lại, chỉ còn 1 chiếc vượt qua cửa mở cùng bộ binh đột phá vào các mục tiêu bên trong cứ điểm. Sau khi đưa toàn bộ lực lượng còn lại vào phát triển tiến công, đến 8 giờ 30 phút Tiểu đoàn 1 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quang Vinh và chính trị viên Nguyễn Văn Thư chỉ huy đã đánh chiếm được khu vực bãi xe của tiểu đoàn công binh, nhưng bị địch chặn lại.

Cùng thời gian này, hướng cửa mở số 2 của Trung đoàn 48 do Tiểu đoàn 3 đảm nhiệm gặp khó khăn. Đại đội 11 mở thông 5 hàng rào, khi mở tiếp 2 hàng rào trong cùng bị xe tăng địch ngăn chặn. Không chút do dự, đại đội trưởng Nguyễn Công Bạ và xạ thủ B41 Nguyễn Tiến Ngọ dũng cảm diệt xe tăng và dập tắt hỏa điểm địch trước cửa mở, tạo điều kiện cho bộc phá viên Lê Văn Sử đánh tung những hàng rào cuối cùng. 7 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 3 chiếm được tuyến công sự thứ nhất làm bàn đạp rồi phát triển vào bên trong.

Ở hướng tiến công thứ yếu tây nam, Trung đoàn 9 do trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Ân chỉ huy, tổ chức mở hai cửa mở nhưng đều gặp khó khăn, bộc phá viên lên đánh hai hàng rào cuối cùng bị địch ngăn chặn không tiếp cận được. Lúc 9 giờ, qua đài trinh sát kỹ thuật, ta nắm được tin Lý Tòng Bá ra lệnh cho trung đoàn 46 ngụy ở Trảng Bàng, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 50) ở Xóm Mới và một chi đội xe tăng ở Củ Chi đi cứu nguy cho Đồng Dù.

Trước tình hình diễn biến chiến đấu ở Đồng Dù và âm mưu mới của địch, Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 quyết định tập trung lực lượng trên hướng chính do Trung đoàn 48 đảm trách: đưa Tiểu đoàn 2 cùng 8 xe tăng vào hướng Tiểu đoàn 1 tiến công thọc sâu tiêu diệt sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy rồi phát triển sang các hướng Tiểu đoàn 3 và Trung đoàn 9. Đồng thời nhanh chóng xốc lại đội hình Trung đoàn 9 tiếp tục đột phá, sử dụng Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 16 súng máy phòng không ngăn chặn quân địch tăng viện.

Thực hiện ý định chiến đấu mới, từ 9 giờ 30 phút đến 10 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 2 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Hạ chỉ huy cùng lực lượng xe tăng phối hợp chặt chẽ với Tiểu đoàn 1 liên tục tiến công đột phá, lần lượt đánh chiếm khu vực hậu cứ trung đoàn 46, khu truyền tin, nhà máy điện, đập tan những ổ đề kháng trên đường tiến công thọc sâu. Lúc 10 giờ 30 phút, Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 và Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 đánh chiếm làm chủ sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy. Chuẩn tướng Lý Tòng Bá và ban tham mưu của y đã bỏ chạy. Bộ đội tỏa ra các hướng tiếp tục phát triển tiến công. Ở hướng Tiểu đoàn 3, bộ binh và xe tăng phối hợp đánh chiếm làm chủ các mục tiêu: trận địa pháo, sở chỉ huy trung đoàn 50, khu thiết giáp và sân bay.

Cùng thời gian này, Trung đoàn 9 sử dụng Đại đội 7 Tiểu đoàn 5 cùng một bộ phận dự bị của Tiểu đoàn 16 súng máy phòng không đánh bại lực lượng phản kích của tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 từ Xóm Mới và 1 chi đội xe tăng ở Củ Chi lên, diệt 100 tên, bắt 135 tên, trong đó có tên tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó tiểu đoàn 3 địch. Được phân đội bạn bảo vệ phía sau, 10 giờ 30 phút Tiểu đoàn 5 đột phá được vào bên trong cứ điểm, nhanh chóng đánh chiếm khu huấn luyện, bắt 200 tên địch. Tiểu đoàn 4 không mở được cửa mở, đã cơ động lực lượng qua khu vực nhà thờ Bắc Hà đánh thẳng vào cổng phía nam căn cứ Đồng Dù, chiếm khu tiểu đoàn vận tải, quân y; sau đó phối hợp với phân đội bạn chiếm các mục tiêu còn lại: khu thiết giáp, sân bay và lùng quét tàn binh.

11 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 320 làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng' Dù. Lá cờ truyền thống của Đoàn Đồng Bằng phấp phới bay tại trung tâm chỉ huy sư đoàn 25 ngụy báo hiệu trận đánh đã toàn thắng. Như vậy chỉ trong 5 giờ tiến công bộ tư lệnh sư đoàn 25 và các lực lượng địch trong căn cứ Đồng Dù đã bị đập tan, 500 tên địch bị chết, 2.269 tên bị bắt làm tù binh, 4.909 khẩu súng các loại (có 9 khẩu đại bác 175, 155, 105mm) 100 máy thông tin, 2 máy bay bị tịch thu, 423 xe quân sự (có 23 xe tăng xe bọc thép) bị thu và phá hủy. Ngày hôm sau (30.4), được nhân dân Củ Chi giúp đỡ, ta đã tóm gọn chuẩn tướng Lý Tòng Bá (sư đoàn trưởng) và đại tá Trần Thắng Chức (sư đoàn phó) cùng một số sĩ quan tham mưu sư đoàn 25 ngụy.

Căn cứ Đồng Dù bị đánh chiếm, cánh cửa thép án ngữ tây bắc Sài Gòn đã mở, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng tiến công thọc sâu binh chủng hợp thành của Quân đoàn đánh thẳng về phía nội đô và Sư đoàn 316 tiêu diệt những lực lượng còn lại của địch ở vòng ngoài trên hướng tây bắc Sài Gòn.
 ..............................
như vậy về thời gian làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng dù có sự chênh lệch về thời gian (30') chưa kể đến chiều bác Trọng mới vào được căn cứ và diễn biến trận đánh cũng có sự khác biệt.Hướng chính là hướng tây bắc do e48 đảm nhận và đơn vị này vào căn cứ trước e9 của bác Trọng,hướng này là hướng thứ yếu nhưng cũng khó khăn ở cả 2 cửa mở nhưng trong này viết :
 "...10 giờ 30 phút Tiểu đoàn 5 đột phá được vào bên trong cứ điểm, nhanh chóng đánh chiếm khu huấn luyện, bắt 200 tên địch..." và " Lúc 10 giờ 30 phút, Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 và Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 đánh chiếm làm chủ sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy."Như vậy nếu như bác Trọng không xác nhận chuyện này thì đây cũng là hàng giả nốt 

 
 
 
 
 
 

 
 
 
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tranlam99 trong 06 Tháng Năm, 2009, 05:44:09 pm
Về phiên hiệu đơn vị trung đoàn 9, tôi nghĩ là cũng phù hợp, có lẽ trong sử ghi lại theo phiên hiệu đã thay đổi sau này rồi.

Có lẽ ở trung đoàn 48 có các tiểu đoàn 1,2,3 thì trung đoàn 9 sẽ đổi phiên hiệu các tiểu đoàn của mình sang thành tiểu đoàn 4,5,6. Do vậy  D1(K15) cũ đổi thành tiểu đoàn 4, D2(K18)  cũ đổi thành tiểu đoàn 5 và D3(K16)  cũ đổi thành tiểu đoàn 6. Tiểu đoàn của bác Trọng là tiểu đoàn 5 nên có các c5, c6, c7 và trong sử nói bị kẹt ở cửa mở là đúng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 06 Tháng Năm, 2009, 06:37:33 pm
Em đọc được cái này bên: "Bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên-Quân đoàn 3 - 1964-2005 " của bác Sao vàng @ đưa sang đây để các bác tham khảo và so sánh với cái Sử F320 của bác -new@:


 ..............................
như vậy về thời gian làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng dù có sự chênh lệch về thời gian (30') chưa kể đến chiều bác Trọng mới vào được căn cứ và diễn biến trận đánh cũng có sự khác biệt.Hướng chính là hướng tây bắc do e48 đảm nhận và đơn vị này vào căn cứ trước e9 của bác Trọng,hướng này là hướng thứ yếu nhưng cũng khó khăn ở cả 2 cửa mở nhưng trong này viết :
 "...10 giờ 30 phút Tiểu đoàn 5 đột phá được vào bên trong cứ điểm, nhanh chóng đánh chiếm khu huấn luyện, bắt 200 tên địch..." và " Lúc 10 giờ 30 phút, Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 và Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 đánh chiếm làm chủ sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy."Như vậy nếu như bác Trọng không xác nhận chuyện này thì đây cũng là hàng giả nốt 


Em xin có ý kiến về cái vàng kia, kết luận e hơi sớm, đặc biệt chi tiết đơn vị bác Trọng vào đã thấy địch quân xếp hàng ngay ngắn, cờ trắng ...

Cụ già em (ở 1 đơn vị của F316 đánh bốt TRung Hưng cách khoảng 1km) kể khoảng tầm 10h30 đã thấy địch từ Đồng Dù túa ra khu vực cánh đồng Bắc Hồng cạnh bốt Trung Hưng rồi.

Mà sao hổng thấy bác chủ topic vô phản biện nhỉ ?  ???


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 06 Tháng Năm, 2009, 07:43:29 pm
Các bác đang dùng giờ Hà Nội chứ ::)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: taydoc711 trong 06 Tháng Năm, 2009, 11:04:13 pm
Các bác đang dùng giờ Hà Nội chứ ::)
Thực chất là Hà Nội và Sài Gòn đều chung  một múi giờ theo chuẩn quốc tế mà bác.Trước 75 thì chính quyền cũ cho chậm hoặc nhanh hơn 1h hay sao đó.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dksaigon trong 06 Tháng Năm, 2009, 11:15:43 pm
Năm 75 chính quyền Sài gòn lấy theo múi giờ thứ 8 , hơn giờ Hà nội 1 giờ !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ahuuls trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:28:35 am
chiangshan@
Các bác đang dùng giờ Hà Nội chứ ::)
..............
Ta thống nhất là dùng giờ Hà nội vì mọi việc đều có sự chỉ đạo từ Hà nội mà ví dụ như giải phóng Sài gòn ngày 30/4/1975 ta chẳng dùng giờ Hà nội là gì,mà lạ 1 việc quan trọng như Tổng tấn công và nổi dậy Mậu thân 1968 mà lại không thống nhất về dùng giờ Hà nội hay giờ Sài gòn các bác nhỉ,nếu bảo sau lời chúc tết của Bác  là nổ súng thì đó chính xác là giờ HN rồi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Năm, 2009, 09:39:23 pm
      Đây là bài viết đăng trên báo Điện Biên Phủ tháng 4/2009.
       Anh Vương Bá Thịnh trong bài, khi đánh Đồng Dù là Chính trị viên phó tiểu đoàn (K18), E9b.

-----------------

              ĐBP - 34 năm ngày giải phóng Sài Gòn đã trôi qua, nhưng với ông Vương Bá Thịnh (phường Thanh Trường, T.P Điện Biên Phủ) vẫn không quên mệnh lệnh tấn công xung phong trong chiến dịch Hồ Chí Minh “Thần tốc, thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo, táo bạo hơn nữa”. Mệnh lệnh tấn công đó, không chỉ là khẩu hiệu mà còn là nguồn cổ vũ, động viên toàn quân xung phong giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

     Nhập ngũ khi vừa tròn 19 tuổi, ông Thịnh vào chiến trường miền Nam, tham gia chiến dịch Mậu Thân và trực tiếp tham gia chiến đấu trong chiến dịch Hồ Chí Minh tại Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, Sư đoàn 320. Nhiệm vụ của Trung đoàn ông khi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh là tiêu diệt Sư đoàn bộ binh nguỵ trấn giữ tại khu vực Đồng Dù (phía Tây Bắc Sài Gòn). Đây là trận đánh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cùng với tiêu diệt lực lượng quân tinh nhuệ của địch, trận chiến này còn phá vỡ thế phòng thủ vòng ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiến vào Sài Gòn, đánh chiếm Dinh Độc Lập. Trận Đồng Dù, Trung đoàn chia làm 3 mũi tấn công, đồng loạt nổ súng (ông Thịnh thuộc mũi tấn công số 2 tại Tiểu đoàn 2). Sau phản kích, quân ta bị địch quay lại tấn công dồn dập, Tiểu đoàn 2 bị bao vây ngay giữa rừng cao su tại Đồng Du. Trong vòng vây, Tiểu đoàn ông quyết tâm cố thủ với trận chiến giữa ta và địch chỉ cách nhau khoảng 200m. Sau hơn 2 giờ giằng co, Trung đoàn đã huy động đại đội 7 phối hợp với Đại đội phòng không tấn công, giải vây. Nhận được sự tiếp viện từ Trung đoàn, tất cả các chiến sỹ trong Tiểu đoàn đồng loạt xông lên với tinh thần quyết thắng, địch hoang mang, rút chạy, quân ta thừa thế tấn công tiêu diệt chốt địch cuối cùng tại Đồng Du, tiến thẳng vào Sài Gòn.
 
   Đã mấy thập kỷ qua đi nhưng ký ức về những ngày máu, lửa, khốc liệt mà vinh quang vẫn như còn nguyên trong mỗi việc làm, của ông, đặc biệt “Bản giao hưởng chiến trường” như nhắc nhở ông phải sống sao cho xứng đáng với những hy sinh, mất mát to lớn của đồng đội để có cuộc sống no ấm, hạnh phúc hôm nay.
                 
           
(Minh Huyền)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:38:49 pm
Phải nói là rất tôn trọng các bác cựu binh đánh Mỹ nhưng cũng phải nói là bài viết trên, thằng phóng tinh viên viết rất là tào lao!
Đúng là dân mộng du đi giữa đồng.
Em thật.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 09 Tháng Năm, 2009, 12:10:33 am
Các bác cựu vào đây là mong được chao đổi tin,tình huống,cảm giác thật khi xung trận hay lúc xẩy ra chiến trận và cảm xúc,xuy nghĩ nếu có sau mỗi lần đụng trận.
Đọc báo,truyện để giải trí nó chẳng có ý nghĩa gì với những người đã thật sự đụng trận,nhàm.....nhàm.. ..nhàm.......chán......chán...chán.... ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ahuuls trong 09 Tháng Năm, 2009, 12:29:36 am
Bác trongc6@ như vậy là d2 của bác rồi còn gì mà em cũng chưa thấy bác viết về tình thế bác bị bao vây ra sao hay khi đơn vị dự bị của bác(k15) đón đánh bọn ngụy chạy đến căn cứ Đòng dù chính là lúc đơn vị bác bị bao vây?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Năm, 2009, 12:51:55 pm
@ahuuls:
Thủ trưởng Thịnh đúng là ở D tôi đấy.
Chính tôi cũng không hiểu tại sao anh ấy kể chuyện cho phóng viên viết vậy.
Nhưng thiển ý của tôi post bài ấy là muốn nói rằng mỗi người có cách nhìn riêng về cùng một sự kiện. Vì thế tranh luận mà làm gì.
Tôi đã kể cho các bác về cảm nhận của mình trong trận đánh đó rồi. Nhớ sao kể vậy vì tôi có cần đánh bóng mình đâu.
Các bác bảo tôi nói sai, cũng chẳng có vấn đề gì. Tôi không buồn.
Kể cả các bác bảo là đánh dễ thế (cái hàng rào cũi lợn) mà không xong, cũng được nốt.
Tôi không muốn bàn thêm, hay tranh luận vì tôi đã nói lý do từ đầu.
Tốt nhất, nên chăng cho nó qua đi, như một chuyện phiếm trong lúc ngồi chờ phà qua sông?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ahuuls trong 09 Tháng Năm, 2009, 01:05:24 pm
Vì diễn đàn mang tính thảo luận mà ,nên hậu thế chúng em có lắm lời 1 chút cũng mong bác đại xá cho.Cũng chẳng được ,mất gì ở đây nên bác thông cảm cho ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: trungdoangiadinh trong 09 Tháng Năm, 2009, 02:03:32 pm
 Bác Trongc6 ơi....riêng em, xem bài của bác thì rất thích thú....có thể là bị lẫn lộn vài chổ..nhưng thời gian qua lâu rồi mà bác..làm sao chính xác từng chút một được...em cũng mới vào, khi em đăng bài cũng có ý kiến làm em hơi..bị "sốc"..nhưng khi gặp các bác nhà mình thì thấy rất tình cảm với nhau...
 Em xin có ý kiến riêng như thế này (nếu không phải thì các bác bỏ qua, em dựa trên bản thân mình và qua bài của bác Trongc6 vừa rồi )
 Vì mới vào, nên khi đăng bài ..thì chủ yếu tham gia cùng nhau ôn lại những hồi ức, suy nghĩ thật của bản thân mình khi còn làm người lính, là lính lác thì chỉ có cái nhìn nhỏ hẹp trong phạm vi của cùa 1D hay 1C thậm chí là 1A......cho nên nếu ghép toàn cục đôi khi khập khểnh cho người viết..vì đương nhiên anh lính..sẽ khác anh..B trưởng !!!!!! do đó khi có bác CCB nào mới vào viết bài, khi có thảo luận thì các bác cũng nên xem lại, đừng chi tiết quá ...với người cũ thì không thành vấn đề vì "dạn dày chinh chiến " rồi....còn người mới sẽ đâm ra..ngại !!!!
 Để dẫn chứng, em xin bác Trongc6 cho em thêm một đoạn trong bài này không liên quan đến bác nhé...
  Trước em cũng xin bác angko krao cho em trích dẫn lời của bác trong bài này và em không có ý gì khác cả vì đã gặp bác và rất vui khi được làm quen với bác...!!!
  Trong bài bác thảo luận trong topic của em .
"Dễ hiểu thôi mà haanh  Grin Có ai dám "dúi" E Gia Định,con cưng của TP. mang tên Bác vào chảo lửa bao giờ đâu ! Shocked
Nhưng đó là khi E Gia Định qua K sau này và để giữ truyền thống của đơn vị nổi tiếng này. Khi phải "chốt giữ" ở biên giới TN lúc chưa được đánh qua, E Gia Định cũng có những trận đánh dữ dội, và AE ở E Gia Định, hy sinh cũng không ít  Sad.
Hy vọng với topic này, các CCB E Gia Định sẽ tham gia nhiều, để AE mình biết thêm về tình hình các đơn vị khác trong CTBGTN và làm NVQT hồi đó.
Năm 1978,nghe đồn rằng...chính E Gia Định là 1 trong những đơn vị đánh để "mở đường máu" , cho các đơn vị Pốt phản chiến có đường tập trung về BG VN thành lập QĐ và chính quyền CM của Hêng Somrin.
 Khi xem câu "Dễ hiểu thôi mà haanh  Grin Có ai dám "dúi" E Gia Định,con cưng của TP. mang tên Bác vào chảo lửa bao giờ đâu !" em bị ..sốc...vì khi qua K. làm nhiệm vụ, em nghỉ người nào cũng thế...có chăng là đơn vị này" may mắn" hơn đơn vị kia mà thôi...E của em thì đảm nhận lộ 12 và hành quân truy quét đến giáp ranh lộ 6 ..đã từng có 1C2(D1) chống lệnh hành quân....vì đi không nổi nữa!!! và toàn C2 đó đều bị giáng xuống 1 cấp.. đó là đơn vị ..đụng Pốt  nhiều nhất của D1(và người chỉ huy C2 anh em ai cũng quý mến, sau này bị Pốt phục bắn chết ở KongpongCham!0.
 Em chỉ có vài lời và nếu không đúng với chủ đề thì cứ xóa bài giùm nhé..
  Tóm lại là bác Trongc6 cứ tiếp tục đi, sau này anh em nếu có dịp gặp lại, bác sẽ thấy lại tình đội ấm lòng lắm bác ơi...!!!
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 09 Tháng Năm, 2009, 03:01:17 pm
@trungdoangiadinh : nhà ông bỏ trống kìa , về nhà mở cửa  cho anh em vào tám với , chổ này là chuyện văn học với chính sử biết giề mà nói  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 10 Tháng Năm, 2009, 07:54:56 am
 BÁc Trọng @ CCB tham gia diễn đàn này là để ghi lại cảm nhận cá nhân trong các cuộc chiến ,diễn đàn này cũng là nơi các tham mưu con tranh luận ( cho vui ) vì cảm nhận của bác về thời gian và một số sự kiện có sai lệch so với những  gì đã biết nên họ đưa các tài liệu lên để tìm hiểu thêm ( hơn 30 năm nhớ được như bác là quý lắm rồi ) chứ  nào  ai nghĩ điều gì xấu đâu ,
  Qua lời kể của Dv Thịnh   kể mà  ông  "lều " báo nào đã viết ,cá nhân tôi  cảm nhận  thêm là D lúng túng giữa  tiếp tục đánh vô hay lo chặn viên ( bác Thịnh nói  bị bao vây )
  Qua trao đổi của anh em CCb  làm rõ  hàng rào vướng chân khác hàng rào cũi lợn (  có hình vẽ minh họa ) tôi thiển nghĩ nó cũng có ích với một sĩ quan trẻ nào đó tình cơ đọc được toppich này
  Mong bác vui ta tiếp tục tào lao đời chinh chiến tiếp


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mig21-58 trong 10 Tháng Năm, 2009, 09:37:06 am
tôi đọc trận đồng dù của sư 320 đoạn cuối có nói là khi sư 10 đi qua thì tiếng súng truy quét tàn quân vẫn chư hết ,có nghĩa là vẫn còn đánh nhau (những trận đánh trược cửa ngõ sài gòn )


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Năm, 2009, 10:45:12 am
      Các bác đã nói vậy thì tôi xin thêm mấy lời:

        - Có thể trí nhớ đã kém, nhưng chắc chắc hôm 29/4/75 đó, chúng tôi có ăn cơm trưa ngoài cửa mở. Nếu 11h00 đã vào căn cứ thì vội ăn cơm làm gì? Các bác nhớ cho là khi vào trận thì thường rơi vào tình trạng không thấy đói. Thường là khi mọi sự đã xong, bã người ra rồi thì mới nhớ là từ lúc nào đó mình chưa có hạt cơm vào bụng.

        - Trên hướng D2 (K18), trung đội tôi là B đầu tiên xung phong vào khi có lệnh, và tôi là người đầu tiên đặt bước chân vượt qua hàng rào vướng chân tiến vào cửa mở (thôi bây giờ thống nhất nó là hàng rào vướng chân, vì cái hàng rào ở đó chỉ cao có 40 phân thôi).

        - Hàng rào vướng chân đó dùng cọc sắt chữ L, bẻ vênh hai phía trên đầu, cắm rất sâu xuống đất (Không phải cọc gỗ), giằng nhau đan chéo bằng dây thép gai. Phía dưới đất chôn mìn râu tôm khá dày (mìn này hình như có tên M1 hay M3 gì đó) khi dẫm phải sẽ kích  nổ khố thuốc phụ dưới đáy, đẩy quả mìn chính bay cao lên 1,6-1,8mét mới nổ, gây sát thương bộ binh rất lớn. Hàng rào này rộng 5 mét chứ không phải chỉ một, hai mét. (Sau này chúng tôi có được xem lại khu hàng rào đó khi học tập rút kinh nghiệm). Ít nhất cũng phải 4 lần bộc phá ống (1,2m) mới đánh đứt thông được hàng rào đó. Chưa kể yêu cầu bề rộng cửa mở tối thiểu phải 4 mét cho xe tăng vào.

      - Chỗ hàng rào đó cách dãy công sự của địch chỉ chừng 40 mét (trong tay chúng có đầy đủ mọi loại hỏa lực chĩa ra), còn các hầm hỏa lực của E và D để chi viện thì nằm cách phía sau cả trăm mét (số đạn hỏa lực mang theo lại chỉ có hạn). Các bác hình dung lính bộ binh lom khom (hoặc bò) tại đó để luồn ống bộc phá vào hàng rào, giật nụ xòe rồi quay người chạy nhanh về phía sau để nấp (vẫn trên  địa hình bãi trống) thì khả năng bị trúng đạn địch cao hay thấp? Trong đánh công kiên (kiểu đánh nhanh chứ không phải vây lấn như ở Điện Biên Phủ) thì nếu hỏa lực tại chỗ không đủ mạnh để đè đầu địch xuống cho bộ binh lên đánh hàng rào thì khả năng hy sinh rất cao.

    - Bàn về chuyện này thì còn dài và nhiều lắm. Mạn phép hỏi các bác đã có ai đánh công kiên bao giờ chưa (Hoặc đã tập đánh công kiên theo huấn luyện bài bản bao giờ chưa?) Nếu có, các bác sẽ hình dung rõ hơn tình thế trận đánh.
...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 10 Tháng Năm, 2009, 07:53:19 pm
Trongc6
Binh nhất   Bài viết: 18
 Re: Ngày này 34 năm trước...
« Trả lời #136 vào lúc: Hôm nay lúc 10:45:12 am » Trích dẫn 

--------------------------------------------------------------------------------
      Các bác đã nói vậy thì tôi xin thêm mấy lời:

        - Có thể trí nhớ đã kém, nhưng chắc chắc hôm 29/4/75 đó, chúng tôi có ăn cơm trưa ngoài cửa mở. Nếu 11h00 đã vào căn cứ thì vội ăn cơm làm gì? Các bác nhớ cho là khi vào trận thì thường rơi vào tình trạng không thấy đói. Thường là khi mọi sự đã xong, bã người ra rồi thì mới nhớ là từ lúc nào đó mình chưa có hạt cơm vào bụng.


Đúng thế bác ạ,lúc đang đánh nhau sợi dây thần kinh tập chung hết cho những việc cần hơn,cảm giác đang đói bị tạm quên đi.Lúc xong trận,mới thấy mồ hôi lạnh thoát ra vì thấm mệt vì đói,ngồi dựa vào thành hào như cái xác.... ;D


       - Trên hướng D2 (K18), trung đội tôi là B đầu tiên xung phong vào khi có lệnh, và tôi là người đầu tiên đặt bước chân vượt qua hàng rào vướng chân tiến vào cửa mở (thôi bây giờ thống nhất nó là hàng rào vướng chân, vì cái hàng rào ở đó chỉ cao có 40 phân thôi).

Cái loại hàng rào này,tụi em tập là phải có ván hay tấm liếp đan " bó nhiều cây tre,vầu thành phiến" lao lên hàng rào lót chân khi xung phong.


      - Chỗ hàng rào đó cách dãy công sự của địch chỉ chừng 40 mét (trong tay chúng có đầy đủ mọi loại hỏa lực chĩa ra), còn các hầm hỏa lực của E và D để chi viện thì nằm cách phía sau cả trăm mét (số đạn hỏa lực mang theo lại chỉ có hạn). Các bác hình dung lính bộ binh lom khom (hoặc bò) tại đó để luồn ống bộc phá vào hàng rào, giật nụ xòe rồi quay người chạy nhanh về phía sau để nấp (vẫn trên  địa hình bãi trống) thì khả năng bị trúng đạn địch cao hay thấp? Trong đánh công kiên (kiểu đánh nhanh chứ không phải vây lấn như ở Điện Biên Phủ) thì nếu hỏa lực tại chỗ không đủ mạnh để đè đầu địch xuống cho bộ binh lên đánh hàng rào thì khả năng hy sinh rất cao.

Trong câu chuyện của bác kể từ đầu cho đến nay,em hiểu với địa thế như vậy mà tiến là húc đầu vào đá.Tại sao chỉ huy của bác không cho đào hào từ vị trí hố cá nhân nào đó gần với vị trí của hàng rào rồi tiếp tục đào kiểu lấn dũi lên sát hàng rào,từ đấy có thể dùng hỏa lực đi kèm như B 40.41 hay DKZ phụt thẳng vào lô cốt địch.Theo em hiểu thì ở trong điều kiện đó các bác có thể đào lấn dũi được,bởi các bác đã ở dưới lòng đất và tiếp tục đào tiến tới,địch có biết thì chỉ có sợ chứ không thể làm gì được,bởi không nghe bác nhắc đến máy bay ném bom hay đạn bắn cầu vồng,Thay vì phải chồng một đống xương máu của đồng đội mà vẫn không thể qua được cửa mở.

    - Bàn về chuyện này thì còn dài và nhiều lắm. Mạn phép hỏi các bác đã có ai đánh công kiên bao giờ chưa (Hoặc đã tập đánh công kiên theo huấn luyện bài bản bao giờ chưa?) Nếu có, các bác sẽ hình dung rõ hơn tình thế trận đánh.

Những ý kiến trên là kinh nghiệm thực tế của em khi trong đội hình chiến đấu cơ động cho mặt trận,thường xuyên phải tập luyện cả chay lẫn thật.
Và cả gần chọn 1 năm,chiến đấu trực tiếp đối diện với địch luôn,gần như không ngày nào ngớt tiếng súng....mà may..vẫn còn là ccb. ;D ;D ;D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 10 Tháng Năm, 2009, 08:26:29 pm
Hướng E bạn có gặp vật cản như hướng này không, các bác?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 10 Tháng Năm, 2009, 08:41:01 pm
@khanhhuyen: Dũi cái con khỉ ! Nên nhớ đây là ngày 29/4/75, cách Chiến thắng có đúng 1 ngày. Ai đánh lấn đánh dũi ở đây? Các cánh quân khác nó tiến ầm ầm, không lẽ mình vào sau nhặt ống bơ. Địch rã đám từng mảng .... Vậy nên tôi nghĩ ông nào cũng sốt ruột, hô xung phong trong khi chưa chuẩn bị kịp chu đáo cho trận này.
Càng gần chiến thắng, sự hy sinh càng đau xót. Anh tôi cũng may, chỉ bị mất một mắt trong trận này.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 10 Tháng Năm, 2009, 08:49:43 pm
Anh tôi cũng may, chỉ bị mất một mắt trong trận này.

Chưa nghe bác kể gì về vụ này nha! khai mau. ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 10 Tháng Năm, 2009, 09:55:18 pm
Sẽ có chuyện ấy! Tít là : " Đ...m thằng CTV bỏ tao chạy đi đâu rồi ?"
Để từ từ rồi góp  :D
Tôi đi lính thì anh ấy cho tôi cái địa bàn Mỹ với cái áo lính ta, may như áo gabadin, có điều vải nilon nhẹ và màu blue. Quân trang hồi đó lạ thật  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 10 Tháng Năm, 2009, 10:06:55 pm
Sẽ có chuyện ấy! Tít là : " Đ...m thằng CTV bỏ tao chạy đi đâu rồi ?"
Để từ từ rồi góp  :D
Tôi đi lính thì anh ấy cho tôi cái địa bàn Mỹ với cái áo lính ta, may như áo gabadin, có điều vải nilon nhẹ và màu blue. Quân trang hồi đó lạ thật  ;D

Om gì nữa,dạo này lão vẫn vươn cái gì vậy,mà không chịu viết lách cái dìa....hớ.. t...?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 10 Tháng Năm, 2009, 10:12:38 pm
Sẽ có chuyện ấy! Tít là : " Đ...m thằng CTV bỏ tao chạy đi đâu rồi ?"
Để từ từ rồi góp  :D
Tôi đi lính thì anh ấy cho tôi cái địa bàn Mỹ với cái áo lính ta, may như áo gabadin, có điều vải nilon nhẹ và màu blue. Quân trang hồi đó lạ thật  ;D
xóa cái này hộ cái bác mod,máy lỗi hay sao mà phọt lên tùm lum vậy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: DepTraiDeu trong 10 Tháng Năm, 2009, 10:57:32 pm
Em nói thiệt là mở cửa theo em được biết, tỉ lệ sống sót thấp lắm. Ai đời cứ lọ mọ khệ nệ vác bộc phá chạy lon ton làm bia cho nó bắn.:(


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 10 Tháng Năm, 2009, 11:11:27 pm
@khanhhuyen: Dũi cái con khỉ ! Nên nhớ đây là ngày 29/4/75, cách Chiến thắng có đúng 1 ngày. Ai đánh lấn đánh dũi ở đây? Các cánh quân khác nó tiến ầm ầm, không lẽ mình vào sau nhặt ống bơ. Địch rã đám từng mảng .... Vậy nên tôi nghĩ ông nào cũng sốt ruột, hô xung phong trong khi chưa chuẩn bị kịp chu đáo cho trận này.
Càng gần chiến thắng, sự hy sinh càng đau xót. Anh tôi cũng may, chỉ bị mất một mắt trong trận này.

Cha này quen chạy theo pot rồi. ;D

Lấn dúi chiến thuật là lấn dũi theo điều kiện tình hình cuộc chiến thực tế lúc đó để lật thế trận.Lấn dũi chiến lược,mang tính lâu dài và chờ thời cơ để quyết định toàn diện.

Xung phong cái khỉ gì khi chỉ còn có nhúm quân,mà bố phòng của địch còn quá mạnh mà ta chưa có thế gỡ.Bác trọng có nói trận đó diễn ra từ đêm hôm trước ạ,nếu là em địa hình trống trải như vậy,trước hết tranh thủ trời tối áp sát như có thể và đào hào cá nhân,từ đó sắn đất áp sát rồi tùy tình hình mà liệu.
Lính phần lớn khi chưa vào trận còn hồi hộp hay có chút ít sợ hãi,khi đã gần với cái chết thì lại dễ coi thường,bất cần.Thật sự là trận này có vấn đề về phía chỉ huy.Nói không phải khoe,khi em thay chỉ huy quân hỗn hợp ở cái tổ phục "Gò chè" trên 1100,hào sâu dưới d...........em.Địch chưa tấn công mình đã thấy thua,gom anh em lại họp và phổ biến ý định của tôi,tất cả chỉ nhìn nhìn không ai nói gì,trừ gác là không thể phải miễn cưỡng ra gác...
Pháo bắn sợ bỏ mẹ,gác chỉ đứng và quan sát phía địch,tai dỏng lên nghe tiếng điểm hỏa từ đầu nòng của các trận địa pháo địch,là trong đầu đã phát ra mệnh lệnh của  tri thức " CHẠY",nếu có tiếng điểm hỏa từ trận địa địch rồi.Thì phải quan sát kỹ lần cuối,chạy vào vị trí tạm,sau loại đạn rơi lại quan sát tiếp nếu cần thiết phải chạy về nơi trú ẩn sâu hơn an toàn hơn...đủ căng thẳng chết mẹ,giờ lại phải củng cố đào sâu hào xuống như học .....hơi đâu..lính mà.Thật ra em hiểu cái xuy nghĩ ấy của lính lắm,nói vài lần không thông,chờ chỉ có chờ đến lượt chết.Vậy là sau ca trực gác của em vào ngày hôm sau,em không vào hầm nghỉ mà lặng lẽ sắn những xẻng đất cho hào sâu xuống,đến vọng gác thứ nhất cũng gần được nửa hào của trận địa.Thằng chú gác ở gần vị trí đó thấy ngại,tham gia đào cùng anh,vậy là em để nó phụ và mình nói chú em làm như ý định.Rồi dần dần thêm mấy chú nữa,bữa cơm chẳng nhớ ăn với gì thấy có người chuyện trò tuy nhỏ nhẹ như trai gái thủ thỉ tán nhau,nhưng thấy gần gũi hơn.Và nhiều người quan tâm đến việc mình làm hơn,vì cảm giác đi dưới hào sâu,an toàn hơn cái giao thông hào sâu dưới d...vậy là mỗi đứa tham gia một ý cho trận địa chắc hơn,bí mật hơn,an toàn hơn...

Em cũng nghĩ,chỉ huy trận đánh này thiếu cương quyết,quyết đoán,chỉ huy không sát thực tế của cuộc chiến.Bác Tài cũng có chút ít nghi ngờ chỉ huy,em cũng vậy nhưng chỉ từ khi bác nói cũng có người thân tham gia trận ấy và " Đ....mẹ thằng CTV chạy đâu rồi" thì nghi ngờ của em nó mới phọt ra.... ;D

Quá nhiều thời gian để đào một cái hào từ ngoài vào sát hàng rào vướng chân,rồi cứ nằm đó mà dùng B 40,41 mà phọt,ở cự ly 40 mét như bác Trọngc6 nói,chỉ vài chục phút bị hỏa lực trực tiếp của bộ binh phọt,dù công sự có vững chắc mấy mà ở cự ly ấy cũng xin các anh tha cho em. ;D đó là ý kiến chủ quan của em,và nếu là em ở đấy không phải 1100 em sẽ làm như vậy,chứ không phải khi nghe bác Trongc6 kể mà do địa hình thực tế nó mách bảo phải làm vậy,còn nói do tình hình toàn chiến trường thì em sẽ cho lính xung phong sau xe tăng vào bằng cổng chính,hơi đâu mà vượt rào vì tình hình chung là địch bị áp đảo về mọi mặt rồi mà.. ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 10 Tháng Năm, 2009, 11:16:36 pm
Em nói thiệt là mở cửa theo em được biết, tỉ lệ sống sót thấp lắm. Ai đời cứ lọ mọ khệ nệ vác bộc phá chạy lon ton làm bia cho nó bắn.:(

Cửa mở phải giữ được 2 yếu tố.
1- là bí mật tiếp cận.
2- là đánh nhanh gọn,giữ vững đầu cầu cho bộ binh xung phong.
Thì hạn chế được thương vong.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: DepTraiDeu trong 10 Tháng Năm, 2009, 11:20:30 pm
Em nói thiệt là mở cửa theo em được biết, tỉ lệ sống sót thấp lắm. Ai đời cứ lọ mọ khệ nệ vác bộc phá chạy lon ton làm bia cho nó bắn.:(

Cửa mở phải giữ được 2 yếu tố.
1- là bí mật tiếp cận.
2- là đánh nhanh gọn,giữ vững đầu cầu cho bộ binh xung phong.
Thì hạn chế được thương vong.

3- Hỏa lực chi viện cấp trên chế áp hiệu quả hỏa điểm địch. :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 10 Tháng Năm, 2009, 11:31:27 pm
Em nói thiệt là mở cửa theo em được biết, tỉ lệ sống sót thấp lắm. Ai đời cứ lọ mọ khệ nệ vác bộc phá chạy lon ton làm bia cho nó bắn.:(

Cửa mở phải giữ được 2 yếu tố.
1- là bí mật tiếp cận.
2- là đánh nhanh gọn,giữ vững đầu cầu cho bộ binh xung phong.
Thì hạn chế được thương vong.

3- Hỏa lực chi viện cấp trên chế áp hiệu quả hỏa điểm địch. :D

Hế hế....DTD

nếu có khoản thứ 3 kia mà dội thì lính phải bỏ bộc phá chạy thật nhanh.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: DepTraiDeu trong 10 Tháng Năm, 2009, 11:48:36 pm
Em vẫn nhớ lời thầy em dặn, khi nhận nhiệm vụ Mở cửa, đánh chiếm đầu cầu thì phải hết sức chú ý đến việc chuẩn bị vật chất và đặc biệt là làm công tác tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ trong đơn vị. :(
Hồi đầu nghe mở cửa đánh chiếm đầu cầu, bọn em cứ tưởng mở cửa là đánh nhau trong thành phố, muốn chiếm nhà thì phải mở được cửa để vô; đánh chiếm đầu cầu là chiếm giữ mấy cây cầu bắc qua sông đặng cho cơ giới qua. :"> nghĩ lại còn mắc cười, thiệt là ngố!  ::)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 11 Tháng Năm, 2009, 12:19:20 am
Mở cửa mở,là dùng một lực lượng ép sát vào hàng rào dây kẽm gai của địch,luồn các ống bộc phá liên tục liền nhau,tạo thành một hàng xuyên xuốt bề sâu của hàng rào.Lực lượng hỗ trợ trực tiếp cho lực lượng đánh chiếm cửa mở,gồm các hỏa lực biên chế trực tiếp đi cùng bộ binh,như B 40,41 và DKZ,lực lượng này cũng phải áp sát như có thể.Khi bộc phá nổ,là phát pháo hiệu cho lệnh đánh chiếm một mục tiêu.....pháo binh chỉ bắn phá các mục tiêu phía sau,nhằm ngăn chặn và chia cắt các lực lượng của địch hỗ trợ cho nhau...hế hế.. ;D xin lỗi mình lại chuyển hồi ức,kỷ niệm của ccb,thành tập huấn cán bộ...của quansuvn.net ;D  cáo lui...cáo lui.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 11 Tháng Năm, 2009, 03:10:31 pm
 Theo tôi hôm đó 29/4 rồi không ai nghĩ chuyện lấn dũi nữa mà chỉ cường tập .BB anh nào mà đã đựoc phân công đánh mở cửa thì không nghĩ đến đường về quê mẹ rồi Vấn đề D5 là chỉ huy không kiên quyết ,ngay như ông D  viên phó mà nằm tịt đâu đâu không biết  gì tình hình đơn vị để 30 năm sau nói nhảm cơ mà .Cửa mở bên 48 chẳng khác gì bên E 9 nhưng cách chỉ huy họ khác


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 11 Tháng Năm, 2009, 03:16:06 pm
Cửa mở bên 48 chẳng khác gì bên E 9 nhưng cách chỉ huy họ khác

Bác bật mí chút ít đi,biết sao,nghe sao bác trình bày vậy cho anh em nghe.lỡ có bác nào đứng ngoài dòm là người trong cuộc nhảy vô thì hay biết mấy.Nào......bác bắt đầu đi.... ;)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 11 Tháng Năm, 2009, 10:43:31 pm
...
           Thế là chiến tranh đã kết thúc. Dân tộc ta đã chiến thắng Đế quốc Mỹ sau một cuộc chiến dài hơn 20 năm. Nói như vậy được lòng người hơn, dù rằng thời khắc này thật ra là sự sụp đổ của chính quyền VNCH theo Mỹ. Với những người dân Việt, chúng ta đều là người chiến thắng, dù rằng có không ít người còn mặc cảm.

               Còn chúng tôi, những người lính cũng có thể tự hào mình là người chiến thắng. Dù nhỏ bé gì thì mình cũng vinh dự có mặt trong đội hình của những đơn vị đã trực tiếp làm nên chiến thắng hôm nay. Chúng tôi đón chiến thắng giải phóng miền Nam với niềm vui rạng rỡ, hành động bột phát và cách thể hiện muôn hình muôn vẻ. Có điều trong đơn vị tôi tuyệt đối không bắn súng chào mừng.

               Người ta đã tổng kết rút kinh nghiệm trận đánh cuối cùng. Chúng tôi chỉ được nghe cấp trên nói lại những điều đúc kết ở mức chung chung, oanh liệt và hoành tráng. Tranh công đổ lỗi vốn là một thuộc tính xấu của con người. Ở đâu, và khi nào thì cũng vẫn không bao giờ hết được chuyện tranh công đổ lỗi. Nhưng đó là việc làm của những người ở cấp nào cơ, chứ không phải của những thằng lính quèn chúng tôi. Chúng tôi chỉ thấy lờ mờ bóng dáng mình trong cái tổng kết chung ấy, đôi lúc còn không chính xác. Nhưng có hề gì đâu. Dù sao chiến tranh cũng kết thúc rồi, và chúng tôi cũng được gọi là người chiến thắng.

              Hết chiến tranh rồi, không phải cầm súng chiến đấu, không phải hy sinh nữa. "Rồi có một ngày… chinh chiến tàn…". Vâng, đó chính là điều chúng tôi mong đợi. "Nước còn giặc, còn đi đánh giặc", đó là cái lẽ thường tính của trai thời loạn. Nay hết giặc rồi, chúng tôi sẽ trả lại Tổ quốc cây súng để trở về với ruộng đồng, với nhà máy hay đi học tiếp cho trọn ước mơ tuổi trẻ năm xưa. Cũng giống như sau ngày 9/5/1945 kết thúc chiến tranh TG thứ II của mấy chục năm về trước, những đoàn tàu đã chở những người lính Xô-viết từ Berlin vượt qua Ba-Lan, qua những vùng ruộng đồng của Belarut, của Uykren để về nước Nga…, chúng tôi cũng hình dung có những chuyến xe, chuyến tàu như thế sẽ chở chúng tôi về quê, ra Bắc. Và ở mọi bến xe, bến tàu sẽ có những nét mặt hồ hởi, hân hoan của người thân ra đón, những vòng tay đen sạm của những người lính áo bạc phong sương, sẽ có những cuộc đoàn tụ rơi nước mắt …

               Thời gian ở trong căn cứ Đồng dù, chúng tôi học chính trị, xây dựng doanh trại và tập tành. Tất cả các đơn vị đều ở trong các khu nhà tôn hình vòm cuốn (như dạng cái hầm của tướng Đờ-cát ở ĐBP năm xưa), vốn là các doanh trại lính VNCH. Chúng tôi vừa làm các việc theo trên yêu cầu, vừa hy vọng và chờ đợi vào ngày trở về.

               Nhưng suốt mấy tháng trời, không ai nói đến chuyện chúng tôi sẽ được giải ngũ. Cấp trên bảo chúng tôi còn phải chắc tay súng để bảo vệ chính quyền cách mạng. Chúng tôi sẽ là những đơn vị sẵn sàng làm nhiệm vụ cơ động để tiêu diệt bọn phản động vẫn còn đang muốn chống phá chính quyền cách mạng, vì bản chất kẻ địch là ngoan cố.

               Chúng tôi được phổ biến là trong cuộc di tản hỗn loạn ngày 30/4, có rất nhiều tàu hải quân và máy bay của lực lượng quân VNCH đã di tản sang nhờ ở các nước láng giềng. Những thứ đó là tài sản của đất nước Việt Nam và những nước láng giềng sẽ phải trao trả lại ta. Với thế mạnh vừa đi qua cuộc chiến tranh thắng Mỹ, quân đội ta được xếp vào hàng vô địch trên thế giới. Các nước làng giềng như Thái Lan… đang run sợ ta đánh tràn sang nên phải lên tiếng sẽ thu gom máy bay tàu chiến di tản của VNCH để trả gấp cho ta. Không trả mà được à? Chúng tôi hào hứng lắm. Máu đánh nhau trong người vẫn còn nóng lắm, tưởng sẽ lên đường Tây phạt ngay.

              Đóng quân ở lỳ trong căn cứ Đồng Dù, chúng tôi chỉ hiểu biết thế sự giống như "ếch ngồi đáy giếng". Trên bảo sao nghe vậy. Những chuyện như chính phủ ngoài Bắc vào thăm miền Nam, rồi có vị tuyên bố sẽ đưa nước ta phát triển giàu mạnh theo tiêu chuấn nhà nào cũng có một cái tủ lạnh… thì chúng tôi chẳng hề biết gì. Một đôi lần được ra ngoài căn cứ hay vào chơi Sài Gòn, chúng tôi thấy người dân nơi đây có vẻ khá giả hơn ngoài Bắc. Họ có nhiều thứ vật dụng có vẻ tối tân và lạ lẫm với chúng tôi. Thế nhưng cấp trên bảo đó là cuộc sống phồn vinh giả tạo, là sản phẩm và tàn dư của chủ nghĩa Tư bản đang giãy chết. Nói tóm lại chúng tôi phải có thái độ thờ ơ với những thứ vật chất tầm thường ấy. Chúng tôi chấp hành, nhưng nhiều thằng trong đơn vị vẫn không giấu nổi sự thầm mong có một cái đồng hồ hay một cái đài bán dẫn mang về nhà lúc giải ngũ. Mà nói đâu xa, những thứ trong các khu gia binh, trong kho Quân tiếp vụ ngay tại căn cứ Đồng dù này thôi cũng rất lạ lẫm và nhiều khi có phần hấp dẫn lính tráng.

        Trong những cái ngô nghê gặp phải, tôi nhớ nhất chuyện kem đánh răng. Vớ được những hộp kem Hynos to tướng có hình thằng da đen cười thì tha hồ chia nhau, mỗi hộp đủ dùng vài tháng. Nhưng cái ý nghĩ đơn giản tuýp kem có nghĩa là hộp thuốc đánh răng đã làm hại khối đứa. Tuýp nhỏ thôi, màu thuốc hơi xanh, rất thơm nhưng khi đánh răng thì mồm miệng co rúm lại, nắn bóp xoa xít kiểu gì cũng phải vài chục phút sau mới hết. Chữ nghĩa nước ngoài viết trên hộp, có thằng quái nào biết đâu. Về sau trên phổ biến mới biết đó là kem bôi của các cô gái "chuyên ngành" dùng vào cái chỗ mà lính tráng chúng tôi cũng chưa từng được nhìn thấy. Thật nhớ đời.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 11 Tháng Năm, 2009, 11:35:18 pm
Tuýp nhỏ thôi, màu thuốc hơi xanh, rất thơm nhưng khi đánh răng thì mồm miệng co rúm lại, nắn bóp xoa xít kiểu gì cũng phải vài chục phút sau mới hết. Chữ nghĩa nước ngoài viết trên hộp, có thằng quái nào biết đâu. Về sau trên phổ biến mới biết đó là kem bôi của các cô gái "chuyên ngành" dùng vào cái chỗ mà lính tráng chúng tôi cũng chưa từng được nhìn thấy. Thật nhớ đời.


Hế ...heeeeeee ế......bác làm em cười phụt cả cái tăm tí găm vào màn hình laptop.

Người ta đã tổng kết rút kinh nghiệm trận đánh cuối cùng. Chúng tôi chỉ được nghe cấp trên nói lại những điều đúc kết ở mức chung chung, oanh liệt và hoành tráng. Tranh công đổ lỗi vốn là một thuộc tính xấu của con người. Ở đâu, và khi nào thì cũng vẫn không bao giờ hết được chuyện tranh công đổ lỗi. Nhưng đó là việc làm của những người ở cấp nào cơ, chứ không phải của những thằng lính quèn chúng tôi. Chúng tôi chỉ thấy lờ mờ bóng dáng mình trong cái tổng kết chung ấy, đôi lúc còn không chính xác. Nhưng có hề gì đâu. Dù sao chiến tranh cũng kết thúc rồi, và chúng tôi cũng được gọi là người chiến thắng.

Vâng cái tính sấu ấy làm nản lòng,làm yếu đi rất nhiều tinh thần ái quốc của những người có tâm huyết với đất nước,đáng buồn là nó đeo bám tới thời của em.Thời ông cụ nhà em các cụ bình bầu công trạng rất rõ ràng và nghiêm túc,em lúc bé cũng hay được tham gia các buổi sinh hoạt của các cụ nên em cũng rất mong và thật tiếc nối những hình ảnh đẹp đó.

nhưng có hề gì đâu. Dù sao chiến tranh cũng kết thúc rồi, và chúng tôi cũng được gọi là người chiến thắng.

Vâng các bác là những người lính chiến thắng và dân tộc ta là một dân tộc chiến thắng,chiến tranh đã đi qua.Ai cũng muốn trở về với người thân yêu nhất,được có một cuộc sống yên bình,được gánh vác những công việc rất đời thường trong ngôi nhà của riêng mình và mong đất nước ngày càng giàu mạnh,nhà nhà ấm no hạnh phúc.Đó cũng là ước mơ của em  lúcrời quân ngũ bác ạ,buồn lắm đời rất nhiều cái trái ngang...cứ phải nhìn nó màu hồng để tiếp tục hi vọng. ;D



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: taydoc711 trong 12 Tháng Năm, 2009, 12:09:04 am
...
         
           
           
              

              

     
        Trong những cái ngô nghê gặp phải, tôi nhớ nhất chuyện kem đánh răng. Vớ được những hộp kem Hynos to tướng có hình thằng da đen cười thì tha hồ chia nhau, mỗi hộp đủ dùng vài tháng. Nhưng cái ý nghĩ đơn giản tuýp kem có nghĩa là hộp thuốc đánh răng đã làm hại khối đứa. Tuýp nhỏ thôi, màu thuốc hơi xanh, rất thơm nhưng khi đánh răng thì mồm miệng co rúm lại, nắn bóp xoa xít kiểu gì cũng phải vài chục phút sau mới hết. Chữ nghĩa nước ngoài viết trên hộp, có thằng quái nào biết đâu. Về sau trên phổ biến mới biết đó là kem bôi của các cô gái "chuyên ngành" dùng vào cái chỗ mà lính tráng chúng tôi cũng chưa từng được nhìn thấy. Thật nhớ đời.


Thế là các bác còn may đấy,các bác đóng ở Sài Gòn cũng lôi của nợ ấy ra đánh răng,xong nó rúm lại,sợ qua mới lôi mấy cha bác sỹ Quân y ngụy ra khám,mấy tay bác sỹ ngụy cũng thâm liền chơi khăm mấy anh bô đội liền bảo ra chợ mua dưa leo ( dưa chuột) về đút vào mồm,khổ thân mấy bác bộ đội cứ ngồi ngây người cầm trai dưa leo đút vào rút ra cả mấy tiếng mới hết.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hatuyenha trong 12 Tháng Năm, 2009, 10:40:24 am
Đọc chuyện của bạn Trọng c6 vừa cười vừa khóc .Đúng là như vậy đó,lính ta nghèo đất nước lo đánh giặc cũng nghèo đâu có biết những đồ khỉ gió của xã hội tiên tiến.Thương lắm ,mỗi anh bộ đội đều sung sướng khi có một vài mét vải đen mang về cho mẹ,cho chị ,cho vợ cho em may quần  .Có một con búp bê mà trẻ con hồi đó ao ước cũng chả có mà chơi.Một khung xe đạp để về mua linh phụ kiện lắp lấy cái xe đạp là ghê lắm rồi.Bây giờ nghe thì thấy buồn cười nhưng ai sống vào những thời khắc đó mới biết nhu cầu của lính ta đơn giản lắm,hi sinh cả tuổi thanh xuân,cả cuộc đời nhưng chỉ có nhu cầu nhỏ nhoi vậy là hạnh phúc lắm rồi.Mình nhớ hồi đó  dân Sài gòn không thích bộ   đội miền bắc cứ cười anh lính cụ Hồ nào cũng  to òng teng quanh cái ba lô con cóc một con búp bê nhựa,một cái khung xe đạp ,vải đen thì để trong ba lô.Mình thì thương lắm,tội nghiệp có người không biết mua phải loại vải đen pha ni lông thì phải may quần đen không mặc được vì nó cứ hút vào người dính lung tung.
 Một thời kể ra nhiều chuyện khó tưởng tượng nhưng thật là khó quên, mà không thể quên được ấy chứ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: danngoc trong 12 Tháng Năm, 2009, 02:59:25 pm
... bọn ngụy SG ...

Bác ôi là bác


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hatuyenha trong 12 Tháng Năm, 2009, 03:27:28 pm
Ừ mình quên mất lúc đấy làm gì còn ngụy SG nữa cơ chứ,có những bài viết của những người ở phía bên kia,hoặc ủng hộ phía bên kia hoặc không thích bộ đội giải phóng có nói như vậy.Bạn dan ngoc ơi mình nói lại đúng  chưa?
Năm  1981 lần đầu tiên mình đi công tác với bác của mitâm 81 vào Sài gòn và sang K mình mặc quân phục  đi bộ tới thăm bà chị gái ở đoàn ca múa Bông sen.Mình đi bộ từ sân bay Tân sơn nhất đến nhà hát lớn thành  phố.Không dám đi xe gì cả và chỉ  dám hỏi đường một anh bộ đội gác cổng dinh Độc lập và anh công an chỉ đường gần chợ Bến Thành.Đi đường bị dân SG đi theo sau chửi bộ đội Việt cộng mày về bắc đi.
 Cũng sợ nhưng kiên gan đi thẳng không thèm ngó nghiêng gì.Từ Tân Sơn nhất đi tới Dinh ĐÔC LẬP mới hỏi đường.Sau đó gặp bà con họ hàng sống trong nam,họ biết mình bộ đội lại sĩ quan nữa nên kể chuyện diễu bộ đội miền bắc về phép ai cũng mang búp bê và cái khung xe đạp và ra chợ thì toàn hỏi mua vải đen.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: danngoc trong 12 Tháng Năm, 2009, 03:38:39 pm
Hồi tụi em vào SG năm 81 còn bị kỳ thị nhiều lắm bác ạ. Trẻ con tụi em đi học nói giọng Bắc đôi khi cũng bị đánh.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 12 Tháng Năm, 2009, 04:03:03 pm
Chắc lúc đó thấy chị là nữ mà mặc đồng phục của lính họ chọc đó,em ở trong từ 79 đến cuối 82.Mỗi lần đi ra chợ Tân Định trên đường Hai Bà,là các cô thiếu nữ trường Lê...gần đó,trên đường đi học trong cái áo dài thướt tha,ngồi trên xe đạp mini đạp theo chọc hoài.Nào là rau muống,ê   hê hê...thế rồi cũng muống hoài,muống hoài thành nghiện hổng có muống các cô ấy nhớ...hơn cố nội. ;D Lúc trước em nằm ở 332 Đồng khởi "Hải Âu,Caravel" trước Nhà Hát Lớn TP "Hạ Viện",một bên là đường Tự Do có rạp chiếu bóng đó,và em ở 42 Trần Cao Vân,cái nhà mà dành cho cơ quan CIA của Mỹ ngày xưa ở Sè Gènh trước tháp con rùa đó.Em lúc trước ở đó thì xướng....sau này thì xuống Ch...... ;D chỉ ưa phụng sự hết mình,,nhưng chẳng có chí làm quan.Trong họ nhà em cũng có những người đã từng đối diện nhau trong cuộc chiến và cũng có người ba là lính VNCH nhưng con vào năm 2001 đã là thượng tá của QDNDVN,chỉ có một số ít những người lính cũ của chế độ cũ vì một lý do gì đó làm họ chưa vừa lòng thôi,dù sao cũng là người Việt chiến tranh đã đi rất xa,cái gì quên được là nên quên nó ngay và làm cho tốt hơn....bà chị sửa hộ em mấy chữ trong bài của chị nhé,cảm ơn chị - KH


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh moi trong 12 Tháng Năm, 2009, 05:01:59 pm
  Không biết các bác sống ở HN đã nghe chuyện này chưa ?
  Chuyện thứ nhất : Sau SGGP độ 1 vài tháng gì đó , có 1 anh bộ đội về phép về tới HN thì tối rồi nên vào đền Ngọc Sơn ngủ để sáng hôm sau về quê . Cũng chính vì con búp bê nhắm mắt mở mắt và cái khung xe đạp mà anh đã bị giết đêm hôm đó . Sau này CA bắt được cái thủ phạm và nó khai là nhìn thấy những đồ vật anh ấy mang theo nên nổi lòng tham .

  Chuyện thứ 2 : Cũng không lâu sau SGGP , mấy đứa trẻ con ở phố Tuệ Tĩnh ra bơi ở hồ Thuyền Quang vớt được 1 quả mìn !!!??? Mấy thằng mang ra ghế đá ghè và quả mìn phát nổ . 3 đưa trẻ con chết không toàn thây (trong đó có 2 anh em ruột , thằng anh học cùng lớp với em) . Tiếng nổ phát to đến nỗi nhà em ở ngã tư Tô Hiến Thành + Bà Triệu (khoảng hơn 1 km) mà cũng nghe thấy . Sau đó thì dân kéo ra xem đông lắm , em là 1 trong những thằng trẻ con có mặt đầu tiên ở đấy . CA phải mang cả xe cứu hỏa ra phun nước lên cây để những mảnh thịt dính trên ấy rơi xuống . Vậy mà chỉ cách đấy độ chục mét , có 1 anh bộ đội cùng với con búp bê và cái khung xe (đã được buộc vào tay) vẫn cái mũ úp trên mặt , nằm trên ghế đá ngủ say sưa ... Phải đến khi CA ra gọi dậy thì mới biết là anh BĐ đã chết , trên đỉnh đầu có 1 lỗ nhỏ xíu bằng hạt đỗ hơi rỉ máu .

   Đúng là bao năm vào sinh ra tử không sao , vậy mà ! đến ngày chiến thắng trở về đoàn tụ với gia đình thì chết , 1 cái chết không được công nhận LS . 2 câu chuyện này làm em bị ám ảnh mãi .

  @danngoc : Sao hồi ấy thấy thiên hạ đồn rằng :"lêu lêu ... cái giống Bắc Kỳ , nó ăn rau muống nó lỳ như trâu ..."  ;D ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Quangda trong 12 Tháng Năm, 2009, 08:59:53 pm
@hatuyennha:Chắc là mấy ông lão sư phụ đời trước của chú haanh ở trỏng theo cô đó cô ơi! ;D.Chứ người miền nam bọn con phóng khoáng, nhanh thích nghi với hoàn cảnh mới lắm, không có vậy đâu! ::)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 12 Tháng Năm, 2009, 10:23:44 pm
Đúng! Bọn tụt tạt ở chợ Bến Thành, chợ Tân Bình lừa mấy chú đội hà rầm! ;D Dân các nơi thì như bạn DKsaigon và cả nước ngoài mô tả về bộ đội là chính xác và thực tế! Đó là bộ đội hiền lành và hơi ngố nữa! :)

Nghe kể: Hồi đó có chú đội lái xe chờ ở đường Lê Lai, mấy thằng du thủ du thực lẻn đến treo nải chuối vào chân chú lái xe đang ngủ, ai đi qua cũng cười! hehe.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 13 Tháng Năm, 2009, 03:15:29 pm
...
        Nhớ lại cha anh ta hơn hai mươi năm trước. Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến của cả dân tộc, làm nên trận Điện Biên "lừng lẫy địa cầu", ngày 10/10/1954, quân ta kéo về tiếp quản Thủ đô. Hà Nội rực rỡ cờ sao, năm cửa ô ngập nắng đón những anh "bộ đội cụ Hồ". Phút xao xuyến qua đi, khi trở lại đời thường thì ngoài cái hiền lành bản chất, những người lính trở nên lơ ngơ trước cuộc sống thị thành. Chỉ trừ những người lính trong trung đoàn Thủ đô vốn là những học sinh, sinh viên, người thợ… đã từng quen với cuộc sống thị thành, còn lại ít nhiều đều lớ ngớ. Nỡ nào trách họ, khi những người lính ấy vốn là những người nông dân chân đất áo vải, nghe theo lời kêu gọi của cụ Hồ mà lên đường cầm súng đánh Tây. Lớ ngớ hôm nay, nhưng họ sẽ lại là những người xây dựng Thủ đô, xây dựng đất nước ngày mai.

               Có lẽ cũng không khác nhiều khi so với những người lính giải phóng chúng tôi khi vào giải phóng Sài gòn. Đơn giản, vì chúng tôi cũng là những "người lính cụ Hồ" như cha anh chúng tôi, cũng hy sinh tuổi trẻ của mình cho độc lập tự do của đất nước. Là những người thợ, người nông dân áo vải từ mọi miền quê tụ lại trong đoàn quân giải phóng, khi ở trên rừng thì chúng tôi là những người làm chủ cuộc sống. Chiến đấu đã đành, nhưng chúng tôi cùng nhau làm được mọi thứ. Từ dựng nhà (lợp tranh, lợp nứa, lợp lá trung quân…) đến phát nương rẫy trồng lúa, trồng sắn để tự túc một phần lương thực chúng tôi đều làm được hết. Chúng tôi biết rèn dao, rèn cuốc xẻng, tự tạo mìn định hướng, biết đánh bắt cá, biết cả cách làm bún, làm bánh cuốn giữa rừng già. Giữa lúc dừng chân trong cảnh trời mưa như trút của những cơn mưa rừng giữa mùa, chúng tôi biết tìm củi, gơi bếp để bộ đội có cơm nóng, canh ngọt chỉ sau một tiếng dừng chân… Còn nhiều lắm, và chúng tôi tự hào là biết cùng nhau tạo dựng tốt cuộc sống trong rừng giữa hai mùa chiến dịch. Những "người lính cụ Hồ" là như thế đó. Vì vậy sẽ chẳng đáng ngạc nhiên khi về đồng bằng, vào Sài gòn mà những người lính chúng tôi trở nên lớ ngớ. Nói cho công bằng, không phải chỉ những người lính chúng tôi rơi vào cảnh "nhà quê ra tỉnh", mà nếu so sánh thì miền Bắc khi đó so với miền Nam cũng chỉ như nhà quê so với thành phố mà thôi. Nhưng vượt lên tất cả, chúng tôi là những người lính cụ Hồ và chúng tôi tự hào về điều đó.
 
               Ai đi xa mà lúc về chẳng mong có chút quà cho người thân? Vậy thì những người lính xa nhà mấy năm trời không nghĩ đến sống chết có lỗi gì khi mua một con búp bê làm quà cho cô em gái út, một cái khung xe đạp cũ đem về để dựng nên cái xe làm chút tài sản nhỏ khi rời quân ngũ. Mà chúng tôi mua bằng chút tiền phụ cấp ít ỏi mới có của mình, từ những đồng tiền "cửa rừng", tiền "phụ cấp xương máu" của mình đấy chứ. Khi đó tôi nhớ là mình được 30đ tiền "cửa rừng" và 30đ tiền "phụ cấp xương máu" với 5% thương tật, cũng chỉ đủ mua hai cái áo nỉ cho đứa em, mua cho chị và mẹ mỗi người một cái khăn len là hết tiền. Đến bố tôi cũng chẳng có chút quà gì. Nhưng mẹ tôi bảo, "chỉ cần con trở về được thế này là đã đủ, mẹ mãn nguyện rồi".

               Chẳng ai muốn chiến tranh để ngoài cái đau chung của cả dân tộc, còn có những góc khuất nhỏ đau lòng của những người lính.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hatuyenha trong 13 Tháng Năm, 2009, 03:43:48 pm
Bạn  Trong c6 thân ,bạn trở về dù có quà hay không,thì không chỉ bố mẹ gia đình bạn mãn nguyện mà cả dân tộc ta mãn nguyện bạn ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hatuyenha trong 13 Tháng Năm, 2009, 04:07:43 pm
Đọc bài của bạn Trong c6 cổ cứ nghẹn lại ,nhớ lại những  ngày cách đây đã 34 năm.
Mình kể chuyện mình vào Sài gòn lần đầu tiên ,ngày đầu tiên thế thôi, mà mình còn lớ ngớ thế này nữa cơ ,không có quà gì cho cháu cả vì đi vội vả lại hồi đó cũng nghèo,hai vợ chồng bộ đội lại có hai con rồi , thực chất là văn hóa mua quà còn kém lắm, thấy chị hàng rong bán xoài chọn ngay một quả to nhất mua có nhõn một quả,chắc mẩm cháu mình thích lắm đây. Vào đến nhà bà chị cháu chạy ra đón dì ngoài Bắc vô hét ầm ĩ,Dì thở vì leo gác xong lấy ngay quả xoài đưa cho cháu.Nó mới có 5 tuổi nhưng đã kêu :má ơi dì cho con xoài tượng xanh.Mình còn chưa hiểu ra sao thì bà chị chạy ra giải thích :em  ơi xoài này là xoài tượng chua,chỉ để nhậu hoăc dầm nước mắm thôi . Bà dì được mẻ ngượng với cháu,hôm đi K về phải mua quà cho cháu bù.Sau này thì thân với dân Sai gòn  và nhậu với dân Nam bộ các kiểu.Quí dân trỏng vì sảng khoái thật thà,bụng để ngoài da.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 15 Tháng Năm, 2009, 04:43:30 pm
...
         Thời nào và ở đâu thì cũng không bao giờ thiếu những thằng láu cá trong một tập thể, dù đó là đơn vị bộ đội nghiêm khắc "quân lệnh như sơn" với tư tưởng chỉ đạo "kỷ luật là sức mạnh của quân đội". Những thằng láu cá ấy xuất sứ từ mọi vùng quê. Nhiều thằng lính Hà Nội hay Hải Phòng rất "chân chỉ hạt bột", thậm chí đến mức lơ ngơ, thộn ra mặt, trong khi mấy thằng tai quái và láu cá lại là dân Hà Tây, Thái Bình, thậm chí có cả thằng là người dân tộc Tày quê tít tận Cao Bằng "đá nhiều hơn đất".

             Điển hình là lão Nghị quản lý đại đội dân Sơn Tây. Trong khi chúng tôi chỉ còn toàn mũ tai bèo đã cũ thì hắn vẫn giữ được chiếc mũ cối tàu có gắn ngôi sao Quân hiệu mới chóe. Đêm hôm 2/4 ở Thị xã Tuy Hòa, hắn đã suýt toi mạng vì đi đánh lẻ. Chả là đêm đó chúng tôi đóng tại Trường Kỹ nghệ và tiếp quản trông coi một vùng dân cư khá lớn. Có rất nhiều nhà vô chủ vì đã bỏ chạy. Lão Nghị một mình mò ra khu dân cư chui vào lục lọi mấy cái nhà vô chủ. Vô phúc cho lão vẫn nghênh ngang đội cái mũ cối, người lại đầy đặn hơn lính tráng chúng tôi nên bị mấy thằng tàn quân đoán là cán bộ cỡ to. Chúng nó núp từ căn nhà nào đó chĩa súng ra bắn tỉa. Vận lão Nghị còn dài nên viên đạn bắn trượt, tóe lửa trên mặt đường. Viên đạn thứ hai cũng vậy. Lão Nghị hoảng quá ù té chạy về (lão là quản lý, không có súng, quả là gan trời mới dám mò đi đánh lẻ như thế). B tôi hay tin kéo lại khu nhà trên, xông vào các nhà, leo cả lên gác sục xạo mà cũng không thấy gì. Tức quá chỉ biết quạt vài loạt AK vào mấy xó tối để thị uy. Đã thế mà lão Nghị vẫn chưa chừa, còn bắt chúng tôi chờ đến hơn nửa tiếng nữa cho lão lục lọi cái khỉ gì đó, rồi mới chịu về. Nói thực lúc ấy chúng tôi không thiếu thuốc lá thơm vì hôm qua lấy được chiến lợi phẩm cũng kha khá rồi. Cũng chẳng biết lão Nghị có lấy cái gì không, nhưng chúng tôi không màng. Trừ thuốc lá và đồ ăn, còn mọi thứ khác, lính tráng vốn kiêng, báu gì cái kiểu tham lam "Lý Thông" ấy.

              Về đến căn cứ Đồng Dù cũng vậy. Có cái mũ cối đội đầu, lão Nghị trông oai hơn hẳn lũ lính chúng tôi. Lão thường mò ra ngoài căn cứ (đi tắt lối cổng phụ qua cánh đồng thôi) đến khu dân cư. Nhiều nhà dân, có lẽ vốn không có người nhà theo "đằng mình", sợ bị chính quyền mới o ép (chính quyền mới ở địa phương cũng chỉ là mấy ông du kích nằm vùng thôi) nên nghĩ ra mẹo mới. Họ mời lão Nghị đội nguyên cả mũ cối, đeo xà-cột đứng xen giữa chụp ảnh chung với gia đình, miệng nở nụ cười chiến thắng. Chúng tôi biết được vì về sau ra một vài nhà dân, hay quán ăn (hủ tiếu) thấy những bức ảnh đó phóng to treo trang trọng giữa nhà. Ngón võ này cũng hù đọa được mấy ông du kích quen nhũng nhẽo. Còn lão Nghị được "trả công" cái gì thì lão không nói, chỉ thấy thỉnh thoảng lão có thuốc lá thơm mời anh em.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 15 Tháng Năm, 2009, 06:36:51 pm
Trích từ Hành trình đến dinh độc lập
Tác giả: Nguyễn Khắc Nguyệt
(Nguyên chiến sĩ lái xe tăng Đại đội 4, Lữ đoàn xe tăng 203)

http://www.quansuvn.net/index.php?topic=6189.0

Trích dẫn
Khi hai chiếc xe 843 và 390 đã tiến sát tiền sảnh, đội hình xe tăng tiếp theo tản ra thành hình vòng cung trên thảm cỏ hình thành thế bao vây ôm chặt lấy dinh, những nòng pháo vẫn gườm gườm chĩa thẳng vào dinh sẵn sàng nhả đạn, hàng chục chiếc động cơ 550 mã lực vẫn gầm rú như đàn voi chiến đang còn say máu. Vài giây sau không thấy động tĩnh gì tiếng động cơ nhỏ dần rồi tắt hẳn, những nắp cửa bật tung ra. Từ trong xe những thân hình nhem nhuốc nhảy ra ôm lấy nhau hò reo mừng rỡ, hàng chục chiếc mũ công tác tung lên, mấy tên pháo hai hứng chí quay 12,7 ly ngỏng lên trời kéo cò luôn cả hòm 50 viên đạn.

  Phía sau các ô tô, xe bọc thép chở bộ binh cũng đang dồn đến ngoài cổng, trên xe bộ binh cũng giương súng lên trời xả hàng băng đạn. Cánh nhà báo lúc nãy nấp ở đâu không biết giờ kéo ra khá đông đang lăng xăng ghi hình, chụp ảnh. Bọn lính cảnh vệ và nhân viên trong Dinh đã bị dồn lại ngồi thành một hàng ở phía bên phải sân Dinh một cách rất trật tự…


Em chắc đó là hành động phổ biến tại thời điểm 30/4/1975 (http://www.quansuvn.net/avatars/iconttvn/32.gif)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 15 Tháng Năm, 2009, 10:31:48 pm
     - Những người lính từng nằm hầm, ở chốt ở chiến trường nhiều năm rồi mới tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh sẽ có cái nhìn về chiến trận khác hẳn với các lính nhập ngũ 1974, đầu 1975 rồi thần tốc vào Nam theo đường hàng không, đường thủy để vào tham gia chiến dịch này.

       Các bác có tin rằng lính Sư 320A cũng rất nể lính Trung đoàn 45 (sư 23 VNCH) không? E45/23 cũng là E anh hùng của VNCH đấy.

     - Lính trong các đơn vị ngoài Bắc vào Nam tham chiến cuối tháng 3/1975 không biết đến cảnh đơn vị thường xuyên bị báo động kiểm tra quân tư trang (thực chất là để kiểm soát-khám tự giác chiến lợi phẩm) nên nhìn về chiến tranh lạc quan và lãng mạn lắm.

      - Cảm nhận về chiến thắng là bột phát và muôn hình muôn vẻ, nhưng đừng vội nghĩ lính của cả chục sư đoàn tham gia chiến dịch HCM đều tự do xả súng bắn lên trời để mừng chiến thắng.

      - So sánh hơi khập khiễng: Khi chơi sổ xố, có kẻ trúng độc đắc thì lặng lẽ ngồi thưởng thức tách cà-phê rất trầm tĩnh, có kẻ sướng run lên mấy ngày trời không làm gì nên hồn, có kẻ thì trở nên tâm thần, phí cả một đời.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: angko krao trong 15 Tháng Năm, 2009, 10:52:30 pm
 ...- Cảm nhận về chiến thắng là bột phát và muôn hình muôn vẻ, nhưng đừng vội nghĩ lính của cả chục sư đoàn tham gia chiến dịch HCM đều tự do xả súng bắn lên trời để mừng chiến thắng...
     
34 năm trước , em mới 13 tuổi thôi ở ngay gần Lăng ông Bà Chiểu , Tòa hành chánh tỉnh Gia Định, nhưng vẫn nhớ là sau khi nghe DVM đầu hàng trên radio , tại KV Sài Gòn-Gia định tiếng súng bắn chỉ thiên mừng chiến thắng vẫn nổ ran trời cả 3-4 tiếng đồng hồ, nhưng là do các thanh niên SG nhặt súng của quân đội ngụy vứt bỏ đầy đường bắn thôi. Bộ đội chính quy ngồi trên đoàn xe molotova chạy chậm,len lỏi giữa dòng người dân đổ ra 2 bên đường vẫy tay chào bộ đội và đi lấy gạo ở kho gạo dự trữ kế bên THC tỉnh GD. Gương mặt các anh bộ đội rất phấn khởi , nhưng không thấy ai nổ súng mừng cả , có lẽ lệnh chĩ huy cấm.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 15 Tháng Năm, 2009, 11:17:26 pm
@bác trongc6:
Em mù mờ tạm hiểu như thế này:
Bác muốn thể hiện Cảm Nhận của bác về cuộc chiến đó là đây đủ nhất về hướng khác (hướng nội), xứng đáng nhất về tâm thế, là đại diện cho cả một lớp người phân vân giữa lý tưởng hay số phận con người phải không bác ?
Hay là thế nào ?
Em nói thật, em cũng có những cảm nhận cá nhân, trong những cảm nhận cá nhân về cuộc chiến như bác tuy khác thời gian! Đôi khi em cũng buồn, cũng chán. Đôi khi cáu bẳn nhưng em xin nói thật nhé! Mình đã là cái ngỗng gì so với tất cả những người khác.
Khiếp! Bác nói cứ như Thánh!
Rất trân trọng những gì bác cống hiến.
Nhưng đôi khi em chỉ cần thấy năm năm lính trận, đổi lấy nửa nụ cười của người bạn thuở thiếu thời, là thấy vui rồi ! Mặc dù em về thi nó đã đi lấy chồng . He he...
Hình như sau nụ cười ấy có gì cao đẹp hơn thì em không dám bàn.
 :P :P :P :P :P :P






Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 16 Tháng Năm, 2009, 09:17:09 am
        Các đồng đội Trungsi1 và LeThaiTho ơi,

        Các bác có nghĩ rằng tôi gần như thuộc lòng "Biên giới Tây Nam" và "Tổ Tam tam" cũng như "hậu tổ Tam tam" của các bác không. Các bác viết hay lắm, lính lắm và đầy chất lãng mạn Hà thành. Tôi viết lăng nhăng cũng chỉ mong được gần bằng các bác thôi. Tôi rất quý các bác, nhiều lúc đi đường cảm nhận nhìn thấy các bác mà không dám gọi đấy nhé.

       @TS1: Bác là hình ảnh người đàn ông tài hoa trong tôi. Bác triết lý hay lắm, vốn sống giàu lắm. Tôi luôn đọc bài của bác và tự nghĩ mình không bao giờ bằng bác được. Lính ra lính, làm ra làm và chơi cũng thật ra chơi.

       Tôi chẳng có tâm sự gì nhiều, chẳng dám đại diện cho ai. Tại vì các bác khác cứ bảo khi chiến thắng là phải nhảy tung trời, xả súng bắn lên trời cho thỏa mới đúng tâm trạng lính. Nhưng quả thật trong đơn vị chúng tôi (có thể nói là cả Trung đoàn) khi nghe thông báo của cấp trên về việc TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì cũng kèm theo đó là lệnh cấm bắn súng. Chuyện đó là thật, không phải nói cương. Mà các bác cứ nghĩ xem, lính Giải phóng đầy khắp nơi mà bắn xả láng thế thì dân họ cũng khiếp, mà chỉ nội việc đạn rơi cũng có thằng chết oan rôi. Tôi nhớ lúc đó anh em chỉ nhìn nhau sung sướng, ôm nhau, xoay nhau, bắt tay nhau thật chặt và cả những thằng vốn kẹt xỉn hay giấu thuốc lá hút riêng cũng móc ngay trong ba lô ra mời mọi người hút loạn xạ, mặc dù lúc đó chúng tôi ai cũng có thuốc.

       Cái điều muốn nói là không phải ai cũng giống ai và mọi việc đều có thể xảy ra, đừng vội kiểu vừa muốn tôi viết bài, lại vừa phán là viết cóc đúng.

    Tôi đi lính khi chưa có bạn gái, không được như bác TS1 và bác Thọ. Tôi chỉ có mẹ để nhớ, để thương. Tôi vào chiến trường là đem theo cả cuộc đời của mẹ tôi mà ra trận. Phần trên tôi đã viết là khi tôi trở về thì sự sống sót của tôi đã là đủ để mẹ tôi mãn nguyện.

   Tôi không có gì bất mãn cuộc đời. Bác TS1 đừng nâng lên quan điểm nhé.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: pain trong 16 Tháng Năm, 2009, 09:51:53 am
...
                    Chẳng ai muốn chiến tranh để ngoài cái đau chung của cả dân tộc, còn có những góc khuất nhỏ đau lòng của những người lính.


Kính bác một ly :-*


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 16 Tháng Năm, 2009, 02:17:37 pm
Viết bài cóc đúng thì nói cóc đúng, cứ lằng nhằng như chị chàng!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongadoan trong 16 Tháng Năm, 2009, 08:42:47 pm
Một số bài viết có liên quan đến tình cảm thuở "đội đầu chung một lá sen tơ" đã được di chuyển sang topic "Tình yêu của người lính..."

Kính xin các bác tránh lạc đề để bác Trongc6 tiếp tục hồi tưởng ngày chiến thắng theo kiểu lính Trinhsat! ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 16 Tháng Năm, 2009, 10:21:21 pm
Đội đầu chung một lá sen tơ
Em đi phố huyện tiêu điều lắm.
Trường huyện giờ xây kiểu khác roài!
Mãi đến bây giờ em mới hiểu
Thích cắt là xong, cứ cắt thôi!
.........................................................

Chả biết viết vào đâu thì viết vào đây vậy!
Tình yêu nó cũng phải có một trại riêng, chuyên về tình yêu, như đã có một topic mà bác Đoàn đã dành cho nó. Thế nó mới tập trung dân chủ và bay bổng lãng mạn.
Đằng này các bác cứ để nó dàn trải .... lúc nghỉ trưa, lúc ăn cơm, khi đêm về, lúc trăng lên .... thậm chí là lúc tác chiến cũng nhớ đến nó. Như thế là không nên ...

Tình yêu của người lính lắng sâu nhưng cháy bỏng lắm các bác ạ  :P :P :P
Đến khổ !   :D



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongadoan trong 16 Tháng Năm, 2009, 10:25:55 pm
Thích cắt là xong, cứ cắt thôi!
--------------------------------
 Thực ra câu này nên đổi thành: Lúc cắt lúc không, có lý do!
;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: quyenkh trong 17 Tháng Năm, 2009, 01:07:01 am
Chào cả nhà QS.
Bác nào còn nhớ những gì thì tuôn ra hết đi khỏng mươi năm nữa bịnh tật nó đổ ra muốn viết lại mà tay cứ run
cho con cháu đứa nào có tư duy một chút nó còn biết đến , đừng như đường Trường Sơn ( báo sài Gòn giải phóng ) gần như muốn trôi vào truyện cổ tích , chỉ bên Lào còn 2km nguyên trạng còn bên ta thì cứ hình như là....... bây giờ người ta hiện đại hoá quá nhanh và rất mau quên quá khứ .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Tmct trong 17 Tháng Năm, 2009, 06:00:16 am
Nhìn đám đông qua lại trên đường, một người khách xa thầm nghĩ "phố này buôn bán sầm uất nhỉ", một người khác bực bội "sao người đâu ra mà lắm thế", một người khác đang đợi bạn thì chỉ thấy "ở đây không có bạn mình".
Hai người cùng uống chung một ly nước cam đã khuấy đều còn có thể người khen "ngon ngọt", kẻ chê "sao bỏ lắm đường?"
...nữa là một cuộc chiến mà trong đó không có hai người nào cùng đi qua những trải nghiệm giống hệt nhau
...nữa là hai cuộc chiến khác nhau cả về độ dai dẳng cũng như độ khốc liệt


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: danngoc trong 17 Tháng Năm, 2009, 09:11:30 pm
Các bác ôi có bác nào mua được 2 tập HỒi ức của lính xe tăng ở SG thì cho em biết địa chỉ nhà sách với. Em tìm cả sáng nay mà không thấy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: quyenkh trong 17 Tháng Năm, 2009, 11:38:21 pm
Thì em cứ nói vậy nếu không tiến lên thì cứ nhà lá mà ở sao , du lịch SaiGon có tua thăm lại chiến trường xưa dọc theo đường 5 đến Batdombong ( bộ chỉ huy sư 309 ) thế nào em cũng phải đi , chắc thay đổi rất nhiều  .
Em ở Saigon lâu lâu đi lại chỗ nào đó còn nhận không ra , coi phim tư liệu VTV1 cũng thấy khác rồi , cuối năm 82 ra quân chỗ cầu sập lên Kông pông chơ Năng đã xây lại rồi , lên một chút có một ngôi chùa đơn vị em chôn đến mười mấy nhân  chỗ chân tường chùa sát đường 5 , chắc QĐ 4 đã bốc cốt về Việt Nam . Em phải ghé vào ngã ba biển hồ uống bằng được ngụm bia Pô sheng Tông ( nước thốt nốt lên men ) dân khu vực đó gọi vậy , họ cho mấy lát rễ cây gì đó vào ống tre .Ăn bằng được miếng cá khô phơi còn ươn ướt , à quên không biết đưởng vào Tà Hen ,SpaiLin , Stà Reng có tua không nhỉ nghé vào 3 núi uống một miếng nước giếng nặc mùi vôi , lấy nước nấu cơm hăng hăng mùi bánh Đúc .
Vào Tà Sanh ăn cho được một quả chuối sứ vàng lòng , ăn được một quả sầu riêng thật béo vàng ngậy thấm bao nhiêu mồ hôi  và máu đồng đội của em , em phải cố tìm một đoạn giao thông hào ,em phải cố lên được khu đào đá quý mà trước kia em và đồng đội dò dẫm từng bước chân .
Thôi cho đó là ước nhưng khi nào đến được mới biết là không mơ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 18 Tháng Năm, 2009, 08:18:07 am
 Đêm qua có bác nào xem chương trình của truyền hình Hà nội về Trường Sơn : người dẫn chương trình kể chuyện ở Trường Sơn có 1 đơn vị bị bao vây sắp chết ,trên điện vào hỏi :các đồng chí cần gì  quân ta trả lời ; thích nghe thơ Phạm tiến Duật rồi chết cũng được ( kính lạy hương hồn ông ) trên phá vây không được bèn dùng cối bắn thơ vào chốt cho anh em đọc ......
  hà.......hà,,,,,,,..Cụ Duật sống lại cũng không tưởng tượng được ... lạy cụ ....


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: quyenkh trong 18 Tháng Năm, 2009, 08:45:35 am
Chào bác Tài , chiến tranh đã qua rồi lúa tuổi nhỏ nhất của chiến dịch giải phóng K cũng đã 50 .........mấy người còn ở lại nhất là lính cầm súng chạy bám theo đít giặc mà bắn . Bác thấy các ông trên chiếc tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập không , có ông nào làm nên vương tướng gì không thậm chí còn mang vài chiếc mỏ lết ra cây đa đầu làng vá vỏ xe .
Mình nói ra hết nhiều lúc bảo tiêu cực , nhưng riêng em thấy các bác chỉ huy cứ đưa liên lạc đi học sỹ quan tất nhiên khi về sẽ thành chỉ huy chắc là học dược nhiều phẩm chất lãnh đạo khi gần các bác ấy và quan văn lên đều hơn quan võ . Đó là ý của em có đụng đến ai xin chưởi nhè nhẹ.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 18 Tháng Năm, 2009, 02:22:44 pm
trên phá vây không được bèn dùng cối bắn thơ vào chốt cho anh em đọc ......
Bác Tài mời ông ấy về QS kể chuyện cho anh em đi, hay quá cơ !!!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vinaheart trong 18 Tháng Năm, 2009, 06:50:14 pm
Đêm qua có bác nào xem chương trình của truyền hình Hà nội về Trường Sơn : người dẫn chương trình kể chuyện ở Trường Sơn có 1 đơn vị bị bao vây sắp chết ,trên điện vào hỏi :các đồng chí cần gì  quân ta trả lời ; thích nghe thơ Phạm tiến Duật rồi chết cũng được ( kính lạy hương hồn ông ) trên phá vây không được bèn dùng cối bắn thơ vào chốt cho anh em đọc ......
  hà.......hà,,,,,,,..Cụ Duật sống lại cũng không tưởng tượng được ... lạy cụ ....

Em hỏi nhờ các bác là tầm xa của cối là bao nhiêu để bắn được cả thơ vào à các bác. Nếu bắn được thì định vây ta, ta vây địch rồi ????


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 18 Tháng Năm, 2009, 07:11:28 pm
Vi na @ .Cái đó thì phải hỏi Nhà đài Hà nội ,Cục Vũ khí đạn cũng Botay.com


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh moi trong 18 Tháng Năm, 2009, 07:15:54 pm
Chào bác Tài , chiến tranh đã qua rồi lúa tuổi nhỏ nhất của chiến dịch giải phóng K cũng đã 50 .........mấy người còn ở lại nhất là lính cầm súng chạy bám theo đít giặc mà bắn . Bác thấy các ông trên chiếc tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập không , có ông nào làm nên vương tướng gì không thậm chí còn mang vài chiếc mỏ lết ra cây đa đầu làng vá vỏ xe .
Mình nói ra hết nhiều lúc bảo tiêu cực , nhưng riêng em thấy các bác chỉ huy cứ đưa liên lạc đi học sỹ quan tất nhiên khi về sẽ thành chỉ huy chắc là học dược nhiều phẩm chất lãnh đạo khi gần các bác ấy và quan văn lên đều hơn quan võ . Đó là ý của em có đụng đến ai xin chưởi nhè nhẹ.



Tím :  Bác ơi ! Anh em mình chỉ là 1 hạt muối trong lòng đại duơng thôi ! Nếu "các ông trên chiếc tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập " lên tướng hết thì lấy đâu ra tá chứ chả nói đến úy và lính nữa ... Hay nói theo cách của bác TS1 :"Mình đã là cái ngỗng gì so với tất cả những người khác. "
Đỏ : Không biết đơn vị  bác thế nào , chứ đơn vị em là "Bị dí đi học sỹ quan" .
  Đây cũng là nhận xét của cá nhân em thôi , mong bác đừng mắng  ;D ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: quyenkh trong 19 Tháng Năm, 2009, 12:33:57 am
Chào bác linhmoi cho em hỏi khí không phải , bác nhập ngũ năm nào...................... còn em nói trước khi có luật nghĩa vụ quân sự năm 81 , trước đó chỉ đi và ngày về ??????????????????????? Thằng bạn em ở trinh sát trung đoàn 250 f309 khi bị mìn Kp2 cụt giò còn kêu trúng mánh rồi ... trúng mánh rồi...........  nó quê ở Nêpu huyện Đức linh bác cứ khảo sát gọi nó là ( Bình toác ). bác mới hiểu những năm tháng ấy chúng em sống ra sao.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 19 Tháng Năm, 2009, 01:30:08 am
Chào bác linhmoi cho em hỏi khí không phải , bác nhập ngũ năm nào...................... còn em nói trước khi có luật nghĩa vụ quân sự năm 81 , trước đó chỉ đi và ngày về ??????????????????????? Thằng bạn em ở trinh sát trung đoàn 250 f309 khi bị mìn Kp2 cụt giò còn kêu trúng mánh rồi ... trúng mánh rồi...........  nó quê ở Nêpu huyện Đức linh bác cứ khảo sát gọi nó là ( Bình toác ). bác mới hiểu những năm tháng ấy chúng em sống ra sao.


hehe , thời bác lạ nhỉ , thời tụi em có thằng  trúng mìn  xin đồng đội cho 1 phát ra đi thanh thảng , có thằng không ga rô vết thương vì sợ cưa chân nên chết vì mất máu . Chết không sợ , chỉ sợ cụt giò về nhà không ai dám lấy  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 19 Tháng Năm, 2009, 01:43:05 am
Nói thật lòng mình trước khi tham chiến nha.Trộm nghĩ bị thương,thì bị thương miễn không ai nhìn thấy vết,còn không chết.M...đi cho nó nhàn.. ;D Em hổng động chạm bác nào đâu nhá hừ...em nghĩ thật như vậy đó,và em cũng bị thương đúng như vậy.Rõ khổ lắm lúc cứ như trả vờ,đeo đẳng xuốt 24 năm trời con dế già ngồi trong đầu em mỗi ngày gáy oooooo uuuuuuuuuu iiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii càng to lên,ồn hết muốn ngủ luôn...lại thêm một mảnh nhỏ nằm ở chân nữa híc..... :D :D :D :D :D :D :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 19 Tháng Năm, 2009, 01:57:00 am
Nói thật lòng mình trước khi tham chiến nha.Trộm nghĩ bị thương,thì bị thương miễn không ai nhìn thấy vết,còn không chết.M...đi cho nó nhàn.. ;D Em hổng động chạm bác nào đâu nhá hừ...em nghĩ thật như vậy đó,và em cũng bị thương đúng như vậy.Rõ khổ lắm lúc cứ như trả vờ,đeo đẳng xuốt 24 năm trời con dế già ngồi trong đầu em mỗi ngày gáy oooooo uuuuuuuuuu iiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii càng to lên,ồn hết muốn ngủ luôn...lại thêm một mảnh nhỏ nằm ở chân nữa híc..... :D :D :D :D :D :D :D
hehe , hồi mới sang K em nghĩ nếu cụt giò mình sẽ là anh thương binh của nhạc sĩ Trần Tiến , cũng lãng mạng  ;D tới hồi thấy cái giò nát bét khi trúng 652a , máu me tùm lum kêu khóc quá trời , em sợ quá quên ngay bài hát vết chân tròn trên cát  ;D em vốn nhát rất sợ đau nên cầu trời nếu con có trúng đạn thì xin cho được chết ngay cho nó khỏe  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh moi trong 19 Tháng Năm, 2009, 02:57:45 am
Chào bác linhmoi cho em hỏi khí không phải , bác nhập ngũ năm nào...................... còn em nói trước khi có luật nghĩa vụ quân sự năm 81 , trước đó chỉ đi và ngày về ??????????????????????? Thằng bạn em ở trinh sát trung đoàn 250 f309 khi bị mìn Kp2 cụt giò còn kêu trúng mánh rồi ... trúng mánh rồi...........  nó quê ở Nêpu huyện Đức linh bác cứ khảo sát gọi nó là ( Bình toác ). bác mới hiểu những năm tháng ấy chúng em sống ra sao.


  Em nhập ngũ 83 bác ạ ! Thời bọn em thì chả thằng nào thích đi học sỹ quan cả . cũng chính vì vậy mà em bảo là bị "dí" . Vì thiếu sỹ quan nên ở chỗ em gọi là "nhận sỹ quan" , tức là bác vẫn ở đv nhưng nhận quyết định bổ nhiệm B trưởng và phong quân hàm thiếu úy . Lúc nào có đợt thì Đv gửi ra trường quân chính "bổ túc sỹ quan" từ 3 tới 6 tháng . Vậy mà vẫn thiếu SQ nên từ năm 85 thì đv thuyết phục lính cũ nhận phục vụ QĐ thêm có thời hạn . Nếu bác nào đồng ý thì nhận quyêt định bổ nhiệm B trưởng và quân hàm thượng sỹ nhưng ăn luơng thiếu úy .
 P/S . Nếu em nhớ không nhầm thì luật NVQS bắt đầu thực hiện từ 85 vì khi có luật này thì các bác lính 80 ở đv em mới được phục viên .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 19 Tháng Năm, 2009, 08:19:37 am
Luật NVQS áp dụng 1982 bác ạ. Năm đó dân tụt tạt ở SG đi đông lắm vì biết đi có thời hạn để về và về thì được nhập hộ khẩu!  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dksaigon trong 19 Tháng Năm, 2009, 10:01:14 am
He, cái bác quyenkh này nói nghe có vẻ lung tung nhưng là nói đúng những tâm trạng, suy nghĩ của thanh niên miền nam lúc đó ! ;D
Điểm qua những mốc thì bắt đầu năm 76 là đợt đầu tiên gọi nhập ngũ đi NVQS ở miền nam, đợt này thì có gọi là tuyển bởi cũng xét các tiêu chuẩn và cũng tuyển không nhiều !
Qua năm 77 tình hình chiến sự biên giới tây nam đã nóng thì năm này tuyển quân hơi bị nhiều ! ;D và các tiêu chuẩn cũng chỉ là có lệ, tiêu chuẩn chính trị là hàng đầu mà năm 76 còn xét thì qua năm 77 là... cho qua, cụ thể là có ông đã từng là lính dù chế độ cũ cũng " trúng tuyển "! , và ông nội này đành than rằng " số tao phải đi lính, giải phóng tưởng thoát khỏi, giờ lại đi bộ đội, đúng là cái số ! " Suy nghĩ lúc ấy là không biết có chế độ NVQS gì như thế nào, trúng tuyển đi rồi quả tình là không biết ngày về bởi cũng chẳng ai nói gì về cái ngày về và thực tế lúc ấy những ông đi từ 74 cũng đang ăn cơm lính đó thôi !, sau này đến những năm 79-80 mới dần biết được chút ít khi thấy quái lạ mấy ông lính cựu 74, 75 sao cứ từ chối không nhận chuẩn úy ?! hỏi ra thì mấy ông này nói không nhận để hy vọng có ngày được ra quân, nói là hy vọng bởi ngay cả các ông này cũng không biết có được về hay không dù là dân miền bắc! còn dân miền nam bọn tôi thì mù tịt chế độ! chỉ lờ mờ hiểu là nếu nhận hàm úy thì đi " mút chỉ "!
Đến năm 81 thì được phổ biến có chính sách ra quân, đợt đầu thực hiện vào tháng 6/81 cho các em nhập ngũ từ 76 trở về trước và đợt 2 vào tháng 12/81 cho các em nhập ngũ 77 . Về chính sách ra quân này thì mấy ông quân lực cấp trên cười khà khà nói là : tình thế kẹt , từ 79-81 tuyển quân hẻo quá! đi nhận quân lần nào cũng lèo tèo, có đợt không nhận được em nào, giờ nhà nước có chính sách ra quân  để hy vọng có tác động tích cực tuyển được quân, chứ cứ cái đà này thì các D cứ còn bao nhiêu chơi bấy nhiêu đừng hy vọng có quân bổ sung...!
Và đúng là trước khi có chính sách ra quân thì suy nghĩ lúc đó là : thôi sống chết có số, tới đâu hay tới đó và ngâm nga cái bài hát có câu " đường dài miệt mài anh đi... "  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: china trong 19 Tháng Năm, 2009, 10:18:10 am
Nói thật lòng mình trước khi tham chiến nha.Trộm nghĩ bị thương,thì bị thương miễn không ai nhìn thấy vết,còn không chết.M...đi cho nó nhàn.. ;D Em hổng động chạm bác nào đâu nhá hừ...em nghĩ thật như vậy đó,và em cũng bị thương đúng như vậy.Rõ khổ lắm lúc cứ như trả vờ,đeo đẳng xuốt 24 năm trời con dế già ngồi trong đầu em mỗi ngày gáy oooooo uuuuuuuuuu iiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii càng to lên,ồn hết muốn ngủ luôn...lại thêm một mảnh nhỏ nằm ở chân nữa híc..... :D :D :D :D :D :D :D
hehe , hồi mới sang K em nghĩ nếu cụt giò mình sẽ là anh thương binh của nhạc sĩ Trần Tiến , cũng lãng mạng  ;D tới hồi thấy cái giò nát bét khi trúng 652a , máu me tùm lum kêu khóc quá trời , em sợ quá quên ngay bài hát vết chân tròn trên cát  ;D em vốn nhát rất sợ đau nên cầu trời nếu con có trúng đạn thì xin cho được chết ngay cho nó khỏe  ;D
Cùng suy nghĩ với Haanh, anh Ẩn nhập ngũ cùng thời với anh Hiển con Bác Tám bán gạo cùng chợ Phú Lâm với má Anh Hiển, đã dùng lựu đạn tự xử khi trúng mìn cụt 2 chân, trong một trường hợp chưa rõ chi tiết, nghe Bác Tám bảo do đồng đội kể lại, lâu rồi không dám hỏi thêm sợ các Mẹ già lên máu


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 19 Tháng Năm, 2009, 10:51:52 am
hehe , xem ra suy nghĩ của lính lác cũng rối rắm quá nhỉ , thân phận , ám ảnh là đây sao (hehe , xin lỗi bác TS ủa lộn bác trongc6 cho em sờ pam tí ) ;D cũng là 1 sự vật - hiện tượng nhưng mỗi người lại có cách nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan khác nhau  ;D hehe mấy bác nhà văn túm được cái này mừng húm , tha hồ ngâm cứu và sáng tác  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh moi trong 19 Tháng Năm, 2009, 01:28:31 pm
Luật NVQS áp dụng 1982 bác ạ. Năm đó dân tụt tạt ở SG đi đông lắm vì biết đi có thời hạn để về và về thì được nhập hộ khẩu!  ;D
  Cái này thì em cũng biết , LNVQS ra năm 81 hay 82 gì đấy . Nhưng thực hiện ở đơn vị em thì chắc chắn là năm 85   vì trong năm đó toàn bộ lính 80 , 81 ở đv em được ra quân hết . Nói chung là năm 85 , lính 80 , 81 ở BGPB mới được ra quân . Theo em nghĩ thì có lẽ luật ra rồi nhưng thực hiện ở các đv khác nhau , tùy theo tình hình chiến sự vì thời điểm đó ở BGPB luôn đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu ở cấp cao nhất . Nói thật chứ hồi ấy lính lác có biết gì đâu , các bác chỉ huy phổ biến thế nào thì biết thế ... Nếu có hỏi tại sao chưa được ra quân thì sẽ có 1 bài học CT dài , nào là ... nào là ... nghìn lẻ 1 lý do ...Thiếu gì lý do để giữ lính lại ...
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 19 Tháng Năm, 2009, 03:00:49 pm
hehe , xem ra suy nghĩ của lính lác cũng rối rắm quá nhỉ , thân phận , ám ảnh là đây sao (hehe , xin lỗi bác TS ủa lộn bác trongc6 cho em sờ pam tí ) ;D cũng là 1 sự vật - hiện tượng nhưng mỗi người lại có cách nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan khác nhau  ;D hehe mấy bác nhà văn túm được cái này mừng húm , tha hồ ngâm cứu và sáng tác  ;D

Còn lâu mới viết được cái cảm giác thật khi tôi hay bác haanh nghĩ gì ? híc...dễ mà vẽ ra tiền... ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 21 Tháng Năm, 2009, 06:26:09 pm
...
       Đóng quân trong căn cứ Đồng Dù được hơn một tháng, một đêm chúng tôi nhận lệnh chuẩn bị sắp xếp lại toàn bộ quân tư trang cá nhân để hôm sau chuyển căn cứ. Có nghĩa là mang được cái gì thì mang, còn lại tức là vứt bỏ. Có quái gì mà phải chuẩn bị cơ chứ. Lính tráng báo động chiến đấu có nửa phút, báo động di chuyển có 5 phút còn kịp thì một đêm là quá dài đối với chúng tôi. Nhưng việc gì cũng có lý do của nó.

            Đêm hôm đó, những thứ ăn được chúng tôi mang ra liên hoan hết (thực ra cũng chỉ còn thịt hộp của dân, chúng tôi đổi được từ những chiếc xe máy cũ địch bỏ lại căn cứ). Đã hành quân bộ thì không thằng nào muốn mang nặng. Nếu có tiếc thì chỉ là gạo của địch phải bỏ lại, không mang được theo thì lại phải ăn theo tiêu chuẩn lính như trước thôi.

           Sáng sau, chúng tôi ăn một bữa no cật lực, đùm cơm nắm rồi lục tục lên đường. Đơn vị nhằm hướng Tây Ninh thẳng tiến. Đi được chừng 15 cây số, cả đại đội dừng lại bên một cánh rừng cao su. Mệnh lệnh tháo dỡ đồ đoàn để kiểm tra quân tư trang được phát ra. Mỗi lính cách nhau 3 mét, rải nilon xuống đất và dỡ bỏ mọi thứ trong ba-lô xếp lên đó. Những thứ trong túi áo quần cũng phải lộn bỏ ra hết. Bây giờ thì chúng tôi đã hiểu rằng chẳng có chuyện chuyển căn cứ gì hết, mà chẳng qua chỉ là kiểm tra quân tư trang. Trong đời lính, tôi đã phải bị tham gia kiểm tra quân tư trang không biết bao nhiêu lần. Những cái mốc đó thường rơi vào lúc sau những trận đánh lớn hay sau những đợt chiến đấu dài ngày. Trong đơn vị tôi chưa có trường hợp đáng tiếc nào xảy ra, tức là chưa có ai vi phạm kỷ luật về chiến lợi phẩm. Các thứ nhét được vào mồm thì không tính, mà giả sử có tính thì lính tráng cũng chẳng từ. Thiếu ăn và đói quá thì con người ta chỉ còn nghĩ đến chữ "con" trong con người thôi. Danh dự đôi khi chẳng là cái gì khi đó. Còn những thứ bị cấm như đài, đồng hồ, vàng bạc thì chúng tôi không màng, nhiều khi còn kiêng, thành truyền thống trong nếp nghĩ của lính rồi. Mà cũng cần nói thêm rằng những thứ đó có phải lúc nào cũng có sẵn đâu. Chỉ có đánh các căn cứ lớn, mà chúng tôi vốn không được đánh lớn bao nhiêu.

          Đoàn kiểm tra của tiểu đoàn hì hục lật xem rồi ghi ghi chép chép chừng hai tiếng thì cũng xong. Mọi chuyện có vẻ vẫn như trước thôi. Nhưng rồi ban kiểm tra cũng tìm ra được một trường hợp. Thằng Sớn (người Nam Hà) có một cái đồng hồ Seiko 2 cửa sổ. Lý do, nó mua được giá 20 đồng bằng tiền phụ cấp của mấy anh em góp lại, nhưng chưa đủ thuyết phục, chiếc đồng hồ bị tịch thu.

             Sau này khi trở lại căn cứ Đồng Dù, một số anh em trong trung đội phải lập danh sách góp đủ số tiền 20 đồng cho Sớn, đề đạt lên tiểu đoàn mãi mới xin lại được. Tiểu đoàn trả đồng hồ, kèm theo lời phê bình là không chịu báo cáo trước khi mua. (Thực ra anh em thương mà nhận giúp nó thôi chứ nó mua lúc nào cũng đâu có ai biết).

             Điều đáng nói thêm là hơn một tháng sau nữa, khi trung đoàn chúng tôi được lệnh trở lại Tây Nguyên làm nhiệm vụ truy quét Fulro thì các thủ trưởng các cấp trên E thi nhau cho công vụ đi các lán (doanh trại) thu vét các dụng cụ sinh hoạt, dù, bạt, thậm chí bóc cả các tấm Phooc-mi-ca mặt bàn cuộn từng bó chở lên cao nguyên để xây dựng doanh trại cho các thủ trưởng. Các thủ trưởng D cũng muốn lắm, nhưng ở sát lính quá nên cũng không dám làm ẩu.

             Trên Cao nguyên, thời truy quét Fulro còn nhiều chuyện nực cười nữa của các thủ trưởng, nhưng có lẽ chuyện kể cũng đã đến điểm dừng.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 21 Tháng Năm, 2009, 06:40:07 pm
Lính tráng báo động chiến đấu có nửa phút, báo động di chuyển có 5 phút

----
Lính thời sau này,thực hiện chế độ báo động được như vậy chỉ có ở quân trường Hạ Sĩ quan thôi bác ạ,chậm một chút là phạt,kính thưa các kiểu phạt được tận dụng vào giờ nghỉ trưa ít ỏi hay đầu buổi tối sau bứa ăn cơm,thời gian đến nửa đêm vẫn nằm trong trương trình huấn luyện.Lính nhiều anh phải đeo nguyên giầy đi ngủ khi báo động trong bóng tối,chỗ giá súng cứ chồm dậy lao vào mà chộp súng không được gây tiếng động,thế mà làm được cái lúc đầu cứ cho là không thể quái đản như thế được....hiiiiiiiiiiiiiii    ;D

Kiểm tra quân tư trang,ở trường không kể đó là qui định,sau khi về đơn vị chiến đấu chỉ thấy có 01 lần ở đơn vị bạn,lý do mất trộm cái gì đó... ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nvanlebinh trong 21 Tháng Năm, 2009, 09:49:27 pm

  Cái này thì em cũng biết , LNVQS ra năm 81 hay 82 gì đấy . Nhưng thực hiện ở đơn vị em thì chắc chắn là năm 85   vì trong năm đó toàn bộ lính 80 , 81 ở đv em được ra quân hết . Nói chung là năm 85 , lính 80 , 81 ở BGPB mới được ra quân . Theo em nghĩ thì có lẽ luật ra rồi nhưng thực hiện ở các đv khác nhau , tùy theo tình hình chiến sự vì thời điểm đó ở BGPB luôn đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu ở cấp cao nhất . Nói thật chứ hồi ấy lính lác có biết gì đâu , các bác chỉ huy phổ biến thế nào thì biết thế ... Nếu có hỏi tại sao chưa được ra quân thì sẽ có 1 bài học CT dài , nào là ... nào là ... nghìn lẻ 1 lý do ...Thiếu gì lý do để giữ lính lại ...
 
Nghiã vụ quân sự có quy định thời gian ra quân từ trước lâu. Trong giai đoạn cuối KCCM thì quy định:
Từ 3 năm đến 5 năm ra quân gọi là xuất ngũ.
Từ sau 5 năm ra quân là phục viên.
Thời gian tôi còn trong QN cũng vẫn theo như vậy. 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nắngđêm83 trong 21 Tháng Năm, 2009, 10:01:09 pm
Bác Trọng ơi, mạch truyện của bác đang hay mà. Sao lại không tiếp tục nữa ạ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh moi trong 21 Tháng Năm, 2009, 11:08:58 pm

  Cái này thì em cũng biết , LNVQS ra năm 81 hay 82 gì đấy . Nhưng thực hiện ở đơn vị em thì chắc chắn là năm 85   vì trong năm đó toàn bộ lính 80 , 81 ở đv em được ra quân hết . Nói chung là năm 85 , lính 80 , 81 ở BGPB mới được ra quân . Theo em nghĩ thì có lẽ luật ra rồi nhưng thực hiện ở các đv khác nhau , tùy theo tình hình chiến sự vì thời điểm đó ở BGPB luôn đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu ở cấp cao nhất . Nói thật chứ hồi ấy lính lác có biết gì đâu , các bác chỉ huy phổ biến thế nào thì biết thế ... Nếu có hỏi tại sao chưa được ra quân thì sẽ có 1 bài học CT dài , nào là ... nào là ... nghìn lẻ 1 lý do ...Thiếu gì lý do để giữ lính lại ...
 
Nghiã vụ quân sự có quy định thời gian ra quân từ trước lâu. Trong giai đoạn cuối KCCM thì quy định:
Từ 3 năm đến 5 năm ra quân gọi là xuất ngũ.
Từ sau 5 năm ra quân là phục viên.
Thời gian tôi còn trong QN cũng vẫn theo như vậy. 

   Cái em nói ở trên là luật mới (thời em) bác ạ!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: songvedem trong 22 Tháng Năm, 2009, 01:15:22 pm


             Điều đáng nói thêm là hơn một tháng sau nữa, khi trung đoàn chúng tôi được lệnh trở lại Tây Nguyên làm nhiệm vụ truy quét Fulro thì các thủ trưởng các cấp trên E thi nhau cho công vụ đi các lán (doanh trại) thu vét các dụng cụ sinh hoạt, dù, bạt, thậm chí bóc cả các tấm Phooc-mi-ca mặt bàn cuộn từng bó chở lên cao nguyên để xây dựng doanh trại cho các thủ trưởng. Các thủ trưởng D cũng muốn lắm, nhưng ở sát lính quá nên cũng không dám làm ẩu.

             Trên Cao nguyên, thời truy quét Fulro còn nhiều chuyện nực cười nữa của các thủ trưởng, nhưng có lẽ chuyện kể cũng đã đến điểm dừng.
0--------------

Thu vén là chuyện bình thường mà bác, em chả thấy có gì cả. mong bác tiếp tục. Phải tay em thì cho lính dỡ hết đồ, trừ gỗ (vì lên rừng mà), xây dựng doanh trại chứ có sao đâu


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vubang trong 23 Tháng Năm, 2009, 10:56:50 am
He, cái bác quyenkh này nói nghe có vẻ lung tung nhưng là nói đúng những tâm trạng, suy nghĩ của thanh niên miền nam lúc đó ! ;D
Điểm qua những mốc thì bắt đầu năm 76 là đợt đầu tiên gọi nhập ngũ đi NVQS ở miền nam, đợt này thì có gọi là tuyển bởi cũng xét các tiêu chuẩn và cũng tuyển không nhiều !
Qua năm 77 tình hình chiến sự biên giới tây nam đã nóng thì năm này tuyển quân hơi bị nhiều ! ;D và các tiêu chuẩn cũng chỉ là có lệ, tiêu chuẩn chính trị là hàng đầu mà năm 76 còn xét thì qua năm 77 là... cho qua, cụ thể là có ông đã từng là lính dù chế độ cũ cũng " trúng tuyển "! , và ông nội này đành than rằng " số tao phải đi lính, giải phóng tưởng thoát khỏi, giờ lại đi bộ đội, đúng là cái số ! " Suy nghĩ lúc ấy là không biết có chế độ NVQS gì như thế nào, trúng tuyển đi rồi quả tình là không biết ngày về bởi cũng chẳng ai nói gì về cái ngày về và thực tế lúc ấy những ông đi từ 74 cũng đang ăn cơm lính đó thôi !, sau này đến những năm 79-80 mới dần biết được chút ít khi thấy quái lạ mấy ông lính cựu 74, 75 sao cứ từ chối không nhận chuẩn úy ?! hỏi ra thì mấy ông này nói không nhận để hy vọng có ngày được ra quân, nói là hy vọng bởi ngay cả các ông này cũng không biết có được về hay không dù là dân miền bắc! còn dân miền nam bọn tôi thì mù tịt chế độ! chỉ lờ mờ hiểu là nếu nhận hàm úy thì đi " mút chỉ "!
Đến năm 81 thì được phổ biến có chính sách ra quân, đợt đầu thực hiện vào tháng 6/81 cho các em nhập ngũ từ 76 trở về trước và đợt 2 vào tháng 12/81 cho các em nhập ngũ 77 . Về chính sách ra quân này thì mấy ông quân lực cấp trên cười khà khà nói là : tình thế kẹt , từ 79-81 tuyển quân hẻo quá! đi nhận quân lần nào cũng lèo tèo, có đợt không nhận được em nào, giờ nhà nước có chính sách ra quân  để hy vọng có tác động tích cực tuyển được quân, chứ cứ cái đà này thì các D cứ còn bao nhiêu chơi bấy nhiêu đừng hy vọng có quân bổ sung...!
Và đúng là trước khi có chính sách ra quân thì suy nghĩ lúc đó là : thôi sống chết có số, tới đâu hay tới đó và ngâm nga cái bài hát có câu " đường dài miệt mài anh đi... "  ;D

Hè hè cái chuyện đi lính hai chế độ thì ở đơn vị em cũng có, một đi NVQS nhập ngũ năm 77 như em, nhưng còn trường hợp khác là lính chế độ cũ từ trước năm 75 bị ta bắt không hiểu lý do gì mà đi theo ta,  thay vì tù binh, lúc em ra trường biên chế về tiểu đoàn 445 anh hùng thì anh này đã đeo lon trung sỹ tên là Tâm, chính anh này là người đi nhận quân, sau này về đơn vị mới nghe AE nói mới biết. Thì ra có những trường hợp như vậy. Còn chuyện " đường dài miệt mài ta đi.." thì chính em cũng từng sống trong tâm trang này khi chưa có chính sách ra quân, lúc ấy chỉ nghe nói nhà nước mình cam kết giúp bạn đến 20 năm ,tất nhiên đây chỉ là chuyện trà dư tửu  hậu của AE, nhưng rồi giật mình nhìn nhau và tự hỏi nhau: " Ủa vậy là bọn mình còn đi đến bao giờ?! ???" kô có câu trả lời nhưng nghĩ đến thời gian dài đằng đẵng trước mắt nghe chùng tư tưởng hơi lung lay. Tuy vậy khi có chính sách ra quân rồi nhìn mấy thằng nhập ngũ từ 76 trở về trước mình cũng kô cảm thấy nôn nóng, vì càng nôn nóng thì càng cảm thấy thời gian nó dài ra chẳng ích gì mặc dù có lúc trong lòng cũng cảm thấy nhớ nhà da diết và tự hỏi kô biết mình có sống sót đến ngày về kô nhỉ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 23 Tháng Năm, 2009, 04:18:17 pm
       Chuyện một người từng khoác hai màu áo lính thì cũng không hẳn là hiếm. Một bên có lý tưởng, một bên không. Được cách mạng cảm hóa thì việc có anh lính cộng hòa chạy sang bên ta cũng bình thường.

       Đại đội trưởng C trinh sát của E9B bọn tôi vốn là Trung đội trưởng biệt kích VNCH. Sau Mậu thân 1968 thì theo Trung đoàn 9B lên rừng làm lính giải phóng. Từ 1971 bác ấy là C trưởng trinh sát của E. Bác ấy tên là Biên.

      Có điều bác ấy không được vào Đảng và sau 1975 lại trở về làm thường dân, không phát triển, mặc dù bác ấy chiến đấu rất giỏi và có nhiều huân chương.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 31 Tháng Năm, 2009, 06:26:12 pm
       .... Còn hơn một tháng nữa chúng tôi mới trở lại với Tây Nguyên, với mưa rừng và những cơn lũ, với những con đường đất đỏ Bazan mà mỗi bước chân đi là đất dính bết dép cao su nặng chịch. Giờ đây chúng tôi vẫn đang ở giữa đồng bằng. Tuy vẫn là trong căn cứ Đồng Dù, giữa trại lính mà sàn bê tông và mái tôn lợp tạo nên những cái lò nung hầm hập trưa hè và vang dội tiếng mưa đập dội ầm ầm đêm mưa, nhưng vẫn là cuộc sống đô thị. Không phải tìm  chặt củi rừng, không phải đào bếp Hoàng Cầm, đào hầm chữ A và nhất là những ca gác chỉ mang tính nếp sống quân đội, lỡ có lơ là đôi chút cũng không lo bị tập kích cả đơn vị. Và những đêm mưa dù ầm ĩ mái tôn, nhưng vẫn ngủ ngon, không phải thấp thỏm chờ nghe tiếng pháo bắn để tụt vội xuống căn hầm ẩm ướt, mà sợ nhất là cái loại pháo "điếm" của các anh lính cộng hòa chiều "bạn gái" trong một đêm đồn trú.

               Vẫn chỉ là tập tành thường nhật. Ăn uống đầy đủ, thịt cá rau đủ chất. Đặc biệt là không phải hành quân dã ngoại mà vẫn phải xơi đồ hộp liên tục (bây giờ mới biết đến khái niệm quá Date, chứ ngày đó cứ nghĩ đồ hộp là mặt hàng chiến lược để bao lâu chẳng được). Ngày trở về nhà thì chẳng ai dám nói đến rồi vì hầu hết lính tráng trong đơn vị đều có tuổi quân chưa đủ 5 năm. Chỉ có mấy cán bộ C là đi lính đã 7, 8 năm, nhưng các anh ấy bây giờ lại không muốn về nhà làm dân cày bám đít mấy con bò. Có anh còn tiếc là chiến tranh kết thúc bất ngờ quá, không kịp để các anh ấy đi xa hơn trên con đường binh nghiệp. Văn hóa lớp 5, lớp 7 mà còn chiến tranh thì khi leo lên đến cán bộ trung đoàn tiểu đoàn, quân đội khắc phải có chế độ bổ túc cho sĩ quan. Nay hòa bình rồi, tất phải giải trừ quân bị thì các anh ấy chỉ còn nước về quê. Cái tâm sự ấy tưởng như chuyện tiếu lâm vì nó ngược lại với ước mơ ngàn đời của dân lành là an cư lạc nghiệp trong thanh bình, thế mà lại là có thật.

               Còn lính tráng chúng tôi, chắc cũng chưa thể về được vì quân đội phải là lực lượng chính để giải quyết hậu quả chiến tranh. Những mảnh đất chiến trường mà không rà phá bom mìn thì mãi mãi chỉ là đất hoang. Bom đạn địch dội xuống đã đành, ngay cả những bãi mìn chúng tôi lập trước khu vực chốt trên Gia-lai ngày trước, chúng tôi cũng chưa kịp gỡ bỏ vì tốc độ chiến thắng, tốc độ truy kích địch năm 1975 nhanh quá. Liệu chúng tôi có quay lại đó gỡ bỏ không, hay nó lại tồn tại giống như những bãi mìn không hồ sơ của địch.

               Nhưng chúng tôi lại chờ mong vào những ngày phép. Mấy năm xa nhà rồi còn gì. Thế mà trong tất cả các đơn vị của trung đoàn không hề có rục rịch gì về chuyện về phép. Thế là vào những ca gác đêm, hay những đêm mưa to thức giấc khó ngủ lại, tôi lại mơ mộng nhớ về gia đình, nhớ về chặng đường quân ngũ của mình, rành mạch lắm, như những thước phim trôi chầm chậm, kể từ một chiều cuối xuân năm 1971 ấy…



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: mig21q trong 01 Tháng Sáu, 2009, 12:43:19 pm
Bác viết hay quá, mong bài của bác ạ!


      sợ nhất là cái loại pháo "điếm" của các anh lính cộng hòa chiều "bạn gái" trong một đêm đồn trú.
     

Em nghe các CCB kể là pháo trong các đồn, căn cứ của địch thường là đã căn sẵn các tọa độ chúng nghi là có đường mòn của ta. Đêm bọn chúng dẫn các cô "chuyên nghiệp" vào đồn, xong việc là ra pháo: anh 1 phát, em 1 phát. Những phát pháo này rất nguy hiểm vì chẳng có quy luật nào để tránh cả. Pháo bác nói ở trên có phải pháo này không ạ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: DepTraiDeu trong 01 Tháng Sáu, 2009, 12:48:15 pm
Bác viết hay quá, mong bài của bác ạ!


      sợ nhất là cái loại pháo "điếm" của các anh lính cộng hòa chiều "bạn gái" trong một đêm đồn trú.
     

Em nghe các CCB kể là pháo trong các đồn, căn cứ của địch thường là đã căn sẵn các tọa độ chúng nghi là có đường mòn của ta. Đêm bọn chúng dẫn các cô "chuyên nghiệp" vào đồn, xong việc là ra pháo: anh 1 phát, em 1 phát. Những phát pháo này rất nguy hiểm vì chẳng có quy luật nào để tránh cả. Pháo bác nói ở trên có phải pháo này không ạ?

PHÁO ĐĨ


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Sáu, 2009, 02:15:19 pm
@bạn Mig21q:

     Gọi là pháo "điếm" hay pháo "đĩ" thì cũng là nó, vì nó ám chỉ tác nhân gây ra kiểu bắn này. Không quy luật, không giờ giấc, đông một quả, tây một quả chẳng biết đâu mà lần. Có khi đi trinh sát sát điểm địch không sao, về đến gần hậu cứ, tưởng yên lành lại bị nó "ù...xoẹt" cho một quả vô tình trúng đội hình (trinh sát thường đi 3 người) thì vừa đau vừa tức còn hơn bị "..."



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 04 Tháng Sáu, 2009, 02:54:12 pm
         … Cuối tháng 3/1971, đài báo rầm rộ đăng tin thắng lớn của quân ta trên mặt trận đường 9 Nam Lào. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 mở đầu cho chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ-ngụy bị bẻ gấy trước cửa ngõ Sepon, Trung Lào. Một lữ dù VNCH co cụm bị đánh tan, đại tá Tư lệnh Nguyễn Văn Thọ bị bắt sống tại trận. Chiến thắng này được khuếch trương, rầm rộ chỉ sau Mậu Thân 1968. Một thời gian dài người dân quê đã nghe quá nhiều về chảo lửa Khe-Sanh, làng xóm đón nhận nhiều thương binh, và những người lính ra đi từ 1965, 1967 thì hầu như bặt tin. Gái quê cô nào lấy được một anh thương binh làm chồng thì coi như yên phận, hạnh phúc đã nắm chắc trong tầm tay. Vì thế chiến thắng này được ca ngợi hết lời, hậu phương nức lòng.

             Đoàn trường của các trường phổ thông ở Hà Nội lập tức phát động phong trào viết thư hỏi thăm chiến sĩ đường 9-Nam Lào. Không khí nóng đến mức học sinh lớp 10 cuối cấp chúng tôi đã nhìn thấy con đường tòng quân trước mắt. Chắc chỉ vài tháng nữa thôi. Trong thư gửi chiến sĩ lần đó, tôi đã ước hẹn sớm ngày trở thành đồng đội của các anh.

               Chúng tôi mới trở về Hà Nội được năm đầu, sau 5 năm đi học sơ tán. Chỉ mới năm học 1969-1970 thôi, tôi còn học ở trường cấp III Yên Hòa B. Đây là trường Chu Văn An (trường Bưởi) sơ tán về học chung trên đất ở Cầu Giấy của trường Yên Hòa. Tôi học lớp 9C, cùng lớp với Phạm Như Anh, con gái của luật sư Phạm Thành Vinh. (Bác luật sư này cùng với bác Đỗ Xuân Sảng là 2 luật sư bào chữa cho vụ máy bay biệt kích C47 của Mỹ-ngụy bị bắn rơi ở Ninh Bình năm 1963 đó). Tôi cũng biết anh Nguyễn Văn Thạc, học sinh giỏi văn toàn quốc học trên một lớp, đã mang vinh quang về cho trường năm đó. (Hơn 30 năm sau, khi có tập nhật ký "Mãi mãi tuổi hai mươi" của anh Thạc, tôi mới biết rằng Như Anh lớp tôi yêu anh ấy, và anh ấy đã hy sinh. Lúc đó con gái lớp 9 mà đã yêu cũng hiếm lắm. Như Anh bây giờ chắc còn nhớ chút ít con đường rẽ từ Cầu Giấy vào trường phải đi qua một cái xưởng của HTX làm mắm, lúc nào cũng nồng nặc mùi, và con đường làng nhỏ chạy men quanh mấy cái ao, không ít đứa học sinh nghịch trêu nhau đã lăn tòm cả người và xe đạp xuống đó).

              Một tháng sau có đoàn dũng sĩ miền Nam đến thăm trường. Toàn khối 10 tập trung ngồi trên sân nghe kể chuyện. Có một dũng sĩ người miền Nam tuổi độ 16, 17 kể chuyện chiến đấu rất hay. Say sưa quá, đến lúc chúng tôi hỏi súng B40 như thế nào mà bắn chảy xe tăng, anh ấy khoa tay giải thích một hồi rồi nhìn vào ngôi trường 3 tầng của chúng tôi bảo: "Cái nhà 3 tầng kia tôi chỉ bắn cho 3 phát B40 là đổ sập". Hãi quá, và buồn nữa vì anh ấy lại lấy ngôi trường thân yêu của chúng tôi làm ví dụ mục tiêu. Nhưng cũng buồn ít thôi, vì chúng tôi nghĩ anh ấy đi đánh giặc từ rất sớm, chắc không kịp học hành gì.

               Tháng 4, chưa kịp thi tốt nghiệp, đã có 5 thằng trong trường tôi lên đường nhập ngũ, được đặc cách công nhận tốt nghiệp. Lớp tôi có thằng Tuyên, cán sự môn thể dục, dáng người cứng cáp, mới 18 mà trông đã như gã 20, cũng lên đường. Cả trường tiễn chúng nó đi như những người anh hùng. Thằng Tuyên chưa hy sinh, chưa thành anh hùng mà chỗ ngồi cũ trong lớp của nó đã được khoanh thành chỗ ngồi danh dự. Nhìn cái chỗ trống trong lớp ấy mà nhớ đến người anh hùng trong tương lai, thế thì đám con trai chúng tôi bị phân tán tư tưởng, học hành thòi thọp cũng phải thôi. Một tháng sau, đúng lúc chúng tôi chuẩn bị làm lễ bế giảng thì thằng Tuyên về phép thăm trường (Về sau khi đã vào lính thì đoán ra là nó "tút" về chơi chứ mới đi có một tháng, thành tích gì mà được về phép?). Nó mặc bộ quân phục còn mới (hình như có đôi chỗ hơi bạc màu phong sương!!), mặt cứ vênh lên giữa đám bạn bè và thày cô. Học sinh lớp chúng tôi hãnh diện ra mặt. Lũ con gái lớp tôi mặt mày rạng rỡ, xúm xít vây quanh, mặc cho bọn con gái lớp khác thòm thèm nhìn ngó, chỉ trỏ từ xa. Bọn con trai kể cũng hơi tự ái, thầm nghĩ ngày mai cũng vào lính luôn cho bè bạn biết tay.

               Tới tháng 7 thì chúng tôi thi xong cả tốt nghiệp PT lẫn thi đại học. Nghỉ hè mà đường phố Hà Nội lúc này chỗ nào cũng nhan nhản áp phích hình anh Lê Mã Lương mặc quân phục giải phóng, đội mũ tai bèo, tay giơ khẩu Ak với hàng chữ bên dưới:

   Lê Mã Lương. "Cuộc đời đẹp nhất,
   Là ở trên trận tuyến đánh quân thù!"


...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lethaitho trong 04 Tháng Sáu, 2009, 03:31:34 pm
....nhớ chút ít con đường rẽ từ Cầu Giấy vào trường phải đi qua một cái xưởng của HTX làm mắm, lúc nào cũng nồng nặc mùi, và con đường làng nhỏ chạy men quanh mấy cái ao...

Vâng, đọc những dòng chữ trên của bác tôi lại nhớ đến cái tuổi thơ của tôi vào những năm ấy ( 1968 - 1970 ), ở cái làng Yên Hòa ấy, ở cái " xưởng nước mắm " ấy quá bác Trongc6 ạ!

Cái ngôi trường cấp 3 Yên Hòa ấy, ngày ngày tôi vẫn đi qua để đi học.. Tôi nhớ ngôi đình làng dưới bóng cây đa, hàng ngày học sinh học hát vẫn ra đấy ngồi nhờ... " Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn, dá mòn mà đôi gót không mòn..." Bài hát ấy tôi biết lần đầu tiên là do ngồi hóng giờ học hát của các anh, các chị học sinh cấp 3. Nhớ ngồi trường cấp 3 có thày giáo tên Thướng, vợ là cô Lan nhà cũng gần ngay trường. Nhớ mấy cái bể ngâm vỏ cây Dó để làm giấy mà tôi cứ đứng nhìn mấy bà, mấy chị thao tác mà không chán mắt. Và nhớ nhất là cái " xưởng nước mắm " nơi cả tuổi thơ tôi gắn bó với nó. Nó không hẳn là xưởng làm nước mắm đâu bác Trongc6 ạ. Nó có tên là " Xưởng chế biến thực phẩm xuất khẩu " nhưng nhiệm vụ làm Lạp xưởng xuất khẩu là phụ mà chủ yếu là làm ruốc, làm Magi, nước mắm cô đặc phục vụ chiến trường là chủ yếu...
Con đường làng lát nghiêng gạch chỉ, bóng học sinh đầu đội mũ rơm, tay xách lọ mực nhựa vui đến trường trong tiếng gầm rú của máy bay Mỹ...mãi vẫn đọng lại trong tâm trí biết bao thế hệ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: smilingmen trong 04 Tháng Sáu, 2009, 03:47:11 pm
Thật may là trong cuộc sống nhanh đến chóng mặt, không đủ cả thời gian để đọc hết mail mỗi ngày (nhưng vẫn có thời gian cho quansu :), vẫn có chỗ để hổi tưởng lại thời thơ ấu mà ai cũng đã từng trải qua. Có vẻ như 30 năm trước của các bác ở HN cũng không khác mấy 20 năm trước của thế hệ tụi em ở các tỉnh miền núi. Nhắc tới kỷ niệm lại thấy thời gian trôi nhanh quá. Mà không biết với các em, các cháu 9x, 10x bây giờ thì sau này thời thơ ấu với chúng nó là gì?
À, nói các bác đừng cười, đọc nhưng cảm giác được mặc chiếc áo bộ đội như bác Trongc6 kể lại làm cháu nhớ đến những lần được mặc áo xanh tình nguyện. Cả trường cũng 2-3 trăm đơn TN để chọn lấy 20 người. Tiếc là những cảm giác ấy bị "hiện thực" lấy đi nhanh quá :-[ :)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: huynhat trong 07 Tháng Sáu, 2009, 07:25:13 pm
Cái vụ pháo đĩ này em có nghe qua, anh trai ông anh rể em tháng 4/1975 là trinh sát của cánh quân 232 tiến về SG. Sáng 26/4 anh cùng với các đồng đội trinh sát về ngồi uống nước ở sân nhà dân thì bị dính. Mấy anh em chết không toàn thây. Anh ấy tên Lai, nhà ở 14A Bà Triệu- HN. Bạn anh ấy là anh Vũ giờ là phó CN VP chính phủ. Giỗ anh lai năm nào anh Vũ cũng đến.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 07 Tháng Sáu, 2009, 09:53:54 pm
Cái vụ pháo đĩ này em có nghe qua, anh trai ông anh rể em tháng 4/1975 là trinh sát của cánh quân 232 tiến về SG. Sáng 26/4 anh cùng với các đồng đội trinh sát về ngồi uống nước ở sân nhà dân thì bị dính. Mấy anh em chết không toàn thây. Anh ấy tên Lai, nhà ở 14A Bà Triệu- HN. Bạn anh ấy là anh Vũ giờ là phó CN VP chính phủ. Giỗ anh lai năm nào anh Vũ cũng đến.

Cái này không kêu = pháo đĩ, mà kêu = pháo mồ côi


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 07 Tháng Sáu, 2009, 10:18:57 pm
      Pháo "đĩ" (hay pháo "điếm") là đặc điểm chỉ có ở bọn lính đồn trú miền biên cương, chủ yếu trên Cao nguyên. Nơi đó xung quanh vùng đồn trú chủ yếu là rừng núi, chỉ có VC đóng quân. Nó bắn cầm canh, bắn hú họa, bắn chơi, chỉ cần hướng về phía VC là được, không cần biết chính xác ở đâu, xa hay gần. Mà lỡ có rớt vào mấy cái Bản người Thượng theo VC nằm lẫn trong rừng cũng thây kệ.

      Ở đồng bằng thì xung quanh là có dân cư, đâu có bắn lung tung được. Và cái đặc điểm có "gái" lên thăm ngủ lại ban đêm với lính cũng chỉ phổ biến nơi tiền đồn thôi. Tụi lính Biệt động quân biên phòng (VNCH) là loại cực ẩu. Cũng chỉ có sắc lính đó mới hay gây lộn (như trả tiền ăn nhậu bằng lựu đạn) khi về lại mấy cái thị xã Cao nguyên thôi.
      (Đấy là nghe dân sau này họ kể)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Sáu, 2009, 06:25:36 pm
          …Những ngày hè 1971. Sinh hoạt và cuộc sống của người dân Thủ đô trôi qua bình lặng, im ả. Tất cả chỉ mới giống như cuộc hồi cư trở lại quê hương sau chiến tranh của một dân tộc nghèo. Chưa có cái gì gọi là tái thiết. Hà Nội vẫn giữ lại được mấy cái bãi di tích của ba quả bom máy bay Mỹ ném xuống các phố Huế, Mai Hắc Đế, Triệu Việt Vương trong một ngày hồi năm 1966 bằng cách quét dọn sạch sẽ đám gạch vỡ. Vẫn ăn độn bột mỳ, vẫn xếp hàng từ tờ mờ đất để mua gạo (nhiều khi chỉ được mua từng 5 cân, 10 cân một) và vẫn phải í ới gọi nhau rồi cắm đầu cắm cổ chạy ra chợ xếp hàng tranh nhau mua mớ rau muống ngọn dài tới nửa mét khi phát hiện có xe rau về…

               Có hai sự kiện đặc biệt. Một là bắt đầu phát thử nghiệm vô tuyến truyền hình. Chưa ai có máy thu, nhưng chúng tôi biết được nhờ những tối kéo nhau ra bờ hồ Hoàn Kiếm. Người ta đặt một cái máy thu hình to tướng chỗ cột đồng hồ trước cửa hiệu kem Hồng Vân, Long Vân. Cuộc phát thử nghiệm chỉ kéo dài chừng một tiếng. Hình đen trắng, ruồi muỗi (nhiễu) lấn át cả hình ảnh. Nhưng đôi lúc cũng nhận ra hình ảnh rõ nét. Người dân dừng xe đạp đứng cả dãy choán một phần đường. Xem vì nó lạ chứ lượng thông tin chả có gì.

               Sự kiện thứ hai là dịch sốt xuất huyết lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam, mà điểm nóng là Hà Nội, Hải Phòng. Hàng trăm người nhập Viện, dăm ca tử vong. Thế là đủ gây nên nỗi kinh hoàng. Xuất huyết ngoại, những chấm đỏ li ti mọc đầy lưng, tay chân thì còn cứu chữa được, ai mà lỡ uống thuốc hạ sốt, gây xuất huyết nội là nhiều khả năng đi tong.

               Nhưng cái không khí chiến trường thì lại ập rất rõ nét vào đám thanh niên, học sinh lứa tuổi 17, 18 chúng tôi. Các Tiểu khu đồng loạt gọi thanh niên khám sức khỏe NVQS. Chúng tôi bình thản vì đoán được con đường trước mắt chắc chắn là quân ngũ. Tiêu chuẩn không cao lắm và người ta còn xuê xoa nhiều thứ để đáp ứng sự háo hức vào lính của lớp thanh niên được giáo dục tử tế qua 10 năm ngồi trên ghế nhà trường XHCN, mang danh thanh niên thời đại HCM.

               Lúc đi khám sức khỏe nhập ngũ, mọi tiêu chuẩn của tôi đều đạt, chỉ mỗi trọng lượng là thiếu một chút. Chuẩn mực là 44 kg trở lên, trong khi tôi mới được có 43,5 kg. Nhưng không hề gì. Ông bác sĩ bậc tuổi cha chú có vẻ mặt nhân hậu tươi cười vỗ vai tôi:

               - Tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, xin "biếu" đồng chí nửa cân thịt.

               Rồi ông ghi vào phiếu sức khỏe của tôi con số 44 kg.
 
               Đến tháng 8 thì có kết quả. Tôi nhận được giấy gọi đại học cùng lúc với giấy gọi nhập ngũ. Ngày nhập trường đại học là 15/9, nhưng giấy gọi vào lính là 24/8. Cái giấy sau được ưu tiên thực hiện trước. Lớp 10 thân yêu của tôi có 22 thằng con trai thì có 17 đứa có giấy gọi nhập ngũ. Những đứa còn lại thì hoặc là con một, hoặc là con liệt sĩ, nên không phải đi. Một thằng đeo kính cận 1 diop cũng bị loại. Lúc đó người ta còn coi trọng chất lượng, cần những thằng biết "nhìn xa trông rộng". Đi lính khi đó tất nhiên là niềm vinh dự, đừng tưởng ai muốn đi cũng được đâu. Lớp tôi còn có thằng Trường (thằng này là anh ruột ca sĩ-nghệ sĩ Hồng Kỳ của nhà hát Tuổi trẻ sau này đấy) học giỏi nhất lớp, sức khỏe dư thừa song do tiền bối "dẫm nhầm giày quốc tế" nên không được vào đại học, mà tức khí xin đi lính (viết đơn bằng máu thật hẳn hoi) cũng không được chấp nhận.
 
               "Nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực". Đó là ý chí của bọn thanh niên chúng tôi khi đón chờ ngày vào lính. Tất nhiên bao giờ cũng có ngoại lệ. (... Tôi xóa đoạn này cho phù hợp với nguồn tin của bác PhongQuang. Xin tạ lỗi và nghiêng mình trước vong linh Hồng Quang, người đồng chí đồng ngũ đã hy sinh nơi chiến trường Trị Thiên.)

               Trước ngày chúng tôi nhập ngũ một tuần, miền Bắc mưa trắng đất mấy ngày liền, tưởng như có cơn hồng thủy trong chuyện cổ tích. Đê sông Đuống vỡ. Cả một vùng thôn quê miền kinh Bắc ngập chìm trong nước. Sông Đáy (khi đó còn sâu, lúc thường chảy trong xanh hiền hòa đem cảm hứng cho các nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác…) cũng dâng nước ngập lút đầu người suốt vùng Quốc Oai, Hoài Đức… Con đê quai kéo từ Cầu giấy về qua Ô chợ Dừa, Kim Liên, Ô Đông Mác được đắp cao, chuẩn bị xả nước ngập các vùng Vọng, Ngã Tư  Sở … để cứu nội thành Hà Nội. Nhiều vùng dân cư trở thành ốc đảo. Nhà nước phải cho máy bay chở bánh mỳ đựng trong các túi ni-lon đem thả cứu dân. Thế mới có chuyện "chó đội nón" là xuất phát từ vụ lụt thế kỷ đó đấy.

               Vậy là ngày nhập ngũ của chúng tôi lùi lại. Đã có đợt tòng quân nào mà thanh niên nhận tới hai giấy gọi nhập ngũ liên tục như chúng tôi đâu.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 09 Tháng Sáu, 2009, 07:18:47 pm
@trongc6: Chuyện anh lính họ Võ không như bác nói đâu, Võ Hồng Quang hiện đang nằm ở nghĩa trang đường 9, ở khu mộ của các liệt sĩ quê Quảng Bình. Anh là lính f304 hy sinh trong trận giải phóng Đông Hà ngày 12/4/1972. Tôi đã tìm hiểu kỹ việc này và cảm phục vị tổng tư lệnh của chúng ta Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.
Tôi đã chụp mộ Võ Hồng Quang và đăng bên : Sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước_ Tư liệu về đoàn Phong Quảng


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: khanhhuyen trong 09 Tháng Sáu, 2009, 08:01:37 pm
"Cái nhà 3 tầng kia tôi chỉ bắn cho 3 phát B40 là đổ sập". Hãi quá, và buồn nữa vì anh ấy lại lấy ngôi trường thân yêu của chúng tôi làm ví dụ mục tiêu. Nhưng cũng buồn ít thôi, vì chúng tôi nghĩ anh ấy đi đánh giặc từ rất sớm, chắc không kịp học hành gì.

Bác Trọngc6,em nghĩ bác đừng lồng những xuy nghĩ của một người từng trải,thì câu chuyện sẽ hấp dẫn hơn.Tuổi trẻ,mới lớn của học trò mỗi ước mơ đều bị cuốn hút theo hiện trạng của thời cuộc.Cái thời của bác,của cha em và đến cuối cái thời của em nó gần giống nhau.Chỉ cần có những xuy nghĩ không phải,hay ích kỷ đã tự thấy sấu hổ rồi bác ạ.....làm gì có ai nghĩ hãi quá và buồn,em giám chắc là mọi người rất khoái,khi thấy khí thế của ta mạnh mẽ như chẻ tre,theo cách tuyên truyền lúc bấy giờ.Và trong đầu lũ học trò trong trắng ấy,cũng có thể có người nghĩ cái nhà 3 tầng đó đổ như thế nào theo sự tưởng tượng.Nhưng nghĩ liệu có ai phải chết vì cái nhà ấy đổ không? theo em,có lẽ là không? thế mới gọi là cái tuổi mới lớn,của cái thời học trò thời ấy nó như vậy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Sáu, 2009, 08:34:25 pm
@bác Phong Quảng:

        Tôi đã sửa lại bài viết sau khi nhận nguồn tin của bác. Có điều hơi phân vân. Sau cái buổi chiều có cái xe Com-mang-ca lên đón anh ấy từ doanh trại tiểu đoàn về HN, anh ấy không quay lại đơn vị. Đầu tháng 4/1972 chúng tôi cũng mới hành quân vào tới chiến trường, thế thì anh ấy đi đường nào vào chiến trường để kịp đánh trận giải phóng Đông Hà ấy.

        Nhưng thông tin bác nói chắc chính xác, và chắc không có chuyện có hai người giống nhau.

        Cảm ơn bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 09 Tháng Sáu, 2009, 09:16:30 pm
@Bác Trongc6: năm ngoái tôi vào đường 9 và chụp ảnh mộ Võ Hồng Quang, về Hà Nội tôi có hỏi con gái Đại tướng :chị Võ Hạnh Phúc và đó là sự thật bác ạ, không có Võ Hồng Quang nào khác. Còn trên bia mộ cũng đã rõ mà  Quê : Lệ Thủy, Quảng Bình. Trú quán : 43 Hàng Chuối Hà Nội.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 12 Tháng Sáu, 2009, 09:48:12 pm
       … Lũ rút, nước cạn, đường khô là chúng tôi nhận tiếp luôn giấy gọi nhập ngũ (4/9/1971). Lần này chỉ trước có 3 ngày. Thế cũng đủ vì chỉ phải chuẩn bị tại nhà. Nhà trường và tổ dân phố thì đã tổ chức tiễn chúng tôi từ tháng trước với đủ lời dặn dò rồi. Lúc làm lễ chia tay tại trường cấp III mới lộ ra mấy cặp hẹn hò. Những thằng đơn độc như tôi được chi đoàn tặng một cuốn sổ tay, có ảnh bác Hồ. Còn mấy thằng có bạn gái thì chắc là thêm lắm thứ linh tinh khác. Tôi cũng say cái máu "sa trường" nên dứt khoát không hẹn hò ai, để cho lòng thanh thản. (Thật ra có đứa quái nào nó yêu mình đâu? Hoặc giả là nó yêu thầm mà mình không biết, song tôi không bận tâm, lòng dửng dưng).

         Tranh thủ còn thời gian, tôi đến thăm bà ngoại. Bà ngoại tôi cứ dặn đi dặn lại một câu:

         - Nếu ở bộ đội, người ta có yêu cầu lên lấp lỗ châu mai, thì đừng có mà xung phong, cháu nhé.

         Chả là bà ngoại tôi có một người con trai lớn, mà tôi gọi là cậu ruột, đã hy sinh trên chiến trường Điện Biên Phủ. Khi đó cậu tôi là Đại đội trưởng pháo phòng không của Đại đoàn 308, hy sinh lúc 26 tuổi. Nếu tôi cũng hy sinh, thì tình cảnh của mẹ tôi sẽ y hệt như bà ngoại tôi, vì tôi cũng có một chị gái.

      (Còn chuyện tại sao bà ngoại tôi lại biết đến cái chuyện lấp lỗ châu mai. Đó là do năm 1965, kỷ niệm 10 năm giải phóng Điện Biên, trong một tập hồi ký nào đó có kể câu chuyện đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm một đơn vị bộ đội trước ngày chiến dịch ĐBP. Trong chuyện có tình tiết khi hạ quyết tâm ra trận, CTV hỏi: "Ai xung phong ôm bộc phá lên đánh hàng rào?". Cả đơn vị đồng thanh giơ tay hô: "Tôi!". Sau đó CTV lại hỏi: "Ai xung phong lên lấp lỗ châu mai?". Cả đơn vị lại giơ tay đồng thanh hô: "Tôi!".
 
         Chính câu chuyện đó đã ăn vào tâm trí bà ngoại tôi, vì dù là phụ nữ, bà cũng biết rằng lên lấp lỗ châu mai thì chắc chắn sẽ là liệt sĩ).


        Một ông chú, em rể của mẹ tôi, vốn là một chính trị viên Tiểu đoàn trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nay đã chuyển ngành, thì dặn tôi một câu, đầy chất chính trị:

          - Cháu đi bộ đội, dù có gian khổ, hy sinh đến mấy cũng nhất quyết không được đảo ngũ, làm mất danh dự gia đình.

          Vậy thì con đường đi vào quân ngũ của tôi đã xác định rõ hướng, đúng như sau này CTV đại đội huấn luyện của tôi nói: " bộ đội chỉ có tiến, không có lùi".

               Đợt chúng tôi đi có đủ cả thanh niên 4 khu nội thành và 4 huyện ngoại thành (Khi đó không gọi quận, mà gọi là khu phố). Đi theo diện địa phương quản lý. Hai ngày sau (6/9/1971) cũng có đợt tòng quân tại Hà Nội, nhưng là sinh viên năm đầu của các trường Đại học. Cũng đến hơn nghìn người, bổ sung thẳng cho các sư chủ lực. Anh Thạc "Mãi mãi tuổi 20" đi trong số này.

               Dân khu phố chúng tôi đi có đến gần hai nghìn đứa, vào thẳng trung đoàn 1867 (D59) thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô (tư lệnh: trung tướng Chu Duy Kính) quản lý. Mỗi khu phố một điểm giao nhận quân. Tôi thuộc khu Đống Đa, tập trung tại rạp chiếu phim Đống Đa ở phố Thái Thịnh bây giờ. Đọc tên xong ra xe, ô-tô chở thẳng chúng tôi vào Đại Mỗ (Hà Đông).

          Trưa 4/9/1971 bắt đầu ăn bữa cơm lính đầu tiên. Tất cả nghỉ nhờ nhà dân. Chúng tôi nhận mặt A trưởng, rồi sau đó cứ bám vào đấy như lũ gà con theo mẹ cho khỏi lạc. Rồi hỏi han tên nhau trong A, cặp từng hai ba thằng cho có bạn. Cứ thấy ông nào mặc quân phục là gọi thủ trưởng tất.

              Ba ngày đầu liên tục học chính trị. Tối sinh hoạt, thời gian khép kín. Ở nhờ nhà dân, chưa quen rõ hết nhau, lại mặc đồ dân sự nên quản lý cũng không chặt lắm. Thế cho nên sau 9 giờ tối, nhiều thằng vẫn chuồn về được nhà (bạn chúng nó mang xe đạp đến đón) rồi sáng sớm hôm sau trước giờ báo thức lại có mặt ở nhà dân.
...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: songvedem trong 13 Tháng Sáu, 2009, 02:37:32 pm

      Ở đồng bằng thì xung quanh là có dân cư, đâu có bắn lung tung được. Và cái đặc điểm có "gái" lên thăm ngủ lại ban đêm với lính cũng chỉ phổ biến nơi tiền đồn thôi. Tụi lính Biệt động quân biên phòng (VNCH) là loại cực ẩu. Cũng chỉ có sắc lính đó mới hay gây lộn (như trả tiền ăn nhậu bằng lựu đạn) khi về lại mấy cái thị xã Cao nguyên thôi.
      (Đấy là nghe dân sau này họ kể)

-----------
Xem mấy cái diễn đàn VNCH thấy cũng có nói vụ Biệt Động Quân quậy. Theo họ thì một trong những lý do BDQ quậy là vì đây là sắc lính khổ nhất trong đám tinh nhuệ. Dù và Thủy Quân Lục chiến có sư đoàn riêng, có hỗ trợ riêng còn Biệt Động thì thường bị mang đi cho "mượn", bị xài cho bõ công mượn, bị đẩy vào chỗ khó nhất mà k được hỗ trỡ về phương tiện nên quậy và cùn lắm.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 17 Tháng Sáu, 2009, 05:50:09 pm
        … Chiều ngày thứ ba, chúng tôi được phát quân trang. Có 3 cỡ số, nhưng lính tráng toàn thuộc loại nhỏ con nên chỉ số 2 và 3 là phù hợp. Thằng nào vớ phải số 1 thì như mặc áo phường tuồng. Nhưng không có đăng ký lựa chọn gì, ai vớ phải ba lô có cái nào dùng cái đó. Ba lô là của Việt Nam, còn quần áo là màu cứt ngựa, vải dày nhưng nhẽo nhèo nhèo, nghe nói của Triều Tiên viện trợ. Chiều đấy mặc quân phục vào nhìn nhau lạ lắm. Nhìn sau lưng ai cũng giống ai, chưa quen phân biệt dáng dấp riêng. Một hai hôm sau mới thấy bình thường.

             Thêm được một ngày nữa làm công tác chuẩn bị. Buổi tối, đơn vị phổ biến lệnh hành quân. Chưa phát súng nhưng mỗi thằng được phát ruộng tượng và 5 cân gạo. Khi đó phát cả chiếu cói cá nhân.

              Sáng ngày thứ năm, cả đơn vị lên đường hành quân, nhằm hướng Thị xã Hòa Bình thẳng tiến. Đội hình là đại đội, nhưng mọi thứ nhất nhất theo lời A trưởng. Chưa quen đi nên ai cũng mỏi mệt. Mỗi tiếng giải lao 10 phút, cứ thế mà làm. Dọc đường đi lên Quốc Oai còn thấy ngấn bùn đọng cao trên hàng cây to ven đường, dấu tích của trận lụt vừa qua.

               Vị trí tập kết mới là Bãi Nai thuộc Kỳ Sơn, Hòa Bình. Từ Đại Mỗ lên đó cỡ bảy chục cây số, chia làm 3 ngày đi đường. Tôi được cử vào đoàn tiền trạm của một chặng, lếch thếch theo một anh B phó hành quân, đi trước đội hình đơn vị một ngày. Tới trước nơi mà đơn vị sẽ định trú quân, tập làm mọi thứ để giao dịch với dân.

               Tôi rất có ấn tượng với một xã thuộc huyện Quốc Oai, Hà Tây ấy. Trong xã hầu như không có thanh niên. Trung niên cũng lác đác, còn đa phần là phụ nữ. Xã đội trưởng cũng là phụ nữ. Về lý thì họ tiếp nhận, giúp chúng tôi phân chia địa bàn vào các xóm, còn hỏi nghỉ nhờ một đêm ở nhà ai thì chúng tôi phải tự đi hỏi. Mang tiếng là bộ đội, nhưng chúng tôi bỡ ngỡ và ngờ nghệch lắm. Toàn chào người nhiều tuổi là mẹ, xưng con, còn với các nữ dân quân thì gọi là đồng chí. Ban đầu cứ nhấm nha nhấm nhẳn với các nữ dân quân, lúc thì đồng chí, khi anh em, mãi gần tiếng đồng hồ mà chưa hỏi được mấy nhà có chỗ cho nghỉ. Cái khó không phải là mái hiên, mảnh vườn, mà khi đó chúng tôi yêu cầu có chỗ nằm trong nhà, lại còn xin dân củi nước nấu cơm nhờ nữa kia. Lính Hà Nội không quen nấu cơm bằng rạ, muốn xin củi cơ, mà đồng bằng khó kiếm (dân Hà Nội khi đó còn phải mua than hay củi định lượng theo phiếu hàng tháng. Tôi nhớ mỗi kỳ bão là bọn thanh niên rủ nhau ban đêm vác dao đi lượm cành khô hoặc chặt cành cây đổ do bão về làm củi. Khi đó có cây đổ, chả đợi đến Công ty Công viên-cây xanh như bây giờ, dân tự dọn hết, sáng ra là đã đường thông hè thoáng rồi. Mà gỗ xà cừ, chặt tươi còn dễ, đem về để khô mới chặt, chẻ thì vất lắm).

               Đi lại loanh quanh mãi mà kết quả không bao nhiêu, tôi tách ra ngồi bệt xuống cạnh một cái rào duối để nghỉ, bụng nghĩ thây kệ, muốn ra sao thì ra. Dùng rạ nấu cơm mà không xong thì tất cả nhịn. Nhưng may quá, lần đầu tiên tôi biết thế nào là "thánh nhân đãi kẻ khù khờ". Hai vị thánh của tôi xuất hiện. Đó là hai cô bé chỉ độ 13, 14 tuổi. Chúng nhìn thấy tôi là ngồi luôn xuống bên cạnh hỏi chuyện, cực kỳ mộc mạc và chân thật. Tôi được phong lên hàng "chú" bộ đội, mặc dù về tuổi xét ra chúng là em, kém tôi chỉ 4, 5 tuổi. Nghe tôi kể khổ, chúng nghe và không ngần ngại kể cho tôi biết trong xóm nhà nào dễ, nhà nào khó, nhà nào có thể cho bộ đội củi nấu cơm. Rồi chúng hăm hở dẫn tôi đi. Hơn nửa tiếng sau thì tôi đã hỏi nhờ được đủ số nhà dân cho trung đội nghỉ nhờ.  Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên trong lính như vậy đó.

              Ôi, các cô bé gái tuổi niên thiếu. Đủ độ để hiểu việc mà lại rất thực, không dấm dẳn à ơi như các "chị" mười tám đôi mươi, tán gẫu thì vui mà đụng vào việc nào là hỏng việc ấy. Các em là những người thày thực tế đầu tiên đã làm cho anh hiểu thêm tâm lý con người. Cái này nhà trường đâu có dạy. Từ đó về sau, khi đóng quân nhà dân, bao giờ tôi cũng tìm cách làm thân với những em gái 13, 14 tuổi, và bao giờ cũng được việc khi muốn tìm hiểu tình hình xóm làng.

   (Sau này tôi có đúc rút kinh nghiệm vả kể lại rất nhiều trường hợp, rất tỉ mỉ cho một thằng bạn làm bên ngành giáo dục, đến nỗi thằng này chọn đó làm đề tài nghiên cứu tâm lý và thu về được một cái bằng Tiến sĩ, cũng hỉ hả như ai).



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 18 Tháng Sáu, 2009, 09:41:45 am
@Trongc6 :Loại vải chéo của Triều Tiên giặt vài lần là bạc trắng, trông " từng trải" lắm phải không bác ???
 Còn chuyện với các bé gái 14 tuổi, khi tiếp xúc chẳng cần rào đón vì vốn nó đã trong sáng, minh bạch không như mấy cô 18 đong đưa chả biết đằng nào mà lần >:(


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 18 Tháng Sáu, 2009, 06:14:33 pm
Bác trongC6! Thật mến bác! Mời bác ly Lavie đồng ngũ tuy không đồng niên.
Thời gian do bác chọn! Kính!   ;D ;D ;D

 ;D ;D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trinhsat trong 21 Tháng Sáu, 2009, 10:11:59 am
    Đây là những dòng cuối cùng trong hồi ức "Biên giới Tây Nam" của bác TS1.

"...Cuộc đời có những ngã ba. Dẫu vẫn đi lối mình đã chọn nhưng vẫn có phần tò mò về cái ngả rẽ kia. Nếu ta đi lối đó thì sao nhỉ ?"
------------
     Nếu bác TS1 rẽ sang lối đó nhỉ. Bác có bao giờ tưởng tượng đến viễn cảnh của lối rẽ đó không? Tôi thì tôi tin, nếu bác có rẽ sang ngả đỏ, bây giờ vẫn có "Biên giới Tây Nam" của bác trong trang QSVN. Bởi vì bản chất con người không bao giờ thay đổi. Chỉ có biểu hiện phản ảnh trạng thái con người là có thể khác thôi.

     Bác là Sherlock Home của VN thì dù thế nào, bác vẫn là như thế.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 21 Tháng Sáu, 2009, 10:30:57 am
@bác Phong Quảng:

    Từ mấy lời góp chuyện của bác, tôi đã nhận ra bác là người cùng trang lứa.
Bác nhận xét rất đúng về các điều tôi "hồi ức..." Lính HN thời ấy nó thế mà.

    Đợt nhập ngũ của bác có nhiều người ở lại xây dựng quân đội lâu dài không?
Đợt 4.9.71 bọn tôi hầu hết ra quân 1976, 1977. Có dăm vị ở lại, lên đến thiếu tá hay đại úy rồi cũng về. Duy có 3 người lên đến đại tá. 2 vị trong đó đã về hưu, còn 1 vị đang làm thư ký cho Sếp nhất BQP.

   P/s: Xem bên Offline QKTĐ, thấy cái vụ Off ba ba vừa rồi của bác ấm cúng lắm. Lão TS1 tường thuật lại hóm phết. Tôi rất muốn off với các bác, nhưng không uống được rượu bia, sợ các bác mất hứng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 21 Tháng Sáu, 2009, 10:54:42 am
@Bác Trongc6: Đợt bọn tôi khá đông nhưng số anh em ở đơn vị chiến đấu với tôi thì cũng rứa năm 76,77 là ra quân hết ( lính HN ). Đợt bác có một đại tá làm ở văn phòng BTTM tôi có biết, ngày xưa thân nhưng bây giờ không thân nữa, chắc là trong 3 đại tá này ??
Nếu bác rỗi rãi thì anh em mình gặp nhau đâu cần phải biết uống rượu.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 22 Tháng Sáu, 2009, 09:19:39 pm
      … Chiều ngày hành quân thứ ba thì chúng tôi đến Bãi Nai. Chỗ này còn cách thị xã Hòa Bình 10 cây số nữa. Rẽ phải vào một đoạn thì gặp một con suối. Lòng suối rộng, nước nông và trong, gập ghềnh toàn đá sỏi. Suối này xe ô tô qua lại vô tư, không phải bắc cầu hay làm đường.

              Qua suối phải đi thêm 7 cây số, qua 2 cái bản rồi mới đến địa danh gọi là dốc Bụt. Lại qua một con suối nhỏ nhưng khá sâu nữa thì lên đến doanh trại. Lán trại đã có sẵn từ đợt huấn luyện tân binh trước. Địa hình rất dốc, các lán phải làm kiểu nửa nhà sàn. Chỗ bằng phẳng do lính san ra không rộng hơn cái chiếu là mấy. Sạp nằm bằng nứa dài đủ sáu bảy người nằm. Mỗi A vào một gian lán. Cuộc sống bộ đội bắt đầu.
 
               Liên tục mấy ngày đầu phải đi gùi lương thực thực phẩm, súng ống … từ mãi ngoài BCH Trung đoàn ở khu suối cạn. Rồi cả D được thịt một con trâu khao lính. Sau đó thì học chính trị, học 10 lời thề, kỷ luật quân đội …

               Hưởng trận mưa rừng đầu tiên, cả đơn bị ngồi bó giò trong lán. Chỉ khổ thằng đi lấy cơm. Nhưng mưa này là mưa rừng miền Bắc, chả thấm vào đâu so với mưa rừng Trường Sơn sau này. Tối nào cũng sinh hoạt, học hát các bài quy định và tự hát "sinh hoạt văn nghệ" cho có không khí.

              Sau tuần đầu tiên thì đơn vị bắt đầu có lính "tút". Lần đầu tiên nghe từ "đảo ngũ". Cho đến bây giờ nói quen miệng thôi chứ thật tình tôi vẫn chưa hiểu "bác" nào trên cục Quân huấn hay Cục chính trị sáng tác ra cái từ này. Xem truyện của Liên xô thời Chiến tranh vệ quốc, thì những ai bỏ đơn vị không tham gia chiến đấu gọi là "đào ngũ", còn chạy sang đầu hàng địch gọi là phản bội. Cái từ "đảo" này chả biết Hán ngữ hay Nôm ngữ, nhưng từ quan to đến lính đều gọi quen mồm thế chứ chưa ai giải thích được rõ ràng. Tóm lại vẫn là theo qui tắc số đông.

               Đợt tôi nhập ngũ, tuy là lính khu phố, nhưng vẫn phân ra hai loại. Số ít là những thằng vừa học xong lớp 10 phổ thông (đã có giấy gọi đại học hoặc không), còn đa phần là dân tự do, công nhân hoặc chưa có việc gì làm. Tuy là lính mới mà vẫn có trò bắt nạt nhau. Những thằng vô công rồi nghề  lúc ở nhà tỏ ra gấu nhất. Thằng Th."mốc" (bây giờ là thương binh, cầm đầu một số anh em thương binh nặng-mất từ 2 chi trở lên- lập nhóm chuyên đòi nợ thuê trong dân sự) có cái mũi đỏ to còn hơn của nghệ sĩ Quang Thắng bây giờ, hay trợn mắt dọa bọn tôi: "Chúng mày có đi lính, chẳng qua đi nghĩa vụ, gọi mới đi, chứ tao đây còn tự nguyện viết đơn xin ra tù để đi lính cơ". Chả là thằng này lúc ở nhà chuyên "giạt vòm", trộm cắp. Trước ngày nhập ngũ nó bị bắt vì tội đánh nhau hay móc túi gì đó, gia đình phải bảo lãnh cho ra để kịp ngày đi bộ đội. Nhưng cái vẻ hung hăng của nó làm khối người sợ. Vào dốc Bụt được một tuần, nó rủ năm sáu thằng đảo ngũ. Chúng nó không trở ra lối suối cạn, mà hỏi đường dân rồi đi sâu vào trong dốc Bụt rồi tìm lối tắt ra quốc lộ 6. Một tuần sau chúng nó lên đơn vị, bị bắt gác đêm và học thuộc 10 lời thề QĐ. Nghe chúng nó kể, lần đầu tiên tôi biết đến đơn vị đo chiều dài của người dân tộc là "một quãng dao". Cả bọn suy diễn, đứa bảo là "một con dao quăng", đứa bảo là "một tay dao". Xem ra thì "một tay xách dao" đúng hơn, vì xách mỏi tay thì nó đổi tay xách, quãng đường tương ứng rất dài chứ "một quăng dao" thì may lắm chỉ vài chục mét là cùng.
….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 22 Tháng Sáu, 2009, 09:54:00 pm
@Trongc6: Chuyện bác kể làm tôi lại nhớ thời huấn luyện. Tôi có ở Bãi Nai vài hôm nhận quân trang sau đó hành quân đi Tân Lạc. Cảm giác của tôi từ Bãi Nai đến thị xã Hòa Bình ít nhất cũng gần 20 km. Tôi còn nhớ buổi đầu hành quân từ Bãi Nai đến Trăm mất một ngày đấy.
Bác mà rỗi, hôm nào ta lên thăm lại chỗ huấn luyện xưa,  37,38 năm rồi còn gì...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 23 Tháng Sáu, 2009, 07:56:58 am
@Trongc6: Chuyện bác kể làm tôi lại nhớ thời huấn luyện. Tôi có ở Bãi Nai vài hôm nhận quân trang sau đó hành quân đi Tân Lạc. Cảm giác của tôi từ Bãi Nai đến thị xã Hòa Bình ít nhất cũng gần 20 km. Tôi còn nhớ buổi đầu hành quân từ Bãi Nai đến Trăm mất một ngày đấy.
Bác mà rỗi, hôm nào ta lên thăm lại chỗ huấn luyện xưa,  37,38 năm rồi còn gì...

@Bác Phong Quảng;
Bác cứ giữ cái ý định ấy nhé.
Khi nào em có khe cửa hẹp về thời gian, em sẽ rủ bác và vài bác cựu khác đi thăm lại nơi ta đã đeo quân hàm binh nhì.
Em cũng muốn có được khoảng chừng 10 giờ đồng hồ, để được sống lại thời "binh nhì ngu ngơ" , để quyên đi cái cuộc sống đen bạc này bây giờ, của em.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 23 Tháng Sáu, 2009, 09:41:13 am
@baoleo: đồng ý ngay !!!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 27 Tháng Sáu, 2009, 09:23:17 pm
        … Đợt nhập ngũ của chúng tôi quân đông quá. Cả đợt tới gần 1800 lính, mỗi A tới 17, 18 thằng nên ở rất chật chội, sinh hoạt có gì đó không ổn. Vì vậy gần một tháng sau, từ 2 tiểu đoàn 48, 50 được tách ra một tiểu đoàn nữa (D52). Tôi được sang D52, hành quân ra đóng quân ở cạnh một bản dân tộc Mường gần khu suối cạn. Chỗ này địa hình bằng phẳng, cả 4 B quây mặt vào một cái sân rộng đủ chỗ tập trung cho cả C. Chỉ khi đi sâu vào rừng mới phải leo dốc. Thao trường cũng là bãi đất bằng cách xa doanh trại nửa cây số. Chỗ tập đội ngũ theo từng B thì thoải mái, rộng rãi, chả bù cho trong dốc Bụt.

             Thế là những ngày huấn luyện bắt đầu, Chúng tôi chỉ học 3 loại súng là AK, RPK và K63.
 
              Chuyện học đội ngũ, học bắn súng, ném lựu đạn, đánh bộc phá, hay đào công sự thì có lẽ nơi nào cũng như nhau trong toàn quân. Lúc đầu chưa quen, mệt và vất vả thì ai cũng như ai, rồi sẽ quen tất thôi. Có mấy điều gây ấn tượng với chúng tôi. Thứ nhất là được ăn nhiều hơn (tiêu chuẩn 1 tháng: 21kg gạo so với 13,5kg ở nhà và 2,4kg thịt so với 0,3kg ở nhà). Thứ hai là phải tập đi bộ và đeo nặng 20-25kg. C trưởng thông báo chúng tôi phải hành quân đủ 500 cây số thì mới được vào chiến trường chiến đấu.

              Đời tân binh có đủ mọi chuyện lạ, nhất là đối với lính học sinh chúng tôi.

              Đầu tiên là chuyện thằng Lương "vỗ vai". Thằng này vóc dáng bình thường thôi, nhưng rắn chắc. Nó chơi ghi-ta rất khá, lúc học sinh từng theo thày Văn Vượng ở khu Cửa Nam để học đàn. Nghe ngón vê đàn của nó thì thật mê li. (Cái trò âm nhạc thu hút lòng người ghê lắm. Bắc lính nào có ngón chơi đàn giắt lưng thì khi đóng quân nhà dân giao lưu, khối em chết). Khi đó thấy trong C có một số thằng hay gây gổ, thằng Lương khó chịu lắm. Cứ gặp thằng nào gây sự với mấy đứa thư sinh, nó lại gần thằng đó "vỗ vai" ghé tai nói nhỏ gì đó. Thế là sau giờ sinh hoạt tối, Lương lặng lẽ cùng thằng đó trốn ra thao trường (cách doanh trại chỉ độ 500 mét). Sau hơn nửa tiếng thấy hai thằng trở về, rồi từ hôm sau thấy thằng kia "dịu" hẳn đi. Mấy vụ như thế, chúng tôi tò mò rồi bí mật theo chân chúng nó trốn ra thao trường ban tối để xem. Thấy thằng Lương và đối phương chẳng nói chẳng rằng, xông vào nhau đấm túi bụi. Kết quả bao giờ cũng là thằng Lương thắng. Sau đó hai thằng đó lặng lẽ ra về. Cứ như vậy, thằng Lương "so găng" đến hơn chục vụ. Rồi anh em trong C cũng biết hết chuyện và nể nó ra mặt. Từ đó Lương có tên là Lương "vỗ vai", nhiều khi chúng tôi còn phong nó là "Lê Mã Lương". (bác này bây giờ làm nghề tự do, sửa TV có tiếng trong khu Đống Đa. Gần sáu chục tuổi rồi mà chiều nào bác ấy cũng chạy 2 vòng hồ công viên thống nhất, sau đó về giã gạo xà kép 2 chục chiếc vô tư, mặt không hề đỏ. Thanh niên khối đứa chạy dài không kịp).

              Rồi đến chuyện của mấy thằng bất trị. Một tối họp đại đội, CTV đứng trên bục thông báo: "Có đồng chí nào lấy trộm cái mũ cối tàu của C trưởng thì trả ngay. Đây là hành động trộm cắp lưu manh, không thể chấp nhận có trong bộ đội được…". Cả C im lặng. Nhiều thằng biết cái mũ cối ấy đã bị chuyển hóa thành kẹo dồi (kẹo lạc) ở quán nước ngoài suối cạn lúc sẩm tối, và đã chui vào bụng lính hết rồi, nhưng không đứa nào dám nói. Lên lớp về phẩm chất cần có của anh bộ đội cụ Hồ chán chê mà không có kết quả, CTV cho cuộc họp giải tán.

              Tối sau, chúng tôi lại họp C (Hơi bất thường). CTV lại đăng đàn. Lần này giọng nói của ông chùng xuống, nghe hơi run run. Ông bảo: "Hôm qua tôi vừa nhắc nhở chuyện cái mũ cối của C trưởng, tìm chưa ra, thế mà đêm qua đ/c nào đã lấy mất của tôi cái ca uống nước. Cái ca ấy không giá trị nhiều, nhưng là kỷ niệm tự tay tôi làm từ ống pháo sáng hồi chiến đấu bên Lào. Thôi, đ/c nào lỡ lấy thì cho tôi xin".

               CTV chỉ nói thế thôi, nhưng lần này lính tráng chúng tôi tỏ thái độ không đồng tình với kẻ bất thiện. Hai hôm sau, một buổi sáng sớm, CTV ra đánh răng đã nhìn thấy cái ca "pháo sáng" ngoắc trên cái ba chạc gác chậu đầu hè.

             Từ đó về sau, không ai còn chính thức nhắc đến cái mũ cối và cái ca trong các cuộc họp nữa.
….



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 28 Tháng Sáu, 2009, 09:28:41 am
 Đào ngũ:thời các bác có câu truyền đến bọn em .; Hà chuồn ,Nam lủi Thái bình bay
                                                              Hải phòng anh dũng trốn ban ngày
                                                              Thanh hóa mất mùa xin ở lại
                                                               Nghệ -tĩnh thấy thế cũng dơ tay
                                                            hà....hà....


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Bảy, 2009, 10:53:37 pm
        … Ngay từ tuần thứ hai ra khu doanh trại mới, chúng tôi đã phải tập hành quân mang vác. Phải tập đi những 500 cây số rèn luyện cơ mà. Mỗi thằng tự nặn 4 cục đất (sét), mỗi cục 5 ký lô. Mỗi tuần có hai buổi tối tập hành quân. Vất quân tư trang ra sạp trong lán rồi lấy nilon gói 4 cục đất cho vào ba lô. Buổi đó không phải sinh hoạt tối, đi ngay từ lúc 7 giờ. Mỗi tối đi chừng 10 cây số, sau tăng dần nhưng chỉ thêm độ một hai cây số. Đi và về một hướng nên nhiều thằng láu cá ra khỏi doanh trại một đoạn là giấu bớt một cục đất vào bụi, lúc trở về lại lấy ra cho vào ba lô, nên về đến doanh trại kiểm tra vẫn đủ. Về sau cán bộ B, C đổi chiến thuật, mỗi lần đi một hướng, sau đó là đi theo đường vòng tròn, xuất phát hướng Tây, nhưng về doanh trại lại vào theo hướng Đông nên nhiều thằng bị vạch mặt. Về sau, chúng tôi xác định nếu không tự rèn thì vào đến Trường Sơn mình tự chết trước, nên cái trò láu cá mất dần. Sau nữa, đơn vị lại thỉnh thoảng tổ chức đi dã ngọai xa vài chục cây nên có láu cá cũng không được.

             Chủ nhật, chúng tôi không được nghỉ mà phải vào rừng lấy củi. Ba thằng chung một con dao dựa, khoán mỗi thằng 20 ký. Thực chất mỗi chúng tôi chỉ chặt được một khúc to, chủ yếu là tươi, vác thấy nằng nặng là được. Cái điệp khúc này, lính Bắc chắc ai cũng gặp và cũng ngán. Chẳng qua đều là chặt cây rừng, trộm của dân. Có điều khi đó rừng chưa giao cho dân, lại mang tiếng bộ đội thời chiến nên đồng bào Mường không ai kiện cáo gì. Càng đợt lính sau càng phải đi xa, vào sâu hơn.

               Đến tháng thứ hai, chúng tôi được phép đón người nhà lên thăm. Có lán "nhà khách" dựng ngoài cổng doanh trại hẳn hoi. Vì hầu như chưa lính nào có vợ nên người nhà chỉ lên thăm một ngày. Cuối chiều về sớm để còn kịp ra Bãi Nai đón xe khách. Được chút bánh kẹo đem về lán chia nhau, chủ yếu trong tổ tam tam. Tiểu đội có 12 người nên không đủ chia cho tất cả. Tôi còn nhớ vụ mẹ thằng K. "con" lên thăm nó. Hôm ấy C phó Hảo trực nhà khách nên có ra tiếp mẹ nó. Ông Hảo (người Hà Tĩnh) 35 tuổi mà vẫn lẹt đẹt C phó, là người cao tuổi nhất đại đội, gọi thằng K. là em mà gọi mẹ nó cũng là em. Lính tráng phì cười, mãi sau mới rõ là ông ấy có lý. Mẹ thằng K năm ấy mới có 32 tuổi, sinh nó lúc chưa tròn 15 (!), mà thằng K năm đó cũng chưa đủ 18 tuổi. Nó bị trêu ghê quá tới mức viết thư về dặn mẹ nó đừng lên thăm nữa. Nó bé nhất A nên về sau ai có chút quà gì cũng chia cho nó, cho nó khỏi tủi thân. (Thằng này bây giờ chuyên bán gà làm sẵn ở chợ Vọng, người vẫn nhỏ con và tính vẫn tếu táo như ngày nào. Không ai dám bảo thằng này đã quá 50 tuổi).

               Trung đội tôi ở một khu đất quay sát vào một núi đất. sau lán có mấy rặng bương, vầu của dân. Trong đơn vị có anh Thanh, vốn là công nhân lâm nghiệp, 27 tuổi rồi, nhưng vì sao đó nên phải nhập ngũ cùng đợt chúng tôi. Anh ấy đã có vợ và con. Tính cởi mở nhưng không tếu. Chiều nào trước giờ cơm chiều anh ấy cũng ra sau lán bẻ bẹ vầu đun nước pha chè bồm trong cái ống bơ to. Bát nước chè chuyền tay nhau cho mấy thằng trong tiểu đội. Đôi khi anh ấy kể chuyện rừng, chuyện khai thác lâm nghiệp của xí nghiệp anh ấy. Tôi có cái hứng uống nước chè từ khi đó. (Sau này đến khi chúng tôi vào chiến trường thì anh ấy được giữ lại về làm thủ kho gì đó ở Bộ Tư lệnh thủ đô).

              Rồi lại chuyện thằng Khiêm (thằng này vào chiến trường có nhiều chuyện lắm, kể dần sau). Nó kiếm đâu được cái đài khuyếch đại thẳng tự lắp bằng ba bóng Tranzistor nghe được đài tiếng nói Việt Nam. Pin là tầng pin Vô tuyến cũ xin đâu đó, một cực cứ phải cắm bằng cái kim băng để lấy đúng điện áp nguồn. Tối nào nó cũng đem ra nghe từ 9 giờ tối cho đến 9 giờ 30 thì phải tắt để đi ngủ. Tôi nằm cạnh nó, được nghe ké nên cũng thấy đỡ nhớ nhà.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 01 Tháng Bảy, 2009, 11:52:04 pm
Đào ngũ:thời các bác có câu truyền đến bọn em .; Hà chuồn ,Nam lủi Thái bình bay
                                                              Hải phòng anh dũng trốn ban ngày
                                                              Thanh hóa mất mùa xin ở lại
                                                               Nghệ -tĩnh thấy thế cũng dơ tay
                                                            hà....hà....
hehe , đến thời của em câu này vẫn còn mà hình như cũng đúng vì ...SQ đa số là Thanh Hóa , Nghệ An  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 02 Tháng Bảy, 2009, 08:12:45 am
        … Ngay từ tuần thứ hai ra khu doanh trại mới, chúng tôi đã phải tập hành quân mang vác. Phải tập đi những 500 cây số rèn luyện cơ mà. Mỗi thằng tự nặn 4 cục đất (sét), mỗi cục 5 ký lô. ...................


Thời bọn em là 8 viên gạch.
Vì thế, bọn em tự nhật là có quân hàm cao nhất Việt Nam:  1 sao - 8 gạch  ;)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 02 Tháng Bảy, 2009, 02:04:51 pm
 ...Sỹ quan đa số là Thanh nghệ ...Lý do đơn giản thôi : thứ nhất:- dân Thanh ,Nghệ (nghệ an Hà tĩnh )vốn có truyền thống về lòng quả cảm ,ngàn xưa các vua chúa phong kiến Viẹt nam đều trông vào quân Thanh Nghệ "  Hoan Diẽn còn đó thập vạn binh""
    thứ hai :- Dân số Thanh Nghệ đông ,hiện nay vẫn chiếm khoảng 8/% dân số Việt nam nên lính Thanh Nghệ nhiều ,
 Câu ca cho vui chứ ở đâu chẳng có anh hùng ,tiểu nhân


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: finalfanta22283 trong 02 Tháng Bảy, 2009, 09:45:35 pm
@Trongc6: Chuyện bác kể làm tôi lại nhớ thời huấn luyện. Tôi có ở Bãi Nai vài hôm nhận quân trang sau đó hành quân đi Tân Lạc. Cảm giác của tôi từ Bãi Nai đến thị xã Hòa Bình ít nhất cũng gần 20 km. Tôi còn nhớ buổi đầu hành quân từ Bãi Nai đến Trăm mất một ngày đấy.
Bác mà rỗi, hôm nào ta lên thăm lại chỗ huấn luyện xưa,  37,38 năm rồi còn gì...

@Bác Phong Quảng;
Bác cứ giữ cái ý định ấy nhé.
Khi nào em có khe cửa hẹp về thời gian, em sẽ rủ bác và vài bác cựu khác đi thăm lại nơi ta đã đeo quân hàm binh nhì.
Em cũng muốn có được khoảng chừng 10 giờ đồng hồ, để được sống lại thời "binh nhì ngu ngơ" , để quyên đi cái cuộc sống đen bạc này bây giờ, của em.
bác baoleo àh, cháu như cảm thấy có cái gì đó nghèn nghẹn trong câu nói ấy của bác. Hay vì cháu đã cả nghĩ quá chăng? Cháu chúc bác và những con người đáng kính như bác không bao giờ phải dùng từ đen bạc để nói về cuộc đời này


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: MUCTAU trong 05 Tháng Bảy, 2009, 05:43:23 pm
TAI_LIENSON@...Sỹ quan đa số là Thanh nghệ ...Lý do đơn giản thôi : thứ nhất:- dân Thanh ,Nghệ (nghệ an Hà tĩnh )vốn có truyền thống về lòng quả cảm ,ngàn xưa các vua chúa phong kiến Viẹt nam đều trông vào quân Thanh Nghệ "  Hoan Diẽn còn đó thập vạn binh""
    thứ hai :- Dân số Thanh Nghệ đông ,hiện nay vẫn chiếm khoảng 8/% dân số Việt nam nên lính Thanh Nghệ nhiều ,
 Câu ca cho vui chứ ở đâu chẳng có anh hùng ,tiểu nhân
======================================================
 Em nhất trí với bác điểm này . Bổ sung thêm ý của lớp đàn em . Anh em khu 4 nói chung , sống ngiêm túc , chịu khó học hỏi . Cần  cù , tiết kiệm và có ý chí phấn đấu nên được cấp trên để ý , cất nhắc là điều đương nhiên . Còn ông nào dù cũ dù mới đã cùn thì cùn tận mạng . Em thích tính ''anh-em '' của lính khu 4 . Tiếc rằng ngoài đời hơi hiếm .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: danngoc trong 05 Tháng Bảy, 2009, 06:02:14 pm
Thì ở SG muốn sống ổn ta có thể mần đủ mọi thứ, ở khu 4 muốn sống được chỉ có con đường làm quan. Chọn lọc tự nhiên thôi mà bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 09 Tháng Bảy, 2009, 08:51:15 am
Ý kiến của MT @ và DN@ ddeuf đúng ,thiên nhiên khu 4 khắc nghiệt , con người phải có bản lĩnh để thích nghi , nhiều nhà nghiên cứu đã viết tôi không nhắc lại , ở dải đất này học để làm quan là con đường thoát khỏi đói nghèo , cho nên có thời Hà nội được coi là khu kinh tế mới cua dân Nghệ , người Nghệ ( Nghệ an Hà tĩnh ) đi ra làm ăn thành đạt  nhưng không hiểu vì sao về  quê lại không phát huy được ,có lẽ về quê bị "Xiết vô " thì phải


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: le010180 trong 09 Tháng Bảy, 2009, 09:14:05 am
Dân Nghệ Tĩnh đây ạ. "Em" không thích chốn quan trường nên sang Mỹ ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Bảy, 2009, 09:37:13 am

       Bây giờ đến chuyện làm giúp anh nuôi.

             Bốn anh nuôi trong C tôi vốn là lính thu dung của đợt D34, D36. Chúng nó nhập ngũ đợt hè 1970, trước chúng tôi hơn một năm. Khi đó, chúng nó được nhiều ưu đãi lắm, vì chưa phải cảnh tổng động viên. Đóng quân bên Đông Anh, cách nhà chỉ trên hai chục cây số, thằng nào mà chả tranh thủ "tút" về nhà vài lượt. Có khi chúng nó "tút" cả đám hơn chục thằng, về Hà Nội chơi vài ngày rồi lại nhập lên đơn vị vô tư. Kỷ luật khá lỏng lẻo. Đợt chúng nó chỉ gặp cảnh ăn bí ngô triền miên thay rau là xót ruột thôi, còn thì không có gì đáng phàn nàn. Lúc ấy, mỗi chiều thứ bảy, chủ nhật, thấy bọn lính mặc quân phục bạc màu, tay áo thả dài không cài khuy, quần chít ống mà giày cao cổ lại không thắt dây, thả bước vào quán Gió, quán Bốn mùa gọi cà phê, hút thuốc lá thả khói hình vòng tròn điệu nghệ thì thanh niên Hà Nội mê lắm.

              Cũng vì chiều quá nên lính tráng sinh hư. Sau tết năm 1971, chúng nó chuẩn bị vào Nam. Lính trung đoàn 1867 Bộ Tư lệnh thủ đô thường không bổ xung cho các sư chủ lực ở Bắc, mà hành quân theo đội hình đông vào bổ xung thẳng cho chiến trường. Cả tiểu đoàn sáu trăm con người lên cả một chuyến tàu hỏa ở ga Yên viên. Đợt đó chúng nó được phát ngay quân tư trang mới ở Đông Anh. Súng đạn cũng phát luôn, toàn Ak và lựu đạn chày. Toa hậu cần phía đầu tầu chất sẵn bánh kẹo, thuốc lá và nước ngọt. (Chủ yếu là si-rô thôi chứ chưa có bia). Lính mà được phát thuốc lá Tam đảo, Điện biên, có cả bao bạc hẳn hoi. Lúc đó ngay cả thời gian huấn luyện cũng chưa có lệ phát thuốc lá cho lính, vậy mà lúc đi B, chúng nó đầy đủ vậy. Nghe nói toàn đồ úy lạo của thành phố. (cái này nghe giống như chuyện úy lạo của nhân dân TQ cho các chiến sĩ Quân giải phóng ND TQ trong chiến dịch Thượng Cam Lĩnh bên Bắc Triều tiên hồi 1953 quá).

              Lên tàu là thuốc lá và bánh kẹo đã được phát tới tận tay lính. Tàu chạy chậm, lính tráng ngả ngiêng hát hò, trò chuyện. Sẩm tối thì qua cầu Long Biên. Cầu Long Biên khi đó đã bị máy bay Mỹ đánh sập mấy nhịp trong chiến tranh phá hoại, được sửa lại, nhưng chỉ được phần cầu, còn những dầm khung giằng thép mang dáng dấp đặc trưng của cây cầu thì không có (đến bây giờ cũng vẫn thế) nên tàu chạy chậm. Một thằng nào đó phởn chí chợt thò AK ra cửa sổ toa tàu nhả lên trời một loạt đạn. Thằng khác thấy thế cũng hưởng ứng góp một loạt. Thế là như phản ứng dây chuyền, lính ở các toa cùng thi nhau xả đạn lên trời. Chỉ huy đi cùng toa quát được thằng này, thì thằng ở góc kia bắn, cứ loạn cả lên. Trong cảnh láo nháo mà thằng lính nào cũng có súng đạn, tâm trạng đầy phấn khích thì chỉ có bó tay. Quá đáng hơn, một thằng rút lựu đạn giật nụ xòe rồi quăng xuống lòng sông. Tiếng nổ to và cột nước dựng lên gây ấn tượng hơn. Một thằng làm được thì thằng khác cũng làm được. Thế là mặt sông dọc cầu dậy lên tiếng nổ và cột nước. Chắc khi đó dưới sông không có tàu bè và thuyền đánh cá qua lại, nếu không hậu quả sẽ khôn lường. Bọn cá chết oan nổi lên mặt sông, chắc phải trôi cả cây số xuống dưới hạ lưu mới có người vớt.

               Tàu vào đến ga Long Biên thì tình hình mới tạm ổn. Lính tráng không dám bắn vào khu vực có dân. Chúng nó chỉ thò cổ ra ngoài toa hò hét om sòm. Tối rồi, đường Phùng Hưng cũng vắng vẻ nên không khí lịm dần.

               Vào Ga Hàng cỏ thì tàu dừng lại. Chắc các thủ trưởng cấp trên ở Bộ TLTĐ muốn dừng tàu để vào ga trấn chỉnh lính. Nhưng hình như quyết định này là sai lầm. Tàu dừng là lính tỏa xuống sân ga. Rồi lếch thếch cả ba-lô và súng đạn, từng tốp lính kéo nhau ra hai đầu đường sắt phía Khâm Thiên và phố Nguyễn Khuyến. Tốp thằng Luân phố Huế vừa ra đến gần cầu vượt phố Khâm thiên thì bị một đại uý  đứng chặn giữa đường tàu giang tay ngăn lại. Chẳng sợ chút nào, thằng Luân chỉ vào mặt người sĩ quan, hỏi anh em lính: "Lão này có phải thủ trưởng chúng ta không hả chúng mày?". Một thằng kêu to: "Cóc phải". Thế là chúng nó gạt ông sĩ quan ra rồi ào ào đi. Sức ngăn không lại, cũng không thể rút súng ra bắn (bọn thằng Luân khi đó cũng súng ống đầy mình), ông đại úy đành bất lực nhìn đám thằng Luân, rồi nhiều tốp lính khác tràn qua trước mặt.

               Đêm đó, cả tiểu đoàn lính, lớp ngủ lại sân ga, lớp ra công viên Thống Nhất chơi cả đêm, một số thằng về nhà ở gần. Đến sáng, chúng nó cũng lục đục trở lại tàu. Gần như đủ cả mới lạ chứ. Trời sáng rõ, đoàn tàu mới chuyển bánh rời ga.

              Nhưng như thế chưa phải là đã hết.
…….



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 16 Tháng Bảy, 2009, 09:27:27 pm
     ... Vượt khỏi ga Văn Điển là đã thấy rõ cảnh nông thôn vắng vẻ. Con đường quốc lộ 1 bé chỉ vừa hai xe tải tránh nhau chạy dọc theo đường sắt, chốc chốc mới có người. Trời se lạnh, chỉ thấy bóng nông dân xa xa trên ruộng. Đến gần Thường Tín thì gặp mấy em gái đèo nhau trên xe đạp đi cùng chiều. Thế là lính tráng thò cổ ra trêu, huýt sáo ầm ĩ. Các em e thẹn nghiêng nón che. Thế là một thằng nào đó túm ngay gói kẹo quăng xuống. Chưa kịp hiểu sao thì kẹo trên tàu ném xuống rào rào làm các em liêu xiêu suýt bẹp nón, ngã xe phải dừng lại. Hoảng hồn, nhưng số kẹo ném xuống chắc đủ cho trẻ con cả xóm liên hoan. Cứ như thế mà tiếp diễn kéo dài suốt dọc đường tiếp theo, không ai ngăn được. Có nhẽ đến gần Phủ lý mới không còn kẹo để ném xuống đường. Số lượng lính ăn chẳng bao nhiêu.

               Hết khôn dồn đến dại. Đoạn đường từ Phủ Lý đến Nam Định, lính tráng còn bắn bậy AK xuống ruộng. Có thằng bắn cả trâu của dân trên ruộng. Thật quá đội quân ô hợp.

              Có lẽ cái thông tin trên đã truyền về Bộ TLTĐ. Đến ga Núi Gôi thì tàu dừng. Cả mấy trăm lính có lệnh xuống tàu, hành quân mấy cây số vào một khu doanh trại ở đó. Có lệnh nộp súng vào kho. Đến hôm sau thì có một đoàn xe tải quân sự chạy vào. Lính tráng tập hợp xong, còn đang ngơ ngác thì thấy từng đám vệ binh vây quanh. Rồi có một thủ trưởng đọc lệnh bắt gần trăm thằng. Đọc tên thằng nào tống lên xe tải thằng đó, rồi trở về Hà Nội. Hơn dăm trăm thằng khác ở lại Ninh Bình học chính trị 3 ngày cho thấm nhuần tư tưởng rồi tiếp tục lên tàu đi B.

               Thằng Luân nằm trong đám bị  dẫn về Hà Nội, gộp vào đơn vị thu dung. Vài đứa đầu têu bị đưa về giam ở 33 Phạm Ngũ Lão. Số đông còn lại vừa cải tạo lao động, vừa học chính trị. Rồi sau đó chúng nó được chia nhỏ từng tốp về làm anh nuôi cho các đợt tân binh sau.

              Đấy là tiểu sử bốn thằng anh nuôi trong C huấn luyện bọn tôi. Chúng nó là lính cũ, chiến tích như thế nên khi nghe chúng nó kể lại, bọn tôi cũng hơi ngài ngại.

              Vào lính mới biết cái kiểu họp hành thường xuyên, rồi phát biểu dân chủ này nọ. Một lần khi họp góp ý anh nuôi, có một thằng phê bình anh nuôi nhặt rau không sạch, còn lẫn cả sợi cỏ.

              Hôm sau tôi được cử xuống giúp anh nuôi nấu cơm. Chỉ là bổ củi, nhặt rửa rau và bị sai vặt thôi. Vừa rửa xong mấy rổ rau to tướng, chưa kịp ngồi nghỉ thì thằng Th. "pi-tơ" anh nuôi quát tôi đi kiếm nắm rơm. Đem nắm rơm về, còn đang phân vân không biết làm gì thì thằng Th. giằng nắm rơm cho vào thớt chặt nhỏ ra rồi trộn luôn vào rổ rau tôi vừa rửa. Vừa trộn nó vừa lẩm bẩm: "Này thì lẫn cỏ này, rửa rau không sạch này…", rồi nó thản nhiên cho tất vào nồi luộc rau. Tôi sợ quá không dám nói gì. Bữa cơm ấy tôi được ăn cùng mấy thằng anh nuôi nên không dính rơm. Còn lính tráng trong C nhiều thằng dính rơm nhưng cũng sợ không dám kêu vì cũng đoán là bọn anh nuôi cố tình. Dây vào chúng nó chỉ dại. Bài học đầu tiên về dân chủ và cảnh ma cũ bắt nạt ma mới như thế đấy.

              Chúng tôi là đoàn tân binh thứ hai mà nhóm anh nuôi "thu dung" phục vụ. Sau này đến khi chúng tôi đi chiến trường thì cả 4 thằng anh nuôi cũng được biên chế vào cùng C để đi B như chúng tôi. Mấy năm chiến trường, chúng tôi lại sống chan hòa với nhau, không có chuyện gì xảy ra. Cả 4 thằng đều sống đến hết chiến tranh. Có một thằng là thương binh, về làm ở quận đội Đống đa mãi mới nghỉ. (Bây giờ nó mở một quán bán cơm phở ở gần cái quán 88 "Đồng đội" đường Tô Vĩnh Diện mà bác TS1 và các bác QKTĐ hay off đó).
……



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 17 Tháng Bảy, 2009, 08:19:10 am
Cái ông anh nuôi của bác bậy bạ quá!
Phản ứng cán bộ nhưng anh em phải chịu hậu quả
Đơn vị tôi thì chúng nó róc xác thằng đó ngay! :-\


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 19 Tháng Bảy, 2009, 03:06:29 pm
 Sau này lính quậy nhưng không đến nỗi như lính thu dung hồi đánh Mỹ , ở gần quê tôi có đoàn thu dung ,khi đó tôi còn bé mà nghe nhiều chuyện đến giờ vẫn không tưởng  tượng được , chuyện bác Trọng kể lính phá như vậy cũng quá thể,


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Midaxudavo trong 19 Tháng Bảy, 2009, 05:41:58 pm
Lính quậy như thế mà chỉ huy C  cũng chịu bó tay hay sao bác Trongc6?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 20 Tháng Bảy, 2009, 06:29:02 pm
         Lính D34, D36 phá phách thế nên đã bị tóm về thu dung cả trăm thằng đấy thôi. Lúc đi B chúng nó mới thế chứ khi huấn luyện thì cũng chưa đến nỗi nào.

         Mà cũng chỉ có đợt ấy thôi. Những đợt sau bị tống đi xa, lên Hòa Bình nên chỉ có chuyện lính "tút" thôi. Miễn là đủ quân số đi chiến trường là các thủ trưởng huấn luyện hoàn thành nhiệm vụ rồi.

       Còn chuyện các 'thủ trưởng anh nuôi" dằn mặt lính mới thì lần nào chả thế. Các thủ trưởng thật còn né tránh thì bọn tôi cũng chỉ biết im lặng. Chả lẽ đánh nhau à.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 23 Tháng Bảy, 2009, 05:59:41 pm
          … Trong đời chẳng có cái dại nào giống cái dại nào. May mắn đa phần là nhờ số phận.

               Sau lần đi bắn đạn thật bài 1, thằng Bắc "con" trong B tôi loay hoay xin được 3 viên đạn AK. Nó khoái chí lắm, cứ đến phiên gác là lại lắp 3 viên đạn đó vào băng. Nó bảo cầm súng có đạn khi gác đêm yên tâm lắm. Thực tình khi đó chúng tôi gác để tập thói quen rèn luyện là chính, chứ đào đâu ra địch. Kẻ gian thì cũng chẳng có ma nào mò lên cái xứ huấn luyện hẻo lánh này. (Từ doanh trại chúng tôi ra khu suối cạn rồi đến mấy cái quán nước bên đường số 6 cũng phải 2 cây số. Chỉ có khi đi lấy gạo, chúng tôi mới được ra đó, tranh thủ mà tạt vào quán. Tất cả tiền gia đình tiếp tế chỉ đổ vào mấy cái quán đó, mà chỉ có kẹo lạc dồi, thuốc lá quấn hay thuốc Lào. Một lần ghé vào bưu điện cạnh đó, tôi mua được cuốn truyện "Vi-chi-a Ma-lê-ép ở nhà và ở trường" của Liên-xô đem về doanh trại đọc cho nhớ lại thời còn học sinh mới chỉ cách đó nửa năm trời. Tưởng đỡ buồn nhưng càng đọc càng nhớ nhà, càng buồn thêm).

               Một đêm thằng Bắc "con" gác, tầm 10 giờ thì đại phó Hảo đi kiểm tra. Nó chờ ông ấy đến gần mới thỏ thẻ chào: "Thủ trưởng đi kiểm tra gác đấy ạ". Tưởng được khen, được động viên mấy câu, ai dè đại phó Hảo lên lớp cho một bài. Ông ấy cầm lấy súng của nó bảo: "Đồng chí phải đứng nép vào một góc khuất, thấy người đến bất kỳ ai phải chờ đến gần quát to, "ai! đứng lại, giơ tay lên", đồng thời lên quy lát chỉa thẳng súng vào đối phương như thế này này". Nghe ông ấy lên quy lát "roạt" một cái và chĩa súng vào mình, thằng Bắc "con" run như cầy sấy. Nó biết một viên đạn đã thực sự được lên nòng. Bây giờ mà ông ấy bóp cò "tạch" một cái là xong đời. Nhưng nó không dám kêu vì sợ ông ấy thu mất 3 viên đạn. May làm sao ông ấy đóng chốt an toàn rồi trả súng lại cho nó, qua kiểm tra vọng gác khác. Ông ấy đi xa rồi, thằng Bắc mới hoàn hồn. Không đến mức đái ra quần, nhưng mồ hôi ướt đầm, dù khi đó trời đã bắt đầu se lạnh. Sau lần đó, Bắc "con" chỉ bỏ đạn trong túi quần, không dám lắp đạn vào băng khi gác.

              Lính tráng mỗi thằng mỗi nghề, có ngón gì cũng đem theo vào lính. C tôi có thằng Thịnh người Lệ Mật, Gia Lâm. Lúc đó không phải ai cũng biết Lệ Mật là làng rắn. Một lần cả C đang ngồi học chính trị trong hội trường, một thằng ngồi phía ngoài nhìn ra sân bỗng kêu to lên vì phát hiện thấy một con rắn rất to vừa trườn khỏi một bụi tre vào sân. Nhanh như cắt, chẳng cần xin phép, thằng Thịnh lao ra sân chạy đến chỗ con rắn. Nó chộp nhanh đuôi con rắn giật mạnh rồi quay tít. Được một lát, nó dùng tay kia vuốt mạnh con rắn từ đuôi lên đầu, nghe roạt một tiếng rồi vứt ra đất. Con rắn bị tuốt rạn xương sống không bò được phải nằm im. Nói thì chậm vậy chứ làm thì nhanh, mọi chuyện diễn ra chắc chưa tới một phút. Cả hội trường lính ồ lên khen ngợi. Hôm đó thằng Thịnh đem con rắn biếu Ban chỉ huy làm bữa cải thiện. Từ đó tiếng tăm Thịnh "rắn" bay khắp tiểu đoàn. Trong thời gian huấn luyện ngắn ngủi sau đó, hễ ở đâu phát hiện rắn là gọi Thịnh "rắn" tới giúp sức và bao giờ cũng thành công. Các thủ trưởng quý nó lắm.

              Lại đến chuyện bên C38 có thằng Hùng con cháu nhà nghệ sĩ xiếc Tạ Hiển. Sau khi phát hiện khả năng của nó, Tiểu đoàn cho nó về phép 3 ngày, rồi mang lên đơn vị một cái xe đạp một bánh. Nó diễn xiếc mấy lần cho cả D xem. Rồi lại diễn cả cho đồng bào xem. Thỉnh thoảng buổi chiều trước giờ ăn cơm, nó còn đi xe 1 bánh ra con đường đất ngoài bản. Phụ nữ và trẻ con bản Mường xem khá đông. Thằng này từ khi có món "xiếc xe đạp 1 bánh" không còn bao giờ phải đi lấy củi hay lấy gạo ngoài kho đường số 6 nữa. Sợ hỏng nhân tài. Tuy thế hết đợt huấn luyện nó vẫn phải đi B. D tôi khi vào Trường Sơn có C38 bị xé ra bổ xung cho chiến trường Quảng Nam nên không biết tin gì của nó nữa.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 31 Tháng Bảy, 2009, 05:19:00 pm
        … Dịp 22/12 năm đó, chúng tôi tổ chức hội thao, có cả các thủ trưởng ở Bộ TLTĐ lên thăm. Được ăn tươi, mỗi C được mổ một con lợn. Từ đây tôi bắt đầu quen nếp và luôn mong đợi được ăn tươi vào những ngày kỷ niệm của quân đội. Ngay cả khi vào chiến trường cũng thế. Khó khăn quá, trên không cấp được thì chúng tôi tìm cách cải thiện tại chỗ. Tóm lại cũng là một cái cớ để ăn.

              Rồi một lần tiểu đoàn có lệnh báo động lúc 4 giờ sáng. Tập trung hết cả ra sân đại đội, ngồi vêu mặt ngắm những ngôi sao muộn mằn. Ngáp và gật trong khi đại đội phổ biến sẽ hành quân xa. 5 giờ sáng có cơm ăn. Trời đông chưa sáng rõ lắm nên không vào nhà ăn mà đem hết ra sân. Cơm sáng đơn giản nên cũng chẳng có gì phức tạp. Ăn xong lại ngồi nghỉ theo đội hình, lại rì rầm cho đến 6 giờ. Rồi tất cả được lệnh hành quân ra thao trường, giống như một buổi tập sớm. Nhưng hình như không phải thế, chúng tôi lại được lệnh đi tiếp, vòng vèo qua những quả đồi lạ mà chúng tôi chưa từng qua. Sau đó tập trung và có lệnh "giá súng" theo từng B. Mỗi B cử 2 người ở lại trông những cái giá súng đó (tất nhiên có đại phó quản lý chung), còn tất cả hành quân sang một quả đồi khác. Đến đây thì mới biết tất cả các C khác cũng đang lục đục tay không từ các hướng khác đi đến. Cả tiểu đoàn tập trung thành hàng lối rồi lại ngồi nghỉ. Mới có 7 giờ sáng.
 
            Chẳng biết có chuyện gì, nhưng chúng tôi cứ ngồi gà gật như thế mãi. Đến 10 giờ, khi tất cả đã bã người ra rồi (may hôm đó nắng không gắt lắm) thì chúng tôi được lệnh đứng dậy, hàng lối chỉnh tề. D trưởng tuyên bố hôm nay tiểu đoàn vinh dự được đón Đại tướng Tổng tư lệnh đến thăm. Thế là ồn ào cả lên. Rồi chúng tôi được lệnh tập vỗ tay. Phải vỗ to và đều. Của đáng tội, cái món này cũng làm cho lính tỉnh táo hẳn ra.

             Nhưng cũng phải nửa tiếng sau mới nghe tiếng ô-tô, rồi đoàn xe com-măng-ca xuất hiện. Quả tình lúc đó chúng tôi cũng bị mất phương hướng, không biết là đoàn xe đi từ đâu tới. Rồi Đại tướng cùng các thủ trưởng E và Bộ TL xuống xe đi vào bãi. Chả biết là bàn và micro chuẩn bị từ khi nào. Khi đó, các Thủ trưởng đều ăn mặc bình thường như lính, đội mũ mềm chứ không có lễ phục gì, thậm chí không đeo quân hàm (chúng tôi cũng vậy. Từ lúc nhập ngũ đến lúc ra quân, tôi chưa hề được đeo quân hàm lần nào, thật chẳng biết cảm giác nó ra sao). Chúng tôi được nghe Đại tướng huấn thị chừng 20 phút, đại loại là động viên lớp thanh niên chúng tôi chiến đấu lập công, giữ vững truyền thống quân đội và truyền thống Hà Nội…

             Đoàn xe của Đại tướng lăn bánh về rồi, nửa tiếng sau chúng tôi mới được quay lại quả đồi kia lấy súng và hành quân trở về doanh trại. Buổi chiều tất cả được nghỉ tắm giặt.

             Sự kiện ấy được cấp trên phổ biến là niềm vinh dự đặc biệt của tiểu đoàn tân binh chúng tôi, vì không phải đợt luyện quân nào cũng được đón Đại tướng đến thăm. Nhưng thật tình mà nói, khi đó chúng tôi cũng không thấy hết được niềm vinh dự đó. Vả lại khi đó trong lính đang truyền tụng một câu nói của bác Hồ: "Tướng phải như tướng Thanh, tá phải như tá Kiện".

               Nghe phổ biến sau 22/12 chúng tôi sẽ hành quân xuống Tân Lạc (giáp Ninh Bình), đoán rằng chúng tôi sắp vào chiến trường, có thể không được về phép thăm nhà, lính tráng rủ nhau "tút' hàng loạt. Cả 4 đại đội đều diến ra cảnh như nhau. Trên đường số 6 có đêm từng tốp lính "tút" của các C gặp nhau cứ như đi tiền trạm. Khi đó có B hụt đến 1/3 quân số.

              Đơn vị trống vắng hẳn, mà chúng nó "tút" đến cả tuần, ngày hành quân đã ngoại đi Tân Lạc sắp đến, nên các cán bộ C của các đại đội phải cử nhau về tận từng khu của Hà Nội gọi lính lên đơn vị. Mục thức đêm học 10 lời thề quân đội diễn ra từng đêm.

              Thế mà rồi cuối cùng, ngày tận cùng của năm 1971 ấy, đoàn tiền trạm vẫn kịp lên đường nhằm hướng thị xã Hòa Bình. Một cái duyên nào đó lại dẫn tôi vào đoàn tiền trạm. B phó Thụy (người Đông Anh) của B tôi dẫn đầu hớn hở kéo chúng tôi vượt suối cạn Bãi Nai ra đường 6. Lội qua dòng suối mát lạnh, tôi không hề nghĩ rằng cho đến 38 năm sau tôi cũng không có dịp nào trở lại nơi đó, cứ như dòng nước trôi để người đời phải thốt lên rằng "con người ta không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông"…
......





Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thaynhin trong 08 Tháng Tám, 2009, 09:40:49 pm
  Chào các bác CCB!
 Em là lính và là sĩ quan dự bị bộ đội Hóa học của những năm 1983,1984.Đọc nhưnngx dòng tâm sự và chuyện kể về kỷ niệm củ các bác làm em cảm động lắm!Em mới vào Quansuvn được một tuần,cũng muốn đôi điều thưa chuyện với các bác!
TIỆN ĐAY EM RÂT MUỐN LIÊN LẠC VỚI BÁC TRONGC6,BÁC PHONGQUANG...VÀ CÁC BÁC CÓ CHẤT LĨNH VÀ KHÔNG CHÊ EM ..VỚ VẨN.THÂN ÁI!
  Em mới vào Quansuvn được 1 tuần,đọc topic của bác Trongc6 là chủ đề thứ 3!
  Xin lỗi Admin vì mình dùng PC chưa ngon lắm,chúc Admin khỏe và làm tốt nhiệm vụ!



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: binhyen1960 trong 11 Tháng Tám, 2009, 12:46:57 am
 Ở đây chẳng ai chê bạn vớ vẩn nếu bạn không phải người vớ vẩn , toàn lính với nhau thôi, ôn lại thời máu lửa đã qua chứ chẳng phải tướng tá gì , bạn cứ biết sao nói vậy , bạn thấy vui , anh em cũng thấy vui thôi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 11 Tháng Tám, 2009, 09:54:48 pm
        … Thị xã Hòa Bình quá nghèo nàn. Con đường 6 xuyên qua Thị xã để lên hướng Tây Bắc đi Sơn La cũng chính là trục chính của Thị xã. Nhà cửa thưa thớt. Đây đó gặp mấy ngôi nhà cấp 4 là trụ sở của các cơ quan Dân Chính Đảng. Rồi căn nhà gạch mà lợp mái nứa của một HTX mua bán. Quá sơ sài. Đúng là cảnh miền núi. Đoàn tiền trạm lầm lũi đi qua. Đến chân dốc Cun thì dừng lại làm điểm dừng chân thứ nhất. Làng nông thôn miền núi nhỏ bé nhưng còn có vẻ ấm áp hơn mấy ngôi nhà ven đường Thị xã.
 
              Hỏi nhờ nhà dân, tôi lại giở cái bài tìm các em 14 tuổi. Nhưng điều đó không ấn tượng như ở Quốc Oai. Các thôn nữ vùng sơn cước mang đậm nét chất phác thật thà vùng người dân tộc, dù làng là của người kinh. Các em giúp lính thật nhiệt tình. Chuyện củi nước ở đây cũng khá đơn giản. Nhà nào cũng nhiệt tình đón bộ đội nghỉ nhờ. Chúng tôi còn thời gian thảnh thơi tắm giặt trước khi trời tối. Có ít người nên nấu cơm cũng đơn giản. Tiếc là thức ăn quá xoàng. Chẳng có gì ngoài nồi canh rau láo nháo vặt vội ngoài ruộng. Rau dền cơm, càng cua, tập tàng ấy mà. Dân cũng ăn vậy thôi. Lấy đâu mà tiếp tế cho hơn chục thằng lính. Được cái sau bữa ăn vẫn có nước chè do B phó Thụy mang theo một gói (chè Ba Đình loại 30gram một gói). Cả tối ngồi tán chuyện, giao lưu với các em dân quân, không phải sinh hoạt, thế là sướng rồi.

              Sáng sau một nửa ở lại đón đơn vị, còn 7 chiến sĩ lại lên đường. Bữa cơm sáng ăn với đường cát nâu, lạ mồm nhưng cũng dễ nuốt.

               Hành quân tiếp theo đường số 6. Con đường vắng vẻ, cứ như chỉ dành cho lính. Thảng hoặc mới có một chiếc xe tải chạy qua, hoặc mấy ngườii dân đẩy xe đạp lên lấy củi. Hì hục nửa buổi mới bò lên đến đỉnh dốc Cun. Thật may là ngay đỉnh dốc có một cái cửa hàng ăn uống mậu dịch. Có độc món mì (sợi) nấu với nước canh đậu phụ, có pha chút gừng chống lạnh. Chẳng có chút xương xẩu nào, và tất nhiên là không có mì chính. Giá cũng bình dân, một hào rưỡi một bát.

              Buổi chiều hành quân xuống đến chân dốc. Trên con đường nhựa vắng tanh bỗng xuất hiện một đồng chí tiếp phẩm cưỡi cái xe đạp Vĩnh cửu chở rau đi ngược chiều. Tôi đánh bạo lên tiếng: "Đồng chí ơi, cho chúng tôi mấy mớ rau". Người lính ấy không nói gì, cũng không ngoái cổ lại, nhưng vòng tay ra sau kéo 4 mớ rau cải thả xuống đất. Chúng tôi mừng quá nhặt vội, còn kịp nói với theo thật to: "Xin cảm ơn đồng chí và lời thề thứ bảy". Chỉ thế thôi mà sao trong cái buổi chiều hoàng hôn mùa đông se lạnh ấy, tôi chợt thấy vô cùng ấm áp tình cảm thật là lính của những người mặc quân phục xanh mà mình cũng đang vinh dự khoác trên mình.

               Qua khỏi chân dốc Cun chừng vài cây số, chúng tôi tách khỏi con đường số 6 đi Sơn la mà rẽ sang hướng đi Tân Lạc, xuống Ninh Bình. Đi thêm dăm cây số thì chúng tôi đến một nông trường trồng cam. Anh Thụy cho cả nhóm dừng lại, tuyên bố đây là nơi dừng chân. Toàn là các gia đình công nhân nông trường, nhưng cũng chẳng khác gì bản làng. Có chăng chỉ là cái kiểu bố trí nhà nằm theo cụm và chạy dọc theo quốc lộ. Cũng muộn nên tối đó chúng tôi tạt nghỉ nhờ một nhà ngay ven đường chỉ có hai vợ chồng trẻ, chưa có con. Cơm nước xong nắm tình hình qua nhà chủ rồi nghỉ ngơi. Anh Thụy bảo chúng tôi sáng mai hẵng đi tìm nhà nghỉ nhờ cho đơn vị. Một lệnh nữa cũng được đưa ra là đêm nay nghỉ tập trung ngoài hè, cấm thằng nào được lảng vảng vào nông trường lấy trộm cam. Ở đây bảo vệ họ có đi tuần đêm bằng ngựa, có súng và sẵn sàng bắn hạ kẻ gian.

              Làng quê vốn mến khách. Nơi đây vắng vẻ lại càng mến khách hơn. Tối đó có rất nhiều công nhân đến chơi, uống nước và hỏi thăm chuyện Thủ đô khi biết chúng tôi là lính Hà Nội. Rất nhiều người tròn xoe mắt khi nghe chúng tôi kể chuyện về những chiếc tàu điện "leng keng" chạy trên nhiều tuyến phố. (Thời đó tàu điện còn hoành tráng lắm, không bị ví "lừ lừ như tàu điện" thời cuối những năm 70 đâu). Rồi đủ các thứ chuyện khác nữa. Đám lính chúng tôi cứ như những người mở mang đầu óc cho dân xứ núi không bằng. Và tất nhiên là không cần phải đi ăn trộm cam mà vẫn có cam ăn. Cam của Ban Giám đốc mời hẳn hoi nhé.

              Nông trường còn giúp chúng tôi việc sắp xếp bộ đội của đơn vị chính vào nghỉ những nhà nào trong công nhân. Thế là không phải đi hỏi nhờ từng nhà, quá sướng. Tình quân dân thời chiến ấy đầm ấm quá. (Chắc bây giờ chẳng bao giờ còn trở lại cảnh "Bao giờ cho đến tháng mười" như thế nữa).
….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 16 Tháng Tám, 2009, 09:44:13 am
              .......... Thật may là ngay đỉnh dốc có một cái cửa hàng ăn uống mậu dịch. Có độc món mì (sợi) nấu với nước canh đậu phụ, có pha chút gừng chống lạnh. Chẳng có chút xương xẩu nào, và tất nhiên là không có mì chính. Giá cũng bình dân, một hào rưỡi một bát.................

Bác Trong c6  đã gợi nhớ về những món ăn sang trọng của một thời.
Còn nhớ, tại cửa hàng ăn uống mậu dịch quốc doanh ở Nhổn-Hà Tây, nằm ven đường 32, đối diện với chợ Nhổn. Tại của hàng này cũng có phục vụ 2 món trứ danh, đó là: phở trứng và miến đậu phụ.
Phở trứng bao gồm 1 tô phở không người lái, có 1 chút hành, và tâm điểm là 1 miếng trứng vịt rán. Miếng trứng được chế biến theo kiểu: trứng đánh tơi, nhanh tay đổ vào chiếc chảo to đang nóng vì mỡ sôi già, khéo léo lắc chiếc chảo cho trứng dàn mỏng được ra khắp lòng chảo, tạo thành 1 lớp trứng mỏng tang. Sau đó, cuộn lớp trứng mỏng ấy lại như cuôn bánh cuốn. Thành phẩm là được 1 chiếc chả trứng cuộn tròn và dài. Khi dùng dao sắc như dao cạo râu cắt ra, ta được từng miếng trứng tráng có đủ độ đậm nhạt của sắc mầu và có những lớp lang như miếng bánh ga tô. Mỗi bát phở trứng được 1 miếng trứng thái cuộn như trên, tầm 1 phần 3 quả trứng vịt.
Còn miến đậu phụ thì được đựng trong cái bát chiết yêu. Bao gồm một chút miến dong, một chút hành, nước dùng là nước sôi có chêm muối-không mì chính. Và đỉnh của đỉnh là có 2 miếng đậu phụ rán. To bằng 2 nửa miếng đậu phụ loại 1 nghìn/bìa bây giờ.
Gía của bát phở trứng là 3 hào/bát. Còn giá của tô miến đậu phụ là 2 hào/bát.
Cách phục của cửa hàng ăn thời đó cũng rất độc đáo.
Đó là phải xếp hàng để mua tích kê. Phở trứng là cái mảnh sắt tây hình gần vuông hoặc gần chữ nhật. Miến đậu phụ thì tích kê là mảnh sắt tây hình gần giống tam giác.
Còn xi-rô lựu (chẳng hiểu tại sao lại gọi là xi-rô lựu, chỉ biết đó là 1 thứ nước hơi ngòn ngọt và có mầu hơi hồng hoặc hơi đỏ-tùy theo tay nghề của nghệ nhân chế biến), thì tíc kê là miếng sắt tây hình gần tròn.
Cửa hàng ăn uống mậu dịch quốc doanh chỉ phục vụ 3 món đó, không có món thứ tư. Vua đến ăn cũng mặc kệ, thực đơn chỉ có vậy.
Tất cả 3 loại tích kê trên, đều có 1 cái lỗ thủng  ở gần giữa miếng sắt tây.
Và sau khi xếp hàng mua tích kê xong, đến lượt phải xếp hàng để lĩnh món sơn hào-hải vị kể trên.
Cái dây xếp hàng này có hướng ngược với dây xếp hàng tích kê, đầu hàng hướng về cái ô vuông phát ngọc thực.
Để chống bọn lưu manh-phản động làm giả giấy tờ có giá, cơ quan chuyên môn đã có cách thức sau: nối giữa quầy bán tích kê và ô lĩnh hàng, có ba sợi dây thép song song. Một cái dây để lồng và dẫn hướng tích kê hình chữ nhật (hoặc vuông), một cái dây để lồng và dẫn hướng cái tích kê hình tam giác, cái dây thứ 3 còn lại thì để lồng và dẫn hướng cái tích kê tròn.
Đó là lý do tại sao, các tíc kê đều có lỗ thủng ở giữa.
Khi đã nộp tiền xong, thủ quỹ căn cứ vào vật phẩm được bán ra, sẽ lồng cái tíc kê tương ứng vào sợi dây thép phù hợp, rồi đẩy cái tíc kê ấy ra ngoài. Khách hàng tự dẫn cái tíc kê của mình đến cái ô vuông thần tiên kia.
Nếu như có 1 ông hỗn ăn, mua cả 3 thứ, thì ông ta phải khéo léo đi vào giữa 3 hàng dây và phải nhanh tay đẩy 3 cái tíc kê của mình cùng lúc, không thì con ma đói phía sau nó chửi.
Baoleo còn nhớ đó là năm 1970, kết thúc đợt sơ tán chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ lần thứ nhất.
Để liên hoan chia tay nơi sơ tán là thôn Kim Hoàng, baoleo quyết định lắc cái ống tre tiết kiệm (làm gì có tiền mua lợn đất-mà chỉ lấy cái đoạn ống tre, cưa vát 1 tý ở thân ống để làm chỗ đút tiền) ra 6 đồng 5 xu-tức là 3 hào, cuốc bộ ra thị trấn Nhổn để tự khao.
Sau khi đứng trước cửa hàng tầm gần 1 tiếng, nghiến răng cỡ mòn mất đề xi dem răng cho đỡ tiếc, baoleo hùng dũng tiến vào quầy mua tíc kê. Lúc trao tiền, cô thủ quỹ kêu thét lên vì bỏng tay. Hóa ra, do baoleo nghiến răng, nắm chặt 6 đồng 5 xu mạnh và lâu quá, đến mức cả 6 đồng xu đều nóng đỏ cả lên.

Đến tận hôm nay, khi gõ những dòng này, baoleo vẫn ân hận là đã dám xa xỉ tiêu tiền để ăn một cách hoang toàng, phá phách như thế. 8)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 22 Tháng Tám, 2009, 09:10:48 am
        …. Hôm sau chúng tôi được cả một ngày nghỉ ngơi. Tôi và thằng Xuyên được cử vào Bản Mường gần đó kiếm rau. Tinh thần chỉ đạo là có thể mua, nhưng xin được là tốt nhất.

               Hai chúng tôi hỏi đường rồi cứ theo con đường đất to mà đi vào phía chân núi. Chưa được cây số thì thấy cả một không gian rộng mở ra trước mắt. Một con suối nước to, nông, toàn đá và trong veo chảy hiền hòa na ná như suối cạn Bãi Nai. Bờ bên kia là cả một khu vườn trồng rau rộng lớn ríu rít tiếng của hơn chục cô cậu học sinh. Phụ trách chúng là một cô giáo ăn mặc kiểu dân tộc Mường, người nhỏ nhắn và… xinh quá đi mất. Hai thằng tôi đứng ngây ra nhìn. Chỉ một nhoáng là đám học sinh đã phát hiện ra có hai chú bộ đội đứng bên kia suối. Chúng líu ríu vẫy tay gọi. Hai chúng tôi nhìn nhau rồi cùng xắn quần lội sang.

               Đám học sinh quây lấy chúng tôi như người nhà, còn cô giáo thì e thẹn đứng lùi sau một chút, nhưng không giấu được nụ cười tươi. Vốn đã có một vài bài tập nho nhỏ về công tác dân vận, tôi và Xuyên hòa nhập ngay với cô giáo và học sinh. Tôi đề nghị được cùng tham gia tưới rau và nhổ cỏ. Việc này cũng dễ thôi, thằng Xuyên vốn là dân Thanh Trì, nông dân chính hiệu trước khi vào lính, còn tôi cũng đã nhiều năm sơ tán về quê.

              Vừa làm vừa tán chuyện, chúng tôi nhanh chóng chiếm được cảm tình của đám học sinh và cả… cô giáo. Chừng một tiếng sau, chúng tôi ra về sau khi được cô giáo và học sinh tặng cho một ôm rau cải to tướng, được biết tên cô giáo là Hoa, và còn được cô hẹn buổi tối sẽ ra chỗ chúng tôi chơi. Giá không còn phải về lo cơm nước chung cho cả nhóm, chắc tôi và Xuyên còn muốn nhổ cỏ, bắt sâu lâu hơn nữa.

               Hôm đó là một ngày thảnh thơi hiếm có từ ngày nhập ngũ. Từ đấy, tôi bắt đầu hiểu được cái sướng của đi công tác lẻ. Không chỉ ngoài Bắc mà sau này vào chiến trường cũng thế. Không gò bó, ăn uống bao giờ cũng tốt hơn và nếu khéo sắp xếp thì kể cả không phải gác, dù ở gần ngay sát địch.
 
               Tối đó chúng tôi tập trung tại nhà một công nhân nông trường có vợ cũng là cô giáo của cái trường cấp I mà lúc sáng chúng tôi đã tới. Anh chị ấy mới có một đứa con gái chừng 3 tuổi. Buổi tối trời lạnh ngồi trong nhà uống nước, tôi ngồi khoanh tròn trên giường và cho cháu bé ngồi trong lòng. Đứa bé ngồi im, thỉnh thoảng ngoái cổ ngước nhìn mặt chú bộ đội. Anh chị em công nhân cũng kéo nhau đến chơi khá đông. Anh Thụy (vốn trước đây là lính trong Đội Danh dự của Quân đội, cao to, đẹp trai) trổ tài tán chuyện. Đôi lúc tôi chợt quên đi mình đang là lính, và nghĩ rằng nếu cuộc đời cứ như thế này thì đẹp biết bao nhiêu.

               Hơn tám giờ tối, cô giáo chủ nhà nháy tôi ra ngoài. Cô giáo Hoa (dân tộc Mường) đang chờ tôi ngoài sân và rất mạnh bạo rủ tôi dạo chơi. Bây giờ trông Hoa bình dị như một cô gái kinh, áo trắng (có khoác thêm một chiếc áo len hay sợi gì đó), quần lụa, cái hình ảnh thiếu nữ đơn giản một thời đã làm xao xuyến lòng trai của cả một thế hệ. Chúng tôi chậm rãi đi dạo ra phía suối. Trời mùa đông, mọi khi thì chiếc áo vệ sinh (một loại áo khoác nỉ dài tay cài khuy màu cỏ úa phát cho lính khi đó) chưa phải đủ ấm, nhưng hôm đó tôi lại không thấy lạnh. Tôi mới 18 tuổi, và Hoa thì cũng chắc tuổi đó, nếu không muốn nói là nhỉnh hơn. Nhưng cô ấy bé nhỏ và xinh xắn trước cái thằng trai mới lớn là tôi. Vụng về và ngượng nghịu, nhưng cũng khoái vì chính tôi được rủ đi dạo chứ không phải mấy thằng khác trong tốp tiền trạm. Chúng tôi cứ chậm rãi đi trên con đường đất nhỏ và nói đủ thứ chuyện linh tinh. Hoa kể về mình ít thôi, nhưng gợi ý để tôi kể chuyện. Kể chuyện Hà Nội, chuyện lính tráng tập tành chứ không phải là tán. Thú thực là nếu cô giáo Hoa không bạo dạn, thì tôi không biết nói chuyện gì cho phải. Nhưng tôi nhớ nhất cái cảm giác lúc đó là tuy nói chuyện rất vui vẻ, nhưng trong lòng tôi thoáng có chút buồn. Chiến tranh không biết trước thế nào. Số phận con người càng mong manh, khó đoán. Đón nhận một tình cảm trên đường hành quân, liệu mình có đem lại điều tốt lành cho người ta? Tính tôi cầu toàn nên không muốn làm điều gì trái lương tâm mình khi đó.

               Chúng tôi chỉ lang thang và nói chuyện đâu đâu thế thôi, cho đến khi trở lại nhà cô giáo người kinh thì đã khuya khuya. Chia tay nhau cũng chỉ là cái bắt tay chứ không phải cầm tay. Rồi anh Thụy thò đầu ra gọi tôi đi ngủ.

               Lại chơi gần một ngày nữa, chiều hôm sau thì đơn vị hành quân đến. Rồi sau một đêm nghỉ, cả đơn vị hành quân tiếp xuống phía Ninh Bình.

               Chuyện thoáng qua của tôi và Hoa, nhiều đứa trong C biết. Chúng nó bàn tán đủ kiểu, nhưng nói chung là bậy bạ. Tôi không chấp nhận cái kiểu sống gấp của kẻ sắp chết. Tôi tự hào mình vừa là trai Hà Nội, có học và lại là anh bộ đội cụ Hồ, nên sẽ phải sống cho xứng với niềm tự hào đó.

               Đến nơi mới hơn một tuần thì nhận được thư Hoa. Chả hiểu cô ấy hỏi ai được số Hòm thư của C tôi. Không ngờ cô ấy mến tôi thật sự và muốn kết bạn. Tôi cũng có thư hồi âm cho cô ấy. Chỉ một lần thôi. Tôi đánh bạo nói là sẽ hẹn gặp cô ấy khi đơn vị hành quân trở lại Thị xã Hòa Bình sau đợt dã ngoại, khi đi ngang qua nông trường cam.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: songvedem trong 22 Tháng Tám, 2009, 11:45:04 am
              .......... Thật may là ngay đỉnh dốc có một cái cửa hàng ăn uống mậu dịch. Có độc món mì (sợi) nấu với nước canh đậu phụ, có pha chút gừng chống lạnh. Chẳng có chút xương xẩu nào, và tất nhiên là không có mì chính. Giá cũng bình dân, một hào rưỡi một bát.................

Trong cửa hàng ăn uống Mậu dịch còn có: Các ghế được xích vào nhau và xích vào cái bàn vì sợ bọn CIA và phản cách mạng nó bê đi mất. Các thìa (cùi dìa) múc phở cơm, miến thì đều được đục lỗ ở giữa, tránh bị bọn gián điệp đội lốt quần chúng ăn trộm.

Mẹ em kể ngày xưa có cấm phở, đến thời năm 79- 80 thì lại có đợt cấm phở nữa. Mà đau ốm thập tử nhất sinh, khen thưởng thì cũng quy ra phở hết và cũng chỉ nhận phở chứ không nhận cái khác. Mà sao hồi đấy ăn bát phở mậu dịch cứ thấy ngon lừ đi. Em ăn phở làm từ thịt xương thủ mà vẫn thấy trên cả tuyệt vời, phở Bát Đàn hay Lý Quốc Sư cú phải gọi bằng bố.

@ mod, min: cái này tiện để ở đây hay mang sang bên bao cấp các Sếp nhỉ


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 22 Tháng Tám, 2009, 02:13:05 pm
Đề nghị bác Trọng hành quân trở lại Hoà Bình nhanh nhanh lên cái! Giờ cũng đến đoạn "đồ hộp" thì quăng bài đấy cho thiên hạ chờ là không có được !
Kiểu cắt bài này giáo Hà đầu têu rồi lây thành cái bệnh toàn Quân sử roài ! Hic  8)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: taydoc711 trong 22 Tháng Tám, 2009, 02:15:48 pm
Đề nghị bác Trọng hành quân trở lại Hoà Bình nhanh nhanh lên cái! Giờ cũng đến đoạn "đồ hộp" thì quăng bài đấy cho thiên hạ chờ là không có được !
Kiểu cắt bài này giáo Hà đầu têu rồi lây thành cái bệnh toàn Quân sử roài ! Hic  8)


 Chứ không phải tác giả Biên giới Tây nam đầu têu ạ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 22 Tháng Tám, 2009, 02:20:20 pm
Hè hè tớ cứ thấy câu chuyện nào có dính chút đến khoản máy bay bất kể cánh quạt hay phản lực là y rằng thấy mặt chú  :o


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: taydoc711 trong 22 Tháng Tám, 2009, 03:18:35 pm
Hè hè tớ cứ thấy câu chuyện nào có dính chút đến khoản máy bay bất kể cánh quạt hay phản lực là y rằng thấy mặt chú  :o

 Ơ!em của bác thì không giống nhau à?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 22 Tháng Tám, 2009, 05:17:39 pm
Bác Trongc6 : cái nông trường đó có nhiều bà con Việt kiều ở Thái Lan và Tân Đảo lắm, họ về nước đầu những năm 60, nhiều cô xinh hơn con gái Hà Nội đấy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: pain trong 22 Tháng Tám, 2009, 05:21:36 pm
Úi giời! Đúng chỗ rồi bác Trong ơi. Đại trưởng em trinh sát chỗ này kỹ lắm ;D Nắm hết qui luật hoạt động và quân số bác ạ ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 22 Tháng Tám, 2009, 08:21:54 pm
      Bác Phong Quảng chỗ nào cũng tỏ, cứ như ma xó ấy. Chịu bác thật.
     Mà cũng phục bác thật đấy, vì cái vụ trở lại chốn xưa ấy. Bác biết rõ những nơi cũ bây giờ ra sao, còn tôi trong đầu chỉ còn toàn hình ảnh cũ.

     Bác Quảng ơi, mạn phép cho em hỏi:
- Thế bây giờ cô giáo Hoa của em ra sao rồi?

     Em như người lính trong "Tây tiến", một đi không ngoái đầu trở lại, thành ra đi đến đâu cũng có lỗi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thaynhin trong 23 Tháng Tám, 2009, 09:29:50 am
 Chuyện bác TrongC6 làm em nhớ lại dịp 1979 đi lính dự nhiệm ở Sơn Tây.
 Đó là dịp 9/!1979 rất căng thẳng ở biên giới phía bắc,em là loại được đi học chưa phải làm nghĩa vụ quân sự.Nhưng có vẻ to hơn các bạn vào học ĐH Tổng hợp chút(bây giờ thì em rất nhỏ con sau bao năm vật lộn với nhân gian ),nên sếp vào diện đi BỘ ĐỘI DỰ NHIỆM ngày đó,khác với các bạn cùng lớp chỉ tập quân sự và lao động tại trường ngay tại Hà Nội.
 Nghĩ lại ...thấy mình ngày ấy ..hoàn cảnh quá!Được nên Sơn Tây,được phát 2 bộ quần áo đủ để tập tành như người lính là khoái rồi(đỡ... mòn mấy bộ quần áo dân sự của mình...he he..).
 Lúc đi nhà trường cũng làm lễ giao quân như nhập nghũ chính thức,xe đưa tới tận Sơn Tây,giao quân ở ĐÊN VÀ(đó là lần đầu đến đây).Lúc về trường có nghe đài Tiêng nói ViêtNam đọc bài thơ Hoa Đại ở Đền Và,bạn nào là tác giả bài thơ này có cùng kỷ niệm xin liên lạc với mình nhé!
Mình nhớ xe đi qua Hà Đông,rồi đi lối nào không biết nữa và đỗ ở gần thành cổ Sơn Tây,nó cổ lắm và hoang tàn nhuốm màu thời gian hơn bây giờ nhiều.Mình cũng thích và có máu XEM NGẮM từ ngày đó,vậy nhưng không dám đi xa xe(sợ lạc,vì có biết đâu là đâu?!).Vậy mà cu Hoan(bây giờ bán buôn vòng bi ở gần Ga Hà Nội) do háu đói dã đi ăn phở và. ..bị lạc.Xe về đến Đền Và thì cán bộ cũng biết và các tân binh CCB bảo và tin là nó tự đi bộ vào.Rồi cỡ 45 phút người tồ tồ đi bộ vào thật,phải vài ba Km chứ ít đâu!
Rồi tập tành,rồi giải dây thông tin ...như thật.Bắn đạn thật mình được 29 điểm,chỉ sau có Khánh được 30 điểm(và tiện đây có lời thăm tới gia đình Khánh vì bạn đã mất cách đây gần 10 năm,như một nén hương tưởng nhớ bạn!).Vậy cũng là giỏi,lính Sinh Viên bắn kém lắm.Tuy vậy mình tin là sau 3 tháng mình có thể đi phục vụ quân đội được.Vậy nên các chiến hữu đi giải phóng K mà không được tập tành chu đáo làm mình chạnh lòng lắm!!!
  Nhưng kỷ niệm nhớ nhất là...rét,rét tê người mất cả ngủ mà mình phải chịu!Mình nhớ lúc đi là mùa thu(tháng 9),rồi mùa đông đến.Mấy ông lính cựu khôn hơn,tìm đôi căp lại với nhau và anh Điều thì ngủ chuyên với Thêm (con bà chủ,A Điều giờ ở Viễn thông Lạng Sơn),vậy là lẻ mình một vỏ chăn!!!Nhở vậy mình hiểu sâu hơn cái lạnh tả trong vụ TẬP KÍCH CỨU TÙ BINH phi công Mỹ bị giam ỏ Sơn Tây năm 1970 hơn.
  Mình được anh Thắng (Cựu Binh) tư vấn gập màn vào vỏ chăn,thấy đã cải thiện rất nhiều(bao nhiêu quần áo mặc tất cả khi đi ngủ).Thật là một cơ hội rèn thành thép!
 Kỷ niệm đẹp về nghệ thuật ngày đó là tiếng ghi ta của bác Thắng trố,tuy không đỉnh bằng bạn ở bên Đại Học Thủy Lợi nhưng vẫn đọng lại trong em đến bây giờ.
 Mình nhớ hôm trực ban,lúc chiều đi tưới rau(chúng tôi cũng tăng gia để tô màu xanh cho cuộc sống).Làm vài ôdoa nước là rau được thỏa mãn nước.Đương nhiên là tôi tham ô thởi gian để ...lãng mạn!Trèo nên ngọn đồi phía sông Tích,ngồi nên mấy ngôi mộ cổ ngắm cảnh hoàng hôn.Có vụ này tôi mới rõ cảnh đăc tả hoàng hôn ở các sách vân học,thật là là thả hồn.Tuy vậy cũn có sự cố xảy ra,ở nhà báo động kiểm tra tài sản(tôi quên tên gọi chính thức rồi),báo hại là tôi ngồi góc khuất và thả hồn tự do nên không hề nghe được còi báo động...và cứ ngắm tiếp.Lúc ngắm chán tự ra về thì gặp toàn C đang tập trung ở bãi ngay sườn đồi bên cạnh,tôi ngoại phạm vì đi tăng gia,nhưng A trưởng vẫn hỏi nhỏ mầy ở đâu vậy?
Vậy đó mà đã 30 năm,bạn nào có cùng thời gian quân ngũ ở khu vực Đền Và năm ấy xin liên lạc,các bạn đang ở đâu?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Mùa Thu trong 23 Tháng Tám, 2009, 10:52:13 am
Chuyện các bác viết hay quá, đầy tính nhân văn . MT mong các bác viết tiếp ạ.MT cảm ơn các bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 23 Tháng Tám, 2009, 11:26:53 am
Bác Trongc6 : cái nông trường đó có nhiều bà con Việt kiều ở Thái Lan và Tân Đảo lắm, họ về nước đầu những năm 60, nhiều cô xinh hơn con gái Hà Nội đấy.

Bác Phong Quảng nhớ thật.
Đúng là khu vực đấy, bà con Việt kiều Thái nhiều thật.
Năm 80, em ăn cơm mãi cùng với bà con Thái trong cái xóm ở bến phà Đúng-Hòa Bình.
Còn nhớ, những năm 80, khi vực đấy thật hoang vu-chẳng hiểu sao bà con Việt kiều ở Thái về, lên đấy sống từ những năm 60-62, có thể quen được với cái xó rừng hoang vu đó.
Ở cái xóm Thái lan bên bến phà Đúng đấy, em lần đầu biết cái dây chun vòng, đường kính bằng cổ tay (bây giờ thì bạt ngàn), gọi là chun Thái Lan. Chẳng hiểu sao cô gái đấy còn giữ được một bọc tướng. Cô bé nói là kỷ niệm về Thái lan, giữ lại từ năm 62, khi ấy còn là cô bé 3 tuổi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 26 Tháng Tám, 2009, 07:18:58 pm
….
   Cái bản mà chúng tôi đến đóng quân trong đợt dã ngọai cuối cùng này nằm ngay bên đường quốc lộ, địa hình bằng phẳng. Tôi không còn nhớ tên bản, nhưng từ đó mà đi xuống Ninh Bình thì cũng không còn mấy xa. Bản ở gần một cái hồ nước lớn, không có suối, cách khá xa rừng. Cả đại đội chia nhau ở nhờ trong các nhà dân. Nhà sàn khá to, vững chãi. Các C khác trong tiểu đoàn cũng đóng ở các bản xung quanh. Vùng dân cư này khá tập trung, đông đúc.

               Thời gian ở đây chúng tôi tập trung tập tành chiến thuật. Đất đồi toàn sim, mua ở đây rất rộng, chạy mỏi chân. Chúng tôi tập nốt bài 3 bắn ban đêm. Hầu như phải đi tập đêm nhiều nên nhiều khi không phải sinh hoạt. Có thể nói là thời gian này khá thoải mái, vì dù sao cũng đang ở trong dân. Đơn vị lại mua củi của dân bản tại chỗ nên chúng tôi không phải vào rừng lấy củi. Mà có đi lấy, chắc cả ngày cũng không được một bó vì xa quá.
   
             Chúng tôi bắn bài 3 vào một đêm trăng mờ. Mỗi người được phát 10 viên đạn. Bắn găm, bắn gần hết 2 loạt, còn 3 loạt nằm bắn bia đèn dầu (lỗ châu mai giả định). Hai bia bắn găm, bắn gần tôi đều bắn trúng. Bia đèn tôi nã loạt đầu trúng ngọn lửa tắt ngấm. Đèn châm lên, tôi lại bắn trúng, tắt đèn. Châm tiếp lần nữa thì tôi bắn gẫy cả bấc đèn. Tôi bắn đạt loại xuất sắc (vì loạt bắn nào cũng trúng), nhưng không được thưởng phép vì chúng tôi sắp về nghỉ phép cả lượt để đi B rồi. Tôi chỉ được biểu dương.
   
            Thời gian đó có một lần chúng tôi được tập trung nghe kể chuyện chiến đấu ở chiến trường. Người kể chuyện là anh hùng Trịnh Tố Tâm. Khi đó anh là C trưởng công binh, chuyên phục kích đánh địch ở khu đèo Hải Vân. Chuyện anh kể về phục kích, diệt địch với đầy mưu mẹo về lập tình huống này nọ để đưa địch vào bẫy mà nghe ngon lành cứ như tập đánh trận giả. Tôi vẫn nhớ rõ con số tên địch mà cá nhân anh tiêu diệt là 153. Buổi nói chuyện của anh đã thổi thêm luồng khí nóng vào nhiệt huyết chúng tôi, khiến chúng tôi cũng náo nức muốn ra trận ngay lập tức.
   
            Gần cuối tháng 1/1972, chúng tôi còn phải tham gia một đợt dã ngoại nhỏ 3 ngày nữa lên một vùng núi cao cách nơi ở chừng ba chục cây số. Các chỉ huy nói là vùng núi đá này có nhiều chỗ giống với Trường Sơn. Khi ấy leo cũng thấy mệt mỏi, rã rời lắm, nhưng sau này vào Trường Sơn nhớ lại thì cái núi ấy chẳng thấm tháp vào đâu. Trên đỉnh núi cao ấy thế mà cũng có một bản dân tộc có độ hơn chục nóc nhà. Đặc biệt ấn tượng là có hoa đào và hoa mai đã lác đác nở. Lại còn hoa Lan nữa chứ. Tôi không tường nhiều về loài hoa này nhưng trông những nhành hoa Lan trắng muốt trên các cành cây cổ thụ trên núi cao này thì cũng thấy xao xuyến lòng. Nghe nhiều đứa nói ở Hà Nội hoa lan đắt và quý, các cụ rất thích chơi. Chiều và đêm đóng quân ở đó, mấy thằng lính nhà ở khu phố cổ hì hục đi xin và nhờ dân lấy giúp. Lúc xuống núi cũng có bảy tám đứa mang theo được nhành lan về làm quà tết cho gia đình.
   
          Tập tành xong rồi, bắn đạn thật và đi dã ngoại núi cao rồi, nên tuần cuối cùng với chúng tôi khá thảnh thơi. Chủ nhật chúng tôi còn được nghỉ để đi chợ. Cách chỗ chúng tôi chừng 2 cây số có một cái chợ to họp theo phiên, giống như chợ vùng trung du mà tôi đã gặp. Lính tráng rủ nhau đi chợ khá đông. Có 2 thứ được lính mua nhiều là cau khô và măng khô. Tôi chọn mua nửa cân măng khô, nhớ tới nồi canh măng tết có chút ít sườn và móng giò cùng ít hành củ trắng bóng mẹ tôi thường nấu. Lính năm đồng, cũng chẳng thể muốn gì hơn.
   
           Một buổi, tôi được cử xuống giúp anh nuôi. Tiêu chuẩn ăn của lính vốn đã cao hơn ở nhà, nay chuẩn bị tết nên càng tươi hơn. Bếp ăn làm tạm bên rặng tre, cạnh một nhà sàn nơi BCH đại đội trú quân. Cửa ngách nhà sàn mở ra, trông thẳng xuống bếp nấu. Cơm canh nấu xong thì chia cho các A đem về nhà ăn chứ không ăn tập trung. Tôi được trông nồi thịt lợn luộc. Lúc nồi thịt vừa chín, tôi đang mở vung hít hà mùi thơm và lấy cái đũa chọc vào xem chín hết chưa, thì C phó Hảo từ trên nhà sàn thò đầu xuống gọi to:
   
         - Cắt cho tớ một miếng nếm xem nào.
   
          Tôi xiên một miếng thịt to chừng nửa cân ra khỏi nồi, cắt đôi. Một phần độ một lạng còn phần kia to hơn. Tôi đưa miếng nhỏ lên cho thủ trưởng Hảo. Thế mà thủ trưởng không chịu, bắt tôi đổi miếng to. Rồi cứ thế, thủ trưởng điềm nhiên dùng dao găm tỉa miếng thịt ấy ra nếm bằng hết, rồi khen chín rồi đấy, mặc kệ cho thằng tôi đứng dưới đất nuốt  hết cả nước bọt của mình vì thèm. Hình ảnh đó in đậm trong tôi đến mức nhiều lúc tôi chỉ nghĩ mục tiêu phấn đấu của mình trong quân đội chỉ đơn giản là làm sao lên được đến đại phó để có lúc được nếm gần nửa cân thịt lợn luộc cho nó thỏa mãn cái đời.
……



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vitính trong 26 Tháng Tám, 2009, 08:52:30 pm
mục tiêu phấn đấu của mình trong quân đội chỉ đơn giản là làm sao lên được đến đại phó để có lúc được nếm gần nửa cân thịt lợn luộc cho nó thỏa mãn cái đời.
Anh nuôi có cái "lợi thế cạnh tranh" mà bác TrongC6 không biết dùng. Bọn tôi một bữa trong cơm có cục mỳ sợi to vón cục bị một ông nhiều di-ốp hắt ra ngoài. Một thằng không đeo kính kêu "từ từ", nhìn kỹ lại hoá ra một cục thịt nạc to bằng nắm tay. Phán đoán là chị nuôi A vùi cục thịt vào nồi cơm mới cạn thì chị nuôi B đảo chảo. Thế là các sĩ quan mới được chia 6 cái phần của 1 chị.
(sửa vì nhầm, khi mới SQ)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: qua_den trong 02 Tháng Chín, 2009, 02:33:51 pm
Tìm hiểu việc bắt chuẩn tướng Lý Tòng Bá, e tìm ra duoc hồi ký của đại tá ĐINH HỮU TẤN  nội dung
TẤM CĂN CƯỚC CỦA CHUẨN TƯỚNG LÝ TÒNG BÁ pót lên để các bác đánh giá
 
(http://thumb2.webshots.net/t/51/151/0/55/53/2356055530031690022LdySqx_th.jpg)
Lý Tòng Bá   giờ hiện ở USA
Với trung đoàn 48, Sư đoàn 320, Quân đoàn 3, trận đánh căn cứ liên hợp Đồng Dù-Củ Chi ngày 29-4-1975 thật sự là một trận đánh ác liệt.

 

Trong chiến dịch Tây Nguyên, trung đoàn tiêu diệt đồn Chư Sê ngày 7-3. Tiếp đó ngày 8-3, tiêu diệt chi khu Cẩm Ga-tức quân lỵ Thuần Mẫn, rồi phát triển đánh chiếm thị xã  Cheo Reo cùng sư đoàn truy kích địch rút chạy trên đường 7, bắt sống hàng nghìn tù binh thuộc lực lượng quân đoàn 2, quân khu 2 ngụy, giải phóng thị xã Tuy Hòa. Cả trung đoàn hy sinh 21 chiến sĩ. Trong trận đánh căn cứ Đồng Dù, nổ súng mở 12 hàng rào dây thép gai xong lúc 5 giờ mà đến 9 giờ 30 phút, bộ đội ta vẫn chưa vào được bên trong căn cứ của địch vì Lý Tòng Bá, chỉ huy sư đoàn 25 của ngụy kiêm chỉ huy trưởng căn cứ liên hợp này đã phái 12 chiếc xe tăng ra bịt cứng cửa mở. Y còn động viên binh lính dưới quyền: “Các chiến hữu cứ yên tâm chiến đấu, để tôi xem bọn cán binh Bắc kỳ “bụng toàn rau muống” này còn giở  được trò gì nữa” (tin ta thu được của bộ phận kỹ thuật A50 theo dõi sự chỉ huy của địch). Do vậy, khi trung đoàn dùng hỏa khí chống tăng bắn cháy được một số xe tăng của địch, bộ đội ta mới xung phong được vào bên trong căn cứ.

 

Trong trận này, anh  Lê  Quang Bình,  Trung đoàn trưởng (hiện nay anh Bình là Ủy viên thường vụ, Trưởng ban dân nguyện của Quốc hội khóa XI), tôi là Chính ủy trung đoàn. Chúng tôi kêu gọi các phân đội lùng bắt cho được Lý Tòng Bá, nhưng mãi gần tối mới bắt được tên tướng này. Khi ấy Lý Tòng Bá đã trút bỏ bộ quân phục, nói dối với bộ đội ta y là thầu khoán dân sự vào trong căn cứ để xây dựng nhà cửa cho quân sự thuê, nên bộ đội ta đã thả cho  y chạy trốn ra bến xe  Củ  Chi, ngồi đợi xe ca trốn về Sài Gòn.  May nhờ có các cô du kích Củ Chi chỉ cho bộ đội ta đi tuần tra nên bắt được tên tướng rất nhiều tham vọng này. Khi anh em giải Lý Tòng Bá đến, tôi bắt trình và giữ luôn thẻ căn cước của hắn. Kết thúc trận đánh, hoàn thành nhiệm vụ “mở cánh cửa sắt ở tây bắc Sài Gòn” để cho Sư đoàn 10 và các đơn vị phối  thuộc làm nhiệm vụ thọc sâu của quân đoàn tiến vào đánh chiếm các mục tiêu lớn như sân bay Tân Sơn Nhất, bộ tổng tham mưu quân đội ngụy, trung đoàn đã hy sinh 61 chiến sĩ gấp 3 lần số liệt sĩ của trung đoàn đã hy sinh trong 25 ngày của chiến dịch Tây Nguyên.

 

Tôi đã giữ chiếc căn cước của tên chuẩn tướng Lý Tòng Bá cho đến nay. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử của dân tộc ta, của quân đội ta, tôi đã báo cho anh Lê Mã Lương, Giám đốc Bảo tàng lịch sử Quân sự Việt Nam, xin tặng lại hiện vật này cho nhà bảo tàng.

 

Trích Sự Kiện & Nhân Chứng

Ngày 22 tháng 04 năm 2005

ĐDTB, ngày 18/12/05



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: MUCTAU trong 03 Tháng Chín, 2009, 03:18:05 am
 Thức nguyên đêm đọc lại topic này . Bác Trọng kể chuyện chống fulro đi . Ngày trước nghe mấy anh ở đ/v biên phòng kể hay lắm .
 Nữa đi anh !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 04 Tháng Chín, 2009, 06:32:19 pm
Hôm nay hội lính 4/9/71 chúng tôi tổ chức gặp mặt nhân 39 năm ngày nhập ngũ tại quán Lã Vọng 181 Đê La Thành. Tất cả chừng 200 người.
Ngoài đoàn văn công, khách mời chừng bảy tám chục người thì lính 4/9/71 chúng tôi cũng đủ hơn trăm. Đợt bọn tôi đi là 1800 thằng, nhưng chỉ có chừng 450 thằng vào 2 E của F968. Các thủ trưởng cũ của 2 E 9 và 19 về dự nhiều. Đại tá nhiều nhưng không có tướng (Bác L.K. Phiêu, bác Vũ Xuân Sinh không tới dự).
Hò hét như trẻ con, cười đùa hết mình.
Nhiều thằng giờ là tổng GĐ các công ty nên tài trợ nhiều, kinh phí thoải mái.
Ra về khản hết cả cổ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: binhyen1960 trong 04 Tháng Chín, 2009, 10:31:46 pm
 Bên bác tổ chức vui thế , chắc bia và gụ chảy thành suối . Cho em ké chia vui với các bác , chúc các bác hàng ngày có thêm niềm vui hơn nữa , nhưng cũng nên uống ít thôi để còn ra về trong an toàn .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 05 Tháng Chín, 2009, 08:15:04 am
( Lại tắc bọp tiếp vài phát súng lẻ làm nền cho chuyện chiến đấu của bác Bình Yên bên "Mũi chính diện...")
------

              Những ngày đầu tháng 2/1972, tiểu đoàn huy động các C cử người ra khu ruộng cạn của dân cạnh đường cái để đắp sân khấu. Không hiểu cái đợt nhập ngũ của chúng tôi có tầm quan trọng gì mà được ưu tiên nhiều thế. Độ trước thì được Đại tướng đến thăm. Bây giờ nghe nói là sẽ được đón đoàn văn công TCCT về biểu diễn. Với lính tráng thì đơn giản nhất là đắp sân khấu đất. Chả phải tốn vật liệu gì, còn công lính thì yên tâm đi, nhiều như… nước sông mà.

              Ngày thứ bảy đầu tiên của tháng 2 đó, đoàn văn công về thật. Chúng tôi được ăn cơm chiều sớm rồi hành quân tập kết đến khu sân khấu. Cả tiểu đoàn ngồi thành hàng lối, súng ai nấy cầm, để tựa vai và tất nhiên là không có đạn. Đoàn văn công về biểu diễn chủ yếu là hát, nhạc và độc tấu nhạc, không có múa. Tôi chỉ còn nhớ nhất diễn viên Kim Quy hát bài "Người ở đừng về". Tất nhiên là còn nhiều tiết mục hay khác nữa.

               Sáng hôm sau, cả tiểu đoàn báo động sớm, sắp xếp ba-lô rồi nhận lệnh hành quân về Hà Nội. Đợt dã ngoại xa này đã kết thúc đợt huấn luyện quân và chúng tôi chuẩn bị vào chiến trường. Tiểu đoàn trưởng đọc lệnh hành quân, tuyên bố chúng tôi đã hành quân dã ngoại mang vác nặng đủ 400 cây số. Còn thiếu 100 cây nữa mới đủ tiêu chuẩn đi B, thì từ đây về Hà Nội hơn 100 cây sô, cộng vào là đủ tiêu chuẩn. Thế là cả đoàn quân hăm hở lên đường. Không hiểu sao buổi sáng hôm ấy phấn khích lắm, không thấy mệt bao nhiêu. Thằng Thái Pi-tơ (và cả nhóm 4 thằng anh nuôi) được biên chế vào các B để đợt này vào Nam luôn, không phải ở lại làm anh nuôi nữa. Cái ba lô của nó lép xẹp, lại không phải mang súng (còn soong nồi thì ô-tô tiểu đoàn đã chở đi rồi, kỳ này chúng tôi tập nấu ăn theo từng A), nên nó phởn chí vừa đi vừa hát. Thằng này có biệt tài âm nhạc. Nó hát lại đúng theo các bài mà các anh chị văn công đã hát tối qua. Nó uốn giọng theo diễn viên, kể cả giọng nữ nghe cũng lả lướt mềm mại lắm. Nó làm chúng tôi không thấy mệt vì như được nghe lại buổi biểu diễn. Đoan đường rút ngắn lại dần.

               Tôi còn có một niềm vui khác ở nông trường cam. Lần này tôi không được đi tiền trạm, nhưng nếu đêm nay dừng chân ở khu nông trường cam bữa trước thì tôi cũng sẽ gặp được Hoa. Sẽ có người giúp tôi tìm Hoa, đó là vợ chồng cô giáo người Kinh, chủ nhà bữa đó tôi ở.
             Nhưng số phận con người ta quả là do ông trời sắp đặt. Khi còn cách nông trường cam rất xa thì đơn vị tôi lại rẽ theo một con đường khác để về Hà Nội theo hướng Kim Bôi. (con đường này là đường 128 hay gì đó, nghe nói do TNXP làm từ thời mới hòa bình 1954). Tôi hẫng cả người, rồi từ đó cứ lầm lũi đi, không còn nghe cả tiếng thằng Thái "pi-tơ" hát hay thôi lúc nào nữa. Tôi còn phải nghĩ vơ vẩn về cô giáo Hoa cho đến hết ngày hành quân đó. Thôi, số trời là vậy. Nhưng chắc Hoa cũng chẳng giận tôi hay phải buồn nhiều, vì tình cảm của chúng tôi chưa có bao nhiêu. Rồi cô ấy sẽ nhanh quên tôi. Nhưng có lẽ cô ấy cũng trách cái thằng trai Hà Nội không có được cái thật mộc mạc của những người dân tộc như cô. Tự nhiên tôi lại nghĩ quẩn là nếu vào trong kia, tôi ngã xuống trong một trận đánh nào đó, rồi tin tôi hy sinh được báo tới cô, thì khi đó cô sẽ ra bên bờ suối cạnh trường, nơi có những vườn cải xanh mướt, ngồi khóc một mình rồi tha thứ hết cho tôi. Hoa ơi, thôi anh đi đây. Bao giờ anh cũng là người có lỗi mà chẳng biết làm thế nào được. Đành đổ lỗi tất cả cho chiến tranh vậy, em nhé.

              Cũng từ đó, tôi không còn tin gì của Hoa và cũng không bao giờ gặp lại cô ấy nữa.
   …

               Tối hôm đó chúng tôi dừng chân ở một bản Mường thuộc huyện Kim Bôi. Không phải sinh hoạt nhiều, nhưng có một việc phải làm là mỗi lính chuẩn bị một bó củi độ 5 kg. Củi sẵn đầy sân, dân cho, chỉ việc sắp lại và bó cho gọn. kế hoạch là ngày mai chúng tôi sẽ dừng chân ở Quốc Oai, đem sẵn củi ở rừng về để không làm phiền dân.

              Ngày hôm sau, cả đơn vị hành quân cẳt qua Lương Sơn, đường số 6 về Quốc Oai. Chúng tôi nghỉ nhờ ở một xã khác chứ không phải cái xã hôm chúng tôi lên Hòa Bình 6 tháng trước. Về đến đồng bằng, lại đúng ngày 23 ông Công ông Táo, nên không khí tết đã rõ rệt lắm, dù khi ấy thành thị nông thôn đều nghèo như nhau. Phú quý mới sinh lễ nghĩa. Ngày đó cả nước nghèo nên ngày 23 cũng chỉ là ngày nhắc nhở sắp tết thôi, không có cúng lễ lằng nhằng như sau này. Nhưng dù sao cũng có chút không khí tết. Ở phố thì nhộn nhịp tem phiếu mua chút hàng tết, còn nông thôn thì đã chuẩn bị lá dong, đụng lợn, tát ao bắt cá… nên cũng náo nức.

              Cuối chiều ngày thứ ba của cuộc hành quân huấn luyện cuối cùng, chúng tôi về đến Đại Mỗ, Hà Đông. Hôm đó là ngày 24 tết rồi. Thế mà chúng tôi còn phải nằm lại Đại mỗ, học chính trị, lau chùi súng ống nộp kho thêm 3 ngày. Lạ cái là không khí Tết sát đít, hồ Hoàn Kiếm chỉ cách xa nơi này có 14 cây số, thế mà không ai chuồn. Đến chiều ngày 11/2 (27 tết) chúng tôi tập trung nghe BCH từng C phổ biến kế hoạch nghỉ phép, ngày tập trung trở lại. Chúng tôi nhận tiêu chuẩn tết (tôi không còn nhớ có những gì, chỉ nhớ 1 điểm đặc biệt là mỗi lính được một bao thuốc lá Thủ Đô bao bạc, hàng cao cấp lúc bấy giờ) rồi giải tán, tự túc về nhà. Vậy là đợt chúng tôi lại có thêm một cái may mắn nữa là nghỉ phép chuẩn bị đi B đúng dịp tết.

               Từng toán lính áo quần bụi bặm, ba-lô kềnh càng (lúc đó chúng tôi mang cả chiếu cói cá nhân, thằng nào có cành Lan rừng lấy ở núi Tân Lạc về mang theo còn lỉch kỉch hơn) bổ ra thị xã Hà Đông, ra bến tàu điện. Lính tráng lên ngồi chật cả 3 toa tầu điện. Lại một cái may nữa là không ai phải mất tiền vé, dù từ đó về bến Bờ Hồ dài nhất tiền vé cũng chỉ có 1 hào. Có lẽ cả mấy chuyến tàu điện Bờ Hồ - Hà Đông tối đó cũng thế, các bác tài và bán vé tàu điện đã úy lạo cho cả một tiểu đoàn lính Thủ Đô, con em của họ chuẩn bị ra chiến trường.

              Bảy giờ tối hôm đó, ngày 11/2/1972, tức là ngày 27 tết Tân Hợi, tôi về đến ngôi nhà sau hơn nửa năm trời xa vắng.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Hungnt_E1F2 trong 05 Tháng Chín, 2009, 09:18:49 am
...Nhưng số phận con người ta quả là do ông trời sắp đặt. Khi còn cách nông trường cam rất xa thì đơn vị tôi lại rẽ theo một con đường khác để về Hà Nội theo hướng Kim Bôi. (con đường này là đường 128 hay gì đó, nghe nói do TNXP làm từ thời mới hòa bình 1954). Tôi hẫng cả người, rồi từ đó cứ lầm lũi đi, không còn nghe cả tiếng thằng Thái "pi-tơ" hát hay thôi lúc nào nữa. Tôi còn phải nghĩ vơ vẩn về cô giáo Hoa cho đến hết ngày hành quân đó. Thôi, số trời là vậy. Nhưng chắc Hoa cũng chẳng giận tôi hay phải buồn nhiều, vì tình cảm của chúng tôi chưa có bao nhiêu. Rồi cô ấy sẽ nhanh quên tôi. Nhưng có lẽ cô ấy cũng trách cái thằng trai Hà Nội không có được cái thật mộc mạc của những người dân tộc như cô. Tự nhiên tôi lại nghĩ quẩn là nếu vào trong kia, tôi ngã xuống trong một trận đánh nào đó, rồi tin tôi hy sinh được báo tới cô, thì khi đó cô sẽ ra bên bờ suối cạnh trường, nơi có những vườn cải xanh mướt, ngồi khóc một mình rồi tha thứ hết cho tôi. Hoa ơi, thôi anh đi đây. Bao giờ anh cũng là người có lỗi mà chẳng biết làm thế nào được. Đành đổ lỗi tất cả cho chiến tranh vậy, em nhé.

              Cũng từ đó, tôi không còn tin gì của Hoa và cũng không bao giờ gặp lại cô ấy nữa...


Đoạn đối thoại với bản thân của bác thực, mộc mạc mà sâu lắng quá, đúng với tâm tư lính trẻ HN. Mà cũng mấy ai viết ra với tận cùng suy nghĩ, trải lòng thanh thản, bác Trongc6 ôi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 05 Tháng Chín, 2009, 09:41:26 am
@ Bác Trongc6: Tết năm đó tôi chỉ đi chơi với lính 48, 52 các bác. Đêm giao thừa, mùng 1, mùng 2, tôi vẫn nhớ mấy tên Tùng, Thắng  ở Hàng Trống và Phan Thế Hùng. Năm đó đi chơi Hàng Bài ( Phố Tẩy ) va chạm với học sinh miền Nam, HSNM quây kín hai đầu phố Hàng Trống vào phút chót nhận ra vài mặt quen là giải tán. Sau này tôi có gặp Thắng f968 bị thương ở chân và nhà đã về Khâm Thiên, những người này bác có biết không nhỉ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Chín, 2009, 06:43:22 pm
Bác PhongQuang:
Bác biết nhiều anh em trong đơt lính bọn tôi. Chắc gặp nhau sẽ có ối chuyện để nói.
C tôi lúc đó có Thắng "bột" Hàng Trống, nhưng nó bị thương vào mắt phải.
(Thôi, tiếp một đoạn nữa hồi ức về ngày đó:)

-------------------

     … Mươi ngày phép thật bận rộn. Thằng nào có chút bạn gái học cùng lớp hẹn hò thì tha hồ mà bận. Tán quanh tán quẩn, nhớ thương nhau kiểu gì thì cũng không thoát khỏi câu nói kinh điển thời chiến khi đó là "hẹn ngày chiến thắng", hoặc "hết chiến tranh anh sẽ về". Lãng mạn và thơ mộng thế đó, dù rằng sau đó có nhiều thằng về trước cả ngày chiến thắng. Đó là khi các cậu bị thương đủ tiêu chuẩn để ra Bắc, nhưng lúc đó chẳng ai nghĩ đến tình huống này. Thằng Tuấn "đen" ở Khâm Thiên có cô người yêu xinh như mộng (Xinh tới mức không muốn cho những thằng lính khác trong đơn vị gặp mặt vì… ghen). Cô nàng nũng nịu chia tay lúc lên đường bằng câu: "Hẹn anh nửa năm sau. Em chỉ cho anh đi sáu tháng thôi đấy". Không ngờ câu nói đó ám ảnh nó suốt. Sáu tháng sau, thấy chẳng có vẻ gì là hết chiến tranh cả, thằng Tuấn "đen" nghĩ quẩn chọn đường về bằng cách tự thương vào tay. Quân y phát hiện ra ngay. Nó bị hành thêm 18 tháng gian lao nữa mới được tước quân tich đuổi ra Bắc.

               Nhưng đó là chuyện sau này. Còn tết đó chúng tôi đi chơi thả phanh. Ngoài chuyện thăm hỏi chia tay họ hàng, bạn bè, ăn tết cùng gia đình ra, chúng tôi lại í ới tụ tập nhau. Ngày ấy chưa có điện thoại gia đình. Sang thì bon xe đạp tìm nhau, không thì cuốc bộ hay nhảy tàu điện. Ra Bờ Hồ, ra công viên Thống Nhất chụp ảnh kỷ niệm, quân phục bèo nhèo, xộc xệch. Có tối thì rủ nhau ra Quán Gió hay hiệu Bốn Mùa, ăn kem và uống cà-phê. Bỏ bao thuốc lá Thủ Đô ra hút khoe với thiên hạ. Hôm giáp tết còn tập trung ở Cột Đồng hồ xem đài "Tàng hình" phát thử chương trình truyền hình thời sự. Đêm giao thừa rồi đêm mồng một, mồng hai Tết, toàn là lính cứ quấn lây nhau mà đi chơi. Cùng một sắc áo bạc màu, nhận ra nhau ngay, gặp nhau chan chát trên phố. Cụm lại tán chuyện ầm ĩ, cứ như Hà Nội chỉ có mình, rồi lại xé lẻ từng nhóm tiếp tục "bát" phố. Rồi lại giăng nhau từng đàn đến hai chục đứa chật một góc phố, nghiêng ngó lần cuối khung cảnh Thủ Đô. Có đêm đi chơi tới mấy giờ sáng mới về.

               Bố mẹ cũng không kêu ca như thời còn đi học. Hầu như cái gì ngon cũng được tập trung cho ăn. Chẳng phải là bồi dưỡng sức quân gì đâu, mà là các cụ thương con, không biết sau này có còn được trở về nữa hay không. Nhưng thật tình lúc đó chẳng ai nghĩ đến tình huống xấu. Còn chính cái sự chơi bời nghịch ngợm vô tư của chúng tôi khi đó cũng làm cho các bậc phụ huynh bớt đi phần nào lo lắng.

              Ngày 24/2, hết đợt phép ba thằng bạn cùng lớp 10 (chúng nó là diện con một hoặc đã có anh trai đang ở chiến trường nên không phải đi lính) đèo xe đưa tiễn tôi vào tận Đại Mỗ. Tôi bị chậm một ngày phép. Sáng sớm nay cả tiểu đoàn đã hành quân về hướng Vân Đình xuống Hà Nam rồi. Anh Thụy (B phó) đang chờ đón mấy thằng lính muộn chúng tôi, chừng hơn chục thằng. Tối đó chúng tôi ăn cơm và nghỉ lại nhà dân. Ba đứa bạn học cũng cùng ăn cơm và ở chơi với chúng tôi tới khuya mới về.

               Thế là kết thúc huấn luyện, kết thúc những ngày ở Bắc. Từ ngày mai, chúng tôi sẽ chính thức bước chân lên đường vào chiến trường.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 30 Tháng Chín, 2009, 06:59:49 pm

              Sớm hôm sau anh Thụy dẫn chúng tôi ra bến xe ô-tô Hà Đông. Lính tráng góp tiền mua vé xe đến Vân Đình. Anh Thụy bảo phải đi ô tô cho kịp. Tới Vân đình cả bọn xuống xe đi bộ sang tỉnh Hà Nam.

              Đoạn đường cũng chỉ độ non chục cây gì đó thôi, vì chúng tôi tìm đên đơn vị thì cũng còn kịp ăn cơm trưa. Nơi ấy là xã Đại Kim, huyện Kim Bảng, Hà Nam. Tất cả đều ở trong nhà dân, nhưng hình như nơi đây có một cái trạm nào đó thì phải, vì có nhà bếp, có anh nuôi nghiêm chỉnh, nấu cơm bằng cái chảo gang to tường. Đến bữa ăn là đi ăn tập trung.

               Hôm sau chúng tôi học chính trị. Cấp trên không phổ biến cụ thể, chúng tôi chỉ cần biết là đi B, thế là đủ. Chính trị viên Trần Tính người Thanh Hóa có một bài chính trị vô cùng ấn tượng, nó theo suốt tôi những ngày quân ngũ và cho đến nay tôi vẫn còn nhớ, cứ như mới được nghe vừa hôm nào đấy thôi. Cái giọng xứ Thanh nằng nặng quyện chất thuốc lào khi đã nghe quen thì mê li lắm. Ông bảo:

              " Các đồng chí là lớp thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh. Các đồng chí đang được hưởng một niềm vinh dự lớn lao mà không một thế hệ nào có được. Đó là được đánh Mỹ và sẽ đánh thắng Mỹ. Niềm vinh dự và tự hào này sẽ không bao giờ còn có nữa. Đến đời con, đời cháu các đồng chí, dù có muốn cũng không còn Mỹ nữa mà đánh. Các đồng chí hãy vững bước lên đường. Quê hương luôn chờ tin chiến thắng của các đồng chí. Chúc các đồng chí lên đường mạnh khỏe, lập công và chiến thắng trở về".

               Những bài học chính trị không bao giờ thừa. Còn khoác áo lính là còn học chính trị thường xuyên. Nhưng ấn tượng với tôi chính là điều CTV Trần Tính khẳng định rằng chính thế hệ chúng tôi sẽ đánh thắng xong Mỹ. Sau này tôi cứ ngẫm mãi điều này. Ông nói suông theo kiểu chính trị, hay là một niềm tin mãnh liệt mang tính dự đoán thiên tài? Tôi nhớ lại Di chúc của Bác Hồ, trong đó Bác chả nói rằng cuộc KCCM của chúng ta nhất định thắng lợi, nhưng có thể phải kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa đấy là gì? Vậy thì cái gì là quyết tâm, cái gì là niềm tin thực tiễn?

               Chính trị gì thì chính trị, nhưng thực tình lúc đó nghe bài chính trị ấy, chúng tôi háo hức lắm. Đúng là náo nức ra trận thật chứ không phải là miễn cưỡng hay bắt buộc gì.

              Rồi sau này suốt trong những ngày tháng hành quân trên Trường Sơn, mỗi khi nghe tin chiến thắng trong chiến trường là chúng tôi sốt ruột ghê lắm. Kèm tin chiến thắng, CTV phó (Vì lúc đó cấp trưởng B,C và A ở lại, chỉ có cán bộ B,C cấp phó là theo vào chiến trường cùng chúng tôi thôi) bao giờ cũng thêm một câu:"Nhanh chân lên, khẩn trương lên các đồng chí, không có vào trong đó muộn các đơn vị bạn họ đánh hết Mỹ rồi thì còn gì mà đánh nữa".

               Ừ nhỉ. "Các đồng chí ơi, đánh nhè nhẹ thôi, còn dành Mỹ cho chúng tôi với. Đừng lấy mất niềm tự hào được đánh Mỹ của chúng tôi". Thật mà cứ như đùa. Đúng là lúc đó suốt dọc đường chúng tôi cứ luôn có ý nghĩ luẩn quẩn như vậy.
*

               Trở lại câu chuyện ở xã Đại Kim, Hà Nam. Sau hai ngày học chính trị, chúng tôi chuẩn bị tinh thần để ngày mai nhận quân trang mới. Hai bộ quần áo lính qua sáu tháng huấn luyện tuy đã cũ, nhưng còn tốt lắm. Cứ so với cái tiêu chuẩn một năm được 5 mét vải của người dân khi đó, thấy cứ tiếc bộ quần áo lính thế nào ấy. Đã vậy, bác chủ nhà còn lôi ra ở đâu mấy bộ quần áo lính còn cũ hơn, sờn rách cả vai và đầu gối bảo đổi cho chúng tôi để mai đem nộp. Bác ấy bảo, đằng nào số quần áo thu lại của các chú cũng chỉ đem cho lính pháo làm giẻ lau thôi. Nể quá, chúng tôi cũng lấy quần áo cũ của mình ra đổi, nhưng chỉ đổi bộ trong ba-lô, còn bộ mặc trên người dù sao anh em cũng đã quen nhìn lành lặn, mặc bộ rách quá thấy nó bôi bác thế nào ấy.

               Hôm sau chúng tôi tập trung thành từng C ra sân kho đổi quân trang. Chuyện nộp quân trang cũ xảy ra êm thấm. Đến lúc được phát quan trang mới, chúng tôi vô cùng ngỡ ngàng và sung sướng. Toàn quần áo Tô-Châu xanh mượt. Dép đúc, giày cao cổ, mũ cối, mũ tai bèo, thắt lưng, xanh-tuya-rông, rồi chăn, màn… đủ cả. Rồi cả ruốc, đường, Hăng-gô, bi-đông, thuốc chống vắt… nói chung là đầy đủ tới mức không thể ngờ. Mối tổ 3 người được phát một khẩu súng AK có 20 viên đạn, 1 dao găm, 1 bật lửa Trung Quốc. Đồ đoàn cá nhân thế mà cũng gần 20kg.

              Chúng tôi mặc quần áo mới thay ngay tại chỗ, trông thằng nào cũng xúng xính. Nhưng phải nói thật là đa số quần áo đều rộng so với số đông lính chúng tôi. Quần toàn phải xắn gấu. Áo lót cũng là một cái sơ mi cộc tay vải phin. Còn quần đùi thì đúng là quần chính ủy. Thắt cái dải rút xong mà nó rộng thùng thình, chim chóc thoáng mát cứ như không mặc gì. Mặc cái quần đùi ấy mà đi quây bắt lợn, đảm bảo con lợn 20kg phi lọt từ ống quần này chui qua ống quần đùi kia của mình.

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: smilingmen trong 30 Tháng Chín, 2009, 08:30:43 pm
Mong bác Trongc6 tiếp tục cuộc hành quân để chúng cháu được hiểu thêm không khí hào hùng thời đánh Mỹ. Nhưng kể ra tốc độ hành quân, 10 ngày/1 bài là... hơi chậm bác ạ :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: con_ech_gia trong 01 Tháng Mười, 2009, 12:41:56 pm
Trích dẫn
… Còn quần đùi thì đúng là quần chính ủy. Thắt cái dải rút xong mà nó rộng thùng thình, chim chóc thoáng mát cứ như không mặc gì. Mặc cái quần đùi ấy mà đi quây bắt lợn, đảm bảo con lợn 20kg phi lọt từ ống quần này chui qua ống quần đùi kia của mình.
….
Cái quần đấy mà mặc đi hoạn lợn thì mới kinh, bác Trọng ạ! ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Mười, 2009, 06:26:39 pm
Cái quần đấy mà mặc đi hoạn lợn thì mới kinh,
-------------
Xin bái phục cái hóm của bác Ếch Già. Tôi đọc lại mà ngẩn người ra, rồi càng nghĩ càng thấy buồn cười. Càng tưởng tượng lại càng buồn cười không nhịn được. Cười một mình cứ như thằng dở hơi ấy mà không nín được, phải quay sang đọc cái khác,
Chịu bác thật đấy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: altus trong 02 Tháng Mười, 2009, 07:20:55 am
Tôi nhớ lại Di chúc của Bác Hồ, trong đó Bác chả nói rằng cuộc KCCM của chúng ta nhất định thắng lợi, nhưng có thể phải kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa đấy là gì?

Dạ, bác nhớ nhầm. Cụ bảo "có thể còn kéo dài mấy năm nữa". Các bác BCT bán tín bán nghi cắt ngắn bớt lại là "có thể còn kéo dài."  ;)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: anhkhoi trong 02 Tháng Mười, 2009, 08:35:41 am
Tôi nhớ lại Di chúc của Bác Hồ, trong đó Bác chả nói rằng cuộc KCCM của chúng ta nhất định thắng lợi, nhưng có thể phải kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa đấy là gì?

Dạ, bác nhớ nhầm. Cụ bảo "có thể còn kéo dài mấy năm nữa". Các bác BCT bán tín bán nghi cắt ngắn bớt lại là "có thể còn kéo dài."  ;)

Vụ "5 năm, 10 năm" không phải trong di chúc đâu các bác ạ.

"Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do."
(Trích "Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước" của Hồ Chủ Tịch, ngày 17/7/1966)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 07 Tháng Mười, 2009, 10:08:34 pm
……
               Sáng hôm sau, Cả tiểu đoàn lại được tập trung ra sân kho xem văn công biểu diễn. Lần này là văn công Hà Nội, không phải văn công Trung ương. Các tiết mục thập cẩm, có cả hát chèo lẫn chầu văn. Tôi đang ngồi giữa hàng quân nghe hát, thì thấy anh Thụy lách vào ra hiệu cho tôi ra ngoài:"Mẹ cậu tới thăm đấy". Tôi xin phép anh rồi chui ra ngoài. Mẹ tôi và một thằng bạn học phổ thông đang đứng chờ. (Là một trong ba thằng tiễn tôi vào Hà Đông hôm trước. Nó không phải đi lính vì hiện đang có anh trai là bộ đội đặc công chiến đấu trong Quảng Nam).

           Mẹ tôi nói đã xin phép cấp chỉ huy, rồi dẫn tôi ra ngoài thôn. Từ đây ra ga Đồng Văn ngoài đường 1 có 5 cây số. Thằng bạn hỏi thăm biết đơn vị chúng tôi còn ở đây mấy ngày nên đưa mẹ tôi xuống thăm. Mẹ tôi cũng biết đây là lần cuối cùng có thể gặp được tôi nên không quản đường xa. Cả ba ra một cái quán nước bên đường ngồi nói chuyện. Mẹ tôi mua đủ thứ cho tôi ăn, mà tôi lại không ăn được mấy (mà hàng quà lúc đó cũng chỉ lèo tèo ít hoa quả, bánh quê và vài thứ kẹo vờ vẩn rắn như đanh thôi). Tôi biết mẹ thương tôi lắm, vì tôi là đứa có hiếu nhất nhà. Hoàn cảnh của tôi lúc ấy, nếu tôi không đi bộ đội, mà đi học nước ngoài thì vẫn được vì khi đó bố tôi là một cán bộ cao cấp trong ngành ngoại giao. Nhưng tôi không muốn bố tôi mang tiếng, ảnh hưởng đến thanh danh. Mặt khác gia đình tôi có hai anh em trai, đứa em tuổi cũng gần kề tôi.

             Trước ngày tôi nhập ngũ ít tháng, mẹ tôi đã suy nghĩ rồi bảo tôi:

           - Đằng nào thì nhà mình cũng phải góp một người cho cuộc kháng chiến Chống Mỹ cứu nước này. Con dù sao cũng có phần nhanh nhẹn hơn em con, đi bộ đội may ra cũng có thể còn sống mà trở về. Nếu con đi học nước ngoài thì chắc chắn đến năm sau nữa, em con phải vào bộ đội. Nó vốn chậm chạp, chắc không thoát khỏi cái chết.

             Tôi vui lòng nghe lời mẹ, không lấn cấn điều gì. Song, qua tâm sự của mẹ tôi, tôi cũng biết mẹ rất đau lòng. Giàu con út, khó con út. Mẹ thương em tôi cũng phải thôi. Mà ngay cả tôi, tôi cũng rất thương em. Nếu phải hy sinh một người trong nhà, thì đó sẽ là tôi.

            Tôi vào lính và ra đi thanh thản lắm. Tôi cũng có một chút cá tính. Đợt 22/12 năm ngoái, quân lực trung đoàn chấm tôi cho về làm văn thư ở Bộ tư lệnh thủ đô, vì tôi là thằng văn hay chữ tốt. (Học phổ thông, tôi nhiều năm là học sinh tiên tiến A1, A2. Năm lớp 10, tôi còn suýt đi thi học sinh giỏi văn. Điểm văn trung bình của tôi năm đó là 8,2. Tôi từng có những bài văn cô giáo cho điểm 10, được đọc trước toàn lớp). Thế  nhưng tôi đã từ chối, đơn giản vì ý nghĩ rât kiêu hùng của lớp lính thời đó: "Chết xanh cỏ, sống đỏ ngực". Đã đi lính mà không được làm thằng lính cầm súng ra trận giết giặc, lại ngồi ru rú góc văn phòng thì đời trai còn có nghĩa lý gì nữa.

           Mẹ tôi cũng biết chuyện này, nhưng không phàn nàn gì. Mẹ không muốn làm chùn bước tôi. Còn bố tôi thì nghĩ theo kiểu riêng. Năm đó đang công tác nước ngoài không về được, ông bảo mẹ tôi gửi ảnh tôi sang rồi cặm cụi thuê làm một cái ảnh to như quyển sách giáo khoa trên một tấm gỗ bọc phim. Cái ảnh là hình tôi màu sáng ở giữa với đôi mắt măng tơ mở to nhưng kiên nghị, mà xung quanh là cả một vùng tối, trông như ảnh thờ. (May mà bức ảnh không phải làm cái chức năng ấy). Sau này tôi trở về, nhận lại tấm ảnh đó từ bố tôi. Nó vẫn sáng như ngày năm đó, nước phim không hề mờ ố, đến nay vẫn vậy. Thằng con tôi học đại học rồi mà vẫn treo cái ảnh ấy của bố nó trước bàn học. Đấy là 2 thằng thanh niên của hai thế hệ đang nhìn nhau.

             Buổi trưa mẹ tôi cho tôi đi ăn phở. Gọi là phở cho oai thôi, thực ra là món bánh đa thái nhỏ, còn nước dùng là nồi nước ninh với dăm củ su hào cho ngọt. Mẹ tôi cho thêm một tí mì chính vào, thế là ngon tuyệt. Tôi chén ngon lành tới hai bát. Rồi mẹ tôi cho tiền, nhưng lần này tôi dứt khoát không nhận. Ngày cuối cùng rồi, từ mai đã trên đường hành quân, còn ở đất Bắc mấy ngày nữa mà mua với bán. Thằng bạn tôi hầu như không bắt chuyện, nó ngồi im để cho mẹ con tôi rì rầm nói chuyện.

             Đến đêm đơn vị mới lên tàu, nhưng buổi chiều tôi đã nói mẹ tôi nên ra ô-tô về Hà Nội kẻo trễ. Tôi không muốn mẹ tôi tiễn tôi vào lúc tàu chạy, sợ mẹ buồn. Mẹ tôi không khóc, nhưng lúc lên ô-tô, mẹ tôi đã kín đáo lấy khăn tay lau mắt. Tôi biết mẹ tôi buồn lắm.

             Đến đêm, tôi cùng đơn vị ra ga, lên tàu vào chiến trường. Thế là tôi đã ra đi, tôi đã đem theo cả cuộc đời của mẹ tôi mà ra trận.

     …


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 14 Tháng Mười, 2009, 02:52:05 pm
        Các bác CCB thời K đặt chân lên biên giới là nổ súng ngay.

        Chiến trận liên miên, các cánh quân điều hướng này hướng khác, có chính diện, có thọc sâu vu hồi với tư thế đánh nhanh, đánh dập đầu não chỉ huy của địch, cứ như thời Giải phóng châu Âu vậy,

         Thật oanh liệt và hào hùng.

         Thời chúng tôi là "Đi lâu, đi sâu, đi đến ngày toàn thắng". Mệt mỏi và dằng dai lắm. Chuyện chiến đấu và công tác chỉ là những mấu chuyện kiểu "Chuyện thường ngày của lính". Số chiến dịch chỉ như đếm đầu ngón tay. Lúc nào cũng mong đánh lớn để "may ra tình thế có thay đổi gì không".
Quả là chuyện không có gì đặc sắc để kể.

        Tôi muốn "tụt tạt' chờ các cánh quân của Binhyen1960, của QuyenKH, của Dongdoi78 lên đường.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: DuyAnh trong 14 Tháng Mười, 2009, 09:47:38 pm
……
               
             Đến đêm, tôi cùng đơn vị ra ga, lên tàu vào chiến trường. Thế là tôi đã ra đi, tôi đã đem theo cả cuộc đời của mẹ tôi mà ra trận.

     …


Em xin phép hóng hớt tí.

QSVN lại phát hiện thêm một tài năng viết văn, xúc động vô cùng.

Em thiết nghĩ có người sĩ quan huấn luyện nào đó mà in những bài hồi ký này cho những người lính thời nay được đọc thì quả thật sẽ có ý nghĩa rất lớn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 22 Tháng Mười, 2009, 06:49:05 pm
     Trong Diễn đàn này, các bác CCB chiến trường K rất đông.

      Các bác đã nêu lên thiệt thòi của CCB k khi mà chỉ gần đây xã hội mới nhắc đến, nhưng cũng chỉ nói vèo qua một cái là hết.

       Tôi rất thông cảm với các CCB ở K, vì bọn tôi cũng là lính tình nguyện quốc tế, nhưng ở chiến trường Lào nên được nhắc đến nhiều và công khai hơn.

       Hôm nay tôi nhận được một cái giấy mời của BTL Thủ đô do Thiếu tướng Phí Quốc Tuấn (Tư lệnh) ký, thay mặt Ban liên lạc Quân tình nguyên Việt Lào mời dự họp mặt truyền thống vào chủ nhật (25/10) này tổ chức tại Trung tâm Hội nghị QG Mỹ Đình.

     Trong chương trình sẽ có phần đọc thư gửi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, có phát biểu của Lãnh đạo Thành phố Hà Nội, của Đại sứ nước CHDCND Lào, của các tướng lĩnh từng là bộ đội tình nguyện Việt-Lào. Nhất là chuyện chúng tôi sẽ được tặng Kỷ niệm chương của Bộ quốc phòng.

      Trong cái vui ấy, chạnh lòng nhớ đến các CCB chiến trường K. Không biết khi nào các bác mới được công khai nhận kỷ niệm chương của Bộ quốc phòng.

      Vài dòng chia sẽ cùng các bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 22 Tháng Mười, 2009, 08:24:33 pm
   
       Hôm nay tôi nhận được một cái giấy mời của BTL Thủ đô do Thiếu tướng Phí Quốc Tuấn (Tư lệnh) ký, thay mặt Ban liên lạc Quân tình nguyên Việt Lào mời dự họp mặt truyền thống vào chủ nhật (25/10) này tổ chức tại Trung tâm Hội nghị QG Mỹ Đình.




Bác cho em hỏi 1 chút, vụ này là có tiêu chuẩn nào, hay tất cả các CCB chiến trường C đều đựoc mời ạ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Bodoibucket trong 22 Tháng Mười, 2009, 09:31:26 pm
Hé hê, ít ra các bác CCB K cũng có chỗ mà tán phét, các bác Lào thì chỉ nấu rượu là giỏi!  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vovanha trong 22 Tháng Mười, 2009, 09:39:29 pm
    Trong Diễn đàn này, các bác CCB chiến trường K rất đông.
 Trong cái vui ấy, chạnh lòng nhớ đến các CCB chiến trường K. Không biết khi nào các bác mới được công khai nhận kỷ niệm chương của Bộ quốc phòng.

      Vài dòng chia sẽ cùng các bác.

Cũng không mong gì đâu bác ơi !
Quan hệ Việt _ Lào  là mối quan hệ có thể gọi là mẫu mực. Sự biến đổi về Lượng ắt sẽ có biến đổi về Chất.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: yta262 trong 23 Tháng Mười, 2009, 10:03:10 am
        Các bác CCB thời K đặt chân lên biên giới là nổ súng ngay.

        Chiến trận liên miên, các cánh quân điều hướng này hướng khác, có chính diện, có thọc sâu vu hồi với tư thế đánh nhanh, đánh dập đầu não chỉ huy của địch, cứ như thời Giải phóng châu Âu vậy,

         Thật oanh liệt và hào hùng.

         Thời chúng tôi là "Đi lâu, đi sâu, đi đến ngày toàn thắng". Mệt mỏi và dằng dai lắm. Chuyện chiến đấu và công tác chỉ là những mấu chuyện kiểu "Chuyện thường ngày của lính". Số chiến dịch chỉ như đếm đầu ngón tay. Lúc nào cũng mong đánh lớn để "may ra tình thế có thay đổi gì không".
Quả là chuyện không có gì đặc sắc để kể.
...
Bác TrongC6 khiêm tốn rồi. Em tuy là CCB ở K. nhưng không biết nên tiếp nhận lời khen này của bác TrongC6 như thế nào đây ạ ... bởi vì có nơi này lại cũng có nơi khác, có lúc này lại cũng có lúc khác. Thời các CCB ở K. cũng như thời của bác TrongC6 KCCM, cũng có đơn vị đánh và đánh, như các đơn vị QĐ4 và sư 5, còn chỗ F302 của em ở Siêm Riệp & Sầm Rông hồi 79-82, em thấy cũng khá bình thường, không có gì đặc sắc để mà kể. Sau này mới biết khu vực em đóng quân xung quanh Sầm Rông là khu vực của ông hoàng mít ướt Sihanouk, ai đời làm chính trị khi được phỏng vấn lại đi khóc bù lu bù loa. Lực lượng Sihanoukist, tụi em gọi là Mulika, hình như là lực lượng yếu nhất trong 3 phái, bọn này đánh đấm cầm chừng để chờ đàm phán, đa số bọn Mulika có học và chơi đồ xịn (ba cái vụ đồ cổ xịn có Haanh làm chứng), chứ không gay cấn đánh chết bỏ như Pôn Pốt ở các khu vực Battambang, Pouk Sát, Núi Hồng, Anlong Veng & Preah Vihear. Nhóm Pôn Pốt đánh chết bỏ là vì chúng mù quáng theo đúng cái câu "quyền lực nằm trên nòng súng" của Mao chủ tịch, ngoài ra Pôn Pốt cũng dư biết là đại đa số dân chúng đã quá kinh hãi và chán ghét cái chế độ Pôn Pốt như thế nào, Pôn Pốt chỉ còn nước xài võ lực thôi. Tới khoảng giữa 1982 gì đó, dưới sức ép của Mỹ và Trung Quốc, lực lượng Mulika này mới chịu liên minh với Pôn Pốt và Son San, sau đó Mỹ và các nước phương Tây & Đông Nam Á giúp đỡ tận tình cho nên về sau mới chiến dữ như vậy, khi đó em phục viên gởi trả về nước rồi. Chỗ em và của bác TrongC6 không đánh là vì có chỗ khác, đơn vị khác đánh dùm rồi, em mượn câu này của bác Tailien_Son trong loạt bài "Mũi chính diện" đó ạ. Cho nên phần em, em phải cám ơn các đồng đội QĐ3, QĐ4, F5 & F307 rất nhiều. Lính mình ưa nói câu: "Súng đạn nó tránh mình, chứ mình nào có tránh được nó" là vậy, tụi em chỉ mong đem cái mạng về với gia đình, còn oanh liệt hay oai hùng thì sau khi về tới quê nhà rồi thỉnh thoảng nghe người mình hay báo chí nhắc thì mới ngẫm lại "Ồ, may quá"   :o


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 23 Tháng Mười, 2009, 11:11:44 am
Đánh nhau không sợ bằng hành quân. Có lệnh là đi, đi hoài đi mãi, đi mòn đi mỏi chỉ mong đụng địch để được.... nghỉ.
Mãi giờ cái ấn tượng sâu nhất với tôi thời ấy không phải là các trận đánh mà chính là các cuộc quân hành dai dẳng không biết đâu là đích. Mùa mưa 9h sáng hơi nước mù mịt trong rừng thẳm sau đêm ngủ mệt. Ngủ rừng không khí nó nặng lắm! Ngày nào cũng như ngày nào ... Mùa khô thì vạ vật đái ra mà uống, ăn cắp cả nước đái nhau mà uống, mà sống...
Như trận luồn sâu leo U Răng mệt quá sức chịu đựng của con người. Có những lúc tôi đã nghĩ giờ đụng địch đánh nhau, được ăn phát đạn vào đầu là sướng nhất. Khỏi leo khỏi vác nhẹ đời. Có thằng la khóc đòi tự sát nhưng thằng nào tự sát lúc đó chắc anh em nó vằm xác ra. Vì thân nó nó còn không mang nổi lại phải mang cái xác thối kia.
Chiến tranh không chỉ thử thách lòng dũng cảm, cái đó bình thường thôi. Đái ra quần trận đầu nhưng đụng vài trận sau là quen. Nhưng khốn nạn nhất là nó tra tấn, gặm nhấm sức chịu đựng cả phần hồn lẫn phần xác con người trong một thời gian vô hạn định, trong một điều kiện gian khổ vô hạn định
Sau này về rồi đi chơi Sapa, chúng nó cứ gạ leo đỉnh Fanxipăng. Mình nhìn cái đỉnh thấy ghê chết luôn!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vitính trong 23 Tháng Mười, 2009, 11:24:38 am
Sau này về rồi đi chơi Sapa, chúng nó cứ gạ leo đỉnh Fanxipăng. Mình nhìn cái đỉnh thấy ghê chết luôn!
Mỗi năm nên đi leo Yên Tử một lần thì vừa sức. Mùa thu đi rất hay đấy. Lại có cáp treo, lỡ khi thấy mình già.
Năm kia năm kìa tôi đi một mình, có dịp leo bộ cả lên cả xuống đỉnh cao nghìn mét mất 5 giờ đồng hồ. Tất nhiên là không có trang bị gì ngoài đồ nghề đi chơi. Bây giờ chắc không nổi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 23 Tháng Mười, 2009, 11:28:18 am
Cụ ơi! Còn 600 nàng hầu thì bỏ cho ai đây ?  ???

Thôi thông ở lại với trời
Ta về phố thị với người hồng nhan
Cuộc đời vất vả lo toan
Bát canh rau muống giòn tan quả cà
..................................


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 24 Tháng Mười, 2009, 08:08:09 pm
@bác Rongxanh:
         
          Hôm nay xem TV mới biết chính xác ngày 31/10 là ngày kỷ niệm của chuyên gia và bộ đội tình nguyện Việt Lào. Có vẻ năm nay nhà nước định tổ chức to. Thế mới có chuyện họp mặt rầm rộ và tặng kỷ niệm chương.

         Nhưng cũng như bác thắc mắc. Hóa ra không phải CCB Lào nào cũng có giấy mời. Tất cả chỉ là chuyện làm ví dụ thôi. Tôi có giấy mời, chẳng qua do có một thằng đồng ngũ hiện làm ở Ban Kiểm tra TW, sang bên BTL Thủ đô vớ lấy hai chục cái giấy mời đem về. Nó chợt nhớ ra thằng nào thì ghi tên thằng đó vào rồi gửi mời.

         Lại nhớ cách đây dăm năm chính phủ Lào chợt có một đợt tưởng nhớ nào đó đến bộ đội tình nguyện Việt Lào, thế là mít tinh và tặng 500 triệu đồng. Lính tráng thằng nào nghe tin làm bản kê khai thì được cấp 3 triệu. Cũng chỉ có hơn trăm thằng nhanh chân là được, và cũng chỉ tập trung ở HN thôi, còn bọn các tỉnh khác thì chỉ kịp nghe hơi thôi là tiền đã hết.

       Sau đó đến lần gặp mặt kỷ niệm sau, có thắc mắc thì được trả lời là nước bạn còn nghèo lắm, họ còn phải nhờ ta giúp đỡ cơ, cho được một lần (khởi hứng) như thế là tốt rồi. Không có chính sách lâu dài gì đâu.

       Thôi thì hàng năm được gặp mặt truyền thống, tự góp tiền để hò hét cũng tốt rồi các bác ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongdoi78 trong 25 Tháng Mười, 2009, 07:47:35 am
Đánh nhau không sợ bằng hành quân. Có lệnh là đi, đi hoài đi mãi, đi mòn đi mỏi chỉ mong đụng địch để được.... nghỉ.
Mãi giờ cái ấn tượng sâu nhất với tôi thời ấy không phải là các trận đánh mà chính là các cuộc quân hành dai dẳng không biết đâu là đích. Mùa mưa 9h sáng hơi nước mù mịt trong rừng thẳm sau đêm ngủ mệt. Ngủ rừng không khí nó nặng lắm! Ngày nào cũng như ngày nào ... Mùa khô thì vạ vật đái ra mà uống, ăn cắp cả nước đái nhau mà uống, mà sống...
Như trận luồn sâu leo U Răng mệt quá sức chịu đựng của con người. Có những lúc tôi đã nghĩ giờ đụng địch đánh nhau, được ăn phát đạn vào đầu là sướng nhất. Khỏi leo khỏi vác nhẹ đời. Có thằng la khóc đòi tự sát nhưng thằng nào tự sát lúc đó chắc anh em nó vằm xác ra. Vì thân nó nó còn không mang nổi lại phải mang cái xác thối kia.
Chiến tranh không chỉ thử thách lòng dũng cảm, cái đó bình thường thôi. Đái ra quần trận đầu nhưng đụng vài trận sau là quen. Nhưng khốn nạn nhất là nó tra tấn, gặm nhấm sức chịu đựng cả phần hồn lẫn phần xác con người trong một thời gian vô hạn định, trong một điều kiện gian khổ vô hạn định
Sau này về rồi đi chơi Sapa, chúng nó cứ gạ leo đỉnh Fanxipăng. Mình nhìn cái đỉnh thấy ghê chết luôn!
Chào đồng chí Trung si1.
Đúng là tâm trạng của người lính hành quân đường dài mang vác nặng đi không thấy đích. Mùa mưa cũng khổ mà mùa khô thì càng khổ hơn vì không có nước. Đã có chuyện khen nước tiểu của thằng nào " Xnganh " ( tiếng K Xnganh là ngon - không biết tôi nói có đúng không) hơn thằng nào... Có khi cả tiếng đồng hồ đội hình hành quân mới nhích được hơn 1 km. Tâm lý bộ đội lúc đó thường hay cáu bẳn với chỉ huy và chỉ huy cấp dưới bụng xụng với cấp trên là chuyện bình thường. Lại nữa, như bác H2 nói, nhiều khi còn cáu với cả K nữa: phục phọt thì làm đi cho các bố còn giải lao...
Bây giờ nghĩ lại thấy kinh kinh vì những lúc đơn vị rệu rã như vậy, chỉ cần 1, 2 thằng K nó ập - oành B hay tóc - oành M thì lại gói và khiêng nhau còn khốn hơn nữa.
Nỗi vất vả của chúng tôi chắc không thấm tháp gì việc đồng đội leo núi Urăng ulợi gì đó vất vả lắm, toàn núi đá dựng ngược mìn bom nhiều...Xin khâm phục


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 26 Tháng Mười, 2009, 07:06:01 pm
(Xin hành quân tiếp...)


   Đoàn tàu xuất phát tại ga Đồng Văn vào quãng 10 giờ đêm. Nơi này cách ga Hàng Cỏ đúng 45 cây số. Anh Thụy giải thích là từ sau đợt bọn lính tiểu đoàn 34, 36 phá phách ghê quá, nên các đợt lính sau bị vạ lây. Chúng tôi không được huấn luyện gần Hà Nội đã đành, mà ngay cả lúc vào chiến trường cũng phải hành quân mấy chục cây số để thu quân rồi mới được lên tàu.

               Cả tiểu đoàn xuất quân im ắng. Làng quê chắc đã quen với cảnh này. Tất cả tập hợp một cách có trật tự, im lặng trên sân ga chờ tàu từ Hà Nội vào. Chúng tôi lần lượt lên tàu một cách lặng lẽ. Cả chuyến tàu đó chỉ có lính của tiểu đoàn tôi.

               Chiếc đầu máy hơi nước kéo chừng chục toa xình xịch lăn bánh. Mặc dù thời gian này Mỹ đã tạm ngừng ném bom miền Bắc, nhưng những cuộc chuyển quân vẫn phải đi lặng lẽ trong đêm. Lính Hà Nội đa phần đã biết đến tàu hỏa, nhưng cũng có nhiều thằng mới được đi lần đầu, háo hức ra mặt. Vài ga đầu từ Phủ Lý đến Ninh Bình, chúng tôi còn thức, rì rầm trò chuyện, cố ngắm cảnh trời đêm bên ngoài. Khung cảnh làng quê Việt Nam nghèo nàn lướt qua khung cửa sổ. Gió thổi mát rượi. Rồi những cảnh đổ nát do bom Mỹ bắn phá các ga liên tục xuất hiện: Nam Định, Núi Gôi… Trời đêm se lạnh dần, lại mệt mỏi nên lính tráng dần dần lăn ra ngủ. Trải ngay nilon ra trên sàn tàu, nằm ngủ ngổn ngang.

               Đến cầu Hàm Rồng - Thanh Hóa, nghe tiếng kêu to của cán bộ chỉ huy, chúng tôi láo nháo thức dậy nhòm ra ngoài. Dòng sông Mã anh hùng và cây cầu huyền thoại đây rồi. Nhưng sao bé nhỏ và trơ trọi quá, chỉ thấy loang loáng những nhịp thép đen sì. Vài nhịp xình xịch là cây cầu đã lướt hết qua khung cửa. Không nhìn thấy lòng sông vì trời tối. Chả thể nào hình dung ra những chiếc ca nô phá thủy lôi từ trường chạy trên mặt sông ra sao. Cũng chẳng biết trận địa pháo của người anh hùng Đinh Tích Nhưỡng bảo vệ cầu nằm ở nơi nào. Thế là lại lăn ra ngủ.

               Sáng bảnh mắt thì vào đến ga Vinh. Chúng tôi bị đánh thức dậy. Chả hiểu tàu dừng bánh từ lúc nào. Tất cả xuống tàu tập trung gọn ghẽ theo hàng lối. Tôi đưa mắt nhìn quanh. Đây mà gọi là ga Vinh ư? Chẳng có nhà ga. Chẳng có những vệt hè lát gạch nằm bên đường tàu, dù chỉ là cái vệt bé rộng chưa tới ba mét như ở ga Đồng Đăng. Xung quanh như một bãi đất trống rộng không ranh giới. Thậm chí hình hài của những căn nhà đổ nát cũng không thấy rõ.

               Cả tiểu đoàn lục tục hành quân. Anh Thụy bảo đây là thành phố Vinh. "Anh chỉ lòe bọn em. Có thấy phố xá nhà cửa gì đâu". Nhưng đúng là thành phố Vinh thật. Một thành phố (hay thị xã to thì đúng hơn) đã bị bom Mỹ san bằng. Tôi liên tưởng cứ như mình đang ở một đơn vị Hồng quân Liên-xô hành quân qua một thị trấn châu Âu đổ nát nào đó hồi thế chiến thứ hai. (Bây giờ khi trở lại Vinh, tôi không thể nào tìm lại hay hình dung nổi ra vệt đường hành quân ngày đó). Đi mãi thì cũng tới một cái làng. Bây giờ chỉ còn nhớ cái làng đó là nhà tranh nứa dựng trên nền đất pha cát. Chúng tôi nghỉ ngoài vườn.

              Tất cả các điểm chúng tôi dừng chân nghỉ ngày từ đây vào đến trạm 5 Trường Sơn đều là binh trạm, bố trí lẫn trong dân. Không được lò mò đi đâu xa (mà cũng có biết nơi nào mà đi?). Đến bữa có người báo đi lấy cơm. Lấy cơm về ăn theo từng tiểu đội. Chúng tôi đã có đầy đủ ca, thìa cá nhân. Còn mỗi A được phát một soong 6, có cái nắp vung hình 3 khía để chia riêng thức ăn.

              Sẩm tối chúng tôi hành quân ra Bến Thủy, lên ca-nô đi tiếp sang Hà Tĩnh. Đây là lần đầu tiên tôi đi ca-nô. Ban đêm nhìn ra mặt sông chỉ thấy mênh mông nước. Mỗi ca -nô chở một trung đội gần bốn chục người. Chắc đoàn ca-nô phải nhiều lắm mới chở hết cả tiểu đoàn chúng tôi. Không biết cái ca-nô hay con tàu thủy mà bác Năm Sài Gòn khi xưa vẫy vùng kiếm ăn trên sông nước Thái Bình thời Pháp thuộc có to như ca-nô chúng tôi không?

               Đêm hành quân đường sông vô cùng êm ái. Chỉ chạy độ ba hay bốn tiếng gì đó thì tàu đã cập bờ. Chúng tôi lên một cái làng gần đó để nghỉ. Được ngủ no mắt thì trời mới sáng.

               Những căn nhà dân ở đây cũng tựa như ngoài Nghệ An, nhưng có vẻ chắc chắn hơn. Vẫn là nghỉ ngoài vườn thôi. Ban ngày, chúng tôi được nghỉ ngơi. Không phải họp, cũng không phải làm gì giúp dân, chỉ cần trật tự là được. Nơi đây tuy nghèo nàn, nhưng bác chủ nhà bắt đầu hướng dẫn chúng tôi một việc cần làm trước khi vào Nam. Mặc dù giọng nói của bác nặng và rất khó nghe (nhưng chưa đến nỗi ngôn ngữ bất đồng), chúng tôi hiểu là cần phải tiêu hết tiền đi vì sắp vào đến nơi không dùng được tiền nữa rồi. Thế là chúng tôi dốc tiền ra góp để bác chủ nhà mua giúp gà và chuối. Bác còn giúp chúng tôi làm gà (mỗi món luộc). Nếu như ở ngoài Hà Nội, 5 đồng là có một con gà to ngon lành thì trong này là 20 đồng. Của mua là của được, vì thế hầu như tiểu đội nào cũng mua gà. Nhưng cũng chỉ có món đó thôi, chẳng còn gì khác. Ăn đi, rồi đi ngủ để đến đêm còn phải hành quân.

…..



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 31 Tháng Mười, 2009, 08:00:42 pm

               Đêm nay chúng tôi chuyển sang hành quân bằng ô-tô Giải phóng của Trung Quốc. Sẽ vượt đèo Ngang để sang Quảng Bình.

               Quãng nửa đêm, cả đoàn xe dừng lại chừng một tiếng ven Thị xã Hà Tĩnh để chuẩn bị vượt đèo Ngang. Đây là quê hương của đại đội phó Hảo của chúng tôi. (Tôi vẫn ấn tượng với cái màn nếm gần nửa cân thịt lợn hồi còn ở Tân Lạc của thủ trưởng). Chẳng biết hiệp đồng tác chiến từ khi nào, mà đã có người nhà của thủ trưởng ra tận đoàn xe đón. Họ nhanh chóng gặp nhau và thủ trưởng bàn giao cho người nhà hai ba lô chật căng. Thảo nào mà suốt từ những ngày ở Đại Kim, Hà Nam, thủ trưởng chịu khó xin những thứ của lính, từ quần áo đến mũ cối. Có lẽ đây cũng là một hình thức tiếp tế trợ giúp cho gia đình, nhưng không phải ai cũng có điều kiện làm được. Vui vì được gặp người nhà, nhưng thủ trưởng Hảo cũng tâm sự buồn rằng, lần này phải vào chiến trường, không được làm công tác huấn luyện nữa. Thủ trưởng vốn là cán bộ khung của BTL Thủ đô, chuyên luyện quân tới mấy năm nay rồi, từ ngày thành lập trung đoàn 1867 (trung đoàn 59) cơ. Thủ trưởng đã 35 tuổi, là cán bộ nhiều tuổi nhất trong BCH C huấn luyện của tôi khi đó.

               Lại nói về mũ cối. Thú thật là mới chỉ qua mấy ngày hành quân và trò chuyện, chúng tôi đã thấy quân đội phát cả mũ tai bèo lẫn mũ cối cho chúng tôi là thừa. Mũ tai bèo gọn bao nhiêu thì mũ cối cồng kềnh bấy nhiêu. Nhiều thằng đã cho đi giao lưu ngay từ Hà Nam. Hôm qua ở cái làng bên sông Lam, nhiều tiểu đội cũng mua gà không phải bằng tiền mà bằng mũ cối. Vì thế cái chuyện chúng tôi cho thủ trưởng Hảo dăm cái mũ cối cũng là chuyện bình thường. Rồi sau này cũng thế. Chúng tôi giải tán mũ cối dọc đường hành quân hết. Vào đến đơn vị chiến đấu thì chúng tôi đã thực thụ là người chiến sĩ giải phóng, quân của chị Ba Định với chiếc mũ tai bèo đặc trưng rồi.

               Xe chúng tôi đến lượt vượt đèo Ngang. Các thủ trưởng bảo bây giờ thuận lợi thế này mới có thể đi cả đoàn xe vượt đèo ngang, chứ ba năm trước không thể. Khi đó phải đi bộ là chính, theo đường 12A qua ngã ba Đồng Lộc, hay đường 20 Quyết thắng. Trên đỉnh đèo Ngang trong đêm nhìn ra biển chỉ thấy mờ mờ. Thời gian vượt đèo Ngang cũng rất ngắn ngủi. Có lẽ cái sự nổi tiếng của đèo chính vì nó chặn ngang con đường độc đạo vào Nam và vươn dài sát biển, chứ sự hùng vĩ của nó không phải là nhất nước. Ngày xưa Bà Huyện Thanh Quan qua đây vào buổi xế chiều, chắc sau một hồi leo đèo chùn chân mỏi gối, ngồi trên đỉnh đèo hưởng gió mát, nhìn quanh thấy buồn cho cảnh heo hút đường xa mà tức cảnh làm nên bài thơ hay. Nếu có đi thực tế mà học thơ của Bà, chắc cũng nên đi bộ lên đèo Ngang vào lúc xế chiều mà ngắm cảnh, chứ ngồi xe tải ban đêm như chúng tôi thì chỉ thấy vùng biển đen mịt mù xa xăm và đám sao trời li ti trong màn đêm lành lạnh thôi.

               Lại dừng chân nghỉ ban ngày sau một đêm hành quân xe. Đến đêm lại đi ca-nô, hình như vượt qua sông Lệ Thủy thì phải. Thời gian đi ca-nô cũng chỉ vài giờ. Nơi này vẫn thuộc trên đất Quảng Bình. Chúng tôi được phổ biến đây là điểm dừng cuối cùng trước khi vào Binh trạm Trường Sơn. Thế là ngày hôm đó, lính tráng có bao nhiêu tiền đều đốc hết vào ăn uống. Thực phẩm ở đây nghèo nàn và đắt hơn rất nhiều so với bên Hà Tĩnh, nhưng giữ tiền cũng chẳng để làm gì. Mũ cối ở đây cũng rất có giá trị, tất nhiên cũng chuyển thành gà. Mà cũng lạ là khi đó chỉ có món gà mà thôi, chẳng còn thứ gì khác. Một vài thằng cố giữ lại tờ 10 đồng màu đỏ có in hình Bác Hồ mà lính khi đó gọi là tờ "cụ mượt" để làm kỷ niệm.

              Buổi chiều, chúng tôi được lĩnh gạo. Cái ruột tượng bây giờ mới phải dùng đến. Mỗi lính nhận 7kg gạo, tiêu chuẩn cho 10 ngày. Chỉ còn bữa ăn chiều nay là tập trung thôi, còn từ mai, chúng tôi sẽ phải nấu ăn theo từng tiểu đội suốt chặng đường hành quân.

               Buổi tối tập trung lên xe. Đường xe chạy nhỏ dần, gập ghềnh và hai bên là rừng cây rậm rạp. Xóc kinh khủng. Cứ lầm lũi đi như thế trong màn đêm đen giữa rừng già, xe ô-tô chỉ bật đèn gầm. Chắc vào quãng mấy giờ sáng gì đó thì tới nơi. Cạnh bãi đổ quân là một bãi đất rộng mờ mờ nằm dưới những cây cổ thụ. Chúng tôi xuống xe, được phân chia vào từng khu vực, ở đó đã có chi chít những hầm thùng đào sẵn sâu chừng 40 phân. Mỗi thằng chiếm lấy một chiếc, trải ni-lon, xếp ba-lô, kê ruột tượng gạo rồi lăn ra ngủ.

               Đây là Trạm 5 Trường Sơn, một trạm đầu mối của tuyến đường 559.

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thaynhin trong 05 Tháng Mười Một, 2009, 03:54:22 pm
Em cũng không thật rõ nhưng cũng xin thưa vói bậc đàn anh Bác TrọngC6 ạ: Không biết sông Lệ thủy bác nhắc đến có phải sông Bến Hải không?
 Năm 2007,2008 em qua lai Đồng Lộc vài lần,đường qua ĐL là đường 15,em không biết có sự đổi tên nữa không?Trên đường thỉnh thoảng vẫn có bia kỷ niệm chiến thắng!Kính bác và chúc bác khỏe!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 05 Tháng Mười Một, 2009, 05:39:10 pm
     Sông Bến Hải thuộc huyện Vĩnh Linh (Quảng trị)
     Còn sông Lệ Thủy thuộc Quảng Bình.

     Quảng bình có 2 sông chính là sông Gianh (Nơi gianh giới phân chia Trịnh-Nguyễn phân tranh hồi thế kỷ 17 đấy) và sông Lệ Thủy. Dân gian vẫn gọi là sông Lệ Thủy, thật ra tên chính là Nhật Lệ. Con sông này có một nhánh là sông Kiến Giang. Có lẽ chảy trên địa phận huyện Lệ Thủy nên người ta hay gọi Nhật Lệ là sông Lệ Thủy chăng? (con sông này có bến phà Long Đại nổi tiếng trong KCCM đấy).

     Các con đường mở ra trong KCCM có nhiều tên. chắc chắn có nhiều thay đổi. Ví dụ con đường 10 chạỵ qua căn cứ Chư Nghé ở B3 bọn tôi vẫn quen gọi ngày xưa, nhưng bây giờ mà nói đường 10 thì người ta lại hiểu là đường 10 ở Hải Phòng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vovanha trong 05 Tháng Mười Một, 2009, 05:52:01 pm
 ... Các con đường mở ra trong KCCM có nhiều tên. chắc chắn có nhiều thay đổi. Ví dụ con đường 10 chạỵ qua căn cứ Chư Nghé ở B3 bọn tôi vẫn quen gọi ngày xưa, nhưng bây giờ mà nói đường 10 thì người ta lại hiểu là đường 10 ở Hải Phòng.
Chư Nghé , cao điểm 421...hậu cứ của E95 thời 1975,1976.
Lạnh kinh khủng. Bây giờ vẫn còn hãi này Bác Trongc6 ơi !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 06 Tháng Mười Một, 2009, 10:22:44 pm
….
     Chúng tôi được nghỉ ở đây một ngày.

       Cả đại đội huấn luyện chỉ còn có 5 cán bộ khung gồm C phó Hảo và 4 B phó khác dẫn chúng tôi vào Nam. Còn lại từng A chúng tôi phải tự bảo nhau. Trừ thủ trưởng Hảo, các B phó huấn luyện đều lần đầu vào Trường Sơn nên cũng chẳng ai có kinh nghiệm gì hơn chúng tôi. Nhất nhất đều phải nhận lệnh qua giao ban tại từng Trạm, hành quân có giao liên dẫn đường.

      Giờ này chắc các thủ trưởng đi họp giao ban nên chẳng có ai đánh thức chúng tôi dậy sớm. Chúng tôi ngủ ngon đến bảnh mắt.

       Đêm qua dù tối om nhưng không hiểu sao tôi vẫn mắc được tấm tăng che cao trên cái hầm thùng mấy chục phân để tránh sương. Bây giờ thức giấc rồi, tôi nằm im nhìn lên màn sáng đục sau tấm tăng. Nằm mà nghĩ vơ vẩn thôi. Thế là cái thân trai này đã nằm ngủ một đêm trên dãy Trường Sơn, cách nhà tới vài trăm cây số. Khoảng cách địa lý thì đo được, nhưng cuộc đời từ đây chỉ có một hướng: phía trước là mặt trận và cứ phải theo đó mà đi, không hẹn ngày trở lại. Không biết mấy tháng, mấy ngày nữa sẽ vào đến đơn vị mới, sẽ được xung trận, được nổ súng như các anh trong tiểu đội Bùi Ngọc Đủ trên đồi không tên đã đi vào bài hát "Dòng suối La La" bất diệt.

         Bỗng nhiên nghe tiếng loạt xoạt rất khẽ nơi bao gạo gối đầu. Rồi có tiếng nhai gạo lách cách. Tôi hơi nghiêng người, thấy có con gì đó be bé như con chuột chạy vụt ra. Quyết định nằm im tư thế đó mà theo rõi. Lại nghe tiếng loạt xoạt. Hé mắt khe khẽ ra thì thấy một con chuột đã chui vào cắn gạo. Nhưng không phải chuột. Nó to bằng nửa cổ tay, lông màu tro vằn vèo, đuôi dài và rậm. Cái đầu giống con chuột nhưng đôi mắt lanh lợi, không đen sì và gian giảo như mắt chuột. Con vật khá bạo, tiếp tục moi những hạt gạo ra ăn. Phải nghĩ mãi tôi mới đoán ra là con sóc. Nhưng sao con sóc này bé quá, đuôi không to như con sóc ăn hạt dẻ trong chuyện cổ tích. Tôi vùng dậy và con sóc chạy mất.

          Cởi bỏ tấm tăng, tôi nhìn quanh, thấy choáng ngợp trước quang cảnh của bãi khách. Bắt đầu từ đây, tôi biết đến từ "bãi khách", là nơi được trạm giao liên chuẩn bị sẵn, có hầm, có cây mắc võng, nằm dưới những tán rừng già, dùng để cho các đoàn "khách" vào, ra dừng chân. Một trạm có nhiều bãi khách. Thường các đoàn quân vào, ra đều chỉ biết bãi khách chứ hầu như không biết vị trí Binh tram hay Trạm, nơi có BCH, có thông tin, có trạm xá… nằm chỗ nào.

        Bãi khách này rộng thật. Hầm thùng đủ cho cả đại đội tôi hơn trăm rưởi người nằm mà vẫn còn thừa. Khi đó lính tráng đã dậy cả. Nhiều đứa đã ra tắm ở con suối chảy ven bãi khách. Suối không sâu nhưng rộng cỡ 2 mét, nước trong và mát. Nhiều tốp lính đã bẻ củi bắc hăng-gô nấu cháo ăn sáng. Củi khô ở đây nhiều vô biên, đúng là củi rừng. Mỗi lính chúng tôi được phát 2kg ruốc (một cân loại trằng ít muối, còn một cân loại đen thì nhiều muối mặn chát xít dùng để nấu ăn). Mỗi lính cũng được phát một gói cỡ 2 lạng mì chính cánh của Trung Quốc. Thế là tự nấu ăn được rồi, nhưng buổi sáng lười nên chỉ toàn nấu cháo. Đến trưa mới tổ chức nấu cơm theo tiểu đội. Đại đội phát nốt từ hôm trước ở Quảng Bình cho các A một ít rau cải chở theo được bằng ô-tô. Từ ngày mai thì chỉ còn ruốc và rau rừng.

        Ngày hôm đó, chúng tôi được phổ biến tất cả mọi quy định chung cần thiết khi hành quân trên Trường Sơn. Từ chuyện đội hình, giữ bí mật, vệ sinh theo kiểu "hố mèo"… đến các quy định về ánh sáng, lửa khói… Rồi học cách mắc tăng, mắc võng thế nào cho nhanh để khi tháo cũng chỉ rút dây một cái là xong, rồi cách buộc ni-lon khi đi trời mưa… Tóm lại là một đống kiến thức cần thiết trên đường hành quân. Không thể nhớ hết một lúc, nhưng dần dà qua những ngày hành quân dọc các binh trạm thì rồi tất cả ngấm vào người như một bản năng. Nó ngấm mạnh tới mức bây giờ vẫn không quên điều đó. (Tôi vẫn còn giữ được chiếc võng vải dù chiến lợi phẩm và tấm tăng TQ zin làm kỷ niệm. Chẳng có điều kiện mà dùng lại. Đôi lúc cũng muốn đem ra vườn mắc lên nằm chơi một buổi để gặm nhấm quá khứ, nhưng lại sợ thiên hạ nhìn thấy, chê bố này lẩn thẩn rồi, nên đành vẫn để đấy).

           Chúng tôi còn được nghỉ thêm một ngày nữa ở trạm 5. Tôi cứ ngồi ngửa cổ nhìn lên những cây già cao vút, cỡ hơn người ôm. Rồi nhận ra ở đây có rất nhiều lũ sóc chuột bé tẹo ấy. Hầu như ruột tượng của thằng nào cũng bị sóc cắn, chúng tôi phải khâu ríu lại. Về sau vào sâu trong Nam và sống lâu trong rừng, tôi biết rừng già nào cũng có sóc chuột. Có thể ví chúng với chuột ở đồng bằng. Và tôi nhận ra rằng chỗ có người ở thì có chuột đủ loại, còn rừng già thì có sóc, nhưng không có chuột. Ở đó chỉ có những con chuột núi (con dũi) to tướng hay đào gốc măng nhai kèn kẹt thôi. Nhiều vùng rừng già lại có cả sóc bay nữa. Chúng cũng bé tì tẹo. Lúc yên tĩnh, nhìn thấy chúng nó thả người từ một thân cây cao, vèo một cái đã thấy bám vào một cây khác cách đó một đoạn xa thì biết nó là sóc bay. Có điều nó chỉ bay từ trên cao xuống thấp thôi chứ không thấy bay từ thấp lên cao bao giờ.
….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: con_ech_gia trong 07 Tháng Mười Một, 2009, 08:12:34 pm
    Sông Bến Hải thuộc huyện Vĩnh Linh (Quảng trị)
     Còn sông Lệ Thủy thuộc Quảng Bình.

     Quảng bình có 2 sông chính là sông Gianh (Nơi gianh giới phân chia Trịnh-Nguyễn phân tranh hồi thế kỷ 17 đấy) và sông Lệ Thủy. Dân gian vẫn gọi là sông Lệ Thủy, thật ra tên chính là Nhật Lệ. Con sông này có một nhánh là sông Kiến Giang. Có lẽ chảy trên địa phận huyện Lệ Thủy nên người ta hay gọi Nhật Lệ là sông Lệ Thủy chăng? (con sông này có bến phà Long Đại nổi tiếng trong KCCM đấy).
Bác TrongC6 chỉ đi qua thôi mà biết khá rõ về đất Quảng Bình  ;D. Nhưng em xin mạo muội đính chính một chút:
Sông Nhật Lệ gồm 2 nhánh chính: Kiến Giang (chỉ yếu trên đất Lệ Thủy) và Đại Giang (chủ yếu trên đất Quảng Ninh). Phà Long Đại nổi tiếng ác liệt đi qua dòng Đại Giang (gần thôn Long Đại). Cách đây mười mấy năm người ta còn trục được cả loạt T54 từ lòng sông lên, rồi hội POW/MIA về đào xác phi công cũng khá nhiều.
Có lẽ chỗ bác TrongC6 vượt sông là chỗ phà Long Đại đấy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 11 Tháng Mười Một, 2009, 10:07:21 pm
….
              Sau ngày nghỉ tại trạm 5, chúng tôi hành quân sang trạm T6. Đường đi độ non ba chục cây số. Phần lớn đi trong rừng già. Đường thoai thoải lên cao xuống thấp tí chút như miền trung du ngoài Bắc. Có lẽ đây là vệt núi cùng bình độ với trạm 5. Hành quân trong Trường Sơn mà khung cảnh yên tĩnh hòa bình, nhiều lúc cảm thấy như vẫn đang đi dã ngoại vậy. Ngoài quân tư trang cá nhân giống nhau, chỉ có khẩu súng AK và cái soong là phải chia nhau mang. Vẫn 3 người một khẩu phát từ ngoài Kim Bảng, chưa có thêm vũ khí gì.

               Trạm T6 có bãi khách nhỏ hơn T5. Con suối cũng nhỏ hơn. Chúng tôi chỉ dừng chân một đêm, hôm sau sẽ đi tiếp. Sáng hôm sau, C38 với hơn trăm rưởi lính trong tiểu đoàn chúng tôi chia tay hành quân theo hướng khác. Họ đi theo trục Đông Trường Sơn. Sau này hết chiến tranh gặp lại mấy thằng,chúng nó kể là được bổ xung vào tỉnh Quảng Ngãi, làm bộ đội địa phương. Cũng xuống đồng bằng, vào làng, nằm hầm bí mật và chống càn. Đến năm 1975, Quảng Ngãi giải phóng thì chúng nó làm công tác tiếp quản địa phương. Không được theo đại quân vào chiến dịch Hồ chí Minh. Đến 1976 thì những đứa sống sót cũng lần lượt được ra quân và về nhà hết.

               Còn lại 3 đại đội chúng tôi hành quân theo ngả Tây Trường Sơn. Con đường chúng tôi đi đúng là đường mòn, chỉ có thể đi bộ. Chỗ rộng cũng chỉ đủ hai người đi ngược chiều tránh nhau. Cứ hành quân non tiếng lại nghỉ giải lao mươi phút. Đặt phịch ba-lô và ngồi ngay bên vệ đường. Chúng tôi được dặn là nghỉ đâu thì ngồi ngay đó. Đi giải thì cứ đứng mà chĩa ngang vệ đường. Còn đại tiện thì chỉ cần đi vài mét rồi đào hố mèo là xong. Nói thế nhưng chẳng thằng nào có xẻng mà đào hố, nên cứ thiên nhiên. Một thằng đi là thể nào cũng có vài đứa chửi rầm rầm lên vì thối. Giao liên còn dặn chúng tôi nên tập đi nhấc cao chân. Đừng tạo thói quen đá vào các vật bên đường. Chỉ qua ít trạm sau, chúng tôi còn được nghe phổ biến về cây nhiệt đới và mìn lá (loại này dẫm vào chỉ cụt nửa bàn chân, nhưng như thế cũng coi như bị loại ngũ rồi). Hai của này bọn Mỹ thả rất nhiều trong các cánh rừng miền Trung.

               Quá nửa chiều thì chúng tôi đến trạm T7. Như vậy là mỗi trạm cũng chỉ cách nhau chừng năm sáu tiếng đi đường. Chưa phải leo dốc nhiều. Đại đội tôi ở vào một bãi khách nhỏ nhưng rất bẩn. Mùi xú uế khắp nơi, cứ như có một bọn nào vừa rời khỏi đây. Mà cũng vì bãi nhỏ, không đi rộng ra được (vướng các khe núi) nên mật độ ở dày. Chúng tôi mắc võng san sát nhau. Cạnh bãi khách chỉ có một con suối nhỏ. Gọi là lạch thì đúng hơn, vì dòng chảy lờ đờ mà lại chỉ bé như cái cổ tay, vướng đầy lá. Phải bới một vệt lõm, gạt lá ra, chờ cho nước tụ lại trong trong rồi lấy ca gạn cho vào bi-đông. Hơn trăm rưởi thằng lính rải ra và chờ nhau mãi mới lấy đủ nước. Chỉ có cơm canh là đun nước sôi (mà canh cũng chỉ là nồi nước đun sôi cho vào ít ruốc, đánh tơi ra, cho đũa vào ngoáy trông nó như nồi canh sợi bao tải rách. vò vào đó ít lá chua người ta chỉ cho quanh đó, chẳng biết lá cây gì). Còn nước tất cả đều là nước lã, Mỗi bi-đông chúng tôi cho vào một viên thuốc lọc nước của Trung Quốc (Mỗi lính được phát một lọ nhựa có 50 viên). Uống thấy mùi nó hơi ngai ngái.

               Cấp trên thông báo chúng tôi đang ở đất Lào, thuộc tỉnh Khăm Muộn. Cũng chẳng biết là đã vượt biên từ lúc nào. À, thế ra là mình đã được "đi ngoài ra nước" (à không, "đi ra nước ngoài") rồi đấy. Đúng là đi Tây, chứ không phải là đi Tây Bắc như những thằng đi học ở Đông Âu đâu nhé.

               Hôm sau lại cuốn gói đi tiếp. Bắt đầu quen với nhịp điệu hành quân. Ngày đi đêm nghỉ. Sáng dậy nấu cơm vào lúc trời sáng hẳn để không còn nhìn rõ ánh lửa. Ăn sáng xong rồi mỗi thằng đùm một túm để ăn trưa. Không hơi sức đâu mà nắm cơm chung, của ai nấy lo. Ai muốn nắm thì nắm, ai ngại thì cứ gói vào khăn mặt hay ni-lon cũng được. Buổi trưa giữa đường thì giở ra ăn, chan ít nước lã, cho tý ruốc vào là xong. Mà cũng lạ là chẳng ai đau bụng. Sau này chúng tôi được biết là nếu đang hành quân, ra mồ hôi và căng cơ bắp thì uống nước lã cũng như nước sôi. Chỉ một lúc sau là nó bài tiết ra hết, kể cả vi trùng. Khoảng 3 giờ chiều thì tới trạm T8. Như vậy chặng đường này ngắn. Được phổ biến nghỉ lại đây một ngày lấy sức.

           Thế là đua nhau tắm giặt. May là ở đây có con suối nhỏ, nhưng là suối đá nên nước trong, và chảy khá mạnh. Giặt quần áo trên các mô đá rất khoái. Chúng tôi được phát mỗi người một bánh xà phòng giặt của Liên-xô có in chìm số 72%. Đây là một điểm đặc biệt, vì lúc đó mọi thứ khác trang bị cho chúng tôi đều là của TQ, kể cả cái bật lửa. Vậy mà lại lẫn vào trong đó con dao găm và bánh xà phòng Liên-xô. Được cái bánh xà phòng này rất bền. Mỗi lần giặt quần áo chỉ xát một ít vào cổ áo và đũng quần, rồi giặt. Chỉ có một ít xà phòng nhờ nhờ đục, thế mà cũng sạch. Cái bánh xà phòng hầu như không mòn. Dùng mãi đến 3 năm sau, khi chỉ còn bé bằng cái lưỡi mèo thì nó mới trôi tuột đi lúc nào không biết.
…..



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 15 Tháng Mười Một, 2009, 01:15:37 pm
…..
               Một ngày nghỉ không phải họp hành. Chỉ được đi chơi loanh quanh trong bãi khách. Tụ tập nhau tán chuyện và đun nước pha chè uống. Cũng chỉ vài thằng còn lại tí chút chè Ba-Đình sót lại sau tết mang từ nhà đi. Vài bữa nữa thôi là sẽ hết sạch. Thuốc lá không mấy ai hút. Cũng chỉ dăm ba thằng còn đem theo mấy bao thuốc Trường Sơn, chẳng ai xin làm gì. Rồi nấu cháo xì xụp ăn.

              Chiều đó mấy thằng liều lĩnh đột phá đi xa ngoài bãi khách và gặp dân. Chắc họ từ bản nào đó gần đây. Họ có chuối chín đem đổi. Lính tráng moi nốt tiền Bắc ra gạ mua (thôi, còn giữ để kỷ niệm làm gì nữa), nhưng không được, vì dân họ không dùng tiền. Đành nuốt nước bọt trở về. Độ nửa tiếng sau, đang buồn vì tiếc thì mấy thằng ở C khác hiên ngang xách 3 nải chuối chín đó đi qua. Xông ra hỏi chúng mày mua bằng gì mà tài thế. Mua gì đâu, bọn tao đổi 2 cái kim băng lấy một nải đấy. Thế là sùng sục bảo nhau tìm kim băng quay ra tìm dân, nhưng hết mất rồi. Kinh nghiệm này được phổ biến, và nó có tác dụng ở những trạm sau, thậm chí ngang đường hành quân cũng gặp dân đổi chuối, đổi sắn. Không chỉ đổi bằng kim băng đâu. Khi hết loại này rồi thì ảnh màu con gái là loại hàng có giá. Vô tình mà phát hiện ra điều này.

               Lính mới chúng tôi chưa hiểu được rằng đem được một cân gạo từ miền Bắc vào đây là ít nhiều cũng có máu xương của các đồng đội lái xe. Theo từng quãng nhất định, có những kho gạo binh trạm để phát cho các đoàn quân ra, quân vào. Tiêu chuẩn vẫn là 7 lạng một ngày. Hành quân đường dài thì như thế cũng chỉ là đủ, ăn vừa hết và không đói. Thế mà có thằng trong A tôi ngại nặng đã trút bớt  phần gạo của nó xuống khe núi cho nhẹ. Lúc đến mỗi trạm, thấy nó nhường cho người khác bỏ gạo ra nấu trước, tưởng nó có tinh thần đồng đội cao cả. Đến hôm cuối cùng tới lượt nó bỏ gạo ra nấu thấy còn có nửa, cả A chửi rầm lên. Nó cãi là cái ruột tượng rách, nhưng anh em biết thừa. Sau cái bữa đói đó, chúng tôi rút kinh nghiệm là đến bữa mỗi đứa góp một ít gạo đều nhau để nấu cho công bằng. Thằng nào đổ gạo đi thì tự nhịn. Về sau vào sâu hơn một chút thì chỉ lĩnh ăn 6 lạng gạo một ngày thôi. Mà đừng tưởng cứ vào Trường Sơn là ăn lương khô thoải mái đâu nhé. Của đó chỉ có lính lái xe, lính tăng pháo, lính binh trạm hay Bộ tư lệnh thôi. Vào chiến trường hơn nửa năm sau, tôi mới được biết mùi vị bánh lương khô nó như thế nào.

               Cũng vì còn đói nên chúng tôi hay nghĩ đến ăn. Cứ mơ mộng là trong rừng sẽ có nhiều củ quả gì đó, hay là một rừng cây ăn quả nào chẳng hạn. Nhưng cái đó (chắc chắn có) lại không nằm sẵn ven đường hành quân. Có lần qua một khúc rừng thấy ngào ngạt mùi bánh mỳ. Tưởng đến gần lò bánh của binh trạm nào đó, nhưng không phải. Đó chỉ là mùi của một loại lá cây. Cũng như có lần gặp lá cơm nếp. Nó thơm mùi của bát cơm nếp mới sới. Loại lá này đáng sợ lắm. Kẹp khô trong cuốn sổ, nó giữ mùi thơm đến cả năm. Ngửi nó đã không no mà còn làm mình thèm và thấy đói hơn.

               Trong cảnh thèm ăn như thế, một lần chúng tôi gặp dân ven đường hành quân. Họ có sắn, nhưng chúng tôi chẳng còn gì mà đổi cả. Thằng Dũng "ú ớ" moi trong ví ra cái huy hiệu đoàn, đổi được một củ sắn dài độ gang tay. Quá ít cho mấy cái vẻ mặt háo hức chờ ăn. Loay hoay thế nào, nó đánh rơi cuốn lịch túi (loại lịch một hào, bằng lòng bàn tay, thịnh hành lúc ấy). Trang bìa là ảnh của Ái Vân trong vai "chị Nhung" của bộ phim Việt nam cùng tên, kể về chiến công của nữ biệt động Sài Gòn, chiếu năm 1971. Năm đóng phim, Ái Vân (cô  ca sĩ sau này) mới 17 tuổi, kém lứa lính chúng tôi đúng một tuổi. Ảnh nhân vật chị Nhung của cô được lên trang bìa của lịch túi năm 1972. Phải nói là cô rất xinh, ảnh in màu nên hầu như lính nào cũng có một cuốn. Nhìn thấy cái hình cô gái, người dân đòi xem rồi gạ đổi 2 củ sắn. Thằng Dũng đồng ý luôn. Thế là chúng tôi rào rào lấy lịch ra đổi. Chỉ một loáng, mấy người dân đổi hết sắn và hể hả cầm mấy cuốn lịch ấy đi về. Không chỉ mấy người đàn ông, mà xem ra phụ nữ và cả trẻ con cũng thích ảnh con gái đẹp. Cũng phải thôi, vì phụ nữ dân tộc vùng đó xấu lắm, không ai vượt nổi qua nước cản.

               Vậy là sau đó, thằng nào còn lịch túi "chị Nhung" là bỏ sẵn hết ra túi áo để khi cần đổi cho nhanh. Rồi đổi mãi cũng hết lịch. Hết khôn dồn đến dại, nhiều thằng lấy cả ảnh người yêu ra đổi. Nhưng bà con dân tộc cũng khôn. Họ chỉ đổi ảnh màu thôi chứ không đổi ảnh đen trắng. Lúc ấy chưa có ảnh chụp màu. Sở dĩ có những tấm ảnh màu là do các bác thợ ảnh của mấy hiệu ảnh quanh bờ Hồ Hoàn Kiếm dùng bút màu tô thêm cho ảnh ở những phần môi, mắt hay áo quần. Lúc mới đầu đổi ảnh người yêu lấy sắn cũng thấy hơi áy náy, nhưng cái dạ dày đã chiến thắng. Thôi, các bạn gái hãy vui lòng cho lính tráng có thêm sức mà chân cứng đá mềm. Gửi các em ở lại trong dân cũng như là nhờ hậu phương che chở. Theo bọn anh ra nơi hòn tên mũi đạn, nhỡ lọt vào tay quân thù thì lại đau lòng người lính hơn.

              Nếu bây giờ có nhà khảo cổ hay nhà dân tộc học nào lặn lội vào dãy Trường Sơn mà gặp những tấm ảnh "chị Nhung" hay ảnh các thiếu nữ Hà Nội tô màu đã phai mờ theo năm tháng ở trong các bản dân tộc ít người, xin hãy bình tĩnh, chớ vội reo mừng tưởng mình đã "tìm ra châu Mỹ".
….



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: trevn trong 15 Tháng Mười Một, 2009, 04:10:28 pm
cháu chào chú TrongC6, chú ơi cho cháu hỏi là: doc đường hành quân theo đường TS vào nam, đơn vị chú có chạm trán với bọn biệt kích của giặc cũng như máy bay B52 Mỹ ném bom rải thảm không ạ ? vì cháu nghe CCB KCCM kể là có nhiều bộ đội ta hy sinh ngay trên đường TS, trước khi vào đến chiến trường cần chi viện. kính chúc chú khoẻ ạ


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tran479 trong 15 Tháng Mười Một, 2009, 05:48:10 pm
Thời anh TrọngC6 du nam chắc là trên trời vắng bóng máy bay nhiều rồi ,từ đầu năm 1973 thì hình như hết máy bay do H Đ Paris ,còn từ 1972 về trước vẫn còn ...Nhưng theo đường ô tô chạy ,còn đường mòn lính đi bộ ngụy trang kỹ nên không lộ đường .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 28 Tháng Mười Một, 2009, 01:59:16 pm
….
               Sau một ngày nghỉ ngơi ở T8, hôm sau chúng tôi hành quân đến T9. Dọc đường, chúng tôi đi qua một cánh rừng toàn cây song. Đó là loại cây dây họ cây mây, nhưng thân to hơn nhiều, vỏ màu sẫm. Cả đoàn quân được dừng chân giải lao. Hầu như ai cũng tìm chặt một đoạn song theo ý mình. Rừng song này lớn lắm. Có lẽ các đoàn quân ra, quân vào đều dừng lại nơi đây chặt song làm gậy chống. Rừng song quá rộng, lại mọc liên tục nên lính có chặt cũng chẳng hao mòn bao nhiêu. Chịu khó mang theo đến chiều tới trạm khách hơ lửa uốn thì sẽ có cây gậy ba-toong tuyệt đẹp. Bây giờ và sau này cũng vậy. Rất nhiều lần chúng tôi được gặp những thứ có thể gọi là sản vật của rừng. Ở rừng Trường Sơn đây thì đơn giản, nhưng đó lại là thứ mơ ước rất lớn của người dân Hà Thành mà không phải ai cũng dễ có.

              Sau một ít ngày hành quân thì chúng tôi nắm sơ bộ được về cách bố trí các binh trạm Trường Sơn. Mỗi Binh trạm là 1 D, quản lý chừng 4 đến 5 trạm. Khoảng cách giữa các trạm là khoảng một ngày đường. Do địa hình nên khoảng cách không thể đều nhau. Có những trạm cách nhau trên hai chục cây số nếu nhiều đường bằng, người ta không đặt xa quá vì còn phải có thời gian cho bộ đội nghỉ ngơi. Không chỉ là đoàn quân mang vác bộ, mà ngay cả thương binh chuyển ra vào mùa mưa, cũng phải đảm bảo giao liên tải thương đi trong một ngày. Còn có những cung đường như từ trạm 40 đến trạm 43A thì dốc kinh khủng. Trên bản đồ, hai trạm chỉ cách nhau mươi cây số, nhưng một trạm là bên này núi, còn trạm kia là bên kia núi. Khi leo lên thì ba-lô thằng đi trước đặt sát mặt thằng đi sau. Chưa lên đến đỉnh mà mây mù đã phủ kín, cứ như đi thày trò Đường Tam tạng cưỡi mây. Đi trong mây mù như thế, chỉ một lúc sau là mồ hôi thấm ra và hơi nước ngấm vào đã bắt được tay nhau trên lớp vải quân phục của lính rồi. Mùa khô trên Trường Sơn không có vắt, nhưng những đoạn đường đỉnh núi cao ẩm ướt thì vắt bò như tằm trên noong dâu. Lúc xuống dốc toàn phải đi lùi. Người ta thường nói "gối mỏi, chân chùn", chắc là để chỉ với những lúc như thế này. Thanh niên cả mà đi run lẩy bẩy như những người ốm do ham mê tửu sắc, loại "chân ống giang, đầu gối củ lạc". Lúc giải lao, tử tế thì còn xoay người hạ ba-lô xuống đất, còn không thì cứ thế mà phệt cả người xuống, lúc đứng dậy hành quân tiếp lại phải nhờ người khác kéo tay.

               Các trạm đánh số thứ tự, nhưng cứ đến ngã ba của nhánh đường rẽ hướng, là lại đánh số khác. Từ trạm T5, chúng tôi cứ lần lượt đi đến trạm T13A. Những trạm nào đường bằng thì đa phần bãi khách rộng, suối nước trong lành, dù to hay nhỏ. Các trạm ở những vùng đường bình độ sít nhau, mặt bằng hẹp thì đa phần chật và bẩn. Nhiều trạm có bãi khách mà không có hầm, hoặc hầm chỉ là những hôc đá chiếu lệ. Chẳng may bị đánh bom thì đành chịu cảnh "nhà ngói cũng như nhà tranh". Ở những chỗ như thế thì chỉ có cây nhỏ, mắc võng rất tiện. Nhưng cũng thật bẩn nếu có các đoàn quân vào nối tiếp nhau, vì chẳng đủ diện tích dất để đào hố mèo. Các đoàn quân vào thưa thì không sao, vì để lâu thì nó cũng "…hóa bùn" rồi.

              Đến trạm T10 thì chúng tôi bắt đầu vào địa phận tỉnh Sa-va-na-khet của Lào. Đêm đó gặp mưa. Chiến trường Lào mùa mưa đến sớm hơn chiến trường miền Nam một tháng, nhưng cơn mưa đầu mùa này cũng là cơn mưa đến sớm, vì lúc này mới là nửa đầu tháng 3. Mưa không to, nhưng dày hạt, kéo dài chừng hơn một giờ. Lần đầu tiên được hưởng mưa rừng Trường Sơn, được thấy tác dụng thứ nhất của tấm tăng bộ đội (cái từ tăng mà xuất phát gốc của nó là TANK, thì rồi mãi về sau chúng tôi mới hiểu hết). Lúc đó chưa khuya, nằm trên võng mà cảm nhận rõ cái tiếng rơi lộp bộp của những hạt mưa xuyên qua lớp lá rừng thưa đập vào mái tăng, ngay sát mặt mình chỉ chừng mấy chục phân. Cảm giác hơi lạnh… và nhớ nhà.

               Nhớ những ngày mưa ở nhà, trẻ con rủ nhau chui ra chui vào những hốc cây rơm, cây rạ để trú, để chơi trò, coi đó như là cái nhà riêng của mình. Nhớ những lúc mưa ngồi núp kín dưới mấy tàu lá chuối tranh thủ vung cần xuống ao câu mấy con cá giếc đi ăn mưa, không hiểu sao lúc ấy cá cắn câu mạnh lắm. Nhớ những cơn mưa rào đầu mùa rủ nhau ra đồng bắt cá rô rạch. Nhớ những đêm mưa bão rủ nhau ra công viên chặt cành cây đổ về làm củi giúp mẹ. Rồi cuối cùng lại quay về nhớ cái cảnh trời mưa ngồi bậu cửa chờ mẹ đi chợ về có gói quà là một ít bỏng ngô, hay mấy miếng bánh chè lam lọc bột không kỹ còn lạo xạo trấu mẹ mua ở chợ đầu làng…

               Nước mắt không thành dòng, nhưng cũng đủ ướt hai khóe mắt… rồi chìm dần vào trong giấc ngủ. Hậu phương đã lùi xa, mà đường đến chiến trường thì vẫn còn dài, còn xa xăm lắm…
….



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hoangdang_hm trong 02 Tháng Mười Hai, 2009, 11:27:27 pm
 Tiếp đi chú ơi, sao chú ngừng lại lâu thế  :)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Mười Hai, 2009, 10:47:35 pm

               Sau một ngày nghỉ lại trạm T10 để nhận gạo, chúng tôi hành quân sang T11. Như vậy là cứ đi vài ngày lại nghỉ một ngày lấy sức. Đôi khi được nghỉ lặp nhiều hơn, vì trạm chưa có giao liên dẫn đường, hoặc có tình hình đột xuất nào đó, nhưng cỡ lính tráng lèm nhèm thì không thể biết rõ. Chúng tôi như đàn ngựa, con đầu đi đâu thì cả đàn theo đấy. Dừng thì cùng dừng. Vẫn là cái đội hình lính huấn luyện ngoài Bắc cùng nhau, dựa dẫm vào nhau nên chẳng phải lo lắng gì.

               Ở trạm T11 rừng rất thấp. Rặt một thứ cây gì đó lá mềm, to và mỏng. Thân cây nào to chỉ cỡ bắp chân, còn thì bé tẹo. Mắc võng nằm phải cột giằng mấy gốc mới đủ lực giữ. Không dám căng tăng, và cứ thấy nó trống huếch trống hoác thế nào ấy, nhất là khi trời còn sáng. Nhưng chịu khó rải lá khô ra, rồi trải ni-lon nằm thì thấy kín đáo hơn. Lúc mới vào chiến trường cứ thấy rừng già cây to cổ thụ cao vút che hết cả nắng thì yên tâm vì kín đáo. Nhưng thật ra những khu rừng thưa, rừng thấp, thậm chí rừng toàn lau lách, nếu giấu quân tốt thì đó mới thật là nơi an toàn. Rừng già mà chẳng may gần tuyến đường chiến lược thì bị ăn B52 lúc nào không biết. Nhưng đấy là kinh nghiệm về sau, còn lúc đó thì chỉ thấy sợ thôi. Nấu cơm mà vừa nấu vừa lo khói. Nhiều bãi khách có những bếp đào sẵn cho lính nấu cơm, hết đoàn này đến đoàn khác. Chúng tôi nghe biết nó là bếp Hoàng Cầm, nhưng cấu tạo ra sao chưa biết. Chỉ biết là đun ở các bếp đó không thấy có khói.

               Trạm T12 và T13 nằm dọc bên một con sông, hình như là sông Se Băng Hiêng. Sông ở đây dốc rất cao. Vì thế ở bãi khách mà ra sông lấy nước nấu cơm như đồng bào vùng cao đi gùi nước. Thằng nào đến phiên đó phải nấu cơm thì đúng là số ruồi. Những thằng không phải nấu cơm thì thậm chí nhiều thằng không đi rửa mặt mũi, chân tay vì ngại. Phải nhờ thằng khác lấy hộ bình tông nước dùng tạm qua đêm.

               Hôm vượt sông phải dậy từ 2 giờ sáng. Công binh mắc cho sợi dây soong chăng ngang mặt sông. Chỗ vượt là một cái ghềnh, đi qua các mỏm đá cho nông, nhưng nước chảy rất siết. Cái dây chăng cứ oặt ẹo, giằng qua giằng lại qua tay thằng này thằng khác, nên nhiều thằng mất đà ngã ướt hết. Cuối cùng thì cũng qua hết được sông. Không biết từ lúc nào, chúng tôi đã vứt hết giày. Vừa nặng, vừa khó dùng. Dép cao su đúc là ưu việt nhất. Càng về sau, chúng tôi càng thấy tác dụng to lớn không gì sánh được của đôi dép đúc. Vừa nhẹ, vừa bền, vừa chắc chắn. Nhưng dứt khoát phải có tất. Tốt nhất là tất len của bọn ngụy. Đi khô, đi ướt, đi bùn kiểu gì đôi tất cũng làm cho chân bám chặt vào dép, không bị trơn hay xoay vòng. Thế là sau chiếc mũ cối, đôi giày cao cổ phát cho lính vượt Trường Sơn đã cho thấy tác dụng kém của nó.

               Qua sông, chúng tôi tới một ngã ba rẽ sang nhánh khác và thay giao liên. Bây giờ là trạm T31. Do vượt sông ngã rơi gạo… chúng tôi phải ăn cháo một ngày và phải nhịn ăn một ngày trong điều kiện vẫn phải hành quân đủ một cung đường hơn hai chục cây số. Lính tráng làu bàu, nhưng chỉ có cây rừng nghe. Cả đội hình tụt tạt, lõng thõng. Thằng đi đầu tới trạm khách lăn ra ngủ đến hơn tiếng sau thằng cuối cùng mới tới. Nhe răng ra mà nhìn nhau, đói cả lũ một lượt. Hộp sữa bột 1 kg và cân đường cá nhân cũng chẳng mấy thằng còn. Đành lấy ra nhúm ruốc mặn khuấy vào ca nước suối mà ăn uống tạm.

               Hôm sau chúng tôi được lấy gạo bổ sung, ăn no, nghỉ một ngày chờ đêm hành quân vượt đường 9.

              Con đường 9 đã trải qua 1 năm kể từ chiến dịch đường 9 Nam Lào. Mùa khô mà lau lách hai bên đường vẫn cao vút, bò lấn ra con đường lâu ngày không người qua lại. Chúng tôi vượt đường 9 không phải theo hướng cắt vuông góc, mà phải đi dọc theo nó tới cả trăm mét. Không thể tin là mình đang đi qua con đường đã lừng danh sử sách. Đường đất, hẹp như một con đường miền trung du. Có lẽ con đường 4 qua Đông Khê, Thất khê đầy bông lau hai bên đường, nơi bộ đội ta mở chiến dịch Biên giới 1950 cũng giống thế này. Chẳng còn dấu tích nào của những trận đánh năm ngoái, hay nơi đây chỉ đơn thuần là con đường hành quân của những lữ đoàn dù ngụy? Thế mà chúng tôi vẫn phải ngậm tăm, lom khom chạy để vượt qua con đường thật nhanh. Mà có lẽ nơi này cũng gần với tuyến đường xe vận tải Trường Sơn rồi thì phải.
......



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: songvedem trong 04 Tháng Mười Hai, 2009, 06:50:02 am
Mãi giờ cái ấn tượng sâu nhất với tôi thời ấy không phải là các trận đánh mà chính là các cuộc quân hành dai dẳng không biết đâu là đích. Mùa mưa 9h sáng hơi nước mù mịt trong rừng thẳm sau đêm ngủ mệt. Ngủ rừng không khí nó nặng lắm! Ngày nào cũng như ngày nào ... Mùa khô thì vạ vật đái ra mà uống, ăn cắp cả nước đái nhau mà uống, mà sống...

--------------------------
Em vừa xem Discovery tối qua xong, trong trường hợp bị đắm tàu hay lạc trong rừng, nếu cố uống nước biển hay nước tiểu thì sẽ bị khát hơn, bị tác động lên não và nhanh toi hơn nếu chỉ cố gắng nhịn bác ạ.
Cả anh Trung Sỹ và Bình Yên đều có đái ra mà uống khi đi rừng, có thể đây là liệu pháp tinh thần hơn là hiệu quả các bác nhỉ


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 11 Tháng Mười Hai, 2009, 09:16:04 pm
…..
              Đúng như vậy. Sau khi vượt qua đường 9 thì tình hình có nhiều điều khác hẳn. Chúng tôi chỉ đi được một chặng đến gần sông SeKong thì phải nghỉ. Từ đây vào, phòng không của ta yếu hơn nên máy bay địch hoạt động rất nhiều. Đường vượt sông của tuyến đi bộ sát ngay gần đường xe. Trong này không thể có cầu, xe ô-tô phải đi qua sông bằng đường ngầm. Nằm ở một cái trạm không ra trạm ngay gần bờ sông. Có lẽ cũng không phải bãi khách vì ở đây chỉ thấy vô số hầm nằm dọc hai bên đường. Rồi vào sâu hơn cũng thấy cảnh hầm dọc đường. Đa phần là hầm nắp bằng, nhưng cũng nhiều hầm chữ A. Có lẽ những hầm này dùng cho giao liên hoặc các đơn vị hành quân qua đường. Thật đúng là "…Trên đường ta ra tiền phương, có những căn hầm ven Trường Sơn. Hầm chở che ta trước giờ xuất kích, hầm cùng ta đi đánh giặc đêm ngày…" như lời một bài hát.

              Chúng tôi chưa thể vượt sông vì địch đang đánh phá rất mạnh. Phía ngầm địch thả pháo sáng suốt đêm. Tiếng máy bay nghe cứ ì ì. Vệt sáng của pháo sáng cứ nhập nhòe, chập chờn, chao đảo. Rồi tiếng súng nghe lùng tùng lúc xa lúc gần. Cảm giác rất lạ, vừa nôn nao, vừa là lạ như đang xem phim ngoài trời.

              Chúng tôi lấy nước nấu cơm, không phải dưới sông mà phải đi lùi lại một con suối xa đến cả tiếng đồng hồ. Cho đến lúc này chúng tôi vẫn chưa đi qua một bãi bom nào. Các cánh rừng đều có vẻ yên bình. Đến đêm thứ ba thì chúng tôi dược lệnh vượt sông. Nhận lệnh từ tối. Cả đơn vị đeo sẵn ba-lô ngồi ngủ vạ vật theo đội hình hàng dọc, đến tầm 3 giờ sáng thì được lệnh lên đường. Hành quân đêm không phải là lần đầu với chúng tôi, nhưng ở nơi chưa quen biết địa hình, đêm tối đen, tốc độ hành quân lại do giao liên quyết định, lúc nhanh lúc chậm nên chỗ nào cũng xảy ra cảnh thấy thằng trước đi vèo vèo thì mình vội vàng chạy bám theo kẻo lạc. Bất thình lình hàng quân dừng lại đột ngột, thế là thằng sau đâm sầm vào thằng trước ngã dúi dụi. Nhất là đoạn xuống dốc ra bờ sông thì ngã xoành xoạch.

              Cuối cùng thì chúng tôi cũng ra được đến bờ sông và lội qua sông dưới khung trời bàng bạc. Nước sâu đến ngang lưng. Có muốn đội ba-lô lên đầu cũng không được vì không quen, lại mỏi, thế là lại bị ướt mất nửa ba-lô. Tẳng sáng thì thằng lính cuối cùng cũng leo lên được bờ sông bên kia. Không được nghỉ mà phải cắm cúi hành quân hơn một tiếng nữa mới được lệnh dừng lại. Tất cả được phép nghỉ một tiếng rưới để nấu cơm. Chỗ này có khoảng bằng rất rộng, gần một con suối nhỏ nên chuyện cơm nước cũng dễ dàng. Hành quân tiếp đến chiều thì chúng tôi tới được bãi khách. Bãi khách rộng, hầm rất nhiều và tốt.

              Cạnh bãi khách có mấy căn nhà khá vững chắc. Chắc nơi đây từng là nhà chỉ huy hay trạm phẫu gì đó. Cột nhà to hơn bắp đùi, đều nhau chằn chặn, chẳng hiểu là thứ cây gì. Trong này làm nhà, cột nhà chỉ là thân cây lóc vỏ, thế mà loại cây này như là thứ cây không vỏ, nhẵn như kiểu thân cây chuối.

               Hôm sau hành quân qua một cánh rừng lớn, chúng tôi ngạc nhiên nhận ra loại cây có thứ gỗ làm cột nhà ở bãi khách đêm qua. Hóa ra đó là cây xương rồng. Nếu không tận mắt nhìn, chắc chẳng bao giờ tôi tin có thứ cây xương rồng to mà thân gỗ của nó làm được cột nhà. Cả một cánh rừng chỉ toàn cây xương rồng. Thân chúng mọc thẳng, cao vút và tự tróc hết vỏ. Có ngửa cổ nhìn lên cao tới 3, 4 mét mới thấy đám ngọn xương rồng xanh cằn cỗi. Tuổi thọ của chúng chắc không dưới vài chục năm.

              Sang đến chiều thì phải qua một khu rừng trông như những ruông dâu. Tất cả được lệnh bẻ mỗi thằng một cành cây to che đầu làm ngụy trang. Con đường qua cánh rừng này dài tới mấy trăm mét, lối mòn nhỏ như không có mấy người qua. Chắc là đường nhánh tránh con đường giao liên chính bị hỏng. Hàng quân cũng dài nên không phải qua ngay được cùng một lúc. Chợt có lệnh ngồi xuống tại chỗ và lấy cành cây che đầu vì có máy bay. Một lúc cũng nghe thấy tiếng máy bay thật, nhưng nó cứ o o… như ở mãi đâu. Rồi ngẩng đầu ngó lên trời thì cũng thấy một cái máy bay hai thân màu trắng bạc bay tít trên cao. Nhìn nó bé tẹo, không biết nó có nhìn thấy mình không. Đợi mãi đến khi nó vè vè đi đâu mất thì lại được lệnh lên đường.

               Từ hôm đó trở đi, nhiều lần chúng tôi phải đi qua các khu rừng thưa, hầu như đều gặp loại máy bay trinh sát này. Rồi được biết nó là OV10, chuyên thám thính cho B52 đánh bom. Sau này ở chiến trường, cuối năm 1972 ra Sa-ra-van đánh nhau, chúng tôi gặp loại này thường xuyên. Đi nhóm vài thằng thì cứ đậy lá nằm ngủ rồi ngắm nó bay vè vè cả ngày. Cũng có lần bị nó nghi ngờ gọi B52 đến. Chỉ nghe tiếng F105 bay thấp sạt cánh rừng trinh sát lần cuối rồi chưa đầy 10 phút sau thì bom đã rơi ngập đất. May mà ở rìa bãi bom, căn hầm chữ A bị lật trơ lên một bên vách, trơ khấc ra mấy thằng lính, nhưng người chỉ bị chút sức ép mà không chết ai.

               Dọc đường Trường Sơn, tiểu đoàn chúng tôi không bị dính bom trận nào. Thế những cũng phải đến dăm lần phải đi qua bãi bom B52 mới thả. Có một lần nghe tiếng bom ở xa mà rồi lại đi qua chính chỗ đó. Cây cối đổ ngổn ngang, cành là còn tươi nguyên. Mùi thuốc bom hòa mùi thân cây gãy còn ngai ngái, khen khét và có lúc ngửi như mùi đường cháy. Đi qua đó, dù chỉ là cắt ngang mà cũng vướng víu vô cùng. Nhưng giao liên bảo, đó mới là con đường an toàn nhất.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 20 Tháng Mười Hai, 2009, 11:08:32 am

   "…Hà chuồn, Nam lủi, Thái Bình bay,
   Đất Thánh hiên ngang "tút" ban ngày…"


               Chả hiểu cái câu đó do ai sáng tác, và bắt đầu có từ bao giờ. Khi chúng tôi vào bộ đội, thì được nghe câu đó từ các cán bộ khung. Nhắc nhở, giáo dục và răn đe, nhưng lính "tút" vẫn cứ "tút". Chúng tôi không coi đó là tội lỗi, chỉ xem như là tranh thủ, vì trước sau chúng tôi vẫn vào Nam và sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ và cuộc đời cho Tổ Quốc trong những trận chiến đấu đang chờ chúng tôi trong chiến trường.

               Đó là ngoài Bắc, còn đã vào đến Trường Sơn rồi thì không ai còn nghĩ đến chuyện quay lại. Tât cả chỉ có một hướng phía trước là con đường vào chiến trường. Mới chỉ vất vả thôi và trong lòng còn có niềm háo hức ra trận của tuổi trẻ. Mùa khô quả là mùa ra trận, và "… đường ra trận mùa này đẹp lắm…", đúng như nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết. Nhìn lại chặng đường đã đi qua, quả là không ai muốn hoặc có gan quay lại. Thế mà cái câu ".. Hà chuồn…" lại ứng đúng vào một buổi chiều, khi chúng tôi đang trên một cung đường thuộc đất bạn Lào ở tỉnh Sà-Vằn-Nà-Khẹt.

               Cung đường này không có dốc cao; rừng già, đường rộng và có lắm khe suối nhỏ. Hôm ấy đến phiên tôi mang khẩu AK. Mỗi tổ tam tam có một khẩu AK được phát từ ngày nhận quân trang ở Hà Nam với 20 viên đạn nên cứ quay vòng ba ngày là tới lượt mình. Chỉ có súng không, còn đạn do A trưởng cầm. Thằng này không phải mang súng. Thật đúng là chuyện quản lý dở hơi, vì nếu có gặp thám báo thì có súng mà không đạn thì còn vướng hơn, chạy đâu cho thoát. Nhưng hôm trước qua một trạm lấy gạo bổ sung, tôi lân la xin được một anh lính giữ kho của binh trạm hơn chục viên đạn. Thế là khoái lắm, tôi dấu kín trong ba-lô, coi như của riêng. Hôm nay đến lượt mang súng, tôi lắp luôn 3 viên vào băng, thế là dù sao mình cũng có vũ khí ra vũ khí. Tiểu đội tôi có thằng Nghị bị ốm (chưa phải là sốt rét), nên tôi mang đỡ ít đồ và đi cùng nó. Chúng tôi đi sau cùng đội hình, có thêm đại đội phó Hảo khóa đuôi. Lúc ăn cơm trưa, chúng tôi cũng ăn sau cùng, rồi lại lẽo đẽo đi sau đơn vị. Giao liên đã chỉ sẵn đường nên thủ trưởng Hảo rất yên tâm. Cả tốp đi chậm và phải nghỉ giải lao nhiều hơn so với cả đơn vị.

               Khoảng gần giữa chiều, chúng tôi ngồi nghỉ lại bên một con suối. Tôi đang duỗi chân tay khoan khoái trên một phiến đá, ngửa cổ nhìn lên tán cây cao vút của rừng già và ngó ngoáy nhìn quanh thì chợt thấy có làn khói mỏng ở khe suối phía xa. "Thám báo"! Tôi kêu lên rồi tụt ngay xuống khỏi mỏm đá, giương khẩu Ak (chưa kịp lên đạn) lên và vấy tay cho thủ trưởng Hảo. Tât cả cùng nằm bẹp xuống. Thủ trưởng Hảo rút cây K54 ra lăm lăm, nhưng cũng chưa ra lệnh gì. Có đến mấy phút trôi qua, không thấy gì, thủ trưởng mới bảo tôi đi xuống khe suối rồi tiến lại xem khói ấy là gì. Lính mới tò te, kinh nghiệm là số không, nhưng có khẩu AK trong tay nên tôi cũng vững dạ dò dẫm tiến lên. Trượt chân mấy lần thì tôi cũng mò tới nơi. Chỉ thấy có một cái hăng-gô treo trên hai chạc cây đang đỏ lửa, cạnh đó có một cái ba-lô như của lính chúng tôi mà không thấy có người. Thủ trưởng Hảo cũng tới nơi, nhanh chóng nhận ra đây là quân tư trang của một thằng lính Bắc đang nấu cháo, thấy động thì bỏ trốn. Đoán thằng này đang đảo ngũ, chúng tôi lần ra xung quanh tìm. Nó chắc cũng vừa mới chạy, lại bỏ quên ba-lô nên cũng không thể chuồn thẳng. Chúng tôi kiên nhẫn ngồi đợi. Độ chục phút sau, tôi phát hiện có bụi cây gần đó lay động, mò lại thì phát hiện một thằng lính mình. Nó thấy tôi có súng nên tất nhiên là sợ và phải chui ra ngay. Thằng này cao và dáng khỏe hơn tôi rất nhiều. Thủ trưởng Hảo bình tĩnh bảo nó ra ăn cháo cho khỏi đói rồi hỏi chuyện tỉ tê. Tất nhiên là cu cậu phải khai vì đã lâm vào thế bí. Hóa ra nó là lính đoàn Hà Tây, hành quân trước chúng tôi một ngày. Sớm nay nó trốn lại, và lần theo đường cũ quay ra, đến đây nấu cháo ăn thì bị chúng tôi phát hiện. Thế là nó phải cùng chúng tôi quay lại trạm khách, nơi đoàn của nó nghỉ đêm trước. Thằng này cũng tử tế, mang vác luôn đồ cho thằng Nghị để tất cả cùng đi cho nhanh.

               Chiều đó nhập vào được với đơn vị, tôi lại phải cùng thủ trưởng Hảo đưa nó vào giao cho Ban chỉ huy trạm. Lúc này tôi đã biết tên nó là Mạnh. Tuy không ủng hộ chuyện nó "B quay", nhưng trong lòng tôi cũng thấy nể nó một phần. Có mỗi cái ruột tượng gạo, vũ khí không mà dám một mình lặn lội theo kiểu chui lủi để tìm đường về nhà thì ghê thật. Thằng Mạnh được BCH Trạm tiếp nhận, còn chúng tôi ra về bãi khách.

               Hôm sau, chúng tôi lại hành quân tiếp. Đi chừng nửa tiếng, chúng tôi gặp một tốp giao liên binh trạm đi ngược chiều. Chợt trong đoàn có một thằng nhảy ra ôm chầm lấy tôi rồi túm hai tay lắc lắc. Tôi nhìn, nhận ra nó là thằng Mạnh đoàn Hà Tây gặp hôm qua. Nó bảo nó đã được nhận vào bổ sung làm lính binh trạm. làm nhiệm vụ cùi hàng, tải thương. Nó có vẻ mãn nguyện lắm, vì không phải vào Nam đánh nhau. Nó nói rối rít rồi vội chạy cho kịp toán giao liên. Tôi cũng nói vội câu chúc mừng nó. Thế là nó vừa toại nguyện không phải đánh nhau, vừa vẫn được phục vụ Tổ quốc, không phải mang tiếng đào ngũ, sống lao động cải tạo trong mấy cái trại thu dung ngoài Bắc.

               Cảnh đào ngũ trên con đường Trường Sơn, tôi cũng chỉ gặp một lần đó thôi. Sau này vào chiến trường, trải qua gian lao, vất vả và ác liệt, lính trong trung đoàn và cả nhứng đồng đội Hà Thành của tôi đảo ngũ rất nhiều. Nhưng đó lại là chuyện khác, chuyện của nhiều năm sau…




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 30 Tháng Mười Hai, 2009, 08:32:39 pm
….
               Không chỉ những đường mòn chuyển quân, mà cả những con đường vận chuyển hàng bằng xe ô-tô trên Trường Sơn, phần lớn nằm vắt qua đất Lào. Ai cũng bảo có tuyến Đông và tuyến Tây Trường Sơn, nhưng những câu chuyện về các chiến sĩ công binh làm đường, làm ngầm và chuyện của cánh lính lái xe thì phần lớn đều mang dáng dấp rừng và địa danh Lào.

              Tuyến đường ống của bộ đội xăng dầu trên Trường Sơn cũng vậy. Nó tránh xa các con đường vận tải luôn bị bom Mỹ đánh phá vì nơi đó mất an toàn. Nó bám theo các tuyến đường mòn của đoàn quân đi bộ. Tôi biết điều đó vì không chỉ một lần, chúng tôi phát hiện thấy đường ống dẫn dầu. Nhiều đoạn qua khe hay sườn núi, nó nằm lộ thiên ngay trên mặt đất. Kẻ địch không thể đủ thám báo để tung ra mà lần mò khắp Trường Sơn, chứ đường ống dẫn dầu không phải là khó tìm. Có những lần nó nằm sát đường đi, ngồi nghỉ giải lao ven đường chỉ cách nó độ một mét.

              Lính tráng cũng là con người, nên có lúc, có thằng bộc lộ cái ngu hết sức ngớ ngẩn và dở hơi. Thằng Bình bên Đông Dư (Gia Lâm), một lần dừng chân giải lao thấy cái ống dẫn dầu đã dùng dao găm cậy cái nắp ở một chỗ nối. Đầu tiên là nó, rồi tất cả đám lính tại đó đều tranh nhau lấy xăng đổ bật lửa từ cái dòng xăng phọt ra không lấy gì làm mạnh đó. Hết khôn dồn đến dại. Lấy đủ hết xăng rồi thì không sao bịt lại được nữa. Cái dòng xăng ấy dù bé nhưng cũng chảy dần ra thấm đẫm cả một khoảng đất. Xăng cũng hòa vào không khí, bốc mùi ra một vùng rộng lớn xung quanh. Cán bộ và giao liên không ai biết. Đến lúc đứng dậy hành quân, một thằng ngu nào đó còn lấy bật lửa ra lách tách bật thử. Thế là cả đám cỏ xung quanh bừng cháy rất nhanh. Đám lửa lan nhanh ra cả khoảng đất thấm dầu, khói bốc cao. Thế là tất cả bỏ chạy. Bọn nghịch dại này nằm ở tốp sau cùng. Thấy bọn đằng sau rầm rầm chạy lên kèm theo khói lửa bốc cao, chúng tôi ngồi nghỉ phía trên cũng bật dậy chạy. Cứ thế, cả hành quân rùng rùng chạy. Chạy cho mau vì lúc đấy cũng chưa ai hiểu ra tình hình là thế nào. Lại sợ, lúc này mà có máy bay trinh sát OV-10 trên đầu thì chạy đằng trời. Tất cả xanh mặt. Cán bộ cũng phải chạy tới chạy lui, một lúc lâu sau mới hiểu ra tình thế. Mấy thằng hiểu biết một chút còn đoán là một lúc nữa thôi cả đoạn ống sẽ nổ như bom. Lính tráng sợ đã đành, mà cán bộ khung dẫn quân cũng sợ.

               May thay đám cháy lùi lại ở phía sau chắc tắt dần, vì không thấy khói bôc lên nữa. Không có nổ đường ống. Đám cây rừng quanh đó cũng không bị cháy để có thể gây ra cháy rừng. Sau này chúng tôi biết là đường ống dẫn dầu chỉ bơm từng trạm. Trong lòng đoạn ống khi đó chỉ còn lượng xăng dính ống nên khi bị thủng chỉ chảy ra ít và không đủ để gây cháy nổ đường ống. Thật hú vía.

              Rồi chúng tôi cũng an toàn đến được trạm khách sau. Đơn vị họp ngay để kiểm điểm, nhưng không đứa nào bị sao cả, vì thực ra cũng có tìm ra đứa nào bật lửa đâu. Tất cả lại lên đường tiếp tục hành quân. Về sau chúng tôi rút kinh nghiệm, xin luôn xăng của cánh lái xe khi gặp họ ở những trạm phải lấy gạo bổ sung.

*

              Không hiểu bắt nguồn từ đâu mà tít trên dãy núi Trường Sơn, có chỗ tưởng như là đỉnh cao nhất rôi, mà vẫn có nhiều suối. Mùa khô, nhiều con suối nhỏ và cạn đã đành, nhưng chúng tôi cũng gặp nhiều con suối to. Chiều rộng dòng nước của nó cũng tới hai, ba mét. Có nhiều chỗ dòng chảy quẩn lại, nước rất sâu. Có lần dừng chân ở một bãi khách, lính tráng nhìn thấy cá, đem AK ra bắn mà cũng được cá. Một điều rất may là trước đó, chúng tôi đã được phổ biến kiểu truyền miệng là không được thò nòng AK xuống nước rồi bắn. Bắn kiểu đó nòng AK sẽ vỡ toắc ngay vì gây ra một thứ áp suất nào đó. Không đứa nào dám thử, nhưng chắc là như vậy. Vài con cá suối ranh, thế mà đem nấu cháo cũng thấy ngon tuyệt. Dọc Trường Sơn, chúng tôi đứa nào cũng thạo cái món tự nấu cháo bằng hăng-gô rồi thả tí ruốc vào. Lúc ấy là ruốc thịt, chưa biết tới ruốc cá. Cháo ruốc ngon tuyệt vời, nhất là trong cảnh lúc bấy giờ.

               Lúc ở nhà đọc chuyện cổ tích, tôi cứ nghĩ rừng có nhiều thứ ăn được lắm, và những cuộc đi chơi rừng sẽ vô cùng thơ mộng. Nào là hái nấm, nhặt hạt dẻ… Thực ra trong rừng cũng có rất nhiều thứ đó, sau này chúng tôi cũng có nhiều dịp hái nấm và nhặt hạt dẻ về rang ăn, nhưng lúc ấy dọc đường không thấy những của đó. Chẳng có rừng vải, rừng chuối, rừng mơ gì cả. Hành quân mùa khô nên hầu như không có rau ăn. Gặp Tre, gặp Vầu, gặp Bương, gặp Luồng… vô khối ra đấy, nhưng không phải mùa măng. Chỉ có đôi lần qua những đoạn có khe suối cạn, chúng tôi được giao liên chỉ cho cây rau tàu bay. Ngày ở nhà nghe cha chú kể nhiều về loại rau này trong kháng chiến ở Việt bắc, nhưng bây giờ mới biết. Rau mọc tốt, xanh um. Chúng tôi hái cả ôm mang theo, để đến khi tới trạm thì nấu ăn. Lúc đầu chưa có kinh nghiệm, hái dài ngoẵng, mang nặng. Lúc nhặt vẫn phải bấm ngọn non như nhặt rau muống, bỏ cọng già rất nhiều. Rau tàu bay lúc mới ăn thấy hơi hăng hắc, nhưng vì thiếu rau xanh lâu ngày nên chẳng để thừa tẹo nào. Nhiều người còn bảo ăn thứ rau ấy hay bị ngã nước, nhưng chắc không phải. Sau này có một thời gian mấy tháng trời, chúng tôi chỉ có thứ rau đó ăn. Hết luộc lại sào, nhưng theo tôi ngon nhất là rau tàu bay muối dưa. Dòn và đậm lắm.

               Không phải ở rừng chỗ nào cũng có rau tàu bay mà ăn đâu. Trong rừng mà ăn được nhiều nhất có lẽ là các thứ lá chua. Không chỉ cây bứa, mà còn nhiều loại cây lá chua khác, chả biết tên nó là gì. Cây chỉ nhỏ như cây mọc tái sinh, lá màu như lá sấu non. Vò ăn thấy chua chua, đem ngắt thả bừa vào nồi nấu canh, lùa cơm cũng dễ.

               Hết mơ rau lại đến mơ quả. Đi mãi ngày này qua ngày khác mà không gặp rừng cây ăn quả. Nhiều lúc cũng thấy thứ cây có quả, nhưng không ăn được. Đặc biệt có những thứ quả quái quỷ gì đó màu sắc cực đẹp, rực rỡ. Loại này chỉ có đem bày cho đẹp. Hỏi mấy anh giao liên, bọ bảo trong rừng quả gì càng đẹp, càng độc. Chớ có hái cắn thử mà có ngày chết. Thậm chí họ còn bảo có thứ quả chim ăn được, nhưng người không thể ăn được. Tốt nhất là nên hỏi lính cũ trong rừng chứ đừng có mà cắn bừa. Đấy cũng là những bài học vỡ lòng về rừng với lính mới chúng tôi…




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hoangdang_hm trong 30 Tháng Mười Hai, 2009, 11:51:07 pm
 Chú Trọng viết bài này hay quá, cháu có cảm giác như được ở cạnh chú, cùng chú đi về quá khứ , cùng với chú hành quân trên con đường năm nào. Chú viết nhanh thêm tí nữa nhé :)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: H3 Hùng trong 31 Tháng Mười Hai, 2009, 12:54:15 am
             Đến trạm T10 thì chúng tôi bắt đầu vào địa phận tỉnh Sa-va-na-khet của Lào. Đêm đó gặp mưa. Chiến trường Lào mùa mưa đến sớm hơn chiến trường miền Nam một tháng, nhưng cơn mưa đầu mùa này cũng là cơn mưa đến sớm, vì lúc này mới là nửa đầu tháng 3. Mưa không to, nhưng dày hạt, kéo dài chừng hơn một giờ. Lần đầu tiên được hưởng mưa rừng Trường Sơn, được thấy tác dụng thứ nhất của tấm tăng bộ đội (cái từ tăng mà xuất phát gốc của nó là TANK, thì rồi mãi về sau chúng tôi mới hiểu hết). Lúc đó chưa khuya, nằm trên võng mà cảm nhận rõ cái tiếng rơi lộp bộp của những hạt mưa xuyên qua lớp lá rừng thưa đập vào mái tăng, ngay sát mặt mình chỉ chừng mấy chục phân. Cảm giác hơi lạnh… và nhớ nhà.

Nửa đêm về sáng, tâm hồn yên tỉnh, đọc giọng văn kể chuyện hành quân trầm buồn tha thiết của bác Trọng thấm lắm. Biết được thêm mùa mưa ở Lào đến sớm hơn mùa mưa ở Miền Nam Việt Nam một tháng.

Thấy cái cảnh nằm rừng đêm mưa dưới tán rừng, dưới tấm tăng nylon bộ đội của bác Trọng mà tự dưng tôi chạnh lòng nhớ lại cảnh hành quân truy quét năm nào ở biên giới Thái gần Đăng-cum (phía bắc ngã ba Con Voi 20km), nằm dưới cơn mưa rả rít dai dẳng, nghe tiếng mưa rơi lộp bột trên mái tăng, cảm nhận rõ dòng chảy của nước theo thân cây thấm vào dây võng quấn thân cây, thấm qua cọc phụ, thấm xuống dây giăng võng, rồi lan ra cả cái võng mình nằm, thấy cái lạnh đêm mưa, thấy cái ướt át khó chịu, thấy rõ cái khổ cực kỳ của đời lính rừng, vậy mà tuổi 20 bất chấp tất cả, sáng dậy vuơn vai, thay bộ đồ khô mình mặc ngũ ra nhét vào ba lô, mặc lại bộ đồ ướt hành quân tiếp...

Hình như bộ đội Việt Nam thời nào cũng khổ như nhau, nay nhắc lại cái khổ đó không thấy sợ, mà thấy nó lãng mạn mới chết chứ.  ;D Bởi thế tại sao thằng lính chiến về đời thường nó lại hơi gàn, hơi bất cần, hơi bất chấp... Có lẽ vì nó đã vượt qua được cái gian khổ của cuộc chiến, nó đã vươn lên một tầm cao mà chỉ nó tự cảm nhận và sau đó nó nhìn lại đời bằng một con mắt bao dung và phán xét.

Bao dung vì nó sẳn sàng tha thứ cho những sai lầm vấp váp của mỗi con người, nó sẳn sàng sẻ chia giúp đở những người khốn khó hơn nó và phán xét khi nó thấy một người nào đó làm ra vẽ ta đây là anh hùng, là lãnh đạo. Bởi vì anh nói miệng thì tôi chưa tin đâu, thử ra chiến trường tôi coi anh chiến đấu thế nào thì tôi mới tin. Khi chiến trận bùng lên, khi đạn bay pháo nổ, cái bản chất con người nó hiện ra ngay, trong cái ranh sống chết đó người lính nhận ra ai là anh hùng, ai là anh... xạo! >:(


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 31 Tháng Mười Hai, 2009, 01:39:02 am
hehe đúng thật , lính ở rừng mùa mưa cực hết chổ nói , tăng lỡ đổi chó hết rồi cứ dầm mưa suốt ngày suốt đêm , quần áo hết khô lại ướt hết ước lại khô . Hành quân thì đở lạnh còn nằm trên võng thì cái gì teo được nó sun hết lại  ;D Hết đợt chiến dịch kéo dài gần 1 tháng mới được ra phum , ôi chao sao lúc đó thấy đời sung sướng quá , con gái K đứa nào cũng đẹp   ;D ( hehe 1 tuần sau nhìn lại tự trách mắt bị bù lệch ăn )


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: trevn trong 31 Tháng Mười Hai, 2009, 10:02:41 am
Chú ts Hùng ơi @: đọc đâu đó trong quansuvn.net, cháu thấy bộ đội ta được hướng dẫn cách mắc võng làm sao để mưa không bị ướt phải không ạ - hay là nếu mưa rả rich cả đêm thì kiêu gi` cung bị ướt ạ ?
Cháu hỏi chú Haanh một tí: thấy các chú bộ đội hay đổi quần áo, tăng võng lấy các thứ để lien hoan, Vẫn biết là các chú đã trải qua và không sao cả, cháu vẫn thắc mắc là đổi hết đi rồi hành quân tác chiến rét mướt + muỗi nhiều như thế làm sao mà ngủ được, vì vất vả thì có thể chịu được nhưng mà thiếu ngủ thì thật sự mệt mỏi và không tỉnh táo (rất khập khiểng nhưng cháu lấy từ kinh nghiệm xem bong đá world cup ạ, nhiều khi sang hom sau đi xe máy còn ngủ gật ấy chứ  ;D)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: H3 Hùng trong 31 Tháng Mười Hai, 2009, 10:19:21 am
Chú ts Hùng ơi @: đọc đâu đó trong quansuvn.net, cháu thấy bộ đội ta được hướng dẫn cách mắc võng làm sao để mưa không bị ướt phải không ạ - hay là nếu mưa rả rich cả đêm thì kiêu gi` cung bị ướt ạ ?

Chú xin giải thích cách mắc võng đại khái như sau:

1. Lấy dây võng quấn quanh cọc phụ, sao cho đoạn dây mắc vào cọc phụ cao hơn đoạn dây mắc vào thân cây, để nước theo dây không chảy vào võng. Cọc phụ thường là đoạn cây nhỏ bằng cườm tay, cườm chân.
 
2. Sau đó lấy dây võng quấn tiếp vào thân cây mắc võng làm cọc giăng võng.

Tuy nhiên trong quá trình mình nằm võng, do nước mưa làm cọc phụ và dây võng trơn ướt nên nó mất ma sát, nó từ từ tuột xuống, nước mưa lại len vào võng theo nguyên lý nước chảy từ trên xuống. Mình khắc phục bằng cách lấy khăn lau mặt quấn đở trên đoạn dây dẩn nước đó để nước theo khăn rơi xuống đất. Đầu dây kia cũng vậy, vắt đại cái quần cái áo ướt gì đó để dẩn nước đi xuống đất. Chứ trời đang mưa, đang mặc bộ quần áo khô cuối cùng mà lại nhảy ra ngoài mưa giăng võng lại thì lát nửa lấy cái gì thay đây: Tài sản của thằng lính chỉ có duy nhất 2 bộ quân phục mà thôi!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 31 Tháng Mười Hai, 2009, 12:20:29 pm
Hình như bộ đội Việt Nam thời nào cũng khổ như nhau, nay nhắc lại cái khổ đó không thấy sợ, mà thấy nó lãng mạn mới chết chứ.   Bởi thế tại sao thằng lính chiến về đời thường nó lại hơi gàn, hơi bất cần, hơi bất chấp... Có lẽ vì nó đã vượt qua được cái gian khổ của cuộc chiến, nó đã vươn lên một tầm cao mà chỉ nó tự cảm nhận và sau đó nó nhìn lại đời bằng một con mắt bao dung và phán xét.

Bao dung vì nó sẳn sàng tha thứ cho những sai lầm vấp váp của mỗi con người, nó sẳn sàng sẻ chia giúp đở những người khốn khó hơn nó và phán xét khi nó thấy một người nào đó làm ra vẽ ta đây là anh hùng, là lãnh đạo. Bởi vì anh nói miệng thì tôi chưa tin đâu, thử ra chiến trường tôi coi anh chiến đấu thế nào thì tôi mới tin. Khi chiến trận bùng lên, khi đạn bay pháo nổ, cái bản chất con người nó hiện ra ngay, trong cái ranh sống chết đó người lính nhận ra ai là anh hùng, ai là anh... xạo!


--------------------
       @bác Thuong si Hung:
     Bác nói rất đúng. Cảm ơn sự chia sẻ của bác vì nó rất gần với suy nghĩ của tôi.
       Chúng mình vừa sống về nội tâm, vừa gặm nhấm quá khứ nên hay bị nhìn là gàn. Nhưng nhớ về quá khứ nó cũng sướng lắm bắc ạ, không gì so sánh nổi đâu. Mà cũng chỉ có lính mình mới hiểu hết được nhau thôi. Người khác hiểu được phần nào, quý phần đó, đâu dám mong họ hiểu hết.

       Nhưng dù gian lao vất vả thế nào thì tự bản thân mình vẫn thấy trân trọng cái quá khứ làm lính ấy. Nó dạy mình làm người thật sự bác ạ. Nó làm cho mình thấy bao dung hơn với những người xung quanh mình ngày nay, cho mình cảm nhận được cái hạnh phúc bé nhỏ mà nhiều người đã coi thường.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 31 Tháng Mười Hai, 2009, 01:43:06 pm
Chú ts Hùng ơi @: đọc đâu đó trong quansuvn.net, cháu thấy bộ đội ta được hướng dẫn cách mắc võng làm sao để mưa không bị ướt phải không ạ - hay là nếu mưa rả rich cả đêm thì kiêu gi` cung bị ướt ạ ?
Cháu hỏi chú Haanh một tí: thấy các chú bộ đội hay đổi quần áo, tăng võng lấy các thứ để lien hoan, Vẫn biết là các chú đã trải qua và không sao cả, cháu vẫn thắc mắc là đổi hết đi rồi hành quân tác chiến rét mướt + muỗi nhiều như thế làm sao mà ngủ được, vì vất vả thì có thể chịu được nhưng mà thiếu ngủ thì thật sự mệt mỏi và không tỉnh táo (rất khập khiểng nhưng cháu lấy từ kinh nghiệm xem bong đá world cup ạ, nhiều khi sang hom sau đi xe máy còn ngủ gật ấy chứ  ;D)

hehe , mưa rừng dù có tăng che chắn cách gì đi nữa cũng sẽ ướt hết thôi , vấn đề là ướt sớm hay muộn ;D
Con người ta khi cùng cực quá thì không còn sợ chết nữa mà cái chết ở chiến trường K sau này nó đến và đi rất bất ngờ như mưa bóng mây , mới ngồi cười ha hả đó trong phút nghỉ giải lao , xách súng đi thêm vài bước là chết rồi  . Vì vậy sướng được chút nào thì cứ sướng , ăn được gì cứ ăn . Buồn ngủ thì tự khắc lăn ra ngủ , vừa hành quân vừa ngủ còn được nữa mà sá chi mưa ướt , gió lạnh . Ngủ ở rừng Biển Hồ sáng ra mặt mũi chân tay thằng nào cũng sưng vù như ong đốt , võng toàn là máu do muỗi cắn no máu quá không bay nổi . Lúc đó có mùng thì cũng không ai mắc vì ta và địch cùng ở chung nhau 1 khu rừng , thậm chí có thể ngủ cách nhau 5-7 m nên thằng nào cũng muốn núp cho thật kỹ để ngủ cho đã , trời sáng đánh tiếp  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vubang trong 31 Tháng Mười Hai, 2009, 02:40:33 pm
hehe đúng thật , lính ở rừng mùa mưa cực hết chổ nói , tăng lỡ đổi chó hết rồi cứ dầm mưa suốt ngày suốt đêm , quần áo hết khô lại ướt hết ước lại khô . Hành quân thì đở lạnh còn nằm trên võng thì cái gì teo được nó sun hết lại  ;D Hết đợt chiến dịch kéo dài gần 1 tháng mới được ra phum , ôi chao sao lúc đó thấy đời sung sướng quá , con gái K đứa nào cũng đẹp   ;D ( hehe 1 tuần sau nhìn lại tự trách mắt bị bù lệch ăn )

Phải nói cảm giác lúc ra đến bìa rừng, xa xa nhìn thấy vài nóc nhà khi ẩn khi hiện mới thấy lòng rộn ràng khó tả. Sau này có lúc nhớ lại muốn so sánh với cảm giác khi còn nhỏ được ba mẹ cho đi SG nhưng thấy vẫn khập khiểng. Chắc chỉ có những thằng lính ở rừng mới cảm nhận được hết, đúng là thấy cái gì cũng đẹp, kể cả mê mai ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Giêng, 2010, 08:43:26 pm
….
            Những lần được nghỉ thêm một ngày ở một trạm nào đó, nhiều đứa trong chúng tôi viết thư gửi về nhà. Gửi về đơn phương thôi vì chúng tôi không có hòm thư. Viết xong lá thư gửi đi đấy, chắc chắn thư mới đi được vài ngày chưa thể về đến nhà thì chúng tôi đã đi tiếp tới tận đâu rồi. Chẳng có khái niệm gì về trạm quân bưu giữa rừng Trường Sơn này đâu. Chẳng cán bộ nào phổ biến cho chúng tôi viết thư, vì chẳng có hòm thư để bỏ vào. Cũng chẳng có binh trạm nào đứng ra nhận thư của lính. Nhưng chúng tôi vẫn viết. Dọc đường vào Nam, chúng tôi đã gặp rất nhiều đoàn ra. Khi thì là đoàn cán bộ miền Nam, toàn người nhiều tuổi, mặc áo bà ba, đeo bòng, thắt khăn rằn, túi dết. Có ông mặc toàn dân sự mà lại đeo súng ngắn. Đa phần họ nói giọng miền nam. Có khi thì gặp cả một đoàn thiếu nhi miền Nam. Trai gái đủ cả, chừng 12, 13 tuổi, mỗi đứa đeo một túi nhỏ và có một cây gậy chống dài ngoãng. Lúc lại gặp cả đoàn thương binh đến mấy chục người. Dù là mùa khô, mùa xe chạy, nhưng chắc cũng không đủ xe, nên vẫn phải có nhiều người đi bộ ra. Cảnh gặp nhau giữa rừng thì chào nhau ríu rít, vui như đi hội.

               Thường là gặp những đoàn ra như thế, chúng tôi lấy ra những lá thư đã viết sẵn, đưa nhờ họ mang ra. Mỗi đứa một lá, có đứa hai ba lá, nên mỗi người phải nhận cả tập thư. Thời gian ấy chúng tôi còn có tem thư, mỗi lính lại được phát cả chục chiếc tem nên thư nào chúng tôi cũng dán tem. Dặn nhờ  người mang là cứ khi nào gặp hòm thư thì bỏ hộ vào đó cho tiện. Chả biết bao giờ thư về tới nhà, nhưng vẫn cứ viết cứ gửi như thế, với suy nghĩ đơn giản là khi nhận được thư, bố mẹ biết là đến lúc đó con mình vẫn còn sống.

              Tôi cũng nhiều lần viết thư như thế. Chỉ toàn viết thư về nhà thôi. Mỗi lần gửi được thư là lại đánh số và ghi vào cuốn sổ tay bé tí. Dọc đường hành quân thì vừa đi vừa ngó nghiêng nhìn cảnh vật, nhất là ở những đoạn đường bằng đều đều chân bước. Lớp trẻ chúng tôi khi đó được giáo dục lòng tự hào đất nước ta "rừng vàng biển bạc", nên tôi cố gắng tận hưởng tất cả cảnh đẹp mà mình nhìn thấy dọc đường. Mà quả là cũng luôn tin như thế. Cái mà tôi thích nhất là củi rừng. Chỗ nào cũng có củi. Dừng chân bất cứ đâu, dù bãi khách xấu đẹp hay rộng hẹp thì việc vơ lấy mấy cành cây để nấu hăng-gô cháo cá nhân quá dễ dàng. Chẳng bù cho ở nhà, mỗi tháng cả nhà chỉ được mua 10 hay 15 kg củi theo phiếu phân phối và độ 30 kg than ướt. Chính vì thế mà trong nhà tôi có một thứ vật dụng rất quý là con dao dựa mài sắc. Những ngày tháng bảy mưa bão là những ngày hết sức háo hức. Tôi chờ từng đêm có bão gió to để quần đùi áo may-ô cùng bọn thanh niên choai trong phố đi chặt cành cây đổ. Cành xà cừ lúc tươi chặt rất dễ, để khô nó quánh lại đẽo ra đun đượm lửa vô cùng. Mùa bão qua đi là nhà tôi cũng có đủ số củi bằng tiêu chuẩn phiếu hơn nửa năm trời và tôi luôn tự hào với thành tích đó. Sau này vào bộ đội, lên Bãi Nai huấn luyện đi chặt củi rừng vào các chủ nhật, tuy có khá hơn ở nhà, nhưng những ngày đi lấy củi vẫn là vất vả đối với chúng tôi và càng ngày càng phải vào rừng sâu hơn. Đi lấy củi vẫn là một công tác khó nhọc mà chúng tôi rất ngại.

              Bây giờ vào giữa rừng Trường Sơn thì thấy quả là rừng vàng. Mà lạ cái là đi trên tuyến Tây Trường Sơn thuộc đất bạn Lào, nhưng tôi không hề thấy có cái cảm giác của người được đi ra nước ngoài. Vẫn như là đất của nước mình vậy. Rừng "vàng" không phải chỉ là củi đâu thôi, tuy đó là thứ tôi cảm nhận thích nhất. Thú rừng, một nguồn thực phẩm quý và nhiều mà sau này chúng tôi săn bắn được để cải thiện thì lũ bạn ở nhà đi học (bọn con gái và những thằng con một ấy mà) có mà nằm mơ cũng không thể nào hình dung ra được. Còn cảnh đẹp thì miễn chê. Tôi đã tận hưởng và sau này nghiệm lại thì mọi thứ phong cảnh hữu tình, ở núi rừng Trường Sơn đủ cả (không khí trong lành và tôi chưa hề có trong đầu khi đó khái niệm gọi là "ô nhiễm môi trường"). Chỉ riêng chuyện nơi đây có thứ cây xương rồng mà thân gỗ của nó dùng được để làm cột nhà thì đã không gì có thể so sánh được rồi.

               Hồi hành quân dã ngoại ở ngoài Tân Lạc, tôi đã kể về chuyện có những giò phong lan rừng đã làm ngây ngất những thằng nhà chơi cây cảnh tới mức cố lấy và cất công mang hơn trăm cây số đi bộ về làm quà dịp nghỉ phép. Những thằng mù tịt về cây cảnh như tôi chỉ có cảm nhận chung là đẹp thôi.

               Từ Binh trạm 41 trở vào có nhiều rừng già, dốc cao. Gặp mưa nhiều hơn. Nói chung hành quân trong rừng mà gặp mưa thì kiểu gì cũng ướt. Đừng mong che khô người bằng tấm ni-lon. Đi ở chỗ quang thì còn được, chứ rừng rậm mà quàng ni-lon vướng cành cây thì chỉ có rách. Mà rách thì sau này lấy cái gì dùng? Ngay lính giao liên cũng chỉ thấy họ quàng cái tấm ni-lon bằng vải đựng gạo đồ cắt ra, chỉ quàng che mỗi chỗ vai và cái gùi nhỏ. Phải nói là chúng tôi khi ấy được phổ biến kỹ càng và có ý thức giữ gìn ghê lắm. Biết là lúc đi B được trang bị đầy đủ mọi thứ đấy, nhưng chắc chỉ có một lần, không lấy đâu ra mà cấp lại. Ngay cả hai thứ căn bản là Tăng và võng, nó che chở mưa nắng cho mình lúc còn sống, và nó cũng sẽ là thứ cuối cùng theo mình sang thế giới bên kia, nếu số phận mình chỉ có vậy.

              Một lần chúng tôi gặp một cánh rừng vô cùng nhiều hoa Lan. Tôi không biết hoa Lan có bao nhiêu loài, tên riêng là gì, nên gọi chung chúng là hoa Lan rừng. Cành dài đầy hoa trắng muốt như mọc ra từ một cành cây rừng trên cao. Nếu chỉ dăm bảy cành thì chẳng gây ấn tượng bao nhiêu. Đằng này nhiều đếm không xuể. Không biết cây rừng ở đây là loại gì mà hoa Lan ký sinh trên đó nhiều vậy. Trắng cả một khoảng rừng. Không thể không reo lên thích thú và đòi nghỉ giải lao để ngắm. Rất nhiều thằng chặc lưỡi hít hà tiếc rẻ. Anh giao liên chỉ cười, bảo vùng rừng này nhiều lắm. Lán giao liên nào ở binh trạm cũng lấy về treo dăm cành. Thật đúng là rừng vàng. Nhưng thôi, đường ra chiến trường còn ở phía trước. Hẹn ngày chiến thắng trở lại đây kiếm nhành hoa Lan rừng thật đẹp tặng cho người con gái của đời mình thay bó hoa Lay-ơn ngày cưới.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Giêng, 2010, 09:50:09 am

              Ngày hành quân thì ngắm cảnh rừng. Đêm về nằm võng thì bắt đầu nghĩ về nhà và mơ những chuyện cổ tích. Mơ cả chuyện Việt nam và mơ cả ở những phương trời xa xôi. Lớp phổ thông của tôi có nhiều bạn gái sang Nga học. Không biết có ai đến thành phố Leningrat để được thưởng thức đêm trắng như câu chuyện tình lãng mạn trong phim "Belưie Notri" không? Nằm giữa rừng Trường Sơn mà mơ mình là chàng hoàng tử phóng ngựa đấu kiếm để cứu nàng công chúa bị nhốt trong lâu đài thì cũng thấy khoái lắm, quên cả gian nan vất vả ban ngày. Rồi lại lẩm nhẩm đếm xem mình đã gửi về nhà bao nhiêu lá thư, và chúng đã đi tới đâu.

               Hôm hành quân từ trạm 43A sang trạm 43B, tôi cũng đi ở một tốp sau cùng với đại đội phó Hảo. Đoạn đường này có nhiều dốc dài thoai thoải, nhiều cây rừng già và khe suối đá rộng. Cũng là sau bữa cơm trưa, được nghỉ lâu một chút. Chỗ này quang đãng rộng rãi nên khi tôi muốn đi giải quyết nỗi buồn âm ỉ, thủ trưởng Hảo bắt tôi đi dọc theo suối vào sâu trong rừng một quãng xa. Đi độ ba chục mét tới một khe đá, tôi bỗng hoa mắt lên khi nhìn thấy trong khe đá trắng xóa một đống thư. Phải là hàng vài trăm, không, có lẽ tới cả ngàn bì thư được bỏ xuống đấy như được trút ra từ cái bao tải khổng lồ. Tôi kêu lên gọi thủ trưởng Hảo. Cả tốp lính chạy tới. Chúng tôi nhặt lên xem, thấy địa chỉ nhận là nhiều vùng quê miền Bắc. Tại sao những lá thư này lại ở đây. Phải nói lúc ấy cái cảm giác thật khó tả. Ngạc nhiên và không thể lý giải. Người lính quân bưu nào hy sinh nơi đây ư?

               Thủ trưởng Hảo đúng là người lính già đầy kinh nghiệm. Chỉ vài phút, ông đã luận ra được đây là thư của những người lính đang trên đường vào chiến trường như chúng tôi. Họ đã gửi những lá thư viết vội dọc đường, nhờ những tốp cán bộ hay thương binh đi ngược đường đem ra Bắc. Những lá thư ấy nhiều quá đến mức là món hành lý nặng cho người mang. Để nhẹ gánh, họ đã vứt lại nơi này. Có một cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ. Sao họ không đem gửi vào binh trạm rồi lúc nào đó thuận tiện thì binh trạm gửi ra?

             - Có lẽ không dễ làm như vậy, vì từng này thư mà mang đến trạm cũng rất xa, mà chưa chắc đã có ai nhận gửi. Khi con người ta leo núi quá mỏi mệt thì "Con ruồi đậu nặng đồng cân". Cũng không nên trách họ quá, các cậu ạ.

            Đại phó Hảo trầm ngâm nói vậy. Và ông bảo chúng tôi châm lửa đốt hết số thư ấy trong khe núi, vì để đó cũng không ổn. Chờ đám cháy gần hết, chúng tôi múc nước suối dập tắt hết tro nóng, rồi lên đường đuổi theo đơn vị. Tôi còn nghĩ mãi về chuyện này, cảm thấy nó ngậm ngùi thế nào ấy. Và cũng từ hôm đó, suốt dọc đường hành quân vào chiến trường, tôi không còn hứng để viết thư gửi về nhà nữa.

*

               Trong thời gian đi trên Trường Sơn, chúng tôi chỉ họp theo trung đội. Phần vì không mấy khi có bãi đất rộng, phần vì lý do an toàn nên không tập trung cả C. Tin tức thời sự rồi cũng thưa dần. Chúng tôi chỉ cặm cụi đi hết ngày này sang ngày khác, mặc kệ cho bao giờ tới nơi thì tới, chứ không còn háo hức muốn  vào nhanh đơn vị chiến đấu để đánh trận như lúc mới hành quân nữa. Sự khắc nghiệt của rừng núi bắt đầu xuất hiện. Trong các đại đội bắt đầu có sốt rét. Chúng tôi phải chia nhau mang đồ đoàn và dìu người ốm hành quân. Cái món sốt rét này rất lạ, nhiều lúc cứ như giả vờ ấy. Trời bình thường mà thấy có thằng kêu rét, sờ đầu thấy nóng. Chỉ có ở binh trạm mới có y tá, còn trong đội hình hành quân không có. Chúng tôi tự lấy thuốc Nivaquin được phát theo cá nhân để uống. Ngày 4 viên, chia 2 lần. Thằng ốm chẳng ăn được mấy, dù là cháo, nhưng vẫn bắt uống thuốc. Viện Nivaquin rất đắng. Ấy vậy mà hôm sau, thằng sốt lại có lúc vùng lên đi băng băng như thi việt dã, thằng khỏe theo không kịp. Nhưng đó mới là dạng sốt bình thường. Trong tiểu đoàn đã có thằng sốt ác tính, khiêng vào trạm xá binh trạm, sau này không gặp lại. Nghe nói đã nằm lại Trường Sơn, trở thành liệt sĩ mà chưa được ra trận lần nào. Trong C tôi cũng có 2 thằng sốt rét nặng phải gửi lại binh trạm, sau này được nhập vào trạm làm lính giao liên, hết chiến tranh cũng trở về nhà. (Một thằng trong số đó năm 1974 còn được ra Viện Quân y 103 học Bác sĩ. Đến đợt những năm 1980 nó đi xuất khẩu lao động ở CHDC Đức rồi định cư luôn bên đó).

            Thế mới biết đường ra trận cũng gian nan, đâu phải chỉ có bom đạn kẻ thù. Sau này lính tráng chúng tôi cũng lần lượt nếm mùi sốt rét hết. Người ta bảo, không bị sốt rét thì không phải là lính Trường Sơn. Có thể không chết ngay, nhưng nó làm tổn hại sức khỏe lính tráng rất nhiều. Anh nào bị sốt nhiều còn bị ảnh lưởng tới gan và lá lách. Khi chúng tôi vào tới mặt trận mà mình được bổ sung, còn gặp một trường hợp thương tâm và ít nhiều ảnh hưởng tâm lý. Có một anh ở chiến trường 7 năm, bị sốt rét nhiều đã sa lá lách đến gần độ 4, mạng sườn to như đàn bà có chửa. Đơn vị cáng anh ấy ra, nghe nói anh ấy sẽ được ra Bắc. Đi ngược chiều đoàn quân vào của chúng tôi, những người cáng anh ấy trượt chân ngã, tất cả cùng lăn xuống dốc. Anh ấy bị vỡ lá lách, chết ngay trước mặt đám lính trẻ chúng tôi. Thần chết quả là phũ phàng trước số phận con người.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: MUCTAU trong 14 Tháng Giêng, 2010, 12:38:17 am
 Chuyên đống thư làm em thấy thế nào.
 Ông anh em kể, có lần một người lính nhờ ông mang thư ra Bắc. (ông này lái xe dân sự). Ông thấy nhiều thư có vết máu đã khô liền lấy bút bic ( là của hiếm bấy giờ) viết thêm ý rằng đấy là máu của người quân bưu chứ không phải máu người viết thư. Để thân nhân ở quê đỡ lo.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 17 Tháng Giêng, 2010, 08:41:14 am

         Tôi là thằng thích học văn (dù học toán xuất sắc hơn), thích những câu chuyện lịch sử của cả Ta và Tây, của cả Việt và Tàu. Những thằng trong cùng A huấn luyện ngoài Bắc với tôi còn sống, đến bây giờ gặp nhau vẫn còn nhắc lại chuyện khi hành quân vào Nam đã có may mắn ở cùng A với tôi. Tôi đã giúp cho những ngày hành quân trên Trường Sơn của chúng nó bớt buồn tẻ và đơn điệu. Chả là sau khi hành quân từ Trạm 5 vào được dăm hôm, một tối chúng tôi đem chuyện Thủy Hử ra tranh luận xem cuộc sống của các hảo hán Lương Sơn Bạc có gần giống như Trường Sơn không. Tôi đã đọc ra vanh vách cho chúng nó nghe rằng trước khi về Lương Sơn thì các Hảo hán còn ở những núi nào. Từ núi Thiếu Hoa của bọn Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân đến núi Đào Hoa của Lý Trung và Chu Thông rồi núi Nhị Long của Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm, hay núi Thanh phong của Yến Thuận, Vương Nụy Hổ… Có nhiều đoạn văn tả cảnh chiến trận, hay lời nói của các hảo hán, tôi đọc vanh vách.

          Chúng nó tròn xoe mắt. Thế là từ hôm đó, cứ tối đến sau lúc cơm nước và nghe phổ biến về lịch hành quân hôm sau, dăm bảy đứa trong A lại mắc võng túm tụm một chỗ, hoặc trải ngay ni-lon trên lớp lá rừng nếu trời khô ráo, quây quần nghe tôi "đọc" truyện. Hết Thủy Hử lại đến Tam Quốc. Hết chuyện sử xa xưa, lại đến chuyện cận đại, như "Hầm bí mật bên sông En-bơ" hay "Nam tước Phon-gon-rinh". Đặc biệt có truyện "Nữ tài tử" chưa in thành sách mà chỉ là truyện đăng nhiều kỳ trên báo QĐND thì hầu như là của độc của riêng tôi. Câu chuyện kể về nữ gián điệp Li-di-a, con gái của một sĩ quan Bạch vệ cũ được tung vào Liên-xô sau Thế chiến thứ hai. Cả một lực lượng phản gián đông đảo của an ninh Liên-xô trong một thời gian dài chỉ tìm được dấu tích của cô gái còn lại, sau khi sự việc đã xảy ra. Việc thu phục cô gái chỉ nhờ tình người chứ không phải biện pháp nghiệp vụ…

         Những tối kể chuyện dọc đường hành quân đó quả là niềm vui thú vị trong A tôi. Người "đọc" truyện cũng hào hứng, mà người nghe cũng say sưa. Chúng nó rất thích giọng đọc truyện đầy truyền cảm của tôi. Có thằng còn phong cho tôi là "Kim Cúc đọc truyện đêm khuya". Mỗi tối như thế, tôi rì rầm độ 30 phút rồi kết thúc để còn đi ngủ, dành sức cho ngày hôm sau hành quân. Tất nhiên hôm nào mệt quá hoặc gặp trời mưa thì buổi "tự đọc chuyện đêm khuya" phải hoãn.

         Những cuốn tiểu thuyết tôi đã đọc để có thể kể cho chúng nó thì rất nhiều, nhưng đường hành quân liên miên nên kể mãi rồi cũng có lúc oải. Chúng tôi quay sang kể cho nhau nghe chuyện gia đình của mình. Trong A tôi có thằng đã cùng học phổ thông với tôi, nhưng thực tình chúng tôi cũng chỉ biết về nhau rất sơ sơ, đại loại nhà ở đâu, có mấy anh chị em, ai học hay làm gì. Nhiều hơn nữa thì biết thêm tên bố mẹ. Ngày đó người ta ít gọi tên bố mẹ ra như bây giờ mà còn kiêng kỵ, giống như ở nông thôn gọi theo tên con cả. Bây giờ trên đường hành quân mới có dịp kể ra cho nhau nghe. Kể về gia đình mình cho bạn nghe, cũng chính là tự trầm ngâm nhắc về người thân để vơi đi nỗi nhớ nhà. Nhất là thằng nào xác định có bạn gái thì kể ra, chẳng còn giấu diếm gì nữa. Có thằng kể chuyện bạn gái mình là cô bạn cùng lớp, con một ông thứ trưởng, nhà giàu. Chuyện có xe đạp mà lại thích rủ nhau đi tàu điện để được đi bộ với nhau một đoạn dài, tha hồ ngắm trời đất mà trò chuyện cùng nhau ra sao... Ngày đó rủ được đèo nhau bằng xe đạp cũng khó lắm. Có ý đấy, nhưng đứa nào cũng sợ chuyện gán ghép. (Trong đám lính bạn học với tôi có tới 3 cặp yêu người cùng lớp. Sau này cả 3 thằng đều trở về và có hai cặp thành công. Còn thằng có câu chuyện tình thơ mộng nhất thì bạn gái đã đi lấy chồng trước ngày 30 tháng tư lịch sử).
*

           Cao tít trên Trường Sơn vẫn có những bản người dân tộc. Không hiểu họ sinh sống bằng gì. Chỉ đôi ba lần gặp, thấy họ đứng bên đường đem sắn, chuối đổi cho bộ đội lấy bất cứ thứ gì họ cần. Từ cái kim băng, kim khâu, sợi chỉ, đến cả viên đá lửa cùng những lọ xăng bé tẹo. Chúng tôi không gặp nương rẫy nào. Chỉ có một lần gặp một bản nhỏ chưa tới chục nóc nhà. Con đường đi vòng qua cạnh bản, nhưng không hiểu sao đến giữa đội hình thì cứ thế cắt đường đi tắt qua bản. Chỉ có vài đứa trẻ, vài phụ nữ già ngồi trên sàn nhà chỉ cao độ hơn mét im lặng nhìn chúng tôi lũ lượt đi qua. Nhưng cuối bản thì chúng tôi thấy có một cô gái tuổi như chúng tôi đứng ngay trên sàn nhà. Trang phục đơn sơ, nhưng ấn tượng vì ai cũng nhận ra vẻ đẹp cùng nước da trắng của cô gái. Im lặng đi qua, không dám chào hỏi, chòng ghẹo, nhưng từ quan đến lính ai cũng ngước mắt nhìn vì ngỡ ngàng. Đi qua rồi còn khối thằng ngoái lại nhìn. Chuyện này ghi nhớ bởi đa phần những người dân tộc mà chúng tôi gặp sau này đều có nét chung là đen, gầy và khắc khổ.

   …


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 17 Tháng Giêng, 2010, 06:07:06 pm
Sau hơn 12 giờ đồng hồ cố thủ trong nhà  nghỉ Như Phước (đường Nguyễn Sinh Cung,TP Huế) với một khẩu AK và 36 viên đạn, đối tượng Nguyễn Văn Minh (SN 1988, quê ở Sơn Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình), thuộc Trung đoàn 19 sư đoàn 968 bộ binh, đóng quân tại huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị đã bị lực lượng đặc nhiệm khống chế thành công vào hồi 5h30 phút ngày 17/1/2010.
-------------------

     Sư đoàn bộ binh 968 thời chống Mỹ thuộc bộ đội Trường Sơn, có đến cả chục ngàn người từng phục vụ. Tôi vẫn mong chờ có đồng đội cùng Sư thời đó vào đây tiếp sức. Bây giờ chỉ nghe đến tên "968" là đã thấy nao nao trong lòng rồi.

     Thế mà hôm nay vào mạng đọc được tin này. Thất vọng với chú hậu sinh này quá.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 24 Tháng Giêng, 2010, 07:34:01 am


              Sau khoảng hơn một tháng hành quân tính từ trạm 5, chúng tôi tới Trạm 44. Tất cả được nghỉ một ngày tắm giặt và bổ sung lương thực cùng một chút thực phẩm, chủ yếu là muối. Đây là lần cuối cùng đường dây 559 cung cấp gạo và thực phẩm cho đơn vị. Từ ngày mai, chúng tôi sẽ rời trục đường chính của Trường Sơn, rẽ nhánh đi sang hướng Tây Nam. Bây giờ thì chúng tôi biết mình sẽ được bổ sung cho chiến trường Nam Lào. Giao liên của đường dây 559 giao chúng tôi cho bộ phận nhận quân của mặt trận Nam Lào. Từ đây trở đi sẽ không còn binh trạm, không còn bãi khách nữa. Điểm dừng chân sau mỗi ngày hành quân sẽ do cán bộ nhận quân của mặt trận quyết định.

              Đường sẽ nhánh sang phía Tây chưa phải đã hết dốc ngay. Rừng núi vẫn chập trùng trước mặt. Đường đi của chúng tôi cắt ngang liên tiếp các con đường trục của xe cơ giới. Nói thật là thấy đường có vết xe chạy cắt với đường hành quân bộ thì biết là đường xe thôi, chứ tất cả những con đường ấy đều là đường đất trong rừng. Bạt núi mở rừng mà tạo đường, san lấp cũng chỉ là đất đá tại chỗ. Những con đường đó có thể biến mất chỉ qua một hai mùa mưa mà không có xe chạy. Cảnh vật lúc này vẫn chưa khác cũ là mấy vì nó vẫn thuộc dãy Trường Sơn. Sau ngày thứ nhất, chúng tôi được nghỉ giữa một cánh rừng già. Tự chọn chỗ nấu cơm, phạt bớt cây rừng và mắc võng. Nói chung là dừng chân chỗ nào thì cũng phải có suối, dù to hay bé để có nước mà nấu cơm. Từ hôm vào Trường sơn không gặp cái ao hồ nào.

              Hết ngày thứ hai thì đã thấy bớt núi rừng hơn. Đường đi có vẻ xuống dốc. Dọc đường qua nhiều chỗ có dấu vết của bom đạn, nhưng chỉ là dấu tích của quá khứ. Có rất nhiều khu rừng non lẫn trong rừng già. Bây giờ mới biết thực tế đến cái gọi là rừng tái sinh. Cả một khu rừng rộng chỉ toàn những cây nhỏ đều nhau. Cây nào to lắm cũng chỉ bằng bắp chân. Xen trong đám rừng còn sót lại nhiều thân cây đổ nằm ngang cháy chưa hết, hoặc những thân cây chết đứng to cỡ người ôm. Chúng tôi còn gặp một số đồi cỏ tranh. Buổi chiều đi trên đó thấy gió thổi mát rượi.

           Có hai loại rừng đặc trưng của vùng này khiến tôi nhớ mãi. Một là rừng Bằng Lăng. Chưa phải mùa hoa nên chỉ toàn rừng cây xanh lá. Tôi nhận ra loại cây này vì nơi nhà tôi ở ngoài Hà Nội cũng có vài cây. Hoa Bằng Lăng màu tím, nở sau hoa Phượng mùa hè, nhưng lại tàn nhanh trước. Quả của nó to tròn và cứng, chỉ dùng để ném nhau thì tốt. Thân cây Bằng Lăng không thẳng mà mọc cong queo, lắm cành. Trong này cũng thế. Tuy rừng cây Bằng Lăng bạt ngàn và nhiều cây rất to, thân cây có đường kính tới ba chục phân, nhưng cũng không thẳng để có thể làm cột nhà. Sau này đóng quân gặp loại rừng này, kiếm gỗ làm hầm chữ A còn khó.

              Cuối ngày thứ hai chúng tôi dừng chân cạnh một rừng cây Săng- lẻ. Loại cây này thoáng trông giống cây bạch đàn, vỏ trơn, thân trắng. Có lẽ nó cũng cùng họ với cây Bạch Dương mà tôi nhìn thấy trong các phim của Liên-xô. Ở đây toàn cây Săng-lẻ to từ cỡ một người ôm trở lên, cao đến trên hai chục mét. Nắng chiếu xuống tới đất chỉ nhạt và lốm đốm như những tấm vải hoa. Loại cây này nghe nói rừng miền Trung của mình cũng nhiều. Gỗ của loại cây này là thứ tốt số 1 dùng cho đóng thuyền đi biển.  Trong rừng ở đây còn có bãi rộng, dấu vết của một đơn vị xe ô-tô, nhưng không thấy chiếc xe nào. Chúng tôi dừng lại đó vì có một con suối to nước rất trong. Chỉ tội kiếm chỗ mắc võng khó, nên hầu như chúng tôi vun lá rồi trải ni-lon, ngủ đêm quanh gốc cây. Rừng Săng-lẻ rất sạch sẽ, ít muỗi.

               Đã sang hẳn đất Nam Lào rồi vì đây thuộc tỉnh Sa-ra-van. Vùng này là bình nguyên. Chúng tôi đã gặp một số bản người Lào, nhà cửa lèo tèo. Có điều là dù bé thế nào thì cũng vẫn là dạng nhà sàn. Thi thoảng cũng gặp một cái nương nho nhỏ. Nhưng dân vùng này rất nghèo, nhìn họ ăn mặc xơ xác lắm, thua xa bộ đội.

              Ba ngày sau, chúng tôi được tập trung ngay tại một cánh rừng thưa gần một bản nhỏ. Đến đây, 3 đại đội của tiểu đoàn 52 (ngoài Bắc) chúng tôi được bổ sung cho sư đoàn 968, nhưng lại bị xé lẻ luôn (lần trước một C đã tách ra ngay trên Trường Sơn để bổ sung cho chiến trường miền Nam nên tiểu đoàn chúng tôi chỉ còn 3 đại đội). Một C rưỡi bổ sung cho Trung đoàn 19, còn C tôi và nửa C nữa thì về Trung đoàn 9b.

               Một điều bất ngờ là các cán bộ cấp phó B, C của đơn vị ngoài Bắc chúng tôi được Sư đoàn trả về Bắc cho BTL Thủ đô. Mỗi C có 5 người gồm 4 B phó và 1 C phó. Đại phó Hảo thân yêu của chúng tôi cũng nằm trong số được quay ra Bắc. Các anh ấy mừng như cha… chưa chết và ríu rít chia tay chúng tôi. Các anh ấy vui, còn chúng tôi, nói thật là cũng chưa biết gì để mà buồn. Chỉ có một buổi chiều để chia tay. Bây giờ chẳng còn gì để làm quà cho các anh ấy cả. Vỏ chăn và cả màn xô chúng tôi vẫn đang cần. Mũ cối và giầy vải gần như đã vứt hết dọc đường. Chỉ còn một số thằng còn giữ mấy tờ tiền Bắc, thôi bây giờ đem cho các anh nốt, kỷ niệm cũng chẳng để làm gì. Đại phó Hảo được quan tâm nhất vì quê hương Hà Tĩnh cũng là nơi tuyến lửa. Có điều khi các thủ trưởng bảo chúng tôi viết thư để mang ra, hầu như không mấy ai viết. Cái vụ đống thư bên khe suối ngày nào vẫn còn ám ảnh chúng tôi. Thôi, để cho các thủ trưởng nhẹ gánh, chân cứng đá mềm để quay trở về hậu phương miền Bắc.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 31 Tháng Giêng, 2010, 09:10:28 am

              Chia quân, nhưng hầu như chúng tôi chưa có cảm giác khác lạ gì ngoài cái chuyện thủ trưởng dẫn quân của chúng tôi là người mới. Chúng tôi thấy yên tâm vì đó là chỉ huy ở trong chiến trường, chắc chắn dày dạn kinh nghiệm hơn cán bộ khung huấn luyện. Mọi lời nói các anh phát ra, chúng tôi đều chăm chú nghe và tuân lệnh răm rắp. Hơn nữa đội hình của đám chúng tôi cũng còn đông tới trên hai trăm thằng, nên vẫn còn nguyên cái nếp cũ.

               Chia quân xong, chia tay các thủ trưởng khung xong, chúng tôi được nghỉ lại một đêm yên ổn. Cũng cần nói thêm là từ hôm bắt đầu hành quân từ Hà Nam đất Bắc đến nay, chúng tôi chưa phải tổ chức gác đêm lần nào. Màn đêm buông xuống thì cứ yên tâm mà ngủ. Mặt trận còn xa thì tuyến đường này vẫn còn là hậu phương. Với lại có muốn gác cũng không ổn, vì đoàn quân chúng tôi không đủ vũ khí, lại không tổ chức chặt chẽ như ở ngoài Bắc thì cũng không biết phải gác thế nào.

        Sáng hôm sau, chúng tôi nhận gạo bổ sung. Mạng lưới hậu cần của ta vươn khắp mọi nơi, nhưng nơi đây thật quá đơn sơ. Kho gạo chỉ là một cái nhà be bé nằm cạnh một bản nhỏ, không to và chắc chắn như các kho của binh trạm trên Trường Sơn. Chúng tôi lĩnh gạo nếp. Lính tráng khoái quá vì gạo nếp vốn hiếm và quý hơn gạo tẻ mà. Tha hồ mà nấu cháo hay cơm nếp nhé. Cơm nếp nấu khéo còn ngon như xôi đồ ấy chứ. Lúc này chúng tôi vẫn ăn tiêu chuẩn 7 lạng/ngày, và vì cứ được lĩnh gạo bổ sung luôn nên chúng tôi chưa nhận ra được nguy cơ tiềm tàng của cái đói trong chiến trường. Cũng vì bây giờ là mùa khô nên đường vận chuyển vẫn thông suốt. (Nhưng cũng chẳng lâu nữa đâu. Khó khăn đằng trước mà chúng tôi đâu có biết thì cũng chỉ vài tháng sau là xảy ra. Gạo ăn tiêu chuẩn 3 lạng rồi 2 lạng/ngày thật quá ít ỏi với sức ăn và làm của lính tráng tuổi trai trẻ. Gạo tẻ còn đỡ, vì nấu cháo nó cũng nở ra ít nhiều. Khổ nhất là gạo đồ của TQ đựng trong bao nhựa xanh 50 kg. Hạt gạo đem nấu cứ trơ ra. Cứ cho gạo vào nồi, cho bao nhiêu nước cũng được, cứ đun cạn nước để một lúc là cơm chín. Còn định nấu cháo bằng thứ gạo đồ này thì đúng là bất khả thi. Nếu có cho ca gạo vào nồi, đổ cả một huyện nước vào đun thì rồi mãi tới khi cạn nước, nó cũng chỉ thành cơm, vì hạt gạo không nở. Còn gạo nếp, thú thực cũng không hơn, vì nó không nở. Nấu cháo ăn mãi cũng chán (mà đói), còn nấu cơm thì mỗi bữa được nắm to chưa bằng quả trứng vịt. Lại còn gặp lúc thiếu không có muối nữa thì "ôi thôi…").

               Lĩnh gạo buổi sáng thì buổi chiều hành quân luôn. Cung đường này sao xa thế. Đi suốt buổi chiều tới một dòng sông rộng. Tất cả được lệnh nấu cơm ăn khẩn trương để tối vượt sông. Nghe bảo đây cũng là sông Sê-kông. Sao lắm Sê-kong thế. Hóa ra con sông này chảy từ Việt Nam sang, qua đất Lào thì nó chảy ngoằn ngoèo như con rắn trước khi trở lại Việt nam, nên vượt sông mấy lần mà vẫn là nó. Chúng tôi vượt sông theo một cái ghềnh đá. Đoạn này lội được, nhưng nước chảy rất xiết, lại rất trơn. Chặt sẵn gậy chống rồi mà không biết có bao nhiêu là thằng bị ngã. Ngã rồi lại túm gậy, túm tay nhau kéo cho khỏi bị trôi theo dòng nước. Lội sông trong đêm tối mênh mông nước thấy rợn lắm. Thằng biết bơi còn tự nhủ nếu có gì bất trắc thì cứ cởi bỏ mẹ nó ba-lô, vứt hết mọi thứ mà bơi cho thoát, thằng không biết bơi thì run như cầy sấy, chỉ lo bỏ xác nơi đây làm mồi cho cá, hết cả mộng làm anh giải phóng hưởng cuộc đời đẹp nhất nơi trận tuyến đánh quân thù. Thế mà rồi cũng qua được hết, dù hầu như thằng nào cũng ướt (Ông thủ trưởng dẫn quân biết thế nào chúng tôi cũng ngã ướt hết rồi, nên trước lúc hành quân đã bắt tất cả quấn gạo bọc kín trong ni lon rồi cất vào trong ba-lô).

         Vượt sông xong rồi thì đi tiếp, ngay đêm đó chúng tôi vượt đường 23 để đi sang phía Tây. Con đường 23 kéo dài từ đường 9 chỗ ngã ba Mường Phìn, chạy thẳng xuống Nam rồi đâm vào ngay thị xã Sa-ra-van. Đến đây nó lại đi tiếp vào cao nguyên Bô-lô-ven, đến thị trấn Pắc-soòng. Lại chạy tiếp 50 cây số nữa theo hướng Tây Nam, đường 23 sẽ giao nhau với đường 13 từ Viên Chăn men sông Me-kông xuống tại Pắc-xế, thủ phủ của Chăm-Pa-Xắc, tỉnh cực Nam của đất bạn Lào. Không biết ngày xưa con đường 23 được xây dựng thế nào chứ lúc chúng tôi qua, nó cũng chỉ là con đường đất giống như con đường 9 mà chúng tôi qua độ trước. Có điều nơi đây quang đãng, chẳng có cây cỏ gì mọc xung quanh. Đi dọc qua nó một quãng dài mới biết là đường. Nơi này mà có xe chạy thì chẳng bao giờ sợ bị phục kích vì tầm nhìn quá rộng. Chúng tôi đi qua một khoảng đất nhỏ có thứ cây gì đó không cao, ít lá mà lá rất to, tưởng như có thể đếm được lá trên cây. Về sau có dịp trở lại tác chiến nơi này, gặp thứ cây đó giữa ban ngày nhiều hơn, chúng tôi mới biết đó là cây Khộp (hay khọoc), một thứ cây điển hình của vùng bình nguyên đất đá khô cằn.

              Lại phải qua một ngày hành quân đường xa và nắng nóng nữa. Bây giờ phải phơi đầu ra đi giữa trời nắng chang chang mới biết giá trị của tuyến đường trên Trường Sơn hầu như lúc nào cũng rợp bóng cây. Lúc ngồi nghỉ cũng ngồi luôn giữa trời nắng vì chẳng có bóng cây nào. Được cái không có bụi vì dưới chân toàn một thứ cỏ lưa thưa đã chết khô, loại cỏ như kiểu cỏ may mà trâu bò cũng không ăn được. Đến chiều thì tới một vạt rừng nhỏ có con suối to. Mệt nhưng cũng nhiều thằng tắm cho mát. Kiểu tắm xong lại mặc luôn quần áo cũ vào ấy mà, vì vẫn còn phải hành quân tiếp.

              Hôm sau chúng tôi lại lên đường từ sớm. Đơn vị lại vượt qua một con sông không lớn lắm, bây giờ không còn nhớ rõ chính xác tên sông là gì. Hình như là Xê-băng-phai thì phải. Chỗ vượt sát ngay một một cây cầu sắt bị sập. Cây cầu chắc chỉ dài hơn cái cầu Đuống lên ga Yên Viên (ngoài Bắc) một chút thôi. Qua sông là địa phận thị xã Sa-ra-van. Cái thị xã này không giống với sự tưởng tượng của tôi, vì tôi nghĩ nếu là thị xã thì nó cũng phải na ná như Phủ Lý, hay kém ra thì cũng phải như thị xã Hòa Bình, nhà cửa dọc đường chứ. Ở đây gọi là thị xã mà chẳng thấy nhà cửa gì. Đôi chỗ thấy có những nhà sàn đổ nát, nhưng có vẻ đó như cái bản nhỏ bên đường chứ không phải dãy nhà.

               Chúng tôi rẽ vào một con đường đất rộng và cứ đi dọc theo nó mãi. Từ đây bắt đầu làm quen với một loại đường gọi là đường xe bò. Các bản Lào nối với nhau bằng những con đường này để đi lại và vận chuyển. Phương tiện của nó là những cái xe na ná như xe bò ngoài nông thôn miền Bắc. Hai bên đường xe bò mọc nhiều loại lau lách. Hôm đó đi rất xa. Cuối chiều chúng tôi được dừng chân tại một cánh rừng rộng, cây thưa nhưng toàn là những cây rất to. Chỗ này gần một bản Lào, nhưng chúng tôi không được gặp dân. Nơi đây bắt đầu là địa bàn đóng quân của Trung đoàn 9B.

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 05 Tháng Hai, 2010, 10:18:59 pm
....
(Tạm ngắt để nói về một việc ngày hôm nay)
...
      Cuộc hành quân bây giờ  mới là đầu tháng tư năm 1972. Nhưng xin tạm dừng lại để nói về một trận chiến đấu tấn công địch ở khu Xưởng cưa, sân bay  Sa-ra-van sau thời điểm này hơn 8 tháng. Trận đó đại đội tôi bị tổn thất nặng. Lính Hà Nội bị "dính" khá nhiều. Trong đêm tối hôm đó, có 2 người lính trong C tôi là Nguyễn Khả Nhật và Hoàn (cùng người huyện Từ Liêm) mải tấn công địch mà không thấy trở về đơn vị. Trung đội trưởng Lê Đức Chèo (người Đình Bảng, Từ Sơn, Hà Bắc) chỉ còn nhớ được bóng 2 người lính của mình vào phút cuối đã nhập nhoạng lẫn vào bóng đêm mờ dần chạy về hướng Tây Nam. Anh đã ghi vào cuốn nhật ký của mình một dòng chữ mang nội dung như thế.
Đêm hôm sau, chúng tôi cử một nhóm lần theo hướng đó đi tìm. Kết quả cuối cùng chỉ là thấy nhiều nấm mộ mới. Chúng tôi đoán các anh đã hy sinh và bị địch chôn cùng với lính chết trận của chúng. Lúc ấy, các anh chỉ được coi là mất tích.

      Sau đấy chúng tôi chuyển địa bàn như đèn cù rồi xa dần vùng đất ấy. Cuối mùa mưa năm sau, chúng tôi có quay trở lại vùng Sa-ra-van để quy tập hài cốt các liệt sĩ, trước khi chuyển chiến trường khác, nhưng trong số đó không có các anh Nhật và Hoàn, bởi không ai xác định đâu là nấm mộ của các anh. Báo cáo cuối cùng của đơn vị là đề nghị lên trên ghi tên các anh là Liệt sĩ.

        Sau năm 1975, anh Hoàn trở về trong diện trao trả tù binh. Khi ấy chúng tôi mới biết chắc Nguyễn Khả Nhật đã hy sinh. Hoàn về nhà buồn chán (cảnh tù binh trao trả thì các bác có thể hình dung phần nào số phận), rượu chè rồi ốm chết mấy năm trước.

         Còn gia đình của Nhật (Nhà có 4 anh em trai và 1 em gái, Nhật là con cả) vấn tiếp tục sang Hạ Lào để tìm kiếm hài cốt của anh. Các đội quy tập của Nghệ An và Thừa Thiên Huế trong những năm sau chiến tranh có sang Lào quy tập hài cốt bộ đội tình nguyện, nhưng không có Nhật trong danh sách đó. Điều này dễ hiểu vì Nhật hy sinh và được chôn cất trong trường hợp như tôi kể trên thì không ai dám xác nhận chính xác. Sau mấy lần sang Nam Lào, gia đình cũng chỉ tìm được khu vực Nhật hy sinh thôi chứ không xác định được mộ. Nhưng có một may mắn là nhờ chính quyền tỉnh Sa-ra-van giúp đỡ nên đã tìm được 2 người lính đối phương trong cái đơn vị ZM41 đã chiến đấu với chúng tôi ngày trước. Một trong hai người lính đó đã ném quả lựu đạn khiến Nhật hy sinh, còn người lính kia thì đã chôn cất Nhật. Nhưng thời gian trôi qua đã quá lâu, cảnh vật thay đổi, đô thị xây dựng nhiều, nấm mồ đã bị san bằng nên không thể xác định chính xác. Tháng trước, nhờ một nhà ngoại cảm trên Hòa Bình giúp, cử hẳn người em trai đi cùng sang đó. Nhà ngoại cảm đã tìm được chính xác vị trí, chính quyền địa phương của Bạn đã không ngần ngại phá cả một bức tường ở cái vị trí nghi ngờ ấy để đào bới. Cuối cùng đã tìm thấy hài cốt của Nhật, để gia đình đưa anh trở về.

        13h30 hôm nay (05/02/2010), chính quyền địa phương phường Mai Dịch đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu Nguyễn Khả Nhật. Đồng đội cũ chúng tôi đã đến dự lễ truy điệu và cùng đưa anh về nơi vĩnh hằng ở nghĩa trang Nhổn. Nhiều người nguyên là Trung đoàn trưởng, Chính ủy Trung đoàn 9B đã tới dự. Nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Trung doàn 9B Lê Khả Phiêu cũng đã gửi vòng hoa đến viếng.

        Tôi không chụp được ảnh vì không có phương tiện. Xin viết mấy dòng này để chia sẻ cùng đồng đội, cùng các CCB và nghiêng mình tưởng nhớ đến anh, người lính Hà Nội Nguyễn Khả Nhật trong cùng đại đội 6 quân tình nguyện thân yêu của tôi, đã ngã xuống trên chiến trường đất bạn, vì một sự nghiệp cao cả như lời Bác Hồ dạy quân tình nguyện chúng tôi: "Giúp bạn chính là giúp mình".



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: trevn trong 06 Tháng Hai, 2010, 03:30:49 pm
Cháu xin hỏi chú Trongc6 một tí,
Cháu có người nhà là CCB kể rằng: nhập ngũ năm 69 (Hà tĩnh), vào sư đoàn 968 chiến đấu giúp bạn Lào, nhưng sau đó lại thành bộ đội Trường Sơn bảo vệ các binh trạm, nhưng năm 75 lại trở về sư đoàn 968 tham gia chiến dịch HCM sau đó về trường quân chính binh đoàn 12. Như vậy bác ấy có cùng sư đoàn với chú không ạ ?
Cháu đang vận động bác ấy – tham gia quân sử kể chuyện chiến trường năm xưa  :)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 07 Tháng Hai, 2010, 12:45:24 pm
       @Trevn: Ông bác của bạn là lính sư 968, và Trung đoàn 9B chúng tôi cũng thuộc sư 968.
Theo bạn nói thì ông bác ấy chắc thuộc Trung đoàn 39 của sư 968. Trung đoàn này có từ năm 1968, nhưng lúc đó chỉ gọi là mặt trận 968 thôi. Năm 1970, thêm E9B và thành lập E19 thì mới gọi là sư 968. Sư 968 vừa thuộc Bộ đội Trường Sơn, vừa là quân tình nguyện Việt Lào, bạn ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 07 Tháng Hai, 2010, 03:57:59 pm
Bác trongc6 ạ, e9 của bác trước mậu thân là e9 của 304, năm 1968 vào Huế sau đó qua Lào tách khỏi 304. Theo như bác kể thì năm 1975 có qua 320 nữa phải không ạ. Cái trung đoàn này cũng lang thang đấy nhỉ. Hôm trước tôi có xem tivi thấy TBT Lê Khả Phiêu về thăm f968 ở Quảng Trị bây giờ nó lại về QK4.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Hai, 2010, 09:10:19 pm
Tiếp tuc cuộc hành quân của những ngày đầu tháng 4 năm 1972...

        Sáng dậy, chúng tôi được tập trung toàn đơn vị. Đây là lần đầu tiên hơn hai trăm thằng chúng tôi được tập trung gặp nhau. Thời gian gian qua chỉ toàn đi là đi theo đội hình đơn vị, nên biết là đi cùng nhau đấy, nhưng không dễ gặp nhau. Bây giờ gặp nhau, cùng trong đoàn quân mà cứ như từ những nơi nào về ấy, hỏi thăm nhau ầm ĩ. Tất cả được tập trung một chỗ học chính trị trong buổi sáng. Nội dung là học truyền thống Trung đoàn 9B.

               Chúng tôi háo hức nghe để biết mình được vào một đơn vị có tiếng tăm thế nào. Đại khái sơ sơ một vài ý chính mà chúng tôi còn nhớ đến tận bây giờ.

               Trung đoàn 9B được thành lập ngày 23/9/1947 tại Nông Cống, Thanh Hóa. Đó là một trung đoàn độc lập. Trong kháng chiến chống Pháp nó đã từng nhập về Đại đoàn 304, lập nên chiến công trên Đường số 6 (Xuân Mai) tháng 12 năm 1951 với thành tích một mình diệt xe tăng của anh hùng Cù chính Lan. Sau hòa bình 1954, Trung Đoàn 9 được nhân đôi.  Bản gốc tách ra và lấy tên 9B lại trở về Quân khu 4. Những năm sáu mươi, Trung đoàn 9B trở thành quân tình nguyện Việt Lào, cứ mùa khô sang Trung Lào chiến đấu, mùa mưa lại về Việt Nam củng cố. Xuân Mậu Thân 1968, Trung đoàn tham gia đánh Huế, giữ cờ trên cố đô 26 ngày đêm, với người chỉ huy là Tư lệnh kiêm chính ủy Lê Khả Phiêu. Hết đợt thì rút lên rừng. Sau năm 1969, khi tổng kho 61 trên rừng Trường Sơn thuộc địa phận Trị Thiên bị Mỹ Ngụy đánh chiếm và phá tan tành, Trung đoàn rút ra Bắc, an dưỡng và huấn luyện ở Quảng Bình. Cuối 1970, Trung đoàn làm dự bị cho Sư 2 Quảng Đà của tướng Nguyễn  Chơn đánh Nam Lào, rồi tiếp quản Sa-ra-van. Mặt trận 968 thành lập tháng 9/1968 vốn chỉ có một trung đoàn 39 (chuyên làm công tác dân vận), khi đó đã tiếp thu Trung đoàn 9B, thành lập thêm trung đoàn 19 để nâng cấp thành sư đoàn 968. Đây là sư đoàn bộ binh duy nhất trực thuộc bộ đội Trường Sơn (559) có nhiệm vụ bảo vệ hành lang Tây Nam của tuyến đường. (Đoàn 559 còn có một đơn vị cấp sư đoàn nữa là sư đoàn vận tải 471. Còn lại là các đơn vị như binh trạm, công binh, pháo cao xạ, đoàn xe… chỉ ở cấp Tiểu đoàn là chính). Hiện tại, Trung đoàn 39 vẫn làm công tác dân vận, Trung đoàn 19 đảm nhận vùng A-tô-pơ, còn Trung đoàn 9B đảm nhận cao nguyên Bô-lô-ven.

               Cái thông tin trên lúc đầu mới nghe chỉ ù ù cạc cạc nhớ được một ít. Về sau được học, được nhắc lại nhiều nên nó mới ngấm như thế.
 
              Buổi chiều chúng tôi được phát xẻng và đào hầm. Đây là căn hầm đầu tiên tôi phải đào trong chiến trường. Thực ra đó là cái hố thì đúng hơn vì nó không có nắp. Chẳng biết mục đích là để chúng tôi làm quen hay để đề phòng địch tập kích hoặc tránh máy bay. Thế mà chúng tôi chấp hành nghiêm ra phết. Không phải là sợ chết (chẳng đứa nào tin nơi đây đã có địch) mà đơn giản là lính thì phải phục tùng. Sau này, chuyển quân, ở hậu cứ chỗ nào chúng tôi cũng phải đào hầm nghiêm chỉnh. Tối thiểu phải có hầm chữ A. Ở lâu một chút phải làm thêm hầm thùng. Còn đi đánh nhau thì trận nào cũng phải đào ít nhất một cái hầm cá nhân, dù là đánh phục kích, đánh điểm hay đánh chốt. Có trận phục kích đón đuổi địch, trong có 2 ngày đêm mà mỗi thằng phải đào tới 3 hầm cá nhân. Các hầm chốt thì phải làm loại hầm chữ A thật chắc chắn. Nếu ở kiềng hay chốt công trình thì hầm chữ A phải to và đủ sâu để có thể chống được cả đạn pháo 105ly.

              Chiều hôm đó có mấy thằng đào xong hầm còn rủ nhau mò ra phía bản gần đấy. Đúng là dân Hà Nội chỉ biết đến đường nhựa mà dám học đòi dân vùng cao. Chúng nó thấy một cái cây có tổ ong to tướng trên đó, tưởng bở có mật, lại nghĩ ong nó hiền như ong nuôi nên chặt gậy ném. Cả bọn bị ong đuổi đốt chạy bằng chết. Một đứa số không may bị ong đốt mặt sưng như cái lệnh vỡ, mắt díp lại không còn nhìn thấy gì. Chỉ biết mỗi cái bài bôi vôi chống ong đốt, nhưng giữa chốn này lấy đâu ra vôi. May được thủ trưởng nhận quân có cái bình-tông mật ong (không hiểu sao ông ấy lại có mà mang bên người), lấy mật ong ra bôi lên khắp mặt cho nó. Tưởng bôi đùa làm phép, thế mà hôm sau mặt nó tẹt hẳn, lại hành quân được cùng anh em như thường. Đấy là bài học đầu tiên về sản vật rừng.

              Hôm sau chúng tôi hành quân tiếp. Từ đây thấy toàn đi theo đường xe bò. Đầu giờ chiều thì gặp mưa rất to, kéo dài cả tiếng đồng hồ. Đường đi đã vào vùng cao nguyên Bô-lô-ven rồi và mùa mưa đã tới. Đi theo đường xe bò nên khá trơn, nhiều thằng vồ ếch. Mãi đến xẩm tối chúng tôi đến một hậu cứ, có các lán lợp cỏ tranh, có hầm thùng, trong đó có các sạp nằm bằng nứa ghép. Nghe nói đây là hậu cứ của C công binh. Đã có người nấu sẵn cơm, chúng tôi chỉ việc đi lấy cơm về ăn. Chẳng có đèn đóm gì, nên ăn xong là chúng tôi dọn chỗ ngủ. Ban đêm trời vẫn mưa rả rích.

             Buổi sáng trời tạnh. Chúng tôi được báo đi nhận cơm sáng, khẩn trương ăn rồi thu dọn mang ba-lô ra một bãi đất tập trung. Có thêm nhiều cán bộ cũ nữa đến. Chúng tôi bị tịch thu toàn bộ súng Ak (3 thằng có một khẩu), dao găm và hăng-gô. Hai món trên thì được, nhưng hăng-gô là vật dụng cá nhân cơ mà. Chúng tôi thắc mắc, nhưng vẫn bị thu, không í ó gì hết. (Sau này nghĩ lại, chắc các thủ trưởng khi đó muốn triệt nọc từ gốc "bài ca ống cóng" của lính, và cũng để có cái mà trang bị cho các ban bệ, trạm xá…của Trung đoàn. Sau này khi đã thành ma cũ rồi thì chúng tôi cũng tự kiếm cho mình một cái hăng-gô riêng từ các đợt tân binh vào sau. Của lính cũ rồi thì chẳng bố nào dám thu. Cái hăng-gô tôi mang về nhà sau chiến tranh làm kỷ niệm, bây giờ chuyên dùng để đựng mỡ là của một chú tân binh nào đó vào sau tôi cả năm, chứ không phải là cái tôi mang từ Bắc vào đâu).

          Sau đấy một thủ trưởng đọc tên lính chúng tôi để chia quân. Chúng tôi cũng chưa hình dung được các đơn vị trong trung đoàn khác nhau như thế nào, nhưng cứ đọc tên ai thì lại đứng ra thành tốp, có người nhận. Một đám 30 thằng trong đó có tôi được chia về K18, là tiểu đoàn chủ công của Trung đoàn. Chia quân xong là chúng tôi lên đường về đơn vị ngay. Tiểu đoàn tôi đang đứng chân ở tuyến trước, xa nhất nên không thể chậm trễ. Chúng tôi phải qua 2 bản nhỏ rồi rẽ vào đi theo con đường xuyên rừng. Đường nhỏ, cây rừng quệt cả vào ba-lô. Có đoạn còn đi ngang qua vườn cà-phê của đồng bào. Buổi trưa dừng lại ăn cơm nếp nhận từ sáng. Sau bảy giờ hành quân, chúng tôi đến một cánh rừng già, hậu cứ của D bộ K18. Đơn vị đang ở tuyến trước nên hậu cứ chỉ còn ít người. Cả bọn được chia vào 3 lán. Cơm tối đã nấu sẵn. Hậu cứ ở đây có vẻ chắc chắn, sạch sẽ, nhưng đường xuống suối (và bếp ăn cũng ở dưới đó) xa quá, ngót 200 bậc nên lên xuống cũng ngại. Tối đó không phải là sinh hoạt chính thức, chỉ phổ biến qua loa nhiệm vụ rồi ngồi nói chuyện phiếm hỏi han nhau. Chúng tôi giới thiệu mình, rồi hỏi tình hình đơn vị với mấy anh lính cũ. Buổi nói chuyện diến ra rất thân mật, có nước chè và thuốc lá thơm có đầu lọc, chiến lợi phẩm tuyến trước gửi về. Sang thật.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 08 Tháng Hai, 2010, 09:39:00 pm
Thế trận đánh Đồng Dù trung đoàn 9B của bác lại thuộc 320 phải không ? Sự "lang thang" của một số đơn vị kiểu như e9 mà sau này việc xác minh tìm mộ liệt sĩ rất khó khăn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Hai, 2010, 09:51:25 pm
@bác PhongQuang.

       Sư 320 thời chống Mỹ nằm địa bàn B3 (Tây Nguyên). Tháng 5/1973, Trung đoàn 52 của sư 320 bị rút đi bổ sung cho chiến trường Quảng trị (Nó nhập vào sư 325 thì phải). Thế là E9B bị cắt ra khỏi sư 968 và bổ sung cho sư 320A. Mãi đến tháng 8/1975, trung đoàn 9B mới trở lại đội hình sư 968 và ở đó cho đến ngày hôm nay. Đúng như bác PhongQuang đã nói, bây giờ sư 968 thuộc QK4 và đóng tại Quảng Trị


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 12 Tháng Hai, 2010, 09:30:26 pm

            Lúc này cả tiểu đoàn K18 có tăng cường đang đánh một căn cứ địch gọi là Bãi đá nằm trên đường 23, nên cả bọn chúng tôi tạm thời ở lại tiểu đoàn bộ, do anh Choát, trợ lý tác chiến D phụ trách. Anh cho chúng tôi nghỉ một ngày tắm giặt, sau đó sẽ tham gia cùi đạn và gạo ra tuyến trước, đồng thời cáng thương binh về. Tối hôm trước trong bữa ăn các anh lính cũ có đãi chúng tôi món nấm xào. Nấm trắng, mềm và rất ngọt. Lúc ở nhà tôi cũng có thưởng thức mấy món nấm hương (của này hiếm, chỉ tết mới có một ít) hay nấm rơm, nhưng không so được với cái nấm ở đây. Đặt miếng nấm lên miệng thấy vừa mát vừa mịn. Vì chỉ được ăn nên chúng tôi không biết rõ hình thù cây nấm ra sao. Cứ nghĩ đơn giản như chuyện vào rừng hái nấm trong chuyện cổ tích. Hôm sau chúng tôi lang thang trong khu hậu cứ. Có đi xa cũng chỉ cách độ vài trăm mét. Rừng già, cây to lá đan kín, nhìn không thấy trời. D bộ làm nhiều lán thành các khu vực của từng đơn vị nhỏ, nối với nhau bằng các đường mòn tự tạo. Trong rừng rất nhiều sóc, ngoài ra không thấy con gì khác. Vẫn là cái đám sóc chuột bé tẹo tôi đã thấy ở trạm 5. Nhưng ở đây có cả sóc bay. Bọn sóc này cũng không to hơn bọn sóc chuột bao nhiêu. Ngồi im một chỗ đừng làm náo động thì chỉ một lúc là thấy sóc. Lần đầu tiên ngắm sóc bay thấy thú vị lắm. Giáo cụ trực quan sống về sinh vật rừng là đây chứ đâu. Tự nhiên thấy cuộc đời lính có vẻ thơ mộng quá. Thảo nào mà anh bộ đội trong bài "Nhạc rừng" hứng chí vừa đi vừa hát một mình trong rừng mà thấy đời lên hương.

          Đi dịch ra phía suối thì nấm nhiều vô kể. Chúng tôi thi nhau hái, đem về định đến tối tự nấu ăn với nhau (nấu vụng thôi, vì chúng tôi vẫn còn có ruốc mặn để làm gia vị. Có nó mà nấu với nấm chắc ngon hơn đứt món nấm tối qua chỉ sào với muối). Loanh quanh thế mà mãi gần tối vẫn chưa nấu được. Phần vì suối xa, phần vì không mượn được soong nên chúng tôi xếp gọn đám nấm vào góc nhà. Bữa cơm tối diễn ra với thức ăn mới là món kiệu sào. Ở ngoài Bắc chỉ nghe nói củ kiệu muối đem ăn với thịt lợn quay rất hợp, chứ lúc đó lấy đâu ra thịt lợn quay mà ăn với kiệu. Rất nhiều thằng còn chưa biết củ kiệu là gì. Mới nhìn thì nó na ná giống củ hành, nhưng củ của nó lại không to tròn như hành củ. Tất nhiên là vị khác rất nhiều. Chẳng ai đem xào hành không để ăn cơm bao giờ. Thế mà ở đây có món kiệu xào ăn lạ miệng mà ngon ra phết. (Sau này sống lâu ở Lào chúng tôi mới biết là cả cái vùng Nam Lào người ta không trồng và ăn hành bao giờ. Thâm chí chả bao giờ nhìn thấy cây hành. Nhưng người Lào trồng kiệu thành nương, có khi là cả một vùng đồi bát ngát. Bụi kiệu cũng gần giống bụi hành. Mùa mưa kiệu mọc tốt, đẻ nhánh rất nhanh. Có những bụi kiệu to bằng cả một vòng tay ôm. Kiệu đem xào, muối, luộc hay nấu canh đều được. Ngon nhất là kiệu muối, nhưng nhiều khi muối còn chả có thì đừng mơ kiệu muối). Chúng tôi tạm quên đi món nấm. Đến tối khi chúng tôi trở lại lán thì thấy cái đống nấm ban chiều của chúng tôi đang phát sáng rực lên ở góc nhà như ma trơi. Màu lân tinh sáng xanh rõ hình từng chiếc nấm. Chúng tôi gọi và kể chuyện cho các anh lính cũ. Họ cười bò ra rồi giải thích. Đó là một loại nấm độc. May mà chúng tôi chưa nấu ăn, chứ nếu đã nấu ăn vụng với nhau rồi thì ngộ độc không biết sẽ thế nào. Hú vía. Chúng tôi vội dẹp hết vứt xa phía sau nhà. Rồi các anh giảng giải cho chúng tôi. Lính mới vào thằng nào cũng lớ ngớ, cần phải chịu khó mà nghe và học hỏi lính cũ. Cứ tự ý làm mọi thứ có ngày đi ngủ với giun lúc nào không hay.

           Hôm sau một anh dẫn chúng tôi đi lấy nấm để chúng tôi tạm làm quen. Ngoài các nương rẫy của dân có những cây đổ nhưng không cháy hết khi đốt rẫy từ nhiều năm trước. Bây giờ trên đó thường có loại nấm trắng xòe như cái dẻ quạt, to lắm cũng chỉ cỡ bàn tay. Đó là nấm dai. Loại nấm này không mềm thịt, nhưng nấu nước rất ngọt. Loại thứ hai ngon hơn, đó là nấm mối mọc dưới đất, nhất là vùng đất ẩm có lá đã mục. Lúc sáng sớm nó đẩy đất nhô cái mũ lên như chiếc ô cụp. Sau đó nó nở rất nhanh. Chỉ trong một hai tiếng, cái mũ nấm đã xòe to ra như chiếc ô. Chính giữa mặt cái nấm có một vùng sậm như núm vú đàn bà. Những chiếc to, mũ rộng có đường kính tới 20, 25 phân, cao chừng hơn gang tay thì chỉ 3 chiếc là đủ bữa cho một tiểu đội bốn năm thằng. Hái lúc 9, 10 giờ là đẹp nhất. Để chậm, những con muỗi, con dĩn nó bâu vào ăn lỗ chỗ mặt nấm. Cây nấm mối già rất nhanh, đến chiều tối thì nó rũ ra, có khi thối ủng không còn ăn được nữa. Đấy là hai loại nấm dễ nhớ nhất. Nói chung cây nấm nào có con muỗi con dĩn (hay con sâu) ăn được là người cũng ăn được. Còn loại nấm hôm trước chúng tôi được ăn thì hiếm hơn phải tinh mới biết. Nghe vậy thôi nhưng tốt nhất là cứ đi theo các anh lính cũ cho nó chắc. Tất nhiên là đến một lúc nào đó thì chúng tôi cũng phải thành thạo.

          Liền suốt 10 ngày sau đó, anh Choát và một anh nữa chia chúng tôi làm hai nhóm thay nhau cùi đạn ra phía trước. Chúng tôi phải bỏ toàn bộ quân tư trang ra gói vào cái tăng cất trong lán, còn ba-lô đem đựng đạn hay gạo. Đạn cối 60 hay B40, B41 thì mỗi lính cùi 8 quả. Đạn cối 82 thì 5 quả. Nếu là gạo thì mỗi người 20 kg. Không phải là nhiều lắm, nhưng bước đầu như thế cũng đủ nặng. Đường ra trận địa Bãi Đá xa 4 giờ đồng hồ. Tất nhiên là đướng rừng và lội suối quanh co. Mỗi chuyến là hết một ngày. Trận đánh này hình như là vây ép nên đánh mấy ngày. Chỗ chúng tôi đem đạn và gạo ra cách trận địa một quả đồi to. Đó là khu bàn đạp. D bộ tiền phương đóng ở đó, hầm hố đàng hoàng. Khung cảnh khẩn trương nhưng vẫn an toàn, chúng tôi chỉ nghe tiếng súng nổ ùng oàng xa xa. Các anh lính cũ bảo chỗ này chỉ sợ máy bay hay pháo nó câu tới thôi. Giao đạn gạo xong rồi thì chúng tôi được ăn cơm (cơm nếp mang đi từ hậu cứ) rồi ngồi uống nước chè với lính cũ. Trong này chè có mà thiếu giống, có làm có uống, lính cũ bảo thế. Có lần chúng tôi còn được mời hút thuốc lá thơm có đầu lọc. Đó là thuốc chữ A của Lào. Có 2 loại đầu lọc: đỏ và trắng. Loại trắng có bạc hà hút thấy man mát trong lưỡi. Bao thuốc mềm trông rất đẹp, chữ loằng ngoằng như giun chỉ đọc được mỗi chữ A. Tôi bắt đầu tập tọng hút thuốc từ lúc này, toàn được lính cũ cho. Về sau tôi cũng nghiện thuốc từ lúc nào không biết. Ngày nào không có thuốc không thể chịu được. Rồi lúc đi đánh nhau luôn có ý thức trong đầu là sau trận đánh phải lục ba-lô và túi của lính địch chết để tìm thuốc lá. Thời gian ở Lào cũng chỉ có một loại thuốc lá chữ A thôi, không hề có loại thuốc nào khác. Hết thuốc thẳng (thuốc điếu trong bao) thì tự lấy lá thuốc của dân (dân Lào trồng ngoài nương nhiều lắm) về phơi hoặc sao lên, rồi quấn sâu kèn để hút.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dream_kgb trong 17 Tháng Hai, 2010, 01:47:13 pm
Hôm nào ol cũng vào đây hóng, tiếp đi bác. Lâu quá ạ.  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 18 Tháng Hai, 2010, 09:20:14 am
…..
         Được mấy ngày đầu cùi đạn gạo như thế cũng chưa có gì là vất vả lắm, mệt nhưng quen ngay. Đến ngày thứ 5 thì bắt đầu có thương binh. Cứ ba thằng một thương binh, cáng võng buộc đòn tre thay nhau khiêng. Bây giờ mới biết mặt nhé. Đeo quai ba-lô dù sao cũng êm ái, bây giờ cáng võng bằng cái đòn tre cứng nó tì vào vai đau lắm. Lính Hà Nội, thằng nào vốn dân ngoại thành đã quen gồng gánh còn đỡ, mấy thằng nội thành có gánh bao giờ, bây giờ mặt nhăn như bị. Đảo vai liên tục rồi lại đỡ bằng cả hai tay cho khỏi đau vai. Đoạn đường 4 tiếng đồng hồ cùi cõng trở nên vô tận. Đau nhất là những đoạn lên xuống dốc, cáng nó cứ chuội sượt trên vai thằng đi phía đầu thấp. Không hiểu sao cái trạm phẫu lại đặt xa trận địa thế không biết. Đi hết 4 giờ đồng hồ về gần đến khu hậu cứ D bộ K18 rồi, lại bàn giao cho đơn vị khác khiêng tiếp về tuyến sau hơn. Về đến nhà xuống suối ngồi nghỉ mãi vẫn không hết mệt. Cởi áo ra mà thương xót cho cái vai mình quá. Đỏ bầm tụ máu và đau ê ẩm. Hôm cáng thương binh đầu tiên về đến hậu cứ mà bã hết cả người, không muốn ăn cơm nữa dù vẫn đói. Hôm sau lại có lệnh đi cáng thương binh tiếp. Ôi cha mẹ ơi. Hôm đầu đau một thì hôm sau đau mười. Lót cả cái khăn mặt vào vai rồi mà đặt cái cáng lên nó đè như muốn lột da. Bây giờ mới biết thương cái kiếp con trâu con bò. Nó kéo cày, cái vai nổi u lên một cục chai to tướng. Thân trai này sắp thành con bò mất rồi. Còn đâu trong tim hình ảnh anh Lê Mã Lương đội mũ tai bèo, khoác tấm khăn dù đứng nghiêng người quạt Ak giữa trận tiền nữa.

          Hôm thứ ba nhóm bọn tôi phải cáng một thương binh bị thương vào chân. Trong nhóm có thằng Sưởng người to cao nhưng lại vốn dân công tử bột, con nhà giàu. Thằng này chẳng nể mặt ai đâu. Huấn luyện ngoài Bắc đứa nào va chạm với nó là nó chửi thẳng thừng, chẳng nể nang gì. Lần này tôi phải khiêng cùng nó mới khổ chứ. Nó vốn cao hơn tôi đến cả chục phân, nên phần nặng tất nhiên lúc nào cũng nghiêng về phía tôi. Đường không bằng phẳng nên cứ phải bước thấp bước cao mà tránh rễ cây rừng. Cáng thương binh đi trước hay sau đều khổ. Đi trước thì phải giữ cho cân mà chỉnh theo đường. Nhiều lúc nặng quá đi không vững, chân nam đá chân chiêu loạng choạng như thằng say rượu. Còn đi sau thì không nhìn rõ đường, thằng trước kéo thì cứ phải lao theo nó cho khỏi ngã. Lần này anh thương binh có lẽ cũng to con nên nặng lắm. Đã thế anh ấy còn rên la ghê lắm, nó đánh vào tinh thần làm cho người khiêng mệt thêm nhiều phần. Nghe kêu rên ghê quá, thằng Sưởng cáu tiết bảo:

        - Thôi ông ơi, ông làm ơn im cho chúng tôi nhờ. Đã nặng bỏ mẹ…

        Người thương binh không những không im mà vẫn kêu, có khi còn to hơn. Thằng Sưởng lại bảo:

         - Im đi không các bố mày vứt mẹ nó xuống đất bây giờ.

          Thế là lập tức ông thương binh nhỏm ngay dậy giữa võng, chỉ mặt thằng Sưởng bảo:

          - Này đồng chí tên là gì, ở đơn vị nào hả? Có biết tôi là ai không?

          Nghe thế bọn tôi cũng sợ. Lúc này nhìn kỹ vào võng thấy bố này vẫn đeo nguyên cả cái Xanh-tuya-rông có khẩu súng ngắn. Thảo nào mà cáng nặng thế. Chúng tôi không dám nói thêm gì, lặng lẽ cáng tiếp. Đến một đoạn đường dốc hơi trơn, thằng Sưởng trượt chân ngã. Tôi cũng ngã theo, hất ông thường binh lăn mấy vòng trên đất. Ông ấy gầm lên nhổm người dậy chửi ầm lên rồi rút súng ra dọa bắn. Bọn tôi sợ quá ù té chạy núp vào mấy bụi cây, bỏ mặc ông ấy đứng ngoài bãi dốc với cái chân băng trắng toát. Mãi sau anh Choát đi tới xin lỗi rồi dàn xếp lại người để khiêng tiếp. Thằng Sưởng lủi sang nhóm khác, dứt khoát không khiêng cùng tôi nữa. Thế là tôi đành chịu trận. Nhưng tôi dứt khoát không nói tên thằng Sưởng, dù ông thương binh gặng hỏi. Nhưng rồi cuối cùng ông ấy cũng biết chúng tôi là đám tân binh Hà Nội mới vào. Sau này chúng tôi biết ông thương binh hôm ấy là CTV của K16 (vẫn còn may vì không phải K18 chúng tôi). (Sau này ông ấy lên chính ủy Trung đoàn. Năm 2000, ông ấy là chính ủy QĐ1, hàm thiếu tướng rồi mới nghỉ hưu).

         Cáng thương binh mấy ngày mệt quá, chúng tôi chỉ mong được về các C để tham gia đánh nhau.  Cứ phải khiêng vác thương binh thế này mãi, nếu không gục ngã thì khéo cũng đến đảo ngũ mất thôi.

          Sau đợt ấy, chúng tôi gùi đạn cho C5. Hướng tác chiến quay sang phía khác vì trận đánh Bãi Đá đã xong rồi. Đêm hôm ấy chúng tôi được nghỉ lại ngoài tuyến trước cùng C5, đơn vị cũng vừa tham gia đánh Bãi Đá. Chúng tôi háo hức hỏi chuyện, còn các anh ấy trả lời và chuyện trò bình thản lắm, chẳng có gì là gay go ác liệt  hay hào hùng gì. Mọi việc xảy ra chỉ như chuyện thường ngày ở huyện vậy. Thế nên bọn tôi càng phục và càng náo nức. Đêm nằm hầm, hút thuốc thơm chiến lợi phẩm và thò cổ ngắm sao trên trời. Nói chung lính cũ già trước tuổi, khó đoán chính xác. Khi hỏi các anh vào chiến trường bao lâu, có anh bảo, bọn tớ vào cũng chỉ mới độ 3, 4 năm thôi. Ôi chao ôi. Từng ấy năm mà mới. Còn chúng tôi mới vào chưa được 2 tuần, chỉ mới cùi cõng thôi mà đã thấy lâu lâu rồi. Biết đến khi nào chúng tôi mới có được khoảng thời gian 3, 4 năm như các anh bây giờ. Đêm đó tôi xin được của một anh lính cũ một quả lựu đạn mỏ vịt của Mỹ. Cài nó vào Xanh-tuya-rông rồi lấy cái dây chun cột lại trông cũng ra dáng lắm.

          Hôm sau về hậu cứ được nghỉ một ngày, tôi rủ hai thằng nữa mò ra một cái suối gần đó để thử quả lựu đạn và cũng để kiếm ít cá. Tôi đã nghe nói nhiều về cái chuyện bộ đội đánh cá bằng lựu đạn. Chúng tôi lần mò ra cách nơi ở đến hơn một cây số, tìm một khúc suối sâu nước lặng. Nhìn xuống thấy có cá bơi. Mấy thằng tôi nấp sau tảng đá, làm đúng thao tác yếu lĩnh rồi ném quả lựu đạn xuống suối. Tiếng nổ không to lắm, chắc suối sâu. Chúng tôi mò ra vớt được một ít cá bé tí tẹo, chắc khoảng 3, 4 lạng. Đem về bếp, anh nuôi D bộ chỉ cười, nhưng cũng chiều lòng nấu cho chúng tôi nồi cháo cá gạo nếp. Không có gạo tẻ nên nồi cháo quánh lắm. Đứa nào ăn cũng khen ngon, nhưng thực chất lúc đó chắc đói và tự hào là kiếm được nên thấy thế thôi.

               Chúng tôi ở D bộ đã được chục ngày. Lúc đầu chúng tôi được phổ biến chờ các đơn vị ở tuyến trước rút về thì tiểu đoàn sẽ phân chia chúng tôi về các đại đội. Sau vì Tiểu đoàn vẫn còn ở phía trước dài ngày, nên chúng tôi được chia quân luôn. Các anh lính cũ của các C có việc về hậu cứ khi trở ra tuyến trước đã kết hợp đón và dẫn chúng tôi về đại đội. Chúng tôi được chia đều về 4 đại đội và tiểu đoàn bộ. Tôi được về C6, cùng với thằng Sưởng và thằng Thái "Pi-tơ" anh nuôi ngoài Bắc, lính thu dung của D36 mà khi trước tôi đã nhắc tới. Lúc này chúng tôi mới được phát súng đạn. Mỗi người nhận một khẩu AK cũ cùng hai trăm viên đạn. Bao xe không có nên ngoài băng lắp ở súng, chúng tôi phải cho băng còn lại vào ba-lô.

     …


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 21 Tháng Hai, 2010, 08:15:12 am

               Lúc này C6 đang đứng chân phía trước. Từ D bộ, chúng tôi cũng phải đi hơn 6 giờ mới tới vị trí tập kết của đại đội. Có hai B đóng trên đỉnh một giông đồi. Cái giông đồi này chỉ rộng chừng dăm chục mét, nhưng dài tới hơn cây số. Toàn cây to kiểu rừng già. 4 thằng trong bọn tôi được chia về 2 B đó, còn lại tôi với thằng Đức (người huyện Từ Liêm) đi tiếp hơn nửa tiếng nữa. Lội qua một con suối to có tên là Huội Chăm-pi, lòng cạn mà cũng phải rộng tới hai chục mét, đi thêm hơn trăm mét nữa thì tới B5. Khu vực trú quân là vạt rừng thưa có nhiều cây lúp xúp. Địa hình không phẳng, các hầm phân tán. Hầm bếp anh nuôi gần suối, còn hầm của các A nằm rải rác men theo sườn dốc. Ở đây chỉ có đại trưởng và một B bộ binh. Trong các hầm đều có người. Chẳng thấy ai làm gì cả ngoài việc ôm cây súng ngồi ngay cửa hầm. Ở đây toàn hầm chữ A. Tôi được chỉ cho một căn hầm để cất ba-lô vào đó. Có một anh nói đơn vị đang ở chốt, tối mới về.

              Sẩm tối, từ một hướng trên dốc có mấy anh lính cũ chạy ào ào xuống. Đó là các anh từ trên chốt về. Một anh dừng lại chỗ hầm tôi ngồi, hạ cây B40 và cái ba-lô đạn xuống, rồi hỏi tôi: "Mày mới vào hả, tên gì?". Tôi xưng tên. Anh ấy cũng xưng tên là Trịnh, rồi nhoẻn miệng cười rất hiền và đưa cho tôi một túm dâu da to tướng, vỏ màu trắng hồng, ăn rất ngọt. Cũng là anh chạy xuống bếp đem lên một bọc cơm nếp, ít muối vừng bảo tôi cùng ăn. Chúng tôi ngồi ăn ngay trên miệng hầm, trời sập tối lúc nào không biết. Tôi nhanh chóng được biết sẽ ở cùng tiểu đội và cùng nằm chung hầm với anh. Đây là lần đầu tiên tôi được nằm hầm chữ A. Hầm dài hơn 2 mét và cũng phải rộng cỡ mét rưỡi. Tôi đưa tay sờ thấy hàng gỗ to cỡ cổ chân ken dày vách hầm. Đáy hầm trải cỏ tranh, rải ni-lon nên nằm trong cũng thấy ấm cúng ra phết. Mặc dù có nến bằng giấy dầu, nhưng ở đây không được đốt vì sợ ánh sáng. Các lính cũ hầu như ai cũng có đèn pin chiến lợi phẩm, che miếng giấy chỉ để một lỗ sáng nhỏ với ánh sáng mờ. Đêm đầu tiên tôi chưa phải gác. Các anh còn đi hội ý gì đó rồi anh Trịnh nói sáng sớm mai tôi sẽ ra chốt cùng anh.

               Đại đội trưởng C6 là anh Đỗ Kim Băng, người Nam Hà. Bổ sung vào đơn vị rồi phải đi chốt hay ra trận ngay, thực ra là điều rất bình thường đối với tất cả những người lính. Nhưng có một lý do khiến tôi được ra trận trước tất cả 6 thằng lính  Hà Nội khác trong C, sau này tôi mới biết. Số là nghe tin có lính Hà Nội vào, các thủ trưởng nghĩ ngay bọn tôi là công tử bột, không phải dân lao động. Thủ trưởng Băng hỏi anh Thiết quản lý xem trong đoàn Hà Nội có thằng nào là đoàn viên không. Trong 6 thằng chúng tôi có 3 đứa đã học hết lớp 10, nhưng cũng chỉ có tôi với thằng Đức là đoàn viên thanh niên thôi. (Cũng cần nói thêm là ngày đó, tuy đã vào lính, đã ra chiến trường nhưng không phải ai cũng được vào Đoàn. Tất cả bọn đoàn viên chúng tôi đều đã được kết nạp từ thời học phổ thông, chứ suốt cả 6 tháng huấn luyện cả chi đoàn đại đội huấn luyện của tôi tuy có thành lập và họp hành chiếu lệ dăm lần nhưng cũng không hề kết nạp ai cả). Vì thế mà tôi và thằng Đức được đưa ngay ra B5 là B đang chốt giữ tuyến trước. Thêm việc nữa là khi vừa bổ sung vào B thì thằng Đức lại đau bụng, nên tôi trở thành ứng cử viên duy nhất cho đoàn Hà Nội được ra trận để "xem chúng nó đánh đấm thế nào". Vậy là tôi trở thành thằng lính Hà Nội trong cái đoàn tân binh hơn hai trăm lính ấy ra trận đầu tiên và có cơ hội được nổ súng trước chúng nó.

               Đêm ấy nằm cùng hầm, anh Trịnh đem thuốc đầu lọc ra mời hút và trò chuyện cùng tôi một lúc. Thuốc lá là chiến lợi phẩm trận đánh tuần trước ở Bãi Đá. Nghe chuyện đánh nhau cứ ngon ơ như định sẵn. Anh Trịnh bảo ngày mai chúng ta sẽ ra chốt bản Xoan, ngoài đó đã đào  sẵn hầm chữ A rồi. Mỗi người một hầm, vị trí theo sự phân công. Địch vào thì đánh. Có gì chưa rõ thì cứ hỏi và nhìn lính cũ mà làm. Còn bây giờ đi ngủ để mai lấy sức đi sớm. Nếu muốn tè thì chui ra ngoài hầm mà tương vào rệ cỏ. Còn đi đồng thì nhớ cầm cái xẻng đào hố mèo xa xa một chút. Chấm hết.

               Vốn quen với mấy tháng hành quân Trường Sơn, nên tôi cũng nhanh chóng ngủ ngon lành, chẳng lạ lẫm cái gì cả. Sớm tờ mờ đất hôm sau, anh Trịnh thúc tôi dậy. Chưa quen địa hình nên vẫn anh Trịnh xuống suối lấy cho mỗi người một bi-đông nước và qua bếp lấy cơm. (Lại vẫn là cơm nếp, chuỗi thời gian ăn cơm nếp liên tục còn kéo dài đến hơn hai tháng nữa). Tôi tranh thủ đánh răng bằng ngón tay, còn rửa mặt thì từ nay chỉ có lúc nào qua suối mới biết đến rửa mặt. Ăn vội phần cơm sáng , túm nắm cơm còn lại vào tấm khăn dù (vải dù lính cũ có rất nhiều và tôi đã được anh Trịnh cho một miếng to bằng 4 chiếc khăn mùi-xoa. Gói cơm nếp bằng vải dù tuyệt lắm. Nó không bị hấp hơi, không dính bết và nhất là giặt rất nhanh khô). Tôi để ba-lô lại hầm, chỉ mang theo khẩu AK, hai băng đạn lắp sẵn cùng một bọc đạn AK gần 200 viên, được phát thêm một quả lựu đạn mỏ vịt nữa. Nhóm 4 người chúng tôi ra chốt bản Xoan, gồm anh Lạc A trưởng người Tuyên Quang, anh Hoài - Nam Hà, anh Trịnh - Hà Tây và tôi.  Anh Lạc mang súng cối cá nhân M79, còn tôi và anh Hoài mang AK. Men theo các sườn dốc và chui qua các hàng cây lúp xúp, chúng tôi đi chừng hơn 300 mét thì lọt vào một cái bản Lào bỏ không. Lối chúng tôi vào không phải là đường mà chỉ là do chúng tôi đạp rừng mà vào. Hướng đối diện mới có một con đường xe bò đi vào bản.

           Cả bản có chừng hơn chục nóc nhà, toàn nhà sàn khá to và đẹp. Cây ăn quả trồng nhiều trong bản, nhưng lúc này nổi bật là mấy cây dâu da to và rất sai quả. Dân cũng mới bỏ chạy nên vẫn còn bóng dáng gia súc. Các hầm chốt của chúng tôi nằm phía rìa bên này bản, nên nếu có địch vào thì chúng cũng phải vào hết trong bản thì mới gặp chúng tôi. Trận địa chính là trong lòng bản. Theo hướng nhìn vào bản thì tôi được bố trí hầm bên trái, anh Hoài hầm bên phải, còn anh Trịnh B40 và anh Lạc M79 ở giữa và hơi lùi lại phía sau. Tôi chẳng biết kế hoạch tác chiến là gì, chỉ biết nếu địch vào thì theo các anh lính cũ mà nổ súng. Tôi chỉ làm ngay được mỗi việc mà sau này trở thành thói quen trong suốt cả quãng đời cầm súng là cây AK của tôi luôn có sẵn một viên đạn lên nòng, bất cứ là đang ở tuyến trước hay về hậu cứ tuyến sau.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tycon trong 21 Tháng Hai, 2010, 10:24:16 pm
 Năm mới chúc Chú và gia đình mạnh khỏe an khang thịnh vượng.
 Cháu vẫn thường xuyên theo dõi các bài viết của Chú, các bài viết về chiến trường Lào ít quá mà cháu rất muốn tìm hiểu về quân tình nguyện Việt Nam tại Lào. Bố cháu là cựu chiến binh chiến trường này, Bố cháu nhập ngũ năm 1967 thuộc sư đoàn 316 đến năm 1973 Bố cháu bị thương và được cho ra quân. Nhà cháu bây giờ còn giữ rất nhiều kỷ niệm chiến trường của Bố đó là vải dù, võng bằng dây dù...
 Rất mong được đọc các bài của chú.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:12:54 am
Em là lính sư 10 có mặt trên đoàn xe đi qua căn cứ Đồng dù trưa ngày 29/4/1975 để đánh thọc sâu vào SG.
Lần đầu tiên vào trang Web QUANSU và đọc bài của Bác TrongC6 em thấy bác viết rất hay, rất thực và xúc động. cảm ơn bác! Kính chúc bác khỏe và tích cực viết nhiều hơn nữa.     


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Hai, 2010, 03:09:54 pm
Xin chào đ/c Bob.
Trên QSVN này, thế là bạn ở đơn vị gần gũi với tôi nhất trong chiến trường rồi đó. Chúng mình đã cùng chung một cánh trong cả 2 chiến dịch lớn 1975.
Chiến dịch Tây Nguyên, đơn vị đạn đánh Ban Mê Thuột, còn bọn tôi đánh Buôn Hồ và đường 14.
Chiến dịch HCM thì đơn vị bạn đánh thọc sâu vào SG, còn chúng tôi đánh Đồng Dù.
Chúng mình đã cùng có cảm nhận chung về không khí chiến thắng khi đó phải không bạn.
Các bài của lính thời trước 1975 còn ít, nhất là của QĐ 3.
Bạn vào đây viết bài chia lửa đi nhé.
Chờ bạn


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 25 Tháng Hai, 2010, 03:55:58 pm
Chào bác trongc6, tôi mới vào QSVN tình cờ đọc bài bác viết về những kỷ niệm một thời "máu lửa". tôi rất thích (đồng cảm) cách viết của bác. Suy nghĩ và nhớ lại mà, trí nhớ của bác còn tốt lắm. Tôi cũng tham gia chiến trường từ 1970, Tham gia khá nhiều chiến dịch, khá nhiều trận, bị thương nặng nhẹ, cũng dăm bảy bận... Chiến dich 1975 (thần tốc) được tham từ mở đầu Buôn mê thuột , Nha trang cho đến trận cuối cùng: giải phóng SG... (nhiều kỷ niệm không quên được)Nhưng không viết được như bác. hoặc viết ra thì sợ người ta đánh giá; "Thằng cha này muốn kể công" nên hơi ngại.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: pain trong 25 Tháng Hai, 2010, 04:08:36 pm
Chào mừng bác bob tham gia diễn đàn. Bác cứ viết theo hồi ức của mình thôi, không ai nói bác kể công đâu. Chúc bác khỏe và có nhiều bài viết về KCCM.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trungsy1 trong 25 Tháng Hai, 2010, 04:09:09 pm
Chúc các bác lính "tiền 75" và bác TrongC6 một năm mới an khang mạnh khỏe, vạn sự như ý!  :D

Trên này lính K thì nhiều. Lớp các bác thì hơi hiếm, nên các đàn em chỉ dám đọc thôi chứ cũng không biết gì nhiều để tham gia cho xôm. Nhưng cũng có mấy bác tiền 75 như PQ, Lixeta, Mig21_58 ...vẫn tham gia ọp ác đấy. Hôm nào tiện đầu xuân, kính mời các bác ly trà chén gụ, như tình đồng ngũ quân sử... :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: daccong-tinhnhue trong 25 Tháng Hai, 2010, 08:50:49 pm
Chào bác trongc6, tôi mới vào QSVN tình cờ đọc bài bác viết về những kỷ niệm một thời "máu lửa". tôi rất thích (đồng cảm) cách viết của bác. Suy nghĩ và nhớ lại mà, trí nhớ của bác còn tốt lắm. Tôi cũng tham gia chiến trường từ 1970, Tham gia khá nhiều chiến dịch, khá nhiều trận, bị thương nặng nhẹ, cũng dăm bảy bận... Chiến dich 1975 (thần tốc) được tham từ mở đầu Buôn mê thuột , Nha trang cho đến trận cuối cùng: giải phóng SG... (nhiều kỷ niệm không quên được)Nhưng không viết được như bác. hoặc viết ra thì sợ người ta đánh giá; "Thằng cha này muốn kể công" nên hơi ngại.
Bác Bop à?Trươc lạ,sau quen thôi mà.Đa phần các CCB,toàn kể lại nhưng việc thật,chuyện thật mà mình đã trải qua trong các cuộc chiến,các bác ý có xuất thân là nhà văn,nhà báo đâu.Mà nhà văn,nhà báo Xịn chắc gì đã có những bài hay được như các CCB."Gái có công,chồng chẳng phụ" kiểu gì các bác cũng có Công cả,dù ít ,dù nhiều.Bàn tay còn có ngón dài,ngón ngắn mà,tránh sao được những lời nọ,kia.Nhưng việc ai,người lấy làm.Rât nhiều bạn đọc mong bác sớm" khai bút" đó.Cố lên-Cố lên Thái bình dương. ;D :-* ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Hai, 2010, 09:10:06 pm
Chào bác Bob.

        Đúng là lính KCCM mới chỉ có rất ít người vào viết trong QSVN, dù chỉ dăm bài. Lính trận thì mới có vài người. Tôi, bác Lixeta và bác PhongQuang cùng tuổi.
        Bác Bob vào chiến trường từ 1970, có thể nói là nhỉnh hơn mấy anh em tôi một chút đấy. Nếu ngày trước được vào đúng đơn vị bác, có khi lại được làm lính của bác cũng nên.

         B3 ác liệt và nổi tiếng cát cứ một thời, lính khổ nhiều hơn so với hai đầu chiến tuyến (B2 và B4,B5). Sư 10 khi đó đóng vùng Kontum phải không bác Bob (vì Sư 320 ở Gia Lai rồi). Còn Đắc Lăk khi đó đâu có quân mình, rừng sâu còn lắm cọp mà.

       Bác ở chiến trường từ 1970, tham gia nhiều chiến dịch, bị thương nhiều lần mà vẫn trụ lại, chắc khi thần tốc vô Sài Gòn bác đã là cán bộ C phải không.
        Bác kể chuyện đơn vị bác đi. Tôi tuy có ở B3, nhưng hiểu biết về chiến trường Tây Nguyên không được mấy, vì thời gian không dài.

      Bác viết chuyện đi nhé. Đừng ngại gì cả. Nếu kể công thì mình đã kể ở nơi khác, chứ trang QSVN chỉ là giúp ôn hồi ức thôi. Viết ra cho nó vui, để tạm quên đi cái cuộc sống nhọc nhằn đời thường ấy mà bác.

      Chờ bác, chờ một đàn anh lính cựu đấy nhé.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:14:01 pm
Bác Bob đi năm 1970 mà ở sư 320 chắc có tham gia chiến dich Đường 9 Nam lào rồi. Tôi đã có thời cùng đơn vị mấy anh trước ở 320 sau chiến dịch Nam Lào về học lục quân. Cùng đi lính năm 1970 như bác nhưng lập công sớm được đi học. Anh Diệu người bắt sống thiếu tá Đức trưởng ban 3 lữ dù 3 của Nguyễn Văn Thọ. Bác biết gì, nhớ gì cứ kể đừng ngại.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 25 Tháng Hai, 2010, 10:25:02 pm
Bác Trong cho em hỏi, đoạn này bác TrongC6 đang ở tỉnh nào của đất Lào ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: NicolasCage trong 26 Tháng Hai, 2010, 02:55:34 am
Văn phong bác Trongc6 hay quá. Đọc mà cứ tưởng đang hành quân cùng với bác. Cảnh vật dọc đường hành quân sống động cứ như đang hiện ra trước mắt. Chả trách tại sao mà chỉ sau có 1 buổi “.. nhổ cỏ, bắt sâu…” mà cô giáo Hoa lại chấm bác chứ không phải bác Xuyên nông dân hay bác Thụy cao to, đẹp giai  ;D.
Xin phép được góp vui 1 câu chuyện nghe các bạn Lào kể khi NC đóng ở Dakchung, Sekon:
Chuyện kể rằng có chàng trai Việt đưa cô vợ Lào về ra mắt bố mẹ chồng. Do thói quen, đến bữa ăn cô vợ đưa tay bốc thức ăn. Anh chồng thấy vậy đánh vào tay cô vợ, miệng nói:
- Ở VN cái này phải dùng đũa để gắp. Cô vợ có vẻ buồn nhưng không nói gì.
Đêm đó không biết anh chồng làm gì mà bị cô vợ đánh vào tay rồi nói: Cái này phải dùng đũa mà gắp (!!!) ;D
Năm mới chúc các bác luôn khỏe.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 26 Tháng Hai, 2010, 08:37:35 am
Chào bác PhongQuang. Tôi ở sư 10 bác ạ, chiến dịch đường 9 nam lào tôi không tham dự. Bác viết lại những ký ức chiến tranh cũng rất hay, tôi chưa đọc hết các bài của bác, nhưng tâm sự của người đã qua trận mạc kể lại rất sống động. tiếp tục viết bác nhá...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 26 Tháng Hai, 2010, 09:45:29 am
Chắc bác Trọng đang ở cao nguyên Bolooven bác chốt như vậy chắc ngụy lào dễ đánh phải không bác ??


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 26 Tháng Hai, 2010, 01:43:09 pm
Chào bác Rongxanh:

       Trong mạch chuyện, tôi đang ngồi chốt ở bản Xoan trên cao nguyên Bô-lô-ven. Suy rộng ra thì nó thuộc tỉnh Chăm-pa-xắc cực nam của Lào. Thủ phủ là thị xã Pắc-xế nằm trên đường 13 (từ Viên Chăn đi xuống) cạnh sông Mê-Kông.

       Từ Pắc - xế ngược theo đường 23 lên hướng Pắc - Soòng 21 cây số là ngã Ba Lào Ngam. Bản Xoan nằm ở hướng Tây ghé Bắc của ngã Ba này, cách độ 3 cây số gì đó.

       Nếu tìm được Bản đồ vùng này, bác Post lên giúp thì hay quá.
       Cảm ơn bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 26 Tháng Hai, 2010, 04:51:45 pm
Chào bác trongc6, bác đoán khá chuẩn đấy. tôi vào B3 từ 1970, lúc đó chưa có sư 10 (sư 10 thành lập cuối năm 1972 sau chiến dich Đăktô-Tân cảnh). mới vào tôi ở E40 pháo (mang vác). khi sư 10 ra đời tôi về E24 (F10 có 3E: 66,28,24). Sau hiệp định Pari e24 làm nhiệm vụ giữ chốt tuyến tây bắc thị xã Kon tum (ác liệt lắm) vậy mà suốt từ đầu năm 1973 đến ngày miền nam giải phóng 1975 địch không ủi được. tuyến chôt được trên tặng là cánh cữa thép Tây nguyên. Cũng từ tuyến chốt đó đơn vị tôi xuất phát vào chiến dịch 1975. Tôi đang lục tìm trong "bộ nhớ" xem còn nhớ được bao nhiêu và sẽ viết lại 1 số sự kiện mà mình trực tiếp tham dự. Nhưng tôi xin phép các bác trước là tôi không có khiếu văn chương nên có gì sơ xuất các bác bỏ qua cho nhé. chân thành cảm ơn. 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: daibacvn trong 26 Tháng Hai, 2010, 04:59:33 pm
Chào bác trongc6, bác đoán khá chuẩn đấy. tôi vào B3 từ 1970, lúc đó chưa có sư 10 (sư 10 thành lập cuối năm 1972 sau chiến dich Đăktô-Tân cảnh). mới vào tôi ở E40 pháo (mang vác). khi sư 10 ra đời tôi về E24 (F10 có 3E: 66,28,24). Sau hiệp định Pari e24 làm nhiệm vụ giữ chốt tuyến tây bắc thị xã Kon tum (ác liệt lắm) vậy mà suốt từ đầu năm 1973 đến ngày miền nam giải phóng 1975 địch không ủi được. tuyến chôt được trên tặng là cánh cữa thép Tây nguyên. Cũng từ tuyến chốt đó đơn vị tôi xuất phát vào chiến dịch 1975. Tôi đang lục tìm trong "bộ nhớ" xem còn nhớ được bao nhiêu và sẽ viết lại 1 số sự kiện mà mình trực tiếp tham dự. Nhưng tôi xin phép các bác trước là tôi không có khiếu văn chương nên có gì sơ xuất các bác bỏ qua cho nhé. chân thành cảm ơn.  

Làm luôn một topic mới kể chuyện cho thế hệ sau như cháu nghe đi bác ơi!!!


Đêm đó không biết anh chồng làm gì mà bị cô vợ đánh vào tay rồi nói: Cái này phải dùng đũa mà gắp (!!!) ;D
Cái gì phải dùng đũa để gặp thế nhỉ... là lá la hahaha :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 26 Tháng Hai, 2010, 05:18:27 pm
Chào bác Rongxanh:

       Trong mạch chuyện, tôi đang ngồi chốt ở bản Xoan trên cao nguyên Bô-lô-ven. Suy rộng ra thì nó thuộc tỉnh Chăm-pa-xắc cực nam của Lào. Thủ phủ là thị xã Pắc-xế nằm trên đường 13 (từ Viên Chăn đi xuống) cạnh sông Mê-Kông.

       Từ Pắc - xế ngược theo đường 23 lên hướng Pắc - Soòng 21 cây số là ngã Ba Lào Ngam. Bản Xoan nằm ở hướng Tây ghé Bắc của ngã Ba này, cách độ 3 cây số gì đó.

       Nếu tìm được Bản đồ vùng này, bác Post lên giúp thì hay quá.
       Cảm ơn bác.

Bản đồ khu vực Pakse (1:250.000), cao độ tính bằng m (không phải feet)  ;):

(http://i595.photobucket.com/albums/tt38/rongxanhpmu2/TC6-Pakse-26-2-2010copy.jpg)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 26 Tháng Hai, 2010, 10:36:57 pm
      Rất cảm ơn bác Rongxanh cung cấp bản đồ. Tôi đã nhận ra ngã Ba Lào Ngam và Bản Phin. Nhưng phải nửa tháng nữa tôi mới ra bản Phin. Còn bản Xoan và Bản Phiệt (mà tôi sẽ kể tiếp đây) thì không thấy trên bản đồ. Phải chăng nó bé quá hay cảnh vật đã thay đổi.

Xin tiếp tục trận chốt bản Xoan...


               Trời sáng dần và tôi nhìn rõ hơn cảnh vật. Cây cối trong bản rất xanh tốt. Nằm sát mặt đất quan sát cũng chỉ nhìn xa được độ dăm chục mét. Tất cả im ắng. Tôi tranh thủ cắp AK lò dò lên phía trước vài chục mét tìm hiểu địa hình cũng không thấy có gì khác lạ. Tôi nhìn quanh để xem xét rồi quay trở lại hầm, không dám đi xa hơn về phía bên kia bản. Mò xuống cái hầm của mình, thấy hầm cũng là loại mới đào, vách hầm là ván gỗ chứ không phải thân cây, khá chắc chắn và rộng rãi. Ngửa cổ nhìn quanh thì mới thấy ngay cạnh cửa hầm là một cây dâu da to, trĩu quả. Tôi với tay lên bẻ một chùm to rồi ngồi ngay trên miệng hầm bóc ăn. Nhìn sang các hầm bên thấy các anh Trịnh, Lạc xòe tay vẫy thân thiện. Các  anh ấy cũng bẻ dâu da ngồi ăn cho đỡ sốt ruột. Phía hầm của anh Hoài xa hơn nên chẳng nhìn thấy gì. Nơi ấy, ở sát ngay hầm là một căn nhà sàn.

               Tầm chín giờ, trời đã sáng rõ lắm rồi. Tôi vứt đầy vỏ dâu da trên miệng hầm và đã hái thêm chùm dâu da khác. Bỗng có tiếng lao xao phía xa, tôi tụt người xuống hầm, thò đầu nhìn. Nhìn mãi một lúc cũng thấy bóng người, địch rồi, tôi thầm nghĩ. Không nhìn rõ hết người, nhưng từ ngang lưng trở xuống thì thấy khá rõ. Đến vài chục tên, chúng đã lọt vào hết trong bản và đang sục ra xung quanh một cách chậm rãi. Chúng không bắn vì chưa phát hiện thấy gì đáng ngờ. Gần chục thằng đi về hướng tôi, quần áo và mũ đều màu rằn ri loang lổ. Chúng cứ phải vạch bớt cành cây để đi nên đến gần hầm tôi tới chục mét mà chưa phát hiện ra tôi. Tôi đã mở chốt an toàn, chĩa AK và chờ anh Hoài hay anh Trịnh nổ súng trước. Lúc ấy tôi chưa có kinh nghiệm, cứ nghĩ là lính cũ phải nổ súng trước rồi mình mới được bắn. Một thằng địch vạch lá cây và tiến lại hầm tôi. Nó tới gần quá khiến tôi phải tụt hẳn xuống hầm để nó khỏi nhìn thấy. Tôi gần như nín thở và nghe rõ tiếng bước chân của nó.

               Lúc này anh Trịnh cũng đã giương B40 và chờ cho mấy tên địch cụm lại, nhưng vẫn chưa có thằng nào lại gần anh hơn. Khổ thân cho tôi là anh Hoài, người lính cũ mà tôi mong chờ nổ súng làm lệnh ở cánh phải lại là sâu rượu. Hầm anh ấy dựa ngay vào cái nhà sàn to tướng. Thế là trong lúc chúng tôi ăn dâu da thì anh ấy leo lên sàn tìm rượu. Trong nhà sàn có mấy cái hũ ngâm gạo nếp làm rượu sắp đem chưng cất. Nó gần giống như món rượu nếp, nước cái của nó thì thơm ngọt và rất dễ say. Đang mải loáy hoáy mò rượu xơi như thế thì anh Hoài chợt nghe tiếng động ngoài vườn. Nhìn qua khe cửa xuống dưới đã thấy lố nhố mấy thằng địch dưới đất. Có hai thằng đứng sát cầu thang, hình như chúng muốn leo lên. Anh Hoài nép vào vách gỗ và bật nhẹ chốt an toàn (nếu biết cách bật thì không hề phát ra tiếng động), nhưng cha mẹ ơi, súng lại chưa lên đạn. Bây giờ mà kéo quy-lát thì chắc chắn ăn đạn từ dưới đất bắn lên ngay. Đúng lúc anh đang căng đầu ra như thế thì tiếng AK ở cánh trái nổ giòn và tiếng B40 "ùng…oàng" nổ ngay giữa bản. Bọn địch dưới sàn nhà dạt ra, quay sang hướng súng nổ. Anh Hoài thừa thế kéo quy-lat cái "roạt" và đạp cửa sổ nhảy đại xuống đất, quất AK hạ gục ngay hai thằng ở chân cầu thang rồi vọt xuống hầm, chĩa AK bắn tiếp vào bọn phía sau.

               Vâng, đúng là trận đánh đó tôi nổ súng đầu tiên. Loạt AK mở màn của tôi vừa cứu nguy cho tôi, vừa giải nguy cho anh Hoài. Trước đó, khi tên địch cắp AR15 mò lại cái hầm của tôi thì tôi đã tụt đầu xuống hầm và thò AK lên chờ đợi. Căng thẳng vì tôi cứ phải chờ hiệu lệnh nổ súng, ngốc thế chứ. Nhưng sự cẩu thả của tôi khi ăn dâu da vứt bừa vỏ trên cửa hầm đã vô tình cứu sống tôi. Tên địch bước sát hầm tôi nhìn thấy đống vỏ dâu da còn mới, lại không thấy có người nên nó chủ quan nghĩ không có ai và cứ thế nó chậm rãi bước tiếp. Rất may là nó không hứng chí ném đại một quả US vào cửa hầm, vì nếu như thế thì bia tưởng niệm liệt sĩ ở phường tôi đã phải khắc thêm một dòng rồi. Đúng lúc nó nghiêng người nhìn vào cửa hầm của tôi thì tôi nhô lên. Bốn mắt ngây ra nhìn nhau trong một chớp và tất nhiên tôi là người chủ động. Tôi kéo mạnh một loạt AK khiến nó bật ngửa người lùi lại, nhưng là để ngã ngửa ra đất vì hứng trọn loạt đạn 7 ly 62 của tôi chứ không phải để chạy. Tôi nhô hẳn người lên quạt tiếp AK vào đám địch đang chạy ràn rạt phía trước. Bọn địch chỉ lùi một đoạn rồi nằm rạp quạt AR15 bắn trả. Tiếng đạn địch nghe rèn rẹt không giòn bằng tiếng AK, chíu chít phía trên đầu. Cùng lúc đấy tôi nghe tiếng nổ của B40, lần đầu tiên mới biết nó kêu "ùng" rồi mới "oàng" kèm theo chớp lửa và quầng khói đen. Anh Trịnh đã nổ súng rồi. Tôi vẫn bắn về phía bọn địch cho đến hết băng AK, chẳng còn nhớ điểm xạ hay kéo cò tùy hứng. Xen trong lúc ngưng bắn, tôi nghe thấy tiếng "cốc… oành" của anh Lạc bắn M79 và tiếng AK ở cánh phải của anh Hoài. Lúc đó tâm trạng tôi rất phấn khích. Thằng địch bị tôi bắn còn được hưởng thêm vài viên AK bắn cho chắc ăn của tôi. Lúc đó, khi cơn hồi hộp đã qua, tôi lại không thấy sợ gì cả. Về sau này cũng thế, trước trận đánh khi chưa nổ súng, tôi đều thấy hồi hộp (nhất là những trận phục kích đếm từng bước chân địch để chọn thời điểm nổ súng), nhưng khi tiếng súng đã nổ thì mọi việc trở nên bình thường, chẳng phải nghĩ gì cả.

               Bọn địch lùi ra xa rất nhanh. Chỉ còn M79 của chúng từ xa câu lại. Chúng bắn khá chụm và chính xác. May có những tán cây dày chặn lại nên nhiều quả nổ trên cây, chỉ có mảnh văng xuống rào rào. Cây cối tả tơi nhanh chóng. Tôi tụt sâu xuống hầm tránh mảnh. Không lâu sau đó, pháo địch từ đâu ào ào bắn tới. Bọn địch đã rút ra ngoài bản và gọi pháo bắn. Tiếng pháo nổ vang chủ yếu trong khu vực bản. Không có quả nào rơi trúng hầm chúng tôi. Chúng bắn chừng độ vài chục quả thì dừng, không gian lại đột ngột yên tĩnh. Ngồi trong hầm, tôi đã tranh thủ thay băng đạn và lắp thêm những viên đạn rời vào băng AK vừa bắn hết. Một lúc sau, tôi thò đầu lên. Cảnh tượng trong bản khác hẳn. Cây cối đổ gãy và không gian mờ mờ khói đạn, tràn ngập mùi hăng hăng ngai ngái. Có cái nhà sàn đã trúng đạn đổ sập. Cái cây dâu da chỗ hầm tôi cũng gãy cành, quả rụng vung vãi. Tôi nhìn sang các hầm khác nhưng chẳng thấy gì vì vướng cành cây đổ. Chẳng ai gọi tôi mà tôi cũng chẳng dám mò sang hầm các anh.

               Một lúc lâu nữa thì có một tổ 3 người từ phía sau lên chi viện cho chốt. Các anh ấy lần lên phía trước, đếm được tất cả 4 xác địch. Bọn này đều phải chết 2 lần vì ăn thêm mảnh đạn pháo của chúng. Phía ta, anh Lạc A trưởng bị trúng mảnh pháo nhỏ vào đầu, phòi ra một tí óc. Anh Cát (Bắc Thái) ở lại chỉ huy thay, còn hai anh khác khiêng anh Lạc về tuyến sau. (Sau này anh Lạc vẫn sống, được giải ngũ về nhà nhưng mất trí nhớ. Các bác sĩ quân y nói vết thương như thế thì về nhà anh ấy cũng chỉ sống thêm được nhiều lắm là hai năm nữa thôi. Tội nghiệp cho anh quá).

               Gần trưa, bọn địch quay trở lại bản. Tới đầu bên kia bản, chúng đã bắn tơi bời rồi cứ vừa bắn vừa mò vào. Khi chúng vào giữa bản, anh Cát cho lệnh nổ súng. Tôi không quan sát được nhiều nhưng cứ nhằm tầm cao cách đất nửa mét mà điểm xạ. Được ít phút thì bọn địch rút ra. Chúng lại gọi pháo bắn một thôi nữa. Sau này thì tôi quen dần với cái kiểu địch nống ra mà gặp ta thì lùi lại gọi bom, pháo. Chúng lợi thế hơn ta ở món hỏa lực đó.

               Sau đợt ấy thì địch bỏ cuộc. Suốt buổi chiều không có gì xảy ra. Chờ đến lúc tối mịt thì tất cả chúng tôi cũng rút về mấy cái hầm trú quân cạnh Huội Chăm-pi hôm trước.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 26 Tháng Hai, 2010, 11:03:32 pm
Bác Trongc6 đã bao giờ quay lại thăm chiến trường cũ chưa, nghe nói vùng này bây giờ phát triến nhất Lào đấy, rất nhiều Việt kiều thành đạt ở đây.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 26 Tháng Hai, 2010, 11:22:08 pm
     Rất cảm ơn bác Rongxanh cung cấp bản đồ. Tôi đã nhận ra ngã Ba Lào Ngam và Bản Phin. Nhưng phải nửa tháng nữa tôi mới ra bản Phin. Còn bản Xoan và Bản Phiệt (mà tôi sẽ kể tiếp đây) thì không thấy trên bản đồ. Phải chăng nó bé quá hay cảnh vật đã thay đổi.




Khả năng tên bản đó chỉ có trên bản đồ tỷ lệ lớn hơn (1:100.000 hoặc 1:50.000) bác ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 27 Tháng Hai, 2010, 03:18:02 pm
Đã 35 năm rồi...Đọc bài của bác trongc6 đánh Đồng dù (29/4/1975). tôi dần nhớ lại: Cũng ngày ấy Đơn vị tôi (sư 10) tiến vào SG khi ngang qua Đồng dù thấy trong căn cứ khói lửa vẫn còn nghi ngút, thỉnh thoảng vẫn còn tiếng súng bộ binh nổ đì đùng. Toàn bộ sư 10 đi bằng cơ giới (xe tăng, xe bọc thép và xe tải...). Đội hình xe nối đôi nhau dài hàng chục km. cơ động ầm ầm trên đường. Đơn vị tôi (E 24) dẫn đầu. Xe tăng T54 đi trước, xe bọc thép K63 tiếp theo rồi xe tải chở bộ binh. (Riêng chiếc đi đầu tiên của đội hình xe tăng là chiếc tăng M48 chiến lợi phẩm). trên các xe đều cắm cờ giải phóng. Còn cán bộ chiến sĩ sư 10 mang băng đỏ trên tay trông thật khí thế. Trước khi xuất trận anh em chúng tôi được quán triệt nhiệm vụ; thọc sâu đánh chiếm sân bay Tân sơn nhất, Bộ tổng tham mưu ngụy. thời cơ thuận lợi tiến chiếm Dinh độc lập. Cấp trên còn nhắc đi nhắc lại: Dọc đường không đươc nổ súng chỉ khi nào địch kháng cự thì mới tiêu diệt mà đi tiếp vào mục tiêu đã định. xe nào bị cháy, bị hỏng điều ngay xe ủi lên gạt qua bên đường cho đội hình hành tiến. Trận đánh Đồng dù của sư 320 đã mở của ngõ sài gòn cho sư 10 tiến quân thuận lợi... (còn tiếp)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 01 Tháng Ba, 2010, 09:56:35 am
...tuy nhiên khi vừa qua Đồng dù, đoàn quân sư 10 đang hành tiến bỗng gặp ngay lực lương xe tăng + xe bọc thép M113 của địch ra đánh chặn. tôi không còn nhớ địa danh chỗ giao tranh, nhưng mang máng hình dung lại thấy: xe tăng 2 bên dàn trận bắn nhau "ùng ục", nhiều chiếc bị cháy khói đen cuồn cuộn bốc lên...có chiếc tháo chạy bị trúng đạn chúi đầu xuống ruộng. Cánh bộ binh chúng tôi cứ ngối yên trên xe tải ở phía sau xem "họ đánh nhau". Ngồi xa xa (Khoảng gần 1km) xem xe tăng bắn nhau như tập trận thế mà không ai tỏ ra sợ sệt gì, thậm chí còn khoái nữa vì chưa bao giờ được chứng kiến cảnh tượng đánh nhau 'hoành tráng" như vậy. Nhưng cảnh tượng đó chỉ diễn ra hơn 1 tiếng đồng hồ thì chúng tôi nhận lệnh tiếp tục hành quân. Lúc đó tôi hiểu rằng: Lực lượng xe thiết giáp địch đã bị tiêu diệt... Khi chúng tôi đi ngang qua Quân trường quang trung, ngó qua lỗ châu mai ở các lô cốt thấy lính địch còn đầy trong đó chĩa đại liên ra phía chúng tôi, nhưng địch không dám bắn nên chúng tôi cũng không bắn cứ rầm rầm đi qua. chiều tối ngày 29/4/1975 Đơn vị tôi đã vào tới ngã tư Bảy Hiền...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dream_kgb trong 01 Tháng Ba, 2010, 04:51:28 pm
Bác Bob mở thêm cái topix kể chuyện nữa đi ạ. Bọn cháu vào xem cho đỡ lận lộn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 05 Tháng Ba, 2010, 09:01:23 am
….
               Đêm về nằm trong hầm tôi hỏi chuyện anh Trịnh. Anh bảo, mày cũng khá đấy. Đại trưởng Kim Băng cũng khoái, anh bảo lính Hà Nội cũng chơi được đấy nhỉ. Nhưng tôi thì lại chẳng cảm thấy gì cả, chẳng biết tại sao. Nhưng tôi ghi sâu trong lòng cái lỗi của anh Hoài về việc ra trận mà quên không lên đạn trước. Kiểu như thế có ngày chết oan. Đấy là bài học và một kinh nghiệm phải luôn luôn ghi nhớ. Tôi lại hỏi anh Trịnh sao lúc mình đánh nhau, đại đội không chi viện thêm cho mấy quả cối 60. Anh bảo hỏa lực riêng mình cũng đủ rồi. Súng M79 bắn tại chỗ nhiều khi có tác dụng hơn là cối 60 từ phía sau câu lại. Hơn nữa đạn cối chỉ để đánh những trận quan trọng thôi vì số lượng có ít. Chi viện được dăm quả chẳng bõ bèn gì, lại lộ thêm nơi trú quân, địch nó gọi máy bay táng cho mươi quả bom thì quá tội. Lúc đánh nhau chỉ nên trông cậy ở trang bị bản thân thôi. Sau này rồi tôi cũng hiểu, cảnh con nhà nghèo đi đánh nhau với con nhà giàu thì đương nhiên chiến tranh còn phải kéo dài 5 năm, 10 năm… là tất nhiên thôi.

               Sau này các đơn vị trong E chúng tôi cũng gặp phải nhiều cảnh trớ trêu, kể ra thì như chuyện hài. Đánh trận mà xin trên được 2 quả cối 82 đòi bắn cấp tập thì thật như gãi ghẻ. Bắn trúng địch thì không sao, bắn trượt (mà trượt là chính) thì chỉ tổ địch nó cười. Đấy là chưa kể chi viện mà lại đấm đít bộ binh thì cha con tha hồ chửi nhau. Thằng chỉ huy phía trước chỉ muốn rút súng quay lại bắn bỏ hỏa lực phía sau trước khi hô quân xông lên đánh địch. Cánh bộ binh chúng tôi có một nguyên tắc phải thuộc, nhất là khi đi lùng sục hay đánh tao ngộ chiến. Đó là phải nhằm diệt thằng thông tin của địch trước. Mất thông tin thì mày cũng cô lập như chúng ông, chẳng còn nhờ thằng bố gửi bom pháo hỗ trợ nữa, đánh tay bo xem thằng nào hơn. Thứ nữa là diệt thằng chỉ huy của địch. Mày cậy có sĩ quan học trường lớp, đào tạo tử tế, chê chúng ông là lính quèn qua chiến trận tự kéo nhau lên thì bây giờ mất đầu rồi, cùng lính chơi nhau xem sao.

               Đêm hôm ấy tôi cũng phải tham gia gác đêm. Đây là ca gác đầu tiên trong đơn vị. Rồi từ đó về sau, gác đêm đã trở thành một nhiệm vụ thường xuyên mỗi đêm của tôi. Nó dần ăn sâu vào người, đến nỗi sau này khi ra quân phải mất một thời gian dài tôi mới quen được cảnh đêm không phải thức dậy một tiếng. Cũng phải thôi, bởi vì bây giờ nếu phải đếm xem trong thời gian quân ngũ có bao nhiêu đêm không phải gác thì có lẽ còn dễ hơn là đếm xem có bao nhiêu đêm phải gác. Khi ấy không có đồng hồ, cũng chẳng quen nhìn sao trời vì có phải lúc nào gác cũng  nhìn thấy bầu trời đâu mà học nhau cách này. Cách tốt nhất truyền nhau là đếm. Cứ "một trăm linh một" là đủ một giây. Đếm đủ 3600 cụm từ như thế thì đủ một giờ gác. Nhưng đấy là ở doanh trại cơ, chứ gác tuyến trước còn phải quan sát và nghe ngóng động tĩnh, sẵn sàng xử lý tình huống thì không thể chỉ nhăm nhăm vào đếm. Tốt nhất là luyện cho mình cảm nhận thời gian. Mới nghe thì có vẻ phi lý, nhưng thật sự là như vậy. Rèn mãi cũng thành bản năng. Bây giờ giữa đêm, tôi có thể ra ngoài hiên, chỉ ngồi nghĩ vơ vẩn thôi cũng có thể canh được một giờ trôi qua với sai số chỉ chừng 5 phút.

               Đêm đó trôi qua thật yên tĩnh. Không có pháo địch bắn. Chỉ có tiếng côn trùng thôi, vì chỗ nào mà chả có giun dế.

               Mờ sáng hôm sau, chúng tôi lại ra bản Xoan. Chỉ có ba người là anh Trịnh, anh Hoài và tôi. Lần này chúng tôi không vào trong mấy cái hầm hôm qua trong bản, mà lùi hẳn ra ngoài đám cây lúp xúp phía ngoài bản đào hầm mới theo kế hoạch của đại trưởng Băng. Đất mềm nên chỉ độ hơn tiếng là mỗi người đã đào xong cho mình một cái hầm cá nhân be bé có đủ cả nắp hầm chống được cối cá nhân và ngụy trang tử tế. Ngồi chỗ này chốt thì chẳng có gì nhấm nháp ngoài hút thuốc lá và phải canh chừng máy bay. Cấp trên dự kiến địch có thể không vào bản mà dùng pháo bắn phá. Đào thêm hầm dịch hẳn ra ngoài này an toàn hơn. Quả nhiên chừng độ 9 giờ, khi mặt trời đã lên cao thì nghe vè vè tiếng máy bay. Hai chiếc máy bay cánh quạt xuất hiện, sau này tôi biết nó là máy bay ném bom T28 và quen thuộc với nó suốt thời gian ở Lào. Chúng nó đã có chủ định sẵn nên chẳng cần trinh sát trước làm gì. Bay đến trên đầu chúng tôi là chúng nó bổ nhào cắt bom luôn. Làm mấy vòng như thế, tất cả các đợt bom đều ném vào trong bản Xoan. Chỉ cách chúng tôi chừng trăm mét nên tiếng nổ rất to, đất rung và khói bụi mù mịt. Hết một đợt như thế lại thấy hai chiếc T28 khác vè vè bay đến và lại bổ nhào ném bom. Ba đợt máy bay như thế, có quả cũng ném gần ra rìa bản, tưởng như nó thả trúng đầu mình. Chúng tôi chúi xuống hầm tránh mảnh thôi chứ nếu nó thả trúng thì đi tong tất cả. Sau đợt bom cuối chừng hai chục phút, biết chúng đã kết thúc, chúng tôi mò vào bản. Cả cái bản sáng hôm trước còn an bình thì nay tan hoang tất cả. Nhà cửa, cây cối chả còn gì. Đám gia cầm gia súc có lẽ cũng chạy bạt hết đi từ hôm trước. Có lẽ người dân cũng chẳng quay trở lại đây nữa, vì làm bản ở nơi mới có lẽ còn thuận lợi hơn. Các lính cũ bảo địch ném bom như thế này thì chúng nó cũng chẳng trở lại nữa đâu. Thế là chiều hôm ấy chúng tôi rút lui sớm về chỗ trú quân.

               Nửa đêm, theo chân trinh sát tiểu đoàn, hai tiểu đội trong đó có A của tôi luồn rừng vòng lên phía trước bên kia bản Xoan chừng 300 mét. Chỗ đó có một ngã tư đường xe bò. Sáu người chúng tôi đào hầm phục kích (hầm không nắp) lùi sâu vào một bên vệ đường. Tiểu đoàn cho rằng địch ném bom hôm trước xong có thể trở lại bản Xoan kiểm tra nên đưa chúng tôi ra đây phục kích nhằm tiêu diệt địch bất ngờ trước khi chúng chuẩn bị tổ chức vào bản. Tại khu vực này vẫn chỉ có một cái đại đội địch hôm trước đã vào bản Xoan thôi.

               Hôm ấy là một ngày dài. Chúng tôi ăn sáng ngay sau lúc đào xong hầm, trời còn tối. Sau đó là ngồi đếm thời gian trôi qua. Cái vệ đường xe bò này toàn cỏ tranh mọc hai bên, đã tươi tốt lại sau mấy trận mưa đầu mùa. Bọn địch đi ngoài đường không dễ nhìn thấy chúng tôi, tuy hầm phục kích chỉ cách vệ đường chừng dăm mét. Nhưng công tác ngụy trang lại rất cần thiết. Hôm đó máy bay trinh sát cánh bằng L19 của địch bay lượn rất nhiều. Nó đảo qua đảo lại khu vực Bản Xoan nhiều lần. Tôi che cỏ tranh kín đầu mà vẫn có cảm giác như thằng phi công địch nhìn thấy mình, vì những lúc nó chao cánh, tôi thấy cái đầu phi công rõ mồn một. Lực lượng phòng không của ta trong chiến trường rất yếu, nếu không muốn nói là không có, nên không quân địch gần như làm chủ bầu trời. Tiểu đoàn có một khẩu 12 ly 7, nhưng là để chi viện bộ binh đánh địch mặt đất khi cần chứ không phải để bắn máy bay. Tuy rằng máy bay nó bay thấp thế thì 12 ly 7 bắn quá tốt, nhưng nếu đem ra bắn máy bay thì lại sợ T28 nó đến làm cỏ mình. Tóm lại, chúng tôi cứ bí mật ngồi im là tốt nhất. Cả ngày hôm đó chỉ thấy L19 trên bầu trời, còn đưới đất tụi địch không đến. Trời tắt nắng, chúng tôi lại rút về bên bờ Huội Chăm-pi vì muộn thế này rồi thì cũng chẳng còn thằng địch nào hành quân ra nữa.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: VietPo`Lut´ trong 07 Tháng Ba, 2010, 01:04:24 am
Hay quá chú Trọng à, chú tiếp tục viết nhé vì hồi ký thời kỳ KCCM là của quý hiếm lắm chú ạ. Phần lớn các chú bác CCB KCCM đến bây giờ đều nhiều tuổi và ít có cơ hội tiếp xúc với internet nên hồi ký trong QSVN ít quá, mới lác đác có mấy người. Chúc chú luôn khỏe mạnh và dẻo tay gõ phím như ngày xưa bóp cò AK


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Ba, 2010, 10:22:56 am

               Đêm ấy, cả 2 B còn lại của C tôi và một vài đơn vị của tiểu đoàn cũng ra tuyến trước. Khu vực bản Xoan tơi bời được bàn giao cho C hỏa lực. Đại đội chúng tôi đi xuôi theo huội Chăm-pi xuống hơn một cây số nữa đến một cái bản có tên là bản Phiệt. Con Huội (suối-tiếng Lào) Chăm-Pi là con suối chính và lớn nhất trên cao nguyên Bô-lô-ven. Nó bắt nguồn từ bên A-tô-pơ sát dãy Trường Sơn chảy vòng qua thị trấn Pắc-Soòng trên cao nguyên Bô-lô-ven rồi men theo bờ phía Bắc con đường 23 chảy xuôi về Tây Nam. Đến ngã Ba Lào-ngam, nó bẻ ngoặt lên phía Bắc theo hướng  Keng-Nhao để hòa nước vào một con sông từ Sa-ra-van chảy xuống. Con sông này chảy xuyên qua lộ 13 phía bắc thị xã Pắc-xế rồi đổ nước vào dòng Mê-Kông hùng vĩ. Song song với huội Chăm-pi luôn luôn có một con đường lớn là quốc lộ hay tỉnh lộ. Các bản Lào nằm ven đường thường có mật độ dày hơn so với các vùng khác, có khi cách nhau chỉ hơn cây số. Vào sâu phía trong cao nguyên thì có khi bản lại cách bản tới mấy giờ đi đường. Giữa chúng là các nương rẫy, các cánh rừng rộng lớn và nối với nhau bằng các con đường xe bò.

               Chiến sự chỉ mới lan rộ lên ở khu vực này từ sau trận Bãi Đá, nên dân bắt đầu rời bản bỏ chạy. Họ mang theo đủ các vật dụng cần thiết, nhưng phải bỏ lại nhiều nhất hai thứ là gia cầm gia súc thả rông và các hũ rượu nếp chưa chưng cất trên nhà sàn. Bản Xoan và bản Phiệt cũng vậy, nhưng vì bản Phiệt ở xa địch hơn nên sau khi đào hầm bố trí quân ngoài bản, chúng tôi đã có thể túc tắc mò vào bản một cách thận trọng. Nếu ở nhà biết câu "nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò" thì bây giờ ở đây phải nói là "nhất lính, nhì ma, thứ ba tới quỷ" mới đúng. Chỉ mới tới bản một ngày, bố trí xong đội hình, đào xong hầm và tổ chức lùng sục là chúng tôi đã như những người chủ của bản Phiệt rồi. Nói thêm một chút là các đại đội bộ binh chúng tôi sau khi đến một địa bàn mới, bất kể ở ít hay nhiều ngày, thì song song với việc tổ chức đào hầm, bao giờ cũng phải tổ chức ít nhất 2 tổ đi lùng sục ra các hướng để nắm địa bàn và tình hình. Trinh sát tiểu đoàn có cách nắm địa bàn theo kiểu của họ (kết hợp nắm địch và thuộc địa hình), thì bộ binh chúng tôi cũng có kiểu lùng sục địa bàn của mình, càng ở nơi mới càng phải tổ chức lùng sục sớm, bán kính thường rộng ra tới cả cây số. Lần ấy địa bàn phải nắm chắc nhất là bản Phiệt và các con đường dẫn vào nó. Tất nhiên các nhà sàn, khu vực gà đậu ban đêm được tìm hiểu luôn. Bộ đội đi đến đâu cũng phải chấp hành chính sách dân vận, một trong nhiều chính sách bắt buộc phải thực hiện (như chính sách tù hàng binh, chính sách thương binh tử sĩ…). Nhưng đấy là khi ở cùng dân, tiếp xúc với dân cơ, chứ đằng này dân bỏ chạy hết rồi thì cũng nên coi như chỗ bỏ hoang. Ta không ăn thì địch nó cũng ăn, hoặc nếu không ai ăn thì lũ gia súc gia cầm cũng chạy hết vào rừng, lâu ngày rồi cũng thành thú hoang cả. Đấy, lính tráng thì chỉ nghĩ đơn giản như thế thôi (mà rồi sau này có nghiệm lại thì đúng là như thế thật). Thế mà các cấp chỉ huy (mà thực chất chỉ là dân chính trị) lúc nào cũng hô hào rất nghiêm khắc. Không may cho các chính trị viên là cứ phải đem thân mình ra mà làm gương cho lính. Nói cho cùng thì cán bộ chính trị nơi chiến trường là thiệt thòi nhất. Họ chính là sợi dây tư tưởng, sợi dây tinh thần xuyên suốt của Đảng từ trên xuống để tạo nên sức mạnh kỷ luật trong quân đội mà. Nhớ ngày xưa xem phim hay đọc truyện về chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Liên-xô, khi Hồng quân bị bắt, bọn Phát-xít chẳng mấy quan tâm đến các sĩ quan chỉ huy mà chúng chỉ nhăm nhăm truy hỏi ai là Chính ủy rồi đem bắn ngay không í ó gì hết. Chúng sợ truyền kiếp cáí đội ngũ Chính ủy Bôn-sê-vích trong Hồng quân.

               Mệnh lệnh là mệnh lệnh và trong đơn vị tôi ai cũng tỏ ra chấp hành nghiêm chính sách dân vận. Nhưng về thực chất, các lính cũ đã láu cá vượt quá cả ma và quỷ rồi. Khi đào hầm chữ A để phục vụ chiến đấu thì hầm bao giờ cũng phải có hai cửa đối chéo nhau. Cái cửa phụ đáng lẽ bé và đơn giản hơn thì lại được làm to và tăng thêm ngách. Đấy chính là sào huyệt để tạo nên "bài ca ống cóng". Tất nhiên nếu chiến sự đang diễn ra ác liệt thì không nói làm gì, nhưng lúc này lại đang bình yên và cái bản Phiệt này đang do chúng tôi làm chủ. Thế là khi đêm đến, các đệ tử của "Thời Thiên" trong Thủy Hử liền ra tay. Các anh ấy có mẹo bắt gà và giết gà mà chúng không hề ọ ẹ lấy một tiếng. Đứng cách chục mét cũng chẳng nghe thấy gì. Thế là ngay từ đêm đầu tiên, từ những cái bếp trong ngách hầm phụ mà khi đun ban đêm cũng không lộ ra ánh sáng ấy, tiểu đội nào cũng có gà ăn. Chỉ toàn luộc thôi, vì món này ít bốc mùi thơm đi xa. Từ B trưởng trở xuống thì thông đồng với lính rồi. Các liên lạc cũng được giao đi truyền lệnh để xuống các B hưởng lộc. Đại trưởng chúng tôi cũng chả kém ai. Ông ấy cũng đi kiểm tra các B một cách thầm lặng. Cuối cùng chỉ còn mỗi CTV đóng chốt tại hầm chỉ huy và tất nhiên không hay biết gì. Tất cả ăn xong đều chùi mồm sạch sẽ. Còn những thứ bỏ đi thì cứ đào hố mèo thật sâu mà chôn.

               Trong 4 ngày chúng tôi chốt giữ và lùng sục tại khu vực bản Phiệt, đám gia cầm vợi dần. Nhưng có sổ sách nào bàn giao gì đâu nên cũng chẳng ai phải lo lắng. Thú thực là chỉ thương cho thủ trưởng chính trị. Trong khi tất cả đều được bồi dưỡng hàng đêm thì anh ấy vẫn chỉ ngày ba bữa cơm nếp với muối rang. Thương mà cũng chẳng biết làm thế nào, vì chính sách dân vận nó thế, lộ ra với CTV thì chết cả nút. Sau này nếu anh ấy có biết cũng chỉ là do cảm nhận thôi chứ chẳng ai kể lại chuyện cũ bao giờ. Còn tôi, thú thực là khi ấy tôi thấy đời lính sao mà lắm chuyện lạ thế. Ở nhà sống chế độ tem phiếu, đâu có thể có thịt mà ăn thả phanh. Vào lính ngày huấn luyện thấy thủ trưởng nếm gần nửa cân thịt luộc đã thấy quá thèm. Bây giờ đi đánh nhau lại được ngồi ngắm trăng sao mà chén vã một mình tới nửa con gà to, thì không khỏi chạnh lòng nhớ thương cha mẹ và các em ở hậu phương đang còn nhiều khốn khó.

               Sau bốn ngày cắm tại bản Phiệt, vì tình hình quá an toàn, hơn nữa địch cũng không đủ quân để bung ra khắp nơi, nên đại đội chúng tôi lại được lệnh quay trở lại khu vực bản Xoan để chuyển qua hướng khác. Chúng tôi rút đi, để  lại bản Phiệt nguyên vẹn và còn nhiều sản vật. Vậy là kết thúc bốn ngày đóng chốt bồi dưỡng sức quân. Từ ngày mai sẽ trở lại với cơm nếp muối rang. Tiếc cũng chẳ làm gì bởi đời lính khi no lúc đói là thường.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 13 Tháng Ba, 2010, 08:34:43 pm

               K18 là tiểu đoàn chủ công của E9B. Trong các trung đoàn của ta thì bao giờ cũng vậy. Mỗi D mạnh về một mặt nào đó và ở D chủ công thì bao giờ cũng có cán bộ chỉ huy chiến đấu vững hơn. Vững ở đây không chỉ là lòng dũng cảm, mà còn là ý chí, mưu mẹo, quyết tâm và xử lý tình huống nhanh nhậy. Trong K18 chúng tôi thì C7 là chủ công (C7 đã từng được phong anh hùng), còn C6 chúng tôi lại mạnh về chốt giữ. Tất nhiên trong một C lại có B chủ công, nhưng tính cách biệt giữa các B không rõ rệt  như các C trong tiểu đoàn. Chính vì thế mà trong khi C7 vẫn còn nằm lùi xa phía sau thì C6 và C5 cùng một B của C8 hỏa lực phải loay hoay ở phía trước để đánh địch nhỏ lẻ.

   Trở lại khu vực bản Xoan, C6 chúng tôi lại làm dự bị cho C5  theo hướng ngược huội Chăm-pi để lần lên gần ngã Ba Lào-ngam (nằm trên đường 23). Chỗ ngã ba này có một bản gọi là bản Phin. Để lại một B ở bờ nam Huội Chăm-pi, còn hai B quay trở lại bờ bắc Huội. Chúng tôi phải tổ chức đào nhiều căn hầm chữ A suốt dọc con đường mòn đi từ tuyến sau lên theo hướng này. Con đường này là do trinh sát đạp đường mà thành, chứ không có trên bản đồ. Chiều dài của đoạn cần đào hầm cũng tới gần hai cây số. Con đường này sẽ là trục đường chính để chúng tôi ra ngã Ba Lào-ngam nên trước sau gì cũng sẽ bị địch phát hiện và ném bom hay bắn pháo. Không có hầm dự bị để ẩn nấp tránh pháo trên suốt cả một giông đồi dài thì thật nguy hiểm khi phải cùi đạn và gạo qua đây. Không những thế, chúng tôi còn phải đào hầm xây dựng thêm một khu trú quân tạm ngay gần suối, trong một vườn chuối rừng rộng lớn. Đào hầm trong rừng già có cảm giác rất an toàn, nhưng đào hầm trong vườn chuối thì thấy nó trống trải lạnh lẽo thế nào ấy. Có lẽ vì nơi đây ẩm ướt, lắm muỗi và làm lối đi cũng rất bất tiện.

               Sau mấy hôm đào hầm, B tôi được làm nhiệm vụ cùi gạo và đạn ra tuyến trước. Vì đơn vị đã lót sẵn gạo và đạn ở vị trí trung gian, nên chúng tôi chỉ phải vận chuyển trên đoạn đường độ hơn một tiếng kể cả qua suối. Sau khi vượt huội Chăm-pi thì phải qua một cánh rừng nhỏ ven suối rồi, rồi ra một bãi trống chỉ toàn cây lúp xúp cao ngang đầu người, rộng tới sáu bảy trăm mét để tới khu rừng trú quân của C5. Ngay chỗ cửa rừng có một cái cây to cỡ gần hai vòng người ôm bị đổ, nằm xòa sát đất và chắn ngang đường. Các lính đi trước đã phạt bớt cành để tạo một lối đi trèo qua nó. Cái thân cây vướng cành nên nó không nằm hẳn sát đất mà còn kênh lên cách độ hơn hai chục phân. Chui qua dưới nó thì không được nên toàn phải trèo qua. Thân cây to quá nên ai muốn vượt qua nó cũng phải ôm rồi trườn qua, trông cứ như con nhái ôm cây tre ấy. Đí không còn đỡ, chứ vừa đeo súng vừa cùi gạo hay đạn thì rất khó khăn. Đi thêm nữa, đến lúc chuẩn bị vượt qua khu vực cây lúp xúp có nhiều bãi đất trống thì phải bẻ mỗi người một cành lá to rồi vừa đi qua đó vừa ngó nghé máy bay. Nghe thấy tiếng L19 là phải ngồi im, che cành lá lên đầu. Khi nó vòng xa thì lại nhổm người chạy nhanh một đoạn. Cứ như thế nên có khi phải mất đến mấy chục phút mới vượt qua được bãi trống. Hai ngày đầu không sao, đến ngày thứ ba khi vừa giao gạo xong cho C5, quay lại bãi trống thì chúng tôi gặp L19. Vì vội nên chúng tôi di chuyển hơi nhanh qua đó và bị L19 phát hiện. Khi thấy nó vừa chao cánh bắn xịt ra một quả pháo khói, anh Trịnh biết đã lộ nên hô chúng tôi vùng dậy vứt cây ù té chạy. Thế mà chỉ một tẹo sau thôi, hai chiếc T28 từ đâu đã vè vè bay đến, cứ như là nó phục kích sẵn ở đâu đó vậy. Khi chúng tôi vừa thoát vào đến cửa rừng thì cũng là lúc chiếc T28 đầu tiên chúi xuống thả bom. Chỉ còn mỗi cách ẩn nhanh vào rừng mới mong thoát. Cả 4 người chúng tôi cứ cắm đầu chạy, kệ cho bom nổ rầm rầm sau lưng. Chạy thoát đến suối rồi mới nằm vật ra thở. Một lúc sau, chợt nhớ ra chúng tôi hỏi nhau lúc chạy về có qua cái cây đổ không nhỉ, vì chúng tôi không ai còn nhớ đã vượt qua cái cây đổ đó như thế nào. Nhảy hay bay qua không biết nữa. Có lẽ giữa cái sống và cái chết, con người ta chợt có thêm sức mạnh phi thường thì phải.

              Mấy ngày sau đó, đám tân binh chúng tôi được học súng M79 và B40. Lúc này trong đơn vị chưa có B41. Người dạy là lính cũ thôi. Phần lý thuyết như tác dụng sát thương, liều phóng, nguyên lý đạn lõm… chỉ học sơ qua để biết. Chủ yếu là thao tác bắn súng. Phải lắp đạn như thế nào, bắn ra sao, địa hình nào thích hợp, tư thế bắn... là phải nghe kỹ mà nhớ. Tiếp theo là tập suông chứ không được bắn đạn thật. Rồi lại được học bắn rocket66 (M72) của địch. Ở chiến trường này, tụi bộ binh địch cũng chỉ có trang bị bản thân gọn nhẹ như lính ta. Súng bắn thẳng thì có AR15, cạc-bin. Hỏa lực tại chỗ có M79, trung liên Bar, cối 61 và mỗi thằng thường có thêm khẩu M72 bắn một lần. Cấp tiểu đoàn của chúng cũng có cối 81. Cả ta và địch đều không có đại liên. Như vậy có 3 loại vũ khí của địch mà chúng tôi có thể lấy để dùng lẫn gồm lựu đạn, cối cá nhân M79 và rocket M72. Còn những vũ khí khác thì phân biệt của địch của ta rõ ràng, không dùng lẫn.

               Một hôm tôi được cùng các anh lính cũ đi cải thiện. Chúng tôi ra trận địa bãi Đá lấy giấy dầu (vải tẩm dầu bọc đạn pháo của địch) về làm nến và sang vườn dứa cạnh đó bẻ dứa về làm thức ăn. Nơi đây khi trước lúc quân ta chưa đánh đến thì vẫn có bản và những nương rẫy của dân nằm sát ngay căn cứ địch. Vườn dứa rất to này cũng chỉ nằm cách hàng rào căn cứ độ trăm mét. Dân họ sống với địch cũng thân thiện. Tôi bắt đầu biết thế nào là nhiệm vụ đi "cải thiện" trong chiến trường. Đó là việc đi tìm những thứ ăn được đem về đơn vị làm thức ăn hay bổ sung cho nguồn quân lương còn ít ỏi của lính. Ở trận địa Bãi Đá, các anh còn dẫn tôi đi xem lại cửa mở khi trước, xem bố trí hầm của địch và ta đã đánh như thế nào để hình dung ra, sau này về còn học chiến thuật.

               Ngày 7 tháng 5 năm đó, cả tiểu đoàn được làm thịt một con bò, Chắc không phải kỷ niệm ngày chiến thắng phát xít Đức, mà đơn giản vì lâu quá rồi đơn vị chưa được ăn thịt. Thêm một điều quan trọng nữa là ngày mai chúng tôi lại phải ra khu vực bản Phin đánh địch, thay cho C5 về hậu cứ.…


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 20 Tháng Ba, 2010, 06:29:55 pm

               Chưa đến nửa đêm, khi suất cơm chiều có thịt bò còn chưa tiêu hết thì chúng tôi được lệnh hành quân. Lần này chúng tôi ra bản Phin, nằm cách ngã Ba Lào Ngam chừng độ cây số. Dân cũng chạy hết từ lâu. Trinh sát tiểu đoàn bám địch cho biết hiện trong bản không có địch. Ngoài căn cứ chính tại ngã Ba, bọn địch cũng nống ra đóng dã ngoại ven đường 231 nhưng còn cách bản khá xa.

               Một giờ sáng, trung đội tôi đã vào bản bố trí vị trí và tổ chức đào hầm. Hai trung đội còn lại nằm ngoài bản, lui xa đến mấy trăm mét. Bản Phin khá rộng, nhà sàn nhiều hơn, to hơn nhưng ít cây cối hơn bản Xoan. (Mấy năm qua ở Hà Nội có nhiều đại gia mới phất đua nhau lên vùng dân tộc mua nhà sàn và tháo ra chở về lắp ở Hà Nội hay ở các  trang trại đồng bằng cho có vẻ hoang dã. Tôi cũng đã ngó nghé qua vài nơi, nhưng những căn nhà sàn ấy thua xa các nhà sàn của dân Lào ở các bản to trên cao nguyên Bô-lô-ven, kể cả ở cái bản Phin này). Phần lớn các căn hầm của chúng tôi đều bố trí sát các căn nhà sàn để còn lợi dụng chúng mà tránh mảnh pháo. Cũng chỉ đào hầm bằng thôi. Đào gần nhà sàn còn dễ vì đất mềm chứ nếu đào hẳn dưới gầm nhà sàn thì đất cứng lắm vì đó là đất nện. Người Lào cũng thả rông gia súc nhưng đặc biệt không có cái kiểu buộc trâu bò dưới gầm sàn nên cũng khá vệ sinh và đỡ muỗi.

               Trời sáng, chúng tôi chia nhau ngồi chốt. Địch không vào bản, nhưng chúng nó cũng bố trí trận địa và đào công sự không cách xa bản bao nhiêu, vì sáng hôm đó chúng tôi nghe tiếng chúng nó chặt gỗ lạch cạch ở cánh rừng ngoài bản. Buổi chiều, anh Trịnh kéo tôi ra phía đầu bản và leo lên một cái nhà sàn ở phía đó. Nói thật là cũng hơi liều nếu như địch nó phục kích lại mình sát ngay bản thì coi như tiêu. Nghé qua một khe cửa sổ, chúng tôi nhìn ra được một bãi trống khá rộng. Chắc công sự của địch ở đám rừng phía bên kia bãi. Nhòm ngó được độ hơn chục phút, định mò về thì thấy có ba thằng địch xuất hiện và đi ra ở phía bên kia bãi trống. Chúng nó không phải định đi lùng sục vì chỉ có 3 thằng thì quá ít. Ba thằng đó bước rất thong thả ra bãi trống rồi hành động như các diễn viên phường tuồng. Một thằng vung tay chỉ về một hướng, thế là thằng cầm M79 "cốc" ngay một quả về hướng đó, nổ "oành". Tiếp theo thằng thứ ba lại trỏ tay về một hướng khác và một quả cối cá nhân lại "cốc…oành" về hướng ấy. Cứ như chúng nó chơi trò nghịch ngợm gì vậy. Đến lúc chúng nó "cốc…oành" hướng vào bản thì tôi và anh Trịnh giật mình. Chuồn thôi chứ không có khi chẳng phải đầu lại trúng tai thì phiền. Chúng tôi rút về hầm rồi mà vẫn cứ thấy tiếng nổ "cốc…oành" quả Đông quả Tây mãi như thế. Đúng là cái bọn thừa đạn. Anh Trịnh bảo có đạn bắn chơi thả sức như thế cho nên chúng nó mới đa phần bắn giỏi hơn ta, vì luyện tập thường xuyên thế mà lại. Nghĩ cũng phải. Quân ta không có đạn hỏa lực để bắn tập thật đã đành, ngay cả đạn AK khi về hậu cứ tít mãi đằng sau cũng đâu có được bắn chơi (hay thậm chí bắn chim chóc) để tập. Chỉ còn cách nâng cao trình độ qua các trận đánh thôi.

               Đêm đến, đại đội tăng cường thêm một B nữa vào Bản Phin. Chúng tôi bố trí lại hầm theo một hình cánh cung quây vào lòng bản. Hôm sau, vừa mới bảnh mắt, địch đã nã pháo và cối vào bản ầm ầm. Lại cảnh cây đổ nhà sập. Tụt người xuống cái hầm bằng được chắn trên nắp bằng hơn nửa mét đất mà cứ nghe tiếng đất dội nảy lên thình thình, mong trời khấn phật đừng có quả pháo nào rơi trúng vào hầm mình. Dập pháo được nửa tiếng thì bọn địch ngưng bắn và xua bộ binh vào. Chúng tôi khi đó chưa có ai bị thương vong, đã đón đánh chặn địch ngay từ đầu bản. Trong cảnh chiến trận ấy, tôi vẫn nhận rõ tiếng súng ta giòn hơn tiếng súng địch. Chúng tôi đứng trong công sự bắn ra, nhưng địch dựa vào địa hình là các cây hay các cột nhà bắn vào nên chúng cũng chẳng hề lép vế. Chúng nhiều đạn hơn nên bắn liên tục như vãi đạn. Phía ta, công bằng mà nói chỉ có AK là được hơn 200 viên đạn, còn B40 mỗi khẩu chỉ có 5, 6 quả đạn, M79 mỗi khẩu 40 viên nên cũng phải bắn dè sẻn. Trong ngày thì chẳng có ai tiếp tế đạn cho đâu, nên có nhìn thấy địch mới được bắn. Hai bên đã lộ diện thì khi địch muốn vào chỗ nào, chúng nó tập trung bắn dữ dội chỗ đó. Ta và địch đều không biết quân số của nhau, chỉ đoán áng chừng theo tiếng súng. Được chừng hai đợt xông vào bản bắn dữ dội như thế không ăn thua gì nên bọn địch rút ra. Cả hai bên đều không có tử sĩ.

               Đầu giờ chiều, đại trưởng Băng cho một tổ ra đầu bản thăm dò rồi quyết định kéo chúng tôi vượt hẳn ra ngoài bản phục sẵn để đánh địch bất ngờ nếu chúng vào tiếp trong bản. Chẳng còn thì giờ đào công sự, chúng tôi nằm phục một bên mé đường xe bò. Cứ nằm tơ hơ trên mặt đất như thế thấy lạnh lưng lắm. Giá có cái hầm dù bé cũng yên tâm hơn.

               Rồi địch lại bắn pháo vào bản. Cái bài nã pháo rồi dấn bộ binh là cách đánh muôn thuở của địch. Chúng tôi nằm ngoài bản nghe tiếng pháo nó ù ù xoèn xoẹt bay vượt qua đầu mình rồi nổ rầm trong bản mà cũng thấy hơi lạnh người. Tiếng đạn pháo lúc nó lao xuống đất mà gần chỗ mình thì thấy tiếng nó nặng lắm, cứ như đè mình xuống. Hết đợt pháo, chúng tôi ngỏng cổ lên nghe ngóng. Chẳng phải chờ lâu đã phát hiện thấy tốp địch đi đầu trên đường xe bò, chừng độ dăm tên. Chúng đi thưa và thận trọng, nhưng chắc không nghĩ chúng tôi mò hẳn ra đây phục sẵn nên cứ thong thả mà lọt vào đội hình quân ta. Không thể chờ tốp thứ hai vì chúng đi cách quá xa, đại đội ra lệnh nổ súng. B40 và AK tập trung quất ra đồng loạt rầm rầm nên chẳng thằng nào còn sống mà kịp bắn trả. Bọn địch ở tốp sau liền nằm ngay trên mặt đường mà bắn trả lại dữ dội nên chúng tôi cũng không thể xung phong ra mà thu súng. Nằm đấy cũng không ổn vì địa hình trống trải, chúng tôi phải rút ngay về bản, cứ lom khom ven đường đạp qua bãi tranh mà chạy. Pháo binh địch quả là lợi hại vì chúng tôi vừa về đến mấy cái nhà sàn là đạn pháo đã rót đến rồi. Chúng bắn rải từ đầu bản rồi chuyển làn sâu dần vào trong, đạn như đuổi theo sát nút chúng tôi vậy. Lại chúi xuống dưới mấy cái gầm nhà sàn. Lần này chúng dùng pháo lớn hơn hay sao ấy, nên nhà sàn trúng đạn là sập luôn. Hai B chúng tôi tản ra hai phía rìa bản. Mấy cái hầm đào hồi đêm trước không làm chúng tôi yên tâm vì nó mong manh quá nên chẳng ai chui xuống. Thế là cả bọn cứ chúi vào cái gầm nhà sàn nào to mà còn nguyên vẹn. Tôi cũng cảm thấy sợ, cứ bám theo anh Trịnh, rồi cả hai lao vào chỗ B trưởng Quân đang nấp. Anh ấy chửi rầm lên, bảo chúng mày tản ra ngay, muốn chết cả nút à. Nhưng giữa cái lúc đạn nổ rầm rầm như thế thì chạy đi đâu? Thôi, thà chết một đống còn hơn sống một người, chửi thì chửi, chúng tôi cũng cứ chúi vào. Cái cảm giác lúc đó hoang mang ghê sợ lắm, tưởng chết hết cả lũ đến nơi. Sau này chúng tôi có bị pháo bắn nhiều lần nhưng không hề giống cảm giác hôm ấy, vì đa phần là ở chốt có công sự chắc chắn, chết chỉ còn do số mà thôi.

               Hết đợt pháo, đại đội kiểm điểm quân số. Chỉ có một anh lính cũ ở B khác bị mảnh pháo vào bắp chân, còn B tôi không sao. Xem lại vũ khí thấy đạn hỏa lực bắn gần hết. Chiều tối, tất cả rút ra khỏi bản, về vị trí của 1 B bên ngoài cách xa bản tới năm trăm mét. Sau một ngày mệt rã rời, thế mà vẫn phải đào hầm hì hục cả đêm. Không còn cách nào khác. Căn hầm luôn là chiếc vỏ bọc như áo giáp và ấm áp che chở cho người lính nơi chiến trường.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 27 Tháng Ba, 2010, 02:15:04 pm


               Hôm sau, phía bản Phin yên ắng. Có lẽ những chỗ đã bắn nát rồi thì địch cũng bỏ, coi như đã xác định được khu vực có quân ta. Ta và địch đều có công tác trinh sát thăm dò nhau. Phía ta là những tốp trinh sát, còn bên địch là những toán thám báo. Bọn địch đóng quân thành các căn cứ công khai vì chúng lập tuyến và có máy bay và pháo binh yểm trợ sẵn sàng. Quân ta chủ yếu ở rừng bí mật, thay đổi vị trí đóng quân thường xuyên. Ngay cả ở tuyến trước, việc lập chốt tức là tạo trận địa công khai, nhưng cũng chỉ qua một hai trận, lộ là lại chuyển chốt ngay. Vì thế thám báo địch khó nắm tình hình đối phương hơn trinh sát ta. Nhưng nếu vị trí trú quân của ta, dù là vị trí tạm mà bị lộ thì ăn đủ bom pháo ngay.

               Sáng hôm ấy, chúng tôi tiếp tục củng cố hầm và làm công tác ngụy trang. Trinh sát tiểu đoàn bám địch báo về, địch tiếp tục đưa thêm quân từ trong Phù Chiêng ra khu Lào Ngam. Tại Phù Chiêng là căn cứ chính của GM41 của địch. Vùng Hạ Lào này còn có một trung đoàn cơ động chủ lực của địch nữa là GM42 và một số tiểu đoàn bảo vệ quanh Pắc-xế. Bọn Thái Lan cũng có một trung đoàn, trong đó tiểu đoàn 621 Thái lập căn cứ có công sự vững chắc ngay tại Lào Ngam, nằm về phía Nam đường 23. Mấy ngày qua chúng tôi chủ yếu đánh nhau với một tiểu đoàn Lào của cái GM41. Chúng nó đóng sâu trong Lào Ngam nhưng liên tục nống ra lập trận địa dã ngoại đánh chặn quân ta.

               Buổi chiều, B tôi được lệnh lùng sục trinh sát ra đường 231. Tiểu đội thằng Đức (Cầu Giấy) được cử đi, gồm 4 người, 3AK và 1B40. Trong đơn vị tôi, tất cả các loại hỏa lực như B40, M79 đều giao cho lính cũ nhiều kinh nghiệm sử dụng, chứ bọn tân binh chúng tôi mới vào thì chỉ có AK thôi. Thằng Đức được cử đi đầu. Thằng này trắng trẻo, to con và cao tới 1m67. Thế là cao lắm rồi vì lính tráng chúng tôi thời đó đa phần chỉ cao từ 1m58 tới 1m62 thôi, cho nên trong hàng quân thì bao giờ cái đầu của nó cũng nhô cao hơn hẳn lên. Cắp AK đi đầu mà thằng này cứ đứng thẳng người, bước thẳng tưng như đi chơi ở chỗ không người. Anh Pha A trưởng của nó quát bảo phải khom người cúi thấp xuống mà đi, chậm chậm và thăm dò chứ phưỡn người ra như thế khác nào khiêu khích địch. Lộ ra nó nện cho một phát chết ngoéo bây giờ. Quát bảo thế, thậm chí nắm đầu mà dúi xuống, nhưng chỉ được ba bước là nó lại đứng thẳng lưng lên mà đi. Vài lần như thế, cứ như là trêu ngươi lính cũ vậy. Cáu tiết quá nhưng không làm gì được, vì nó cứ giơ cái mạng sống của nó ra mà đi như thế chứ có phải nó chạy lùi đâu, mà nó cũng chẳng tỏ ra sợ sệt gì cả. Cuối cùng anh Pha đành phải đi đầu và tống nó xuống cuối đội hình. Có lẽ cái xương sống của thằng Đức không cong được chứ không phải nó muốn trêu ngươi ai. Sau này đánh nhau cũng thế, nó cứ thẳng lưng mà chạy, mà xung phong. Nửa năm sau khi ngoài Sa-ra-van, trong một trận đánh vận động, nó bị trúng một mảnh đạn cối, xuyên vào phổi và vẫn mắc ở trong đó tới giờ. (Bây giờ nó là thương binh, là doanh nghiệp tư nhân buôn bán thuốc tây ở Quận Cầu Giấy).

               Chiều hôm ấy tiểu đội anh Pha không phát hiện thấy địch. Cái trận địa dã ngoại ngoài bản Phin của bọn địch hôm trước cũng đã bỏ không. Chúng tôi lại trải qua một ngày không tác chiến.

               Hôm sau, tiểu đoàn tập trung C5 và C6 tổ chức lùng sục vũ trang sang hẳn khu Lào Ngam. Bây giờ đến lượt tôi đi đầu tiểu đội. Anh Trịnh bám sát ngay sau tôi để chỉ dẫn. Các A khác cũng bám ngay sau A tôi. ra đến gần đường 231, chúng tôi thận trọng thăm dò tình hình. Chỗ này rất nhiều cây lúp xúp, xen kẽ nhiều cây nhỏ chỉ độ bắp chân mọc thưa, tầm nhìn không xa lắm. Đi một đoạn, chúng tôi lại ngồi xuống quan sát qua các khe thân cây rồi mới đi tiếp. Càng đến gần vùng đường 231, nơi mà trinh sát bám địch đã cảnh báo, chúng tôi càng thận trọng. Đến nửa buổi sáng hôm ấy thì chúng tôi phát hiện thấy địch. Chúng nó cũng đào công sự dã ngoại, hầm không nắp và không có hàng rào. Chúng tôi bò sát vào đến cách độ vài chục mét. Đại đội ra lệnh giá hai khẩu cối 60, nện vào đó hơn chục trái rồi chúng tôi bắt đầu đánh. B40 tập trung bắn mạnh, rồi chúng tôi xung phong, vừa chạy vừa bắn AK. Địa hình thưa nên M79 bắn thẳng rất tốt. Bị đánh vỗ mặt, bọn địch vừa bắn trả, vừa rút. Chúng tôi chiếm được mấy cái công sự bên ngoài. Vì dã ngoại nên địch không đào giao thông hào. Theo kế hoạch thì chúng tôi sẽ vừa lợi dụng địa hình địa vật, vừa đánh lấn từ hầm này sang hầm khác của địch. Nhưng mới chỉ được một đoạn, vượt qua được mấy cái xác địch ở khu công sự ngoài thì chúng tôi bị chặn lại. Địch đã kịp tổ chức lại và điều quân từ phía sau lên. Hai khẩu trung liên Bar của địch quạt chéo cánh sẻ vào đội hình chúng tôi. A trưởng Soán của B4 bị một viên vào mặt văng mất hàm dưới làm một mũi tấn công khựng lại. Cùng lúc địch dùng M72 bắn lại dữ dội. Rồi cối 61, cối 81 của địch rót vào khu vực trận địa mù mịt. Súng đạn bản thân của chúng tôi có hạn, chưa tiến được bao nhiêu thì B40 đã gần hết đạn, chỉ còn trông chờ M79 và AK. Chúng tôi phải nằm bẹp lại và tản thưa ra tránh đạn cối. B40 đạn ít mà địch không tập trung thì tác dụng thấp, lại bị địch chú ý tập trung tiêu diệt vì chúng rất sợ B40. Có lẽ cả đại đội mấy chục tay súng chúng tôi cũng không thể tiêu diệt được cái đại đội này của địch. Đại đội ra lệnh bắn cối 60 chi viện và gọi cối 82 của tiểu đoàn. Cả trận địa cứ mù mịt cả lên.

               Một khẩu cối 60 của C tôi bắn được mấy trái thì gặp nạn. Có lẽ do liều ẩm, trái trước chưa ra khỏi nòng thì anh Đối đã thả trái sau. Hai trái cối đội đít nhau nổ ngay đầu nòng làm anh Đối và một anh nữa hy sinh. Khẩu cối vỡ toác nòng. Còn một khẩu cối 60 nữa bắn cầm canh cùng cối 82 của tiểu đoàn chi viện cho được độ hai chục trái. Chúng tôi không đủ sức đánh tiếp nữa nên rút lui. Bây giờ mới gay go. Cả một vùng cây thưa, rừng thấp rộng lớn mà chúng tôi phải băng qua không che nổi đạn pháo của địch rót tới. Kẻ địch mạnh và dư thừa về bom pháo. Động một tí là chúng gọi pháo. Bom pháo luôn là mối đe dọa kinh hoàng đối với chúng tôi sau mỗi trận đánh. Không rút nhanh, thoát ra được nhanh, kể cả khi ta đã làm chủ trận địa thì khả năng thương vong rất cao. Trên đường chúng tôi rút chạy về đến khu tạm trú ở Huội Chăm-Pi (chỗ đó có hầm chữ A vững chắc và chưa bị lộ). thêm 4 người nữa hy sinh về đạn pháo, 3 người bị thương. Thế là chỉ trong một trận đánh không lớn vào buổi sáng đại đội tôi đã hy sinh mất 6, bị thương 4 và chúng tôi cũng chỉ còn đủ sức khiêng vác tất cả về đến huội Chăm-pi. May là địch chỉ gọi pháo bắn chứ không tổ chức truy kích chúng tôi.

               Phía C5 cũng không hơn gì chúng tôi. Họ bị địch phát hiện và tấn công trước. Bên đó lại còn không được cối 82 của tiểu đoàn hỗ trợ. Thực chất tiểu đoàn có lẽ cũng định tổ chức lùng sục vũ trang, gặp đơn vị nhỏ của địch, đánh phủ đầu tiêu hao sinh lực của chúng thôi, không ngờ cả 2 C đều gặp lực lượng lớn của địch. Không kể bị thương, C5 cũng có 5 tử sĩ.

               Cả hai đại đội chúng tôi khiêng thương binh, tử sĩ kéo nhau vượt về bờ Bắc huội Chăm-pi, đến tập kết tạm tại khu vườn chuối. Bây giờ cũng đã giữa chiều rồi còn gì.

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hoi76 trong 28 Tháng Ba, 2010, 02:50:58 pm
Chào chú Trongc6 và các thành viên QSVN cháu là thành viên mới tham gia gia diễn đàn. Cháu rất đam mê lịch sử bi hùng của QDNDVN qua hồi ký của chú và các thành viên khác trong diễn đàn. Cháu sinh ra khi dân tộc ta vừa kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ thống nhất đất nước. Ký ức chiến tranh của cháu là qua lời kể của bố (bố cháu tham gia quân đội năm từ năm 1968 sau đó chuyển sang lái xe tại các mặt trận phía nam, chiến trường K, chiến trường Lào), rồi những năm khoảng 1984 đêm nằm chợt tỉnh giấc vì tiếng xe quân sự chạy rầm rập qua cửa (nhà cháu tại Hải Phòng nằm ngay trên trục đường Hải Phòng - Hà Nội cũ). Cháu còn nhớ những năm đó đã có lần mẹ cháu nhìn cháu và khóc "con ơi ... chiến tranh ... bộ đội ..." Khi cháu lớn lên thì đất nước đã rất đỗi thanh bình, tuy nhiên những gì mà chiến tranh để lại thì cháu vẫn có thể cảm nhận được : các chú thương binh chở về, các câu chuyện về bom đạn mất mát ..v.v.Cuộc hiện tại có thể thành công với người này hoặc còn khó khăn với người khác. Tuy nhiên khi đọc các trang hồi ký của các CCB người ta chợt có một khoảng lặng ở trong lòng và bỗng nhận ra rằng cuộc sống hiện tại thật tươi đẹp , thật hạnh phúc biết bao. Thưa các chú , các bác cháu rất yêu và khâm phục những người lính QDND Việt Nam. Cháu rất mong được đọc các trang hồi ký thấm đẫm sự chân thực của các CCB. Sau này con trai cháu lớn lên cháu cũng sẽ kể cho nó nghe một trang lịch sử hào hùng của dân tộc. Nhân dịp những ngày đầu năm mới chúc các CCB mạnh khỏe, thành đạt trong công việc hiện tại.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 29 Tháng Ba, 2010, 10:19:55 am
 Trung đoàn tôi đánh ngụy Lào , phỉ Vàng pao , lính Thái ở Xiêng khoảng , khi chạm BB mình lính nó hay chạy rồi kêu pháo ,mình khó diệt lại bị tổn thất nên hay dùng chiến thuật " Đón lõng ". Bộ phận đánh chính diện - xua đuổi _có khi ít nhưng bộ phận đón lõng thì nhiều vì phải phục kích ở nhiều ngả đường mình đoán địch chạy , do đó khi chạm địch nổ súng , địch chạy là bị rơi vào các ổ phục , địch  kêu pháo thì bộ phận đánh chính lui, nên ít tổn thất mà hiệu quả . Được cái lính thời đó chủ yếu  là các bác người Mông  ,thái , tày Tây bắc và các bác người Thanh ,Nghệ nên chuyện luồn rừng là chuyện nhỏ


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Tư, 2010, 01:02:57 pm
       Vừa nhớ đến Pleiku, định tìm topic "Từ Đức cơ đến chù Preat viahea" của đại trưởng trinh sát Võ Văn Hà mà không thấy cả chuỗi topic đó đâu cả. Độ này năm ngoái, bác VovanHa là điểm nóng của Box "Máu và hoa" cơ mà.

      Bác nào biết chùm topic đó dời đi đâu, chỉ giúp tôi với.
       Mà cũng lạ là đã lâu không hề thấy giáo Hà xuất hiện.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: yawningallday trong 01 Tháng Tư, 2010, 01:16:27 pm
Bị khóa nick rồi bác ạ, thông báo tại đây ạ
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=652.msg196618#msg196618


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: trung uy trong 02 Tháng Tư, 2010, 12:39:55 am
Em vừa thấy loáng thoáng xuất hiện ở đâu đó 1 bác nick mới vovanhoa...nghe hao hao...hihi nghi lắm...hình như ở topic của bác lixeta thì phải.
Mà bọn hậu sinh chúng em chỉ được đọc thông báo của admin, không rõ sự vụ thế nào...thế bác trongc6 cũng không biết ạ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Tư, 2010, 09:44:47 am
….
               Cả hai đại đội dồn cục lại khu vườn chuối, bây giờ mới giở cơm ra ăn vội. Cổ khô, chán chả muốn ăn.
   
           Thương binh được tập trung, vừa khiêng vừa dìu về ngay tuyến sau. Từ đây về đến trạm xá trung đoàn cũng phải bảy tám tiếng. Tiểu đoàn chỉ có một y sĩ và một y tá nên cũng chỉ sơ cứu được thôi. Mỗi C có 3 y tá đấy, nhưng cũng chẳng giải quyết được gì hơn. Tất cả tử sĩ được liệm trong vải dù trắng. Cũng phải có người khiêng về tuyến sau chứ, vì nghĩa trang của tiểu đoàn cũng phải đi xa tới dăm tiếng.
   
            Không thể để mất vị trí bờ huội Chăm-pi, trước khi trời tối, cả hai C5 và C6 lại phải sang giữ Nam huội Chăm-pi chặn địch. Tất cả 11 tử sĩ được xếp nằm trong vườn chuối, giao cho tôi ở lại canh ban đêm. Sáng mai sẽ có lực lượng của C7 ra khiêng về.
   
           (Trong trung đoàn tôi cũng có C25 gọi là C vận tải. Không biết quân số của họ là bao nhiêu, nhưng nhiệm vụ của họ chủ yếu là cùi gạo đạn và vận chuyển đồ đoàn của sở chỉ huy trung đoàn. Suốt thời gian chiến đấu ở E9b, tôi chưa bao giờ gặp họ đi cáng thương binh hay tử sĩ từ trận địa về bao giờ. Vì thế khi xem chuyện về Biên giới Tây Nam, tôi rất ngạc nhiên khi biết ở đó lính vận tải phải mang đạn ra tận trận địa cho bộ binh và nhận luôn nhiệm vụ cáng thương binh tử sĩ về).
   
           Lúc mới nhận nhiệm vụ một mình ở lại bãi chuối ban đêm trông tử sĩ, tôi chưa nhận thức được điều gì và chưa thấy sợ. Nhưng khi mọi người đi hết rồi, chỉ còn lại một mình với khẩu AK, một nắm cơm nếp và trời cứ tối dần thì tôi bắt đầu thấy sờ sợ. Cả cái vườn chuối rừng rộng lớn cây mọc đều nhau, trong đêm đen trông lờ mờ như những người đang đứng. Gió xào xạc, lá chuối phất phơ. Ở trong rừng chuối lạnh lẽo lắm chứ không ấm cúng như trong rừng già. Có mấy cái hầm chữ A đấy, nhưng cái nào cũng xâm xấp nước vì ở gần suối, nên không thể chui vào đó được. Trong đêm tối nhờ nhờ, dãy tử sĩ nằm nổi lên trắng toát, vẫn còn tanh mùi máu. Tôi cũng không phải là thằng sợ ma lắm vì ở nhà cũng rất hay nghịch ngợm, thường hay rủ bọn trẻ con ra bãi tha ma chơi đánh trận giả. Chơi chán thì dọa nhau rồi chạy. Trơ ra thì có khi còn ngủ quên cả ngoài đó vì trời mát, người nhà phải ra gọi về. Thế mà ở đây, đồng chí đồng đội mình nằm chứ ai, lại có khẩu AK lên đạn sẵn, thế mà vẫn thấy gai gai lành lạnh. Tôi không sợ địch vì biết chắc ở chỗ này cũng chẳng có ma nào mò tới. Bọn thám báo nó sục ở mé rừng già cơ, chứ chỗ này ngách cụt, chẳng ra thế trận gì cả thì chúng cũng chẳng màng. Có lẽ đơn vị phải cử tôi  trông vì sợ có con thú nào nó mò vào đây chăng. Tôi mới vào chiến trường, chuyện trò với các anh lính  cũ không được bao nhiêu, nên chẳng biết ở đây có hổ không. Nói dại chứ hổ nó mò vào thì tôi làm sao mà đánh lại được nó như ông Võ Tòng đánh hổ ở đồi Cảnh Dương trong Thủy hử. Tôi lại lan man nghĩ đến những con kỳ đà bới mộ ăn xác chết trong chuyện "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi. Đêm tối thế này nhìn không rõ mà có độ mấy con to như con cá sấu già sồn sột bò đến thì biết xử lý ra sao. Cứ nghĩ thế mà màn đêm xuống muộn lắm rồi tôi vẫn chưa lôi được gói cơm ra ăn.
   
             Chừng nửa đêm thì trời mưa. Nhẩm lại từ hôm tôi vào đại đội đến nay đã hơn hai tuần, đúng là mùa mưa rồi đấy mà tận hôm nay mới gặp mưa. Mưa khá to và dai dẳng suốt đêm. Tôi lấy tấm ni-lon ra quấn quanh người, bấm bụng lấy can đảm rồi rà một lượt đi quanh các tử sĩ. Mưa làm ướt hết tấm vải dù liệm xác, ướt hết cả tử sĩ, nhưng cũng chẳng có gì để che. Tôi đành quay về tìm một khóm chuối rậm rồi cứ để nguyên ni-lon quấn quanh người mà chui vào đó, ngồi co ro cho đỡ nước mưa và đỡ lạnh. Rồi cũng phải chén hết nắm cơm. Giá đây là căn hầm có rải cỏ tranh khô ráo thì tôi cũng đánh liều mà làm một giấc cho đỡ mệt. Nhưng cái bụi chuối này chỉ che được mưa tạt trực tiếp thôi, chứ không có hơi ấm. Lúc ấy tôi chưa nghiện thuốc lá, chưa có cái bọc thuốc rê như của lính cũ nên cũng chẳng có gì giúp làm mình ấm hơn. Không ngủ được và cứ ngồi co ro như thế nhìn ra ngoài chỗ để tử sĩ.
   
           Trong số các anh nằm kia, tôi cũng chỉ mới biết một hai người. Cũng chưa hiểu rõ tính tình các anh, quê quán nơi nào. Các anh vào lâu chưa, đánh bao nhiêu trận rồi. Bây giờ các anh ấy đã sớm trở về lòng đất. Cuộc đời đã khép lại, món nợ trần gian đã hết. Đã ai có vợ con gì chưa. Bao giờ thì gia đình các anh ấy nhận giấy báo tử. Tôi cứ nghĩ lan man rất dở hơi như thế mãi. Cái điệp khúc này dễ làm nao núng lòng người, dễ dẫn người ta đến con đường đảo ngũ lắm. Trong bộ đội, người ta yêu cầu sinh hoạt thường xuyên, dù ở tuyến trước hay tuyến sau, chính là để lính ta hướng vào hoạt động tập thể, giảm bớt cái khoảng thời gian suy nghĩ vẫn vơ dễ làm cho người ta sinh ra tư tưởng. Thế mà bây giờ tôi ngồi đây cả đêm mà nghĩ lung tung như thế thì thật không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi thoáng nghĩ đến con đường hành quân trên Trường Sơn. Đường vào gian nan một thì đường ra chắc phải khó gấp đôi. Nhưng tôi đã quyết ra đi không quay gót rồi mà. Nếu không đỏ ngực thì phải xanh cỏ thôi. Con đường chinh chiến phía trước còn dài và mịt mù lắm. Đã ai dám hẹn được ngày quay trở lại. Trong khó khăn, đói rét và cơ cực thì còn quyết tâm là mình phải sống, phải vượt qua chứ đời lính chiến thì đố ai dám quả quyết là mình phải sống. Chẳng ai đoán trước được số phận con người. Cứ xác định là rồi đến lúc nào cũng tới lượt mình ngã xuống thì còn thấy nhẹ nhàng và thanh thản hơn. Điều an ủi có thể làm yên lòng là mình đã thay cho gia đình để góp vào sự hy sinh chung của dân tộc trong cuộc kháng chiến này mà gia đình nào cũng có nghĩa vụ đóng góp.
   
            Cuối cùng trong cái mưa lạnh ấy, về gần sáng tôi cũng chợp mắt được một lúc trong cái thư thế co ro trong bụi chuối. Ngủ đấy nhưng cũng tỉnh rất nhanh khi có tiếng động trên đầu dốc. Trời đã tảng sáng nhưng vẫn nhòa trong cơn mưa. Một đoàn lính của C7 theo sau một người của C tôi đi tới. Tất cả nhanh chóng xếp các tử sĩ vào cáng rồi khiêng đi. Mưa to, đường trơn thế này thì chắc cũng phải đến chiều mới tới nghĩa trang. Tôi trở về bên kia huội Chăm-pi với đại đội ngay sáng hôm ấy.
   
             Buổi chiều, tôi lăn ra sốt. Cơn sốt rét rừng đầu tiên. Thoạt đầu là thấy mệt mỏi, đau đầu. Rồi lạnh, cái lạnh như từ trong người chui ra. Tôi chúi xuống cái hầm chữa A xếp đầy cỏ tranh nằm sóng xoài. Đến khi hết rét thì người và đầu nóng bừng bừng, rồi thiếp đi, miên man không biết đến thời gian. Dọc đường hành quân trên Trường Sơn, chúng tôi được phát mỗi người một cái lọ nhựa có 50 viên Ni-va-quin. Mỗi tuần làm một viên để phòng chống. Có mấy thằng bị sốt dọc đường đã phải dùng theo chế độ 4 viên một ngày. Bây giờ đến lượt tôi. Lấy ngay lọ thuốc của mình chứ y tá chưa có cho thuốc men gì. Đến tối anh Trịnh đưa cho nắm cơm nếp, thấy khô và đắng lắm. Giả dụ có muốn ăn cháo thì ở đây cũng chẳng ai nấu cho mà ăn. Chỉ muốn nằm thôi vì nhỏm dậy là thấy chóng mặt vô cùng. Tôi cứ ốm vạ vật như thế mấy hôm, mặc cho đơn vị cứ thay nhau lên chốt. Nhưng hình như cũng chẳng có đánh nhau. Sau lưng nước huội Chăm-pi dâng cao do nước lũ đổ về, ngăn cách hẳn đơn vị với tuyến sau.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nghiacdt trong 05 Tháng Tư, 2010, 05:53:18 am
Kính chào chú Trọng
Cháu công tác trong quân đội 15 năm. Ngay từ khi bắt đầu vào QD. Khi được học về chiến thuật ở năm đầu tiên, cháu đã từng nghĩ, chiến đấu, chiến tranh đơn giản vậy sao
Và nghĩ rằng, những kiến thức về kỹ thuật chiến đấu, về cuộc sống của người lính trong chiến tranh, thực tế chiến tranh như thế nào, nếu không có ai truyền lại, ghi lại, viết ra. Thì thế hệ này qua thế hệ khác, các thế hệ sau, càng ngày càng xa lạ với lịch sử dân tộc, hiểu không đúng về lịch sử dân tộc, hoặc hiểu một cách chung chung, như cháu đã từng hiểu trước khi đọc được những dòng chú và các chú, các anh khác viết ra trong diễn đàn này.
Mặc dù không được học sâu toàn diện về quân sự, nhưng những gì được học qua trường đại học, qua nhìn nhận về các anh chỉ huy  ở năm đầu tiên, qua cuộc sống quân ngũ 15 năm, cháu vẫn thấy, kiến thức về chiến tranh, về quân sự, được truyền đạt không đủ để một người lính bình thường có thể chủ động trong chiến tranh.
Cháu cảm thấy, kiến thức quốc phòng, cách truyền đạt trong lịch sử, trong văn học chiến tranh, trong nhà trường quân sự, trong quân đội, đã bị lược bỏ nhiều yếu tố chân thực.
Qua đọc được những hồi ức của chú và các chú khác trong quansuvn.net, cháu thấy hiểu đúng, rõ ràng về cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, đánh Trung Quốc.
Và thấy đây là những thông tin chân thực nhất, về một giai đoạn lịch sử không thể nào quên. Thấy cuộc chiến tranh đúng là như vậy. Đó là cuộc đời.
Mảng đề tài chiến tranh Việt Nam, bây giờ, các chú mà không viết, thì lớp sau, hay các nhà văn, nhà viết sử bây giờ, chỉ viết như kiểu mô phỏng và thêm thắt, suy luận, không chân thực.
Chắc sẽ có ai đó suy nghĩ rằng, nếu thấy máu chảy, thấy hy sinh, hiểu quá sâu về chiến tranh, thì còn ai giám hy sinh.
Nhưng, các chú, các chú cũng đã chứng kiến, đã trải qua những khó khăn, các chú vấn “dấn thân”.
Riêng cháu, thế hệ cháu, và các lớp sau nữa, cháu nghĩ, vẫn sẽ suy nghĩ và hành động như các chú đã trải qua
Bọn cháu sống trong hòa bình, nhưng vẫn là người lính, vẫn thực hiện các nhiệm vụ, cũng có nhiều khó khăn, không thể bằng các chú, các anh lớp trước. Nhưng qua “cân, đong, đo, đếm” về những người lính thời bình. Cháu tin tưởng ỏ suy nghĩ của mình
Cháu không tô hồng, không lý tưởng hóa, không duy ý chí. Nhưng cháu tin là thế.
Một giai đoạn lịch sử không thể nào quên.
Chân thành cảm ơn chú đã viết lên những hồi ức chân thực.
Rất hy vọng, sẽ có dịp được gặp lại chú và các chú, các anh trong hội QKTD và trong nhóm Cựu chiến binh.
Nếu các chú, các anh, cần hỗ trợ về số hóa, về tin học… cháu xin sẵn sàng
Chúc chú giữ được sức khỏe và nhiệt huyết.
Mong chú tiếp tục vững tay máy vi tính, tiếp tục cho cháu, và những người khác, được biết những hồi ức chân thực không thể nào quên.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: t2ncdn trong 05 Tháng Tư, 2010, 07:56:39 pm
Rất chia sẻ với đồng chí nghiacdt. Nnăm 1992, khi mình đang học ở trường SQLQ I, trong buổi giới thiệu về cách mắc màn khi nằm võng trong lúc dã ngoại, đ/c trung đội trưởng khung kiêm giáo viên hướng dẫn anh em vắt màn qua dây đỉnh võng để hở 2 đầu. Nói chung là mọi người đều thấy không hợp lý nhưng có lẽ nghĩ rằng chả bao giờ dùng đến nên nên không thắc mắc gì. Mình là loại hiếu sự nên có hỏi như vậy thì mắc màn có tác dụng gì nếu như muỗi vẫn ra vào vô tư và được giải thích là trong chiến đấu việc bị muỗi đốt thì có ăn thua gì (chống chế một cách vụng về). Không thỏa mãn với cách giải thích như vậy lúc có dịp mình hỏi cụ già, cụ là lính hết chiến tranh phục viên với quân hàm hạ sĩ quan thì được hướng dẫn cách mắc màn hết sức thỏa đáng. Năm 1992, quân đội ta mới bước ra khỏi cuộc chiến cuối cùng thời gian không xa. Từ ví dụ nhỏ nêu trên mình thấy có rất nhiều kinh nghiệm chiến tranh hết sức quý báu giúp cho tiết kiệm xương máu người lính đã nhanh chóng bị lãng quên không được truyền lại cho thế hệ sau (riêng sốt rét cũng đã gây tổn thất không nhỏ làm mất sức chiến đấu của bộ đội). trong trường họp tình huống chiến tranh xảy ra nhiều việc lại phải bắt đầu lại từ đầu. Giá như có điều kiện tập hợp ghi chép lại những điều tưởng nư nhỏ nhặt này thành các tài liệu để truyền lại các thế hệ sau thì rất quý báu. Việc này ở quân đội nhiều nước đã làm rất tốt, trong quá trình làm việc mình đã có điều kiện tiếp xúc với một số tài liệu hướng dẫn kiểu như sổ tay dành cho chiến sĩ của quân đội nước ngoài thấy rất tiếc là quân đội ta đã bỏ phí một tài nguyên trí tuệ lớn của các lớp đàn anh đi trước.
Vĩ thanh: Sau này không nhớ cụ thể lúc nào mình có đọc một bài báo trên báo QDND nói về việc một đơn vị của Quân Đoàn 3 luyện tập hành quân dã ngoại gặp mưa tất cả đều bị ướt mặc dù được trang bị đầy đủ tăng võng, đơn giản là từ lính đến quan đều không biết cách mắc võng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Hai Ruộng trong 05 Tháng Tư, 2010, 08:32:10 pm
Cháu không tô hồng, không lý tưởng hóa, không duy ý chí. Nhưng cháu tin là thế.
Một giai đoạn lịch sử không thể nào quên.

 Các cháu suy nghĩ như thế là rất đúng . Nếu cái gì ta cũng tô hồng , đến khi bất chợt chúng ta gặp một việc gì đó nó không hồng thì ta dễ mất phương hướng lắm . Việc gì cũng cần chúng ta phải bình tỉnh , suy nghĩ như thế nào cho nó hợp với khoa học , thì lúc đó chung ta mới vững niềm tin .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: haanh trong 05 Tháng Tư, 2010, 09:48:45 pm
hehe nghe anh bạn nghiacdt nói mà mát ruột quá  ;D anh em CCB tụi tui tham gia kể những câu chuyện thật của lính , thật đến trần trụi và thậm chí bị cho là dung tục cũng không ngoài mục đích cho lớp đàn em chắc lọc được tí gì đó kiến thức thực tế mà giáo trình không thể cung cấp đủ . Những em làm công tác chỉ huy có thể qua nhựng câu chuyện trần trụi , dung tục này mà hiểu được tâm và cả sinh lý của chiến sĩ trong mọi điều kiện hoàn cảnh , biết được " chiêu " của chiến sĩ để " bắt bài " cho dễ  ;D Đùa tí thôi chứ hiểu được lính thì chỉ huy rất thuận lợi .
Kinh nghiệm chiến trường phải đổi bằng máu , nếu thế hệ đàn em học được gì đó thì đúng là máu xương của những đồng đội chúng tôi đổ ra cũng không uổng phí .
Cám ơn bạn nghiacdt nhiều lắm .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 05 Tháng Tư, 2010, 10:31:23 pm


               Hôm sau, phía bản Phin yên ắng. Có lẽ những chỗ đã bắn nát rồi thì địch cũng bỏ, coi như đã xác định được khu vực có quân ta. Ta và địch đều có công tác trinh sát thăm dò nhau. Phía ta là những tốp trinh sát, còn bên địch là những toán thám báo. Bọn địch đóng quân thành các căn cứ công khai vì chúng lập tuyến và có máy bay và pháo binh yểm trợ sẵn sàng. Quân ta chủ yếu ở rừng bí mật, thay đổi vị trí đóng quân thường xuyên. Ngay cả ở tuyến trước, việc lập chốt tức là tạo trận địa công khai, nhưng cũng chỉ qua một hai trận, lộ là lại chuyển chốt ngay. Vì thế thám báo địch khó nắm tình hình đối phương hơn trinh sát ta. Nhưng nếu vị trí trú quân của ta, dù là vị trí tạm mà bị lộ thì ăn đủ bom pháo ngay.

               Sáng hôm ấy, chúng tôi tiếp tục củng cố hầm và làm công tác ngụy trang. Trinh sát tiểu đoàn bám địch báo về, địch tiếp tục đưa thêm quân từ trong Phù Chiêng ra khu Lào Ngam. Tại Phù Chiêng là căn cứ chính của GM41 của địch. Vùng Hạ Lào này còn có một trung đoàn cơ động chủ lực của địch nữa là GM42 và một số tiểu đoàn bảo vệ quanh Pắc-xế. Bọn Thái Lan cũng có một trung đoàn, trong đó tiểu đoàn 621 Thái lập căn cứ có công sự vững chắc ngay tại Lào Ngam, nằm về phía Nam đường 23. Mấy ngày qua chúng tôi chủ yếu đánh nhau với một tiểu đoàn Lào của cái GM41. Chúng nó đóng sâu trong Lào Ngam nhưng liên tục nống ra lập trận địa dã ngoại đánh chặn quân ta.

               Buổi chiều, B tôi được lệnh lùng sục trinh sát ra đường 231. Tiểu đội thằng Đức (Cầu Giấy) được cử đi, gồm 4 người, 3AK và 1B40. Trong đơn vị tôi, tất cả các loại hỏa lực như B40, M79 đều giao cho lính cũ nhiều kinh nghiệm sử dụng, chứ bọn tân binh chúng tôi mới vào thì chỉ có AK thôi. Thằng Đức được cử đi đầu. Thằng này trắng trẻo, to con và cao tới 1m67. Thế là cao lắm rồi vì lính tráng chúng tôi thời đó đa phần chỉ cao từ 1m58 tới 1m62 thôi, cho nên trong hàng quân thì bao giờ cái đầu của nó cũng nhô cao hơn hẳn lên. Cắp AK đi đầu mà thằng này cứ đứng thẳng người, bước thẳng tưng như đi chơi ở chỗ không người. Anh Pha A trưởng của nó quát bảo phải khom người cúi thấp xuống mà đi, chậm chậm và thăm dò chứ phưỡn người ra như thế khác nào khiêu khích địch. Lộ ra nó nện cho một phát chết ngoéo bây giờ. Quát bảo thế, thậm chí nắm đầu mà dúi xuống, nhưng chỉ được ba bước là nó lại đứng thẳng lưng lên mà đi. Vài lần như thế, cứ như là trêu ngươi lính cũ vậy. Cáu tiết quá nhưng không làm gì được, vì nó cứ giơ cái mạng sống của nó ra mà đi như thế chứ có phải nó chạy lùi đâu, mà nó cũng chẳng tỏ ra sợ sệt gì cả. Cuối cùng anh Pha đành phải đi đầu và tống nó xuống cuối đội hình. Có lẽ cái xương sống của thằng Đức không cong được chứ không phải nó muốn trêu ngươi ai. Sau này đánh nhau cũng thế, nó cứ thẳng lưng mà chạy, mà xung phong. Nửa năm sau khi ngoài Sa-ra-van, trong một trận đánh vận động, nó bị trúng một mảnh đạn cối, xuyên vào phổi và vẫn mắc ở trong đó tới giờ. (Bây giờ nó là thương binh, là doanh nghiệp tư nhân buôn bán thuốc tây ở Quận Cầu Giấy).

               Chiều hôm ấy tiểu đội anh Pha không phát hiện thấy địch. Cái trận địa dã ngoại ngoài bản Phin của bọn địch hôm trước cũng đã bỏ không. Chúng tôi lại trải qua một ngày không tác chiến.

               Hôm sau, tiểu đoàn tập trung C5 và C6 tổ chức lùng sục vũ trang sang hẳn khu Lào Ngam. Bây giờ đến lượt tôi đi đầu tiểu đội. Anh Trịnh bám sát ngay sau tôi để chỉ dẫn. Các A khác cũng bám ngay sau A tôi. ra đến gần đường 231, chúng tôi thận trọng thăm dò tình hình. Chỗ này rất nhiều cây lúp xúp, xen kẽ nhiều cây nhỏ chỉ độ bắp chân mọc thưa, tầm nhìn không xa lắm. Đi một đoạn, chúng tôi lại ngồi xuống quan sát qua các khe thân cây rồi mới đi tiếp. Càng đến gần vùng đường 231, nơi mà trinh sát bám địch đã cảnh báo, chúng tôi càng thận trọng. Đến nửa buổi sáng hôm ấy thì chúng tôi phát hiện thấy địch. Chúng nó cũng đào công sự dã ngoại, hầm không nắp và không có hàng rào. Chúng tôi bò sát vào đến cách độ vài chục mét. Đại đội ra lệnh giá hai khẩu cối 60, nện vào đó hơn chục trái rồi chúng tôi bắt đầu đánh. B40 tập trung bắn mạnh, rồi chúng tôi xung phong, vừa chạy vừa bắn AK. Địa hình thưa nên M79 bắn thẳng rất tốt. Bị đánh vỗ mặt, bọn địch vừa bắn trả, vừa rút. Chúng tôi chiếm được mấy cái công sự bên ngoài. Vì dã ngoại nên địch không đào giao thông hào. Theo kế hoạch thì chúng tôi sẽ vừa lợi dụng địa hình địa vật, vừa đánh lấn từ hầm này sang hầm khác của địch. Nhưng mới chỉ được một đoạn, vượt qua được mấy cái xác địch ở khu công sự ngoài thì chúng tôi bị chặn lại. Địch đã kịp tổ chức lại và điều quân từ phía sau lên. Hai khẩu trung liên Bar của địch quạt chéo cánh sẻ vào đội hình chúng tôi. A trưởng Soán của B4 bị một viên vào mặt văng mất hàm dưới làm một mũi tấn công khựng lại. Cùng lúc địch dùng M72 bắn lại dữ dội. Rồi cối 61, cối 81 của địch rót vào khu vực trận địa mù mịt. Súng đạn bản thân của chúng tôi có hạn, chưa tiến được bao nhiêu thì B40 đã gần hết đạn, chỉ còn trông chờ M79 và AK. Chúng tôi phải nằm bẹp lại và tản thưa ra tránh đạn cối. B40 đạn ít mà địch không tập trung thì tác dụng thấp, lại bị địch chú ý tập trung tiêu diệt vì chúng rất sợ B40. Có lẽ cả đại đội mấy chục tay súng chúng tôi cũng không thể tiêu diệt được cái đại đội này của địch. Đại đội ra lệnh bắn cối 60 chi viện và gọi cối 82 của tiểu đoàn. Cả trận địa cứ mù mịt cả lên.

               Một khẩu cối 60 của C tôi bắn được mấy trái thì gặp nạn. Có lẽ do liều ẩm, trái trước chưa ra khỏi nòng thì anh Đối đã thả trái sau. Hai trái cối đội đít nhau nổ ngay đầu nòng làm anh Đối và một anh nữa hy sinh. Khẩu cối vỡ toác nòng. Còn một khẩu cối 60 nữa bắn cầm canh cùng cối 82 của tiểu đoàn chi viện cho được độ hai chục trái. Chúng tôi không đủ sức đánh tiếp nữa nên rút lui. Bây giờ mới gay go. Cả một vùng cây thưa, rừng thấp rộng lớn mà chúng tôi phải băng qua không che nổi đạn pháo của địch rót tới. Kẻ địch mạnh và dư thừa về bom pháo. Động một tí là chúng gọi pháo. Bom pháo luôn là mối đe dọa kinh hoàng đối với chúng tôi sau mỗi trận đánh. Không rút nhanh, thoát ra được nhanh, kể cả khi ta đã làm chủ trận địa thì khả năng thương vong rất cao. Trên đường chúng tôi rút chạy về đến khu tạm trú ở Huội Chăm-Pi (chỗ đó có hầm chữ A vững chắc và chưa bị lộ). thêm 4 người nữa hy sinh về đạn pháo, 3 người bị thương. Thế là chỉ trong một trận đánh không lớn vào buổi sáng đại đội tôi đã hy sinh mất 6, bị thương 4 và chúng tôi cũng chỉ còn đủ sức khiêng vác tất cả về đến huội Chăm-pi. May là địch chỉ gọi pháo bắn chứ không tổ chức truy kích chúng tôi.

               Phía C5 cũng không hơn gì chúng tôi. Họ bị địch phát hiện và tấn công trước. Bên đó lại còn không được cối 82 của tiểu đoàn hỗ trợ. Thực chất tiểu đoàn có lẽ cũng định tổ chức lùng sục vũ trang, gặp đơn vị nhỏ của địch, đánh phủ đầu tiêu hao sinh lực của chúng thôi, không ngờ cả 2 C đều gặp lực lượng lớn của địch. Không kể bị thương, C5 cũng có 5 tử sĩ.

               Cả hai đại đội chúng tôi khiêng thương binh, tử sĩ kéo nhau vượt về bờ Bắc huội Chăm-pi, đến tập kết tạm tại khu vườn chuối. Bây giờ cũng đã giữa chiều rồi còn gì.

….


Bản Phin - Bản Soan (?) - Lao Ngam - Huoi Champi



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trên Lầu trong 05 Tháng Tư, 2010, 11:57:01 pm
Rất chia sẻ với đồng chí nghiacdt. Nnăm 1992, khi mình đang học ở trường SQLQ I, trong buổi giới thiệu về cách mắc màn khi nằm võng trong lúc dã ngoại, đ/c trung đội trưởng khung kiêm giáo viên hướng dẫn anh em vắt màn qua dây đỉnh võng để hở 2 đầu. Nói chung là mọi người đều thấy không hợp lý nhưng có lẽ nghĩ rằng chả bao giờ dùng đến nên nên không thắc mắc gì. Mình là loại hiếu sự nên có hỏi như vậy thì mắc màn có tác dụng gì nếu như muỗi vẫn ra vào vô tư và được giải thích là trong chiến đấu việc bị muỗi đốt thì có ăn thua gì (chống chế một cách vụng về). Không thỏa mãn với cách giải thích như vậy lúc có dịp mình hỏi cụ già, cụ là lính hết chiến tranh phục viên với quân hàm hạ sĩ quan thì được hướng dẫn cách mắc màn hết sức thỏa đáng. Năm 1992, quân đội ta mới bước ra khỏi cuộc chiến cuối cùng thời gian không xa. Từ ví dụ nhỏ nêu trên mình thấy có rất nhiều kinh nghiệm chiến tranh hết sức quý báu giúp cho tiết kiệm xương máu người lính đã nhanh chóng bị lãng quên không được truyền lại cho thế hệ sau (riêng sốt rét cũng đã gây tổn thất không nhỏ làm mất sức chiến đấu của bộ đội). trong trường họp tình huống chiến tranh xảy ra nhiều việc lại phải bắt đầu lại từ đầu. Giá như có điều kiện tập hợp ghi chép lại những điều tưởng nư nhỏ nhặt này thành các tài liệu để truyền lại các thế hệ sau thì rất quý báu. Việc này ở quân đội nhiều nước đã làm rất tốt, trong quá trình làm việc mình đã có điều kiện tiếp xúc với một số tài liệu hướng dẫn kiểu như sổ tay dành cho chiến sĩ của quân đội nước ngoài thấy rất tiếc là quân đội ta đã bỏ phí một tài nguyên trí tuệ lớn của các lớp đàn anh đi trước.
Vĩ thanh: Sau này không nhớ cụ thể lúc nào mình có đọc một bài báo trên báo QDND nói về việc một đơn vị của Quân Đoàn 3 luyện tập hành quân dã ngoại gặp mưa tất cả đều bị ướt mặc dù được trang bị đầy đủ tăng võng, đơn giản là từ lính đến quan đều không biết cách mắc võng.

Không phải đâu,
Sách vở truyền đạt kinh nghiệm của quân ta thì vô khối ... các loại sổ tay không thiếu. Chẳng qua là các bác học sĩ quan cấp phân đội bây giờ chịu nhiều áp lực quá và cũng chả có thời gian và thói quen vào thư viện lục sách nữa!



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh moi trong 06 Tháng Tư, 2010, 06:24:08 am
  Giá như ai cũng hiểu được như bạn nghiacdt thì tốt biết bao , nhất là cấp chỉ huy . Nhớ lại thời huấn luyện , khi đêm có báo động chiến đấu là lính mình cứ cuống cuồng làm thằng Hùng "sớm nắng chiều mưa" A Tr được dịp chửi bới ... mà cái việc làm chậm nhất là đi giày , vì dây hay bị tuột khỏi lỗ xỏ . Vậy mà qua 1 CCB bên K (thăm em ) chỉ dẫn , chúng tôi biết cách xỏ dây giày mà không bao giờ bị tuột .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 06 Tháng Tư, 2010, 07:28:44 am

Vĩ thanh: Sau này không nhớ cụ thể lúc nào mình có đọc một bài báo trên báo QDND nói về việc một đơn vị của Quân Đoàn 3 luyện tập hành quân dã ngoại gặp mưa tất cả đều bị ướt mặc dù được trang bị đầy đủ tăng võng, đơn giản là từ lính đến quan đều không biết cách mắc võng.
Muốn không bị ướt phải làm cọc phụ, có thể nơi mắc võng là rừng của dân lính không dám chặt phá như trước kia.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Hai Ruộng trong 06 Tháng Tư, 2010, 01:24:26 pm
 Để khỏi phải chặt cây của dân và nhanh chóng khi mắc võng , mà nước mưa không chảy vào võng , mình đã đề nghị HẬU CẦN  chế tạo thêm hai cái khoen xâu vào nhau như mắc xít của dây lòi tói ( dây chuyền đeo cổ). Một đầu cột vào võng , một đầu cột vào dây để cột vào cây , Như thế không bao giờ hai vòng tròn cùng nằm trong một mặt phẳng và nước mưa không thể nào chảy vào võng được , vã lại mỗi đầu chỉ cần hai vòng thép cọng 5 ly , vòng tròn đường kính 50 ly , thì anh em chiến sỹ khmang nặng hơn bao nhiêu . Anh em trên mạng khen là sáng kiến hay , nhưng không biết Hậu Cần có nghe không . Hay là chỉ lo cải tiến quân phục , thì kiếm tiền Nhà Nước dễ hơn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 06 Tháng Tư, 2010, 01:33:07 pm
Để khỏi phải chặt cây của dân và nhanh chóng khi mắc võng , mà nước mưa không chảy vào võng , mình đã đề nghị HẬU CẦN  chế tạo thêm hai cái khoen xâu vào nhau như mắc xít của dây lòi tói ( dây chuyền đeo cổ). Một đầu cột vào võng , một đầu cột vào dây để cột vào cây , Như thế không bao giờ hai vòng tròn cùng nằm trong một mặt phẳng và nước mưa không thể nào chảy vào võng được , vã lại mỗi đầu chỉ cần hai vòng thép cọng 5 ly , vòng tròn đường kính 50 ly , thì anh em chiến sỹ khmang nặng hơn bao nhiêu . Anh em trên mạng khen là sáng kiến hay , nhưng không biết Hậu Cần có nghe không . Hay là chỉ lo cải tiến quân phục , thì kiếm tiền Nhà Nước dễ hơn.
Có lý đấy bác Hai.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 06 Tháng Tư, 2010, 03:03:48 pm
Cảm ơn bác RongXanh:
Bản đồ của bác đúng là khu vực Lào Ngam và Bản Phin, Bản Soan đấy.
Phía bờ Bắc Huội Chăm pi địa hình dốc, rừng rậm, còn bờ Nam chỉ có sát suối là dốc. Ra đến mấy cái Bản và đường 231 thì khá bằng phẳng và rộng, rừng thưa có nhiều cây xúp xúp.
Mong được bác chỉ dẫn tiếp qua bản đồ con đường hành quân.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: rongxanh trong 06 Tháng Tư, 2010, 08:35:36 pm

Bản đồ của bác đúng là khu vực Lào Ngam và Bản Phin, Bản Soan đấy.
Phía bờ Bắc Huội Chăm pi địa hình dốc, rừng rậm, còn bờ Nam chỉ có sát suối là dốc. Ra đến mấy cái Bản và đường 231 thì khá bằng phẳng và rộng, rừng thưa có nhiều cây xúp xúp.
Mong được bác chỉ dẫn tiếp qua bản đồ con đường hành quân.

Chắc là các bác ở bờ Bắc Huoi Champi đánh xuống.

Bác cứ nêu địa danh, để em thử tìm bản đồ cho bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: T54b trong 07 Tháng Tư, 2010, 05:51:46 am
Qua đọc được những hồi ức của chú và các chú khác trong quansuvn.net, cháu thấy hiểu đúng, rõ ràng về cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, đánh Trung Quốc.
Và thấy đây là những thông tin chân thực nhất, về một giai đoạn lịch sử không thể nào quên. Thấy cuộc chiến tranh đúng là như vậy. Đó là cuộc đời.
Mảng đề tài chiến tranh Việt Nam, bây giờ, các chú mà không viết, thì lớp sau, hay các nhà văn, nhà viết sử bây giờ, chỉ viết như kiểu mô phỏng và thêm thắt, suy luận, không chân thực.
Chắc sẽ có ai đó suy nghĩ rằng, nếu thấy máu chảy, thấy hy sinh, hiểu quá sâu về chiến tranh, thì còn ai giám hy sinh.
Nhưng, các chú, các chú cũng đã chứng kiến, đã trải qua những khó khăn, các chú vấn “dấn thân”.

@nghiacdt:

Dù sao cũng thấy vui vì sự đồng cảm của bạn vói những CCB trong QSVN.
Đúng là những câu chuyện các CCB kể rất chân thực bạn ạ. Chuyện mỗi người lính trên chiến trường là một chi tiết của bức tranh lịch sử tổng thể. Thiếu thì không được mà để cho đủ thì liệu có dễ. Trong các cuộc chiến tranh có bao nhiêu người lính, sẽ viết như thế nào, viết tất cả ư. Tôi nghĩ những chiến sĩ Việt Nam thật tuyệt vời khi họ đã chiến đấu hi sinh và khiêm tốn khi kể về mình. QSVN chỉ mới có sự tham gia rất ít, rất ít trong hàng vạn người lính đã từng tham gia chiến đấu.
KHông phải sợ viết hết những gian khổ hi sinh sẽ làm cho những thế hệ sau không dám hi sinh đâu bạn.Lịch sử dân tộc mình thế nào, bạn, tôi và các thế hệ đều tự hào kia mà.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Tư, 2010, 11:08:28 am
….
              Sốt rét là một loại bệnh đặc biệt trong các loại bệnh. Lúc ở nhà, Hà Nội đã có dịch sốt xuất huyết cũng rất đáng sợ. Vô tình uống thuốc hạ sốt để cơ thể bị hạ áp hay xuất huyết nội là rất dễ đi tong. Bây giờ vào chiến trường thì biết được sốt rét thế nào. Người ta bảo sốt rét là thứ bệnh đặc thù của lính Trường Sơn. Ai chưa từng sốt rét, chưa được công nhận là lính Trường Sơn. Trừ các anh bị sốt rét ác tính đa phần nằm lại rừng già không nói làm gì, còn ai cũng bị sốt rét và không phải chỉ một lần. Sốt rét có thể nóng lên đến 42 độ C mà không chết. Lúc sốt thì các khớp xương rã rời, ăn gì cũng đắng miệng. Có thuốc uống thì tốt, mà không có thuốc uống thì cứ vật vã độ dăm ba ngày cũng tự nhiên khỏi (có điều khi đó cái lá lách lại bị yếu đi một tí). Khỏi rồi thì thèm ăn, không có mà ăn thôi chứ có đủ thì khi đó lính dám ăn thi với Trạng ăn lắm.

               Tôi cũng không phải ngoại lệ. Vật vã ba ngày rồi thì tôi cũng có thể vác súng ra ngồi chốt đánh nhau được.

               Mùa mưa đã đến thật rồi. Bây giờ thì không còn có ngày nắng to nữa. Ngày nào gọi là không mưa thì bầu trời cũng u ám, còn đa phần là mưa. Mưa ở đây không giống mưa rào, cũng chẳng phải mưa bão như ngoài Bắc. Chẳng cần có gió thổi giật ầm ầm đổ cây cối, nhưng trời cứ mưa liên miên, lúc to lúc bé, rất dai dẳng. Lúc này mới thấy tác dụng to lớn của tấm ni-lon, không có nó thì gay. Mặc dù quần áo lúc nào cũng ẩm, gấu quần và tay áo luôn ướt, nhưng về đêm co ro một lúc thì nó cũng khô khô do hơi ấm của mỉnh nhả ra. Nếu lúc nào cũng ướt sũng chắc cảm lạnh mà chết, dù rằng khi đó đang là sức trai mười tám đôi mươi. Các căn hầm chữ A làm trên triền dốc đều được chúng tôi làm mái che cỏ tranh trên nắp nên về đêm vẫn có thể ngủ ngon trong hầm.

               Mùa khô ủng hộ quân ta, còn mùa mưa lợi thế thuộc về kẻ địch. Nói thế vì về căn bản do các đường giao thông của ta toàn ở trong rừng, lại là đường đất, sông suối ngăn cách nên mùa mưa khó vận chuyển, cả vũ khí và lương thực. Cùi cõng bằng sức lính thì mùa mưa cũng kém hơn. Thiếu cơ sở vật chất hơn địch, nên nói rằng chúng nó làm chủ cũng đúng thôi. Nhưng công bằng mà nói, vào mùa mưa địch nó cũng đóng căn cứ là chính, kết hợp lùng sục phát hiện quân ta để gọi bom pháo thôi chứ chúng cũng chẳng sức đâu mà lấn với dũi. Còn chúng tôi cũng chốt giữ là chính. Nhưng chẳng lẽ lại không đánh đấm gì, thế nên mùa mưa chúng tôi cũng rải quân ra khá rộng, luồn sâu tập kích các vị trí nhỏ của địch. Bọn cối 160 và DKB của trung đoàn thì làm trận địa, bắt bộ binh chúng tôi cùi đạn đến rồi thỉnh thoảng bắn ì ùm một hai phát vào tít mãi trong Phù Chiêng cách Pắc-xế hơn 10 cây số để dọa địch là chính. Thằng Khiêm (cái thằng cùng tiểu đội có cái đài 3 bóng khuếch đại thẳng mà tôi kể khi còn huấn luyện ở Bãi Nai ấy) được vào C16 là đại đội hỏa lực của trung đoàn. Thơm hơn nữa là nó lại được vào trinh sát pháo. Cái bọn trinh sát pháo thì chỉ khi đánh lớn chúng nó mới ra trận. Nằm ở cửa mở cùng bộ binh, lúc mở màn trận đánh thì quan sát điểm nổ để chỉnh độ ba bốn phát cho nó rơi vào trong trận địa, xong là hô cấp tập, thế là hết nhiệm vụ, rút lui luôn. Mà gọi là pháo cho oai, chứ thực chất chỉ là khẩu cối 160 ly. Chỉnh cho nó rơi vào chỗ nào trong cái căn cứ to tướng của địch là được, quan trọng nhất là đừng có đấm đít bộ binh.

               Cái thời chúng tôi mấy khi có đánh lớn, thế cho nên bọn hỏa lực E tôi chỉ làm nhiệm vụ tập kích và bắn trộm là chính. Thằng Khiêm lại là trinh sát pháo DKB nên chỗ quan sát của nó còn lâu mới ra đến tuyến trước. Tôi nghe nói DKB chính là một cái nòng của dàn hỏa tiễn Ca-chiu-sa 16 nòng tháo ra. Cả E có 2 nòng trang bị cho C16. Đạn của nó nặng hơn năm chục cân, phải chia đôi đầu và liều phóng cho hai thằng vác một quả. Bọn DKB thường làm trận địa cách xa bộ binh (vì chẳng đời nào chúng tôi cho chúng nó làm gần cả, để tránh bị phản pháo oan). Chúng nó thường làm trận địa ở khe núi để ngụy trang tiếng vọng nổ đầu nòng. Phần thóat khói phụt ra khi bắn phải đào cả một cái hầm to theo kiểu bếp Hoàng Cầm để giấu khói. Thế mà lần nào cũng chỉ vừa bắn đi một quả là có L19 lượn đến chỉ điểm cho pháo địch bắn tới, hoặc T28 đánh bom. Ngày nào may lắm, nhìn trước nhìn sau cẩn thận mới bắn được 2 quả. Có ngày chẳng bắn gì. Tiếng nổ và bay của DKB to lắm, nên cứ khi nào bọn C16 bắn là chúng tôi biết ngay. Nhưng phải thừa nhận là bọn DKB giấu trận địa rất khéo. Suốt thời gian ở trong đó, bắn không phải là ít, bị bom và phản pháo cũng nhiều, thế mà không lần nào trúng vào trận địa chính. Bọn linh DKB số thọ lâu thật.

               Thằng Khiêm là trinh sát pháo đấy, nhưng chưa một lần nào nó phải vào gần Phù Chiêng quan sát. Vào đấy thì làm gì có điện đài, hữu tuyến thì lại càng không thể có. Nó kể là phải leo lên cây cao dùng ống nhòm quan sát để hiệu chỉnh nhưng tôi chả tin. Chả có cái cây nào đủ cao và cái ống nhòm nào có đủ tầm xa để nó nhòm vào Phù Chiêng từ cách xa hơn chục cây số.

              Sau cái đợt đánh nhau ở đường 231 rồi tôi bị sốt ít ngày ấy, B tôi được rút về cái giông đồi cao ở phía Bắc cách xa Huội Chăm-pi tới hơn cây số làm nhiệm vụ cùi cõng. Mưa suốt ngày nên nước suối lúc nào cũng dâng cao như có lũ. Bọn công binh E kiếm dây rừng bện thành một sợi rất to căng ngang suối sát mặt nước. Lính tráng khi qua thì bám dây bơi sang, người vuông góc với dây, từ trên cao nhìn xuống trông cứ như cái giẻ vắt trên cây sào. Còn gạo và đạn thì cho vào bao ni-lon chằng dây hai đầu kéo sang. Có chục bao vừa gạo và đạn đưa qua suối cũng hết cả buổi. B nằm chốt bên bờ Nam với B làm vận chuyển bên bờ Bắc, chả biết thằng nào cực hơn thằng nào. Đấy là chưa kể một B còn phải chuyển gạo đạn từ hậu cứ xa hàng mấy tiếng đồng hồ ra đây nữa.

               Suốt thời gian đó chúng tôi chỉ có ăn cơm nếp với muối, vì cũng hết vừng. Muối cho lẫn vào gạo lúc vo. Bây giờ tuy là mùa mưa, nhưng cái hướng ra tuyến trước này của chúng tôi là các núi cao, rất xa các bản. Trong rừng này không có cái giống tre nứa nên cũng không có măng. Chỉ có khu bãi chuối nơi tôi canh tử sĩ độ trước là có chuối rừng, Tranh thủ lúc chuyển gạo đạn ra tuyến trước, khi về chúng tôi tạt qua chặt lấy gốc của nó đem về ăn cho đỡ xót ruột. Nhưng cũng không thể ăn mãi được. Ngày ở nhà ăn bún hay bánh đúc cua mong có tí rau chuối ăn vào cho ngon miệng là vì ăn ít và có canh cua quá ngon nó đỡ cho thôi, chứ bây giờ ngày nào cũng ăn cơm nếp xong rồi lôi một khúc thân chuối ra nhai thì nó cũng vô vị và khó nuốt lắm.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lixeta trong 10 Tháng Tư, 2010, 11:43:26 am
He...He...!
Quê lại nhắc đến mùa mưa làm tôi thấy ... rùng mình. Chả thế mà ở B4 có câu ca... rao thế này: "Bao giờ mùa nắng; Ta thắng Mỹ thua; Còn đến mùa mưa, Ta thua Mỹ thắng"... ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 18 Tháng Tư, 2010, 10:30:22 am

               Cùi cõng được vài ngày thì địch bắt đầu dò ra con đường mòn đạp trong rừng từ giông đồi chỗ B tôi đóng quân ra bờ huội Chăm-pi. Thế là không kể giờ giấc, cứ thích lúc nào là chúng nó lại nện pháo vào dọc con đường đó. Mỗi ngày độ dăm bảy đợt, mỗi đợt chỉ 15, 20 quả mà gây cho lính vận chuyển tâm lý nặng nề. Đại đội cho tăng cường đào thêm hầm chữ A dọc con đường đó. Đào kiểu lấn dũi, dựa vào hầm cũ trú ẩn khi pháo bắn để đào thêm hầm mới. Những đoạn toàn vách đá không đào được hầm thì đành chịu, trước khi qua đó dừng lại nghe ngóng một hồi phán đoán tình hình rồi khẩn trương ù té qua.

               Đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma, các cụ dạy cấm có sai. Sau nhiều lần cùi cõng qua đó, vừa đi vừa chạy tránh pháo thì một buổi chiều đầu tháng sáu, năm người chúng tôi vừa đến đúng cái đoạn đường đá không có hầm thì bị pháo dập. Cả bọn nép mình vào một bên bờ đá, lấy cùi gạo che người. Bị pháo bắn mà nằm trơ ra trên mặt đất thì chỉ còn mỗi cách cầu mong ông bà ông vải phù hộ thôi. Bỗng tôi thấy cánh tay trái tê dại, nhìn vào máu chảy toe toét. Không phải một mà có đến 3 mảnh găm vào tay. Tôi kêu to "Em bị thương rồi". Thêm vài quả nữa thì pháo địch ngừng bắn. Một anh lính cũ đến bên xé băng cá nhân ra băng cho tôi. Cái cùi gạo tôi ôm bên người cũng bị vỡ bục. Thế mà bốn anh kia lại không ai hề hấn gì. Các anh ấy xan gạo của tôi sang cho các anh ấy, dìu tôi đến đoạn có hầm cho chui vào đó rồi đi tiếp. Tôi phải nằm chờ đến hơn một tiếng, các anh ấy quay lại mới đưa tôi về chỗ trú quân trên đỉnh đốc.

               Buổi tối nằm trong hầm với cái tay băng chặt thấy nhức lắm. Lúc tối anh y tá xem cho tôi bảo là chỉ vào phần mềm thôi, chưa chạm xương. "Chú mày chưa đủ tiêu chuẩn ra Bắc đâu. Mai cho về hậu cứ, lên trạm xá Trung đoàn nghỉ ít ngày rồi lại về với anh em. Nếu cái mảnh nó bé thì cứ để im trong đó, không phải mổ gì hết". Tôi sợ không dám nói gì, nhưng vẫn nghĩ là về trạm xá nhất định phải xin mổ chứ mảnh nó nằm ngay bắp tay thế này vướng lắm. Lại nhớ chuyện thằng Phúc "chó" cùng A với tôi ngoài Bắc. Nhà nó ở phố Bạch Mai gần Trại Găng. Ngày còn học sinh đi sơ tán về quê Ninh Bình có lần bị máy bay Mỹ thả bom bi. Nó bị 3 viên vào mông, nhưng vì viên bi nó tròn, mông lại lắm mỡ nên bác sĩ không mổ vì bi nó chạy, không nằm yên một chỗ. Ông ấy bảo mỡ nó sẽ bọc viên bi lại, không có vấn đề gì hết. Thế nhưng thằng Phúc kể là nhiều khi ngồi mà nó vẫn có cái cảm giác cộm trong mông. Ngày đi dã ngoại ở Tân Lạc, một lần ra bờ đập tắm cùng tôi, nó kêu ngứa rồi chổng mông cho tôi xem. Tôi thấy có một vết đen rất rõ, sờ tay vào cảm nhận được cả viên bi. Rồi nó nghiến răng gãi và cào thế nào đó mà bật được ra cả một viên bi giống như viên bi xe đạp. Cái chỗ đó hở ra một lỗ, rỉ nước vàng mà không chảy máu. Chỉ mấy hôm sau là chỗ đó thành sẹo. Rồi nó cứ cầu mong cho 2 viên bi còn lại chạy tiếp ra phía ngoài da như thế để cậy, nhưng chuyện đó không xảy ra nữa.

               Hôm sau, có 2 A về hậu cứ lấy đạn và tôi được về cùng. Bây giờ tôi mới được biết hậu cứ của đại đội mình. Cứ C6 nằm trên hai khoảnh rừng cách nhau một con suối nhỏ. Lòng suối chỉ rộng hơn mét, rất sâu. Lối đi qua suối được bắc bằng mấy cây gỗ ghép lại. Sát hai bên bờ suối toàn chuối rừng. Chỗ này chỉ cách tiểu đoàn bộ, nơi chúng tôi đã ở mười ngày khi mới được bổ sung về tiểu đoàn dạo nọ chừng sáu bảy trăm mét. Rừng già, cây to nhưng chỉ đi độ trăm mét là ra đến nương của dân. Nương của dân thuộc một Bản gần đó có tên là Xăm-xi-núc May. Chữ "may" trong tiếng Lào là "mới". Bản Xăm-xi-núc Cầu ("cũ") cách đó chừng hai cây số. Có lý do gì đó nên dân bản chuyển chỗ để lập bản mới. Trên cao nguyên Bô-lô-ven có mấy cặp bản có đuôi tên là "cầu" và "may" như thế, nhưng trên bản đồ thì chỉ có bản "cầu" thôi. Bản cũng chỉ hơn chục nóc nhà. Tất cả những điều đó là về sau mới biết chứ lúc đó tôi chưa được ra bản.

               Về đến hậu cứ lại phải nằm thêm một đêm nữa với cái tay nhức. Bây giờ mà ai có nhọt hoặc là sứt sẹo chỗ nào đó là được chỉ định kiêng của nếp. Nhưng lúc đó chỉ toàn ăn gạo nếp nên cũng chẳng ai nói kiêng dè gì, có lẽ vì thế mà mấy cái vết thương bé tẹo của tôi gây nhức chăng. Nói bé tẹo, vì hôm sau lên D bộ, Y sĩ tiểu đoàn là anh Soạn xem rồi bảo: để đấy tao giải quyết. Anh ấy cho một người giữ tay tôi, tiêm mấy mũi No-vo-ca-in vào cạnh vết thương rồi dùng panh ngoáy vào gắp ra được mấy mẩu đá bằng cái hạt bưởi. Hóa ra là tôi bị mảnh đá bắn vào chứ không phải mảnh pháo, nên nó mới chỉ vào phần mềm thôi. Anh Soạn bảo nếu là mảnh pháo thì nó phải cắm vào đến xương rồi. Thế là tôi không phải về Trạm xá của E nữa. Tuy là vết thương mảnh đá, nhưng anh Soạn vẫn giữ tôi lại cho nghỉ cùng D bộ 3 ngày rồi mới trả về C. Vết thương chỉ bôi thuốc đỏ, để hở nhưng rất nhanh khô và lành. Về đến C tôi lại được nghỉ thêm 3 ngày, chỉ xuống anh nuôi giúp việc lặt vặt là coi như khỏi hẳn.

               Trong tuần đó, cả đại đội tôi cũng lục tục trở về hết khu hậu cứ. Đánh đấm nhẹ nhàng hơn nên chỉ còn có một C5 ở lại chỗ huội Chăm-Pi khu vực bản Soan. Nghe nói chúng tôi sẽ mở hướng sang phía Nam đường 23, mạn đông khu Lào Ngam. Cái vùng này vẫn rất nhiều núi cao, rừng rậm, bản làng thưa thớt. Tôi vẫn ở tiểu đội anh Trịnh. Bây giờ anh ấy là A trưởng, nhưng vẫn giữ B40. Trung đội tôi là B5, trung trưởng là anh Quân, người dân tộc Mường ở Hòa Bình. Anh này không to con, nhưng rắn chắc, nhanh nhẹn, cặp mắt sáng rất khôn và nói năng mạnh bạo đâu ra đấy, chẳng có vẻ dân tộc tẹo nào. Trung đội tôi nằm ở cái dẻo rừng cách biệt với đại đội một con suối nhỏ tí ấy. Bếp ăn của C và của B tôi nằm hai bên suối. Ở đây là hậu cứ nên chúng tôi đào hầm rất cẩn thận. Hầm trú ẩn là chữ A vững chắc, cạnh đó là hầm thùng để sinh hoạt và ngủ. Bên trên chúng tôi làm lán, đơn sơ nhưng vững chắc, mái lợp cỏ tranh mưa to mấy cũng không dột. Mỗi A một lán. Trong hầm làm sạp nằm ghép bằng nứa. Chỉ có mỗi đường đi là trơn vì bùn đất thôi. Chúng tôi làm công trình phụ hẳn hoi chứ không được dùng hố mèo. Trung đội tôi nằm ở đây chặn con đường đi từ phía nương dân vào. Chỉ trừ thám báo luồn lách thôi chứ địch muốn vào tất phải đi qua con đường này.

               Cần nói thêm là bọn lính Lào đi rừng rất giỏi. Lính mình dù trong lý lịch quân nhân khi xuất ngũ về có ghi là "Sở trường hoạt động rừng núi" đấy, nhưng trình độ luồn rừng thì không bao giờ bằng lính bản địa được. Tuy tuyến trước có thể cách hậu cứ chúng tôi dăm tiếng đi đường, nhưng chuyện cả một trung đội địch hơn chục thằng có thể luồn rừng xuất hiện tại các khu hậu cứ của chúng tôi rồi tổ chức phục kích, đánh ù một trận bất ngờ rồi biến mất nhanh chóng không phải là chuyện hiếm. Năm ngoái ngay gần tại khu hậu cứ của trung đoàn, an toàn đến mức pháo địch không bắn tới, lúc họp đơn vị có thể cùng nhau hát vang bài "Giải phóng miền Nam", thế mà địch cũng bí mật mò tới được. Chúng phục kích tại một ngã ba vườn cà phê bắn chết E phó Mịch và cậu liên lạc đang trên đường đến một D gần đó. Từ đó về sau ngã ba ấy được mang tên "Ngã ba ông Mịch".




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 24 Tháng Tư, 2010, 08:32:26 am

              Về trung đội được một hôm thì hôm sau cả B tôi phải sang Nam đường 23. Ở trong lính có lẽ từ cấp đại đội trở lên không có cái kiểu đi hoạt động lẻ và ăn mảnh, vì đội hình của cả C thì hơi đông. Thế nhưng từ cấp B trở xuống A, hay một tổ khi đi hoạt động lẻ thì tức là đã được tự do. Cả trung đội hơn chục người bảo nhau cũng dễ, biết giữ bí mật và lúc cần huy động sức người thì cũng có đủ. Thông thường đi lẻ một B là sẽ có 1 cán bộ C đi theo. Đại phó Hùng thường đi với B5, nhưng tính ông này cũng bạt mạng lắm, hợp với lính nên cũng coi như anh em một nhà. Lần này B tôi đi độc lập không có C phó, sang hướng Nam đường nhưng không phải là lập chốt đánh nhau mà chỉ là đi thăm dò địa hình. Có lẽ cũng đã biết hướng này đang an toàn vì đã từng đi nên anh Quân B trưởng tự tin lắm. Đi khỏi hậu cứ chừng 3 tiếng, anh ấy bảo tất cả đi chậm lại phía sau, để anh ấy đi lên trước cách xa anh em tới năm chục mét. Vùng này thường hay có hoẵng, khỉ và anh ấy có ý định săn bắn cải thiện. Cứ đi như thế rất lâu thì chúng tôi nghe "đoàng" một tiếng, rồi nghe tiếng anh ấy gọi. Chạy lên đã thấy anh ấy đứng đó, dưới chân là một con khỉ vàng rất to. Nó bị bắn trúng đầu nên rơi thẳng từ trên cây xuống đất. Chúng tôi chặt gậy, lấy dây buộc rồi khiêng đi. Đến một khu rừng khá rậm, có một con suối thì anh Quân cho tất cả dừng lại nghỉ chân. Anh ấy cắt cử người sục sạo cảnh giới và cho làm thịt con khỉ. Mấy anh thạo việc xắn một tay giúp anh nuôi. (C tôi có 3 anh nuôi, nếu có một B đi lẻ thì có 1 anh nuôi đi cùng). Cách làm thì cũng na ná như làm thịt chó, cũng thui vàng. Con khỉ này thuộc giống nào không biết, nhưng rất to, phải đến hơn chục cân. Các anh ấy bỏ đầu đi cho nó đỡ ghê, còn lại luộc tất. Mà cũng chỉ làm được thế thôi chứ không thể làm gì hơn. Rau ăn kèm có ít kiệu tươi lấy từ nương dân ở hậu cứ. Đây là lần đầu tiên tôi được ăn thịt thú rừng. Thịt khỉ ăn lúc đầu thì thấy nó hơi gây gây, nhưng đói nên cứ chén tràn. Chiều và đêm hôm ấy chúng tôi nghỉ luôn tại đấy.

               Hôm sau chúng tôi lần mò sang Nam đường. Đoạn đường này còn cách xa địch nên vượt qua rất dễ dàng. Ở đây, quân ta chỉ chốt chặn địch theo khu vực chứ không chốt theo tuyến đường. Bây giờ mà cứ thẳng đường 23 này đi về phía Tây thì sẽ tới thẳng căn cứ của địch. B chúng tôi đi lần này không có trinh sát tiểu đoàn, không có thông tin vô tuyến đi cùng. Anh Quân chỉ nhận nhiệm vụ miệng và cầm bản đồ địa bàn rồi dẫn chúng tôi đi thôi. Không biết có phải vì anh ấy là người dân tộc, cũng đã thạo đi rừng hay vì anh ấy đã thạo khu vực này mà dẫn chúng tôi đi rất tự tin. Đi lẻ kiểu này cũng gần như trinh sát. Chả có đào hầm hố gì cả. Đến đêm thì bố trí quân, mắc võng ngủ và chia nhau canh gác. Chủ trương là không tác chiến, nếu không phải là đường cùng. Sang đến Nam đường thì chúng tôi cẩn thận hơn, không có săn bắn gì nữa. Sục xạo trong mấy cánh rừng suốt hai ngày đến cách cái khu Lào Ngam một con suối mà không thấy có gì thì chúng tôi quay lại, rồi trở về đơn vị. Sau này khu Nam đường được giao cho D tôi chốt giữ suốt mấy tháng mùa mưa.

               Gần cuối tháng sáu, trung đoàn tôi nhận một đợt tân binh Nam Hà. Đại đội tôi được nhận mười lính, A tôi được một người. Lính Hà Nội chúng tôi chỉ vào trước chúng nó có hai tháng nhưng đương nhiên được coi là lính cũ hơn rồi. Chả gì thì cũng đã đánh vài trận, bắn đì đòm vài băng đạn và chạy bom chạy pháo chí chết chục lần. Đảm bảo hơn hẳn về cái đoạn nghe tiếng pháo rít biết đạn nó rơi thế nào. Nhưng nói vậy thôi chứ các anh cũ đã đối xử với chúng tôi ân tình thế nào thì chúng tôi cũng đối xử với chúng nó như thế.

              Hướng Lào Ngam phía Bản Soan được bàn giao cho K15. Toàn bộ D tôi rút về để chuẩn bị sang hướng Nam đường 23. Mùa mưa chốt chặn là chính. Mỗi hướng thường chỉ có 1 C đứng chân phía trước, còn các C khác cùi cõng để tiếp tế. Sau một tháng lại đổi nhau trong cùng tiểu đoàn. Chúng tôi xác định công việc trong vài tháng tới sẽ chủ yếu làm công tác vận tải. Xe ô-tô của mặt trận chỉ chở hàng cho chúng tôi vào đến khu hậu cứ trung đoàn, sau đó chúng tôi phải tự cùi cõng về đơn vị. Hậu cứ đơn vị nào xa nhất thì cũng chỉ cách kho trung đoàn độ năm sáu tiếng. Nhưng từ đó ra đến phía trước lại vài tiếng đi đường nữa. Vì thế các D phía sau ngoài việc cùi cõng cho mình còn phải làm vận tải trung chuyển cho D ở tuyến trước. Một lần hứng lên, trung đoàn cho một cái xe "Giải phóng" chở đạn đến tận vùng hậu cứ D tôi để lính tráng đỡ cùi cõng một ngày đường. Xe ô-tô cứ dựa vào đường xe bò mà đi qua các bản. Không may cái bản Xăm-xi-nuc "may" gần hậu cứ D tôi là con đường cụt, đường do dân mở chưa hẳn thành đường xe bò nên đến cách D tôi chừng cây số thì cái ô-tô bị sa xuống suối đất. Càng rú ga càng lún, bánh xe quay tròn phá rộng cả một bên bờ suối. Đến lúc bị lầy gần kín bánh thì cái xe chịu thua. Ba đại đội trong K18 chúng tôi được huy động quân ra kéo xe. Hơn một trăm con người do D phó Khanh chỉ huy bắt đầu cứu xe từ sau bữa cơm trưa. Chúng tôi phải bốc chuyển đạn lên xa bờ, sau đó kiếm dây rừng bện lại thành thừng buộc vào xe để kéo. Không khí chả kém gì quân ta kéo pháo vào Điện Biện năm xưa, có khi còn khí thế hơn vì chúng tôi phải hò dô ta vang cả một vùng rừng. Có điều là kinh nghiệm kém nên có vẻ như càng kéo cái xe càng bị lầy hơn, đến giữa chiều mà nó vẫn nằm im. Không biết ai dân vận ở đâu mà sau đó mượn được một con voi của dân bản. Lúc đầu lính tráng ngồi trên bờ xem người dân chỉ huy con voi kéo xe. Nhưng thật tội nghiệp cho chú voi vì cái xe bị lầy chắc chắn nặng gấp mấy lần nó. Nó rướn người kéo cong cả vòi, rống lên ồ ồ như gọi thêm bầy đàn giúp sức mà cái xe chỉ hơi rung rinh. Tin chắc một mình con voi không thể thay thế hơn trăm thằng lính "sốt rừng" chúng tôi nên cuối cùng D phó Khanh quyết định hợp lực. Thế là lại phải cho người về hậu cứ lấy xẻng ra bạt lại đường cho đỡ dốc, rồi vừa voi vừa người cùng bâu vào kéo. Lại phải cử chục thằng vác các khúc gỗ chèn dần vào bánh xe. Cuối cùng thì ta nhất định thắng, cách mạng bao giờ cũng thành công. Trời vừa tối không nhìn rõ mặt người thì cái ô tô đã nằm ngon lành trên đường. Tay lái xe nổ máy cho xe ô-tô cút thẳng về trung đoàn. Chẳng biết con voi được dắt đi lúc nào và có được bồi dưỡng cái gì cho lại sức không. Còn chúng tôi thì lại phải chia nhau số đạn bốc ra từ ô-tô để mang đến nhập vào kho trung chuyển, làm nốt nhiệm vụ mà cái xe ô-tô bỏ lại. Chúng tôi về đến nhà vào lúc gần nửa đêm. Thằng nào cũng bẩn bê bết bùn đất. Ăn suất cơm tối xong là về lán lăn ra ngủ, bẩn cũng chưa chết ngay đâu mà phải sợ.

               Hôm sau tất cả được nghỉ một buổi sáng. Nghĩ lại chuyện hôm qua mà rùng mình. Nếu như bọn thám báo nó mò ra chúng tôi lúc ấy, gọi B52 hoặc T28 đến ném bom, chắc D tôi xóa sổ. Thầm mong cái chuyện vận tải cùi cõng ra tuyến trước, thôi từ nay cứ để đấy cho sức lính chúng tôi. Chúng tôi như những con kiến tha lâu cũng đầy tổ, bày đặt cái chuyện vận tải ô-tô mà không tổ chức tốt, thì "hiện đại" đúng là "hại điện". Cầu được, ước thấy, từ đó về sau không còn có chuyện ô-tô chở hàng vào đến vùng hậu cứ chúng tôi nữa.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hoi76 trong 24 Tháng Tư, 2010, 01:28:01 pm
Câu chuyện chú trongc6 kể cháu nghe khá giống với những câu chuyện bố cháu kể ngày xưa, dân Lào quý bộ đội Việt Nam. Chờ bài của bác đã lâu, trưa nay cháu có việc không được ngủ lại được đọc bài mới. Cám ơn chú !


Tiêu đề: Re: Ngày này 35 năm trước... 1975
Gửi bởi: vitính trong 30 Tháng Tư, 2010, 06:44:36 am
Chuyện của anh bạn tôi, lính phòng không A72
Ảnh: Báo Chiến sĩ Giải phóng ngày 17/5/1975


(http://lh3.ggpht.com/_e1j2gjyaF1c/SgV4oqxH1BI/AAAAAAAAFAI/DKaE8jGJd4E/s640/LDC2mdf.jpg)

Thời gian sau 35 năm ,chiều 29/4 năm 1975 các đơn vị hổn hợp mũi nhọn của QĐ2 trong khí thế hừng hực,say sưa chiến thắng,được lệnh hành quân hướng về phía Sài Gòn.Từ đầu chiến dịch C15 -A72 thuộc F673 của chúng tôi luôn bám sát đội hình.Trung đội do Tôi phụ trách có 3tiểu đội thì 1 tiểu đội đi phối thuộc cho F304,1 tiểu đội bảo vệ cho lữ Tăng 203,Tôi được trực tiếp phụ trách một tiểu đội bảo vệ QĐ bộ.Thực ra thì nhiệm vụ này được bắt đầu từ sau cái ngày 17/4,ngày bắn được cái F5E.Khoảng 17h đội hình chiến đấu hợp đồng quân binh chủng xuất kích từ căn cứ Nước Trong đã ra đến lộ 15.Ngay từ chiều mặt dù các lực lượng Ta đánh rất mạnh,nhưng địch vẫn chống trả quyết liệt.Các loại máy bay phản lực F4, F5 vẫn gầm rít trên bầu trời .Đã nhiều lần vác đạn trên vai,đã thay nhiều nguồn pin đến nóng rát cả bàn tay,nhưng không thể bắn được vì chúng bay quá cao, đã là lính thì nếu có cơ hội là nhả đạn.Các loại pháo cao xạ lúc này sẵn sàng nổ súng .Chúng quần lượng không đánh vào đội hình rồi theo hướng Biển bay thẳng.Lúc này vào khoảng 21h đoàn quân đã ra gần đến xa lộ thì được lệnh dừng lại.Phía trước bộ đội Đặc Công đang chiến đấu quyết liệt với địch giữ cầu xa lộ.Từ các đài quan sát địch vẫn theo dõi các hướng tiến công của ta.BTL quân đoàn ra lệnh các loại pháo hạ nòng bắn thẳng vào hỏa lực đich.Suốt đêm 29/4 chúng tôi vẫn phải chờ phía trước mở đường.Lúc này anh,em cử nhau cảnh giới còn lại tranh thủ nghỉ dưới gầm xe và bờ bụi quanh đó.nói là nghỉ nhưng không ai ngủ được,súng đạn lúc nào cũng lăm lăm trong tay,vì tàn binh địch đâu đó còn nhiều lắm.
-Mờ sáng ngày 30/4 tất cả đã sẵn sàng.Khoảng 9h có lệnh hành quân ,cả đoàn quân ào ào như Thác đổ,ra đến xa lộ các loaị xe lao vun vút tiến về hướng Sài Gòn trong tiến reo hò,vẫy chào cũa nhân dân hai bên đường,nhưng cũng không tránh khỏi những ánh mắt sợ hải,những khuôn mặt cúi gầm xuống lầm lủi đi bên lề đường, đó là những lính ngụy lột hết quân phục để thoát thân,xác giặc chết ngổn ngang nằm dọc xa lộ đầu hướng về thành phố.Không thể nói hết được cái rạo rực lúc bấy giờ.
-Trước mặt chúng tôi là cổng Dinh Độc Lập bị húc đổ trước đó ít phút,lúc này, dân Sài Gòn đổ về đây đông nghịt,họ tranh nhau xin được chụp ảnh với bộ đội,xin được làm những gì gì đó nhiều lắm.Khó có thể nói hết những gì vào cái ngày lịch sử này.Đã 35 năm trôi qua nhưng những ngày này, kỷ niệm về một thời đi đánh giặc vẫn còn đó

Ít nhất có một chuyện nhầm, là chiến trường khi đó làm gì có F4, ở VN thứ này chỉ thuộc không quân Mỹ thôi chứ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 30 Tháng Tư, 2010, 06:57:07 am
Bố mày quen miệng, lúc ấy Không lực VNCH chủ yếu chỉ có A7,F5...Một cái nhần nữa là thượng sĩ nhưng các bài viết và sách đã phong cho ông này lên Thiếu úy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: minhnam1803 trong 30 Tháng Tư, 2010, 07:56:10 am
F4 của Mỹ bay bảo vệ cầu hàng không di tản ?

Em nghe nói ngoài ra còn có cả F14?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Hungnt_E1F2 trong 30 Tháng Tư, 2010, 08:06:32 am
F4 của Mỹ bay bảo vệ cầu hàng không di tản ?

Em nghe nói ngoài ra còn có cả F14?
Khoảng thời gian này Mỹ đang tiến hành chiến dịch "Kẻ Liều mạng" di tản người, máy bay mà bác, trong biên đội tàu của Mỹ có tàu sân bay đang ở ngoài khơi Vũng tàu. Khả năng là có máy bay F4 Hải quân Mỹ. Trong bài cũng nói là bay thẳng ra biển.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vitính trong 30 Tháng Tư, 2010, 08:08:10 am
Bố mày quen miệng, lúc ấy Không lực VNCH chủ yếu chỉ có A7,F5...Một cái nhần nữa là thượng sĩ nhưng các bài viết và sách đã phong cho ông này lên Thiếu úy.
PQ gõ chữ thiếu, A37 chứ.
À, chuyện F4 Hải quân Mỹ bảo vệ di tản thì mình không biết thật.
Bác Đại Cương này còn nhầm phiên hiệu F367 thành F673, gõ nhịu?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: q.trung trong 30 Tháng Tư, 2010, 09:32:25 am
Đường hành quân ven biển,có thể có không quân của hải quân Mỹhoạt động nhưng người Mỹ tôn trọng hiệp định, không cho máy bay vào sâu trên đất liền, nên máy bay Cương nói là F4 thì có thể là loại gì đó của NAVY, Loại có thể cất cánh hạ cánh trên tầu sân bay, thực ra tất cả các điều đó là không quan trọng, quan trọng là người lính phòng không dũng cảm nhằm thẳng vào quân thù, bảo vệ đội hình mà không bỏ chạy, nhà báo khi làm phóng sự vào thời điểm sau này(khi đã có quyết định phong quân hàm) anh ta không thể để ý lúc nhân vật bấm nút phóng đạn  đang mang quân hàm gì, điều đó có thể hiểu được, xin cung cấp thêm cho các bạn một thông tin nữa, người bắn rơi máy bay trong ảnh sau này chính là Thượng tá công an đánh sập vụ Hang Dơi- Lạng sơn, tuy nhiên ông phang nhầm ;D ;D ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vitính trong 30 Tháng Tư, 2010, 09:59:05 am
Khi đánh hang Dơi hình như trung tá thôi, thượng tá là hàm... về hưu.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: taydoc711 trong 30 Tháng Tư, 2010, 10:35:38 am
F4 của Mỹ bay bảo vệ cầu hàng không di tản ?

Em nghe nói ngoài ra còn có cả F14?
Khoảng thời gian này Mỹ đang tiến hành chiến dịch "Kẻ Liều mạng" di tản người, máy bay mà bác, trong biên đội tàu của Mỹ có tàu sân bay đang ở ngoài khơi Vũng tàu. Khả năng là có máy bay F4 Hải quân Mỹ. Trong bài cũng nói là bay thẳng ra biển.

 Liệu có sự thỏa thuận ngầm gì không các bác? Chứ theo bà cô ruột em, chồng bà ấy là **//trưởng phòng hành quân của sân bay Cần Thơ ( Ông này là em ruột của Nguyễn Văn Cử ném bom dinh Gia Long năm 1962 cùng với bác Phạm Phú Quốc ). Bà ấy nói : 29/4 cô ngồi trên máy bay để bay ra hạm đội 7, từ trên không nhìn xuống thấy khói đạn mịt mù nhưng không có viên đạn nào bắn lên cả con ạ.

 Sau đó bà cô em còn hỏi em : Năm mất nước con mấy tuổi? Làm em ớ người ra không hiểu gì cả?!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dksaigon trong 30 Tháng Tư, 2010, 11:04:03 am
@taydoc: ngày 29 đúng là có F4 bay bảo vệ trực thăng Mỹ di tản nhưng bay cao và không thấy có đạn từ dưới bắn lên F4 với F5 dễ phân biệt qua nhìn cánh máy bay, F5 là của không lực VNCH bay trốn chạy ra biển đông thì thấy có đạn phòng không bắn lên, nghe nói là lính VNCH trong cơn tuyệt vọng đã bắn những chiếc F5 tháo chạy, không phải phòng không của quân giải phóng !
Có hay không sự để yên cho máy bay Mỹ di tản cho xong việc thì không rõ, nhưng ngoài mấy loạt phòng không bắn F5 thì bầu trời ngày 29 rất yên tĩnh và F4 cũng bay rất cao !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vitính trong 30 Tháng Tư, 2010, 11:41:04 am
Cứ theo những gì đọc được thì vào những ngày cuối mục tiêu của quân GP không phải là tiêu diệt sinh lực đối phương mà là giành quyền kiểm soát. Bởi vậy nếu đối phương không chống trả thì các mũi tiến công cũng không dùng đến hỏa lực.
Anh bạn tôi cũng trả lời rằng: "Ngày đó chắc vẫn có F4 hay loại nào đó HT à,vì chiều 29/4 ĐC vẫn thấy có mấy tốp vỉ ruồi quần đảo khu vực Long Thành.ĐC định làm thêm vài quả cho sướng,nhưng nó bay cao quá.Chắc nó ở căn cứ nào đó bay vào để làm oai cho bọn rút chạy."


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: minhnam1803 trong 30 Tháng Tư, 2010, 01:04:54 pm
Bố mày quen miệng, lúc ấy Không lực VNCH chủ yếu chỉ có A7,F5...Một cái nhần nữa là thượng sĩ nhưng các bài viết và sách đã phong cho ông này lên Thiếu úy.
PQ gõ chữ thiếu, A37 chứ.
À, chuyện F4 Hải quân Mỹ bảo vệ di tản thì mình không biết thật.
Bác Đại Cương này còn nhầm phiên hiệu F367 thành F673, gõ nhịu?

Không nhầm đâu bác ạ. Đó là Sư đoàn phòng không 673 nằm trong đội hình cơ hữu của Quân đoàn 2. Hình như F trưởng của Sư này bị du kích mình bắn nhầm khi ông ngồi trên xe Jeep mạn BÌnh Thuận...

http://www.quansuvn.net/index.php/topic,8162.55/wap2.html

Trích dẫn
Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 quyết tâm, tập trung lực lượng chủ yếu gồm các sư đoàn bộ binh 304, 325, lữ xe tăng thiết giáp 203, sư đoàn phòng không 673, lữ pháo binh 164 thực hành đột phá từ điểm cao 43 đến ngã ba Phước Lộc theo hướng đường số 15, ngã ba Long Bình, cầu Xa Lộ vào Sài Gòn. Sư đoàn 304 đảm nhiệm mũi đột kích chủ yếu vào căn cứ Nước Trong, Long Bình, cầu Xa Lộ. Sư đoàn 325 đảm nhiệm mũi đột kích chủ yếu vào căn cứ Nước Trong, Long Bình, cầu Xa Lộ. Sư đoàn 325 đảm nhiệm mũi đột kích quan trọng vào chi khu Long Thành, Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, Cát Lái.


http://www.quansuvn.net/index.php/topic,8162.50/wap2.html

Trích dẫn

Trên đoạn đường từ Phan Rang tới Phan Thiết có mấy cuộc hội ngộ khó quên. Sư đoàn trưởng Tự cùng vài cán bộ tham mưu của sư đoàn cao xạ rẽ vào một làng ven đường. Du kích thấy họ ngồi trên xe Zeep tưởng rằng lính ngụy, bèn bắn một trái B.40. Sư đoàn trưởng Tự bị thương nặng và hy sinh. Được tin này tôi lặng người đi vì thương tiếc anh. Khi biết là đồng chí mình thì mọi việc đã rồi. Ở khu vực đội hình của lữ đoàn thiết giáp 203 cũng gặp trường hợp tương tự. Du kích nổ súng. Anh em 203 tưởng bọn tàn quân ngụy, cho xe bao vây bắt sống. Khi bắt sống được rồi mới biết là các đồng chí du kích, thế là ôm nhau khóc.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vitính trong 30 Tháng Tư, 2010, 01:18:36 pm
Bác Đại Cương này còn nhầm phiên hiệu F367 thành F673, gõ nhịu?
Không nhầm đâu bác ạ. Đó là Sư đoàn phòng không 673 nằm trong đội hình cơ hữu của Quân đoàn 2. Hình như F trưởng của Sư này bị du kích mình bắn nhầm khi ông ngồi trên xe Jeep mạn BÌnh Thuận...
Lại không biết nữa rồi. Cám ơn nhé.
Vừa hỏi lại anh ĐC, F673 tách từ 367 rồi sau nhập lại về 367 trong TSN. Buổi trưa anh ĐC bắn rơi cái F5E thì buổi chiều ông Tự Sư trưởng bị bộ đội địa phương bắn nhầm, hi sinh cả 6 người. Có trong hồi ký Nguyễn Hữu An.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Hungnt_E1F2 trong 30 Tháng Tư, 2010, 04:05:55 pm
@taydoc: ngày 29 đúng là có F4 bay bảo vệ trực thăng Mỹ di tản nhưng bay cao và không thấy có đạn từ dưới bắn lên F4 với F5 dễ phân biệt qua nhìn cánh máy bay, F5 là của không lực VNCH bay trốn chạy ra biển đông thì thấy có đạn phòng không bắn lên, nghe nói là lính VNCH trong cơn tuyệt vọng đã bắn những chiếc F5 tháo chạy, không phải phòng không của quân giải phóng !
Có hay không sự để yên cho máy bay Mỹ di tản cho xong việc thì không rõ, nhưng ngoài mấy loạt phòng không bắn F5 thì bầu trời ngày 29 rất yên tĩnh và F4 cũng bay rất cao !
Thật ra cũng không thể nói là có thỏa thuận hay không.
Từ ngày 26.4.75, các máy bay cánh cố định không thể cất cánh vì đường lăn và sân đỗ máy bay đều bị pháo kích làm hư hỏng, máy bay lớn của Mỹ không dám lên/xuống TSN vừa do lo bị dính đạn pháo vừa không còn đường lăn cất hạ cánh.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dksaigon trong 30 Tháng Tư, 2010, 05:32:56 pm
Tôi thì không nghĩ đến cụm từ " thỏa thuận " như chú taydoc hỏi ! nhưng có nghĩ đến sự " để yên " cho Mỹ di tản theo như đã chứng kiến trên bầu trời với những chuyến trực thăng di tản khỏi Sài gòn!

Sau này có đọc những thông tin về chuyện di tản của người Mỹ thì cũng thấy có nhắc đến sự " để yên " này, mắt thấy và suy gẫm một chút thì thấy có lý vì phía quân giải phóng thắng lợi đã trước mắt, những người Mỹ cuối cùng rút chạy thì bắn máy bay di tản không thành vấn đề nữa!

Lúc ấy thấy trực thăng khi bốc lên lấy độ cao ngay, chốc lát đã trên mây! không như những chuyến bay chở quân tác chiến như trước ! Chuyện người Mỹ theo phương án di tản bằng trực thăng thì truyền thông sau này có đề cập đến là có tính toán, không hẳn là vì sân bay Tân sơn nhất đường băng bị pháo kích trước đó mà vì người Mỹ có lo sợ sự tuyệt vọng của binh lính Sài gòn sẽ liều lĩnh ngăn cản, đến phương án di tản bằng trực thăng mà bốc lên cao ngay theo tôi nghĩ họ không sợ phòng không của quân giải phóng mà sợ hỏa lực của lính Sài gòn thì đúng hơn! Và tôi nghĩ Mỹ chỉ có phương án di tản trực thăng vì Sài gòn lúc ấy rất nhiều điểm bốc trực thăng chứ không có phương án bay bằng C130 từ TSN vì từ ngày 20, 21/4 gì đó, dân ở vùng biển Bà rịa đã truyền nhau là thấy hạm đội tàu sân bay của Mỹ ở ngoài biển, lúc ấy dân vùng BH có bà con ở vùng Phước tỉnh Bà rịa đã kéo nhau chạy ra đó khi đường 15 chưa bị cắt và số người này đã đi bằng tàu đánh cá ra hạm đội 7 từ những ngày tháng 4/75 đó ! :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: anhkhoi trong 30 Tháng Tư, 2010, 06:02:07 pm
Anh bạn tôi cũng trả lời rằng: "Ngày đó chắc vẫn có F4 hay loại nào đó HT à,vì chiều 29/4 ĐC vẫn thấy có mấy tốp vỉ ruồi quần đảo khu vực Long Thành.ĐC định làm thêm vài quả cho sướng,nhưng nó bay cao quá.Chắc nó ở căn cứ nào đó bay vào để làm oai cho bọn rút chạy."

Trong chiến dịch di tản năm 1975, quân đội Mỹ chẳng những sử dụng F4 mà còn có cả F14, loại máy bay mới nhất thời đó để yểm hộ. Các máy bay F14 trực thuộc tàu USS Enterprise.

Nguồnhttp://en.wikipedia.org/wiki/Operation_Frequent_Wind (http://en.wikipedia.org/wiki/Operation_Frequent_Wind)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chiangshan trong 30 Tháng Tư, 2010, 06:12:06 pm
Hình như chiều 29/4/75 còn có 1 tốp F-4 bắn tên lửa xuống trận địa PK của QD2 (bọn Mỹ cũng công nhận vụ này).


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: altus trong 01 Tháng Năm, 2010, 05:52:25 am
Hình như chiều 29/4/75 còn có 1 tốp F-4 bắn tên lửa xuống trận địa PK của QD2 (bọn Mỹ cũng công nhận vụ này).

Thông tin tổng kết của bác Buff đây.

http://www.quansuvn.net/index.php/topic,4243.msg59361.html#msg59361

Trích dẫn từ: OldBuff
Kết hợp cả nguồn ta (sử f367 PK) và địch (báo cáo tổng kết Op. Frequent Wind như được nêu), thì trận đánh đó như sau: Ngày 29/4/1975, Đại đội 13 Tiểu đoàn 105 Đoàn cao xạ Hồng Lĩnh Sư đoàn phòng không 367 phối thuộc cùng mũi thọc sâu của Quân đoàn 1 tiến quân theo trục đường từ Tân Uyên qua Lái Thiêu về hướng Sài Gòn. Hồi 14 giờ 45 phút tại một điểm gần Tân Uyên, một tốp 4 chiếc F-4E Wild Weasel thuộc Không đoàn tiêm kích chiến thuật 388 Liên đoàn Không quân số 7 phát hiện trận địa của Đại đội 13 đang tham gia bảo vệ đội hình hành tiến cho mũi thọc sâu của Quân đoàn 1. Một chiếc F-4 cắt bom chùm bi trúng trận địa cao xạ khiến 5 chiến sĩ C13 là Nguyễn Hồng Sáu, Nguyễn Văn ấm, Trần Xuân Quang, Trịnh Tiến Thơ, Đinh Công Trai hi sinh.

Vụ F-4 với cả F-14 thì đây:

(http://www.quansuvn.net/index.php?action=dlattach;topic=4243.0;attach=1908;image)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dream_kgb trong 20 Tháng Năm, 2010, 09:44:06 pm
 Bác Trọng dạo này bận bịu gì thế ạ ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: minh son trong 22 Tháng Năm, 2010, 03:06:39 am
Chào Trongc6 !Bài anh viết rất hay ! Đặc biệt là những cảm nghĩ ,rất chân thực ,rất sống động và...rất lính ! Không phải lính bây giờ mà đúng kiểu lính thời đánh Mỹ. Điều này chỉ có những người cùng thời mới " ngửi " thấy được. Mình là lính công binh ở Bắc Lào ,cũng có dính "tí" đánh nhau .Đúng như anh viết đấy,đánh nhau với bọn ngụy Lào cứ như đùa,như đánh trận giả .Chỉ có súng , đạn ,máu và cái chết là thật thôi ! Chúc anh khỏe !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 05 Tháng Sáu, 2010, 09:39:33 pm

   Ở hậu cứ ít ngày, bên cạnh việc cùi cõng đạn gạo, ngày nào đại đội cũng phải cử người đi "cải thiện". Thường là một tốp 3 người do 1 lính cũ đã khá thông thạo địa hình vùng này dẫn đi. Mỗi người chỉ mang theo 1 khẩu AK có 1 băng đạn và 1 quả lựu đạn cho nhẹ. Để giữ gìn ba-lô, lính tráng chúng tôi ai cũng sắm cho mình một cái "gùi" chuyên dùng cho việc đi cải thiện hay cùi gạo, đạn. "Gùi" là một cái bao to như kiểu bao tải gạo, làm bằng vải Pông-xô lấy của địch (loại vải này không thấm nước, rất bền, dai). Lính tự khâu theo ý của mình cho vừa chiều ngang khổ người, nhưng phải đủ đựng được khoảng 35-40 kg gạo. Quai "gùi" được cắt ra từ quai ba-lô của địch. Lính mới vào thì mượn của lính cũ, sau đó nhờ lính cũ kiếm cho. Thứ này ở các căn cứ cũ của địch bị ta chiếm có nhiều. Chịu khó bới trong hầm, đem về giặt là xong. Nhiều khi chỉ cần xin lính cũ vì mỗi khi có dịp đi cải thiện gần căn cứ cũ của địch là nhiều anh lấy về làm mái che mưa cho lán.

   Thích nhất là đi cải thiện ở mạn đường 23. Nơi đó có rất nhiều bản cũ của dân, vườn tược cây cối bỏ hoang vì dân đã chạy từ lâu. Pắc-Soòng là thị trấn thì không nói làm gì, nhưng suốt dọc đường từ đó vào đến Bãi Đá dài 25 cây số thì có không biết bao nhiêu là bản cùng các căn cứ cũ của địch. Khi đó các căn nhà sàn của dân hầu như đều bị làm thịt. Dân Lào thì ra gỡ về để dựng nhà ở các bản "may", còn lính trung đoàn thì lấy về làm nhà thùng cho E bộ cho nó hoành tráng. Nhà sàn ở đây rất to, gỗ tốt nhưng mái lợp thì lại chủ yếu là tôn múi. Ngoài E bộ ra thì ở các D bộ cũng gỡ về một ít phục vụ nhà hầm chỉ huy. Chỉ có các C thì không dùng vì cũng chẳng cần đến thế. Hơn nữa lính đi cải thiện lấy đồ ăn là chính, còn sức đâu mà vác thêm tấm tôn về cho C bộ. Chỉ có ở tiểu đoàn bộ, bọn trinh sát hay thông tin đi địa hình lúc về tay không kết hợp vác tôn mà thôi.

   Bản nào ở đường 23 cũng có vườn. Bị bỏ hoang thì cây còi đi một chút, nhưng mùa mưa đến thì nó lại được dịp phát triển. Những thứ lấy về cải thiện chủ yếu là mít, chuối, đu đủ, măng và dứa dùng để nấu lên làm thức ăn. Còn các loại hoa quả khác như bưởi, chanh, lê, đào, xoài, táo… thì chỉ lấy ăn chơi và mang kết hợp về cho anh em trong A nhấm nháp buổi tối thôi. Dạo đó chúng tôi ăn gạo nếp, tiêu chuẩn 4 lạng, rồi 3 lạng một ngày nên đói lắm. Được đi cải thiện ra mạn đường 23 là chén thật lực các loại hoa quả vớ được. Kể ra đây thì nhiều loại như thế, nhưng vì đại đội nào cũng cử quân đi, mà lính thì thằng nào cũng giỏi sục sạo, ăn mãi đến rừng cũng phải cạn nên dần dần muốn có cái gì đó cũng phải chịu khó tìm kiếm. Đôi khi phát hiện được vườn hoang nào đó mà ẩn khuất thì phải đánh dấu, giữ kín và xin đi cải thiện liên tục để khai thác. Vùng cao nguyên này có 3 thứ quả gây ấn tượng mạnh trong tôi. Thứ nhất là đu đủ. Có một vườn cây mà các anh C tôi phát hiện được ở tít mãi bên Nam đường ngang với bản 40 (Dọc đường 23 không thể phân biệt rõ từng bản, chúng tôi gọi các cụm nhà dân theo cột cây số). Cây đu đủ ở đó to và sai quả vô cùng. Một lần 3 anh trong C tôi đi lấy mà không thể xếp vào cùi cho gọn được, đành chặt gậy làm đòn để gánh. Vai khoác AK, mỗi anh chỉ đủ sức gánh nổi 6 quả vì nó to quá. Số đu đủ ấy đại đội sào ăn đủ 3 ngày.

   Loại quả thứ hai là chuối. Cả vùng cao nguyên Bô-lô-ven chỉ có mỗi một giống chuối tây, không hề có chuối tiêu. Dân họ trồng nhiều như rừng, suốt hai bên đường xe bò hoặc lan từ vùng nương này đến vùng nương khác. Muốn lấy chuối không phải xin. Có thể lấy chuối xanh để xào hoặc lấy bắp-bi, thậm chí mới chỉ là bắp-bi của cây chuối có chửa mới nhô ở ngọn cũng được, không hề gì vì nó rất nhiều. Còn chuối chín cây hay chuối già lấy về dấm ăn dần, xin cứ tự nhiên. Có điều nên thực hiện một quy ước nhỏ thế này: Thấy cây chuối ra buồng mà quả đã già thì chặt đổ hộ cây chuối đó xuống. Không muốn lấy quả mà cứ để đó cho quả tự chín cũng được, để cho nó tự thối hoặc lợn rừng hay thú rừng khác vào ăn. Mục đích chặt đổ cây chuối chỉ đơn giản là để thân cây đó chóng thối, mau lấy chỗ cho chồi cây đẻ mới có chỗ mọc. Chuối tây nhiều chỗ quả rất to, nhất là ở rìa nương. Có một lần chúng tôi khiêng một buồng già về hậu cứ, tới khi chuối chín đố nhau ăn mà kẻ đạt danh hiệu vô địch cũng chỉ cố nuốt được 4 quả.

   Loại quả thứ ba là dưa chuột. Đúng là giống dưa chuột chứ không thể nhầm là loại dưa nào khác như dưa bở, dưa gang hay dưa hấu, vì nhìn vỏ và ruột nó biết ngay. Nhưng tính từ "chuột" gắn với tên dưa không còn đúng, vì những con chuột cống trong các cống ngầm ở thành phố cũng phải gọi kích thước các quả dưa chuột ở đây là cụ. Dưa chuột gì mà quả nào quả nấy đều dài và to như bắp chân. Chúng nằm trên nương nần nẫn và lăn lóc như đám lợn con.

   Dọc đường 23 còn có nhiều vườn mía và chè. Ở đây người dân trồng nhiều loại mía tím gióng ngắn, thân to và giòn như mía Tuy Hòa, ăn rất ngọt. Loại này khi bị bỏ hoang thì thoái hóa nhanh chóng. Còn một loại thứ hai là mía trắng vàng gióng dài thân nhỏ chỉ bằng nửa cổ tay, trồng thành bãi rộng hàng hec-ta. Những bãi mía này tuy không chăm sóc mấy nhưng mọc rất khỏe, chuyên dùng cho voi ăn. Người ta cứ chặt từng vác đem ra cho voi chén. Chúng tôi rất thích những bãi mía này, chui vào tít trong chén đến chảy máu lưỡi mới chui ra. Công bằng mà nói, khi đói ăn mía dễ hơn ăn chuối. Có thể không có cơm mà vẫn tồn tại được trong bãi mía cả tuần, nhưng nếu lạc vào vườn chuối chắc không trụ nổi ba ngày.

   Tất cả cái nguồn sản vật của dân dọc đường 23 để lại hấp dẫn như thế, nhưng không phải lúc nào chúng tôi cũng đến được vì đường xa quá. Những chỗ gần cách ba bốn giờ đi đường thì cạn dần thứ lấy được. Chỗ xa hơn thì không kịp về trong ngày vì còn phải sục xạo nữa. Mà cái việc lọ mọ tìm của ăn được mất nhiều thời gian lắm, đâu phải cứ tới nơi là lấy được ngay. Vì thế nhiều khi chúng tôi phải tìm đến các nương gần đó của dân để xin các thứ họ trồng. Mùa mưa, thứ sẵn và nhiều nhất là dưa chuột. Từ hậu cứ chỉ đi độ dưới một tiếng là đến nương có dưa. Dân Lào trồng dưa không phải chỉ để ăn. Họ vãi hạt trồng dưa đầy trong nương lúa mục đích để dưa mọc kín không có chỗ cho cỏ mọc. Đặc biệt lắm mới có một vài nơi người ta vãi hạt cải xanh hay hạt cây bí ngô. Những thứ đó chỉ cần xin dân một lần rồi tự nhiên lấy mãi. Cải xanh và bí ngô mà lính càn lần nào là tan hoang lần đó. Chỉ dưa chuột là gần như vô biên. Nhưng dưa chuột đem về thái ra xào ăn không hấp dẫn lắm, chẳng qua ăn cho có chất rau. Mà ngay cả mọi thứ thức ăn khác cũng vậy vì thực ra cơm nếp (nấu cơm chứ không ai hơi đâu mà đồ xôi) đâu có cần ăn cùng thức ăn.

   Ngoài dưa chuột ra thì củ kiệu cũng có sẵn. Dân Lào trồng kiệu để ăn, nhưng họ trồng nhiều lắm. Có khi cả một quả đồi bát ngát trồng toàn kiệu. Cây kiệu đẻ nhánh như hành, nhưng phát triển nhanh hơn. Búi kiệu lúc mới trồng chỉ to bằng miệng bát, thế mà về sau nó to thành đám đường kính đến gần hai gang tay. Dân họ bảo, bộ đội Việt nên lấy từng nửa búi một thôi để cho kiệu nó còn mọc tiếp, nhưng lính mình nhiều khi ẩu lắm. Đáng lẽ lấy dao găm xén ra một nửa thì lại bậy cả búi lên cho nhanh vì chỉ dăm sáu búi là đầy chặt gùi. Nhưng phải cám ơn và thừa nhận là dân Lào họ hiền và cần cù nhẫn nại lắm. Nhờ có các bản dân mà cuộc sống của chúng tôi đỡ cực rất nhiều so với các chiến trường khác. Sau này khi về miền Nam, quen cái kiểu tàn phá như bên Lào, không ít lính trong E tôi bị người dân tộc bắn chết hoặc gài lựu đạn gây thương vong khi mò vào các nương của dân định kiếm chác. Nhưng đó là chuyện về sau…



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 12 Tháng Sáu, 2010, 10:14:50 am
….

                 Ma cũ bắt nạt ma mới. Chuyện đó ở đâu cũng có, chẳng bao giờ thoát được. Những ngày đi cải thiện cùng lính cũ, vì phải tiếp xúc dân nên hai đợt lính Hà Nội và Nam Hà vừa vào được lính cũ dạy tiếng Lào. Mục đích học ban đầu chỉ đơn giản là để chào rồi xin các thứ rau cỏ. Các nhu cầu khác xét sau. Mấy bố lính cũ mà điển hình là quản lý và y tá người Hà Bắc trong C tôi bắt đầu nghĩ chuyện tai quái. Họ giả vờ ân cần rồi dạy từ bậy bạ cho bọn tôi. Ghi chép ra giấy để luyện học hẳn hoi nhé. Nhưng bọn lính Hà Nội cũng không phải gà mờ. Học được câu nào với người này, chúng tôi áp dụng ngay với người khác trong C, sau đó là hỏi nhiều người một cách độc lập. Những câu bậy bạ không được thống nhất, mỗi người giải đáp một cách nên chúng tôi phát hiện ra ngay. Thằng Thái "Pi tơ" còn láu cá hơn. Một lần đi cải thiện, nó lủi ra nương làm một giấc ngon lành. Chiều về tay không, nó trả lời đại đội là theo như các anh dạy nó đã nói như thế, như thế… nhưng dân họ đuổi đi không cho. Đại đội nghe biết đúng là bậy bạ thật nên chẳng làm gì được nó. Cuối cùng CTV phó C tôi là người Tày phải họp tuyên bố chấm dứt bậy bạ và cử người dạy có trách nhiệm cho chúng tôi tiếng Lào. Sau này các đợt tân binh khác vào cũng chỉ có một vài lính cũ nói chuyện bậy bạ được vài câu lẻ tẻ rồi dần dần tịt hẳn.

                 Cùng cái đợt tân binh Nam Hà bổ sung, một lần toàn C tôi báo động hành quân chiến đấu rồi kéo nhau ra rìa một cái nương của dân. Tất cả lính tráng cũ mới đều được lệnh trải ni-lon rồi xếp toàn bộ quân tư trang ra đấy. Có cả một cán bộ D xuống kiểm tra. Họ ghi chép vào sổ tay cẩn thận, xác định mỗi lính chúng tôi có gì để sau này quản lý việc thực hiện chính sách chiến lợi phẩm cho tiện. Chỉ ghi quân tư trang cá nhân thôi. Nói chung là chúng tôi đều không có gì. Chỉ còn vài người có sổ tay để ghi chép nhật ký hay ghi linh tinh việc cá nhân. Thế mà họ cũng mở ra xem chúng tôi ghi cái gì. Nhưng có một trường hợp là thằng Thái "Pi tơ" có một cái nhẫn vàng hai chỉ. Vì chúng tôi cũng đã qua đôi ba trận đánh rồi nên các thủ trưởng nghi vấn, định tạm thu. Mấy thằng lính Hà Nội chúng tôi phản đối và xác nhận cho nó, đây là cái nhẫn mẹ nó cho lúc đi chiến trường. Nhà nó chỉ còn có mẹ và em gái, nhà làm nghề thủ công, chả dư dật gì, thế mà không hiểu sao nó vẫn cầm của mẹ nó mang đi. Các thủ trưởng cũng chưa tin đâu, nhưng may quá nó lôi ra được một mảnh giấy của C phó Hảo (cán bộ huấn luyện dẫn quân vào chiến trường) có ghi xác nhận cho nó khi đi chiến trường có mang theo một cái nhẫn hai chỉ. Chả có dấu má gì, nhưng dù sao cũng có sức thuyết phục ít nhiều. Thế là tài sản đó được ghi nhận. Về sau mỗi khi có đợt tân binh vào, trước khi chia quân các thủ trưởng đều bắt khai tài sản quý, nhưng chả ma nào có. Trường hợp của thằng Thái "Pi tơ" cũng chỉ có một và tôi biết chắc rằng cái nhẫn đó chính là nó mang đi từ miền Bắc.

                 Trong chiến trường chúng tôi không bao giờ được biết đến tiền phụ cấp. Nhưng hậu cần E và D vẫn được mặt trận phát cho tiền Kip của Lào để mua thực phẩm bổ sung cho lính. Ngoài gạo muối là thứ bắt buộc phải cấp ra, thứ khác phải lo tại chỗ. Rau cỏ cải thiện thì tự kiếm loanh quanh. Còn thịt thì từ cấp tiểu đoàn có tổ chức các nhóm công tác đi về các vùng dân phía sau để mua lợn. Bọn đi mua lợn này gần như là chuyên nghiệp quanh năm. Một nhóm 4 hay 5 người đi mấy ngày đường về vùng dân, có khi xuống tận gần đường 13. Lùng mua được hơn chục con lợn thì dong về như các mục đồng chăn ngựa sống trên thảo nguyên. Về đến đơn vị nghỉ vài ngày rồi lại đi mua đợt khác. Chẳng hiểu duyên cớ gì mà hai thằng lính Hà Nội trong C tôi là thằng Sưởng và thằng Thái "Pi tơ" đều được gọi lên tiểu đoàn để xung vào đội quân đi mua lợn do anh Choát chỉ huy. Chúng nó xa rời cảnh đánh nhau và cùi cõng của đơn vị. Đi mua lợn thì tác phong lúc nào cũng chỉ túc tắc và lững thững như lợn đi vậy thôi. Chúng nó luôn gần dân và thuộc loại đi công tác lẻ, tự do nên sinh hoạt rất đầy đủ, không gặp cảnh lúc nào cũng thèm ăn như anh em trong đơn vị. Cũng có cái hay là đôi khi chúng tôi cũng nhờ vả được tí chút. Trong đơn vị chúng tôi có quy định cấm lấy quân trang của địch. Thế nhưng dân Lào ở các vùng tự do rất thích quần áo và mũ của địch, vì nó đẹp và bền. Vậy là khi đánh trận, chúng tôi lén lấy những thứ đó nếu thấy nó còn mới và đem giấu đi. Sau đó gửi bọn đi mua lợn đem ra vùng dân đổi hàng. Cũng chả được bao nhiêu đâu. Một cái mũ vải dù hoa đổi được một cái bật lửa gần giống như bật lửa Trung Quốc và 5 viên đá lửa. Một cái quần hoặc áo trông còn mới thì đổi được 3 bao thuốc lá đầu lọc nhãn "Tô A". Vậy thôi, nhưng vẫn khoái lắm.

                 Cuối tháng sáu năm 1972, tiểu đoàn chúng tôi nhận lệnh chuyển sang hướng Nam đường 23. Như vậy là K15 ở hướng đường 231 khu bản Soan, còn K16 vẫn ở tuyến sau. Các C trực thuộc thì đi phối hợp xen vào các D bộ binh, chủ yếu là C hỏa lực và C công binh. Mùa mưa này nước huội Chăm pi lúc nào cũng đầy. Vì sang Nam đường bắt buộc phải qua Huội, địa bàn rộng nên công binh đi dọc suối tìm chỗ có cây to. Họ hạ cây to đổ ngang suối rồi đẽo bớt cành để làm cầu. Có hai ba lối đi sang như thế. Cây gỗ tuy to nhưng vì thân tròn nên đi qua cũng khá trơn và chênh vênh vì chẳng có tay vịn. Về sau công binh phải dùng dao băm vào thân cây thành khía cho thêm ma sát.

                 Cả C tôi sang hẳn bên Nam đường và luồn vào khá sâu. Có lẽ nơi nào gần đường thì mới có nhiều bản dân hoặc nhiều căn cứ địch. Những chỗ thuộc vùng sâu núi non hiểm trở, rừng già nhiều cây cổ thụ thì chỉ có ý nghĩa làm nơi trú quân cho quân ta là chính. Mạn Nam đường cũng có những con suối to. Lần này B4 phải đi sâu hơn qua một con suối, còn hai B chúng tôi nằm bên ngoài hướng ra phía đường 23. B4 làm chốt trên đồi bên kia, có cả anh nuôi ở chung hàng ngày lo cơm nước. Mấy ngày đầu có vẻ ngon lành, nhưng sau đó thì mưa tầm tã, nước suối dâng cao như lũ, B4 bị cách li. Thấy nước suối có vẻ cứ đầy lên không chịu rút, mà đường sang ở đoạn này thì khó hơn cả bên huội Chăm pi phía bản Soan, lại không có công binh hỗ trợ nên đại đội rất lo. Nếu địch phía bên đó sục vào đánh nhau với B4 thì không biết chi viện thế nào. Mà hết gạo ăn cũng gay chứ không phải chuyện chơi. Đến một ngày trời tạnh, thấy bên đó nổ súng đì đùng. Rồi bẵng đi rất lâu lại có tiếng B40. Cuối cùng thì tất cả câm tịt, mà lạ là cũng chẳng có bom pháo. Đại đội đoán B4 đụng thám báo, chắc tiêu diệt gọn cả lũ ấy rồi. Hai bên vẫn không liên lạc được với nhau, mà trời lại tiếp tục đổ mưa. Hơn một tuần như thế, không hiểu B4 ăn bằng cái gì, liệu có củ gì mà đào không. Có người đoán già đoán non là B4 đi sâu tiếp vào rất xa, gặp một cái bản nào đó và nương tựa vào dân.

                 Chúng tôi liên lạc về tiểu đoàn nhờ chi viện, cuối cùng thì cũng sang được với B4. Hóa ra các anh ấy chẳng hề đi đâu cả, vẫn trụ lại trên ngọn đồi với hầm hố đầy đủ, chả ai sứt sẹo gì. B trưởng Tuyền nhe răng cười bảo, chúng mày liên lạc chậm quá, sao không mò sang sớm. Hóa ra cái hôm có tiếng súng là ở bên ấy không hiểu sao có một chiếc trực thăng của địch mò tới. Nó bị trục trặc làm sao mà sa vào cả ngọn cây rồi rơi xuống đất. Anh nuôi Đức người Nam Hà ở gần đó vác AK mò tới, bắn chết được cả 3 thằng trong máy bay. B trưởng Tuyền cho quân ra chi viện, mò vào máy bay thấy mấy thùng hàng mở ra toàn đồ hộp. Anh ấy cho lính khuân về sạch rồi cho B40 bắn cháy máy bay, đề phòng trong đó có máy phát gọi được máy bay khác chi viện thì gay cả lũ. Hết gạo, không liên lạc được với đại đội, anh ấy cho lính ăn đồ hộp trừ cơm. Toàn là hộp cá tròn 2 lạng, chế biến giống như cá sốt cà chua. Bữa đầu ăn rất ngon, thả phanh mỗi lính 3 hộp ăn vã. Sau đó là lên kế hoạch để còn dùng lâu dài. Không ngờ đồ ăn dù ngon đến mấy mà ăn mãi thì cũng chán, nhất là không có cơm nên rất xót ruột. Về sau chả còn ai háo hức, anh Tuyền cho ăn tự do, tùy thích. Cuối cùng thì đến đoạn cứ nhìn hộp cá mà ngán, dù là đói. Lúc chúng tôi sang thì chỉ còn độ hơn hai chục hộp. Đại đội đem chia đều cho 2 B còn lại ăn tươi một bữa. Hôm ấy đối với 2 B chúng tôi thì gần như ngày hội. Đun cá hộp nóng rồi ăn với cơm nếp chả ra cái kiểu gì cả nhưng sao ngon thế. Mọi thứ sạch như chùi. B4 không ai động vào cá, chỉ ăn cơm nếp thôi. Vậy mà sau vụ đó nhiều anh trong B4 bị dị ứng với cá hộp, thậm chí là với cá. Có người chỉ nghe "cá" đã lợm hết cả cổ. Thậm chí đến năm 1975 đánh Đồng Dù lấy được đồ hộp ê chề, nhưng chỉ có thịt hộp hấp dẫn, còn cá hộp thì thờ ơ. Thật là no dồn đói góp.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 13 Tháng Sáu, 2010, 07:33:11 am
                 ..... B4 không ai động vào cá, chỉ ăn cơm nếp thôi. Vậy mà sau vụ đó nhiều anh trong B4 bị dị ứng với cá hộp, thậm chí là với cá. Có người chỉ nghe "cá" đã lợm hết cả cổ. Thậm chí đến năm 1975 đánh Đồng Dù lấy được đồ hộp ê chề, nhưng chỉ có thịt hộp hấp dẫn, còn cá hộp thì thờ ơ. Thật là no dồn đói góp.…


Cũng chỉ và phải ăn cá nhiều qua, mà cá nhân baoleo, đến bây giờ cũng vẫn còn sợ cá, Chỉ ăn cá trong hoàn cảnh bắt buộc.  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: votmuoi trong 13 Tháng Sáu, 2010, 02:31:13 pm
                 ..... B4 không ai động vào cá, chỉ ăn cơm nếp thôi. Vậy mà sau vụ đó nhiều anh trong B4 bị dị ứng với cá hộp, thậm chí là với cá. Có người chỉ nghe "cá" đã lợm hết cả cổ. Thậm chí đến năm 1975 đánh Đồng Dù lấy được đồ hộp ê chề, nhưng chỉ có thịt hộp hấp dẫn, còn cá hộp thì thờ ơ. Thật là no dồn đói góp.…


Cũng chỉ và phải ăn cá nhiều qua, mà cá nhân baoleo, đến bây giờ cũng vẫn còn sợ cá, Chỉ ăn cá trong hoàn cảnh bắt buộc.  ;D
Em  thì may quá ! tới lúc sang K, có nghĩa là 19 năm trong cuộc đời mới biết ăn cá & bí xanh ;D bi giờ thì em lại thích ăn bù :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 18 Tháng Sáu, 2010, 10:42:31 am
….
              Thời gian chúng tôi ở Nam đường 23 cũng khá dài. Các B cứ thay nhau lên chốt. Không đánh nhau nên cái chốt không bị lộ, vì thế nó cứ tồn tại mãi. Nhưng như thế hóa ra phí cả một đại đội ở phía trước nằm chơi và hai đại đội phía sau phải cùi cõng tiếp tế. Tiểu đoàn cho chúng tôi tổ chức luồn sâu, vòng hẳn vào phía sau lưng địch. Tất nhiên không phải là vòng để bao vây, vì lực lượng địch hơn chúng tôi nhiều lắm. Nếu lộ, có khi chính chúng nó bao vây làm thịt chúng tôi ấy chứ. Chúng tôi luồn sâu nhưng phải bí mật. Sau đó cùng trinh sát tiểu đoàn (C tôi được tăng cường một tổ) bám địch, xem có bọn nào đóng lẻ chừng độ một B thì lên phương án tập kích chúng nó. Theo thiển nghĩ của tôi thì thực chất là quấy nhiễu. Nơi tập kích phải cách chỗ chúng tôi ém quân chừng 3 cây số để tạo thế an toàn. Đầu tiên là trinh sát D đi tìm và bám địch, sau đó cùng cán bộ B, C trinh sát lại và bàn giao vị trí địch. Phần cuối cùng là đại đội tôi tự tổ chức một nhóm, thường là gồm 2 M79, 3 B40 và 3 AK mò đến đó từ lúc nhập nhoạng tối và chiếm lĩnh vị trí. Chừng độ 9, 10 giờ đêm thì khai hỏa. B40 cấp tập vào đó mỗi khẩu hai quả, còn M79 thì mỗi khẩu câu vào chừng 5, 6 trái. Bọn địch bị bất ngờ còn đang lộn xộn chưa kịp phản ứng thì chúng tôi rút lẹ. Thời gian mỗi lần như thế có khi chỉ độ hơn một phút. Nếu chúng có bắn ra thì cũng chỉ là hú họa, thậm chí có lần chẳng bắn trả được phát nào. Các tay súng AK không bắn vì tác dụng không bao nhiêu, mà mục đích đi cùng chỉ là để bảo vệ. Tập kích xong chúng tôi cũng phải rút thật nhanh vì sợ pháo. Trung bình mỗi tuần tập kích độ 2 lần ở các nơi khác nhau. Kết quả địch có bị thương vong thế nào chủ yếu nhờ cấp trên nghe đài kỹ thuật báo lại. Tập kích kiểu này không bao giờ chúng tôi được tính thành tích vì không thu được súng. Cấp trên quy định báo công theo số súng thu được. Không hiểu sao cái trò này lại làm tôi háo hức. Tôi xin được đi cùng để bắn thử B40 và M79. Có một cái vẻ gì đó giống như chơi đánh trận giả ở nhà.

               Mùa mưa hiếm có ngày nắng, nhưng không phải là không có. Thi thoảng vẫn có đêm nằm bìa rừng nhìn thấy bầu trời có sao. Những ngôi sao lờ mờ không nhiều lắm và có vẻ xa tít tắp chứ không rạng rỡ như đêm mùa khô, khi đó sao sáng và nhiều tới mức tưởng có thể vươn tay được lên bầu trời mà nắm lấy. Thường người ta hay có cảm giác nhớ nhà nếu như được nhìn thấy một khung cảnh nào đó giống như lúc còn ở nhà. Giữa núi rừng sâu thẳm này thì khung cảnh duy nhất có thể gợi nhớ nhà chính là bầu trời đêm. Rất có thể lúc này đây, bản thân mình và cha mẹ, anh chị em ở nhà đang cùng ngắm một ngôi sao. Cái cảm giác ấy làm cho lòng ấm lên, thấy gần hậu phương hơn. Trải tấm nilon ra nằm cho đỡ ướt, ngắt một ngọn cỏ nhấm nháp và ngắm trời đêm trong khung cảnh thật bình yên. Tôi đã bắt đầu biết hút thuốc lá. Độ trước đi qua gần bản Xăm-xi-nuc "may" thấy có nương thuốc lá của dân trồng rất nhiều, cây cao to và xanh um. Có rất nhiều cái sự khác lạ ở đây để so sánh với ở nhà. Ví dụ như ở đây không hề có hành mà chỉ có kiệu. Còn thuốc hút thì cũng chỉ có thuốc lá (rất nhiều) mà không hề có thuốc lào. Các anh lính cũ hướng dẫn cho cách ngắt lá thuốc. Nhằm lá già gần gốc mà vặt, mỗi người làm một ôm to, cứ như của nhà mình chẳng xin xỏ gì vì thực ra cũng không mấy khi gặp dân ngoài nương. Đem về hậu cứ lấy dao thái nhỏ ra rồi bắc một tấm tôn lên bếp mà sao cho khô. Khi thuốc đã khô và nguội thì cho vào một cái túi khâu bằng vải dù, cất ba-lô. Lại có một cái túi con khác để bốc bỏ vào đấy một nắm đem theo bên người để hút. Tùy từng nơi mà thuốc lá có thể nặng nhẹ khác nhau chút ít. Nếu muốn thơm và nhẹ thì pha tí nước đường rồi vẩy vào sợi thuốc. Thuốc lá loại này không có mùi thơm bay xa nên không ngại. Vì thế ngồi chốt hay luồn sâu đều có thể hút. Toàn quấn thuốc kiểu sâu kèn thôi.

               Một vài lần nằm chơi ngắm trời sao và hút thuốc, có cả cán bộ B, C cùng tán chuyện. Cách xa địch hàng vài cây số, lại ở bí mật nên cũng hơi tự do. Chuyện lính thì đủ các thứ trên trời dưới biển. Chuyện thường của người này nhiều khi là điều lạ và thích thú với người kia. Đã là lính thì ai cũng biết rằng đối với lính chuyện nhiều nhất và lặp đi lặp lại không chán là chuyện ăn và chuyện tán bậy. Nhưng nhiều khi những chuyện khác cũng thu hút người nghe không kém. Trong C tôi lúc đó có khoảng 4 người đã học hết lớp 10 phổ thông nên đôi khi cũng đem những chuyện khoa học ra nói. Nhìn trời đêm, tôi thường hay kể về vũ trụ và các vì sao. Những chuyện ở nhà tôi đọc về Ga-li-lê, về Nicolai Copecnich…được đem ra kể. Nào là quan niệm vũ trụ và trái đất, về những dải Ngân hà, những Hệ Mặt trời, những ngôi sao và hành tinh… Khi từ những cái bao la như thế trở về thực tại thì thấy trái đất và con người bé nhỏ quá. Câu chuyện qua đi, đến lúc vào ca gác, ôm khẩu AK trong tay thì lại thấy mình không còn bé nhỏ nữa.

               Nhiều lần nói chuyện chơi như thế, tôi đã lọt vào tầm ngắm của Đại trưởng Kim Băng, một người nông dân ở tỉnh Nam Định khoác áo lính, mới học chưa xong lớp bảy. Anh ấy thích thú với cái tri thức mà thời tuổi trẻ anh ấy không có điều kiện tiếp cận. Thêm nữa là cũng có chút cảm tình với tôi qua cái trận chốt bản Soan (trận đầu tiên trong đời lính của tôi), tôi đã không phụ lòng mong đợi cho cái ý định "thử mấy thằng đoàn viên Hà Nội xem đánh đấm thế nào" của anh ấy. Thế là giữa tháng bảy, tôi chia tay anh Trịnh để lên C bộ làm liên lạc cho anh Băng. Ai cũng hiểu liên lạc là phải làm nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh liên tục từ BCH đại đội đến các B và các A độc lập trong chiến đấu, trong hành quân cũng như khi đóng quân tại chỗ. Cần phải nhớ đường, tập quan sát các vị trí và luôn bám theo thủ trưởng. Việc đầu tiên đại trưởng Băng dạy cho tôi là cách xem và sử dụng bản đồ, địa bàn. Học kiểu truyền tay thôi, nhớ theo quy ước là chính chứ không có giải thích. Địa bàn thì đơn giản hơn, vì thời học phổ thông chúng tôi cũng đã  được dạy để biết cách xem hướng. Chỉ có chuyện dùng nó kết hợp với bản đồ để đạp đường thì cần phải có nhiều thời gian, qua thực tế để đúc rút kinh nghiệm. Đại trưởng Băng cũng dạy tôi cách xem bản đồ. Những điều cơ bản không khó lắm. Xem tỉ lệ bản đồ, quy ra cách đo khoảng cách chim bay. Xem màu sắc, biết địa hình núi đá đất hay cây cối, rừng non, rừng già. Xem các đường bình độ và độ xít của nó, biết độ dốc các vùng hay biết chỗ không ghi suối mà mùa mưa có thể là suối… Đặc biệt cách xác định điểm đứng là cơ bản và khó nhất khi dùng bản đồ. Rồi những thủ thuật và kinh nghiệm đi từ một nơi đến một nơi khác trên bản đồ thì phải xác định thế nào. Tóm lại không khác gì kiển thức cho một trinh sát. Tôi rất háo hức nên tiếp thu cũng nhanh, làm đại trưởng Băng rất hài lòng. Tôi còn rất khoái khi anh ấy hỏi tôi lan man sang những kiến thức khác và những lý giải của tôi cũng nghe được, không đến nỗi nào.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lethaitho trong 18 Tháng Sáu, 2010, 11:11:49 am
Em ăn cá ở Biển Hồ chắc cũng không kém các Bác. Sáng cá, trưa cá, chiều cá, tối cá... Nhưng đến bây giờ vẫn thích ăn cá.
Chắc là nhiều quá hóa nghiện! ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Sáu, 2010, 01:29:02 pm
…..
               Từ khi làm liên lạc cho đại trưởng Băng, tôi ít phải tham gia cùi cõng và gác đêm hơn. Thay vào đó là đi lại sùng sục suốt ngày theo đại trưởng. Anh Băng khỏe lắm, đi trong rừng mà cứ phăm phăm như đi giữa bãi trống không người. Thời gian đầu chỉ riêng cái khoản theo cho kịp anh ấy đã đủ tướt mồ hôi rồi, nói gì đến chuyện ngó ngiêng nhìn đường cho thuộc lối. Tôi hầu như là chạy chứ không phải đi. Anh Băng rất chịu khó đi trinh sát địa hình. Đơn vị chúng tôi, trong 4 cán bộ C thì chỉ có C phó có AK báng gấp, còn lại đều là K54. Anh Liêu người Thái Nguyên làm liên lạc cùng tôi cũng có AK báng gấp. Nhưng nói thật thì AK báng gấp tuy gọn, nhưng nặng lắm. Khẩu AK Tiệp nòng vát của tôi tuy dài nhưng nhẹ hơn nhiều.

              Tuy lúc đi đường cứ băng băng, nhưng gần đến khu vực trinh sát thì đại trưởng Băng lại đi rất thận trọng. Đặc biệt là lúc đó anh ấy không bao giờ cầm bản đồ hay súng ngắn trên tay. Lúc nào cũng chỉ có mỗi cái địa bàn pháo binh nhỏ gọn. Khi ấy tôi cũng có địa bàn riêng của anh Trịnh cho (mỗi lần đánh cứ điểm là lính mình tự trang bị dần những món đồ kiểu như thế), nhưng hầu như không dám lấy ra. Chỉ khi ngồi nghỉ giải lao hay lúc ngồi chờ anh Băng trèo cây quan sát, tôi mới lấy ra xăm xoi xem hướng, học mót nghề trinh sát.

              Lính cũ cũng hay có những ngón võ riêng của họ. Khi đi trinh sát, bao giờ đại trưởng Băng cũng đeo xà-cột xong rồi mới mặc áo ngoài và luôn bỏ áo ngoài quần. Từ xa mà kẻ địch có dùng ống nhòm nhìn thì cũng không thể thấy cái xà-cột và khẩu súng ngắn của anh ấy. Quan và lĩnh lẫn lộn. Lúc đầu tôi cũng ngạc nhiên với cái vẻ ăn mặc luộm thuộm ấy của đại trưởng, khác hẳn lúc ở hậu cứ tắm xong chuẩn bị ăn cơm chiều áo bỏ trong quần, gọn gàng trông rất oách. Hay là lúc anh ấy đi họp giao ban trên tiểu đoàn về, xà-cột và súng ngắn đeo bên hông đập tanh tách theo nhịp đi (nhất là anh ấy mông lại to nữa) thì trông mê li lắm. Về sau tôi hỏi anh Trịnh thì được biết dạo trước bên K15 một lần có anh C trưởng đi trinh sát quân phục chỉnh tề, lúc đang leo cây vác ống nhòm quan sát địch thì bị bắn tỉa. Chắc thằng bắn tỉa của địch nhìn rõ cái xà-cột và bao súng ngắn của anh ấy nên biết anh ấy là sĩ quan. Đại trưởng Băng sợ lặp lại cảnh ấy nên phòng thân trước.

               Một lần khác anh Băng dẫn một trung đội ra gần đường 23 lùng sục. Đến tối, chúng tôi tạm nghỉ lại cạnh đường, hạ trại nấu cơm ngay dưới ngôi nhà sàn còn sót lại duy nhất của một cái bản bỏ. Cơm nước xong xuôi thì trời tối, trung đội ấy bố trí người gác và ngủ luôn ở ngay cái nhà sàn ấy. Tôi cũng định trải ni-lon ra một góc nhà để hai thầy trò ngả lưng, nhưng anh Băng đã xua tay rồi kéo tôi đi. Chúng tôi vượt hẳn sang bên kia đường, luồn vào một bãi dứa và tìm thấy một cái hầm chữ A của bộ đội ta đào khi trước. Tôi cầm đèn pin chui vào dọn dẹp một lúc, trải cái ni-lon ra, thế là xong chỗ ngủ đêm. Hai thầy trò chui vào duỗi chân duỗi tay, quấn thuốc lá hút, rì rầm nhỏ to một lúc rồi đi vào giấc ngủ, chả có gác sách gì cả. Sáng sớm hôm sau tất cả lại tập trung, cơm nước xong là lên đường làm nhiệm vụ tiếp. Tôi cứ phân vân là sao đại trưởng Băng lại không cho ngủ ở nhà sàn cho nó thoáng. Mưa gió không sợ ướt, thám báo cũng không lo vì đã có người gác. Với lại ở đông người vẫn đỡ lạnh lưng hơn chứ. Về sau anh Băng cũng giải thích cho tôi là đêm đó không phải sợ thám báo đâu, vì bọn thám báo Lào cũng rát lắm, ít khi dám đi đêm. Anh ấy phòng xa là địch nó ngẫu nhiên quan sát được rồi đêm câu pháo thì đỡ phải chạy. Anh ấy bảo là khi đi trinh sát có ít người thì ban đêm cứ chọn tìm nơi nào kín đáo và bất ngờ chui vào ngủ là đảm bảo nhất, không cần gác làm gì. Anh còn nói thêm chỗ an toàn nhất khi ngủ đêm chính là trong hàng rào địch. Tuy nhiên phải lo chuồn đi khỏi đó trước khi trời sáng. Tôi nghe và cố nhập tâm nhưng vẫn thắc mắc mãi một điều không dám nói là đêm hôm ấy nếu đã lo địch bắn pháo ban đêm, sao đại trưởng không cho cả đơn vị rời khỏi nhà sàn mà sang bãi dứa ngủ tất cả có hay hơn không?

               Nói thêm về võ riêng của lính cũ. Trong C tôi, nhiều người bảo anh Quân B trưởng B5 cũ của tôi có giác quan thứ sáu. Nhiều khi anh ấy phát hiện được địch, nhưng lại không giải thích được cụ thể là thế nào. Những chuyện cũ thì tôi chỉ nghe nói, nhưng có một lần tôi được chứng kiến. Đó là lần đơn vị đang ở khu luồn sâu, tôi được anh Băng cho đi cùng B5 về hậu cứ lấy thêm đạn gạo. Đường về và đi mất trọn hai ngày. Hôm về hậu cứ thì không có việc gì. Ở lại hậu cứ một ngày chuẩn bị các thứ xong, ngày thứ ba chúng tôi lên đường quay trở lại đường 23. Vượt qua đường 23, theo một con đường mòn nhỏ chúng tôi đi hàng một, có dãn cách theo quy định và không nói chuyện, điều này vẫn chỉ là làm theo quy định từ trước thôi. Anh Quân là người đi đầu chứ không phải lính tráng chúng tôi. Đang đi khẩn trương, bỗng anh Quân dừng bước và phẩy tay về phía sau. Chúng tôi ngồi nép luôn xuống hai bên đưởng, tay lăm lăm súng. Còn anh Quân, anh ấy cứ vươn cổ ra, nghiêng nghé hai bên, nhăn mũi cứ như đánh hơi vậy. Trong lúc đó, chúng tôi im lặng, hơi căng thẳng nhưng cũng chẳng phát hiện thấy gì. Một lúc, anh Quân rón rén lùi lại rồi đưa chúng tôi đi quay ngược lại, lùi xa tới hai trăm mét. Ở trong rừng, khoảng cách ấy là lớn lắm rồi. Chúng tôi tụm lại hội ý. Anh ấy bảo phía trước nhất định có địch phục kích. Chúng tôi có thể đạp đường vòng đi tránh đoạn phía trước thì vẫn có thể về được chỗ đơn vị đang trú quân. Thế nhưng anh Quân nheo mắt cười hóm hỉnh: "Mẹ cái bọn này chứ. Mình sẽ tìm chỗ phục lại, choảng cho nó một trận cho chúng nó hết nho nhoe". Thế là Anh Quân nhắm đường đạp vòng hẳn một vòng to vượt qua cái chỗ nghi có địch ấy. Chúng tôi theo anh vượt qua một con suối nhỏ, hai bên khá dốc và bố trí phục kích ở bờ bên kia. Cần nói thêm là khi đi hoạt động luồn sâu, chúng tôi đạp đường mới là chính, nhưng thỉnh thoảng vẫn phải lợi dụng một vài đoạn đường mòn cũ của dân. Chỗ phục kích này cũng là một đoạn đường mòn cũ, nhưng không phải con đường chúng tôi vẫn đi.

               Chờ đợi chán chê, đến cuối chiều mới phát hiện thấy địch. Đúng là cái bọn định phục kích chúng tôi. Chúng nó chờ chán quá, lại đã chiều rồi nên rút quân về căn cứ. Cái bọn tưởng chủ động bây giờ lại hóa ra một lũ chủ quan. Chúng tôi nhìn rõ 7 thằng lội qua suối và tụm lại khá gọn. Đúng lúc những thằng đi đầu đang gò lưng leo dốc thì anh Quân phảy tay. Thằng Lễ (Nam Hà) phọt luôn một trái B40. Chúng tôi cũng bắn như đổ đạn vào đó. Xét về lực lượng thì chúng tôi còn nhiều người hơn chúng nó. Cả bảy thằng địch chết dụi tại chỗ, chả bắn nổi phát nào. Anh Quân hô chúng tôi lấy súng và lột luôn những thứ có thể lấy được rồi chuồn gấp. Vốn là về hậu cứ lấy đạn gạo nên chúng tôi đã cùi nặng, bây giờ lại nặng thêm, nhưng chả ai dám chần chừ. Tất cả rút vội theo anh Quân. Nhập nhoạng tối thì chúng tôi cũng về tới nơi trú quân của đại đội. Sau vụ đó, anh Quân càng nổi danh hơn với giác quan thứ sáu. Còn tôi, thú thật là mãi về sau, tôi cũng không hiểu là anh ấy ngửi thấy cái gì mà đoán chắc có địch phục hôm đó. Dù sao, cũng thật là hạnh phúc khi có những người chỉ huy như anh Quân.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 27 Tháng Sáu, 2010, 01:59:44 pm
Xen ngang một chút.

      Sáng hôm nay (27/6/2010), tại nhà khách Bộ Quốc phòng (số 1 Trấn Vũ) đã có cuộc gặp mặt thân mật của các CCB sư đoàn 968 Quân tình nguyện Nam Lào. Số người đến dự độ hơn trăm rưởi.

       Lính Trung đoàn 9B chúng tôi chiếm cũng tới gần 1/4 quân số. E9B tự hào có những vị tướng đã trưởng thành từ đây như thượng tướng Lê Khả Phiêu, trung tướng Nguyễn Quốc Thước, trung tướng Nguyễn Phước Thanh, thiếu tướng Vũ Xuân Sinh...

       Lần gặp mặt này chúng tôi được kê khai về thành tích và thời gian tham gia chiến đấu trên chiến trường Lào, nghe nói sẽ được Nhà nước Lào xét tặng huân, huy chương. Tuy vật chất có thể cũng không có gì, nhưng chúng tôi đã được vinh danh (có cái treo trong nhà để dọa vợ con, hàng xóm, bọn cán bộ Phường xã quan liêu...).

         Không hiểu sao cứ mỗi lần họp mặt quân tình nguyện Việt Lào, tôi lại nhớ đến Trung sĩ 1, đến Lê Thái Thọ... với những ước mơ cháy bỏng của các anh là được công khai vinh danh về những năm tháng chiến đấu trên chiến trường K. Đơn giản vì chúng mình đều là những người lính tình nguyện của QDNDVN./.

        Hỏi thêm: các bác Tai_lienson, Q. Trung, Minhson, Linhthongtin... cũng là quân tình nguyện Việt Lào, các bác có dự ngày truyền thống 30/10 và được nhận Kỷ niệm chương của Bộ QP tặng không?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: q.trung trong 27 Tháng Sáu, 2010, 02:13:29 pm
Tôi chẳng biết gì, đơn vị cũ tứ tán chẳng biết giờ ở đâu, có cái giấy chứng nhận viết tay có dấu của tiểu đoàn từ năm 1974 chứng nhận C dài chẳng biết để làm gì, mà có phương tiện thông tin đại chúng nào báo đâu mà biết, thôi cũng chẳng sao, nhận được huân huy chương đem dọa bọn địa phương không khéo nó tìm cách đì cho thì toi. ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: taxek9 trong 30 Tháng Sáu, 2010, 06:17:03 pm
Anh bạn tôi cũng trả lời rằng: "Ngày đó chắc vẫn có F4 hay loại nào đó HT à,vì chiều 29/4 ĐC vẫn thấy có mấy tốp vỉ ruồi quần đảo khu vực Long Thành.ĐC định làm thêm vài quả cho sướng,nhưng nó bay cao quá.Chắc nó ở căn cứ nào đó bay vào để làm oai cho bọn rút chạy."

Trong chiến dịch di tản năm 1975, quân đội Mỹ chẳng những sử dụng F4 mà còn có cả F14, loại máy bay mới nhất thời đó để yểm hộ. Các máy bay F14 trực thuộc tàu USS Enterprise.

Nguồnhttp://en.wikipedia.org/wiki/Operation_Frequent_Wind (http://en.wikipedia.org/wiki/Operation_Frequent_Wind)
Nghe nói lính ngụy lái máy bay tháo chạy qua Thái lan nhiều lắm phải không các bác;có Bác nào thống kê được không-post lên qsvn cho anh em biết với ?
 Tiếc thật đấy ,bây giờ bỏ tiền sắm thì ...khằm à.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh thong tin trong 01 Tháng Bảy, 2010, 10:37:23 am
Lúc nào họp quân đi Lào, các bác a lô lên mạng cho chúng em tham gia với nhé. Bọn em là quân C ngắn nên không được coi là quân tình nguyện.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: q.trung trong 01 Tháng Bảy, 2010, 10:47:31 am
Gửi bởi: linh thong tin 

"Lúc nào họp quân đi Lào, các bác a lô lên mạng cho chúng em tham gia với nhé. Bọn em là quân C ngắn nên không được coi là quân tình nguyện "

Anh muốn đi thì liên lạc với ông Khiêng, các vị ấy có ban liên lạc, có họp hành nộp hội phí đầy đủ, vừa rồi họp đấy, anh nào hội viên được lĩnh cái huân chương, oai lắm.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: doi_bui trong 01 Tháng Bảy, 2010, 11:23:25 am
Xen ngang một chút.

      Sáng hôm nay (27/6/2010), tại nhà khách Bộ Quốc phòng (số 1 Trấn Vũ) đã có cuộc gặp mặt thân mật của các CCB sư đoàn 968 Quân tình nguyện Nam Lào. Số người đến dự độ hơn trăm rưởi.

       Lính Trung đoàn 9B chúng tôi chiếm cũng tới gần 1/4 quân số. E9B tự hào có những vị tướng đã trưởng thành từ đây như thượng tướng Lê Khả Phiêu, trung tướng Nguyễn Quốc Thước, trung tướng Nguyễn Phước Thanh, thiếu tướng Vũ Xuân Sinh...

       Lần gặp mặt này chúng tôi được kê khai về thành tích và thời gian tham gia chiến đấu trên chiến trường Lào, nghe nói sẽ được Nhà nước Lào xét tặng huân, huy chương. Tuy vật chất có thể cũng không có gì, nhưng chúng tôi đã được vinh danh (có cái treo trong nhà để dọa vợ con, hàng xóm, bọn cán bộ Phường xã quan liêu...).

         Không hiểu sao cứ mỗi lần họp mặt quân tình nguyện Việt Lào, tôi lại nhớ đến Trung sĩ 1, đến Lê Thái Thọ... với những ước mơ cháy bỏng của các anh là được công khai vinh danh về những năm tháng chiến đấu trên chiến trường K. Đơn giản vì chúng mình đều là những người lính tình nguyện của QDNDVN./.

        Hỏi thêm: các bác Tai_lienson, Q. Trung, Minhson, Linhthongtin... cũng là quân tình nguyện Việt Lào, các bác có dự ngày truyền thống 30/10 và được nhận Kỷ niệm chương của Bộ QP tặng không?


Chú cùng đơn vị ông già vợ cháu, ông bị thương năm 1968 tại Huế nhưng giờ chưa có chế độ gì cả. đang quay vào Đông Hà để xác minh.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 02 Tháng Bảy, 2010, 11:55:43 am
Bọn em vẫn nguyên đội hình E, F cả khi ở Lào ,và ở K nhưng mọi chuyện cũng phải đến khi về quân khu mới thấy cơ quan QSDP triển khai , ở chủ lực chuyện khen thưởng huân huy chương hình như không được chú ý hoặc là các trợ lý chính sách thay đổi liên tục nên nghiệp vụ không có
 Em trực tiếp làm công tác chính sách mấy năm phải nói là rất tận tâm tận lực , có thời kỳ bọn em   tổ chức khảo sát  số người được hưởng trên địa bàn rồi vác loa xuống từng xóm đọc các chế độ chính sách , cùng cán bộ địa phương mời các bác cựu đem giấy tờ đến kê khai làm chế độ . Nhưng lên đến cấp trên mới nhiêu khê,trực tiếp cử người ra Viện thi đua làm ,chi cả tiền bồi dưỡng cho bộ phận đóng dấu ... rồi sơ suất trong đánh máy chữ tác ra chữ tộ , sơ suất trong khi gửi trả chế độ lẫn địa phương này sang địa phương khácvv,, việc kéo dài cả chục năm mà vẫn không trọn vẹn . Khôi hài là ngay em làm cho em nhưng vẫn không được ....


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh thong tin trong 02 Tháng Bảy, 2010, 12:33:41 pm
Ngay cái việc thực hiện QĐ 142 cho số anh em không có lương hưu phát xong đợt 1 từ cuối năm ngoái đến nay đã giữa năm 2010 rồi mà đợt 2 (thiếu giấy tờ) vẫn chưa thấy đâu, nói chi đến đợt 3 (không còn giấy tờ).


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: q.trung trong 02 Tháng Bảy, 2010, 03:22:14 pm
Cố lên anh Linh ạ, lại còn được cả bảo hiểm ytế nữa đấy, không mất tiền, tay quân sự phường Quỳnh mai gọi tôi đem giấy tờ nộp phường. mấy tháng rồi vẫn chưa được, nhưng chắc là không trước thì sau thế nào cũng có, riêng cái chất độc da cam chẳng thấy  thông báo gì. cái qđ 142 thì tôi lĩnh rồi, mua được cái tivi lcd32 in là hết.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh thong tin trong 02 Tháng Bảy, 2010, 04:23:22 pm
Anh nộp giấy tờ cho phường để làm cái gì? Anh chưa vào Hội CCB phường à? Khi nghe phong phanh có chuyện làm BHYT miễn phí cho CCB, tôi phải nhảy vào hội luôn rồi kê khai với ông chi hội trưởng. Có cái BHYT lúc nào đi hoàn vũ được 10 tháng lương tối thiểu đấy. Bây giờ sáng nào cũng đi tập thái cực quyền với hội, vui lắm, chắc cũng còn lâu mới phải đi hoàn vũ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongadoan trong 02 Tháng Bảy, 2010, 05:15:24 pm
Các bác lạc đề thì em sẽ xóa bài và nếu còn tiếp tục lạc đề thì....

Tại sao các cụ ít chịu đọc tên topic và chịu hiểu nó nói về cái gì, về thời điểm nào thế nhỉ? ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lethaitho trong 02 Tháng Bảy, 2010, 05:45:43 pm
Các bác lạc đề thì em sẽ xóa bài và nếu còn tiếp tục lạc đề thì....

Tại sao các cụ ít chịu đọc tên topic và chịu hiểu nó nói về cái gì, về thời điểm nào thế nhỉ? ;D

TL thông cảm! Mấy lão lính này trinh độ vi tính và trình độ tham gia diễn đàn đều thuộc dạng binh nhì, binh nhất cả. Vả lại nhiều khi trong đầu nó chợt nghĩ đến cái gì là pọt luôn cái đó nên nó vậy. Ai cũng thạo như TL thì còn nói làm gì! Lúc ấy mấy cái cột điện của TL mang ra làm củi đun hết!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongadoan trong 02 Tháng Bảy, 2010, 06:05:39 pm
Thông cảm chứ, có thông cảm thì em mới chỉ nhắc, không thông cảm thì em xóa bài lâu rồi! ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Bảy, 2010, 01:00:30 pm
….
              Thời gian ở Nam đường 23 xảy ra thật lắm chuyện. Vui cũng có mà buồn cũng có. Mùa mưa đang vào độ đỉnh điểm giữa mùa. Mưa nhiều hơn, kéo dài và liên tục hơn. Người lúc nào cũng ẩm ẩm. Đi rừng lúc mưa khó chịu lắm. Quàng áo mưa thế nào cũng ướt. Gấp đôi lại mà quàng phía trên thắt lưng thôi, không dám mở to vì sợ đi rừng cây nó cào vào rách hết nilon rồi sau lại không có cái mà dùng. (Tấm nilon của lính mình là tốt nhất. Bọn địch nó cũng có nilon là tấm vải dù quét nhựa. Loại này nhẹ mềm nhưng không chống được mưa to. Còn loại Pông-xô che mưa rất tốt nhưng nặng chình chịch, chả ai muốn dùng). Phía dưới ướt đã đành, mà đầu và cổ trước sau rồi cũng ướt. Lính tráng khi đó thằng nào cũng có một cái ví vỏ nilon để đủ các thứ linh tinh. Cần giữ khô nhất là cái bật lửa và cái túi con đựng thuốc lá. Chỗ tạm trú quân có đào hầm trên dốc cao, không bị ngập nước, nhưng hầu như chả ai chịu vào nếu không có pháo bắn. Ban đêm chúng tôi cứ mắc võng sát đó mà nằm. Chỉ có về đêm mới là thời gian riêng của mình. Duỗi thẳng chân tay trên võng cho nó đỡ mỏi, hay khoanh tay trước ngực để tự ủ ấm mình mà ngủ. Mơ gì tùy thích, nhưng nhiều khi đặt lưng lên võng là ngủ như chết. Sẽ quên đi tất cả nếu nửa đêm không bị thằng khác gọi dậy gác.

              Lính Hà Nội chúng tôi vào đây mấy tháng rồi, nhưng hầu như chỉ có trong cùng C gặp được nhau, còn khác C và nhất là khác K thì chịu. Chẳng biết những thằng ở các C trên Trung đoàn thế nào. Một lần theo đại trưởng Băng về tuyến sau, tôi gặp bọn hỏa lực trung đoàn. Trong E tôi có 2 C hỏa lực. Một C có DKB và cối 120 ly. C khác có DKZ và 12ly7. Lần đó tôi gặp thằng Lân "xế lô" ở cối 120 ly. Chúng nó đi hướng Lào Ngam đường 231 về đến đó thì nhập chung với đường về của chúng tôi. Đó là một giông đồi rất cao gần huội Chăm Pi. Thằng Lân cũng chẳng cao to gì hơn tôi, vào C16 hỏa lực được ưu tiên vác cái núm "qui tỳ" của khẩu cối vì nó nhỏ con nhất tiểu đội cối. Lúc gặp nhau thấy nó lấm lem bùn đất đầy người, chào hỏi mà như mếu. Hóa ra nó đang đánh vật với cái núm qui tỳ. Đó chính là cái cục sắt có kim hỏa nằm ở cuối nòng khẩu cối, chỗ gắn với bàn đế. Cái cục đó tròn như cái cối đá nhỏ, nặng tới ba chục cân chứ không ít. Vì nó tròn nên rất khó vác. Dốc huội Chăm pi rất dốc và cao, đường từ huội lên đỉnh dốc phải tạo ngoắt ngoéo chữ chi cho dễ đi. Vì trời mưa, dốc cao, đường trơn nên thằng Lân bị trượt chân ngã liên tục. Mỗi lần như thế, cái cục qui tỳ lại lăn vào bụi rậm. Thế là lại phải hạ ba lô rồi chui vào vần ra. Cũng phải lên gân lên cốt mới kéo ra được chứ. Rồi lại đeo ba lô, lại dé chân chèo để bốc nó lên vai. Có lần thằng Lân "tối kiến" lấy dây dù buộc vào cái mấu (phần cắm vào đế cối) rồi quấn vào người với hy vọng khi ngã cái núm qui tỳ không lăn xa. Không ngờ ở chỗ dốc quá, khi ngã cái núm qui tỳ vẫn lăn lông lốc, còn sợi dây thì giằng vào cổ thằng Lân thít lại, suýt nữa thành treo cổ nằm ngang. Mấy thằng khác trong A cối cũng nặng nhọc không kém vì phải khiêng đế và nòng cối còn cồng kềnh và nặng hơn, nên chẳng giúp được gì cho thằng Lân. Gặp nó trong cảnh đấy, tôi cũng xáp vào cùng nó hì hục vần cái núm qui tỳ cho đến khi lên được tận đỉnh dốc. Người tôi cũng bê bết đất, mệt rã rời. Dạo trước lúc mới chia quân đôi khi thắc mắc là tại sao, tiêu chuẩn nào mà bọn thằng Lân, thằng Khiêm được bổ sung vào hỏa lực (luôn ở phía sau, sướng thế), còn mình lại vào bộ binh ở tuyến trước, gần hơn với cái chết. Sau vụ gặp và giúp thằng Lân vần cái núm qui tỳ lên dốc huội Chăm pi, tôi dẹp ngay cái suy nghĩ ấy. Sống chết có số. Nếu phải chết thì chết ở tuyến đầu sướng hơn, ít nhất là không phải hành quân chiến đấu quá vất vả như thế.

               Chia tay thằng Lân, tôi phải gần như chạy mãi mới đuổi kịp đại trưởng Băng. Anh ấy xạc luôn sau khi tôi nói lý do bị rớt lại. Anh ấy bảo, "ai có nhiệm vụ người ấy, nhiệm vụ của cậu là bám sát tôi nghe lệnh chứ không phải gặp đồng hương là dừng lại giúp như thế. Nếu không phải đang về hậu cứ mà đi sang hướng khác, làm sao cậu tìm được tôi". Tất nhiên là tôi sai rồi. Sau này tôi còn nhận ra là mình không đủ khả năng để làm một thằng liên lạc nữa cơ, vì sức khỏe của tôi chỉ có hạn. Hôm đó, dọc đường đi, Anh Băng lúc thì dừng lại lấy dao găm đào một búp măng mai, lúc lại rẽ ngang nương dân đào mấy củ dong riềng già hay vặt ít lá thuốc lá. Tất cả đều giao cho tôi mang. Anh ấy đang dạy tôi thêm nhiệm vụ khi đi đường luôn phải để ý tìm và kiếm đồ cải thiện thêm cho BCH. Tối về khu hậu cứ rừng già mà vắng tanh không có người, anh Băng bày tôi cách nấu các thứ. Thế là tôi biết thêm nhiệm vụ phải nấu ăn cho chỉ huy khi không đi cùng đơn vị có anh nuôi. Tôi tiếp thu rất nhanh và dần dà nấu nướng cũng khá thạo. Chỉ mỗi tội tôi không làm được nhanh và không lanh lợi bằng anh Liêu (cũng là liên lạc) người Bắc Thái vào chiến trường trước tôi hai năm. Anh ấy rất khỏe, có thể vác thay cả ba lô cho thủ trưởng. Hai ba lô mà đi băng băng, dọc đường dừng lại đào vội một củ măng mai bên đường mà vẫn theo kịp đội hình hành quân đơn vị. Ngay cả khi ở hậu cứ có anh nuôi nấu cơm chung, ngoài cơm và thức ăn chia giống như lính, bao giờ anh Liêu cũng nấu thêm một món thức ăn khác bổ sung cho bữa ăn của các thủ trưởng (và của cả liên lạc nữa).

               Được dịp đi theo chuyến công tác về hậu cứ hội họp của thủ trưởng, tôi cũng có thêm điều kiện gặp lính Hà Nội ở các đơn vị khác để hỏi thăm tin tức của nhau. Có một chuyện của thằng Tuấn "đen" làm lính Hà Nội bọn tôi không được vui. Tôi đã kể về thằng này ít nhiều trong những trang hồi ức trước. Nó ở cùng B với tôi từ ngày mới vào lính (C36 D50) ở trong dốc Bụt (Hòa Bình), rồi lại cùng nhau chuyển ra ngoài C40 D52 ở khu suối cạn ngoài Bãi Nai. Thằng này chỉ tội đen thôi, chứ khuôn mặt nó rất đàn ông và đẹp trai, dáng dấp khỏe mạnh. Đặc biệt nó có giọng hát rất trầm ấm. Nó không hát nhạc vàng, nhưng lúc sinh hoạt đại đội, nó hát mấy bài thời tiền chiến như bài "Đêm đông"… thì nghe tuyệt vời lắm. Lẽ ra nó phải vào Văn công thì hợp hơn, nhưng lúc đó người ta cần thêm tay súng chứ không cần thêm giọng ca, nên nó vẫn đi B cùng chúng tôi. Nó còn hơn những thằng như tôi là đã có người yêu (lại rất xinh nữa chứ). Người yêu tiễn nó vào bộ đội và tiễn nó cả lúc đi B với những lời thề non hẹn biển. Người yêu của nó nói "chỉ cho anh đi B 6 tháng thôi" và nó đã đinh ninh lời dặn ấy. Thời gian phía trước trôi đi thật chậm lúc người ta mong ngóng, nhưng lại trôi quá nhanh khi ta ngoái đầu nhìn lại. Kể từ lúc chúng tôi rời Đại Mỗ (Hà Đông), hành quân qua Trường Sơn rồi vào đơn vị, hưởng mùa mưa đầu tiên trong chiến trường thì sáu tháng trời đã trôi qua lúc nào không biết. Những người lính theo đoàn quân hành quân rầm rập vào Nam thì chúng tôi ai cũng biết, nhưng con đường trở ra Bắc sẽ như thế nào thì lại không ai hay. Có một điều chắc chắn rằng không ai dám mong đó là đường về trong đoàn quân ngày  chiến thắng, vì ai biết bao giờ mới kết thúc chiến tranh. Thằng Tuấn "đen" hiểu lờ mờ con đường về trước mắt chỉ có thể là con đường lẻ loi đối với cá nhân từng người lính mà thôi. Thế là nó đã tự chọn cho mình con đường đau thương nhất: tự thương. Nó lấy đủ loại khăn vải quấn quanh cổ tay rồi dùng súng AK tự bắn vào tay mình trong một lần K15 của nó ra tuyến trước.

               Các bác sĩ (và cả y sĩ, y tá) trong chiến trường là những chuyên gia bậc thầy về giám định vết thương. Kết hợp với tình huống chiến đấu và vết đạn, mùi khói súng trên vết thương, họ dễ dàng bắt được thằng Tuấn nói ra sự thật. Nó được đưa về trạm xá trung đoàn. Nó cũng được chữa chạy, nhưng không được đối xử tử tế như những thương binh khác, nếu không muốn nói là bị phân biệt. Người ta khinh rẻ nó ra mặt và luôn bỏ rơi nó. Những thương binh khác bị vết thương như thế chỉ cần hai tuần là khô vết thương, sau một tháng có thể được giám định sơ bộ để chuyển ra Bắc hay đưa trở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu. Vết thương của thằng Tuấn "đen" tới sáu tháng sau vẫn chưa lành. Tới tận sau hiệp định Viên chăn (Hiệp định đình chiến tại Lào này ký sau Hiệp định Pari - Việt Nam một tháng và cũng có ý nghĩa giống như Hiệp định Pari vậy), thằng Tuấn vẫn còn ở trên Trạm xá Trung đoàn. Chúng tôi đi công tác lên đó gặp nó không được tự do mà phải hạn chế trong một phạm vi nhất định. Những thằng đào ngũ đã quay lại đơn vị cũng không bị đối xử đến mức như nó. Sáu tháng rồi mà vết thương của nó vẫn không lành, có lúc còn đầy ròi, tưởng như phải cắt bỏ cả cái tay. Vết tiêm trên bắp tay của nó cũng bị áp-xe, nhiễm trùng. Nó không được cấp đủ thuốc mà cũng không dám kêu, vì mở mồm ra là bị mắng chửi. Có lúc muốn ép mủ từ vết thương ra mà không có người giúp, nó phải nhét gấu áo vào mồm cắn chặt rồi ra nắm chặt tay vào một cành cấy, nén đau lên gân vặn cho cơ tay nó ép mủ trào ra. Một lần thằng Kim "con" cùng C lên gặp nó đúng lúc như thế đã xông vào giúp rồi chửi ầm lên mắng y tá, nhưng đã nhanh chóng bị tống cổ ra khỏi khu quân y. Sau thằng Kim "con" gặp kể lại chuyện cho tôi, tôi cũng thấy rơm rớm nước mắt vì thương thằng Tuấn. Dù sao nó cũng là đồng đội, là đồng hương Hà Nội với tôi.
 
                Chúng tôi không nghĩ là người ta lại có thể xử ác như thế với thằng Tuấn, tuy nó có lỗi lầm. Nhưng hèn nhát chưa chắc đã phải là một cái tội. Thằng Tuấn phải tự lau rửa vết thương cho nó bằng nước muối pha. Khổ thêm một nỗi là mùa mưa năm đó, trung đoàn chúng tôi cũng thiếu muối. (Nhiều khi trong đơn vị chúng tôi không nấu thức ăn có muối, mà muối nhận về được đếm hạt chia theo đầu người để tự bảo quản và sử dụng. Chuyện này tôi sẽ kể riêng sau). Lính Hà Nội chúng tôi thương nó tìm cách góp muối gửi cho nó để nó tự rửa vết thương. Chuyện này cũng phải làm giấu chứ không dám công khai. Có lẽ tình đồng đội cũng giúp được nó ít nhiều để cuối cùng cái tay của nó cũng trở nên lành lặn. Mãi tới cuối mùa khô năm 1973, Tuấn "đen" mới được ra Bắc, tất nhiên không phải với tư cách là một chiến sĩ quân giải phóng. Lính Hà Nội chúng tôi chẳng ai biết mà tiễn nó. (Sau năm 1985 tôi có gặp lại, nhưng nó không muốn nói chuyện nhiều. Chúng tôi có mời nó đến gặp mặt vào ngày nhập ngũ 4/9 tổ chức hàng năm, nhưng không lần nào nó đến. Có lẽ nó còn tự mặc cảm thôi, chứ chúng tôi cũng không nghĩ xấu về nó).

…..


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: kisilangthang trong 03 Tháng Bảy, 2010, 01:07:22 pm
Thông cảm chứ, có thông cảm thì em mới chỉ nhắc, không thông cảm thì em xóa bài lâu rồi! ;D
@Bác Trọng, tại bác lâu lâu mới hành quân tiếp làm cho các bác khác tranh luận lại dẫn đến lạc đề ??? Có điều kiện thì bác nhớ hành quân liên tục nhé bác :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh thong tin trong 05 Tháng Bảy, 2010, 04:55:12 pm
Bác admin ơi, không biết trong trang quân sử này có topic nào giải đáp về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước giành cho CCB không để anh em thắc mắc còn biết đường hỏi nhau. Nếu chưa có thì đề nghị mở riêng một tôpic chuyên về khoản này. Xem ra nhiều người hãy còn mù mờ về chế độ chính sách lắm. Hỏi phường thì phường bảo chưa có hướng dẫn hoặc không nắm được. Không có nhẽ lại vượt cấp lên quận hỏi (như cái đoạn giấy XYZ ấy).


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dongadoan trong 05 Tháng Bảy, 2010, 05:08:38 pm
Diễn đàn quansuvn không phải của Nhà nước, Quân đội hay Bộ LĐ-TB&XH nên không có chức năng "giải đáp" về chế độ, chính sách bác ạ!

Tuy nhiên, nếu các bác CCB muốn tự hỏi - tự đáp nhằm giúp nhau hiểu thêm và có thể qua đó giúp nhau có quyền lợi chính đáng thì BQT và cá nhân em sẵn sàng ủng hộ. Mời các bác tạm mở topic về vấn đề trên dưới box Quán nước trong khi chúng em nghĩ cách "quy hoạch" cho nó! ;D 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Bảy, 2010, 09:48:29 am
……
              Bọn lính Nam Hà vào sau chúng tôi hai tháng đánh nhau rất gấu. Đoàn Tân binh đó chỉ đông hơn đoàn chúng tôi một chút. Trong khi đoàn Hà Nội chưa có lính nào hy sinh, thì lính Nam Hà đã bị hy sinh và bị thương khá nhiều. Không riêng các K15 và K16 ở hướng đường 231, ngay trong K18 chúng tôi khi thay chốt đánh nhau cũng như vậy. Có trường hợp bị thương rất đau lòng. C6 chúng tôi đã phải chi viện để đi khiêng thương binh tử sĩ. Có lần tôi khiêng một thương binh Nam Hà ở C5. Thằng này mang AK, lúc đánh đường 231 vận động lên cùng đội hình lại chạy ngay sau thằng B40. Thằng mang B40 khi bắn không quan sát phía sau, cứ thản nhiên làm "rầm" một phát. Quầng lửa phụt lại trúng luôn vào mặt thằng tân binh. Thằng này bị bỏng nặng, khiêng về cứu sống được nhưng bị mù hai mắt. Súng AK của nó chưa bắn viên nào. Trận đánh đầu tiên cũng là trận cuối cùng trong đời của người thương binh nặng (chắc là hạng cao nhất) mới 18 tuổi đó. Chúng tôi vừa khiêng vừa thương nó, nhưng cũng trách thầm sao tập tành không đến nơi đến chốn.

               Trong C tôi có thằng Lễ (Nam Hà) cũng hăng máu lắm. Lính mới vào chỉ có AK, thế mà nó chỉ sau một đợt ra tuyến trước đã được giao B40 và cứ khư khư như bảo bối không nhường ai. Thằng Lễ ít nói, tính tình lạnh lùng. Ngày còn ở nhà, máy bay Mỹ đến ném bom vào làng trúng ngay ngôi nhà nó. Mẹ nó cùng hai đứa em gái bị chết. Nó cùng bố ra đồng cày đất nên thoát chết. Nó đã phải tự tay chôn mẹ và em. Vì thế mới hơn 17 tuổi một tý, nó đã nằng nằng đòi đi bộ đội. Văn hóa thấp, trình độ có hạn, học chính trị được phát biểu thì chỉ độ 3 câu là nó chửi Mỹ. Có lúc CTV phải ngăn nó mới dừng để người khác còn phát biểu. Thằng Thái "pi-tơ" có một lần chỉ lỡ phát biểu rằng "Trai thời loạn phải đi đánh nhau chứ thích thú chó gì", thế là nó xông vào đấm đá thằng Thái, nói là không biết căm thù giặc, là đồ hèn. Thấy nó thái quá như thế nên từ đó về sau chúng tôi tránh không nói đến chuyện chính trị với nó nữa. Đấy chỉ là ở hậu cứ, còn ra tuyến trước thì nó hăng lắm, lúc nào cũng đòi đánh nhau. Vừa mới nổ súng đã đòi hô xung phong, khiến có lúc tôi nghĩ, ở cùng thằng này có ngày chết oan. Nhưng cũng chính vì thế mà có lần nó bắt được tù binh, mặc dù thời gian ở Lào chúng tôi rất ít bắt được tù binh. Bọn lính Lào chạy nhanh lắm. Kể cả bị thương nhẹ, nếu trong tình huống rút lui là nó biến mất rất nhanh. Còn nếu nó bị thương nặng là chúng tôi "bòm" luôn. Khiêng thương binh của mình vượt suối leo dốc cao đã mệt bỏ mẹ, giờ ôm thêm chúng nó vào thành tích chả thấy đâu, chỉ tổ ốm xác. Mà khai thác gì cái bọn tù binh này, chúng cũng chỉ là lính trơn. Mùa mưa nống ra thì phải đánh nhau nhì nhằng chứ kế với hoạch quái gì. Thế mà lần phục kích ấy, vừa nện xong quả B40, xung lực AK còn đang quạt "tằng tằng…" thì thằng Lễ đã lao ra đường tống cả cái nòng B40 không đạn vào ngực tên địch làm thằng này hoảng quá ngã lăn ra, giơ vội hai tay, chưa cần phải nghe lính ta hô "Ọc ma nhom bò tải" (hàng thì không chết). Chỉ khổ là sau đó đơn vị lại phải trích ra hai người để giải thằng này về tuyến sau. Mà lúc giải nó đi cũng khổ. Phải trói nó hai tay, lại buộc luôn một khúc gỗ to và dài vào người nó cho yên tâm, chứ nếu không lúc qua suối sâu, dù đi đất hay đi giày, nó cũng đi phăm phăm lôi lính mình trượt ngã lên ngã xuống dưới lòng suối.

               Chỉ mới vào đơn vị được 3 tháng, đánh vài trận, khi A trưởng hy sinh là thằng Lễ lên làm A trưởng luôn. Tiểu đội nó có cả thảy 5 người. Bốn thằng lính trong A nó rất vất vả vì nó quá hăng hái. Lúc ở hậu cứ, chỉ mới nghe cán bộ đại đội nhắc anh em củng cố lán trại cho tươm tất một chút, thế là ngay trưa hôm đó nó kéo cả A bỏ giờ nghỉ sang tít tận cái rừng bên cạnh chặt nứa. Nói là bên cạnh thôi nhưng cái rừng đó cách chỗ chúng tôi hai cái dốc, đi không cũng phải bở hơi tai mất 30 phút. Lại phải mất thêm buổi trưa không nghỉ nữa để thưng lại mấy cái bức liếp quanh hầm thùng. Nếu là A khác thì  lính kêu bằng chết, nhưng lính của A  nó thì không dám kêu to vì sợ nó chửi. Thằng này chửi cũng đơn giản lắm, không văn hoa gì đâu mà chửi bậy rất tục, gọn và cục cằn. Đôi lúc thấy nó chửi lính A nó, tôi thầm mừng là may mà mình không bị ở cùng nó. Tôi lại còn cười thầm là thằng này chửi văng ra mấy thứ bậy bạ như thế, nhưng chắc đếch gì nó đã một lần được nhìn thấy cái của mà nó văng ra. Mà của đáng tội là thằng này cũng không phải là loại khéo tay hay thạo việc nhà, nên cái vách hầm thùng bên A nó tuy được thưng lại mới nhưng chỉ kín chứ không đẹp. Nói vụng chứ nó không hơn cái nhà cầu của A khác bao nhiêu.

               Dạo chúng tôi ở hậu cứ gần bản Xăm-xi-nuc "may", nhiều đêm có máy bay địch đến gọi loa kêu chiêu hồi. Mới đầu chúng tôi không để ý, chỉ thấy lạ là lúc bắt đầu tổ chức canh gác (khoảng 9 giờ tối) thì nghe trên đầu có tiếng máy bay ì ì rất nặng rồi nghe như có tiếng loa, tiếng được tiếng mất. Sau chú ý thì thấy vào đêm trời quang có máy bay vận tải của địch bay chậm trên các cánh rừng. Rừng già rất dày nên nó không thể nhìn thấy chỗ chúng tôi đóng quân, nhưng chắc nó cũng khoanh được vùng tọa độ. Không biết nó bắc loa trên máy bay kiểu gì mà nghe cũng khá rõ. Nó nói tiếng Việt, kêu gọi chúng tôi trở về miền Bắc hoặc ra Pắc-xế đầu hàng. Nó cũng đọc tên của lính mình mà nó bắt được. Thời gian chúng tôi ở Lào, số lính mình bị bắt làm tù binh rất ít, song cứ có vụ nào là nó lại bay và gọi loa rỉ rả suốt đêm. Điều đặc biệt là nghi ngờ vùng đóng quân của chúng tôi, nhưng chúng lại không dội bom tọa độ. Có thể chúng cho rằng cái máy bay ấy bay gọi loa sẽ phủ được trên cả một vùng rộng mà B52 nếu có ném bom cũng không xuể chăng. Một điều khác nữa là nó chỉ gọi loa chứ không thả truyền đơn chiêu hồi như trên chiến trường B3. Một lần trời quang có máy bay bay như thế, thằng Lễ nổi khùng vác AK xả hết gần một băng lên trời ở cái bìa rừng nơi A nó đóng quân. Tất nhiên là không thể bắn tới cái máy bay ấy được, nhưng nó tức quá mà bắn. Cái máy bay chắc cũng không phát hiện ra nên chẳng đếm xỉa gì đến chuyện đó. Chỉ có chúng tôi được phen hoảng hồn lo lắng. Thằng Lễ bị gọi lên BCH đại đội, nhưng vì cái lý căm thù giặc kèm theo cái nhận thức thấp của nó, cộng với việc hậu cứ vẫn chưa bị lộ nên nó chỉ bị khiển trách và rút kinh nghiệm.

              Mới tuổi thanh niên nhưng thằng Lễ đã hói đến 1 phần 3 đỉnh đầu. Mặt mũi nó lúc nào cũng sứt sẹo vì khi đi đường có mấy khi nó chọn đường quang đâu. Khi lùng sục thì cứ thẳng hướng mà đạp đường, bụi gai thường chứ tre gai hay mây song nó cũng không ngại. Thế nên vết cào cũ chưa liền da thì đã vết mới đã xuất hiện. Quần thì hầu như lúc nào cũng ống thấp ống cao, xộc xệch. Ở hậu cứ thì thế đấy, nhưng lúc hành quân hay chiến đấu thì thằng Lễ chững chạc hơn nhiều. Nó chẳng ngại khó và nguy hiểm nên chúng tôi rất nể và quý nó. Vì cái chuyện chết hụt khi ở nhà nên nó bảo số nó không chết được. Có lẽ thế thật. Vào chiến trường được hơn một năm thằng Lễ đã được kết nạp Đảng. Sau này khi về miền Nam, đi đánh chốt được vài trận, nó được rút lên học quân chính trên sư đoàn. Về sau nó được bổ nhiệm về làm B trưởng bên E64 (theo chính sách đảo quân của B3) và không về đại đội nữa nên chúng tôi cũng mất tin tức về nó luôn.

              Ngoài thằng Lễ nổi bật ra, bọn lính Nam Hà khác cũng sàn sàn như bọn tôi. Ngoài chuyện đánh nhau và cùi cõng ra, những kinh nghiệm sống của chúng nó cũng không hơn gì chúng tôi. Có lẽ quê chúng nó là vùng đồng chiêm trũng, nghề phụ không có gì nên vào lính cũng không có gì đặc biệt để thi triển. May chăng có món bơi lội và bắt cá, nhưng ở rừng thì những món này ít gặp. Trong đơn vị tôi rất ấn tượng với các anh lính quê rừng núi và các anh Hà Tây. Đặc biệt là có anh đã đi làm chán chê rồi mới vào lính. Anh Liêu liên lạc với tôi cũng vậy. Đợt ở đường 23 dài ngày, chính anh ấy đã tìm và chỉ cho chúng rôi những cành Gắm trong rừng già. Khi đói thì ăn quả gắm cũng tốt lắm. Khai thác nó cũng phải cẩn thận. Phải cho vào bao cát rồi đem ra suối chà cứ nếu để lông gắm dính vào tay chân thì ngứa bằng chết. (Vào chiến trường tôi mới biết đến từ "bao cát". Thực ra nó là của địch. Có hai loại bao cát, một loại bằng vải dứa, một loại là sợi tròn như vải. Tất cả đều là dạng sợi tổng hợp pha nilon. Kích cỡ của nó chứ được từ 15 đến 20 kg đất. Cho đất vào đó rồi buộc túm lại để đem đắp lên làm công sự. Hầu như trận đánh nào, trừ những trận phục kích, chúng tôi cũng phải đem theo bao cát làm công sự cho nhanh). Hạt gắm đem rang ăn rất bùi. Anh Liêu bảo quê anh ở Bắc Kạn có rất nhiều cây gắm trong rừng, nhưng quả nhỏ hơn trong này. Về sau anh ấy còn giúp chúng tôi đào cả củ mài nữa. Trong thời gian làm liên lạc cùng anh Liêu, anh ấy còn dạy tôi cách sao chè. Tranh thủ lúc đi cải thiện hay đi công tác qua các bản bỏ ở đường 23, anh ấy dẫn tôi tạt vào vườn chè để hái. Ngắt ngọn 3 lá là vừa và ngon nhất, anh ấy hái rất nhanh, chỉ đi lướt lướt qua mà hái được rất nhiều. Khi về hậu cứ anh ấy lấy mảnh tôn ra bắc bếp và bỏ chè vào sao. Chè hái ở vườn không báo giờ rửa, có thể mới nguyên chất. Đảo một lúc trên bếp lại phải bỏ ra miếng tôn khác để vò cho nó mềm đều. Cứ như thế vài lượt, tay thì đen nhẻm vì nhựa chè, còn sản phẩm là một ít chè móc câu đàng hoàng. Không có hương bưởi hương sen, nhưng như thế là quá tuyệt. Ngoài ra anh Liêu còn dạy tôi cách tìm dây lông beo trong rừng. Loại dây này sau khi bứt đem xoắn lại cho mềm hoặc tết nhiều sợi lại thì được sợi dây còn bền hơn dây thừng. Càng ngâm nước càng chắc nên dùng trong mùa mưa thì không gì bằng. Anh ấy còn dạy tôi cách buộc các nút thắt, thật không khác gì trong sổ tay của các hướng đạo sinh thưở trước. Phải chăng chính những điều như thế đã giúp tôi trở thành một người chăm làm và tháo vát khi ra quân trở về với cuộc sống đời thường?

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 10 Tháng Bảy, 2010, 03:47:30 pm
Chuyện bác kể về bác Lễ hay thật ,một mẫu người mà ở đơn vị nào cũng có ,có thể hoàn cảnh xuất thân của họ khác nhau nhưng có cái  chung là sự hăng hái nhiều lúc thái quá có thể dẫn đến những hy sinh không đáng có , nhưng chính những người lính mang tâm hồn trong sáng có  nhận thức mộc mạc đó là nòng cốt  là chất xúc tác của ý chý chiến đấu trong đơn vị .Nếu đơn vị không có những người lính như vậy thì sức mạnh giảm thiểu biết bao nhiêu
 Tuy nhiên các bác đó được đào tạo bồi dưỡng chỉ huy đến cấp C là tốt , lên nữa chắc sẽ gặp nhiều khó khăn


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: q.trung trong 10 Tháng Bảy, 2010, 04:28:25 pm
Tôi đọc cho các bạn nghe một mẩu thơ tâm lý chiến trên truyền đơn thả đầy rừng núi khi chúng tôi mở chiến dịch 139 năm 1969:
  " Từ ngày con lên đường xa mẹ
     Theo anh em sang Lào rồi dấn bước vào Trung
     Non xanh nước biếc chập chùng
     Sớm nắng biển chiều mưa rừng, gian khổ...

 Gì gì đó rồi đến:
   
    ...đã nhiều lần tay con run rẩy
      Khi gài mìn và sau bỗng thấy
      Xác người tung, và máu đổ chan hoà...

Lâu quá rồi không nhớ được nữa nhưng mà hồi đó vừa đọc vừa cười tủm, cái bọn củ chuối. Vừa ăn cướp vừa la làng. Mắt mình nhìn thấy nó giết dân như nghoé mà nó lại đổ cho mình, Hồi đó nó còn lợi dụng việc bác Hồ mất. nó bảo hết người lãnh đạo rồi, về hồi chánh theo chánh nghĩa quốc gia, các em gái hậu phương đang mỏi mòn chờ đợi. he he. nhiều cái ngớ ngẩn buồn cười lắm ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 10 Tháng Bảy, 2010, 04:33:48 pm
Tiếp :.
sớm nắng biển chiều mưa rừng gió biển
.''Chiều Trường sơn núi rừng cô quạnh
 Mẹ hiền ơi con chợt nhớ quê nhà
 Khói lam chiều dàn mướp lá lên xanh
 Con bướm trắng mái đình xưa nhớ quá ....
 Truyền đơn này hồi 72 máy bay Mỹ thả xuống quê em trắng đồng cùng nhiễu B52 , bọn trẻ con đứa nào cũng thuộc


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Mr.Ngan trong 10 Tháng Bảy, 2010, 09:50:22 pm
Lâu quá rồi không nhớ được nữa nhưng mà hồi đó vừa đọc vừa cười tủm, cái bọn củ chuối. Vừa ăn cướp vừa la làng. Mắt mình nhìn thấy nó giết dân như nghoé mà nó lại đổ cho mình, Hồi đó nó còn lợi dụng việc bác Hồ mất. nó bảo hết người lãnh đạo rồi, về hồi chánh theo chánh nghĩa quốc gia, các em gái hậu phương đang mỏi mòn chờ đợi. he he. nhiều cái ngớ ngẩn buồn cười lắm ;D
Hơn hai tháng trước, tôi có một chuyến đi vào Pleiku đi theo đường Hồ Chí Minh, qua đoạn Khe sanh, a sầu, a lưới, có bác Thanh đi cùng đoàn khi xưa  là lính cận vệ của Tướng Chơn có kể là vào năm 1969 khi Bác Hồ qua đời, đúng là quân ta có một khoảng thời gian ngắn tinh thần giảm sút, hoang mang giao động vì sự ra đi của Bác, Lãnh tụ của cuộc cách mạng..Bên kia chiến tuyến, kẻ thù cho máy bay dùng loa ra rả tuyên truyền rằng Cộng sản Bắc Việt đã như rắn mất đầu...càng làm cho tình hình quân ta rối ren..


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 19 Tháng Bảy, 2010, 08:26:08 am
……
              Mùa mưa đầu tiên trong chiến trường tôi đã hưởng cái đói. Mà kể cũng lạ, khi ở nhà tiêu chuẩn gạo cán bộ của bố mẹ tôi chỉ có 13,5 kg một tháng (tôi khi đang là học sinh lớp 10 được hưởng cao nhất là 15 kg một tháng) thế mà sao vẫn đủ ăn, không thấy đói. Mà tiêu chuẩn đó là quanh năm, niềm mơ ước được đong gạo bông không bao giờ sợ đói so với dân làng ở quê đấy nhé. Vào trong chiến trường tiêu chuẩn là 21 kg một tháng, nhưng đó là trên giấy thôi, còn thực tế là có đến đâu phát đến đấy, thường là ít hơn. Bắt đầu từ lúc ăn 5 lạng một ngày là thấy đói, thấy thèm ăn rồi. Mà ở đất Nam Lào này mùa mưa chỉ có gạo nếp. Mùa khô thì có gạo đồ của Trung Quốc, thứ gạo không nở và không thể nấu thành cháo. Thành ra gạo nào thì cũng đói. Trên chiến trường Lào, lúc gay go nhất là ăn 3 lạng một ngày. Mỗi bữa một lạng cơm nếp nắm lại chỉ to hơn quả trứng vịt. Nhưng cơm nếp có ưu điểm là để được lâu hơn. Đi chốt cả ngày hay thậm chí 2 ngày chỉ cần tiếp tế cơm một lần. Khi nấu cơm nếp cho tí muối vào là đủ độ đậm, không cần thức ăn. Cũng vì trong đầu lúc nào cũng nghĩ đến ăn nên lính tráng đi đến đâu cũng ngó nghé tìm ăn. Của rừng cũng được mà của dân cũng xong. Bản bỏ ven đường 23 nhiều đấy, nhưng không phải lúc nào cũng được đi qua, hay cây cối cũng phải có thời gian cho nó mọc chứ. Thế là cái từ "bài ca ống cóng" ra đời. Lính mà kém cái phần "ca cóng" là coi như kém hẳn một khả năng để tồn tại.

          Đợt cuối tháng 8 năm 1972 các đơn vị phải đi cùi cõng gạo đạn chéo cho nhau nhiều lắm. Thông thường cùi từ kho trung đoàn về kho dã chiến tiểu đoàn. Khi các C đi nhận gạo từ kho tiểu đoàn về, chúng tôi không được lĩnh gạo theo cân có đóng bao, mà nhận gạo theo đong soong. Một gạt bằng của soong 6 tương đương 5 kg gạo. Tức một nỗi nữa là cái soong dùng để phát gạo cho lính gao giờ cái đít cũng bị lõm vào trong một ít, nên một soong chắc không đủ 5 cân. Đi lĩnh gạo từ kho tiểu đoàn về C thì chúng tôi rất nghiêm chỉnh. Chỉ khi cùi gạo trung chuyển chúng tôi mới giở trò. Thoạt đầu chúng tôi cũng hiền lắm, nhưng hiền cũng không xong. Lúc nhận gạo ở kho trung đoàn, thường bọn ở kho đong cho chúng tôi bắng cái soong lõm đít. Khi trả gạo ở kho tiểu đoàn thì bọn ở đây lại nhận bằng cái soong lồi đít. Thế nên bao giờ chúng tôi cũng bị thiếu gạo. Tình ngay lý gian, lính tráng bị chửi mắng, nhưng chúng tôi cùi cõng theo cả đội hình, có cán bộ C đi kèm thì làm sao ăn cắp gạo. Có tụt hết tất cả ra mà khám thì cũng chẳng tìm được gì, cuối cùng là hòa cả làng. Vậy là 2 thằng thủ kho 2 đầu ăn gian đã dạy cho chúng tôi cũng chẳng cần thật thà làm gì cho mệt. Thế là dù không bảo nhau, nhưng thỉnh thoảng (chỉ thỉnh thoảng thôi) khi cùi gạo, lúc qua suối, thằng nào không phải mang súng là xoay cái cùi gạo nặng hơn hai chục cân của mình lại, ôm chặt trong lòng rồi vừa lội suối vừa cởi nút bốc ra một nắm gạo cho vào cái bình tông đeo bên mình, rồi buộc lại xong nút gùi thì cũng vừa vặn đi qua bên bờ kia suối. Làm thế không dễ đâu nhé, nhưng rồi cũng làm được. Mà ở cái bình tông cũng phải có độ non nửa là nước trong đó, vừa để ngụy trang, vừa không làm cho gạo bị nát mủn. Buổi chiều về đến nhà gom lại chui vào góc hầm nấu cháo là tối đến mỗi thằng cũng được lưng bát cháo hoa. Làm ít và kín đáo nên mùa mưa đó chúng tôi chưa bao giờ bị lộ. Âu cũng là cảnh đói ăn vụng, túng làm liều như các cụ đã dạy.

               Đấy là đánh lẻ khi ở hậu cứ. Ra tuyến trước thường không có gì. Trong rừng chim thú cũng nhiều, nhưng phải tùy vùng. Lại phải giữ bí mật nơi trú quân, nên thường chỉ có đi lùng sục lẻ mới có thịt thú rừng ăn. Đợt cuối tháng 8 năm đó, chúng tôi còn được đi cải thiện thịt ngựa theo chủ trương của tiểu đoàn. Số là khi ta giải phóng thị trấn Pắc-Soong, địch rút chạy đã đành, cả dân ở trong toàn thị trấn và ven đường 23 cũng chạy tứ tán. Các loại gia cầm gia súc được tháo cũi sổ lồng chạy hết vào rừng. Bên Lào thì chỉ cần đi ra khỏi bản độ vài trăm mét thì đã là rừng rồi. Ngày đầu chính sách dân vận được thực hiện nghiêm lắm, nhưng trò đời cái gì để lâu chẳng hóa bùn. Đuổi địch mãi thì cũng phải có lúc dừng lại làm hậu cứ trú quân. Lúc bận quá không sao, nhưng lúc có tí rỗi rãi, tất "nhàn cư vi bất thiện", mà cái bất thiện đầu tiên tất phải hướng đến cái dạ dày. Lính tráng trong các C tìm dịp lần mò quay lại các bản cũ tìm ăn, dù đường xa có khi tới trên hai chục cây số. Cái gì ngon xơi thì làm trước, hết nạc là vạc tiếp xương. Lũ gà vịt vốn là loài thuần hóa, không thể bỏ đi xa, chạy loạn chỉ ít hôm là phải quay về kiếm ăn quanh bản nên được hóa kiếp đầu tiên. Tiếp theo là đám lợn lười nhác và ngốc nghếch lần lượt chui vào bếp lính. Giải phóng Pắc-Soong nửa năm thì các bản trở thành bản hoang hết lượt. Tuy thế có hai loài nhanh chóng thích nghi với đời sống hoang dã của tổ tiên chúng bởi dễ kiếm cái ăn trên những bãi cỏ mênh mông ven các cánh rừng, đó là bò và ngựa. Chúng sống luôn trong rừng và xa lánh con người, nên đã tồn tại được trước sự tham ăn và thèm khát của những anh lính Bắc Việt. Nhưng chết nỗi là loài vật cũng nhiều khi có tình có nghĩa. Chúng chưa hoang dã hoàn toàn nên đôi khi cũng nhớ chủ, nhớ chuồng. Thỉnh thoảng chúng cũng về kiếm ăn ở các bãi cỏ cạnh bản.

          Đầu tiên không ai để ý điều này, nhưng bọn lính trinh sát trên trung đoàn phát hiện ra trước. Bọn trinh sat E vốn được đi loăng quăng nhiều nơi trên địa bàn rộng và chỉ thật bân bịu khi đánh cỡ Tiểu đoàn trở lên (mà những trận đánh như thế thì cả năm có khi đếm chưa hết 5 đầu ngón tay). Đầu tiên chúng nó ngỡ là của dân đang chăn thả, vì một số bản phía trong Cao nguyên vẫn có dân, mãi sau mới đoán ra là những con thú đi hoang. Lúc đầu là trung đoàn cho các C trực thuộc bắn để cải thiện chất tươi. Về sau dưới các tiểu đoàn cũng tham gia cải thiện. Các đại đội cử lính, thường là tốp 3 người về vùng quanh thị trấn Pắc-soong tìm kiếm. Những con bò chậm chạp hơn nên bị săn bắn trước tiên. Ba thằng lính cũng không khiêng nổi con bò, nên sau khi cắt sẻ mang được bao nhiêu thì mang, còn lại vứt đó về báo tọa độ cho các C khác trong tiểu đoàn  đến lấy nốt. Cũng có khi gặp lính C trực thuộc thì chia sẻ luôn, ngược lại cũng vậy. Ở vùng này hiếm thú dữ nên khá an toàn. Bắn được bò thì bao giờ nhóm cải thiện cũng phải chén trước. Thường chúng tôi đi săn phải mất hai ngày, lại xa địch nên thể nào cũng nổi lửa thưởng thức trước đã. Sau đó thì tùy tình hình mà trở về. Hôm nào bắn được bò vào lúc chiều tối thì nghỉ luôn tại chỗ, hôm đó là khỏe nhất. Mà cả con bò chúng tôi cũng chỉ lọc lấy phần thịt, còn xương, da và đầu, chân vứt lại. Đấy là lúc đầu thôi. "Miệng ăn núi lở" nên dần dà về sau mang được đến đâu là mang tất về, anh nuôi khắc lo chế biến.

          Rồi bò cũng tuyệt chủng luôn. Lúc ấy chúng tôi phải quay sang bắn ngựa. Những con ngựa nhanh lắm, nên gặp bất thình lình thường không bắn được mà phải phục kích. Mỗi lần đi săn phải dài ngày hơn. Bây giờ thì các anh người dân tộc phát huy thế mạnh vì khi ở nhà họ cũng đã quen săn bắn. C nào cũng có lính dân tộc nên thế mạnh ngang nhau. Đại đội tôi có anh Quân (Mường) cũng thiện nghệ lắm, nhưng anh ấy là B trưởng nên không thể cử đi bắn ngựa. Thường là C tôi cử anh Sơn (Tày) làm tổ trưởng đi săn, còn lại là lính như bọn tôi. Mỗi lần đi thì chỉ có khác nhau là dài hay ngắn ngày thôi, chứ thể nào đại đội cũng có thịt ngựa ăn. Thịt ngựa đem về chỉ làm độc mỗi món luộc chấm muối, ăn cứu đói rất tốt nhưng nói thật là tôi thấy nó không ngon, cũng gây gây như kiểu thịt khỉ. (Chắc là do khi đó chẳng có rau cỏ gia vị gì để chế biến chứ bây giờ người ta bảo thịt ngựa Sóc Sơn đem về Hà Nội bán được chế biến ngon còn đắt hơn cả thịt trâu, thịt bò).

               Vào cái giai đoạn mà cả bò và ngựa hoang đã vãn ấy, một lần cả trung đoàn được thông báo C hỏa lực bắn được một con voi rừng rất to bên đường xe bò gần bản Pắc-Kụt, các đơn vị cử người đến mà xẻ thịt. Chả có chia bôi gì, anh nào đến trước lấy được bao nhiêu cứ lấy. C tôi cũng vội cử 3 người mang theo gùi và dao sắc đi. Đến tới nơi đã có nhiều lính của các C khác. Bọn bắn được voi và tụi đến trước đã cắt hết cả vòi, tai và đế chân rồi, nghe bảo đó là những thứ có thể coi là ngon của con voi. Các C đến sau hè nhau lột da, cắt thịt đã hết nửa con voi. Nhìn cái bộ khung xương to dính máu trông phát ghê, chúng tôi phải hè nhau dùng gậy bẩy và lật phía bên kia của con voi để cắt thịt. Chắc cuối cùng con voi chỉ còn lại xương với da. Đem về nhà luộc thịt voi lên chấm nước muối ăn, mới hiểu câu nói của các cụ: "trăm voi không được bát nước xáo". Nhạt thếch.

               Hai hôm sau, tưởng không còn nói gì đến chuyện con voi nữa thì trung đoàn thông báo: C hỏa lực bắn nhầm voi của dân. Chỗ bản Pắc-Kụt tuy cũng là bản bỏ, nhưng vẫn là đất rừng của dân Lào thì đương nhiên họ có quyền chăn thả voi. Thằng lính hỏa lực người Hà Tây hôm đó mắt to hơn người, cà là tóe mới nhìn đã vội tưởng voi rừng nên tương cho một loạt AK rồi về báo công. Cũng phúc tổ bảy mươi đời nhà nó là voi nhà đã thuần dưỡng thì mới bắn được như thế chứ nếu voi rừng thì có khi ra bã rồi. Thịt voi ăn đã chẳng ra gì lại còn bị dân bắt đền. Trung đoàn phải cử cán bộ đến xin lỗi và đền mất một tạ muối. Nhưng khi đó chúng tôi cũng thiếu muối nên phải quy ra tiền (kíp Lào) trả cho dân, lính tráng đương nhiên phải nhịn ăn bớt phần đi về vùng dân mua lợn mất hơn tháng. Trung đoàn có lệnh từ nay cấm bắn voi, nhưng chuyện đó giống như "mất bò mới lo làm chuồng" vì về sau cũng chẳng khi nào chúng tôi gặp voi mà không có dân đi kèm.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: daibacvn trong 20 Tháng Bảy, 2010, 11:20:01 pm
Chú TrongC6 ới ời, chiến tiếp đi chú... chờ chú mãi mỏi cả cổ rồi!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 23 Tháng Bảy, 2010, 04:32:43 pm
Rẽ ngang một tí:

Hôm nay vào trường ĐHBK Hà Nội dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cố Giáo sư, Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, do Bộ GD&ĐT và Hội cựu Giáo chức Việt nam phối hợp tổ chức. Gặp lại một thằng bạn học cũ là Tạ Quang Chính, con trai của GS Bửu.

Tay này cũng là lính trường Trỗi từ 1965 đến 1970. Năm 1970 nó ra ngoài, học cùng lớp 9 với tôi ở trường Yên Hòa III B. Nó lên thiếu tướng từ 9/2009, bây giờ là Chủ nhiệm Chính trị TCCNQP.

Các bác Phong Quảng, Vitinh... chắc có biết vị này.

Chương trình văn nghệ mở đầu có ca sĩ Thanh Lê hát bài Quê hương của Đỗ Trung Quân. Nghe đến câu người lính "có một chiều thu lá thu rơi, ôm súng nhìn quê thầm mong có ngày về" thấy lòng xao xuyến. Cuộc chiến tranh nào cũng ác liệt. Bao thằng cùng nhập ngũ đã không thể có ngày về. Mà mình khi đó cũng chẳng có một chiều thu nào ngồi ôm súng để dám mơ ngày về. Chỉ nghĩ rằng không biết ngày nào sẽ đến lượt mình ngã xuống.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 24 Tháng Bảy, 2010, 09:44:10 pm
Chúng tôi vẫn biết nhau bác ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vitính trong 24 Tháng Bảy, 2010, 10:26:57 pm
Gặp lại một thằng bạn học cũ là Tạ Quang Chính, con trai của GS Bửu.
Các bác Phong Quảng, Vitinh... chắc có biết vị này.
Vâng, khi cậu Chính chuẩn bị tốt nghiệp ĐH có về đơn vị tôi thực tập.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Bảy, 2010, 10:32:48 am


               Đúng là thời gian ấy chúng tôi thiếu muối. Không hiểu tại sao việc vận chuyển muối vào chiến trường khó khăn vậy. Các đơn vị cử người xuống vùng dân mua muối cũng không được là bao. Đơn vị quản lý muối còn chặt chẽ hơn quản lý súng đạn. Mỗi lần đi lĩnh muối trên trung đoàn là phải có cán bộ B đi cùng. Không lĩnh qua tiểu đoàn mà phát thẳng từ kho trung đoàn để tránh khâu ăn bớt. Cả đại đội lâu lâu mới được lĩnh một lần, mỗi lần chỉ được một cân muối.  Đến bữa anh nuôi cho tẹo muối vào canh hay món xào, nhưng chỉ riêng cái đoạn dính soong nồi cũng đã lãng phí. Sau vì chúng tôi ăn cơm nếp là chính nên đại đội quyết định đem chia muối theo đầu người, ai muốn ăn thế nào thì ăn. Chúng tôi cho dúm muối vào cái túi nilon nhỏ xíu, buộc chặt và luôn đem theo người. Khi nào đến bữa hay thèm thì lôi ra liếm một cái. Được cái là khí hậu vùng cao nguyên không ẩm như miền Bắc nên những hạt muối giữ được khá khô. Về sau có đợt được phát muối mỏ, viên muối rắn như đá, rất khó chảy nước. Tôi dùng rất dè xén món muối mỏ đó và bảo quản cũng khá tốt. Cho đến tận khi đánh Đồng Dù 29/4/1975, tôi vẫn còn giữ được hai viên muối mỏ to như hạt ngô nếp, sau này bình thường rồi thì mới đánh rơi mất.

             Năm 1972 trong C tôi có thằng Tuyến người Thái Bình được bình bầu chiến sĩ thi đua không phải do thành tích chiến đấu mà là do ăn cắp vỏ bao đựng muối cho đại đội. Chuyện như hề nhưng thực tế lại đúng như vậy và chúng tôi ai cũng ghi công cho nó. Lần ấy lên kho trung đoàn lĩnh muối, trong lúc mọi người đang xúm xít chia muối thì thẳng Tuyến lỉnh đi đâu mất. Có lẽ trong tất cả các món nhu yếu phẩm của lính thì chia muối là nhiêu khê nhất. Không thể tính cân vì muối nó vốn ẩm ướt, dính nước mưa vào thì còn nặng thêm biết bao nhiêu. Chỉ có cách đong bằng bát đều cho các đơn vị. Muối khi đó được đóng vào bao tải cói chứ không phải bao nilon nên phần muỗi dính và ngấm vào bao tải rất nhiều. Lính kho chỉ vét hết muối ra đong, chia rồi thu lại bao đựng cất đi, tất nhiên trong đó còn dính khá nhiều muối. Thằng Tuyến láu cá đã lần ra cái chỗ bọn coi kho cất vỏ bao và bò vào khuơ trộm một chiếc rồi chui tắt ra rừng cất giấu. Khi chúng tôi ra về thì trong người nó đã có cái vỏ bao ấy rồi, nhưng chỉ khi về nhà nó báo cáo chúng tôi mới biết. Anh quản lý đại đội thu nhận báo cáo C và tất cả nhất trí đó là công, cần giữ kín chuyện. Cào trong đó ra còn được đến gần nửa cân muối hạt. Cái bao tải được bỏ vào soong 20 đem ninh lên cho muối nó thôi ra hết, cũng dùng ăn được mấy ngày. Vì thế mà cuối năm thằng Tuyến được bầu chiến sĩ thi đua, nhận cái bằng khen trên trung đoàn, nhưng tất nhiên báo cáo thành tích là chiến đấu chứ không phải vì ăn cắp cho đại đội cái vỏ bao đựng muối.

          Vùng phía Nam đường 23 nếu đi sâu là hướng xuống biên giới với Căm pu chia. Đi dịch sang phía Đông thì qua cao nguyên A-tô-pơ hướng về biên giới Việt Nam. Trường Sơn bao giờ cũng chứa đựng nhiều điều bí ẩn. Có rất nhiều vùng còn hẻo lánh, rừng nguyên sinh chưa hề có dấu chân người. Tôi biết điều đó khi một lần được cùng tiểu đội anh Trịnh của B5 vượt qua Pắc-soong sang cao nguyên A-tô-pơ tìm kho súng. Bên đó gần với tuyến đường Trường Sơn hơn so với trục đường 23 từ Mường Phìn vào Pắc-xế nên địch không đóng quân tới đó, kể cả khi Pắc-soong còn chưa được giải phóng. Nhưng nó cũng còn cách khá xa tuyến đường Trường Sơn vì địa hình toàn núi cao và rừng rậm. Khi đánh Pắc-soong, trên Bộ tư lệnh 559 có lập một số kho ở đó, chủ yếu chứa súng đạn, nhưng không dùng đến, bỏ quên lâu ngày thành ra vô chủ. Nó ở xa nên trung đoàn chúng tôi cũng không quản lý, mà thật ra cũng không biết hết các kho đó. Lần ấy chúng tôi sang A-tô-pơ với ý định kiếm súng đạn tự bổ sung cho số bị hỏng và làm mất trong mấy lần vượt suối bị lũ nó cuốn mất. Sáu thằng đùm theo gạo lên đường. Phải công nhận bên đó rừng rậm và núi cao thật. Cây thân gỗ to rất nhiều mà chưa ai khai thác, dù dân Lào làm nhà sàn thì mọi vật liệu đều là từ gỗ (trừ mái tôn). Chúng tôi được đi công tác lẻ một tuần. Anh Trịnh dự định khi ở đó sẽ tìm cách đánh cá cải thiện hoặc tìm bắn một con chồn hay con khỉ gì đó, thế mới bõ cái công và thời cơ được đi công tác lẻ chứ. Thế nhưng bên A-tô-pơ suối còn sâu và chảy siết hơn huội Chăm pi nên chúng tôi bỏ ngay ý định đánh cá. Anh Trịnh dò bản đồ phân định khu vực chúng tôi sẽ tìm kho. Nơi này không có đường xe bò của dân, nhưng đôi chỗ có dấu vết đường xe ô-tô đã từng chạy. Chúng tôi cứ bám theo đó rồi lần ra xung quanh tìm. Thực ra tọa độ kho cũng đã được chấm từ nhà rồi chứ nếu chỉ tìm vu vơ thế này chẳng khác gì tìm kim đáy bể. Sang A-tô-pơ đến ngày thứ hai, đang lò dò tìm theo một vệt đường ô-tô thì thằng Tuân (Nam Hà) đi đầu phát hiện một con hoẵng từ đâu nhảy ngay ra đường. Thật đúng là "con nai vàng ngơ ngác". Tôi không biết nhiều về thú rừng, nhưng cái bọn hươu, nai hay hoẵng chắc cùng một loài. Con hoẵng còn chưa hiểu chuyện gì thì thằng Tuân đã nhanh tay nổ súng. Thằng Tuân cũng là một loại thiện xạ trong C tôi, nhưng chưa có kinh nghiệm nên nó không tương đúng vào chỗ hiểm để con hoẵng phải gục tại chỗ. Con hoẵng nhảy lên rồi phi vào bụi rậm. Chúng tôi thoạt đầu nghĩ cũng hỏng ăn, nhưng vì thằng Tuân khăng khăng là nó đã bắn trúng, lại thấy có vết máu nên anh Trịnh quyết định lần theo để tìm. Chúng tôi rất vất vả lần theo đến hơn trăm mét mới thấy con hoẵng nằm gục bên một gốc cây. Hóa ra viên đạn trúng vào thân nên nó vẫn còn chạy được. Cái giống hoẵng nhỏ lắm, con này chỉ hơn hai chục cân mà anh Trịnh bảo thế cũng là khá rồi. Thế là sáng hôm đó chúng tôi tìm ra suối làm thịt con hoẵng đã. Thịt nó ngon tuyệt, nướng hay luộc đều ngon không chê vào đâu được. Bàn cãi một hồi anh Trịnh quyết định chúng tôi sẽ không tìm cách săn bắn nữa, mà tập trung đi tìm súng đạn. Từng này thịt là đủ ăn thoải mái cho sáu thằng trong mấy ngày tới rồi.

           Tới chiều ngày thứ ba thì chúng tôi tìm thấy kho súng đạn. Qua hai mùa mưa, cái nhà kho đã đổ ụp xuống rồi, chỉ còn cái hầm đất đào sâu đến bụng. Chúng tôi lôi ra được các thùng gỗ, tuy bẩn đầy đất, nhưng phá ra bên trong thì các bao nilon chứa súng còn nguyên cả mỡ bảo quản trong đó. Chúng tôi lấy một khẩu trung liên RPD và 5 khẩu AK, toàn súng của TQ. Thấy đạn rất nhiều chúng tôi nảy ra ý định thử súng. Anh Trịnh đồng ý, thế là hôm sau chúng tôi kéo nhau ra một bên dốc núi. Nhìn xuống suối sâu như cả một bờ vực. Thằng Tuân lắp cả một hộp đạn vào khẩu RPD rồi nằm chĩa xuống vực nghiến răng kéo cò. Khẩu súng rung lên bần bật. Nó kéo mấy loạt hết cả băng đạn 100 viên mới thôi. Mấy chúng tôi cũng chĩa AK phệt mỗi thằng một băng xuống vực. Có thử thế này mới thấy, có muốn kéo cò một lần cả băng AK cũng không được vì nó giật lắm. (Khác hẳn với khẩu AR15 của Mỹ mà sau này chúng tôi cũng lấy bắn chơi. Băng đạn 20 viên chỉ níu mạnh cò làm rẹt một cái đã hết. Đó là chưa kể nếu bấm vào cái nút Turbo của khẩu súng thì nó còn "rẹt" nhanh hơn). Tiếng nổ vang vọng thung lũng, nhưng ở cái chỗ này thì chỉ có chúng tôi nghe, chúng tôi biết mà thôi. Ngày hôm đó chúng tôi nghỉ lại, lau những khẩu súng mới cho hết sạch dầu mỡ và tranh thủ tắm giặt. Đêm đó mắc võng ngủ lại trong rừng mà cứ như ở nhà, chẳng gác sách gì. Hôm sau chúng tôi lên đường, mang theo 6 khẩu súng và một ít đạn. Về đến nơi tập kết của đại đội thì vừa hết một tuần.

   Một điều bất ngờ khác đang chờ chúng tôi. Chúng tôi vừa về kịp để ăn món thịt hổ. Thật là bất ngờ khi chúng tôi luôn nghĩ rằng vùng này không có thú dữ. Cách đây một hôm, B4 lên chốt. Vì chiến sự thưa thớt nên việc lên chốt thật nhàn hạ. Buổi sáng sớm đơn vị cử 5 lính lên chốt, mang theo đủ nước và cơm nắm. Ngồi bí mật và mọc rễ trên đó chờ địch. Chiều tắt nắng thì lại kéo nhau về chỗ trú quân. Chốt chưa phải đánh nhau lần nào, chưa lộ nên ban đêm không cần ở lại chốt. Sáng sớm hôm đó thằng Nhâm (Hà Tây) đi đầu, còn cách chốt độ hai trăm mét thì nó thấy loáng một cái gì đó vọt ngang trước lối đi. Trong đầu nó chỉ kịp nghĩ "thám báo", thế là nó quạt ngay một loạt AK trong khi 4 lính đi sau chưa kịp hiểu chuyện gì. Sau loạt AK đó, cả bọn ngồi sụp xuống, lăm lăm súng. Chờ lúc lâu mới yểm hộ nhau lò mò chui vào hướng đó. Chẳng thấy gì cả, nhưng anh Sơn (người Tày) hít hít mũi rồi phán: Hổ. Cả bọn xanh mắt rồi vội kéo nhau lên chốt. Ổn định vị trí rồi mà vẫn còn run, nghĩ về địch thì ít mà nghĩ về con hổ chưa nhìn rõ thì nhiều. Anh Sơn còn bảo là nếu như đã bắn trúng phải con hổ khiến nó bị thương thì thể nào nó cũng phục kích trả thù, nên đến chiều về phải cảnh giác. Một ngày ngồi chốt dài dằng dặc qua đi vì chỉ lo chiều về tránh hổ. Chưa tắt nắng thì anh Sơn đã giục mọi người thu xếp về để nếu có gì còn dễ xử lý. Nghe kể chuyện về hổ trả thù nhiều rồi nên thằng Nhâm dứt khoát không đi đầu và cũng không đi cuối. Nó bám sau anh Sơn đi đầu, tiếp theo là hai thằng B40 và M79, còn thằng Tiêu (Hà Tĩnh) AK đi cuối. Đoạn đường đi từ chốt xuống cái chỗ ban sáng gặp hổ vừa đi vừa run, thằng nào cũng lăm lăm súng đã mở chốt an toàn. Qua chỗ đó rồi thì tốc độ đi nhanh và hấp tấp hơn. Rồi sự việc xảy ra sau đó rất nhanh. Anh Sơn phát hiện thấy con hổ ngồi ở mé đường phía trước (may anh ấy là người dân tộc có nhiều kinh nghiệm chứ nếu là người khác thì không biết thế nào) liền quát to một tiếng "hổ" rồi quạt AK luôn. Cả 3 khẩu AK cùng quạt túi bụi, thằng Trung B40 cũng nện luôn một trái. Con hổ có lẽ đang trong tư thế thu mình ngồi rình bên lối đi, chưa kịp chồm ra đã bị trúng nhiều viên đạn nên chết ngay tại chỗ. Mọi người còn thăm dò chán rồi mới dám tiếp cận. May là con hổ chết vì đạn AK, trái B40 không trúng nó nên còn sử dụng được. Anh Sơn làm ngay một việc mà theo anh nói đó là quy ước bắt buộc của những người thợ săn. Anh ấy bật máy lửa đốt hết tất cả những cái râu mép của con hổ, dùng dao chặt hết những cái vuốt hổ gom lại rồi vun củi châm lửa đốt hết. Anh ấy bảo làm thế để những người xấu không thể dùng những thứ đó mà ám hại người khác. (Anh ấy kể, đơn giản nếu giấu đi một cái râu hổ, đem cắm vào một mụn măng vầu đang mọc tốt thì chỉ 3 hôm sau là cái măng đó tự nhiên bị chết thối rữa ra. Còn nếu đem cái râu ấy nhúng trộm vào cốc nước của người khác thì cũng gần giống như bỏ thuốc độc vào đó vậy).
   Cả bọn còn đang loay hoay với con hổ thì lại nghe sột soạt ở phía hướng về hậu cứ. Thằng Nhâm sợ són đái, bám ngay vào anh Sơn, còn mấy thằng khác thì lại ngồi thụp xuống lăm lăm súng. Nhưng thật may vì không phải là có con hổ khác đến trả thù mà là một tốp lính từ phía sau đến tiếp ứng. Đại đội nghe tiếng súng nổ loạn lên phía chốt, nghĩ anh em gặp địch nên điều một tổ lên bắt liên lạc và chi viện. Cả hai tốp cùng thở pháo nhẹ nhõm. Mọi người cùng chặt cây làm đòn khiêng con hổ về. Con hổ rất to, hai người khiêng lặc lè. Tối đó anh nuôi đại đội cùng anh Sơn tập trung xả thịt hổ. Tấm da hổ không dùng được vì bị trúng quá nhiều vết đạn. Còn thịt lọc ra được khá nhiều.

   Nhóm anh Trịnh và chúng tôi đi lấy súng bên A-tô-pơ về kịp chiều hôm sau nên được thưởng thức món thịt hổ sào. Tức nỗi trong rừng không có gia vị gì, kể cả gừng nên món thịt hổ ăn cũng thấy gây gây. Thế nhưng vẫn khoái vì mấy khi mà được ăn thịt chúa sơn lâm. Trong đơn vị, thằng lính nào không được tham dự ăn thịt hổ lần đó thì về sau cũng không còn dịp vì đại đội tôi không lần nào bắn thêm được hổ nữa.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: linh thong tin trong 26 Tháng Bảy, 2010, 12:06:51 pm
Tôi đọc cho các bạn nghe một mẩu thơ tâm lý chiến trên truyền đơn thả đầy rừng núi khi chúng tôi mở chiến dịch 139 năm 1969:
  " Từ ngày con lên đường xa mẹ
     Theo anh em sang Lào rồi dấn bước vào Trung
     Non xanh nước biếc chập chùng
     Sớm nắng biển chiều mưa rừng, gian khổ...

 Gì gì đó rồi đến:
   
    ...đã nhiều lần tay con run rẩy
      Khi gài mìn và sau bỗng thấy
      Xác người tung, và máu đổ chan hoà...

Lâu quá rồi không nhớ được nữa nhưng mà hồi đó vừa đọc vừa cười tủm, cái bọn củ chuối. Vừa ăn cướp vừa la làng. Mắt mình nhìn thấy nó giết dân như nghoé mà nó lại đổ cho mình, Hồi đó nó còn lợi dụng việc bác Hồ mất. nó bảo hết người lãnh đạo rồi, về hồi chánh theo chánh nghĩa quốc gia, các em gái hậu phương đang mỏi mòn chờ đợi. he he. nhiều cái ngớ ngẩn buồn cười lắm ;D

Các anh trích dẫn thơ tâm lý chiến làm tôi lại nhớ đến cái hồi ở bên Lào, địch bắt được mấy ông dân công hỏa tuyến nhà mình cho chụp ảnh chung với mấy cô gái Lào cười ngả ngớn. Truyền đơn chiêu hồi thả trắng mấy quả đồi cỏ tranh của huyện Mường Pẹc.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Tám, 2010, 09:05:06 am

   
         Có lẽ ở chiến trường nào và ở đơn vị nào cũng từng xảy ra chuyện nhìn gà hóa cáo, đôi lúc thần hồn nát thần tính mà chung quy lại cũng chỉ là chuyện kỷ luật chiến trường không thật nghiêm. Những quy định đề ra đôi khi bị coi nhẹ hay vì mệt mỏi quá mà tặc lưỡi bỏ qua nên chấp hành lỏng lẻo. Chỉ đến khi xảy ra chuyện, tất cả mới giật mình xem xét lại, nhưng rồi chỉ đơn vị đó rút ra nhiều kinh nghiệm, còn đơn vị khác lại thì lâu lâu không thấy gì, xem nhẹ để rồi lại rơi vào vết xe đổ của đơn vị bạn trong một tình huống khác.

   Ký ức chiến trường không hoàn toàn chỉ là những điều chính mình gặp, mà nó còn là chuyện của đồng đội khác trong đơn vị, thậm chí khác tiểu đoàn, nhưng buộc mình phải nghe, phải biết và phải nhớ.

   Khi chiến sự vừa mới qua đi ở Pắc-soong, địch rút về chốt ở cây số 40, còn K18 chúng tôi thì chốt ở bản vườn lê 42, phía dưới bản Păc-kụt một chút. Ở ngoài Bắc thời bao cấp, mọi thứ của ngon vật lạ đều dành cho đâu đâu ấy chứ nên dân thường thì thèm đủ thứ. Đã có mấy ai có được diễm phúc ngồi trong vườn mà thả phanh ăn quả, nhất là những thứ quả cao cấp như Cam, như Đào, như Lê… Thế nên các đơn vị lập chốt giữ quanh các bản có vườn cây ăn quả thì lính tráng giống như Tôn Ngộ Không lọt vào vườn Đào của Vương Mẫu. Cái kiểu ăn của lính khi ở cương vị chủ nhân của trời đất thì không hề giống ai. Ăn mít mật thì rung cây cho quả chín tụt nõ rơi xuống, chỉ việc bốc ăn, khỏi phải bổ. Ăn đu đủ thì chọn quả chín bổ đôi rồi dùng thìa xúc ăn chứ không gọt vỏ. Đào với lê thì chọn quả to ngon mà trẩy, chùi vào vạt áo rồi chén luôn. Thường lúc đầu thì ăn như Trư Bát Giới ăn nhân sâm, sau rồi thì chén đến cả những quả có sâu, bé tẹo. Suốt dọc đường 23, thậm chí trong Cao nguyên chỉ có duy nhất một bản 42 có vườn lê bạt ngàn. Quả lê vỏ xanh, mềm chứ không phải quả Mắc-cọp vỏ nâu cứng ăn hơi có vị chát của vùng Lạng Sơn, Cao Bằng. Bọn C5K18 chốt giữ gần đó, sống như vua nên quên mất rằng dân Lào trên Cao nguyên, những người chủ nhân thật sự của những khu vườn cây trái đó cũng có quyền được hưởng thụ. Dân họ rất dát, nhưng thỉnh thoảng cũng có người liều mạng mò ra các vườn cây. Hôm ấy bọn lính C5 đang chốt quay ra phía Pắc-kụt. Hướng đó quay ra dân hơn là quay ra phía địch nên khá an toàn, thế mà không hiểu sao chúng nó lại tương nhầm dân. Một phần cũng do phía trước chốt cây lá lòe xòe che phủ, mấy người dân đi ra lại lầm lũi không nói chuyện. Họ cứ vạch cây lá đạp đường mà đi vào chốt. Lính ta thấy loạt xoạt là bắn, quên mất quy tắc phải quan sát cho rõ. Lia xong vài loạt AK mà chả thấy đối phương bắn lại. Nghi nghi hoặc hoặc mãi rồi mới mò ra thì đã thấy hai người phụ nữ nằm gục bên vũng máu. Chắc cũng có người chạy thoát. Biết là bắn nhầm dân rồi thì cha con đều sợ, từ thằng lính cho đến cán bộ C, D. Thế là cái chốt ấy phải bỏ, lính chuồn thật xa, để mặc cho dân ra lấy xác rồi sau này coi như là địch bắn, lính ta không biết. Chuyện này khi đó là tuyệt mật với dân, còn tất nhiên lính ta xì xào thì rồi ai cũng biết. Cũng chẳng có ai bị kỷ luật, chắc là chỉ rút kinh nghiệm thôi. Thật đúng là chiến tranh, lạnh lùng và tàn nhẫn. Rơi vào ai thì người đó phải chịu. Đến bây giờ tôi cũng không biết chính xác thằng lính nào đã bóp cò AK hôm đó, nhưng nếu sau này không hy sinh, chắc nó cũng có lúc dằn vặt. Còn chúng tôi thì rút kinh nghiệm đại trà là khi ngồi chốt phải chịu khó quan sát, mở to mắt ra mà nhìn, đừng có mà mắt to hơn người.

   Chuyện qua đi, nhưng rồi đến lượt tôi bị vấp trong một tình huống khác. Ấy là khi đang luồn sâu ở đường 23, tại khu trú quân phải canh gác đàng hoàng. Tôi lúc ấy là liên lạc cũng phải tham gia gác. Ca ấy của tôi chỉ tầm mười giờ đêm. Trời mưa nhỏ nên tôi chỉ khoác tấm nilon gập đôi và đi lại nhẹ nhàng quanh cái hầm đại đội. Nếu nằm dưới hầm thì có thể hút thuốc chứ khi gác thì không được. Phải quan sát và dỏng tai lên mà nghe ngóng. Đầu ca gác, mấy cán bộ và lính B6 đi trinh sát tối trở về còn ráp mật khẩu với tôi trước khi về hầm. Tôi cũng hỏi mấy câu chiếu lệ rồi quay ra vị trí gác. Chuyện xảy ra chỉ sau đó chừng mười phút thôi. Khi tôi vừa ôm súng vòng ra mé hầm ngoài rìa khu trú quân thì chợt phát hiện ra một bóng đen lờ mờ trên nền ánh sáng bàng bạc của bầu trời đêm mưa. Chắc bọn thám báo đã bám theo chân mấy bố trinh sát nhà ta mà mò vào đơn vị rồi. Nghĩ vậy, tôi liền ngồi thụp xuống hô to mật khẩu "Sông!" vừa bật chốt an toàn, nhưng tôi vẫn mong chờ tiếng trả lời "Hương!" quen thuộc. Bóng đen không trả lời mà bỗng ngồi sụp ngay xuống. Tôi liền kéo cò súng nhả ngay một loạt vào đó rồi nhảy tạt sang bên cạnh. Không có tiếng súng đáp trả, nhưng loạt AK "tặc.tặc." chìm trong đêm mưa của tôi đã đánh thức đơn vị. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, lính B6 đã có mặt sát bên tôi chi viện. Tôi đoán tên địch đã trúng đạn không kêu được tiếng nào rồi, nhưng vẫn phải mò lên thận trọng vì sợ còn tên thám báo khác. Tại chỗ có bóng đen không có cái xác nào, chỉ có một tấm nilon dúm dó. Mọi người tản ra xục xạo, còn anh Ngữ B trưởng B6 soi đèn vào thì hóa ra là tấm nilon của ta. Mọi người nhanh chóng hiểu ra tình huống: Thằng Bình lính B6 đi trinh sát về vô tình ngoắc tấm nilon lên một cành cây ngoài hầm đã làm cho tôi tưởng lầm cái bóng đen trong đêm nhờ nhờ ấy là người, khi mà trước đó ở chỗ ấy không có gì. Đúng cái lúc tôi hô mật khẩu thì cái tấm nilon ấy lại ngẫu nhiên tụt rơi xuống đất nên đã phải hứng loạt AK của tôi. Tất cả cười khoái trá trong cái ngượng nghịu của tôi, may mà đêm tối không ai thấy rõ. Sáng hôm sau tôi mới bị phê bình. Không phải cán bộ C mà là anh Liêu liên lạc mắng tôi. Anh ấy bảo mày đúng là mắt to hơn người (lại cái câu ấy rồi, mà không hiểu sao trong đơn vị khi ấy hễ thằng nào có làm cái gì do hoảng hốt thì đều bị mắng phủ đầu là "mắt to hơn người"). Lẽ ra mày không cần hô mật khẩu vội mà phải quan sát thêm đã, vì mình đang ở thế chủ động cơ mà. Tôi cũng chỉ biết nhận lỗi chứ chẳng thể phân bua được, tuy trong bụng cũng thấy tức thằng Bình đã vắt tấm nilon đêm đó. Nhưng nghĩ lại cũng thấy đáng đời cho nó vì tấm nilon của nó đã nát toét rồi. Từ nay ráng mà chịu ướt chờ kiếm tấm khác nhé.

   Chuyện của tôi tuy có xấu hổ chút ít, nhưng chưa chết ai. Chuyện anh Định B4 (người Nam Hà) sau đó một tuần mới thật là nghiêm trọng. Hôm ấy B4 tổ chức chốt, trời quang không mưa mà còn hơi hửng nắng. Thấy trời đẹp, một nhóm cán bộ B, C mò lên phía trước nắm địch, cũng định kiếm cơ hội làm một trận tập kích lấy khí thế. Bình thường thì khi ở chốt hay luồn sâu mà đi trinh sát thì sẽ theo nguyên tắc đi lối nào, trở về lối đó cho dễ hiệp đồng và bắt liên lạc. Chiều đó, các anh đi trinh sát vẫn theo lối cũ trở về bình thường, chỉ trừ B phó Đương. Có lẽ cũng là số phận hay sao ấy. Tôi đã có lần kể là trong trung đoàn tôi có lệnh cấm lấy quân trang của địch, nhưng nếu có cơ hội thì lính ta vẫn lấy vụng để đem về tuyến sau đổi thuốc. Lần ấy anh Đương cũng đang giấu trộm một cái mũ thám báo vải dù rằn ri. Trong rừng trời mưa, đôi khi anh ấy cũng lấy ra đội. Lần ấy đi trinh sát, anh Đương lại giắt cái mũ trong người rồi vô tình đội lên đầu mà không để ý. Lúc về chốt, anh ấy lại rẽ ngang một mình xuống suối làm gì đó rồi cứ ngược theo sườn dốc ấy mà đi lên chốt. Quanh chốt toàn cây cứt lợn cao ngang đầu người. Anh Định (A trưởng) đang ngồi chốt thấy đám cây phía trước lay động rồi có tiếng người vạch cây loạt xoạt mà đi. Chắc lúc ấy anh ấy cũng hơi buồn ngủ rồi chợt tỉnh, nên khi thấy trên phía lùm cây có cái mũ thám báo nhấp nhô là bắn luôn. Không may là anh Định cũng không phải là tay bắn xoàng. Một loạt AK nổ chói tai kèm cái ngã uỵch và tiếng rống lên ồ ồ không thành tiếng. Anh Định lại bồi thêm một loạt AK nữa cho chắc ăn. Cả chốt nghe tiếng súng cũng vội vào tư thế chiến đấu. Một lúc lâu chẳng thấy thêm động tĩnh gì, mọi người yểm hộ nhau lên kiểm tra thì hỡi ôi, chẳng thấy địch đâu, chỉ thấy anh Đương đã tắt thở trên vũng máu, người lỗ chỗ vết đạn. Anh Định mặt cắt không còn hột máu, quỳ xuống ôm xác anh Đương mà khóc không thành tiếng. Chúng tôi ai cũng sợ.

   Liền trong chiều ấy, đại đội cử người khiêng anh Đương về hậu cứ chôn cất. Anh Định cũng bị gọi về cùng để lên tiểu đoàn chịu kỷ luật. Lúc ấy trong trung đoàn tôi chưa thấy có cái gọi là tòa án binh hay gì đó tương tự. Xử lý những trường hợp như tự thương của thằng Tuấn "đen" hay bắn nhầm đồng đội của anh Định, chỉ là lệnh kỷ luật dội từ trên D hoặc trên E xuống. Sau vụ đó anh Định bị khai trừ đảng, cách chức xuống làm lính thường. Vì bản chất con người là mãi mãi còn hiện tượng chỉ là nhất thời (đúng như quan điểm của đảng), nên sau vụ đó anh Định vẫn tiếp tục chiến đấu và công tác tốt, giống như bản chất của người nông dân cần mẫn trên đồng, dù mùa màng có lúc bội thu hay thất bát.

   Quân số của đơn vị vơi dần theo thời gian và các trận đánh nếu không kịp bổ sung quân số, nên vài tháng sau, anh Định vẫn phải nhận trách nhiệm tiểu đội trưởng. Hơn năm tháng sau, anh ấy và cả tiểu đội đã hy sinh trong một trận giữ chốt bên bờ sông Se-kong, mặt trận Sa-ra-van. Chỉ có cái nguyện vọng được là liệt sĩ-đảng viên mà anh ấy nhiều lần nói khi còn sống thì không thể thực hiện được vì quỹ thời gian quá ngắn, không thể đủ để anh ấy làm lại từ đầu.

   Thế hệ chúng tôi phải công bằng mà nói, sống rất có lý tưởng. Những điều mà bây giờ có rất nhiều người coi là chuyện không đáng quan tâm thì đối với chúng tôi khi đó lại là điều trăn trở. Để khỏi quên do đứt mạch câu chuyện, tôi muốn kể thêm về một người anh khác trong C6 của tôi. B4 cũng có một A trưởng khác là anh Khung người Nam Hà (lại cũng là Nam Hà) là đảng viên. Sau vụ anh Đương bị bắn nhầm, anh Khung lên thay làm B phó B4. Lên được một tháng anh ấy bị khai trừ ra khỏi đảng nhưng vẫn được làm B phó. Lý do, nhà anh ấy ở quê là thành phần trung nông lớp trên (có bát ăn bát để đây), thế mà khi khai lý lịch vào đảng anh ấy chỉ ghi thành phần là trung nông (chỉ đủ ăn no, nếu nhà có nuôi chó nuôi mèo thì phải san bớt chút ít để cho chúng ăn). Vào đảng rồi, sau này tổ chức mới phát hiện ra nên phải khai trừ anh vì đã "không trung thực". Nhưng anh ấy chiến đấu giỏi nên vẫn được làm cán bộ B và vẫn có cơ hội phấn đấu tiếp để lại vào đảng. Anh ấy cũng là nông dân chất phác, sống có lý tưởng nên không nản chí. Hai năm sau, anh ấy lại được kết nạp đảng và được điều sang C5 làm B trưởng. Trong trận đánh Đồng Dù 29/4/1975, anh ấy và hầu hết anh em trong trung đội đã hy sinh trên cửa mở, trước ngày toàn thắng của dân tộc chỉ có một ngày. Nhưng chắc dưới suối vàng, anh ấy cũng ngậm cười vì mình đã là đảng viên, dù chưa kịp trở thành đảng viên chính thức.

   Các anh Định anh Khung ơi, hãy tha thứ cho em là đã đem chuyện của các anh ra kể. Dẫu biết rằng các anh chẳng cần gì, nhưng xin cứ để cho em nói ra một lần, âu cũng là thêm một lần tưởng nhớ tới các anh, để thêm một lần bày tỏ lòng biết ơn các anh đã hy sinh để cho những thằng như em được sống.

...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 09 Tháng Tám, 2010, 10:18:01 am
Cảm ơn bác Trọng C6, bác đã kể những chuyện rất hay, về các đàn anh - đảng viên chân chính.
Em còn giữ thẻ, cho đến tận hôm nay, cũng chỉ vì: vẫn còn nhớ đến những đàn anh như thế.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 09 Tháng Tám, 2010, 10:56:38 am

   Các anh Định anh Khung ơi, hãy tha thứ cho em là đã đem chuyện của các anh ra kể. Dẫu biết rằng các anh chẳng cần gì, nhưng xin cứ để cho em nói ra một lần, âu cũng là thêm một lần tưởng nhớ tới các anh, để thêm một lần bày tỏ lòng biết ơn các anh đã hy sinh để cho những thằng như em được sống.


       Bác Trongc6 à ! Đúng là khi nhắc lại những chuyện ae mình, nhất là những ae đã hy sinh, bao giờ mình cũng cảm thấy gì đó như có lỗi. Nhưng xin bác cứ chia sẻ cùng mọi người. Những người trong cuộc rất dễ hiểu nhau, thông cảm và sẻ chia. Mình được sống đây là do có nhiều ae đã hy sinh. Thế nên bao giờ trong lòng cũng canh cánh, trĩu nặng tấm tình đồng đội, "sống" . . . và "chết".


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tai_lienson trong 12 Tháng Tám, 2010, 09:12:36 pm
Em có thằng bạn là Lương Đình Vơn quê Hương Sơn Hà Tĩnh làm quản lý đại đội , khi ở Lò gò nó nghịch súng M79 , súng  nổ ,bị kỷ luật cảnh cáo toàn C . Khi C em bị vây ở Sa Mát nó bị thương vào động mạch đùi , không đưa ra được, nằm trong hầm chờ  chết  . Lúc hấp hối nó xin anh Thống C tr xóa kỷ luật cho nó , đừng ghi vào lỹ lich ....làm anh Thống  và cả C khóc . Những người lính hồi đó có lòng tự trọng và trong sáng không muốn có một tỳ vết nào ảnh hưởng đến danh dự  .. Sau này em kể chuyện cho anh em trong đơn vị kể cả nhiều người là cấp tá nhưng ít người tin , họ cho là em phóng đại , thật buồn ..
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 13 Tháng Tám, 2010, 08:04:27 am
Những người lính hồi đó có lòng tự trọng và trong sáng không muốn có một tỳ vết nào ảnh hưởng đến danh dự  ..
Bác tai_lienson
 Quả thực thời kỳ đó chúng ta không có lòng tự trọng và danh dự có lẽ khó có thể vượt qua, cho dù điểm xuất phát của mỗi người chúng có khác nhau. Khi vào vùng mới giải phóng tôi thấy đâu đâu cũng có khẩu hiệu "Danh dự và Tổ quốc" của địch để lại và suy nghĩ rất nhiều vị thế của mỗi con người... Câu đó giờ đây lớp người chúng ta sẽ hiểu như thế nào đây ?  


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 18 Tháng Tám, 2010, 09:20:33 am
Em có thằng bạn là Lương Đình Vơn quê Hương Sơn Hà Tĩnh làm quản lý đại đội , khi ở Lò gò nó nghịch súng M79 , súng  nổ ,bị kỷ luật cảnh cáo toàn C . Khi C em bị vây ở Sa Mát nó bị thương vào động mạch đùi , không đưa ra được, nằm trong hầm chờ  chết  . Lúc hấp hối nó xin anh Thống C tr xóa kỷ luật cho nó , đừng ghi vào lỹ lich ....làm anh Thống  và cả C khóc . Những người lính hồi đó có lòng tự trọng và trong sáng không muốn có một tỳ vết nào ảnh hưởng đến danh dự  .. Sau này em kể chuyện cho anh em trong đơn vị kể cả nhiều người là cấp tá nhưng ít người tin , họ cho là em phóng đại , thật buồn ..
 

       Tôi hiểu chuyện thật của bác TàiLiênSơn "Danh dự hay là chết" cũng giống như câu của lính Xô Viết "Tổ Quốc hay là chết". Sống mất danh dự không bằng chết.

       Chuyện cảnh cáo trước đại đội có thể chỉ là để làm gương và giữ nghiêm quân kỷ thôi chứ đại trưởng như anh Thống rất hiểu lính chắc chẳng ghi vào lý lịch bạn Lương Đình Sơn đâu. Đơn vị tôi kỷ luật ai đó thực ra là để "dọa" thôi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 19 Tháng Tám, 2010, 10:31:19 am
….
   Những thằng lính trong chiến trường đã từng làm liên lạc đại đội thì sau này khi trở về đời thường đều có phần tháo vát, chăm làm và chịu khó, cung cúc phục vụ vợ con. Cũng phải thôi vì suy cho cùng, vợ cũng là một dạng thủ trưởng mà.

   Cái thằng tôi thật không có khiếu làm liên lạc vì cái khoản ca cóng của mình quá kém. Đi đâu, lúc nào cũng phải nhăm nhăm nhìn trước ngó sau tìm cái ăn để cải thiện thêm cho thủ trưởng (tất nhiên có cả phần mình), cứ như những con chim mẹ trong mùa sinh sản vậy, quá con mọn. Lại cả cái khoản mang vác hộ phần gạo hay gì đó cho thủ trưởng khi hành quân thì thật là quá sức với một gã thư sinh thành phố như tôi. Thú thực là tôi chỉ học được cái nết chịu khó và nhẫn nại qua những việc đó thôi chứ không đáp ứng được yêu cầu. Vì thế nên tôi rất thích ra tuyến trước, rất thích đi trinh sát cùng anh Băng vì lúc đó mình học được kinh nghiệm chứ không phải lo những chuyện khác. Cũng một phần biết thằng tôi nó là như thế nên anh Băng cũng hay "thả" cho tôi đi làm nhiệm vụ với các B khác, cho tôi được dịp bay nhảy.

   Đầu tháng 9 năm 1972, tất cả đại đội được lệnh rút về hậu cứ. Được một ngày chuẩn bị lán trại trước khi tham gia cùi cõng. Nghe nói cả tiểu đoàn tham gia cùi đạn, chắc là công tác lót đạn.

   Vô tình mà ngày cả đại đội được làm những việc loanh quanh trong hậu cứ lại đúng là ngày 4/9, kỷ niệm một năm ngày nhập ngũ của tôi. Một tuổi quân với 365 ngày đã trôi qua. Có từng ấy ngày thôi mà có biết bao nhiêu chuyện xảy ra với tôi. Kết thúc quãng đời học sinh, bạn bè chia tay, gần hết số con trai trong lớp vào bộ đội, còn đám con gái thì vào đại học hết lượt, trong đó có không ít đứa được ra học nước ngoài. Sinh viên năm đầu thì chắc là cũng còn non nớt lắm, chẳng khác bao nhiêu so với lứa tuổi học trò. Bọn con gái năm đầu học tiếng Tây chắc nhiều vất vả, có khi còn khóc nhè vì nhớ mẹ. Mấy thằng con trai dạng  con một, con liệt sĩ hoặc bị cận thị quá không thể nhìn xa trông rộng được là sót lại để vào đại học thì chắc cũng còn tồ lắm. Cuộc sống chắc vẫn cảnh mưa không đến mặt, nắng chẳng đến đầu. Thế mà mình, cũng chỉ một năm ấy thôi mà đã có vẻ già đi trông thấy, sắp thành lính cũ rồi. Va chạm sống chết mấy lần và kinh nghiệm chiến trường đã thu thập được một mớ trong đầu. Bom đạn nó dạy cho con người ta tuy rất khắc nghiệt, nhưng trưởng thành lên nhanh lắm. Đêm ấy lằm co trong lán nghe tiếng mưa rơi mà tôi cứ nghĩ mãi về một tuổi quân của mình, không ngủ được. Nghe được cả tiếng bước chân của người lính gác, cả tiếng ngáy nhè nhẹ của thủ trưởng Băng. Có một cái gì đó làm mình mềm lòng. Mà sao nhớ về nhà lại không phải nhớ cha mẹ, lại đi nhớ cái lớp 10A với gần năm chục đứa bạn ấy của mình. Mười bảy thằng bạn học cùng nhập ngũ, mà sao lại chẳng có đứa nào vào cùng cái tiểu đoàn hay đại đội này với mình. Chúng nó vào đâu, ở chiến trường nào. Có đứa nào nhớ đến cái ngày hôm nay như mình không. Cũng có thể có đứa nhớ. Còn bọn ở nhà thì chắc chẳng đứa nào nhớ đến cái ngày này năm ngoái đi tiễn bọn chúng tôi ở rạp Đống Đa trên đường Thái Thịnh với những chiếc xe ca Ba Đình chở lính xọc xạch, qua ổ gà cứ như muốn vỡ tung ra. Nhớ và có phần so sánh số phận, có một chút tủi thân. Rồi nước mắt chảy ra lúc nào không biết, lạnh cả cổ áo. Lại thấy mình sao yếu đuối quá. Rùng mình mở to mắt nhìn bóng đêm xung quanh. Đây là hậu cứ, nhưng là hậu cứ chiến trường. Đồng đội xung quanh đang ngủ ngon, nhưng ngày mai vào trận có thể lại có người không thể trở về. Thôi ngủ đi, yếu đuối một chút chấp nhận được, vì dù sao mình cũng thuộc loại thư sinh, nhưng đừng có hèn nhát là được. Rồi những ý nghĩ mờ dần, chìm vào trong đêm…

    Hôm sau anh Băng đi họp trên tiểu đoàn về, nét mặt quan trọng. Tôi đoán sắp có chiến dịch chăng, tham mưu con mà, nhưng cũng không dám hỏi vì sợ mắng. Tôi âm thầm chuẩn bị đồ đoàn gọn nhẹ để mai lên đường. Hướng đi lại vẫn là Nam đường 23. Điều khác là lần này tại khu tập kết ngoài các cán bộ D, C, trinh sát của K18, lại còn thêm trinh sát trung đoàn và các thủ trưởng, các cán bộ tác chiến trên E nữa, đến mấy chục người. Tất nhiên bàn cái gì là việc của các thủ trưởng, liên lạc bọn tôi chỉ biết bám theo thủ trưởng của mình. Có buổi anh Băng đi họp một mình. Lại có đêm chỉ có anh ấy đi với các C trưởng khác và trinh sát tiểu đoàn. Sau rốt rồi cũng đến lúc tôi được đi trinh sát cùng anh Băng, khi đó chỉ có các cán bộ C cùng lính trinh sát D, E. Đây là lúc các C đi thực địa khu vực của đơn vị mình đảm trách. Chắc chắn phải có đánh to thì mới phải đi trinh sát và lên phương án kỹ càng như thế này. Tôi đã quen với các kiểu đánh chốt, phục kích và lùng sục. Bây giờ thêm kiếu đánh địch trong căn cứ có công sự vững chắc. Mấy cái loại đánh đấm như trên thì công tác trinh sát cũng bình thường, thậm chí là chẳng trinh sát gì. Đợt này thấy tổ chức trinh sát bài bản và kỹ càng lắm. Tôi ngó trộm trên bản đồ thì thấy khu vực lần này chính là cái ngã ba Lào Ngam. Khu vực này là một điểm chốt chặn quan trọng của địch trên đường từ Pắc-soong vào Pắc-xế mà. Lại nghe phong thanh bọn lính Thái Lan đóng căn cứ vùng này.

   Bọn lính Thái ở đây được mệnh danh là lính con nhà giàu, được trang bị đầy đủ, yểm trợ tốt và khả năng tác chiến hơn hẳn lính Fumi. Lính Thái chỉ tham chiến ở Nam Lào, vùng Thượng và Trung Lào không có. Cuối mùa mưa năm 1971, trung đoàn tôi mới đụng độ trận đầu với lính Thái trong một trận phục kích của chính C6 chúng tôi. Cả một đại đội lính Thái hành quân từ Pắc-xế lên qua khu vực bãi Dứa, rồi túc tắc vạch cây mâm xôi và cành xấu hổ bò lan ra đường cái sau mùa mưa mò lên đến bản Vườn lê 42, chủ quan và nghênh ngang đã bị C tôi choảng cho một trận phải bỏ mạng gần bốn chục xác. Chúng chạy một mạch về Pắc-xế, bỏ lại cả một tuyến đường 23 dài dằng dặc cho bọn lính Lào chốt giữ. Những thằng nhanh chân và khiếp đảm có lẽ còn vượt qua cả sông Mekong về đất Thái. Sau này các đơn vị khác trong E cũng có đụng độ với lính Thái, nhưng trong đó K18 là nhiều nhất. C tôi cũng gặp lại chúng trong một số trận chốt và phục kích mé đường 231. Các anh lính cũ kể lại chúng nó đánh trận bài bản như trường lớp. Thằng chỉ huy thổi còi toe toe cho lính xung phong. Lính Thái không thạo rừng và láu cá nhanh nhẹn như lính Lào. Mình chặn nó đấy, nhưng nếu là vướng đường nó thì nó trèo cả qua đầu mính mà chạy, khiến trận đầu lính ta tưởng là nó xung phong dũng mãnh quá. Nói tóm lại, trung đoàn chuẩn bị chu đáo thế này thì đúng là đánh bọn Thái rồi.

   Tôi theo anh Băng và trinh sát mò mẫm vào vùng ngã ba Lào Ngam theo một vòng cung từ Tây xuống Nam. Có một con suối rất to và sâu như bờ vực ôm lấy khu ngã ba. Sát hai bên bờ suối thì rừng cây rất to, nhưng lên đến bên trên thì rừng cây lại như kiểu rừng tái sinh mọc rất dày. Không có cây to để leo lên quan sát nên phải theo bản đồ mà mò vào tận nơi. Căn cứ địch nằm cách suối khoảng 500 mét. Toàn bộ khu vực quanh căn cứ được phát quang, có tới 5 lớp rào, toàn là rào lưới đơn và rào bùng nhùng. Trinh sát cắt rào đơn mở lối bò vào. Vì đây vốn là rừng phát quang, gốc rễ cây còn lổn nhổn nên địch không cài mìn nhảy và mìn vướng. Chỗ khó nhất là cái rào bùng nhùng, mầm non cây đã mọc lên quấn vào đó nên tự nhiên tạo thành sự liên kết vững chắc. Địch chỉ làm những con đường nhất định từ đường 23 đi vào căn cứ, chứ những chỗ xung quanh chúng nó cũng không dễ mà mò từ trong ra được. Độ rộng vùng phát quang cũng chỉ chừng năm chục mét. Có lẽ ở Nam Lào thì căn cứ này thuộc loại rào kiên cố nhất. Anh Băng và trinh sát cứ bò vào rồi lại bò ra quanh khu vực hàng rào. Ở phía ngoài nếu nép vào các tán cây thì vẫn có thể đứng mà nhìn vào căn cứ. Tối om vì địch cũng không có đèn đóm, hoặc có thắp dưới hầm thì cũng chẳng nhìn thấy gì. Nghe trinh sát nói đây là căn cứ kiểu trấn giữ nên không có nhà nổi mà chỉ có các loại hầm thôi. Trong căn cứ địch cũng không phát quang hết toàn bộ mà cũng chỉ phát từng phần vì chỗ này vốn là một vườn cà phê rộng lớn. Tấn công vào đó chắc phải chú ý việc ném thủ pháo và lựu đạn.

   Liền mấy đêm tôi theo anh Băng và trinh sát đi nắm địch như thế. Mỗi đêm chọc vào một hướng, cắt rào để chui vào rồi khi ra lại uốn trả lại, địch không thể ra kiểm tra nên cũng không sợ lộ. Quân ta cũng chỉ nằm tại hàng rào quan sát thầm lặng và nghe ngóng chứ không bò vào hẳn căn cứ. Ban đêm bọn lính Thái không bắn bậy bạ và chúng cũng cho là an toàn nên không bắn pháo sáng. Chỉ có pháo lớn từ trong Phù Chiêng bắn ra, nhưng chúng bắn mãi tận đâu đâu trong vùng rừng già chứ không bắn đến vùng căn cứ này. Vì thế mấy đêm đi trinh sát chẳng có gì là căng thẳng. Lúc chui vào trong hàng rào rồi thì lại còn thấy an toàn hơn khi còn ở ngoài. Liên lạc như tôi chẳng biết gì nhiều, chỉ có các thủ trưởng chắc phải bàn tính hướng mở cửa và phương án đánh địch nên phải quay ra quay vào tính toán và giục trinh sát dẫn đường.

   Đã sang đến tuần thứ hai của tháng chín, độ ngoài mùng mười gì đó thì chúng tôi rút về hậu cứ. Một điều bất ngờ đang chờ tôi. Một tối anh Băng bảo tôi, cậu không phải làm liên lạc nữa. Đại đội cho cậu đi học công binh phục vụ cho chiến đấu sắp tới. Té ra anh Băng thấy rõ tôi không có khiếu làm liên lạc nên đã âm thầm chuẩn bị vị trí công tác mới cho tôi. Tôi hơi cụt hứng một chút, nhưng nghĩ lại thấy mình về B chiến đáu cũng phải. Thủ trưởng sắp xếp cho hợp lý chứ không phải ghét bỏ mình. Biểu hiện rõ ràng là anh ấy đã cho tôi đi trinh sát cùng anh lần cuối cùng để chuẩn bị một trận đánh lớn quan trọng, rồi mới trả tôi về B.

   Hôm sau tôi cùng thằng Thành (Hà Tây) B5 vác ba-lô về C công binh cách đấy một ngày đường. Đại đội công binh trú quân trong một cánh rừng ẩm thấp cạnh một con suối đá khá rộng, nước rất trong và chảy xiết. Lán cũng làm nửa chìm; hầm hố cẩn thận, nhưng lâu chẳng ai chui vào nên trong hầm mốc meo, toàn những con gì chân gài loằng ngoằng như con gọng vó. Ẩm thấp vì quanh lán toàn chuối rừng và những cây vả quả còn rất xanh. Cây sung có quả non còn ăn được chứ quả vả nếu chưa chín thì không thể ăn được. Chỉ có khu công binh xưởng là đặt trên mấy vạt đất cao. Nơi này an toàn nhưng xa dân. Khi chúng tôi ở hậu cứ bản Xăn-xi-nuc "may" gần các nương dân thì lúc đói quá cũng có thể trang thủ lúc đi cùi cõng tạt qua hay là chập tối trước giờ sinh hoạt có thể chạy ù ra vừa làm "em ông quận công'" vừa trang thủ hái được mấy trái dưa chuột để bổ sung vào dạ dày. Ở đây xa xôi nên chỉ đến bữa có gì ăn nấy nên đói, lại là vì đi tập huấn công binh nên bị quản về thời gian rất chặt. Lính về tập huấn chừng non hai chục người từ các C bộ binh của các K họp lại. C công binh nhường cho chúng tôi một dãy lán ở sát một con suối làm nơi trú chân trong thời gian tập huấn. Tôi đã đi loanh quanh, thấy nơi này chán ngắt, vừa tối vừa bẩn. Ban đêm tuy có thể đốt lửa trong lán nhưng chẳng kiếm đâu ra củi, thật mang tiếng ở rừng. Chả lẽ đốt bằng thân chuối rừng hay cành vả tươi. May mà chúng tôi mang theo nhiều giấy dầu nên có cái mà thắp sáng ban tối. Chỗ này chỉ được mỗi con suối đá, tuy không rộng nhưng nước chảy xiết và rất trong. Một điều hết sức dở hơi là ở chỗ này mọi người không làm nhà cầu. Tất cả đều cho xuống suối. Vì suối chảy rất mạnh nên tôi đoán là chỉ sau độ một ngày, nếu không bị tan ra cho cá nó rỉa thì tất cả chất thải chắc cũng trôi ra đến sông Me-kong. Mà chẳng hiểu bọn lính nhà bếp lấy nước ở chỗ nào để nấu cơm cho đơn vị. Chẳng lẽ chỉ khoắng qua một cái, khuất mắt trông coi như cầu tõm Nam Hà? Mà ngay cả chúng tôi cũng thế, vừa xử lý nỗi buồn xong, ngoảnh đi ngoảnh lại đã có thể bình thản thò chân thò tay xuống lấy nước rửa dáy, thậm chí là tắm giặt hay rửa mặt được rồi. Lúc đó lính là vua trong rừng nên chẳng xá gì chuyện vệ sinh môi trường. May mà không có thằng nào chết vì bẩn. Nhưng tôi nghĩ các cán bộ C công binh cũng cho xử lý như thế thì thật ẩu và liều.
…..


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dream_kgb trong 01 Tháng Chín, 2010, 04:27:54 pm
 Bác Trọng viết cứ như Nắng đồng bằng của Chu Lai ,  cháu kéo cái này lên ạ , đợi bác Trọng lâu quá . ::)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Chín, 2010, 05:08:47 pm
@Dream_kgb:

Độ này cũng hơi bận. Hơn nữa bây giờ đang tập trung cho các mạch chuyện của các CCB sinh viên, chiến trường Quảng Trị 72 cho nó liền mạch.

 Chuyện của tôi chỉ làng nhàng là đời sống lính chiến trường, nên xin tạm nghỉ giải lao chờ các bác TTNL, LeXuanTuong và 6971 nổ súng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 04 Tháng Chín, 2010, 11:13:29 am

Độ này cũng hơi bận. Hơn nữa bây giờ đang tập trung cho các mạch chuyện của các CCB sinh viên, chiến trường Quảng Trị 72 cho nó liền mạch.

 Chuyện của tôi chỉ làng nhàng là đời sống lính chiến trường, nên xin tạm nghỉ giải lao chờ các bác TTNL, LeXuanTuong và 6971 nổ súng.

       Bác Trong6 à ! chuyện bác kể đánh nhau ở bên Lào rất hay. Tôi theo dõi kỹ nhưng không biết gì nên chẳng dám tham gia. Bác cứ kể tiếp đi. Chiến sự ở Việt Nam và Lào xảy ra đồng thời mà .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: ngoclanhp trong 04 Tháng Chín, 2010, 11:51:49 am
Lính nhà mình tài thật, đọc chuyện các bác viết còn hay hơn tiểu thuyết và thấy thật tự hào về đất nước mình.
Câu chuyện nhỏ mà bác Tai_lienson viết cảm động quá, ai không tin em không biết, chứ em tin chuyên đó, mặc dù em chỉ ở hậu phương thôi.
Em còn nhớ cái cảm giác những ngày tháng đầu năm 1975, bọn em còn là học sinh phổ thông thôi, nhưng hậu phương lúc đó theo dõi từng bước chân của các chiến sĩ ngoài chiến trường, tin chiến sự, tin chiến thắng dồn dập bay về, ngày ngày tin chiến thắng được đọc vang vang trên hệ thống loa truyền thanh làm cả hậu phương nức lòng các bác ạ, biết là có chiến thắng tất phải có hy sinh, thương vong, cả nước biết ơn các chiến sĩ chiến đấu ở tiền tuyến, học sinh bọn em lúc đó cũng thấy  thật tự hào về quân đội mình.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hoangdang_hm trong 06 Tháng Chín, 2010, 12:12:40 pm
 Tiếp đi chú ơi, sao chú nghỉ lâu thế. Lần nào vào cháu cũng canh đọc bài của chú!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 06 Tháng Chín, 2010, 01:17:22 pm
…..
   Ổn định chỗ ăn ở ngay trong chiều tối hôm đó, sáng sau chúng tôi đã bắt đầu tập trung học về công binh. Đại đội công binh có một cái hội trường rộng làm trên sườn dốc. Mái lợp bằng thứ lá gì đó như lá mía rừng, nhưng ken dầy nên chống được nước mưa. Ghế ngồi là các thân gỗ gác trên các cọc bắt chéo. Phần lý thuyết được giảng bằng giáo cụ trực quan và vẽ trên giấy. Chúng tôi ai có giấy bút gì thì cứ ghi, còn không thì cố mà nhớ. Phần thực hành thì ra một bãi đất rộng ở cách đó khá xa. Chúng tôi được học về thủ pháo trước tiên. Học cách bấm kíp, gắn nụ xòe, tập gói thủ pháo từ 2 miếng TNT 2 lạng, cách bọc nilon chống ẩm. Rồi lại học cách buộc thủ pháo ống dài 1,2 mét ép bằng nẹp tre, dùng để phá hàng rào đơn. Loại bộc phá khối để phá lô-cốt như thời Điện Biên thì không phải học. Tuy thế vẫn được giới thiệu cách tính toán lượng thuốc TNT để gắn thêm kíp phụ kích nổ đồng thời. Được giới thiệu cả hợp chất nổ C4 và dây nổ để kích nổ đồng thời mìn cài ở nhiều vị trí xa nhau. Những của này tôi cũng có biết qua. Lính Fumi đem rất nhiều mìn Cleimo khi hành quân dã ngoại. Mỗi cái túi vải đựng 2 quả và một hộp công tắc bấm (công tắc điện-từ). Hầu như trận nào đánh kha khá một chút là có chiến lợi phẩm loại này. Thường chúng tôi lấy cái túi vải đựng mìn, gỡ bỏ chỉ máy ở vách ngăn đi để làm cái túi dết công tác rất tiện. Còn mìn thì tháo bỏ kíp điện rồi dùng dao găm cậy vỏ. Mỗi quả mìn được 4 lạng thuốc trắng phau, dẻo, cất đâu cũng tiện. Lúc đói có thể vê một tí bằng hòn bi ve, ăn ngòn ngọt, tạm chống đói. Còn chủ yếu để đun nước sôi pha chè hay cà phê. Tặng của này cho y tá đại đội thì thật hết chê. Còn dây nổ thì theo tôi là một loại vũ khí quá tuyệt vời. Chỉ cần kích nổ 1 chỗ là nổ cả dây, không phải gài kíp phụ. Tốc độ truyền nổ của nó là 3000 m/s. Các lính công binh trong trung đoàn tôi thường quấn quanh gốc cây to rồi cho nổ để hạ cây đổ qua suối làm cầu. Vết nổ cắt thân cây ngọt lịm, gọn gẽ chứ không phá nát thân cây.

   Tiếp theo là học các loại mìn cài. Chúng tôi học 2 loại mìn ống: POMZ2 của Liên xô và mìn chân voi (mìn nhảy-mìn râu tôm) M1 của Mỹ. Học cả mìn chống tăng nữa. Biết cách cài và cách gỡ nó như thế nào; học cả các thủ đoạn cài bẫy phụ chống tháo gỡ. Các bài giảng và thực hành học rất kỹ. Ngoài các loại mìn cài thụ động ấy, chúng tôi còn học khá kỹ về dùng mìn cleimo có kíp điện. Ngoài việc điểm hỏa chủ động còn có thể cài bằng pin điện theo nguyên lý vướng nổ và "căng-chùng" nổ. Toàn là của giết người ghê răng cả. Thời gian chúng tôi học các nội dung như trên cũng chỉ chiếm một tuần thôi. Suốt hai tuần còn lại chúng tôi học về mìn định hướng ĐH và cách đánh hàng rào để mở cửa. Chúng tôi học cách tiềm nhập có dò gỡ mìn bằng que thuốn, học cách bò kiểu sâu đo có đeo mìn định hướng mà quả nặng nhất là ĐH30 (30kg). Không hiểu sao lúc đó đói ăn, gầy gò mà lại tập được những động tác dùng đến nhiều cơ tay, cơ bàn chân và bụng như vậy (bây giờ thấy bọn sinh viên ở các trường đại học khi học thể dục tập hít đất có mươi cái mà trầy trật, vặn vẹo cứ như người không có xương, mới biết ngày xưa lính ta giỏi thật).

   Chúng tôi được đến tham quan xưởng sản xuất mìn định hướng ĐH của C công binh. Xưởng làm cách xa nơi ở tại một góc rừng riêng. Có hẳn một lò rèn ngày nào cũng đỏ lửa. Trung đoàn chúng tôi tự đốt than, xây bễ. Mọi loại dao rừng và cuốc xẻng phát cho các đơn vị trong E đều do C công binh này tự rèn. Thép lấy từ các trận địa cũ về, nhiều lắm (nhưng nói thật là đối với bộ binh ở tuyến trước, cái xẻng pháo binh của Liên-xô là tuyệt nhất. Nó mỏng, cứng và rất sắc, xắn rễ cây ngọt lịm. Còn cái loại xẻng-cuốc gập đa dụng của công binh Mỹ thì chỉ lấy đem về hậu cứ chơi hay tặng cho nhà bếp thôi chứ mang ra trận thì nó vừa cồng kềnh, vừa lọc xọc rất khó chịu). Các lính công binh gò tôn (của này ngoài đường 23 có mà thiếu giống) làm khuôn trông như cái phễu tòe to, tùy loại mà dày 3 đến 5 phân. Mặt lõm xếp đầy mẩu sắt, mảnh đạn nhỏ đã ngâm nước đái cho rỉ, sau đó đun thuốc TNT đổ vào. Gò kín, có chừa lỗ ở giữa để nhét kíp nổ là xong. Mìn DH7, DH10 hay DH30 là tên gọi theo trọng lượng của nó. Cách xếp mảnh ở mìn DH ngược với hướng cách xếp các viên bi  của mìn Cleimo. Mìn DH do công binh E làm chủ yếu dùng để phá hàng rào, mở cửa nhưng nếu cần cũng có thể dùng khi đi phục kích đánh bộ binh rất tốt. Các mảnh sắt rỉ do ngâm nước đái chỉ cần sượt da đối phương làm bị thương cũng có nhiều khả năng gây nhiễm trùng uốn ván mà chết. Dã man quá. Song nghĩ lại, đạn bi, bom bi hay những mũi tên sắt có đuôi xếp đầy trong đầu đạn pháo của địch thì cũng nguy hiểm như thế chứ kém gì.

   Chúng tôi được mượn những quả mìn DH10 (loại này sẽ dùng chủ yếu) ra bãi tập làm giá. Mỗi giá gá 3 quả theo chiều dọc sát nhau, chân cao cỡ 20 cm. Học cách dựng giá mìn trước hàng rào. C công binh còn có cả một thao trường nhỏ dựng sẵn một số loại rào thép gai. Qua đó chúng tôi học biết cách phá các loại rào bằng mìn DH sao cho có hiệu quả. Nếu căn cứ địch có nhiều hàng rào thì phải cắt bớt các hàng rào phía ngoài bằng kìm cộng lực (loại có tay gấp của công binh chứ không phải cái loại to kềnh càng như của dân xây dựng bây giờ đâu), sau đó dựng mìn để phá các lớp rào trong cùng. Kể ra thì rất dài dòng như thế, nhưng tóm lại là trong thời gian 3 tuần đó chúng tôi học rất bài bản và kỹ càng. Mấy ngày cuối còn thực tập ban đêm, kể cả khi trời mưa cho quen với thực tế. Sau đợt học ấy nếu trong chúng tôi có thằng nào được bổ sung ở lại C công binh thì cũng có thể coi là lính công binh được rồi.

   Thời gian tập huấn ở C công binh khá vất vả nhưng chúng tôi rất hào hứng vì mình thu được rất nhiều kiến thức hay. Cái mệt của tập tành dù sao vẫn sướng hơn đi cùi cõng đạn, gạo. Hôm nào học trên hội trường thì quần áo khô sạch sẽ dù bên ngoài mưa rơi. Lúc giải lao quấn điếu thuốc sâu kèn rít rồi nhả khói ra ngoài trời, nhìn hàng nước mưa trên giọt gianh rơi xuống đất lỗ chỗ rồi nổi bong bóng trôi đi thì cũng cảm thấy ấm cúng và hạnh phúc lắm. Cuộc sống chiến khu của các bậc cha chú năm xưa chờ ngày toàn thắng chắc cũng giống thế này. Buổi tối cúng tôi thường thắp giấy dầu đánh bài. Vì chỉ có mấy người nên không phải sinh hoạt nhiều như ở đơn vị. Lại không phải gác đêm nữa chứ, quá nhàn. Vào trong chiến trường tôi mới biết đến kiểu đánh bài "tiến lên" bằng bộ tú-lơ-khơ. Mà cũng chỉ đánh kiếu đó thôi chứ không ai chơi kiểu "tấn-đỡ" như ở nhà. Chơi kiểu "tiến lên" rôm rả lắm, từ 3 người trở lên là đã chơi được rồi. Có đông người ngồi cổ vũ càng vui, không phải dè chừng như đánh cờ tướng. Bộ bài thì đơn vị nào cũng có, A nào cũng có một bộ. Đây cũng là một loại chiến lợi phẩm chúng tôi thích thu thập, được lấy dùng tự do mà không phải nộp cấp trên theo chính sách chiến lợi phẩm. Trong lính mà không có chơi bài kiểu này, chắc cũng đến buồn mà chết.

   Ngày cuối cùng đợt học, chúng tôi họp tổng kết vào buổi sáng. Tham mưu trưởng trung đoàn cũng đến dự. Ông ấy khen ngợi tinh thần học tập miệt mài và nghiêm túc, đạt kết quả tốt của chúng tôi. Ông còn vui mừng tuyên bố là sẽ từ chúng tôi mà nhân rộng ra dưới đơn vị, từ nay trong các trận đánh của bộ binh, phần dựng mìn mở cửa sẽ do bộ binh đảm nhiệm toàn bộ. Trung đoàn động viên luôn chúng tôi bằng một bữa ăn tươi cùng C công binh: mổ thịt một con lợn. Rau cỏ không có gì, nhưng thịt thì cũng đủ ngập chân răng. Buổi chiều chúng tôi được nghỉ tắm giặt. Lại ra cái suối mà 3 tuần qua mình thải chất rắn ra đó để tắm. Chuyện thường thôi mà.

   Hôm sau tất cả chia tay, ai về đơn vị nấy. Mỗi thằng được phát một nắm cơm nếp ăn trưa vì hầu như các đơn vị đều ở xa. Bọn K18 chúng tôi về xa nhất, phải bảy tám tiếng đi đường. Cả tốp đi cùng được hơn nửa đường lại chia tay nhau lần nữa, ai cũng muốn đi lối đi riêng để còn lo cải thiện. Thằng Thành dẫn tôi vòng ra phía bản Phù-đin. Tuy có xa hơn, nhưng qua được một số nương dân. Mỗi thằng chúng tôi hái được một túi vải đầy thuốc lá. Quá nửa chiều rồi, thằng Thành dẫn tôi vào một nương ngô. Ngô nếp của dân rất nhiều. May quá gặp dân, chúng tôi liền hỏi xin. Một người dân Lào tuổi cỡ cha chú chúng tôi vui vẻ bảo chúng tôi cứ lấy tùy thích, lại còn chỉ cho chúng tôi cái nồi nhôm to tướng để ở dưới lều phía góc nương. Thế là thằng kiếm củi nhóm bếp, thằng bẻ vội ngô. Có một lạch nước nhỏ cạnh lều nên chẳng phải đi đâu xa. Ngô luộc chín còn nóng đã đổ vội ra chén. Không hiểu sao lúc ấy chúng tôi lại như ma đói, ăn ngon đến thế. Hết nồi ngô này lại bẻ tiếp ngô chất củi luộc tiếp nồi khác. Chúng tôi vừa ăn vừa chuyện trò tào lao, quên cả thời gian trôi qua trên đầu. Tắt hết nắng thì người dân Lào quay lại. Ông ta tròn mắt nhìn đống lõi ngô và hai thằng bọn tôi đang ngồi thở. Ông ấy bảo có nhiều bộ đội à. Chúng tôi đưa mắt đếm lược vội đống lõi ngô, phải đến sáu chục chiếc chứ không kém. Chết cha, hai thằng xin mấy bắp mà ăn như thuồng luồng thế này thì còn gì là nương ngô của dân nữa. Xấu hổ quá, thằng Thành đứng lên khom người lắp bắp "men lẹo" (dạ đúng) rồi kéo tôi đứng dậy. Hai thằng vừa "khớp chay" (cảm ơn) vừa lùi dần ra nương rồi chuốn thẳng. Thoát khỏi người dân Lào là vừa đi vừa chạy, đau quặn cả bụng mà không dám dừng.

    Trời tối rất nhanh. Nghỉ tạm bên suối lấy vội bi-đông nước. Bây giờ mới tiếc là không kịp lấy nước ngô đổ vào bi-đông lúc trước, khi đó chỉ mải ăn thôi. Nếu không có chuyện xin ngô luộc ăn thì chúng tôi cũng đã về đến đơn vị rồi và có thể mò xuống anh nuôi xin bữa cơm tối. Nhưng lúc này chúng tôi cũng không đói, cũng không cần đến bữa ăn tối ở đơn vị nữa. Thằng Thành nhẩm tính đường về đến đại đội chắc chừng non hai tiếng nữa nhưng đấy là đi ban ngày. Bây giờ đi đêm mò mẫm chắc mất nhiều thời gian hơn. Chúng tôi ai cũng có đèn pin (chiến lợi phẩm) nhưng pin thì đã hết từ lâu rồi. Thằng Thành là lính Hà Tây vào trước tôi đã đánh nhau với lính Thái còn lấy được một chiếc đèn pin cổ ngoéo của Mỹ chính hiệu tuyệt vời lắm. Cổ đèn có thể vặn thẳng hay gập thước thợ. Vỏ đèn bằng nhựa (màu xanh ghi) rất kín nên có thể soi chìm được trong nước và đặc biệt cái đèn có một mắt kính mờ có thể dùng để soi xem bản đồ ngay trong hàng rào mà thằng lính gác đứng cách đó hơn chục mét cũng không phát hiện ra vệt sáng. Đèn xịn nhưng hết pin thì cũng bằng nhau với đồng bào. Mò mẫm về đơn vị trong đêm vừa vất vả mà lỡ ra không bắt liên lạc được, bị thằng gác nó bắn nhầm thì cũng toi nên thằng Thành bàn với tôi rồi quyết định ngủ đêm lại trong rừng, sáng mai sẽ về đơn vị. Lính tráng hành quân, tăng võng đầy đủ, ngả đâu đấy là nhà nên chẳng có gì phải lo lắng. Chúng tôi mắc võng cạnh nhau, ôm súng trong võng mà ngủ. Chỗ này là vùng hậu cứ cũng ít khi có thám báo nên chúng tôi còn hút thuốc và rì rầm nói chuyện chán rồi mới ngủ.

   Sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm rồi mò về đơn vị, thế mà cả đơn vị cũng đã đi cùi đạn rồi. Chúng tôi mất bữa sáng, nhưng được nghỉ lại hậu cứ để làm việc vặt. Thằng Thành không chịu đói, mò sang  nương của bản Xăm-xi-nuc "may" đào được một mớ dong (loại dân Bắc dùng làm miến) về luộc, còn chất lượng hơn cả bữa ăn sáng của đơn vị. Buổi trưa hôm đó lại gặp may. Kể cả hai chúng tôi và anh nuôi, cán bộ… trong hậu cứ còn lại chưa đến chục người, trong đó có C phó Hùng. Anh Hùng người Hà Tây, không phải dân tộc nhưng rất máu đi săn. Anh ấy lấy được một khẩu Cacbin chiến lợi phẩm nhưng để lại ở hậu cứ C, không nộp lên trên (Trên D bộ K18, các anh tác chiến, quản lý cũng giữ mấy khẩu Cacbin chuyên cho việc đi săn. Không nộp lên trên, nhưng lúc hành quân chuyển hậu cứ thì phải tự mang). Ngay trong rừng hậu cứ C tôi cũng có nhiều chồn, sóc vì là rừng già có nhiều cây to. Mọi ngày nếu ở nhà có đông người thì không ai cho bắn, nhưng hôm đó anh Hùng là chỉ huy cao nhất nên tự quyết và rình bắn được một con chồn hơn 3 cân. Anh Hùng cũng thuộc loại "ca cóng" có đẳng cấp trong C tôi. Thế là bữa trưa anh em hậu cứ có một bữa tươi, rôm rả. Tôi và thằng Thành được một ngày thoải mái sau đợt tập huấn công binh, chuẩn bị sẵn sàng cho nhiệm vụ mới đang chờ.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: votmuoi trong 06 Tháng Chín, 2010, 01:41:03 pm
Đến lứa bọn em vẫn giữ một khẩu cạc bin để chyên săn,nhưng đạn quý hiếm nên rất tiết kiệm (chính trị viên em vác khẩu này)
Anh ơi sao các bác trong quân sử không dùng từ " ca cóng " như đơn vị em và đ vị bác? hôm nay mới thấy bác dùng ;D
Đọc đến từ này mà em nhớ ra biết bao câu chuỵện " ca cóng " của mấy thằng em  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 07 Tháng Mười Hai, 2010, 11:54:28 am

   Tôi lại về B5 với anh Trịnh. Trả đạn ở khu trung chuyển sau chuyến cùi cõng xong, các B lục tục kéo về hậu cứ hưởng bữa cơm chiều. Rửa chân tay từ suối lên, ngúc ngắc cái đầu húi cua, nhe cái răng vàng to tướng ra cười khi thấy tôi đứng trước lán của tiểu đội, anh Trịnh vỗ vai tôi:

   - Mày lại về với tiểu đội hả. Thôi được rồi, lại như xưa cũng tốt. Thế này có khi hay, mày ở lính đánh nhau hợp hơn làm "tít tò" (liên lạc - tiếng Lào) cho mấy ông ấy. Lăng xăng mãi cũng chán. Vào nhà đi, tối sinh hoạt, giao việc.

   Rồi anh ấy lấy trong túi ra hai quả ổi ương trảy được ở đâu đó lúc đi cùi đạn, đưa cho tôi một quả. Quả ổi ương quá rắn, cắn mãi mới được một miếng bé, nhưng nhai kỹ thấy trong cái chát cũng có tí vị ngọt.

   Cơm chiều xong, đại trưởng Băng gọi tôi và thằng Thành lên C bộ. Chúng tôi báo cáo lại tình hình đợt đi tập huấn về công binh. Hai thằng bổ sung báo cáo cho nhau và trả lời các câu hỏi của BCH đại đội mất gần một tiếng đồng hồ. Đại trưởng Băng bảo: "Chúng mày thế là biết quá nhiều rồi đấy, có khi hơn cả bọn anh. Chuẩn bị tập huấn lại cho trung đội rồi tập chiến thuật nhé. Sắp đánh to đấy". Chúng tôi vâng dạ rồi trở về B5.

   Buổi tối sinh hoạt A, nhưng nội dung không có gì đặc biệt. Ngày mai chỉ là đi cùi gạo, nhưng lót sang tận mép đường 23. Tuy thế cũng có một điểm mới trong lúc tôi đi tập huấn công binh là đơn vị vừa được trang bị thêm một loạt súng chống tăng B41. Toàn là súng của Trung Quốc. Hỏa lực này mạnh hơn B40 ở tầm bắn xa (375m theo thước ngắm, trong khi B40 chỉ có 150m) và có cơ chế tự nổ theo thời gian nếu trước đó không gặp mục tiêu. Khẩu súng cũng có điểm hay là có buồng giảm áp giữa nòng súng và ống che lửa phía đuôi nên xạ thủ khi bắn an toàn hơn, có thể cấp tập được nhiều đạn hơn mà chưa tức ngực. Trung đội tôi cũng được 2 khẩu và tôi cũng rất muốn có dịp bắn thử. Dạo nọ ở nam đường 23 mà đã có khẩu này đi tập kích ban đêm thì quá tốt. Anh Trịnh thấy tôi cứ loay hoay sờ mó mãi khẩu súng B41 và quả đạn thì cười bảo: "Thể nào chả có lúc được bắn. Mong hòa bình để được buông tay súng mới khó chứ chiến tranh thế này thì dù không muốn cũng có lúc phải dùng đến. Thôi ngủ đi mai còn cùi cõng".

   Hôm sau cả C lên đường từ sớm. Nhận ngay từ hậu cứ tiểu đoàn, mỗi thằng một bao gạo đồ 25 cân. Dạo này tuy đang mùa mưa, không hiểu sao xe tải lại vào được hậu cứ trung đoàn một cách ngon lành. Chúng tôi bắt đầu được ăn cơm gạo đồ thay cho cơm nếp. Nói thật là vì ăn cơm nếp mãi nên chán (dù vẫn bị đói) nên chúng tôi hào hứng đón nhận món gạo mới này thôi, chứ thật ra cơm gạo đồ nó cứ chuồi chuội thế nào ấy. Chẳng hạt nào dính hạt nào. Không thể dùng loại cơm này để dán giấy như cơm gạo tẻ thường của mình. Ấy thế mà dân Lào lại thích gạo này chứ không thích gạo tẻ của mình. Tìm hiểu mãi hóa ra họ quen ăn bốc bằng tay nên thứ gạo này hợp với tập tục của họ.

   Một bao gạo, thêm súng ống và cơm nước vào là đủ 30 cân đè lên vai rồi. Sau mấy tuần ở C công binh không rèn luyện cùi cõng, trọng lượng đó đè nặng trên vai tôi hơi quá mức bình thường nên chỉ sau chừng hai tiếng, vượt qua vài dốc suối là tôi đã bị tụt lại cuối đội hình. Vẫn phải vươn dài cổ ra mà đi chứ chẳng dám kêu ai. Tới chỗ nghỉ, người ta nghỉ giải lao được mười phút thì tôi chỉ được nghỉ dăm phút thôi là đi ngay vì phải cố bám đội hình. Sau chặng thứ hai ngồi nghỉ sát một cái nương dân, tôi bỗng thấy một con chó khá to đứng cạnh lùm cây bên đường nhìn tôi thân thiện. Lông con chó màu vàng, giống như đại đa số những con chó ở làng quê ngoài Bắc. Thấy nó không gầm gừ mà vẫy đuôi, tôi tặc lưỡi "tục, tục" mấy cái. Thế là nó tiến lại sà vào chân tôi, vẫy đuôi rối rít cứ như là lâu ngày gặp lại chủ. Con chó còn để nguyên cho tôi vuốt tay lên đầu. Lúc tôi xốc bao gạo đứng dậy đi tiếp, nó liền đi theo. Tôi chỉ ngoái lại nhìn nó một lúc rồi cắm đầu cắm cổ đi theo đơn vị. Lại qua suối và dừng nghỉ chân giải lao ở chặng thứ ba, tôi bất ngờ thấy con chó xuất hiện và chạy rúc vào chân mình. Hóa ra nó đã đi theo tôi cả một chặng đường dài, lại dám lội qua cả suối. Bây giờ thì tôi bạo dạn hơn, ôm nó vào lòng, vuốt tay lên đầu mà cảm thấy như cái mệt của mình vơi đi rất nhiều. Một thứ tình cảm nào đó chợt xuất hiện trong tôi. Tôi là chú bé Rê-mi còn nó là con Ca-pi trong "Không gia đình" của Hecto Malo chăng?

   Không thể giải thích nổi vì sao mà con chó lại đi theo tôi, cứ như tôi là chủ nó vậy. Tôi đi thì nó đi theo, tôi ngồi nghỉ thì nó cũng nằm nghỉ bên cạnh chân. Cứ như thế cho đến khi chúng tôi trả gạo vào buổi trưa. Suất cơm trưa ít ỏi, nhưng tôi cũng chia cho nó một phần. Chỉ dám cấu từng viên cơm to như hòn bi ve  chậm rãi cho nó ăn và cho mình ăn. Không thể đủ no cho cả hai nhưng tôi và chắc là cả nó cũng đều hài lòng. Có khác nào cảnh ông già Vi-ta-lít và anh bạn Rê-mi chia từng mẩu bánh mì nhỏ cho cả chú khỉ Giô-li-cơ lẫn mấy con chó Ca-pi, Đôn-xơ và Giec-bi-nô ở cánh rừng hoang lạnh giá trong cái đêm bị chó sói tấn công. Tất cả đều đói, nhưng nhẫn nại và cam chịu trước hoàn cảnh. Tôi vuốt con chó này, thấy nó không đến nỗi gầy như chó hoang, chắc chủ nó cũng cho ăn đủ, vậy thì nó đi theo tôi làm gì.

   Buổi chiều quay trở về đơn vị, con chó vẫn chạy theo tôi. Bây giờ thì lính trong trung đội mới chú ý đến nó. Ba lô lúc về không còn gạo, chân bước nhẹ tênh nên có lúc tôi bế con chó, có lúc lại bỏ nó vào ba lô khi lội qua mấy cái suối rộng cho nó đỡ mệt. Cũng chẳng biết con chó của ai mà đem trả. Lúc đi ngang qua mấy cái nương cũng không gặp người dân nào. Lính tráng tranh thủ tạt ngang tạt ngửa vặt cái gì đó cho vào mồm hay hái vài lá thuốc lá của dân nhưng con chó của tôi thì chả ăn được thứ gì. Tôi bảo anh Trịnh là thôi, em cứ đem con chó về hậu cứ để nuôi nhé. Chẳng hề nghĩ đến sẽ nuôi nó như thế nào, nhưng cứ đem về cái đã. Do lúc về trời đã sang chiều, lại tạt ngang nương của dân nhiều quá nên trời sập tối mà chúng tôi vẫn chưa về đến hậu cứ. Tự nhiên lúc đó tôi lại đau bụng mới chết chứ. Đau quặn cả người, mồ hôi vã ra, chân tay rã rời, mặt nhợt nhạt. Tôi cứ cố vùng dậy đi một đoạn ngắn lại phải ngồi xuống ôm bụng nhăn nhó. Không thể chờ nhau mãi được, anh Trịnh quyết định chuyển con chó cho người khác đem về trước, còn anh ở lại dìu tôi đi sau. Mãi đến hơn 9 giờ tối tôi mới cùng anh Trịnh về đến hậu cứ của trung đội. Lúc này cơn đau bụng của tôi cũng đã dứt.  Cả trung đội đã ăn cơm tối, chỉ còn phần lại cho hai người. Tôi giật mình thấy trong một góc xoong sáu có ít thịt, kêu lên hỏi thì B trưởng Quân bảo: "Ăn đi, thịt chó đấy". Thế là thế nào, mọi người đã thịt mất con chó gắn bó cả một ngày với tôi rồi sao. Mà sao chẳng ai nói trước gì cả với tôi. Tôi cáu lắm mà chẳng biết làm thế nào, bắt đền được ai, trách được ai bây giờ. Đói mà tôi thấy đắng ngắt, không ăn được, có một cái gì đó vừa nghẹn ngào, vừa chua xót. Cũng chẳng cần phải phân bua hay dỗ dành gì như với con trẻ, anh Quân bảo thẳng tưng như ra lệnh. Nào là con chó chẳng phải của ai, nào là không thể nuôi được nó, nào là cần để cải thiện cho anh em có sức… vân vân và vân vân. Tất nhiên anh ấy có lý nhiều hơn để đè bẹp đi cái tình cảm ủy mị của tôi. Tôi không thể trách mãi các anh ấy, nhưng vẫn mặc cảm như mình có lỗi. Dù đó chỉ là một con chó, nhưng tôi đã lạm dụng vào lòng tin, vào bản tính trung thành cố hữu của một con chó khi nó bám theo tôi. Hồi ở bản Phiệt bên huội Chăm pi, khi mới chỉ là lính mới mà tôi đã là thằng trộm gà rồi, bây giờ lại trở thành thằng bắt chó, thật là tồi tệ. Nếu biết tôi cũng chỉ là hạng trộm gà bắt chó thì chắc con chó đã tránh xa tôi rồi. Khổ thân cho nó.

   Cả trung đội tôi đã thịt trộm và xơi hết cả một con chó trong đêm ấy. Thế nhưng vẫn có hai người không đụng vào một chút nào. Người thứ nhất là tôi. Vì không chủ định với cái chuyện bắt chó ấy nên tôi mặc cảm và không thể ăn nổi miếng nào, dù các anh trong đơn vị có tán kiểu nào đi nữa. Người thứ hai là anh Thanh làm anh nuôi, người dân tộc Tày. Anh ấy bảo dân tộc anh ấy không ăn thịt chó, cũng như người Lào vậy. Chẳng bù cho B trưởng Quân là người dân tộc Mường, nổi danh gan góc khi đánh trận đấy nhưng cũng nổi danh là vua "khợp" trong đại đội, chả có con gì mà anh ấy không dám ăn. Kể cả món bọ hung vặt cánh giã cùng muối ớt chấm xôi, đặc sản của người Lào, anh ấy cũng chẳng từ. Việc trung đội làm thịt con chó cũng khá vất vả. Thoạt đầu anh Thanh không cho mượn xoong nồi. Mãi sau nằn nì quá anh ấy đành cho mượn nhưng bắt đem xuống dọc suối một đoạn xa mới cho nấu nướng. Những thứ bỏ đi như xương xẩu phải đem chôn kỹ. Sau đó còn phải đem xoong nồi đi xa, lấy đất và lá rừng cọ cho đến khi không còn mùi anh ấy mới nhận lại. Chuyện như thế mà rồi cũng giấu được đại đội, không ai biết cũng nhờ đặc điểm B5 đóng riêng lẻ trên một góc đồi cách đại đội cả một con suối và đoạn đường dốc lớn.
...


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 07 Tháng Mười Hai, 2010, 10:24:14 pm
   Bác Trongc6 mất hút bấy lâu nay, nay đã trở về. Mà chuyện bác hay thế sao lại khiêm tốn cho rẳng chỉ làng nhàng thôi, thôi thì bác cứ làng nhàng đều cho mọi người được nhờ, chứ đừng mất hụt lần nữa nhá. Em phải đọc lại từ đầu để không bị đứt mạch đấy, vất vả quá.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Mười Hai, 2010, 09:01:35 am
.....

         Ngày hôm sau, mọi việc lại trở lại bình thường. Bây giờ đã sang đầu tháng 10 năm 1972 rồi. Chỉ trong hơn chục ngày tiếp theo thôi mà chúng tôi làm đủ mọi thứ việc. Việc đầu tiên là cả đại đội ra khu bãi Đá, trận địa cũ của địch để tập chiến thuật cho sát thực tế. Các C khác có lẽ cũng vậy, nhưng mỗi C một khu vực riêng. Lần đầu tiên chúng tôi được giới thiệu và tập chiến thuật đánh địch trong công sự vững chắc. Cách đánh này có lẽ là bài bản từ thời Điện Biên, có khác chăng chỉ là hiệp đồng và phối hợp giữa các bộ phận. Các anh đã qua trường SQ Lục quân chắc thuộc lòng từng bước chiến thuật này. Trinh sát đi thực địa nắm địch, báo cáo tiểu đoàn rồi lên phương án tác chiến. Đầy đủ nhất thì đắp sa bàn, còn thường chỉ là bày quân cờ trên mặt đất rộng để dễ hình dung trận địa. Đánh mỗi căn cứ thường có 3 mũi, mở cửa 3 hướng, lệch nhau chừng 120 độ.  Có khi chỉ có 2 cửa mở, còn một hướng phục đón lõng đánh bọn rút chạy hoặc đánh quân tiếp viện. Tùy theo đánh căn cứ cỡ đại đội hay tiểu đoàn địch mà ta điều quân trên đó một cấp. (Cái này theo lý thuyết từ thời Điện Biên thì lực lượng bên ngoài phải gấp từ 3 đến 5 lần lực lượng chốt giữ thì mới mong thắng được). Trên vùng Nam Lào địch thường đóng căn cứ cỡ đại đội trở lên, còn cỡ trung đội thì chỉ là đóng dã ngoại hay lập chốt như quân ta.

   Về chiến thuật trên một hướng thì sau khi chọn hướng cửa mở, ban đêm bộ đội sẽ phải tiềm nhập vào đó. Bộ phận mở cửa cắt bớt các lớp rào ngoài rồi chui vào dựng các giá mìn sao cho khi điểm hỏa thì đủ sức phá thông nốt số hàng rào còn lại. Các trận đánh của chúng tôi thường bắt đầu vào lúc 5 giờ sáng, khi trời còn nhờ nhờ nhìn chưa rõ mặt người. Cùng với hiệu lệnh bấm mìn phá hàng rào, các tay súng hỏa lực bắn thẳng tại chỗ (B40, B41, DK, 12ly7) của đại đội và tiểu đoàn (đã chui vào đào hầm trong đêm theo hàng ngang, ngay sát lớp hàng rào ngang bằng với chỗ đặt giá mìn) sẽ bắn cấp tập vào khu lô cốt đầu cầu nhằm đập nát các hỏa điểm và công sự tại đó. Cùng lúc các loại cối pháo cấp trên sẽ cấp tập vào cùng khu cửa mở đó để chế áp và tiêu diệt các hỏa điểm của địch. Tùy theo thời gian của từng trận (15 đến 20 phút hoặc hơn), pháo cấp trên sẽ chuyển làn sâu vào trong căn cứ địch. Lúc này hỏa lực B40, B41 tạm ngừng, còn 12ly7 sẽ bắt đầu phát hỏa, bắn chéo vào cửa mở tạo lưới lửa che phía trước cho bộ binh. Cối 60 của đại đội cũng bắn sâu vào trong, nhưng độ linh hoạt của nó cao hơn các loại cối pháo của cấp trên. Lệnh được phát ra và bộ binh (bố trí phía sau theo hình cánh gà) sẽ đồng loạt xung phong vào cửa mở. Bộ binh chạy đến đâu thì 12ly7 sẽ rê dọc theo sao cho đường đạn phải bay trước bộ binh chừng 15 mét.  Bộ binh chạy qua khu hỏa lực ở cửa mở thì bốc luôn theo hỏa lực B40, B41 của tiểu đội mình nhập vào đội hình. Lúc bộ binh chạy vào sát đến khu lô cốt đầu cầu thì 12ly7 phải ngẩng nòng bắn sâu vào căn cứ địch, cao hơn trên đầu bộ binh chừng 1,5 mét trở lên, mục đích lúc này chỉ là uy hiếp địch trong căn cứ bằng tiểng nổ. Khi bộ binh vào đến khu đầu cầu thì tự dùng thủ pháo và AK đánh chiếm các công sự, còn hỏa lực B40, B41 chỉ hỗ trợ khi nhìn rõ mục tiêu. Trong đánh căn cứ, bộ binh chỉ dùng thủ pháo, không dùng lựu đạn để tránh mảnh văng lung tung. Đơn vị đầu tiên (thường là cả trung đội) vào cửa mở chủ yếu chỉ cần chiếm cửa mở để tạo đầu cầu làm bàn đạp. Đây cũng là lúc cối pháo cấp trên dừng chi viện. Đơn vị thứ hai sẽ lao thẳng vào cửa mở, vượt qua đầu cầu tạo mũi nhọn đánh thọc sâu vào tung thâm, kết hợp với đơn vị phía sau nữa đánh tỏa ra căn cứ. Sau đó thì cứ thế mà đánh lan ra cho đến khi bắt tay được với đơn vị bạn ở hướng khác thì thực hiện tảo thanh. Làm chủ trận địa xong lại phải khẩn trương thu vũ khí, chiến lợi phẩm đồng thời làm ngay công tác thương binh tử sĩ để nhanh chóng rút khỏi trận địa vì khi chắc chắn biết đã mất căn cứ, địch thường tập trung pháo và máy bay ném bom đánh thẳng vào trận địa. Một trận đánh cỡ căn cứ có đại đội địch thường chỉ hơn một tiếng là đã gọn gẽ. Trong trường hợp cần giữ đất thì lại phải tổ chức chốt ở xa chỗ khác để chặn địch chứ không được chốt trong căn cứ. Có căn cứ chỉ sau một tuần khi ta bỏ đi, địch đã lại đưa quân lên lập lại căn cứ mới. Còn nếu chiến sự vào sâu hơn thì sau này cái trận địa bỏ hoang đó cũng được các tốp lẻ quân ta trở lại thu dọn sạch sẽ các thứ có thể dùng được.

   Đấy là nói về lý thuyết một trận đánh căn cứ phòng ngự vững chắc của địch, nhưng không phải lúc nào cũng được như vậy. Hàng rào mở không hết ngay từ đầu thì lại phải dùng bộ binh đánh bộc phá bằng tay mở cho xong. Hàng rào càng nhiều lớp càng khó, phức tạp nhất là hàng rào cũi lợn (hay hàng rào vướng chân). Hàng rào bùng nhùng chỉ cần đặt bộc phá đúng kỹ thuật là đánh ngon lành. Trên cao nguyên có một đặc điểm là nếu căn cứ đó địch không phát quang từ đầu bằng bom mìn mà chỉ dùng dao phát cây rồi đặt hàng rào thì chỉ sau một mùa mưa, lớp chồi non tái sinh mọc lên chui vào khe các vòng thép gai sẽ tạo nên sự gắn kết rất chắc chắn. Mở thông cửa mở là cả một nhiệm vụ nặng nề, nhiều khi quyết định đến số phận cả một trận đánh.

   Rồi chuyện cối pháo cấp trên khi chi viện không bắn trúng ngay cửa mở mà đấm đít  luôn bộ binh vài trái. Chỉ cần vậy thôi là các thủ trưởng hai tuyến đã chửi nhau loạn xạ trong máy điện thoại rồi, đặc sản văng ra thoải mái đủ loại mà nếu như có thật thì cả đơn vị được ăn tươi cả tháng không hết. Hoặc là 12ly7 khi bắn chế áp cho bộ binh xung phong mà hạ nòng hơi thấp là bộ binh xanh mắt mèo, tưởng như đạn nó quạt thẳng vào lưng mình rồi, không dám xung phong… Đấy, cứ theo giả định tình huống do cấp trên tự đặt ra, và chúng tôi phải tập theo như thế. Còn một sự thật nữa là khi tập chỉ bắn đạn mồm nên khác xa nhiều lắm lúc xung trận. Nếu không có dàn lính cũ làm nòng cột thì các trận đánh chắc không thể thắng như khi lên phương án được.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 09 Tháng Mười Hai, 2010, 03:17:06 pm
         
               Chúng tôi mới trở về Hà Nội được năm đầu, sau 5 năm đi học sơ tán. Chỉ mới năm học 1969-1970 thôi, tôi còn học ở trường cấp III Yên Hòa B. Đây là trường Chu Văn An (trường Bưởi) sơ tán về học chung trên đất ở Cầu Giấy của trường Yên Hòa. Tôi học lớp 9C, cùng lớp với Phạm Như Anh, con gái của luật sư Phạm Thành Vinh. (Bác luật sư này cùng với bác Đỗ Xuân Sảng là 2 luật sư bào chữa cho vụ máy bay biệt kích C47 của Mỹ-ngụy bị bắn rơi ở Ninh Bình năm 1963 đó). Tôi cũng biết anh Nguyễn Văn Thạc, học sinh giỏi văn toàn quốc học trên một lớp, đã mang vinh quang về cho trường năm đó. (Hơn 30 năm sau, khi có tập nhật ký "Mãi mãi tuổi hai mươi" của anh Thạc, tôi mới biết rằng Như Anh lớp tôi yêu anh ấy, và anh ấy đã hy sinh. Lúc đó con gái lớp 9 mà đã yêu cũng hiếm lắm. Như Anh bây giờ chắc còn nhớ chút ít con đường rẽ từ Cầu Giấy vào trường phải đi qua một cái xưởng của HTX làm mắm, lúc nào cũng nồng nặc mùi, và con đường làng nhỏ chạy men quanh mấy cái ao, không ít đứa học sinh nghịch trêu nhau đã lăn tòm cả người và xe đạp xuống đó).

              
Bạn TrongC6 ơi! Hôm 31/10/2010 lễ hội Trường Yên Hòa 3B-Một thời để nhớ đã thành công tốt đẹp thỏa lòng mong ước của các thế hệ thầy cô và học trò. Gần 300 HS của 16 lớp về dự từ khóa đầu tiên 1964-1967 đến khóa cuối của bạn 1968-1970. Mình xin đính chính lại năm học 1966-1970 trường Yên Hòa được tách ra làm 2 YHA và YHB. YHB tồn tại được 4 năm hết năm học 1970-1971, khung giáo viên của trường kết hợp với Trần Phú B thành cấp 3 Ba Đình (trường buổi chiều của Chu Văn An). Bạn mở hộp thư yenhoa3b@yahoo.com mật khẩu 19651971 sẽ có thông tin về lễ hội đấy.

Từ Cầu Giấy qua cửa hàng ăn uống 1 quãng ngắn rẽ trái vào ngõ nhỏ sặc mùi nước mắm, bên phải là ao bên trái có 1 lớp học trong vườn nhãn, ở đây có bố con ông què kéo xa làm dây thừng. Mình học lớp 9 tại đây. Năm lớp 10 về học tại thôn Hậu xã Dịch Vọng, 10 B của mình học sáng, 9B của Thạc học chiều cùng chung 1 lán...

Bây giờ những khu vực đó còn đâu...     


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 09:32:41 am
Chào Bác Lê Xuân Tường.

Cảm ơn bác đã cho biết nhiều thông tin về mái trường Yên Hòa B thân thương. Đang xem ảnh để tìm nhận gương mặt quen.

Xem các bài trong topic của bác, em thấy cảm phục tấm lòng đồng đội của bác và sức vóc của bác khi tham gia được nhều hoạt động xã hội.

Kính chúc bác, người anh lớp trên ở mái trường YHB luôn mạnh khỏe và vững tay viết bài


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 10:35:55 am
Bác trongc6 ạ, e9 của bác trước mậu thân là e9 của 304, năm 1968 vào Huế sau đó qua Lào tách khỏi 304. Theo như bác kể thì năm 1975 có qua 320 nữa phải không ạ. Cái trung đoàn này cũng lang thang đấy nhỉ. Hôm trước tôi có xem tivi thấy TBT Lê Khả Phiêu về thăm f968 ở Quảng Trị.

f968 giờ đóng ở trục đường 9 cách Đông Hà có mấy cây số. Mấy năm trước đây là sư đoàn khung của QK4, giờ thế nào không biết.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 10:47:59 am
Tiếp tuc cuộc hành quân của những ngày đầu tháng 4 năm 1972...

                 ... Xuân Mậu Thân 1968, Trung đoàn tham gia đánh Huế, giữ cờ trên cố đô 26 ngày đêm, với người chỉ huy là Tư lệnh kiêm chính ủy Lê Khả Phiêu...

Thế trung đoàn Phú Xuân cũng chốt giữ 26 ngày đêm tại Huế hồi Mậu Thân đâu phải là e9b của bác. Tôi cũng không rõ gốc tích của e này nhưng nhớ nó vì nó cứ khăng khăng là cắm cờ ở thành Huế ngày 26/3/1975 mà thực tế e mọt linh kẹt (e101) của tôi đã cắm cờ trên Phu Văn Lâu lúc 13 giờ ngày 25/3/1975.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 11:10:52 am
@bác PhongQuang.

       Sư 320 thời chống Mỹ nằm địa bàn B3 (Tây Nguyên). Tháng 5/1973, Trung đoàn 52 của sư 320 bị rút đi bổ sung cho chiến trường Quảng trị (Nó nhập vào sư 325 thì phải). Thế là E9B bị cắt ra khỏi sư 968 và bổ sung cho sư 320A. Mãi đến tháng 8/1975, trung đoàn 9B mới trở lại đội hình sư 968 và ở đó cho đến ngày hôm nay. Đúng như bác PhongQuang đã nói, bây giờ sư 968 thuộc QK4 và đóng tại Quảng Trị

Theo sự tìm hiểu của tôi thì thời gian Quảng Trị 1972 chưa bao giờ thấy xuất hiện phiên hiệu của e52. f325 không hề bổ sung 1 e nào cả khi vào QT (gồm các e101, 95,18 sau 1973 thêm e pháo 84). Tôi biết e52 tên truyền thống từ hồi đánh Pháp là Trung đoàn Tây Tiến, khi thành lập đại đoàn 320 thì về đại đoàn này ( gồm các e 48, 52, và 64). F320 này tham chiến tại Bắc QT năm 1966 sau vào Tây Nguyên. Còn tại QT 1972 f320 chỉ có 2 e là 48 và 64 sau 1973 rút ra Bắc thành lập QĐ1 và bổ sung e27 cho đủ 3 e bb. e52 xuất hiện nhiều ở chiến trường Tây Nguyên. 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 02:36:16 pm
Bố mày quen miệng, lúc ấy Không lực VNCH chủ yếu chỉ có A7,F5...Một cái nhần nữa là thượng sĩ nhưng các bài viết và sách đã phong cho ông này lên Thiếu úy.
PQ gõ chữ thiếu, A37 chứ.
À, chuyện F4 Hải quân Mỹ bảo vệ di tản thì mình không biết thật.
Bác Đại Cương này còn nhầm phiên hiệu F367 thành F673, gõ nhịu?

Tôi nghĩ f673 là đúng vì đây là f PK của QĐ2 cho nên đi với đội hình của QĐ2 là đúng


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Phong Quảng trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 04:29:07 pm
Kính bác Tường và bác Trongc6: Sau này đọc lại sử sách thì tôi biết cái e9 của bác Trongc6 đúng là cùng trung đoàn Phú Xuân và tiểu đoàn 10 giữ Huế 1968. Bác Phúc Thanh năm 68 là đại đội trưởng một đại đội thuộc e9 của bác Trongc6, sau về làm tư lệnh QD2 rồi làm chủ nhiệm TCHC thủ trưởng của tôi nên tôi nhớ, bác ấy vừa được nhận danh hiệu Anh Hùng LLVT cách đây không lâu.
Tôi suy luận thế này có gì bác trongc6 đừng giận nhé. F968 của bác chỉ có e9 là gốc BB đã trải qua nhiều chiến trận còn các e khác đều là lính 559 gộp lại chưa từng đánh lớn nên 1975 e9 mới tăng cường cho 320 đánh Đồng Dù. QK4 có rất nhiều sư đoàn danh tiếng nhưng hiện nay chỉ giữ lại có f324 và f968, đủ biết f968 là sư đoàn có bề dày truyền thông.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: binhyen1960 trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 05:11:34 pm
 Đề nghị các bác xem lại cho chứ ngày này 34 năm trước là cuối năm 1976 đất nước mới được hòa bình hơn 1 năm , nhân dân VN đang vui sướng sống trong thống nhất 2 miền thì làm gì có chuyện súng đạn bắn nhau ầm ầm nữa  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Mười Hai, 2010, 06:24:58 pm
Ôi, bác PhongQuang đúng là ma xó, bái phục, bái phục. Thông tin bác đưa ra hoàn toàn chính xác. E9B có 2 thủ trưởng lên to nhất chính là Thượng tướng TBT LK Phiêu và Trung tướng - PCT Quốc hội Nguyễn Phúc Thanh như bác chỉ ra đấy. Chính xác thế. Ngày thành lập E9B bây giờ bác Thanh vẫn về dự, còn bác Phiêu chỉ gửi lẵng hoa và thư.

Bác Quảng nói về F968 cũng hoàn toàn đúng. F968 là bộ đội Trường Sơn mà. Nó là sư BB duy nhất của 559. Nó có nhiệm vụ chính là bảo vệ sườn Tây Trường Sơn. Năm 1968 nó mới là mặt trận 968. Mãi 1970 mới thành F968, đúng là chỉ có E9B là gốc. Thành lập thêm được E19, nhưng E này tác chiến ít, luôn coi E9B là đàn anh. Còn E39 chỉ toàn lính Trường Sơn giỏi  tiếng Lào chuyên làm nhiệm vụ dân vận và giúp các đơn vị Pathet cấp đại đội.

Chuyện E9B về F320A cũng là cả một câu chuyện dài. Nếu còn hứng tôi sẽ túc tắc kể chuyện hầu các bác.

Chúc tất cả các bác mạnh khỏe.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 15 Tháng Mười Hai, 2010, 08:38:53 am
…..
   Cả đại đội hành quân ra một cánh rừng gần bãi Đá làm hậu cứ tạm để trú chân. Buổi chiều tập trung làm công tác chuẩn bị để tập chiến thuật. Nhóm mở cửa chúng tôi làm sẵn các giá đỡ mìn và các que thuốn, còn anh em khác chặt gỗ và chuẩn bị bao cát cho cá nhân. Mỗi người phải chuẩn bị một vác gỗ dài 1,6m to cỡ trên cổ tay một chút. Kèm theo đó là hơn chục vỏ bao cát. Chúng tôi tập chiến thuật ngay từ đêm, bắt đầu từ khâu hành quân tiếp cận trận địa. Những trận đánh căn cứ địch đều diễn ra vào các đêm không có trăng. Ở đây chúng tôi không có điều kiện kiếm đom đóm hay miếng củi mục có lân tinh cài làm dấu ở người trước để đi. Tất cả đều phải tập theo cảm nhận.

   Chỉ riêng khâu hành quân tiềm nhập cũng đủ thứ rắc rối rồi. Vì phải vác theo vác gỗ nên không thể đi sát nhau. Tốc độ lúc nhanh lúc chậm tùy theo thằng trinh sát dẫn đầu đã dò đường đến đâu. Vì thế có lúc thì dò từng bước, rậm rịch như trâu ăn đêm trong chuồng. Lúc lại cắm đầu cắm cổ đi vèo vèo. Ở ngoài chỗ trống còn đỡ chứ trong rừng rậm vướng dây rừng thì thật mệt. Chúng tôi đã được truyền thụ kinh nghiệm lồng vào 2 đầu vác gỗ mỗi đầu một chiếc vỏ bao cát để tạo thành một khối liền, nhưng nhiều thằng buộc không chắc, một chiếc bao cát tụt rơi lúc nào không biết. Thế là đang đi phăm phăm húc và bụi dây rừng bị dây nó giắt vào giữa các thanh gỗ làm vướng lại, căng ra như cánh cung rồi bật lại làm ngã bổ chửng. Có khi các dây rừng nó níu lại mạnh quá, thế là bị giật lùi va vào thằng đi sau, có khi đến hai ba thằng cùng ngã. Những lúc như thế lại phải hạ bó gỗ xuống để tháo dây rừng hoặc rút dao găm ra chặt. Xử lý xong thì hàng quân phía trước đã đi đến đâu ấy rồi, thế là cả bọn lại cắm cổ lao theo cho khỏi lạc. Vì đi trong rừng phải im lặng (dù là buổi tập) không biết phía trước đã đi đến đâu thành ra có lúc thằng đi trước nó đang đứng ngay phía trước cách mình chỉ có một đoạn mà lao luôn vào nó. Lao vác gỗ của mình vào vác gỗ của nó thì chỉ có 2 thằng ngã là cùng, chẳng may đúng lúc đó mình đang nghiêng vác gỗ để xoay đầu đổi vai, thế là cái mặt mình bị hứng trọn vác gỗ của nó đâm vào mặt. Đau ê ẩm mà không dám kêu. Những buổi tập đêm như thế (và sau này cả trong đánh trận nữa) chúng tôi không bao giờ thoát khỏi cái đoạn mặt mày xây sát. Chỉ có là bị ít hay nhiều mà thôi.

   Hành quân đến trận địa thì được cấp trên phân công vị trí. Cánh làm nhiệm vụ mở hàng rào chúng tôi thì bò vào hàng rào và tập dựng giá mìn. Lúc ấy mỗi trung đội có chừng 13,14 người. Cả B5 tập trung học dựng mìn mở cửa dưới sự hướng dẫn của tôi và Thành. Lúc đầu chúng tôi tập toàn ban ngày để dễ hình dung, sau đó mới tập đêm theo đại đội. Tập cả B nhưng sau này khi vào trận sẽ sử dụng 5 người thôi. Những người còn lại phải mang hỗ trợ thêm mìn DH và phải nhận khâu đào hầm chung cho cả bọn trú ẩn khi điểm hỏa mìn. Chúng tôi chia nhóm và dựng nhiều giá mìn hơn đánh thật để còn tập. Vẫn phải bài bản cả khâu dò mìn, cắt rào, tuy trên thực tế thì ở cao nguyên Boloven này, địch rất ít khi gài mìn xen lẫn giữa các hàng rào. Còn cái chuyện mắc ống bơ cho kêu loảng xoảng như thời Pháp thì không hề có. Địch chỉ đặc biệt thích dùng pháo sáng loại dập bằng tay hoặc bắn bằng M79 và nện cối cá nhân khi nghi ngờ gì thôi.

   Các trung đội khác thì phải tập đào hầm trong đêm, đảm bảo bí mật và đúng thời gian. Hầm đào hình chữ L nằm ngang, quay cái phần chân chữ L lại hướng mình. Yêu cầu thân chính của hầm là 1,2m rộng 80 phân và sâu tối thiểu cũng 80 phân, đủ để nằm lọt cả người và vũ khí. Phần thân hầm phải rải các thanh gỗ lên, xúc đất cho vào các bao cát buộc lại rồi xếp lên trên làm nắp. Cán bộ đại đội đi kiểm tra, chỗ nào phát ra tiếng động nhiều quá thì đến véo tai cho một cái. Cứ thế mà hì hục làm trong đêm. Sáng bảnh ra rồi thì các cán bộ đại đội và tiểu đoàn đi kiểm tra để rút kinh nghiệm. Các giá mìn của chúng tôi được xem xét xem có đúng yêu cầu kỹ thuật không, còn bọn khác thì chủ yếu là kiểm tra kích cỡ hầm. Chưa đạt yêu cầu thì ăn cơm sáng xong phải làm tiếp.  Cứ như thế trong ba đêm liền rã hết cả người. Chúng tôi cũng phải đào hầm nhưng chỉ là hố chiến đấu. Khi nào đánh thật sẽ được ở chung hầm với người khác.

   Tiếp theo đó là tập chiến thuật. Vẫn phải tổ chức vọng gác để canh chừng thằng L19 nhòm ngó. Mới chỉ tập mà bị nó phát hiệt đánh bom rồi thì còn đâu người mà đánh thật nữa. Cũng may chỗ bãi Đá này là trận địa cũ bỏ hoang, trống huếch trống hoác nên địch nó cũng chủ quan coi thường ít nhòm ngó đến. Phần chiến thuật thì cứ theo cái bài bản như trên tôi đã nói để tập. Tất nhiên chỉ là hô mồm không có đạn thật, không có quân xanh và tình huống diễn ra chỉ là giả định của cấp trên. Đến cái đoạn tập đánh phối thuộc cùng xe tăng mới thấy thương cho cái điều kiện nghèo nàn của quân ta. Không thể tập cùng xe tăng thật nên chúng tôi đành tập cùng xe tăng giả. Tình huống giả định là bộ binh bám theo xe tăng tại khu cửa mở rồi xông vào cứ điểm. Bộ binh ở khu cửa mở chờ xe tăng đến thì chỉ hướng cho nó xông vào rồi chạy theo. Như thế chắc chắn sẽ chiếm được đầu cầu nhờ sức mạnh của tăng. Khi tăng lao vào trong căn cứ rồi thì mũi thọc sâu sẽ theo tăng rồi đánh tỏa ra trong căn cứ. Như vậy về bản chất tăng sẽ thay cho hỏa lực bản thân của các mũi thọc sâu khi đánh căn cứ và có thêm yếu tố tâm lý nữa để đè ép địch. Tham mưu trên E chỉ phổ biến như vậy rồi bắt đầu tập. Hai thằng lính cầm ngang một cây gậy rồi chạy song song với nhau phía trước, mồm kêu "pành pành…" giả làm xe tăng định hướng cho bộ binh chạy sau. Chúng tôi còn được phổ biến kinh nghiệm thêm là phải chạy theo đúng vệt xích xe tăng vì cây con ở chỗ đó đã bị bẹp nát. Nếu chạy ở giữa mà gần xe tăng quá, cây non ở đó chỉ bị uốn xuống rồi bật lại mà đập vào d… là bỏ mẹ có ngày. Chỉ như thế thôi mà cũng tập hăng ra phết.  Hơn một tuần vất vả trên khu bãi Đá nhưng tất cả đều an toàn. Ba đại đội bộ binh và C hỏa lực cày nát các hướng quanh cái trận địa cũ ấy để tập. Cuối cùng thì những ngày tập chiến thuật cũng kết thúc vào độ ngày 10 tháng 10 năm đó. Hôm sau chúng tôi được trở về hậu cứ.
....


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 17 Tháng Mười Hai, 2010, 11:46:37 am
....

        Lại một chuyện bất ngờ xảy ra trong tiểu đoàn chúng tôi. Thằng Hải lính đoàn Hà Nội ở C7 đảo ngũ. Nếu nó tìm đường chuồn ra đường dây 559 rồi ra Bắc hay nhập vào binh trạm nào đó thì không nói làm gì. Đằng này nó chuồn vào Lào Ngam, vào Pắc xế theo địch. Đại đội hành quân về hậu cứ thì trời đã tối. Đơn vị không thấy nó đâu chỉ đoán là nó bị rớt lại, quay ra hỏi loạn nhau lên rồi cử người đi tìm. Mất một đêm chẳng có kết quả gì. Thế là đoán già đoán non, nghi nghi hoặc hoặc.

        Đáng lẽ chẳng ai biết sự thật thế nào nếu như hai hôm sau không có cái máy bay vận tải bay đêm vè vè đễn các khu rừng hậu cứ gọi chiêu hồi. Đúng là giọng thằng Hải, dù tiếng được tiếng mất và nghe nó cứ ù ù. Thằng này chỉ là lính, chẳng biết gì nhiều nên địch nó khai thác luôn theo khoản kêu gọi chiêu hồi này. Cái máy bay ấy cứ bay và oăng oẳng trong độ 3 đêm thì hết. Cũng có thể nó còn bay tiếp nhưng chúng tôi đã ra vùng khác rồi. Cả tiểu đoàn chuyển ngay hậu cứ đề phòng, nhưng không có hậu cứ của C nào bị bom. Có lẽ thằng Hải cũng gà mờ về bản đồ, hoặc giả địch nó cũng đoán ta đã đề phòng rồi nên không gọi máy bay đánh bom. Vào thời điểm đó ở Boloven chỉ có các phi vụ ném bom đơn lẻ bằng máy bay cánh quạt T28 là chủ yếu. B52 thì rải tít mãi tận dãy Trường Sơn xa xăm, xa hơn cả vùng A-tô-pơ thì còn lâu mới đến chỗ chúng tôi. Các cấp chỉ huy phán đủ kiểu nào không rõ chứ cánh lính Hà Nội chúng tôi thì cũng lờ mờ biết chuyện thằng Hải từ lâu rồi, chỉ có điều là không biết nó có làm thật hay không và vào lúc nào mà thôi. Thằng Hải vốn là dân Việt kiều Thái Lan về nước quãng năm 1960, lúc nó chưa đầy chục tuổi. Nó về Việt Nam theo ông bà và các bác, còn bố mẹ nó vẫn ở lại Thái Lan. Nó sống ở Hà Nội với ông bà và cũng chẳng hiểu nó phải đi lính theo diện nào. Về mặt lý tưởng và ràng buộc gia đình thì chắc chắn là nó lỏng lẻo hơn chúng tôi. Khi nghe nói Boloven (Chăm-pa-xắc) là tỉnh cực nam của Lào, thủ phủ Pắc-xế chỉ cách Thái Lan có một con sông Mê-kông thôi thì nhiều lần nó đã nói là chỉ cần đi quá một tí là được về với bố mẹ. Với nó thì bọn lính Thái chưa chắc đã là địch. Cũng cứ tưởng nói chơi vô thưởng vô phạt vậy thôi, thế mà nó đi thật. Ra ngoài Bãi Đá tập chiến thuật xong, thế là nó cứ dọc đường 23 mà xuôi thẳng vào Lào Ngam, chẳng ai phát hiện nó đi lúc nào.

        Chỉ khổ lính Hà Nội là sau vụ đó trung đoàn về từng C hỏi vặn vẹo đủ điều xem trong đơn vị còn thằng nào gốc Việt kiều nữa không. Còn chúng tôi tất nhiên cũng chỉ xì xào với nhau thôi chứ cũng chẳng đứa nào dại mà nói là đã đoán thằng Hải có thể vù sang Thái. Vụ đào ngũ của thằng Hải rốt cuộc cũng chẳng gây thiệt hại gì cho đơn vị ngoài danh tiếng và quân số một người lính. Sau này cũng chẳng còn ai biết tin gì của nó nữa, kể cả đến bây giờ.

   Ở hậu cứ được đúng một ngày, chúng tôi lại được lệnh ra đường 23, nhưng cách Bãi Đá đến cả chục cây về phía ta. Đến đây thì nhiệm vụ sắp tới không thể giữ kín được rồi. Chúng tôi sẽ đánh một trận có xe tăng phối hợp. Nhiệm vụ của cánh bộ binh bây giờ trước hết là đi làm đường cho xe tăng. Sao  lại phải làm đường thế nhỉ. Xem phim thấy xe tăng nó chạy vù vù, gặp gì đè nát thứ đó. Những ngôi nhà gạch một tầng nó húc băng băng, còn cây cỏ thì có gì mà phải cản nó được. Hóa ra không phải chỉ có vậy. Xe tăng đi ngoài bình nguyên, rừng khôộc hay đồng cỏ thì vô tư, nhưng vào rừng, leo núi và lội suối thì chưa chắc bằng bộ binh. Để tránh máy bay T28 săn lùng thả bom, bọn xe tăng cần đi vào chỗ đất càng cứng càng tốt cho không thành vệt. Nó không dám đi vào các khu rừng cây lúp xúp và rừng tái sinh vì sợ đè nát cây thành vệt sẽ bị lộ. Bọn tăng cứ dọc đường nhựa 23 mà tiến. Bộ binh mang xẻng ra vén các cây xấu hổ, mâm xôi bò lòa xòa ra mặt đường cho tăng đi qua, xong lại phải kéo cây trả lại để ngụy trang. Chỉ chỗ nào rừng cây to nằm sát đường, ngụy trang tốt mới dám làm đường rẽ cho xe tăng vào trú ẩn. Đến đoạn đi trong đường rừng, chỗ nào dốc quá tăng nó cũng không leo được. Bàn tay lính lại phải bạt dốc cho nó thoai thoải để tăng đi. Chỗ nào đất hay đá cứng gồ lên lại phải đập vỡ hoặc san phẳng. Một anh lính bên đơn vị tăng đi chỉ đạo làm đường giải thích là nếu tăng nó đang chạy mà bị cái gờ đá nào nó đội vào bụng thì dù xích có quay tròn, tăng cũng bị mắc cạn. Nghĩ đến cái lúc tăng nó lao vào cửa mở, đầu cầu không đánh cũng chiếm được thì khoái mà cố gắng thôi chứ mấy ngày làm đường tăng cũng mệt nhọc lắm. Cuối cùng thì chúng tôi cũng biết là sẽ có 4 chiếc xe tăng phối hợp trong trận đánh sắp tới.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 24 Tháng Mười Hai, 2010, 08:51:31 am
……

   Tụi lính Lào ở Cao nguyên Boloven là quân của 2 trung đoàn GM41 và GM42 thay đổi nhau. Tôi không biết chính xác có bao nhiêu lính Fumi ở Chămpaxac, nhưng khi chúng mở cuộc tấn công lớn tập trung cả 2 GM thì biết đó là 2 trung đoàn cơ động của địch. Chắc còn thêm bọn lính địa phương nữa. Không thấy nói đến cấp sư đoàn của địch. Còn bọn lính Thái Lan từ bên kia sông Mê Kông sang thì chỉ thấy biên chế tới cấp tiểu đoàn. Tại ngã ba Lào Ngam hiện có một tiểu đoàn Thái đóng căn cứ mang phiên hiệu 621. Chúng làm chỗ dựa chính thôi chứ không đi lùng sục mấy. Phần này vẫn dành cho lính Fumi.

   Liên tục trong mùa mưa vừa qua, hướng đường 231 do K15 đảm nhiệm và các đợt luồn sâu sang Nam đường 23 của K18 vẫn chỉ đánh nhau với lính Lào. Trận đánh cuối mùa mưa này, sư đoàn 968 quyết định tập trung cho E9 một trận đánh lớn, tiêu diệt dứt điểm tiểu đoàn Thái 621 này và nhổ bỏ cái chốt Ba Lào Ngam, chuẩn bị cho mùa khô tiến sâu hơn vào Phù Chiêng, Pắc xế. Từ đây vào Pắc xế chỉ còn non hai chục cây số thôi. Lính Thái dù sao vẫn là lính chiến có sức chiến đấu cao hơn lính Fumi, lại ở căn cứ vững chắc nên cấp trên chi viện cả xe tăng phối thuộc giúp trung đoàn chúng tôi.

   Cái căn cứ của bọn 621 này, vào giữa mùa mưa vừa qua, khi còn đang làm liên lạc cho đại trưởng Băng, tôi đã từng được theo anh vào trinh sát, từng có cả đêm nằm ngủ phía ngoài hàng rào địch như trước đây tôi đã kể. Cái căn cứ này nếu có bay trên máy bay nhìn chắc cũng không rõ. Địch không thả bom phát quang thành bãi mà lập căn cứ dựa ngay trên một khu vườn cà phê rộng lớn. Chỗ nào đào hầm hào thì chúng chặt bỏ cây, còn lại vẫn để nguyên những cây cà phê có tuổi đời hàng hai chục năm, cao vút và xanh um. Xung quanh căn cứ, địch phát cây thành một hình vành khăn rộng vài chục mét, dựng 3 lớp hàng rào, trong đó có một hàng rào bùng nhùng đơn nằm xen giữa. Cây phát quang nhưng để gốc lởm chởm. Qua mùa mưa nhiều chỗ nảy lộc, nhánh cây non đâm xuyên qua cả hàng rào. Phía ngoài xa độ 10 mét vẫn là rừng cây tái sinh, mọc lúp xúp. Vào đến khu trống, bò cũng dở mà đi cũng dở, người cứ như dạng đi ngồi lổm nhổm. Tầm nhìn không xa. Ngay cả ban ngày ở bên ngoài nhìn vào căn cứ cũng phải căng mắt nhìn mới phát hiện thấy địch bên trong. Trinh sát không vào được tận trong căn cứ để vẽ sơ đồ hầm hào, tất cả chỉ là tập hợp góc nhìn các hướng rồi về mô phỏng lại kết hợp với cách bố trí của địch ở các trận địa cũ để lập giả định. Nhưng cứ mở xong cửa mở đi, khắc đánh khắc biết. Đánh tới đâu nhìn tới đó mà đánh tiếp.

   Ngày 14/10, C5 vượt đường 23 sang phía Nam và lập một cái chốt ở phía đông cách căn cứ 621 chừng một ngàn mét để chặn địch phục vụ cho công tác chuẩn bị lót quân của các đơn vị khác. Dự kiến sẽ có hai mũi của K18 đánh hướng Bắc và K16 đánh hướng Đông Nam.  K15 sẽ chia lửa đánh vào các đơn vị Fumi ở phía Tây.

   Ngày 15/10 máy bay L19 của địch phát hiện vệt xe trên đường 23 tít tận ngoài bãi đá và gọi T28 đến đánh bom. Một chiếc xe tăng đang cất giấu bị trúng bom, may người không việc gì. Địch cũng đánh bom thăm dò lung tung nhiều chỗ khác nhưng vì mỗi xe tăng giấu một nơi nên cuối cùng vẫn còn được 3 chiếc để vào trận. Cũng chiều hôm đó một  đại đội Fumi đánh lên chốt của C5. Trung đội chốt trên đó đã đánh chặn vài đợt, diệt được một số địch. Sau đó do trận địa chốt nằm gọn trên một quả đồi, khá lộ liễu nên địch gọi luôn T28 đến đánh bom. Chưa cần dùng đến pháo từ Phù Chiêng mà cả quả đồi đã nát nhừ. C5 bị tổn thất nhẹ, nhưng trong đó có một lính đoàn Hà Nội chúng tôi là thằng Toàn ở Đông Anh. Nó là thằng lính Hà Nội đầu tiên trong K18 hy sinh. Nghe nói sau hai đợt bom, hầm của nó bị bung, nó tưởng địch hết ném bom nên chạy ra ngoài lẩn xuống khe suối để nấp. Đợt bom thứ ba của địch có một mảnh văng trúng nó.

   Ngay tối hôm ấy, B5 chúng tôi được lệnh lên lập chốt mới thay cho C5. Chỗ chốt mới của chúng tôi sẽ đi qua chốt C5, vượt sang hẳn vùng đồi thuộc Lào Ngam, chung với căn cứ 621 của địch và chỉ cách căn cứ đó chừng 600 mét. Từ khu tập kết phía Bắc đường 23, anh Quân dẫn chúng tôi sang thẳng qua chốt C5. Lúc này chúng tôi đã chuẩn bị xong đủ cả mìn DH, giá gỗ và cả gỗ cùng vỏ bao cát làm hầm chiến đấu. Nhẽ ra đến ngày xuất kích, chúng tôi sẽ vào thẳng hưởng cửa mở để làm nhiệm vụ mở cửa vì khi đã có lệnh chặt gỗ rồi thì ngày N chắc cũng đến sát rồi. Song có lẽ vì B5 vốn nổi tiếng về chốt giữ trong C6 nên đại đội cử chúng tôi. Bỏ lại toàn bộ mìn DH và những thứ chuấn bị cho mớ cửa, chúng tôi hành quân sang đường 23 ngay sau khi ăn cơm tối, có mang theo đầy đủ gỗ và bao cát để làm hầm cá nhân. Hành quân mang vác cồng kềnh nên đi khá chậm, nhất là trong đêm tối. Trinh sát tiểu đoàn phải dẫn đường. Chừng 9 giờ tối mới đến được đồi chốt của C5. Đơn vị bạn tuy không phải bàn giao vị trí chốt cho ai, nhưng đến bấy giờ cũng mới làm xong mọi việc và khiêng tử sĩ ra. Có 3 cái cáng tất cả. Tôi thì thào hỏi thăm được biết cái cáng cuối cùng là Toàn, Trong đêm tối cũng chẳng nhìn rõ gì và cáng vẫn khiêng. Tôi chỉ lần sờ tay vào lưng võng để cảm nhận thân hình đồng đội và hít thở trong mùi máu còn tanh nồng từ thi thể bạn. Đội ngũ những thằng lính đồng ngũ 4971 của D tôi bắt đầu có đứa ra đi. Tiếp theo sẽ là ai? Chưa biết. Vĩnh biệt bạn Toàn nhé.

   Trung đội tiếp tục đi theo trinh sát. Quả đồi chốt của C5 tan tành với những hố bom sâu và cây đổ ngổn ngang. Mùi khói đạn khen khét và ngai ngái. Đường vượt qua chẳng thành lối, cứ theo trinh sát nhắm hướng bước thấp bước cao mà đi. Thỉnh thoảng có đứa ngã dúi dụi, vác gỗ tuột ra lăn xuống hố bom. Lại vừa ngồi vừa quỳ lần mò tìm vác gỗ, xốc lên vai và bám theo đồng đội. Lúc chiều tối có một trận mưa nên đất đồi bị bom đánh tơi lên trộn nước đã trở nên những đám bùn nhoe nhoét, bước chân đi trượt trơn không vững. Thỉnh thoảng vấp phải những thân cây nhỏ trụi lá nhô lên đâm vào háng, vào bụng dưới làm đau lịm cả người, chỉ biết há to mồm ra mà suýt xoa chịu đau chứ không thể kêu ai được. Cứ thế mà đi. Lần mò mãi rồi cũng vượt được qua, thằng nào cũng bê bết bùn đất kể cả hai thằng trinh sát tiểu đoàn dù chỉ có mang AK báng gấp.

   Trời đã tối đen lại càng tối đen hơn và trở nên lạnh lẽo hơn khi trời lại đổ mưa xuống sụt sùi. Bàn chân nếu không có những đôi tất sợi giúp bám chắc vào dép cao su thì có lẽ đôi dép sẽ trượt ra mà tuột lên tận bắp chân. Cả trung đội đi hết mé đồi thì tụt xuống và lội dọc theo một khe suối nhỏ chỉ rộng chừng hơn mét nhưng sâu quá đầu gối, nước lạnh ngắt. Vừa đi vừa tranh thủ ngồi thấp xuống dìm người để tẩy bớt đi đám bùn đất trên người. Đằng nào cũng ướt rồi. Bây giờ chỉ cần giữ khô vắt cơm đã được bọc nilon và túi thuốc rê cùng chiếc bật lửa để ở túi ngực thôi, còn tất cả phó mặc hết cho trời. Có thằng còn lùa cả vác gỗ xuống nước rồi kéo đi cho đỡ nặng. Được chừng ba chục mét thì rẽ leo lên dốc. Cũng chỉ là đạp đường mà đi nên gặp trúng cái dốc đứng quá. Thằng Sơn B41 người Nam Hà to xác mà không hiểu sao cứ trầy trật mãi với vác gỗ và khẩu súng cùng cùi đạn, kéo được thứ nọ thì thứ kia lại tụt xuống suối, lại quay lại mò mẫm lôi lên. Chúng tôi cùng giúp sức nhau đun đẩy, thế mà không hiểu sao vác gỗ của thằng Sơn lại một lần nữa tuột trôi trở lại, đâm vào cả mặt B trưởng Quân. Hầy à, bố này nóng tính nghiến răng chửi, nhưng chỉ dám chửi nhỏ nên tiếng cứ rít lên nghe càng sợ. Dân tộc mà sao chửi tiếng kinh giỏi thế, đặc sản văng ra loại nào ra loại đó. Cả thằng Sơn lẫn chúng tôi không dám phàn nàn câu nào, chỉ cuống quít giúp nhau lôi súng và gỗ vượt dốc. Phải kết hợp vừa kéo vừa đẩy nhau khá lâu mới rời được khỏi suối.  Trời mưa lạnh thế mà mồ hôi vẫn rịn ra trộn với nước mưa trở nên chua loét.

   (Sau này khi đã đánh trận xong ngồi họp rút kinh nghiệm, thằng Sơn phê bình anh Quân nhưng nói mát cực khéo. Nó bảo:
   - Cảm ơn Trung trưởng. Xa xôi thế mà đêm đó bu em ở nhà được đ… một bữa sướng.
   Anh Quân đần mặt ra nghe. Nhưng chuyện qua rồi, thằng Sơn nói ra cho hả lòng tí chút thôi chứ chẳng để bụng thêm làm gì).


   Lại đi tiếp, vòng và vòng vèo đến giữa đêm thì tất cả đến nơi tập kết. Thở phào nhẹ nhõm, hạ tất cả những thứ trên vai và ngồi bệt xuống nghỉ. Theo trinh sát, chỗ này cách hàng rào căn cứ D621 Thái chừng sáu trăm mét. Nơi đây cũng là rừng tái sinh toàn cây nhỏ chỉ cao chừng 3 mét là cùng xen kẽ nhiều vạt cây lúp xúp. Cũng chỉ là nhắm hướng thôi chứ trong đêm đen có nhìn thấy gì đâu. Hai thằng trinh sát quay lại tiểu đoàn, còn trung đội tôi chia thành 3 cụm tổ chức đào hầm chốt.

   Tất cả đều mệt, nhưng chúng tôi cũng chỉ ngồi nghỉ ít phút, vặn vẹo chân tay, xoa nắn bả vai cho giãn bớt gân cốt rồi bắt tay vào đào hầm. Đào được cái hầm cho tử tế cũng phải mất hơn 3 tiếng chứ không ít. Đất cao nguyên mùa mưa dễ đào, nhưng nó cứ bết vào xẻng khi muốn hất ra. Trời lại tối như hũ nút, làm cái gì cũng phải sờ soạng như thằng mù nên tốc độ đào bị chậm lắm. Lúc đào xong cái hố to hình chữ L, xếp gỗ lên rồi xúc đất cho vào bao cát để chất lên làm nắp cũng là cả một gian nan vì đất ướt. Bẩn quá muốn chùi tay cho khô để chuyển động tác cũng chỉ có cách tự chùi vào quần áo mình. Thỉnh thoảng mệt quá lại ngồi bệt thừ người ra một lúc cho lại sức. Thật khổ cho cái vóc lính thành phố thư sinh của tôi. Lúc gian nan mệt mỏi quá mà lặng đi được một chút lại tủi thân nhớ mẹ. Ước mong nhỏ bé nhất lúc này chỉ là được chui vào cái hốc rút rơm của cây rơm ngoài sân mà ngủ. Thêm củ khoai lang luộc còn nóng nữa thì ngoài trời có mưa to mấy cũng chẳng bận lòng. Ước thì ước thế thôi chứ thật lòng lại không dám mong thế. Chui vào đống rơm ngủ tránh mưa ở nhà thì ai đi bộ đội thay mình. Chắc ở nhà không ai hình dung ra cảnh mình thế này. Nhưng có cho kể chắc cũng dấu những chuyện như thế này. Nước mắt mình chảy một mà mẹ biết thì thương mình nước mắt chảy mười.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: songvedem trong 24 Tháng Mười Hai, 2010, 09:55:13 am
Chào bác Trọng C6,

Bác viết hồi ký vào loại hay nhất (Top 5 trên diễn đàn QS) nhưng mà bác viết ........... chậm quá. Có cách nào nhanh lên 1 tí được không ạ. Chúc bác mạnh khoẻ, tay dẻo, bút trơn, bàn phím mềm mại, và chúc Noel vui vẻ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 31 Tháng Mười Hai, 2010, 09:06:10 am
….

   Cứ hì hà hì hục như thế. Mệt quá ngồi nghỉ. Nghỉ xong lại phăm phăm đào. Có lúc thấy không gian yên ắng, hình như chỉ còn mình tôi đào hầm. Chả biết mọi người đào xong hầm lúc nào, nhưng đến nhờ nhờ sáng thì tôi cũng hoàn thành xong chiếc hầm. Nói cho cùng loại hầm như thế này chỉ chống được đạn thẳng và cối M79 thôi. Gặp pháo hay bom thì tất cả nhờ giời. Mệt quá nên xong cái hầm là tôi quấn tấm nilon quanh người, ôm cả khẩu súng AK trong đó rồi lăn ra ngủ ngay tại nóc hầm, mặc cho mưa vẫn rơi rả rích.

   Tôi tỉnh dậy khi anh Trịnh lay vào vai. Trời đã sáng hẳn nhưng không gian vẫn còn nhờ nhờ trong mưa bay. Nhìn quanh mới thấy mấy cái hầm của anh em trong tiểu đội đào đêm qua lam nham làm sao. Nhưng dù sao cũng đã có hầm. Chúng tôi cắp súng lò dò ra xung quanh, xác định lại hướng địch, sau đó uốn nắn lại đám cây xung quanh ngụy trang để thằng địch có đến thật sát mới có thể phát hiện ra dầu chúng tôi. Tất nhiên khi đó thì chúng tôi đã phải nổ súng rồi. Kiếm tra xong mọi thứ, biết được vị trí của mọi người trong toàn trung đội  và hiệp đồng chiến đấu xong, chúng tôi mới ai mò về hầm người ấy lấy cơm ra ăn. Bọc cơm đã nguội ngắt nhưng vì là cơm nếp nên cũng dẻo và dễ ăn. Tiêu chuẩn ăn dù ra trận thì bây giờ cũng chỉ có 3 lạng một ngày, bọc cơm dự định dùng cho 2 ngày nên cũng phải liệu phân chia cho đủ đến bữa cuối cùng. Dù nhai chậm và kỹ đến đâu thì mấy thìa cơm nếp rồi cũng trôi hết qua miệng. Tôi tợp một ngụm nước to để làm tăng thêm cái khối lượng dinh dưỡng trong dạ dày. Nước thì khỏi lo thiếu, mùa mưa mà. Cùng lắm hết bi đông thì đến tối cử nhau quay lại suối lấy cũng ổn.

   Yên vị xong trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, chân bỏ thõng xuống miệng hầm sẵn sàng tụt xuống khi có động, bây giờ tôi mới thong thả lôi gói thuốc rê ra quấn một điếu sâu kèn. Lính tráng thằng nào cũng có kinh nghiệm về khoản này rồi nên thuốc, giấy quấn và bật lửa không bao giờ bị uớt. Rít một hơi dài, thả làn khói vào không gian thấy khoan khoái quá. Lúc này chắc ở các hầm thằng nào cũng đang hút thuốc. Trong làn mưa mỏng, khói thuốc quện vào và tan nhanh, không sợ lộ. Ngày ở nhà không biết thuốc lá là gì, nhưng giờ đây hầu như lúc nào tôi cũng có gói thuốc rê trong người. Ngồi chốt khi chưa nổ súng mà không có thuốc hút thì buồn lắm, vừa dễ buồn ngủ vừa không biết giết thời gian bằng gì. Hút xong điếu thuốc, chừng 20 phút sau đã phải quấn điều khác rồi. Cũng chẳng đếm xem một ngày hút bao nhiêu lần nữa.

   Không có địch, không được qua hầm nhau thì chỉ có ngồi nghĩ vơ vẩn. Nghĩ được nhiều thứ lắm. Mưa tạnh, bầu trời trong thêm ra. Tôi chợt nhìn thấy một đàn kiến đang bò ngang vắt qua nóc hầm. Có lẽ ban đêm tôi đã đào hầm trúng phải một tuyến đường hành quân của đàn kiến và bây giờ chúng nó đang lần mò chắp nối lại mạch giao thông. Tha hồ mà nghiên cứu xem chúng làm gì nhé, đỡ sốt ruột vì thời gian đang chầm chậm trôi qua. Những con kiến vống đỏ to tướng nhưng hiền lành. Chúng nó tìm ăn gì đó chứ suất cơm của tôi không rơi vãi đến một hạt thì chúng cũng chẳng trông mong được gì. Cái giống kiến này làm tổ thành bộng to trên cây cao. Trứng của nó ăn rất tốt, còn bản thân những con kiến giã ra thì có thể thay dấm, tuy vị chua hơi gắt. Gặp kiến là điềm lành, chứ gặp tổ mối rừng thì mệt lắm. Những con mối rừng thân to như que kim đan len, còn đầu của nó thì như hạt đỗ xanh cứng với hai cái càng như hai lưỡi hái. Nó mà bâu vào đâu, khuơ càng lên là chỗ đó chảy máu. Bị mối rừng tấn công thì chả khác nào bị một ai đó dùng lưỡi dao lam trích nhẹ lên khắp da thịt, máu cứ tứa ra nhẹ nhàng đợi khi có mồ hôi hay nhúng nước thì mới bắt đầu ngấm cái đau ngứa và xót.

   Trời đã bắt đầu hửng nắng, có lẽ là đến nửa buổi sáng rồi. Lại nghe cả tiếng chim loét choét rồi bắt đầu xuất hiện đôi vợ chồng chim sâu. Thanh bình quá. Tôi cứ ngồi im mà ngắm chúng nhảy nhót chuyền cảnh. Chưa khi nào có dịp ngắm chim trong không gian tự do gần đến thế.

   Nhưng thanh bình cũng chẳng kéo dài được mãi, khi trời đã tạnh và hửng nẳng. Chắc độ giữa buổi sáng rồi. Bắt đầu nghe thấy tiếng ì ì của máy bay L19. Tôi phải bứt lá làm vòng ngụy trang đội lên đầu để tiện nghển cổ nhìn ra khoảng trời xanh từ vạt rừng non thưa trên đầu. Chiếc máy bay đang trinh sát khu đồi chốt hôm qua của C5. Thực ra khu đồi mà chúng tôi đang ngồi chốt cũng chỉ cách đó một con suối sâu và một vạt rừng nhỏ, nên tầm quan sát rất rộng và nhìn thấy rất rõ. Sau nhiều vòng lượn, chiếc L19 quyết định bắn xuống đó một quả pháo khói. Tiếng L19 còn chưa dứt thì đã thấy từ phía Pắc xế tiếng vè vè vọng to dần rồi hai chiếc T28 xuất hiện. Chúng lượn một vòng định hướng rồi lao xuống cắt bom. Từ bên này vạch lá nhìn ra, trung đội chúng tôi như những kẻ đang xem phim. Quan sát thật rõ từng chiếc máy bay, lúc chúng bổ nhào cắt bom, rồi nhìn rõ quả bom rơi xuống đất. Liền sau đó, một đám đất tung lên kèm theo tiếng nổ "thịch" một cái và đất dưới chân mình rung lên giống như có cái gì truyền lan sâu trong lòng đất. Nhìn kỹ lên máy bay lúc nó bổ nhào còn thấy cả cái đầu thằng phi công như quả bưởi tròn trong buồng lái. Giật mình ngồi im không dám cựa quậy, không biết nó có nhìn thấy mình không nữa. Bốn lượt nối đuôi nhau lao xuống cắt bom là hết cơ số. Chúng không phát hiện thêm gì khác nên không bắn kèm đạn thẳng. Chắc địch cũng phỏng đoán được cái gì đó về sự chuẩn bị của quân ta nên chúng điều thêm một tốp T28 nữa đến ném bom cho ăn chắc. Lần này chúng ném bom theo hướng ngược lại và chúng tôi lại có dịp quan sát bom rời khỏi máy bay từ ngay trên đầu mình rồi bay sang rơi xuống quả đồi bên cạnh. Đất ướt nên tiếng bom rơi nghe nằng nặng và tiếng nổ cứ như chìm trong lòng đất, không có những cột khói bốc cao. Chúng tôi thản nhiên xem đoạn phim thời sự đó mà không phải lo lắng gì vì biết chắc bên đó giờ chỉ là quả đồi trống không.

   Sự ồn ào đến nhanh mà sự tĩnh lặng trở lại cũng rất nhanh. Chỉ có chút mùi khói bom lan nhẹ trong không gian rồi tất cả đâu trở lại đó. Tôi nhìn quanh, không thấy đôi vợ chồng chim sâu đâu cả. Chỉ có đàn kiến vẫn còn mải mê hành quân, hình như chúng chẳng quan tâm gì đến chiến cuộc. Lại quấn thuốc rê hút và nhẩn nha uống từng ngụm nước nhỏ chờ thời gian trôi qua. Nếu giờ này địch đã không lên chốt thì phải đợi sang chiều.

   Không gian yên ắng cho đến bữa cơm trưa, và bữa trưa cũng trôi qua thật nhanh. Cỏ cây xung quanh khô dần và quần áo chúng tôi cũng đã khô tại những chỗ nhiệt phát ra nhiều nhất. Lại có cảm giác buồn ngủ và sẽ dễ ngủ quên nếu không có những điếu thuốc rê cầm canh. Anh Trịnh cũng sợ anh em ngủ nên đã lấy dây rừng bện lại và buộc vào những nhành cây cạnh các hầm để liên kết nhau thành một mạng lưới. Thỉnh thoảng ai đó lại kéo giây nhắc nhau và người kia lại quay sang nhe răng cười. Cái cảm giác khi ngồi chốt sốt ruột lắm. Không đơn giản như người đi câu chờ cá cắn câu hay người đi săn rình thú ban đêm. Nó nửa như phục kích rất cần yếu tố bất ngờ nhưng lại mòn mỏi khi phải bám trụ lại. Vừa mong địch lên, lại vừa mong chúng không lên. Cảm giác nhiều khi thấy bồn chồn thế nào ấy.

   Tầm giữa chiều thì nghe tiếng nổ liên hồi phía góc phải nhưng cũng phải cách xa chúng tôi cả trăm mét. Ai gặp địch hướng đó nhỉ vì chúng tôi cắm chốt là gần địch nhất rồi. Không lẽ trinh sát bị phục kích chăng. Nhưng tiếng nổ cứ liên tục và đều đặn, toàn tiếng cối cá nhân mà không có tiếng đạn thẳng. Chúng tôi căng tai ra nghe và sẵn sàng chờ địch. Nhưng cũng rất nhanh, B trưởng Quân phán đoán là địch mò ra ngoài căn cứ, nhưng chúng không định đi lùng sục xa mà chỉ bắn M79 thăm dò. Cái kiểu của thằng lắm đạn rỗi hơi lại lười nhác nó như thế. Đây cũng chẳng phải lần đầu chúng tôi gặp phải. Thế thì chẳng có gì đáng quan tâm cả. Địch bắn lung tung chừng vài chục quả cối rồi thôi. Không gian lại yên tĩnh và chúng tôi yên tâm nghỉ ngơi vì biết chắc hôm nay địch sẽ không nống ra nữa.

   Đêm xuống và lại một đêm yên tĩnh trôi qua. Trời tạnh nên đêm ngủ rất ngon, thật hạnh phúc biết bao. Cả trung đội chỉ tổ chức một vọng gác lấy lệ.

   Buổi sáng, chúng tôi nhanh chóng cơm nước và sẵn sàng vào vị trí chốt. Thế là qua được một ngày ngồi chốt nghỉ ngơi, sức lực đã hồi phục. Duy có cái bẩn thì không khắc phục được. Không hiểu sao khi đó cả tuần không tắm, không đánh răng rửa mặt mà cũng chẳng thấy tác hại gì. Quần áo chỉ trong 2 trạng thái: dẻo hoặc cứng. Khi đất bết vào quần áo rồi gặp mưa thì quần áo dẻo, còn khi nắng to hong khô hết tất cả thì quần áo lại cứng. Nhưng chính lúc ấy ngồi chốt chịu khó vò khô từng chỗ thì đám đất bột vỡ tung ra khiến quần áo lại mềm. Không gần suối thì tắm khô, mồ hôi ra chỗ nào thấy bứt rứt thì thò tay vào chỗ đó mà vê ghét vứt ra, kiểu tắm khô như người Mèo. Còn nếu hành quân qua suối thì phải tranh thủ trầm mình khuơ khoắng gột rửa thật nhanh như đồng bào dân tộc, sạch ra phết.

   Vơ vẩn được một lúc đầu buổi sáng thì thấy trinh sát tiểu đoàn đến gọi chúng tôi về đội hình đơn vị. Chuẩn bị đánh nhau to rồi. Lúc ra lệnh rút, B trưởng Quân phân vân, định cho chúng tôi rỡ hầm thu bao cát lại để còn dùng cho trận đánh tới vì chắc gấp lắm rồi. Nhưng lúc ấy trong các bao cát làm hầm toàn đất ướt, rũ ra không hết phải ôm mỗi thằng cả bó bao cát lẫn đất thì chắc nặng lắm. Nếu qua suối rộng mà rũ đất chắc cũng mất cả tiếng. Nhưng không rỡ bao cát ra thì lấy gì làm hầm trong trận đánh tới. Cứ phân vân mãi, sau may anh Bớt cũng là A trưởng trong B nhớ ra là trên khu hậu cần tiếu đoàn ở vị trí tập kết còn một ít bao cát cũ. Từ vị trí xuất quân về đó chỉ chừng 2 tiếng đi đường. Cử độ 2 thằng khỏe mạnh về lấy, còn những người khác tập trung chặt gỗ và làm công tác chuẩn bị khác cũng kịp. Bây giờ mới chỉ giữa buổi sáng mà nếu đêm nay xuất quân thì cũng phải bảy giờ tối mới lên đường. Thế là anh Quân đồng ý và chúng tôi rút luôn theo trinh sát. Lúc đi lên chốt vào ban đêm, mang nặng và trời mưa lại đi đường vòng nên lâu. Bây giờ chúng tôi trở về mọi thứ đã nhẹ, theo trinh sát đạp đường thẳng mới nên chỉ hơn tiếng sau đã về đến chỗ đại đội tập kết.

   Đại đội cũng hỗ trợ cho B5 chúng tôi khoản chặt gỗ cá nhân, chỉ còn khoản bao cát là bắt buộc anh Bớt phải cùng một thằng lính nữa về tiểu đoàn lấy.

   (Nói thêm rằng anh Bớt là lính 1967 người Nam Hà, nhưng vốn làm anh nuôi trên D bộ. Trên D bộ có mấy anh làm hậu cần có cái tên rất lạ. Anh Chớt và anh Choát làm hậu cần và quản lý. Anh Choát ngày trước đã phụ trách chúng tôi đi khiêng cáng thương binh ở trận bãi Đá khi chúng tôi mới được bổ sung vào K18. Trong số anh nuôi có hai anh là anh Bớt và anh Xén, người to khỏe nhưng hiền khô như đất. Ai nói gì, dù là phê bình cũng chỉ nhe răng ra cười. Đợt vừa rồi chắc đã chán công việc nấu cơm nên xin xuống C tôi làm A trưởng. Anh ấy tuy là anh nuôi nhưng cũng đã từng đánh nhau hồi Mậu Thân 1968 nên khi nhận làm A trưởng, anh ấy cứ thản nhiên như không, anh em trong cùng A quý lắm).

   Tôi và thằng Thành trong B là lực lượng chính tổ chức chuẩn bị mìn và thủ pháo cho mở cửa. Ở đại đội đã chuẩn bị sẵn mìn DH10, các giá gỗ và gói một lô thủ pháo ống. Chúng tôi chỉ còn việc tra kíp hoàn thiện và kiểm tra mọi thứ khác. Tầm trước bữa cơm chiều hôm ấy thì mọi thứ đã xong xuôi. Nói thêm một chút là chuẩn bị trận đánh mới nên B5 chúng tôi "ù xọe" được một xuất cơm chiều trong cái bọc cơm mang đi chốt từ hai đêm trước. Chúng tôi vẫn được ăn cơm chiều mới nấu, lại chuẩn bị tiếp bọc cơm cho 2 ngày tiếp theo. Sẩm tối thì cả đại đội đã nai nịt gọn gàng, nằm xoài ra nghỉ ngơi theo đội hình hành quân hàng dọc mà đốt điếu thuốc rê chờ lệnh xuất kích.

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tvthai trong 06 Tháng Giêng, 2011, 08:39:18 pm
Tiếp đi bác trongc6 ơi,em xem chưa đã nè


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 07 Tháng Giêng, 2011, 09:32:50 am
...
      Đây là khoảng thời gian hoàn toàn tĩnh lặng. Cơm nước xong xuôi rồi. Súng đạn và đồ đoàn cũng đã chuẩn bị xong. Chỗ này là vị trí tập kết tạm, cũng còn cách địch tới trên 2 cây số nên là vùng an toàn của ta, nhất là vào giờ này. Trong đội hình xuất kích rải ra trên đường vào những lúc như thế này thì ở trận nào cũng thế, nhất là khi tập trung quân đông. Chúng tôi cứ vừa nửa nằm nửa ngồi thảnh thơi, vừa nhìn người và cảnh vật. Cán bộ các cấp rồi trinh sát đi lại ngược xuôi dọc theo đội hình hành quân. Các thủ trưởng còn đang điều phối lại thứ tự xuất kích của các đơn vị. Nếu nhìn từ trên cao, chắc chúng tôi cũng như hàng kiến hành quân vậy.

   Bỗng nghe tiếng rậm rịch chân rất to rồi thấy lính C8 hỏa lực chen lên vượt qua đội hình chúng tôi. Cối 82 và thượng liên 12ly7 bao giờ hành quân cũng rình rịch, nặng nề. Chắc họ phải chiếm lĩnh vị trí trước vì làm hầm hố phức tạp tốn thời gian hơn xung kích. Hỏa lực của tiểu đoàn thường bám sát các C bộ binh (không như bọn cối 120 ly của trung đoàn thì hầu như khi ra trận chẳng bao giờ thấy mặt vì chúng nó ở tít mãi đâu đâu phía sau ấy). Có rất nhiều gương mặt quen vì trong những tháng cùi cõng ở hậu cứ, chúng tôi thường xuyên giáp mặt nhau.

        Chợt có tiếng chào rộ lên xôn xao hàng quân. Tôi nghển cổ nhìn. Không phải thủ trưởng to nào đâu mà là anh Gội, lính Hà Nội nhà ở phố Trần Hưng Đạo. Anh là lớp lính vào trung đoàn từ năm 1967, đã từng tham gia đánh Huế hồi Mậu Thân. Đám lính Hà nội đợt chúng tôi trong cùng tiểu đoàn ai cũng biết rõ vì nghe danh anh vang khắp cả trung đoàn chứ không chỉ trong tiểu đoàn. Chả là anh có tầm vóc phi thường. Cao một mét tám, nặng gần chín chục ký lô, vạm vỡ nhất trung đoàn. Loại như tôi trọng lượng bằng nửa anh ấy nên đứng gần thấy anh lừng lững lắm. Tôi cũng không hiểu sao giữa chiến trường thiếu thốn vậy mà anh ấy vẫn sống bình thường được, vì lính tráng có suất có phần, nhất là suất và phần ấy lại có định lượng rất khiêm tốn. Sức vóc ấy thì mang vác vô tư nếu ăn đủ no. Có một truyền thuyết trong toàn trung đoàn về anh Gội. Dạo mới vào trung đoàn không hiểu sao quân lực lại xếp anh vào bộ binh. Đứng giữa hàng quân, anh ấy nổi lên như người khổng lồ. Trèo đèo lội suối thì vô tư, nhưng khoản đào hầm hơi khốn khổ vì kích thước. Một trận anh ấy bị thương vào đùi ngay giữa hàng rào, tuy là vào phần mềm, nhưng vẫn không đi được. Phải mất bốn lính chui vào vừa buộc vừa kéo vừa đẩy mất hơn tiếng đồng hồ mới lôi được anh ấy ra ngoài. Lôi ra ngoài xong thì bốn thằng ấy mất sức chiến đấu không thể tiếp tục làm gì được nữa. Đoạn đường 6 tiếng đồng hồ về trạm xá trung đoàn phải cử 6 lính khác thay nhau khiêng anh ấy và cả đồ đoàn cùng súng đạn của 7 người. Không phải sau 6 tiếng mà mất đứt cả ngày trời mới đưa được anh ấy về đến đích. Sau vụ đó, trong số những thằng khiêng anh ấy có 2 thằng lăn ra ốm phải nằm  luôn lại trạm xá, bốn thằng còn lại về nhà mệt mỏi và suy nhược phải sau một tuần mới trở lại công tác được bình thường. Vụ đó gây tiếng vang toàn trung đoàn và mười thằng lính bộ binh còm cõi trong đại đội tham gia vụ giải cứu anh Gội lần ấy sau này cứ nhắc đến tên anh là tim đập chân run. Còn anh Gội sau khi lành vết thương được chuyển ngay về C8 hỏa lực. To xác vậy nhưng anh Gội hiền khô và rất tốt tính. Anh ấy coi bọn lính Hà Nội đợt chúng tôi là những đứa em mầm non và rất thương nên chúng tôi cũng quý anh ấy lắm. Cứ gặp là lại xôn xao chào hỏi.

   Bảy giờ tối chúng tôi lên đường. Giữa cánh rừng già trời tối đen nhưng may là không mưa. Bây giờ cũng là cuối mùa mưa rồi còn gì. Mũi chúng tôi là K18, nhưng C6 chúng tôi đi trước vì làm nhiệm vụ mở cửa. C7 sẽ là thê đội 2 đánh tung thâm. Còn C5 là lực lượng dự bị. Cả đoàn quân xuất kích theo trinh sát dẫn đường, lúc nhanh như đi ăn cướp, lúc rậm rịch nhích từng bước như trâu ăn đêm trong chuồng. Tất cả là do trinh sát tiểu đoàn định đoạt hết. Sướng nhất là có một đoạn đi qua cái bãi đồi rộng toàn có thứ cây gì mọc thấp như cây sim cây mua, nhìn rất rõ nhau, đội hình bám nhau rất sát. Khó chịu là lúc đi qua những cánh rừng rậm non chẳng ra non, già chẳng ra già, không hiểu vì sao mà lắm bụi với dây leo thế không biết. Đã thế đường đi lại không thẳng, có lúc phải chui qua cả lùm cây được phát ra như cái hang bằng toàn cành lá. Hầu như trận nào cũng gặp phải cái cảnh thế này. Lắm lúc tức trinh sát ghê lắm. Chúng nó được chuẩn bị, được tìm đường tiềm nhập từ trước mà sao không chọn hay phát đường đi cho tử tế. Không phải mang nặng và vác gỗ bao giờ nên chẳng biết thương bộ binh. Chỉ biết đạp đường nhắm hướng cho đúng chỗ là được. Vì thế lắm lúc trong bụng mình cũng tức lắm. Lúc ở nhà được dạy dỗ tử tế, không dám nói tục một câu, thế mà vào lính rồi cũng nhiễm nhau tất cả, từ quan đến lính. Không chỉ nói tục mà còn chửi bậy nữa, văng lung tung ra cả những thứ mà chính mình cũng chưa nhìn thấy bao giờ. Tất nhiên lũ trinh sát nghe chửi quen rồi thì cũng như miễn dịch vậy, chỉ hơ hơ cuời rồi đâu lại vào đấy.

   Trước khi vào đến cái giông đồi cùng trận địa của bọn D621 Thái, chúng tôi phải đi qua một bãi rộng như đầm lầy, bùn sụt đến quá đầu gối. Có lúc tưởng như bị chôn chân không nhấc lên được. Dép cao su trơn tuột ra phải tháo rồi lồng vào Xanh-tuya-rông cho khỏi mất. Lại nguyền rủa bọn trinh sát. Bộ binh vất vả đã đành, bọn hỏa lực khiêng nặng chắc còn mệt hơn nhiều. Qua khỏi cái bãi lầy thì đã gần địch hơn nên đi chậm hơn và phải giữ trật tự. Thế mà thỉch thoảng vẫn có thằng va gỗ vào nhau kêu rất to, thậm chí có thằng không bám được đội hình sợ lạc đành phải lên tiếng gọi nho nhỏ. Ví như anh Tiêu lính A cối 60 C tôi. Anh này dân Hà Tĩnh, người chắc và khỏe nhưng lại quá lùn. Dù có chất lên vai anh ấy 40 cân hay chỉ 20 cân thì tốc độ đi của anh ấy vẫn như nhau, lầm lũi như một chú lừa chậm chạp. Chúng tôi đã biết tính anh ấy qua những lần đi cùi cõng. Được cái quá hiền lành, ai cũng bắt nạt được. Hai mấy tuổi mà khoe đã có vợ rồi, thật thà đến nỗi chỉ là cái đích cho mấy bố tếu táo trong đại đội châm chọc và moi chuyện bậy bạ. Lúc qua bãi lầy anh ấy bị ướt cả đến quần đùi, nhiều lúc đi mà như bò trườn trên bùn nước. Lúc qua rồi thì lạc, lại kêu gọi anh em. Tiếng Hà Tĩnh đã nặng, nghe lúc thường có khi đã không rõ, lúc hoảng lên lại càng khó nghe hơn. Đang đi phía trước hàng quân, C phó Hùng bực tức quay lại ghé sát tai anh Tiêu chửi nhỏ "Câm cái mồm". Đáng lẽ nghe không ra thì im đi cho xong, đằng này anh Tiêu lại cứ "chi mô, chi mô". Anh Hùng tức quá véo tai cho một cái và lại ghé sát mồm chửi "tiên sư mày". Không nghe rõ, lại hỏi lại "chi mô". Thế là lại bị thì thào "tiên sư mày", chửi mà phải nói thầm nghe nó buồn cười lắm. Tôi đi gần đó suýt phì cười, may mà nghiến răng bụm miệng lại được, chứ không cũng chết với anh Hùng. Tếu nhất là khi anh Tiêu nghe ra được tiếng chửi, không những không bực mình, lại còn nhe răng ra mà cười rồi gật đầu "dạ, dạ" lia lịa, tiếng còn to hơn cả lúc gọi anh em ban nẫy. Anh Hùng đành dúi cho một cái nữa rồi lật đật chạy lên phía trước hàng quân.

   Lần mò mãi thì trước nửa đêm chúng tôi cũng vào được đến vị trí. Đại đội phân công các B chiếm lĩnh vị trí theo đội hình chữ T lệch. Đầu chữ T là tuyến phá rào mở cửa và hỏa lực, còn đơn vị rải như cánh gà chéo phía sau. Hỏa lực phía trên chỉ là B40, B41 thôi. Bọn 12 ly7 nằm lùi hẳn lại phía sau. Cối 60 cũng nằm cuối đội hình, còn bọn cối 82 của C8 hỏa lực thì lại lùi xa hơn nữa. Tiểu đội tôi và thằng Thành nữa là 5 người tiếp nhận vị trí mở cửa. Trời đêm nhờ nhờ, tầm nhìn hạn chế, nhưng trong khu hàng rào vẫn phải bò thấp. Anh Trịnh dùng kìm cộng lực cắt lớp rào đơn ngoài cùng thành một lối bò vào. Bây giờ chỉ là lấy lối vào, còn thủ pháo đặt phá rào làm sau. Bò qua một đoạn thì đến hàng rào bùng nhùng. Loại này có ngạnh rất sắc, chỉ rải thô trên mặt đất, cách một quãng địch lại cắm một cọc sắt để định vị. Loại rào này không dễ cắt như rào đơn. Chúng tôi lấy các móc thép ghim néo các vòng hàng rào lại để tạo một lối bò qua. Việc đặt mìn sẽ làm từ trong ra. Lớp rào trong cùng chỉ cách lớp hào tiền duyên của địch độ hơn chục mét nên phải rất thận trọng. Được cái thuận lợi là địch không chôn mìn giữa các hàng rào. Hướng cửa mở do cấp trên đã chọn và định sẵn rồi nên phải mở chính xác. Tại chân lớp rào trong cùng là rào đơn, chúng tôi đặt vuông góc 2 ống bộc phá 1,2m cách nhau 8 mét để xác định khẩu độ cửa mở. Dưới chân rào ở khu giữa chúng tôi xếp dọc thêm 4 ống bộc phá nữa. Lớp rào này khi mìn DH10 nổ sẽ thổi mảnh vào nên không cấn đặt dầy bộc phá. Phía trước hàng rào bùng nhùng chúng tôi đặt vuông góc 2 giá mìn DH10, mỗi giá 3 quả xếp theo hàng dọc, giá nọ cách giá kia 4 mét phân đều theo khẩu độ 8 mét. Tại hai đầu cũng xếp 2 ống bộc phá dài để có thể cắt đứt lớp rào này và thổi bay nó đi. Đã có trường hợp không đặt bộc phá cắt rào, sau khi mìn DH10 nổ không cắt đứt hết rào, cái vòng bùng nhùng văng lên cao như lò xo rồi lại rơi xuống bịt luôn cửa mở, thế là công toi. Ở hàng rào đơn ngoài cùng cũng đặt bộc phá ống như hàng rào trong cùng nhưng dày hơn vì nó nằm phía sau giá mìn DH10. Sau khi đặt mìn và bộc phá xong, tôi gắn kết tất cả mìn và bộc phá bằng dây nổ. Kíp điện gắn vào mìn DH10 làm cuối cùng vì còn phải nối dây ra ngoài đến hộp điểm hỏa. Tôi là người chịu trách nhiệm kiểm tra cuối cùng cho toàn bộ mìn và thủ pháo rồi bò ra. Khi mọi thứ đã xong xuôi thì cũng đến mấy giờ sáng rồi. Bây giờ chỉ còn lạy trời đừng có thằng địch nào ban đêm ngứa tay "cốc" ra ngoài hàng rào một hai quả cối M79 để giải sầu.

   Tuyến hỏa lực của đại đội để chế áp cửa mở nằm sát ngay ngoài hàng rào ngoài cùng, cách địch khoảng năm chục mét. Trung đội cũng đã đào sắp xong các hầm chiến đấu cá nhân rồi. Nhóm mở cửa được trung đội hỗ trợ đào giúp cho 2 người chung một hầm. Chúng tôi nhận hầm, đào nốt và chỉnh sửa cho hòan chỉnh. Công tác chuẩn bị coi như thế là xong. Bây giờ chỉ còn chờ đợi. Đội hình phía sau có thể định giờ chợp mắt tí chút chứ trung đội trên cửa mở thì phải thức trắng vì sát ngay địch rồi. Thật ra mà nói bây giờ đang là ban đêm ánh sáng nhập nhoạng nên địch chưa biết gì thôi, chứ trời sáng ra thì những nắp hầm lô nhô bên ngoài hàng rào sẽ lộ hết. Chúng tôi ngồi nghỉ trong hầm và chờ đợi. Không ai được hút thuốc, kể cả đội hình cánh gà phía sau.

   Gần sáng đại trưởng Băng bò lên cùng kiểm tra lại tình hình chuẩn bị của trung đội mở cửa. Ngoài cái công tác bấm từ để điểm hỏa của mìn Cleimo, B trưởng Quân còn dự trữ sẵn một thỏi pin xếp dài ngoằng xin của thông tin tiểu đoàn.

   5 giờ sáng. Trời vẫn còn nhờ nhờ tối trong màn sương đêm mờ trắng. Gần như đây là giờ chuẩn của các trận đánh căn cứ trong trung đoàn chúng tôi. Đại trưởng Băng xem đồng hồ rồi phảy tay ra lệnh. Tôi nghiến răng bóp mạnh công tắc điện. Một ánh chớp bừng lên trên vùng cửa mở kèm theo tiếng nổ gần như tức thời. Cảm nhận rõ một áp lực nào đó truyền qua không khí hắt ra từ khu hàng rào. Chưa kịp nhìn rõ thứ gì thì trên tuyến hỏa lực tiền duyên, chớp B40, B41 của đại đội nổ liên hồi nã vào khu đầu cầu. Cũng liền lúc đó đã nghe tiếng ù ù xoẹt xoẹt rồi tiếng nổ của pháo cấp trên dồn dập dập vào khu hầm hào của địch sát ngay cửa mở. Tôi được anh Trịnh truyền cho khẩu B41 đã lắp đạn sắn và giương lên nhả một phát vào hướng địch. Có lẽ nó bay vào sâu bên trong chứ không tương trúng khu đầu cầu. Tôi trả lại súng cho anh Trịnh rồi căng mắt nhìn vào hàng rào. Vẫn chưa thấy rõ vì khói súng nhiều quá, dù màn sương đêm đã bị cái nóng đạn lửa làm tan ra rồi. Pháo cấp trên bắn vào chừng vài chục quả, còn B40, B41 của các tay súng hỏa lực trong đại đội chỉ được phép bắn mỗi khẩu 3 trái. Cối 82 của tiểu đoàn cũng chi viện một ít. Khẩu cối 60 của C tôi chưa phát hỏa. (C tôi chỉ còn lại một khẩu vì một khẩu đã bị hỏng do đạn cối nổ trong nòng từ dạo đầu mùa mưa đánh địch ở đường 231 hướng Lào Ngam rồi).

   Địch bị bất ngờ chưa kịp phản kháng vì bọn ở khu đầu cầu chắc đã bị đè bẹp rồi. Lũ địch ở phía trong chắc đang chấn chỉnh đội hình. Vào giờ chúng tôi bấm mìn và nổ súng, cấp trên chi viện chúng tôi nhanh như thế nào thì bây giờ cũng kết thúc nhanh như thế sau vài chục phát pháo chi viện, thời gian có lẽ cũng chỉ chừng hai chục phút. Như các trận đánh căn cứ khác thì pháo cấp trên chuyển làn và chúng tôi khẩn trương xung phong vào đánh chiếm đầu cầu. Trận này do có xe tăng phối thuộc nên đánh theo kiểu khác. Pháo cấp trên im là chúng tôi cũng nằm im luôn. Địch có lẽ còn đang chờ ta xung phong nên cũng không bắn trả gì. Tôi nhìn lên khu cửa mở. Khói và sương đã tan hết, để lộ rõ cả một vùng không gian trống hoác không còn hàng rào. Thế là cửa mở đã thông. Tôi sung sướng nắm tay anh Trịnh, thở phào nhẹ nhõm.

   Bây giờ nhiệm vụ của C6 mà trực tiếp là B5 phải nằm giữ cửa mở không cho địch ra bít lại. Phải chờ cả một ngày trời đằng đẵng để đến tối xe tăng mới xuất kích vào tới nơi thì trận đánh lại tiếp tục. Thật quá giữ chốt, nhưng không phải chỉ nhõn có mấy thằng lính mà có cả một đội hình cả C, cả D tiếp ứng. Bọn địch có lẽ cũng ngơ ngác không hiểu đối phương định làm gì. Chúng bắt đầu đưa quân từ bên trong ra củng cố lại hầm hào khu đầu cầu. Ta và địch bây giờ cách nhau một khu đất trống rộng hơn năm chục mét. Chúng cũng chẳng thèm ra bít lại hàng rào vì nếu làm thế khác nào tạo ra những chiếc bia di động cho ta bắn tỉa. Củng cố chán chê rồi, địch bắt đầu trả đũa bằng thế mạnh của chúng, đó là cối pháo. Pháo lớn của địch từ phù Chiêng bắn ra cả 2 hướng cửa mở của K18 và K16. Chúng không dập chính xác vào khu cửa mở mà bắn rộng ra xa. các cánh quân bên ngoài chắc gay go. Chúng tôi nằm sát cửa mở nghe tiếng pháo rú bay xoèn xoẹt qua đầu rồi nổ bung phía sau. Nhưng cũng chỉ yên tâm một lúc thôi, vì bọn địch trong căn cứ cũng lên tiếng. Cối 81 từ trong lòng căn cứ dã vào khu vực đại đội 6. Chúng tôi nằm phía trên thì hứng chịu đạn M79 của bọn nằm sat ngay khu đầu cầu. Chúng nó thảnh thơi nhả đạn như bắn tập, trong khi cả C tôi nằm chịu trận, không bắn trả được phát nào. Nhiệm vụ chính chỉ là đánh bọn ra lấp hàng rào.
….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lixeta trong 07 Tháng Giêng, 2011, 08:21:19 pm
Chào quê Trọng!
Tôi vừa giở lại LS binh chủng TTG để xem lại trận này mà không thấy nhắc đến. Thật tình là tôi hơi lạ với hình thức tác chiến mà quân ta áp dụng ở trận này. Tại sao mở cửa xong không cho xung phong ngay mà lại phải chờ cả một ngày nữa ??? Chắc chỉ ở bên Lào quân địch mới không tìm cách bịt lại cửa mở thế chứ ở miền Nam chắc chúng không chịu đâu :-\
Nhờ quê cung cấp chính xác hộ địa điểm và thời gian của trận đánh này nhé ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 07 Tháng Giêng, 2011, 10:29:20 pm

   Bây giờ nhiệm vụ của C6 mà trực tiếp là B5 phải nằm giữ cửa mở không cho địch ra bít lại. Phải chờ cả một ngày trời đằng đẵng để đến tối xe tăng mới xuất kích vào tới nơi thì trận đánh lại tiếp tục. ….


      Đúng như bác LiXeTa nói, mình đánh trận này lạ thật. Cửa mở toang hoác mà phải chờ một ngày sau mới xung phong ? 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 08 Tháng Giêng, 2011, 10:07:40 pm
   Hay ý bác Trong c6 là do phải đợi tăng vào mới được đánh. Mà tăng thì mãi đến tối mới tới nơi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: svailo trong 08 Tháng Giêng, 2011, 10:57:11 pm
Chào quê Trọng!
Tôi vừa giở lại LS binh chủng TTG để xem lại trận này mà không thấy nhắc đến. Thật tình là tôi hơi lạ với hình thức tác chiến mà quân ta áp dụng ở trận này. Tại sao mở cửa xong không cho xung phong ngay mà lại phải chờ cả một ngày nữa ??? Chắc chỉ ở bên Lào quân địch mới không tìm cách bịt lại cửa mở thế chứ ở miền Nam chắc chúng không chịu đâu :-\
Nhờ quê cung cấp chính xác hộ địa điểm và thời gian của trận đánh này nhé ;D
**************88
 Tôi cũng rất ngạc nhiên về hình thái chiến thuật : Mở cửa mở xong , chờ 1 ngày mới đánh  này , như bác Lixeta .
 Cũng có thể do công tác hiệp dồng có trục trặc , không điều chỉnh kịp .
Tới giờ là Công binh cử mở cửa . Sau đó mới biết Xe tăng chưa tới kịp . Nên đành phải nằm chờ , suốt cả 1 ngày .
 Nhưng mà tới lúc có tăng , các bác vẫn dám xung phong quả cửa tử chờ sẵn đó thì GHÊ RĂNG thật . Kính nể .
 Chả lẽ bên Lào , bọn địch ngu ngơ đến vậy  ?
Không bịt cửa mở , cũng không có biện pháp phòng bị tăng cường gì để chống xâm nhập qua cửa mở ?
 Bác Trongc6  tiếp tục đi . Hồi hộp quá !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 14 Tháng Giêng, 2011, 08:16:56 am
……
   
      Một thằng bắn tập còn một thằng phơi lưng ra chịu trận thì thế nào cũng có lúc thiệt. Chúng tôi cũng lo lắng lắm, chả hiểu cái chiến thuật này bố nào ở cấp trên nghĩ ra. Kiểu đánh của quân ta chỉ có khi ở chốt là phải căng thẳng, chịu trận bom pháo để giữ chốt mà không được lui khi chưa có lệnh, còn các trận đánh phục kích, lùng sục hay đánh cứ điểm thì bao giờ cũng phải đánh nhanh rồi rút sớm để tránh thế mạnh bom pháo của địch. Bây giờ bấm mìn phá rào và nổ súng ùng oàng thì lộ rồi, địch nó thừa biết mình đang muốn thôn tính nó. Cả đội hình lớn phơi mình ra, địch nó mà gọi thêm máy bay nữa quần thảo cho một ngày thì chắc trung đoàn hết cả quân mà đánh nó. Trên cửa mở trung đội chúng tôi cứ phải chúi mũi trong hầm tránh cối M79. Lúc địch ngừng bắn thì thập thò nhô lên quan sát. Cũng may cái khu vực này vốn là rừng phát quang bằng tay có nhiều chồi non tái sinh mọc cao tới vài chục phân nên thằng địch nằm trong căn cứ cũng không dễ dàng mà quan sát hết được quân ta.

   Thời gian nặng nề trôi qua. Bây giờ thì chúng tôi có thể thoải mái hút thuốc, nhưng tất cả vẫn ai ở nguyên hầm đó. Cơm nước cũng theo từng cá nhân mà tự giải quyết. Dù chỉ là lính mới đánh nhau chưa nhiều, nhưng ngồi trong hầm nói chuyện với anh Trịnh, tôi hiểu thành quả sáng nay của B5 chúng tôi chỉ là phá toang được mấy lớp hàng rào, còn khu đầu cầu thì chắc địch đã củng cố lại cả quân số và hầm hào rồi. Như thế cũng có nghĩa là tối nay đánh tiếp thì phải bắn phá lại khu đầu cầu trong điều kiện ý đồ đã lộ. Nhưng chúng tôi chẳng lo vì đây là nhiệm vụ của xe tăng mà theo quán triệt từ trước thì chúng tôi tin vào sức mạnh của xe tăng. Suốt buổi sáng B5 nằm trên cửa mở vẫn an toàn và chưa phải nổ phát súng nào. Đạn dược vẫn dành đủ cho trận đánh tối nay. Nhưng đội hình phía sau bị dã cối 81 của địch thì không được may mắn như trên cửa mở. Tổn thất đầu tiên trong đại đội là anh Ánh của A cối 60 bị hy sinh. Một quả cối 81 của địch nổ sát  hầm và văng mảnh trúng đầu anh ấy. Trong lính có nhiều điều mê tín như kiểu nấu cơm khê trước lúc đánh trận, giữ vàng trong người sẽ không may…, nhưng bây giờ trường hợp anh Ánh hy sinh lại thêm một kiểu mê tín khác không kém rờn rợn. Ngay từ trước đây cả tháng nhiều người trong đại đội đã cho rằng sẽ có điềm không may đến với anh Ánh.

   Số là hồi đầu mùa mưa trong một trận đánh vận động ở vùng đường 231 C6 có vụ nổ đạn cối trong nòng và anh Đối A trưởng hy sinh cùng một anh nữa. Đến khi chúng tôi về dừng chân ở khu hậu cứ gần bản Xăm xi núc thì mỗi A ở một nhà làm kiểu hầm thùng, A cối cũng vậy. Khi chúng tôi rục rịc chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới thì bỗng dưng hàng đêm ở trong lán A cối 60 xuất hiện một con đom đóm rất to. Nó to và có độ sáng khá khác thường. Nó cứ bay trong lán vào ban đêm, tạo một đốm sáng rất to trong không gian tối om của màn đêm. Nó cứ bay lên hạ xuống quanh phía trên đầu các lính A cối. Lúc đầu thì chưa mấy ai để ý, sau thấy lặp lại nhiều thì có một lần anh Thắng là A trưởng cối mới bỗng kêu lên:

   "Có khi đây là anh Đối về, chúng mày ạ".

   Thế là anh ấy nhổm dậy rồi quỳ vái lia vái lịa về phía con đom đóm. Con đom đóm bay sang chỗ khác như có phép màu. Thế là đến lượt người khác. Cứ con đom đóm bay đến đâu, vái lạy thì nó lại bay đi, cuối cùng nó bay ra ngoài rừng cây, dù trời lúc đó đang mưa. Hôm sau con đom đóm lại bay vào lán. Tất cả lại sợ xanh mắt và vái lia lịa vì tất cả đều tin rằng đó là linh hồn anh Đối. Liền mấy hôm như thế, nhưng trong A cối có anh Ánh đi công tác biệt phái mấy ngày nên không biết. Hôm anh Ánh trở về, con đom đóm vẫn bay vào lán như mọi khi. Anh Ánh tròn mắt nhìn mọi người thành kính vái lạy con đóm đóm. Khi nó bay đến đậu phía đầu anh Ánh, mọi người giục nhưng anh Ánh không tin đó là hồn ma anh Đối nên không lạy. Anh ấy còn rút que cời than vụt chết con đom đóm. Ai cũng cho đó là điềm gở nhưng anh Ánh chỉ cười nhạt.

   Bây giờ vừa vào trận anh Ánh đã hy sinh (mà cũng chỉ có một mình anh ấy thôi, còn lại cả A cối vẫn an toàn) thì sau này không chỉ riêng A cối mà cả đại đội tôi đều tin rằng câu chuyện về con đom đóm ở khu hậu cứ đúng là linh hồn thật. Thế là lính tráng đã mê tín thì lại càng mê tín hơn.


   Lúc bấy giờ và sau này cũng không ai giải thích được là tại sao cái tiểu đoàn 621 Thái ấy khi đã biết chắc hàng rào căn cứ của mình bị lính Bắc Việt phá thủng 2 cửa to tướng như thế và có thể đang bao vây chờ đánh tiếp mà chúng cũng chỉ phản ứng như tập trận với một ít pháo chi viện từ hậu cứ và dùng hỏa lực nhẹ của bản thân để bắn phân tán ra ngoài. Phải chăng chúng nghĩ đối phương sẽ bỏ cuộc hoặc giả cũng coi thường đối phương nên cứ chờ xem sao.  Chỉ có một điều chắc chắn mà sau này chúng tôi được biết là địch không hề nghĩ quân ta có xe tăng, dù ít ngày trước máy bay T28 của chúng đã ném bom phá hỏng được một chiếc xe tăng của ta. Chúng cũng chỉ nghi ngờ chứ không dám chắc quân ta có xe tăng, chính điều này là may mắn cho phân đội xe tăng vì địch không chuẩn bị hỏa lực chống tăng tập trung chờ sẵn tại cửa mở. Thực lòng về sau đám tham mưu con chúng tôi bàn dại là nếu lúc ấy địch tập trung thật nhiều bom pháo đánh rộng khắp ra xung quanh căn cứ với mật độ dày đặc trong suốt cả ngày thì chắc cả tiểu đoàn chúng tôi bị xóa sổ rồi. May mà địch chỉ bắn cối ra và gọi ít pháo bắn đến chi viện cứ như chúng diễn tập cho có vậy thôi. Điều đặc biệt là suốt cả ngày hôm đó không thấy bóng dáng một chiếc T28 nào. Chiến trường thật đúng là may hơn khôn. May cho chúng tôi và may cho cả bọn lính tăng.

   Khoảng thời gian từ gần trưa cho đến chiều tối là một khoảng thời gian tĩnh lặng. Bắn mãi chẳng thấy đối phương phản ứng gì, chắc chúng nó cũng chán. Nhưng chúng không biết chắc quân ta đã rút hay chưa nên cũng không cho quân ra củng cố lại hàng rào hoặc thăm dò. Chúng cũng chẳng buồn bắn ra bên ngoài nữa, lý do gì không biết nhưng chắc chắn không phải là chúng thiếu đạn. Bay giờ địch làm gì trong căn cứ, chúng tôi không biết. Cũng chẳng nghe tiếng chúng nói gì, dù những hầm tiền tiêu của chúng tôi chỉ cách chúng hơn năm chục mét. Địch cũng không cho quân từ phía sau ngã ba Lào Ngam lên tiếp ứng nên K15 đón lõng cũng không có việc để làm. Chỉ có xa xa trên đường 23 hướng K18 và K16 chúng tôi là có việc. Công binh trung đoàn vẫn phải phối hợp để dẫn xe tăng (dù chỉ còn 3 chiếc) tiến dần vào khu căn cứ địch. Nhưng đó cũng chỉ là suy đoán thôi, chứ trên vùng cửa mở, lính B5 vẫn nằm co ro trong hầm chờ lệnh. Nhiệm vụ tưởng nặng nề là giữ cửa mở không cho địch ra bít lại trở nên nhẹ nhàng vì địch nó cũng chẳng buồn ngó ngàng tới, chẳng có tốp lính nào mò ra hàng rào. Trong khu căn cứ vẫn kín đáo và im ắng dưới những tán cây cà phê rậm rì. Vườn cà phê xanh um đã che dấu mọi sinh hoạt của địch.

   Suốt cả ngày trời không mưa nhưng cũng không có nắng to. Chỉ gần trưa mới thấy hưng hửng một chút. Trung đội tôi chỉ còn mỗi việc làm đều đặn nhất là quấn thuốc hút, nhẩn nha uống nước và lo bữa cơm trưa. Cơm là cho hai ngày nhưng anh Quân bảo chúng mày cứ chia ăn khoảng 4 bữa thôi. Đánh địch xong thể nào cũng có gạo của địch mà ăn. Vì thế chúng tôi cũng phấn chấn và tự tin lắm.

   Tôi nhẩm lại lịch. Hôm nay là ngày 18/10/1972.

   Mọi thứ cứ yên ắng như thế cho đến chiều tối. Lúc trời nhập nhoạng thì không khí bên ngoài bắt đầu sôi động dần lên. Liên lạc đại đội bò lên truyền lệnh. Các thủ trưởng C, D tiến dần lên khu của mở. Bọn thông tin bò qua bò lại rải thêm dây. Hai khẩu đội 12 ly7 nằm im suốt cả ngày bây giờ bắt đầu giá cao súng lên ngay sát bên phải cửa mở. Trung đội tôi hết nhiệm vụ giữ cửa mở, được lệnh kiểm tra súng đạn chuẩn bị đón và theo xe tăng vào chiếm cửa mở. Các A trưởng được lệnh lấy ra những viên đạn lửa lắp xen vào băng đạn. Những viên AK loại đạn lửa có thêm một vạch đỏ trên đầu đạn. Khi bắn ngoài tác dụng như đạn AK thông thường, nó còn tạo một vệt lửa đỏ đánh dấu đường đạn giúp cho người bắn định vị trong đêm. Lúc này xung lực AK còn nguyên cơ số, kèm đầy đủ thủ pháo. Hỏa lực B40, B41 mỗi khấu còn 4 trái, đủ để chiếm đầu cầu. Riêng cối cá nhân bắn ra lúc sáng không được bao nhiêu. Trong đánh căn cứ, hầu như cối M79 ít tác dụng. Những thằng lính giữ M79 đều tích trữ cho mình mấy quả cối bi để bắn trực tiếp, nhưng cũng chủ yếu là tự vệ.

   Trời tối nhọ mặt người. Phía sau đã nghe đất rung lên nhè nhẹ càng ngày càng rõ dần, tiếng của xe tăng đi. Chếch từ phía phải đường vào cửa mở xuất hiện một chiếc T54 to lừng lững như căn nhà rình rịch chạy đến sát hầm tôi. Nó mà nghiến lên thì mấy cái hầm đất bộ binh bẹp rúm. Nhưng bây giờ chúng tôi cũng không cần đến hầm nữa rồi. Mấy chúng tôi súng ống đã gọn gàng, đứng hẳn người lên tiến đến sát xe tăng.  Một người lính tăng mở nắp nhô lên gào to hỏi hướng cửa mở. Súng 12ly7 của C8 bắt đầu nổ "panh panh" xả vào hướng cửa mở chỉ đường. Người lính tăng tụt xuống, đóng nắp xe tăng. Rất nhanh, chiếc xe tăng bắn luôn một phát pháo vào cửa mở, cả khối thép như rùng mình rồi xê đít chỉnh hướng tiến vào cửa mở. Hỏa lực B40 và B41 của đại đội cũng phối hợp nện vào khu đầu cầu. Bây giờ thì tiếng nổ máy của xe tăng đã gầm lên rất to. Không gian rộ lên tiếng đạn bắn của ta và của cả địch xả ra từ trong căn cứ. Mấy khẩu trung lên Bar của địch cuống quít xả đạn ra cửa mở bắn vào thành chiếc xe tăng chan chát và tóe lửa. Chúng tôi lùi tránh phía sau xe tăng, lợi dụng nó làm vật che đỡ. Vào trận rồi thì cứ theo bản năng mà đánh, chẳng còn để ý địch nó có bắn cái gì vào mình không.  Một quả rốc két 66 bắn ra, vệt lửa vụt ngang qua tháp xe tăng vút về phía sau, không biết có trúng thằng bộ binh nào không. Rồi từ lúc nào đó cối pháo cấp trên cũng nổ ùng oàng vào căn cứ địch. Chiếc xe tăng của ta vừa lao vào cửa mở vừa bắn xả đạn đại liên. Chúng tôi giạt ra chờ giây lát cho chiếc tăng thứ hai tiến vào. (Cửa mở K18 có 2 tăng phối hợp, còn cửa mở K16 thì chỉ còn một chiếc xe tăng thôi). Chúng tôi được lệnh bám luôn theo chiếc tăng thứ hai. Thế là anh Quân xốc cả trung đội xung phong. Do có xe tăng dẫn đầu nên bọn 12 ly7 phải bắn đạn dịch ngang và vổng tít trên cao vào căn cứ, chắc chỉ có tác dụng tâm lý. Lần đầu tiên chúng tôi đánh đêm, thấy vạch đỏ đường đạn bay nhằng nhịt, cảm giác rất khác lạ. Dưới đủ các loại tầm đạn, chúng tôi vừa cố chạy nhanh theo xe tăng để lợi dụng nó làm vật che đỡ, vừa cố giữ một khoảng cách nào đó. Tinh thần lính tráng lúc này phấn chấn lắm. Địch không bắn thêm được một phát đạn chống tăng nào, chỉ toàn đạn thẳng bắn ra nên có trúng xe tăng cũng chẳng có tác dụng gì. Có lẽ đây là lần đầu tiên địch gặp xe tăng của ta trên chiến trường này nên chúng cũng hoang mang và lúng túng. Theo chúng tôi biết, địch không có hỏa lực chống tăng như B40, B41 của ta, nhưng lúc hành quân chiến đấu, ngoài khẩu M16, thằng nào cũng đeo lủng lẳng thêm một ống M72. Vì thế lúc tác chiến chúng nó tập trung dập lại bằng rốc két đó thì cũng ghê lắm. Thế mà bây giờ nằm căn cứ lại không thấy nó bắn loại đó. Hay là M72 không diệt được tăng T54?

   Hai cái xe tăng vừa lọt hẳn vào căn cứ thì lính B5 chúng tôi cũng đã ném một chập thủ pháo vào cửa mở sát ngay sau xe tăng rồi cứ thế quạt bừa AK mà xông vào. Chỉ theo hướng là chính thôi chứ chúng tôi không quen đánh đêm nên cũng chẳng nhìn rõ gì nhiều. Trong ánh chớp lửa đạn chỉ thấy nhập nhà nhập nhoàng, nhưng cứ đánh theo cảm tính. Mấy cái hầm khu đầu cầu bị xe tăng đè bẹp, chúng tôi đánh bám sang hai bên, vừa bắn vừa nhảy đại xuống hầm hào ngang khu đầu cầu, đạp bừa cả vào những xác địch trong đó. Chỉ còn sự chống cự yếu ớt tại đây nên chỉ trong khoảng thời gian ngắn chúng tôi đã chiếm được khu đầu cầu. Cả trung đội 5 không có thương vong. Các B khác trong C, rồi C7 chủ công cũng bám theo rất nhanh đánh thốc vào trong căn cứ. Bây giờ tạm dừng lại thở mới có điều kiện để quan sát và nghe ngóng. Chẳng biết hai chiếc xe tăng đã vào đến đâu. Trong căn cứ liên tục rộ lên tiếng súng và chớp lửa. Có lẽ nhờ xe tăng quần đến đâu, quân ta áp theo đánh chiếm đến đó nên nghe tiếng AK là chính, thỉnh thoảng nghe xen tiếng B40 và B41.  Mà Trung liên Bar của địch cũng đạn 7ly62 nên tiếng nổ của nó nghe rất giống tiếng AK, có khác chăng là nó bắn loạt dài chứ không như AK điểm xạ. Lúc này thì các loại hỏa lực của cấp trên và của tiểu đoàn như 12 ly7 hay cối 82 đã hết việc rồi. Toàn bộ khu đầu cầu và tuyến ngang do C6 đánh chiếm đã xong. C7 vào sâu bên trong, chắc cũng thuận lợi nên không thấy tiểu đoàn điều C5 vào đánh. Chỉ chừng non nửa tiếng sau thì tiếng súng thưa dần rồi ngừng. Đôi lúc chỉ còn vài tiếng nổ lẻ tẻ. Có tin C7 đã bắt được liên lạc với hướng của K16. Quân ta đã làm chủ trận địa. Lúc này thông tin nhận được không có gì nhiều. Nghe loáng thoáng trong đại đội 6 bị thương 2, bên C7 hy sinh và bị thương vài lính. Trong đêm tối đen chỉ có lệnh các đơn vị tổ chức trụ lại tại vị trí đã chiếm giữ chờ sáng. Một bộ phận của tiểu đoàn chạy qua chạy lại khu cửa mở í ới gọi nhau làm công tác thương binh tử sĩ.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 14 Tháng Giêng, 2011, 09:45:29 am
   Úi zùi ! Trận này sướng. Mỗi tội bác viết ít quá nên lâu lâu mới sướng được một lần.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 15 Tháng Giêng, 2011, 04:41:25 pm
Đúng là trận này ...sướng.
Đọc bài này, có cảm giác như hồi bao cấp được ăn giò ;)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tvthai trong 17 Tháng Giêng, 2011, 10:42:34 pm
Tiếp đi bác trongc6 ui, đang lên cơn nghiện đây.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 19 Tháng Giêng, 2011, 11:40:01 am
….

   Tình thế hiện nay cũng lại là một điều đặc biệt đối với chúng tôi. Mọi khi đánh xong phải nhanh chóng thu chiến lợi phẩm (cũng chỉ thu được ít thôi và cố gắng mỗi thằng thu một khẩu súng của địch, lục lọi nhanh mỗi thằng độ hai ba cái ba-lô của địch) rồi nhanh chóng rút ra ngoài trận địa, có khi xa tới cả cây số mới được lệnh dừng. Chỉ có một bộ phận rất nhỏ tảo thanh rồi cũng phải mau chóng rút. Đánh nhanh thì rút cũng phải cực nhanh.

   Vậy mà lần này…

   Nhưng không chốt lại thì trong đêm tối đen thế này thì biết rút đi đâu. Bộ phận chính sách tất nhiên phải làm ngay trong đêm rồi. Các C bộ binh có quay ra cũng không biết về tập kết chỗ nào. Mà tình hình trận địa còn ngổn ngang, quân ta đánh xong nhưng đã kiểm soát xong hết mọi thứ đâu.

   Toàn trận địa im tiếng súng. Thoạt đầu chúng tôi bám sát vào các hầm to của địch, loại hầm thùng có nắp đất dầy để nhỡ ra địch nó câu pháo vào thì cũng đỡ tổn thất. Nhưng cũng lạ là mãi vẫn không thấy địch bắn pháo, thế là bắt đầu chủ quan. Lính tráng ở khu vực nào tranh thủ lục lọi các hầm ở quanh khu vực đó. Thứ được tận dụng đầu tiên là đèn pin. Trang bị và cơ sở vật chất của bọn Thái có thể nói là giàu có và phong phú. Chẳng mấy chốc mà trong căn cứ không còn im ắng nữa mà bắt đầu nhộn nhịp. Ánh đèn pin soi loang loáng trong các hầm hào, dù cẩn thận thì thỉnh thoảng cũng vẫn có ánh đèn chiếu hắt ra ngoài, soi lên hàng cà phê rậm rạp. Lính tráng tự động tìm chiến lợi phẩm, chẳng ai ngăn cấm được. Gặp xác chết thì gạt ra chẳng thấy ghê gì cả, khu hầm nào cũng có lính chui vào lui cui lục lọi, tìm kiếm rồi chia nhau. Không biết bây giờ là mấy giờ, nhưng cả bọn giờ chợt nhận ra là chưa có lệnh ăn cơm chiều. Gói cơm nếp vẫn còn, thằng nào thấy đói thì tự ăn. Nhưng nhiều chỗ kiếm được sữa hộp đem chia nhau húp cũng thấy no, còn khoái hơn chén cơm nếp. Tiếp theo là thịt hộp và thuốc lá. Tự kiếm tự thưởng. Trong trung đoàn tôi có lệnh khi đánh căn cứ nếu thu được đồ hộp nhiều hoặc thuốc lá nguyên tút phải gom lại nộp về trung đoàn để cấp trên chia cho trạm xá và phía sau. Nhưng lính các C trực thuộc trung đoàn thường được đồng hương bộ binh cho trực tiếp khi gặp nhau chứ những thứ nộp về cũng không nhiều đến mức đủ chia khắp cho lính các C trực thuộc. Với lại quy định là thế thôi chứ chỉ có cán bộ đại đội là phải chú ý, thỉnh thoảng thu lại một chút nộp lên tiểu đoàn rồi từ đó lại nộp lên trên, còn lính tráng thì không mấy thằng muốn tự giác. Lo thân mấy thằng cùng cảnh trước đã nên đồ ăn và đồ hút là tự xử lý luôn. Trung đoàn phải dùng biện pháp là sau những trận đánh cứ điểm, thường chỉ chậm nhất 2 ngày là chúng tôi bị báo động kiểm tra quân tư trang bất thình lình để đơn vị thu bớt các thứ lấy được.

   Không hiểu sao đêm ấy trôi qua yên lành trong căn cứ. Chúng tôi được ăn no, hút thuốc thơm (bên Lào khi đó chủ yếu là thuốc lá đầu lọc nhãn hiệu chữ A, gọi là "Gia tô A đeng" hoặc "Gia tô A khao") nhưng đồ uống lại không có. Đến mờ sáng mới chính thức có lệnh kiểm tra toàn bộ trận địa, thu vũ khí và chiến lợi phẩm rồi các đơn vị rút ra tập kết về một số địa điểm gần căn cứ, là những cánh rừng già. Có một điều chúng tôi rất nhớ là trong căn cứ có một kho gạo Thái cực ngon, đóng trong các bao dứa có trọng lượng 45 cân. Các đơn vị được lấy thoải mái. Tiểu đoàn còn cử cả một đội cùi gạo về hậu cứ cho trung đoàn. Mỗi tiểu đội chúng tôi hè nhau khiêng một bao. Gạo vẫn còn rất nhiều. Có cả một kho nước mắm nữa, đóng trong các chai độ một phần ba lít. Thế ra khẩu vị ăn của lính Thái cũng không khác ta bao nhiêu. Chúng tôi rời căn cứ, ai mang được bao nhiêu thì mang. Ba chiếc xe tăng bây giờ cũng mới rút lui ra theo đường cũ của K18. Bây giờ mới biết xe tăng lợi hại thật. Không lo mang nặng nên ngoài những thứ gì không biết, riêng khoản gạo mỗi chiếc xe tăng lấy tới 3 bao . Trong cảnh trước trận đánh khẩu phần ăn mỗi người một ngày có 3 lạng thì bây giờ với gạo nhiều như thế, tất cả thành tiên rồi còn gì. Đại đội chúng tôi rút về một khe suối có rừng già nằm cách căn cứ địch khoảng dăm trăm mét về phía Đông. Mệt mấy thì mệt nhưng lệnh trong ngày là phải đào xong mỗi tiểu đội một hầm chữ A. Trong căn cứ bây giờ chỉ còn một trung đội của C7. Chắc trung đoàn vẫn muốn chốt giữ căn cứ này.

   Yên vị rồi, bây giờ mới nghe thêm thông tin về trận đánh. Cấp trên đánh giá trung đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ, phối hợp tốt cùng xe tăng đánh chiếm nhanh gọn cứ điểm địch, xóa sổ một tiểu đoàn địch, bộ đội ta thương vong ít. Chẳng thấy nói gì về chuyện chiến thuật đánh trận này là hay hoặc dở, hay là theo bài bản nào. Trên chiến trường Nam Lào, cũng chỉ có duy nhất một trận đó trung đoàn tôi được đánh cùng tăng, sau đó cũng không có lần thứ hai để mà trải nghiệm, so sánh. Cũng không phải tất cả mọi sự đều mĩ mãn. Xe tăng có một chiếc khi rút ra chạy thế nào lại bị tụt xuống vệ con suối đất. Suối sâu, đất mềm nên nó cứ bị tụt dần xuống do quá nặng. Không thể kéo lên được. Thế là công binh phải đánh mìn phá hỏng cho nó yên nghỉ tại đó. Còn trong căn cứ tuy diệt hết địch nhưng không hiểu sao vào lúc nào và theo lối nào đó, vẫn có một bộ phận địch chạy thoát. Ngay cả một số tù binh ta bắt được nhưng do trong đêm chưa giải đi ngay, chúng nó cũng tìm cách cứu giúp nhau chuồn hết lúc nào không biết. Lạ một điều là K15 đón lõng sâu trong hướng ngã ba Lào Ngam không những không gặp địch ra ứng cứu đã đành, mà cũng chẳng chặn được thằng địch nào rút lui qua đó. Cứ như có ma vậy.

   Ngày đầu tiên rút ra khu tập kết, việc làm đầu tiên của chúng tôi là yêu cầu anh nuôi (đi theo B5) nấu gạo Thái cho trung đội ăn thật nhiều. Mà chẳng cứ gì B5 chúng tôi, chắc B nào cũng vậy, kể cả tiểu đoàn bộ. Thức ăn chỉ có nước mắm rưới. Thế mà ngon tuyệt, nhất là sau một thời gian dài ăn cơm nếp mà lại bị đói. Không còn nhớ mỗi thằng ăn bao nhiêu bát: năm, bảy hay có khi mười bát cũng nên. No lòi kèn. Ăn xong còn phải nghỉ mãi mới đi chặt gỗ làm hầm được. Thế mà đến tối vẫn xong hầm. Lại nấu cơm tuy không ăn được nhiều như lúc trưa, nhưng vẫn ngon.

   Hôm sau nghỉ ngơi tắm giặt và vẫn phải chờ lệnh mới. Địch nó cũng bỏ hẳn cái cứ điểm bị mất đi hay sao nên chúng cũng không tổ chức chiếm lại, cũng không bom pháo vào đó. Thật lạ, chẳng hiểu ra làm sao cả. Nhưng lạ thì lạ, chỉ khoảng cách chưa đến cây số nên các B lại tổ chức từng nhóm quay lại vào khu căn cứ lùng sục tiếp. Căn cứ rộng lớn, một B của C7 trụ trong đó đã "càn quét" các kiểu cả một ngày trời nhưng vẫn không xuể. Lính ta mò vào ngoài chuyện lấy thêm gạo còn lục lọi được ối thứ linh tinh. Giấy trắng và bút bi thì thoải mái, đủ quấn thuốc hút và viết thư cả năm (Thực ra lúc này chúng tôi chưa có mấy ai gửi được thư về nhà). Tôi lấy được một lô tất chân sợi pha nilon loại hảo hạng và thay luôn cái Xanh-tuya-rông loại thớ ngang. Cái Xanh-tuya phát từ ngoài Bắc của TQ thớ dọc nên khi đeo nặng nó cứ văn vẹo quăn như vỏ đỗ rất chán. Thế mới biết đồ của Mỹ tốt thật. Tôi cũng lấy một ít túi băng cá nhân có vỏ bọc không thấm nước và thay cái vỏ bi-đông vải bạt bằng một vỏ bi-đông bằng vải dù có lớp sợi mềm lót trong giữ ấm nước rất tốt. Thật ra thích thì lấy thôi chứ lính ta có bao giờ đun nước sôi đâu mà giữ nước ấm.

   Chúng tôi còn ở vị trí tập kết thêm 5 ngày nữa. Bây giờ chỉ ăn với nghỉ. Đã sốt ruột chuyện trở về căn cứ ở bản Xăm xi núc. Ngày 24/10/1972, chúng tôi nhận nhiệm vụ đột xuất mới. Trong tuần vừa qua, trong khi cả trung đoàn chúng tôi còn đang say sưa với chiến thắng Ba Lào Ngam thì địch đã kịp đổ xong 2 trung đoàn GM41 và GM42 từ trong Pắc xế nhảy cóc ra thị xã Saravan là vùng giải phóng của ta từ giữa năm 1970. Trung đoàn 39 của sư đoàn 968 vốn toàn lính thạo tiếng Lào gom từ các binh trạm Trường Sơn về làm công tác dân vận phía sau các E9B và E19 bị địch đánh cho chạy tan tác. Họ vốn chỉ gồm các đội công tác lẻ cỡ trung đội, trang bị gọn nhẹ ở lẫn trong dân và hướng dẫn quân sự cho các đơn vị Pathet như kiểu huấn luyện bộ đội địa phương nên không phải là đối thủ của lính Fumi cơ động. Nhưng tổn thất không bao nhiêu vì họ đã có trình độ luồn rừng ngang với thổ dân rồi nên đã tìm cách thoát thân. Thế là cả E9B từ Boloven và E19 từ Atopơ được lệnh hành quân gấp ra đánh địch. Saravan nằm sát liền nhánh Tây Trường Sơn của Đoàn 559 nên tuyến vận tải ở đây bị uy hiếp. Sư 968 chúng tôi vốn là sư bộ binh nằm trong biên chế của 559 có nhiệm vụ giữ sườn Tây Trường Sơn, vì thế phải quay ra đây đánh địch. Lệnh phải xuất quân càng nhanh càng tốt. Cả tiểu đoàn lo chuẩn bị, bỏ lại cái căn cứ Ba Lào Ngam vô chủ để lên đường. Chúng tôi đã bổ sung xong đạn dược. Gạo vẫn còn rất nhiều, lệnh trên phải mang mỗi người 7 cân, còn lại ai có sức mang thêm thì mang, không tính vào cơ số. Chúng tôi cố lèn nhau mỗi người mang mười cân với phương châm ăn thật no thêm mấy ngày đầu nữa, sau này có đói lại cũng hài lòng.

   Chiều tối ngày 25/10, cả đại đội 6 hành quân về bản Chăn Tua theo hướng Pắc soong cách đó ba chục cây số. Gạo thừa còn bỏ lại ở khu tập kết rất nhiều, chắc sau này những con sóc và mối rừng cũng ăn hết. Chúng tôi không tiện đường để ghé về qua khu hậu cứ Xăm-xi-núc và cũng rời xa nơi đã gắn bó chúng tôi suốt những tháng mùa mưa cùi cõng gạo đạn từ đó. Chiến trận đã cuốn chúng tôi đi. Những khu lán, những căn hầm không có người ở đó, rồi đây sẽ ẩm ướt, mốc thếch và hoang tàn dần theo thời gian. Con đường người lính đi qua nhiều khi một đi không trở lại. Những khu rừng đã sống, những hậu cứ đã ở rồi sẽ mờ dần trong trí nhớ theo thời gian và lùi xa dần qua năm tháng, chỉ còn đọng lại trong ký ức những người lính, để rồi một lúc nào đó lại lóe lên vào những khoảnh khắc hoài niệm mà thôi. Nó như một nỗi buồn, nỗi nhớ day dứt tâm can người lính nếu như còn có lúc phải gặm nhấm lại quá khứ của một thời  trai trẻ.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 20 Tháng Giêng, 2011, 08:02:09 am
…. Chiến trận đã cuốn chúng tôi đi. Những khu lán, những căn hầm không có người ở đó, rồi đây sẽ ẩm ướt, mốc thếch và hoang tàn dần theo thời gian. Con đường người lính đi qua nhiều khi một đi không trở lại. Những khu rừng đã sống, những hậu cứ đã ở rồi sẽ mờ dần trong trí nhớ theo thời gian và lùi xa dần qua năm tháng, chỉ còn đọng lại trong ký ức những người lính, để rồi một lúc nào đó lại lóe lên vào những khoảnh khắc hoài niệm mà thôi. Nó như một nỗi buồn, nỗi nhớ day dứt tâm can người lính nếu như còn có lúc phải gặm nhấm lại quá khứ của một thời  trai trẻ.


Trongc6 ơi. Quả vậy những năm tháng chiến tranh đã cuốn hút tuổi trẻ chúng ta đi, cái gì còn, cái gì mất với chúng ta cũng là lẽ tất yếu nhưng nó sẽ mãi mãi là Một thời để nhớ trong tâm hồn của những thằng lính chúng ta. Mọi sự như bạn nói có thể sẽ mờ dần trong ký ức nhưng đúng là nó sẽ lóe sáng trong khoảng khắc hoài niệm nhất là khi tuổi tác chúng ta mỗi lúc một già thêm, chính vì thế theo mình chúng ta phải trải lòng ra để nhẹ vơi đi và chia sẻ với nhau.

Tối qua nhóm chúng mình đến thắp hương cho anh Được (nhà ở ngõ Nam Ngư), người mà mình đã gửi gắm tình cảm trong bài Chuyện về những người anh         http://www.quansuvn.net/index.php/topic,17230.500.html  và http://www.quansuvn.net/index.php/topic,17230.510.html.

Anh hy sinh trước ngày ngừng bắn theo HD73 chưa đầy 10 ngày. Mấy thằng ngồi nhâm nhi chén rượu mà lòng nguôi ngoai nhớ tới bạn bè đã nằm lại trên đất QT gần 40 năm trước. Lúc ấy mới biết tin một lính trinh sát c20 của e101/f325 của mình được vào BCT, nhưng tin ấy với mình hình như không có nghĩa gì hết...  


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Mig-29 trong 23 Tháng Giêng, 2011, 03:35:38 pm
Mấy ngày hôm nay bác trọngc6 đâu mất rồi, tiếp đi bác, bọn em đang đói thông tin của bác  ::)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dream_kgb trong 24 Tháng Giêng, 2011, 12:35:31 am
Cháu thì cứ lâu lâu vào đọc cho đã , chứ ngày nào cũng hóng ... đọc khó chịu ạ. ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Giêng, 2011, 09:05:19 am
….

   "Hành quân, ta lại hành quân, núi sông nâng bước đôi chân ta lên đường".

   Cuộc đời lính tất nhiên phải như vậy, băn khoăn gì nữa. Chỉ trong non một ngày dừng chân tại bản Chăn Tua, chúng tôi phải chuẩn bị thêm tất cả những thứ có thể chuẩn bị để tiếp tục lên đường. Thằng Thái "Pitơ" và thằng Sưởng của C tôi trong thời gian mùa mưa được anh Choát trên tiểu đoàn bộ điều lên chuyên đi mua lợn cho tiểu đoàn, nay cũng được trở về đội hình đơn vị để cùng hành quân ra Saravan. Có còn ở hậu cứ nữa đâu mà đi mua lợn.

   Người dân bản Lào thản nhiên nhìn những đoàn quân lũ lượt đi qua. Dân Lào hầu như thờ ơ với chiến cuộc. Trừ những chuyện tai bay vạ gió, quân lính cả hai bên không ai động đến họ. Có thể nói không có nguồn thông tin về đối phương nào khai thác được từ người dân Lào. Bên nào không cần biết, muốn đánh nhau thì tự đi tìm nhau mà đánh. Mà tốt nhất là đánh nhau nhưng chỉ bắt sống nhau thôi chứ đừng có người chết. Người dân Lào rất không vui khi bộ đội ta nói là  đánh nhau ở chỗ này, chỗ kia và có nhiều người chết. Người Lào ít lắm (khi đó dân số Lào là 3 triệu) nên họ sợ chết nhiều thì dân tộc họ bị tuyệt chủng mất.

   Đi thêm một ngày nữa, bắt đầu sang địa phận Saravan thì chuyển sang  hành quân đêm. Đi tiếp hai ngày nữa, đại đội tôi đến một vùng gọi là bản Bạc. Đây là khu vực nằm ở phía Nam thị xã Saravan. Địa hình bằng phẳng. Các nương lúa đã gặt của dân nằm xen kẽ những cánh rừng, phổ biến là rừng Khôộc. Có một số là rừng cây thưa tầm thấp xen lẫn cây cổ thụ và có rất nhiều ụ mối. Những ụ mối to đường kính hàng ba bốn mét trên đó có cây con mọc. Cây không dày nên nếu chú ý thì tầm quan sát được khá xa. Nếu cứ lơ đễnh mà đi thì có khi vòng qua một ụ mối bất chợt mới phát hiện thấy có người ngồi sau đó, rất có thể là một họng súng của địch đang chờ ta.  Dạo ở Boloven theo làm liên lạc cho đại trưởng Băng, tôi được xem bản đồ nhiều, cộng thêm những lần đi trinh sát nên hiểu địa bàn khá rõ. Bây giờ đến nơi mới không có bản đồ, cũng không được ngồi chầu rìa xem ké nên nhiều thứ mù tịt. Trinh sát họ bảo thế nào thì biết thế. Với lại đi theo đội hình đại đội thì cứ bám các thủ trưởng là đủ rồi. Còn chúng tôi, có khi trinh sát tiểu đoàn họ dẫn đi rồi mấy hôm sau lại dẫn vòng ngược về theo lối khác, có khi đi vòng vèo hình đít thúng mà cũng không tường, nhất là ở địa hình bình nguyên như Saravan này.

   Trinh sát tiểu đoàn đã phát hiện và bắt đầu bám địch. Chúng tôi dừng lại.
   Ba ngày sau, ngày 31/10/1972, cả tiểu đoàn đã triển khai thành một hình cánh cung bao lấy khu vực có địch. Lấy vị trí các bản làm mốc thôi chứ địch không ở trong bản. Chúng đào hầm trong các cánh rừng gần bản, đóng quân theo từng đại đội. Chúng tôi cũng vậy. Lúc này C5 lập chốt ở khu bản Đông-noọng, còn C6 ở khu bản Tông-la-vi, cách nhau độ hơn cây số. C7 chủ công và C8 hỏa lực đứng chân phía sau. Lúc này súng đạn của chúng tôi hoàn toàn là lượng bổ sung từ sau trận Ba Lào Ngam, mang từ cao nguyên Boloven ra. C8 đi đường xa chắc cũng chỉ mang được theo ít đạn. Sau này trong các trận đánh ở Saravan, hậu cần D và E tiếp tế dần cho chúng tôi mọi thứ, nhưng hầu như sự chi viện hỏa lực của D rất ít. Hỏa lực trung đoàn lại càng không có, nhất là cối 120. Bọn DKB thì vô tác dụng rồi. Suốt chiến dịch Saravan kéo dài 3 tháng rưỡi, không thấy DKB bắn một phát nào. Cũng đúng thôi vì thời gian này tuy địch có 2 trung đoàn nhưng chúng xé lẻ và cơ động liên tục. Ta với địch tìm đánh nhau cứ như mèo vờn chuột.

   Thời gian đầu ở Saravan, thế trận hai bên gần như hình da báo. Các đơn vị cỡ đại đội của ta và của địch hành quân và đóng giữ xen kẽ nhau. Địa hình bằng phẳng nên cứ nhắm hướng đi là thành đường. Hầu như không bám theo đường xe bò như trên cao nguyên. Mà đơn vị có trụ lại một chỗ cũng không ở lâu. Chỉ vài ba ngày, sau đó phải di chuyển. Công tác bám địch của trinh sát rất khó. Nhiều khi đánh địch là do bản thân các C phát hiện rồi tổ chức đánh luôn. Có khi chúng tôi đến một nơi thì địch cũng chỉ vừa bỏ đi từ hôm trước. Có lúc quay lại nơi mình vừa đóng quân tuần trước thì cũng lại phát hiện địch nó cũng vừa trú tạm ở đó xong. Nhiều khi không có khái niệm phía trước, vì mình đang chốt đánh thằng trước mặt thì lại có đơn vị địch khác đi vòng ra phía sau mình hạ trại. Cứ như tiễu phỉ vậy. Thời gian ở Saravan, lắm lúc có cảm giác lạnh lưng hở sườn.

   Khi C5 ở khu bản Đông-noọng mấy ngày không có gì, đến khi chúng tôi vừa qua thế chân thì hôm sau đã có địch. Ngày 3/11/1972, một đám địch khá đông từ phía bản lùng sục lại phía B4 và B6 của C tôi đang chốt giữ. Chúng nó đi phăm phăm như ở nhà chúng nó. Thằng Lễ nghe tiếng động thò ra khỏi ụ mối nhìn thấy địch liền dã luôn một phát B40 tung xác 3 thằng. Địch nằm rạp xuống và bắn trả. Súng đã nổ rồi thì cả hai bên cùng say máu. Các hầm cá nhân ở Saravan đều là hầm không nắp vì không có cây gỗ để làm nên thực chất cũng chỉ là hố chiến đấu. Lính ta phải lợi dụng ụ mối nhiều. Thằng địch trơ ra trên mặt đất không công sự, song nó cũng lợi dụng rất tốt địa hình có nhiều ụ mối đế đánh lại chúng tôi. Đạn bắn thẳng ít có tác dụng so với hỏa lực B40, B41. Cối cá nhân lợi hại nhưng bắn không khéo toàn nổ trên tán cây. Di chuyển vị trí liên tục, chốt mà không giống chốt. Bắn nhau một hồi, bên địch không có thêm thằng chết. Bên ta có anh Nhị người Hà Tây bị thương vào trán không phải do địch mà là do thằng Số (Nam Hà) nằm ở ụ mối bên cạnh tương B40 sang. May mà B40 chỉ có vỏ mỏng, mảnh hắt lại chỉ là mảnh nhỏ nên chỉ cào rách trán, không nguy hiểm. Do máu chảy nhiều nên vẫn phải băng kín và đưa về phía sau, gọi là phẫu tiểu đoàn. Phẫu nhưng không có mổ xẻ gì, chỉ như là nơi nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Mà vớ vấn địch nó hành quân tạt qua thì cũng phải đánh nhau chí tử. Chỗ vững dạ nhất bây giờ là nằm trong đội hình đơn vị, súng ống đầy đủ, có anh có em.

   Hôm sau, địch lại lên, hai bên bắn nhau mà không có ai làm sao, chỉ tốn đạn. Hôm sau nữa tiểu đoàn chi viện cho ít cối 82 và điều C7 vòng ra phía sau địch thì chỉ mới lẹt đẹt vài loạt súng, bọn địch đã biến mất.

   Ngày 8/11, đại đội tổ chức lùng sục với sự hậu thuẫn của C7 lần mò được khắp quanh bản Đông-nọng, vào cả trong bản thì chẳng còn thấy địch đâu nữa. Trên một cánh rừng rộng chỉ còn dấu vết những hố chiến đấu, đếm qua thì cũng biết chừng địch có một đại đội. Sát ngay đó còn có một kho gạo nếp ước đến cả tấn. Bọn địch không mang theo được, nhưng chúng cũng tai quái đổ nước ướt sũng thành món gạo ngâm. Sau khi kiểm tra (tôi cũng chẳng biết kiểm tra bằng cách nào), tiểu đoàn lệnh cho các đại đội cử người khẩn trương đến lấy về để kịp nấu trước khi gạo hỏng. Lúc này gạo Thái mang ra từ căn cứ Ba Lào Ngam cũng đã hết nên chúng tôi nhiệt tình lắm. Anh nuôi đem đồ bằng hết. Ăn được đến đâu cố mà ăn, không có cũng hỏng. Thế là lại thêm một ngày ăn thả cửa nữa.

   Đợt đi lấy gạo ướt ấy tôi bị một trận lạc đường đầu tiên ở Saravan. Anh Thành dẫn tôi và một lính nữa trong B5 mang gùi đi lấy gạo cho trung đội và đại đội. Lúc đi đã là chiều rồi. Lấy gạo xong thì trời sẩm tối. Tất cả hăm hở ra về, chắc mẩm đêm nay có bữa xôi no. Anh Thành cầm đầu, nhưng chúng tôi đi chẳng được bao lâu thì trời tối không nhìn thấy gì nữa. Đường đi chỉ là vệt đạp mờ trong rừng nên trong đêm đen chẳng thấy gì. Rừng lại thưa nên đi theo hướng nào chả được. Chẳng mấy chốc đã mất phương hướng. Mà cũng có biết hướng Đông Tây Nam Bắc nào đâu mà dò đường, nhất là không còn địa bàn (Cái địa bàn của tôi đã kỷ niệm cho thằng Lộc đồng hương trên C16 của trung đoàn từ lâu rồi). Thế là cứ đi mãi mà chẳng thấy đường. Người ta nói đi trong rừng mà không có địa bàn và xác định vật chuẩn thì thế nào rồi cũng đi thành hình vòng tròn. Quả là thế thật vì chúng tôi đi mãi, có lẽ phải bằng hai lần về đến nhà rồi ấy chứ, thế mà trước mặt vẫn mịt mùng. Càng ngày càng mệt và thấm đói. Gạo ướt không lấy nhai được nên đành ôm bụng. Sau cùng mệt quá và vô vọng nên anh Thành tìm một gốc cây to cho cả bọn ngồi nghỉ. Chúng tôi quyết định ngồi ngủ qua đêm bên mấy cái gùi gạo ướt. Chỉ còn bình tông nước uống dần, õng cả dạ dầy để chống đói.

   Mờ sáng hôm sau, khi vừa nhìn rõ đường là anh Thành bốc cả bọn dậy. Lần mò tìm đường thì ối giời ơi, cái lối mòn về đơn vị chỉ nằm cách chỗ chúng tôi ngồi nghỉ đêm qua có dăm mét. Não hết cả người. Về đến đơn vị bị mắng luôn. Từ B trưởng Quân cho đến anh nuôi cũng lên tiếng mắng. "Chúng mày chết dẫm ở đâu để cả đơn vị cùng chịu đói chờ gạo chúng mày suốt cả đêm". Nhưng rồi cũng hòa cả làng vì chính chúng tôi cũng bị đói cơ mà. Hơn nửa tiếng sau có cơm, tất cả lại lao vào ăn như những thằng chết đói. Gạo ướt để không được lâu nên sau đó anh nuôi đem  thổi tất. Chia cho mỗi thằng một đùm còn ăn được trong hai ngày. Sau đó thì gạo của hậu cần cũng cấp xuống. Vẫn chỉ là gạo nếp đem từ trong cao nguyên ra, nhưng được ăn tăng lên tiêu chuẩn 4 lạng một ngày.

   Ngày 13/11 C6 chúng tôi hành quân sang vùng khác đến phía Nam bản Na Thon cách đó vài cây số và chếch sang phía Tây thị xã Saravan. Vẫn đánh nhau đèn cù mà. Khu vực này rừng thấp và thưa hơn vùng bản Đông nọng. Có nhiều khe suối cạn vòng vèo có rất nhiều tre gai mọc. Từ hôm ra Saravan, chúng tôi không làm được hầm chữ A vì không có gỗ. Khu vực này có tre nên đại đội bắt làm hầm chữ A. Đất ở đây rất cứng, không đào sâu được nên cuối cùng hầm chữ A cũng chỉ chìm được hơn nửa xuống đất, còn lại lộ thiên. Ở đây không có bao cát nên đất đắp cũng chả được bao nhiêu. Đào hầm cho có là chính. Các cán bộ từ A trở lên được tổ chức đi kiểm tra thực địa một vòng rộng quanh nơi trú quân. Đây cũng là một thủ thuật khi trú quân trên địa hình bình nguyên xa lạ, vì nó sẽ giúp mình nhận ra địa hình quen thuộc khi đi từ nơi khác về mà không thể đạp đường trúng ngay được vị trí trú quân nhỏ hẹp.

   Các trung đội cũng cử các tiểu đội lùng sục ra các hướng thăm dò tình hình. Ban đêm ở đây phải tố chức mỗi B một vọng gác nghiêm chỉnh. Địa hình thế này thì khi phát hiện ra nhau, ban đêm ta tổ chức tập kích địch dễ thì địch cũng có thể tập kích lại quân ta ngon lành.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 30 Tháng Giêng, 2011, 08:15:40 am
….
   Liền mấy ngày, chúng tôi được cắt cử đi lùng sục địch ra các hướng. Cũng chỉ làm một vòng tròn đường kính độ hai cây số là quay về đơn vị. Thế cũng là xa lắm rồi. Vớ vẩn gặp địch có khi không kịp chạy về. Không phải đi lùng sục theo từng A mà cứ ghép nhau lại lẫn lộn các A trong B. Lúc này tôi đã chuyển sang A khác cùng trung đội, không ở với anh Trịnh nữa. Anh Quán A trưởng mới của tôi cũng dân Hà Tây, hồi ở nhà là giáo viên cấp I, đã có vợ và 1 con. Anh ấy có cái động tác hút thuốc, dù là thuốc rê cũng ngậm vểnh cao điếu thuốc lên, trông điệu đà lắm. Trước khi tôi vào đơn vị, anh Quán cũng có thâm niên làm liên lạc cho đại đội được nửa năm. Anh ấy xuống bộ binh là do tuổi anh ấy ngang bằng các cán bộ đại đội nên khó xưng hô và sai bảo vặt. Đánh nhau cũng lỳ, nhưng theo tôi không dày dạn bằng anh Trịnh.

   Một hôm tôi được đi lùng sục với A thằng Lễ (Nam Hà). Thằng này xông xáo và hùng hục có tiếng trong đại đội. Đi với nó cứ hùng hục như trâu húc mả, ngại ghê lắm nhưng bị phân công thế thì phải đi, chối làm sao được. Đi ra khỏi cái suối có mấy bụi tre gai dầy, thằng Lễ dẫn chúng tôi đâm thẳng ra một cái trảng trống. Đi trong rừng khôộc cây cối đã thưa thớt, phải nép vào và men theo từng thân cây mà đi, căng mắt quan sát vì cái tán cây nó thưa lắm, không đủ để ngụy trang, nhất là với máy bay. Ra ngoài bãi trống lại thấy mình càng tơ hơ luôn. Bãi đất dưới chân ngoài các mô đá nhỏ là các cây cỏ cứng như rễ tre mọc lòa xòa trên lớp cát mỏng. Lá cỏ mà tròn như các cọng phi lao, không biết trâu bò có ăn được không. Để những cọng cỏ này đâm vào chân thấy ngưa ngứa. Đôi khi lớp da chỗ đó còn bị nổ bong ra như những nốt rộp trên cái bánh đa nướng. Thằng Lễ dẫn chúng tôi đi hướng này cũng có ý của nó. Đêm trước ở khu vực này có máy bay AC130 đến bắn pháo sáng. Loại pháo sáng to dài như thân chuối, lúc bật sáng nghe nổ "ục" một cái rồi mới phát sáng chói lòa. Mỗi ống pháo sáng cháy đến vài phút. Chúng nó cứ thả gối nhau 3 ống theo một hình tam giác trên một vùng rộng, soi sáng rực mặt đất. Cái dù treo pháo sáng bay lơ lửng, ống pháo sáng lắc lư nên ánh sáng rọi xuống đất cứ chao đảo, chập chờn. Khi cháy hết thì cái vỏ ống pháo sáng tụt ra rơi tự do xuống đất, còn cái dù bay quẩn thêm rồi rơi hay mắc vào đâu đó. Ống pháo sáng nếu ở hậu cứ dùng được vào khối việc, kể cả làm các đồ dùng như chậu, ca, bát … Dù pháo sáng loại này khá to nhưng mỏng, dễ bị bai nhưng dùng vào những việc vớ vẩn như bọc gói gì đó thì cũng tốt. Vải dù tốt nhất phải là dù lụa thả người. Nó mỏng, bền và trơn như tấm vải lụa vậy, nhưng có pha nilon nên rất dai. Trong căn cứ Lào Ngam chúng tôi tìm thấy rất nhiều dù lụa. Không hiểu sao bọn lính Thái hành quân ra đó bằng đường bộ, có nhảy dù gì đâu mà cũng lắm dù thế. Mỗi mảnh dù tháo ra vuông vức vừa khổ một chiếc võng. Bây giờ hầu như trong tiểu đoàn ai cũng có một vài mảnh, vo lại mảnh vải dù chỉ gọn trong bàn tay. Mảnh thì đem khâu thành võng, nằm tốt lắm, còn vài mảnh khác chỉ cần nhét gọn trong túi cóc là vừa, sau này dùng gì thì dùng. Tuy vậy đại đội không cho vứt võng vải. "Chúng mày chết thì lấy gì mà quấn". Đại trưởng Băng mắng lính thế, nghe ghê hết cả người. Thực tế sau này có phải võng ai quấn người ấy đâu vì rất nhiều lính không còn võng. Người đi trước thì cứ lấy võng của ai đó mà dùng trước, còn lại xét sau. Đã thành qui ước thế trong đơn vị rồi mà.

   Chả biết thằng Lễ còn say sưa gì mấy cái dù pháo sáng, nhưng nó bảo "ra chỗ địch thả pháo sáng khi đêm xem như thế nào" rồi cứ phăm phăm dẫn anh em theo hướng đó thì phải lao theo mà đi thôi. Tôi là lính "cũ" hơn nó hai tháng, nhưng là "tốt đen" nên phải tuân lệnh. Nhưng tôi cũng cảnh báo nó phải thận trọng vì vùng địch nó đã bắn pháo sáng cầm canh ban đêm tức là vùng đó có địch đóng quân. Bọn trên trời bắn pháo sáng là để cảnh giới canh chừng giúp bọn dưới đất chứ đâu phải bắn bừa cho vui. Rất may là chúng tôi lần qua mấy cái bãi trống, lấy được 2 cái dù pháo sáng mà không gặp địch. Thằng Lễ thân mật cho tôi một cái bảo mang về lót hầm nằm rất tốt, nhưng tôi không lấy. Hành quân di chuyển liên tục, nhẹ chừng nào hay chừng đó, ôm thêm cái dù làm quái gì. Sang mùa khô rồi tôi cũng không thích nằm võng. Cứ chọn chỗ đất không gồ ghề, vơ tẹo lá lại, rải tấm nilon lên là nằm co lại mà ngủ ngon lành, giống như hồi nằm ở mấy cái hầm thùng trên các binh trạm Trường Sơn. Hơn nữa nằm võng trên cao khả năng ăn đạn lạc hay trúng đạn khi bị tập kích cũng cao hơn.

   Chủ quan nên tất phải chịu hậu quả. Lúc đi an toàn nên lúc quay về cả bọn nghênh ngang đi thành hàng trên bãi trống. Bất ngờ khi về đến gần chỗ trú quân chừng dăm trăm mét thì bị trực thăng nó đuổi. Chả biết nó từ đâu bay ra nữa. Đây là lần đầu tiên ở Saravan chúng tôi gặp trực thăng. Loại máy bay có 2 càng, nhỏ chỉ chở vài người, cửa trống hoác nhưng ác là có một thằng bắn súng máy thò ra qua cái cửa đó. Theo như ảnh chiến trường miền Nam chúng tôi đã xem thì nó là HU-1A. Thằng này cơ động nhanh thế không biết, nó xà đến mình gây cảm giác hệt như lũ gà con xa mẹ trên bãi cỏ bị diều hâu bổ nhào. "Tản ra, nấp vào các gốc cây". Thằng Lễ quát to rồi cắm đầu chạy bổ về phía trước. Tản ra thì đúng rồi nhưng nấp cái con khỉ gì vào đâu bây giờ. Khi còn ở trong Boloven đôi khi chúng tôi đi đêm ra tuyến trước cũng bị AC130 nó bắn đạn 20 ly ngẫu nhiên xuống rừng. Vệt đạn đỏ lừ, mỗi thằng phải ôm một gốc cây to như cây Săng lẻ rồi nhìn hướng máy bay mà xoay quanh đó tránh đạn. Bây giờ giữa nơi như đồng không mông quạnh thế này, bám vào mấy các gốc cây khôộc chỉ to như bắp đùi thì nước non gì. Thế là cả bọn chạy tóe ra các hướng, may hơn khôn. Đạn đại liên trên máy bay nổ chói tai, bắn xuống cầy tung thành vệt trên mặt đất. May là cái máy bay bắn trượt thì nó lao lên quá đà, cần phải quay lại nên cũng mất chút thời gian. Tiếng súng và tiếng máy bay càng kích thích chúng tôi chạy nhanh hơn, thằng nào thằng nấy phi như ngựa nhưng đều nhằm hướng bờ suối cạn lao tới. Bên bờ suối cạn chỗ này có mấy bụi tre gai rất to và dầy. Nấp được sau đó rồi thì đạn đại liên cũng chưa chắc lọt qua. Năm thằng ngồi lăn ra đất, mồm mũi tranh nhau thở. Sau đó chúng tôi lợi dụng bụi tre xoay tròn quanh đó tránh đạn. Để an toàn, chúng tôi phân tán chia ra xoay quanh mấy bụi tre. Chỉ có mỗi chiếc trực thăng thì cóc làm gì được chúng tôi, bắn hết đạn thì chắc nó sẽ phải quay về. Thằng Lễ còn lấy lại khí thế bằng cách khi cái máy bay không bắn vào cái bụi tre nó trốn thì nó nghiêng người thò AK ra xổ mấy loạt về phía cái máy bay. Chiếc trực thăng mà trúng đạn thì chắc thằng Lễ lập công to, đoạt danh hiệu dũng sĩ bắn máy bay đầu tiên trong chiến dịch.

   Chiếc trực thăng không trúng đạn nhưng chắc cũng cay cú nên nó gọi thêm đồng bọn. Tiếng cánh quạt phành phạch bổ sung cho tiếng động trên bầu trời khi xuất hiện thêm một chiếc trực thăng nữa, cũng chẳng biết đến từ hướng nào. Bây giờ lại đến lượt chúng tôi gặp nguy tiếp khi hai chiếc trực thăng bay đối diện nhau quanh chỗ mấy thằng chúng tôi và bắn xối xả đạn xuống. Chúng nó xả từng loạt dài, cứ như nguồn đạn vô tận vậy. Phen này chắc toi rồi. Tôi rời bụi tre phi thẳng xuống lòng suối cạn, bờ cao tới ngực, mặc cho cành tre gai cào vào người. Thực ra sau này xem lại mới thấy xót xa với những vết gai cào trên ngực, cánh tay và đùi chứ lúc đó không cảm thấy gì hết. Những thằng khác cũng theo tôi lao xuống suối. Thằng Lễ luống cuống thế nào đó lại chui sâu vào một bụi tre gai. Chắc nó mắc trong đó làm mồi ngon rồi, khi hai chiếc trực thăng cùng nhìn rõ nó. Đạn bắn tung các cành tre gai, nhưng không trúng nó, số thằng Lễ vẫn cao thật. Bất ngờ tôi nhìn thấy thắng Lễ rướn người rồi "soạt" một tiếng chui thẳng qua bụi tre gai lao xuống suối, hệt như người chui qua tường trong phim thần thoại. Không thể tưởng tượng nổi. Lập tức sau đó cả bọn chúng tôi lom khom chạy dọc theo suối, cứ chạy bừa thôi. May mà chạy được chừng vài chục mét thì gặp được một cái hàm ếch khá và sâu rộng ngay cạnh lòng suối, chắc  váo mùa nước đây là chỗ dòng chảy đổi hướng của con suối. Tất cả chui tọt vào đó nằm im. Bây giờ chỉ còn có cầu trời khấn phật. Chắc trời đất còn thương nên hai chiếc trực thăng không kịp nhìn rõ chỗ chúng tôi nấp. Bất chợt bị mất mục tiêu, chúng nó cứ bay dọc theo suối bắn bừa vào lòng suối và bắn nát các bụi tre gai hai bên bờ. Chúng tôi cứ nằm im vì bây giờ chẳng có nơi nào tốt hơn nơi này. Chừng hai chục phút sau, chắc hết đạn hoặc giả không thấy động tĩnh gì, hai chiếc trực thăng bỏ đi.

   Đợi cho không gian yên ắng thêm một lúc rất lâu nữa, chúng tôi chui ra khỏi hàm ếch. Không ai bị thương vì đạn nhưng sau phen kinh hoàng, thằng nào người ngợm cũng xây xước, áo quần tơi tả. Mệt bã người. Thằng Lễ bị nặng nhất với vệt gai to cào giữa mặt, vẫn còn rỉ máu. Chúng tôi phải lần theo suối tìm những cây nhỏ còn sót lá, bứt ra nhai và rịt đỡ cho nó. Thế mà chỉ một lúc sau nó lại hơ hơ cười. Gai cào đối với nó thường xuyên hơn so với chúng tôi, cũng may da nó lành. Cả bọn lên đường lò dò về nơi đơn vị tập kết. Cả đơn vị đều lo lắng khi thấy trực thăng đến quần cách vị trí trú quân có dăm trăm mét, đạn nổ ầm ầm gần nửa giờ đồng hồ. Thấy chúng tôi trở về an toàn, ai cũng mừng. Tuy thế khi báo cáo lại đầy đủ tình hình, thằng Lễ cũng bị xạc cho một trận về tội chủ quan. Khi nghe tôi kể về đoạn thằng Lễ suýt bắn rơi máy bay trực thăng, anh Thắng hỏa lực cối 60 bảo, "mày trông cái máy bay trực thăng to thế thôi chứ nó còn cách xa lắm, AK bắn tới thế quái nào được". Có nhẽ thế thật. Còn anh Bớt A trưởng thì bảo chúng tôi phúc còn to bằng cái đình làng. Nếu như ở miền Nam bị trực thăng nó quây thì xong rồi. Nhẹ thì nó bắn rockét nếu như phát hiện mình ở chỗ suối sát bìa rừng, còn quân mình mà đang chấp chới trên đồi cỏ tranh trống trải thì khả năng bị bắt sống là chủ yếu. Nó sẽ bay sà xuống gọi hàng, không chịu hàng thì cái thằng đứng ở cửa máy bay sẽ thò ra một quả cối 61 thả xuống, có nằm trong hầm cũng như bị thả đáo lỗ, xơi trọn quả cối là cái chắc. Nghĩ mà hú vía.

   Đêm đó, đại đội tôi phải di chuyển đến nơi mới cách xa hơn cây số hạ trại. Phần cho nó an toàn, phần phải chuẩn bị cho nhiệm vụ mới ở một cái bản cách đó dăm cây số.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: quaham trong 30 Tháng Giêng, 2011, 09:21:01 pm
Bác nhập ngũ năm 1972 à, huấn luyện ở đau thế. mình cũng là lính năm 1972, huấn luyện ở d62 bộ TL TD tại hòa bình, chưa biết chừng có khi anh em mình đã gặp nhau ở Quảng trị rồi cũng nên đấy nhỉ. Kể ra có dịp gặp mặt nhau cũng hay đấy chứ


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 31 Tháng Giêng, 2011, 03:24:37 pm
   Bác Trong c6 đánh nhau bên chiến trường Lào, không tham gia Quảng Trị 72. Vì thế bác í mới nói may mà không phải vào cái cối xay thịt đó


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Hai, 2011, 02:19:55 pm
….
   Lúc này tất cả các đại đội trong K18 đều đang phân chia theo khu vực và tác chiến độc lập. Các tiểu đoàn khác cũng thế thôi. Thằng địch có 2 trung đoàn nhưng không hiểu mấy cái sở chỉ huy nằm ở đâu. Cũng phải có một bọn nào co cụm chứ. Thế nhưng thực tế cho thấy là chúng tôi và địch cứ quần nhau theo từng đơn vị nhỏ chứ không phải chúng đóng thành căn cứ lớn. Hơn nữa bọn địch ra đây chạy loăng quăng mới làm cho các thủ trưởng trên 559 lo đường dây bị càn phá chứ chúng nằm một chỗ thì chắc cũng chẳng nghĩ nhiều làm gì.

   Nhảy cóc ra Saravan, địch thiếu hẳn thế mạnh về pháo. Tuy có hành quân đường bộ là chủ yếu, chúng nó vẫn không đem theo được pháo lớn, mạnh nhất vẫn chỉ có cối 81 vác vai giống như hỏa lực tiểu đoàn của chúng tôi thôi, mà sức người thì lại có hạn. Bù lại, địch có máy bay ném bom T28 và trực thăng ra trợ giúp. Hiện tại quân ta vẫn chưa có súng phòng không nên bầu trời vẫn là của địch. Sau khi E9B và E19 ra Saravan thì thằng địch mất tiếp tế đường bộ. Nhiều đêm chúng tổ chức thả dù hàng tiếp tế, nhưng nhận hàng xong thì di chuyển luôn, giống như các đội du kích vùng địch hậu trong thế chiến thứ hai ở Liên xô vậy. Nhiều khi trinh sát, thậm chí là các đơn vị bộ binh chúng tôi mò đến thì chỉ còn thấy những chiếc dù hàng vải ca-rô xám vứt bừa trên mặt đất mà thôi. Mỗi cái dù căng ra to như một nóc nhà, khá nặng nên lính ta chẳng màng.

   Ngay sau hôm bị trực thăng bắn đuổi, chúng tôi đến nơi mới và B4 ra chốt ở khu rừng của bản Phôn Phai cách đó 2 cây số. Ổn định xong chỗ ở một ngày, hôm sau B5 chúng tôi kết hợp lùng sục và tiếp tế một số thứ, đem cơm cho B4. Đường không xa nhưng ngoằn nghoèo, vẫn toàn rừng khôộc và có cả một con suối đất có ít nước tù. Tôi thấy rất ngán loại rừng này vì rất dễ lẫn phương hướng. Trên đường đi, chúng tôi chỉ có cách nhìn các ụ mối làm chuẩn, nhưng các ụ mối cũng rất giống nhau. Tất nhiên nếu có bản đồ và địa bàn thì ngon lành rồi.

   Buổi chiều B5 chúng tôi từ chốt trở về nơi tập kết của đại đội. Trên đường về, anh Quân phát hiện thấy địch. Độ khoảng hai chục thằng đang hành quân vắt chéo qua. Chúng đi thấp thoáng phía trước cách chúng tôi chừng hai trăm mét. Chúng nó không nhìn thấy chúng tôi. Bây giờ đuổi theo thì không kịp vì chúng đi khá nhanh, mà chắc gì khi đuổi kịp đã có thế bất ngờ để đánh chúng nó trước. Vì chỗ này nằm sau lưng chốt B4 nên anh Quân quyết định báo cho B4 biết để không bị bất ngờ. Thế là A trưởng Quán, tôi và anh Thành phải quay lại B4 báo tin, còn mọi người về nhà trước. Chúng tôi quay lại báo tin, còn chờ B trưởng B4 là anh Chèo hỏi lại căn kẽ, tổ chức lại đội hình chán chê rồi mới cho chúng tôi về. Lúc này thì trời đã sập tối. Trời tối ngoài bình nguyên không đen kịt mà cứ trắng nhờ nhờ. Thú thực lúc này tôi chỉ mong anh Chèo cho ở lại cùng B anh ấy cho tăng thêm người, dù có phải đánh nhau cũng hơn đi đêm về cùng anh Thành. Tôi đã ngán cái vụ lạc đêm hôm đi lấy gạo ướt chỉ mới cách đây độ hơn tuần cùng anh ấy. Dân Sơn tây "ba vi co con bo vang" nói líu ríu toàn chữ không dấu, lúc nào cũng tỏ ra thành thạo mà thực chất cũng mít đặc rất nhiều thứ. A trưởng Quán thì quá hiền, lại chưa từng chứng tỏ khả năng lần nào nên cũng chẳng làm tôi tín nhiệm được bao nhiêu. Mình non nhất, tay không nên cũng chẳng thể làm gì, đành im lặng đi theo.

   Cả bọn rời khỏi chốt B4 hối hả lên đường. Đoạn đường hai cây số nếu đi thông thì chỉ độ nửa tiếng là chúng tôi về đến chỗ trú quân, có thể chén cơm rồi ai về hầm nấy được rồi. Tôi chỉ mong có thế nhưng thật là ghét của nào trời trao của đấy. Về được đến chỗ lúc chiều gặp địch thì anh Quán cho đi chậm lại và cẩn thận quan sát. Ban đêm nhỡ lao vào chỗ địch đóng quân thì hết đường chạy. Cứ một đoạn cả bọn lại nằm xuống sát đất rồi ngẩng cổ lên để quan sát. Nơi trống trải thì đúng là thằng ở thấp quan sát thằng đứng cao rất rõ nhất là nếu nó di chuyển. Nhưng lúc này chắc địch nó cũng ngồi im nên chúng tôi phải nằm quan sát khá lâu cho chắc chắn an toàn mới đi tiếp. Đứng lên ngồi xuống, quay phải quay trái độ mươi lần như thế thì mất phương hướng. Chẳng còn chắc chắn cái gì nữa, nhưng chúng tôi cứ đi theo cái hướng mà anh Thành khăng khăng là đúng. Chúng tôi gặp một con suối đất. May quá rồi vì lúc đi cũng có cái suối đất. Nhưng vì cái suối uốn cong nhiều chỗ nên chúng tôi không thế cứ đi theo nó, với lại biết nó dẫn đến đâu, mình còn phải nhằm hướng của mình chứ. Thế là lúc bám suối, lúc rời ra đi theo hướng mà mình cho là đúng. Hai cây số mà chúng tôi đi rã cả người mà vẫn chưa về đến nhà. Thế rồi tôi phát hiện thấy một cái cây đổ trông quen quen mà cả bọn hình như đã đi qua thì phải. "Thôi chết, đi vòng tròn rồi các anh ơi". "Tròn là tròn thế nào, cấy khô đổ thì cây đếch nào mà chả giống cây nào". Anh Thành quát thế nên tôi đành im. Phăm phăm đi tiếp mãi, tôi lại nhận ra cái cây quen quen ấy và lại phải kêu lên. Lần này anh Quán ngờ ngợ nhưng anh Thành vẫn bảo thủ. Tôi đành tìm quanh kiếm một hòn đất to và một cái cành khô gác lên một đầu cây khô để làm dấu rồi tất cả lại hùng hục đi tiếp. Đi mãi rồi lại gặp cái cây khô ấy. Bây giờ thì không thể cãi nhau là nhầm hay không vì cái vết đánh dấu còn sờ sờ ra. Anh Thành cứng họng đành im. Thế là chúng tôi đã bốn lần vòng tròn đi qua cùng một chỗ ấy. Bây giờ thì mệt và nản quá rồi, anh Quán đành cho cả bọn kiếm một cái ụ mối to rồi nép vào đó vừa nghỉ vừa ngủ qua đêm. Sáng hôm sau nghe có tiếng chân và tiếng lao xao. Nhìn ra thấy 3 thằng trinh sát tiểu đoàn đi cách đó chừng chục mét. Cuống cả lên gọi ý ới rồi xin nhập bọn để về cùng. Cái chỗ chúng tôi nghỉ đêm cũng chỉ cách đơn vị dăm sáu trăm mét thôi chứ nhiều nhặn gì đâu, thế mới cú. Vậy là từ khi ra Saravan đến nay chưa đầy một tháng mà tôi đã bị lạc hai lần, mỗi lần mất toi một đêm rồi. Không biết còn mấy lần lạc nữa đây. Thế là lòng nhủ lòng từ nay đi lẻ phải tránh xa anh Thành và cố gắng tốt nhất là không bị cử đi lẻ nữa.

   Ăn vội được suất cơm để từ tối hôm trước và thêm suất cơm sáng nữa, anh Quân cho mấy thằng chúng tôi tranh thủ nghỉ. Có tin chiều nay cả đại đội sẽ tập kết ra chốt B4 đánh địch dã ngoại. Trinh sát tiểu đoàn đã bám địch, phát hiện chúng có một đại đội và C6 được lệnh đánh cho chúng một trận. Thế là sau mấy tiếng nghỉ ngơi, chúng tôi lại chuẩn bị súng đạn cá nhân. Tất cả sẽ ăn cơm trưa, nhận cơm đùm một ngày rồi lên đường. Anh nuôi sẽ mang cơm cho B4.

   Mọi chuyện chuẩn bị súng đạn cá nhân không có vấn đề gì. Tôi vẫn giữ AK với cơ số đạn 250 viên. Ra Saravan không mang thủ pháo mà mỗi lính phải đeo hai quả lựu đạn. Trận tới sẽ đánh vận động nên tôi buộc chéo hai băng đạn ngược chiều nhau để thao tác cho nhanh. Lúc này chúng tôi vẫn có thói quen đeo bao đạn (loại 1 băng) ở Xanh-tuya-rông, không có bao-xe. Lúc ấy tôi chưa biết, nhưng về sau thấy nếu có bao-xe thì sẽ có rất nhiều trường hợp lính ta tránh được thương vong không đáng có. Anh Quán A trưởng cũng mang AK, còn anh Thành mang M79. Trong trung đội chỉ có anh Trịnh là A trưởng mà thích cầm B40 thôi. Lúc trưa xuống bếp lấy cơm cho tiểu đội, tôi thấy nhiều người cãi cọ ầm ĩ về cơm nước. Hóa ra anh nuôi nấu cơm bị khê. Đổ ra cả một soong 20 cơm mà bị khê nên không ai muốn nhận. Lính tráng thì bảo anh nuôi vô trách nhiệm, làm thế này bằng giết anh em, ai còn dám đi đánh nhau. Anh nuôi thì bảo nó khê là nó khê chứ chúng tao nấu có phải chỉ có một nồi đâu, không ăn thì thôi. Tất nhiên gạo có hạn, không thể nấu nồi khác, giờ nếu sợ chỉ có cách chia nhau mấy nồi cơm chín, ăn ít đi vậy. Đấy là CTV nói thế chứ anh nuôi họ cũng không chịu trách nhiệm. Chuyện này về sau nói về số phận con người còn nặng nề nữa chứ chưa phải đã hết. Thế nhưng ở đâu thì cũng có những con người quả cảm. Anh Bớt là đảng viên phải gương mẫu nên bảo "sống chết có số, sợ đếch gì", còn anh Quán là đối tượng Đảng sắp kết nạp nên cũng cần phải gương mẫu. Thế là hai A trưởng ấy bê cả cục cơm to không thằng nào dám lấy ấy về cho tiểu đội mình. Tôi cũng phải nhận một cục to bọc vào miếng vải dù. Riêng phần cơm trưa hôm ấy thì tôi chưa dám ăn. Anh Trịnh thương tôi cho tôi ăn ké suất cơm trưa không bị khê của anh ấy. Còn một bọc cơm khê, tôi mang đi nhưng tự nhủ chưa ăn nên cũng chỉ thấy sợ ít thôi.

   Hơn hai giờ chiều cả đại đội lên đường, nhằm hướng rừng bản Phôn Phai nơi B4 đang chốt. Hôm nay là ngày 18/11/1972, đúng một tháng sau ngày trung đoàn đánh căn cứ Ba Lào Ngam.

   Đi cả đội hình, đúng đường nên chẳng mấy chốc đã tới nơi. Các cán bộ đại đội và trung đội trao đổi kế hoạch tác chiến. Theo trinh sát D thì cả một đại đội địch chỉ nằm cách B4 có hơn ba trăm mét thôi. Rừng thưa nhưng lắm ụ mối nên có nhìn cũng chẳng thấy gì phía xa. Chúng tôi sẽ chia thành hai cánh vận động theo hai gọng kìm bao lấy bọn địch. Chúng nó cũng chỉ có hố chiến đấu tơ hơ trên mặt đất thôi. Chúng tôi sẽ lợi dụng ụ mối bám sát, dập B40, B41 vào chỗ có địch rồi vận động lợi dụng ụ mối tiếp cận và tiêu diệt dần bọn địch. Nghe ngon lành thật đấy.

   Chừng 4 giờ chiều chúng tôi bắt đầu xuất kích. B5 và B6 chia làm 2 cánh phía trước còn B4 vận động phía sau. Đoạn trăm mét đầu tiên không có vấn đề gì. Chúng tôi vận động kiểu vọt tiến bám nhau lần từ ụ mối này sang ụ mối khác tiến về hướng địch. Trăm mét thứ hai thận trọng và chậm hơn nhưng cũng rút dần được khoảng cách với địch. Trăm mét thứ ba áp sát địch thì có vấn đề. Thằng địch cũng có cảnh giới cẩn thận nên đã phát hiện thấy quân ta và ra tay trước. Thoạt đầu là mấy quả M72 của địch bắn tới nổ chói tai trên ụ mối. Liền sau đó là M79 "cốc, oành" liên tục.  Chưa có tiếng đạn AR15. Tất cả chúng tôi bây giờ chia thành từng tốp bám vào các ụ mối để tránh đạn. Những cây khôộc nơi đây chỉ to cỡ bắp đùi không đủ để che chắn thân người. Thằng lính nào lỡ nằm nấp sau gốc cây chỉ một lát sau là phải nhắm ụ mối chạy tới. Chúng tôi nhìn ra nhưng quả tình cũng không trông rõ địch vì chúng cũng có ụ mối che chắn. Quân ta đành bắn bừa B40, B41 vào cạnh các ụ mối phía trước rồi lại dùng động tác vọt tiến xông lên, thay đổi vị trí liên tục. Cối M79 cũng bắn đại lên phía trước. Vượt thêm được vài ụ mối thì đạn thẳng của địch bắt đầu nổ ran. Toàn tiếng AR15 "rèn rẹt" và có cả tiếng cacbin "cắc bụp". Thằng địch không có trung liên bar. Phía ta xung kích cũng chỉ có AK, không có RPD hay đại liên. Vũ khí hai bên thế là tương ứng, hòa. Bây giờ chúng tôi cũng đã phải bắn AK nhưng chỉ lúc vọt tiến vượt ra chỗ trống mới phải vừa vận động vừa bắn để chế áp địch, chứ lúc tọt vào sau ụ mối thì cũng không nhìn rõ địch. Nghe tiếng súng bắn ra từ đâu thì địch ở nơi đó thôi.

   Không hiểu sao lại có tiếng máy bay ù ù trên đầu. Rồi chẳng phải chờ lâu, từng chiếc T28 từ đâu bay đến và bổ nhào ném bom ngay vào giữa khoảng trống của ta và địch. Toàn là bom phát quang nên tiếng nổ to, đanh và hơi tạt rất mạnh dù chúng tôi nấp sau ụ mối. Chỉ có hai chiếc T28 thôi nhưng chúng thả bom từng quả một nên vòng vèo ù ù khá lâu. Thế là vừa vận động vừa phải ngó lên trời quan sát máy bay dè chừng. Nhiều thằng còn nằm ngửa chĩa AK lên bắn lại máy bay nhưng chẳng ăn thua gì. Giá có 12ly7 của C8 giá súng đàng hoàng mà nện máy bay, chắc cũng làm nên chuyện. Không biết T28 có trang bị đại liên không mà không thấy chúng bắn xuống ngoài việc thả bom. Thế cũng là một điều may. Rồi có lệnh đại đội cho đơn vị vận động thật nhanh áp sát địch chừng nào hay chừng ấy. Đúng là địch thả bom phát quang nên chúng tôi vượt qua khu trống mà không gặp hố bom. Cỏ nơi đây vốn đã xơ xác nên mặt đất trông vẫn thế, chỉ cảm nhận được mùi khói bom.

   Trời tối nhanh lúc nào không biết. Chúng tôi đã tản ra rất rộng để đánh vào các ụ mối có địch. Có vẻ địch lùi dần. Đã nhìn thấy một vài xác địch khi vòng qua mấy ụ mối, chắc do ăn B40, B41 thôi chứ AK chắc chưa làm nên trò trống gì. Cảm giác lại gần giống như đánh đêm ở Ba Lào Ngam, khác chăng là địa hình nơi đây rộng, chả biết đâu là điểm cuối. Đánh vận động bắn AK rất tốn đạn, dù chưa chắc đã trúng tên địch nào. Hai băng AK buộc chéo hết veo, bắn đến viên cuối của băng hẫng một cái tưởng như hóc súng.  Tôi vội tạt vào sau một ụ mối móc túi đạn rời ra lập cập lắp vào vỏ băng AK. Mấy thằng khác cũng lần lượt như vậy. Có đạn rồi lại tiếp tục xung phong và bắn tơi bời. Đạn bay chớp nhóa nhì nhằng trong màn đêm.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 10 Tháng Hai, 2011, 10:00:09 pm
  Em nghĩ từ ụ mối bác đang lắp đạn đến cái ụ tiếp theo chắc không cách xa nhau lắm, bác nhanh nhanh lên nhé.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 11 Tháng Hai, 2011, 09:56:26 am
Bác Trongc6.

Suốt từ năm ngoái bây giờ mới lại gặp bác, nhớ quá. Chuyện kiêng cữ của anh em ta thì có nhiều nào là kiêng cơm khê, kiêng số 3, kiêng ăn thịt chó đen, nào là sống dầu đền chết kèn trống... Tôi quan niệm có kiêng có lành nhưng trong bối cảnh thực tế của chiến tranh mình cũng không nên coi nặng quá mà sẽ mất tỉnh táo đi. Gạo hết rồi chót lỡ cơm sống, cơm khê thì phải ăn còn hơn bị đói, kiêng số 3 thì tổ 3 người đấy làm gì có sự lựa chọn, vào trận nhìn thấy nhau là mừng lắm (tôi sợ nhất là bị cô độc). Còn ánh sáng trong hầm chốt đâu phải lúc nào cũng có cái để thắp đâu. Bắn được 1 con chó để cải thiện mà là chó đen thì phải xơi còn hơn là không có gì. Trong bài Ngược dòng ký ức của tôi có kể về chuyện đi bắn được 1 con chó đen gọi đại đội ra để lấy phần thì ông Sủi c trưởng quát:" Ngày mai đi đánh nhau rồi mà hôm nay còn xơi chó đen, chúng mày không biết sợ là gì !" Thế là c bộ không ăn chỉ có a2 của Chiến và a3 của tôi ăn thôi, liền sau đó B52 dội ngay kên đầu, c bộ bị xóa sổ, hầm a1 cũng bị dính trong đó có Tiến nhà ở 53 Hàng Đậu và Sơn quê Quỳnh Lưu (2 thằng chỉ còn 1 bát B52 chia ra làm 2 mộ),chỉ còn những a nào ăn thịt chó là không sao, hôm đó là ngày 5/9/1972.http://www.quansuvn.net/index.php/topic,17230.110.html. Cho nên đừng bao giờ thái quá bất cứ một quan niệm nào cả, có phải thế không bác.



Ch


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: hamduthu trong 11 Tháng Hai, 2011, 10:01:03 am
  C của bác LXT bị B52 có lẽ do thám báo địch đã phát hiện và gọi chúng đến. Chứ giữa rừng làm sao thả trúng đến thế, cho dù vệt bom B52 rất dài.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 11 Tháng Hai, 2011, 10:36:59 am
  C của bác LXT bị B52 có lẽ do thám báo địch đã phát hiện và gọi chúng đến. Chứ giữa rừng làm sao thả trúng đến thế, cho dù vệt bom B52 rất dài.

Ngày ấy đv mình không ở rừng mà ở đồng bằng huyện Triệu Phong, ven TX Quảng Trị (quê anh Ba Duẩn). Đầu bảng là pháo dàn, pháo bầy từ hạm đội 7 và các trận địa pháo của địch, sau đó là B52, rồi máy bay chiến thuật "trời nắng bổ nhào, mưa rào tọa độ".


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 17 Tháng Hai, 2011, 09:02:48 am
…..
   Đêm tối càng xuống sâu, tiếng súng thưa dần. Bây giờ có tìm cũng chẳng biết địch nơi đâu, chưa kể bị chúng phục lại. Đại đội ra lệnh rút quân về chỗ chốt của B4. Từng tốp truyền khẩu lệnh í ới cho nhau rồi bám theo nhau rút về. Đội hình bây giờ lộn xộn không còn theo từng A, từng B như lúc xuất phát nữa. Chúng tôi về đến chốt B4 khá nhanh. Bây giờ thì các trung đội kiểm tra lại quân số và chia nhau trụ lại sau từng ụ mối. Tơ hơ trên đất thế thôi, chẳng có công sự gì. Lính B4 trợ lực phía sau còn sức nên đã vượt lên làm công tác thương binh tử sĩ. Đơn vị đã có tổn thất. A trưởng Bớt hy sinh, mắt vẫn mở to nét vẻ như còn ngạc nhiên không hiểu sao mình lại hy sinh. Anh Quân phải soi đèn pin và vuốt mắt cho anh ấy. Thằng Đức, thằng lính Hà nội cùng B5 mà cái dạo trong cao nguyên lúc nào đi lùng sục cũng đứng thẳng phưỡn người ra ấy, bị một phát đạn vào ngực bên phải thủng cả phổi, hơi ra phì phì, phải băng đến mấy cuộn quanh  ngực trắng toát. Thằng Nhật, người cùng khu Cầu Giấy (Hà Nội) với nó, cõng nó chạy suốt từ trong khu giao chiến về chốt B4. A trưởng Quán của tôi thì mãi không thấy về. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh ấy là lúc tối anh ấy băng qua một bãi trống để sang ụ mối khác, liền sau đó một trái bom đã rơi ngay trước mặt tôi, ngăn cách tôi với anh ấy. Hết khói bom xung phong tiếp (gọi là xung phong nhưng thực chất là tiến dần lên chứ không phải chạy ào ào đâu) thì chẳng thấy anh ấy đâu, loay hoay một lúc thì sa vào tốp của B6 và chạy quấn theo họ. Anh Thành cũng mất tăm lúc đó nhưng lúc rút lui vẫn thấy lò dò về. Đại đội kiểm tra lại. Chẳng ai nhớ là đã nhìn thấy anh Quán gục ngã hay chạy hướng nào vì quả thực trời tối nhìn nhau trong khói đạn cứ nhập nhà nhập nhoạng. Tạm coi là mất tích. Đêm đó tất cả nằm chốt lại quanh các ụ mối ở khu vực chốt B4. Kiểm tra súng đạn thì chỉ có AK còn nhiều đạn (tới cả trăm viên), cối M79 còn hơn chục quả, riêng đạn B thì gần như hết sạch, chỉ còn của B4 thôi. Đêm đó đơn vị cáng thương binh tử sĩ về khu tập kết và lấy thêm đạn trên tiểu đoàn. Tôi không biết rõ tiểu đoàn bộ đóng chỗ nào nhưng về lý thì nó phải nằm gần một C nào đó, chếch về phía sau và kiểu gì cũng nằm ở thế có các C bộ binh bao bọc.

   Sáng hôm sau, cơm nước xong độ khoảng chín mười giờ sáng thì B5 được lệnh lùng sục trở lại khu chiến sự tối hôm qua kiểm tra tình hình và tìm kiếm xác anh Quán nếu anh ấy hy sinh. Tôi được phân công đi đầu. Lúc này trời sáng, có nắng to nên mọi thứ nhìn rõ lắm. Kể cả cán bộ B thì tất cả chỉ có 6 lính. Chúng tôi mang 1 M79, 1 B40, còn lại AK. Anh Quân dự đoán địch rút rồi nhưng dặn tôi vẫn nên thận trọng. Chuyện ấy thực ra chả cần dặn vì tôi là thằng đi đầu, vốn không có cái tác phong đi "phưỡn" như thằng Đức nên tất phải lom khom và căng mắt ra quan sát. Khoảng chục cái ụ mối đầu thì vượt qua yên lành. Nhằm phía trước đi nhưng vẫn phải lò dò hướng sau từng ụ mối để có sự che chắn. Vào đến sâu trong khu chiến sự hôm qua, khi tôi vừa định men vòng sau một ụ mối để tiến lên phía trước thì nghe "Cốc" rồi "bùm" một phát ngay trên cành cây trên ụ mối phía trên đầu nhưng không trực diện. Tôi vội lùi nhanh một bước nằm sát vào sau ụ mối tránh đạn. Bọn địch chưa rút, chúng còn trụ lại và ngồi im trong các hố chiến đấu. Thằng địch cầm M79 ngồi thẳng hướng tôi tiến chợt thấy tôi chắc giật mình bắn vội nên không nhằm trúng mặt tôi mà lại tương cao vổng lên cành cây trên ụ mối, cối nổ mà mảnh không hắt thẳng vào tôi. Quá may. Ngay lập tức đạn AR 15 rộ lên. Tôi cũng chĩa AK quạt về phía địch, tất nhiên chẳng trúng tên nào. Đội hình 5 chiến sĩ ta đằng sau cũng vội nép theo hình hàng dọc lấy cái ụ mối duy nhất làm vật che khuất. Địch vẫn bắn nhưng không xung phong. Anh Quân nhoài lên nắm chân tôi lắc mạnh ra hiệu rút. Chúng tôi bò lùi rất nhanh, loằng ngoằng như những con thằn lằn rời xa dần sau ụ mối. Khi khoảng cách đủ xa thì lom khom lùi rồi cứ thế vừa quan sát địch vừa lùi theo hướng đã đến. Địch bắn chán một hồi không thấy ta bắn lại nữa thì cũng thôi. Thây kệ chúng nó, chúng tôi rút một mạch về chốt B4.

   Như vậy là địch vẫn còn trụ lại. Phải tìm cách khác chứ không thể đánh trực diện như chiều tối qua được. Nghĩ lại vừa rồi cũng may. Tôi lao vào chỗ thằng cầm M79 chứ nếu lao vào thằng AR15 thì nó đã tương cho tôi một loạt vào giữa mặt rồi, vì AR linh hoạt hơn. Cũng vì chúng tôi chỉ bắn trả vài loạt rồi rút nhanh, địch chưa kịp phán đoán tình thế nên chúng cũng chỉ ngồi im. Thằng chỉ huy bên địch mà nắm nhanh được tình hình cho quân tản ra bao lấy chúng tôi thì chắc 6 người chúng tôi không thể rút về được an toàn. Bây giờ tại khu chốt này chỉ còn B5 và B4. B6 đã rút về cùng đại đội tại khu tập kết và làm công tác thương binh tử sĩ. Sau này tôi nghe nói lại khi khiêng anh Bớt về, mọi người ở nhà không mấy tỏ ra ngạc nhiên. Anh Thiết quản lý đại đội còn coi như đó là một điềm đã được báo trước sau vụ cơm khê. Anh ấy còn phán đoán anh Quán cũng đã hy sinh chứ không thể bị địch bắt được. Lúc này B5 chỉ còn 2 A trưởng, quân số ít nên tôi và anh Thành được ghép sang các A khác. Tôi lại về A anh Trịnh, anh Thành về A thằng Lễ. Đó cũng là một niềm vui may mắn và có phần cảm thấy hạnh phúc, dù nhỏ nhoi.

   Hơn nửa ngày trời nằm phơi nắng trong rừng khôộc. Vài ụ mối cây cối lưa thưa không đủ tán che nắng. Những cây khôộc cũng vậy. Gọi là rừng vì bạt ngàn nơi đây chỉ có loại cây này làm chủ và nó cũng chẳng phải do người trồng chứ thực ra chúng mọc thưa lắm. Lá khôộc to nhưng ít và khi nắng lên chúng xoăn lại, chẳng còn che được nắng. Lúc này mũ mãng mất hết cả rồi, chúng tôi phải lấy lá khôộc sâu lại thành cái mũ giống như ngày bé hay lấy lá bàng kết mũ cánh chuồn giả làm quan để che nắng. Cũng tạm ổn. Thời gian trôi qua trong tĩnh lặng vì nơi đây cũng chẳng có tiếng chim chóc hay côn trùng. Chỉ có tiếng gì o o đều đều trong nắng, nhưng hình như phát ra từ chính cái đầu của mình thì phải. Ta với địch không nhìn thấy nhau, chắc cũng đều cảnh giới nhưng cũng chẳng làm gì nhau. Tôi vơ vẫn nghĩ đánh nhau kiểu này cũng quấy thật. Tất cả đều tơ hơ trên đất, một vài hố chiến đấu chẳng bõ bèn gì, nếu như bên nào có nhiều đạn cối mà tổ chức tập kích đối phương ngay giữa ban ngày thì bên kia chắc phải chạy như vịt chứ còn chốt giữ gì được nữa.

   Trời tối, anh Quân phổ biến B5 chúng tôi phải quay lại khu vực đánh nhau hôm trước một lần nữa để nắm tình hình. Nếu địch rút thì kiểm tra lại khu vực đó, nếu địch còn trụ lại thì trinh sát nắm địch luôn rồi xin đại đội tập trung đánh tiếp cho chúng một trận nữa. Tôi nghe nhưng vẫn nghĩ rằng cái chính là vì chưa biết tin về anh Quán nên phải trở lại nơi đó thôi chứ nắm địch cái gì. Trinh sát tiểu đoàn đâu mà giao phó cả cho chúng tôi. Hơn nữa nếu đánh chắc tiểu đoàn phải bổ sung lực lượng chứ hôm trước chúng tôi đã đánh rồi đấy mà có ăn thua gì đâu. Tôi nói điều đấy với anh Trịnh và anh cũng đồng tình, chắc nhiệm vụ tìm tử sĩ là chính thôi. Phải muộn muộn thì chúng tôi mới lên đường. Lần này anh Quân không đi mà giao cho anh Trịnh phụ trách nên tôi càng tin điều phán đoán của mình là đúng. Tôi cũng yên tâm phần nào với anh Trịnh, chứ nếu thằng Lễ phụ trách nhóm thì chắc hết hơi. Vẫn 6 lính và tôi vẫn phải đi đầu, chẳng cãi được.

   Chẳng biết hôm nay bao nhiêu âm, không có trăng nhưng trời cứ sáng bàng bạc. Tầm quan sát tới vài chục mét. Chúng tôi vượt rất nhanh qua khoảng cách ban đầu từ vị trí chốt B4 đến cái ụ mối gần sát chỗ ban sáng gặp địch. Tới đây chúng tôi giãn thưa hơn, nhưng anh Trịnh vẫn bám sát ngay sau tôi nên tôi thấy rất yên tâm. Tôi nằm rạp xuống đất khá lâu, lợi dụng cái ánh sáng bàng bạc mà nhìn vào khoảng rừng trống trước mặt. Không phát hiện được gì, kể cả việc cố căng tai ra nghe và hít ngửi trong gió để tìm một điều gì đó đặc biệt. Vẫn tĩnh lặng. Tôi tiến về phía cái ụ mối bị địch bắn M79 hồi sáng, nhưng không tiến thẳng vào đó mà vòng rộng ra bên ngoài để quan sát được cả phía sau ụ mối. Đoạn cuối cùng là bò, nhè nhẹ như khi bò trong hàng rào đặt mìn định hướng. Tốc độ bò chậm và thời gian có lúc tưởng như ngừng trôi. Thằng Lễ chừng sốt ruột nên bò nhanh lên sát trên để giục anh Trịnh. Thằng này nói tiếng gió rất kém, cổ họng phát ra tiếng khàn khàn rất khó chịu vì cố nói nhỏ mà không phải tiếng gió. Tôi xoay người lại ra hiệu cho anh Trịnh là phải thận trọng, không thể vội được. Thế là anh Trịnh phải bò lùi lại xoay cái bàn chân như xoa vào mặt thằng Lễ, nó mới im. Chúng tôi vẫn tiếp tục bò. Rồi trước mặt tôi là cả một khoảng trống rộng của cái vùng địch đóng quân lúc sáng. Nếu có địch phục, chắc hai bên phải nổ súng đánh nhau to rồi. Tôi đã sờ được vào một cái công sự mà không thấy địch, hố trống trơn. Rồi một lúc sau chúng tôi đã bám được vào một dãy công sự, toàn hố không. Anh Trịnh phân công nhóm thằng Lễ nằm bám trụ lại một số công sự sẵn sàng chi viện, còn lại 3 người trong đó có anh và tôi tiếp tục tiến lên. Bây giờ thì chúng tôi không phải bò mà lom khom chuyển từ công sự này sang công sự khác. Ở đây chỉ có hố chiến đấu, không có giao thông hào. Vượt qua khu vực công sự, anh Trịnh còn cho đi rộng ra thêm, đề phòng địch lùi xa một đoạn, dùng khu công sự này làm bẫy. Sau cùng thì xác định chắc chắn địch đã rút. Chúng tôi kiểm tra toàn bộ, có chừng hơn bốn chục cái hố và phát hiện có 12 cái hố lấp đất có vẻ như chôn người chết. Nống ra vùng giải phóng Saravan này của ta, lại phân tán và di chuyển liên tục nên địch cũng không thể mang xác những tên chết đi đâu được mà phải chôn tại chỗ sau mỗi trận đánh. Chúng tôi kiểm tra kỹ nhưng không thấy gì thêm. Rất có khả năng địch đã chôn cả xác anh Quán vào một trong những cái hố này nếu anh ấy hy sinh. Trường hợp bị bắt làm tù binh thì phải đợi nghe đài kỹ thuật của địch sau này mới biết được. Chúng tôi hội ý nhanh, thấy rằng không thể bới tất cả 12 cái hố này để kiểm tra lại xác trong đêm nên quyết định sẽ quay về báo cáo để cấp trên xử lý tiếp.

   Chúng tôi về đến chốt B4 thì cũng phải đến mấy giờ sáng rồi, vì sau đó thời gian được ngủ rất ít. Đến sáng, anh Quân cho người về đại đội báo cáo xin chỉ thị, còn lại một B rưỡi chưa đến hai chục người vẫn nằm lại chốt. Chắc cứ nằm tạm ở đây chờ lệnh thôi chứ địch ở khu rừng bản Phôn Phai rút rồi thì chặn cái gì. Có lẽ phải chờ trinh sát D nắm lại tình hình địch để tiểu đoàn sắp xếp lại vị trí tác chiến của các C.

   Sáng hôm ấy trong khi chờ tin của đại đội thì anh Chèo B trưởng B4 lại phát hiện thấy địch, cũng phải đến bốn chục thằng, hành quân xéo qua về phía Bản Na Thon là bản mà đại đội tôi đang ở gần đó. Anh Chèo cũng là loại máu đánh nhau, hơn nữa hôm kia đánh trận vận động Phôn Phai thì B4 lại ở phía sau làm công tác thương binh tử sĩ, chưa được nổ súng. Thế là anh ấy kéo tất cả quân hỗn hợp 2 B vận động chặn đường. Địch đi đường thẳng còn chúng tôi chạy đường vòng, lại phải vòng rộng để vừa giữ bí mật vừa có thể đón đầu nên chạy bở hết cả hơi tai. Dẫu đoạn đường chạy chỉ chừng cây số, nhưng không đơn giản vì rừng khôộc thưa quá. Vì thế chưa kịp đón đầu thì địch đã phát hiện ra chúng tôi. Chúng bắn loạn xạ ngay lập tức bằng đủ các thứ súng có trong tay. Chúng tôi cũng bắn lại, nhưng chỉ có AK, M79 và B41, còn B40 thì đuối tầm nên chịu. Cũng không thể vận động mà đuổi theo chúng vì chúng đông hơn. Tôi cũng thấy lo vì thế này thì lại lâm vào tình thế giống như trận vận động bữa trước, đánh giặc mà cứ như ép phải đánh nhau vậy. Nhưng sau đó tiếng súng cứ nhỏ và thưa dần. Hóa ra thằng địch cũng né tránh giao tranh và rẽ sang hướng khác đi dần rồi mất hút. Chúng tôi nằm lại ngay tại chỗ để thở, vừa mệt vừa chán chẳng muốn làm gì nữa. Đến trưa thì có liên lạc từ đại đội đến báo tất cả phải rút về điểm tập kết cùng đại đội để chuyển hướng khác. Thế là chuyện tìm xác anh Quán phải để lại.

   Không ngờ chiến sự đã kéo chúng tôi đi mãi khỏi khu rừng bản Phôn Phai từ đó và không quay trở lại. Sau này tiểu đoàn đã xác nhận và đưa anh Quán vào danh sách hy sinh. Việc quy tập liệt sĩ ở Saravan sau chiến tranh làm rất lôm côm và không chu đáo nhất là như trường hợp của anh Quán. Rất có thể cho đến bây giờ A trưởng Quán của chúng tôi vẫn yên nghỉ tại cánh rừng Phôn Phai đó cùng 11 người lính Fumi xấu số. Chiến tranh đã lùi xa, thù hận không còn nữa, cầu cho linh hồn của những người lính đã ngã xuống của cả hai bên trong trận đánh vận động ngày 18 tháng 11 năm 1972 ở cánh rừng bản Phôn Phai ấy được siêu thoát.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 17 Tháng Hai, 2011, 09:56:55 am
   Không phải nịnh, nhưng em phát hiện ra một điều là hầu hết đoạn kết của từng bài bác Trong c6 đều viết cực hay và rất xúc động.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 24 Tháng Hai, 2011, 01:10:02 pm
……
   Tập kết về khu rừng bản Na Thon được nửa ngày thì chúng tôi nhận lệnh hành quân về hướng Đông. Cả tiểu đoàn tiến sát về khu vực Nam thị xã Saravan. Không biết cái thị xã này hình thù và rộng lớn ra sao, hay cũng chỉ nhỏ bé và lèo tèo vài dãy phố như những thị xã ngoài Bắc mà chúng tôi đã đi qua. Tuy thế tôi cũng nhận ra một vài đoạn đường đất ô-tô có thể chạy. Nơi đây là bình nguyên nên có thể nói là không tốn công làm đường vì nền của nó đã có sẵn, rất cứng. Chỉ cần tạo đường sao cho đừng vấp phải khe suối hay húc vào ụ mối là được. Nhiều đoạn khá hơn cũng chỉ như đường đá dăm, không thấy đường nhựa. Có điều nơi đây các nhà sàn tập trung đông hơn tuy đều đã xập xệ, cái bị mất một góc, cái bị cháy dở và đa phần không còn mái tôn che. Trong các bản chúng tôi đã qua có dân ở, nhưng ở khu vực gọi là vùng thị xã này thì bị bỏ hoang, không có dân. Nơi đây cây khôộc mọc thưa thớt và quanh đó cũng như quanh các khu nhà cỏ dại qua một mùa mưa mọc xanh um cao đến ngang đầu dù đã hết mùa mưa. Giữa các khu nhà không có lối đi, toàn phải đạp thành đường. Ngồi dưới nhà sàn này thì không nhìn thấy người ngồi dưới nhà sàn bên cạnh. Cảm giác lạnh lưng hở sườn không còn nhưng tầm bao quát thì gần như bằng không.

   Đại đội chúng tôi tập trung tại một khu vực có nhiều nhà sàn gần một con đường nhỏ. Chẳng mấy chốc mà chúng tôi đã thu dọn xong chỗ nghỉ, đạp cỏ bẹp xuống thành lối đi lại qua các trung đội. Các tiểu đội đều ở dưới nhà sàn, có sàn gỗ phía trên nên dù không đào hầm cũng cảm thấy kín đáo. Lính tráng tổ chức nhận bổ sung đạn còn các cán bộ từ B trở lên đi họp bàn phương án tác chiến. Chẳng biết tiểu đoàn chở đạn dược đến bằng cách nào nhưng chỗ lấy đạn cũng nằm cạnh đường chỉ cách chúng tôi vài trăm mét. Có lệnh lau súng và kiểm tra cặn kẽ. Đúng là cả tuần vừa rồi chúng tôi không lau súng, rất may không ai bị tắc súng lần nào. Buổi chiều tối tất cả tập trung nghe lệnh. Lần này chúng tôi tác chiến theo một kiểu mới gọi là đánh theo mệnh lệnh. Điều này gần giống với đánh vận động, không có trinh sát chuẩn bị và sau đó lên phương án tác chiến trước. Trung đoàn chỉ xem bản đồ, yêu cầu đến ngày đó tiểu đoàn này phải đứng chân được ở chỗ này. Tiểu đoàn lại giao cho từng C hành quân đến vị trí được phân công. Có trinh sát đi trước, gặp địch đâu là đánh đó và phải chiếm vị trí bằng được, bất kể tổn thất ra sao. Đúng là làm tướng điều quân như đánh cờ. Nhưng thật tình lúc đó chúng tôi chẳng nghĩ gì nhiều, lệnh trên sao thì nghe vậy. Với lại cả làng lúc ấy như thế chứ có phải riêng gì C tôi.

   Dù trong gian khổ thế nào thì cuộc sống của người lính nhiều khi cũng có hương vị riêng mang bản tính của từng người xen vào, nghịch ngợm hoặc tếu táo nhiều khi đến bất mờ mà mang đậm bản sắc lính. Chính trị Viên C tôi vốn cũng hiền lành, nhưng khá nguyên tắc. Chỉ có cùng cấp mới trêu được anh ấy thôi. Một lần đại đội hành quân chui vào một đám rừng non và trú quân qua đêm. Hành quân dã ngoại thì đương nhiên là vệ sinh kiểu hố mèo, nhưng lần ấy không có C trưởng, CTV lại cẩn thận phổ biến nguyên tắc ấy cho đại đội, còn dặn thêm là phải đi xa chỗ võng của mình cho khỏi mất vệ sinh. Gần đến giờ gác, CTV khoan khoái leo lên võng ngủ thì phát hiện ngay cách võng mình chỉ độ 2 mét có một bóng đen lúi cúi, rồi nghe tiếng động phát ra và có mùi khó chịu.

   - Thằng nào làm gì đấy, CTV quát.

   - Hùng đây - C phó Hùng trả lời - ỉa chứ còn làm gì nữa.

   - Ơ kìa, sao ông lại đến đầu võng của tôi mà ỉa hả.

   - Thì hồi chiều ông bảo phải đi xa võng của mình còn gì. Chỗ này cách võng tôi hơn chục mét rồi ấy chứ.

   CTV định vặc tiếp nhưng chợt nhận ra C phó Hùng cố tình tai quái, đành làu bàu ngồi dậy quấn võng tìm đến chỗ khác.

   Những chuyện kiểu như thế sẽ còn truyền tai trong đơn vị mãi về sau, mỗi khi nhắc đến tên các anh ấy.

   Trở lại chuyện trú quân ở thị xã Saravan. Chiều hôm sau, trước khi xuất kích, anh Quân ra lệnh kiểm tra súng, lên đạn sẵn. Của đáng tội, từ sau trận bản Soan, lúc nào súng tôi chả lên đạn sẵn, bao giờ băng và súng chả đủ 31 viên. Nhưng lệnh kiểm tra thì cứ kiểm tra. Tôi có kiểu kiểm tra riêng, vẫn để nguyên chốt an toàn, chỉ cần kéo mạnh quy lát là nhìn thấy rõ thân viên đạn đồng nếu như nó đã lên nòng. Không như người khác phải chổng nòng súng lên trời hay chĩa xuống đất, tôi cứ tự nhiên quay súng ra chỗ sáng nhất là được, dù nòng súng quay ngang. Không ngờ đang quay như thế thì anh Chèo B4 đi tới đứng ngay trước nòng súng. Chẳng phải cướp cò gì, nhưng anh ấy hoảng quá kêu toáng lên, dìm cái nòng súng của tôi xuống và giáng cho tôi một cái tát. Tôi tức lắm nhưng chẳng dám phản ứng, phân trần thì anh ấy không nghe, sau anh Trịnh phải xin và mắng vờ tôi mấy câu thì mới yên. Chuyện này về sau tôi cũng không để bụng được vì anh Chèo đánh địch rất giỏi và chỉ hơn nửa năm sau thôi anh ấy đã là đại đội trưởng của chúng tôi rồi.

   Đêm ấy chúng tôi theo trinh sát đi theo hướng đã phân công. Trinh sát cũng chẳng đi trước chúng tôi được bao nhiêu. Họ tới đâu chúng tôi bám tới đó. Có điều đặc biệt là trong cái khu thị xã Saravan này, không biết ngày trước địch phân khu hay bố phòng kiểu gì mà lắm hàng rào thép gai thế. Thuần một loại rào đơn thôi nhưng chúng căng ngang dọc như bàn cờ. Cắm đầu cắm cổ đi vấp phải, thế là tắc, lại phải tìm quanh lối khác. Cứ lò dò theo trinh sát như vậy, chẳng thấy địch đâu mà có lẽ cũng chẳng đi được bao nhiêu đường đất. Các C khác chắc cũng như C tôi vì chẳng thấy hướng nào có tiếng súng. Nhưng xa lắm thỉnh thoảng vẫn nghe có tiếng súng và ánh sáng nhập nhoạng chập chờn của pháo sáng hắt lại nhưng ở tít trên cao.

   Bây giờ trong cái âm u mịt mùng của cỏ cây và đêm tối mà thi thoảng xen lẫn chút ánh sáng hắt từ xa tít trên trời cao ấy, cộng với chân chùn vì phải đi ít đứng nhiều chờ trinh sát dò đường, vai mỏi như tê đi vì đeo nặng, thỉnh thoảng phải nghiêng người xoay bả vai cho quai ba lô dỡ tỳ nặng từng bên vai một, tôi lại lờ mờ nhớ về những chuyện ở Saravan khi trước mà các anh lính cựu trong C tôi đã kể.

   Đầu mùa mưa năm 1970, trung đoàn 9B hành quân từ Quảng Bình vào làm thê đội 2 cho Sư 2 của ông Nguyễn Chơn từ Quảng Ngãi sang đánh Saravan (Nam Lào) để mở rộng vùng giải phóng và đẩy địch ra xa khỏi tuyến đường Tây Trường Sơn của Đoàn 559. Sư 2 đã có tiếng thiện chiến và dũng mãnh, nghe nói hầu như không có lính Bắc và trong các đơn vị chiến đấu lại có cả nữ nữa, dù họ chỉ làm nhiệm vụ thông tin hay quân y. Sư 2 vào  Saravan đánh đâu thắng đó, trung đoàn 9B chủ yếu làm nhiệm vụ tảo thanh và đánh các đơn vị nhỏ của địch chạy bung ra ngoài rìa. Chiến sự đến đâu, dân Lào trong thị xã di tản tới đó, họ bỏ tất cả để vào Pắc xế. Chỉ có dân các bản vùng xung quanh là chạy ít ngày tránh tên bay đạn lạc rồi lại trở về. Kiểu này làm lính ta liên tưởng đến những thành phần dân cư thành thị và nông thôn bên Việt Nam thời chống Pháp. Lính E9 đi sau hưởng lợi về hậu cần từ các vùng dân rất nhiều. Có vẻ như lính sư 2 chấp hành chính sách dân vận tốt hơn. Tuy nhiên về chính sách thương binh tử sĩ thì họ làm lại hơi kém. Họ không lập các khu nghĩa trang tạm thời rồi quy tập lại một cách bài bản sau đó như trung đoàn 9B. Chính vì thế trên con đường 23 vào Saravan rồi từ đó chạy vào cao nguyên Boloven có nhiều nấm đất chôn tử sĩ của sư 2 sát ngay bên đường, có vẻ như hy sinh tại đâu thì chôn ngay quanh đó. Khi mùa mưa đi qua mới một nữa, dưới những trận mưa rừng như trút nước và dai dẳng, đất trên các nấm mộ đắp vội trôi đi để lộ ra cả hình hài của liệt sĩ. Có xác những chiến sĩ nữ không được bọc tăng võng, mái tóc dài theo nước xoải dài ra bên lề đường. Trung đoàn 9B phải làm lại công tác tử sỹ để những người đã hy sinh được nằm yên dưới lòng đất. Thật thương những người con gái ấy, nhất là khi thông tin kèm theo xác họ chẳng có gì. Danh mộ những liệt sĩ vô danh lại tăng lên.

   Về kinh nghiệm tác chiến thì trong E9B lại truyền tụng một câu chuyện nữa. Trong Sư 2 khi ấy có một vị tiểu đoàn trưởng mới 22 tuổi (sau này anh ấy đã trở thành sư trưởng sư 2 thay tướng Chơn, hình như là sư trưởng trẻ nhất trong quân đội ta thời chống Mỹ, tên là Hồng Anh thì phải), nhưng trong E9B cũng có một tiểu đoàn trưởng trẻ không kém. Đó là D trưởng K18 Lê Quang Huân, cựu dũng sĩ Mậu thân 68 ở thành Huế, lên năm quyền lúc 23 tuổi. Anh là D trưởng nổi tiếng trong trung đoàn (tới thời kỳ 1974 thì anh Huân là E trưởng E19 của sư 968). Đầu  mùa khô 1970, cả tiểu đoàn của anh Hồng Anh và K18 của anh Huân cùng vào Cao nguyên Boloven để chuẩn bị đánh địch ở Păc soong. Khi đó địch cũng hay rải thảm B52 ở Nam Lào. Lúc chọn chỗ đóng quân, K18 được chọn trước. Anh Huân cho K18 đóng ven rìa một cánh rừng già, có suối to chảy qua. Hầm thùng và hầm chữ A (nhất là D bộ) làm kiên cố, đường đi lối lại giữa các đơn vị thênh thang rợp bóng mát. Tiểu đoàn của anh Hồng Anh chỉ đóng cách đó chừng dăm trăm mét, nhưng lại chọn chỗ trú quân giữa đồi lau lách bạt ngàn. Hầm chữ A làm bình thường, đường đi lối lại phải vít các ngọn cây lau để ngụy trang, đi lại phải lom khom. Chân đồi lau cũng có nước, nhưng chỉ là lạch nhỏ, muốn lấy nước phải tạo hố cho nước chảy vào rồi múc. Tất nhiên trong rừng lau thì chuyện nấu nướng phải cẩn thận hơn và sinh hoạt tất có phần kém thoải mái. Khi đó K18 có ý nghĩ là lính sư 2 quen khổ nên tự đày ải nhau nhiều quá mà thôi.

   Kết qủa cuối cùng lại phải nhờ kẻ địch phán xét. Trú quân chưa được một tuần, một chiều thấy 3 chiếc F105 bay sạt nóc rừng qua khu trú quân, tiếng động ầm ầm. Chừng hơn chục phút sau, chỉ nghe tiếng gió hút của bom rơi rồi cả khu rừng mịt mù trong khói bom. Ba vệt bom B52 đã làm trụi khu rừng già. K18 bị tổn thất nhưng không nhiều do đóng quân chủ yếu ra rìa rừng già nên chỉ dính tí vệt B52. Nếu cả D nằm sâu trong rừng già, chắc đoàn Hà Nội chúng tôi không bao giờ biết đến K18 anh hùng của E9B anh hùng nữa. Sau đấy ban chỉ huy của cả 2 tiểu đoàn hội ngộ. Lính K18 ngả mũ chào cảm phục những người lính của sư 2 anh hùng. Quá thiện chiến và quá dày dạn, kinh nghiệm đầy mình. Sau đó ít lâu, sư 2 rút hẳn về nước, bàn giao lại toàn bộ địa bàn Saravan và cao nguyên cho E9B và sư 968.

   Thị xã Saravan dân không về ở nên giờ đây hoang tàn. Địch nống ra chắc cũng phải sửa sang lại nhiều mới có chỗ đóng quân.

   Đêm hôm đó chúng tôi đi mãi mà không gặp địch, nhưng quãng đường đi được không xa. Tới sáng, chúng tôi phải dừng lại, còn trinh sát tiểu đoàn tiếp tục lên đường bám địch.
….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 02 Tháng Ba, 2011, 11:12:45 am
…..
   Nằm nghỉ được một ngày, gần tối lên đường đi tiếp vì trinh sát đã phát hiện chỗ có địch. Hóa ra nơi đây vẫn chưa phải là khu sở chỉ huy của địch. Chỉ có một đại đội của địch, hình như nằm vòng tiền tiêu canh chừng. Chúng nó cũng đóng trong một khu nhà bỏ nhưng quang đãng hơn chỗ chúng tôi trú hơn trước nhiều. Tiểu đoàn cho cả C6 và C7 chủ công cùng đánh, có điều vẫn phải đánh đêm dù không phải là sở trường của chúng tôi. Lần này có cối 82 của tiểu đoàn chi viện cho mấy chục quả, còn chủ yếu là 2 khẩu cối 60 của 2 C bộ binh. Địch đóng dã ngoại, không có hàng rào nhưng chúng giá mìn Cleimo xung quanh để tạo lớp vỏ bảo vệ. Cả 2 đại đội được cấp mìn DH10 để quét mìn Cleimo. Cũng chả xác định rõ lắm vị trí địch vì không có hàng rào, nhưng cũng không dám bò vào sâu quá, sợ khi vô tình nằm ngay sát trước quả mìn Cleimo mà bị lộ, địch nó bấm mìn nổ thì đi cả lũ. Chúng tôi chỉ giá ước chừng 4 quả DH10 thẳng hướng sẽ xung phong, lần này bố trí theo hàng nằm ngang. Do không có nhiều thời gian, chỉ lấy tiếng cối 82 làm hiệu lệnh nên phải làm khẩn trương. Chừng 7 giờ tối thì nghe tiếng cối 82 bắn vào khu vực địch, chúng tôi bấm mìn. Hướng C7 cũng nghe mìn định hướng nổ "rầm" rất to rồi cối 60 bắt đầu bắn. Tiếng "Tốc" đầu nòng nghe khá đanh. Bọn địch nằm im chịu trận vì chúng nghĩ bị ta tập kích. Chừng 5 phút sau khi mấy chục quả cối các loại đã bắn hết, đến lượt bộ binh lên. Chúng tôi dập một loạt đạn B vào khu trước mặt rồi tiến lên. Chỗ này không như căn cứ có khu đầu cầu mà phải tiến nhanh, chúng tôi đánh như kiểu vận động. Vừa bắn vừa tiến lên và bám vào các mốc làm vật chướng ngại.  Chỗ này chủ yếu là các cột nhà và gốc cây nhỏ. Địch nổ súng bắn lại ngay nên cũng dễ xác định những vị trí có địch. Hỏa lực B40 cứ nhằm các nhà sàn mà bắn, trúng nhà nào nhà ấy cháy liền. Chỗ này cối cá nhân cũng có nhiều tác dụng vì khá quang, có thể bắn cầu vồng. Tôi bám sát ngay bên trái anh Trịnh. Hễ anh Trịnh tương B40 vào đâu là tôi choang ngay một quả US vào cạnh đấy rồi vừa quét AK vừa vọt lên. Mỗi người chỉ mang 2 quả lựu đạn, anh Trịnh phải đưa cho tôi cả lựu đạn của anh ấy. Mỗi nhà sàn phải ăn đến mấy quả đạn B. Không gian nóng hẳn lên với những ngôi nhà cháy, lửa sáng bập bùng. Nhờ ánh lửa nên quan sát khá tốt. Quân ta đông hơn nên đánh vòng ngoài khá gọn. Địch bị cối dập cho một loạt lúc đầu, lại bị quân ta đánh cả hai phía trong điều kiện chúng không có hỏa lực mạnh nên thiệt hại và nhanh chóng co cụm lùi lại. Ngoài mấy trái M72 lúc đầu, địch chỉ còn cối cá nhân M79 và súng bắn thẳng. Hướng C tôi có chừng 3 cái nhà sàn bị cháy sập, chừng hơn chục xác địch gục bên những công sự đào ngay dưới gầm nhà sàn. Lúc tôi vừa nép vào một cột nhà để tráo lại băng đạn vừa hết thì một mảng sàn nhà cháy sập xuống, may anh Trịnh kịp kéo tôi ngã ngửa trở lại. Trận này địch cụm lại, quân ta đông nên chúng tôi bắn như đổ đạn vào những chỗ có tiếng súng địch. Cả đại đội có 6 khẩu hỏa lực B mà bắn gần hết đạn vào các khu nhà sàn, chưa kể M79. Tôi chưa bắn hết băng đạn thứ hai thì C6 đã hội quân được với C7. Địch chỉ bị tiêu diệt một phần, số còn lại đã chuồn theo hướng khác. Chúng nó là thổ dân, lại chủ động nên rút lui rất nhanh. Vì đánh theo mệnh lệnh, mục tiêu chính là chiếm được khu vực đã định trước nên tiểu đoàn đã không bố trí lực lượng đón lõng ở hướng thứ ba. Chúng tôi tạm thời nằm trụ lại, tảo thanh tại chỗ và xem lại súng đạn. Tôi vừa lắp thêm đạn AK, vừa nhìn quanh. Nhà sàn cháy rất nhiều, lửa đỏ bập bùng cả một khu vực rộng lớn. Nghe tin C7 bị hy sinh 1 còn C6 chúng tôi có 2 người bị thương phải cáng về phía sau. Thế là mỗi trận đánh lại hao hụt một ít, quân số vơi dần.

   Hôm sau trinh sát tiểu đoàn bám địch luôn từ sớm, tìm xem bọn địch hôm qua rút đi đâu. Nắm được địch chỉ rút đi xa chừng cây số rồi trụ lại, tiểu đoàn cho đánh tiếp. Lần này C5 và C7 đánh, còn C6 chúng tôi vòng ra ngoài đường đất theo hướng Đông để chặn địch nếu chúng rút tiếp về khu sân bay cũ của thị xã. Đấy là nghe nói thế chứ tôi đã nhìn thấy sân bay nào đâu. Chúng tôi chia làm 3 cụm, mỗi cụm một trung đội tạo thành một cánh cung vòng kiềng nằm cách khu vực có địch tới dăm sáu trăm mét, men theo một con đường đất nhưng cách xa ra tới vài chục mét. Chỗ này lại là rừng khôộc thưa rồi, tầm quan sát rất rộng. Đấy là áng chừng vậy thôi chứ lúc này trời đêm nên mọi thứ vẫn cứ nhờ nhờ. Đại đội bắt chúng tôi đất cứng đến đâu cũng phải đào được một cái hố nằm kín người. Chúng tôi quen đào hầm đêm rồi, chỗ này lại tự do đào không phải giữ bí mật nên cũng khá thuận lợi. Còn đang đào hầm dở thì đã nghe tiếng súng của C5 và C7 nổ ầm ầm. Một khoảng trời phía xa nhập nhoàng ánh đỏ nhưng không sáng bằng khi địch thả pháo sáng. Cũng chỉ chừng hai chục phút thôi là tiếng súng lịm dần rồi im hẳn. Chắc quân ta làm chủ trận địa ngon ơ rồi vì cái đại đội địch ấy cũng đã bị đánh xơ xác từ đêm trước. Chúng tôi căng mắt ra chờ những thằng tháo chạy qua đây. Song chờ mãi cũng chẳng thấy gì, có lẽ địch bị tiêu diệt hết rồi chăng.

   Sáng rõ mặt người, đang nhai cục cơm nếp nguội khô thì chúng tôi phát hiện thấy hai tên địch từ xa đi lại. Chắc đêm qua chúng lẩn trốn ở đâu bây giờ mới mò ra tìm đường chuồn. Chúng đeo súng AR 15 trên vai chứ không phải cầm trên tay trong tư thế sẵn sàng nổ súng. Chúng cứ lõng thõng chậm rãi theo con đường đất mà đi, xem ra thì chỉ có B5 chúng tôi gần chúng nhất.  Chúng tôi nằm im và giương súng chờ đợi. Anh Quân chưa cho lệnh bắn vì nghĩ có thể địch còn có nhiều hơn. Lúc hai thằng đi ngang tới gần vị trí chúng tôi nhất thì tự nhiên anh Thành lại làm rơi khẩu M79 đánh "cộc" một cái xuống đất. Một thằng địch nghe thấy chợt đứng lại nghe ngóng nhưng súng vẫn khoác vai, còn thằng kia vẫn lững thững đi như không có chuyện gì xảy ra. Thằng nhứ nhất tiến đến cách chúng tôi chừng hai chục mét, vẫn nghiêng người nghe ngóng trong khi thằng kia đi xa dần khỏi chỗ chúng tôi. Sốt ruột, anh Quân cho thằng thứ nhất một điểm xạ. Anh Quân B trưởng chuyên bắn được thú rừng đấy nhé, thế mà không hiểu sao lần này lại bắn trượt dù chỉ cách có hơn hai chục mét, tên địch hoảng quá vội nằm rạp xuống. Nhưng hình như nó ù tai hay sao nên vẫn chưa xác định đạn bắn từ đâu tới. Nó tụt súng khỏi vai, nhưng lại ngồi dậy ngơ ngác nhìn xung quanh. "Tằng tằng", anh Quân cho nó một điểm xạ nữa. Vẫn trượt. Thằng địch lại nằm rạp xuống rồi một lát sau lại ngồi dậy ngơ ngác như thằng mất hồn. Nó vẫn chưa hiểu súng bắn đến từ đâu. Lại một điểm xạ nữa và lại trượt. Thế là ba điểm xạ đi toi. Lúc này tên địch mới biết hướng súng nổ và nằm im, nhưng cái đầu nó vẫn nhô lên rõ mồn một. Chúng tôi xem anh Quân bắn như xem bắn tập. Chúng tôi còn có B40, có M79 và cả mấy cây AK nữa đấy, nhưng chả lẽ chỉ có một tên địch mà lại nã cả một đống đạn vào nó. Điểm xạ thứ tư của anh Quân mới trúng đầu tên địch. Lúc này chúng tôi mới nhìn kỹ ra phía đường. Thằng địch thứ hai vẫn lững thững đi trên đường như không hề có chuyện gì xảy ra, nhưng nó đã cách xa chúng tôi tới cả trăm mét rồi, thế là thoát. Chúng tôi mò ra chỗ thằng bị chết thu súng, anh Quân cứ vừa nhảy lò cò trên đất vừa kêu "có ma, có ma". Sau đó chúng tôi quay về chỗ phục kích nhưng chờ suốt từ đó đến tận chiều cũng chẳng có ma nào đi qua nữa. Gần một ngày chỉ có nắng và gió, khô cả miệng. Cũng chẳng nghe thấy tiếng súng nổ ở đâu nữa, không gian vắng lặng.

   Thế là đã qua đi đúng một tuần từ sau trận vận động Phôn Phai. Hôm sau cả tiểu đoàn lại hành quân về các vị trí cũ, C6 chúng tôi lại về khu vực bản Na Thon. Có vẻ như đánh theo mệnh lệnh chẳng giải quyết được gì, địch vẫn bung quân ra đèn cù. Cả đại đội lại về khu tập kết ở cái chỗ chúng tôi bị trực thăng bắn đuổi ấy, còn B5 chúng tôi đi ra xa hơn một cây số lập chốt, lần này hướng về phía bản Na Thon. Chỗ này vẫn là rừng khôộc nhưng cây khá dày, kèm theo đó có rất nhiều đụn cát nhỏ và những cây khôộc non chỉ cao chừng một mét mọc trên đó. Ở đây đất pha cát nên đào công sự rất dễ, mỗi người một cái hố sâu đến thắt lưng. Đất đắp lên bị nắng đốt khô rất nhanh, hòa lẫn vào những đụn cát nhỏ quanh thân các cây khôộc non nên trông không còn có vẻ gì là có hầm hố. Chỗ này nếu có nằm im thì địch tới gần sát mới có thể nhìn thấy chúng tôi, mà ngay cả ngồi im cũng rất khó phát hiện. Buổi sáng trôi qua chậm chạp. Lúc này chúng tôi đã hết cả thuốc rê mang từ trong cao nguyên ra rồi, đánh địch mấy trận cũng không thu được thuốc lá nên mồm miệng đành vêu ra. Ngồi chốt vì thế càng sốt ruột. Cỏ non không có, mầm khôộc thì đắng nên cũng chẳng có cái gì cho vào miệng nhai cho nó đỡ buồn. Lúc này đã vào hẳn mùa khô rồi, hơn tháng trời không có rau xanh, toàn ăn cơm nếp với muối hạt nóng cả bụng.

   Tầm gần giữa chiều thì anh Trịnh lấy một hòn đất ném tôi ra hiệu. Tôi dỏng tai lên nghe, quả có thấy tiếng loạt xoạt nhẹ. Chúng tôi ngồi thấp nhưng vướng cây lá nên cũng chưa nhìn thấy gì. Mãi rồi cũng nghe tiếng bước chân chậm rãi chạm vào những cành khôộc non. Chỗ này bốn phía như nhau nên địch có thể đến từ bất cứ hướng nào. Rồi tôi nhìn thấy bóng ba tên địch lăm lăm AR15 lặng lẽ đi tới, gần ngay hướng hầm tôi. Tôi ngoái lại ra hiệu cho anh Trịnh bắn trước. Khi đí chốt hay phục kích, bao giờ tôi cũng mong anh Trịnh nổ B40 trước cho nó uy lực và bất ngờ rồi mới quạt AK phụ họa. Lần này cũng vậy. Khi mấy cái đầu địch đã hiện rõ cách tôi chừng chục mét, anh Trịnh mới nổ B40. Tiếng "ùng, oàng" sát nhau và tôi cũng kịp nổ mấy loạt AK. Phía bên cạnh anh em trong B cũng nổ súng phối hợp. Có tiếng chân chạy loạt soạt, bọn địch chạy ngược trở lại một đoạn rồi mới bắn trả. Chúng bắn bừa chứ có nhìn rõ gì đâu, tương cả M79 vọt ra phía sau. Anh Thành cũng tương mấy quả M79 về hướng địch, cũng chỉ là bắn áng chừng. Chắc địch chỉ có ít quân đi lùng sục thăm dò nên chúng chỉ bắn trả được một ít rồi rút luôn. Chúng tôi cũng chẳng truy kích vì ở cái chỗ như thế này có quan sát được gì nhiều đâu, đuổi theo có khi lạc. Mãi sau tôi và anh Trịnh lên kiểm tra. Chỉ có một cái xác và ít vết máu, chắc do B40 của anh Trịnh chứ chúng tôi bắn về sau chắc cũng không diệt thêm được tên nào.

   Ngồi nốt từ lúc ấy đến tối không có thêm chuyện gì. Nghĩ cũng lạ. Địch nó mà xác định chỗ mình rồi, biết mình vẫn ở đó rồi gọi máy bay thì mấy cái hố lộ thiên chẳng giúp được gì. Trong chiến trận luôn luôn xảy ra những điều bất ngờ, may mắn và không thể lý giải.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dream_kgb trong 02 Tháng Ba, 2011, 11:38:31 pm
Cháu thấy bác Trọng tả còn thật hơn xem phim rồi tưởng tượng . Chiến trận mạng sống con người thật mong manh .


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thanhsondlbk trong 03 Tháng Ba, 2011, 11:19:07 am
Bác TrongC6 có biết bác Liêu liên lạc ở vùng nào của Bắc Kạn không?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Ba, 2011, 01:29:40 pm
@thanhsondlbk :

Anh Liêu người huyện Na rì, Băc Kạn.

Anh ấy sinh năm 1950 hoặc 1951 gì đó (Vào đơn vị trước tôi 2 năm)

Người tầm thước, đậm, mặt tròn, thuận tay trái. Ngày ở lính khỏe lắm.
Năm 1979 có viết thư cho tôi, nói định tái ngũ để làm sĩ quan. Tiếc là tôi không nhớ được ở xã nào.

Nếu gặp đúnh anh ấy nói C6K18E9B là anh ấy sẽ phải nhớ ngay ra thôi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Redami trong 03 Tháng Ba, 2011, 04:40:58 pm
Đúng là bác TrongC6 có khiếu văn chương. Đọc truyện của bác thật hay, cảm động và chân thực. Cháu đã đọc 1 loạt topic của Bác, nay tiếp tục mong Bác "hành quân" cho đến ngày toàn thắng. Cháu có một thắc mắc muốn hỏi Bác: Bác đã "chạm súng" với lính Lào, lính đánh thuê Thái, quân lực VNCH, (không biết Bác có đánh Mẽo không?). Xin Bác cho nhận xét, so sánh giữa các sắc lính này về:
- Trang bị, hỏa lực;
- Kỹ, chiến thuật;
- Sức chiến đấu, "độ lỳ"
-....
Xin cám ơn bác TrongC6


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thanhsondlbk trong 07 Tháng Ba, 2011, 09:02:56 am
Ở Na Rì có tới 6, 7 bác tên Liêu đều là cựu chiến binh nhưng nhà toàn ở xã mà lại không có số điện thoại. Nếu bác Trongc6 nhớ được họ thì tốt, tìm nhanh hơn.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 11 Tháng Ba, 2011, 02:58:20 pm
….
   Hôm sau, B5 chúng tôi có lệnh rời chốt từ sáng sớm để về tập trung cùng đại đội. Tất cả chuẩn bị để đêm nay đánh địch trong bản Na Thon. Địch có một đại đội vài chục tay súng, cũng tương đương như chúng tôi. Cả C6 tính ra khi đó cũng chừng non ba chục tay súng. Một đại đội đánh một đại đội. Nhưng sao lại toàn đánh đêm thế này. Lúc đầu chúng tôi nghĩ là cần yếu tố bất ngờ, về sau mới rõ thêm là cấp trên chọn đánh đêm để loại trừ khả năng yểm trợ bằng máy bay của địch. Địch không có pháo nên coi như không có hỏa lực chi viện.

   Đêm chúng tôi đánh bản Na Thon là vào ngày 28/11/1972. Cái kiểu đánh nhau gần giống như thời Tam Quốc đi cướp trại của nhau, có khác chăng là số lượng quân và vũ khí. Bản Na Thon chỉ có chừng chục nhà sàn. Lần này địch không đào hầm bên ngoài mà ở luôn trong bản vì dân cũng đã chạy hết rồi. Chúng đào hầm ở dưới nhà sàn và sống luôn cả trên nhà sàn. Trinh sát D bám địch và đại đội lên phương án cho bộ đội mật tập dùng hỏa lực bắn cháy các nhà sàn rồi dùng bộ binh tiếp cận đánh những tên địch nhảy từ trên nhà sàn xuống. Bốn bề quanh bản trống hoác nên cũng chẳng cần đón lõng hay phục kích làm gì. Cả C chỉ làm một mũi tiền nhập sát bản dồi dũi luôn vào, chẳng cần chọn giờ hiệp đồng với ai cả vì chỉ có một mình C6.

   Chúng tôi cơm nước đàng hoàng, chờ tối mịt mới lên đường. Hơn hai cây số trong rừng khôộc địa hình bằng phẳng, vượt qua không có vấn đề gì. Mò sát đến nơi, nép vào mấy cái ụ mối nhìn vào trong thấy cả bản im ắng. Ở một góc xa có một đống lửa đốt, nhưng có vẻ củi đã gần tàn, chỉ còn cháy lom nhom soi lúc mờ lúc tỏ. Quan sát lúc lâu vẫn không nhìn thấy thằng gác. Bọn địch chủ quan thật, chắc chúng mệt quá đã ngủ hết trên các nhà sàn. Càng tốt. A cối 60 của anh Thắng giá cối chọn mục tiêu giữa bản, cốt diệt những thằng chạy trên mặt đất. Áp sát rồi, sáu nòng B40 và B41 của C tôi tập trung chia nhau nhắm vào các nhà sàn gần nhất đồng loạt nhả đạn. Mấy căn nhà sàn nổ tung, bốc cháy. B40, B41 lại nạp tiếp đạn và dã loạt thứ hai rồi xung lực bắt đầu xông vào bản, đi đầu là B6, đến B4 rồi cuối cùng là B5 chúng tôi. Cối 60 cũng câu vào chi viện, tất cả chỉ có chục trái, nhưng như thế là cũng đủ rồi vì việc còn lại là của bộ binh chúng tôi. Không có chống cự nên chúng tôi lọt vào trong bản rất nhanh. Nhưng lạ cái là bọn địch chết cháy hết rồi hay sao mà không thấy nhảy thoát ra khỏi nhà sàn hay nổ súng chống lại. AK không có mục tiêu cụ thể chỉ bắn được vài loạt lẻ tẻ.

   Đột nhiên từ phía rìa bản đạn M72 bắn vào tới tấp. Rồi kèm theo đó là M79 và AR15 bắn vào, mãnh liệt không kém. Cái này giống như đi cướp trại thời xưa mà bị phản kế. Chúng tôi đang ở thế chủ động tập kích bỗng thành bị động, rơi vào trận địa phục kích của địch.  Sau này mới biết trinh sát D bám địch nhưng bị lộ, địch nó vờ không biết. Thằng chỉ huy của địch cũng thuộc loại chiến trận có kinh nghiệm đầy mình đã đoán ra ý đồ của ta. Chúng giả như chủ quan nhưng thực tế đã bỏ lại cái bản không với đống lửa to đốt từ chập tối nghi binh rồi kéo ra phục sẵn bên ngoài. Cao tay hơn chúng còn kiên trì chờ cho quân ta bắn vợi bớt đạn rồi mới ra tay. Thế là chúng tôi đã tập kích vào chỗ không người. Bây giờ thì những cột nhà sàn lại là nơi ẩn nấp để quân ta tổ chức chống lại địch. Còn một chút may mắn là B5 mới vào đến rìa bản nên lập tức quay sang hai bên nổ súng chống trả, yểm hộ cho hai B kia rút lui. Địch cũng không có nhiều M72 (về lý thuyết thì cao nhất cũng chỉ mỗi tên có một quả), bắn hết rồi thì cũng chỉ có súng bắn thẳng choảng nhau, mà đạn B41, B41 của chúng tôi uy lực hơn. Đại trưởng Băng ra lệnh tập trung hết hỏa lực B bắn mạnh để uy hiếp địch và tổ chức cho bộ đội vừa kéo tử sĩ, vừa dìu thương binh rút ra. B6 và B4 lùi dần ra, theo thẳng lối đã đến mà rút. B5 chúng tôi tiếp tục bám các ụ mối bắn lại ghìm chân địch. Chiến trận tiếp tục diễn ra ngoài rìa bản trong ánh lửa bập bùng của những ngôi nhà sàn đang cháy. Hai bên bắn nhau nhưng cũng chỉ như dọa nhau là chính. Ít phút sau B5 chúng tôi cũng rút sau khi bắn thêm mấy trái B40. Anh Quân cho anh em chúng tôi vừa rút vừa cảnh giới phía sau đề phòng địch truy kích. Quá nửa đêm thì cả đại đội rút về hết được khu tập kết. Cảm giác của kẻ bại trận tràn ngập trong lòng.

   Không diệt được tên địch nào, nhưng đại đội tôi bị hy sinh 2, bị thương 3, hao mất bằng một nửa trung đội. Trong số hy sinh có anh Cát, A trưởng của B6 người Bắc Thái. Anh ấy là một A trưởng còn dày dạn chiến trận hơn cả A trưởng Trịnh của tôi. Người to khỏe, có nụ cười hiền lành  nhưng khá hóm hỉnh. Anh ấy cũng bảo ban tôi nhiều thứ trong những tháng ngày tôi còn làm liên lạc. Tôi đã tham gia chôn cất anh ấy và tự tay liệm cho anh ấy bằng chiếc võng vải xanh tôi mang từ Trường Sơn vào. Chúng tôi lấy một cái lọ nhựa đựng thuốc của TQ để bỏ vào đó một mẩu giấy ghi những thông tin về anh, sau này còn biết mà tìm. Lúc xúc những xẻng đất khô ở cánh rừng Khôộc trơ trụi và cằn cỗi này để lấp lên nấm mộ anh ấy mà sao tôi thấy lòng chơi vơi quá. Một cảm giác buồn, mệt mỏi và hụt hẫng. Thế là mới chỉ ra Sara van được có bốn chục ngày, đại đội tôi đã mất 3 A trưởng. Các vị trí thiếu hụt này, tạm thời do ít quân số nên đại đội cho ghép các A trong cùng B lại, không cử thêm A trưởng mới.

   Đại trưởng Băng của chúng tôi cũng có chút máu mê binh pháp. Nghĩ rằng vừa qua một trận thắng, địch chủ quan nên ta sẽ bồi lại cho chúng một trận, giống như kiếu ngày xưa địch dùng tiền quân làm hậu quân khi rút lui, vừa đánh thắng một trận đối phương truy kích thì lại đổi hậu quân làm tiền quân nên bị đánh tơi bời nếu đối phương truy kích tiếp lần nữa. Ngay hôm sau trong lúc đơn vị còn đang giải quyết hậu quả trận đánh trước thì anh Băng đã cho người đi bám tiếp địch và biết chúng vẫn còn ở bản Na Thon. Đại trưởng Băng quyết định xốc lại quân, bổ sung gấp đạn dược rồi ngay đêm đó quay lại choảng cho chúng một trận. Thế là hai trận đánh tại cùng một vị trí được tổ chức trong hai đêm liên tiếp, một việc cũng rất hiếm xảy ra. Lần này hơn hai chục tay súng còn lại của C6 do đại trưởng Băng đích thân cầm đầu mò vào áp sát bản Na Thon. Anh Băng cũng khoác AK chứ không mang K54, quyết tâm ghê lắm. Tuy vậy có một điểm anh Băng đoán sai là bọn địch chắc đã hết đạn, nhưng thực ra không phải vậy. Chẳng biết chúng nó bổ sung đạn bằng cách nào khi mà chúng cũng hoạt động lẻ từng đại đội. Chúng tôi chỉ áp được vào sát bản, lợi dụng những ụ mối rồi tập trung hỏa lực bắn vào, hy vọng địch tê liệt rồi xung phong. Không ngờ chúng tôi vừa nổ B40, B41 thì địch cũng bắn rốc két M72 ra ào ào. Chúng nó không chủ quan mà vẫn canh gác phòng bị tử tế nên không hề bị bất ngờ. Thế là hai bên lại lập thành chiến tuyến, trong bắn ra ngoài bắn vào. Chúng tôi không đủ lực lượng áp đảo để đồn ép địch mà tổ chức đánh chiếm. Đại trưởng Băng không dám cho xung phong vào vì như thế bằng nướng quân và đại đội tôi đứng trước nguy cơ bị xóa sổ.  Địch cũng cố thủ chứ cũng không đủ lực lượng để cho quân vòng ra tập hậu chúng tôi. Thế là giằng co nhau, ý đồ ban đầu của anh Băng tiêu tan. Hai bên cùng chẳng có tổn thất gì ngoài đạn dược. Thú thực là trận này lính tráng chúng tôi cũng chẳng hào hứng lắm vì cái dư âm bại trận của đêm trước vẫn còn đọng lại trong đầu. Hơn hai chục tay súng của đại đội nếu đánh chốt hay phục kích thì còn có thể mong thắng chứ choảng nhau dàn trận thì quá là mong manh, lạnh lưng hở sườn. Lúc đấy chỉ có ý thức là người lính phải chấp hành mệnh lệnh dẫn dắt chúng tôi hành động mà thôi.

   Thu quân xong về lại vị trí tập kết thì bây giờ đến lượt chúng tôi lo phòng thủ, vì nếu địch nó cũng máu liều như đại trưởng Băng thì xá gì mà nó không tổ chức tập kích lại? Thế là hỗn hợp một nửa đại đội lại phải tổ chức chốt chặn từ xa hướng về phía bản Na Thon.

   Trong cả tuần qua khi K18 chúng tôi đang quay ra mặt Tây Thị xã Saravan thì trong khu Thị xã và vùng đất hướng ra sông Xê Đôn địch hoạt động rất mạnh. Có những đơn vị lớn của địch đã co cụm. Máy bay AC130 hoạt động liên tục. Dù sân bay Saravan chưa sử dụng được nhưng bằng cách nào đó chúng đã thả dù xuống được rất nhiều đạn dược và thiết bị quân sự, vũ khí trong đó đặc biệt là có cả pháo 105ly, súng cối 106,7 ly và cả DKZ để tiếp tế cho bọn dưới đất. Lúc đó các đơn vị ở gần chỉ phát hiện một điều là máy bay AC130 thả pháo sáng suốt đêm thôi. Nhờ có vũ khí lớn bổ sung, chúng nống ra hoạt động rất mạnh, vượt sông Xê Đôn tiến rộng về khu vực có tuyến vận tải của 559. Con sông Xê Đôn bắt nguồn từ phía Nam Tha Teng bên Atôpơ chảy vòng vèo cong queo theo gần một hình vòng thúng lên hướng Đông Bắc, ngoặt lại vòng sang Tây rồi lại cong về hướng Tây Nam ôm trọn lấy tỉnh Saravan. Cuối cùng nó chảy vòng về đổ nước vào sông Mê Kông ở đoạn phía Bắc thủ phủ Pắc Xế của tỉnh Chăm Pa Xắc. Con sông này mùa khô nhiều đoạn lội qua dễ dàng. Chiếm được toàn bộ vùng Đông Bắc Saravan rồi, địch tung tiếp quân tràn qua sông Xê Đôn tiến thẳng về hướng Đông vào sát tuyến đường 559. Vùng đất này bằng phẳng nên các tuyến đường ô-tô rất nhiều, kho tàng cũng lắm. Gần hai năm giải phóng nên tuyến đường khá an toàn. Gần khu vực này có cả một trận địa pháo phòng không 37ly có tới 5 khẩu. Tuy thế khu vực này chỉ như nơi an dưỡng của lính coi kho và lính phòng không. Trong chiến tranh mà rơi vào chốn như thế này thì tuy có buồn tẻ đôi chút (vì vẫn có bạn để mà chơi) nhưng cuộc sống thì có thể nói là thiên đường mơ ước của rất nhiều lính, nhất là những ai có ý muốn B quay. Nhưng chơi nhiều nên tất nhiên chủ quan và khả năng chiến trận kém dần.

   Tụi lính của GM42 nống ra nhanh quá, chỗ này bộ binh yểm trợ thiếu nên khi bị địch uy hiếp, lính phòng không 37ly phải hạ nòng bắn thẳng. Có lẽ nhờ uy lực của pháo bắn thẳng làm cho địch có phần khiếp đảm nên chúng mới chần chừ để cho bộ binh chúng tôi có hơn một ngày hành quân tới chi viện. Cấp trên điện gấp và K18 phải điều ngay quân ứng cứu, C5 lên đường trước, sau đến C7 rồi C6 chúng tôi. Trận này C6 không tham dự nhưng nghe nói lại C5 đã hành quân thần tốc cả đêm đi như chạy để kịp vượt sông và đến giải cứu. Cũng may là thằng địch chỉ nống rộng ra nhằm phá hoại và thăm dò chứ không có mục tiêu cụ thể, nếu không thì đơn vị pháo PK 37 ly đã bị thôn tính rồi. Mấy ông coi cái khu kho gần đó của 559 thì chỉ lo giữ được thân đã đủ tốt. Rất may C5 kịp đến đánh thẳng vào phía sau lưng địch khiến chúng phải tản ra và rút dần về sông Xê Đôn. Khi cả K18 cùng hội quân thì lực lượng ta ở đây lại quá mạnh, anh em đường dây 559 sung sướng ra mặt, kể cả lính phòng không lẫn mấy ông coi kho đường dây. Bằng chứng là sau khi tay bắt mặt mừng hoan hỷ và bố trí đóng quân lại, chúng tôi được các lính coi kho chi viện ngay một lô lương khô 701, chẳng cần lệnh của ai. Bọn 37ly cũng cho chúng tôi một ít đường, loại miếng vuông đóng trong hộp giấy cứng làm bằng củ cải của Liên xô, chia ra mỗi người được 2, 3 viên. Ái chà, của này mà cả năm chỉ được ăn một lần thì không khác gì bánh ngọt để liên hoan. Chả còn chè thuốc, nhưng nhẩn nha bóc từng thanh lương khô ra gặm thì cũng khoái lắm. Mỗi chúng tôi được phát 3 phong lương khô, phen này thành phú ông cả rồi, nghĩ cũng sướng.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 25 Tháng Ba, 2011, 08:36:20 am
…..
   Bây giờ quân ta dàn thành thế trận mới. E9 đảm nhiệm vùng Bắc và Đông Bắc Saravan còn E19 đảm nhiệm phía Nam. Riêng E39 là lính dân vận nên không tham chiến. Lúc này địch vẫn có số quân ở Saravan là 2GM, tương đương 2 trung đoàn.

   Ngày 5/12/1972, anh Trịnh nhận lệnh quay về khu vực gần bản Na Thon đón E bộ E39. Họ bị mắc kẹt giữa vùng giáp gianh Chăm Pa Xắc và Saravan từ hơn tháng qua. Cứ loanh quanh sau lưng chúng tôi, nhưng vì chiến trận vùng Saravan là kiểu da báo và đèn cù nên chính họ cũng phải nhiều phen chạy giặc khi mà bỗng nhiên có một cái đại đội khỉ gió nào đó của bọn Fumi đột nhiên húc phải. Để đảm bảo an toàn, mặt trận quyết định chuyểnTrung đoàn bộ của E39 ra hẳn đường dây 559 lánh tạm.

   Anh Trịnh, tôi và một lính nữa lên đường. Chúng tôi qua sông ở chỗ bản Na Bạc, gần về phía đường 23. Cái bản này không có nhiều nhà dân nhưng rất rộng và sạch sẽ. Bản nằm ngay gần sát sông và có nhiều khoảng sân đất phẳng phiu. Dân bản không bỏ đi mà vẫn trụ lại vì nơi này địch chưa đến. Cấp trên đặt luôn một điểm trung chuyển tại đây để đón các đơn vị phía Nam vượt sông sang bờ Bắc và đi ra đường dây 559. Lúc này có một đặc điểm là địch không ném bom vào các bản dân nên quân ta tranh thủ lợi dụng. Lần này đi lẻ nhưng tôi không lo lắm vì đi với anh Trịnh, tuy thế tôi vẫn cẩn thận nhắc anh hướng đường và tìm cách đánh dấu. Gần quanh bản có rất nhiều nương lúa nhưng đã gặt hết từ lúc nào, nay sang mùa khô chỉ còn trơ những gốc rạ. Dân Lào họ không đun nấu bằng rạ nên chắc để đến đầu mùa mưa mới đốt. Nhưng nếu chiến trận xảy ra thì những nương rạ này cũng sẽ cháy hết.

   Lúc hành quân sang chi viện bảo vệ tuyến đường 559 mấy hôm trước, chúng tôi cũng đã đi theo lối này nên cũng còn nhớ được kha khá đường. Bây giờ quay lại vùng bản Na Thon dẫn cả một E bộ E39, mối lo là nếu để bị lạc đường thì thật trơ mặt, mất hết uy tín lính E9. Vì vậy trên đường quay về Na Thon cứ chỗ nào đánh dấu được như vạc vào vỏ cây hay bẻ gãy một cây non trên đường đi là tôi làm luôn. Cũng vì sợ húc phải địch nên cứ trước khi vượt qua một trảng trống nào là chúng tôi nằm lại quan sát khá lâu rồi mới đi tiếp và đi thật thưa. Đoạn nào kín đáo mới đi nhanh. Cuối cùng cũng về được đến nơi và bắt liên lạc được với E bộ E39 lúc trời tối.

   Ngày hôm sau chúng tôi làm công tác chuẩn bị, phổ biến quy định hành quân cho E bộ 39. Tôi hơi ngạc nhiên là không hiểu biên chế kiểu gì mà cả một trung đoàn bộ chỉ có chưa đầy ba chục người. Họ đâu phải là lực lượng bị tổn thất từ vùng chiến trận rút ra. Quần áo và trang bị nói chung là tươm tất hơn chúng tôi rất nhiều. Phần lớn họ đeo súng ngắn chứ AK chỉ có vài khẩu. Vì thế chúng tôi xác định dẫn họ đi là phải không chạm địch chứ nếu không thì hỏng to. Tiểu đoàn khi giao nhiệm vụ cho chúng tôi cũng yêu cầu phải đi đêm. Không biết hôm ấy ngày mấy âm, nhưng trời khá sáng, nhất là đi trong rừng khôộc cây thưa. Tôi và anh Trịnh dẫn đầu, thằng còn lại đi sau cùng khóa đuôi. Chúng tôi vừa đi vừa tìm lại dấu vết hôm trước để dò đường. Có vất vả chút ít và đôi lúc hơi căng thẳng. Cứ mỗi lần tìm ra được một dấu hiệu đánh dấu đường hôm trước là chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Đoàn cán bộ E39 nhẫn nại theo sau, lúc đi lúc dừng nhất nhất theo yêu cầu của chúng tôi. Thật may là chuyến đi an toàn, trời mờ sáng chúng tôi đã đến bản Na Bạc và bàn giao cho tiểu đoàn. Chuyến đi này chẳng nhớ mặt nhớ tên được ai, nhưng các thủ trưởng E39 chia tay chúng tôi nồng nhiệt lắm, bắt tay, cảm ơn và cả khen ngợi. Chúng tôi không kịp ăn sáng mà phải về đại đội ngay trong sáng hôm ấy.

   Mấy ngày liền sau đó chúng đóng quân lại ở bờ Bắc sông Xê Đôn. Chỉ cách nhau có một con sông rộng hơn trăm mét thế mà cảnh vật hai bên lại khác hẳn nhau đến kỳ lạ. Bờ Nam toàn rừng khôộc thưa thớt, nhưng bên bờ Bắc thì lại là rừng già toàn những cây cổ thụ to cành lá nguềnh ngoàng cao vút, đóng quân bên dưới kín như bưng, L19 có ngó nghé cả ngày cũng chẳng thấy được gì. Sát ra mé bờ sông mới có một vài vạt rừng cây lúp xúp hay bãi trống. Thấy L19 hoạt động nhiều, mặt trận điều động phối thuộc cho chúng tôi một đại đội pháo cao xạ 23 ly. Một hôm thấy có cán bộ pháo binh đến yêu cầu chúng tôi theo bảo vệ để đi tìm nơi đặt trận địa. Sau khi họ chọn được một bãi trống gần sông cách chỗ trú quân của chúng tôi dăm trăm mét để làm trận địa, B5 chúng tôi lại được cử đi đón pháo và dẫn đường. Chúng tôi đến vị trí hiệp đồng và đón đơn vị pháo. Pháo cao xạ 23 ly có 2 nòng và cũng là loại pháo cỡ thấp nhất có xe ô-tô kéo. Đại đội có 3 khẩu, kéo bằng xe Molotova. Sau khi giấu xe một chỗ xong, họ ở nhờ luôn cạnh C6 chúng tôi để làm bếp hậu cần lo cơm nước. Bây giờ tôi còn nhớ trong C pháo đó có một lính đã từng đi học ở Liên xô, nói tiếng Nga lem lém và một thằng tên là Thắng nhà ở cạnh chùa Hưng Ký phố Minh Khai. Bọn lính pháo đều to khỏe hơn lính bộ binh chúng tôi. Chúng nó sinh hoạt rất vui nhộn, có cả đàn ghi-ta mang theo. Tuy thế ở chố này không được ca hát, chỉ tán chuyện và đánh bài tiến lên thôi. Tiêu chuẩn ăn của chúng nó cũng cao hơn chúng tôi, có nhiều đồ hộp và cả rau khô (món rau này mãi gần năm sau chúng tôi mới được phát ăn). Nhưng lúc này chúng tôi cũng bắt đầu được ăn 6 lạng gạo/ngày rồi nên cũng không thèm thuồng. Chỉ có món trà là thằng Thắng mời chúng tôi sang uống. Chè Ba Đình hẳn hoi, tuy toàn cẵng vụn là nhiều. Sang hơn là chúng nó lại có cả đường củ cải của Liên xô, giống như bọn pháo 37ly bữa trước. Sang chơi vài lần nhận đồng hương, tôi cho thằng Thắng mấy múi dù lụa trắng lấy ở trận Ba Lào Ngam. Lại cho cả mấy đứa trong B của nó nữa. Bọn nó thích lắm và cho lại chúng tôi một gói chè Ba Đình 30 gam và một hộp đường củ cải nửa cân. Đường củ cải ăn lộp xộp, không ngọt bằng đường mía của ta, nhưng như thế là quá quý rồi. Mà lính ta thì mồm cũng không kém cá ngão là mấy. Chỉ 3 lần hội họp là cả B5 chưa đến chục thằng chúng tôi đã giải quyết gọn tất cả những quà tặng của tình hữu nghị đó.

   Có một sự thay đổi nhỏ về sắp xếp quân số. B trưởng Quân của B5 chuyển sang C5, còn anh Pha A trưởng bên B4 chuyển sang chỉ huy B5 chúng tôi. Anh Pha hiền, ít nói và không xông xáo bằng anh Quân. Thực ra đối với chúng tôi cũng không quan trọng lắm vì quân số bây giờ ít, các A trong cùng B sinh hoạt xen kẽ và lẫn lộn tùy theo nhiêm vụ cụ thể được giao.

   Bọn 23 ly chưa kịp nổ súng trận nào, dù L19 ngày nào cũng vè vè bay qua, thì ngày 13/12 cả đại đội 6 chúng tôi đã lại phải hành quân trở lại bờ Nam sông Xê Đôn để tập trung cùng tiểu đoàn đánh địch. Lần này thì đúng là đánh vào khu sân bay cũ của Thị xã rồi. Công tác chuẩn bị ở đây khác với đánh điểm trên Cao nguyên là không nặng về phần hầm hố. Mà muốn cũng chẳng thể làm vì chúng tôi toàn đánh vận động, cây cũng chẳng có mà lấy gỗ. Chủ yếu là chuẩn bị súng đạn và bàn hiệp đồng tác chiến. Trận đầu tiên của C6 chúng tôi là đánh một cái xưởng cưa. Cũng là gọi thế thôi vì ngày trước mới đúng là xưởng cưa chuyên xẻ gỗ to trên cao nguyên để làm nhà sàn, vì dân Lào ở những vùng bản ven đường hay Thị xã họ làm nhà to lắm, to hơn nhiều so với những nhà sàn của đồng bào Mường ngoài Hòa Bình. Bây giờ xưởng chỉ còn là những cái nhà nát trên nền đất cộng với cỏ dại um tùm xung quanh.

   Cả đại đội đánh một trung đội địch trong đó. Chúng tôi tiềm nhập vào được sát xưởng cưa. Chắc bọn địch cũng chỉ định đóng dã ngoại nên không gài mìn Cleimo. Cũng là một cái may. Lúc này đang giữa buổi chiều, nhưng tiểu đoàn vẫn cho lệnh đánh ngay. Có khi thế lại hay vì giờ giấc không theo quy luật. Trận đánh diễn ra xuôn sẻ. Hỏa lực B40 và B41 dập vào thì cái trung đội địch gần như tan tác. Lúc chúng tôi tiếp cận đánh gần thì sức chống cự của chúng chỉ còn lẻ tẻ. Hầu như chúng không bắn lại được phát hỏa lực nào. Chỉ có AR15 cuống quít nổ vài loạt rồi cũng tắt ngấm. Trung đội địch chỉ độ hơn chục thằng, nằm chết gục xen những tấm tôn rách dùng làm vật che tạm cho công sự. Ngoài vũ khí, ba-lô của chúng hầu như không có gì. Đánh nhanh thắng nhanh, bên chúng tôi không ai thương vong nên khí thế lại lên ầm ầm.

   Thế nhưng trong cái may lại có cái không may tiềm ẩn và tôi không thể nào ngờ dù chỉ một mảy may. Thoạt đầu là sau khi dọn dẹp trận địa, B4 phát hiện có dấu hiệu địch cách đó không xa về hướng Tây Nam. Không nắm chắc địch nên trước tiên chúng tôi lập chốt. Trinh sát cũng không bám được địch ngay vì đang là ban ngày, địch nó ngay phía trước, lộ hết cả rồi thì còn bám gì được. Chí ít cũng phải chờ đến đêm tối. Thế nhưng trời chưa tối thì địch nống trước. B4 phát hiện địch mò vào gần là nổ súng luôn. Bọn địch cũng chỉ bắn lại lẻ tẻ rồi rút. B trưởng Chèo quyết định truy kích vì khí thế lúc này đang hăng, định đánh một thể. Tuy vậy lính ta đuổi chưa được bao nhiêu thì địch mất hút vì dù sao chúng cũng là thổ dân thông thạo địa hình. Anh Chèo ra lệnh rút nhưng lệnh không đến được tất cả lính tráng. Hai thằng Nhật và Hoàn (đoàn Hà Nội, nhà ở Cầu Giấy) cứ thế là đuổi theo địch. Trời tối dần, khi anh Chèo kiểm quân phát hiện ra thì không thấy chúng nó đâu nữa. Đâu đó vẫn có tiếng súng nổ đì đùng. Không ai dám ra lệnh đi tìm đi gọi vì phía đó có địch, đâu phải muốn đi thế nào thì đi. Thế là đại đội tôi mất thêm 2 chiến sĩ (sau này mãi đến khi miền Nam giải phóng, về nhà gặp nhau chúng tôi mới biết tin về số phận chúng nó. Thằng Nhật bị địch bắn chết, còn thằng Hoàn bị bắt làm tù binh, sau được trả về nhưng tất cả ý nghĩa của quãng đời lính đối với nó chấm dứt. Nó không một lần hội họp với anh em nhân ngày nhập ngũ và đã ra đi cách đây chừng chục năm vì bạo bệnh).

   Thiếu 2 người, nhưng đại đội chúng tôi vẫn thu quân lại chờ lệnh mới. Cũng chẳng phải chờ lâu vì ngay đêm đó C6 chúng tôi được lệnh làm một mũi  phối hợp cùng C5 và C7 đánh vào khu sân bay, nơi đó xác định có tới 2 đại đội địch. Cũng lại là trinh sát D dẫn đường cho chúng tôi vào lót. Vận đen đến với chúng tôi từ chiều và vẫn đeo bám chúng tôi đêm hôm đó, đêm 17/12 định mệnh, dù trước đó chẳng hề có cơm sống cơm khê. Và cái mốc thì vẫn là chu kỳ 1 tháng, bởi vì tính đến hôm đó thì vừa 2 tháng sau trận đánh thắng tiểu đoàn Thái 621 trên cao nguyên, sau 1 tháng của trận đánh vận động Phôn Phai nhiều trắc trở.

   Chừng 9, 10 giờ đêm chúng tôi đã bước thấp bước cao lọt vào địa phận sân bay. Cả một vùng trống rộng cỏ mọc um tùm xung quanh. Rào thép gai chắc đã được dân đến gỡ hết từ lâu nên trống trơn. Có thể chúng tôi bị lộ và địch đã chuẩn bị sẵn. Hàng loạt pháo cối từ đâu đó không xa bất ngờ ầm ầm đổ xuống đầu chúng tôi, những thẳng lính đầu trần trên một bãi đất trơ trọi. Thế yếu của kẻ địch nống ra vùng giải phóng không có pháo chi viện đã chấm dứt. Đây là một điều hoàn toàn bất ngờ đối với chúng tôi, khi mà địch đã dùng máy bay thả được những dàn pháo lớn cho bọn dưới đất lập trận địa. B5 chúng tôi bị trúng ngay loạt pháo đầu tiên. Những thằng lính sống sót nằm rạp xuống và lăn vội vào những rãnh đất vớ được cầu may. Pháo địch dập xuống nhanh rồi chuyển làn cũng nhanh. Có một điều may (lính thì trong hoàn cảnh nào mà chẳng có cái may!?) là địch cũng không thể nhiều đạn như trong Cao nguyên nên trận pháo kích cũng kết thúc sau đó không lâu. Cả đại đội kiểm tra lại quân số. Đại trưởng Băng bị thương vào bụng nằm ngất lịm. B5 chúng tôi bị thương 2 và hy sinh 4, trong số hy sinh có anh Pha vừa mới về chỉ huy trung đội. Cả trung đội còn sót lại anh Trịnh, thằng Lễ và tôi. Cộng số quân của cả đại đội còn lại vừa đủ để làm công tác thương binh tử sĩ. C6 được lệnh rút. Sau này chúng tôi biết đêm đó C5 và C7 có đánh nhau nhưng cũng không đủ lực và cũng bị pháo nó nện. Quân ta không làm chủ được trận địa, phải bỏ giữa chừng. Thằng Dũng "trắng" lính B41 bên C7 (nhà ở làng Kim Liên, Hà Nội) chơi thân với tôi từ ngoài Bắc cũng bị một mảnh pháo cắt đứt một dẻ xương sườn và cắm vào phổi. Điểm lại C nào cũng tổn thất, nhưng C6 là nặng nhất. Cả tiểu đoàn phải rút về sông Xê Đôn nhưng đóng quân lại ở bờ Nam.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 26 Tháng Ba, 2011, 05:42:39 pm
............. Sau này chúng tôi biết đêm đó C5 và C7 có đánh nhau nhưng cũng không đủ lực và cũng bị pháo nó nện. Quân ta không làm chủ được trận địa, phải bỏ giữa chừng. Thằng Dũng "trắng" lính B41 bên C7 (nhà ở làng Kim Liên, Hà Nội) chơi thân với tôi từ ngoài Bắc cũng bị một mảnh pháo cắt đứt một dẻ xương sườn và cắm vào phổi. Điểm lại C nào cũng tổn thất, nhưng C6 là nặng nhất. Cả tiểu đoàn phải rút về sông Xê Đôn nhưng đóng quân lại ở bờ Nam.…

Em người làng Kim Liên đây.
Trước, em chỉ hay nói chuyện với anh Phú - người nằm cùng buồng với sư trưởng Trân ở nhà giam Phú Quốc. Nay em sẽ tìm anh Dũng 'trắng' để giao lưu.  ;)


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Tư, 2011, 10:12:02 am


   Bờ Nam toàn rừng khôộc thưa, lá cành xơ xác và nhiều bãi trống nên bắt buộc chúng tôi phải đóng quân cạnh bản dân. Đại đội chúng tôi nằm cạnh bản Khăm Trôm, bản này cũng gần sông như bản Na Bạc, nhưng chỗ này bờ sông rất dốc đứng. Dân bản phải xả đường chéo thoai thoải để xuống sông lấy nước. Chúng tôi đào hầm sát ngay rìa mội cái nương, lợi dụng ít cây khôộc để vơ lá ngụy trang. Đêm nằm rải rạ và ni lon ngay trên mặt đất.

   Trong mấy đêm ở đây, có một điều lạ là cứ sáng sớm nhìn lên bầu trời trong đang hửng sáng, chúng tôi thấy có nhiều vệt trắng của B52. Có khi đủ 3 vệt, nhưng cũng có khi chỉ có 2 vệt, dấu hiệu của 1 chiếc trong tốp đã bị bắn rơi ở đâu đó (B52 luôn bay theo tốp 3 chiếc, vì thế mà 3 vệt bom rải thảm của chúng tàn phá một vùng rộng lớn lắm). Về sau chúng tôi mới biết đây là chiến dịch ném bom miền Bắc nhằm "Đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá" bằng máy bay B52 của không quân Mỹ. Thông tin lúc đó chẳng nghe biết được tí gì nên cảm xúc của chúng tôi trước hiện tượng đó cũng thật vu vơ. Bọn lính Hà Nội chúng tôi không hề biết máy bay B52 đang đánh bom rải thảm Hà Nội. Nhưng như thế có khi lại hay vì có biết mình cũng chẳng làm được gì, mà lo lắng quá có khi ảnh hưởng đến tư tưởng và sức chiến đấu. Trong chiến trường chúng tôi đã quá quen với cái kiểu học chính trị và tuyên truyền để ổn định tư tưởng lính tráng. Chủ đề học về xu thế của cách mạng bao giờ cũng là "Ta thắng lớn, địch thua to, miền Bắc được mùa, miền Nam thắng lớn", nghe mãi nên quen và thuộc lòng đến nỗi nhiều khi tôi nghĩ thằng nào có cái khoa ăn nói trước đám đông một tí và chịu khó học thuộc lòng thì đều có thể làm cán bộ chính trị được. Về sau nữa, tôi còn nghiệm ra rằng cái vận rủi do sự thiếu tập trung dẫn đến nguy hiểm rất hay gặp ở những thằng có vợ hay vừa đi phép vào, thậm chí là nhận được thư gia đình mà cha mẹ kể thật chuyện nhà quá mà sinh ra lấn cấn. Chính vì thế buổi sáng sớm nằm nhìn vệt khói B52 trên bầu trời dạo đó với chúng tôi cũng chỉ như một sự giải lao ngắm cảnh thường tình.

   Trong mấy ngày nằm bản Khăm Trôm, đại đội tôi vẫn phải hàng ngày tổ chức một tổ lùng sục lên phía trước nắm tình hình. Hướng mà chúng tôi hay đến nhất chính là bản Khăm Tha Lạt cách đó chừng hơn 3 cây số. Bản ấy khá trù phú, tuy cũng chỉ có chừng chục nóc nhà, nhưng là nhà to. Chúng tôi cũng chỉ lượn một vòng quanh bản rồi về, không ảnh hưởng gì tới dân. Tuy thế nhưng người dân họ cũng căng thẳng lắm khi mà chiến sự cứ lan đến chỗ họ. Rồi cũng chẳng phải chờ lâu. Một hôm B4 tổ chức một tổ đi lùng sục và lại đến bản ấy. Chắc mấy lính ta đã có lần vào bản xin dân cái gì đó nên lần này quen mui cứ thế hàng một túc tắc đi vào. Không ngờ được hôm trước địch đã vào đóng quân trong bản. Chắc bọn địch cũng ngạc nhiên khi thấy 3 ông bộ đội Việt thản nhiên đi vào bản. Tổ chốt của địch có lẽ cũng bị bất ngờ nên vội vã nổ súng. Một lính ngã gục và anh Nhị (cái anh mà bị thằng Số tương cho quả B40 văng mảnh vào trán ở trận Đông Noọng ấy) không xử lý kịp vì đi sát nhau quá nên cũng bị vướng và ngã theo, ngoắc cả chân vào thằng chết, còn một thằng nữa đi sau cùng nhờ có góc ngoặt ở đường nên quay lại ù té chạy thoát rồi chạy một mạch về thẳng vị trí đại đội ở bản Khăm Trôm báo cáo tình hình. Ở nhà ai cũng tưởng hy sinh cả 2 người rồi và thật tình có địch ở đó thì với số quân còn lại của đại đội cũng không thể đến đó đánh địch hay lấy tử sỹ về ngay được. Một cái chốt tiền tiêu được lập vội ngay cách đơn vị chừng 300 mét hướng về phía bản Khăm Tha Lạt đề phòng địch nống tiếp ra và không phải ai khác mà chính là 3 lính còn lại của B5 chúng tôi do anh Trịnh phụ trách phải ra ngồi chốt đó. Chốt mà chẳng kịp đào hầm hố gì cả, chỉ dựa vào mấy gốc cây khôộc trơ trụi lá. Ngồi được chừng nửa tiếng thì phát hiện thấy một bóng người từ xa. Ít phút sau nhận ra anh Nhị đang thất thểu chạy lại. Anh ấy ôm chầm lấy chúng tôi, dáng vẻ còn đang xúc động. Hóa ra anh Nhị không chết nhưng phải giả chết vì không có cách nào khác. Địch nó cũng thận trọng nên mãi sau mới có mấy thằng mò ra kiểm tra xác lính ta. Anh Nhị phải rất khéo léo vừa nằm giả chết nhưng vừa cố gắng rút được cái chân ra khỏi cái chân của xác đồng đội đè lên, hơi xoay người và bật được chốt khẩu AK. Thừa lúc 3 thằng địch còn đang nghiêng nghé (may mà chúng nó không bồi tạm cho mấy loạt đạn) và nói "Mần tải lẹo" (chúng chết rồi), anh Nhị bật dậy quạt AK vào 3 tên địch rồi co chân quay người chạy thẳng. Ba thằng địch ngã gục, còn anh Nhị chạy thoát, bất kể bọn địch trong bản bắn bừa ra mấy loạt vuốt đuôi, may mà không bị chuột rút. Thế là vừa thoát chết, vừa diệt được địch. Vậy là công tội đủ bù cho nhau. Công nhận anh Nhị là loại lỳ và quá tỉnh táo, kèm thêm chút may mắn nữa mới thoát nạn được trong vụ ấy, chứ người khác nói chung là cầm chắc cái chết. Kế cả thằng địch nữa. Nếu chúng nắm vững tình hình và bình tĩnh thì rất có thể đã có 3 tù binh rồi. Thật là may hơn khôn, cái số anh Nhị còn cao lắm.

   Tối hôm ấy, anh Hùng (C phó lên thay đại trưởng Băng bị thương) định cho chúng tôi đến bản Khăm Tha Lạt tập kích địch, nhưng sau vì không xác định dân đã bỏ chạy hay vẫn còn trong bản nên lại thôi vì không thể bắn chết dân. Thế là xác tử sỹ vẫn phải bỏ lại. Anh Hùng báo cáo lên tiểu đoàn nhưng vì còn có kế hoạch khác nên tiểu đoàn chưa bám được địch để tổ chức đánh.

   Tối hôm sau chúng tôi vượt sông trở ra bờ Bắc sông Xê Đôn và đóng quân lại một cánh rừng già ngay sát gần sông. Các đại đội khác trong tiểu đoàn cũng ở gần đó. Đến sáng chúng tôi có lệnh nhận thêm tân binh. Đoàn tân binh là lính Nghệ An, chủ yếu là người thuộc 2 huyện Diễn Châu và Quỳnh Lưu. Quân số đại đội tăng lên thành hơn hai chục người. Lại còn thêm cả thằng Loòng, lính trên C vận tải được bổ sung về bộ binh chúng tôi nữa. Trung đội tôi bây giờ là 8 người, anh Dũng trên C hỏa lực của trung đoàn về làm B trưởng, A trưởng vẫn chỉ có anh Trịnh và thằng Lễ. Tuy đã hơn một tuổi quân, vào chiến trường hơn 8 tháng rồi nhưng có lẽ lính Hà Nội vẫn bị quan niệm là dân tiểu tư sản, nên tôi vẫn chưa leo lên được chức A trưởng để có thể được chỉ huy một lính mới Nghệ An. Tôi vẫn cắp AK bám theo anh Trịnh như hình với bóng. Có khi vì thế mà lại hay. Thực tế lúc này khi giao nhiệm vụ đại đội vẫn phải cử một số người vừa đủ lẫn lộn chứ không nhất thiết phải đi theo A hay B.

   Nhận quân tân binh hôm trước thì hôm sau, nhày 25/12/1972 đại đội tôi được lệnh đánh vào bản Khăm Tha Lạt. Trinh sát tiểu đoàn bám địch biết trong đó chỉ còn địch, dân đã bỏ chạy nên tiểu đoàn giao cho C6 tập kích và đánh chiếm. Lần này thì chúng tôi gặp may. Lúc chiều tối mò được vào bản dã cối 60 và nện xong mấy quả B40. B41 thì thấy trong bản im re. Chúng tôi lò dò vào vẫn thấy im ắng. Chẳng bao lâu thì tràn được cả vào bản và tổ chức sục ra xung quanh, mới biết địch nó đã rút từ chiều. Không biết có phải chúng muốn chuyển hướng hay muốn trả lại cái bản trù phú ấy cho dân. Nếu chúng muốn trả lại bản cho dân thì ý định ấy công toi rồi vì trận tập kích của chúng tôi đã đủ làm dấu hiệu để dân bản phải chạy càng xa càng tốt. Làm chủ bản xong, chúng tôi tìm và chôn cất ngay tử sĩ. Khẩu AK đã bị địch lấy mất.

    Dân và địch cùng chạy hết nên chúng tôi là người hưởng lợi, vì ngay trong đêm ấy các anh nuôi đã phải hết sức bận rộn tay dao tay thớt làm thịt mấy chú lợn bị trúng đạn pháo chết ngay trong bản. Trong một đêm dài dằng dặc khi hơn hai chục thằng lính bộ binh căng người ra đào hầm để chốt vòng ngoài bản thì ở giữa bản, đám quản lý, anh nuôi và lính A cối 60 thỏa sức sục sạo các nhà sàn. Chỉ chừng chục nhà nhưng toàn nhà to. Hai thứ chiến lợi phẩm (không biết gọi thế có đúng không, vì những thứ đó là của dân để lại chứ không phải của địch) lính ta thu hồi ngay là gạo nếp và rượu nếp còn đang ủ chưa cất. Thứ đó có thể coi như rượu nếp, nhưng mấy ông lính Hà Bắc (dân làng Vân hay Đình Bảng đấy nhé) thì lại thưởng thức tinh túy hơn. Các anh ấy bốc rượu nếp cho vào vải dù và vắt ra được một thứ nước trắng đục gọi là nước cái. Uống vào vừa ngọt vừa có chất men, êm ru. Một hơi hết một bát B52 không khó khăn gì, lại còn sướng vì được nhắm với thịt lợn luộc anh nuôi cung cấp.

   Sáng sớm hôm sau khi các B chúng tôi cử người vào trong bản để nhận phần cơm chốt thì thấy cả một lũ lính say nằm quay đơ như lợn chờ thịt. Chỉ còn mỗi đại phó Hùng, C phó Mỵ và anh Liêu liên lạc là tỉnh táo. May mà anh nuôi còn kịp nấu sẵn mấy nồi cơm nếp. Chúng tôi lấy cơm, chia nhau mấy tảng thịt lợn luộc gói kèm rồi lại ra chốt. Cả ngày hôm đó không gặp địch. Buổi chiều, các B cử người vào gặp C bộ giao ban. Mấy ông lính say bây giờ mới tỉnh, nhưng còn rất lờ đờ. Đại đội cũng sợ tiểu đoàn biết chúng tôi đang rơi vào cái chĩnh gạo và đang mất cảnh giác nên hôm sau vội lên kế hoạch cho một nửa đơn vị rút ra ngoài rừng thưa gần đó đóng quân, chỉ để lại một nửa, có cả 1 anh nuôi chốt lại trong bản. Nằm trong một nửa đại đội này có B5 chúng tôi.

   Mấy ngày chốt lại trong bản đó là mấy ngày được nghỉ ngơi dưỡng sức. Sau một hai ngày chạy tứ tán vì súng nổ, từ ngày thứ ba những con lợn của dân lại quay trở về bản. Không có người cho ăn, chúng cứ sục vào đủ mọi ngóc ngách trong bản. C phó Hùng không phải dân chính trị, lại cũng thuộc loại ca cóng tài ba nên tổ chức cho anh em làm thịt dần những con lợn mất chủ. Ban ngày chúng tôi ra chốt phía rìa bản, ban đêm lại co về giữa bản vì chúng tôi đã đào đủ hai tuyến hầm. Toàn hầm nằm dưới nhà sàn nên an toàn và ấm cúng. Cứ sẩm tối là chúng tôi săn lợn. Một thằng núp sẵn trên đường đi, chuẩn bị sẵn một thanh gỗ to. Hai ba thằng khác lùa nhẹ mấy con lợn. Khi lợn đi ngang vừa tầm, thằng núp sẵn vung gậy choảng ngay một nhát vào trên sống mũi con lợn làm nó choáng váng lăn quay ra. Lập tức các lính xông lại trói ghì con lợn, thế là xong và bàn giao cho anh nuôi. Chỉ khổ cái ở đây xa nước, mỗi ngày đội tiếp tế chỉ cung cấp cho mỗi lính một bi-đông nên không thế làm lông lợn như truyền thống mà toàn lột da lấy thịt rồi hấp. Mọi thứ lòng và da phải đào hố chôn sâu, lãng phí nhưng chỉ còn mỗi cách làm như thế. Nửa đại đội ở ngoài bản cũng được chia phần. Mỗi hôm chúng tôi chỉ thịt một con, đều đều và kể cũng lạ, lính ăn như thụi, sạch bay và chẳng ngán ngấy gì. Anh Nhị còn lò dò lên nhà sàn của dân sục lại và vắt ra được kha khá rượu dạng nếp cái. Có như vậy thì mới đến lượt tôi được thưởng thức. Phải nói là ngon, sau này không bao giờ tôi còn được uống lại nữa. Nhưng phải công nhận là rất say vì tôi chỉ uống có khoảng một phần ba bát B52 mà nằm say lử đến tận sáng bảnh hôm sau. Vào trận đầu tiên thấy đánh địch như đi chơi, lại được ăn uống bồi dưỡng thả phanh nên bọn lính Nghệ An luôn mồm ca ngợi đời lính chiến trường. Chúng nó bảo thế này sướng hơn ở nhà nhiều lắm, chẳng bao giờ dám mơ. Cười chúng nó nhưng rồi nghĩ mình cũng thế, ở nhà có bao giờ ăn nhiều thịt như thế này đâu, tem phiếu cả tháng có mấy lạng, không bằng một cục thịt được chia bây giờ.

   Anh Nhị khi vào lính đã hai mấy tuổi, vốn là dân lâm trường nên lắm mưu mẹo vặt. Trong khi chúng tôi chẳng thấy gì thì anh ấy phát hiện trong bản này còn có gà. Đám gà thả rông của dân khá nhiều, ban ngày chúng nó mò ra các nương lúa cũ mót thóc ăn, ban đêm về đậu trên bờ rào ở rìa bản. Mấy ngày đầu chúng nó cũng sợ mà chạy đi đâu mất, sau vài hôm hoàn hồn mới quay lại giống như đám lợn kia thôi. Anh Nhị lên kế hoạch cho chúng tôi cuối ngày sẽ rút vào trong bản muộn hơn để chờ tối hẳn. Thực ra lúc sẩm tối mắt bọn gà đã quáng có thể bắt ngay được, nhưng nhỡ có địch chốt bên kia nương nhìn thấy mà gọi pháo hay nã cho mấy quả DK thì còn gà với qué được gì nữa. Thế là khi tầm nhìn chỉ còn xa vài mét, anh Nhị mới kéo chúng tôi đến rặng cây gà đậu để ra tay. Anh ấy bắt gà nghệ thuật lắm. Kiễng chân với tay lên luồn bàn tay vào bụng gà nhấc nhẹ từng chú rồi đem ra đưa cho chúng tôi. Anh ấy để tay thế nào dưới bụng gà, chúng tôi cũng phải để tay như thế. Bắt độ chục con là rút lui. Thiếu nước nhưng làm gà đơn giản hơn làm thịt lợn. Tuy cũng bỏ đầu chân cánh và lòng mề, nhưng chỉ cần ốp bẹ chuối quanh con gà cho vào nồi đun một lúc là đủ để vặt lông. Tối ấy ăn cơm nếp với thịt gà thoải mái, hôm sau khi ra ngồi chốt ngoài rìa bản, mỗi lính chúng tôi còn được phát nguyên một con gà hấp và một nắm xôi. Thế là hôm ấy vừa ngồi chốt quan sát ra ngoài nương, tôi vừa nhẩn nha đánh chén con gà cho mãi đến gần trưa mới hết.

   Đây là lần đầu tiên tôi được ăn một mình một con gà. Ngày mới vào đơn vị ở bản Phiệt trong Cao nguyên tuy có được ăn nhiều gà nhưng hoặc là nấu cháo, hoặc là ăn chung thôi. Thật là mình cũng thấy sướng, trách gì bọn tân binh Nghệ An. Mà quả thật lúc như thế này lại thấy nhớ nhà, thương cha mẹ và các em. Đời lính nhiều khi xuống chó, nhưng lắm lúc lên voi mà chẳng thể chia sẻ một phần cho người thân.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 01 Tháng Tư, 2011, 09:41:42 pm
  Bố này kể chuyện chén xôi gà làm người ta rỏ cả dãi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Tư, 2011, 09:27:50 am
….
    "Voi uống nước, nước sông phải cạn".

   Mấy chục cái mồm lính trong hơn một tuần ở bản Khăm Thà Lạt đã xơi hết cả đám gia cầm gia súc của một bản dân. Có băn khoan thì anh Nhị và anh Trịnh an ủi là dân biết bao giờ mới trở về, mà họ cũng phải hiểu là chiến tranh tên bay đạn lạc thì đám gà lợn ấy không chết thì cũng bỏ đi hết. Mình không chịu khó bồi dưỡng thì thằng địch nó cũng bồi dưỡng hết, đối với dân thì đằng nào cũng thế cả thôi.

   Trong mấy ngày chốt chúng tôi gặp địch 2 lần. Lần thứ nhất là sau khi vào bản 4 ngày. Chiều hôm đó địch không vào bản mà chỉ hành quân đi chéo qua bản, nhưng lướt qua ngay chỗ phía hầm của thằng Loòng (người Tày) cách chỉ có mươi mét. Chúng tôi nín lặng chờ thằng Loòng nổ súng trước rồi mới đánh tiếp theo chiến thuật vận động vì địch cũng chỉ có hơn chục thằng. Mãi không thấy thằng Loòng nổ súng, chúng tôi cũng ngồi im chờ đợi. Đến khi hàng quân địch đi khuất dần vào rừng khôộc phía bên kia nương, chúng tôi mới mò sang thì thấy thằng Loòng vẫn thản nhiên ôm súng ngồi im trong hầm.

   - Mày không nhìn thấy địch à? - Anh Trịnh hỏi

   - Có chứ, chúng nó đi ngay trước mặt em mà - Thằng Loòng trả lời.

   - Thế sao mày không bắn?

   - Nó có bắn em đâu mà em bắn nó.

   Ối giời ơi! Anh Trịnh ngẩn người ra rồi chợt hiểu. Đụng phải bố dân tộc thật thà quá đây mà. Hóa ra cái cách tuyên truyền trong đơn vị của mấy ông CTV đối với lính dân tộc khi đó không phải là giáo dục lý tưởng hay trách nhiệm quân nhân gì cả, mà đơn giản là "mình phải bắn địch, nếu không nó sẽ bắn mình". Thằng Loòng hiểu quá thật thà và đơn giản, thấy địch chỉ đi qua nên nó không nổ súng. "Mẹ kiếp, nếu để địch nó nổ súng trước thì mày chết cha nó rồi còn gì", anh Trịnh làu bàu nhưng cũng không biết nói gì hơn, cũng không thể cáu hơn được. Thế là đêm hôm ấy thằng Loòng được giao trả về đại đội và mấy ngày sau được phiên chế vào A cối để chuyên cùi đạn. Sức nó cổ cày vai bừa, công việc đấy là thích hợp nhất. Hết chiến dịch Saravan, nó lại trở về C vận tải trên trung đoàn. Ấn tượng về nó trong C tôi không nhiều, ngoài câu chuyện như tiếu lâm ấy.

   Chúng tôi bố trí lại đội hình chốt vì đoán địch chưa phát hiện ra có lính ta trong bản nên có thể chúng vẫn sẽ hành quân qua tiếp. Quả nhiên hai ngày sau một đơn vị chừng hai chục tên địch lại rễu rượi đi qua thật, theo đúng vệt đường như bọn trước. Lúc ấy cũng chừng đã 5 hay 6 giờ chiều. Thằng Lễ và anh Trịnh thủ B40, còn tôi và 2 thằng tân binh Nghệ An là Điểm và Hồng bắn AK. Cũng vì địch không vào bản mà chỉ đi chéo qua nên anh Trịnh và thằng Lễ chọn cái gầm nhà sàn gần với đường địch đi nhất, trong đó có mấy cái bao tải để núp, còn 3 chúng tôi nằm ở hai phía. Dự định khi thời cơ tốt nhất, hai khẩu B40 sẽ cấp tập mỗi khẩu 2 quả, còn AK sẽ quạt mỗi khẩu một băng. Kế hoạch thế nào thì diễn ra đúng như thế. Trong ánh chiều tà, bọn địch đang chủ quan đi cách nhau mỗi thằng chỉ vài mét lướt qua thì chúng tôi nổ súng. B40 vừa chớp phát đầu tiên là tôi quạt luôn AK, bấm loạt dài, quay ngang súng mà lia chứ không phải điểm xạ nữa. Trận đánh diễn ra rất nhanh, chắc chỉ độ hơn phút. Chớp lửa bùng lên ngoài nương thì bọn địch thằng ngã, thằng co cẳng chạy. Chúng không hề bắn lại một phát nào. Còn anh Trịnh và thằng Lễ chưa kịp bắn phát đạn thứ hai thì đã thấy lửa đỏ bùng lên dưới nhà sàn trùm lên người. Ngay lúc đó tôi tưởng địch đã kịp bắn trả bằng hỏa lực gì đó, nên vội lăn ra xa hơn, nhưng một lát thì thấy anh Trịnh và thằng Lễ chạy ra, tóc tai cháy xém. Hóa ra mấy cái bao tải dưới nhà sàn đựng toàn bông nên nó bắt lửa từ đuôi súng B40 và cháy luôn rất nhanh. Cũng may lượng bông không nhiều và quân ta cũng chạy thoát vội ra kịp. Điểm lại B40 chỉ bắn mỗi khẩu được một trái, còn AK thì không ai bắn hết cả băng. Nhìn ra ngoài nương thấy trời đã tối hơn và có mấy cái xác. Chúng tôi canh chừng cho nhau mò ra lấy được 3 khấu AR15 bên 3 cái xác, ba-lô thì bị nát nên chẳng có gì. Chắc còn có thêm thằng bị thương nhưng chúng đã chạy mất. Chúng tôi rút nhanh vào bản chờ đợi, nhưng chờ mãi không thấy gì, chắc địch cũng không có chi viện nên bỏ cuộc. Trận đánh thế là kết thúc. Tối hôm ấy chúng tôi rút thẳng vào trong bản và không dám bắt gà nữa.

   Sau trận ấy, chúng tôi còn ở lại bản Khăm Tha Lạt thêm ba ngày nữa, tổng cộng là 10 ngày chốt giữ. Mấy ngày sau thì tình hình yên ổn. Đich không hành quân qua và chúng cũng chẳng để ý đến cái bản này nữa. Thằng Điểm (Nghệ An) chuyên mò sang ngồi cùng hầm tôi gạ chuyện. Thằng này ngoan, bảo gì làm nấy và cũng khá là chịu khó. Có điều nó cứ hỏi tôi về dân Lào, nào là có hay gặp họ không, con gái có xinh không. Rồi là mình có được bắt giữ họ không, có được làm gì họ không. Tôi thấy buồn cười hỏi nó, "Thế mày định làm gì con gái Lào?". Nó ghé tai tôi nói nhỏ "Nếu bắt được một đứa, anh cho tôi …ụ nó một cái nhé" làm tôi phì cười. "Cái thằng, thế mày đi lính không được học 10 lời thế quân nhân và 12 điều kỷ luật à?". Nó gãi tai cười trừ. (Thế mà rồi cuộc đời nó cũng không được biết đến một người con gái nào. Sống đến tận ngày chiến thắng, nhưng trong một lần tham gia đóng phim dựng lại cảnh đánh phi trường Hòa Bình ở Buôn Ma Thuột năm 1975, nó lại bị hy sinh do tai nạn nổ đạn B40. Thương thay).

   Một ngày đầu tuần tháng 1/1973, toàn bộ C6 chúng tôi lại rút sang bờ Bắc công Xê Đôn, nhưng lại vòng tít ra phía Tây và ở vào gần đoạn chảy theo chiều Nam-Bắc của con sông. Khu vực này nhiều rừng già và men sông nhiều cây lúp xúp. Cả tiểu đoàn K18 cùng rút về đây. Có lẽ địch cũng do thám được tình hình đóng quân của ta, cộng với việc chiến dịch "12 ngày đêm B52 đánh phá Hà Nội" đã kết thúc nên chúng rảnh tay tập trung B52 đánh vào chiến trường Nam Lào. Vừa mới thoát khỏi những cánh rừng khôộc thưa thớt và trơ trụi lá để chui vào rừng già, hưởng cái cảm giác ấm cúng và kín đáo của những cánh rừng như trên Cao nguyên chưa được bao nhiêu thì chúng tôi liên tiếp bị ăn B52. Đây là lần đầu tiên kể từ khi vào chiến trường, tôi được chứng kiến cảnh tượng B52 đánh vào đơn vị, còn từ trước chỉ nghe lính cũ nói. Khi bị B52, lính cũ nhận ra ngay. Dấu hiệu của nó là đột nhiên thấy phản lực F105 bay thấp rà sát cánh rừng, âm thanh của nó gầm rú như muốn đè mình xuống. Độ mươi phút sau thì cả cánh rừng nghe tiếng hút gió của bom rơi xuống. Đấy là vệt bom không rơi trúng mình thì mới thấy thế, chứ nó rơi trúng mình thì cái cảm giác ấy chỉ có đem ra mà kể cho Diêm vương.  Bom xong đi qua cái cánh rừng ấy, nhìn khoảng không gian rộng lớn hoang tàn đổ nát còn khét và ngai ngái mùi cây tươi mà thấy rợn hết cả người. Con người thật bé nhỏ trước sức tàn phá man rợ của bom đạn.

   Học kinh nghiệm của lính F2 ngày trước, chúng tôi mau chóng rời rừng già ra đóng quân trong các khu rừng lúp xúp. Hầu như chiều nào cũng bị bom B52 rải đến mấy lần. Thực tình lúc ấy khá hoang mang. C5 bị dính mép một vệt bom, đi tong mất nửa trung đội. Hầu như xác tử sĩ không còn nguyên vẹn, mà chỉ như những đám thịt nát bầy nhầy. Có hai thằng hứng nguyên một quả bom, thu lại được một bọc chỉ chừng hơn 5 cân thịt, phải đem vén ra thành 2 bọc cho vào nilon gói lại kèm theo 2 cái lọ nhựa ghi tên, thế là thành 2 phần mộ liệt sĩ. Những trường hợp như thế này mà sau này có quy tập hay bốc cốt đem về thì coi như vô nghĩa. Họ đã trở về với đất mẹ và tan nhanh vào lòng đất như thế. Những chuyện này không bao giờ dám kể lại cho người thân của họ, lại càng không thể giúp cái việc đưa các bạn trở về quê hương sau chiến tranh được nữa.

   Lúc ấy chúng tôi được quán triệt phải cấp tốc đào hầm chữ A thật kiên cố. Thực ra cũng là yếu tố tinh thần thôi chứ trúng bom thì chẳng hầm nào trụ được. Chặt gỗ rừng và  khẩn trương đào hầm cả đêm. Hầm xong được một ngày, chưa ấm hơi người thì đến lượt C6 chúng tôi dính bom. Hồng phúc chúng tôi còn lớn nên cũng chỉ có B5 bị rìa vệt bom quệt vào. Một quả bom nổ dội đất gần hầm tôi và anh Trịnh đã hất nguyên cả một nửa hầm chữ A cả đất và gỗ bay lên trời. Nửa hầm còn lại may chưa sập mà nằm trơ ra lộ thiên. Tôi và anh Trịnh cùng bị sức ép bom, nhưng có cái may là hầm đã bị hở tơ hơ, sức ép bom bị giảm nên chỉ nằm lịm đi một lát chứ không bị ngất. Nhìn vào cái hố bom sâu hoắm bên cạnh mà càng nghĩ càng sợ, nhưng lại càng thấy là may. Hai anh em cũng không ai bị trúng mảnh bom nào. Khi cái khói bom trong cả cánh rừng đã loãng đi, chúng toi mới lồm cồm chui ra khỏi hầm và leo khỏi hố bom. Xem lại ba lô và súng đạn còn nguyên, thật là "phúc trùng lai". Đi loanh quanh kiểm tra thì cả đơn vị cũng chỉ bị một phen hoảng hồn chứ không ai làm sao.

   Đại đội tôi vẫn đóng quân chỗ đó vì địch không thả bom rải thảm hai lần cùng tọa độ. Máy bay T28 nó đánh bom thì lại khác, vì là đánh trực tiếp mục tiêu. Tôi và anh Trịnh phải đào một cái hầm khác, nhưng chỉ đào hầm làm mái bằng. "Sống chết có số", anh Trinh bảo thế, nhưng quả thật chúng tôi cũng chỉ còn rất ít thời gian vì lại sắp phải vượt trở lại sông Xê Đôn để đánh địch rồi.

   Bên bờ Tây sông Xê Đôn có một bản gọi là bản Bốc. Trinh sát D và E bám địch biết được lực lượng chính của GM41 của địch co cụm lại đó. Riêng GM42  của địch vẫn phân tán hoạt động lẻ. Lúc này địch cũng bị tổn thất nhiều nên chắc quân số cũng còn ít. Trung đoàn quyết đánh một trận thật to nên cho 2 tiểu đoàn K15 và K16 ép từ hai phía Tây và Bắc, còn K18 đánh qua sông từ bờ phía Đông.  Tuy thế gần phía Tây bờ sông toàn là địch nên muốn chiếm lấy một vùng làm bàn đạp, tiểu đoàn phải cho các đơn vị nhỏ của các C ban đêm vượt sông sang bờ Tây lập những cái chốt nhỏ theo kiểu cài răng lược với địch. Từ những điểm chốt đó sẽ đánh rộng ra và chiếm lấy khu vực bờ sông, cuối cùng mới hội quân làm một mũi đánh chính.

   Ngay hôm C6 bị dính bom B52 thì đêm đó một A tăng cường (4 lính) của B4 do A trưởng Định chỉ huy vượt sông Xê Đôn sang bờ Tây lập chốt. Ngày hôm sau đã có một trận đụng độ với địch. Sau này nghe kể lại, tiểu đội anh Định đào hầm ngay trên dẻo đất rộng chỉ mươi mét cạnh sông sát một cái nương lúa cũ đã gặt. Bờ sông trơ trụi chỉ lưa thưa vài cây khôộc. Tất cả đều cố đào làm lấy mỗi người một cái hầm nắp bằng với những cây gỗ mang từ bên kia sông sang. Hầm anh Định nhô hẳn ra ngoài nương. Công tác ngụy trang khá tốt, hôm ấy nắng to nên những vụn đất đào lên khô nhanh, hòa lẫn luôn với những đám lá khôộc khô xung quanh. Buổi chiều địch mới nống ra. Giữ được thế bất ngờ nên loạt đầu đã diệt được sáu bảy tên địch. Sau lần tấn công thứ hai, địch phát hiện rõ khu vực các hầm chốt nên dùng DK từ xa bắn lại. Khoảng cách khá gần, DK uy lực chẳng kém pháo tăng. Tất cả các hầm của ta đều bị sập. Chỉ có thằng Dũng bị sức ép vùi trong hầm nhưng sống sót, còn lại hy sinh tất. Thương hơn là anh Định bị trúng nguyên cả một phát DK bay hết nửa người, chỉ còn sót lại từ thắt lưng trở xuống. Đêm ấy thằng Dũng vượt sông trở về vác theo cái xác nửa người của  anh Định. Quân ta mất chốt, nhưng địch cũng bỏ không chiếm cái chốt. Đêm ấy B5 chúng tôi trở lại chốt làm nốt công tác thương binh tử sĩ.

   Thế là cạnh cánh rừng đóng quân bị vệt bom B52 của đại đội lại phải vội vã lập một nghĩa trang để làm nơi yên nghỉ cho 3 người lính của B4: A trưởng Định, người đã bị khai trừ Đảng vì bắn nhầm B phó Đương trên cao nguyên, nay mới chỉ vừa kịp được xét trở lại đối tượng Đảng và hai thằng lính chưa đủ một tuổi quân là Sơn (Nam Hà) và Bình (Nghệ An). Những cái nghĩa trang nhỏ cứ được lập vội vã như thế ở Saravan dọc theo đường chiến đấu của đơn vị, không biết đến bao giờ những người đồng chí đồng đội ấy mới được về sát bên nhau?

   Chiến trận còn đang ở phía trước và những người lính chúng tôi lại phải tiếp tục lên đường. Vĩnh biệt các đồng đội nằm lại nhé. Đây chưa phải đất mẹ, nhưng cũng là lòng đất thân thương đón những kiếp người trở về với cát bụi.

…..


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 22 Tháng Tư, 2011, 09:45:51 am
…..
   Hai hôm sau thì tất cả K18 đã vượt hết được sông Xê Đôn sang bờ phía Tây. Chỗ cái nương có khu vực chốt của anh Định thuộc một bản có tên là bản Bôc. Dọc sông Xê Đôn có nhiều bản dân nhưng họ đều phải chạy lánh nạn hết. Các đơn vị của K18 vượt sông làm bàn đạp và tổ chức tập kích địch liên tục khiến chúng tổn thất và co cụm lại. Tới ngày 6/1/1973 trinh sát D và E bám địch báo về hầu như toàn bộ các đơn vị của GM41 đã co cụm về khu vực bản Boc này rồi. Các tiểu đoàn của E9 được giao nhiệm vụ đánh một trận quyết chiến. Lúc này địch cũng đang có ý định rút khỏi Saravan. Các đơn vị của GM42 địch đang tổ chức rút về Pắc xế và bị các đơn vị của E19 chặn đánh tơi bời. Không có trận nào tiêu diệt gọn vì bình nguyên Saravan với những cánh rừng khôộc và nương dân rộng mênh mang có thể chạy khắp ngả nên khi bị đánh thường địch chỉ phản kháng lấy lệ rồi tìm đường rút. Chạy tứ tán nhưng chúng cũng tụ lại được với nhau rất nhanh và lại rút tiếp.

   Đợt vừa rồi trong khi K18 triển khai bên bờ Tây sông Xê Đôn thì ở phía Đông và Nam thị xã, K16 đã lập một thành tích đặc biệt là tập trung đánh tan được trận địa pháo cối của địch, đưa tình thế hỏa lực của địch trở lại như lúc đầu mới ra Saravan. Trận địa pháo cao xạ 23 ly cũng đã nổ súng, bắn rơi được một chiếc máy bay T28. Đây là lần đầu tiên tôi nghe tin T28 của địch bị hạ ở chiến trường này. Bộ binh dưới đất cũng đánh mạnh khiến địch không thể lập được vùng tiếp nhận hàng thả dù dưới đất nên đạn dược của chúng cũng đã cạn nhiều.

   Ngày 7/1 toàn bộ K18 và K15 được lệnh vây ép các đơn vị còn lại của GM41 đang co cụm. Cấp trên không tổ chức đánh ngay mà cho các đơn vị chúng tôi đào hầm và bao vây xung quanh. Thỉnh thoảng lại nổ súng, dã vào một ít cối 60 và B40. Cái khu vực xác định là địch co cụm cũng rất rộng, toàn cây khôộc và chúng tôi cũng không biết chính xác từng vị trí địch. Nhưng cứ vây ép và tương hỏa lực vào như thế thì thằng địch tất cũng tổn hao và hoang mang. Trong mấy ngày vây ép, chúng tôi không vất vả, nhưng khó chịu nhất là thiếu nước. Mỗi người một đùm cơm nếp to tướng gặp nắng xe khô rất nhanh, vừa cứng vừa mất mùi tuy ngửi thì cũng không hẳn là thiu. Cơm như thế ăn phải có nước mới nuốt được. Chỉ có đêm mới tổ chức mò ra sông lấy được nước, mỗi người một bi đông. Ngày nắng to quần áo hầm hập nên một bi đông nước cũng chẳng thấm tháp gì.

   Vây đến ngày thứ 5 thì địch phá vây rút chạy. Chúng tôi xông vào đuổi đánh mà không vấp phải mìn. Lúc này có lẽ địch cũng không còn mấy vũ khí, có một vài quả mìn Cleimo thì lại không cài tự động mà cài theo kiểu bấm nổ, khi chạy không kịp thu hồi nên chỉ béo cho mấy ông y tá phá ra lấy thuốc làm chất đốt. Địch bị chết một phần nhưng chạy thoát khá nhiều. Nhìn cái trận địa rất  rộng của chúng  toàn hầm hố nhưng trông thảm thương làm sao. Các vỏ bao đựng đồ ăn, băng đạn, mấy mảnh dù và những cái ba lô rách vất rải rác, nghèo nàn xơ xác. Chiến lợi phẩm chẳng có gì ngoài mấy khẩu súng bên những cái xác địch. K15 được lệnh ở lại giải quyết nốt, còn các đơn vị của K18 lập tức thu quân lên đường tổ chức truy kích địch. Trinh sát tiểu đoàn chia ra đi theo các C bộ binh. Gặp địch ở đâu là đánh luôn. Địch chạy thì ta lại đuổi tiếp. Tuy thế nhưng thằng chạy thì chủ động và nhanh hơn vì chỉ có mục đích là rút, còn quân ta đuổi theo thì vẫn vừa phải nắm địch và vừa phải dừng lại để bổ sung đạn và cả gạo nữa. Vì thế không bám sát được địch mà cứ đuổi theo sau, vài hôm lại nổ súng một lần. Có khi lần này đánh một bọn, lần sau tìm thấy địch nổ súng thì là đám khác chứ không phải đám địch cũ.

   Ngày 12/1 chúng tôi đánh một trận, diệt được dăm tên.

   Ngày 14/1 lại đánh một trận nữa, diệt vài tên. Sau trận đánh mò được vào một cái bản có tên là Tha Mư Cầu. Dân chạy hết, nhưng bản nghèo cả có gì. Dừng được một buổi rồi lại đi ngay nên cũng không đủ thời gian để những con vật nuôi quay trở lại mà bắt.

   Ngày 15/1 toàn trung đoàn 9B được lệnh hành quân trở lại Cao nguyên Boloven. Thế là sít soát 3 tháng trời ra Saravan đánh địch. Trong thời gian ấy, trong Cao nguyên bỏ trống nên địch đã chuyển quân chiếm lại đường 23. Vượt qua ba chục cây số từ ngã Ba Lào Ngam, hai tiểu đoàn Thái Lan đã kịp lập căn cứ chiếm giữ thị trấn Păc Soong, hầm hào và hàng rào thép gai đầy đủ. Thế là lại phải quay vào Cao nguyên. Chiến dịch Saravan coi như kết thúc.

   Thế nhưng trên con đường chúng tôi hành quân về Cao nguyên thì thực chất lại là cuộc ganh đua trên các nẻo đường với các đơn vị còn lại của GM41, chúng cũng rút về Cao nguyên với mục đích hội quân về Păc Soong. Đường đi có thể khác nhau vì cứ băng rừng mà đi, nhưng lại cùng hướng nên tất có lúc phải đụng độ. Không có thời gian nắm bám trinh sát tình hình của nhau, tất cả đều vội vã hành quân nên có lúc bất ngờ húc nhau và buộc phải nổ súng.

   Những ngày đó chúng tôi hành quân không có lịch nghỉ là ngày hay đêm. Cứ đi, mệt quá không đi được thì nghỉ. Hoặc giả gặp chỗ nào có nước anh nuôi dừng chân lại nấu cơm thì lính tráng tranh thủ nghỉ. Nhưng vì tất cả cùng đi nên nhiều khi anh nuôi đuổi theo không kịp. Mà có đuổi chịp, chưa chắc còn sức mà nấu cơm. Thế là lại chia ra từng B tự nấu, thay nhau mà nấu cơm. Mệt bã người, lúc nào cũng chỉ muốn ngủ. Một lần hành quân giữa đêm, tôi và anh Tụy cối 60 tụt lại phía sau một đoạn. Anh Tụy người Nam Hà, nhập ngũ đầu năm 1972 lúc  đang là thày giáo của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đâu cũng gần ba chục tuổi. Cũng không thể hiểu nổi tại sao anh ấy lại đi cùng đoàn Nam Hà. Vào đơn vị, anh ấy thuộc loại lớn tuổi nhất trong đại đội. Cả đơn vị đều trân trọng anh ấy, vì anh Thiết "quản lý" bảo, "thày giáo của Trường ĐHSP có nghĩa là thày của những người thầy", quý lắm. Người như anh ấy không thể đưa xuống bộ binh dễ chết được nên đại đội phiên chế vào A cối 60. Tính cách anh ấy cũng nhỏ nhẹ, hiền lành, đúng là người "hai lần thày".

   Thế mà lần này thì tôi rơi vào tình huống mà bây giờ mới dám kể. (Chuyện tế nhị về những người thày đâu phải lúc nào cũng bô bô kể ra được. Bây giờ anh ấy cũng đã nghỉ hưu rồi mới dám kể chứ).

   Tụt lại phía sau hàng quân là tôi có ý riêng của mình. Trong đêm trăng lờ mờ chẳng ai rõ ai, nhưng vẫn có thể nhìn thấy hàng quân đi nên không sợ lạc. Với con mắt của kẻ đã có chút ít kinh nghiệm "ca cóng", tôi phát hiện thấy ở vùng này dân họ làm những cái nhà cho gà ở ngay rìa nương chứ không làm trong bản hay thả rông hoàn toàn. Nhà đơn (không phải nhà sàn) như kiểu cái bếp ở ngoài Bắc của ta, nhưng trong đó làm những giá cao xung quanh tường để gà lên đó làm ổ đẻ hay đậu ban đêm. Không thể bắt gà, nhưng trong đó nhất định có gà đang ấp trứng. Tôi tách ra khỏi hàng quân, chạy nhanh vào một cái nhà "gà" và nhắm mắt lại một lát rồi mở ra để quan sát trong bóng tối. Nhà "gà" nghèo nàn quá, ngoài mấy con gà thức giấc lao xao thì chỉ có một ổ gà đang ấp. Tôi kiễng chân luồn tay vào ổ dưới bụng con gà mẹ. Chỉ có độ chục quả trứng, ít quá nên tôi chỉ dám lấy một quả. Nghe có tiếng động, tôi nép vội vào một góc thì thấy một bóng người lẻn vào, cũng rất nhanh lần đến ổ trứng và thò tay vào. Lúc người ấy lùi ra thì húc phải tôi. Hơi giật mình nhưng chúng tôi nhận ra nhau rất nhanh. Hóa ra là "thày" Tụy. Trong bóng tối cả hai không nhìn rõ mặt nhau, nhưng chắc đều ngượng nghịu. Anh Tụy bảo: "Thôi, húp nhanh đi cho nó khỏe rồi còn đi cho kịp". Được lời, tôi mới bóc hai đầu quả trứng ra húp sống, tỉnh cả người. Cũng may nó là trứng gà mới chứ nếu sắp "lộn" rồi thì công cốc. Có lẽ nhờ quả trứng sống bồi dưỡng kịp thời nên tôi khỏe thêm, chỉ một lúc sau đã lọt được vào đội hình hành quân của đơn vị. Sau này có lúc nằm hầm rỗi rãi, anh Tụy mới nói lại chuyện này. Anh bảo, "mình ăn trộm chưa hẳn day dứt là của dân, mà cái chính là trộm của con gà mẹ, của một con vật đáng thương và bất lực. Nhưng thôi, cứ đổ cho chiến tranh cậu ạ. Đôi khi cũng phải bỏ qua danh dự và liêm sỉ để mà sống. Sống được trở về là có tất cả". (Ngay sau chiến tranh, cuối năm 1975 anh Tụy đã được giải ngũ. Có lẽ anh trở lại Giảng đường ĐHSP để đứng trên bục giảng hùng hồn kể về những năm tháng hào hùng của lớp trai thời chiến cho lứa sinh viên mới. Chắc cũng chẳng có lúc nào để nhớ lại về quả trứng gà ăn trộm trong một hoàn cảnh khá đặc biệt của đêm hành quân Saravan).

   Những ngày hành quân trở lại Cao nguyên là một chuỗi ngày mệt mỏi và rã rời. Có lúc mệt quá cả quan bé lẫn lính cứ nằm lăn lóc rải rác ven đường. Bị thúc dậy có khi đi loạng quạng một đoạn vài trăm mét lại rúc luôn vào một cái bụi nào đó mà ngủ. Khổ nhất là cán bộ C, các anh CTV. Thúc được thằng này đi thì thằng khác lại lủi vào bụi. Cả hàng quân đi nhệch nhạc như thế, chẳng biết hiệu quả hơn hay tổ chức đi và nghỉ có giờ giấc thì hiệu quả hơn. Có lần anh Mỵ mới lên làm CTV của C tôi phải đứng ra giữa đường hô to: "Đảng viên, đoàn viên đâu? Giấy khen, bằng khen đâu? Đi đi chứ? Tiến lên đi các đồng chí!" nghe mới sầu thương làm sao. Kiểu này mà bất ngờ húc phải địch, bị nó đánh cho tan tác là cái chắc.

   Vậy mà không phải thế. Ta mệt thì địch cũng mệt và cùng mất cảnh giác. Hơn nữa khi vào tình thế chạm địch thì lính ta tỉnh nhanh lắm. Phía trước chúng tôi khi đó là K15. Vào đến vùng giáp ranh giữa Saravan và Cao nguyên thì bất ngờ C2 đụng địch. Đoạn đó có hai con đường xe bò đi sát nhau, hoặc có thể là một con đường thôi nhưng rất rộng và chia thành hai vệt đường cách nhau bởi một hàng lau sậy mọc cao và rộng tới hơn một mét. Lính C2 đi vệt bên phải và đang ngồi nghỉ giải lao. Mệt nên chẳng ai nói chuyện gì, chỉ buồn ngủ nên cũng không có ai hút thuốc, đó chính là điều may mắn. Được ít phút rồi mé bên đường phía trái thấy rậm rịch có người. Đại trưởng C2 vạch lau chui qua xem đơn vị nào. Tỉnh cả người khi phát hiện ra là địch và thật trùng hợp, chúng cũng dừng lại nghỉ giải lao. Vì mệt nên mất cảnh giác chứ nếu không thì dù là trong đêm chúng cũng có thể phát hiện ra quân ta. Đại trưởng C2 thụt lại, gặp nhanh các cán bộ B trao đổi. Thế là rất nhanh và bí mật, lính ta được dựng dậy phổ biến tình hình và lên phưong án tác chiến. Nói thì chậm chứ mọi việc diễn ra lúc đó rất nhanh và khẩn trương. Lính C2 chui qua hàng lau sậy và xả súng như mưa vào những tên địch đang trong tư thế ngồi ngái ngủ. Bọn địch chết như ngả rạ và không thể có phản ứng gì dù chỉ là rất nhỏ. Trận đánh có lẽ chỉ độ 2 phút là cùng. Kiểm lại trận địa được hơn ba chục xác lính, chắc là một đại đội địch. C2 tổ chức thu dọn trận địa rất nhanh rồi lên đường hành quân tiếp luôn sau khi đã báo cáo cấp trên.

   Rạng sáng thì chúng tôi cũng được thông báo tình hình và quán triệt tinh thần cảnh giác cao độ. Trinh sát tiểu đoàn phải làm việc nhiều hơn vì có thể còn gặp địch. Khi chúng tôi hành quân qua khu vực C2 nổ súng hôm trước, nhiều thằng trong C tôi chui qua thăm dò gỡ gạc, nhưng chỉ được một ít lựu đạn tròn. Các thứ khác C2 đã vét sạch rồi, nhanh thật.

   Sang nửa cuối tháng 1/1973, chúng tôi vào đến vị trí tập kết trong Cao nguyên. Nơi đây là một cánh rừng Bằng lăng mọc xen kẽ trên vùng đất đá. Rộng ra xa là các dải đất hẹp toàn lau lách. Đào được một cái hầm là cực kỳ khó khăn nhưng vẫn phải đào. Mỗi A đào chiếu lệ hai ba cái hầm nắp bằng dựa vào các phiến đá. Một con lạch nhỏ rộng chừng nửa mét, sâu độ hai chục phân chảy cách khu trú quân dăm chục mét. Chúng tôi được nghỉ vài ngày chuẩn bị hậu cần cho trận chiến đấu mới. Lính tráng thay nhau tắm giặt ở con lạch nhỏ đó. Thời gian nghỉ ngơi còn lại toàn chơi bài tiến lên. Vật chất không có gì, kể cả chè và thuốc lá. Vài thằng láu cá tranh thủ mò ra các khu vực xa hơn kiếm thuốc lá của dân, nhưng vùng này xa bản nên cũng chẳng có gì. Chào vao nhìn nhau cả ngày, nhưng được cái có thời gian nghỉ ngơi nên cũng thoải mái.

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thanhh63 trong 22 Tháng Tư, 2011, 09:07:18 pm
Cám ơn bác trongc6, đọc bài của bác về trận Đồng Dù, em cũng như các anh em cựu binh E 48 ( giai đoạn 79 - 83 ) mới sáng mắt vì cái thật của trận đánh dưới con mặt của bác - người trong cuộc. Một điều đặc biệt nữa, bác viết rất mộc mạc, rất lính, đọc rất thích. Cám ơn bác rất nhiều


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: quangcan trong 25 Tháng Tư, 2011, 04:33:30 pm
Nhận lệnh hành quân, hướng thứ yếu, phối thuộc cho bác Trongc6 nhé: bản đồ Păk Sòng, Păk Sế. Cứ tạm cái bản đồ này đã, chi tiết em sẽ có bản đồ khác sau.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 09 Tháng Năm, 2011, 11:02:00 am
Cảm ơn bạn Quangcan đã giúp bản đồ.
------------
….
   Thế là lại về Cao nguyên. Trong mấy ngày lính tráng nghỉ ngơi thì các cán bộ C đi họp túi bụi để tổng kết chiến dịch Saravan và nhận kế hoạch tác chiến mới. Ở khu vực này chơ vơ toàn cây Bằng Lăng mọc trên vùng đất đá nên cũng thưa thớt chẳng kém gì rừng khôộc Saravan. Chúng tôi phải làm những cái lán nhỏ như những cái lều chợ, chủ yếu là mái để che bớt nắng. Sang giữa mùa khô rồi nên không sợ mưa. Cũng không mắc võng được nên tất cả trải ni-lon nằm đất. Mà cũng phải loay hoay mới kiếm được chỗ đất bằng ở cái nơi toàn đá lổm nhổm này.

   Sau vài ngày nghỉ là lại cùi đạn và gạo. Lần này chúng tôi tránh xa các bản dân. Chắc cũng vì nhiệm vụ, nhưng thực tình chúng tôi chưa đóng quân trong bản dân bao giờ. Chúng tôi tập trung chuyển đạn từ những cái kho làm vội trong các bãi lau đến khu vực thị trấn Pak soong. Ô tô tải chuyển đạn đến ban đêm thì hầu như hôm sau các đơn vị bộ binh đến chuyển đi hết. Công tác này gọi là lót đạn. Chúng tôi lờ mờ đoán là chuẩn bị đánh bọn Thái đang lập căn cứ ở Thị trấn. Đánh nhau trở thành chuyện thường ngày rồi. Lúc này chúng tôi vẫn chưa biết thêm tình hình gì trên thế giới cũng như ngoài Bắc. B52 của Mỹ dạo trước đã đánh Saravan, nay tiếp tục đánh vào cao nguyên, xung quanh Thị trấn. Không có trinh sát mặt đất, nhưng chúng cứ rà theo bản đồ rồi nhằm khu vực có rừng xanh mà thả bom tọa độ. Trung đoàn phổ biến cho tất cả các đơn vị không được trú quân trong rừng già. Khi đi cùi đạn gạo chỉ đi theo đội hình từng B hơn chục người. Lúc đi lại phải chú ý nghe ngóng. Hễ có dấu hiệu phản lực F105 bay rà sát trên đầu thì phải mau chóng chạy ra các bãi gianh hay khu rừng trống để nghỉ ở đó, chờ bom xong mới đi tiếp. Ngày nào cũng có B52 thả bom. Có chỗ chúng tôi vừa đi thoát, có chỗ hôm sau mới tới lại phải tìm đường vòng. Có hai lần chúng tôi phải nằm rạp trên bãi cỏ tranh, chứng kiến bom rơi thả vào ngay khu rừng cạnh đó chỉ hơn trăm mét, nghe tiếng đất đá bay rào rào. Cái cảm giác nghe tiếng bom nó hút xuống rờn rợn, bây giờ hình dung lại vẫn thấy ghê.

    Ngày 26/1 chúng tôi được ăn tết Quý Sửu sớm. Gọi là ăn Tết vì hôm đó cả tiểu đoàn được nghỉ cùi cõng và được ăn xôi kèm thịt lợn. Chè thuốc vẫn chưa có gì. Đoạn này là tùy sự tháo vát của lính tráng thôi.  Anh Dũng (người Nghệ An, B trưởng B5 từ lúc ở bản Khăm Thà Lạt) dẫn lính mò đi rất xa tìm bản dân đổi chác xin xỏ gì đó nên tối hôm ấy sau khi cơm nước xong, cả B tập trung hút thuốc rê và uống cà phê. Cà phê bột cho vào túi dù rồi bỏ vào xoong 6 đun lên, mỗi lính được một bát B52 đầy. Khu vực này trống trải, xa dân nên nói cười thoải mái.

   Từ hôm sau lại đi lót đạn bình thường. Tối 28/1 chúng tôi tập trung cả C nghe CTV phổ biến Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam vừa mới ký. Không có đài nên thông tin phải phổ biến từ trên xuống. Nội dung cụ thể thì cũng không rõ lắm, nhưng mừng là chiến tranh ở Việt Nam đã chấm dứt. Lúc này chưa có phổ biến gì về âm mưu thủ đoạn tiếp theo của địch. Chúng tôi chỉ biết là đất nước đã hòa bình. Bây giờ lại thương cho chính mình đang ở trên đất bạn, vẫn còn chiến tranh và vẫn phải đánh nhau, chả biết đến bao giờ mới hết.

   Có lẽ phấn khởi vì kết quả của Hiệp định Pari và cũng có thêm điều kiện nên Trung đoàn cho chúng tôi ăn Tết lần nữa. Ngày 31/1 có tới một nửa quân số đơn vị không phải đi cùi đạn mà tập trung đi nhận nhu yếu phấm và thịt lợn cũng như kiếm thêm cái gì đó để cải thiện. Nhiều B còn vẽ vời kiếm ít hoa rừng buộc thành tùm treo trong lán cho có không khí Tết. Thế là được ăn Tết 2 lần. Ăn thì vẫn chỉ xôi với thịt lợn, không có rau, dù chỉ là vài nắm rau tàu bay. Một ít nõn chuối sát gốc thái nhỏ bóp muối cũng chỉ tạo được cảm giác man mát một chút. Hậu cần của đoàn 559 chuyển vào được cho chúng tôi cứ 4 người được một hộp mứt tết 250 gram, mỗi người 6 điếu truốc lá Trường Sơn. Mỗi trung đội được một gói chè Ba Đình loại 30 gram. Tuy không thể sánh được với thuốc lá đầu lọc hay cà phê cao nguyên, nhưng như thế là quá tuyệt vì đây là hương vị miền Bắc, lại đúng vào lúc chúng tôi chẳng còn gì. "Biết sống đến mai mà để củ khoai đến sáng", thế là tối đó cả đại đội liên hoan bằng hết. Vài miếng mứt tết như mứt bí, mứt gừng hay cà rốt nhấm nháp với nước chè lại gợi lên cảm giác nhớ nhà. Đây là cái tết đầu tiên trong lính của tôi vì tết trước chúng tôi được về phép ăn tết với gia đình. Thực ra vật chất thế này cũng tạm ổn vì ở nhà (ngoài Bắc) tiêu chuẩn Tết mua theo tem phiếu cũng chả có bao nhiêu. Chỉ hơn ở nồi măng, đĩa rau, miếng bánh chưng và nhất là không khí gia đình. Gia đình tôi có 5 khẩu cũng chỉ có một hộp mứt 500 Gram và một gói kẹo mềm (nhưng rất cứng, gói giấy) độ vài lạng gì đó thôi. Khi thưởng thức cũng phải chờ buổi tối quây quần cả gia đình mới mở ra nhấm nháp.

   Đêm 30 Tết cả đại đội xuất quân, tiến sâu hơn vào Thị trấn Pak soong chừng hai chục cây số làm nơi tập kết mới. Ngày 01 Tết phổ biến nhiệm vụ và làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Cả trung đoàn 9B tập trung đánh căn cứ của tiểu đoàn Thái 4001 nằm ở phía Tây Bắc thị trấn Pak soong. E19 tập trung đánh các đơn vị cả Thái và Lào ở phía Nam thị trấn dọc xuống đường 23. Trận đánh của E9 sẽ là trận chính. Suốt cả chiều 30 và ngày mồng 1 tết, chúng tôi tập trung làm công tác chuẩn bị y như những lần đánh công kiên trước đó. Súng đạn chuẩn bị theo cơ số (cối 60: 50 trái, B40 và 41 mỗi khẩu 7 quả. M79 40 trái, xung lực AK 250 viên). Tất nhiên vẫn phải chặt gỗ để vác theo làm hầm. Bao cát không có nhiều nên phải vào các khu hầm cũ của cả ta và địch quanh đó để tìm kiếm, gạn lọc và rọc ra thành tấm để lót. Lần này C5 sẽ làm nhiệm vụ mở cửa (hướng Tây) nên chúng tôi không phải chuẩn bị mìn DH. Trên cao nguyên vốn dĩ hàng rào của địch không nhiều nên các đại đội làm thê đội hai không phải chuẩn bị bộc phá ống.  C6 chúng tôi cũng chỉ có hơn nửa đại đội bố trí nằm sau cả C7, nghĩa là đơn vị vào căn cứ sau cùng. Nghe phổ biến K16 sẽ mở cửa làm một mũi hướng Đông Bắc, còn K15 đón lõng và đánh viện binh ở vùng sát với Thị trấn. Riêng B5 tăng cường chúng tôi được làm nhiệm vụ độc lập, làm một mũi đón lõng ở hướng Đông Nam, cách căn cứ địch khoảng 800 mét. Hướng này không có đường từ căn cứ đi ra (căn cứ nằm trên một quả đồi), nhưng lại có một cái bản nằm sát quả đồi bên cạnh và có vệt đường xe bò từ bản đi về Thị trấn. Cấp trên dự đoán nếu bị đánh mạnh hai hướng (phía K18 và K16), có thể địch phá hàng rào rút chạy ra hướng Đông Nam để về Thị trấn.

   Sáng 2 Tết Quý Sửu (ngày 4/2/1972), tất cả chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ. Có hai việc khác thường mà sau này chúng tôi mới biết rõ. Thứ nhất là một B trưởng của C5 tên là N.V. Tải đang chuẩn bị làm hồ sơ để phong anh hùng. Không biết các đơn vị khác thế nào chứ trong phần truyền thống trung đoàn chúng tôi, ngoài anh hùng Cù Chính Lan diệt xe tăng ở đường số 6 Hòa Bình trong thời chống Pháp, không thấy kể tên các cá nhân được phong anh hùng LLVT thời chống Mỹ, mặc dù trong lính cũ có rất nhiều người là dũng sĩ diệt Mỹ, đánh xe cơ giới, thậm chí có dũng sĩ bắn rơi trực thăng bằng B40. (D trưởng K18 chúng tôi là Lê Quang Huân dạo chiến dịch Mậu Thân đánh Huế nhảy lên cướp xe M113 của địch rồi dùng đại liên bắn tiêu diệt tới trên 100 tên địch mà cũng chưa được phong anh hùng. Giữa năm 1972 anh ấy được ra Bắc bổ túc rồi sau đó về làm E trưởng E19 của sư đoàn). Anh N.V. Tải chính là người lính trong chiến dịch Mậu Thân đã dùng B40 trên một quả đồi bắn cháy một trực thăng địch khi nó sà xuống chân đồi. Mãi không có anh hùng, lại sợ trận này ác liệt anh ấy hy sinh thì hỏng to nên trung đoàn quyết định cho anh ấy nghỉ lại ở hậu cứ. C5 thiếu một B trưởng cứng, nhưng cũng đành chấp hành lệnh cấp trên.

   Trường hợp thứ hai là đại trưởng Hùng của C tôi. Anh Hùng người Hà Tây, cao to trắng trẻo đẹp mã và cũng lãng tử lắm, tài "ca cóng" thuộc hàng đẳng cấp, nhưng lại rất mê tín. Vẫn biết sống chết có số, nhưng từ khi có đoàn tân binh Nghệ An bổ sung ở Saravan tháng 12/1972 vừa rồi vào C5 có một thằng cũng tên là Hùng, nghe lính mới đồn nhà nó có truyền thống xem tướng số giỏi lắm, đại trưởng Hùng hay nhân các lúc đi công tác để mò sang C5. Chả biết trò chuyện thế nào mà rồi tin và quý nó lắm. Trước trận này, anh Hùng có sang bên đó chơi. Nghe nó phán sắp tới anh có điềm gỡ, nhưng có thể tránh được, thế là đại trưởng lăn ra ốm. Tất nhiên trước sau gì thì trong lính rồi cũng biết là ốm ra sao, nhưng lúc đó chúng tôi chỉ nghe tin là anh ấy ốm nặng. Thế là trận này đại phó Chèo phải cầm quân (sau khi kết thúc chiến dịch Saravan, anh Chèo đã được lên đại phó). Mũi đón lõng của trung đội tôi được tiểu đoàn cử anh Điện là trợ lý tác chiến tiểu đoàn xuống tăng cường và chỉ huy.

   Vì đường xa nên sau bữa cơm trưa, nhận bọc cơm nếp to tướng cho 3 ngày ăn nhét vào balo là tôi có mặt trong hàng quân ngay. Nhưng khổ nỗi cái gói cơm nếp nóng trong balo tỳ ngay vào lưng nên rát quá, cứ phải ngọ nguậy như bị bọ chét cắn. Anh Trịnh phải bẻ một nắm lá tươi to tướng nhét vào đệm chỗ đó giúp tôi, nhưng cũng chỉ đỡ được một chút thôi. Chưa đi mà mồ hôi đã vã ra ướt cả lưng áo. Đầu giờ chiều, đơn vị xuất phát. Đi chung được một tiếng thì B5 chúng tôi tách ra đi hướng riêng, có 2 trinh sát D dẫn đường. Trong hai trinh sát, có anh Hợp người Hà Tây là một trinh sát cứng mà trung đoàn đang nhăm nhe rút lên. Chả là hồi ngoài Saravan đẳng hướng như thế, vật chuẩn thì nhìn đâu cũng như nhau, thế mà anh ấy phải nhận dẫn đường cho một đơn vị của sư xuống kiểm tra tình hình và đặt sở chỉ huy theo dõi chiến dịch. Hơn 12 cây số mà anh ấy chỉ nhìn bản đồ, soi địa bàn một lát là đạp thẳng một lượt dẫn cả đoàn đến đúng khúc suối định đặt bản doanh, chệch chưa đến chục mét. Chỉ riêng vụ đó đã được thưởng một huân chương chiến công hạng 3. Lần này có lẽ nhờ có anh Điện vốn ở D bộ xuống tăng cường nên kéo được anh Hợp theo.

   Vẫn luồn rừng mà đi. Lần này quân đông nên cấp trên chọn vị trí tập kết xa căn cứ địch. Trời tối thì chúng tôi cũng lọt vào khu vực thị trấn Pak Soong. Để đến được nơi đào hầm, chúng tôi phải vượt qua một cái đầm nước khá rộng. Tất cả ngồi nghỉ trên bờ chờ trinh sát thăm dò tiếp. Tất cả chúng tôi hạ gỗ và balo rồi ngồi xoài ra nghỉ. Ngọ nguậy và xoa bả vai cho đỡ mỏi. Chỗ này trống trải, nhìn lên trời chỉ thấy sao, không có trăng vì là ngày đầu tháng. Mọi phía nhìn chỉ nhờ nhờ, nhưng cũng đủ nhận ra nhau cách độ hai ba mét. Trời khá mát mẻ. Không ai được hút thuốc. Trinh sát quay lại, tất cả được phổ biến nhanh là phải bám sát nhau, đầm không sâu nhưng dưới nước và ven bờ có nhiều lá tôn cũ vất dưới đó nên chú ý kẻo dẫm lên phát tiếng động, hoặc vấp vào thì què châm. Chỉ có ít người nên cứ chầm chậm mà tiến. Chúng tôi không phải mũi chính, lại càng không phải làm nhiệm vụ mở cửa nên không vội. Chúng tôi có thể đào hầm tới tận sáng cũng được.
 
   Sau khi vượt đầm nước, đi thêm độ dăm trăm mét thì tới vị trí triến khai. Trinh sát D quay về còn chúng tôi bắt đầu đào hầm. Đây là một cái bản cũ, nhà cửa đã sập, chỉ còn sót lại một cái nhà sàn nhỏ gần như còn nguyên nhưng thiếu mái che. Vài chỗ khác còn lại ít cột nhà đã hỏng. Cả Trung đội chia nhau đào thành 5 cái hầm, hai người một cái thành hình cánh cung quay về trận địa địch. Anh Điện và B trưởng Dũng nhận ngay cái gầm sàn của ngôi nhà còn sót để đào hầm. Tôi với anh Trịnh đào phía rìa phải, gần một bụi tre, phía lưng dựa vào một cái vách nhà sàn cũ đã sụt. Chỗ đó vừa kín được gió, vừa che được khá kín. Đào thêm một cái ngách cho hầm là có thể chui vào đó bật lửa châm thuốc hút được rồi. Mùa khô nhưng đất cao nguyên mềm nên chưa sáng chúng tôi đã đào xong hầm. Có thể nói là khá chắc chắn. Ngồi hai người thì đủ, nhưng nằm thì không thể. Mỗi người một phía ngách hầm nếu có đánh nhau. Anh Điện, anh Dũng rồi cả chúng tôi cùng được trèo lên cái nhà sàn không mái, kê đòn gỗ làm thang rồi nhìn về phía trận địa địch nhưng chẳng thấy được gì. Ít nhất là chúng tôi được nghỉ cho tới khi trận địa nổ súng nên làm xong điếu thuốc là cả tôi và anh Trịnh cùng trải nilon ngay bên miệng hầm mà ngủ. Chỗ này chẳng phải gác sách gì.
   …


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 09 Tháng Năm, 2011, 03:43:41 pm
...Tất nhiên vẫn phải chặt gỗ để vác theo làm hầm.

Bác Trongc6. Từ tr­ước tới nay tới nay tôi vẫn hình dung chiến trường Lào là chiến trường rừng núi cho nên việc lấy cây rừng làm hầm thuận lợi hơn rất nhiều, ấy thế các bác đi trận ngoài vũ khí trang bị còn phải mang theo gỗ làm hầm thì quả là cực thật đấy. Chúng tôi ở đồng bằng ven biển QT làm hầm thì tận dụng gỗ, ván, tôn ở nhà dân để làm hầm.  


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: binhyen1870 trong 14 Tháng Năm, 2011, 02:22:15 am
http://www.quansuvn.net/index.php/topic,6323.270.html
1 năm đời lính thực của bác bằng 20 tháng trong quân sử ::) ::) bác hành quân nhanh lên đi ạ ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 14 Tháng Năm, 2011, 08:57:31 am
Bác Trongc6.

Hồi học YHB lớp 8A của bác có cậu Thắng (dân Trỗi về là con 1 vị sĩ quan Cục 2 (ông L. th...), cậu này quậy quá trời. Chị gái hắn học cùng khóa với tôi, suốt ngày phải theo nó. Bà cụ nhà Thắng hồi đó là CH trưởng Mậu dịch 12 Bờ Hồ. Sau này 1 lần vào QT tôi có gặp Thắng, nó bảo nó đi lính 1971 sau vào trinh sát ở Cục 2 có bám địch để chuẩn bị cho chiến dịch QT 1972, nó có nói là chúng nó dùng máy quay phim quay được căn cứ Đông Hà, 241, 544...để làm tư liệu cho Bộ TTM. Dân Trỗi như bác TTNL, PQ, VT có biết nhân vật này không. Ngày xưa nó trong nhóm ở Trỗi về cũng là con mấy cốp nên quậy lắm, mấy chục năm nó lại cũng nổ không kém.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 16 Tháng Năm, 2011, 10:05:56 am
@ bác LexuanTuong.
   
     Ngày đó trong lớp 8A YHB có 2 thàng ở Trường Trỗi về. Một là Tạ Quang Chính (con trai GS. Tạ Quang Bửu). Thằng này hiền lành, ít nói không để lại nhiều ấn tượng. Thằng thứ 2 chính là thằng Thắng mà bác nói (bác nhớ kỹ quá nhỉ). Thằng này học làng nhàng nhưng nghịch ngơm lắm. Vì cái gốc dân Trỗi nên không mấy ai động vào, dù trong lớp tôi cũng có nhiều thằng thích đánh nhau.
------------------
(Tiếp tục hành quân...)

       …
   Mờ sáng, chúng tôi cùng dậy trước khi có lệnh nổ súng. Anh Điện có đồng hồ nên thúc chúng tôi dậy trước 5 giờ. Chúng tôi được leo lên nhà sàn nấp trong đó để xem trận đánh. Thật ra xa đến 800 mét nên nơi này rất an toàn, nếu như không bị bom pháo. Phía trận địa cũng chẳng nhìn thấy gì, tối om. Đến lúc sáng hơn thì thấy toàn màn sương trắng đục.

   5h00 sáng. Phía trận địa thấy có chớp lửa bùng lên rồi mới nghe tiếng nổ. Tiếng nổ không to. Rồi bắt đầu thấy trong căn cứ địch chớp lửa lóe lên loáng nhóang. Đấy là pháo cấp trên chi viện. Đạn dược có vẻ nhiều nên thấy bắn khá lâu. Lúc này nhìn quang cảnh như xem đánh trận giả. Chắc ngày xưa ở Điện Biên Phủ các cấp chỉ huy nằm trên núi cao xung quanh thung lũng Mường Thanh quan sát bộ đội đánh nhau có lẽ cũng như thế này. Có khi còn không rõ bằng chúng tôi. Sương tan dần nhưng thú thật là ngoài những chớp lửa lục bục thì cũng chẳng thấy gì rõ cả. Chúng tôi chỉ nhìn được đại thể chứ không nhìn rõ cửa mở của C5. Cửa mở của K16 khuất phía bên kia căn cứ nên càng không nhìn thấy gì. Lúc pháo cấp trên chuyển làn bắn sâu vào căn cứ để bộ đội xung phong, anh Điện phải nhắc chúng tôi mới biết. Tiếng hỏa lực B40 nghe cũng bé tẹo, không bằng tiếng pháo đất trẻ con chơi. Mãi mới nhận ra tiếng 12ly7 lạch tạch, còn xung lực AK thì chẳng nghe thấy tiếng. Xem xong cảnh mở màn, anh Điện bắt chúng tôi về hầm, chỉ còn một người ở lại quan sát. Nếu thuận lợi thì trận đánh cũng phải cỡ nửa tiếng nữa mới tạm ổn. Nếu địch có rút chạy thì cũng phải thêm độ nửa tiếng nữa chúng nó mới có thể đến được đây. Vậy là một người quan sát, còn lại tất cả lấy cơm ra ăn rồi ngồi hút thuốc chờ đợi.

   Mũi chúng tôi không có điện đài đi theo nên chủ yếu trông chờ phán đoán và xử lý tình huống của anh Điện. Cái nhà sàn sẽ là đài quan sát rất tốt, nhưng vì nó không có mái nên trống hoác, anh Điện phải cho chặt mấy cây tre gần đó rấp lên để ngụy trang. Tất nhiên là cũng không hợp lý lắm nhưng như thế còn hơn để tơ hơ, L19 nhìn thấy thì chết với nó. Vẫn phải cử một người rúc trong cái đám cành lá tre đó nhô đầu lên quan sát tình hình. Một tiếng đồng hồ căng thẳng trôi qua, không có động tĩnh gì. Một ít thuốc rê còn sót lại từ dịp ăn Tết sớm tuần trước đã hết veo. Ngồi phục bây giờ giống như ngồi chốt, thấy buồn buồn.

   Trời sáng hơn và sương mù tan dần khi có nắng. Vùng đất cao nguyên thì nơi nào cũng giống nhau. Mùa khô nếu sáng sớm có sương mù thì rồi sẽ có nắng. Sương mù sớm càng đặc thì nắng trưa càng to. Phía trận địa Thái 4001 bây giờ không còn pháo cấp trên dập vào nữa, nhưng trong đó vẫn nghe có tiếng nổ lục bục của hỏa lực hai bên. Nắng hơn nữa thì bắt đầu nghe tiếng vè vè rồi một máy bay trinh sát L19 xuất hiện. Hình ảnh của nó trên cao nguyên quá quen thuộc rồi. Anh Điện ra lệnh tất cả im lặng và tụt nhanh khỏi nhà sàn. Thằng L19 chỉ đảo có vài vòng là bắn pháo khói ngay. Nó bắn vào khu vực cửa mở của C5. Chẳng phải chờ lâu, bầu trời vang động tiếng ì ì của máy bay. Chỉ ngồi dưới gốc cây ngửa cổ lên cũng nhìn rõ hai chiếc máy bay ném bom T28 từ hướng Phù Chiêng bay tới. Cửa mở C5 bị đánh bom ngay lập tức. Ngồi xa nhìn rõ và nghe tiếng bom nổ "ục" và khói to hơn vết đạn pháo nhiều. Sau này chúng tôi được biết hướng cửa mở K16 địa hình hơi phức tạp nên chưa mở xong hàng rào ngay từ loạt mìn DH đầu tiên. Vướng cái hàng rào bùng nhùng đánh bộc phá mãi chưa được. Hướng C5 tuy mở thông hàng rào nhưng địch kịp lập các ụ súng phòng thủ ngay trước cửa mở bắn mãnh liệt vào bộ binh ta. Bộ binh làm nhiệm vụ chiếm đầu cầu bị tổn thất một trung đội mà chưa chiếm xong đầu cầu, lại bị bật ra. Địch điều cả DK ra bít cửa mở nên đội hình hỏa lực của D cũng bị tổn thất. Một khẩu 12ly7 bị trúng một phát DK bay mất cả khẩu đội. Thế là tạo thành thế trận giằng co. Đến khi sương tan thì địch cho T28 đến ném bom ngay vào cửa mở. Tiểu đoàn ra lệnh cho bộ phận phía trên sát hàng rào thì ép luôn lên sát hàng rào hơn nữa, còn bộ đội phía sau thì lùi xa lại để tránh vùng ném bom ở giữa. Thế trận chuyển sang đánh vây ép. Thực chất quân ta cũng có nhiều khó khăn hơn so với đánh D621 Thái trong ngã Ba Lào Ngam mấy tháng trước. Không có xe tăng chi viện. Hai tiểu đoàn bộ binh mang tiếng là to nhưng số tay súng bộ binh mỗi D cũng không đến trăm người. Ngay C tôi nếu tính cả cán bộ C và liên lạc mới đủ ba chục, mà mũi chúng tôi đã tách ra mất 10 người rồi. Tất nhiên không kể 3 lính A cối 60. Còn bên địch một tiểu đoàn Thái đầy đủ kể cả bọn hỏa lực tại chỗ có thể tham chiến được chắc cũng không dưới 200 tên. Tại nơi này, địch chỉ kém chúng tôi về pháo vì pháo từ Phù Chiêng của chúng không thể bắn tới. Tất cả lợi thế dồn vào máy bay nên chúng chi viện ngay.

   Chúng tôi ở khu phía Đông Nam quan sát rõ mồn một trận đánh của máy bay, chẳng khác gì ngồi chốt trước trận đánh ngã Ba Lào Ngam hồi tháng 10 năm ngoái. Lại như xem phim và lại tiếc giá có phóng viên đi cùng quay phim ghi lại được cảnh này thì tha hồ tư liệu. Không biết địch ở Nam Lào có bao nhiêu máy bay T28, nhưng có lúc trên bầu trời đủ cả 4 chiếc. Cửa mở hướng K16 cũng bị đánh bom và bộ đội có tổn thất. Bây giờ thì yếu tố bất ngờ không còn nên đành phải quay ra đánh theo kiểu vây lấn. Lần đầu tiên ở chiến trường Nam Lào bộ đội ta phải đào thêm cả giao thông hào. Buổi chiều địch đưa cả phản lực đến đánh bom. Tôi không thạo về máy bay lắm nên cũng chẳng rõ chúng là loại gì, nhưng bọn phản lực ném bom xem ra ghê hơn T28 nhiều. Nếu như T28 vè vè thả từng quả và ở bãi trống có thể vừa quan sát vừa chạy được, thì với phản lực nó nhanh và tiếng động gây uy hiếp lắm. Chúng tôi ở tít xa quan sát cũng thấy sự uy hiếp của nó. Hình như 12ly7 của ta phía trận địa cũng tổ chức bắn lại.

   Chiều tối dần và ngày thứ nhất trôi qua. Chiến sự diễn ra chủ yếu là các trận nem bom của địch. Ở trận địa chính anh em rất vất vả còn chúng tôi ở ngoài này vẫn yên ổn. Đấy chỉ là qua quan sát mà biết thôi. Buổi tối anh Điện cho anh em ra đầm nước lấy nước bổ sung để chuẩn bị cho ngày mai. Anh ấy vẫn bình tĩnh mặc dù chúng tôi không liên lạc được về tiểu đoàn. Anh ấy cũng đoán là chưa dứt điểm được căn cứ. Tình hình chuyển sang vây ép thế này chắc cấp trên cũng đã dự liệu nên mới cho chúng tôi mang đi 3 ngày cơm đùm chứ? Đêm hôm ấy chúng tôi phải tổ chức gác đề phòng có tình huống gì khác, nhưng chắc chưa phải đánh phục kích vì kiểu này địch nó còn trụ lại chứ không đơn giản tự chạy khỏi căn cứ.

   Thuốc lá đã hết và tất nhiên lính tráng thấy mồm miệng rất nhạt. Sáng ngày hôm đó, sau khi phán đoán tình hình còn lâu mới đánh xong, chúng tôi bắt đầu ngó nghiêng cái bản bỏ nơi mình đang chốt giữ. Bản nhỏ, nhà cửa tan nát hết, nhưng vùng đất cao nguyên vốn trù phú nên những cây trồng dù không người chăm sóc cũng có khả năng hồi phục sau nhưng biến cố bom đạn. Trong bản, ngoài mấy bụi tre xanh mướt ngoài rìa thì còn sót lại chừng dăm cây bưởi. Cây nào cũng to, quả sai trĩu cành. Độ này bưởi đã đủ già nên không phải lo hai nhược điểm dễ gặp là non hoặc he. Anh Điện cho lính trẩy bưởi xuống. Ở đây xa địch, chứ lặng lẽ nhẹ nhàng mà thao tác thôi. Bổ bưởi ra thấy may mắn làm sao, toàn bưởi đào ngọt lịm, trời ạ. Cây nào cũng ngon như cây nào, thế là ai bổ nấy chén chẳng phải chung đụng gì. Ngồi nhẩn nha chén bưởi thay cho hút thuôc cũng hay phết. Ngày hôm ấy mỗi lính phải chén hết dăm quả. Bụng dạ lính ta vốn tốt, quả xanh nước lã không làm sao, nhưng do ăn nhiều bưởi quá nên khi đi vệ sinh mùi bưởi xông lên rõ mồn một. Anh Điện và anh Dũng phải ra lệnh cho lính tự đào hố chôn kín vỏ bưởi và hố mèo cũng phải đào sâu.

   Ngày hôm sau, tình hình chiến sự vẫn như ngày hôm trước, nghĩa là quân ta không đánh vào được, còn trận địa suốt ngày bị đánh bom. Ngay từ lúc hửng nắng địch đã bắt đầu ném bom rồi. Cứ hết T28 rồi lại đến phản lực. Máy bay trinh sát L19 vẫn hoạt động và thỉnh thoảng vẫn phải bắn pháo khói để chỉnh lại mục tiêu. Hôm nay anh Điện cũng bình tĩnh hơn nên cho chúng tôi lần lượt lên xem trận địa qua cái nóc nhà sàn còn sót ấy. Lúc nắng to, trong trận địa nhìn rõ hơn những mô đất nhô lên như ụ súng hay hầm lô-cốt. Nhiều lúc thấy những tên địch chạy từ chỗ này sang chỗ khác. Từ xa, nhìn chúng bé như những quả táo ta, lũn cũn. Thấy rõ cả cái dáng lom khom của chúng. Giá có mấy khẩu súng trường Hung có ống kính bắn tỉa (như trong phim "Bốn chiến sĩ xe tăng và con chó" của Ba Lan) chắc sẽ bắn tốt. Nghe tôi ước ao, anh Điện bảo, "Cậu chẳng biết cái quái gì cả. Bắn tỉa được vài thằng, lộ trận địa phục kích địch nó táng cho hai quả bom thì đi đứt hết tất cả à?".

   Cứ mò lên xem một lát rồi lại quay xuống hầm tránh nắng. Lại bổ bưởi ăn cho đỡ sốt ruột. Cơm thì lính tráng có suất nên cứ tự động mà ăn lúc nào cũng được, tự chia cho đủ 3 ngày. Tôi đặc biệt thích lên quan sát lúc có máy bay đến đánh bom để so sánh với cái thời trẻ con ở nhà xem máy bay Mỹ đến thả bom và đối chiếu với cái kiến thức sơ đẳng về xem hình trái bom rơi để biết nó bay về đâu. Cả ngày hôm đó chủ yếu là máy bay địch ném bom thôi. Không nghe thấy tiếng pháo hay tiếng súng của cả ta và địch. Hôm nay có thể tiểu đoàn đã bố trí lại đội hình để bộ đội tránh thương vong do bom rồi.

   Buổi tối lại đến và tình hình chưa có gì khác. Chúng tôi vẫn đủ cơm ăn một ngày nữa. Nhưng anh Điện và anh Dũng hội ý nếu ngày mai trung đoàn chưa đánh xong căn cứ thì đến tối sẽ phải cử người về bắt liên lạc để nắm tình hình và lấy thêm cơm.

   Ngày thứ ba. Máy bay L19 lại lên từ sáng sớm. Rồi T28 lại đến đánh bom. Hôm nay thấy 12ly7 của ta bắn trả rất mãnh liệt. Trung đoàn chắc không thể thụ động nữa nên cho 12ly7 của các tiểu đoàn lập trận địa bắn trả. Cũng chỉ có 12ly7 là to nhất thôi. Cái đơn vị pháo cao xạ 23ly 2 nòng thì đã rút về đường dây 559 từ khi chúng tôi kết thúc chiến dịch Saravan rồi. Bọn T28 vốn làm mưa làm gió trên cao nguyên, nay bị đánh trả cũng chờn. Chưa có chiếc nào bị hạ, nhưng chúng cũng ném bom thưa hơn và chúng tôi thấy rõ chúng cắt bom từ rất cao, không còn nhìn rõ cả đầu thằng phi công như trước nữa. Ta đổi chiến thuật thì địch cũng đổi chiến thuật. Chúng tăng cường ném bom bằng máy bay phản lực. Lúc nó bổ nhào, súng 12 ly7 vẫn bắn trả mãnh liệt. Có lẽ bây giờ, lính 12ly7 mới được bắn máy bay, tất nhiên là ít kinh nghiệm. Mãi chẳng thấy hạ được chiếc nào. Chúng tôi vẫn tiếp tục quan sát và xem bắn máy bay không mất tiền.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 02 Tháng Sáu, 2011, 12:00:06 pm

   Một ngày không phải của bộ binh đánh nhau mà chỉ là của máy bay và súng phòng không. Trong ngày, chúng tôi leo lên nhà sàn xem trận địa rất nhiều lần. Xen trong các đợt máy bay ném bom vẫn có máy bay trinh sát L19 vè vè. Rất may là chỗ chúng tôi vẫn ngụy trang tốt, hoặc giả nó không nghi ngờ mấy về hướng này nên chúng tôi vẫn yên ổn.

   Theo kế hoạch tác chiến thì vùng Thị trấn Păk Soòng và phía Tây đường 23 dẫn về Păk-xế do E19 đảm nhiệm và chiến sự vẫn phải diễn ra ở những khu vực đó. Nhưng có lẽ trận địa chỗ chúng tôi là chính nên máy bay mới tập trung nhiều vào đây. Mặt khác có lẽ là ở xa hay sao nên chúng tôi cũng chẳng nghe thấy gì ở hướng khác.

   Quan sát trận địa của bọn Thái trong ngày, chúng tôi thấy chúng xuất hiện và di chuyển trên mặt đất trong căn cứ nhiều hơn. Cứ một lúc lại thấy một hay vài cái cục đen đen bé tí di chuyển trong đó, trông như trên sa bàn.

   Trong ngày, vừa rỗi vừa buồn nên các anh Điện và Dũng cũng chạy qua chạy lại hầm chúng tôi hỏi thăm và trò chuyện. Một chốc lại leo lên nhà sàn quan sát địch rồi í ới gọi cho chúng tôi lên cùng xem. Cũng chẳng ai đoán ra địch đang muốn làm gì trong căn cứ.

   Gần trưa thì hỏa lực 12ly7 của K18 làm nên chuyện. Một chiếc phản lực bị trúng đạn, nhưng không rơi tại chỗ. Nó chỉ bị thương, không bay về được căn cứ và rơi ở đâu đó. Sau này nghe đài kỹ thuật mới biết tin và C8 được ghi công.

   Mọi chuyện tưởng diễn ra êm ả thì đầu giờ chiều có một sự kiện đặc biệt, hiếm thấy trong đời lính. Trên bầu trời xuất hiện một chiếc máy bay lạ, loại cánh bằng. Về sau mới biết nó là L21, cũng là một loại máy bay trinh sát. Chiếc máy bay lượn một vòng rồi bay ngang qua căn cứ địch. Vẫn ở tư thế bay bằng, có một cái cục gì đó rơi ra từ máy bay làm nó chúi một cái rồi lấy lại thăng bằng. Chúng tôi chưa kịp ngạc nhiên thì cái cục đen đen đã nở bung ra thành một cái dù và từ từ rơi xuống đất. Chiếc L21 vòng lại hai lần nữa và mỗi lần lại rướn bụng thả xuống một chiếc dù. Phía trận địa im ắng và chúng tôi ngắm mãi mấy cái dù rơi xuống trận địa. Nhìn rõ bọn địch như những quả táo di chuyển trong trận địa ra dỡ dù. Bây giờ thì chúng tôi hiểu là địch thả dù tiếp tế. Lúc này mà có cái ống nhòm pháo binh (loại có tiêu cự nhòm được xa 3 cây số rõ cả nốt ruồi trên mặt) thì sẽ biết ngay là địch thả hàng gì.

   Chừng nửa tiếng sau thì cảnh trượng trên bầu trời căn cứ địch thật ngoạn mục. Vẫn có L19 bay trinh sát vòng ngoài, nhưng trên bầu trời căn cứ xuất hiện thêm cả loại vận tải AC130. Thằng này khi ở ngoài Sara van chúng tôi đã biết, nó bắn pháo sáng dai dẳng suốt cả đêm. Còn lính pháo và lính lái xe thì truyền miệng nhau khả năng nó bắn pháo 105 diệt xe cơ giới của ta rất chính xác nhờ có kính ngắm hồng ngoại. Bây giờ đây thì đến lượt chúng tôi chứng kiến khả năng chở hàng và thả dù của máy bay này. Chả cần nghiêng cánh, cứ lừ lừ bay và ùn ra mỗi lần đến mấy chiếc dù hàng. Chả mấy chốc mà trên bầu trời có đến cả chục chiếc dù lững lờ rơi, cái cao cái thấp, trông thật đẹp mắt và xúc động. Chả khác gì cảnh phim tài liệu thực dân Pháp thả dù ở Điện Biên Phủ, có khi còn đẹp hơn vì đây là cảnh thật sờ sờ ngay trước mắt. Anh Điện và anh Dũng tuổi quân cao hơn tôi nhiều cũng xem rất khoái chí và bảo đây cũng là lần đầu tiên các anh ấy xem thả dù. Bọn lính Thái con nhà giàu có khác, tiếp tế đến tận chân răng. (Dạo ngoài Saravan, địch cũng thả dù hàng tiếp tế cho bọn GM41 và GM42, nhưng toàn thả vào ban đêm nên chúng tôi không ai được nhìn thấy. Chỉ có đánh vào chỗ địch mới thấy những cuộn dù xếp lăn lóc trên đất). Xen kẽ máy bay AC130 thả dù trên tầm cao, chiếc L21 vẫn nhẫn nại thả dù ở tầm thấp hơn, dù mỗi lần chỉ són ra có một chiếc. Không hiểu vì lý do gì mà 12 ly 7 của ta không bắn dù cho rơi vỡ hàng của địch.

   Buổi chiều hôm đó địch thả dù hàng rất nhiều. Chỉ dù hàng thôi chứ không có dù người. Cũng không có máy bay ném bom. Trời bắt đầu có gió và thổi về huớng chúng tôi. Từ trên nhà sàn, chúng tôi đã thấy rõ có những cái dù rơi ra rìa căn cứ. Tuy quân ta không bắn nhưng có lẽ máy bay địch cũng đề phòng nên chúng không dám bay thấp mà cứ thả dù từ tít trên cao. Bọn địch dưới đất có lẽ cũng lo lắng nhưng không làm gì được. Tầm cuối chiều có đến mấy cái dù hàng rơi vượt ra ngoài căn cứ đến cả trăm mét, ra khỏi hẳn những hàng rào. Phía này không có đường ra nên địch cũng đành đứng nhìn. Cuối cùng có cả dù do máy bay L21 thả cũng rơi ra ngoài, hướng về phía chúng tôi. Loại dù này nhỏ hơn và có màu trắng xen đỏ chứ không xám xịt như dù hàng do máy bay AC 130 thả.

   Trong buổi chiều hôm đó, địch thả xuống đến hơn dăm chục chiếc dù, trong đó chúng tôi đếm được có 5 chiếc rơi ra ngoài hàng rào về hướng chúng tôi. Trong số đó có một chiếc dù khác lạ của máy bay L21 thả. Lính tráng chúng tôi ngứa ngáy chân tay lắm, muốn mò ra kiểm tra nhưng anh Điện không đồng ý. Khả năng mò ra đó có thể gặp địch mà cũng có thể gặp cả lính K16 mò sang, bắn nhầm nhau thì hỏng bét.

   Buổi tối chúng tôi ăn nốt chỗ cơm cuối cùng mang theo. Bưởi trên cây còn khá nhiều nhưng ăn bưởi mãi cũng chán. Chắc không ai ăn bưởi thay cơm được. Buổi tối anh Điện và anh Dũng cử một nhóm 3 người do anh Trịnh dẫn đầu về hậu cứ lấy cơm. Tôi cũng đi cùng. Quãng đường về hậu cứ cũng phải mấy tiếng chứ không ít, lấy được cơm về chắc cũng hết đêm. Chúng tôi cùi theo hơn chục quả bưởi để về làm quà cho cánh anh nuôi. Tôi rất sợ lạc vì chúng tôi ra trận địa do trinh sát dẫn, nay trở về phải tự mò mẫm. Rất may là chúng tôi vượt qua hết đầm nước, về nhập được vào với đường trục đi chung với hướng chính thì gặp trinh sát D dẫn anh nuôi mang cơm tiếp tế cho chúng tôi. Cả hai bên đều hết sức vui mừng, chào hỏi nhau rối rít. Chúng tôi trao đổi bưởi và cơm cho nhau. Cơm ăn được tiếp tế thêm hai ngày. Có một cái lệnh kèm theo, ngày mai các hướng chính sẽ không vây ép nữa mà tấn công vì địch thả dù tiếp tế nhiều thế thì có thể chúng định ở lỳ tại đó chứ chưa có ý rút chạy. Vì thế hướng B5 phải thật chú ý chặn đánh địch nếu chúng rút qua đó. Chúng tôi trở lại chỗ chốt của trung đội khi chưa đến nửa đêm. Còn khối thời gian để ngủ.

   Mờ sáng, trời lạnh vì sương rất nhiều. Nằm trong hầm rải đệm cỏ tranh và quấn mình trong mảnh dù ấm thì chả ai muốn dậy lúc này. Thế mà anh Điện lại thúc anh Trịnh và tôi dậy, hỏi:

   - Chúng mày có muốn đi lấy dù không?

   Muốn quá đi chứ. Hai chúng tôi tỉnh hẳn người. Thế là anh Điện, anh Trịnh và tôi mỗi người cắp một AK với hai băng đạn xuất kích. Cứ nhằm cái hướng có mấy cái dù rơi hồi chiều qua mà tiến lên thôi. Trời mờ mờ nhưng tất cả cứ phăm phăm mà đi theo anh Điện. Đi được chừng năm trăm mét thì gặp một con suối nhỏ, nước nông, bờ bên kia có nhiều bụi tre to. Sang qua suối đi độ chục mét thì toàn cỏ tranh cao lút đầu người. Chả còn nhìn thấy gì cả. Theo anh Điện chúng tôi cứ sục lên, ngoắt chỗ này rồi lại ngoéo sang chỗ nọ, tiến tiến lui lui. Được một lúc thì quần áo ướt hết vì thấm sương trên cỏ tranh. Chả có một cái gì cao hơn để leo lên mà nhìn tìm hướng cái dù. Rồi trời cũng dần sáng hơn và nhìn mọi thứ dễ hơn. Anh Điện sục xạo phía trước rất liều. Anh bảo cỏ tranh rậm rạp thế này thì không có mìn đâu. Mà húc phải hàng rào thì lùi cũng kịp, yên tâm. Mò mầm như thế đến gần tiếng chứ không ít, người đã mệt và tinh thần bắt đầu nản thì anh Điện húc phải một cái dù xám. Tất cả mừng rú lên sục luôn vào thùng hàng. Toàn đạn cối, bố khỉ. Anh Điện thần mặt ra, chúng tôi cũng lo lắng. Anh Điện bảo, bọn này bị vây mấy ngày, không đói cơm mà chỉ đói đạn hay sao. Lại sục tiếp. Cứ từ chỗ đó mà sục rộng ra thôi. Loanh quanh một lúc thì gặp được cái dù thứ hai. Hàng hóa là một cái sọt đan theo kiểu dáng như cái gàu tát nước có quai, trong đó có mấy bọc nilon. Lấy dao găm rạch ra thì ôi mẹ ơi, toàn dưa cải muối. Quái lạ thật, sao bọn lính Thái mà cũng ăn đồ ăn như dân mình thế nhỉ. Cả ba người vục tay mỗi người làm một nắm, chén tại chỗ, ngon tuyệt. Nhưng chẳ lẽ chiến lợi phẩm chỉ là mấy bọc dưa cải muối?

   Ngồi thừ một lúc, anh Điện bảo, chúng mày có nhớ cái dù trắng đỏ rơi phía nào không? Tôi nhớ lại, bảo anh là nó rơi gần phía căn cứ hơn so với mấy cái dù xám. Thế là tất cả đứng dậy sục tiếp. Máu đang hăng thì nguy hiểm cũng bất chấp. Anh Điện bắt tôi cùi một bọc dưa cải muối, còn thì vất lại. Lúc này tôi bắt đầu thấy hai cánh tay xót ngứa, hóa ra bị cỏ tranh cứa do cứ vạch cỏ tranh ra mà sục lối đi khi trước. Chắc anh Điện và anh Trịnh cũng vậy, nhưng không thấy ai kêu gì. Sục độ chừng ba chục mét thì thật may, anh Điện túm được cái dù trắng đỏ. Chỗ này chắc cũng gần địch hơn nên phải thận trọng hơn, tuy nhìn quanh cũng chẳng thấy gì xa hơn vạt cỏ tranh kín trên đầu trước mắt. Đúng là trời không phụ công ba người chúng tôi. Thùng hàng của cái dù này chắc dành cho sĩ quan nên toàn đồ ngon. Anh Điện mừng rú lên dù chỉ là ư ử trong cổ họng. Trong cái sọt hàng (vẫn là cái sọt đan bằng một loại sợi mềm gì đó, không phải tre) có ba thùng giấy. Xé ra, trong có những cái gói bằng nilon trơn. Lúc này trời sáng hơn nên tôi đã nhìn thấy ngoài vỏ của nó có những dòng chữ Thái hình con giun và có hai con tôm càng đỏ au. Anh Điện bóc luôn một gói, bẻ ra cho mọi người ăn thử. Trong gói là một cái bánh kết thành bởi những sợi như sợi mỳ (mỳ sợi chỉ có tôi được ăn ngoài Bắc mới biết chứ anh Điện và anh Trịnh đã được ăn bao giờ đâu). Sợi bánh giòn, hơi ngọt, hơi mặn. Anh Điện tuyên bố chắc là bánh trứng, tuy chẳng hiểu sao trong đó lại có một gói nhỏ đựng muối to như ngón tay. Thôi bánh gì cũng được, của quý rồi. Mỗi thùng bánh có 60 gói (Mãi sau này khi giải phóng miền Nam, tôi mới biết nó là mỳ ăn liền hai tôm), anh Điện bảo lấy mang về hết. Sục xuống phía dưới sọt lại có hai thùng giấy nữa nặng chịch. Mở ra, mỗi thùng có 30 hộp sữa nước giống như hộp sữa Thống nhất ngoài Bắc. Loại chiến lợi phẩm này đã lấy nhiều rồi nên không ai còn lạ, đây cũng là của quý phải đem về. Phần hàng ở dưới cùng là một hộp giấy càng làm cho ba anh em sướng đến run người: đó là hai tút thuốc A lào loại đầu lọc đỏ, tuyệt vời luôn. Thật đúng là nếu không có cái dù trắng đỏ này thì cuộc sục xạo sáng nay thật vô duyên, còn bây giờ thì lại quá tuyệt. Thế là toàn bộ hàng của cái dù trắng đỏ cộng với một bọc dưa cải muối được chúng tôi chia nhau mang về. Nhưng là lính thì làm sao mà lại không ăn ngay khi miếng ăn kề miệng cho được. Củ khoai còn không thể để dành đến sáng được thì làm sao số chiến lợi phẩm tuyệt vời như thế này lại không kích thích sự hăm hở và nóng ruột thưởng thức của chúng tôi. Thế là anh Điện lôi ra chia ngay cho mỗi người một hộp sữa nước. Hai mũi dao găm chọc vào tạo hai cái lỗ, thế là hộp của ai nấy tu. Ngọt lừ, ngọt đến khé cổ, nhưng hút đến đâu thì tỉnh và khỏe người ra đến đấy. Lúc này anh Điện mới phấy tay: "rút", và chúng tôi nhanh chóng theo đường cũ chuồn vội. Tôi nhìn cái dù trắng đỏ tiếc rẻ rồi chẳng nói gì với ai, ngồi thụp xuống dùng dao găm cắt nhanh dây dù rồi cuộn luôn cái dù ôm theo. Chiếc dù loại này nhỏ chứ nếu to như cái dù xám thì chắc tôi cũng không tha đi được. Rồi cứ thế, tôi vừa theo hút các anh Điện và anh Trịnh mà đuổi, trong khi một tay vẫn ôm cái dù to cộm trước bụng, một tay vẫn còn cầm hộp sửa tu dở, cứ chạy một đoạn lại đưa lên tu, rồi lại chạy. Khẩu AK khoác trên người ngoặt ngoẹo thế mà cũng không cản được bước chạy của tôi. Chả mấy chốc mà tôi đã đuổi theo kịp anh Điện và anh Trịnh khi các anh ấy cũng vừa đến bờ con suối nhỏ.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 02 Tháng Sáu, 2011, 02:18:58 pm
Bác Trongc6.

Lâu lắm mới lại thấy bác tái xuất. Nghe bác kể v/v đi lấy dù hàng mà mê quá. Bác còn giữ được mảnh dù trẳng đỏ ấy không ?


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 02 Tháng Sáu, 2011, 09:41:57 pm
  Ối dổi! Lần trước bác ý kể chuyện chén xôi gà đã tứa hết nước miếng. Lần này lại đến dưa muối với mì hai tôm, thật hết chịu nổi. Hai món này nhà em lúc nào cũng có sẵn nhưng có mấy khi động đến đâu. Thôi, phải chạy xuống bếp tí mới được.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Sáu, 2011, 04:18:08 pm
Cảm ơn bác Tường và bạn NguyenQuocChung quan tâm.

@bác Tường:
    
    Tôi vẫn còn giữ được một mảnh dù của cái dù trắng đỏ ấy. các mảnh dù trắng khi đó cũng phải dùng thuốc pháo sáng nhuộm đỏ hết vì không được để màu trắng. Miếng vải dù vẫn còn tốt, chắc nằm võng cũng phải được vài đời lính mới có thể hỏng được.

-------------------------


….
   Chạy đến bờ suối, tất cả cùng lội ào xuống. Lúc này cái cảm giác trong người rất lạ. Vừa mệt như đứt hơi, lại vừa thấy nóng và khát nước. Chân vẫn lội trong nước, chả ai bảo ai cùng vục đầu xuống uống nước như những con bò vừa vượt qua sa mạc. Uống nước vào đến đâu, cơn khát vợi đến đấy nhưng bụng chúng tôi căng ra. Con suối nhỏ, chỗ này là vũng nước quẩn, uống một hồi xong đứng thẳng người lên nhìn, không hiểu dòng nước chảy hướng nào, cứ như nó đang chảy ngược lại thì phải. Một lúc sau leo lên bờ thì không còn ai đi nổi nữa, tất cả nằm vật ra đất. Bây giờ mà có địch, chắc chúng nó bắt sống chúng tôi. Chung quy tất cả cũng chỉ vì mỗi người đã tu hết cả một hộp sữa, rồi khát quá uống cho no bụng nước nên gần bội thực. Bụng tức anh ách, to như bụng đàn bà chửa. Cứ nằm như thế có đến nửa tiếng mới hoàn hồn và ngồi dậy được. Câu đầu tiên của anh Điện là: "Cái gì thế này", khi nhìn thấy cái dù xổ một đống tướng cạnh người tôi. Nghe tôi trình bày, anh Điện nhăn mặt:

   - Mày đúng là đồ tham mà lại ngu nữa.

   Rồi anh giải thích, may lúc sáng sớm địch nó chưa kịp quan sát chứ nếu nó nhìn ra thấy mất cái dù sẽ biết ngay có người ở đó, nó tương cho mấy quả cối thì chết cả lũ chứ còn gì. Tôi thè lưỡi, rụt cổ: hú vía, nhưng rõ ràng là số vẫn còn may.

   Nghỉ thêm lúc nữa, chúng tôi trở về chỗ trung đội. Nhìn đống chiến lợi phẩm toàn của quý, anh Dũng và mọi người mắt sáng rực. Lúc này mọi người vừa ăn sáng xong, nhưng vẫn sẵn sàng chén được tiếp. Anh Điện và anh Dũng hội ý nhanh rồi chia chiến lợi phẩm cho anh em. Mỗi người được mười gói "bánh trứng", giữ lại một thùng đem về nộp đại đội, còn thì cùng thưởng thức. Vì không  biết đó là mỳ ăn liền có thể nấu lên được nên tất cả đều nhai sống, ai cũng khen ngon và thầm ghen tỵ với đời sống của lính địch. Tôi nhặt lại tất cả các gói muối trong các gói mỳ đó cất đi, đơn giản vì nghĩ nó là muối, trông lại hay hay, tuy lúc này chúng tôi không phải là thiếu muối. Sữa đặc cũng chia mỗi người hai hộp. Anh Dũng cho đục mấy hộp lẻ cho mọi người thưởng thức chung, tu luôn là chính nhưng cũng có có thằng đem pha luôn với nước suối, thế mà cũng chẳng đau bụng gì cả. Phần sữa còn lại cũng để dành cho đại đội và cho D bộ. Riêng khoản thuốc lá thì anh em biểu quyết chia hết vì chỉ có 2 tút. Sáng hôm ấy khu chốt của chúng tôi thơm lừng khói thuốc.

   Cái dù trắng đỏ tôi đem về, bây giờ xem lại mới thấy quý. Nó gồm nhiều tấm vải dù lụa hình chữ nhật ghép lại, dày dặn chứ không mỏng như dù ca-rô xám của loại dù hàng. Mỗi tấm rộng vừa đủ một cái võng. Thế là chúng tôi tháo ra chia nhau mỗi người một tấm. Chỉ việc khâu lại ở hai đầu làm chỗ luồn dây võng là có một chiếc võng ngon lành.

   Ba anh em đi sục dù lúc sáng không thể ăn được cơm sáng nữa vì đã quá no. Thế mà đến trưa lại vẫn ăn được bình thường. Bọc dưa cải muối đem ra ăn với cơm nếp vẫn thấy ngon, vì nó là chất rau. Có người tiếc rẻ còn đề nghị cho quay lại chỗ dù rơi lấy nốt mấy bọc dưa cải muối, nhưng anh Điện không đồng ý. Bây giờ quay lại đấy có khi lại nguy hiểm rồi. Nếu có tổn thất, chết vì ăn thì phen này anh Điện và anh Dũng chịu đủ án kỷ luật, nhưng quan trọng hơn vẫn là sinh mạng anh em. Vả lại những thứ chúng tôi đang có cũng quá tuyệt vời rồi, không nên tham quá làm gì.

   Buối sáng hôm nay thế là đã sang ngày thứ tư, trời vẫn trong veo. Leo lên nhà sàn quan sát, thấy phía trận địa có đì đùng nhưng không có vẻ đánh nhau to. Có thể ở xa nên chúng tôi không cảm nhận hết, nhưng đúng là không phải kiểu đánh mạnh để dứt điểm. Hôm nay địch cũng không thả dù tiếp tế. Trong buổi sáng có mấy lần thấy pháo cấp trên bắn ít quả vào trận địa. Kiểu bắn như để khống chế hoặc tiêu hao sinh lực địch chứ không phải bắn cấp tập yểm trợ cho bộ binh xung phong. Cũng có thể vì thế mà địch không dám thả dù.

   Buổi chiều thấy súng nổ nhiều hơn và bọn địch trong căn cứ di chuyển qua lại nhiều hơn. Có nhiều thằng còn đeo ba-lô to xù vì cái dáng chạy của những "quả táo" trông lũn cũn lắm. Nhờ thông tin cấp trên báo hôm trước cộng với kinh nghiệm chiến trận, anh Điện đoán đêm nay địch sẽ rút, dù ta không làm chủ trận địa trong ngày. Buổi chiều chúng tôi ăn cơm sớm rồi anh Điện xem bản đồ và cho chúng tôi chuyển vị trí. Chúng tôi luồn ra cái đường xe bò (chỉ còn lại vệt mờ) ở phía cánh phải cách chỗ chúng tôi chốt cũ chừng hai trăm mét. Mỗi người đào một cái hố chiến đấu xen vào trong đám lau và ngồi chờ phục kích ở đó.

   Khoảng nửa đêm, phía xa có nhiều tiếng dậm dịch, chắc bọn địch đang rút ra từ căn cứ. Chúng tôi im lặng nhưng chờ khá lâu vẫn không thấy địch đến. Anh Điện quyết định dẫn chúng tôi rời hầm luồn ra phía có tiếng động. Hóa ra phía này khá quang, có lối đi được nên địch không đi theo đường xe bò cũ mà đạp thẳng luôn theo đó mà đi. Không biết địch có bao nhiêu tên, nhưng chắc đại bộ phận chúng đã đi qua rồi. Chúng tôi ngồi nán một lúc thì lại thấy lao xao rồi có những bóng đen. Anh Điện cho nổ súng luôn. Chúng tôi cứ bắn ào ào vào hướng đó. Không có tiếng súng đáp trả. Đợi một lát, chúng tôi sục lên gặp xác địch, đếm được 7 tên. Chờ mãi nữa cũng không thấy gì, chắc đây là tốp cuối, may mà chúng tôi kịp nổ súng chứ nếu ngồi chờ tí nữa thì chắc chẳng còn gì mà đánh. Bọn đã rút qua thì chắc cứ thế mà cắm đầu chạy chứ không quay lại cứu đồng bọn. Phải khá lâu sau, chúng tôi nghe tiếng súng nổ rộ phía Thị trấn. Chắc các đơn vị của E19 đã kịp triển khai đánh chặn. Tiếng súng nổ loạn lên, lúc lại lắng thưa, rồi lại nổ, xa dần. Anh Điện đoán bọn địch rút chạy bị chặn đánh, thằng chết cứ chết còn thằng sống cứ thế mà chạy tiếp, nhưng chắc thoát được không nhiều.

   Mặc dù không bắt được liên lạc với các đơn vị bạn, nhưng trong đêm đó anh Điện và anh Dũng vẫn cho chúng tôi lùng sục theo hướng địch rút chạy, nhưng không đi quá xa. Kết quả là chúng tôi thu thêm được một số ba-lô nữa của địch. Súng thì chỉ thu về mỗi người một khẩu lấy thành tích. Chiến lợi phẩm  lấy được có thêm một ít thuốc lá và những vật dụng cá nhân, ai thích gì giữ thứ nấy. Anh Trịnh lấy được một chiếc đài bán dẫn nhỏ của Nhật. Mờ sáng thì chúng tôi rút trở lại chỗ chốt ban đầu ở cái bản cũ.

   Sáng hôm đó, tôi và anh Trịnh vừa nằm bên miệng hầm hút thuốc, vừa bật đài nghe. Đã lâu lắm rồi, bây giờ được nghe nhạc hiệu và giọng nói: "Đây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" sao mà thấy hạnh phúc thế. Bây giờ không biết ở nhà những người thân trong gia đình đang làm gì. Có ai bật đài lên để nghe được cùng bản tin như chúng tôi không. Cảm giác thanh bình quá. Không hiểu sao lúc đó chúng tôi đã nghĩ là sau đợt chiến đấu này chắc địch phải rút lui rất xa và những trận đánh tiếp theo chắc cũng còn phải rất lâu.

   Buổi sáng hôm đó là một ngày đẹp trời. Trời trong xanh, có nắng và có những đám mây trắng trôi nhè nhẹ trên bầu trời. Không gian tĩnh lặng vì không còn bóng dáng chiếc máy bay nào. Cũng không còn nghe tiếng súng. Chúng tôi chỉ còn việc ngồi chơi và hút thuốc, chờ tin tức đơn vị. Chừng giữa buổi sáng, trinh sát tiểu đoàn đến và truyền lệnh cho chúng tôi rút. Chúng tôi chia cho chúng nó một ít chiến lợi phẩm. Vì chỉ mang cùi không nên chúng nó trảy một lô bưởi đem về. Chúng tôi còn phải mang theo súng, kèm thêm chiến lợi phẩm nên cũng chỉ mang theo ít bưởi gọi là. Mấy cây bưởi thế là đã trút hết quả để chuẩn bị đâm chồi cho một mùa sau.

   Sau bữa cơm trưa, đến đầu giờ chiều chúng tôi hội quân được với đại đội, lúc này cũng đang nghỉ trong một cánh rừng. Cũng lạ là bây giờ chẳng thấy ai nhắc gì đến chuyện tránh xa rừng già đề phòng bom B52 nữa. Chúng tôi tay bắt mặt mừng líu ríu chia nhau chút chiến lợi phẩm của cá nhân. Trận này C6 chúng tôi không có tổn thất vì là thê đội hai. Cánh B5 chúng tôi còn nổ súng đánh tí chút chứ cánh của đại đội đi theo mũi chính chẳng bắn phát nào (trừ hỏa lực bổ sung cho tiểu đoàn), cuối trận lại còn không được vào trận địa nên tất nhiên chẳng thu được gì. Đại đội hội quân xong cùng kéo luôn về bản Phù Đin, cách đó cũng hơn chục cây số.

   Chúng tôi trú quân tạm trong một khu vườn cà phê của dân. Vườn cây lâu năm, thân cây cà phê rất to, có thể mắc võng được. Buổi tối đơn vị nấu cơm dù nhiều người vẫn còn cơm vắt. Tối hôm đó là một tối vui vẻ vì trung đội nào cũng có tiết mục cà phê sữa và thuốc lá thơm. Chuyện trò râm ran cứ như đất trời là của riêng mình. Mấy gói "bánh trứng" bóc ra toàn ăn sống như một thứ bánh kèm cà phê, ngon tuyệt. Chẳng ai biết là nó có thể nấu được. Về sau này cũng thế, chúng tôi đã chén hết tất cả số mỳ gói ấy chỉ bằng cách ăn sống. Riêng tôi giữ lại được vài chục gói muối gia vị trong đó.

   Thêm được một ngày nghỉ ngơi, hôm sau cả đại đội hành quân vòng sang khu rừng ở phía Bắc của bản Phù-đin cách đó hơn cây số. Tại đây mỗi A phải đào một cái hầm chứ A kiên cố. Được cái đất mềm và cây rừng có sẵn nên tiểu đội hai người chỉ mất hai ngày là đào xong một cái hầm chữ A to tướng và chắc chắn. Đề phòng thôi, còn ban đêm chúng tôi vẫn rải nilon ngủ ngay cạnh hầm. Ổn định rồi, anh Trịnh phải đem nộp tiểu đoàn cái đài bán dẫn thu được bữa trước. Kể cũng tiếc.

   Mấy ngày sau đó, chúng tôi về mấy cái bản có tên Y Beng và Bun Thẹ cách đó tới hơn hai chục cây số để lấy gạo và đạn dược bổ sung. Khu vực này cũng loanh quanh là khu hậu cứ cũ của trung đoàn khi chúng tôi còn đứng chân ở bản Xăm-xi-núc "may" năm ngoái. Như vậy sau chiến dịch Saravan, về lại cao nguyên, trung đoàn bộ và phần lớn các C trực thuộc lại trở về khu vực trú quân cũ. Chỉ có bộ binh và nhất là K18 thì bật ra khỏi khu vực cũ vì chiến sự đã lùi sâu về vùng đất của quân ta rồi.

   Bây giờ mới tổ chức sinh hoạt và bình báo công cho trận đánh vừa rồi, nhưng cũng chẳng có gì nhiều. Chưa kịp làm gì thêm thì ngày 17/2/1973, cả đại đội lại rời rừng già để vào trú trong khu vườn cà phê, lần này sát ngay bản Phù Đin, cách nhà sàn của dân chỉ có dăm chục mét.

   Ngày 20/2 lại rục rịch chuẩn bị súng đạn. Chúng tôi hỏi nhau mình sẽ đánh cứ điểm nào nhỉ, vì ngay cán bộ C cũng không thấy đi trinh sát trước. Câu trả lời là đánh theo mệnh lệnh, nghĩa là cấp trên chỉ chỗ nào thì đánh vào đó và cố mà chiếm cho bằng được. Ngày 21, đêm 21 và cả sáng 22/2 tất cả các đơn vị bộ binh của trung đoàn (Chắc các E khác cũng thế) ra quân. Hỏa lực tiểu đoàn đi sát, yểm trợ tối đa cho bộ binh. Trinh sát E và D được điều đi cùng, bám địch nhanh phía trước và dẫn ngay bộ binh theo phía sau. Chúng tôi đánh thành nhiều mũi, vỗ mặt suốt mấy chục cây số dọc đường 23 từ Thị trấn Păk Soòng đến ngã ba Lào Ngam, tức là khu vực hồi tháng 10 năm trước chúng tôi đã chiếm. Địch không tập trung thành căn cứ mà chỉ có các đơn vị đóng dã ngoại nên bị chúng tôi đánh cho tơi bời. Thậm chí chiến sự kéo trên một đoạn đường rất dài nên những tên địch tháo chạy cũng không thể rút lui theo đường cái mà phải chạy nháo nhào sang mé Nam đường 23 để rút dọc theo những cánh rừng. Chúng tôi cũng được lệnh đánh chiếm vị trí chứ không cần truy kích rát.

   Trưa ngày 22/2 hầu như tiếng súng đã im. Trung đoàn để lại K16 chốt giữ ở khu vực gần ngã ba Lào Ngam, K18 về khu vực nằm giữa hai bản Xăm-xi-núc "cầu" và Phù Đin. Đại đội chúng tôi đóng quân ngay cạnh bản Xăm-xi-núc "cầu", trong một rừng non tái sinh. Đào hầm hay mắc võng đều tiện vì cây con bằng cổ  tay, cổ chân mọc nhiều và rất sát nhau, chỉ có khâu ngụy trang hơi bất tiện. Khu vực này cách cánh rừng già của bản Xăm-xi-núc "may" năm trước đại đội tôi đóng quân chừng 3 cây số. Như vậy là K18 đã kết hợp với K16 tạo thành một cánh cung chốt giữ, hướng về phía ngã ba Lào Ngam và đường 231 chắn Păk-xế.

   Mấy ngày sau, chúng tôi được tin ngày 21/2/1973, Hiệp định Viên Chăn về đình chiến và lập lại hòa bình ở Lào đã được ký kết. (Hiệp định này với Lào cũng có ý nghĩa như Hiệp định Pari về Việt Nam). Sáng ngày 22/2 thì Hiệp định có hiệu lực và bên nào ở yên tại chỗ bên ấy.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 27 Tháng Sáu, 2011, 11:20:00 am

   Cuộc chiến của những người lính tình nguyện Nam Lào thuộc sư đoàn bộ binh duy nhất của bộ đội Trường Sơn đã đi vào hồi kết.

   Diễn biến của việc thực hiện Hiệp định Viên Chăn khác một trời một vực so với thực hiện hiệp định Pari ở Việt Nam. Sau ngày đình chiến, chúng tôi không đánh lấn thêm một tấc đất nào và kẻ địch cũng vậy. Vùng giáp ranh là cả một dải đất rộng lớn không hề cài răng lược hay theo hình da báo. Hai bên chẳng nhìn mặt nhau, nói gì đến giao lưu hòa hợp. Thế nhưng diễn biến quân sự lại thật êm ả.

   Các đơn vị lính Thái vượt sông MêKông về nước. Mỹ không chi viện bom, nhất là B52 nên các cánh rừng Trường Sơn trở nên yên ả. Bây giờ trên vùng đất Nam Lào chỉ còn các trung đoàn lính Fumi, sư đoàn 968 quân tình nguyện và khoảng 3 đại đội Pathet Lào. Nếu sườn Tây Trường Sơn không bị uy hiếp và đánh phá thì nhiệm vụ chiến đấu của Sư đoàn chúng tôi cũng kể như kết thúc.

   Đất nước Lào rộng bằng nửa Việt Nam khi đó chỉ có dân số 3 triệu. Không có biển nhưng rừng của họ thực sự là rừng vàng, còn sông MeKông không bao giờ hết cá thì chắc cũng sánh ngang với bạc. Dãy Trường Sơn hùng vĩ và trùng điệp chung cho cả hai nước Việt Lào, nhưng những cánh rừng gỗ Lim bạt ngàn đi cả ngày không vượt qua với những cây to cỡ hai người ôm, hay những sườn núi cao có nghĩa địa voi tự nhiên thì chỉ ở bên Tây Trường Sơn thuộc đất Lào mới có. Đất rộng, người thưa còn chưa thể quản lý hết nổi giang sơn của tổ tiên để lại thì khi không có thế lực bên ngoài kích động, dân tộc Lào dễ tìm ra tiếng nói chung để hòa hợp hòa giải dân tộc. Vốn dĩ ba phái bên Lào gốc gác cũng là của ba anh em hoàng thân Suphanuvong, Suphana Fumi và Fumimunum nên họ cũng dễ nói chuyện với nhau. Nói là các phe đánh nhau, nhưng thực chất là những trận chiến đấu của bộ đội Việt Nam tình nguyện với lính Fumi có sự chi viện của lính Thái Lan mà thôi. Lính Pathet không tham gia bất cứ trận đánh nào. Bởi vậy khi các phái bên Lào đã hòa giải thì những trận chiến đấu trên chiến trường Nam Lào cũng đã chấm dứt từ sau cái ngày 22/2/1972 đó.

   Tất cả các đơn vị của sư đoàn 968 chúng tôi sau ngày đó rồi sẽ rút dần ra khỏi vùng đất cao nguyên, về đóng quân bám quanh tuyến đường Trường Sơn. Chúng tôi sống cuộc sống hòa bình như các đơn vị huấn luyện ngoài Bắc. Thế là kết thúc những chuyện chiến đấu, chỉ còn lại những chuyện thường ngày của lính mà chắc người lính nào cũng biết.

Thân ái
TrongC6


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 27 Tháng Sáu, 2011, 01:14:11 pm

   Cuộc chiến của những người lính tình nguyện Nam Lào thuộc sư đoàn bộ binh duy nhất của bộ đội Trường Sơn đã đi vào hồi kết.

   Diễn biến của việc thực hiện Hiệp định Viên Chăn khác một trời một vực so với thực hiện hiệp định Pari ở Việt Nam. Sau ngày đình chiến, chúng tôi không đánh lấn thêm một tấc đất nào và kẻ địch cũng vậy. Vùng giáp ranh là cả một dải đất rộng lớn không hề cài răng lược hay theo hình da báo. Hai bên chẳng nhìn mặt nhau, nói gì đến giao lưu hòa hợp. Thế nhưng diễn biến quân sự lại thật êm ả.

   Các đơn vị lính Thái vượt sông MêKông về nước. Mỹ không chi viện bom, nhất là B52 nên các cánh rừng Trường Sơn trở nên yên ả. Bây giờ trên vùng đất Nam Lào chỉ còn các trung đoàn lính Fumi, sư đoàn 968 quân tình nguyện và khoảng 3 đại đội Pathet Lào. Nếu sườn Tây Trường Sơn không bị uy hiếp và đánh phá thì nhiệm vụ chiến đấu của Sư đoàn chúng tôi cũng kể như kết thúc.

   Đất nước Lào rộng bằng nửa Việt Nam khi đó chỉ có dân số 3 triệu. Không có biển nhưng rừng của họ thực sự là rừng vàng, còn sông MeKông không bao giờ hết cá thì chắc cũng sánh ngang với bạc. Dãy Trường Sơn hùng vĩ và trùng điệp chung cho cả hai nước Việt Lào, nhưng những cánh rừng gỗ Lim bạt ngàn đi cả ngày không vượt qua với những cây to cỡ hai người ôm, hay những sườn núi cao có nghĩa địa voi tự nhiên thì chỉ ở bên Tây Trường Sơn thuộc đất Lào mới có. Đất rộng, người thưa còn chưa thể quản lý hết nổi giang sơn của tổ tiên để lại thì khi không có thế lực bên ngoài kích động, dân tộc Lào dễ tìm ra tiếng nói chung để hòa hợp hòa giải dân tộc. Vốn dĩ ba phái bên Lào gốc gác cũng là của ba anh em hoàng thân Suphanuvong, Suphana Fumi và Fumimunum nên họ cũng dễ nói chuyện với nhau. Nói là các phe đánh nhau, nhưng thực chất là những trận chiến đấu của bộ đội Việt Nam tình nguyện với lính Fumi có sự chi viện của lính Thái Lan mà thôi. Lính Pathet không tham gia bất cứ trận đánh nào. Bởi vậy khi các phái bên Lào đã hòa giải thì những trận chiến đấu trên chiến trường Nam Lào cũng đã chấm dứt từ sau cái ngày 22/2/1972 đó.

   Tất cả các đơn vị của sư đoàn 968 chúng tôi sau ngày đó rồi sẽ rút dần ra khỏi vùng đất cao nguyên, về đóng quân bám quanh tuyến đường Trường Sơn. Chúng tôi sống cuộc sống hòa bình như các đơn vị huấn luyện ngoài Bắc. Thế là kết thúc những chuyện chiến đấu, chỉ còn lại những chuyện thường ngày của lính mà chắc người lính nào cũng biết.

Thân ái
TrongC6


Chả nhẽ hết thật rồi sao, bác Trongc6. Quả thực mỗi chiến trường có một sắc thái riêng tất cả đều làm nên một bức tranh sinh động đầy bi tráng của một thời mà mỗi người chúng ta là 1 nét chấm phá của bức tranh kỳ vĩ đó, có phải không bác Trongc6


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 02:41:24 pm
....nhớ chút ít con đường rẽ từ Cầu Giấy vào trường phải đi qua một cái xưởng của HTX làm mắm, lúc nào cũng nồng nặc mùi, và con đường làng nhỏ chạy men quanh mấy cái ao...

Vâng, đọc những dòng chữ trên của bác tôi lại nhớ đến cái tuổi thơ của tôi vào những năm ấy ( 1968 - 1970 ), ở cái làng Yên Hòa ấy, ở cái " xưởng nước mắm " ấy quá bác Trongc6 ạ!

Cái ngôi trường cấp 3 Yên Hòa ấy, ngày ngày tôi vẫn đi qua để đi học.. Tôi nhớ ngôi đình làng dưới bóng cây đa, hàng ngày học sinh học hát vẫn ra đấy ngồi nhờ... " Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn, dá mòn mà đôi gót không mòn..." Bài hát ấy tôi biết lần đầu tiên là do ngồi hóng giờ học hát của các anh, các chị học sinh cấp 3. Nhớ ngồi trường cấp 3 có thày giáo tên Thướng, vợ là cô Lan nhà cũng gần ngay trường. Nhớ mấy cái bể ngâm vỏ cây Dó để làm giấy mà tôi cứ đứng nhìn mấy bà, mấy chị thao tác mà không chán mắt. Và nhớ nhất là cái " xưởng nước mắm " nơi cả tuổi thơ tôi gắn bó với nó. Nó không hẳn là xưởng làm nước mắm đâu bác Trongc6 ạ. Nó có tên là " Xưởng chế biến thực phẩm xuất khẩu " nhưng nhiệm vụ làm Lạp xưởng xuất khẩu là phụ mà chủ yếu là làm ruốc, làm Magi, nước mắm cô đặc phục vụ chiến trường là chủ yếu...
Con đường làng lát nghiêng gạch chỉ, bóng học sinh đầu đội mũ rơm, tay xách lọ mực nhựa vui đến trường trong tiếng gầm rú của máy bay Mỹ...mãi vẫn đọng lại trong tâm trí biết bao thế hệ.

Đọc lại những dòng hồi ức của bac trongc6 thì lại phát hiện ra bác lethaitho cũng học Yên Hòa nhưng chắc là YHA. YHA bây giờ vẫn còn, YHB giải thể 1971 và sát nhập nhập với Trần Phú B để thành Ba Đình (Chu văn An buổi chiều). Bác Trongc6 đứng ra tập trung quân YH cũ ta gặp nhau đi. Bác học lớp Như Anh thì chị gái tôi chủ nhiệm năm bác học lớp 8 đấy, chị tôi dạy Sử mà. Nhờ bác trinhsat  nhắn cho bác mấy lần nghe chừng khó quá  :D

Tôi gửi bác Trongc6 hộp thư của Trường YHB: yenhoa3b@yahoo.com.vn MK: 19651971. Bác mở hộp thư sẽ có các thông tin về trường YH B của mình đấy.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 03:01:45 pm
...Lớp tôi còn có thằng Trường (thằng này là anh ruột ca sĩ-nghệ sĩ Hồng Kỳ của nhà hát Tuổi trẻ sau này đấy) học giỏi nhất lớp, sức khỏe dư thừa song do tiền bối "dẫm nhầm giày quốc tế" nên không được vào đại học, mà tức khí xin đi lính (viết đơn bằng máu thật hẳn hoi) cũng không được chấp nhận...

Cậu Trường này hồi đi học hay cặp kè với cái Quỳnh (cháu cụ Phan Kế Toại). Phải nói rằng Q hồi ấy nếu như bây giờ thì gọi là chân dài  :D :D :D, có phải thế không bác?. Sau này Trường về làm CN bộ môn Toán của ĐHXD, vì trong đêm giao lưu KN 50 năm trường ĐHXD của các CCB SV với các SV của trường năm 2006, tôi nhìn thấy Trường ngồi ở hàng ghế đầu.  


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 03:34:39 pm
@bác Phong Quảng:

        Tôi đã sửa lại bài viết sau khi nhận nguồn tin của bác. Có điều hơi phân vân. Sau cái buổi chiều có cái xe Com-mang-ca lên đón anh ấy từ doanh trại tiểu đoàn về HN, anh ấy không quay lại đơn vị. Đầu tháng 4/1972 chúng tôi cũng mới hành quân vào tới chiến trường, thế thì anh ấy đi đường nào vào chiến trường để kịp đánh trận giải phóng Đông Hà ấy.

        Nhưng thông tin bác nói chắc chính xác, và chắc không có chuyện có hai người giống nhau.

        Cảm ơn bác.
Về câu chuyện này tôi nhớ lại khi tôi ở đoàn Chuyên gia giáp dục VN tại KPC, hôm ấy có 1 cuộc tranh luận sôi nổi sau bữa cơm chiều. Có 2 luồng ý kiến:
- Luồng thứ nhất là cái luồng tôi được nghe nhiều nhất là việc TT VTN có 1 cậu con trai cũng đi bộ đội nhưng lại được đón ra một đơn vị không phải vào chiến trường, sau đó cậu này mất không rõ lý do.

- Luồng ý kiến thứ 2 của 1 người duy nhất đó là 1 ông đã từng làm cán bộ GD tăng cường cho QT sau giải phóng đã theo TT VTN cùng 1 số sĩ quan quân đội lùng sục khu vực 544, 241, Cam Lộ... để tìm mộ của con trai TT VTN.

Những người của tốp thứ nhất có hỏi tôi có biết tin này không tôi trả lời có nghe loáng thoáng ông già tôi kể lại TT VTN có con trai hy sinh ở QT thôi. Còn quan điểm của tôi việc con cái cb cao cấp có như thế nào cũng là việc bình thường vì họ cũng là con người.

Tôi kể chuyện này bác Trongc6 chắc có biết nhân vật này. Một vị lãnh đạo khả kính của HN có cậu con trai nhập ngũ và được về QKTT. Dọc đường hành quân vào tới nơi cậu ta cùng 1 tốp chiến hữu thân thiết quậy vô cùng, đến nỗi các trạm giao liên không dám để giao liên nữ dẫn đường nữa. Vào đến nơi, cậu ta ở QK bộ. Anh em ở đấy có nói chuyện rằng cậu ta có báo hàng ngày để đọc được chuyển vào bằng đường quân bưu của QK. Cuối 1974 tôi gặp cậu ta ở Đoàn 869, tuy cậu ta ít tuổi nhất nhưng lại láo nhất không coi các anh em lớn tuổi là gì, cậu ta chửi tất. Cậu ta hầu như không có mặt ở đơn vị nhưng hàng tháng quản lý của đơn vị phải thanh toán đầy đủ những ngày không ăn cho cậu ta, trong khi đó chúng tôi cắt cơm không có lý do thì không bao giờ được thanh toán. Đầu năm 1975 có đợt giải quyết chính sách, cậu ta cũng chẳng thèm sang đơn vị, đơn vị phải sang tận nơi làm chế độ cho cậu ta. Sau này nghe nói cậu ta đi Đức.   


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thaiminhhung trong 28 Tháng Sáu, 2011, 03:35:18 pm
Bac LXT cái gì cũng biết, bác biết nhiều thế ! bác phải là nhân viên của "Google" mới phải, bác sắp về h rồi; nếu xin vào làm của hãng Google thì sẽ chấp nhận ngay lập tức. Nếu không bác xin vào ban biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư của VN. sẽ đượpc trả lương cực khủng./.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 04:03:58 pm
...Dân khu phố chúng tôi đi có đến gần hai nghìn đứa, vào thẳng trung đoàn 1867 (D59) thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô (tư lệnh: trung tướng Chu Duy Kính) quản lý. Mỗi khu phố một điểm giao nhận quân. Tôi thuộc khu Đống Đa, tập trung tại rạp chiếu phim Đống Đa ở phố Thái Thịnh bây giờ. Đọc tên xong ra xe, ô-tô chở thẳng chúng tôi vào Đại Mỗ (Hà Đông)...

Nếu tôi không nhầm thì tư lệnh BTL thủ đô những năm đó là 4// Lê Nam Thắng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 04:52:01 pm
Bac LXT cái gì cũng biết, bác biết nhiều thế ! bác phải là nhân viên của "Google" mới phải, bác sắp về h rồi; nếu xin vào làm của hãng Google thì sẽ chấp nhận ngay lập tức. Nếu không bác xin vào ban biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư của VN. sẽ đượpc trả lương cực khủng./.
Hồi trước ở trường tôi có 2 thầy tên là Di:
- Thầy Phạm Khắc Di (người nhà cụ Phạm Khắc Hòe) được gọi là Di dỉ dì di cái gì cũng có. (nhà giàu?)
- Thầy Võ Nguyên Di (người nhà cụ Võ Bổng thì phải) được gọi là Di dỉ dì di cái gì biết.
- LXT bạn mình phải gọi là tương tưởng Tường tương mọi đường đều biết. Biết nhiều mà lại sống dai mới khổ chứ! ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 06:49:12 pm
Bac LXT cái gì cũng biết, bác biết nhiều thế ! bác phải là nhân viên của "Google" mới phải, bác sắp về h rồi; nếu xin vào làm của hãng Google thì sẽ chấp nhận ngay lập tức. Nếu không bác xin vào ban biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư của VN. sẽ đượpc trả lương cực khủng./.
Hồi trước ở trường tôi có 2 thầy tên là Di:
- Thầy Phạm Khắc Di (người nhà cụ Phạm Khắc Hòe) được gọi là Di dỉ dì di cái gì cũng có. (nhà giàu?)
- Thầy Võ Nguyên Di (người nhà cụ Võ Bổng thì phải) được gọi là Di dỉ dì di cái gì biết.
- LXT bạn mình phải gọi là tương tưởng Tường tương mọi đường đều biết. Biết nhiều mà lại sống dai mới khổ chứ! ;D

Mình mệnh thủy nên mấy lần chìm trên sông mà không chết. Tử vi  của mình có 2 ngôi sao chiếu mệnh đó là Tả phù và Hữu bật cho nên mới nghiệm ra rằng toàn là quý nhân phù trợ, bạn bè giúp đỡ tận tình mới có ngày hôm nay. Thầy bói bảo rằng 82 tuổi mới giã từ vũ khí.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 09:15:25 pm

       Bây giờ đến chuyện làm giúp anh nuôi.

             Bốn anh nuôi trong C tôi vốn là lính thu dung của đợt D34, D36. Chúng nó nhập ngũ đợt hè 1970, trước chúng tôi hơn một năm. Khi đó, chúng nó được nhiều ưu đãi lắm, vì chưa phải cảnh tổng động viên. Đóng quân bên Đông Anh, cách nhà chỉ trên hai chục cây số, thằng nào mà chả tranh thủ "tút" về nhà vài lượt. Có khi chúng nó "tút" cả đám hơn chục thằng, về Hà Nội chơi vài ngày rồi lại nhập lên đơn vị vô tư. Kỷ luật khá lỏng lẻo. Đợt chúng nó chỉ gặp cảnh ăn bí ngô triền miên thay rau là xót ruột thôi, còn thì không có gì đáng phàn nàn. Lúc ấy, mỗi chiều thứ bảy, chủ nhật, thấy bọn lính mặc quân phục bạc màu, tay áo thả dài không cài khuy, quần chít ống mà giày cao cổ lại không thắt dây, thả bước vào quán Gió, quán Bốn mùa gọi cà phê, hút thuốc lá thả khói hình vòng tròn điệu nghệ thì thanh niên Hà Nội mê lắm.

              Cũng vì chiều quá nên lính tráng sinh hư. Sau tết năm 1971, chúng nó chuẩn bị vào Nam. Lính trung đoàn 1867 Bộ Tư lệnh thủ đô thường không bổ xung cho các sư chủ lực ở Bắc, mà hành quân theo đội hình đông vào bổ xung thẳng cho chiến trường. Cả tiểu đoàn sáu trăm con người lên cả một chuyến tàu hỏa ở ga Yên viên. Đợt đó chúng nó được phát ngay quân tư trang mới ở Đông Anh. Súng đạn cũng phát luôn, toàn Ak và lựu đạn chày. Toa hậu cần phía đầu tầu chất sẵn bánh kẹo, thuốc lá và nước ngọt. (Chủ yếu là si-rô thôi chứ chưa có bia). Lính mà được phát thuốc lá Tam đảo, Điện biên, có cả bao bạc hẳn hoi. Lúc đó ngay cả thời gian huấn luyện cũng chưa có lệ phát thuốc lá cho lính, vậy mà lúc đi B, chúng nó đầy đủ vậy. Nghe nói toàn đồ úy lạo của thành phố. (cái này nghe giống như chuyện úy lạo của nhân dân TQ cho các chiến sĩ Quân giải phóng ND TQ trong chiến dịch Thượng Cam Lĩnh bên Bắc Triều tiên hồi 1953 quá).

              Lên tàu là thuốc lá và bánh kẹo đã được phát tới tận tay lính. Tàu chạy chậm, lính tráng ngả ngiêng hát hò, trò chuyện. Sẩm tối thì qua cầu Long Biên. Cầu Long Biên khi đó đã bị máy bay Mỹ đánh sập mấy nhịp trong chiến tranh phá hoại, được sửa lại, nhưng chỉ được phần cầu, còn những dầm khung giằng thép mang dáng dấp đặc trưng của cây cầu thì không có (đến bây giờ cũng vẫn thế) nên tàu chạy chậm. Một thằng nào đó phởn chí chợt thò AK ra cửa sổ toa tàu nhả lên trời một loạt đạn. Thằng khác thấy thế cũng hưởng ứng góp một loạt. Thế là như phản ứng dây chuyền, lính ở các toa cùng thi nhau xả đạn lên trời. Chỉ huy đi cùng toa quát được thằng này, thì thằng ở góc kia bắn, cứ loạn cả lên. Trong cảnh láo nháo mà thằng lính nào cũng có súng đạn, tâm trạng đầy phấn khích thì chỉ có bó tay. Quá đáng hơn, một thằng rút lựu đạn giật nụ xòe rồi quăng xuống lòng sông. Tiếng nổ to và cột nước dựng lên gây ấn tượng hơn. Một thằng làm được thì thằng khác cũng làm được. Thế là mặt sông dọc cầu dậy lên tiếng nổ và cột nước. Chắc khi đó dưới sông không có tàu bè và thuyền đánh cá qua lại, nếu không hậu quả sẽ khôn lường. Bọn cá chết oan nổi lên mặt sông, chắc phải trôi cả cây số xuống dưới hạ lưu mới có người vớt.

               Tàu vào đến ga Long Biên thì tình hình mới tạm ổn. Lính tráng không dám bắn vào khu vực có dân. Chúng nó chỉ thò cổ ra ngoài toa hò hét om sòm. Tối rồi, đường Phùng Hưng cũng vắng vẻ nên không khí lịm dần.

               Vào Ga Hàng cỏ thì tàu dừng lại. Chắc các thủ trưởng cấp trên ở Bộ TLTĐ muốn dừng tàu để vào ga trấn chỉnh lính. Nhưng hình như quyết định này là sai lầm. Tàu dừng là lính tỏa xuống sân ga. Rồi lếch thếch cả ba-lô và súng đạn, từng tốp lính kéo nhau ra hai đầu đường sắt phía Khâm Thiên và phố Nguyễn Khuyến. Tốp thằng Luân phố Huế vừa ra đến gần cầu vượt phố Khâm thiên thì bị một đại uý  đứng chặn giữa đường tàu giang tay ngăn lại. Chẳng sợ chút nào, thằng Luân chỉ vào mặt người sĩ quan, hỏi anh em lính: "Lão này có phải thủ trưởng chúng ta không hả chúng mày?". Một thằng kêu to: "Cóc phải". Thế là chúng nó gạt ông sĩ quan ra rồi ào ào đi. Sức ngăn không lại, cũng không thể rút súng ra bắn (bọn thằng Luân khi đó cũng súng ống đầy mình), ông đại úy đành bất lực nhìn đám thằng Luân, rồi nhiều tốp lính khác tràn qua trước mặt.

               Đêm đó, cả tiểu đoàn lính, lớp ngủ lại sân ga, lớp ra công viên Thống Nhất chơi cả đêm, một số thằng về nhà ở gần. Đến sáng, chúng nó cũng lục đục trở lại tàu. Gần như đủ cả mới lạ chứ. Trời sáng rõ, đoàn tàu mới chuyển bánh rời ga.

              Nhưng như thế chưa phải là đã hết.
…….

Tôi khi ra bắc cuối năm 1974 có đi tầu cùng tốp lính HN của f2 ra giải quyết chính sách. Họ chính là quân của d34, d36 lừng danh của BTL Thủ đô. Trên tầu từ Vinh ra đến Thường Tín, toa bộ đội đi cùng các toa của dân, thì mới biết họ không hổ danh là lính 34, 36 nhất là bây giờ được trở về. Đến đoàn 869 cũng có 1 số lính của 2 d đó đã ở đấy từ trước. Qua câu chuyện của họ thì thực sự khi vào đến Vinh mới tới đỉnh điểm của việc quậy tung trời. BTL thủ đô phải vào cùng BTL quân khu 4 để giải quyết. Xé lẻ toàn bộ đội hình của 2 d này thành từng tốp nhỏ. Vị nào có số má thì giữ tại 33 Phạm Ngũ Lão hoặc về các đơn vị huấn luyện sau này. Số quân còn lại bị xé lẻ ghép vào các đơn vị khác bổ sung cho các đơn vị của B1 trong đó có f2, một số về f324 ở Thừa Thiên. Nói chung quân ta bị xé lẻ là tạnh vở không thể quậy theo kiểu bầy đàn được.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 28 Tháng Sáu, 2011, 09:43:31 pm
              .......... Thật may là ngay đỉnh dốc có một cái cửa hàng ăn uống mậu dịch. Có độc món mì (sợi) nấu với nước canh đậu phụ, có pha chút gừng chống lạnh. Chẳng có chút xương xẩu nào, và tất nhiên là không có mì chính. Giá cũng bình dân, một hào rưỡi một bát.................

Bác Trong c6  đã gợi nhớ về những món ăn sang trọng của một thời.
Còn nhớ, tại cửa hàng ăn uống mậu dịch quốc doanh ở Nhổn-Hà Tây, nằm ven đường 32, đối diện với chợ Nhổn. Tại của hàng này cũng có phục vụ 2 món trứ danh, đó là: phở trứng và miến đậu phụ.
Phở trứng bao gồm 1 tô phở không người lái, có 1 chút hành, và tâm điểm là 1 miếng trứng vịt rán. Miếng trứng được chế biến theo kiểu: trứng đánh tơi, nhanh tay đổ vào chiếc chảo to đang nóng vì mỡ sôi già, khéo léo lắc chiếc chảo cho trứng dàn mỏng được ra khắp lòng chảo, tạo thành 1 lớp trứng mỏng tang. Sau đó, cuộn lớp trứng mỏng ấy lại như cuôn bánh cuốn. Thành phẩm là được 1 chiếc chả trứng cuộn tròn và dài. Khi dùng dao sắc như dao cạo râu cắt ra, ta được từng miếng trứng tráng có đủ độ đậm nhạt của sắc mầu và có những lớp lang như miếng bánh ga tô. Mỗi bát phở trứng được 1 miếng trứng thái cuộn như trên, tầm 1 phần 3 quả trứng vịt.
Còn miến đậu phụ thì được đựng trong cái bát chiết yêu. Bao gồm một chút miến dong, một chút hành, nước dùng là nước sôi có chêm muối-không mì chính. Và đỉnh của đỉnh là có 2 miếng đậu phụ rán. To bằng 2 nửa miếng đậu phụ loại 1 nghìn/bìa bây giờ.
Gía của bát phở trứng là 3 hào/bát. Còn giá của tô miến đậu phụ là 2 hào/bát.
Cách phục của cửa hàng ăn thời đó cũng rất độc đáo.
Đó là phải xếp hàng để mua tích kê. Phở trứng là cái mảnh sắt tây hình gần vuông hoặc gần chữ nhật. Miến đậu phụ thì tích kê là mảnh sắt tây hình gần giống tam giác.
Còn xi-rô lựu (chẳng hiểu tại sao lại gọi là xi-rô lựu, chỉ biết đó là 1 thứ nước hơi ngòn ngọt và có mầu hơi hồng hoặc hơi đỏ-tùy theo tay nghề của nghệ nhân chế biến), thì tíc kê là miếng sắt tây hình gần tròn.
Cửa hàng ăn uống mậu dịch quốc doanh chỉ phục vụ 3 món đó, không có món thứ tư. Vua đến ăn cũng mặc kệ, thực đơn chỉ có vậy.
Tất cả 3 loại tích kê trên, đều có 1 cái lỗ thủng  ở gần giữa miếng sắt tây.
Và sau khi xếp hàng mua tích kê xong, đến lượt phải xếp hàng để lĩnh món sơn hào-hải vị kể trên.
Cái dây xếp hàng này có hướng ngược với dây xếp hàng tích kê, đầu hàng hướng về cái ô vuông phát ngọc thực.
Để chống bọn lưu manh-phản động làm giả giấy tờ có giá, cơ quan chuyên môn đã có cách thức sau: nối giữa quầy bán tích kê và ô lĩnh hàng, có ba sợi dây thép song song. Một cái dây để lồng và dẫn hướng tích kê hình chữ nhật (hoặc vuông), một cái dây để lồng và dẫn hướng cái tích kê hình tam giác, cái dây thứ 3 còn lại thì để lồng và dẫn hướng cái tích kê tròn.
Đó là lý do tại sao, các tíc kê đều có lỗ thủng ở giữa.
Khi đã nộp tiền xong, thủ quỹ căn cứ vào vật phẩm được bán ra, sẽ lồng cái tíc kê tương ứng vào sợi dây thép phù hợp, rồi đẩy cái tíc kê ấy ra ngoài. Khách hàng tự dẫn cái tíc kê của mình đến cái ô vuông thần tiên kia.

Nếu như có 1 ông hỗn ăn, mua cả 3 thứ, thì ông ta phải khéo léo đi vào giữa 3 hàng dây và phải nhanh tay đẩy 3 cái tíc kê của mình cùng lúc, không thì con ma đói phía sau nó chửi.
Baoleo còn nhớ đó là năm 1970, kết thúc đợt sơ tán chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ lần thứ nhất.
Để liên hoan chia tay nơi sơ tán là thôn Kim Hoàng, baoleo quyết định lắc cái ống tre tiết kiệm (làm gì có tiền mua lợn đất-mà chỉ lấy cái đoạn ống tre, cưa vát 1 tý ở thân ống để làm chỗ đút tiền) ra 6 đồng 5 xu-tức là 3 hào, cuốc bộ ra thị trấn Nhổn để tự khao.
Sau khi đứng trước cửa hàng tầm gần 1 tiếng, nghiến răng cỡ mòn mất đề xi dem răng cho đỡ tiếc, baoleo hùng dũng tiến vào quầy mua tíc kê. Lúc trao tiền, cô thủ quỹ kêu thét lên vì bỏng tay. Hóa ra, do baoleo nghiến răng, nắm chặt 6 đồng 5 xu mạnh và lâu quá, đến mức cả 6 đồng xu đều nóng đỏ cả lên.

Đến tận hôm nay, khi gõ những dòng này, baoleo vẫn ân hận là đã dám xa xỉ tiêu tiền để ăn một cách hoang toàng, phá phách như thế. 8)


Bác Trongc6, chẳng phải riêng cửa hàng ăn uống ở Nhổn đâu mà tất cả các CH đều như thế cả. Bác hồi ấy đi học bằng gì ? Tôi và thằng Kường (chính là Kường Ngân xe máy nổi tiếng) cùng mấy thằng nữa đi tầu điện từ Cửa Nam, xuống bến Cầu Giấy thỉnh thoảng có tiền rẽ vào CH ăn uống Cầu Giấy ăn 1 bát mì không người lái giá hào rưỡi với cái cảnh đi theo đồng xèng luồn dây thép từ nơi bán vé tới ô cửa lấy mì.

Ôi chao một thời làm sao có thể quên được. 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: thaiminhhung trong 29 Tháng Sáu, 2011, 10:09:07 am
(Còn nhớ, tại cửa hàng ăn uống mậu dịch quốc doanh ở Nhổn-Hà Tây, nằm ven đường 32, đối diện với chợ Nhổn. Tại của hàng này cũng có phục vụ 2 món trứ danh, đó là: phở trứng và miến đậu phụ)

(cuốc bộ ra thị trấn Nhổn để tự khao)

 - Các Bác lại" dám" thay đổi địa danh" nhà em rồi " Nhổn" không phải là thị trấn, nó chỉ là một cái ngã tư thôi . Đây là Ngã tư Nhổn là giao cắt giữa đường 70 và đường 11A cũ ( nay là đường 32) thuộc địa bàn xã Xuân Phương , huyện Từ Liêm ,TP Hà Nội ( quê hương của Bác Xuân Thủy). Chào các bác


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 29 Tháng Sáu, 2011, 01:52:59 pm
@bác PhongQuang.

       Sư 320 thời chống Mỹ nằm địa bàn B3 (Tây Nguyên). Tháng 5/1973, Trung đoàn 52 của sư 320 bị rút đi bổ sung cho chiến trường Quảng trị (Nó nhập vào sư 325 thì phải). Thế là E9B bị cắt ra khỏi sư 968 và bổ sung cho sư 320A. Mãi đến tháng 8/1975, trung đoàn 9B mới trở lại đội hình sư 968 và ở đó cho đến ngày hôm nay. Đúng như bác PhongQuang đã nói, bây giờ sư 968 thuộc QK4 và đóng tại Quảng Trị

Trung đoàn 52/f320A  - tên truyền thống là trung đoàn Tây Tiến - bổ sung cho chiến trường QT nhưng không về 325. Tại QT lúc đó f320B chỉ có 2 e là 48 và 64 sau đó e27 của QK Trị Thiên sát nhập vào 320B. Thời kỳ đó chúng tôi chưa nghe thấy tên e52.

Gốc gác của f320 từ thời đánh Pháp có 3 e là 48 (Thăng Long), 52 (Tây Tiến)  và 64 (Quyết thắng).


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: VietPo`Lut´ trong 01 Tháng Bảy, 2011, 09:42:52 pm
hehe,nghe các bác nhắc lại Hà Nội thời xưa làm cháu cũng nhớ phở mậu dịch ở Phùng Hưng với Thuốc Bắc. Buổi sáng 2 ông cháu dẫn nhau đi ăn. Ôi cái thời đã xa mà chưa xa lắm,nhắc lại sao mà nhớ thế.
Có chi tiết vui này nói nhỏ với chú Lê Xuân Tường nhé : Cháu có 1 thời gian "quen" với DH,con gái của chú Hồng Kỳ. Nhớ lần đầu đến nhà ở Hàng Dầu (Bè - lâu quá nên cháu quên) đón đi chơi hồi lớp 10. Bà nội DH đứng trên ban công đổ cả cái ống nhổ ăn trầu xuống thẳng đầu cháu với thằng bạn. May mà 2 thằng có võ né kịp. Kỷ niệm không bao giờ quên.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lonesome trong 04 Tháng Bảy, 2011, 11:04:24 pm
Đào ngũ:thời các bác có câu truyền đến bọn em .; Hà chuồn ,Nam lủi Thái bình bay
                                                              Hải phòng anh dũng trốn ban ngày
                                                              Thanh hóa mất mùa xin ở lại
                                                               Nghệ -tĩnh thấy thế cũng dơ tay
                                                            hà....hà....

Tối nay cháu mới nghe bố cháu đọc 2 câu đầu bài này (Cụ đọc nhầm thành Hà Nội hiên ngang trốn ban ngày) và bảo mấy câu này có từ trước thời cụ nhập ngũ (1966). Cụ là dân HN nhưng sơ tán và tình nguyện nhập ngũ ở Phú Xuyên - huyện có thành tích tuyển quân hẻo nhất của Hà Tây (tỉnh có truyền thống thiếu quân :D) ạ. Cháu cũng nhờ Gúc thần chưởng mà mò được để đọc lại chủ đề này của chú TrongC6 đấy ạ.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 01 Tháng Tám, 2011, 09:18:59 am
Được bạn Khương 726 khích lệ qua tin nhắn và ý kiến trao đổi với một vài CCB khác, tôi sẽ viết tiếp những ngày ở Lào. Thực chất đó chỉ là những ngày bình lặng, nhưng cũng có thể cung cấp cho các bạn một vài điều về tình hình và sinh hoạt ở chiến trường đó của anh em lính, vì chiến trường này ít người viết quá.


(Viết tiếp những ngày ở Nam Lào…)   

   Thế là ở chiến trường này cũng đình chiến, cũng có hòa bình rồi. Cứ dần dà mỗi ngày được phổ biến và được học tập một ít, chúng tôi biết được rất nhiều thông tin cần thiết.

   Nghe tin ở Việt Nam, ta và địch phân chia gianh giới tại những vùng kề nhau như giới tuyển. Ta và địch xây dựng chung những ngôi nhà hòa hợp, khu thể thao để hai bên giao lưu vì đều là dân Việt cả. Những thằng lính đã hoàn thành nhiệm vụ đánh nhau, bây giờ chia phần đất xong rồi, không đánh nhau nữa. Phần việc còn lại là của lãnh đạo các bên bàn bạc rồi đi đến tổng tuyển cử thông nhất đất nước. Lần này có nhiều bên quốc tế giám sát, phe XHCN đã mạnh hơn nên chắc địch không phá được như hồi Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954. Đấy, lúc ban đầu là nghĩ như vậy. Chúng tôi ở bên này không làm nhà hòa hợp và giao lưu với địch vì là người hai nước khác nhau. Ai ở đâu cứ đóng ở đấy thôi. Gianh giới cũng chỉ ước lệ bởi đất Lào rộng lớn, quân của cả hai bên đều ít thì cũng chỉ lập chốt là đủ.

   Chúng tôi được biết dần và nhiều hơn về Chiến dịch B52 của Mỹ ném bom Hà Nội hồi tháng 12/1972 và chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" của ta. Nghe nói ga Hàng cỏ, bệnh viện Bạch Mai và phố Khâm Thiên bị đánh bom tan tành. Nhưng thằng có gia đình ở các tiểu khu thuộc mấy chỗ đó lo lắng ra mặt, nóng ruột nhưng cũng chẳng biết làm gì hơn.

   Trong khoảng thời gian hơn hai tuần trú quân ở bản Xăm-xi-núc "cầu", công việc tương đối nhàn. Không phải cùi cõng lót đạn hay gạo cho tuyến trước như hồi năm ngoái. Chỉ đi lấy gạo cho riêng đơn vị mình là đủ. Có hai việc làm chủ yếu là học về vũ khí, chủ yếu là M79 và B41. Lúc này trong đơn vị vẫn còn B40, nhưng khi súng hỏng hoặc được bổ sung mới thì toàn là B41 của Trung Quốc. Loại súng này tuy có nặng hơn nhưng tác dụng của nó mạnh hơn B40 nhiều. Cối cá nhân M79 thì không nói làm gì, loại này quá ưu việt. Việc thứ hai của chúng tôi là hàng ngày đi lùng sục quanh vùng đóng quân theo tuyến của phần đất bên ta giữ. Chúng tôi chỉ đi trong phạm vi 5 cây số, không lấn sang phía địch làm gì.

   Một lần nhóm 4 người B5 chúng tôi do anh Trịnh phụ trách lùng sục về khu vực bản Xăm-xi-núc "may". Vẫn cái bản dân bé nhỏ ấy, cuộc sống thanh bình. Mùa khô không làm nương và trồng cây gì nên các nương rẫy hoang tàn xơ xác. Chẳng còn vết tích của những đồi kiệu bạt ngàn xanh tốt, những nương trồng thuốc lá nhiều tới mức cứ có dịp lính tráng đi qua là tạt vào bứt ào ào đem về thái phơi hút như của mình mà mãi không hết. Giờ thì chỉ có men theo bờ suối, dân bản làm những mảnh vườn nhỏ rồng lưa thưa ít rau cải. Mình mà có ý định lấy về cải thiện cho cả đại đội một bữa thì chắc phải vặt bằng hết mới đủ. Đi qua bản, lính và dân chào hỏi vài câu lấy lệ rồi chuồn mất hút, cảm giác buồn buồn.

   Một lần khác nhóm chúng tôi lại lùng sục về khu vực Xăm-xi-núc "may", nhưng không vào bản mà rẽ theo con đường nhỏ đi vào hướng khu rừng già nơi mà năm trước C6 trú quân. Trở lại chốn cũ, cảm giác bồi hồi xúc động qua từng bước chân. Qua cái nương nhỏ, chúng tôi vào khu vực B5 trước tiên. Những cái lán cũ mái đã mục nát, xiêu vẹo trông thật hoang tàn. Các sạp nứa trong hầm thùng ẩm mốc. Đường đi lối lại cây cỏ mọc đầy, nhiều chỗ chắn hết lối. Mà đấy là chỉ sau có một phần cuối mùa mưa và chủ yếu là mùa khô thôi đấy. Cảm giác buồn hơn nữa là nhìn những cái lán đổ nát mà thấy lồng trong đó như hình ảnh của một cuốn phim quay chậm đè lên cảnh sinh hoạt của cả đơn vị ngày nào. Vậy mà bây giờ nhìn lại chẳng còn mấy ai. Nhiều người bị thương ra Bắc, nhiều người nằm lại những cánh rừng khôộc lưa thưa bóng nắng ngoài Saravan. Một trung đội mười mấy người ngày đó mà nay có bổ sung thêm lính Nghệ An thì mỗi B cũng chỉ có 7, 8 người. Tràn ngập nỗi buồn man mác khó tả.

   Chúng tôi đi lướt nhanh một vòng quanh cứ cũ của đại đội rồi nghỉ lại chỗ cái sân đại đội cũ giở cơm ra ăn. Rừng già đã trở lại dần vẻ âm u của nó với tiếng chim và đám sóc bay cùng những con chồn bé nhảy qua nhảy lại giữa các cành cây, ngơ ngác nhìn chúng tôi lạ lẫm.

   Cơm nước và nghỉ ngơi xong, chúng tôi đứng dậy lên đường. Thật không thể tả rõ lúc đó vui hơn hay buồn nhiều hơn. Chiến tranh đã chấm dứt rồi, đáng lẽ phải vui, nhưng khi có nhiều thời gian hơn để ngẫm nghĩ về số phận con người thì lại thấy buồn buồn trước những mất mát chia ly. Tôi biết cái cảm giác như thế này sẽ còn trở lại nhiều lần nữa trong cuộc đời nếu như mình còn sống và còn nhớ về đồng đội thân yêu.

   Những ngày sau, chúng tôi còn vài lần trở lại lùng sục ở khu vực bản Xăm-xi-nuc "may", nhưng không bao giờ chúng tôi vào lại khu rừng đóng quân ấy nữa.

   Ngày 8/3/1973, đại đội chúng tôi lại hành quân chuyển về bản Phù Đin, lại trở lại chính cái vườn cà phê tốt um nằm sát nhà dân ấy. Chẳng đào hầm nhưng tôi với anh Trịnh vẫn trải nilon nằm cạnh nhau. Thời gian chúng tôi ở đây chỉ có 4 ngày nhưng là những ngày nghỉ ngơi và lắm chuyện quấy nhộn.

   Bản Phù Đin tuy không nhiều nhà, nhưng là một bản trù phú trên cao nguyên. Dân bản chủ yếu sống bằng trồng cây cà phê. Nhà toàn là loại nhà sàn gỗ to, làm sẵn ở đâu đó (các cột và ván gỗ là loại cưa xẻ bằng máy phẳng lỳ hẳn hoi chứ không phải đẽo bằng tay). Nhà to và rộng rãi. Ăn mặc của dân bản cũng có vẻ sang. Cái nhà cạnh chỗ B5 chúng tôi ở có hai vợ chồng và một cô con gái. Cô gái cũng độ tuổi "sao" (tuổi thiếu nữ 20), khá xinh và dáng người đầy đặn cân đối. Sống trên đất Lào đã gần một năm, nhìn thấy dân Lào và nói chuyện vặt vãnh với họ cũng không ít, nhưng thời gian này là lần đầu tiên tôi được ở gần và có thể quan sát và ngắm người dân Lào, nhất là con gái thoải mái như thế. Tôi với anh Trịnh không nằm võng mà đem hai cái tăng căng qua một sợi dây nối giữa hai cây cà phê tạo thành một cái lều trên mặt đất. Bên trong phủ ít lá khô, trải nilon, thế là có chỗ nằm kín đáo và thoải mái. Lúc không phải đi công tác hay sinh hoạt, nằm đây nhòm ra thì tha hồ mà ngắm sinh hoạt của nhà dân chỉ cách độ hai chục mét. Hình ảnh cô gái chủ nhà lên xuống cái cầu thang luôn in dậm trên nền trời xanh. Mà cho dù cô có đứng trên sàn ngoài nhà thì nhìn cũng thật rõ giữa thanh thiên bạch nhật vì lúc nào trời cũng sáng mà chẳng có gì che khuất. Cô ấy luôn đi đất (đôi khi mới thấy xỏ đôi dép Thái), mặc một cái váy hoa ngắn ngang bắp chân, nhưng đặc biệt là lúc nào phía trên cũng chỉ có mỗi một chiếc áo nịt con màu đen. Biết là không phải, nhưng chúng tôi rất thích nằm trong lán (cho kín đáo) mà ngắm nhìn (trộm) thân hình đầy đặn của cô gái, nhìn đôi vai trần và làn da trắng của cô ấy. Còn cô ấy thì cứ vô tư với những cử chỉ tự nhiên như chỗ không người. Mới đầu tôi và anh Trịnh cho là đặc ân của hai thằng khi lọt vào cái góc này, nhưng hóa ra không phải. Bản không đông dân nhưng cũng có đến chục cô gái tuổi "sao", còn cái đám trai gái bé hơn nữa thì cũng khá. Lúc chúng tôi có việc đi ngang dọc trong bản mới biết đám con gái ở đây đều ăn mặc thế cả. Thật khác xa ở nhà, vì con gái Bắc (kể cả đám thanh niên xung phong bạo dạn) cũng chẳng có ai mà trên mình có mỗi cái "tùng chiêng" lại dám thản nhiên đi lại trong sinh hoạt cộng đồng. Trong cái cảnh ấy, chắc cũng có thằng lính ta thầm nuốt nước bọt. Nhìn vài hôm thấy quen, nhưng tôi với anh Trịnh vẫn khoái vì cô gái nhà gần chỗ chúng tôi trông xinh nhất. Tiếc là nhìn ngắm thoải mái, nhưng đơn vị không cho giao lưu, thành ra chỉ hỏi được mỗi cái tên, nói vài câu chung chung rồi tịt.

   Thời gian chúng tôi ở Lào tuy không phải là nơi đèo heo hút gió, vẫn có dân nhưng vốn chẳng bao giờ đóng quân trong bản nên nhìn dân gần gũi lúc này vẫn cảm thấy tình thương mến thương như làng xóm quê nhà. Gần bản có một con suối đá chảy qua, khá rộng, nước trong veo. Phía bên kia suối liền sát với một cánh rừng khá rậm rạp. Dân bản họ ăn uống và tắm giặt đều lấy nước từ con suối này. Chúng tôi ở đây thì cũng nhờ con suối như thế. Có điều chúng tôi nhận xét thấy là khi tắm giặt, dân bản phân chia khu vực rõ ràng. Đàn ông được tắm phía trên dòng chảy, còn phụ nữ và trẻ con tắm phía dưới, cách xa nhau đến cả trăm mét, khúc suối lại cong nên chẳng bên nào nhìn thấy bên nào. Bộ đội chúng tôi là đàn ông nên tất nhiên cũng được tắm ở khúc phía trên, nhưng cũng cách ra phía trên một tí vì dân họ không tắm chung cùng lính, nhất là không đi tắm tập trung.

   Lòng vả cũng như lòng sung. Lính tráng xa nhà mà gần dân, thế nào chẳng có điều trắc ẩn. Không ít thằng mong được nhìn trộm con gái tắm, nhưng bộ đội cách mạng đâu có thể làm ấu. Cầm tay con nhà người ta công khai thì chẳng sao, nhưng nhòm ngó lung tung thì không được. Thế là mấy ông tai quái (nơi nào chẳng có các bố ấy) tìm cách mò sang bờ suối bên kia phục kích. Bên đó là rừng rậm, lại muốn giữ bí mật (cả với "quân ta" và "quân địch") nên phải vờ đi rừng ở đoạn rất xa, đi một khoảng cũng rất xa rồi mới định hướng đạp rừng quay lại. Đầu têu là mấy anh dân Hà Bắc (cựu nhất trong đơn vị) rồi đến các anh Hà Tây. Cho đến một lần anh Trịnh cũng ngứa ngáy chân tay rủ tôi cùng đi. Phải nhân một buổi chiều được cử đi lùng sục chỉ có hai người. Chúng tôi chỉ mang AK cho gọn, nhưng không đi theo lộ trình đơn vị giao, mà nhanh chóng cắt đường đổi hướng. Đường dài và gian nan đến nỗi có nhẽ sau hai tiếng đồng hồ chúng tôi mới mò trở lại được bên kia suối. Lại định vị cho đúng khúc suối trong điều kiện chỉ được bò loặc lổm nhổm bốn chân. Bí mật được thì không sao, lộ ra thì coi như không còn gì để cãi. Chúng tôi chọn chỗ phục kích, cũng may là nơi đó toàn cây lúp xúp, bờ suối lại dốc đứng cao hơn lòng suối đến hơn chục mét nên khả năng bí mật được nâng cao. Chúng tôi còn phải nằm chờ rất lâu cho đến khi nắng chiều đã nhạt thì dân họ mới đi tắm (không như lính ta toàn phải đi tắm vào buổi trưa). Đang nằm im chờ thời cơ thì chúng tôi phát hiện chếch phía sau có tiếng động sột soạt. Chúng tôi nằm bẹp xuống, im re, không biết người hay thú dữ đây. Thú dữ cũng chết vì đâu dễ giải thích chuyện săn bắn ở vị trí này. Còn nếu là dân thì đúng là họ theo dõi bắt quả tang mình rồi. Thế thì đằng nào cũng chết. Cảm giác hồi hộp lúc này chẳng kém lúc phục kích địch thật là bao nhiêu. Dù sao chúng tôi cũng vẫn phải hơi xoay người chĩa mũi súng vào cái hướng loạt soạt ấy. Thật vô cùng bất ngờ khi tôi nhận ra một người đội mũ tai bèo đang bò đến, lính ta và không phải ai khác, chính là anh H. C viên phó của chúng tôi. Lúc này tôi muốn đái ra quần cho nó nhẹ người đi quá. Bị bố này bắt được thì coi như hết đường về quê mẹ rồi. Chắc phía sau còn có thằng liên lạc đi hộ vệ nữa. Tôi bấm tay anh Trịnh nằm im, không dám thở mạnh. Anh H. cứ chậm rãi bò dần tiến lên bờ suối, cách chúng tôi chỉ độ gần chục mét mà không phát hiện ra chúng tôi. Thế mới biết yếu tố bất ngờ quan trọng thật. Chẳng mấy chốc anh ấy cũng chọn xong chỗ để "quan sát". Không thấy thằng liên lạc đi cùng, hóa ra anh ấy cũng có mục đích giống hai chúng tôi. Cái khổ nhất đối với chúng tôi lúc này là vừa không được hút thuốc, vừa phải canh chừng thủ trưởng. Mãi sau thấy cứ thế này thì không ổn, anh Trịnh quyết định chủ động xuất cờ trước, lấy một hòn đất nhỏ ném về phía anh H. Anh ấy giật mình ngơ ngác. Đến khi nhìn thấy chúng tôi, vẻ mặt anh ấy khiến tôi dám chắc anh ấy muốn đái ra quần hơn cả tôi lúc nãy. Nhưng chỉ thoáng qua thôi, vì toàn là quân ta nên bắt liên lạc với nhau rất nhanh. Nói cho cùng, trong bụng ai chả có chất giống nhau, nên ba chúng tôi nhanh chóng hợp thành một đội.

   Chiều hôm ấy, từ khoảng cách gần bốn chục mét, ba chúng tôi được xem "phim cấm". Nhưng nói thật là mọi thứ cũng chỉ mờ mờ ảo ảo như trong tranh thủy mạc của họa sĩ Đổng Thìn Sinh mà thôi. Nhưng thế cũng là lên tiên rồi.

   Chỉ khổ là đến lúc "hết phim" phải về thì lại chạy như ma đuổi, đi tắt cắt rừng để về cho kịp giờ cơm chứ đi lùng sục gặp tình huống gì mà lâu thế. Được cái là các B ở phân tán, không phải ăn cơm và sinh hoạt tập trung nên chuyện này vẫn giữ được bí mật cho đến bây giờ, chỉ có ba chúng tôi biết mà thôi.





Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 01 Tháng Tám, 2011, 09:50:59 am
@Trongc6: Hoan hô bác lại chiến tiếp. Lần trước bác kết thúc làm chúng tôi hụt hẫng quá.

...Hình ảnh cô gái chủ nhà lên xuống cái cầu thang luôn in dậm trên nền trời xanh. Mà cho dù cô có đứng trên sàn ngoài nhà thì nhìn cũng thật rõ giữa thanh thiên bạch nhật vì lúc nào trời cũng sáng mà chẳng có gì che khuất. Cô ấy luôn đi đất (đôi khi mới thấy xỏ đôi dép Thái), mặc một cái váy hoa ngắn ngang bắp chân, nhưng đặc biệt là lúc nào phía trên cũng chỉ có mỗi một chiếc áo nịt con màu đen. Biết là không phải, nhưng chúng tôi rất thích nằm trong lán (cho kín đáo) mà ngắm nhìn (trộm) thân hình đầy đặn của cô gái, nhìn đôi vai trần và làn da trắng của cô ấy. Còn cô ấy thì cứ vô tư với những cử chỉ tự nhiên như chỗ không người. Mới đầu tôi và anh Trịnh cho là đặc ân của hai thằng khi lọt vào cái góc này, nhưng hóa ra không phải. Bản không đông dân nhưng cũng có đến chục cô gái tuổi "sao", còn cái đám trai gái bé hơn nữa thì cũng khá. Lúc chúng tôi có việc đi ngang dọc trong bản mới biết đám con gái ở đây đều ăn mặc thế cả. Thật khác xa ở nhà, vì con gái Bắc (kể cả đám thanh niên xung phong bạo dạn) cũng chẳng có ai mà trên mình có mỗi cái "tùng chiêng" lại dám thản nhiên đi lại trong sinh hoạt cộng đồng. Trong cái cảnh ấy, chắc cũng có thằng lính ta thầm nuốt nước bọt. Nhìn vài hôm thấy quen, nhưng tôi với anh Trịnh vẫn khoái vì cô gái nhà gần chỗ chúng tôi trông xinh nhất. Tiếc là nhìn ngắm thoải mái, nhưng đơn vị không cho giao lưu, thành ra chỉ hỏi được mỗi cái tên, nói vài câu chung chung rồi tịt.

Đoạn này quả là tuyệt vời. Bác có chia sẻ với bác gái không ? Nghe nói bác gái trình CNTT cũng tuyệt hảo phải không, nhưng đoạn này thế nào bác cũng bị nghoéo tai phải không. ;D ;D ;D

Đúng là nhất quỷ nhì ma thứ ba lính tráng. Bác kể tiếp đi nhé. Tôi ở QT mang tiếng ở đồng bằng nhưng xa dân mà toàn cát cháy, nóng bỏng. Con gái QT không dám chê, nhưng buổi tối thì tìm khó lắm không khác gì câu chuyện về lính tây đen đi càn đêm :D :D :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 01 Tháng Tám, 2011, 10:01:43 am
   Chiều hôm ấy, từ khoảng cách gần bốn chục mét, ba chúng tôi được xem "phim cấm". Nhưng nói thật là mọi thứ cũng chỉ mờ mờ ảo ảo như trong tranh thủy mạc của họa sĩ Đổng Thìn Sinh mà thôi. Nhưng thế cũng là lên tiên rồi.

   Chỉ khổ là đến lúc "hết phim" phải về thì lại chạy như ma đuổi, đi tắt cắt rừng để về cho kịp giờ cơm chứ đi lùng sục gặp tình huống gì mà lâu thế. Được cái là các B ở phân tán, không phải ăn cơm và sinh hoạt tập trung nên chuyện này vẫn giữ được bí mật cho đến bây giờ, chỉ có ba chúng tôi biết mà thôi.




- He...he...! Bác trongC6! kể đoạn này hay đấy! Cũng giống tui! Thế hồi ở B3 bác đã có lần nào bò ra bờ suối rình chị em dân tộc tắm chưa? ;) ;D ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 11 Tháng Tám, 2011, 02:31:11 pm


   Thời gian ở bản Phù Đin quá ngắn nên không đủ để xảy ra sự cố với dân, những thằng tò mò cũng không có cơ hội được nhòm ngó bao nhiêu thì ngày 12/3, cả đại đội tôi nhổ trại hành quân về vùng bản Tà Kịt. Nghe nói tiểu đoàn phải chuyển sang giữ chốt ở hướng Keng Nhao trên con đường 231. Con đường này bắt nguồn từ ngã ba Lào Ngam và chạy xiên về hướng Tây Bắc. Nếu đi theo đường 231 thì từ ngã ba Lào Ngam đến Keng Nhao cũng chỉ chừng hai chục cây số, nhưng ngoài con đường đó ra thì sát theo huội Chăm Pi chỉ toàn là rừng rậm núi cao không có đường. Vì thế chúng tôi phải quay lên hướng ra phía Saravan rồi vòng lại theo các tuyến đường xe bò của dân thì mới đến được Keng Nhao. Cái bản Tà Kịt nằm ở chỗ gấp khúc trung chuyển đến đó.

   Cũng như các cặp bản ở Lào có tên "cầu" (cũ) và "may" (mới) có nguồn gốc từ một bản, lần này chúng tôi ở cạnh bản Tà Kịt "nọi" (bé). Bản Tà Kịt cũ (Bản "nhầy"-to) thì đã bị phá rồi. Chúng tôi đóng quân ven một cái đồi rất to có hình dài như cái bánh mì. Trên mặt đồi trọc lốc toàn đất đá cứng, không có một bóng cây che. Chúng tôi phải chia làm hầm cạnh các gốc cây to ở một mé đồi cạnh một con suối. Cả đại đội nằm rải rác một bên bờ suối theo một chiều dài trăm mét. Đi xa một đoạn rồi vượt qua suối đi tiếp chừng hai trăm mét là tới bản Tà Kịt "nọi" có gần hai chục nóc nhà dân. Bản này cây cối rậm rạp và mát mẻ, nhưng hầu như không có cây ăn quả. Nhà cửa bé và xấu. Còn về tít xa cuối cái dãy đồi "bánh mì" là vết tích của bản Tà Kịt "nhầy", ở đó không còn nhà sàn nhưng lại có rất nhiều dừa, cây nào cây nấy cao vút có đến hơn chục mét, rất nhiều trái.

   Trung đội tôi được bổ sung anh Thanh (dân tộc Tày) ở trên C25 vận tải về làm A trưởng. Thế là tôi chia tay anh Trịnh sang làm lính cho anh ấy, A chỉ có 2 người. Tôi và anh Thanh đào một cái hầm hàm ếch dựa vào một gốc cây gạo, gọi là có hầm thôi vì vùng này không có gỗ nhỏ. Vả lại lúc này không khí lính tráng cũng chủ quan lắm vì đã lâu không nghe tiếng máy bay và bom pháo. Đến nơi trú quân mới nghe nói đào hầm đã thấy ngại. Hai anh em che tạm lá và nilon trải ngay cạnh gốc cây gạo làm nơi trú ngụ, cảm giác thấy mình gần giống như anh Thạch Sanh làm nghề đốn củi trong chuyện cổ tích. Đang mùa khô nên không sợ ướt, ở độc lập chỉ có hai anh em, nhìn xa xa thấy con suối ẩn hiện sau những rặng cây rậm, "sơn thủy hữu tình", cũng thấy khoái.

   Thời gian chúng tôi ở bản Tà Kịt "nọi" chỉ có một tuần. Hầu như chỉ nghỉ ngơi. Sinh hoạt đại đội có một lần. Một lần được tập trung ở đỉnh đồi "bánh mỳ" xem phim, một bộ phim tài liệu tuyên truyền và bộ phim "Trần Quốc Toản ra quân", một phim thể loại Chèo của Việt Nam. Vì không sợ máy bay nên chiếu ngay trên đỉnh đồi, cả tiểu đoàn ngồi theo hàng lối để xem. Nội dung phim gần như đã biết rồi (ai mà chả biết chuyện "Trần Quốc Toản bóp nát quả cam"), nhưng hơn năm trời mới được xem phim nên lính tráng chúng tôi đón nhận rất vui vẻ.

   Thời gian ở đây, hàng ngày chúng tôi lọ mọ kiếm ăn. Suối bé không có cá, mà có cá đơn vị cũng không cho đánh bằng thuốc nổ. Đến bữa nấu cơm chỉ phát cơm và muối, còn lại tự túc. Đại đội cũng có cử lính đi "cải thiện" tức là đi tìm thứ gì ăn được làm thức ăn, nhưng thất bại. Khu vực này đến chuối cây hay rau tàu bay đều không có. Tôi cùng anh Thanh lần mò mãi thì gặp một vạt vườn ớt be bé đã bỏ hoang, toàn cây xơ xác chỉ có chút lá. Tôi ngắt một ít lá ớt về đem nấu canh với cái gói gia vị trong gói mì ngày trước lấy ở Păk Soòng, ăn thấy rất ngon. Thế là cứ mỗi bữa làm một cái hăng-gô cho một gói gia vị và mươi ngọn lá ớt là đủ canh ăn. Tôi cũng lấy đưa sang cho anh Trịnh cùng ăn. Có điều cái vườn bé quá nên chỉ vài bữa là hết sạch. Sau đó chúng tôi còn mò về bản Tà Kịt "nhầy" để tìm cái ăn. Ở đây có một ít cây dừa, sai trái nhưng cây rất cao. Chả thằng nào biết trèo dừa. Vác súng đem bắn thì chỉ làm thủng dừa chảy phí nước. Về sau chúng tôi tập trung nhiều thằng lại chặt đổ cả cây rồi lấy dừa chia nhau. Đem về bóc lấy cùi dừa đun với muối như kiểu món dừa kho thịt ở nhà, ăn với cơm cũng được, tuy hơi chát . Chặt được độ 5 cây thì BCH đại đội ra kiểm tra rồi cấm, không cho chặt dừa nữa vì tàn phá thế dân họ kêu thì chết.

   Lại một chuyện làm liều nữa. Thời gian này chúng tôi ăn no đủ không thiếu gạo. Một lần lọ mọ sục xạo thế nào mà tôi phát hiện ra một kho gạo của quân ta, không biết giấu từ lúc nào. Kho làm nửa chìm, cây lá xung quanh che phủ chứng tỏ lâu không có ai nhòm ngó đến, tất nhiên là không có lính coi kho. Chỉ chừng độ hơn tấn gạo nhưng toàn là gạo đồ của Trung Quốc bọc trong bao nilon xanh, mỗi bao khoảng năm chục cân. Tôi báo cho anh Thanh và hai anh em cùng mò ra xem xét. Xác định tạm thời là vật vô chủ, nhưng không thể báo cả đơn vị lấy về dùng được. Chúng tôi đang đủ ăn, loại gạo này đun mãi không nhừ nên thực tình cũng không háo hức. Tuy thế anh Thanh lại bảo, dân Lào họ thích loại gạo này vì nấu xong hạt cơm cứ rời nhau tơi ra nên ăn bốc kiểu Lào thì rất tiện. Thế là hai anh em quyết định lấy trộm hai bao đem bán cho dân. Phải đi làm hai chuyến vào ban đêm đúng ca chúng tôi gác thì mới hết. Cũng may anh Thanh (người Tày) rất thạo tiếng Lào nên giao dịch trước được với dân. Chúng tôi đổi hai bao gạo được hai cái bật lửa và hai tút thuốc "A Lào", thêm được một ít đường. Anh Thanh cho tôi một cái bật lửa, còn thuốc lá không dám chia bừa bãi. Thế là do trú quân phân tán, buổi tối sau cơm nước anh Thanh kéo mấy đứa cùng B tụm lại đun cà phê uống (cà phê trên cao nguyên không thiếu, chỉ mỗi tội phải tự xay, giã và lọc thôi) và lấy thuốc lá thơm ra cùng hút. Không chia được trong cả C thì cho mấy anh em trong B quây quần thế này cũng đủ chan hòa tình đồng đội rồi. Chả ai thắc mắc từ đâu mà có, chúng tôi cứ từ từ thưởng thức hàng tối, rồi cũng hết nhanh chóng.

   Thời gian này lúc nằm rỗi, anh Thanh kể cho tôi nghe rất nhiều về chuyện sinh hoạt của người dân tộc Tày, về chuyện đi săn bắn. Anh bảo ở quê anh ai cũng biết làm súng kíp để đi săn. Tuy thế súng này chỉ bắn được thú nhỏ. Loại to như gấu, hổ phải tìm mua súng hai nòng dưới xuôi bắn nó mới chết. Bây giờ ở quê cũng chỉ còn ít thú thôi, không có nhiều như trong này nên săn bắn cũng vất vả. Anh bảo hồi ở trên C25 anh bắn được nhiều chim thú cho đơn vị lắm. Bây giờ xuống bộ binh, nếu có điều kiện anh sẽ bắn thú cho mà ăn. Tôi háo hức lắm vì tuy từ ngày vào đơn vị được ăn cũng khá nhiều thứ, từ chồn, rắn, khỉ, bò, ngựa, thậm chí cả hổ và voi nữa, nhưng cũng chỉ tùy lúc, mà từ ngày ra Saravan đến nay không có. Bây giờ ở cùng anh, nếu đi hoạt động lẻ chắc chuyện cải thiện sẽ rất ngon lành.

   Một lần tôi còn chứng kiến một chuyện mà cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu có phải đó là một thứ bùa mê không? Lần ấy trung đội chúng tôi đi lấy gạo cho đại đội. Đường đi phải lội suối rồi đi xuyên qua bản Tà Kịt "nọi". Lúc về, sau lúc ngồi nghỉ giải lao ở bản, anh Thanh để mọi người về trước, kéo tôi ngồi rốn lại về sau. Lúc vượt qua bản, chúng tôi thấy có một đàn gà mẹ con. Anh Thanh lấy ra một nắm gạo, là động tác gì đó rồi vãi ra trước mặt con gà mẹ, miệng kêu "tục…tục…" Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy con gà mẹ mổ ăn mấy hạt rồi cứ thế chạy theo sau chúng tôi ra phía bờ suối, bỏ mặc cho cả đàn con nháo nhác đuổi theo gọi mẹ. Tôi đã từng xem gà mẹ đuổi diều hâu hồi còn đi sơ tán ở Vĩnh Phúc, biết rằng gà mẹ khi nuôi con sẽ dữ chẳng kém gì chó nằm ổ. Thế mà ở đây nó như không còn biết đến đàn con. Ra đến bờ suổi, tôi còn chưa hết ngạc nhiên thì thấy anh Thanh lội xuống nước rồi bụm tay hất nước "xùy, xùy…" đuổi con gà mẹ. Một lúc sau con gà mẹ mới như chợt tỉnh, quay lại đám gà con phía sau như bản năng vốn có rồi dẫn đàn con về bản.

   Về đến đại đội trả gạo xong, lúc nằm khểnh hút thuốc, tôi mới bảo anh Thanh là "suýt nữa anh em ta có gà ăn". Anh Thanh cười bảo "không có đâu, làm chơi thì được chứ bắt con gà đó làm thịt là phải tội đấy, hỏng hết phép". Phép đó là gì, có phải thứ bùa của người dân tộc dùng để "chài" mà tôi có nghe nói không? Anh Thanh không trả lời, từ đó về sau trong hoàn cảnh nào gặng hỏi, anh Thanh cũng không quay lại chủ đề này nữa. Thế đấy.

   Sau một tuần nghỉ thảnh thơi ở cạnh bản Tà Kịt "nọi", ngày 20/3 đại đội tôi lại lên đường, nhằm hướng đến bản Noọng Bua ở gần đường 231. Dọc đường đi chúng tôi có qua một hai cái bản khác của vùng cao nguyên. Trên cao nguyên, lính có câu:

   "Phù sao Phăk Cụt,
      Gia đụt Na Sịa,
         Mía Noọng Tôm".


   Điều đó có nghĩa là bản Phăk Cụt nổi tiếng có gái đẹp (tôi chưa đến đây nên chưa được chiêm ngưỡng), bản Na Sịa nổi tiếng về trồng thuốc lá. Nếu như vùng bản Xăm-xi-nuc người dân trồng cây kiệu bạt ngàn trên những nương rẫy rộng lớn thế nào thì ở vùng bản Na Sịa, họ trồng thuốc lá nhiều như thế. Cả một đại đội hành quân qua, lính tạt vào vặt mỗi thằng một ôm lá mà trông như nương thuốc không hề suy chuyển gì. Đi lẻ mà vào bản dân ngồi chơi tán chuyện là cũng có thể xin được một nắm thuốc rê to tướng đủ hút cả tháng. Dân Lào được tiếng mến khách và hào phóng.

   Đợt hành quân này chúng tôi chỉ đi qua bản Noọng Tôm. Phía ngoài bản dân trồng mía bạt ngàn, nhưng có luống lối vun đắp tử tế chứ không phải những bãi mía trồng như rừng cho voi ăn vùng cao nguyên. Hình như tôi đã kể là trong cao nguyên vùng gần Păk Soòng có những bãi mía dân họ trồng cho voi ăn, bãi mía rộng tới cả hec-ta, toàn là loại mía nhỏ gióng dài màu vàng giống như mía chuyên để nấu đường. Loại mía này ngọt sắc. Lính tráng đi lẻ rất thích nghỉ chân ở đó, chui hẳn vào trong cho mát, ăn mía đến rát lưỡi mới chịu chui ra. Mỗi tội không được chặt mía đem về (ai lại đi ăn tranh của voi nhỉ?).

   Ở bản Noọng Tôm này lại toàn giống mía tím gióng ngắn, thân to mà người ta hay gọi là mía "Tuy Hòa". Mía này không ngọt sắc, nhưng rất giòn, dễ gặm. Tuy chỉ gọi là vườn vì mía trồng ngay bên đường, khắp xung quanh bản nhưng nhiều đến độ nổi tiếng toàn cao nguyên thì cũng có thể hình dung rộng lớn thế nào. Có điều họ để ăn hay đem bán đi đâu đó chứ cũng không thấy có lò nấu đường. Thôi thì bộ đội hành quân nắng nóng cứ dừng chân rẽ vào mà giải khát. Chẳng phải tìm dân để xin vì vốn dĩ lính ta cũng không thích xin, đã quen như của nhà từ lâu rồi. Vả lại trong dân các bản cao nguyên lúc đó đã truyền tụng nhau câu nói "Bộ đội Việt Nam nó bảo, phong tục Việt Nam chỉ xin một lần là lấy mãi đấy". Vậy thì thể nào chả có lúc đã có lính hỏi xin, mà chúng tôi ai cũng là lính Việt giống nhau thì khỏi phải hỏi xin lần nữa. Chuyện này kể lại thì nghe có vẻ đùa, nhưng tình hình lúc đó là thế thật.

   Mà lính ta khi có vật chất sẵn có và dồi dào thì cũng công tử lắm. Từ quan đến lính tự nhiên như ruồi, rẽ vườn mía chui vào chọn cây nào to, gióng đều, thẳng và còn nguyên lớp bụi bám trên các đốt thì mới chặt. Mía mùa hè ngon phần gốc, thì về mùa đông (có gió heo may) phần ngọn lại ngọt hơn. "Gió heo đường trèo lên ngọn", câu này truyền nhau, lính nào cũng biết. Bây giờ là tầm tháng 3 thì cả cây mía đều ngon. Trung bình mỗi lính "hạ" hai cây để giải khát, lúc lên đường hành quân còn một khúc gặm nốt là tròn khẩu phần. Quy định không chặt thêm mía mang theo, ngày đó chúng tôi chấp hành nghiêm lắm.

   Đêm hôm ấy chúng tôi nghỉ lại cạnh bản Noọng Bua. Nghỉ ngoài rừng sát cạnh bản chứ không vào trong dân. Mùa khô hành quân và dừng chân chỗ nào cũng tiện.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 26 Tháng Tám, 2011, 10:09:18 am


   Hôm sau chúng tôi lại hành quân tiếp về hướng đường 231. Lúc này chợt có cảm giác đội hình hành quân không đông, hình như chỉ có C6 chúng tôi thôi thì phải. Sau này được biết đúng là thế, cả trung đoàn vẫn nằm im, còn các đại đội khác cùng D và tiểu đoàn bộ hành quân ra vùng bản Sen Vàng giáp gianh Saravan. Vùng này có nhiều bản quần tụ đông đúc, tha hồ mà giao lưu với dân, tha hồ mà "phòn" (múa") với các cô gái mỗi đêm. Dân Lào kể cũng lạ, chả phải ngày hội hè gì, hễ cứ có giao lưu là đốt lửa uống rượu và múa. Điệu "phòn" của Lào khá đơn điệu, chỉ học độ mươi phút là nhún nhẩy và uốn éo chân tay được.

   Nhưng thôi, đấy là việc của người khác, còn mấy chục lính C6 chúng tôi vẫn cặm cụi hành quân ra vùng giáp gianh với địch. Càng đi càng có cảm giác bản làng thưa thớt vì chỗ nào cũng như bỏ hoang, chả có nương rẫy gì. Rừng cũng không phải rừng già âm u mà khá thưa, nhiều chỗ đi qua cánh rừng có rất nhiều loại cây có dây leo chằng chịt. Mấy lính người dân tộc cứ cố nghển cổ tìm cây Gắm (một thứ cây cho quả, chà xát kỹ, rang lên ăn khá bùi, chống đói) mà không có. Tại một chặng, chúng tôi đi qua một dẻo đất kiểu như thung lũng có bùn đất và nước lấp xấp, các loại cây dại ăn được như rau càng cua, tập tàng mọc khá nhiều. Lính tráng thi nhau hái, đi đến đâu hái trụi đến đấy. Tới bữa tập trung lại cho anh nuôi là có món canh cải thiện ngon lành. Loại rau này ăn lành, vùng quê nào cũng có. Ở ngoài Bắc chỗ bãi tha ma gần nhà tôi có loại rau rền cơm mọc dại, loại này nếu chịu khó hái, nấu ăn còn ngon hơn loại rau rền trồng.

   Tại một chỗ khác, chúng tôi thấy có nhiều rau mọc lan trên mặt đất, trông từa tựa rau muống. Tôi nghĩ đến loại rau muống Mèo mọc vùng Tây Bắc mà trong những truyện ký của cha anh về Điện Biên Phủ có nói tới, định hái một ít thì anh Thanh ngăn lại. Anh ấy bảo rau này trông đẹp vậy thôi nhưng không ăn được, ngộ độc có ngày. Các lính dân tộc mà đã nói là phải nghe theo rồi. Chúng tôi đã gặp vụ hái phải nấm độc hồi mới được bổ sung về tiểu đoàn, bây giờ vẫn còn nhớ rõ.

   Chiều tối, chúng tôi đến trú quân tại một cánh rừng rậm, có nhiều cây leo. Nền đất nơi đây khá ẩm ướt. Bếp ăn được ưu tiên chọn chỗ cao khô ráo nhất, còn lại chia trú quân, mắc võng mà nằm. Tất nhiên địa hình thế này không phải đào hầm, vậy là sướng rồi.

   Lúc này C6 chúng tôi được tiểu đoàn cho 2 trinh sát và 01 điện đài đi phối thuộc cùng. Điện đài là máy 2W của Liên -xô (không biết tên là K10 hay PRC10 gì đó, loại đeo vai như balo, màu cứt ngựa, có cái anten cần có 3 râu lá lúa). Lúc dừng chân, thằng lính thông tin chăng một sợi dây lên cành cây làm anten để thu được xa hơn. Lúc thanh bình này, nó hay nghe tin tức qua đài Tiếng nói Việt Nam, có khi cho vài anh em nghe ké. Đêm đó tiểu đoàn lại chỉ tọa độ mới và lệnh cho chúng tôi hành quân tiếp.

   Hôm sau, chúng tôi đi thêm chừng hai chục cây số nữa, vượt qua đường 231 sang phía Tây chừng hai cây số, thuộc đất của địch. Con đường 231 là đường lớn chứ không phải loại đường xe bò, nhưng cũng chỉ là đường đất, cây hai bên đường mọc xòe ra che kín nhiều phần đường. Chúng tôi dừng chân trong một cách rừng già, bố trí các trung đội theo vòng tròn và tổ chức đào hầm chữ A hẳn hoi. Cánh rừng này khá rậm nhưng nhiều cây con, ai muốn mắc võng hay nằm đất sát miệng hầm thì tùy.

   Hôm ấy là ngày 24/3/1973, Hiệp định Viên Chăn mới trôi qua hơn một tháng.

   Tại cánh rừng này, cả đại đội tôi nằm trú quân khoảng 10 ngày, đủ một cơ số gạo 7 kg. Theo trinh sát dẫn đường và bố trí, hàng ngày có một B lùng sục về hướng Bắc, nơi phán đoán có địch đóng quân. Vì không phải mục đích đánh căn cứ nên trinh sát không bám địch đến tận nơi đóng quân của chúng. Họ chỉ báo là có gặp các tốp địch ở phía đó thôi. Vậy mà chúng tôi cũng được lệnh là nếu lùng sục mà gặp địch thì vẫn phải nổ súng, ở nhà sẽ ra chi viện. Cái khó là ở vùng này, chỉ chệch cánh rừng chúng tôi trú quân độ hơn trăm mét là cảnh rừng gần giống Saravan. Toàn cây cối lưa thưa như cây khôộc xen lẫn rất nhiều ụ mối. Không có đường, phải nhắm hướng nên chỉ đi xa lắm độ hai cây số là phải quay về để khỏi lạc. Phía đường 231 hướng về ngã Ba Lào Ngam thì cách một ngày cũng có một B đi lùng sục hướng đó, cũng chỉ men đường đi độ hai cây số thì về. Những lần đi qua hướng này, chúng tôi rất yên tâm vì những dấu vết trên đường luôn chứng tỏ không có người qua lại. Vậy là địch nó cũng chả mò ra đến đây.

   Ngoại trừ các B đi lùng sục, A cối 60, anh nuôi, y tá và B còn lại toàn chơi tiến lên và ngồi tán chuyện gẫu. Ban đêm tuy có tổ chức gác, nhưng tinh thần trực chiến xem ra lỏng lẻo. Chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản là nếu tình hình gay gắt thì tại sao ở hướng này, cả trung đoàn mà chỉ có mỗi một C với hơn ba chục người ra đứng chân cách xa đại quân tới ba chục cấy số thì làm ăn được gì nếu có địch thực sự. Vì vậy khi đi lùng sục theo đường 231, chúng tôi cố gắng tìm dấu vết bản cũ hay cái nương bỏ nào đó để tìm rau, nhưng không gặp. Một vài đêm, chúng tôi tổ chức đi chém cá. Trong cánh rừng này có con suối đá khá rộng chảy qua, nước sâu đến đầu gối. Chúng tôi huy động Pin lấy từ đợt đánh Păk Soòng để đi chém cá. Cá ở đây không nhiều, chỉ to độ ngón tay cái. Ban đêm cá ngủ, nhưng dùng loại dao tông của Mỹ (dao mỏng, to bản) luồn xuống nước kê ngay gần con cá ngủ trên phiến đá rồi "phập" nhẹ một cái là con cá đứt đầu. Hai thằng với hai đôi pin là một tối được một gô cá cho cả đơn vị nấu canh chua (lá chua rừng không thiếu). Được vài đêm thì nguồn pin xem ra có vẻ hao quá, lại thêm một lần gặp phải cá rắn. Con này là cá chứ không phải rắn nước, nó to và dài giống con lươn nhưng bơi lượn rất nhanh. Mấy lính người dân tộc bảo loại cá rắn này còn độc hơn rắn hổ mang trên cạn, và chính họ có ý kiến rút lui trước nên chúng tôi cũng chờn. Thế là chuyện chém cá phải dừng lại.

   Một lần, sau khi chúng tôi ở đây một tuần gì đó thì hai lính trinh sát D báo rằng họ đã phát hiện ngoài bãi trống cách chỗ chúng tôi chừng cây số có khoảng một B của địch thường đi lùng sục qua. Lâu không đánh nhau, không có thành tích nên Ban chỉ huy đại đội cũng ngứa ngáy, liền lập ngay phương án tác chiến. Hôm sau, một B tăng cường chúng tôi (khoảng chục lính) theo trinh sát mò ra phục kích. Đường đất có thành hình gì đâu, nên tất cả cứ theo ý trinh sát rồi chia ra ba tốp nằm phơi lưng sau 3 ụ mối hướng về một phía chờ đợi. Chờ hết buổi sáng không thấy gì. Chỗ này trơ khấc không hầm hố nên thấy khó chịu lắm, mọi thứ cứ tơ hơ ra, thuốc rê cũng không dám hút, mồm miệng nhạt thếch. Đang định nếu trưa đứng bóng không có địch thì rút về cơm nước thì địch lù lù xuất hiện. Một đám chục tên đội hình hàng dọc, không phải tiến qua trước mặt, mà chúng đi ngay từ phía sau lưng chúng tôi, cách độ chỉ dăm bảy mét. Nếu như cách nhau qua ụ mối thì chúng tôi đã nổ súng vì có vật che khuất, đằng này nó đi qua thì mình đang nằm phơi lưng ra huớng địch nên phải nằm im vì ngọ nguậy một cái là lộ ngay. Chúng tôi cứ nằm chịu trận như thế chờ cho tốp địch đi qua rồi khuất dần mới dám ngồi dậy thu quân. Về nhà, nhiều người chúng tôi cho rằng địch nó nhìn thấy mình rồi, nhưng nó không muốn đánh nhau mà thôi. Có vẻ như nó cũng muốn hòa bình yên ổn. Tư tưởng lính như thế khiến BCH đại đội cũng phân vân với ý định mò mẫn đánh địch tiếp. Sau đó điện về tiểu đoàn, cấp trên cũng chủ trương chốt giữ là chính nên chấp thuận cho C6 chúng tôi lên kế hoạch rút. Hai ngày sau, lại theo lệnh tiểu đoàn, cả đại đội được trinh sát dẫn đường mò sâu đến một cánh rừng cách đó hai cây số, tìm ra một cái kho đạn cối 60 có độ trăm quả chia nhau cùi về. Qua đó, tôi biết vùng này khi trước đã có tác chiến và quân ta đã từng đóng quân ở đây rồi.

   Lấy đạn cối xong, cả đại đội lại rút về phía Đông đường 231, tới đóng quân lại ở chỗ khu rừng có nhiều cây leo mà mươi ngày trước chúng tôi đã dừng chân một đêm.

   C6 chúng tôi vẫn phải trụ lại đây chứ không phải được rút về khu bản Sen Vàng cùng tiểu đoàn. Hàng ngày chúng tôi vẫn phải tổ chức đi lùng sục ra các hướng, đi rất xa nhưng chỉ theo từng nhóm 3 người. Cái hướng hay phải đi nhất vẫn là trở lại đường 231. Trong một tuần ở đây, ngày nào A tôi cũng phải đi lùng sục, có tăng cường thêm một lính nữa của A khác. Một tuần liền anh Thanh trổ tài săn bắn. Cứ ra khỏi nơi đóng quân khoảng dăm bảy cây số là anh Thanh nhận đi trước cách độ năm chục mét. Chỉ một lúc sau, nghe "đoàng" một tiếng chúng tôi chạy lên là đã thấy anh Thanh tươi cười với chiến lợi phẩm là một chú gà rừng rồi. Vùng này đặc biệt nhiều gà rừng. Đí đông người thì chúng bay hết, nhưng đi ít người và lặng lẽ thì nhất định gặp chúng đang kiếm ăn theo cả đàn. Anh Thanh chỉ việc chọn một con ngon mắt rồi khai hỏa là xong. Vì vậy đi lùng sục, trưa nào chúng tôi cũng có gà rừng ăn với xôi và muối đơn vị phát cho từ sáng đem theo. Đa phần là vặt lông sống rồi kiếm cái gì đó để luộc, có lần hứng lên mà chỗ nghỉ trưa an toàn thì nướng. Có điều là săn bắn khi đi làm nhiệm vụ lùng sục nên anh Thanh không dám bắn thêm đem về cho đại đội cải thiện, mà chỉ ba anh em ăn và biết với nhau thôi. Kể ra như thế cũng không hay, nhưng cái tình thế nó vậy nên phải chịu. Nhất là anh Thanh lại đang là đối tượng kết nạp Đảng.

   Một lần chúng tôi còn mò sang đường 231, đến cánh rừng chúng tôi đã ở mười ngày trước thì phát hiện địch nó đã mò vào đó và phá tan hoang các hầm của chúng tôi. Dấu vết bếp anh nuôi cũng bị cày sới lung tung. Chắc chúng cũng bực vì quân ta lấn sang chỗ chúng nó sâu quá. Rất may bọn địch không ma quái chứ nếu chúng cứ gài đại vài trái mìn ở đây thì chúng tôi thiệt hại to rồi. Trưa hôm đó nhóm chúng tôi vẫn ung dung ra bờ suối làm thịt gà cho bữa ăn trưa, nhưng tự nhủ từ sau sẽ không quay lại chỗ này nữa.

   Một lần khác anh Thanh dẫn chúng tôi đi lùng sục nhưng không vượt qua đường 231 mà cứ đi dọc theo đường rất xa về hướng Ba Lào Ngam. Đi xa đến mức phát ngại và hơi lo vì sợ lọt vào chốt địch. Thế mà may không hề gì, chúng tôi còn gặp một cái bản cũ. Nhà cửa không còn nhưng cây cối hoang vu tuy không người chăm sóc vẫn ra quả. Chúng tôi khẩn trương hái mấy quả mít đem về cho đại đội cải thiện. Mít còn non nhưng đem về xào thì rất ngon. Món này năm ngoái trong cao nguyên cũng là thức ăn loại ngon mà chúng tôi hay nhắm tới khi đi cải thiện.

   Giữa nửa tuần đầu tháng tư, C6 chúng tôi lại thu quân trở lại bản Noọng Bua và tổ chức làm nhà cạnh đó để trú quân. Vì là mùa khô nên làm nhà cũng đơn sơ, gọi là có chỗ che nắng. Mỗi B là một nhà, bên cạnh nhà vẫn đào lấy lệ một cái hầm chữ A.

   Như vậy về tình hình nhìn chung là toàn trung đoàn 9B chúng tôi gần như đã rút hết ra khỏi cao nguyên Boloven để chuyển ra vùng Saravan. Chỉ còn mỗi C6 chúng tôi là còn đang ở trên đất cao nguyên, quân số hơn ba chục người. Gọi là đứng chân cắm chốt, nhưng với lực lượng như thế thì chỉ là chiếu lệ. Bầu không khí hòa bình tràn ngập khắp đơn vị.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 26 Tháng Tám, 2011, 01:23:13 pm
@Trongc6: Đọc chuyện của bác tôi phảng phất như được đọc nhưng trang viết về rừng Lào của nhà văn Vũ Hùng, người mà ngay từ nhỏ tôi rất mê đọc sách của ông.

Cám ơn bác đã cho chúng tôi thêm 1 cái nhìn của cuộc chiến đã đi qua về những con người trong cuộc chiến đó.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: th.vanh trong 31 Tháng Tám, 2011, 03:46:24 pm
Bác Trong C6 kể đoạn bắn hổ thấy hay như "Đất rừng Phương Nam" của Đoàn Giỏi !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: dungthanhcong trong 08 Tháng Chín, 2011, 02:54:11 pm
@bác PhongQuang.

       Sư 320 thời chống Mỹ nằm địa bàn B3 (Tây Nguyên). Tháng 5/1973, Trung đoàn 52 của sư 320 bị rút đi bổ sung cho chiến trường Quảng trị (Nó nhập vào sư 325 thì phải). Thế là E9B bị cắt ra khỏi sư 968 và bổ sung cho sư 320A. Mãi đến tháng 8/1975, trung đoàn 9B mới trở lại đội hình sư 968 và ở đó cho đến ngày hôm nay. Đúng như bác PhongQuang đã nói, bây giờ sư 968 thuộc QK4 và đóng tại Quảng Trị

Trung đoàn 52/f320A  - tên truyền thống là trung đoàn Tây Tiến - bổ sung cho chiến trường QT nhưng không về 325. Tại QT lúc đó f320B chỉ có 2 e là 48 và 64 sau đó e27 của QK Trị Thiên sát nhập vào 320B. Thời kỳ đó chúng tôi chưa nghe thấy tên e52.

Gốc gác của f320 từ thời đánh Pháp có 3 e là 48 (Thăng Long), 52 (Tây Tiến)  và 64 (Quyết thắng).

Bác ơi lúc f320 vào Củ chi và đánh Đồng Dù thì trước đó E52 được bổ sung cho Khu 5, quần nhau mãi ngoài Ba tơ, Nghĩa hành sau đó thẳng tiến. Tháng 5/ 1975 thì trở về đội hình f320 và đóng tại Đồng Dù_Củ Chi


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 15 Tháng Chín, 2011, 10:15:09 am

   Trung đội tôi không phải là trung đội chủ công của đại đội, mà là trung đội chuyên về chốt giữ. Bởi thế nên trong khi cả đại đội còn đang nghỉ chân tại bản Noọng Bua, chỉ có cùi gạo ăn và tập tành vớ vẩn mấy loại vũ khí, sau đó là học những bài chính trị đã thuộc lòng, thì ngày 10/4/1972, B5 phải hành quân trở lại đường 231, nhưng nhằm hướng Keng Nhao. Cả trung đội có 8 người, được tăng cường 1 y tá và 1 anh nuôi, vừa tròn một chục. Không có cán bộ C nào đi cùng. Trinh sát tiểu đoàn chỉ dẫn chúng tôi đến vị trí tập kết rồi quay về. Đoạn đường 231 chỗ Keng Nhao này cong vênh về hướng sông Me Kông hay sao ấy, nên đường đi từ bản Noọng Bua đến đó cũng phải gần ba chục cây số. B5 chúng tôi sẽ phải đến đó lập một cái chốt, cắm một cái cờ Pathet Lào làm mốc rồi ngồi đó mà canh giữ. Thời gian này, nhiệm vụ của chúng tôi gọi là "giữ cờ". Chúng tôi chỉ lo ngồi chốt trông giữ cờ thôi, còn gạo tiếp tế sẽ do các B khác cùi ra. Tất nhiên nếu có đánh nhau thì khắc có chi viện.

   Trọn một ngày trời, trinh sát dẫn B5 chúng tôi đến nơi trú quân mới. Ở đây không có dấu vết bản, chỉ là một cánh rừng già cây to cao vút, mọc thưa và xen lẫn trong rừng có rất nhiều ụ mối nhỏ, đường kính chỉ chưa đến hai mét. Có một cái nhà sàn bằng gỗ cây dựng ở đó, không biết trước kia của ai. Chúng tôi đoán của bọn coi kho mặt trận hay tụi lính E39 làm nhiệm vụ dân vận. Nhà chỉ còn sàn và mái che, đủ chỗ cho cả chục người nằm, còn vách xung quanh mất hết cả.

   Hôm sau chúng tôi triển khai vị trí cắm cờ. Đi xa qua vài cái nương bỏ không, cách độ 2 cây số thì tới. Đó cũng là một cái bản bỏ khá rộng nằm cạnh đường 231, chỉ còn dấu vết nền nhà và rất nhiều cây ăn quả, nhiều loại quả lạ như Vú sữa, Sầu riêng nhưng nhiều nhất là xoài. Chúng tôi chọn một cây to nằm sát đường và tương đối độc lập để trèo lên đó buộc một cái cờ Pathét, sao cho từ xa mà trời quang thì có thể nhìn thấy cờ. Cắm mốc thì cũng phải cho địch nó nhìn thấy để báo hiệu đây là gianh giới của ta chứ. Trong bản và một vị trí bên rìa khác, chúng tôi đào ba chiếc hầm làm ba điểm chốt có thể chi viện được cho nhau. Tại vị trí nào cũng có thể nhìn thấy cờ và bắn M79 tới đó được. Tuy không nhìn thấy sát gốc cây cắm cờ vì cây lúp xúp mọc um tùm quanh đó che khuất, nhưng nếu bọn địch trèo lên lấy cờ thì chúng tôi sẽ biết mà nổ súng. Còn nếu chúng tương đạn cối từ xa để hạ cờ thì cũng phải đành chịu. Chắc lúc đó cấp trên sẽ có biện pháp khác. Nhưng cứ hình dung tất cả lực lượng chỉ có mươi người, súng ống là loại trang bị cá nhân, mò xa cách đơn vị tới vài chục cây số thì chuyện giữ cờ chỉ là hình thức, chứ đánh nhau thật thì chốt kiểu này chỉ một ngày là bật. Chắc trên khắp các chiến trường, chỉ có chỗ chúng tôi mới có kiểu  chốt giữ như thế này thôi.

   Thế là hàng ngày cơm sáng xong, cứ khi trời bảnh mắt thì 6 lính chúng tôi có mặt tại vị trí cắm cờ để ngồi chốt. Ngoài cơm nắm nấu sẵn mang theo ăn trưa, nước uống chúng tôi cũng phải mang từ nhà cách xa 2 cây số ấy (Tức là ở cái chỗ nhà sàn bỏ hoang trong rừng ấy. Gần chỗ ấy cũng tìm thấy một cái lạch nhỏ đủ cung cấp nước ăn cho vài chục người, nhưng nếu muốn tắm thì cũng phải có cách mới gạn nước lên mà tắm được). Đơn giản là vì cái suối mà dân bản ở đây (chỗ giữ cờ) lấy nước lại phải đi vượt qua đường 231 sang phía địch. Bốn lính ở nhà lo việc cải thiện và nấu cơm chung cho cả bọn. Nếu không có gì xảy ra thì trước lúc hoàng hôn, nhóm lính chốt chúng tôi phải rời chốt để kịp về nhà trước khi tối hẳn. Buổi tối chúng tôi đốt lửa sáng để ăn cơm, sau đó ngồi chơi "tiến lên" đến tận 9 giờ. Nước uống chỉ là nước suông vì không còn chè. Ban đêm chúng tôi không gác (thật chủ quan), nhưng B trưởng Dũng không cho tất cả cùng ngủ trên nhà sàn mà bắt 4 thằng thay nhau tách ra xa mắc võng ngủ ngoài rừng để làm thế chân vạc phòng khi có địch. Nói trước luôn là suốt thời gian ở đó, không có tốp địch nào dám tập kích chúng tôi.

   Chuyện ngồi chốt thì không có gì đáng nói, chỉ có một vài nét sau để ghi lại kỷ niệm trong thời gian một tháng rưỡi trời ở đây. Trước hết là chuyện cải thiện. Biết rằng khu vực này chỉ có mỗi trung đội mình nên anh Dũng triển khai ngay chuyện cải thiện để bồi dưỡng sức quân. Trong thời gian ngồi chốt, có hôm vừa mới sáng vào đến chốt, chúng tôi đã thấy có những bầu nước để sẵn cạnh hầm chốt. Đầu tiên thì nghi ngại, dò xét, sau thì biết dân Lào họ về bản cũ, thấy có hầm bộ đội thì thương tình mang nước tiếp tế, kết hợp hái hoa quả ở đó. Dân họ không có rau nên cũng tôi cũng đành biết vậy, chỉ nhận nước của họ thôi, nhưng cũng chỉ độ dăm lần. Hoa quả ở đay khá nhiều. Những cây xoài cao thấp đủ loại, quả chưa chín nhưng già và to. Mỗi quả xoài úp hai lòng bàn tay không che kín hết. Đây là lần đầu tiên tôi thấy xoài to như vậy. Ở ngoài Bắc chỉ toàn thấy muỗm, quả nho nhỏ thôi. Thế là chúng tôi hái về, nhưng món đó chỉ ăn cho vui (như khoai lang sống) chứ không làm thức ăn được. Sau thời gian chốt ở đó thì vườn xoài cũng nhẵn quả. Còn có hai thứ quả nữa cũng nên nhắc đến. Một là Sầu riêng. Nghe nói đây là đặc sản Nam bộ (Việt Nam), nhưng vùng này thổ nhưỡng thích hợp nên cũng có nhiều. Nhờ anh Dũng hướng dẫn nên chúng tôi mới biết giá trị của nó. Theo tôi, nó cũng là một loại mít, hương vị khá đặc biệt. Thế mà trong khi mọi người khen ngon thì vẫn có 2 lính không dám ăn, dù lính tráng chúng tôi khi đó ăn rất tạp. Chúng nó giải thích mùi này tương tự như kiểu mùi mắm tôm, ai ăn được thì cho là rất ngon, ai không ăn được thì ghê cả đời. Nhưng có một loại quả nữa ở đây, tôi cho là rất lành và rất tuyệt. Đó là quả vú sữa. Cầm nắn cũng thích (mà dứt khoát là phải nắn, nắn nhiều thì ăn mới ngon), còn ăn thì no không chán, chẳng bao giờ nóng người hay đau bụng. Hai thứ quả này dọc đường 23 trên cao nguyên Boloven có trồng nhiều, nhưng lính ở đó đông quá nên chỉ ở đây, chúng tôi mới được thưởng thức tự do và thoải mái như của riêng mình.

   Khu rừng chỗ cái nhà sàn chúng tôi trú quân hàng đêm rất kín đáo. Cây cao, bóng mát và dưới gốc khá quang đãng. Vì có nhiều ụ mối nên những hôm không đi chốt, tôi mò ra xem mối. Mối ở đây rất to, đầu con mối phải bằng hạt đỗ đen, cứng và nâu bóng. Chúng gặm mọi thứ lạ rào rào. Vô tình mà bị con mối bò lên chân, khuơ hai cái càng như hai lưỡi kéo xoẹt qua một cái là rách da như bị đứt do lưỡi lam rạch, máu tứa ra không gì ngăn được. Vô phúc chân trần dẫm đúng ổ mối thì chỉ trong một phút, trên da thịt mình đã có dăm bảy vết cắt như vậy rồi, một lát sau máu tứa ra mới thấy buốt. Đánh rơi cái ba lô xuống sàn thì chỉ qua một đêm nằm trên đất, cái balo đã bị mối ăn không còn đáy. Sau này tôi còn qua nhiều cánh rừng có ụ mối nữa, nhưng chỉ gặp ở đây giống mối to và dữ như thế.

   Điều đặc biệt là tuy mùa khô không có rau, nhưng khu rừng ở đây thì lại bạt ngàn cây "phac van" (rau ngọt - tiếng Lào) mà ở Trường Sơn bộ đội ta hay gọi là cây rau mì chính. Cây nhỏ, thân cứng mọc nguềnh ngoàng như kiểu cây rau ngót, nhưng cành thưa và lá to hơn nhiều. Rau ăn chẳng có vị gì rõ rệt, nhưng đem nấu lên thì nước của nó rất ngọt. Thế là chúng tôi tạm yên tâm về khoản rau. Ở đây được hai ngày thì anh Thanh phát hiện khu vực có gà rừng cách đó chỉ hơn cây số. Thế là anh Thanh không phải đi chốt nữa mà chuyên làm nhiệm vụ bắn gà cải thiện. Thời gian ở đó ngày nào cũng bắn được gà, có hôm được hai con. Gà rừng nhỏ con nhưng thịt của nó thì rất ngon. Anh Thanh còn bày ra những trò đặt bẫy nên đôi lúc chúng tôi còn được ăn cả nhím, chồn và rắn. Chuyện ăn thế là ổn. Đặc biệt có một lần chúng tôi còn kiếm được cả một con hoẵng (họ nai) chừng ba chục cân.

   Chuyện là thế này. Vốn đã được học công binh và cũng có chút tai quái nên tôi nghĩ ra cái trò bẫy mìn ở chỗ cắm cờ. Mìn thật thì không có, lựu đạn lúc này cũng không dư thừa nên tôi lấy hai bánh TNT gói lại như quả thủ pháo. Thay vì có nụ xòe điểm hỏa, tôi vót một que gỗ vừa bằng lòng cái kíp nổ. Một đầu tôi vót nhọn và cắm vào trong cái kíp, sát gần mắt ngỗng. Tôi đem chôn quả thủ pháo đó ngay dưới chân cái cây có cắm cờ Pathet. Nếu tên địch nào mò đến cờ dẫm lên, cái que nhọn chọc vào mắt ngỗng là "bùm". Hàng ngày chúng tôi vẫn ngồi chốt bình thường, cũng không tin tưởng địch nó mò đến nên tôi cứ kệ thế, không kiểm tra hàng ngày. Một hôm vào lúc chiều, mấy thằng ở chốt đang ngồi lặng lẽ nhai xoài cho đỡ buồn thì "bùm" một tiếng rất to ở chỗ cắm cờ. Tất cả lăm lăm súng nhưng chờ mãi chả thấy gì thêm, cũng chẳng nhìn thấy gì rõ ràng. Có đến hai chục phút trôi qua, chúng tôi mới yểm hộ nhau lò dò mò đến. Ôi trời, không phải địch mà là một con hoẵng nằm gục tại đó. Chả biết làm sao nó lò mò qua đó dẫm phải quả "mìn" của tôi. Một cái chân trước tan đâu mất và ngực nát bươm. Thế là hôm đó chúng tôi nghỉ sớm và khiêng con hoẵng về nộp anh nuôi. Tối hôm đó ăn tươi, cả trung đội râm ran nói cười. Tưởng phen này tiếp tục được bẫy thú, nhưng cuối bữa, anh Dũng có vẻ nghĩ ngợi rồi tuyên bố: "Cái chuyện này chỉ là ăn may, không phải là cách bẫy hay. Nhỡ dân họ cũng lọ mọ đi vào thì thật chết, bởi vì bao lâu rồi có thấy địch đâu". Thế là từ đó tôi không nghịch dại cái trò ấy nữa.

   Cứ độ mươi ngày, đại đội lại cử một tốp gùi gạo đến tiếp tế cho chúng tôi. Tốp này ngủ lại cùng một đêm, hôm sau mới về. Có chúng nó nên mới không mù tịt thông tin, nhưng giai đoạn đầu thông tin chẳng có gì mới, ngoài chuyện phổ biến viết thư cho gia đình để chúng nó mang về gửi lên tiểu đoàn. Lúc này chúng tôi vẫn chưa có ai nhận được thư nhà. Hầu như lần nào bọn cùi cõng tiếp tế cũng được chúng tôi đãi canh "phac van" và thịt gà hay thú rừng. Để đáp lại thịnh tình của chúng tôi, đến mấy lần sau chúng nó cũng kiếm được ít lá thuốc  trồng ngoài nương của dân trên đường đi đem đến cho chúng tôi thái phơi để hút. Nếu không có chuyện này thì còn buồn hơn nữa.

   Một lần giữa ban ngày còn có hai thằng du kích Lào (là chúng nó giới thiệu thế chứ chúng tôi cũng có gặp chúng nó bao giờ đâu) mò đến chơi. Chúng nó giới thiệu là ở đơn vị quái quỷ nào đó mà chẳng ai biết. Chỉ tin vì chúng cũng có súng AK. Bọn này cũng bẩn thỉu và hút thuốc rê luôn mồm. Chúng nó chỉ nói chuyện chơi, không nói gì đến chuyện công việc. Chúng nó qua lại với chúng tôi độ ba lần, cũng mang thuốc rê cho chúng tôi, đóng trong ống nứa. Một đoạn ống dài hai mươi phân thì một người hút phải nửa năm. Sau đó chúng nó không đến, và chúng tôi cũng chẳng bị làm sao, chắc chúng là du kích thật. Sau này nghĩ lại thấy mình cũng chủ quan, nhưng đồng thời cũng thấy người Lào hiền lành chất phác thật, không ma quái.

   Một tháng rưỡi trời gần như không sinh hoạt vì có chuyện gì thì buổi tối ngồi ăn cơm anh Dũng đã nói rồi. Nhàn cư vi bất thiện. Ở đâu cũng vậy, nhưng cái phạm vi bất thiện lại bị giới hạn bởi điều kiện cụ thể từng lúc. Lính ta mà ngồi rỗi thì chỉ có hai chuyện thường nói, nói nhiều, nói mãi mà không chán. Đó là chuyện ăn và chuyện về chị em. Chuyện ăn thì không nói làm gì. Chuyện về chị em cũng là vô thưởng vô phạt, nhưng tôi bị vố nhớ đời. Tôi đã kể là anh Thanh A trưởng của tôi người dân tộc Mường, đã có vợ trước khi đi lính. Ông này cũng rất hóm chuyện và không sợ bậy bạ. Thằng Thái "Pitơ" trong C tôi thường bảo, mấy ông dân tộc mà sống lâu với người Kinh là rất hay dẫm vào cứt người Kinh (nghĩa là họ trở nên tinh quái). Nhưng trong vụ này tôi lại thấy rằng mấy bố ấy mà sống lâu với người Kinh thì còn quái đản hơn nhiều, sẵn sàng lừa cho chúng tôi dẫm vào cứt họ. Số là những thằng lính trẻ chưa vợ thì cứ hay tọc mạch, tò mò. Cái tò mò ly kỳ nhất là về cái của chị em. "Chúng mày chưa biết hả, để tao tả cho mà biết". Anh Thanh bắt đầu thế rồi hạ giọng: "Thế chúng mày đã nhìn thấy của trẻ con hai ba tuổi chưa". Nhiều thằng gật đầu vì có thằng ở quê có cháu gái, hoặc giả chúng nó nhìn trộm ở đâu đó nơi đóng quân. Chờ một lát để nhìn rõ mấy gương mặt háo hức của lính trẻ rồi nở nụ cười rất hiền lành, anh Thanh chậm rãi: "Đấy nó cứ từa tựa như thế, nhưng về sau khi lớn lên thì nó quay ngang, nên chúng mày về sau lấy vợ phải cẩn thận kẻo nhầm". Bài lên lớp thế thôi, anh Thanh không tiếp nữa mà để mặc cho chúng tôi thả sức tưởng tượng.

   Khổ cho cái thân tôi, nhìn vẻ mặt dân tộc thật thà của anh Thanh (anh ấy lại là A trưởng gần gũi với tôi) nên tin sái cổ. Chuyện này tôi cứ âm thầm để bụng. Mãi cho đến khi rời khỏi quân ngũ xa nhau rồi, hơn ba chục tuổi đầu mới lấy vợ, tôi đã phải gạ gẫm, năn nỉ, xin xỏ vợ để rồi mới biết là năm xưa, anh Thanh đã cho mình "ăn cứt gà sáp".




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 30 Tháng Chín, 2011, 02:41:12 pm

   Độ hơn một tháng, mấy thằng cùi cõng tiếp tế gạo của đại đội đem đến cho chúng tôi một thông tin hoàn toàn bất ngờ: "Toàn bộ trung đoàn 9B đã trên đường hành quân ra Bắc".

   Đêm đó chúng nó kể rất nhiều chuyện. Anh Dũng và anh Thanh háo hức vô cùng vì cuối năm 1969 trung đoàn chúng tôi cũng đã được ra Quảng Bình an dưỡng 6 tháng. Chuyện ở Quảng Bình, các anh lính cũ cũng đã từng kể cho chúng tôi nghe lúc này lúc khác mà tưởng không bao giờ hết. Bây giờ thì hai  anh tha hồ thả hồn vào những chuyện quân dân trong thời gian ấy. Niềm vui của các anh ấy lây lan sang chúng tôi. Vậy thì chúng tôi ở đây chắc cũng không lâu. Mà đơn vị hành quân ra trước chúng tôi cả tháng thì chúng tôi chắc là được đi ô-tô mới kịp chứ. Mà thế cũng đúng vì chúng tôi phải vất vả hơn toàn trung đoàn mà. Ôi, thế là mình có hy vọng ra Bắc sau năm rưỡi trời ở chiến trường rồi.

   Bọn cùi cõng tiếp tế cũng háo hức lắm. Chúng nó bảo bây giờ cả đại đội cũng rút ra ngoài bản Ka-pơ ngoài Saravan rồi chứ không còn ở trong Noọng Bua nữa và cũng đang rục rịch ra Bắc. Chỉ còn lại một tốp 4 người nằm lại Noọng Bua để tiếp tế nốt gạo cho chúng tôi thôi. Tất nhiên là tiếp tế đến bao giờ nữa thì không biết.

   Tình hình như thế thì tư tưởng ngồi chốt giữ cờ cũng thả lỏng. Tất cả đều tin chắc chẳng còn gặp địch nữa. Chúng tôi sẽ rút ra Bắc và thế là những ngày giao tranh với địch trên đất Nam Lào này sẽ chỉ còn lại là những kỷ niệm. Ngoài những lúc kiếm ăn hay phải làm việc gì đó, cứ ngồi với nhau là chúng tôi lại nói chuyện đất Bắc. Khi ngồi chốt có một mình thì cũng lại ngẩn ngơ nghĩ về đất Bắc. Dù chúng tôi biết có được ra Bắc thì may lắm cũng chỉ ra tới Quảng Bình hay Hà Tĩnh là cùng, nhưng như thế là về đất mẹ rồi. Không còn Mỹ thì cũng có nghĩa là miền Bắc đã hòa bình, không thể có chuyện ném bom. Sẽ chỉ có huấn luyện, học tập và làm công tác dân vận, gần gũi với dân. Biết đâu sẽ có những thằng may mắn được cha mẹ lặn lội vào thăm. Nói gì thì nói, lúc ấy chúng tôi đều không nghĩ tới chuyện ở chính quê hương mình cũng đang vất vả và thiếu thốn, mấy nhà đã có thể có điều kiện mà tính chuyện đi thăm con. Chúng tôi ở trong này nhiều lúc cũng rất cực và thiếu thốn, nhưng nhiều khi lại như vua, ở nhà đâu dễ có thể được hưởng, dù chỉ một lần.

   Tin tức cứ ngày một nóng lên, sốt hết cả ruột. Nghe tin đoàn tiền trạm của trung đoàn đã ra tới cây số "không". Cây số đó là ở đâu, tôi không biết. Mà mãi sau này cũng vậy, chẳng ai biết chính xác đâu là cây số "0". Nó được đánh dấu từ sông Bến Hải, hay trạm 5 Quảng Bình, hay tít ngoài Hà Tĩnh chỗ đèo "Pu la Nhích" thuộc nhánh Tây có dốc cua tay áo làm nổi gai lính lái xe Trường Sơn mỗi khi qua, hay là vùng núi Con Cuông, Nghệ An…? Nói tóm lại là nó cũng mờ mịt như cái địa danh "Cổng trời" trên dãy Trường Sơn. Có rất nhiều nơi cao chót vót trên Trường Sơn, lính ta tự đặt tên là "Cổng trời" chứ không ai xác định được nó có phải là duy nhất hay số 1, số 2 gì đó không? Có điều khi đó cái từ "cây số không" nghe ấm áp lắm, chúng tôi tin chắc là nó phải thuộc đất Bắc.

   Ngày 15/5 tôi bị một trận sốt rét nặng, rất may vẫn là loại sốt rét thường niên, không phải sốt ác tính. Sau ba ngày vật vã, dù chân tay còn bủn rủn, tôi vẫn được anh Dũng quyết định cho về Ka-Pơ với đại đội, đi về cùng mấy thằng tiếp tế gạo. Đường xa mấy chục cấy số nên qua Noọng Bua phải nghỉ lại một đêm, hôm sau đi tiếp. Tuy còn mệt nhưng tôi càng đi càng thấy khỏe ra vì lúc nào cũng nghĩ tới hình ảnh đất Bắc. Vậy là nhờ có sốt rét nên tôi được rời khỏi Keng Nhao trước trung đội nửa tháng.

   Vùng bản Ka-Pơ nằm ở phía Đông Nam Saravan. Nơi đây các bản dân nằm sát nhau và khá trù phú, tuy dân số bản nào cũng rất khiêm tốn. Có cả một con đường ô-tô to chạy xuyên qua một loạt bản. Nương lúa và vườn cây là chủ yếu. Rừng già lùi cách rất xa nơi đây, nhưng xen kẽ các nương rẫy vẫn có những khu rừng nhỏ, loại rừng tái sinh hay những đồi cỏ tranh rộng cỡ hàng hec-ta. Phía sau bản nào cũng có suối, không lớn nhưng nước rất trong.

   Những ngày ở đây thật nhàn hạ, vì tất cả đều có tư tưởng ra Bắc, chỉ thỉnh thoảng sinh hoạt chiếu lệ, còn lại là chơi và kiếm ăn. Lúc này Nam Lào đang là mùa mưa rồi nên cuộc sống người dân rất có sinh khí. Lúa nương đã lên xanh, cây cỏ tốt tươi và các loại rau xanh khá sẵn. Dân Lào họ có tục lệ gieo hạt các loại rau xanh như dưa chuột, cải xanh các loại, bí ngô… trên nương để chống cỏ mọc nên họ ăn không hết, lính ta do đó mà tha hồ hưởng nguồn rau xanh ấy. Các loại cây khác như mía, chuối, đu đủ cũng rất dồi dào. Một hôm đơn vị được đi lĩnh đường. Đây là lần đầu tiên từ khi vào chiến trường, tôi được phát đường ăn, mỗi người ba lạng (Thời gian trước đôi lúc có đường để uống cà phê là do lấy của địch hoặc xin đơn vị pháo ngoài Saravan). Thịt lợn thì vẫn là do tiểu đoàn tổ chức mua của dân, làm thịt rồi chia xuống cho các đơn vị.

   Tôi được ở chung với nhóm các anh quản lý đại đội và anh nuôi, y tá. Toàn là lính cũ nên các anh ấy giỏi lo chuyện kiếm ăn. Có tí đường thì nghĩ đủ cách để thưởng thức, trước tiên là nấu kẹo. Ở vùng này không có lạc nên mọi người nghĩ ra cách rang gạo nếp lên rồi nấu kẹo. Cách nấu cũng đơn giản, chỉ cần trông nom cẩn thận cho khỏi cháy là được. Kẹo gạo nếp rang tuy không thể sánh bằng kẹo lạc, nhưng lúc đó tôi ăn thấy rất thơm ngon. Có thanh kẹo nhấm nháp khi uống cà phê và hút thuốc rê thì cái sự khoái khi ấy nó cũng chẳng kém ngồi ở quán Gió công viên Bảy mẫu là bao nhiêu đâu. Có khi còn thấy sướng hơn nữa là khác. Bây giờ thì tôi đã biết cách chế biến cà phê từ quả cà phê tươi. Hạt cà phê có hai nửa, nhưng nó còn một lớp vỏ áo. Phải phơi khô hoặc rang qua rồi giã để bóc lấy hạt nhân chính bên trong. Phần rang cà phê là khó nhất. Loại bỏ những câu chuyện về cà phê cứt chồn và phân biệt các loại cà phê Chè, Mít, Vối, ở đây có gì dùng nấy, nhưng theo các anh lính cũ, cà phê cao nguyên Boloven sánh ngang cà phê Ban Mê thuột của nước mình. Nhưng muốn ngon trước hết phải chọn các quả chín đều (Cùng tuổi). Khi có hạt nhân cà phê thì phải chọn các hạt có cỡ đồng đều nhau (Cái này giống như bí quyết làm lạc rang húng lìu) để khi rang nó phải chín và cháy đều. Cà phê phải rang ba lửa, thực chất là rang cháy đến một độ nào đó. Lần rang cuối cùng trước khi bắc ra phải rưới một ít mỡ gà vào đó cho nó xèo xèo bốc khói. Cà phê rang có mỡ gà, khi pha sẽ có một váng béo loang trên mặt chén, rất thơm và hấp dẫn. Rang xong thì ủ trong áo cho nóng độ một tiếng rồi đem giã. Chầy cối đều là tự tạo. Khoản lọc bột cũng mất công, nhưng vì chúng tôi không có cái "rây" bột nên đành chấp nhận bột cà phê không mịn. Khoản này chỉ có mỗi cách khắc phục bằng kiểu đun cà phê bit-tất. Bây giờ người ta uống cà phê chỉ là một tách nhỏ, nhưng khi đó chúng tôi uống mỗi lần một người phải một bát B52.

   Chuyện ăn uống không có gì đáng ghi nhớ lắm, nhưng chuyện mò ra dân chơi buổi tối lại rất hấp dẫn và phong phú. Đầu têu vẫn phải là các anh lính cũ khá thạo tiếng Lào, hoặc mấy anh dân tộc mất gốc. Kiểu gì thì cũng phải tán bằng lời chứ không thể diễn tả bằng tay được. Các bản dân dù thưa, nhưng bản nào cũng có một vài cô gái độ tuổi thiếu nữ mà người Lào gọi là "sao". "Sao" có nghĩa là 20, và tên các cô gái dậy thì được gọi bằng từ "sao" phía trước "tên" thay cho "tên họ". Khu vực này, các cô gái chắc không thể sánh bằng "gái Făkut" gần Păk soòng, nhưng cũng khá "giòn". Đa số các cô có da bánh mật, đẫy đà và có cô còn đầy đặn hơn nhiều so với cái trọng lượng chưa đến 50 cân của bọn lính chúng tôi. Nhưng tóm lại là rất ưa nhìn. Con gái Lào rất bình dị, thân thiện và không đỏng đảnh. Vài ba thằng lính kéo đến nhà chơi là họ tiếp chuyện bình thản như người quen. Thân thân một tí thì có thể cầm tay khi chào, nhưng nói chung là chúng tôi thường chắp tay và hơi cúi người xuống một chút khi chào, đúng kiểu người Lào.

   Tôi đi theo lính cũ cũng chỉ là để cho mình thêm bạo dạn thôi chứ tiếng tăm chẳng thấm tháp gì. Vui nhất là màn chào hỏi tên nhau. Các cô gái thì tên là "sao" nọ, "sao" kia, còn lính thì toàn phá quấy không nói tên thật. Vùng Nam Lào đàn ông Lào thường có  những "tên họ" như Khăm, Bun, Thao… (không thấy giống tên họ các bác ở vùng thượng Lào hoặc trong Trung ương bạn như Cay-xỏn, Xu-pha…). Thế là khi được các "sao" hỏi tên, người lính tình nguyện Việt Lào thứ nhất khai tên là "Khăm Đớp". Người thứ hai khai là "Bun Khợp" còn tất nhiên người lính thứ ba sau phút lúng túng cũng tìm cho mình được cái tên "Thao Bụp". Toàn là âm vần trắc, và liên quan đến cái dạ dày. Lúc đầu các "sao" tin lắm, tuy có thắc mắc tên bộ đội Việt khó gọi. Về sau lính tráng đồn nhau rồi tốp lính nào đi nhà nào gặp các "sao" cũng lòe mấy cái tên trên. Các cô gái Lào nhanh chóng nhận ra sự đùa bỡn đó. Về sau khi gặp, chưa kịp nói tên thì các cô gái đã nói luôn là "bộ đội Việt đừng có nói tên là Khăm Đớp với Bun Khợp đấy nhớ". Thế là tất cả cùng cười hỉ hả và về sau thì chúng tôi nói tên thật của mình, các "sao" nhớ tên chúng tôi cũng rất nhanh.

   Chúng tôi cũng trêu các cô gái, nhất là cô nào béo núng nính. Noọng "Đăm khư tu mi, phì khư tu khoai" (em "đen như con gấu, béo như con trâu") làm các cô lúc đầu nguây nguẩy chối, nhưng sau rồi cũng cười vui vẻ. Các cô không muốn khen là béo, nhưng "người béo cũng có cái đẹp đáng yêu của nó chứ". Lính mà đã tán thì suối phải ngừng chảy, chim phải ngừng hót nên cuối cùng chia tay nhau lại muốn hẹn "tối mai lại đến chơi". Gái Lào cũng rất thích bộ đội Việt, về văn hóa giữa hai dân tộc cũng có cái gì đó rất gần gũi nên những cuộc giao lưu của chúng tôi diễn ra đều đặn như một thứ sinh hoạt hàng ngày. Nếu không có những buổi đi chơi tối như thế này thì thời gian ở đây buồn chẳng kém gì ngồi chốt Keng Nhao. Tất nhiên là chỉ có cỡ lính từ cán bộ B trở xuống thôi, chứ cán bộ cấp C và D thì dù có thạo tiếng Lào, họ cũng không vào bản.

   Tình quân dân thật là thắm thiết, nhưng lúc này chúng tôi sắp được về Đất Mẹ rồi nên chính sách dân vận chấp hành rất tốt. Chỉ tán chuyện vui thôi và nhận chút quà là thuốc lá từ tay các cô gái bản. Đêm về ngoài ca gác chiếu lệ thì ngủ say như chết, chẳng thấy mơ mộng gì.

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 30 Tháng Chín, 2011, 04:15:22 pm
Đọc bài của bác, thấy đời lính rất thực và rất có nét đẹp của đời.
Tất nhiên thì lính là có đánh nhau. Nhưng suốt ngày chỉ thấy oàng, nhoáng lửa cầu vồng, tiếng mảnh rít xé vải..., thì thằng đọc cũng chóng chết  ;D
Mong bác viết đều tay hơn.
Những bài của bác, còn cho biết, người lính cũng có tâm hồn, cũng là con người bình dị, khi không phải siết cò.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 21 Tháng Mười, 2011, 03:49:04 pm
…..
   Đầu tháng 6, trung đội tôi rút khỏi Keng Nhao. Vùng đất ấy giao lại cho bộ đội Pa Thét. Các phái của Lào tiến hành hòa hợp yên bình nên không còn chiến sự và trung đoàn chúng tôi không phải quay lại Boloven để tác chiến nữa. Sau khi hội đủ quân, cả tiểu đoàn K18 hành quân vượt qua vùng đất Saravan về phía Đông để ra đường dây 559 cùng trung đoàn.

   Cảnh vật ngoài Saravan không còn nắng cháy với những rừng khôộc khô quăn lá và những con suối cạn chằng chịt nữa. Thay vào đó là khung cảnh tươi mát đầy sức sống của mùa mưa. Các nương lúa xanh um quanh các bản dân, chúng tôi hành quân qua phải đi tránh ven theo bờ chứ không đạp thẳng qua mà đi như hồi mùa khô nữa. Đi qua bản nào cũng thấy gà lợn chạy quanh sân, có khá nhiều bò. Nhiều bản có cả những con trâu mộng sừng cong tuyệt đẹp, không biết người Lào họ có dùng trâu để cày bừa không. Những cánh rừng khôộc cũng xanh um tùm lá, nhiều chiếc lá to như những cái quạt nan, và cỏ thì mọc xanh um khắp các cánh rừng, trâu bò thả rông tha hồ mà lựa chọn cỏ ăn. Tuy không phải cao nguyên nhưng mưa nhiều cũng làm các con suối cạn đầy nước trở lại. Chúng tôi qua sông Sê Đôn phải chọn tìm chỗ mới lội qua được, nhưng nước khá sâu và chảy mạnh nên vẫn phải căng dây để bám và bọc ba-lô trong ni-lon cho khỏi ướt. Đường ra trận đẹp thế nào không biết, nhưng đường trở về thì trong lòng lúc nào cũng như có tiếng nhạc. Bước chân càng đi càng thấy dẻo dai, chẳng thấy ai kêu ca mệt mỏi gì. Lúc này chúng tôi cũng đủ ăn nên chẳng ai nhắc gì đến cái đói ở cuối mỗi chặng hành quân. Lệnh hành quân chấp hành nghiêm chỉnh, đội ngũ đâu ra đấy chẳng có tụt tạt gì.

   Bình nguyên Saravan và những cánh rừng khôộc tuy thưa nhưng rộng bạt ngàn lùi dần lại sau lưng. Những cánh rừng già và núi non chập trùng trước mắt cứ gần lại dần. Chúng tôi náo nức hành quân, hào hứng đi cả trong trời mưa, nhiều khi như trút nước. Lại chuẩn bị đón cảnh mưa rừng, mưa Trường Sơn có lẽ còn mịt mùng và dai dẳng hơn mưa rừng cao nguyên, nhưng điều đó chẳng hề làm nản lòng chúng tôi. Sau mấy ngày hành quân, chúng tôi đã chạm vào tuyến đường vận tải 559 và dừng lại chia nhau ra tạm trú quân trong những cánh rừng già. Lần đầu tiên đóng quân trong đội hình cả đại đội mà không có lệnh đào hầm, dù nơi đây lần đầu có chúng tôi đặt chân tới. Không phải là những bãi khách binh trạm có sẵn hầm hào như năm kia hành quân vào. Chúng tôi phải tự lo mọi thứ. Mùa mưa nên phải căng võng nằm, nhưng vẫn phân khu theo đội hình các trung đội. Chỉ là dừng chân ít ngày nên chúng tôi chỉ làm bếp dã chiến và phát tạm cây cỏ lấy mấy lối đi giữa các trung đội.

   Cái kiểu đóng quân này nếu như là của năm 1972 trở về trước thì rất dễ bị đón nhận bom B52, nhưng bây giờ rừng Trường Sơn đúng là rừng của ta, trời của ta rồi. Các nhánh đường vận tải được mở rộng thêm, tuy vẫn ở phía Tây là chủ yếu. Mùa mưa xe ô-tô vẫn vận chuyển, nhưng tổ chức theo những chặng đường ngắn, dễ đi.

   Chỉ đóng quân được vài ngày mà đã biết nhiều chuyện. Lúc này chúng tôi ăn uống đều nhờ cấp phát, không còn dựa được thêm vào dân nữa, vì các bản dân đã ở xa lắm rồi. Cải thiện cũng chẳng có gì nhiều ngoài những thứ rau rừng như lá chua, môn thục và thân chuối rừng ăn rất xót ruột. Lần mò xa xa hơn thì có rau tầu bay, món này hấp dẫn hơn cả. Vùng này không thấy có tre bương gì nên không có măng. Cứ nhờ nhu cầu đi cải thiện mà dù chỉ là ở tạm ít ngày, chúng tôi cũng sục xạo khắp cả. Chúng tôi phát hiện ra cả một con đường xe ô-tô vận tải của quân ta. Gần chỗ chúng tôi còn có một đơn vị vận tải ô-tô đóng trong một cánh rừng cây Săng-lẻ. Có lẽ tuổi thọ của chúng bét cũng phải vài chục năm vì cây cao tới hàng hai chục mét và đa phần có cỡ gốc từ hơn một người ôm trở lên. Nhiều cây gốc không tròn mà tòe ra thì phải tới ba người ôm. Tôi đã biết cây Săng-lẻ này có họ với cây Bạch đàn có trồng ngoài Bắc và cây Bạch dương ở tận nước Nga xa xôi. Các lính cũ người từ vùng Thanh Hóa trở vào nói rằng gỗ cây Bạch đàn được chuyên dùng để đóng thuyền đi biển. Nó có đặc tính gì đó mà khi gặp nước biển thì nở ra làm các mộng ghép thêm chặt và khít. Các anh ấy nói ở quê nhà mà có cánh rừng thế này thì thật "bố tướng", còn tôi thì chỉ nhìn thấy nó là gỗ to, chắc để làm nhà hay đóng bàn tủ là tốt thôi. Lại nhớ khi học phổ thông, được dạy rằng "rừng vàng" có lẽ là như thế này đây, bởi vì cánh rừng Săng lẻ này rộng lắm. Nhìn hút tầm mắt chưa hết. Cả cái đơn vị xe ô-tô có dễ đến cả trăm chíếc ấy đỗ vào, mà từ ngoài nhìn vào trông lọt thỏm như ta xếp đồ chơi. Rừng cây cao rậm tới mức máy bay bay trên đầu chắc nhìn xuống chẳng thấy gì. Đơn vị này có lẽ là vận tải thuần túy nên chỉ có hai loại xe ô-tô là Giải phóng của Trung Quốc và Zin kính cong của Liên xô.

   Rừng Lào, trừ phần trôi ra bình nguyên kéo dài từ tỉnh Khăm Muộn ở phía Nam cánh đồng Chum cho đến tỉnh Saravan mênh mông kéo dài tới hơn hai trăm cây số là địa hình xen lẫn giữa cây khôộc với những ụ mối và các dải đá mồ côi, còn thì áp sát dãy Trường Sơn là những cánh rừng đặc chủng mọc xen lẫn với những loại cây cổ thụ rất đa dạng. Có cánh rừng cây già mọc cao hơn chục mét nhưng bám quanh nó rất nhiều loại cây dây leo hay cây ký sinh mọc chằng chịt. Đi qua loại rừng đó mà mang vác nặng hay cồng kềnh là luôn thấy nản lòng. Những dây leo hay cành cây trồi ra lúc nào cũng muốn ngoắc vào các thứ lỉnh kỉnh của lính mà kéo giật ngược trở lại, cản bước hành quân. Đặc biệt những rừng rậm như thế lại thường nằm trên bình độ cao, cây mọc rậm nên ánh nắng lọt xuống ít, mặt đất và xung quanh lúc nào cũng ẩm ướt.

   Rừng Trường Sơn đa số là các vùng có cây mọc tạp đủ loại, nhưng rất nhiều chỗ lại chỉ có một loại cây mọc gần như là duy nhất. Các cánh rừng có cây họ tre nứa đa phần mọc bám sát vào những chỗ có sông suối. Còn vùng thoai thoải hay tương đối bằng phẳng thì lại là những rừng cây có gỗ. Tôi đã từng ngẩn ngơ khi bất chợt bắt gặp cánh rừng Bằng Lăng đúng mùa hoa nở. Cây Bằng Lăng không hợp với khai thác gỗ vì thân nó thường còng queo, nhưng những cây lâu năm thì cũng cực to. Đi mỏi chân mà không vượt qua được một cánh rừng đặc chủng như thế là chuyện thường ở Trường Sơn.

   Vùng Tây Trường Sơn có rất nhiều rừng già, rừng rậm toàn cây lấy gỗ. Ngoài những cánh rừng Săng Lẻ, Bằng Lăng mà tôi đã biết, còn có nhiều cánh rừng gỗ lớn như Lim hoặc họ Lim và rất nhiều loại cây mà tôi chẳng biết được tên. Nói chung là rừng già và phần lớn các đơn vị vận tải hay tăng pháo được đóng quân trong đó.

   Chúng tôi gặp lại đơn vị xe tăng đã cùng đánh trận Ba Lào Ngam hồi tháng 10/1972 với trung đoàn 9. Tôi không rõ biên chế của đơn vị xe tăng, không biết đây là tiểu đoàn hay đại đội tăng, chỉ biết trong cánh rừng đó có chừng chục chiếc xe tăng. Họ cũng đóng dã ngoại như chúng tôi, không biết có phải cũng chờ để ra Bắc không. Lính tráng không tò mò hỏi nhau nhiều chuyện, nhưng tình hình bây giờ cũng không còn phải bí mật nhiều như trước nên họ vẫn cho chúng tôi vào chơi, cùng đánh mấy ván "tiến lên". Giao lưu chẳng có gì nhiều, nhưng rồi vì trú quân ở đó không phải chỉ vài ba ngày nên có lần chúng tôi đã bày trò kéo co với họ. Lính tăng đa phần to con hơn bộ binh, nhưng lính C8 hỏa lực của K18 chúng tôi cũng có nhiều người to cao. Thế là hẹn hò thử sức cho vui. Giằng đi giật lại, nhưng cuối cùng cả mấy keo, bọn lính tăng đều thắng. Lúc ngồi chơi uống nước, bọn lính tăng bảo bài tập đầu tiên khi vào binh chủng tăng là tập kéo co. Sau đó là áp dụng vào để kéo xích xe tăng để lắp xích khi bị đứt trên đường hành quân. Chúng nó bảo mỗi cặp mắt xích xe tăng nặng tới gần hai tạ. Hèn gì chúng nó kéo co thắng là phải.

   Rỗi hơi, ngày nào lính tráng cũng ngóng chờ lệnh hành quân ra Bắc. Chúng tôi biết là sẽ phải hành quân bộ, chẳng có xe pháo gì đâu, vì đang là mùa mưa. Xe ô-tô chỉ có dùng để chở đạn gạo vào, rồi khi quay ra thì chở thương binh nặng. Mà ngay cả lính binh trạm ngoài nhiệm vụ giao liên chẳng vẫn phải cùi cõng và tải thương bạc mặt ra đấy sao. Nhưng cả đội hình trung đoàn, rồng rắn cũng phải ngót nghét hai tháng trời mới ra đến Bắc thì sao không cho đi luôn, chờ mãi thế này nó yếu người đi. Thế là những ngày đầu cứ ngắc ngỏm trông chờ, đi lại chỉ loanh quanh và chờ lệnh từng ngày. Về sau chờ mãi đâm oải và nhàm nên chúng tôi bắt đầu đi lang thang lùng sục xa hơn. Có khi là húc phải đơn vị khác cùng trung đoàn, nhưng đi xa hơn, rộng hơn thì cũng có nhiều chuyện đáng nói. Thậm chí nghe tin có đơn vị quen hay là trạm thương binh thì chúng tôi dám tổ chức đi xa tới cả ngày đường, vì sự quản lý của đơn vị lúc này rất lỏng lẻo.

   Đầu tiên là chúng tôi mò ra được khu trú quân của thương binh mặt trận. Đủ các loại thương binh từ thời đánh nhau ở bản Xoan bên đường 231 đầu tháng 2/1972 cho đến thương binh thời đánh Saravan cuối năm 1972, thậm chí là thương binh đánh Păk soòng đầu năm 1973, tuốt tuồn tuột tất cả đều đang nằm lại ở đây, dù Trạm thương binh này đã thuộc về đường dây 559. Có những anh chúng tôi tưởng đã ra Bắc kịp về quê lấy vợ rồi, thế mà nay lại gặp ở đây.  Đầu tiên gặp nhau thì tay bắt mặt mừng, nhưng đến khi hỏi rõ chuyện thì ai cũng nản. Chúng tôi sốt ruột ra Bắc, tưởng đã buồn nản lắm rồi, thế mà bây giờ xem ra, đám thương binh của toàn mặt trận này còn ngao ngán biết bao, nản hơn chúng tôi biết chừng nào. Nghe kể chuyện chúng tôi sắp được ra Bắc, nhiều thằng còn bảo bây giờ chuồn về đơn vị có khi còn được ra Bắc sớm hơn. Hỏi sao nằm đây lâu thế, chúng nó nói Binh trạm bảo thương binh ra Bắc phải chờ ô-tô, nhưng không có xe, còn hành quân bộ cả đống thế này thì không đủ người dẫn đường và y tá đi theo phục vụ. Thế là vết thương đã chữa lành nhưng phải nằm chờ đợi và an dưỡng.
 
   An dưỡng là nhàn cư, chơi mãi cũng chán chứ sung sướng gì đâu. Thời gian là vô biên còn ăn uống cũng vô định. Ngoài những tiêu chuẩn ăn hơn hẳn lính trong đơn vị, lính thương binh còn mò sục khắp rừng. Nghe kể tôi mới biết là dọc theo những cánh rừng Trường Sơn này có rất hiều những kho hàng chiến lược đủ loại: súng đạn, gạo và đủ các loại hàng từ quân trang đến nhu yếu phẩm. Có nhiều khu kho chiến lược được cất giấu xong là đánh dấu vào bản đồ rồi định kỳ kiểm tra chứ không hề có người canh gác, vì các kho có rất nhiều và bố trí phân tán. Lại còn có rất nhiều kho lẻ bị bỏ lại, thậm chí lãng quên do mặt trận chuyển hướng, người ta không đủ sức để tổ chức thu hồi gom lại. Một lúc nào đó chiến sự quay lại thì cấp trên mới chỉ tọa độ cho đơn vị ở đó đến lấy, nếu không thì cũng thành của rừng hoang.
 
   Chính vì thế nên cánh thương binh mò ra được cả kho súng đạn và lương thực cất giấu trong rừng. Không có người canh thì mạnh ai muốn làm gì thì làm, vô chính phủ. Thấy rất nhiều thương binh có súng ngắn, hỏi ra thì chẳng phải là cấp chỉ huy được phát mà là do tìm thấy kho rồi tự trang bị để nghịch chơi. Tôi gặp lại thằng Thắng C5 (nhà ở phố Hàng Trống, bị thương đợt Saravan) bị thương ở mắt, bây giờ nó bắn súng K54 thạo như tôi bắn AK. Chẳng ai quản lý, chẳng ai bảo được ai, chúng nó cứ tự lấy súng đạn đem vào rừng tập bắn chơi vào những gốc cây to nằm sát chân núi. Ngày này qua ngày khác, bắn hết bao nhiêu đạn rồi cũng chán. Chúng nó giữ súng lại chơi dù cái hứng bắn nghịch đã xẹp. Tôi cũng được nó đưa ra suối nhằm bắn chơi xuống nước, nhưng tôi cũng thấy chán ngay vì bắn K54 khá giật, ngắm nghía rất nặng tay, còn bắn vẩy như các diễn viên trên phim chắc phải tập đến mùng thất.

   Tôi gặp lại anh Soán B4 (bị thương trong trận lùng sục Lào Ngam bên ngoài bản Phin hồi tháng 5/1972), hơn năm nay rồi mà vẫn còn nằm ở đây. Anh ấy bị đạn văng mất một hàm dưới, bây giờ được chữa lành và ghép tạm một cái hàm giả gì đó để ăn. Nét mặt dăn dúm trông già hẳn đi, nhìn một lúc mới nhận ra. Anh ấy rất khỏe, nhưng nói năng bị ngọng, phải nghe quen mới hiểu được anh ấy nói gì. Anh ấy cứ hay nói mãi cái câu " Ngư nghế ngoày nguây ngờ nghì nghéo ngoai nghó nghêu", nghe mãi mới luận được là "Như thế này bây giờ thì đ… ai nó yêu". Thật là dở cười dở khóc mà thương anh ấy. Có một cái gì đó chợt thấy lành lạnh nơi sống lưng…
…….



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 08 Tháng Mười Một, 2011, 11:59:37 am

   Gặp lại rất nhiều đồng đội thương binh. Ngày trước quả thật cũng có lúc tôi đã nghĩ rằng những người bị thương là gặp may, bởi mọi sự đã an bài. Mất một phần cơ thể (thậm chí có nhiều người chỉ bị vết thương chứ chẳng mất phần nào) nhưng cuộc chiến với họ thế là đã kết thúc. Gạt bỏ cái lý tưởng sách vở đi thì phận làm trai thời loạn coi như cũng đã xong nghĩa vụ với đất nước. Trở về quê với tấm bằng thương binh vẫn có thể sống, học tập và lo toan một mái ấm gia đình hạnh phúc cho riêng mình được. Chẳng phải qua bao cuộc chiến tranh, những người thương binh trở về vẫn sống tốt đấy sao. Nhớ lại ngày nào ở quê, chàng trai nào từ chiến trường trở về là thương binh (tất nhiên là loại vừa vừa thôi chứ không phải thương binh nặng) rất đắt giá. Có quyền chọn lựa các cô gái làng xinh xắn nhất làm vợ. Con gái nông thôn cũng rất đơn giản, lấy được tấm chồng thương binh là xong phận gái, không bao giờ còn phải lo chuyện ngày đợi đêm mong, phấp phỏng lo một ngày nào đó mình phải như hòn "vọng phu" góa bụa lúc tuổi còn đang xuân thì.

   Bây giờ nhìn các anh em thương binh còn đang vật vờ chưa biết ngày nào được về, thì cái viễn cảnh được cùng cả đơn vị hành quân ra Bắc của chúng tôi lại như có vẻ là thiên đường. Chúng tôi quên ngay đi cái tâm sự thầm kín ích kỷ ganh tỵ với anh em thương binh là mình tuy chưa bị thương, nhưng rất có thể lúc nào đó sẽ ngã xuống và nằm lại nơi chiến trường, chẳng bao giờ còn được mơ ước điều gì nữa ở quê hương.

   Nhưng rồi chính chúng tôi cũng cảm thấy mòn mỏi khi cứ ăn chực nằm chờ mãi trong đội hình của cả trung đoàn ở dải rừng Tây Trường Sơn này để đón nhận những trận mưa rừng đã sang chính vụ của Trường Sơn. Tuy so với năm trước không phải đánh nhau và lo cùi cõng trong mưa rừng, nhưng cả ngày ngồi bó gối trên võng nghe mưa rơi ràn rạt trên nóc tăng và nước chảy xối xả dưới đất, nhìn ra đâu cũng thấy màn trời trắng đục và mờ mờ tối thì não ruột vô cùng. Đi lấy cơm cũng ngại mà giải quyết chuyện vệ sinh cũng thật vất vả. Ngủ mãi cũng mệt mỏi. Những lúc đó tôi chỉ còn cách nằm nhìn lên mặt tăng và vơ vẩn ôn lại những kỷ niệm đã qua, nhất là đời học sinh. Rồi còn mơ về những chuyện cổ tích nữa, nhiều lúc đầu óc như kẻ mộng du, tưởng mình đang là chàng hoàng tử ở xứ tít mù nào đó đang tính kế cứu một nàng công chúa.

   Mưa mãi rồi cũng có lúc tạnh, đôi khi trời còn hửng nắng. Chúng tôi lại mò đi khắp nơi, chỉ cần tránh chỗ nào có suối thôi vì gặp nước lũ thì có bơi giỏi mấy cũng không thể coi thường được. Chúng tôi lại ra khu trạm thương binh. Thằng Đức (Cầu Giấy) và thằng Dũng "trắng" (làng Kim Liên) đều bị thương ở Saravan cũng còn nằm ở đây. Cả hai thằng đều cho tôi xem vết thương, gần như giống nhau. Mỗi thằng đều bị một mảnh đạn cối cắt đứt dẻ xương sườn và chui vào nằm trong phổi. Bác sĩ không mổ lấy mảnh, bây giờ mảnh đạn vẫn nằm lại trong đó và đã được bọc mỡ. Chúng nó kéo chúng tôi vào rừng tìm kho lương khô. Ở đây chỉ có lương khô 701 của lính, không tìm thấy loại 702 cao cấp của sĩ quan cấp tá. Nhưng lương khô 701 với chúng tôi cũng là quá tuyệt rồi. Nếu như cánh lính vận tải, pháo binh và xe tăng coi lương khô là thứ nhàm chán khô khan, lúc nào cũng có sẵn thì đám bộ binh chúng tôi lại quý vì có thể đếm được từ ngày vào chiến trường mình đã được phát bao nhiêu phong lương khô rồi.

   Chúng tôi lấy cắp của kho nhưng cũng có ý thức chứ không đến mức phá hoại. Lấy gọn từng thùng 10 kg đem về đại đội chia nhau, nằm võng ăn lúc trời mưa tầm tã thấy cuộc đời lính lại lên tiên. Lúc trời tạnh đem xuống anh nuôi nấu chè, ăn thấy cũng khá. Thời gian này lương thực coi như thoải mái, chỉ có điều là các thứ thực phẩm khác như thịt hộp hay mì chính thì không tìm thấy. Không kể đến chuyện khắc khoải chờ ngày ra Bắc thì thời gian ngắn ở đây cũng có thể coi là ước mơ của lính về vật chất.

   Một ngày đầu tháng 7/1973, C6 chúng tôi được lệnh lên đường. Mệnh lệnh đến nhanh và bất ngờ khiến chúng tôi sung sướng đến ngỡ ngàng. Không còn đủ thời gian để chia tay với anh em ở trạm thương binh đường dây 559, nhưng chúng tôi tin tưởng rằng họ cũng sẽ lên đường ra Bắc nhanh thôi. Chúng tôi được phổ biến là C đi tiền trạm cho trung đoàn, bởi vì chúng tôi không phụ thuộc vào giao lên và kế hoạch dẫn quân của các binh trạm Trường Sơn. Chỉ có một tổ trinh sát của D đi cùng chúng tôi. Lúc ấy tôi nghĩ chắc các C sau cũng sẽ lên đường chỉ sau chúng tôi một ngày.

   Hành quân đi theo đường rừng vào mùa mưa có phần vất vả. Sau ba ngày, chắc là chỉ đi được độ vài ba chục cây số, nhưng tôi có cảm tưởng là chúng tôi đã đi được rất nhiều, thì chúng tôi được dừng chân tại một bãi khách của binh trạm Trường Sơn. Vẫn là cảnh rừng già, nhưng không khí thanh bình vì chuyện nấu nướng củi lửa không thấy phổ biến khắt khe như năm trước đi vào. Chúng tôi được nghỉ lại một ngày tắm giặt, âu đó cũng là chuyện thường tình.

   Nhưng hình như chuyện bất thường đã xảy ra, bởi vì sang ngày thứ hai, rồi thứ ba, chúng tôi vẫn được nghỉ lại, không thấy có lệnh hành quân tiếp. Rồi đến khi có lệnh thì đó lại là lệnh dừng lại không đi tiếp nữa. Thế là cái quái gì nhỉ. Cả quan lẫn lính nhìn nhau thăm dò, suy đoán rồi cùng ngờ ngợ về một điều không hay gì đó đang xảy ra. Không biết trung đoàn đã lên đường hành quân chưa và mệnh lệnh cho chúng tôi tiếp theo sẽ là gì. Tất cả đều không có gì rõ ràng và cụ thế, ngoài chuyện: "Dừng lại và chờ".

   Lại chờ, ôi ngao ngán quá, cầu mong đừng có chuyện gì không hay xảy ra. Dừng chân và nghỉ ngơi, thế là lính tráng lại lần mò trong rừng. Có một chuyện xảy ra ở đây không thể không kể, vì nó còn ám ảnh trong suy nghĩ của tôi nhiều năm sau về một cuộc chiến tranh giải phóng cùng số phận con người.

   Gần cái binh trạm mà chúng tôi tạm dừng chân là nơi đóng quân của một đại đội thanh niên xung phong, toàn nữ. Nói chính xác hơn thì BCH là nam, nhưng đó không phải là điều chúng tôi quan tâm. Chỉ dừng chân ở trạm khách có vài ngày là những thằng lính quen sục xạo như chúng tôi đã tìm ra nơi đóng quân của họ. Thật không thể tả hết nỗi vui mừng khi gặp nhau. Hỏi tìm đồng hương rối rít, vồ vập cứ như là quen nhau từ lâu lắm rồi. Tôi đã biết các nữ TNXP cực kỳ bạo dạn từ ngày còn đang trên đường hành quân vào chiến trường. Lúc ấy tôi vừa ngượng vừa sợ nên tránh là chủ yếu, còn bây giờ dù sao tôi cũng đã vào chiến trường tới năm rưỡi trời. Cũng là đồng đội, lại khác giới, khác đơn vị thì cũng có nhiều chuyện để mà bốc phét.

   Đại đội TNXP này có khoảng bốn chục chiến sĩ nữ. Họ đều còn trẻ măng, nhưng thực tình mà nói, tôi phải gọi họ là chị mới đúng vì khi đó tôi còn thiếu nửa năm trời nữa mới đủ 20 tuổi. Một điểm đặc biệt là nữ TNXP ở đây đều là người thuộc các tỉnh khu Ba, trong đó Nam Hà và Vĩnh Phú là đông nhất. Các cô ấy (tạm gọi thế vậy) đều đã vào chiến trường ít nhất cũng 3 năm. Họ hăng hái lên đường nhập TNXP từ khi còn 17, 18 tuổi thì nay ít nhất cũng đã 20 tuổi, hơn tuổi tôi là cái chắc. Thế nhưng gian khổ Trường Sơn chỉ làm họ cứng rắn lên chứ không mấy già đi trong con mắt chúng tôi. Có khi chính chúng tôi còn trông già hơn ấy chứ vì thằng nào cũng vừa gầy vừa đen, chỉ được cái tán chuyện thì không ai bằng.

   Giao lưu với TNXP nữ thì vui lắm, vì dù sao chúng tôi cũng đã lâu không gặp con gái Việt. Chuyện hay còn do cả nội dung, những câu chuyện về quê hương, về những kỷ niệm của mỗi người nữa chứ. Các đồng đội nữ TNXP rất mến khách, có thứ gì đem ra đãi khách được là mời luôn. Cứ như là bạn cũ lâu ngày gặp nhau ấy. Thế mà trái lại mấy bố trong BCH đơn vị TNXP thì lại lầm lỳ, gườm gườm nhìn chúng tôi như kẻ thù. Chuyện vặt, sợ quái gì. Chắc là vì cái bản tính tham lam ích kỷ của đàn ông mà ra cái nông nỗi này thôi, chứ chúng tôi, lính Trường Sơn với TNXP thì là người nhà, tình lúc nào chả mặn nồng. Chắc các bố trong BCH sợ vì "đống rơm" của các bố ấy đang phơi đến độ cực nỏ mà thấy "lửa" như đuốc sống của lính mò đến chăm chăm châm ngòi thì lo ngại là phải thôi. Không chấp.

   Nhưng chuyện đáng nói là đến ngày làm quen thứ hai thì rất nhiều cô không ngần ngại mà nói luôn nguyện vọng là muốn có thai, chả cần phải đồng hương đồng khói chi sất. Chúng tôi tròn mắt ngạc nhiên. Đơn giản và dễ dàng như vậy sao? Làm cái chuyện ấy ít ra cũng phải có tình cảm, phải thề non hẹn biển xây dựng tương lai gì gì nữa ấy chứ. Thế mà sao nói với nhau điều hệ trọng như thế mà cứ tỉnh như không thì có điều gì không ổn. Từ chỗ háo hức ngắm nghía các cô, bọn lính chúng tôi đâm e ngại. Sau gạn hỏi sự tình thì thấy thật đau lòng. Các cô chả ngần ngại kể cho chúng tôi tất cả mọi chuyện. Các cô hăng hái xung phong lên đường, tưởng rằng tham gia vào cái nhiệm vụ vinh quang của lực lượng TNXP là "Xẻ dọc Trường Sơn mở đường cứu nước" nếu có cùng quá thì cũng chỉ 3 năm thôi rồi được trở về nhà. Gian khổ và hy sinh, các cô không ngại và đã làm tốt nhiệm vụ đấy chứ, nhưng cũng đã đến lúc phải mong được về quê để còn lấy chồng và chăm sóc cha mẹ nữa cơ mà. Thế mà qua 3 năm rồi, thậm chí có cô đã 4 năm mà chưa thấy cấp trên nói gì đến chuyện xuất ngũ cho mình. Nhiệm vụ vẫn cứ là phía trước, mòn mỏi qua tháng ngày. Cái lý tưởng dù cao đẹp đến đâu mà không được vun đắp và giải quyết một cách hợp lý thì lòng người cũng có lúc phải nản. Các cô chỉ là nữ nhi chứ đâu phải cao siêu cốt cán gì cho cam. Ai cũng muốn về nhà, nhưng đặc điểm của phái nữ trong chiến trường là không có gan đào ngũ như lính tráng chúng tôi. Thế là các cô vẫn phải sống và làm việc giữa núi rừng trong trạng thái "tư tưởng không thông, đến bình tông đeo cũng nặng". Mà dù có chây ì, xin chịu kỷ luật đi nữa thì các cô cũng vẫn không được giải quyết về nhà.

   Vậy mà trong hoàn cảnh gieo neo ấy lại có một con đường, một lối thoát cho các cô trở về. Đó là ai có thai (chẳng cần biết từ đâu mà có) thì sẽ "được" đơn vị kỷ luật rồi trả ra Bắc. Thế là phù hợp với mong muốn của nhiều cô rồi. Đành chịu vứt bỏ công lao 3 năm chiến trường để kiếm một cái thai làm giấy thông hành ra Bắc, bất chấp khi về đến nhà lý giải về cái thai và gánh chịu búa rìu dư luận rất nặng nề khi đó để nuôi con. Nhưng ai ký cho các cô cái "giấy thông hành ra Bắc" ấy? Các bố trong BCH thì không dám rồi. Thế là đành trông chờ vào cánh lính lái xe hoặc các đơn vị công tác lẻ đi qua. Đã có một số cô đạt nguyện vọng và lên đường về quê rồi, số còn lại (không phải là tất cả) thì còn phải chờ. Vì thế mà lũ chúng tôi khi đó tưởng như sa vào chĩnh gạo.

   Nhưng sự đời lại không thể đơn giản, vì lính tráng chúng tôi dù sao cũng là con người. Thật là quặn lòng rơi nước mắt trước tình cảnh của những đồng đội đa phần đáng tuổi chị mình ấy, nhưng không phải chúng tôi đã dễ dàng chiều các chị. Thực tình mà nói, khi hiểu hoàn cảnh và nghe giãi bày riêng lẻ ước muốn của các cô thì cái phần "người" trong tôi lại sực tỉnh. Tôi thấy chuyện này trở nên hệ trọng và nghiêm túc. Ở hậu phương tôi chưa có người yêu, nhưng bây giờ dù có muốn yêu một "chị" mà hẹn hò thì cũng phải vạch kế hoạch đàng hoàng cho tương lai chứ ai lại đi làm cái chuyện "cóc nhái" ấy. Không yêu mà "ban ơn" cho các cô thì thật không thể. Sau này nếu còn sống trở về sau chiến tranh, liệu mình có thể không bao giờ nghĩ rằng là trên đời này còn có một giọt máu của mình lưu lạc ở đâu đó mà không tìm kiếm không?

   Trong một chiều mùa mưa Trường Sơn, trên một phiến đá ven suối, tôi đã ngồi cầm tay một đồng đội TNXP, nghe những lời thủ thỉ chân tình và tha thiết của cô ấy mà lòng quặn đau, không nói được nhiều nhưng nước mắt thì nhiều vô kể, chỉ có điều nó chảy vào trong. Giá như có nhiều thời gian hơn…, giá như biết được chiến tranh sẽ kết thúc và mình sẽ trở về… thì biết đâu nơi đây chẳng nảy nở một cuộc tình và tôi sẽ vun đắp cho nó thật đẹp và có tương lai… Nhưng lúc này tất cả chỉ sầm sì một màu xám xịt của rừng chiều mưa. Tôi không nghe theo ý cô ấy, nhưng cũng không biết làm cách nào để gúp cô ấy. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết rằng trên đời này có những quy định thật bất công và nghiệt ngã, còn phận người thì quá mong manh.

   Rồi chúng tôi cũng phải chia tay nhau trong buồn bã. Chia tay mà không hẹn hò, không mong chờ tin tức gì về nhau nữa.

   Từ hôm sau tôi không trở lại đơn vị TNXP ấy để giao lưu cùng các cô như mong ước của ngày đầu gặp mặt. Tôi đã rất buồn và nghĩ mãi về câu chuyện đau lòng này, nhưng tôi nghĩ mình đã hành động đúng.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 08 Tháng Mười Một, 2011, 12:59:20 pm
Những tình cảm đi qua trong cuộc đời quân ngũ, thủa đôi mươi.
Ôi trời.
Chúng ta già từ ngày ấy, đúng thế ư.  >:(


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: binhyen1960 trong 08 Tháng Mười Một, 2011, 01:17:09 pm
Đọc bài của bác, thấy đời lính rất thực và rất có nét đẹp của đời.
Tất nhiên thì lính là có đánh nhau. Nhưng suốt ngày chỉ thấy oàng, nhoáng lửa cầu vồng, tiếng mảnh rít xé vải..., thì thằng đọc cũng chóng chết  ;D
Mong bác viết đều tay hơn.
Những bài của bác, còn cho biết, người lính cũng có tâm hồn, cũng là con người bình dị, khi không phải siết cò.


 Cũng tùy từng giai đoạn thôi bác ạ, nếu tác giả viết bài theo trình tự của thời gian quân ngũ thì có những lúc bị cuốn theo cuộc chiến và luôn là ùng oàng ở phía trước đến thở cũng chẳng còn thời gian ấy chứ. ;D

 Trong KCCM là cuộc chiến tranh có giới tuyến, đánh nhau có mùa có chiến dịch cùng sự chuẩn bị chu đáo chứ cuộc chiến ở K thì chẳng có lúc nào là mùa chiến dịch hay giới tuyến nào cả nhất là thời gian đầu khi còn quá căng thẳng.

 Ngay: Thằng đọc bài hôm nay đã thấy "chóng chết" thì đủ biết thằng "phải chết" lúc đó sẽ chết không biết bao nhiêu lần. ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 08 Tháng Mười Một, 2011, 01:24:29 pm

...Trong một chiều mùa mưa Trường Sơn, trên một phiến đá ven suối, tôi đã ngồi cầm tay một đồng đội TNXP, nghe những lời thủ thỉ chân tình và tha thiết của cô ấy mà lòng quặn đau, không nói được nhiều nhưng nước mắt thì nhiều vô kể, chỉ có điều nó chảy vào trong. Giá như có nhiều thời gian hơn…, giá như biết được chiến tranh sẽ kết thúc và mình sẽ trở về… thì biết đâu nơi đây chẳng nảy nở một cuộc tình và tôi sẽ vun đắp cho nó thật đẹp và có tương lai… Nhưng lúc này tất cả chỉ sầm sì một màu xám xịt của rừng chiều mưa. Tôi không nghe theo ý cô ấy, nhưng cũng không biết làm cách nào để gúp cô ấy. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết rằng trên đời này có những quy định thật bất công và nghiệt ngã, còn phận người thì quá mong manh.

   Rồi chúng tôi cũng phải chia tay nhau trong buồn bã. Chia tay mà không hẹn hò, không mong chờ tin tức gì về nhau nữa...


@trongc6:Câu chuyện của bác cảm động quá, quả thật những lúc như thế nếu như phần người trong chúng ta lớn hơn phần con thì sẽ như vậy, đâu cứ phải cứ bom đạn ác liệt mà mọi sự chỉ biết đến hiện tại và sống theo bản năng. Chính vì thế mới có lớp người bị khoác cái áo là có lối sống tiểu tư sản đã không hòa đồng với quần chúng.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tuaans trong 08 Tháng Mười Một, 2011, 02:02:06 pm
Ơ, cái avata mới của bác LXT1972 hay nhỉ ? Chắc người vẽ thuận tay trái :D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 08 Tháng Mười Một, 2011, 02:14:32 pm
Ơ, cái avata mới của bác LXT1972 hay nhỉ ? Chắc người vẽ thuận tay trái :D

@tuaans: Đây là lô-gô của anh em CCB - SV Đại học xây dựng HN đã tham chiến tại Quảng Trị. Tác giả là Quách Ngọc Lâm nguyên là SV Mỹ thuật CN và là chiến sĩ trinh sát C20/f325 đồng đội với TTNL, 6971, TanvinhPRC25, tralientay. Hiện tại Lâm đang là họa sĩ của Thời báo kinh tế Việt Nam. Còn đưa lên avata là tác phẩm của TMH, tôi vốn dốt về IT lắm.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyenquochung trong 09 Tháng Mười Một, 2011, 10:13:46 am
   Chắc ý bác Tuaans là cái logo nhìn có vẻ ngược?! Mũi súng, lá cờ...nói chung là hướng tiến công theo lẽ phải hướng về phía trước, tức là phía bên phải của logo. Còn ở đây lại phía trái, nên trông giống như là bắn về phía sau. Hay tác giả có ý gì khác?
 


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 09 Tháng Mười Một, 2011, 11:00:09 am
   Chắc ý bác Tuaans là cái logo nhìn có vẻ ngược?! Mũi súng, lá cờ...nói chung là hướng tiến công theo lẽ phải hướng về phía trước, tức là phía bên phải của logo. Còn ở đây lại phía trái, nên trông giống như là bắn về phía sau. Hay tác giả có ý gì khác?
 

@ nguyenquochung & tuaans : Thực ra theo ý tôi tác giả cũng không quan niệm đâu là hướng tiến công. Nhưng suy từ trận chiến tại Thành cổ QT thì khá hợp lý vì sau lưng chúng ta chỉ còn sông TH và bên kia sông mới là vùng của ta, quân thù bao vây 3 mặt và đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến bảo vệ TX-TC QT chúng ta chỉ còn lại khu hầm dinh tỉnh trưởng sát bờ sông mà thôi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 23 Tháng Mười Một, 2011, 09:58:26 am

   Sau ít ngày thấp thỏm chờ đợi ở cái binh trạm Trường Sơn ấy, chúng tôi cũng nhận được lệnh hành quân tiếp, nhưng hướng đi không phải ra phía Bắc, mà là quay lại Saravan. Cả bọn nhìn nhau ngơ ngác. Ban chỉ huy chắc cũng thế, nhưng các anh ấy không dám biểu lộ thái độ mà chỉ gọn ghẽ phát lệnh hành quân.

   Cả đại đội lại nhổ trại lên đường. Ít ngày trước hăm hở và càng đi càng thấy dẻo chân bao nhiêu, thì nay lòng âm thầm trĩu nặng và buồn bã bấy nhiêu. Cơn mưa rừng đổ xuống trên chặng đường hành quân như người bạn cảm thông và chia sẻ cùng nỗi buồn và tâm trạng đầy lo âu thắc mắc của chúng tôi.

   Cả trung đoàn đã hành quân đi rồi nên chúng tôi không phải quay lại đúng theo lộ trình khi trước lúc đi ra. Cứ nhằm hướng cắt đường mà đi thôi. Cả đại đội lầm lũi nhằm thẳng hướng thị xã Saravan. Sau khi vượt qua sông Sê Đôn, chúng tôi đi theo đường 23 về hướng Tha Teng. Tha Teng cũng là một cái thị trấn nhỏ như Ngã Ba Lào Ngam, nằm giữa khoảng cách từ Saravan về Păk Soong. Vùng này sau chiến sự năm 1970 thì đến nay dân Lào đã trở lại các bản cũ của họ. Các bản ven đường đều là nhà sàn gỗ xẻ nhưng nhỏ hơn so với trên Cao nguyên. Một loạt bản mà không có nơi nào đủ hai chục nóc nhà. K15 đã dừng chân tại ngã ba bản Bèng và đi sâu vào rừng tìm chỗ đóng quân. Bản này có vẻ đông vui như bản Sen Vàng trong cao nguyên.  Còn lại hai cái bản nữa nằm ven đường thuộc loại khá lớn là Ca Đáp và La Vang chỉ có đúng 12 nóc nhà. Trong bản toàn người già, phụ nữ và trẻ nhỏ, tuyệt không có bóng thanh niên. Từ đây, Trung đoàn bộ và các đơn vị còn lại đi sâu vào rừng phía Tây và chia ra bố trí trên một vùng rộng lớn, dựa lưng vào nhiều dãy núi đất và rừng già. Phía ngoài đường này, xung quanh các bản dân có rất nhiều nương rẫy nằm thoai thoải và rộng lớn, nhìn ngút tầm mắt.

        Dọc con đường chúng tôi đi, bạt ngàn hai bên đường, giữa các bản dân là những vườn chuối tây mọc như rừng. Ngoài đường đi, đất đỏ lúc nắng thì bụi mù, lúc mưa thì lầy lội nên cứ nghỉ giải lao là lính tạt vào vườn chuối chặt lá rải ngồi cho sạch. Đi sâu một chút vào vườn thì nơi đâu cũng có chuối chín. Chuối chín cây cũng có mà chuối già chặt đổ xuống đất rồi lợn rừng sục ăn dang dở thì cũng vô số.

   Tôi đã kể là ở Nam Lào trên cao nguyên và nhiều vùng đất khác nữa, người Lào trồng rất nhiều chuối tây. Trồng nhiều như rừng và có lẽ vì chiến tranh nên họ không thể thu hoạch đem bán đi đâu. Họ ăn không hết nên cho ai muốn lấy bao nhiêu tùy thích. Cũng vì phải để vườn chuối tiếp tục phát triển nên họ quy ước với nhau là ai có việc đi vào vườn chuối nếu thấy cây có buồng già hoặc chín thì phải đặt đổ cây đó xuống để gốc mau ải, lấy chỗ cho mầm chuối mới đẻ phát triển. Còn buồng chuối ấy nếu ai thích thì lấy đem về, không thì cứ bỏ mặc đó cho lợn nhà, lợn rừng vào ăn cũng được. Thiên nhiên và điều kiện thuận lợi vùng này đã ưu đãi những người dân Lào như vậy đó.

   Hành quân tới đây rẽ vào vườn chuối, chúng tôi hăm hở tìm chuối, ăn xong thằng nào cũng xách theo một nải, nhưng đi cả chặng dài chỗ nào cũng ê chề chuối thì lại chán ngay, không buồn lấy nữa.

   Qua bản Ca Đáp, chúng tôi rẽ vào nghỉ chân, nhưng Già bản (Phò bản) không cho vào mà bắt nghỉ bên ngoài. Chỉ cử người vào xin nước thì được. Hơi lạ vì người Lào vốn mộc mạc và mến khách lắm cơ mà. Mãi sau cán bộ đại đội hỏi chuyện (rồi chắp ghép thêm thông tin nghe kể sau này nữa) chúng tôi biết dân họ không muốn cho bộ đội Việt nghỉ trong bản cũng phải.

   Chuyện là cách đây vài ngày, một đơn vị của K16 khi hành quân qua đây đã rẽ vào bản nghỉ chân. Dưới sàn nhà ở đây sạch như sân đất ở nông thôn ngoài Bắc vì dân họ không chăn nuôi trâu bò trong bản, nên lính tráng hạ ba-lô ngồi nghỉ dưới sàn. Đám trẻ con chắc cũng đã quen với cảnh bộ đội Việt như thế này nên sà vào chơi. Trong lúc những thằng vào trước hạ ba-lô nghỉ ngơi và xoa đầu trẻ nhỏ thì các lính đi sau lục tục kéo tới. Thằng K. (cũng lính đoàn Hà Nội chúng tôi) nghiêng người, mệt nhọc tụt ba-lô xuống. Không ngờ cái góc ba-lô của nó móc luôn vào cái "khong" của chốt quả lựu đạn mỏ vịt và cứ thế từ từ kéo tuột cái chốt an toàn theo đà hạ của ba-lô. Mọi việc diễn ra lúc ấy có lẽ thằng K. khi về thế giới bên kia mới hiểu là chuyện gì. Quả lựu đạn phát nổ ngay trên xanh-tuya của thằng K. làm nó chết ngay. Ngoài ra thêm một lính và hai đứa trẻ Lào cũng bị thương. Một ông già ngồi trên sàn nhà thẳng hướng với chỗ thằng K. đứng cũng bị mảnh văng lên làm gãy chân. Thế là tất cả đơn vị tán loạn và è cổ ra mà giải quyết hậu quả. Sau vụ này, trung đoàn phổ biến rút kinh nghiệm xuống khắp các đại đội và lệnh cấm lính đeo móc lựu đạn mỏ vịt trên dây lưng khi hành quân. Phải bỏ lựu đạn vào trong túi cóc ba-lô hay bỏ trong túi con trên dây lưng. Còn lúc đánh nhau thì thoải mái. Về sau này đánh nhau với tụi lính VNCH, thấy chúng nó cài lựu đạn ở dây đeo chéo trước ngực, thấy có lý.

   Tiểu đoàn K18 đóng quân ngay phần cuối nương từ bản La Vang đi vào chừng hai cây số. Đi sâu thêm nữa độ một cây là một bản có tên Tùm Nho. Bản này toàn nhà sàn nhỏ làm bằng cột gỗ và tre nứa, không phải gỗ xẻ, cũng chỉ chưa đến chục nóc nhà. Trông dân ăn mặc nhếch nhác như đồng bào trên các bản cao tít dọc đường Trường Sơn. Từ vị trí đóng quân của D bộ, các đại đội rẽ ra các nhánh đi sâu hơn vào rừng. C6 chúng tôi phải đi sâu thêm 4 cây số nữa tính từ bản Tùm Nho. Đường đi vào là cắt rừng và được cắm chỗ theo tọa độ. Chiều tối của ngày đầu tiên hành quân tới nơi, chúng tôi tổ chức nấu cơm ăn theo từng trung đội tại vạt rừng đồi mà sau này sẽ làm nhà. Đêm mưa phải mắc tăng võng để ngủ.

   Hôm ấy là ngày 27/7/1973, đúng ngày thương binh tử sĩ.

   Điểm lại toàn đại đội tôi còn non bốn chục người. Mỗi Trung đội có 7 người, riêng B6 chủ công có 8. Số còn lại thuộc về A cối 60, quản lý, anh nuôi, y tá và BCH đại đội.

   Lúc này tuy không có ai nói đến chuyện chiến sự, nhưng kết quả của việc hòa hợp các phái của Lào ra sao thì chúng tôi chưa biết. Chỉ biết vùng Păk sế vẫn là quân ngụy Lào và Thái Lan chiếm giữ. Chúng tôi hiểu lờ mờ là lúc này Thượng Lào thuộc quân ta. Trung Lào có căn cứ của Vàng Pao và tỉnh Chăm Pa xắc ở cực Nam của Lào thuộc phái Phu mi. Xem ra quân số của địch cũng ít vì dân số Lào lúc này chỉ có 3 triệu người thôi. Phải hành quân trở lại, chúng tôi đoán hay là phải đánh nhau tiếp và giải phóng xong nốt cái tỉnh Chăm Pa Xắc ấy thì chiến tranh ở Lào mới coi như xong?

   Tham mưu con như chúng tôi trong đơn vị rất nhiều. Nhiều thằng còn lập luận rất văn vẻ khi đưa ra ý kiến để phán, nhưng nói chung thường là sai toét. Bởi vì có rất nhiều chuyện phải bí mật, không phải cái gì cũng được cấp trên phổ biến hết

   Hôm sau đại đội họp giao ban, phát lệnh cho toàn C làm hậu cứ kiên cố để ở lâu dài. Chúng tôi sẽ không được ra Bắc nữa mà phải đóng quân lại tại chỗ để làm nhiệm vụ, còn chính xác là nhiệm vụ gì thì chưa biết. Đến cán bộ cấp C cũng chỉ biết là còn phải tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ cách mạng Lào, thế thôi.

   Vị trí đóng quân của C6 nằm trong rừng già, ven một con suối đá nước trong và chảy rất mạnh. Bây giờ đang là mùa mưa. Trung đội 5 của chúng tôi nằm sâu nhất, áp sát suối. Bên kia suối là bạt ngàn rừng tre và nứa. Cả B chúng tôi được làm một nhà nửa nổi và vẫn phải đào một cái hầm chữ A to cho đủ lệ. Trong rừng này toàn cây gốc rất to nên chúng tôi quyết định dựng nhà toàn bộ bằng tre nứa. Cột kèo thì đương nhiên là tre rồi. Phần thưng xung quanh nhà, chúng tôi đan nứa thành phên để che. Riêng cái đoạn làm mái nhà thì lần đầu tiên tôi được biết đến mái ống. Không phải mái nứa mà là mái vầu. Cứ rọc cây vầu làm đôi, róc mắt rồi xếp đan úp ngửa chéo sát nhau cho kín mái nhà rồi neo giữ chặt là xong. Trông mái nhà rất gọn và đẹp, thẳng tăm tắp. Đúng là của rừng có khác, tha hồ dùng. Trong thời gian ở đây chúng tôi còn dùng tre nứa làm nhiều đồ dùng thông thường như rổ rá, ken thùng đựng nước ăn, rồi các loại bàn ghế, giá súng, thậm chí cả đường đi… Tiện nghi sinh hoạt đầy đủ và tiện lợi rất nhiều.

   Sau một tuần làm xong nhà, trung đội tôi tổ chức liên hoan khánh thành. Bao nhiêu đường còn lại được góp tập trung để nấu kẹo. Cà phê bột tự làm cũng được đem ra dùng nốt vì loại này để lâu trong điều kiện mùa mưa cũng mau hỏng. Đặc biệt còn có hai bao thuốc "A Lào" của tôi. Chả là dạo ở bản Ka pơ, tôi đổi được hai bao thuốc và cất kín trong ba-lô khi biết tin được ra Bắc. Tôi mơ có ngày nào đó về hậu phương, được ngồi trong một quán nước (như Quán Gió hay Bốn Mùa chẳng hạn), gọi một tách cà phê rồi chậm rãi bóc bao thuốc đầu lọc (của này ngoài Bắc còn chưa có) lấy một điếu ra châm lửa hút rồi nhả khói lên trời, làm thơm ngát cả một góc quán trước nhiều cặp mắt ngưỡng mộ của bọn thanh niên. Ôi, một ước mơ vừa nhỏ bé, vừa ích kỷ làm sao. Bây giờ không được ra Bắc nữa nên tôi đem ra cho trung đội cùng liên hoan. Thế mà cũng vui vẻ được hai tối, lại còn mời thêm được cả mấy anh quản lý, y tá và anh nuôi.

   Hơn nửa tháng trời chúng tôi chỉ quanh quẩn từ chỗ trú quân ra đám rừng xung quanh để kiếm vật liệu làm nhà. Tất nhiên vẫn phải có người ra tiểu đoàn lấy gạo. Buổi tối chỉ phổ biến kế hoạch làm việc tiếp chứ chưa phải họp hành và sinh hoạt chính trị. Sau khi làm xong nhà, chúng tôi tiếp tục tham gia làm hội trường, làm đường đi, phát quang lấy một cái sân chung. Nhà của đại đội và nhóm quản lý anh nuôi, nhà bếp… cũng được làm đồng thời, do các B cử người hỗ trợ.

   Khu doanh trại làm xong, đẹp tuyệt vời, chẳng hề kém doanh trại hồi còn huấn luyện ở Bãi Nai, Hòa Bình. Có khi còn đẹp hơn, vì cảnh rừng thì ở ngoài Hòa Bình không thể sánh bằng.

   Lúc này chúng tôi xác định nhiệm vụ huấn luyện là chính. Nghe nói sẽ được bổ sung thêm quân. Như vậy chuyện trung đoàn chúng tôi được ra Bắc để an dưỡng và củng cố sẽ thay bằng an dưỡng và củng cố tại chỗ. Lúc đầu quả thật chúng tôi có buồn, nhưng về sau xét lại, ngoài chuyện không có đồng bào Việt để giao lưu, còn về các khoản khác cả vật chất và tinh thần chắc còn tốt hơn ở Quảng Bình hay Hà Tĩnh. Đơn giản là vì chúng tôi đang là chủ của những cánh rừng bạt ngàn có nhiều muông thú.

   Nhưng không phải là không có niềm vui tinh thần. Toàn trung đoàn chúng tôi tổ chức bình công (chậm sau chiến sự tới nửa năm trời). Sau đó cả E có một đoàn được ra ngoài Bắc dự hội nghị chiến sĩ thi đua, kết hợp nghỉ phép (sướng thế!). Lính Hà Nội chúng tôi cũng có thằng Thắng (K16) được tham gia. Ngoài ra trong C nào cũng có mấy anh được đi phép, chủ yếu là các anh nhập ngũ từ năm 1965, 1967. Nói thực là số này còn lại cực ít, chủ yếu là anh nuôi, y tá và cán bộ từ B trở lên. Lại tíu tít chia tay và hùng hục viết cả một nắm thư gửi về nhà nhờ các anh ấy mang ra.

   Đơn vị vắng đi gần chục người mà thấy thưa hẳn. Sẽ là hơn một tháng trời chờ đợi các anh ấy vào để biết tin nhà, nếu gia đình chưa kịp gửi thư. Đến lúc này, bọn lính Hà Nội chúng tôi cũng chưa ai biết tin ngoài Hà Nội qua thư gia đình.

….


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 15 Tháng Mười Hai, 2011, 01:21:26 pm
…..
   Đóng quân ở một vị trí mới thì nhiệm vụ trước tiên bao giờ cũng là lùng sục, chúng tôi đã quen với nếp này rồi.

   Cái dẻo đất chỗ đại đội tôi đóng quân thật ra không phải là rộng lắm. Đi xa sang hai bên chỗ nào cũng có khe suối và rừng rậm chen kín. Cây gỗ mọc dày tới mức muốn lùng sục đi qua cũng phải mò mẫm phát các cây con lấy đường. tầm nhìn xa chưa đến chục mét. Đấy là chưa kể còn có dây leo chằng chịt. Rừng rậm, lại mùa mưa nên không khí rất ẩm thấp, vắt nhiều vô kể. Vùng này ngoài vắt nâu như trong các rừng nứa, còn có cả vắt xanh. Bọn vắt xanh không bò dưới đất mà bám trên lá cây. Đi đứng thế nào thì đầu và mặt cũng phải quệt vào lá. Những con vắt xanh màu lẫn vào lá như phục kích sẵn tha hồ thả người rơi vào cổ vào vai chúng tôi. Bọn này bò rất êm, nhưng cắn thì cực đau. Nhiều khi rùng hết cả mình, chỉ mong chạy ra được một khoảng trống nào đó cởi phanh cổ áo rồi giúp nhau vừa phủi vừa bứt chúng ra.

   Để chống vắt, chúng tôi phát quang khá rộng quanh mỗi lán, hội trường và đường đi giữa các trung đội và bếp ăn. Con đường xuống suối và một con đường đi ra khỏi đơn vị để lên tiểu đoàn cũng vậy. Đường dốc trong khu vực đại đội còn được chúng tôi chặt gỗ lát hoặc đan phên tre đi cho khỏi bẩn chân.

   Qua khỏi con suối đá phía sau B5 chúng tôi là rừng tre nứa. Đi xa thêm vài trăm mét thì ra một cánh rừng thưa hơn, cũng sát suối. Hôm đầu tiên lùng sục đến đây, từ xa chúng tôi đã nghe thấy cây rung rào rào. Vùng rừng rậm này không có voi, với lại voi đi thì rung đất chứ không rào rào trên cành cây như thế. Thoạt đầu, tôi đã liên tưởng đến trăn, nhất là những con trăn gió, trăn mốc dài hàng chục mét, nặng vài chục cân mà khi còn ở nhà tôi đã đọc trong truyện. Trăn chỉ di chuyển kém khi ở ngoài bãi đất trống, còn trong rừng, nó quăng mình qua các cành cây vèo vèo như gió. Tôi đã từng đọc về chuyện trăn mò đến nuốt người nằm trên võng, hay quấn người rồi vặn cho gãy hết xương. Con trăn chỉ có mỗi điểm yếu là cái khấu đuôi. Nếu chặt được vào đó hoặc nghiến răng ngoạm đứt (điều này khó hình dung) cái chót đuôi thì con trăn mới chịu bỏ mồi. Nghĩ thế là rợn hết cả người, súng bật chốt an toàn sẵn sàng nhả đạn, chúng tôi lò dò mãi mà chả thấy gì. Hôm ấy có lẽ đi chỉ độ non cây số đã phải chuồn về.

   Tối về kể chuyện, A trưởng Thanh bảo, mày có ngửi thấy mùi gì không? Mùi tanh chẳng hạn. Nhớ lại, bảo không có chuyện đó, thế là anh ấy cười. Hôm sau anh Thanh xung phong đi lùng sục lại đúng hướng ấy. Anh ấy đi đầu, nhẹ nhàng và chú ý nghe ngóng. Đến một lúc nào đó thấy cây lá rào rào và tiếng kêu chí choét ngay trên đầu. Giật mình ngẩng lên thì chao ôi, cơ man nào là khỉ. Đàn khỉ đến vài chục con chuyền cành chạy trốn rào rào. Ngây người ra chỉ vài phút thì lũ khỉ chuồn mất tăm. Hóa ra khu vực này là một rừng cây có thứ quả hay hoa lá nào đó mà khỉ thích ăn. Chúng tôi ngồi nghỉ lại một lát rồi đi tiếp. Bây giờ thì yên tâm rồi vì bọn khỉ không nguy hiểm. Chúng không tấn công người. Chúng tôi đi tiếp, ngó nghé tiếp, cố mong tìm thấy một thứ quả gì người ăn được thì tuyệt, nhưng không có. Đến anh Thanh là người dân tộc mà cũng chẳng biết cái thứ mà lũ khỉ tìm ăn ở đây là quả gì.

   Lính tất nhiên là phàm ăn, nhưng ở tại khu rừng đóng quân này, chúng tôi đã phạm phải một sai lầm, đó là săn bắn khỉ. Trong cao nguyên, năm ngoái B5 chúng tôi cũng đã bắn khỉ, nhưng đó chỉ là bất chợt. Ở đây các anh trong C tôi đã quyết định bắn khỉ để cải thiện. Lúc đầu bọn khỉ dát lắm, chúng tôi chưa đến gần chúng đã rào rào chuyền cành chạy trốn. Về sau chúng bạo dạn hơn, chạy trốn từ từ và thậm chí còn có con gan lì ngồi lại trên cây kéo cành lá che để nhìn chúng tôi. Khi hai bên đã dạn dĩ với nhau rồi thì đơn vị tôi mới bắn. Khỉ ở đây lông màu xám và nhỏ con chứ không to như con khỉ vàng trên cao nguyên. Cả đơn vị mấy chục người có một con thì chả ăn thua gì, nên mọi bộ phận của con khỉ đều chế biến hết. Hôm đầu tiên chưa có cảm giác gì, chỉ thấy thịt nó hơi gây gây, ngang ngang.

   Mấy hôm sau đơn vị tôi lại bắn khỉ. Lần này khó hơn vì lũ khỉ đã nghi ngờ những láng giềng mới, nhưng chúng tôi vẫn bắn được. Khi xuống bếp xem anh nuôi làm thịt, tôi thấy có một cái gì đó ghê ghê, vì khi con khỉ bị cạo lông thì nhiều bộ phận của nó giống người.

   Đến lần thứ ba bắn khỉ thì thật là não lòng. Anh Hành B4 không hiểu chọn mục tiêu thế nào lại bắn trúng một con khỉ mẹ đang nuôi con. Nó trúng đạn mà còn một tay ôm con, một tay cố bíu mãi vào cái cành cây, rất lâu rồi mới chịu rơi do đuối sức. Con khỉ con chỉ bé như con mèo rơi theo rồi cứ chót chét kêu cạnh khỉ mẹ mà không thể chạy đi đâu. Hôm ấy tôi theo anh Hành, phải chứng kiến cảnh ấy, thấy não lòng thế nào ấy. Nói dại chứ lúc ấy tôi nghĩ là chúng tôi đã bắn người chứ không phải bắn khỉ.

   Con khỉ con được đem về cứ bám mãi theo xác mẹ, không trói mà nó cũng chả chạy đi đâu. Hôm ấy tôi thấy ghê ghê, không dám đụng đến món thịt khỉ. Cứ nghĩ cảnh khỉ mẹ bị đạn rớt mà vẫn níu con thì tôi cứ thấy không yên lòng thế nào ấy. Hình như con người tôi không hợp với cảnh bắn giết, dù đó là gì. (Nếu như ai đó nói rằng có hội chứng chiến tranh thì chắc tôi cũng là người mắc phải vì về sau và cho đến bây giờ, tôi vẫn không dám cắt tiết gà).

   Con khỉ con bé quá, chúng tôi không nuôi được vì nó chẳng chịu ăn. Hôm sau tôi phải đem nó ra chỗ bắn khỉ hôm trước. Chẳng thấy bóng dáng đàn khỉ đâu cả. Chúng đã coi những thằng lính chúng tôi là kẻ thù nguy hiểm mất rồi. Tôi đi sâu tiếp vào rừng nhưng cũng không tìm thấy khỉ. Nghĩ mãi, tôi quyết định cứ đặt con khỉ dưới gốc cây, hy vọng biết đâu lũ khỉ quay lại gặp sẽ cứu con khỉ con vì tính bầy đàn. Chỉ lo là không phải con mình thì con khỉ khác có nuôi nó không. Nhưng như thế này may ra con khỉ con còn cơ hội sống, chứ ở với chúng tôi chắc vài hôm nó cũng chết mất.

   Tôi đã đem chuyện này nói với anh Mỵ chính trị viên. Tôi kể mà giọng giống như đang lên án tội ác của chúng tôi. Anh Mỵ cũng là người dân tộc (may thế), đánh giặc thì hăng, nhưng tính tình thì dáng vẻ như con gái. Anh ấy cũng đồng cảm với suy nghĩ của tôi. Thế là từ hôm sau đại đội ra lệnh không được bắn khỉ nữa. Nếu nâng lên quan điểm thì đám khỉ cũng cùng tổ tiên với loài người chúng ta cơ mà. Còn thú trong rừng thì thiếu gì mà sợ không có cái ăn. Bắn con gì có nguồn gốc xa xa với loài người ấy cho nó đỡ ghê.

   Nói thêm về chuyện khỉ. Sau hai hôm tôi có mò ra chỗ đã thả con khỉ. Không thấy nó, kể cả xác cũng vậy. Tôi tin và hy vọng con khỉ ấy đã được cứu sống nhờ lòng nhân ái của bầy đàn. Sau này, khi chúng tôi ở đó khá lâu và không săn bắn khỉ, không có tiếng súng nên dần dà đàn khỉ đã quay lại khu rừng. Chắc không phải chúng quên tội chúng tôi, mà là vì cánh rừng đó có thứ quả mà chúng ăn được nên chúng phải tìm đến. Hơn nữa chúng vốn là chủ nhân của khu rừng này trước chúng tôi, thì chúng cũng cần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trước cánh lính không mời mà đến là chúng tôi chứ. Một đôi lần khi ra suối đá tắm lúc trưa nắng, nhiều lần tôi đã thấy thấp thoáng bóng dáng những con khỉ. Chúng dè dặt hơn trước nhiều. Tôi cố nhìn nhưng không thấy (hay không thể nhận ra) có con khỉ con dạo trước trong đó không. Tôi cứ vơ vẩn nghĩ lũ khỉ đã tha thứ cho chúng tôi, nhưng chúng vẫn phải cảnh giác. Thế cũng phải thôi.

   Có lẽ tất cả những người đã từng sống những năm tháng gắn bó với núi rừng Trường Sơn hùng vĩ đều phải công nhận rằng, trừ những khi đạn bom ác liệt, còn thì đó là nguồn tài nguyên sống vô tận và rất phong phú nuôi sống con người. Dưới một góc độ nào đó thì có khi còn sung túc nữa là khác. Chúng tôi có cái may mắn hơn rất nhiều đơn vị khác là chiến đấu ở dải đất Tây Nam Trường Sơn nên mức độ ác liệt có phần ít hơn. Khi dừng tác chiến thì cuộc sống cũng thật dư dả, tất cả đều là của rừng.

   Mùa đốt nương phá rẫy đã qua nên những chuyện phục kích ngoài nương chờ bắn những con nai ban đêm mò ra ăn tro tranh lấy muối không còn nữa. Thời kỳ này chúng tôi vẫn săn bắn được nhiều hoẵng. Tôi chưa thấy hươu rừng, nhưng giống hoẵng có họ với nai thì ở đây rất nhiều. Con to chỉ độ cỡ ba bốn chục cân là cùng. Trung đoàn cho các đơn vị được phép săn bắn để cải thiện. Chúng tôi đi xa hơn vào rừng và nhiều lần bắn được hoẵng. Có lần các anh người dân tộc hứng chí đi bắn đêm bằng đèn. Bắn đêm khá vất vả, có lẽ thích thú chỉ ở cái cảm giác lúc con hoẵng bắt đèn của người săn mà ngơ ngác rồi đứng im chịu đạn mà thôi. Tôi thích đi cùng các anh ban ngày hơn, vì đỡ hẳn cái khoản rắn rết. Ban ngày dù sao mình cũng ít nhiều nhìn thấy để mà tránh.

   Thời gian này chúng tôi huấn luyện là chính nên chuyện cải thiện cái ăn rất phong phú. Chính thời gian này được ăn thịt thú rừng rất nhiều. Cứ tổ chức đi săn là có thịt ăn. Tuy nhiên cái gì cũng có hai mặt của nó, đấy là những tai nạn khôn lường.

   Một lần chúng tôi đi lấy gạo ngoài vùng bản Ca Đáp. Đường đất không đủ rộng cho hai xe ô-tô tải tránh nhau một cách bình thường. Xe cũng ít qua lại, kể cả xe bò của dân nên hai bên đường lau lách rất nhiều, mọc tràn cả ra đường. Thỉnh thoảng lại gặp chỗ có lối mòn đạp rẽ vào rừng. Vì ít bóng người nên thỉnh thoảng lại có những con hoẳng rẽ bụi chạy băng qua đường. Lần ấy, khi nhóm lính C tôi đi đến một khúc cong, vừa rẽ ra chỗ đường thẳng thì bất ngờ phía trước cách độ vài chục mét có một con hoẵng nhảy ra đường. Nếu nó phi thẳng mất hút thì không sao, đằng này nó lại dừng ngay giữa đường nhìn chúng tôi như thể tò mò xem chúng tôi là cái giống gì. Thế là anh Trịnh quỳ ngay xuống giữa đường, xoay nòng AK cho nó ngay một điểm xạ. Liền lúc đó cũng có ngay một loạt AK khác nã về phía chúng tôi. Con hoẵng nhảy ngay vào rừng, mất hút. Phía trước mặt có tiếng kêu ầm lên rồi thấy mấy thằng lính nhà ta lóp ngóp bò dậy. Hóa ra phía trước cũng có một tốp lính của C khác đi lấy gạo về, ngược với chúng tôi. Cả hai tốp đều bất ngờ nhìn thấy con hoẵng, đều phản xạ bản năng muốn bắn con hoẵng. Kết quả là con hoẳng chỉ hoảng sợ chạy mất, còn chúng tôi hết hồn vì hai loạt đạn chĩa vào nhau. Phúc tổ bảy mươi đời là không thằng nào dính đạn. Chúng tôi cùng cáu tiết chửi nhau, cùng nhận ra chẳng thằng nào đúng nên đành chia tay đường ai nấy đi, nhưng vừa đi còn vừa run. Về đến lán đêm nằm nghĩ lại còn thấy sợ.

   Những chuyện như thế cũng chẳng dấu kín được ai. Không thằng nào bị kỷ luật, nhưng có lệnh từ trên truyền xuống là chỉ được tổ chức săn bắn hẳn hoi chứ không được tùy tiện bắn lung tung.

   Bây giờ thì lại xảy ra chuyện khác. Vốn dĩ cũng chẳng ai phân định đâu là vùng rừng của ai, nên đã xảy ra chuyện có đơn vị nọ cử người đi săn, tưởng cách xa đơn vị lắm rồi, nhưng lại lần mò sang đến khu rừng của đơn vị khác. Có ai cho chúng tôi biết rõ ràng vị trí đóng quân của từng đơn vị trong trung đoàn đâu, phải bí mật cơ mà.

   Một lần chúng tôi đang ngồi thảo luận chính trị trong lán thì nghe thấy phía dưới gần suối có tiếng rung cây rất to. Chỗ ấy có nhiều cây to cao đến hai chục mét, mây song chằng chịt, um tùm. Anh Dũng B trưởng cho tạm dừng họp rồi  xách súng ra xem. Tiến động cứ rùng rùng tít trên lùm cây cao, ào ào từng đợt. Chả hiểu sao mọi người lại đoán là có con gấu trên ngọn cây, tuy chẳng ai nhìn rõ. Lúc ấy cũng chẳng ai đủ bình tĩnh để suy nghĩ xem, trên cây ấy có tổ ong đâu mà gấu nó leo lên. Cứ nghĩ có con gấu rất to, bắn được là tuyệt rồi. Thế là chẳng cần nhìn thật rõ, anh Dũng choảng luôn một điểm xạ AK lên đó. Tiếng động im bặt, nhưng ở gốc cây có tiếng người gào ầm lên. Chúng tôi chạy lại thấy hai thằng lính C5 mặt tái mét ngồi thụp ngay gốc cây. Hóa ra bọn C5 đi lấy dây mây đã mò sang khu vực C tôi, nhưng chúng nó không đi theo đường mòn chính vào mà cắt rừng đi như ở chỗ không người. May mà anh Dũng đoán con gấu trên ngọn cây mà bắn lên đó, chứ đoán con gấu đang ngồi dưới gốc cây thì chắc có thằng kết oan.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: TichTuongNhuLe trong 16 Tháng Mười Hai, 2011, 10:08:50 pm
.
     Gần một tháng trời nay mới lại thấy bác Trongc6 nổ tiếp. Bác để lâu quá, đứt mất mạch, khó theo dõi quá !


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: tiepvhtt trong 30 Tháng Mười Hai, 2011, 08:39:57 am
cháu cũng chỉ là người đọc bài thường xuyên của các bác thôi, báo An ninh thế giới có đăng bài về một cựu chiến binh tại Lào, quê ở Thị trấn Văn Điển - Hà Nội đã có thành tích 9 viên đạn AK bắn rơi Thần Sấm F105 20/4/1970 tại Xiêng Khoảng, Lào.
http://antg.cand.com.vn/vi-VN/tulieu/2011/12/77042.cand


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 30 Tháng Mười Hai, 2011, 09:38:34 am
cháu cũng chỉ là người đọc bài thường xuyên của các bác thôi, báo An ninh thế giới có đăng bài về một cựu chiến binh tại Lào, quê ở Thị trấn Văn Điển - Hà Nội đã có thành tích 9 viên đạn AK bắn rơi Thần Sấm F105 20/4/1970 tại Xiêng Khoảng, Lào.
http://antg.cand.com.vn/vi-VN/tulieu/2011/12/77042.cand
"phục tài" phóng viên Lê Đình Lai phóng bút "nổ" to quá! Cái câu nói: "- Có lẽ nó thả bom vướng vào cây nhiệt đới, thủ trưởng ạ"?! Đã nói lên tất cả.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 31 Tháng Mười Hai, 2011, 06:05:09 pm
Chào bác TTNL và các CCB cùng anh em trên trang VMH.

Ngày cuối năm rồi, chỉ còn vài giờ nữa là sang năm mới. Nhiều bác CCB chắc đang tất niên ở 19C Ngọc Hà. Tiếc là không thể ra được.

Xin chúc tất cả mọi người một năm mới sức khỏe và hạnh phúc.

Bác TTNL@:

Chuyện tôi viết theo thời gian. Bây giờ là cuối năm 1973 rồi. Chuyện không có gì hấp dẫn. Tôi viết và kể lại với các bác chỉ mong có thêm một hình ảnh về tình hình chiến trường Nam Lào khi đó để các bác có thêm một góc nhìn và tiện so sánh với các nơi khác về những ngày chiến tranh. Thế cho nên chuyện nó nhàn nhạt, mong các bác thông cảm.


 ( Viết tiếp ký ức Nam Lào 1973 ...)




   Không phải mọi chuyện lúc nào cũng ổn. "Đi đêm lắm có ngày gặp ma", các cụ nói cấm có sai. Trong tháng 10/1973, liên tiếp xảy ra hai vụ tai nạn chết người do đi săn bắn phải nhau của K15 và K16. Trung đoàn họp rút kinh nghiệm và phổ biến ngay đến các đơn vị. Chuyện nào nghe cũng thấy rùng mình. Chết lúc bom đạn không sao, chết thế này chắc cũng không được liệt sĩ. Thằng chết số ruồi đã đành, còn thằng bắn nhầm cũng day dứt.

   Trung đoàn vẫn không cấm săn mà chỉ nhắc nhở các đơn vị tổ chức săn bắn chu đáo hơn. Nhưng như thế nào là chu đáo thì chẳng ai chỉ ra được rõ ràng. Chết người rồi mới nhìn ra chỗ sai.

   Tiểu đoàn K18 chúng tôi thì chặt chẽ hơn, tuyên bố đi săn phải tổ chức theo tiểu đoàn chứ các C không được tùy tiện. Có lịch giao ban về chuyện săn bắn hẳn hoi. Sau đợt đó, hầu như chúng tôi không còn được ăn thịt hoẵng nữa, nhưng bù lại thì lại được chén rất nhiều lợn rừng. Tôi không thạo lắm về thú rừng, chỉ nghe lính dân tộc nói là lợn rừng chia ra hai loại là lợn cỏ và lợn độc. Lợn cỏ đi theo đàn cỡ hơn chục đến vài chục con, có cả lợn đực trong đàn. Loại này không hung dữ, khi bị săn đuổi thì chạy là chính. Còn loại thứ hai cực kỳ nguy hiểm là lợn lòi hay còn gọi là lợn độc. Đây là những con lợn đực sống riêng lẻ không bao giờ đi theo đàn. Chúng thường to cỡ trên một tạ, khỏe và có răng nanh to nên rất nguy hiểm, không ngần ngại tấn công đối thủ kể cả là người. Đi lẻ mà bất ngờ gặp nó là một điều tệ hại. Ngay cả người chủ ý đi săn nó mà kinh nghiệm kém cũng dễ trở thành nạn nhân. Ở đường dây 559 đã có cả một câu chuyện kể về một vụ săn lợn lòi trừ hại cho dân bản vì con lợn này phá phách kinh lắm. Nó to cỡ tạ rưỡi, vết chân to như chân trâu. Chưa nhìn thấy nó, chỉ nghe thấy tiếng hộc hộc cũng đủ sợ rồi. Binh trạm ở đó vì muốn bảo vệ dân và đường dây nên đã tổ chức đi săn để trừ diệt. Người lính - thợ săn ấy phải lùng suốt 5 ngày đêm mới tìm ra nó trên một sườn núi đầy tre gai. Có điều không hiểu tình thế lúc đó vì sao ấy nên anh ta bắn con lợn ở vị thế thấp hơn con lợn. Trúng đạn vào đầu từ khoảng cách hai chục mét mà nó còn đủ sức lao cả người đâm hàng nanh sắc nhọn vào đối thủ. Khi đơn vị tìm được thì thấy cả hai xác người và lợn quấn vào nhau ngay dưới chân núi. Anh Thanh trong C tôi bảo nếu như người thợ săn ấy chủ động chọn được chỗ phía cao hơn con lợn và linh hoạt di chuyển thì mới có thể thoát được, còn trong tình huống như trong chuyện kể thì dù là ai chắc cũng phải chịu số phận như thế.

   Thế cho nên mục tiêu chính là săn lợn cỏ. Loại lợn này thịt nạc nhiều, ngon hơn cả lợn nhà nuôi. Khởi đầu cho vụ săn lợn cỏ năm đó là tiểu đoàn bộ. Do tiểu đoàn bộ đóng gần nương lúa của dân hơn cả nên dễ phát hiện ra dấu vết của lợn rừng. Một lần ngay đầu buổi sáng có truyền đạt của tiểu đoàn đến báo các C lên D bộ nhận thịt. (Thời gian chúng tôi đóng quân tĩnh tại không bao giờ có điện thoại hữu tuyến nối giữa các đại đội với tiểu đoàn. Mọi liên lạc đều bằng người báo trực tiếp. Các cán bộ C nhận lệnh hay giao ban cũng phải tự đi bộ. Chỉ khi có chiến đấu, mà chỉ ở một số trận đánh tập trung mới có rải dây hữu tuyến).

   Lên đến nơi chúng tôi mới biết D bộ do bác Chớt (anh nuôi cựu nhưng là thợ săn có nghề) chỉ huy ra phục ngoài nương lúa bắn được hai con lợn to, đến hơn hai tạ thịt. Mỗi C được đến nửa con, quân số lại ít nên ăn thoải mái, chả khác gì liên hoan ngày thành lập trung đoàn. Món thịt lợn dễ ăn và hấp dẫn lính tráng chúng tôi ngay từ ngày hôm đó. Thế là về sau C nào cũng tổ chức săn. Nương lúa của dân rất nhiều và lợn cỏ cũng rất nhiều. Bị bắn chỗ này, chúng bỏ sang vùng nương khác. Tiểu đoàn khoanh vùng nương cho các C để khỏi bắn vào nhau. Đại đội tôi được phân chia khu vực nương hướng về chân núi phía Đông, cách xa nơi đóng quân chừng một giờ đi đường. Tôi cũng được các anh lính cũ cho đi săn cùng và tôi thấy săn lợn rừng rất dễ và hứng thú.

   Chúng tôi toàn săn vào ban đêm. Chọn phục kích nơi nào vẫn là do lính cũ, nhất là các anh người dân tộc. Lính người Kinh dù khôn ngoan cỡ nào thì cũng không thể sánh được với kinh nghiệm của người dân tộc trong những phần việc có liên quan đến núi rừng. Chúng tôi đi săn lợn theo tốp ba người. Chọn chỗ xong, cả tốp nằm phủ phục trong nương, hướng súng về một phía. Thời gian này đã dần về cuối mùa mưa, những đêm mưa như trút nước không còn nhiều, nhưng vẫn còn có mưa. Chúng tôi phải lấy nilon che trên người cho khỏi ướt vì những cơn mưa nhỏ hay sương đêm. Nằm ngoài nương cả đêm cũng lạnh lắm. Khoảng thời gian gần về sáng lợn mới vào nương kiếm ăn. Lúc này cũng là về cuối vụ, lúa đã gần chín nên mới hấp dẫn lợn rừng về. Các anh lính cũ bảo dù biết rằng chỉ săn được lợn lúc gần về sáng, nhưng vẫn phải nằm phục từ đêm cho sương làm tan hơi người. Lợn rừng tuy không phải là giống tinh nhanh lắm, nhưng dù sao chúng cũng có kinh nghiệm bản năng của thú rừng. Ngay cả chọn hướng phục không tốt, lợn nó lại xuất hiện từ phía sau lưng mình lại thì cũng coi như hỏng ăn.

   Gần về sáng, nếu đúng đêm có lợn về (không phải đêm nào đi phục cũng bắn được lợn vì nó không về) thì sẽ nghe tiếng chân và hiếng hộc của chúng. Những con đầu đàn và to thường đi trước, bọn be bé chạy sau. Chúng cũng thận trọng lắm, đánh hơi, tiến chậm, mãi mới chọn chỗ ăn. Nương rộng mênh mông, lợn nó không đi khắp nương nên nếu chọn sai chỗ phục cũng không bắn được lợn. Khi có mục tiêu, chúng tôi hiệp đồng rất nhanh. Thường anh Thanh hay một anh cầm đầu ra hiệu, mỗi người chọn duy nhất chỉ một mục tiêu và nổ súng, sao cho càng đồng loạt càng tốt. Cũng chỉ bắn mỗi người được một điểm xạ hai viên AK thôi. Sau đó lợn nó chạy tung tóe, trong đêm chẳng nhìn thấy gì nên có đứng lên mà quạt bừa cũng chẳng trúng cái gì, nát lúa của dân thì đền ốm.

   Nếu đạn bắn trúng đầu hay vào tim thì con lợn chết ngay, còn thường thì lợn nó còn chạy chán rồi mới chết, vì đa phần những con bị chọn bắn là con to, khỏe. Chúng tôi phải chờ đến sáng hẳn, xem vệt máu và kiểm tra, tìm kiếm thì mới thu được chiến lợi phẩm. Những đêm bắn được ba con lợn rất hiếm, còn thì thường chỉ được một hoặc hai con, chẳng hiểu tại sao lại thế. Chỉ đoán là loạt AK nổ đầu hạ được lợn, còn các loạt AK khác nổ sau nên không trúng mục tiêu, lợn nó nhanh chân chạy mất. Nếu ít thì chúng tôi chặt đòn khiêng về, còn nếu bắn được nhiều thì phải cử người về báo đại đội cho thêm người khiêng. Trước lúc về cũng phải vuốt lại những cây lúa đổ cho dân họ đỡ kêu.

   Thời gian này chúng tôi được ăn nhiều lợn rừng, còn vì khi bắn được nhiều lợn, chúng tôi không làm thịt khô mà gọi chia cho các C bạn trong cùng tiểu đoàn. Đến khi họ bắn nhiều thì lại gọi chia cho chúng tôi.

   Về gần cuối mùa lúa của dân, chúng tôi còn bắn lợn rừng bằng cối cá nhân M79. Lúc này những con lợn to trong đàn cỡ tám chục cân trở lên còn rất ít, chỉ còn nhiều con cỡ dăm sáu chục cân, thậm chí có con bắn được chỉ độ ba chục cân. Chúng tôi dùng đạn cối bi M79. Loại này khi bắn văng ra hai chục viên bi chì to như viên bi xe đạp, xa tới hai chục mét và sát thương như đạn ria của súng săn. Nếu nhằm được vào chỗ lợn ăn tập trung thì cũng hạ được hai, thậm chí ba con lợn nho nhỏ cỡ vài chục cân. Nhưng đa phần lợn không chết ngay mà chạy một đoạn xa mới chết, hơi phải mất công tìm khi trời sáng. Nhưng kiểu bắn này cũng chỉ được một thời gian ngắn vì đạn cối bi không có nhiều.

   Trong mấy tháng trời đóng quân ở cái vùng bản Tùm Nho này, chúng tôi không thiếu thực phẩm. Gạo cũng phát đủ tiêu chuẩn bảy lạng một ngày nên ăn no, lính tráng khỏe lên trông thấy. Gần đường dây 559 nên chúng tôi được phát khá đủ các loại như thịt hộp, giò hộp, muối, mì chính và nhiều nhất là mắm tôm khô. Không có cá hộp, còn rau thì chỉ toàn là rau cải khô, hình như của Trung Quốc thì phải.

   Còn có hai món nữa mà chúng tôi cũng hay kiếm được ăn và rất khoái. Một là những con chuột núi (con dũi). Khu vực chúng tôi đóng quân nhiều rừng tre bương, lại vào mùa mưa lắm măng nên dũi về đào ăn măng rất nhiều. Cứ lúc nào tĩnh lặng, bất kể đêm hay ngày mà nghe tiếng kèn kẹt chỗ bụi tre bương là thể nào cũng có một con dũi đang đào gặm củ măng. Ban ngày thì chúng tôi tổ chức đào, mất công một tý và phải biết cách thì kết quả thể nào cũng tóm được một con dũi, thường to nặng tới hơn một ký. Chỉ được một con thôi vì dũi không đào hang theo cặp. Một con cho cả đại đội ăn thì hơi thòm thèm, nhưng chia ngọt xẻ bùi vài miếng trong bữa cơm, đổi món thì cũng thật thú vị.

   Đoạn đường từ C tôi lên tiểu đoàn bộ phải qua một đoạn suối khá dài, cứ men theo bờ suối hẹp mà đi. Điều đặc biệt là khu vực này có rất nhiều cua đá. Lưng của nó thiên về đen nhiều hơn chứ không vàng đen như cua đồng. Có lẽ giống cua này cùng loại với cua đá trong bài hát của các chiến sĩ ngoài đảo Cồn Cỏ. Cua đá cũng nhỏ như cua đồng, tôi thấy chẳng có gì khác nhiều. Cua bò rào rào bên bờ suối nên chỉ nhanh tay bắt là được chứ không phải móc cua trong hang như cua đồng. Cứ bỏ tất vào cái túi vải, về nhà tính sau. Ba người đi làm nhiệm vụ cải thiện mà bắt cua đá thì quá nhàn. Đường gần nhà, cua bắt dễ, chả mấy chốc đã đầy ba túi, thời gian còn lại tha hồ mà chơi và tán gẫu. Anh nuôi cũng làm cua giống như ở nhà. Chúng tôi cũng có đủ chầy cối tự tạo. Gốc cây khô trong rừng không thiếu, cưa ngang và khoét một buổi là có cái cối đại. Có lẽ trong rừng cái bí nhất là rau xanh và gia vị thôi. Nhưng mắm tôm (dù là loại khô) cũng khá hợp vị với canh cua nên hôm nào làm canh riêu cua ăn với thân chuối non thái mỏng (quá sẵn ở Nam Lào) thì lính tráng ăn rào rào như trả bữa.

   Ngoài hai thứ ăn khoái khẩu ấy còn có thể kể đến một quà tặng khác của núi rừng, tuy không thật tuyệt lắm. Đi xa hơn một chút vào phía núi chỗ chúng tôi đóng quân còn có rùa núi. Mỗi con to như cái mũ sắt của lính, mai nâu đen mốc. Rùa núi rất chậm chạp, phát hiện ra nó nhờ khu vực và tiếng đi của nó trên lá. Vào ngày nắng, lá khô, rùa ra sưởi thì mới nghe thấy tiếng chân nó nhè nhẹ trên lá, còn ngày mưa thì chả bao giờ phát hiện ra chúng. Rùa núi bắt rất dễ chỉ cần tiến lại lật ngửa nó ra là cu cậu chịu chết. Chẳng bao giờ sợ nó cắn như ba ba, vì rùa chậm hơn ba ba. Có điều lượng thịt rùa không nhiều như ba ba và không ngon bằng, cái mai và yếm của nó hầu như không ăn được. Chỉ có chút thịt, cái đầu và bốn cái chân. Chúng tôi cũng chỉ bắt ăn cho biết chứ loại này làm thịt vất vả và không bõ để ăn.

   Tất nhiên ăn mãi một thứ cũng chóng chán nên chúng tôi rất chịu khó cải thiện để có thêm cái ăn. Mùa mưa năm đó có thể nói là mùa bồi dưỡng sức quân. Ngoài những thứ của rừng, chịu khó đi xa một chút, chúng tôi xin được của dân cả rau cải xanh, bí ngô và các sản phẩm của chuối như chuối quả (xanh và chín), thân chuối hay bắp bi (hoa chuối). Dưa chuột cao nguyên ở đây cũng có rất nhiều, tha hồ lấy, nhưng xào ăn chỉ cách bữa thôi chứ cũng chóng chán. Đặc biệt khu vực này không có kiệu. Dân bản có trồng hành nhưng rất ít, tại ngay các bầu đất đặt trên nhà sàn, chỗ để chum nước. Muốn xin cũng chỉ độ hai ba nhánh nên chúng tôi cũng chẳng buồn xin.

   Khi nào ngại đi xa thì chúng tôi lấy măng các loại ngay tại rừng nhà. Măng nứa luộc kỹ chấm mắm tôm (Mắm tôm khô đem tãi ra chưng với ít thịt hộp) hay măng vầu thái lưỡi lợn luộc kỹ thì ăn cũng tốt tuy thật ra nó chẳng có chất bổ gì.

   Cuộc sống cứ thế trôi qua với tập tành huấn luyện chút ít kiểu nửa du kích, nửa chính quy. Có lẽ thời gian này bộ đội Trường Sơn nói chung và lính E9 chúng tôi nói riêng là nhàn nhã nhất so với đồng đội ở khắp các chiến trường. Cuộc đời tưởng cứ thế trôi qua chờ ngày đất nước hết chiến tranh để về nhà với mẹ.




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước..., gặp
Gửi bởi: ductung2510 trong 31 Tháng Mười Hai, 2011, 11:34:57 pm
Cháu viết vài hàng này cũng sắp năm mới rồi, chắc chỉ còn 30' nữa. Chúc chú Trọng, các bác, các chú CCB, BQT QSVN và các bạn đọc lời chúc đầu năm mới sức khỏe dồi dào, có nhiều may mắn và niềm vui trong cuộc sống.

Cháu rất mong và thường xuyên đón đọc bác viết tiếp, viết đều và viết dài những hồi ức, ký ức của bác trong những ngày chiến đấu hành quân đấy ạ.   
Chúc bác và gia đình có nhiều nhiều niềm vui và sức khỏe trong cuộc sống.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vanthang341ht trong 01 Tháng Giêng, 2012, 02:41:37 pm
    Bạn Trongc6 thân mến! Tôi chưa đọc được nhiều về bài viết của bạn, tôi mới đọc qua bài viết của bạn ở trang 56 đoạn nói về những suy nghĩ và hành động của chị em TNXP ấy, sao tôi thấy lòng mình bùi ngùi xúc động, mông lung thế nào ấy. Tôi cũng càng khâm phục bạn, chỉ mới vài tuổi quân mà bạn xử sự rất bản lĩnh. Thời ấy bạn đúng là "Anh bộ đội Cụ Hồ"
    Nhân dịp năm mới 2012 chúc bạn và gia đình mạnh khỏa, hạnh phúc. Câu chuyện bạn kể thật hay đấy, bạn tả sự vật chi tiết và rất hấp dẫn, tiếp tục đi bạn nhé!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: altus trong 01 Tháng Giêng, 2012, 04:16:19 pm
"phục tài" phóng viên Lê Đình Lai phóng bút "nổ" to quá! Cái câu nói: "- Có lẽ nó thả bom vướng vào cây nhiệt đới, thủ trưởng ạ"?! Đã nói lên tất cả.

Riêng vụ này thì ANTG nói đúng bác bob ạ ;-)

Thống kê Mỹ chép chiếc này là  F-105D, số đuôi 60-0451, đang bổ nhào đánh 02 khẩu 105mm của Pathet Lào thì bị trúng đạn vũ khí bộ binh tự động.  Phi công Đại úy Douglas F. Mahan không nhảy dù, hài cốt tìm thấy ngày 05/07/1972.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: bob trong 03 Tháng Giêng, 2012, 09:27:20 am

Riêng vụ này thì ANTG nói đúng bác bob ạ ;-)

Thống kê Mỹ chép chiếc này là  F-105D, số đuôi 60-0451, đang bổ nhào đánh 02 khẩu 105mm của Pathet Lào thì bị trúng đạn vũ khí bộ binh tự động.  Phi công Đại úy Douglas F. Mahan không nhảy dù, hài cốt tìm thấy ngày 05/07/1972.
Trường hợp máy bay phản lực Mỹ bị bắn rơi bởi súng bộ binh (AK, CKC) là có. Ý tôi muốn nói: Nhà báo nên "tô vẽ" hợp lý một chút, nếu không sẽ phản tác dụng. Ví dụ nói: "...Bom vướng vào cây nhiệt đói..." - không nổ!? ai tin! Nhất là các bác CCB đã biết về bom, biết cây nhiệt đới...!


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 21 Tháng Giêng, 2012, 10:46:24 am
Mùa xuân chiến trường

(Xin tạm ngắt mạch chuyện để nói về mùa xuân chiến trường…)
   
       Những người lính chúng tôi ai cũng từng trải qua vài mùa xuân chiến trường. Dù là trong lúc đạn bom ác liệt thì thể nào cũng dành ra được ít phút để bồi hồi đón xuân, để nhớ về những cái tết ngày còn ở nhà bên bố mẹ, anh chị em, được hồ hởi đón xuân dù vật chất thật khiêm tốn.

   Với chúng tôi, tết chiến trường thì vào thời điểm giao thừa không có khi nào phải ngồi bên chiến hào. Có bận rộn chăng thì cũng chỉ là ở một cánh rừng nào đó chuẩn bị cho trận đánh sắp tới mà thôi. May mắn là mấy cái tết chiến trường, tết nào chúng tôi cũng được hưởng hương vị xôi nếp. Không có bánh chưng nhưng cũng thổi được nồi xôi nóng mà quây quần với nhau.

   Lúc bom đạn ác liệt quá không nói làm gì, nhưng lúc không có đạn bom hay không phải chuẩn bị chiến trận thì có thể nói bộ đội Trường Sơn là đàng hoàng nhất. Chúng tôi không có được cái đầm ấm của bộ đội B2 ăn tết trong lòng dân, nhưng xét về khoản tự mình tổ chức thì thật không đâu bằng lính 559.

   Cái tết 1974 chúng tôi đã được hưởng như thế. Lúc ở nhà cùng bố mẹ, đêm trước giao thừa (thậm chí là chính trong đêm giao thừa) ngồi đun nồi bánh chưng thì cũng do mẹ gói mà có. Nay vào lính mình tuy vụng về, nhưng bù lại những người lính cũ tháo vát thì rất nhiều. Chúng tôi vào những khe núi hái dong, bạt ngàn tha hồ chọn lá to lá đẹp. Giang và nứa chẻ lạt thì chả nơi nào thiếu. Chúng tôi cũng ngâm gạo, đãi đỗ, mổ lợn gói bánh chưng và làm đủ các  món ăn. Có thể nói là so với ở nhà thì sung túc hơn rất nhiều. Lính tráng nhiều thằng gói bánh không cần khuôn mà cũng rất chặt và đẹp. Chúng tôi đào hố làm bếp (chả phải bếp Hoàng Cầm gì sất) rồi chất củi gộc đun bánh chưng trong những cái thùng phuy cắt bỏ một phần ba. Thùng phuy tìm ngoài trận địa nhiều vô số. Phải cắt bớt cho giống cái nồi thì khi luộc bánh chứng nó mới đều. Để nguyên cả thùng sâu xếp bánh mà không đảo thì bánh chưng ở dưới nát, còn bánh chưng ở trên không rền. Có thể nói bánh chưng nấu ngon nhất phải đun bằng củi gộc chứ không phải bằng than hay dầu.

   Cuộc sống tinh thần cũng rôm rả. Nhiều thằng có hoa tay, chúng tôi làm bích báo thi giữa các trung đội. Rồi đêm giao thừa liên hoan văn nghệ, tự biên tự diễn tự hoan hô mà ai cũng cháy hết mình.

   Không thể không kể đến chuyện trang trí lán trại. Hoa rừng Trường Sơn, nhất là phía Tây bên đất Lào thì thật phong phú. Người Lào ăn tết vào 14-16/4 dương lịch theo Bun hót nạm (Tết té nước), khi đó với họ chỉ có hoa Chăm pa. Còn Tết Nguyên đán của ta thì họ không mấy quan tâm. Mà rừng Lào lại thừa hưởng đào rừng rất nhiều và đẹp, toàn đào phai. Chúng tôi mò vào rừng chặt về trang trí khắp quanh lán. Mai rừng Trường Sơn cũng không thiếu, tuy chỉ là cây rừng chứ không phải mai thế trồng trong chậu. Nhiều tiểu đội lấy mai vàng về trang trí, trông cũng đẹp mắt. Nhiều thằng cầu kỳ còn mò vào rừng kiếm những giò phong lan về treo trước lán. Có thể nói là lán trại giữa rừng mà đẹp đến xao xuyến lòng những thằng lính xa nhà, làm ấm cúng thêm cảnh tết rừng. Các lính A cối còn bày trò tìm về trận địa cũ kiếm dù hàng (dù ca-rô xám) về căng trước sân tiểu đội, lại càng tăng thêm vẻ đẹp chiến trường (nói thật là tôi có cảm giác như dù căng ở hầm chỉ huy trên cánh đồng Mường Thanh thời Điện Biên Phủ ấy).

   Bây giờ tết về, nhiều khi ngồi ôn lại chuyện xưa lại mong được hưởng lại cái tết Trường Sơn năm đó, được hát hò nghiêng ngả cùng đồng đội mà đối với nhiều người, đó là cái tết cuối cùng vì họ đã phải mãi mãi nằm lại chiến trường vào những ngày chiến trận của mùa mưa năm đó.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 10 Tháng Hai, 2012, 11:23:29 am


   Cao nguyên Boloven hùng vĩ, tình sâu nghĩa nặng tưởng chừng sẽ mãi mãi lùi vào dĩ vãng, thì bất ngờ tôi lại được trở lại nơi đó. Không chỉ một mà là hai lần, toàn đi theo kiểu công tác lẻ. Cấp trên cũng chỉ tổ chức vớt vát và có phần khá vội vàng vì nghe tin trung đoàn sẽ được bổ sung quân số cho gần đủ với biên chế chính quy và còn phải huấn luyện tân binh cho kịp nữa. Chả biết sẽ đi đâu, nhưng trong tiềm thức, chúng tôi chưa hề nghĩ đến chiến trường miền Nam.

   Đầu tháng 9/1973, bảy chiến sĩ trong đại đội do B trưởng B4 Tuyền chỉ huy nhận lệnh lên đường trở lại Cao nguyên. Nhiệm vụ của chúng tôi là tìm lại vị trí ngày trước ở Khoong xedon đơn vị đã bắn được một con gấu và chỗ Nam đường 23 bắn được con hổ. Thịt thì đã ăn rồi, nhưng ngày đó chúng tôi cũng đã tập trung xương vất vào sau bếp anh nuôi. Bây giờ chúng tôi phải quay lại đó tìm bới xương hổ, xương gấu đem về nộp cho trạm xá trung đoàn để nấu cao. Hầu như tất cả các đơn vị trong trung đoàn, nếu có bắn được mấy loại thú trên (kể cả bò tót nữa) khi trước thì đều phải cử người quay về tìm xương.

   Sau nhiều ngày mưa nằm dầm dề và công tác vớ vẩn quanh đơn vị, nay chúng tôi được đi công tác lẻ thì thật như chim sổ lồng. Nhiệm vụ chả có gì là nặng nề cả. Chỉ là tìm được xương quý hay không mà thôi. Ra khỏi khu vực tiểu đoàn, đến con đường cái to (đường đất) là đã thấy chân tay ngứa ngáy lắm rồi. Chúng tôi đi ào ào nhằm hướng Paksoong. Trời tạnh, nhìn trời xanh bao la thấy mình như người tự do, làm chủ đất trời. Cả bảy người đều mang AK, như vậy là không có đánh nhau gì sất, chỉ có tự bảo vệ mình với thú dữ thôi.

   Chúng tôi xác định ngày đi đêm nghỉ. Chỉ trú quân ở rừng ven đường chứ không cần vào nhà dân. Vào đấy thì cũng có xin xỏ được gì đâu, vì mọi thứ của dân đều ở ngoài nương. Đối với chúng tôi thì kiếm chác ngoài nương tốt hơn, vì chúng tôi quen như nhà của mình rồi. Chủ yếu cũng chỉ là rau cỏ cải thiện, còn chúng tôi xác định sẽ kiếm thịt từ thú rừng. Trong nhóm cùng đi có anh Sơn bắn hổ ngày trước là người dân tộc thì yên tâm rồi. Chúng tôi dự định vào trong Lào Ngam trước, nơi đó tuy có gần địch một chút, nhưng nhiều thứ còn hoang vu. Vụ bắn hổ mới xảy ra có một năm thì khả năng tìm thấy xương dễ hơn.

   Dọc hai bên đường 23, mới chỉ có một số bản dân hồi cư thưa thớt. Càng vào sâu trong cao nguyên thì mức độ càng thưa thớt hơn. Người Lào vốn dân số ít, khi đã tản cư vào Pakse làm ăn ổn định rồi thì chẳng mấy ai muốn về vội nơi cũ, vì chiến tranh chắc gì đã hết hẳn. Cả mấy chục cây số hoang vu chẳng có ta hay địch. Cây cỏ mọc lan tràn ra đường, chắc từ trên máy bay nhìn xuống chỉ còn thấy một vệt nhỏ tựa như con đường mòn. Trên cao nguyên Boloven đặc biệt hai bên đường có rất nhiều cây mâm xôi và cây xấu hổ. Loại cây cành nhánh này mọc lan rất nhanh. Chúng tôi nhằm giữa đường mà đi, nhưng nhiều chỗ cũng phải đem dao tông ra phát bớt lấy đường. Lối vào các bản cũ vẫn dễ nhận ra, dù nơi đâu cây cối cũng um tùm. Chúng tôi nghỉ một đêm ngay tại thị trấn Paksoong. Chỗ này mà chịu khó lần mò chắc cũng còn khối thứ hay hay, mặc dù dấu vết của dân Lào trở lại khu căn cứ của bọn lính Thái năm trước để bòn mót các thứ dùng được đem về bản khá rõ. Thế nhưng nhiều khi có thứ cần với lính thì dân họ lại không cần. Tuy thế, chúng tôi không có nhiều thời gian, anh Tuyền lại lo nhỡ dẫm phải mìn nên không cho chúng tôi sục xạo nhiều. Lúc này chúng tôi nghỉ dưới một cái nhà sàn bỏ, chỉ ra loanh quanh một tý là đủ các thứ rau mọc hoang. Cơm canh có thêm thịt hộp, thế là tươm lắm rồi. Anh Tuyền vốn cẩn thận nên trong chuyến đi này, đêm nào chúng tôi cũng phải cắt cử canh gác.

   Mấy chục cây số dọc theo đường 23, chúng tôi được nếm lại nhiều thứ hoa quả mà chúng tôi đã từng lấy cải thiện hồi mùa mưa năm ngoái. Có điều khi thiếu bàn thay người chăm sóc của con người thì cây gì rồi cũng thoái hóa dần, quả nhỏ hẳn đi. Anh Sơn vẫn nhớ vùng đất ngày trước chúng tôi được bắn bò và ngựa bỏ hoang của dân bản để cải thiện. Ngày ấy chúng tôi bắn đã gần hết, con vật đi hoang thì ngày càng tinh khôn hơn nên bây giờ chúng tôi chẳng hy vọng bắn được bò hay ngựa. Nhưng thú rừng khác thì rừng càng hoang vu thiếu bóng người, chúng càng dễ xuất hiện. Anh Sơn mò ra một vùng rừng ven suối, tìm dấu vết và bắn được hai con chồn. Hy vọng bắn được con hoãng cơ vì thịt loại này mới ngon. Ở khu bản Tùm nho chúng tôi thường xuyên bắn được lợn rừng nên bây giờ cũng muốn đổi món. Hai con chồn cho bảy người ăn cũng không phải là nhiều lắm. Anh Tuyền bảo có thịt chồn là tuyệt rồi, chúng mày cứ được voi đòi tiên. Tất nhiên là như thế, nhưng đi lẻ một mình, nhất là vào Cao nguyên thì chúng tôi tất phải mong nhiều hơn mới bõ.

   Anh Sơn ăn mà không nói gì, nhưng trong bụng đã ngầm có ý định. Anh ấy bảo nên đi vòng một chút rẽ ra phía bản dân có người để hỏi thăm tình hình và kiếm ít rượu uống. Có lẽ anh Tuyền cũng là lính cũ có cỡ nên kinh nghiệm nhiều, tán thành luôn. Thế là chiều hôm sau chúng tôi đi qua một bản dân ở khu Fakcut. Cầu được ước thấy. Hôm ấy chúng tôi phải dồn tiền ra mấy trăm "kíp" để mua một bi đông rượu của dân, nhưng khoản thịt tưởng còn phải chờ đi săn thì bỗng dưng lại gặp may. Chiều đó dân bản bắn được một con hoẵng khá to. Vì chúng tôi dừng lại nghỉ tại bản, nên theo phong tục của họ (một phong tục quá tốt cho khách qua đường mà không phải nơi nào cũng có) cũng được coi như một gia đình và được họ chia cho thịt săn được. Cũng phải đến ba cân chứ không ít. Thế là đêm đó vừa được ở nhà sàn ấm cúng, đốt lửa tưng bừng và có rượu thịt để xơi. Cảm ơn một phong tục mến khách của các bộ tộc Lào, mộc mạc và đáng yêu làm sao.

   Chia tay dân bản, sáng sau chúng tôi lại lần mò nhằm đường 23 thẳng tiến. Anh Sơn đã thăm dò được nhiều tin tức và hạ quyết tâm đợt này phải bắn được một con hoẵng. Của rừng đãi mình mà không biết tận dụng cơ hội thì thật xoàng. Gì chứ cái quyết tâm này thì chúng tôi giơ cả hai chân hai tay lên mà biểu quyết. Nhưng tất nhiên là phải có thời gian. Tới một cánh rừng ở Nam đường 23 gần đối diện với khu bãi đá, một căn cứ đóng cỡ đại đội của địch, đã bị tiểu đoàn tôi nhổ gọn từ tháng 2 năm trước thì chúng tôi chia làm hai tốp. Anh Sơn dù là người bắn hổ khi xưa, nhưng vẫn phải ở lại khu rừng đó cùng hai lính để tìm bắn hoẵng. Còn lại bốn người do anh Tuyền chỉ huy thì lần tìm về khu trú quân cũ tìm xương hổ. Đám xương ngày đó vất ở sau bếp anh nuôi nên cũng dễ tìm hơn vì hầu như tất cả chúng tôi đã từng ở đó. Tôi đi theo nhóm anh Tuyền vì dù sao ngày trước đã làm liên lạc cho đại trưởng Băng, cũng được đi lại và khá quen vùng này. Đợt đi đó chúng tôi không gặp địch. Có lẽ bọn địch lấy ngã ba Lào Ngam làm mốc, cùng lắm chúng cũng chỉ đóng quân ở cái khu căn cứ của tiểu đoàn Thái 621 ngày nọ thôi, thế thì chúng tôi còn cách xa lắm. Trong rừng mà cách nhau đến cây số có thể coi là đã xa lắm rồi. Nhất là cả năm trời qua bộ đội Bắc Việt rút ra mãi tít ngoài dãy Trường Sơn đóng quân; địch nó cũng bỏ trống cả mấy chục cây số từ ngã ba Lào Ngam tới Păksoong không thèm ngó nghé đến thì bây giờ chắc chúng cũng chỉ đóng trong căn cứ, hàng ngày tập luyện vớ vẩn thôi chứ không vào rừng lùng sục. Vì thế mà chúng tôi yên tâm lắm. Những chỗ ngày xưa địch thả bom bay bắn pháo, bây giờ dấu vết gần như mất hết bởi cây cối đã xanh tươi trở lại. Có biết chắc và chính xác chỗ khi trước địch thả bom thì may ra mới tìm thấy chút ít cây cối gãy cành.

   Không khó khăn gì để chúng tôi tìm ra nơi trú quân ngày trước, dù mọi thứ của cái bếp cũ đã gần như mục nát. Vất vả chỉ là phần tìm bãi đất đã đổ xương hổ. Chúng tôi chia nhau đào bới đất tìm, vừa bới đất vừa vục tay bóp đất tìm xương. Cũng may là những con thú đơn vị bắn được như gấu hay hổ ngày đó,  anh nuôi chỉ lọc thịt rồi nấu ăn chứ không chặt xương đem hầm rồi chia cho các tiểu đội gặm nên đám xương cũng chỉ vất tập trung ở đâu đó thôi. Mất gần nửa ngày trời rồi chúng tôi cũng tìm ra, nhưng phải đào và bọc rất nhiều đất đem xuống suối đãi, vì ngày trước vất bừa xuống hố đất chứ ai ngờ có ngày phải quay lại tìm mà tập trung vất thật gọn. Một năm trời trong đất ẩm không bị mục nát, xương hổ vẫn còn khá cứng. Chúng tôi rửa sạch sẽ mà cũng được một bọc khá to. Anh Tuyền bảo mình rửa đất mang cho nhẹ thôi, chứ khi về nhà, bọn ở trạm xá cũng còn phải cạo rửa lại chán mới đem nấu cao được. Thế là một nửa công việc đã hoàn thành, ai cũng hỉ hả.

   Chúng tôi lần về đến khu bãi đá gặp nhóm anh Sơn thì lại có ngay tin vui. Anh ấy đã bắn được một con hoẵng rất to. Có điều là con hoẵng ấy đang có mang. Kể ra cũng hơi tội nghiệp. Nhưng xét về quy luật sinh tồn, chiến thắng thuộc về kẻ mạnh thì tất phải vậy thôi. Nhóm anh Sơn đã làm thịt hôm trước và rán mấy cái bào thai chén trước, bổ bằng xơi cả con hoẵng rồi còn gì. Phần thịt còn lại rất nhiều. Tất nhiên thường bắn được thú rừng ở đây thì phải lột bỏ mất tấm da chứ không làm tất cả như ở nhà được. Đặc biệt tôi thấy anh Sơn chặt khúc đuôi (ngắn cũn) của con hoẵng ra rồi chia đôi đem nấu cháo một nửa cho cả tốp bảy người chén. Tôi thấy thế là hơi ít, nhưng anh Sơn bảo giống nai hoẵng, ở con cái (nhất là con có mang) thì cái đuôi của nó bổ thượng hạng. Đem nấu nồi cháo từng này người ăn, chưa chắc đã tiêu hóa hết chất. Nếu tham mà hai ba thằng đem hầm rồi chén cả một cái đuôi nai (hoẵng) cái thì dù có sắp chết đói như năm 1945 thì rồi người cũng béo nứt ra; da dẻ nứt toắc chảy máu rồi nhiễm trùng mà chết. Nghe mà thấy hãi. Hóa ra trong rừng còn có nhiều điều bí ẩn thật. Không có các anh lính dân tộc chỉ bảo mà cứ phàm ăn như hảo hán Lương Sơn thì thật là có ngày chết vì ăn, quá xấu hổ. Nửa cái đuôi còn lại anh Sơn bảo vài bữa nữa nấu ăn nốt cho nó an toàn. Ngày hôm đó chúng tôi nướng thịt hoẵng ăn thoải mái một bữa. Tôi không uống được mấy rượu nên chỉ ăn, còn các anh khác kêu chưa khoái lắm vì hơi ít rượu. Nhưng thôi, còn đang phải làm tiếp nhiệm vụ cơ mà. Với lại như thế này so với bọn ở nhà là sướng hơn nhiều lắm rồi.

   Ngày hôm đó do cơm no rượu say nên chúng tôi nghỉ lại cánh rừng đó. Số thịt hoẵng còn lại đem sào mặn để giữ. Một phần khá lớn đem hơ lửa sấy khô để giữ cho lâu hơn. Của này sau này đem về hậu cứ làm quà hay nướng chén lúc nhàn cư thì không gì bằng.

   Sáng sớm hôm sau chúng tôi lên đường, nhằm hướng Khoong Xedon thẳng tiến. Chúng tôi đã xa đơn vị gần một tuần rồi. Chắc cũng phải từng ấy ngày nữa mới xong nhiệm vụ.

   Khoong Xedon là vùng đất nằm giáp Tây Nam Saravan, dính một chút vào những dãy núi đá thấp của cao nguyên Boloven, nhưng toàn rừng già và rậm. Phần phía Tây của nó giáp vùng dân cư ven đường 13 bên dòng Mekong rộng lớn. Sang bên kia sông Mekong là vùng đất của Thái lan rồi. Từ đây đi xuống Păkse, thủ phủ của tỉnh Chămpaxac cũng không bao xa. Có điều, nó không có thế chiến lược như cao nguyên Boloven nên từ sau năm 1970 khi ta giải phóng thì vùng đất này gần như là vùng trắng. Chỉ con dân cư lưa thưa, không có lính của bên nào chiếm đóng. Khi chúng tôi còn ở trong cao nguyên Boloven, mường Khoong xedon cũng là cái đích đến của những tốp lính hậu cần của các đơn vị đi mua lợn. Lợn ở đó nhiều và rẻ, còn hơn cả ngoài Saravan.

   Đường đến Khoong xedon phải đi xuyên qua nhiều vùng đất trù phú của cao nguyên Boloven. Trong số nhiều bản dân thì bản Sen Vàng là một cái bản lớn nhất mà tôi gặp. Trong bản có đến hơn ba chục nóc nhà. Toàn nhà sàn to, cột gỗ nguyên cây. Gỗ thưng quanh nhà cũng là tấm gỗ lớn được xẻ ra. Nơi đây không có tí dấu vết gì của chiến tranh. Hầu hết các nhà sàn được lợp gỗ hoặc ngói. Đường đi lối lại quang đãng, sạch sẽ và bằng phẳng. Có rất nhiều khoảng đất rộng như cái sân chơi. Điều đặc biệt là ở bản này có một cái chùa rất to và đẹp. Chúng tôi quyết định dừng chân nghỉ lại đây một ngày để tắm giặt và dưỡng sức. Trong rừng thì nơi đâu mà chả có suối trong nước mát để tắm, nhưng con suối chảy qua cạnh bản này cũng thật đẹp và sạch sẽ bởi cả một khúc dài lòng suối toàn đá sỏi. Chúng tôi tán thành ngay quyết định của B trưởng Tuyền. Tôi còn háo hức hơn nữa vì cũng muốn thăm ngôi chùa.





Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: quangcan trong 10 Tháng Hai, 2012, 11:37:57 am
Trích dẫn
Khoong Xedon là vùng đất nằm giáp Tây Nam Saravan, dính một chút vào những dãy núi đá thấp của cao nguyên Boloven, nhưng toàn rừng già và rậm. Phần phía Tây của nó giáp vùng dân cư ven đường 13 bên dòng Mekong rộng lớn. Sang bên kia sông Mekong là vùng đất của Thái lan rồi. Từ đây đi xuống Păkse, thủ phủ của tỉnh Chămpaxac cũng không bao xa. Có điều, nó không có thế chiến lược như cao nguyên Boloven nên từ sau năm 1970 khi ta giải phóng thì vùng đất này gần như là vùng trắng. Chỉ con dân cư lưa thưa, không có lính của bên nào chiếm đóng. Khi chúng tôi còn ở trong cao nguyên Boloven, mường Khoong xedon cũng là cái đích đến của những tốp lính hậu cần của các đơn vị đi mua lợn. Lợn ở đó nhiều và rẻ, còn hơn cả ngoài Saravan.

Muang Khong Xedon của bác Trongc6,  ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 24 Tháng Hai, 2012, 10:21:31 am

   Ngôi chùa bản Sen Vàng làm toàn bằng gỗ to đẹp và có dáng dấp quen quen như đã từng nhìn thấy. Nhưng to và đẹp hơn tất cả các ngôi chùa làng mà tôi đã gặp. Quả thực là ngày ở nhà tôi hầu như không coi trọng chuyện đi chùa, ngôi chùa làng tôi thì bé không đủ chứa dân cả xóm cùng vào một lúc.

   Quanh chùa không có rào cổng gì cả, Từ đường hay vườn xung quanh có thể luồn qua những hàng cây đi tắt vào. Ngoài phần sân to trước chùa, còn lại xung quanh chỗ nào cũng có những sân đất nện. Quanh chùa chỗ nào cũng có cây hoa Đại (hoa Chăm pa). Loại hoa này ở Việt nam cũng thường thấy trồng ở sân chùa. Có điều ở đây trồng rất nhiều, cây rất to. Cảnh chùa đẹp như khu nghỉ dưỡng.

   Hôm đó trời không mưa, tôi thấy chỗ sân cạnh chùa có một đám sư trẻ con gần hai chục đứa đủ mọi lứa tuổi. Đứa bé chỉ sáu bảy tuổi, còn thằng lớn nhất chừng mười lăm, đều là con trai. Chúng chỉ giống nhau ở cái đầu trọc. Chùa có một sư thày trụ trì tuổi khá cao, có một số người nữa làm ở chùa. Tôi thấy lạ vì sao toàn thấy sư trẻ con, mà lắm thế. Lân la hỏi chuyện thì được biết phong tục của Lào, đàn ông mà không muốn đi tu cả đời như sư thì ai cũng phải qua 3 năm làm sư ở chùa. Cái này giống như một chế độ nghĩa vụ, kiểu như nghĩa vụ quân sự của ta. Có điều tùy sự sắp xếp của từng gia đình, đi tu 3 năm vào tuổi nào cũng được. Đa phần dân Lào họ chọn cho con mình đi từ lúc trẻ con, để khi lớn còn lao động. Nội dung đi tu "nghĩa vụ" cũng thật nhân văn. Đó là thời gian nhà chùa giáo dục cho người ta nhân cách con người. Từ chữ viết đến văn hóa… Phong tục hay thế nên người Lào nhân ái cũng phải.

   Tôi chơi cả một buổi sáng với đám sư trẻ con, chúng nó cũng biết nhiều trò chơi như trẻ con bên ta. Các anh lính cũ chỉ nghé qua chùa một lúc rồi mò vào nhà dân tán gái và xin thuốc lá (thuốc rê). Vùng này khi trước bộ đội ta qua cũng nhiều nên dân rất dễ quen. Chúng tôi xin được khá nhiều thuốc lá. Buổi trưa chúng tôi ra suối tắm, một mình làm chủ đất trời vì dân Lào không ra tắm buổi trưa. Tối hôm đó chúng tôi nghỉ nhờ ngay tại chùa, sư thày cũng rất dễ tính. Chúng tôi còn được mấy cô gái bản đem cà phê đến cho uống. Thú thực là cũng hơn nửa năm rồi mới có cà phê. Sân chùa cũng như sân HTX bên mình, ngồi chơi nói chuyện tự nhiên như chỗ sinh hoạt cộng đồng, chả kiêng cấm điều gì. Mãi khuya chúng tôi mới đi ngủ. Đêm hôm đó là một đêm thảnh thơi, ngủ ngon vì không phải gác, nhưng cái cảm giác sướng nhất là như ở làng quê mình. Các anh lính cũ cũng chỉ tán gái vơ vít cho vui chứ không làm chuyện gì đáng trách.

   Hôm sau chúng tôi cơm nước đàng hoàng rồi mới lên đường. Dọc đường đi còn qua vài cái bản nhỏ nữa, nhưng chúng tôi chỉ dừng chân nghỉ giải lao chút ít rồi đi luôn. Anh Tuyền xác định từ đây lại tiếp tục ngủ rừng. Hai ngày sau thì chúng tôi đến vùng Khoong Xedon.

   Nơi này hoàn toàn xa lạ với tôi, vì ngày tôi được bổ sung vào đơn vị thì nơi đây đã giải phóng rồi và trung đoàn đã chuyển hướng về Paksoong. Vụ bắn gấu xảy ra từ năm 1971. Trong số 7 người chúng tôi chỉ có anh Tuyền và anh Sơn biết vùng này. Con gấu chính là do tiểu đội anh Tuyền bắn được.

   Vùng này dốc núi không cao, nhưng rừng rậm toàn cây to. Gỗ rừng đủ loại, có nhiều cây gỗ quý. Đấy là nghe các anh ấy giảng giải chứ tôi không biết nghề mộc nên chỉ biết lõm bõm được vài loại gỗ chính mà thôi. Đi trong rừng ở đây có cảm giác rất lạ. Phải chăng vì ít phải leo trèo, địa hình rất rộng mà lại khá bằng phẳng nên tôi có cảm giác như mình đang ở cánh rừng của một câu chuyện cổ tích nào đó vậy. Tôi có cảm giác như trong cánh rừng này có nhiều hạt dẻ và nấm, có nhiều bầy ong làm tổ nên mới có gấu sống ở đó.

   Quả đúng là vậy. Ngày ở hậu cứ Xăm xi Núc, trong chỗ đơn vị tôi trú quân cũng có hai cây hạt dẻ cổ thụ, thu hút bọn chồn sóc đến rất nhiều. (Một lần tôi đã kể là anh Hùng C phó bắn được một con chồn ngay giữa nơi trú quân, nhân lúc cả đơn vị đi gùi gạo vắng). Ở đây có rất nhiều dẻ, quả có phần to hơn. Nhẩn nha mà nhặt quanh gốc thì cũng được vô khối. Tuy thế ở đây không có nấm như trong chuyện cổ tích, nhất là nấm hương. Còn nấm dai trên các cây gỗ mục và nấm mối thì chẳng nói làm gì, vùng rừng nào mà ít nhiều chẳng có. Chỗ hậu cứ Tùm Nho, nấm mối gây ấn tượng hơn nhiều. Rừng ẩm ướt, lắm cây lá mục nên chỉ dọc con đường chúng tôi lên tiểu đoàn cũng có nhiều nấm mối. Nấm mối là loại nấm lành, rất ngon. Có điều là vòng đời của chúng rất ngắn. Buổi sáng nhìn thấy mũ cây nấm nhô lên độ vài phân trên mặt đất là đã phải theo dõi canh chừng rồi. Chỉ độ đến gần trưa là cây nấm đã mọc cao hàng hơn gang tay, có cây thân của nó to cỡ ngón chân cái. Còn mũ nấm thì xòe to như cái đĩa sắt tây. Lúc chóp mũ nấm có màu nâu nhạt, khô mịn là lúc phải thu hoạch ngay. Độ ba cây nấm như thế thì cả trung đội bảy người có một bữa chén ngon lành, đã miệng. Nếu không phát hiện ra thì sang buổi chiều, muỗi, dĩn và những con bọ gì đó tìm đến ăn. Đã nhiều lần chúng tôi lúc đi qua buổi sáng chỉ thấy cái mũ nấm bé tẹo, không chú ý đến, nhưng chiều về thì ôi thôi, cả một cấy nấm mối to đùng, mỡ màng đã bị sâu bọ chén và cây nấm đã bắt đầu thối rữa ra rồi. Chính các anh lính dân tộc cũng bảo đặc biệt ở đây có nấm mối to như thế, chứ ở rừng nhà các anh ấy cũng thường chỉ có nấm mối mà mũ to cỡ lòng bàn tay thôi.

   Vùng rừng Khoong Xedon không có nhiều nấm mối to, nhưng ong mật thì chắc chắn có. Có điều anh Sơn bảo là bây giờ còn đang mùa mưa, cây rừng ít hoa thì tổ ong không có nhiều mật. Muốn đi "ăn" ong (tức là đi rừng lấy mật ong) thì phải độ tháng năm tháng sáu cơ. Lúc ấy hoa nhiều, ong mới làm nhiều mật đặc và chất lượng. Anh Sơn bảo trong rừng có nhiều loài ong làm mật. Bé như con ong ruồi làm tổ trong các ụ đất mối cũng có, nhưng mật của nó cả một tổ vắt ra chỉ được độ một bát là cùng. Tuyệt vời nhất của rừng là ong Khoái, làm tổ trên các chạc cây to cao cách mặt đất cỡ năm bảy mét. Giống ong này thân to như cái đầu đũa. Tuy nó chỉ làm tổ có một "kèo", nhưng to như cái nong, mật ong vắt ra sánh vàng, thu được cỡ trên chục lít mật là thường. Nghe kể thôi mà thèm. Anh Sơn bảo cứ yên chí, nếu còn ở rừng thì thể nào cũng có lúc anh ấy dẫn đi "ăn" ong cho mà biết. Tôi tiếc, nhưng cũng mong có ngày đó để mở mang cho biết chứ đúng là dân thành phố, nghe kể chuyện gì về rừng cũng mắt tròn mắt dẹt.

   Có bản đồ trong tay mà anh Tuyền còn phải loay hoay đến cả ngày trời mới "lạ nhỉ", "ô kìa" rồi "đây này" để phán đoán chỗ đơn vị đóng quân ngày trước. Dấu vết hầu như chẳng còn gì ngoài mấy cái hầm đã sập, đất lấp gần đầy. Chúng tôi chẳng biết gì, cứ lọ mọ theo sau anh ấy. Phán thế nào thì nghe vậy, chẳng biết đằng nào đúng sai mà lần. Ngay cả dấu vết mấy cái hầm thì cũng có thể đoán là ngày xưa quân ta ở đây thật, nhưng có đúng là cái chỗ ở của C6 và bắn được con gấu không thì chỉ có há mồm chờ nghe anh Tuyền khẳng định. Hy vọng anh tuyền nhớ được là chính. Lại mất một đêm mắc võng trú quân, khơi bếp nấu cơm ăn. Buổi tối chẳng có đèn đóm gì mà bàn bạc, với lại giữa rừng âm u thế này mà không kín đáo thì có khi cũng nguy hiểm. Chúng tôi cứ việc ngủ ngon, chỉ có anh Tuyền là trằn trọc để suy tính và phán đoán tiếp vì trách nhiệm bây giờ đặt lên vai anh ấy là chính.

   Sáng hôm sau, anh Tuyền bảo, "chỉ có chỗ này thôi chúng mày ạ. Vì cả C chỉ ở tập trung chứ có đi đâu nữa đâu". Chúng tôi ăn cơm, không nói gì nhiều để cho anh ấy đỡ rối. Cơm nước xong rồi, anh Tuyền lại phải lấy giấy bút ra vẽ lại từ trong trí nhớ cái sơ đồ đại đội đóng quân ngày đó. "C bộ chỗ này, các B những chỗ này, bọn cối 60 đằng kia, còn phía suối là bếp anh nuôi..."

   Theo tôi cái may nhất là bếp anh nuôi bao gờ cũng bố trí ở gần suối, dù cho đó là suối to rộng hàng chục mét hay chỉ là cái lạch nước rộng hơn chục phân. Khi tìm được chỗ đóng quân của đại đội rồi, thì cứ men theo suối mà xác định chỗ bếp anh nuôi. Chỉ phiền một nỗi là nhiều khi anh nuôi C tôi chỉ làm bếp Hoàng Cầm "một nửa", nghĩa là bỏ đi phần hầm om và thông khói, nên dấu vết còn lại của nó sau hai năm thật mờ nhạt. Nói thì vậy, nhưng tốt hơn là phải làm. Thế là theo trí nhớ và phán đoán của anh Tuyền, chúng tôi hùng hục đào chỗ anh ấy chỉ. Đào rộng đến hai mét, xới sâu một mét. Không thấy lại đào rộng tiếp. Chỗ này không thấy, anh Tuyền lại nhăn trán nhớ, đoán rồi lại chỉ chỗ khác. Cứ thế cả ngày hôm ấy chúng tôi đào có tới bốn chỗ khác nhau. Tới chỗ cuối cùng, anh Sơn bóp đất và phán là "có cái gì đó giống xương chúng mày ạ". Thế là mừng rú và lại hăm hở đào, bọc cả mấy bọc đất lại và đem ra suối đãi.

   Chẳng ai có kinh nghiệm về món "xương cốt học", thành ra cứ đào và đãi thấy xương là mừng rồi. Tôi cũng "ù ù, cạc cạc" về cái khoản xương này nên cứ cắm đầu làm. Nói dại chứ nếu ngày trước ở đây ngoài chuyện thịt con gấu mà đơn vị còn làm thịt cả lợn nữa (Lợn mua của dân do hậu cần D cung cấp), thì trong cái đám xương nháo nhào này cũng không thể phân biệt được đâu là xương lợn, đâu là xương gấu. Thôi cứ coi như xương gấu đi cho nó vui vẻ, mọi chuyện khác, hậu xét. Tôi không nói ra nhưng thầm nghĩ trong bụng, nếu không tìm ra chính xác xương gấu thì cái tội này cũng chẳng thể khép vào mục nào được. Nước sông, công lính, nhiều lúc cũng phải đổ đi chứ có phải lúc nào cũng dùng được đâu. Chắc các anh khác cũng nghĩ thầm như thế, nên tối đó chúng tôi lại vui vẻ nấu cháo nốt nửa cái đuôi hoẵng liên hoan. Buổi tối quấn thuốc rê hút mù trời.

   Nhiệm vụ coi như đã hoàn thành, chúng tôi lên đường trở về hậu cứ. Những ngày thảnh thơi và tự do sắp chấm hết, chuẩn bị chui vào khuôn phép. Lúc đi thì thấy dài chứ lúc về mau lắm. Cứ theo các đường xe bò liên bản của dân mà đi. Lúc về chúng tôi toàn nghỉ đêm trong bản dân, vừa đỡ phải canh gác, vừa xin cái ăn. Lúc này gạo chúng tôi mang theo đã cạn. Được cái dân Lào mến khách và có phong tục lạ nhưng lại hay. Buổi sáng dậy họ thường nấu xôi và cho vào những cái "tuyp" nhỏ (đan bằng tre, kích thước na ná như cái cặp lồng của ta). Mỗi người một "tuýp" ăn trong cả ngày. Thế nhưng không bao giờ họ ăn hết sạch, mà thường để lại dưới đáy "tuýp" một nắm nhỏ to cỡ quả trứng vịt. Đó là do phong tục, với quan niệm rằng làm như thế để của ăn "không bao giờ hết" đối với họ. Chỗ xôi ấy họ dùng tiếp vào nồi xôi sáng sau, nhưng nếu có khách thì họ lại có thể đem cho hết mà không có vấn đề gì. Vậy là chúng tôi vào cuối chiều rẽ lại dừng chân ở bản, thì chỉ xin vài nhà là đủ ăn cho cả bọn. Thức ăn thì chúng tôi tự lo, chấm muối hoặc ăn thịt của mình mang theo. Dân Lào họ cũng có món chấm, nhưng lính ta không quen. Món "Phà đẹt" nổi tiếng (na ná như món "bò hóc" của Campuchia) thực chất là một loại thịt ươn thối vì ướp rất ít muối, ngửi nó có mùi khăn khẳn thì dù đói cũng khó mà nuốt được. Còn món chấm đơn giản khác là bắt bất cứ con côn trùng gì (Dân Lào rất thích bọ hung và bọ xít). đem vặt cánh rồi giã sống với muối và ớt thành một thứ hỗn hợp ươn ướt rồi vê xôi chấm ăn, thì chúng tôi cũng thấy nó tanh ngòm, ghê ghê.

   Những buổi trưa, chúng tôi dừng chân nấu gần nương của dân. Vừa dễ kiếm rau, vừa dễ tự nhiên thưởng thức. Nói chung, lấy các thứ rau quả của dân Lào mà chỉ tỉa, đừng vặt trụi kiểu "hủy diệt" thì cũng chẳng có ai kêu.

   Chúng tôi về đến nhà, nộp mấy túi xương lên tiểu đoàn để chuyển lên trạm xá trung đoàn. Nhiệm vụ coi như xong.

   Về sau, trạm xá trung đoàn có nấu cao thật. Không có ai kêu ca xuống dưới về các loại xương thú mà các đơn vị mang về nộp. Rồi y tá mỗi đại đội cũng được phát một lạng cao. Cục cao to gần như bao thuốc lá, màu nâu nhạt, hơi dẻo như cái đế dép bằng kếp. Nhưng các anh dân tộc xem rồi bảo đây là cao toàn tính, chắc nấu ra từ nguyên thân những con khỉ. Có thể do xương thú ít quá không đủ nấu nhiều, nên trung đoàn phải nấu thêm cao toàn tính để đủ phát tới các đại đội. Cục cao đó về sau cũng chẳng biết các anh y tá đem ngâm rượu rồi cho những ai uống khi nào.



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: lexuantuong1972 trong 24 Tháng Hai, 2012, 02:20:29 pm

@Trongc6: Bên cạnh cái nghề ĐTVT của bác, theo tôi bác phải có 1 cái nghiệp nữa là nhà Lào học, có phải thế không bác ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: chienc3.1972 trong 24 Tháng Hai, 2012, 03:53:37 pm
@bop:
Trích dẫn
Các máy bay bổ nhào mà không thấy tiếng bom nổ. Vừa đẩy du xích lên thước ngắm 3, Tế phán đoán:

- Có lẽ nó thả bom vướng vào cây nhiệt đới, thủ trưởng ạ.

Tế tì nòng súng vào thân cây cụt, ghì chắc súng vào vai, hướng nòng súng về phía địch, chờ thời cơ.

Qua khe ngắm, một chấm đen cứ to dần rồi choán cả hết khe ngắm.

- Pằng pằng pằng… pằng pằng pằng… pằng pằng pằng…

Tế nháy cò điểm xạ ba lần liền, mỗi lần ba viên theo kiểu của những anh chàng bộ binh dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Chiếc máy bay lạng đi, kéo theo cột khói đen mỗi lúc một to rồi cắm thẳng xuống, mất hút trong màu xanh bát ngát của rừng già đại ngàn, để lại trên bầu trời vệt khói đen kịt đang loãng dần.

Theo tôi có lẽ là sai sót do gõ bàn phím thôi, có thể là... Có lẽ nó thả bom vướng và cây nhiệt đới, thủ trưởng ạ.
Cái hay và khó là điểm xạ ba viên một lần, lính bộ binh chưa được tập bài này... ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vetran trong 01 Tháng Ba, 2012, 03:23:53 pm

   Ngôi chùa bản Sen Vàng làm toàn bằng gỗ to đẹp và có dáng dấp quen quen như đã từng nhìn thấy. Nhưng to và đẹp hơn tất cả các ngôi chùa làng mà tôi đã gặp. Quả thực là ngày ở nhà tôi hầu như không coi trọng chuyện đi chùa, ngôi chùa làng tôi thì bé không đủ chứa dân cả xóm cùng vào một lúc.

   
   

Xin chào bác Trong C6. tôi theo dõi mấy bài gần đây và nhận thấy bác hiểu biết rất nhiều về  nếp sống, sinh hoạt, phong tục tập quan đất nước bạn Laos, nhất là những chi tiết sinh hoạt công tác của bộ đội mình. tôi xin bổ xung hai ý sau, mong các bác tham khảo:
- Về hiện tượng đã gặp trong một ngôi chùa và thắc mắc của bác là tại sao toàn thấy sư trẻ con. Theo tôi đó là một tập tục của các dân tộc vùng cao, cũng giống như tập tục của người Khơ me Kampuchea. Đó là tập tục (tu báo hiếu). Theo truyền thuyết, nguồn gốc việc tu báo hiếu của người Khmer xuất phát từ câu chuyện về hai mẹ con người Khmer. Vì chồng mất sớm nên người mẹ trong câu chuyện này phải thay cha làm nghề săn bắt để nuôi con. Là một đứa trẻ thông minh, có lòng nhân từ nên từ nhỏ khi thấy mẹ sát sinh hại vật tội lỗi, Socpenh Kokma - đứa con trai - đã trốn mẹ lên chùa gần nhà để xin được đi tu nhằm phần nào hóa giải tội lỗi giúp mẹ. Khi người mẹ chết, linh hồn của bà đã không bị quỷ dữ hành hạ dù bà đã sát sinh rất nhiều khi còn sống. Bà có được sự may mắn đó chính là nhờ đức độ tu hành của con mình đã giúp bà hóa giải những tội lỗi. Từ đó câu chuyện cảm động, người con trai Khmer đến tuổi trưởng thành đều đến chùa tu một thời gian để tạo phước báu cho cha mẹ như một cách báo hiếu công sinh thành dưỡng dục. theo đó những người con trai, để cộng đồng công nhận trưởng thành thì phải qua thời gian xuất giá, xuống tóc tu hành tại một ngôi chùa trong khu vực. Trước đây thời gian tu báo hiếu có thể tới mười năm nhưng nay do nhiều yếu tố tác động xã hội như hoàn cảnh mỗi gia đình, khả năng kinh tế và tác động những vấn đề cộng đồng xã hội mà thời gian tu có du di phù hợp, thậm chí từ lúc làm lễ nhập tu đến lúc hoàn tục chỉ có hai mươi bốn giờ đồng hồ.
- Vấn đề thứ hai là các loại xương thú mà các bác nhặt đãi trong đất chắc không còn giữ được các chất vì nó đã bị phân hủy do môi trường, còn cái loại cao mà cấp trên phát về cho quân y mỗi đại đội, có lẽ là cao trăn, cao khỉ hoặc một hay nhiều loại thú nhỏ và với kĩ thuật nấu (tồn tính)  với thời gian khoảng ba ngày, loại này tôi đã thực hành trên sáu tấn trăn tươi và khoảng vài trăm con cháu họ tôn già rụng hết răng ở biển hồ Kampuchea. Nói chung tác dụng dược lý cũng rất tốt tùy loại ứng vào lục phủ ngũ tạng (can, tâm, tỳ, phế, thận)  của cơ thể con người, nhưng chủ yếu bồi bổ, nâng cao thể tạng, mạnh gân cốt, hoặc tăng sinh lực. Riêng  kĩ thuật nấu cao CỐT thì nhiêu khê và tốn nhiều thời gian(7 ngày), thậm chí đến giờ phút chót có thể hỏng hoàn toàn. Xin chào bác và các bác trong topic, chúc mọi người khỏe mạnh.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 03 Tháng Ba, 2012, 10:45:34 am
@ LexuanTuong và VeTran:

 Chúng tôi ở gần và lâu với dân Lào nên cũng có dịp tìm hiểu đôi chút.

Mà người Lào quả là nhân ái các bác ạ. Trước đã vậy và giờ cũng thế thôi. Chính sách của họ luôn ôn hòa, không có giọng điệu hung hăng bao giờ. Xin kể thêm 2 chuyện này để biết sống với họ dễ chịu ra sao.

1. Tụi thằng Khiêm (hỏa lực) một lần đi công tác lẻ có nghỉ mấy ngày ở bản dân. Hai ngày đầu, cứ mỗi chiều, chủ nhà đi nương về lại vác cho chúng nó một cây mía tím to tướng. Mỗi thằng được hai tấm cũng đủ rửa răng.

Ngày thứ ba, chúng nó lần mò ra nương dân phát hiện ở một góc nương có bụi mía tím độ dăm cây. Chúng nó hạ xuống chén sạch.

Thế mà chiều về chúng nó còn hỏi khi không thấy chủ nhà mang mía về như hai hôm trước. Chủ nhà bảo: "Lúc chiều thấy bộ đội Việt ở ngoài nương đã ăn hết sạch cả mía rồi mà. Lúc ấy thấy bộ đội có súng nên sợ không dám ra nói".

Tụi thằng Khiêm im lặng, chắc lúc đó chỉ mong chui xuống đất. Tối đó ba thằng  khăn gói xin phép chủ nhà đi thẳng, chuồn sang bản khác.

2. Lúc ở Bản Bun Thẹ với dân, thấy họ có vườn cam. Vì không phải bản bỏ nên hai chúng tôi không thể tự nhiên hái. Anh Hành cùng đi giả vờ hỏi: "Đây là quả gì, có ăn được không", rồi là "Ở VN không có loại quả này". Dân Lào thật thà nói tên quả rồi còn hướng dẫn cách ăn thử. Sau cùng là hái cho dăm quả cam to mang về cho mở mang thêm kiến thức, biết thêm một thứ quả của Lào mà VN không có (!?).

Thật đúng là Việt "gian".

Dân Lào họ thế đấy các bác ạ, chứ như vớ phải người dân tộc ở Tây nguyên hay vùng Trị Thiên thì "ăn" đủ. Mà đúng là sau này chúng tôi gặp được bài học nhớ đời thật.

@VeTran:

Tôi có đọc bên Topic của bác về cái vụ nấu cao ở Biển Hồ của bác. Ấn tượng lắm. Tôi nghĩ bây giờ bác khỏe và phong độ thế, chắc cũng phải nhờ cái vụ nấu và "ăn vụng" được ít cao thời đó.

Bác là dân trong nghề nên biết món "cao" đó, chứ chúng tôi lính tráng chỉ biết bảo sao làm vậy thôi. Với lại lúc đó chỉ rình ăn thôi chứ không mơ đến cao. Bác tính, cả C mấy chục lính mà chỉ có một cục cao thì có biết nó quý cũng không dám mơ.

Kính sức khỏe các bác.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: vetran trong 04 Tháng Ba, 2012, 10:40:55 am
@ LexuanTuong và VeTran:

 Chúng tôi ở gần và lâu với dân Lào nên cũng có dịp tìm hiểu đôi chút.


@VeTran:

Tôi có đọc bên Topic của bác về cái vụ nấu cao ở Biển Hồ của bác. Ấn tượng lắm. Tôi nghĩ bây giờ bác khỏe và phong độ thế, chắc cũng phải nhờ cái vụ nấu và "ăn vụng" được ít cao thời đó.

Bác là dân trong nghề nên biết món "cao" đó, chứ chúng tôi lính tráng chỉ biết bảo sao làm vậy thôi. Với lại lúc đó chỉ rình ăn thôi chứ không mơ đến cao. Bác tính, cả C mấy chục lính mà chỉ có một cục cao thì có biết nó quý cũng không dám mơ.

Kính sức khỏe các bác.


 Kính chào bác Trongc6, sau khi ra trường, mới chân ướt chân ráo qua Phnompenh nhận nhiệm vụ tại binh trạm 179 cục vân tải TCHC. (bị) điều đi Xiemreap với nhiệm vụ nấu 60 kg cao bồi dưỡng cho sĩ quan tiền phương cục. Tôi nghĩ: nhiệm vụ giao thì nhận thôi chứ ở đời người ta gọi là đồng cân cao, lạng cao chứ chả ai nấu tới hàng chục kg cao vì lấy đâu ra nguyên liệu. Nhưng tới trạm Siemraep nhì thấy hai tấn con trăn lim dim ngủ trong kho là tôi biết có chuyện rồi, trong khi ngày nào các sĩ quan của trạm cũng đổi hàng tạ trăn, khỉ già bằng la vét gạo rơi vãi dưới tàu, xà lan từ Việt Nam qua, bổ xung vào kho. trải qua ba tháng nấu liên tục với một trung đội (thợ) toàn là lính cơ quan, tôi chỉ coi kĩ thuật. Thì số cao gửi về tuyến sau được tính đơn vị bằng tạ và chắc chắn phải có số lượng hơn một. Tuy nhiên lúc đó còn quá trẻ, tôi cũng không thắm thiết với các sản phẩm ấy. kết thúc đợt công tác, tôi được hưởng riêng khoảng hơn hai mươi cân cao trăn, khỉ, vài mét vuông da trăn, hàng chục mật trăn, nhưng khi ( được ) phong hàm sớm, được khen thưởng vì (hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ) và đặc biệt (được) điều về ban quân y phòng hậu cần ở Phnompenh, thoát được tâm trạng phập phồng sợ tập kích (vì Xiemreap lúc đó là khu vực chiến sự nóng). Thế là với tâm thái thơ thới, tôi đưa thành quả của mình chia cho các sĩ quan chiến sĩ thân quen ở trung đoàn bộ, vì cũng chẳng biết khi nào mới được về tổ quốc mà gói gém về cho người thân. Nhưng bác Trongc6 biết không, mới rồi tôi có đọc một vài tài liệu nói cao trăn làm mạnh gân cốt, chữa thấp khớp nhưng sẽ có thể gây ra tình huống nghi ngờ của bà xã vì không nộp thuế đủ và hay  khất lần do uống cao trăn. May quá hồi ấy tôi ăn chắc khoảng nửa tạ thịt vào bụng vì đó là thực phẩm chính trong các bữa ăn tập thể trạm nhưng không ngâm uống lạng cao nào. Vậy các bác cũng chớ mong có cáo uống nhé. Tôi rất thích theo dõi bài viết của bác vì với đất nước triệu voi, tôi không có nhiều hiểu biết lắm ngoài một bộ phim gì trước năm 1975 nói về mối tình cô gái Lào với anh lính tình nguyện VN. Chúc bác và các bác trong topic khỏe. Thân


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Quân khí viên trong 04 Tháng Ba, 2012, 10:56:57 am
[......... mới rồi tôi có đọc một vài tài liệu nói cao trăn làm mạnh gân cốt, chữa thấp khớp nhưng sẽ có thể gây ra tình huống nghi ngờ của bà xã vì không nộp thuế đủ và hay  khất lần do uống cao trăn. .......
Vụ này em có đọc rồi, em định hỏi bác thì bác nói ở đây! Chuyện này có cơ sở không vậy bác Vệ. Bác có thể giải thích rõ vì sao không, để em biết mà tránh ;D


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 12 Tháng Ba, 2012, 10:07:52 am


   Trong thời gian nhóm chúng tôi đi công tác tìm xương hổ, anh Trịnh cũng phải chỉ huy một tốp 5 lính đi công tác lẻ. Các anh ấy đi có một tuần, đi sau mà về sớm hơn chúng tôi. Nhiệm vụ kể ra cho biết thôi chứ cũng chẳng biết gọi là gì.

   Số là một số thủ trưởng trung đoàn tôi được đi phép ra Bắc. Có thủ trưởng còn kết hợp về quê để cưới vợ. Chiến trường chẳng có quà gì, nhưng chả lẽ về thăm quê mà tay không. Thế là tiện có tiêu chuẩn đi xe riêng loại Com-măng-ca, mùa khô lại đang đến rồi, đường dễ đi, không phải tự thân mang vác nên các thủ trưởng nhớ ra món dù hàng. Của này thì lính D tôi gặp vô khối ngoài Saravan trong chiến dịch năm trước. Trận Paksoong hồi Tết 1973 cũng có nhiều. Thế là các tiểu đoàn cử lính đi tìm về. Anh Trịnh chọn đi hướng Saravan vì còn nhớ có những bãi đất địch đóng quân dã ngoại khi trước, lúc chúng rút đi chúng tôi qua đã gặp hàng đống dù hàng (dù caro xám) đã bó gập gọn vứt lăn lóc. Lúc đó đang đánh nhau, ai cũng có đủ dù dùng cho nhu cầu cá nhân rồi nên chẳng lấy thêm làm gì cho nặng. Bây giờ lại là lúc cần, thế là lên đường.

   Mò mẫm, loay hoay tìm theo khoanh vùng trên bản đồ từ nhà, nhóm anh Trịnh rồi cũng tìm thấy bãi đất có dù khi trước. Vải dù là loại pha nilon nên vứt đó cả năm chỉ bụi bẩn thôi chứ không hỏng. Hơi sức đâu mà giặt dù và chờ phơi khô, thế là các anh ấy chọn những cái vừa ý, bó chặt lại và mang về. Dù hàng mỏng mảnh thế nhưng khi xòe ra che kín cả cái sân rộng nên cũng nặng. Mỗi người "thồ" hai cái mà toát hết mồ hôi. Cuối cùng, cũng hoàn thành một nhiệm vụ "nước sông, công lính".

   Không phải cuộc sống của chúng tôi khi đó cứ bình lặng mãi, mà đã xuất hiện mầm mống của sóng gió. Người lính sống chết quên mình nơi chiến trận cho nhiệm vụ, song mặt sau của nó không thể không quan tâm.

   Cuối tháng 9, các nhóm lính ra dự Đại hội thi đua của Đoàn 559 và được kết hợp về phép đã lục tục trở lại đơn vị. Chuyện hậu phương là điểm sôi nổi nhất trong những buổi sinh hoạt tập thể của đại đội ở hội trường. Những người được may mắn về phép thì quá vui rồi. Có anh đã tranh thủ tìm hiểu và lấy được vợ chỉ trong vòng non tháng phép. Đồng hương cũng vui lây vì có nhiều tin tức từ quê nhà.

   Tôi nghe đài cũng có biết trong đợt máy bay B52 của Mỹ đánh vào Hà Nội tháng 12/1972 đã thả bom trúng phố Khâm Thiên và Bệnh viện Bạch Mai. Nhà tôi nằm kẹp giữa hai khu vực đó nên cũng thấy lo lắm, nhất là mãi mà chưa nhận được thư nhà, dù đã viết về cả dăm lá. Gặp anh Ca, y tá đại đội, quê Hà Bắc đi phép đợt này vào, tôi bám lấy hỏi thăm. Anh ấy không thạo Hà Nội lắm nên nghe tôi tả khu vực nhà tôi mà mãi anh ấy vẫn không hiểu ra. Sau cùng tôi hỏi anh: "Thế cảnh quan tính từ ga Hàng cỏ đi ra, ngồi trên tàu hỏa anh thấy hai bên thế nào". Anh ấy bảo: "Ối giời ơi, từ ga Hàng cỏ đi ra nhìn thông thống đến công viên Thống Nhất. Hai bên đường toàn ruộng và bãi đất trống. Chả còn nhận ra cái bệnh viện Bạch Mai nó nằm chỗ nào". Thế là gay rồi. Tôi thừ người ra, không dám hỏi thêm nữa, lòng nặng trĩu. Tôi buồn cả tuần, lầm lì chả muốn nói chuyện với ai. Trong lòng lúc nào cũng thấy nóng và trống vắng.

   Nửa tháng sau, may quá, tôi nhận được thư nhà. Bố tôi kể tỉ mỉ những chỗ bị bom B52 ở Hà Nội. Rất may khu nhà tôi ở không làm sao cả. Gia đình tôi tại thời điểm đó cũng sơ tán lên Vĩnh Phúc, nên hoàn toàn bình an. Tôi nhẹ cả người.

   Không chỉ tôi mà lính tráng trong C hầu như ai cũng có thư nhà. Nhiều người vui vẻ và phấn khởi như tôi, nhưng có nhiều thằng buồn. Có mấy thằng quê Hà Tây và Nam Hà, gia đình thông báo là chúng nó đi Nam chỉ có mấy tháng đầu là gia đình nhận được tiền trợ cấp. Chả là khi đó loại lính binh nhì như chúng tôi đi B thì ở nhà mỗi tháng gia đình nhận được 10 đồng tiền trợ cấp đi B. So với lương kỹ sư 63 đồng một tháng thì chẳng đáng là bao. Chỉ có sĩ quan thì được trợ cấp nguyên lương, đủ để vợ con ở nhà sinh sống. Gia đình tôi và gia đình lính Hà Nội nói chung là nhận đủ, có lẽ là gần Trung ương và khi đó còn ít cái tệ nạn địa phương cường quyền, nên người ta chấp hành nghiêm chỉnh. Ở mấy vùng nông thôn và rơi vào trường hợp tôi kể, chính quyền địa phương không biết nghe từ đâu mà loan tin là chúng nó đào ngũ, đầu hàng địch rồi, thế là cắt trợ cấp. Tiền rợ cấp đã không được nhận mà còn mang tiếng với làng nước. Gia đình chúng nó viết thư vào kể, bức xúc lắm. Họ kể cả chuyện có đem mấy cái thư của con gửi về trình lên xã để chứng tỏ con họ vẫn đang chiến đấu ở miền Nam, nhưng địa phương không chấp nhận với bằng chứng là mấy cái thư đó. Mấy thằng lính đó bực bội, đứng ngồi không yên, chẳng muốn tập tành, sinh hoạt gì. Có thằng còn có nguyện vọng là về được ngay được nhà, đem theo khẩu AK lên xã xả mấy băng vào bọn ở Ủy ban cho nó hả giận. Không riêng ở C tôi, các C khác cũng lác đác có chuyện đó. Thế là các lính ấy tìm cách gặp nhau rồi đồng loạt đề nghị lên tiểu đoàn, trung đoàn. Xác định chuyện này có thật và ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm và sức chiến đấu của bộ đội, về sau Ban chính trị Trung đoàn phải cử cán bộ đem theo giấy tờ đầy đủ về tận từng địa phương đó minh oan và đòi lại chính sách cho anh em thì tình hình mới dần yên được.

   Đấy là chuyện quan hệ giữa tiền tuyến và hậu phương đã để xảy ra điều đáng tiếc. Trong nội bộ trung đoàn cũng có chuyện. Ở một C của K16, không hiểu từ đâu và từ lúc nào nảy ra mâu thuẫn giữa một thằng lính và chính trị viên đại đội ấy. Cán bộ chính trị chứ không phải quân sự, thế mới phiền. Thằng lính quyết tâm trả thù bằng máu. Nó kiếm một quả lựu đạn M67, đến đêm bò vào lán BCH đại đội cài vào chân giường. Giường làm bằng phên tre cả dãy dài. Lớ ngớ thế nào ban đêm một thằng liên lạc mò dậy đi giải, vấp phải dây cài. Nó bị vướng chân, nhảy vấp và lao ra ngoài cửa, kéo giật quả lưu đạn văng ra đó. May là quả lưu đạn loại 2 ngấn nên văng ra ngoài cửa mới nổ. Thằng liên lạc bị thương vào chân, còn BCH đại đội chỉ giật mình phát hoảng chứ không ai làm sao. Cả đại đội báo động và nhanh chóng tìm ra thủ phạm. Thằng lính cài lựu đạn bị vệ binh trung đoàn xuống bắt giải đi, còn chính trị viên C đó về sau phải điều lên Ban Thanh niên trung đoàn. Đấy cũng là một bài học kinh nghiệm cho các cán bộ chỉ huy. Thế cho nên nói rằng trong chiến trường, tình cảm quan và lính phải như anh em gắn bó sống chết có nhau là hoàn toàn đúng và có cơ sở.

   Gần cuối tháng 9/1973, chúng tôi nhận một đợt tân binh Hà tĩnh. May là năm ngoái chúng tôi đã nhận một đợt tân binh Nghệ an ngoài Saravan nên cũng đã làm quen nhiều với thổ ngữ khu Bốn. Tuy thế nhưng nhiều khi chúng nó nói chuyện riêng với nhau, nói nhanh mình cũng không hiểu, đành lờ đi coi như không biết. Lính Hà Tĩnh có đủ dân vùng biển lẫn dân vùng núi. Bọn vùng núi có vẻ cứng cáp hơn. Đơn giản hơn vì chúng nó quen núi rừng, bây giờ lại vào rừng thì cũng chẳng phải ngơ ngác gì. Bọn ngoài vùng biển thì dè dặt hơn. Mấy ngày đầu về đại đội, chúng nó được phân về các trung đội để học chính trị chung, kết hợp chờ biên chế vì lính cũ chúng tôi cũng cần phải biên chế lại. Thế là mình cũng thành lính cũ rồi đấy, hơi oách trong con mắt chúng nó. Chúng nó kể nhiều chuyện ở quê rất hay, nhưng điều đáng để tôi phải nghĩ là nhiều thằng nói "đi bộ đội sướng hơn ở nhà". Chỉ xét về hai khía cạnh là ăn và mặc thôi. Bộ đội được mặc đầy đủ và ăn no. Ở nhà đói lắm, nhiều đứa kể cảnh nhà mà tôi không muốn tin, vì nó phảng phất hình ảnh gia đình chị Dậu trong tiểu thuyết "Tắt đèn". Không ngờ người dân khu Bốn trong chiến tranh có nhiều vùng khổ thế.

   Đầu tháng 10/1973, tôi lại đi công tác lẻ một chuyến nữa vào Cao nguyên Boloven. Gọi là đi lẻ nhưng thực ra cả đoàn rất đông, tới hơn hai chục người gom từ các đại đội lên, lập thành một đoàn do chính trị viên tiểu đoàn V.B. Thịnh chỉ huy. Chúng tôi vào Cao nguyên làm chính sách, thực chất là đi bốc mộ để quy tập liệt sĩ từ những trận đánh hay chiến dịch nhỏ khi trước, tập trung lại một nghĩa trang lớn rồi bàn giao sơ đồ cho Ban chính sách sư đoàn. Trung đoàn phải làm việc này trước khi chuyển địa bàn. Chuyển địa bàn đi đâu thì cũng chưa rõ.

   Theo sơ đồ chôn cất liệt sĩ của các đại đội mà tiểu đoàn nắm được, chúng tôi lần lượt đến từng khu vực có mộ liệt sĩ. Nhiệm vụ là bốc mộ, gói vào thành từng túi nilon, sau đó gùi ra một khu vực định sẵn ngoài Saravan rồi chôn lại, trong từng bọc cốt có hộp nhựa đựng giấy ghi rõ thông tin về từng liệt sĩ. Nói gọn thì như vậy, nhưng cụ thể cũng nhiều chuyện lắm. Các mộ chôn lâu hoặc chỉ quấn một lượt võng thôi thì việc bốc cốt bình thường. Mỗi mộ liệt sĩ được cấp 2 lít rượu để rửa xương. Có liệt sĩ khi chôn còn nguyên dày dép, xanh-tuya-rong, thậm chí cả bao xe có băng đạn. Chắc là lúc đó đang đánh nhau ác liệt nên chôn vội vàng. Các lính nhà ta rửa cốt rất tiết kiệm, để có rượu dôi ra uống. Về sau tiêu chuẩn rút xuống mỗi mộ LS chỉ có một lít, thế mà các anh vẫn có rượu uống mới tài. Số mộ mà thịt tan hết chỉ còn cốt rất ít. Đa phần là mộ chôn mới khoảng trên một năm, hay những mộ chôn nơi đất khô, bó chặt trong tấm tăng thì còn dính thịt rất nhiều. Nhiều mộ phải dùng dao để rọc và cạo tách thịt để lấy xương. Lúc đầu cũng thấy hơi chờn, sau rồi thấy người khác bạo, tôi mới bạo theo được bằng cách rửa tay bằng rượu rồi tợp bừa một ngụm. Có rượu, hình như người ta bạo dạn hơn. Thảo nào mà các anh ấy cứ bớt rượu làm chính sách ra để uống. Khoản rượu này chúng tôi phải mua từ trong bản dân, gần với vùng mình làm nhiệm vụ.

   Vòng đi đảo lại nhiều lần chúng tôi mới quy tập hết được các liệt sĩ về một nơi chung. Khu vực này dùng cho cả trung đoàn nên chúng tôi cũng gặp nhiều đồng đội làm nhiệm vụ tương tự ớ các tiểu đoàn khác. Chừng ba tuần thì mọi việc xong xuôi.

   Mấy ngày cuối cùng của đợt công tác thì lại xảy ra một chuyện khá buồn.

   Hôm đó chúng tôi nghỉ đêm lại tại bản Xăm-xi-nuc "may". Bản có ít dân, là chỗ quen thuộc của chúng tôi từ hai năm trước. Đông người nên chúng tôi phải chia ra xin ngủ ở nhiều nhà dân. Hình như đây là quyết định sai lầm của trưởng đoàn khi không để chúng tôi mắc võng ngủ ngoài rừng. Một đêm mệt mỏi và không canh gác trôi qua. Sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm, nấu cơm sáng ăn và chia tay dân bản. Bỗng nhiên có một người dân bản đến báo cho anh Thịnh biết là họ bị mất một chiếc đài bán dẫn 3 băng hiệu National. Tối qua họ vẫn bật đài nghe, nhưng sáng nay dậy không thấy đâu cả. Anh Thịnh liền tập trung cả đoàn kéo ra rìa bản họp, làm công tác tư tưởng và động viên người lấy trộm trả lại cho dân. Tất cả ngồi im, không ai nhận. Chúng tôi quyết định cùng kiểm tra quân tư trang của tất cả. Sau mấy chục phút không có kết quả, anh Thịnh đến nói gì đó với người dân, rồi chúng tôi lên đường. Tôi nghĩ là anh Thịnh đã lấy tiền công tác phí để đền cho dân.

   Chúng tôi lên đường, anh Thịnh đi giữa đoàn quân, không nói năng gì. Không khí trầm lắng nặng nề, không có chút khí sắc gì như mọi ngày. Sau chừng hai tiếng đồng hồ, đã đi được khá xa, tới một bãi đất trống, anh Thịnh cho dừng lại nghỉ rồi phát lệnh kiểm tra quân trang. Chúng tôi chấp hành nhưng có người tỏ ra khó chịu. Thế mà không ngờ, trong ba lô của anh T. ở C tôi lại tòi ra một cái đài đúng hiệu National quấn trong một mảnh dù. Hóa ra đêm qua anh T. mò vào nhà dân lấy cái đài rồi đem đi một đoạn đường rất xa, giấu vào bụi. Hôm nay trong lúc hành quân, qua chỗ dấu anh ấy bí mật lấy cái đài cho vào balo. Anh Thịnh chắc đã dự tính từ trước chuyện này nên phải đi rất xa, chắc chắn người lấy trộm đã thu hồi lại chiếc đài, mới cho dừng chân. Khỏi phải nói chúng tôi bực mình và anh T. ngượng nghịu thế nào.

   Anh Thịnh cho tất cả dừng lại nghỉ luôn tại cánh rừng cạnh đó, mắc tăng võng đàng hoàng và chuẩn bị cơm chiều. Một nhóm ba người gồm anh Thịnh, tôi và anh T. quay lại bản Xăm-xi-nuc "may". Chúng tôi trả đài cho dân, anh T. xin lỗi họ rồi anh Thịnh giải thích thêm nhiều điều nữa để người dân thông cảm. Chúng tôi trở lại chỗ mọi người dừng chân. Thế là hôm đó cả đoàn được nghỉ ngơi dài, còn ba chúng tôi đã phải đi bộ tới sáu tiếng đồng hồ, đủ mệt.

   Sau chuyến công tác đó, tiểu đoàn chỉ thị cho C tôi họp kiểm điểm rút kinh nghiệm. Anh T, bị khai trừ Đoàn. Cuối năm đó, anh ấy được xuất ngũ ra Bắc vì nhập ngũ cũng đã được sáu năm rồi. May mà không bị tước quân tịch.

   Câu chuyện này về sau trong C tôi ít nhắc lại vì mọi người cũng muốn quên đi. Chỉ có một lần, mãi sau chiến tranh, anh Thịnh lúc đó đã lên chính trị viên tiểu đoàn, có nhắc lại trong một lần học tập chính trị để minh họa cho một chân lý: "Con người ta nhiều khi chiến đấu quên thân mình, bom đạn không quật ngã được, nhưng lại bị ngã bởi cám dỗ vật chất tầm thường".




Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: anhtho trong 12 Tháng Ba, 2012, 10:45:23 am
Em xin kính chào anh Trongc6 và các anh chị tham gia topic. Em theo dõi diễn biến bài viết của các anh, em cảm nhận những chi tiết thật bi hùng của một thời chiến tranh tàn khốc mà ở mặt trận nào cũng nếm đủ chông gai cay đắng. Em là phận gái, lớp chiến sĩ sau các anh, thời gian ở chiến trường công pông chàm Căm pu chia cũng ngắn nhưng cũng đã chứng kiến cái đớn đau chết chóc của đồng đội, ngửi thấy mùi máu và tay đụng chạm vào những cơ thể móp méo vì hỏa khí (vì em làm quân y trạm trung chuyển). Có những anh thương binh đau đớn vì vết tương lại trút giận vào chúng em, có anh chửi tục : Em ơi, em như bông hoa sao lạc vào đây, cút về nước đi, qua đây làm đéo gì. Có anh chửi xong thì tự khóc hu hu. Chúng em lúc đó không buồn rồi cũng khóc theo và biết rằng tâm lý ấy, trăn trở ấy chỉ có ở những người đàn ông đầy bản lĩnh, giám hy sinh và lo lắng cho đồng đội nữ trước hòn tên mũi đạn ngay lúc tính mạng mình đang bị đe dọa bởi thương tích. Nhưng cũng như anh TrongC6 viết về chuyện đồng đội mình đã có lúc có suy nghĩ hành động lệch chuẩn dẫn đến những hệ lụy sau đó, thì theo ý em: chúng ta cũng co cái nhìn thoáng rộng hơn trong những hoàn cảnh cụ thể và cảm thông. Còn cái Tham, Sân, Si là ba cái nghiệp (theo nhà Phật) là những cái NHÂN tạo ra QUẢ khổ đau day vò thiêu đốt nhân thế thì chưa chắc ai tránh được phải không anh Trongc6. Hôm nay chúng ta còn ngồi viết cho nhau những dòng này để chúng ta có thể bình tĩnh nhìn lại một thời trăn trở không thể quên cũng là một hạnh phúc anh ạ. Chúc anh và gia đình mạnh giỏi.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 14 Tháng Ba, 2012, 09:49:02 am
Chào bạn Anh Thơ,

      Ngày trước xem phim Liên xô về chiến tranh, thấy cảnh nữ chiến sĩ trong Hồng quân LX ngoài mặt trận rất đẹp và ấn tượng.

      Khi mình là lính, ngày ở chiến trường cũng mong gặp được đồng đội nữ cho cuộc sống thêm xuân, nhưng thực tình thấy cảnh TNXP ngoài tuyến lửa và bộ đội nữ binh trạm TS vất vả thì lại thấy thương vô cùng. Càng thương hơn với những chiến sĩ nữ ở đơn vị chiến đấu (như F2 chẳng hạn).

      Thú thực là mình không hề muốn có nữ ngoài mặt trận, vì thấy họ bị thương hay hy sinh thì còn đau lòng hơn như với lính nam giới bọn mình.

      Nhưng dù sao, Anh Thơ cũng có thời đã từng là lính ngoài mặt trận nên mình rất khâm phục bạn.

        Càng khâm phục và ngưỡng mộ trước mối tình của hai bạn Anh Thơ - Vệ Trần. Mình đã từng nói, mối tình nảy nở nơi chiến trường của những người lính là mối tình đẹp, có thể ví như những bản tình ca.

        Mình luôn tin rằng mối tình như của hai bạn sẽ rất hạnh phúc và bền vững. Bởi vì ngoài tình chồng vợ thì một lúc nào đó nếu gặp khó khăn, hai bạn nhất định sẽ vượt qua vì trên hết, hai bạn là "ĐỒNG ĐỘI".

      Chúc gia đình Anh Thơ - Vệ Trần khỏe và hạnh phúc.


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 19 Tháng Ba, 2012, 10:34:15 am

   Nam Lào đã bước vào cuối tháng 9. Mùa mưa ở Lào đến sớm hơn mùa mưa ở miền Nam VN một tháng thì cũng kết thúc sơm hơn một tháng, vì thế bây giờ đã là cuối mùa mưa. Những ngày không mưa và có nắng nhiều hơn. Đường đi lối lại trong đơn vị đã bớt ẩm ướt.

   Tuy thế, vì áp lưng vào dãy Trường Sơn (nhiều khi không thể phân biệt rõ ranh giới giữa dãy Trường Sơn và những cánh rừng Lào, cũng như dãy Trường Sơn và những cánh rừng đại ngàn của Tây Nguyên đất đỏ vậy), nên vẫn còn những trận mưa cuối mùa. Mưa cuối mùa tuy không dai dẳng, nhưng có khi tầm tã không kém.

   Chúng tôi làm được nhiều việc hơn, từ tập tành đến sinh hoạt văn hóa văn nghệ, chứ không phải chỉ ngồi co ro trong lán học và thảo luận hết bài chính trị này đến bài chính trị khác. Mục làm bích báo thi gữa các trung đội là rôm rả nhất. Có bọn tân binh mới vào, không khí huấn luyện còn đang hừng hực, lại thêm cảnh vật và điều kiện chiến trường có nhiều cái lạ nên ở B nào cũng hào hứng cảnh làm bích báo và tập văn nghệ, chủ yếu là hát hò.

   Bọn lính cũ thì giở vài mẹo vặt làm mấy bài thơ con cóc ôn lại những câu chuyện chiến đấu đã qua để góp vui cùng đám lính mới vào. Xin ghi lại một vài bài bích báo đó mà tôi có dịp chép và giữ lại.


Vở chèo đánh trận

     Năm xưa miệng hát tay đàn,
Lời thơ tiếng hát ngân vang quê nhà.
     Rộn ràng náo nức lời ca
Giục lòng tuổi trẻ xông ra trận tiền.
     Tháng ngày chiến đấu liên miên,
Diệt địch nối liền mảnh đất quê ta.

     Xuân này Quý Sửu bảy ba,
Tiếng hát quê nhà như vọng bên tai.
    Trong đêm đánh địch mồng hai
Vây đánh Pak Sòng, một dải phù cao.
    Suốt trận nổ súng hiểm nghèo,
Quản chi, ngỡ cảnh vở chèo năm nao.

     Sân khấu: Trận địa, chiến hào.
Phông màn: là cả trăng, sao, đất, trời.
     Lo thiếu ánh điện sáng ngời
"Chủ nhiệm pháo sáng" được mời tới ngay.
     Khẩn trương làm việc luôn tay,
Từng chùm pháo sáng bắc bay lưng trời.
     Hai hàng "hai mươi ly" rơi
Xung quanh trận địa làm nơi kết đèn
     "Sập hầm!" cất tiếng đánh xen.
"Diễn viên" ta bèn chớp lấy thời cơ
     Chuẩn bị diễn xuất bất ngờ,
Đã sắp tới giờ, còn chút nữa thôi.
     Diễn viên thao tác xong rồi,
"Cối, pháo" đổ hồi giục diễn viên ra.

     Mở đầu tiết mục đơn ca:
Mìn ta bấm nổ phá ba hàng rào.
     Vi vu tiếng sáo vút cao
"Tám lăm" độc tấu ào ào không trung.
     "Hăm hai" chẳng kém anh hùng,
U, u như tiếng dương cầm từ xa.
     Vù vù, xoèn xoẹt lao qua.
DKB cất tiếng ca góp phần.
     "Hai mươi" xoạc vững đôi chân
Ho từng cục lửa xả thân điểm chầu.

     Diễn viên xung kích bỗng đâu.
Ào ào xuất trận, đi đầu 40
     41 cũng cất tiếng cười.
"Ục, oàng" cấp tập, rền trời tiếng ngân
     "Phốc! Oành!" trống cối cá nhân
"Tằng, tằng" giòn giã góp phần: AK.
     Hầm tung, địch hóa ra ma.
Diễn viên thừa thế đột qua hàng rào.
     Thọc sâu, phát triển đánh vào.
Địch hàng, địch chết ngã nhào từng xâu.
     Vở chèo diễn hết đêm thâu
Phông, màn sân khấu rực màu hồng tươi.
     Diễn viên "son phấn" đầy người
Sặc mùi khói đạn, tươi cười thu quân.
     "Cực nhanh" cùng cối cá nhân,
Máy, bia, dù , thuốc nhanh chân thu về.

     Diễn xong kịch, sướng hả hê
Vui mừng chẳng kể chân tay mệt nhoài.
     Công sức tập, không phí hoài.
Diễn thành công vở "Diệt loài xâm lăng".

(trận đánh Pak soong 2 tết 1973)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: Trongc6 trong 21 Tháng Ba, 2012, 10:00:40 am

Nhớ tháng 5

Những ngày cuối của mùa khô đã tới,
Rừng mùa khô, trưa inh ỏi tiếng ve
Nẵng chói chang oi bức cảnh trưa hè
Lại gợi lên trong lòng tôi ngày trước.

Nhớ ngày nào còn trên ghế nhà trường,
Đời học sinh với bao điều mơ ước.
Lòng hăng say học tập tiếp từng chương,
Lắng nghe tiếng thày đều đều trên lớp.
Vui những lúc bài làm thông thuộc hết,
Buồn khi bài không hiểu, chẳng làm ra.
Rồi cuối năm hồi hộp chờ kết quả,
Năm học này mình lên lớp hay không…

Năm học qua đi với bao điều mơ mộng,
Là lúc tháng năm, trưa inh ỏi tiếng ve,
Hoa Phượng đỏ báo hiệu đã tới hè,
Cùng bạn bè chia tay mỗi người đi một ngả.

*
Đời quân nhân đến với tôi mau quá,
Sách bút ngày nào, giờ đã súng cầm tay
Trong chiến trường chiến đấu suốt đêm ngày
Ta với địch giành nhau từng tấc đất.
Cuộc chiến đấu chỉ một còn một mất,
Đã cuốn tôi đi khắp đất Nam Lào.

Mười bốn tháng trời, ôi nhớ làm sao:
Từng bản làng, từng khu rừng, con suối
Nhớ những lúc hành quân đêm trời tối,
Hay lúc xung phong đột phá hàng rào,
Hoặc đêm chốt ngồi ngắm cảnh trăng sao,
Đời lính chiến vui buồn trong khói thuốc.

Phải trải sống những ngày xa đất nước,
Vẫn ngoan cường trong thử thách gian nguy.
Sống và chết, người lính chẳng nghĩ suy,
Vào chiến trận nghĩ làm gì cho nhọc.
Đường người chiến binh đi không tiếng khóc
Hướng ra đi là giải phóng quê nhà
Quét sạch quân thù ra khỏi quê ta,
Với sức mạnh không gì ngăn ta được.

*
Giờ thanh bình đã về trên đất nước,
Mùa hè về với cảnh vật xôn xao
Làm cho lòng tôi bỗng thấy nao nao
Nhớ tháng năm vào hè, nay và trước.


(Keng Nhao 5/1973)



Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: nguyentrongluan trong 25 Tháng Ba, 2012, 11:44:57 am
@Trongc6. Tôi giở lại nhật kí của mình thì ngày ấy E9 các bác được gọi là E2 trong đội hình sư đoàn . 48 là E1, 9 là E2 , 64 là E3 .
Lúc chúng tôi đánh Đèo Cả là các bác đánh trên Nhạn Tháp , Phú Lâm . ngày 3/4  hành quân về cánh rừng đường 7 tập kết để đợi xe đi chiến dịch Sài gòn Gia định E 64 cũng ở gần E9 các bác . Tôi có ghi  :" ở chỗ tập kết ba ngày " thì tôi sang E2 tìm thằng Hiển nhưng nó đi lạc chưa về mà .
tôi có trích đưa nhật kí trong đoạn tháng 3/75 lên . Còn viết lại thành bài là viết trong  " KÍ ức Tháng Tư " sẽ đưa vào tháng tư bác ạ . Cùng đọc để nhớ về ngày chiến dịch của sư đoàn nhé . thân mến . Luân


Tiêu đề: Re: Ngày này 34 năm trước...
Gửi bởi: baoleo trong 26 Tháng Ba, 2012, 07:59:14 am
Theo quy định, toppic này đã đủ 60 trang, xin mơpif bác Trọng C6 và các bác sang phần mới-phần 2.
Mong bác Trọng C6 viết đều tay.
Em là fan hâm mộ bác đấy ạ.
Mõ baoleo kính cáo.