Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 24 Tháng Ba, 2009, 08:26:05 am



Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Ba, 2009, 08:26:05 am
Nguồn: website chính thức của nhà thơ, nhà báo Trần Ngọc Trác.
http://www.tranngoctrac.com/cms/index.php?option=com_content&task=view&id=21&Itemid=1

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn: Tỉnh uỷ Lâm Đồng, UBND tỉnh Lâm Đồng, Hội Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng đã tài trợ một phần kinh phí xuất bản cuốn sách này.

CHƯƠNG I
LÀNG AN THẠCH QUÊ TÔI

Tôi sinh ra và trưởng thành từ một làng quê nghèo nằm sát biển Đông bốn mùa gió lộng. Đó là làng An Thạch, tổng Ca Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, mở ra một trang sử mới cho toàn dân tộc. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, lần đầu tiên người dân Việt Nam được cầm lá phiếu đi bầu Quốc hội. Sau tổng tuyển cử lần thứ nhất, các làng An Thạch, Hội An và An Thở đã hợp nhất thành xã Phổ An huyện Đức Phổ.
Con sông Thoa, một nhánh của sông Vệ nằm sát phía tây và đổ về cửa Mỹ Á. Đây là một nguồn thủy lợi đủ tưới cho trên 40 héc-ta ruộng lúa nước. Mạch nước ngầm vô cùng phong phú.
Quê tôi có nhiều đụn cát, rừng tràm sát biển, gần sông. Làng An Thạch còn có cấm (1) trước, cấm sau, gò Kiến, hòn Đá Dựng, tạo nên một cảnh quan ngoạn mục. Cứ mỗi chiều về, từng đàn cò trắng lại sà xuống, không biết cơ man nào mà kể.
Đối diện phía tây qua con sông Thoa chừng một cây số là làng Vinh Hiền còn gọi là xóm quạ kêu. Cũng như quê tôi, mỗi chiều xuống, ở làng Vinh Hiền từng đàn quạ đen, quạ khoang cổ lần lượt bay về để ngủ qua đêm. Tiếng quạ kêu, cò kêu của hai làng tạo thành một âm thanh rộn ràng khó tả.
Từ năm 1940 trở về trước, người dân quê tôi cũng lâm vào cảnh đói nghèo khổ cực, một cổ hai tròng, bị thực dân, phong kiến bóc lột nặng nề.
Thời kì chữ Hán Nôm còn thịnh hành, quê tôi cũng có một vài vị thành danh qua các kì thi Hội được tổ chức tại thành Bình Định, như cử nhân Phan Văn Điền ở làng An Thở đậu thủ khoa; ông Trần Mậu ở làng An Thạch đậu cử nhân, các cụ Ngô Khanh, Tú Cẩn … đậu tú tài.
Ngày đó trong dân gian  lưu truyền câu vè:
"Uổng công Bình Định xây thành
Để cho Quảng Ngãi vô giành thủ khoa".
Từ năm 1920 trở về sau, chữ quốc ngữ đã đến quê tôi. Cả hai làng An Thạch, An Thở đều có trường tiểu học. Mỗi trường chỉ có hai lớp.
Nhân dân xã Phổ An sống bằng nhiều ngành nghề, chủ yếu là làm ruộng, làm rẫy. Một số gia đình ở ven biển làm thêm nghề đánh cá. Các ngành nghề khác như ươm tơ, dệt lụa, làm tre cũng góp một phần cải thiện cuộc sống hằng ngày.
Đặc biệt ở làng tôi có một đội ca múa gọi là "sắc bùa", hoạt động từ tháng mười âm lịch năm trước đến tháng giêng năm sau. Đội ca múa "sắc bùa" này phục vụ bà con trong làng, trong xã, có khi cả vùng.
Quê tôi có nhiều người tham gia phong trào Duy Tân. Có 3 vị “ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội”, đó là thầy giáo Phạm Quang Lược, cụ Phạm Khánh và cụ Nguyễn Hỷ.
Để hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, tỉnh Quảng Ngãi, trong đó có quê tôi, đã nổi dậy mít tinh biểu tình cướp huyện đường Đức Phổ, cờ đỏ búa liềm treo khắp nơi, truyền đơn cách mạng nơi nào cũng có. Sau năm 1930 -1931, phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương ở hai huyện Mộ Đức, Đức Phổ cũng đã dâng lên cao.
Ở làng An Thạch có họ Trần là một dòng họ lớn. Các cụ tổ của họ Trần như ông Ban, rất quan tâm đến văn chương, võ nghệ. Trong nhà ông lúc nào cũng mở trường dạy văn, dạy võ và tổ chức một gánh hát tuồng. Nhà ông lúc nào cũng có 30 gia đinh làm việc. Ngoài công việc đồng áng phục vụ chung, các gia đình trong nhà, ai muốn học gì thì chọn.
Ông  Trần Ban là một người có chí khí. Ông rất ghét bọn tham quan ô lại, bọn bán nước như tên Nguyễn Thân- một trong tứ trụ triều đình đời vua Tự Đức. Ông Trần Mậu cũng vậy. Sau khi đậu cử nhân, ông được triều đình bổ nhiệm chức vụ quản đạo châu Ninh Thuận. Ông Trần Mậu là người đã dám nện tên Tây đoan thuế vụ mấy cái bạt tai, bị chúng thải hồi. Về quê, ông mở trường dạy học và làm nghề thuốc nam. Trước cổng nhà ông, đã mấy chục năm rồi, vẫn còn đôi câu đối nói lên khí tiết của mình:
"Đại lộ nhi hành vô hiển hối
Hoành môn chi hạ khả thê trì".
(Tạm dịch: Đã chọn đường lớn để đi thì không hối hận. Bước qua cổng không nên chậm trễ)
Trong kháng chiến chống Pháp, quân dân xã Phổ An đưa hàng trăm con em của mình vào lực lượng vũ trang, và đóng góp hàng ngàn dân công phục vụ chiến dịch lớn 1953 - 1954 trên chiến trường bắc Tây Nguyên. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xã Phổ An kiên trì bám trụ, đẩy mạnh hoạt động diệt ác ôn, chống càn quét; là một xã được giải phóng sớm nhất của huyện Đức Phổ. Con em xã nhà tập kết ra Miền Bắc có không ít người đã góp phần tích cực cùng quân dân cả nước đánh cho Mỹ, cút ngụy nhào. Hầu  hết  các cháu được học hành, đỗ cử nhân, tiến sĩ, nhiều người có học vị cao, góp phần xây dựng đất nước.
Kết thúc chiến tranh chống Mĩ, quân và dân Phổ An đã tiêu diệt gần 800 tên địch, trong đó có 114 tên  xâm lược. Diệt 6 tên ác ôn. Bắn cháy 4 trực thăng, 1 máy bay F105.
Với thành tích trên, tháng 8 năm 1995, xã Phổ An quê tôi được Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

(1) Cấm : Rừng cây nhỏ, có chiều dài 1–1,2 kilômét, rộng 0,6–0,7 kilômét.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Ba, 2009, 08:40:52 am
Cha tôi kể rằng:
Trong một đêm trời tối đen kịt, mưa bão ầm ào, gió thốc từng cơn trên mái rạ; những tàu lá cau trong vườn quất vào nhau, rít từng cơn nghe rờn rợn; mẹ tôi từ chợ về, vội đặt đôi quang gánh xuống nền nhà, hai tay ôm bụng, nặng nhọc lê tấm thân gầy guộc vào góc bếp. Mẹ tôi gọi nhỏ cha tôi, nhờ lấy hộ chiếc khăn mặt, và bảo cha tôi tìm bà Thoan - người đỡ đẻ duy nhất ở xóm trên xuống giúp. Mẹ tôi quằn quại trên nền đất, cắn chặt răng, cố rặn để đẩy chiếc bào thai trong bụng ra.
Tiếng khóc oa oa vang lên của đứa bé làm cho cha tôi vui mừng khôn xiết. Ông bế đứa bé còn đỏ hỏn trên tay, âu yếm nhìn nó không chớp mắt. Mẹ tôi đã từng mang thai mười ba lần. Nhiều lần cha tôi phải chứng kiến những chuyện hết sức đau buồn, mà mấy chục năm sau ông vẫn  không làm sao quên được. Trong ba tháng liền, cha mẹ tôi phải chịu mất bốn người con do bệnh dịch hạch hoành hành. Mẹ tôi đã khóc hết nước mắt. Anh chị của tôi chưa kịp chào đời thì mẹ đã hỏng thai. Tôi chỉ còn một người chị thứ năm, sau này là mẹ vợ của đại tá Trần Thế Tuyển. Do thương con, khóc nhiều, mẹ tôi phải chịu mù loà. Đứa bé cha tôi ẵm trên tay trong đêm mưa gió bão bùng ấy chính là tôi bây giờ. Tôi là người con trai thứ tám cũng là người con trai cả trong gia đình. Về sau mẹ tôi còn năm lần sinh nở, nhưng chỉ sống được có 3 người.
Cha tôi còn kể rõ: Đó là đêm mười bảy tháng mười một năm Canh Thân, tức ngày hai lăm, tháng mười hai, năm một ngàn chín trăm hai mươi, mẹ tôi sinh ra tôi - một thằng con trai bụ bẵm, cân nặng đến ba ky-lô-gam. Cha tôi đặt cho tôi một cái tên thật xấu xí là vì mong cho tôi sống lâu, không bị ma quỉ bắt đi.
Ở làng quê tôi, theo như các cụ lớn tuổi còn sống, sau này kể lại, thì thật lắm nhiêu khê.
Cả làng có hơn hai trăm nóc nhà. Nhân dân trong vùng chủ yếu làm rẫy, trồng sắn và đánh bắt cá. Người có được cái chữ thật hiếm hoi.
Xưa kia, làng tôi có một cánh rừng già, rất nhiều mồ mả không có người chăm sóc, gọi đó là khu mả hoang. Nó nằm cách Thái Bình Dương không đầy hai cây số theo đường chim bay, được triều đình nhà Nguyễn đặt cho cái tên An Thạch thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Đức.
Làng tôi có những nóc nhà co cụm lại thành từng xóm, bà con vừa có điều kiện gần gũi giúp đỡ nhau những lúc khốn khó, vừa cùng nhau ngăn chặn thú dữ. Ông Nguyễn Cho và ông Tích ở gần nhà tôi đều có chiều cao gần một mét tám, to khỏe, nặng cả chín chục ký, là những người ấn tượng nhất trong làng. Cứ mỗi bữa, ông Nguyễn Cho ăn hơn một chục chén cơm; còn khi làm việc thì gấp ba gấp bốn lần người khác. Ông có vợ con, nhưng lại rất được mấy chị em trong làng thương mến. Ông là người khỏe mạnh, nói năng lưu loát, bốp chát, coi trời bằng vung. Đôi tay của ông gân nổi cuồn cuộn như người tập tạ thường xuyên. Có lẽ là do ông ngày ngày lao động vất vả cật lực nên có đôi tay lực sĩ như vậy. Trong làng bây giờ vẫn còn truyền lại câu chuyện về ông Cho, ông Tích, nghe có vẻ huyền thoại, li kì. Nhưng đây là chuyện có thật; chuyện thật một trăm phần trăm do chính cụ già nay đã qua tuổi chín mươi kể lại, như là chuyện mới xảy ra hôm qua. Chuyện rằng: Hôm đó, ông Nguyễn Cho và ông Tích đi vào rừng đốn củi như mọi lần. Ông Cho bị một con cọp vồ phải mông. Đau điếng nhưng ông vẫn quay lại cầm đuôi con cọp, quật mạnh. Ông Tích, tức ông Võ Cử, bồi thêm mấy gậy nữa thì con cọp chết tươi. Hai ông lôi con cọp về làng lột da phơi khô làm áo; còn thịt giao cho bà con dân làng xẻ ra, nướng lên. Cả làng được một bữa chén no nê. Vết thương ở mông của ông Cho tuy được chữa bằng thuốc nam, nhưng vẫn sưng tấy. Có người trong làng bảo là do ông đụng đến hùm thiêng của núi rừng nên bị trời đất phạt. Nhưng không phải thế, ông chỉ cần ăn ba nong tằm chín là khỏi bệnh. Theo kinh nghiệm dân gian, ông đem tằm luộc chín, sau  đó giã nhỏ, nhuyễn, viên từng viên và rán thành chả để  dành ăn cả tháng trời. Nghe đâu, ông Nguyễn Cho sống đến một trăm lẻ năm tuổi. Ông mất năm 1938. Kẻ hậu sinh như chúng tôi ai cũng ước ao có được sức khỏe như ông, nhưng chuyện ấy chẳng mấy ai đạt được.
Ở đầu làng tôi có nhiều cây sơn, cây song mã to, năm người mới ôm xuể. Dưới gốc cây cơ man nào là ông Táo, bình vôi vỡ, bát nhang… Cả làng ai cũng đem đồ cúng linh thiêng ra đây gửi ông thần cây. Không ai dám đi ban đêm vì sợ có ma quỷ, oan hồn thần cây trú ngụ. Có người thì sợ bóng sợ vía. Ai cũng kiêng cữ, không dám nói điều xằng bậy. Ban ngày nắng gắt, khi qua cây sơn đầu làng, ai cũng cúi mặt lầm lũi đi. Thế mà tôi và em tôi là Lê Hảo dám mang rìu, cưa, ra đốn cây sơn này. Mất ba ngày ròng rã, làm cả đêm trăng, anh em tôi mới đốn ngã được nó. Chúng tôi hì hục cắt thành từng khúc gỗ nhỏ, lôi từng cành cây về nhà. Mệt bở hơi tai, nhưng trong lòng vui sướng lắm. Vậy là gia đình tôi có đủ củi để đốt trong suốt mùa đông rét mướt. Những người mê tín dị đoan đều cho rằng hai anh em tôi tới số rồi. Không thể nào thoát khỏi bị trừng phạt.
Mẹ tôi bán bún tươi làm từ bột gạo. Tôi ở trong nhà phụ việc. Mỗi ngày tôi  quần quật xay mười ký gạo đã ngâm chua mới đủ bún cho mẹ bán, mặc dù mẹ tôi không bắt tôi làm như thế. Khi sinh ra tôi, mẹ tôi không thấy mặt tôi vì bị mù lòa. Ngày ngày,  tôi giúp mẹ gánh bún và dắt mẹ ra chợ. Chiều tối tôi lại đưa mẹ về. Công việc tưởng chừng như nhàm chán ấy đã giúp gia đình tôi qua cơn khốn quẫn. Lúc ấy, tôi là người con trai duy nhất, lại chịu khó, cần mẫn nên được cha mẹ yêu thương hết mực. Bây giờ khi tuổi  đã ngoài tám mươi, mỗi lần nhắc đến mẹ là nước mắt tôi cứ ứa ra, không làm sao ngăn nổi. Nhất là khi tưởng tượng tới cảnh cha mẹ tôi ra đi không còn nắm tro tàn do bom xăng của giặc Mỹ thiêu cháy nhiều khu phố ở ngã Bảy Sài Gòn ngày 4 Tết Mậu Thân (1968) là lòng tôi ứa máu!
Hôm về thăm quê, một người bà con trong họ còn nhắc chuyện ngày xưa, tôi đã mang hết liễn, sáo giăng trước bàn thờ đem đi bán và trốn mất. Tôi biền biệt 3 tháng trời, cả làng ai cũng lo, không biết tôi sống chết ở xó xỉnh nào. Có ai hỏi, mẹ tôi đều bảo rằng : “Thằng Kích không chết, rồi nó sẽ về với tôi”. Mặc dù mắt mẹ tôi không thấy gì, nhưng trong linh cảm của bà, linh cảm từ trái tim một người mẹ, mách bảo bà rằng tôi vẫn còn sống và sẽ trở về.
Thực ra ngày đó, tôi mang theo tiền bán liễn, sáo qua xã bên nhờ thầy dạy võ. Ngày ngày giúp gia đình thầy nấu cơm, giặt giũ, chịu khó làm tất cả các công việc nặng nhọc; đêm đến cùng các bạn môn sinh khác rèn kiếm, đi quyền, xuống tấn. Miệt mài trong mấy tháng, tôi có thể dùng  tay không đâm thủng cây chuối già, có thể chắp hai bàn tay lại chặt đứt bốn viên gạch nung chồng lên nhau. Việc học võ khó khăn đến đâu tôi cũng không từ bỏ một buổi nào. Nhớ mẹ, nhớ cha vô cùng nhưng quyết không về vì học chưa được bao nhiêu.
Còn việc học chữ của tôi cũng lắm đoạn trường.
Thầy giáo dạy lớp Một của tôi là cụ Phạm Quang Lược - một thanh niên tham gia trong “hội kín”. Về sau, tôi mới biết thầy là “người  cộng sản”.
Tôi học chữ Nho với một  người bạn cùng làng với thầy Trần Mậu - một cử nhân Hán học.
Thấy tôi khá đĩnh đạc, lại sáng dạ, thầy khuyên tôi chịu khó học tập, nghiên cứu về nho - y - lí - số. Sau này tôi có ảnh hưởng phong cách của thầy.
Anh bạn học cùng tôi ngày xưa ấy tên là Nguyễn Luân, vẫn còn nhớ như in. Anh tâm sự với một người bạn: “Hồi nhỏ tôi với anh Kích cùng đi học. Tôi có điều kiện hơn anh ấy. Tôi có một nguồn sách truyện dồi dào, như: Phong Thần, Thủy Hử, Tam Quốc Chí, Tây Du Kí … Khi đọc Tây Du Kí, chúng tôi ai cũng thích làm Tề Thiên Đại Thánh, tự xưng mình là Lão Tôn. Anh Kích cũng khoái nhân vật này lắm. Anh Kích là người can đảm, không chơi xấu ai. Nếu bạn mình đi đường bị kẻ khác chặn  đánh là anh ra tay ngay. Anh chỉ cần bắt được một thằng là từ đó bọn chúng sợ không dám chặn uy hiếp nữa. Can đảm, ý chí, kiên quyết như anh Kích thì bọn tôi xin nhường vì anh nói là làm, không sợ ai hết”.
Lớn lên, tôi với anh Luân không vượt qua được đệ nhất, đệ nhị, không lên nổi tiểu học, tức là không đậu được bằng Xéc-ti-phi-ca (Cetifica)… nên phải ở nhà. Nhưng  thầy của chúng tôi lại bắt chúng tôi phải “chia chữ”. Thầy nói: "Một  mình  bây biết chữ thì bọn chúng đè đầu cỡi cổ. Bây giờ phải chia chữ cho nhiều người, sau này lớn lên bọn bây không sợ, hào lý không ăn hiếp được”.
Chúng tôi thấm thía câu nói "chia chữ". Nhờ có “chia chữ” cho nhau mà về sau cả làng tôi già trẻ, trai gái, ai ai cũng có ý thức đối với vận mệnh của đất nước. Mọi người đều nhiệt tình tham gia cách mạng, ủng hộ cách mạng, nuôi giấu cán bộ, xung phong ra tuyến đầu, dũng cảm, gan dạ.
Năm tôi mười một tuổi, qua tiếp xúc với nhiều gia đình như gia đình cụ Phạm Khánh, Nguyễn Hỷ mới biết họ là những người đang hoạt động trong các “hội kín”. Riêng thầy Phạm Quang Lược, khi Quốc hội Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đầu tiên ra đời, thầy được bầu làm đại biểu. Thầỵ đã trực tiếp dìu dắt, sử dụng, giao nhiệm vụ cho tôi làm liên lạc, rải truyền đơn, treo cờ đỏ sao vàng trong tổng Ca Đức. Tuổi còn nhỏ nhưng tôi rất hăng hái, không sợ địch bắt, không sợ bị tù đày; lại cảm thấy vinh dự khi được làm những công việc ấy. Có đêm tôi nằm trằn trọc không ngủ được, mong đêm dài hơn để được đi rải truyền đơn, treo cờ, làm cho địch hoang mang, sợ hãi. Càng lớn lên, tôi càng hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của sự "chia chữ", cũng như ích lợi  khi mình có cái chữ để sống trong đời.
Hôm gặp mặt bà con đồng hương Quảng Ngãi ở nhà ông Phạm Phổ Thông số 19 đường Trần Văn Ơn, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, bà bác sĩ  Phạm  Thị Xuyến - vợ ông Thông kể lại:
“Ngày còn nhỏ, tôi hay cõng em tôi đi học chữ ở nhà anh Kích. Muốn vào nhà anh Kích phải đi qua một cái mương nhỏ. Cứ mỗi bận như vậy, anh Kích lại bỏ công việc đang làm ra cõng em tôi qua mương. Khi anh có gói chè, điếu thuốc là mang sang biếu cha tôi. Cha tôi thương anh lắm. Tôi nhỏ tuổi hơn anh Kích. Ngày ấy anh hay dọa đánh tôi. Nhà anh nghèo, anh đi quơ củi; còn tôi thì đi hót rác. Gặp tôi đâu, anh cũng trêu.
Tôi nhớ dạo ấy anh có quen chị Tám Tiến - hiện nay có người con gái tên là Dung, trung tá công an ở Phan Thiết, tỉnh Ninh Thuận. Chị Dung là con nuôi cụ Phạm Thuần, nguyên là chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng.
Không hiểu sao ông Tu làm nghề thầy bói ở trong làng lại bảo anh Kích với chị Tám Tiến khắc tuổi, không thể lấy nhau được. Nếu lấy nhau thì gặp nhiều điều bất hạnh. Chị Tám Tiến sau đó lấy chồng, nhưng trong lòng vẫn luôn nhớ đến anh Kích. Đây là mối tình đầu của anh.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Ba, 2009, 08:41:50 am
Mấy năm sau, anh Kích lấy chị Sỏi, tức là bà Nguyễn Thị Liên. Bà Sỏi nguyên là vợ lẽ một người trong làng. Chị Sỏi tính tình hiền dịu, nết na, dễ thương nhưng ngặt nỗi làm bé của người ta nên hay bị bà cả đánh đập, ghen tuông, khổ sở trăm bề. Thương cảm trước hoàn cảnh của chị Sỏi, anh Kích về nhà xin cha cho lấy chị làm vợ. Cha anh đồng ý. Anh chị lấy nhau thật đơn giản. Đó là một đêm đông, khi trời chạng vạng, anh bảo chị Sỏi ra ngã ba đường cái, anh Kích đến nắm tay dẫn về nhà. Không có tiệc cưới, không có hai họ làm lễ rước dâu, đưa dâu. Vậy mà anh chị yêu thương nhau rất mực. Anh Kích ngày ngày xay bột làm bún, chị theo mẹ anh ra chợ bán bún. Rồi chị cũng sinh hạ cho anh được ba người con. Con trai đầu là Lê Du Kiếm, đại úy về hưu; con thứ hai là Lê Du Phong, giáo sư, tiến sĩ, hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội; và người con gái tên là Lê Thị Mai Ngữ, kỹ sư sinh hóa, hiện nay đang công tác ở thành phố Đà Nẵng.
Ngày ấy tôi còn nhỏ, đầu để chỏm, chạy lon ton làm “người đưa thư” cho anh Kích gởi chị Tám Tiến. Lúc cách mạng chớm về xã, anh Lê Kích là người có uy tín biết tập hợp lực lượng và làm trung đội trưởng. Em ruột anh Văn làm trung đội phó. Tất cả chúng tôi tập luyện quân sự dưới sự chỉ huy của anh Kích. Một hôm, đang tập luyện trên bãi biển, anh Kích bảo tôi đi hái chè tươi nấu nước cho anh em uống. Tôi nghe lời anh, chui vào vườn người ta hái trộm chè. Vừa xách bó chè tươi ra, chó sủa quá, tôi bỏ chạy. Hôm ấy rồi cũng nấu được nồi nước chè cho anh em uống đỡ khát. Anh còn rủ tôi đi Tám Nhơn câu trộm con gà luộc đang cúng ở một cái miếu gần đó.
Năm 1945, một tàu chiến Nhật Bản neo ngoài khơi biển Đông bị quân đồng minh đánh chìm. Anh Kích lúc đó là ủy viên quân sự của Mặt trận Việt Minh xã, chỉ đạo chúng tôi mang theo cưa, đục, dao lặn xuống biển, nơi con tàu chiến bị chìm, lấy sắt chở về làng rèn dao kiếm chiến đấu.
Trên giường, dưới đất, trong căn phòng nhỏ của anh đâu đâu cũng chất đầy vũ khí, giáo mác. Quý anh, mến anh, tôi có làm một bài thơ tặng anh:
Thương anh áo vải, cờ đào
Xung phong chiến trận chiến hào đó đây
Ngày xưa anh đáng bậc thầy,
Đánh Pháp, đuổi Mỹ phơi thây chiến trường.
Cuộc đời gian khổ mến thương,
Tình nhà, nợ nước đôi đường anh lo.
Bao năm chiến dịch gay go,
Quyết tâm đánh thắng, đắn đo kỹ càng.
Chiến trường đứng vững hiên  ngang,
Đánh Đông, dẹp Bắc vinh quang nước nhà.
Anh sống tình cảm, đậm đà
Quê hương, làng xóm, ai mà không thương.

Lời thơ tuy nôm na nhưng tôi còn nhớ đến tận bây giờ.”
Bác Nguyễn Văn Can hiện nay đang ở Nha Trang cũng tâm sự:
- Tôi với anh Lê Kích là hàng xóm, ở sát nhà nhau. Ngày còn trẻ, anh gan dạ lắm. Bọn lý trưởng, cường hào ở xã đều sợ anh. Từ chỗ sợ Lê Kích, bọn chúng sợ luôn phong trào thanh niên của xã do anh đứng đầu.
Tôi nhớ: Một hôm họp ở nhà Nhóm. Nhà Nhóm làm bằng gỗ có sàn cao, cách mặt đất gần 1 mét. Đây là nơi bọn hào lý thường dùng để tổ chức họp dân. Khi  tên  hương kiểm lên phát biểu, nói năng ngạo mạn, khinh  khi  dân làng, lúc đó anh Kích đang ngồi cạnh chúng. Nổi giận, anh đạp cho tên hương kiểm rơi xuống đất. Bọn chúng huy động người đến bao vây, nhưng không làm gì được, phải giải tán. Anh Kích khí khái vậy đó - nên bọn cai trị địa phương vô cùng căm tức, tìm cách trả thù anh.
Không chỉ dùng chân đạp tên hương kiểm lăn từ trên nhà Nhóm xuống, anh còn tổ chức cho thanh niên chúng tôi ở trong  xã đánh bọn Đoan (thuế vụ) vì bọn chúng ức hiếp nhân dân, bày ra sưu cao thuế nặng, cùng với các loại thuế mãi lộ gian ác khác. Chúng tôi cùng anh Kích đánh dằn mặt bọn chúng ngay tại trụ sở xã; bọn chúng không thể làm gì được. Thừa thắng xông lên, chúng tôi đến đâu, bọn chúng co mình đến đấy, không dám ho he gì cả”.
Còn đại tá Nguyễn Tùng Vân công tác tại Học viện Lục quân vừa về hưu, kể lại:
Tôi là người cùng thôn, cùng xóm với anh Lê Kích. Anh Kích vốn là một trong những cán bộ Việt Minh ở xã. Anh là người từng tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho tôi từ cuối năm 1944.
Từ đầu năm 1945, xã tôi đã tổ chức một lực lượng bán vũ trang, hoạt động bí mật; trong đó có một đội dân quân du kích, tự vệ chiến đấu, đều do anh Lê Kích chỉ huy. Du kích, tự vệ xã hoạt động gặp rất nhiều khó khăn, không có súng đạn, phần lớn là trang bị kiếm, giáo, dao, gậy gộc. Trong khi đó, bọn chánh tổng, lý hương phản động lại hay dòm ngó gây khó dễ.
Anh Lê Kích là người chỉ huy chung lực lượng quân sự của xã. Anh đã làm những việc thiết thực như: cho anh em vào nhân dân xin dao, rựa, búa rìu cũ để rèn kiếm; tổ chức lực lượng phá gỡ tàu thủy của Nhật bị quân Đồng minh bắn chìm lấy sắt thép rèn dao kiếm. Mỗi đội viên du kích tự vệ chúng tôi đều được trang bị một thanh kiếm dài để tập tành, cũng là vũ khí quan trọng để lùng bắt bọn phản động trong xã. Đồng  thời đó cũng là vũ khí của chúng tôi chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa cướp  chính  quyền ở Quảng Ngãi ngày 14 tháng Tám năm 1945.
Bọn chánh tổng, lí hương hay gây khó khăn,  anh Kích đều có kế hoạch để quật trả. Phong  trào cách mạng ở quê tôi lớn mạnh như diều gặp gió, nên bọn phản động co cụm lại, không dám làm gì chúng tôi. Phải nói rằng, do có sự chỉ huy khá vững vàng của anh Kích nên chúng tôi yên tâm, hoạt động rất có hiệu quả”.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 24 Tháng Ba, 2009, 08:51:04 am
Ngày 10 tháng 1 năm 1944, trở về địa phương, tôi chính thức được thừa nhận và được giao làm thường vụ Mặt trận Việt Minh xã, là ủy viên quân sự kiêm phụ trách thanh niên.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã được thành lập trong một khu rừng nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám. Tin vui  lan  nhanh  đến  tận miền Nam, làm cho thanh niên quê tôi  thêm  náo  nức.  Sự chờ đợi đã bao năm - như trời nắng hạn gặp được  mưa  rào.
Ngay từ  tháng 4 năm 1944,  tôi đã tham gia phong trào Việt Minh ở xã, làm “tự vệ đỏ”. Qua nhiều biến cố của đất nước cũng như gia đình, tôi không liên lạc được với các đồng chí cách mạng. Tôi phiêu bạt vào Sài Gòn, làm đủ thứ nghề: xe kéo, xe xích lô, phu khuân vác, dạy võ, làm thuốc... để kiếm sống, qua đó lân la đi tìm các đồng chí đã bị mất liên lạc. Tôi hưởng ứng cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, đi theo đoàn biểu tỉnh ở Ngã Sáu Chợ Lớn.
Ngày 10 tháng 1 năm 1944 trở về địa phương, tôi chính thức được thừa nhận và được giao làm thường vụ Mặt trận Việt Minh xã, là ủy viên quân sự kiêm phụ trách thanh niên.
Tháng 12 năm 1944, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi đã được tái lập  tại thôn Bàng Chay, xã Ba Động, huyện Ba Tơ, khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để đủ sức lãnh đạo phong trào đang phát triển mạnh. Đồng chí Trương Quang Giao được phân công phụ trách chung. Các đồng chí Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn (tức Khâm) đi  sâu vào các vùng đồng bào dân tộc thiểu số H’re ở Ba Tơ. Đồng chí Trần Lương (tức Trần Nam Trung, còn có tên gọi khác là Trần Khuy) phụ trách cánh Nam tỉnh bao gồm các huyện Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, phát triển lực lượng, liên  hệ với các phong trào các tỉnh phía Nam như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.
Đồng chí Trương Quang Giao (còn có tên là Trương Quang Viên) và Trần Quý Hai (còn có tên là Khê) phụ trách các huyện ở cánh Bắc Quảng Ngãi, bao gồm các huyện Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn, đồng thời có nhiệm vụ liên lạc với xứ  ủy Trung Kỳ. Ngày đó, anh Hai và anh Khuy phụ trách việc huấn luyện cán bộ cơ sở.
Đồng chí Khoách (tức đồng chí Thạnh, thượng tá công tác ở Cục doanh trại Tổng cục Hậu cần, năm 2000 đã 94 tuổi) tham gia cách mạng từ 1925, là người nòng cốt của khởi nghĩa Ba Tơ.
Mọi việc được triển khai một cách khẩn trương và thuận lợi thì tỉnh ủy Quảng Ngãi nhận được tin Nhật đảo chính Pháp.
Tại dốc ông Tài huyện Ba Tơ, tỉnh ủy lâm thời Quảng Ngãi tổ chức ngay cuộc họp bất thường vào ngày hôm sau, mồng 10 tháng 3  năm 1945 để nhận định tình hình, xác nhận thời gian khởi nghĩa là ngày 11 tháng 3 năm 1945, tức ngày 27 tháng giêng năm Ất Dậu.
Trong quyển "Bình minh Ba Tơ", Trung tướng Nguyễn Đôn kể lại :
"Cuộc  tranh luận kéo dài một lúc mà chưa ngã ngũ, có nên thực hiện theo chủ trương cũ của Tỉnh ủy hay lợi dụng thời cơ thực hành cuộc khởi nghĩa ở Ba Tơ. Anh Giao (tức Trương Quang Giao)  ngồi nghe không bỏ qua một ý kiến nào. Bấy giờ, anh mới nói:
- Các đồng chí bàn nhiều rồi. Tôi chỉ nói một số vụ việc cụ thể để chúng ta cùng quyết định thực hiện theo chủ trương nào thì đúng.
Về lực lượng quần chúng cách mạng, sao ta chỉ nghĩ đến bà con đói khổ lâu nay cam chịu cảnh sống áp bức và không có gan nổi dậy, không có người cầm đầu. Nay ta có cả một tập thể những người cộng sản đứng ra lãnh đạo họ đánh Tây, đuổi Nhật tức là khơi đúng vào cái mạch yêu nước chảy ngầm trong lòng họ bấy lâu nay, họ sẽ hăng hái đi theo. Còn anh em “an trí” (Một dạng quản thúc, người bị “an trí” phải trình diện theo quy định và tự kiếm sống), trừ một vài người mất tinh thần, thậm chí can tâm làm tay sai cho địch như tên Cừ, số đông vẫn là hăng hái. Lâu nay họ như người leo dốc, leo mãi mà chưa tới đích thì nản. Nay ta phân tích tình hình, phổ biến chủ trương của Tỉnh ủy, tức là chỉ cho họ cái đích, rồi cầm tay họ cùng leo thì anh em sẽ theo và cảm thấy gần tới đích thì càng hăng hái. Lính trong đồn kia thì sao? Thằng đồn trưởng đang mắc kẹt ở tỉnh, thằng đồn phó đang coi đồn ở đây. Lâu nay việc canh phòng lỏng lẻo. Tối bọn chúng cho lính về nhà, bảy giờ sáng mới vào trại. Lính ở lại trong đồn ban đêm chỉ có hơn chục tên. Số đông có cảm tình với người “an trí”, trong số đó có anh quyền Liệp (chức vụ thấp nhất trong lính bản xứ) là người hăng hái nhất. Mấy lần trò chuyện, tôi biết anh quyền Liệp đi lính một phần vì kinh tế, một phần vì có thù riêng với bọn hương lý ở làng. Lính ở trong thế "rắn mất đầu". Nếu ta dùng sức mạnh quần chúng áp đảo tinh thần rồi gọi ra giải thích chủ trương của cách mạng và chỉ cho họ con đường để tự cứu mình thì tôi tin họ sẽ bỏ đồn mà chạy. Tóm lại, theo tôi điều kiện khách quan rất thuận lợi. Đây là cơ hội nghìn năm có một. Điều kiện chủ quan chưa đầy đủ, nhưng tất cả chúng ta đồng lòng thì có thể khắc phục được. Tôi đề nghị: Chúng ta làm ngay cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền ở Ba Tơ!
Hội nghị biểu quyết thống nhất như ý kiến phân tích của đồng chí bí thư  với quyết tâm cao và tin tưởng, tiến hành cuộc khởi nghĩa nhất định thành công. Cuộc họp kết thúc vào lúc nửa đêm. Theo kế hoạch, một số đồng chí trong Tỉnh ủy đi gặp anh em “an trí” còn có tinh thần, nói rõ quyết tâm khởi nghĩa Ba Tơ của Tỉnh ủy, vận động họ tự trang bị giáo mác, dao rựa… để kịp sáng mai thừa lúc bọn địch chưa đề phòng, lợi dụng trình diện, ta xông vào cướp đồn, chiếm trại lính, lấy vũ khí địch kéo sang chiếm nha kiểm lý. Số khác vào các làng lân cận huy động quần chúng kéo đến làm áp lực, ủng hộ cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Riêng tôi được phân công xuống Trường An cùng cụ Trần Toại tổ chức cuộc khởi nghĩa ở đấy rồi kéo quần chúng từ Trường An, Tân Long lên Ba Tơ tăng cường cho lực lượng khởi nghĩa.
Trời còn mờ đất, tôi đã đến nhà cụ Trần Toại. Sau khi nghe trình bày vắn tắt chủ trương khởi nghĩa của Tỉnh ủy, cụ Toại liền phái cô Thoa, cô Diễm trong nhóm Thanh niên Cứu quốc đi triệu tập anh Tiểu, anh Cả, anh Sương và đồng chí Huỳnh Thanh, một cựu chính trị phạm, đến nhà mình nghe tôi trình bày kế hoạch khởi nghĩa Ba Tơ và phát động quần chúng làm ngay cuộc khởi nghĩa ở Trường An".

Khi sương mai chưa tan trên các triền núi thì trong thung lũng Trường An tiếng trống, tiếng mõ nổi lên làm chấn động cả một vùng rừng núi. Truyền đơn,  biểu ngữ của Mặt trận Việt Minh, cờ đỏ sao vàng theo anh Tiểu, anh Cả, anh Sương sang Tân An, Tân Long, ra xóm vạn chài, xuống Hóc Kè. Đoàn người vừa đi vừa đánh trống, dán biểu ngữ, rải truyền đơn, hô các khẩu hiệu, đọc lời kêu gọi "Hỡi quốc dân đồng bào! Nhật lật Pháp. Thời cơ cứu nước đã đến. Ai có súng dùng súng, ai không có súng thì dùng gươm, dao, giáo, mác, tự trang bị cho mình tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Ba Tơ, đánh đuổi Nhật - Pháp, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc”. Đồng bào từ các ngã nhập vào đoàn biểu tình mỗi lúc một đông. Họ vừa đi vừa giục trống, hô khẩu hiệu "Đánh phát xít Nhật, đuổi thực dân Pháp! Việt Nam độc lập muôn năm!". Khi mặt trời ban mai vượt lên dãy núi đằng đông thì mọi người đã tập trung về gò Trường An. Trên mô đất cao, nhìn biển người đứng chật khoảng gò rộng, tôi càng hiểu ra sức mạnh to lớn của quần chúng một khi lòng yêu nước của họ được cách mạng khơi dậy. Tôi nói to: " Thưa đồng bào ! Hôm qua Nhật đã lật Pháp trên toàn cõi Đông Dương, lực lượng Pháp đã tan rã đang chạy trốn. Bọn Nhật  vừa lên nắm chính quyền chưa kịp tổ chức bộ máy tay sai. Đây là cơ hội nghìn năm có một. Hơn tám mươi năm mất nước, dân chịu làm thân trâu ngựa cho  thực dân Pháp và quan Nam Triều bán nước. Mấy năm qua, Nhật vào Đông Dương, dân ta phải chịu thêm một tầng áp bức nữa. Bọn chúng ra sức bóc lột đồng bào đến tận xương tủy. Biết bao nhiêu nghĩa sĩ, anh hùng cách mạng bị chúng bắt tù đày, bắn giết. Tội ác của chúng không sao kể xiết .Giờ đây thời cơ đã đến, chúng ta cương quyết đứng lên đánh Nhật, đuổi Pháp, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Dù phải hy sinh xương máu, chúng ta thề quyết chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Giờ này anh em an trí Ba Tơ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đã đứng lên khởi nghĩa cướp chính quyền. Đồng bào mau mau xiết chặt hàng ngũ. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, tiến về Ba Tơ hợp sức với anh em an trí và đồng bào làm cho cuộc khởi nghĩa thắng lợi thành công. Việt Nam độc lập muôn năm!”
Tiếng hô khẩu hiệu vang lên như sấm dậy rung chuyển cả một vùng.
Trưa  hôm đó, một tốp địch từ Nghĩa Hành theo lộ 5A lên Ba Tơ, đã bị lực lượng khởi nghĩa phục kích tại Trường An, Ba Động, bắt được tên giám binh người Pháp.
Ngày 20 tháng 4 năm 1945, tôi được giới thiệu lên chiến khu Núi Lớn. Khu rừng Núi Lớn là nơi có loại cây dầu rái, người dân đi lại khai thác nên đường sá như mạng nhện, như một trận đồ bát quái, vào được, khó ra. Vì vậy Núi Lớn được chọn làm chiến khu để xây dựng lực lượng. Tôi ở đây tập luyện quân sự và sau đó trở về chuẩn bị tổng khởi nghĩa ở các thôn An Thạch, An Thở, Hội An, trực tiếp đi vận động cách mạng ở thôn Nghĩa Lập huyện Mộ Đức, quê của vợ tôi. Số đông bà con ở đây theo đạo Cao Đài.
Trung tướng Nguyễn Đôn, cũng kể về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ dạo đó:
"Đêm 14, chúng tôi vượt qua đèo Suối Ngổ đi đến suối Chí, địa điểm tập hợp toàn đội. Ở đây đã có mặt các đồng chí cán bộ cũ và mới: Đức, Nhạn, Phước, Trinh, Anh, Hoa, Họa, Trần Công Khanh, Khai, Dũ, Minh, Thi, Trúng, Lê Kích, Mai Láo, Trần Hiệp, Nguyễn Văn Lịnh, Lâm Tự, Trần Công, Ánh, On, Đinh San…"
Biên chế các bộ chiến sĩ vào năm trung đội: Nguyễn Nghiêm, Cử Đình, Phạm Hồng Thái, Tư Tân, Ngô Đán và một đội dự bị, một ban thông tin tuyên truyền do đồng chí Tâm phụ trách với Hoạt, Nai, Dũng.
Mọi công việc sắp xếp, điều chỉnh vũ khí súng đạn, gươm dao đầy đủ cho các đơn vị.
Toàn đại hội tập hợp nghiêm chỉnh trước lá cờ của Tỉnh ủy giao cho tôi. Lúc này tiếng tù đã vang vọng khắp nơi"


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Ba, 2009, 07:24:14 am
CHƯƠNG II
TỪ QUẢNG NGÃI RA ĐI
Phong trào chống Pháp ở Quảng Ngãi quê tôi đã có từ năm 1858. Khi thực dân Pháp chiếm Đà Nẵng, đã có nhiều nhân sĩ trí thức nhà nho yêu nước chống Pháp như phong trào Cần Vương với cuộc khởi nghĩa của ông Lê Trung Đình (1885), Nguyễn Bá Loan (1885 - 1888), Thái Thú (1894), phong trào yêu nước mang nhiều màu sắc dân chủ tư sản như: phong trào Duy Tân (1904-1908), phong trào đấu tranh dân chủ (1936-1939), v.v. Phong trào tỉnh Quảng Ngãi lúc bấy giờ do ông Lê Trung Đình, Nguyễn Tự Tân, Vũ Hội, Nguyễn Bá Loan, Thái Thú, Trần Du đứng đầu.
Ở Quảng Ngãi, người dân xuống đường biểu tình chống sưu thuế, vây kín tỉnh đường, phá tan nhà đại Việt gian Nguyễn Thân ở làng Thạch Trụ, cách làng tôi khoảng hai cây số.
Khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tỉnh Quảng Ngãi được đổi tên là tỉnh Lê Trung Đình. Lê Trung Đình là một nhà nho yêu nước, ông người làng Phú Nhân,  phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đậu cử nhân khoa Giáp Thân (1884). Chán nản vì triều đình nhà Nguyễn lúc đó mục nát, ông không chịu ra làm quan. Ông là một trong những sĩ phu thời ấy kiên quyết chủ chiến. Theo lệnh của Tôn Thất Thuyết, ông đã cùng các sĩ phu trong tỉnh Quảng Ngãi lúc ấy đã lập ra nghĩa hội, tổ chức các đoàn kiệt và hương binh để chống giặc. Lê Trung Đình được cử làm chánh quản hương binh. Khi phong trào Cần Vương bùng nổ, ông đã cùng Nguyễn Tự Tân lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, chiếm được tỉnh lỵ ngày 13 tháng 7 năm 1885.
Sau thắng lợi đầu tiên ấy, phong trào chống Pháp mỗi ngày mỗi mạnh. Nhưng ngay khi đó, đại thần Nguyễn Thân làm tay sai cho giặc đã đem quân đánh chiếm lại tỉnh thành, bắt được ông Lê Trung Đình và Nguyễn Tự Tân . Quân giặc đã tìm cách mua chuộc, nhưng hai ông không chịu khuất phục. Lê Trung Đình chửi mắng giặc cho đến chết. Ông  đã  bị  chúng  xử  tử  ngày 18 tháng 7 năm 1885.
Trước khi bị giặc giết, ông đã làm bài thơ "Lâm hình thời tác". Bài thơ có đoạn: 
Kim nhật lung trung điểu,
Minh triều trở thượng ngư.
Thử thân hà túc tích,
Xã tắc ai kỳ khu

Dịch nghĩa:
Bài thơ làm lúc sắp bị hành hình:
Ngày nay là chim trong lồng,
Sáng mai là cá trên thớt.
Thân này có đáng tiếc gì đâu,
Chỉ thương đất nước đang trải qua bước đường gập ghềnh vất vả.

Sau này, nhà văn Hoàng Tạo đã dịch thành thơ:
"Nay là chim trong lồng,
Mai đã cá trên thớt?
Thân này tiếc gì đâu,
Gian nan tình đất nước"

Trong cuốn sách "Nam  Trung Bộ kháng chiến 1945 - 1975" còn ghi lại dòng chữ khẳng định: "Ở Quảng Ngãi trong đêm mồng 7 tháng 10 năm 1930, trên năm ngàn người dân huyện Đức Phổ trương băng cờ, kéo đến huyện lỵ phá huyện đường, đốt sổ sách, hồ sơ, thả tù nhân, làm chủ huyện lỵ cả ngày, làm cho tên tri huyện phải chạy trốn.
Những ngày cuối mùa đông, ở hầu hết các làng, tổng, huyện, hàng vạn người dân mít tinh biểu tình, trấn áp cường hào gian ác, bộ máy thống trị của địch ở các làng, xã tê liệt. Người dân tự tổ chức giữ trật tự thôn xóm; xây dựng đoàn thể cách mạng, luyện tập quân sự, giúp nhau sản xuất. Tổ chức Đảng phát triển mạnh. Cả tỉnh chỉ có chín mươi chi bộ với ba trăm ba mươi đảng viên. Thường vụ Trung ương Đảng cũng đã có nhận xét phong trào đấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi là mạnh nhất ở Trung Kỳ lúc bấy giờ"
.
Chúng tôi nhớ́ như in, cuộc khởi nghĩa Ba Tơ bắt đầu từ cuộc nổi dậy của nhân dân Trường An. Tiếng trống mõ vang lên liên hồi làm khuấy động một vùng rừng, cờ đỏ sao vàng phất phới tung bay trong gió.
Những tiếng hô dậy trời dậy đất: "Đả đảo thực dân Pháp, phát xít Nhật. Việt Nam độc lập muôn năm!". Cùng lúc này, tên đồn trưởng của địch thất thểu chạy từ thị xã Quảng Ngãi về đến Trường An. Vì thiếu kinh nghiệm nên nhân dân Trường An đã không bắt giữ nó để làm con tin. Khi tên Bùi Danh Ngũ, Nha Kiểm lý Ba Tơ, cùng đám lý hương đang bàn định kế hoạch đón Nhật, thì bị nhân dân tấn công, tước mười khẩu súng. Bọn chúng phải cúi đầu nhận tội bán nước, thế là cuộc tấn công áp đảo chiếm Nha Kiểm lí Ba Tơ xảy ra êm thấm, không phải nổ súng.
Hồi kí của trung tướng Nguyễn Đôn ngày 21 tháng 8 năm 1994 kể lại:
“Cả châu Ba Tơ đêm ấy sáng ngời ánh đuốc, 28 lính khố xanh trong đồn địch hạ súng đầu hàng.  Khởi nghĩa Ba Tơ thắng lợi. Đội du kích Ba Tơ lúc mới ra mắt nhân dân ngày 12 tháng 3 năm 1945 chỉ có 17 chiến sĩ với 28 khẩu súng do đồng chí Phạm Kiệt làm đội trưởng, đồng chí Nguyễn Đôn làm chính trị viên. Sau đó con số tăng lên 28 người.
Ánh bình minh vừa rạng, thung lũng Ba Tơ còn phủ kín sương mù, cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi bắt đầu. Đồng bào kinh thượng từ Trường An, Đá Vách đổ về khí thế hiên ngang, rừng rực, uy vũ. Trong cuộc mít tinh, đồng chí Phạm Kiệt đã phân tích tình hình đất nước và phong trào cách mạng tỉnh nhà, kêu gọi nhân dân đoàn kết đánh Tây, đuổi Nhật. Đồng chí Nguyễn Đôn tuyên bố xóa bỏ chính quyền do Pháp dựng lên. Ủy ban nhân dân cách mạng Ba Tơ được thành lập. Đội du kích Ba Tơ cũng ra đời. Tiếng hoan hô vang dậy một góc trời. Cuộc diễu hành đi qua các thôn xóm cùng với tiếng hát của hàng vạn người như thác lũ trong hành khúc : “Cùng nhau đi hồng binh, đồng tâm ta đều bước, đừng cho quân thù thoát. Ta quyết chí hi sinh ...”

Thượng tướng Trần Lương (tức Trần Nam Trung) là một trong những nhà lãnh đạo khởi nghĩa Ba Tơ, nhận xét: "Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ đã tác động mạnh đến phong trào đấu tranh chống Nhật vừa thay chân Pháp ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ".
Trong hồi ức "Những năm tháng không thể nào quên", Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại:
"Tinh thần của đồng bào hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi rất cao. Ai cũng nói quyết tâm đánh Pháp, cũng đòi ra mặt trận chống quân thù. Các cô gái đều cắt tóc ngắn. Hoạt động của kẻ địch, của bọn phản động,cái tơ cái tóc cũng không qua mắt nhân dân.
 Quảng Ngãi và Quảng Nam rất phấn khởi khi nghe truyền đạt những chỉ thị mới của Bác và Trung ương Đảng. Đồng  thời  với  việc  tích cái tơ cái tóc cũng không qua mắt nhân dân.
 Quảng Ngãi và Quảng Nam rất phấn khởi khi nghe truyền đạt những chỉ thị mới của Bác và Trung ương Đảng. Đồng thời với việc tích cực chuẩn bị kháng chiến lâu dài khi chiến tranh lan tới, các đồng chí lãnh đạo ở hai tỉnh bàn bạc ngay việc gửi thêm bộ đội ra mặt trận.
 Mỗi làng xóm nho nhỏ bên đường đều như trỗi dậy, quật cường hẳn lên với những hoạt động của quân dân. Đâu đâu cũng thấy quân dân áo vải, quần nâu bình dị, trong tay khi thì khẩu súng, khi là thanh mã tấu, khi chỉ một cây tre vát nhọn nhưng khí thế lạ thường".


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Ba, 2009, 07:26:52 am
Đội du kích Ba Tơ là lực lượng vũ trang chủ yếu, là lực lượng nòng cốt của nhân dân Quảng Ngãi trong cuộc Tổng khởi nghĩa. Sau này, đội du kích Ba Tơ đã có mặt trên hầu hết các chiến trường từ Huế trở vào.
Đó là một đơn vị bảo vệ xứ ủy Trung Kỳ ở Huế. Đơn vị đồng chí Phan Phong, đồng chí Hiệp tăng cường cho Plei-ku. Một đơn vị do đồng chí Trịnh Anh phụ trách đi Kon Tum. Một đơn vị tăng cường cho hai tỉnh bạn Quảng Nam, Bình Định. Ngoài ra còn bốn chi đội nữa. Một chi đội lúc ấy tương đương một tiểu đoàn bây giờ. Một chi đội do đồng chí Bùi Trường Nga (Nghĩa Dõng) làm chi đội trưởng, phụ trách quân sự ; đồng chí Hoàng Minh Thi, người huyện Mộ Đức, làm chính trị viên (sau này là thiếu tướng tư lệnh, chính ủy Quân khu 4), một đại đội do đồng chí Tàu lãnh đạo, chi viện cho Buôn Mê Thuột. Một đại đội mang tên liệt sĩ Phan Điệt (Đề Xi). (Đồng chí Điệt hi sinh trong trận chạm trán với quân Nhật ở Xuân Phổ, huyện Tư Nghĩa ngày 16 tháng 8 năm 1945). Đại đội này do tôi chỉ huy và đồng chí Nguyễn Tấn Việt làm chính trị viên, vào Nha Trang. Một đơn vị do đồng chí Cao Thanh Trà chỉ huy vào Ninh Thuận.
Nói về liệt sĩ Phan Điệt (Đề xi) trong tập sách "Đội du kích Ba Tơ, nhớ lại và suy nghĩ" có ghi:
"Trong trận đánh quân Nhật lên Xuân Phổ chiều 16 tháng 8, Ban chỉ huy đại đội Phan Đình Phùng chỉ định anh Phan Long và anh Phan Điệt trực tiếp chỉ huy trận đánh có ý nghĩa then chốt này. Theo ý định của trên, đây là một trận phục kích đánh giáp lá cà với quân Nhật tại khu vực Cống Bàu Sắt. Đúng như dự kiến, khi trời vừa nhá nhem tối, quân Nhật đã dẫn xác lọt vào trận địa phục kích của ta. Hiệu lệnh xung phong vừa vang lên, anh Phan Điệt xông ra dẫn đầu quân ta lao thẳng vào quân Nhật. Trận đánh giáp la cà bằng kiếm, bằng súng với quân Nhật diễn ra rất ác liệt. Quân Nhật bị đánh bất ngờ, hoang mang chống đỡ, vừa đánh vừa tháo chạy, bỏ xác đồng bọn tại trận địa. Bên ta, anh Phan Điệt đã anh dũng hy sinh. Anh Bột bị thương nặng. Anh Phan Điệt được an táng tại ngã ba thôn 1, làng Xuân Phổ".
Đơn vị chúng tôi thật sự tự hào khi được cùng nhau đứng trong đội hình mang tên người anh hùng Phan Điệt.
Chúng tôi không làm sao quên được cái hôm nhân dân thị xã Quảng Ngãi và vùng phụ cận làm lễ tiễn đưa hai đơn vị Vệ quốc đoàn của tỉnh nhà lên đường tăng viện cho cuộc kháng chiến của đồng bào thành phố Sài Gòn và Nha Trang, cũng như đón mừng các đoàn quân từ các tỉnh phía bắc trên đường Nam tiến.
Đoàn tàu hỏa dài 14 toa từ từ tiến vào sân ga, không khí sôi động hẳn lên. Các đơn vị từ phía Bắc vào như Hà Nội, Hà Tĩnh, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Chiến khu Đông Triều, Bắc Ninh, Bắc Giang,  Thái Bình,  Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế, Nghệ An, ... mặc đồng phục, súng đạn, lưỡi lê sáng quắc. So với chúng tôi - những người con của Thái Phiên (Quảng Nam - Đà Nẵng), Lê Trung Đình (Quảng Ngãi) thì các anh to khỏe hơn. Họ không ngớt hát vang lên khúc ca "Diệt phát xít" của nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi...
Không còn giữ được trật tự khi con tàu vào đến sân ga. Nhân dân thị xã tề tựu đón mừng đoàn quân Nam tiến vào, tiễn con em mình ra mặt trận. Không biết cơ man nào là quà, là lương thực thực phẩm của các đoàn thể, các mẹ, các chị mang tặng đoàn quân.
Trong không khí ấy, đồng chí Nguyễn Chánh thay mặt Quân khu 5 và cụ Phương - chủ tịch Quảng Ngãi - đã ra lệnh và chỉ thị cho hai đơn vị Vệ quốc đoàn của tỉnh nhà " Phải quyết thắng". Tôi và anh Hoàng Minh Thi cũng như hàng trăm cán bộ, chiến sĩ chỉ biết hứa hẹn, xúc động, nghẹn ngào, không ai nói được nên lời.
Cùng với việc tăng cường lực lượng chiến đấu, Liên khu ủy 5 cũng đã thành lập Khu 6 để phụ trách các tỉnh phía Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên. Cấp trên giao cho đồng chí Phạm Kiệt (có bí danh là T 2) phụ trách về quân sự; đồng chí Trương Quang Giao, ủy viên thường vụ, phụ trách chính ủy và anh Nguyễn Đôn làm tham mưu trưởng. Lực lượng vũ trang Khu 6  và quân dân thành phố Nha Trang do  các đồng chí Phạm Kiệt, Trương Quang Giao chỉ huy và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tỉnh Đảng bộ Khánh Hòa.
Đoàn quân Nam tiến ấy là một hình ảnh cao đẹp, hình ảnh của những thanh niên trí thức khí thế bừng bừng hiên ngang "xếp bút nghiêng lên đường chiến đấu". Trừ một số chiến sĩ anh dũng hy sinh, còn hầu hết sau này trở thành những chỉ huy  tài trí, những tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Hai đơn vị mang tên nhà chí sĩ yêu nước Lê Trung Đình gồm những thanh niên đầy nhiệt huyết, những nông dân cần cù chất phác, lớn lên từ phong trào du kích Ba Tơ, ăn nói chắc nịch, áo cộc quần đùi, đã lên đường với một quyết tâm sắt đá "Một lòng ra đi, nào có mong chi đâu ngày trở về". Ngày 25 tháng 9 năm 1945, hai đơn vị Lê Trung Đình nam tiến vào Nha Trang và Thủ Đức.
Ngày hội của nhân dân thị xã Quảng Ngãi trong buổi tiễn đưa hai đơn vị Phạm Điệt và Trần Thành ra mặt trận là hình ảnh không lúc nào quên trong tâm trí tôi suốt chặng đường trường chinh đánh giặc.
Cả thị xã Quảng Ngãi là một rừng cờ tung bay trước bầu trời gió lộng của một buổi sáng Mùa Thu tháng 9  năm  1945. Từng đợt, từng đợt những đoàn người ùn ùn tiến vào ga, tiếng trống ếch của đội thiếu nhi nhịp nhàng với lời ca nhịp bước.
Những đội nữ du kích tay gươm, tay súng hùng dũng trong bộ trang phục áo cộc tay, quần soóc, tóc cắt ngắn, ca-lô đội lệch, cũng đổ dồn ra sân ga, tay bắt mặt mừng. Tôi bùi ngùi xúc động, tận đáy lòng mình. Với tâm trạng của người vinh dự được lên đường, tôi ngẫu hứng viết những lời tha thiết tặng nữ du kích của quê hương tôi:
Áo cộc, quần dài
Tay gươm, chân đất
Đầu tóc ngắn
Calô đội lệch
Dáng hiên ngang
Như những nữ thần.

Chị Thu, trung đội trưởng trung đội nữ du kích dùng luôn bài thơ này làm vũ khí tinh thần cổ vũ đồng đội.
Phải mất trên hai tiếng đồng hồ, đoàn tàu mới từ từ lăn bánh. Hai bên toa tàu cũng như toa cuối của con tàu đầy ắp các em nhỏ bu theo, suốt một quãng đường dài. Vào đến ga Hòa Vinh Tây - Mộ Đức - Sa Huỳnh,  nhân dân đông như trẩy hội, nồng nhiệt đón tiễn những con em của mình ra mặt trận.
Đặc biệt ở thị xã Tuy Hòa, từng đoàn múa lân, từng tốp những cô nàng cưỡi ngựa, không ít đồng bào dân tộc vùng cao trong trang phục nhiều màu sắc, tay cầm giáo dài, nỏ nhọn biểu diễn bắn cung tên. Tại ga Diêu Trì - quê hương của người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ lại có những cuộc đón tiếp mang đầy khí thế màu sắc của truyền thống Tây Sơn: từng tốp các cụ võ sư chít khăn đầu rìu, dải điều thắt  ngang lưng, trình diễn võ thuật. Những cô gái An Dinh - An Thái đánh gậy múa đao, nụ cười duyên dáng, từng đợt tiến sát đoàn tàu, lưu luyến không nỡ rời xa.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng Bộ Tư lệnh Khu 5 và nhân dân tỉnh nhà đã tập trung bảo đảm những trang bị cần thiết nhất cho con em mình và cho hai đơn vị đầu tiên của quân khu ra mặt trận. Chúng tôi được trang bị đầy đủ súng, từ Mút-xcơ-tông (Mousqueton) đến súng Phu-sin-gra (Fusilgra - súng hai nòng), số ít còn lại mang mã tấu. Lần đầu tiên trong cuộc đời của một người dân vừa thoát khỏi vòng nô lệ, chúng tôi được ngẩng cao đầu, góp sức mình vào công cuộc giải phóng quê hương. Tôi rất xúc động và tưởng như mình được chắp thêm đôi cánh. Nhiều lúc bâng khuâng tự hỏi: giấc mơ hay sự thật đâ ? Tôi và các đồng chí chỉ huy được nhận mỗi người một khẩu tiểu liên (Mitraillette). Đơn vị chúng tôi cũng được đón tiếp hết sức nồng nhiệt tại Ninh Hòa và chúng tôi ở lại đây đến hết ngày 29 tháng 9 năm 1945 thì vào Nha Trang.
Hai  đơn  vị Lê Trung Đình, một vào Thủ Đức, một đến Nha Trang. Tôi và anh Hoàng Minh Thi sát cánh bên nhau lòng đầy tự hào tin  tưởng.  Đoàn  quân chúng tôi ra đi mang theo hồn sông núi, đâu có sá gì gian khổ, hiểm nguy. Tạm biệt đơn vị đi Sài Gòn tại ga Ninh Hòa, các anh Nam Long, Lư  Giang, Hồng Việt, người lên Đắc Lắc, kẻ vào Nam. Con tàu lại lăn bánh. Nhân dân vẫy chào đoàn quân Nam tiến, chào các bạn đi Buôn Mê Thuột trong không khí  ngỡ ngàng tạm biệt.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Ba, 2009, 07:31:28 am
CHƯƠNG III
101 NGÀY ĐÊM NHA TRANG  KHÁNG CHIẾN
Ngày 29 tháng 9 năm 1945, chúng tôi đến Nha Trang. Nha Trang vẫn đông người, náo nhiệt như mọi lần. Ngoài biển khơi, thuyền bè vẫn ngược xuôi. Các trường học đều mở cửa. Nhưng bên cạnh đó, một không khí chuẩn bị chiến tranh cũng rất khẩn trương. Thực dân Pháp đã điều thêm quân đến vịnh Cam Ranh và chiến hạm Ri-chơ-li (Richelieu) là một chiến hạm thuộc loại tân tiến nhất của nước Pháp đế quốc đã có mặt ngoài khơi Khánh Hòa, Bình Thuận. Bọn lính Nhật ngày đêm tuần tiễu khu vực chúng đóng quân.
Ở Nha Trang lúc bấy giờ cũng đã xây dựng được hai đội Ký Con và Ngô Thông. Theo lệnh của Ủy Ban quân sự tỉnh Khánh Hòa và của Chi 3 do anh Trần Công Khanh chỉ huy, chúng tôi một mặt tập luyện, nghiên cứu địa hình chuẩn bị công sự, một mặt phân công nhau huấn luyện dân quân du kích làm công tác dân vận.
Những hàng tiếp tế từ khu 5 không ngừng được chuyển vào. Riêng nhân dân Quảng Ngãi vẫn theo dõi sát sao con em mình. Mùa đông ở Nha Trang rét đậm, nhất là Vạn Giã, Tu Bông, Hòa Huỳnh gió lộng, sương nhiều. Đơn vị tôi nhận được từ tỉnh nhà gởi vào 178 bộ quần áo si-ta, áo trấn thủ. Chúng tôi cấp phát cho đơn vị và dành lại một phần gởi tặng các chiến sĩ địa phương. Ngày 23 tết năm ấy các mẹ, các chị từ Quảng Ngãi mang vào những quà tết đặc sản của quê hương làm ấm lòng người chiến sĩ xa nhà. Những đoàn úy lạo không ở lại lâu vì không khí chiến tranh lúc này đang căng thẳng.
Quân và dân thành phố Nha Trang dưới sự lãnh đạo của liên khu 5 và trực tiếp của tỉnh đảng bộ Khánh Hòa, được sự động viên cổ vũ của cả nước, được sự chi viện to lớn từ các địa phương trong đó có tỉnh Quảng Ngãi, đã vững vàng trong khói lửa.
Về những ngày đáng nhớ ấy trong cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa” có ghi:
"Mặt trận Nha Trang có vị trí quan trọng nhất đối với phía Nam. Trong khi quân Anh chưa đến, thì Nhật và Việt Minh hòa hoãn không xâm phạm lẫn nhau, nhờ đó mà sự vận chuyển liên lạc không bị trở ngại. Khi quân Anh đến Nha Trang thì tù binh Pháp được Nhật thả ra và trang bị lại, bắt đầu gây hấn từ ngày 22 tháng 10 năm 1945. Quân Anh bắt quân Nhật đi trước yểm hộ cho Pháp - Anh tiến công vào công sở ta trong thành phố (quân Nhật phải thi hành lệnh của Anh, đồng thời báo cho ta biết trước).
Trong trận tấn công nội thành, ngày đầu tháng 10 năm 1945, bọn Pháp - Anh bị thiệt hại nặng phải co về cố thủ. Đến ngày 10 tháng 10 tàu chiến Pháp xuất hiện và cho lực lượng đổ bộ. Ngày 22 tháng 10 chúng lại nổ súng tấn công. Ta kiên quyết chiến đấu chung quanh vùng viện Pát-xtơ (Pasteur). Nhà đèn, nhà ga ta vẫn giữ vững".
4 giờ sáng ngày 23 tháng 10 năm 1945, ta nổ súng tiến công hầu hết các khu vực chiếm đóng của địch. Một cuộc chiến đấu không cân sức xảy ra nhưng quân dân Nha Trang đã vững tâm bền chí, duy trì cuộc chiến đấu suốt 101 ngày đêm, gây cho địch nhiều tổn thất.
Đến đầu tháng 11 năm 1945, đơn vị Lê Trung Đình do đồng chí Hoàng Minh Thi chỉ huy từ Thủ Đức trở về mặt trận Phú Vinh, cây Đa -quán Giếng. Lần lượt đơn vị Bắc Bắc, đơn vị Hải Hồ (đơn vị của Sài Gòn) do đồng chí Vĩnh chỉ huy cũng có mặt tại phía Diên Khánh, suối Dầu và lực lượng không ngừng được tăng viện. Khí thế quân dân càng cao.
Vào thượng tuần tháng 11 năm 1945, Liên khu 5 lại tăng cường cho mặt trận cánh Bắc một đơn vị pháo binh gồm 75 ly, 70 ly và cao xạ 25 ly. Đây là đơn vị pháo đầu tiên của quân đội ta trên tuyến đầu của Liên khu 5 do chúng tôi phụ trách.
Ngày 27 tháng 11 năm 1945, tại đồi La San, khẩu pháo 75 ly này của ta đã bắn chìm một tàu vận tải của địch trước khách sạn Bô Ri-va-gơ ( Beau Rivage ) nay là khách sạn Hải Yến trên đường Trần Phú - Nha Trang. Tại sở chỉ huy, qua kính viễn vọng, lần đầu tiên tôi đã ra lệnh nã pháo vào tàu giặc.
Đến Nha Trang, đơn vị Lê Trung Đình tích cực chuẩn bị chiến đấu, tham gia huấn luyện dân quân tự vệ và được bố trí tại một số nơi xung yếu nội ngoại thành, khu vực nhà thương, trường Kim Yến, bưu điện, miếu Sinh Trung, khu Mã Vồng.
Sau ba ngày chiến đấu ở nội thành, chúng tôi về giữ Xóm Bóng - đồi La San, đèo Rù Rì, Lương Sơn và hình thành thế trận cánh Bắc Nha Trang. Tôi là chỉ huy trưởng, đồng chí Võ Quang Hồ là chỉ huy phó.
Lúc này, ở cánh Bắc Nha Trang, ngoài đơn vị Lê Trung Đình, còn có lực lượng̣ tăng cường của  các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Trị, Thuận Hóa và một đại đội pháo binh. Hiệu lệnh pháo tấn công là một khối mìn lớn do đơn vị Quảng Ngãi gây nổ. Tôi lệnh cho đồng chí Biên, người xã Phổ An quê tôi, phát hỏa. Theo kế hoạch, chúng tôi đánh vào khách sạn Bô Ri-va-gơ , bưu điện. Lực lượng Nhật do sĩ quan Pháp điều khiển đã đánh trả quân ta ngay trước cổng khách sạn Bô-ri-va-gơ. Đồng chí Phạm Rồi (cũng là người xã Phổ An) đã dũng cảm hi sinh. Máu của các chiến sĩ  đơn vị Lê Trung Đình đã chảy vì sự nghiệp cách mạng của nhân dân thành phố Nha Trang.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Ba, 2009, 10:01:23 am
Tại Mã Vồng (nay là Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa), lúc 2 giờ sáng ngày 26 tháng 10, một trung đội Nhật tập kích vào trận địa ta. Trung đội do đồng chí Binh và Hoàng Công Minh chỉ huy dựa vào địa  hình có lợi, chủ động đánh địch và mấy lần đánh bật chúng xuống tận đường sắt. Đồng chí Hoàng Công Minh bị thương nặng ở chân, gặp hai tên lính Nhật xông tới. Lúc đó tôi vừa chỉ huy vừa dùng tiểu liên và lựu đạn tiêu diệt địch, thấy Minh bị thương, vội cõng đồng chí về phía sau.
Mấy chục năm sau chúng tôi mới gặp lại nhau. Anh Hoàng Công Minh kể lại những kỷ niệm một thời hai người gắn bó với nhau. Hoàng Công Minh hết sức cảm kích (Đồng chí Hoàng Công Minh hiện ở số 42 đường Nguyễn Huệ, thị trấn Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa).
Trong khi đó, chiến hạm Ri-sơ-li-ơ (Richelieu) cùng 3 hộ tống hạm  khác  ngày  đêm  bắn  phá dữ dội vào các trận địa ta.
Về ban đêm, pháo sáng của giặc Pháp chiếu khắp một vùng rộng lớn, từ Cam Ranh đến đền Cả, vào tận Đồng Trăng, km 13 đường 21. Đơn vị do đồng chí Hoàng Minh Thi tại cầu Phúc Vinh - cây Đa quán Giếng đã giữ vững trận địa nhiều ngày.
Trong trận tấn công quyết liệt của hải-lục-không quân địch ngày 25 tháng 1 năm 1946, anh Hoàng Minh Thi bị thương ở phần tiểu não phải lui về phía sau. Cấp trên chỉ định tôi thay anh. Hôm sau tôi trở về mặt trận cánh Bắc, và lệnh lui quân cũng đã từng bước thực hiện.
Theo những tài liệu sử của Nha Trang - Khánh Hòa, trong suốt 101 ngày đêm kháng chiến đó, quân Pháp bị thiệt hại lớn nhưng chúng vẫn ngoan cố. Rõ ràng kẻ thù xâm lược không muốn nhân dân ta được hưởng tự do độc lập. Chúng âm mưu mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược hòng đặt lại ách đô hộ lên đầu, lên cổ nhân dân ta một lần nữa.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn-Chợ Lớn, mở rộng chiếm đóng các tỉnh Nam Bộ và chuẩn bị tiến công các tỉnh Nam Trung Bộ.
Đầu tháng10 năm 1945, địch đưa thiết giáp hạm Ri-xơ-li-ơ tới phong tỏa vùng biển Khánh Hòa.
Từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 1945, địch đổ bộ gần một ngàn quân lên bãi biển trước khách sạn Bô Ri-va-gơ (Beau Rivage) - đồng thời tổ chức chiếm các vị trí then chốt trong thị xã, tăng cường một số phương tiện chiến tranh.
Tình hình Nha Trang được Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Trung Bộ đặc biệt quan tâm theo dõi. Xứ ủy nhận định và ra chỉ thị: Thực dân Pháp xâm chiếm Nha Trang là uy hiếp trực tiếp con đường chi viện của các lực lượng miền Bắc, miền Trung vào Nam Bộ. Cho nên vây chặt giặc Pháp tại Nha Trang, giữ con đường chi viện cho Nam Bộ là một yêu cầu bức thiết. Trung ương đã giao nhiệm vụ nặng nề này cho Đảng bộ và chính quyền cách mạng Miền Trung, trực tiếp là Đảng bộ và quân, dân tỉnh Khánh Hòa - Nha Trang.
Cuối tháng 9 năm 1945, Ủy ban Quân chính Nam phần Trung Bộ được thành lập và quyết định : Giữ vững giao thông thông suốt để chi viện cho Nam Bộ kháng chiến. Huy động quần chúng tuần hành thị uy chống quân Pháp xâm lược, đồng thời tấn công uy hiếp quân Nhật bằng quân sự và binh vận. Lập Bộ chỉ huy mặt trận Nam Trung Bộ.
Ngày 27 tháng 1 năm 1946, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí Nguyễn Sơn, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Miền Nam Việt Nam, đi xem xét tình hình mặt trận Nha Trang. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã chuyển lời thăm hỏi, khen ngợi của Bác Hồ đến đồng bào và chiến sĩ.
Với mặt trận Nha Trang, đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận xét và góp ý kiến chỉ đạo như sau:
Từ thực tiễn mặt trận Nha Trang có thể rút ra những bài học bổ ích. Rõ ràng khi địch tiến công ào ạt, lực lượng chúng còn hạn chế, việc lập phòng tuyến vừa đánh, vừa chặn địch với quyết tâm cao là tốt. Song, sắp tới thực dân Pháp sẽ tăng viện, mở cuộc tiến công mới, ta cần thấy trước và điều chỉnh ngay sự bố trí, cách tác chiến, không thể giữ mãi các phòng tuyến hiện nay mà phải chủ động rút ra một bộ phận chủ lực, chỉ để một bộ phận nhỏ bám sát địch, sẽ tổ chức những đơn vị cơ động đánh địch bằng các hình thức tập kích, phục kích, tiêu hao sinh lực địch, cho biệt động hoặc du kích thâm nhập đánh phá. Toàn dân đánh giặc, mọi vùng, mọi làng đều thành làng xã chiến đấu. Đồng thời, tỉnh nên chủ động xây dựng căn cứ kháng chiến ở vùng Đồng Trăng.
Tài liệu của Thành ủy Nha Trang, ấn hành năm 1986 nói về căn cứ địa Đồng Trăng này, như sau:
"Căn cứ địa Đồng Trăng được thành lập do kỹ sư nông nghiệp Đặng Văn Vinh phụ trách. Tại căn cứ này có hai bộ phận:
- Một bộ phận chuyên phục vụ cho công tác huấn luyện quân sự, như một trường huấn luyện tân binh bổ sung cho các đơn vị.
- Một bộ phận sản xuất vũ khí gọi là xưởng quân giới Đồng Trăng. Xưởng được đặt trong các kho chứa mũ, cán ép cơrếp của đồn điền cao su Đồng Trăng cũ. Các bàn tiện, bàn nguội, bể rèn, sắt thép, dụng cụ chủ yếu do ông Phan Hữu Lộc hiến và tháo gỡ từ các ga-ra Sac-ne, Đờ Mông-phơ-rếch ... di chuyển lên. Anh em công nhân Nha Trang tình nguyện gia nhập tự vệ được động viên lên đây làm việc. Xưởng quân giới do hai đồng chí Nguyễn Xuân Thắng và Phan Bá Đồng phụ trách. Ngoài việc sửa chữa súng, dập lại đạn, xưởng còn nghiên cứu chế thuốc nổ và sản xuất lựu đạn".
Thừa lệnh Chính phủ và Bác Hồ, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã có chuyến đi vào miền Nam thị sát lại tình hình. Trong hồi ức của mình, đồng chí ghi lại:
"Ở Khánh Hòa, chúng tôi đã nhận thêm nhiều tin tức về tình hình khẩn trương của mặt trận Nam Bộ.
Đúng là địch đang tìm cách giải vây cho Nha Trang, cố gắng đánh chiếm thêm một số tỉnh dọc bờ biển Nam Trung Bộ, cắt con đường tiếp viện từ miền Bắc vào.
Ở đây đã thấy rõ vì sao Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã đứng vững qua bốn tháng trời trước lửa đạn. Về cách đánh địch, chúng ta đã rút được, và dĩ nhiên còn phải tiếp tục rút thêm, những kinh nghiệm xương máu. Nhưng điều đã thấy được rõ ràng, là cái tinh thần "thà chết tự do hơn sống nô lệ" ở mỗi người dân. Nam Trung Bộ đang ở vào những giờ phút khó khăn. Với tinh thần đó, nhất định Nam Trung Bộ sẽ cùng Nam Bộ mãi mãi đứng vững và sẽ chiến thắng".


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 25 Tháng Ba, 2009, 10:05:59 am
Sau này khi ghi lại những  năm tháng hào hùng đó, tập sách "Nha Trang 23 tháng 10 năm 1945"(2) của Thành ủy Nha Trang đã có những nhận xét đánh giá cao về đơn vị Lê Trung Đình (Quảng Ngãi).
"Bộ đội Nam tiến đầu tiên tăng cường cho Nha Trang là chi đội giải phóng quân Lê Trung Đình. Đại đội do đồng chí Lê Kích chỉ huy lập phòng tuyến ở bờ bắc sông Cái Nha Trang. Đại đội do đồng chí Nguyễn Thế Lâm chỉ huy đóng quân ở Chợ Mới và đại đội do đồng chí Nhụy chỉ huy đóng quân ở khu vực Đoan. Một đại đội pháo binh do Xứ ủy điều vào đây dựng trận địa trên đồi La San thuộc xóm Bóng (nay là trường Đại học Thủy Sản). Đại đội này có hai sơn pháo 75 li và một pháo 25 li phòng không. Công việc chuẩn bị chiến đấu được tiến hành hết sức khẩn trương, sôi nổi.
Ở vòng trong, lực lượng võ trang ta siết chặt vòng vây xung quanh các khu vực địch đóng quân:
+ Một đại đội tự vệ do đồng chí Võ Duy Tâm chỉ huy được trang bị thêm trung liên, áp sát bao vây quân Nhật đang canh giữ kho vũ khí Bình Tân phía đông nam thành phố.
+ Một đại đội tự vệ do đồng chí Nam chỉ huy có sự phối hợp của một đơn vị cứu quốc (đơn vị gồm anh em lính khố xanh giác ngộ theo cách mạng) và một tiểu đội nữ cứu thương tổ chức tuyến bao vây các vị trí địch ở phía nam thành phố tại Xóm Mới, hướng chính nằm trực diện với đồn lính khố đỏ và nhà tên trung úy Béc-na (Berna).
+ Một đơn vị tự vệ phối hợp với một đơn vị thuộc đại đội Nam tiến Lê Trung Đình được phân công bao vây quân địch đóng lẻ tẻ tại nhà ga, nhà đèn, sở thuốc, khách sạn Bô Ri-va-gơ (Beau Rivage Hotel) và bọn địch ở rải rác trong trung tâm thành phố.
Ở vòng ngoài, tại các điểm xung yếu ven nội thành, quân ta tổ chức trận địa bao vây sẵn sàng đón đánh khi địch bung ra.
+ Một đại đội tự vệ phối hợp với trung đội Nam tiến Lê Trung Đình bố trí hình cánh cung ven sườn điểm cao đồi trại Thủy, khống chế khu  vực Mã Vồng. Đây là cửa ngõ phía tây thành phố, nơi tập trung đầu mối nhiều đường giao thông ra ngoại ô, lên Diên Khánh...
+ Một phân đội bộ đội Nam tiến Lê Trung Đình được phân công chiếm điểm cao Núi Một án ngữ khu vực ngã Sáu và đề-pô xe lửa giữa trung tâm thành phố.
+ Một phân đội bộ đội Nam tiến Lê Trung Đình được phân công chiếm lĩnh điểm cao núi Sinh Trung án ngữ khu vực đầu cầu Hà Ra bên hữu ngạn sông Cái, ngay cửa ngõ phía bắc thành phố.
... Đúng 3 giờ sáng ngày 23 tháng 10 năm 1945, tại hầm xe lửa số 1, lệnh tiến công được phát ra bằng khối thuốc nổ cực mạnh do đơn vị Lê Trung Đình đảm trách. Đơn vị này do đồng chí Lê Kích chỉ huy.
... Đồng chí Lê Kích, đại đội trưởng đại đội Nam tiến Lê Trung Đình chỉ huy phòng tuyến phía Bắc, đặt sở chỉ huy ngay tại khu di tích Pô -Na-ga (thường gọi là Tháp Bà) trên đỉnh núi Cù Lao. Trận địa súng cối 81 ly của đơn vị đặt dưới chân núi về phía Bắc.
... Từ khi ta chủ động nổ súng tiến công tiêu hao địch, mở đầu cuộc bao vây đến khi ta rút bỏ phòng tuyến Brơ-ten - chợ Mới thời gian đúng một tháng tròn (23 tháng 10 đến 23 tháng 11 năm 1945).
... Bộ  đội ta ngày đêm củng cố công sự, tăng cường quan sát tuần tiễu  sẵn sàng đánh địch. Phòng tuyến bao vây từ sườn núi Thống Nhất (thuộc dãy Chín khúc) vòng sau cây Đa - quán Giếng (trên quốc lộ Nha Trang - Thành) kéo dài đến phòng tuyến của đại đội Lê Trung Đình ở bờ bắc sông Cái, vẫn đứng vững từ đầu cuộc bao vây.
     ... Mãi đến cuối tháng 12 năm 1945, Pháp mới cho quân tăng viện hòng giải vây Nha Trang. Suốt bảy ngày đêm liền, quân ta được lệnh liên tiếp đánh quân đổ bộ đường biển.
Sau khi được tăng viện, giặc Pháp tập trung lực lượng đột kích mạnh, đánh chiếm khu chợ Mới và cố đẩy ta ra khỏi Phú Vinh (tuyến tiền tiêu của phòng tuyến cây Đa - quán Giếng). Sau mấy ngày giằng co quyết liệt, để bảo toàn lực lượng, ta rút bỏ Phú Vinh. Đến đây, Pháp dừng lại củng cố, gấp rút xây dựng Phú Vinh thành một tiểu khu quân sự (Quartier) tụ tập tay chân lập tề hòng kiểm soát khu vực Vĩnh Xương và tạo bàn đạp tiến công lên vùng hậu phương Diên Khánh.
Theo lệnh của Ban Chỉ huy Mặt trận Nam Trung Bộ, đơn vị Lê Trung Đình và đơn vị pháo binh đang án ngữ trên phòng tuyến Bắc sông Cái rút về lập phòng tuyến phía Bắc Khánh Hòa.
Ngày 29 tháng 1 năm 1946, địch chiếm M’Đắc. Ba ngày sau, chúng chiếm tiếp Ninh Hòa. Từ Ninh Hòa, một bộ phận nhỏ quân địch theo đường số 1 đánh chiếm thị trấn Vạn Giã. Ở phía nam, cánh quân từ Cam Ranh ra giải vây Nha Trang. Bộ đội, tự vệ và nhân dân dựa vào hầm hào với súng trường, chai xăng crếp, tạc đạn, giáo mác, chiến đấu ngoan cường tiêu diệt nhiều tên địch ... Đương đầu với xe cơ giới, xe bọc thép địch trên đường số 1, một tiểu đội huyện Vạn Ninh chiến đấu đến người cuối cùng tại đèo Ninh Mã. Chi đội 2 chặn đánh xe cơ giới, xe bọc thép địch ở Hòa Tân, Suối Dầu. Chi đội Bắc Bắc và tự vệ diệt hàng trăm tên địch ở bến Đò Thành, bến đò Phú Cốc. Ngày 2 tháng 2 năm 1946, quân Pháp mới giải vây được cho bọn kẹt ở Nha Trang."
Anh Võ Quang Hồ (trung đội trưởng trung đội Thuận Hóa của tỉnh Thừa Thiên) trong bài "Từ xóm Bóng đến xóm Hèo" kể lại:
"Trung đội Thuận Hóa Nam tiến của anh Nguyễn Trung Lập có hai chị cứu thương (chị Tăng Vinh, chị Tôn Nữ Lan Huê) lên thay phiên. Trung đội tôi rút lên Phú Vinh nghỉ, sau đó được lệnh chuyển sang Xóm Bóng. Tôi giao quyền chỉ huy trung đội cho đồng chí trung đội phó và cùng anh Lê Kích chỉ huy chung mặt trận phía bắc : Xóm Bóng, Lương Sơn. Anh Kích và tôi có cảm tình với nhau ngay, cùng nhau hoạt động rất chủ động, rất ăn ý, sau này còn cùng nhau chiến đấu trong thành phố Đà Nẵng, ở Hòa Vang, Đại Lộc thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp ở Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng 1946-1947. Rồi cùng nhau chiến đấu giải phóng hàng loạt để phối hợp với Điện Biên Phủ 1953-1954. Bây giờ tuổi đã "cổ lai hy" vẫn quý nhau, thương nhau, giúp đỡ nhau như anh em ruột thịt.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay đánh máy bức thư gửi chiến sĩ, đồng bào Nam Bộ và Nam Trung Bộ trao cho đồng chí Lê Văn Hiến, đặc phái viên của Chính phủ đi nắm tình hình các địa phương miền Nam đang kháng chiến và tổ chức bầu cử Quốc hội khóa 1 ngày 6 tháng 1 năm 1946. Tiếp sau đó Hồ Chủ tịch cử đồng chí Võ Nguyên Giáp vào kiểm tra tình hình mặt trận Nha Trang và truyền đạt chỉ thị " Kháng chiến kiến quốc". Điều này vừa phản ánh tầm quan trọng chiến lược của Mặt trận Nha Trang, vừa thể hiện sự quan tâm sâu sắc, tình cảm tha thiết của Bác Hồ của Trung ương Đảng và đồng bào cả nước đối với miền Nam ruột thịt.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Ba, 2009, 07:08:49 am
Hơn 101 ngày đêm kháng chiến, quân dân Nha Trang - Khánh Hòa đã lập nên một kỳ tích ngoài khả năng mà lúc đầu không ai có thể lường hết được.
Bài học thắng lợi có thể nêu lên:
Giữ vững được thế trận lâu ngày, diệt và tiêu hao lực lượng địch, tạo điều kiện cho công việc chuẩn bị kháng chiến lâu dài; giữ vững được con đường sắt Bắc Nam, bảo đảm cho tiếp vận từ Bắc vào Nam. Thành công lớn nhất là xây dựng được lòng tin trong nhân dân, phát động được khí thế của cả nước. Xét về mặt quân sự, cho đến nay trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, đánh một kẻ địch có ưu thế hơn hẳn ta về cả hải-lục-không quân, thì Nha Trang là một trận chiến rất chênh lệch, nhưng ta vẫn giữ vững và duy trì được khá lâu so với Hà Nội - Hải Phòng - Đà Nẵng. Điều này rất có ý nghĩa khi nghiên cứu nghệ thuật chỉ đạo tác chiến.
Trong chiến công giữ vững Nha Trang, hai đơn vị mang tên Lê Trung Đình đã có phần đóng góp nhất định. Các cán bộ, chiến sĩ Quảng Ngãi đã lưu lại nơi đồng chí và đồng bào Nha Trang - Khánh Hòa cái dũng khí, nhiệt tình của con em quê hương Ba Tơ lịch sử, đã để lại trong lòng nhân dân những kỷ niệm sâu sắc về tình quân dân. Mỗi khi có dịp trở lại chiến trường xưa: Xóm Bóng - Lương Sơn - Diên Khánh, .v.v. chúng tôi vẫn còn nghe không ít đồng chí đồng bào nhắc lại tấm gương hy sinh của đồng chí Phạm Rồi, kể chuyện tàu địch bị đánh chìm, những lần đầu địch nã pháo, những trận đánh  trong nội thành ...
Tại Nhà Bảo Tàng 23 tháng 10 năm 1945 của tỉnh Khánh Hòa ở số 65 đường Y-éc-xanh (Yersin) thành phố Nha Trang còn lưu giữ hàng chục tấm ảnh của đại đội Phan Điệt do nhà báo, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản ghi lại được; trong đó có tấm ảnh chụp ở lễ tiễn đưa đoàn quân Nam tiến tại ga Quảng Ngãi. Hình ảnh qua thời gian tuy không còn sắc nét nữa, nhưng thật ấn tượng. Các đồng chí thân yêu của tôi trong ảnh đều đã hy sinh, nay chỉ còn lại một mình tôi! Trong bức ảnh, tôi mặc áo sơ mi cộc tay, quần đùi. Các bạn khác thì trông tươm tất hơn. Có anh được mặc áo quần bộ đội, đầu đội mũ ca-lô. Nhìn vào các bức ảnh ấy, lòng tôi xao xuyến làm sao, thương nhớ làm sao! Có bức ảnh, tôi đang chỉ huy đơn vị pháo. Dọc theo hành lang nhà Bảo tàng, chân tôi đi mà lòng rối bời, nhung nhớ. Làm sao quên được những tháng ngày gian nan, khổ cực ấy, lúc đơn vị Lê Trung Đình chúng tôi đã kề vai sát cánh cùng đồng bào Khánh Hòa - Nha Trang chiến đấu kiên trường trên 100 ngày đêm.
Một sự việc xảy ra ngay trong những ngày Nha Trang kháng chiến năm đó suốt đời tôi không bao giờ quên được.
Hôm ấy, tôi và đồng đội đi tuần tra từ Tháp Bà, Xóm Bóng xuống đến bờ sông, chợt thấy phía Cù Lao có một số người ngồi trong ghe. Tôi cho đơn vị của mình đưa thúng tre ra đón vào.
Trong một bài viết đăng trong tập hồi ký “Mặt trận Nha Trang Khánh Hòa”; đồng chí Nguyễn Thị Hợp lúc đó là một nữ trinh sát đã kể lại:
 “Sáng hôm sau tôi đi tiếp đến Cầu Xóm Bóng thấy có bót gác ở đầu cầu bên này, nhìn xuống sông Cái thấy rất ít ghe thuyền qua lại, tôi quay về đi xuống biển cũng thấy ít người qua lại, trên đường toàn xe jeep và xe tải Nhật chạy qua lại nhiều.
Đến ngày các anh trong đội họp bàn kế hoạch đánh phá thành phố, hôm đó anh Vượng cho tôi tiền đi lên Thành chơi, lúc quay về các anh gặp tôi và nói: Tối nay cô ở nhà trông nhà để anh em về Thành hoạt động. Tôi nhất định không chịu ở nhà, cứ đòi đi cùng các anh. Sau đó, anh Vượng giải thích là trong đội chỉ có tôi là nữ, tôi còn nhỏ đi nguy hiểm lắm. Tôi nòi không cho tôi đi, tôi cũng đi theo. Cuối cùng anh Vượng đành phải cho tôi đi theo tổ của các anh  để đốt phá đồn bót Nhật đóng ở Xóm Cồn. Cả đội chia làm bốn tổ về phía nhà đèn, nhà ga, Khách sạn Beau Rivage, Xóm Cồn, cùng thống nhất hành động lúc 12 giờ khuya.
Chiều đó tôi đi men theo vào xóm đến sau chân Tháp bà, trước khi đi nấu nồi cháo gà cùng ăn và hứa khi hoàn thành nhiệm vụ mới được trở về.
Đúng 12 giờ khuya, bốn anh em, gồm: Vượng, Sanh, Ca và Hợp lên đường lội dưới chân cầu xóm Bóng, bơi ra sông vào Xóm Cồn, đặt mìn đốt xong cùng chạy ra, vừa lúc ấy có vài gịot mưa lâm râm, anh Vượng sợ ngòi nổ không cháy nên chạy vào kiểm tra cẩn thận một lần nữa rồi mới chạy ra ghe.
Trong lúc vội, thấy chiếc ghe của đồng bào neo vào cây sào, còn dầm tre họ giấu hết rồi. Chỉ còn một cây sào. Anh em vào ghe. Anh Vượng chống sào; sào bị mục gãy, đêm khuya nước lại dâng cao, ghe trôi ra cửa biển. Thấy có mấy Cù Lao nổi, anh Vượng bơi nhanh vào, chúng tôi vứt dây neo kéo vào. Bốn chúng tôi ngồi sát vào nhau vì lạnh quá. Lúc đầu còn giữ ghe lại, sau thấy sóng dập vào ghe sợ bể ghe. Anh Vượng bảo thả cho ghe trôi đi. Chúng tôi ngồi sát vào nhau và hát thật to. Vui nhất khi nghe thấy có tiếng nổ to, lửa phụt cháy cao, rồi tiếp máy chỗ khác cháy, mừng quá chúng tôi la hét thật to cho đỡ lạnh. Một lúc sau thì có anh Lê Kích và đơn vị của anh đưa thúng tre ra đón chúng tôi vào bờ”.
Người phụ nữ ấy tên là  Nguyễn Thị Hợp, là một trinh sát của ta đã dũng cảm  cùng đồng đội đốt mấy bồn xăng ở sân bay của Pháp trong thị xã.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Ba, 2009, 07:13:18 am
CHƯƠNG IV
VỀ VỚI ĐÀ NẴNG - QUẢNG NAM

Từ tháng 1 năm 1946, tình hình địch trên chiến trường Đông Dương có sự thay đổi lớn: Được sự thỏa thuận của Mỹ, Pháp thay chân quân Anh ở miền Nam (tháng 1 năm 1946, quân đội Anh rút khỏi miền Nam Đông Dương). Pháp cầu cạnh Mỹ và đổi chác với Tưởng Giới Thạch về ký hiệp ước Hoa -  Pháp ngày 28 tháng 2 năm 1946, cho Pháp được quyền đem quân thay thế cho quân Tưởng ở miền Bắc Đông Dương. Để  tránh tình thế bất lợi cho ta, và dành thời gian chuẩn bị cho  cuộc chiến đấu  mới, tiến tới giành độc lập hoàn toàn, ngày 6 tháng 3 năm 1946, Chính phủ ta ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp  định sơ bộ đặt cơ sở cho việc đàm phán đi đến một hiệp ước chính thức.
Hiệp  định sơ bộ quy định Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự do, có Chính phủ, có Nghị viện, có quân đội, có tài chính riêng, ở Liên bang Đông Dương và trong khối liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định của một cuộc trưng cầu ý dân về vấn đề thống nhất ba kỳ. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thỏa thuận cho mười lăm nghìn quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân đội Tưởng. Ủy ban Liên Kiểm quân sự Việt - Pháp được thành lập gồm các sĩ quan của ta và Pháp. Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam điều đến Đà Nẵng trung đoàn 96 làm nhiệm vụ "tiếp phòng", thực chất là để tăng cường thế trận phòng thủ, sẵn sàng giáng trả quân địch.
Đầu tháng 10 năm 1946, tổng chỉ huy quân viễn chính Pháp ở Đông Dương, đại tướng Đắc Giăng-li-ơ (D’Argenlieu) đến Đà Nẵng thị sát, cổ vũ bọn thực dân Pháp, diễu võ dương oai, đánh đòn tâm lý vào nhân dân ta. Sau đó, tháng 12 năm 1946, giặc Pháp đưa tàu Su-fren (Suffren) cập bến Đà Nẵng đổ bộ 1028 tên, trong đó có 3 sĩ quan cấp tá, 35 cấp úy cùng với 6 xe bọc thép và 26 xe jeep. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, chỉ một ngày sau ngày toàn quốc kháng chiến, thêm năm ngàn tên Pháp được đưa tới Đà Nẵng.
Tháng 11 năm 1946, đồng chí Phạm Văn Đồng được cử làm đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ Trung ương ở miền Nam Trung Bộ.
Đồng chí Phạm Văn Đồng đã chỉ thị cho các cấp cán bộ Đảng:
"Nhiệm vụ hàng đầu của Nam Trung Bộ lúc này là phải cương quyết chặn đánh các cuộc tiến công lớn của chúng, giữ vững vùng tự do, góp phần cùng cả nước đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp".
Tháng 10 năm 1946, Ủy ban Quân sự Quảng Nam - Đà Nẵng được thành lập.
Đồng chí Đàm Quang Trung làm chỉ huy trưởng, đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ làm chính trị viên, đồng chí Nguyễn Bá Phát làm chỉ huy phó. Và chỉ huy sở của Trung đoàn 96 cũng được dời về ngã tư Yên Khê.
 Riêng tiểu đoàn 17 (do tôi làm tiểu đoàn trưởng), từ trụ sở Ủy ban Kháng chiến hành chính thành phố, nhà bưu điện, lên ngã Năm và Cổ Viện Chàm về Chợ Mới ...
Quân Pháp liên tục vi phạm hiệp định. Chúng đưa những tên cai trị cũ người Pháp trở lại, liên hệ móc nối bọn tay chân cũ, hoạt động tình báo, gây hấn khiêu khích. Dựa vào hiệp định và sức mạnh quần chúng, phái đoàn ta kiên quyết đấu tranh ngăn chặn những hoạt động phá hoại hiệp định của Pháp.
Cuối tháng 3 năm 1946, phái đoàn Chính phủ ta do đồng chí Hoàng Quốc Việt làm trưởng đoàn đến tỉnh Khánh Hòa truyền đạt tinh thần Hiệp định ngày 6 tháng 3, và chủ trương của Trung ương. Các cuộc mít tinh đón phái đoàn được tổ chức tại phá Ân Nam, huyện Diên Khánh và núi Ổ Gà, sân vận động Lạc Ninh (huyện Vạn Ninh). Nhân dân ta bất chấp uy hiếp, khủng bố của giặc, đi dự mít tinh rất đông, nhiệt liệt biểu thị sự ủng hộ đối với Chính phủ ta ký Hiệp định sơ bộ Việt Pháp, đòi Pháp phải thi hành Hiệp định.
Ngày 20 tháng 11 năm 1946, quân Pháp đánh Hải Phòng, tiến công bộ đội ta ở Lạng Sơn. Đầu tháng 12 năm 1946, một trung đoàn bộ binh Pháp gồm 6.700 tên cùng nhiều xe tăng, đại bác đổ bộ lên Đà Nẵng.
Trước hành động gây chiến của thực dân Pháp ở khắp nơi, Đảng ta chỉ rõ: "Sự thật chứng tỏ rằng thực dân Pháp ngang nhiên gây hấn. Chúng định dùng vũ lực bắt ta phải nhượng bộ. Nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14 tháng 9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại đến quyền lợi quan trọng của dân tộc".
Thường vụ Trung ương Đảng chỉ đạo cả nước chuẩn bị bước vào chiến tranh. Theo quyết định của Trung ương, tháng 12 năm 1946, Ủy ban Quân sự các tỉnh Nam Trung Bộ được thành lập để thống nhất chỉ huy lực lượng quân, dân, chính. Ở mặt trận Đà Nẵng, các cơ quan, kho tàng, công binh xưởng của ta chuyển về nông thôn. Ủy ban Kháng chiến thành phố dời ra ngoại thành. Nhân dân phối hợp với bộ đội đào hào, đắp ụ, đục tường, xây dựng các khu chiến đấu xung quanh thành phố. Trung đoàn 96, bố trí đánh địch trong thành phố; trung đoàn 93 bố trí phía Nam sông Cẩm Lệ.
Nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước nhất tề đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ở Đà Nẵng, từ ngày 15 tháng 12 năm 1946, tỉnh ủy Quảng Nam mở hội nghị ra nghị quyết chuẩn bị kháng chiến. Theo kế hoạch chung, lần lượt sơ tán dân, triển khai bố phòng tích cực. Chiều ngày 19 tháng 12 năm 1946, một cuộc họp khẩn cấp của tỉnh và ban chỉ huy mặt trận tại số nhà 18 phố Ga (nay là trụ sở Hội Nông Dân thành phố Đà Nẵng) do đồng chí Trương Quang Giao, bí thư tỉnh ủy chủ trì nhằm quán triệt tình hình nhiệm vụ, kế hoạch tác chiến theo lệnh chung của toàn quốc.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Ba, 2009, 07:17:41 am
Hiện nay tại trụ sở Hội Nông Dân thành phố Đà Nẵng còn gắn tấm bia ghi lại như sau:
"Tại đây cuối năm 1946 là sở chỉ huy của tiểu đoàn 18 trung đoàn 96.
Lúc 13 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, đã có cuộc họp hội nghị  đặc  biệt  khẩn  cấp, gồm các ông Nguyễn Thúy, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh; Đàm Quang Trung, chỉ huy trưởng; Huỳnh Ngọc Huệ, chính trị ủy viên; Trương Quang Giao, bí thư tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng; Nguyễn Bá Phát, chỉ huy phó của Ủy ban Quân sự tỉnh; Vũ Khương  Ninh,  phó  bí thư thành ủy; Trần Đình Trị, chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố; Lê Kích, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 17; Võ Quang Hồ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 18; Giáp Văn Cương, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 19, .v.v. bàn kế hoạch đối phó với thực dân Pháp phản bội "Hiệp ước sơ bộ" xâm lược lại nước ta một lần nữa.
Giữa hội nghị, nhận được điện của Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng chỉ huy Quân đội Võ Nguyên Giáp, ra lệnh: "Tổ quốc lâm nguy, giờ chiến đấu đã đến!". Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, tôi ra lệnh  cho toàn thể bộ đội, vệ quốc đoàn, dân quân, tự vệ Trung - Nam - Bắc  phải nhất tề xông  tới  mặt trận giết giặc, cứu nước, hy sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược! Quyết chiến!
Toàn  thể Hội nghị tỏ rõ quyết tâm "hy sinh vì Tổ quốc “rầm rập bắt tay vào cuộc chiến đấu ..."
Theo chỉ đạo của trên, từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 chúng ta sẽ triển khai lực lượng bám sát quân thù. Thật đáng tiếc là trong giờ phút "nghìn cân treo sợi tóc" ấy, đồng chí Nguyễn Thùy, trung đoàn trưởng trung đoàn 96 thuộc mặt trận Đà Nẵng đã không chấp hành nghiêm mệnh lệnh vì mải lo việc riêng. Mãi đến 6 giờ 10 phút ngày hôm sau, 20 tháng 12 năm 1946, Đà Nẵng mới nổ súng tấn công.
Nhân dân thành phố Đà Nẵng cùng bộ đội, công an, tiểu đội bảo vệ Nha Thuế quan đánh địch suốt ngày 20 tháng 12 ở bốt đội Cung, Cổ Viện Chàm, hiệu sách Thái Thị Bôi, Cầu Vồng, Ngã 5 ... Thanh niên, phụ nữ, thiếu niên xông pha lửa đạn tiếp cơm, cứu thương, thông tin liên lạc phục vụ chiến đấu. Ngày 21 tháng 12 năm 1946, quân đội Pháp tập trung lực lượng đánh về phía Chợ Mới, bị bộ đội ta cùng tự vệ chặn đánh nhiều đợt, đánh cả vào phía sau đội hình địch. Hàng ngàn tự vệ và nhân dân các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, kéo vào tiếp sức quân, dân thành phố, xây dựng chiến hào, tổ chức tuyến chiến đấu mới. Đêm 20 và 21, tiểu đoàn 19 hai lần tập kích sân bay. Đêm 22 tháng 12, tiểu đoàn 17 do tôi chỉ huy tập kích Chợ Mới.
Sau một tuần chiến đấu, quân và dân ta trong thành phố tiêu diệt trên năm trăm tên địch. Tối 24 tháng 12, trung đoàn 96 lui về tuyến chiến đấu ngoại thành.
Đà Nẵng là một trong chín địa điểm có quân hai bên làm tiếp phòng quân. 8 địa điểm khác là : Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định, Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn, Vinh, Huế.
Về phía quân đội Pháp, thiếu tá Ghi-bô là tiểu đoàn trưởng kiêm trưởng ban liên kiểm. Địch đóng quân trên hai khu vực sân bay và đồn khố đỏ, dọc tả ngạn sông Hàn đến bờ biển; một số ở trên tàu. Hàng tuần thay phiên một lần vào chiều thứ bảy.
Quân Pháp chỉ đi lại trên những trục đường đã quy định : từ đồn lính khố đỏ đến sân bay và từ khu vực đóng quân ra tàu biển. Riêng đơn vị Pháp làm nhiệm vụ tiếp phòng với quân đội ta, thì hằng ngày hai bên đều đi tuần tra khu vực nội thành, gọi là giữ gìn trật tự, theo các trục: Tiểu đoàn 17 từ chợ Hàn - Chợ Mới, ngã Năm theo đường Phan Chu Trinh. Tiểu đoàn 18 từ Chợ Hàn, chợ Cồn, nhà ga và theo đường từ Ga - Cầu Vồng  về Bạch Đằng, v.v.
Các đơn vị tuần tra hỗn hợp thường mỗi bên có một tiểu đội 10 người do một cán bộ trung đội chỉ huy. Để tổ chức được các trung đội làm nhiệm vụ, trực tiếp với đối phương, chúng tôi phải chọn số anh em biết tiếng Pháp người khỏe mạnh, cao to. Hàng ngày, đúng 6 giờ sáng, thì hai bên gặp nhau. Sau một vài nghi thức nhà binh như xếp hàng ngang đối diện cùng bồng súng chào nhau, xong thì bắt đầu nhiệm vụ. Cứ mỗi ngày lại thay đổi chỉ huy.
6 giờ sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, vẫn như thường lệ, một tiểu đội Pháp trên đường đến vị trí quy định. Như vậy là bọn Pháp ở đây chưa có lệnh mới. Mặc dù chưa có lệnh của trung đoàn, tôi vẫn lệnh cho đơn vị mình nổ súng. Tiếc rằng, lệnh tiến công chung đã không phát ra như đã hiệp đồng tác chiến do trung đoàn trưởng Nguyễn Thùy rời sở chỉ huy về Vĩnh Điện thu xếp gia đình.
Về phía ta trong Ban Liên kiểm Việt - Pháp do đồng chí  đại tá Trịnh Di làm trưởng ban. Ngoài ra còn có đồng chí đại úy Lê Hòa, và một số cán bộ quân báo như đồng chí Thuần, đồng chí Thành, Ngô - Thông v.v... Tôi và anh Võ Quang Hồ mang quân hàm thiếu tá. Cứ 14 giờ ngày thứ bảy hàng tuần, hai bên ta và Pháp gặp nhau, khi thì ở khách sạn Mo-rin (Bây giờ là khách sạn Bạch Đằng), khi thì tại sở chỉ huy của Ghi-bô.
Mọi tiếp xúc cũng chỉ là xã giao, thăm dò nhau. Có lần Ghi-bô hỏi tôi và anh Võ Quang Hồ:
- Thưa hai ngài thiếu tá, xin cho phép tôi hỏi : các ngài đã học lớp quân sự nào chưa và học ở trường nào?"
Tôi hơi phật ý, nhưng vẫn giữ thái độ ôn hòa.
Anh Võ Quang Hồ nhìn tôi, nói:
- Kích trả lời đi.
Vì đã dự kiến từ trước nên chúng tôi không có gì lúng túng. Tôi nghiêm nét mặt:
- Cám ơn ngài thiếu tá đã có nhã ý muốn biết về chúng tôi. Nhưng thưa ngài - tôi nhìn sang mấy sĩ quan tham mưu phòng nhì của Ghi-bô - tôi nghĩ rằng các sĩ quan phòng nhì của ngài chắc đã có báo cáo về những gì họ tìm hiểu về chúng tôi.
Ghi-bô cười ngượng nghịu, tôi nói tiếp:
- Như ngài đã rõ, nhân dân Việt Nam chúng tôi chỉ trong một khoảnh khắc đã làm nên cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 chấn động địa cầu. Và cách chỗ chúng ta ngồi đây 150km, chắc ngài có biết viên đại úy giám binh ở đồn Ba Tơ; nhân dân Quảng Ngãi cũng chỉ một đêm là giành được thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa. Và thưa ngài, tôi và ông bạn của tôi đây - tôi chỉ anh Võ Quang Hồ - cả hai chúng tôi cũng đã từng đón nhận hàng ngàn đạn pháo cỡ 210 ly và 380 ly của thiết giáp hạm Ri-sơ-li-ơ và của các hộ tống hạm khác. Thưa ngài, chúng tôi học ở các trường đó.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 26 Tháng Ba, 2009, 07:22:00 am
Cuối tháng 8 năm 1946, tiểu đoàn 19 do đồng chí Giáp Văn Cương chỉ huy đã đi từ Kon Tum về cùng đứng trong đội hình của trung đoàn 96: một đại đội chốt giữ đèo Hải Vân, một đại đội ở Phước Tường (phía tây sân bay ); một đại đội cơ động ở Nam Ô, Trường Định.
Theo chỉ thị của Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của thành ủy thành phố Đà Nẵng, trung đoàn 96 tập trung huấn luyện chiến đấu, cùng với Ban Quân sự thành phố tổ chức huấn luyện tự vệ và du kích, nghiên cứu địa hình khu vực; làm công tác dân vận. Nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Đảng, bồi dưỡng cán bộ. Đồng chí Lê Hữu Đức, tiểu đoàn phó và một số đồng chí được ra Sơn Tây dự học lớp quân chính khóa 1.
Trung đoàn 96 khi mới thành lập chỉ có hai tiểu đoàn và lực lượng lãnh đạo cũng chỉ có 6 đảng viên mới. Đó là đồng chí Trần Hoài Ân chính ủy; đồng chí Hàn chủ nhiệm chính trị; đồng chí Trình, chính trị viên tiểu đoàn 18. Về sau, có thêm đồng chí Nam Long và Đàm Quang Trung là hai trung đoàn trưởng từ  Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tăng cường về. Cuối tháng 9 năm 1946, các đại đội đều có chi bộ đảng từ 5 - 7 đồng chí, tiểu đoàn có Liên chi và các tổ chức Đảng ủy Trung đoàn. Đảng bộ trung đoàn 96 ngày càng đông về số lượng và mạnh về chất lượng, là nhân tố quyết định để lãnh đạo trung đoàn trong xây dựng cũng như trong chiến đấu sau này. Công lao to lớn đó thuộc về Đảng bộ Đà Nẵng, mà người đóng góp lớn nhất là đồng chí Nguyễn Khương Ninh, bí thư thành ủy Đà Nẵng lúc bấy giờ.
Tháng 4 năm 1946, đồng chí Nguyễn Sơn ra Đà Nẵng làm việc với trung đoàn; trực tiếp kiểm tra các tiểu đoàn. Lúc này, đồng chí Nam Long đã thay đồng chí Nguyễn Thế Lâm. Đồng chí Nguyễn Sơn chỉ thị các nội dung chủ yếu sau đây :
- Ra sức phát triển Đảng.
- Bồi dưỡng cán bộ cả chính trị và quân sự.
- Tăng cường huấn luyện chiến đấu.
- Đoàn kết phối hợp chặt chẽ với địa phương.
- Đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu.
Đây là lần thứ ba tôi được trực tiếp làm việc với đồng chí Nguyễn Sơn. Lần thứ nhất ở Quảng Ngãi, lần thứ hai ở Nha Trang và lần  này  ở  Trung  đoàn  96. Đồng chí Nguyễn Sơn là  một cán bộ có tầm  hiểu  biết  rộng và đầy bản lĩnh. Ông là người Việt Nam duy nhất có danh  hiệu "Lưỡng quốc tướng quân" của Việt Nam và Trung Quốc.
Tháng 6 năm 1946, đồng chí Lê Thiết Hùng, thiếu tướng tư lệnh bộ đội tiếp phòng quân, cùng anh Hoàng Điền tham mưu trưởng vào Đà Nẵng. Lúc này, tàu lửa còn thông suốt từ Hà Nội đến Diêu Trì, Quy Nhơn. Mạng lưới thông tin khá thông suốt, chúng tôi thường nhận các chỉ thị qua điện thoại từ Hà Nội vào Liên khu 5 rất thuận lợi. Cũng như đồng chí Nguyễn Sơn, đồng chí Lê Thiết Hùng đi sát tận các đại đội, tìm hiểu và động viên chiến sĩ, tham gia nhiều ý kiến trong khi theo dõi đợt huấn luyện chiến đấu của các tiểu đoàn.
Hàng tuần, cũng theo thường lệ, tại trụ sở Ủy ban Kháng chiến - nay là trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, có cuộc gặp mặt các cán bộ đầu ngành do đồng chí Trần Đình Thi và đồng chí Nguyễn Khương Ninh chủ trì để xem xét công việc tuần trước và trao đổi quyết định công việc trong tuần. Lúc bấy giờ tình hình nội bộ đơn vị chúng tôi rất tốt, cán bộ quân dân chính Đảng hết sức nghiêm túc, thật sự quý thương nhau, nhất hô bá ứng. Đó là nguồn cổ vũ, là sức mạnh giúp chúng tôi trong Trung đoàn 96 trưởng thành.
Tháng 9 năm 1946, các chi bộ Đảng Cộng sản được tổ chức. Liên chi ủy được thành lập. Tôi được bầu làm bí thư Liên chi, đảng ủy viên Trung đoàn 96.
 Vào khoảng trung tuần tháng 10 năm 1946, Đắc Giăng-li-ơ sau khi tiếp kiến Hồ Chủ tịch từ hội nghị Phông-ten-nơ Bờ-lô trở về vịnh Cam Ranh, đã đến Đà Nẵng thị sát và giao nhiệm vụ cho Ghi-bô.
Tình hình từ đó có nhiều chuyển biến khác trước : Địch bí mật bổ sung lực lượng chiến đấu, các kho vũ khí được mở rộng; từng bước tăng quân số theo sự thay quân hàng tuần. Đến ngày 15 tháng 12 năm 1946, lực lượng địch từ một ngàn quân lúc đầu đã tăng lên gần hai ngàn quân, ta không kiểm soát được.
Dựa vào các tiểu đội trinh sát len lỏi ban đêm, ta phát hiện nhiều kho đạn, kho dự trữ chiến đấu khác - nhất là lương thực, thực phẩm. Đêm nào anh em cũng mang về mấy thùng lựu đạn, lương khô (đồ hộp). Có một lần, anh em đưa về được 5 súng trường, 1 súng tiểu liên. Trong một cuộc gặp mặt với ta vào cuối tháng 11 năm 1946, Ghi-bô có đề cập đến vụ việc mất vũ khí lương thực này.
Ngày 15 tháng 12 năm 1946, một cuộc họp mở rộng của Tỉnh ủy Quảng Nam, tiếp theo là cuộc họp quán triệt tình hình cho cán bộ chủ chốt các ngành. Nhân dân thành phố Đà Nẵng từng bước sơ tán nhưng các hoạt động tuần tra giữa hai bên vẫn bình thường cho đến giờ nổ súng.
14 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, tỉnh lại mở cuộc họp khẩn cấp để thống nhất kế hoạch hành động theo lệnh của Trung ương và Bộ Tổng tham mưu. Sau cuộc họp, tất cả chúng tôi lao ngay vào công tác triển khai lực lượng, cùng địa phương khẩn trương tổ chức cho số đồng bào còn lại kịp sơ tán trong đêm.
Tiểu đoàn 101 và tiểu đoàn 102 đã chuyển về đứng ở nam Đò Xu - Ngũ Hành Sơn và Miếu Bông. Thế trận đã sẵn sàng. Một đêm thật khẩn trương, căng thẳng. Gió mùa đông bắc thổi mạnh, sương mù dày đặc, sóng biển liên tục vỗ vào bờ  như thôi thúc người chiến sĩ ra quân giành chiến thắng.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2009, 06:23:43 am
Tháng 12 năm 1946, cùng với quân dân cả nước theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, sự chỉ đạo và chỉ huy của Bộ Tổng tham mưu  và Bộ Tư lệnh Quân khu 5, sự lãnh đạo của Liên khu ủy khu 5  nên Quân khu 5 đã phát huy được sức mạnh tổng hợp, đánh bại địch từng bước, giành thắng lợi trong từng trận đánh và đợt hoạt động cuối cùng đã chặn đứng được quân thù trên tuyến Bắc sông Thu Bồn cho đến ngày 20 tháng 7 năm 1954.
Thiếu tướng Võ Quang Hồ, nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 18, Trung đoàn 96; là người bạn đã từng nếm mật nằm gai với tôi ở mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng trong những ngày đầu kháng chiến, đã kể lại trong bài viết "Ở điểm quyết chiến" của mình như sau:
"Gặp lại anh Lê Kích cũng chỉ huy mặt trận Xóm Bóng, ương Sơn, phía bắc Nha Trang, hơn 100 ngày đêm. Anh Nguyễn Thế Lâm, trung đoàn phó cho tôi xem tài liệu giải thích về Hiệp định sơ bộ 6-3 "Hòa để tiến", "tiến để hòa". Anh Nam Long, trung đoàn trưởng, tiếp tôi rất thân tình và giao cho tôi chỉ huy tiểu đoàn 18; anh Lê Kích chỉ huy tiểu đoàn 17.
Anh Lê Kích cùng tôi chiến đấu ở Nha Trang ra Đà Nẵng. Anh Phát từ Nam Tây Nguyên về mặt trận Bình Định rồi tới Nha Trang. Anh Giáp Văn Cương chỉ huy tiểu đoàn 19 từ Bắc Tây Nguyên xuống. Có người là nông dân, có người là công chức, có người là sinh viên, có người là lính thủy trong quân đội ngày xưa. Chúng tôi gặp nhau trong thử thách máu lửa của đất nước. Cũng như hầu hết cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn, mọi người cùng chung một ý tưởng trong sáng hơn bao giờ hết".
Tôi còn nhớ mãi: Chiều ngày 19 tháng 12 năm 1946, đồng chí Trương Quang Giao, Huỳnh Ngọc Huệ, Đàm Quang Trung đã chủ trì một cuộc họp khẩn cấp tại ngôi nhà số 18 phố Ga. Tham dự có đông đủ ban chấp hành các trung đoàn 93 và 96, các tiểu đoàn trưởng và các ngành chủ yếu thuộc tỉnh và thành phố Đà Nẵng, huyện Hòa Vang. Cuộc họp nhằm kiểm tra việc quán triệt chỉ thị của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ngày 15 tháng 12 năm 1946 về tình hình nhiệm vụ; về công tác chuẩn bị kháng chiến khi có lệnh; xác định quyết tâm và yêu cầu phải giành thắng lợi ngay trong những ngày đầu chiến đấu ở nội thành và phụ cận; sử dụng lực lượng, chuẩn bị cho tuyến ngoại vi; giờ nổ súng bảo đảm sơ tán dân; bảo đảm chiến đấu và phục vụ chiến đấu ...
Mệnh lệnh chung lúc bấy giờ là:
Tận  dụng điều kiện về thời tiết như đêm tối, gió mạnh, sương mù, tiếng  gầm của sóng biển, áp sát lực lượng bất ngờ đánh áp đảo địch, phá hủy kho dự trữ của chúng trên 2 khu sân bay và khu cảng, gây thiệt hại lớn về sinh lực và phương tiện, vật chất, kiên quyết ngăn chặn làm  chậm  bước tiến quân thù, bảo đảm cho nhân dân còn ở lại sơ tán. Để thực hiện được nhiệm vụ nói trên  cần phải giữ sinh hoạt bình thường của nhân dân  gần khu địch, không được có một việc gì để địch nghi ngờ. Từ ngã Năm, chợ Cồn, Ga... nơi xa địch thì từ 16 giờ chiều bắt đầu sơ tán. Việc sơ tán dân do cơ quan công an - du kích, mặt trận đảm nhận.
Về sử dụng lực lượng, cấp trên giao:
Trung đoàn 96: được phối thuộc mới tiểu đoàn 2, trung đội du kích, tự vệ, một tiểu đội công an, trong đó có:
+ Tiểu đoàn 17 làm nhiệm vụ:
Chiếm đóng Khuê Trung (sát sân bay) và một đại đội của tiểu đoàn 19 đóng tại Phước Tường. Điều ngay 4 khẩu súng cối 81 ly và trọng liên 12,7 ly từ trung đoàn 93 giao cho các đơn vị nói trên. Khi có lệnh, dùng hỏa lực đánh mạnh sân bay: gây cháy lớn khu kho, gây thiệt hại về sinh lực  địch,  dùng  một  lực lượng (một trung đội và hai trọng liên) tấn công cửa vào sân bay, không cho địch phản kích. Đại đội 3, tiểu đoàn 17 chọn 4 tiểu đội có trang bị gọn, mạnh, mang theo nhiều lựu đạn, chất gây cháy ém sát đồn khố đỏ, liên lạc chặt với tiểu đội đồng chí Nguyễn Đỏ ở trụ sở Ủy ban Kháng chiến hành chính. Khi có lệnh tập kích mạnh vào vị trí địch, gây cháy lớn cho địch thêm hốt hoảng. Sau đó, đại đội này về chốt chặn đánh địch từ chợ Hàn, nhà thờ Cổ Viện Chàm; giữ liên lạc với đại đội 2 ở Thái Thị Bôi, ngã Năm. Bảo đảm đưa tiểu đội đồng chí Đỏ lui về.
Hai  tiểu đội trinh sát của tiểu đoàn 17 và 18 do đồng chí Ngô Thông  phụ  trách,  lót  sẵn  và  thực hiện nhiệm vụ thiêu hủy kho ở cảng.
Đại đội 2 tiểu đoàn 17 đứng khu vực Thái Thị Bôi, ngã Năm, ngã Tây, bót đội Cung, sẵn sàng phối hợp với đại đội 3, đánh chặn địch không cho chúng tiến về sân bay. Tuyến 2 của tiểu đoàn là Cẩm Lệ, Phóng Lệ, Nghi An.
+ Đối với tiểu đoàn 18:
Cử một đại đội ém sát khu kho ở cảng, phối hợp với đại đội 3 tiểu đoàn 17 tấn công phía đông bắc đồn Khố Đỏ (từ khách sạn sông Hàn) chốt chặn cầu Vồng, nhà ga. Một đại đội bố trí khu chợ Cồn. Một đại đội ở ngã ba Thanh Khê. Đại đội này liên hệ chặt với đại đội của tiểu đoàn 19 ở Phước Tường, phải chặn đứng địch tại ngã ba Thanh Khê.
+ Tiểu đoàn 19:
Một đại đội chốt giữ đèo Hải Vân từ Liên Chiểu đến Hố Mít, phối hợp với bạn ở huyện Phú Lộc (nam Thừa Thiên) đánh địch từ Huế vào,  từ Đà Nẵng ra.
Một đại đội ở Nam Ô, chống địch đổ quân lên Liên Chiểu. Đây là đại đội cơ động, trực tiếp cùng với tiểu đoàn 18 chặn địch tại ngã ba Thanh Khê và chi viện cho đại đội ở Phước Tường.
Trung đoàn 93:
+ Tiểu đoàn 100 cùng lực lượng địa phương Đà Nẵng chốt giữ từ Hà Thân đến Ngũ Hành Sơn , kiên quyết chặn đứng địch, không cho chúng tiến về Hội An. Lực lượng còn lại của tiểu đoàn đóng ở nam Đò Xu là  lực lượng dự bị trực tiếp chi viện cho hướng của tiểu đoàn 17. Tiểu đoàn 100 lợi dụng lợi thế về địa hình giữ vững khu vực nam sông Hàn - Ngũ Hành Sơn.
+ Tiểu đoàn 101 chốt giữ nam Cẩm Lệ, Phong Lệ và Miếu Bông, tổ chức giữ vững chắc tuyến phòng ngự nam sông Hàn và sẵn sàng là cơ động của mặt trận trên hướng của Trung đoàn 96.
+ Tiểu đoàn 102 tổ chức lực lượng cơ động ở Vĩnh Điện.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2009, 06:26:06 am
Chúng tôi nắm rất chắc giờ nổ súng và mãi sau này vẫn không quên  được  sự trục trặc đáng tiếc xảy ra vào thời điểm cực kỳ quan trọng đó. Chiều ngày 19 tháng 12 họp giao nhiệm vụ. Trước lúc ra về, đồng chí Đàm Quang Trung đưa cho mỗi chỉ huy một phong thư có gắn xi, ngoài chỉ đề: "Tuyệt mật" đúng 2 giờ ngày 20 tháng 12 mới được bóc ra xem.
Toàn bộ kế hoạch đã được nhanh chóng triển khai. Tại sở chỉ huy tiểu đoàn, tôi và anh Lê Hữu Đức, tiểu đoàn phó, cùng một số cán bộ của ba đại đội đã nắm chắc giờ nổ súng. Chỉ còn 2 giờ 30 phút nữa thôi nên mọi hoạt động phải hết sức khẩn trương. Các đại đội trưởng Phạm Ấn Sơn, Dương Phước Trường, Lê Chưởng ra về. Tôi bảo đồng chí Đức đi kiểm tra đại đội 2, tôi đi kiểm tra đại đội 3 và đại đội 1. Hẹn đúng 4 giờ có mặt ở sở chỉ huy.
4 giờ 30 phút. Im lặng.
4 giờ 50 phút đến 5 giờ. Im lặng.
Trời rét như cắt mà tất cả chúng tôi ai cũng mồ hôi đẫm áo. Điện thoại về trung đoàn  không gọi được. Ánh bình minh đã bắt đầu lờ mờ ở phía mặt biển. Anh Đức đi ngay sân bay (C1). Tôi xuống đồn Khố Đỏ (lúc này tôi kiêm cả chính trị viên. Đầu tháng 3 năm 1946, anh Lê Đức Tham mới về thay tôi làm chính trị viên). Các bộ phận thấy trời đã hừng sáng, lần lượt lui về khu chợ Hàn, cầu Vồng. Lệnh tấn công không được trung đoàn chấp hành!
Hôm đó họp xong, anh Nguyễn Thùy rời sở chỉ huy lúc 18 giờ 5 phút để về Vĩnh Điện lo sơ tán gia đình. Sở chỉ huy trung đoàn 96 chỉ còn lại đồng chí Nguyễn Hữu Thành, chính ủy và đồng chí Bế Kim Doanh, tham mưu trưởng.
Như trên đã nói, sớm tinh mơ ngày 20 tháng 12 năm 1946, trung đội tuần tra Pháp từ đồn Khố Đỏ tiến về chợ Hàn như thường lệ. Đúng 6 giờ, tôi ra lệnh cho đại đội 3 nổ súng. Sau đó, toàn thành phố, nhất là khu sân bay, chìm trong khói lửa: kho xăng, kho đạn, hai chiếc Đa-kô-ta bốc cháy. Súng lệnh không phải từ sở chỉ huy trung đoàn. Đáng tiếc là do việc tập kích đồn Khố Đỏ, phá hủy khu kho dọc sông Hàn không thực hiện được nên tiểu đội đồng chí Nguyễn Đỏ ở trụ sở Ủy ban Hành chính đã hết đường về!
Sau này giờ nổ súng đã được xác định trong cuộc hội thảo do Bộ tư  lệnh Quân khu 5 xác nhận ngày 22 tháng 12 năm 1995 tại Đà Nẵng. (Đồng chí Phan Hoan, tư  lệnh quân khu chủ trì). Các đại biểu xác nhận 4 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946 điện thoại không sao liên lạc được với trung đoàn.
Tôi hai lần đạp xe đạp đi tìm nhưng không biết các anh đã chuyển đi đâu. Tình hình hết sức nguy ngập. Sau giờ nổ súng, anh Nguyễn Thùy mới về tới sở chỉ huy, mặt cắt không còn hạt máu. 20 giờ ngày 21 tháng 12 năm 1946, đồng chí Đàm Quang Trung cùng đồng chí Nguyễn Bá Phát đến mặt trận xem xét tình hình, tuyên bố cách chức Nguyễn Thùy. Anh Trung giao cho đồng chí Nguyễn Bá Phát đảm nhiệm chức  trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 và chúng tôi bước vào một giai đoạn quyết liệt hơn.
Mãi đến 8 giờ sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, địch mới tổ chức được phản kích trên các hướng : chợ Hàn, nhà thờ, ngã Năm và hướng cầu Vồng, chợ Cồn, ga xe lửa. Pháo hạm bắn dữ dội từ 6 giờ sáng vào Thanh Khê, Phước Tường, Cẩm Lệ, Ngũ Hành Sơn. Nhân dân đã sơ tán trong đêm, chỉ còn lại một số Hoa kiều. Nhà máy điện bị phá hủy từ 6 giờ sáng do tổ anh Nguyễn Đa phụ trách. Khu sân bay vẫn liên tục bị pháo kích. Trung đội của đại đội 1 lui về khu vực đã có công sự, trong đội hình của đại đội 2 và 3 đánh trả quyết liệt ở khu chợ Hàn, Thái Thị Bôi. Địch không phát triển được hướng Cầu Vồng, chợ Cồn. Tiểu đoàn 18 cũng đã chặn đứng được địch. 10 giờ, tiểu đoàn 100 do đồng chí Nông Thái Sơn và Hoàng Văn Giao tăng cường hướng tiểu đoàn 17. Đồng chí Lê Hữu Đức trực tiếp chỉ huy đại đội 2 ở Ngã Năm; tôi đến đại đội 3 khu nhà thờ. Có lực lượng tăng cường, đồng chí Đức đã đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Ta tập trung hỏa lực mạnh , dựa vào khu Cổ Viện Chàm và nhà thờ, đẩy lui nhiều đợt phản công của địch. Xác địch chết nằm dọc đường, và tới 16 giờ, thế trận hai bên không có gì thay đổi. 18 giờ, tiểu đoàn 100 lui về Nam Đò Xu, tăng cường lực lượng cho Hà Thân và Ngũ Hành Sơn.
Ngày 21 tháng 12 năm 1946, chiến sự  diễn ra ác liệt ở khu vực bót Đội Cung, hãng Mic, khu Mả Tây, nhà ga. Chúng ta duy trì cuộc chiến đấu cho đến 17 giờ, sau đó theo kế hoạch chuyển về tuyến 2 gồm Cẩm Lệ, Nghi An, Phóng Lệ, Phước Tường. Tiểu đoàn 18 về ngã ba Thanh Khê, chân đèo Đại La, Phước Tường (thay cho đại đội của tiểu đoàn 19). Tiểu đội đồng chí Nguyễn Đỏ đã kiên cường chiến đấu và anh dũng hy sinh. Đồng chí Nguyễn Đỏ nhảy từ lầu hai xuống, quyết không để lọt vào tay giặc. Qua hai ngày chiến đấu, Trung đoàn 96 đã diệt trên 500 địch, phá hủy khu sân bay. Phía ta hy sinh và bị thương 200 đồng chí.
Hàng vạn thanh niên nam nữ từ các huyện điều ra mặt trận. Chỉ trong vòng ba đến năm ngày, một hệ thống chiến hào, giao thông hào kéo dài từ Ngũ Hành Sơn, Phó Xu, Cẩm Lệ, Phước Tường, Nghi An, Thanh Khê, Đa Phước, Nam Ô đã được xây đắp khá kiên cố. Dựa vào thế trận có lợi đó, các tiểu đoàn 17, 18 liên tục đánh bật nhiều đợt tấn công của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại.
Sau gần 10 ngày giao tranh với ta, dưới sự chi viện của pháo hạm, địch đã đổ quân lên Liên Chiểu, đánh chiếm đèo Hải Vân. Cánh quân từ  Huế cũng phối hợp với lực lượng từ Phú Lộc kéo vào. Địch đã nối được Đà Nẵng - Huế. Tuy vậy, từ đầu tháng 1 năm 1947, đèo Hải Vân vẫn không an toàn cho địch, luôn bị lực lượng dân quân ở nam Thừa Thiên chặn đánh. Đại tá Rô-giê chỉ huy tiểu khu Đà Nẵng và 100 tên khác vĩnh viễn không trở về với vợ con.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2009, 06:31:24 am
Sau khi địch chiếm đèo Hải Vân, tiểu đoàn 19 của ta đã chuyển về Phò Nam, Quang Nam, Xuân Thiều, xây dựng chiến khu Trường Định; một đại đội có nhiệm vụ  phối hợp với huyện Phú Lộc chuyên đánh địch trên tuyến đèo Hải Vân.
Tiếng súng không ngừng nổ trong nội thành. Thành phố Đà Nẵng về đêm không một ánh đèn, trừ khu bọn Pháp ở được thắp sáng bằng máy phát điện nhỏ. Ngọn hải đăng trên chóp núi Sơn Trà vẫn quay đều để báo hiệu cho tàu biển.
Màn đêm thật u tịch, sương mù dày đặc. Các tổ trinh sát được bố trí bám sát mục tiêu trong khu nội thành để theo dõi địch và đánh địch ban đêm.
Chiều ngày 24 tháng 12 năm 1946, theo kế hoạch, đồng chí Túc, chiến sĩ công binh đã dùng xe ray mang theo 100ki-lô-gam mìn dẻo (DINAMIT) có hẹn giờ từ Cẩm Lệ theo trục đường sắt và phát nổ sát sân bay. Một tiếng nổ có sức chấn ép mạnh đã làm sập đổ nhà cửa còn lại của sân bay, ảnh hưởng cả đến chợ Mới,  mả Tây.
Từ ngày 25 tháng 12 đến ngày 28 tháng 12, trong mấy đêm liền ,tôi  đưa trung đội vào tập kích khu vực Cổ Viện Chàm, nhà thờ, ngã Năm, bót Đội Cung, ...  Cùng lúc hướng Cầu Vồng, chợ Cồn, khu kho ở dọc tả ngạn sông Hàn (cảng), tiếng súng của ta đã dồn dập nổ giòn. Pháo chiếu sáng cả thành phố. Khi lui quân, các trung đội đều thu về từ hai đến ba ki-lô-mét dây điện thoại. Tiếng pháo cầm canh của địch chốc chốc lại hướng về trận địa ta và cối 81 ly của ta cũng bắn trả về khu sân bay. Sân bay Đà Nẵng vẫn bị uy hiếp không sử dụng được. Đến cuối tháng 1 năm 1947,  khi lực lượng ta đã về tuyến 3, Túy Loan, Yến Nê, chân đèo Đại La, tuyến Miếu Bông, Ngũ Hành Sơn, nam Đò Xu. Dựa vào ưu thế của địa hình, các đơn vị thuộc Trung đoàn 93 vẫn kiên cường bám trụ.
Từ chủ động đến bị động có nguy cơ đưa đến bao rủi ro khôn lường của một chủ trương, nhất là trong chiến đấu (nói hẹp) và trong chiến dịch (nói rộng). Khởi đầu một cuộc chiến tranh giải phóng ở Đà Nẵng là một sự phối hợp của cả nước trong ngày toàn quốc kháng chiến nên không thể hiểu ở nghĩa hẹp. Mặc dù bị động như vậy, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng  đã bình tĩnh, cương quyết đánh phủ đầu địch khi mà ta đã tạo được thế mới. Đây là sự thật lịch sử, không thể cường ngôn làm sai lệch nó đi. Các đồng chí Đàm Quang Trung, Nguyễn Bá Phát, Trần Đình Thi, Nguyễn Thùy và chúng tôi (các cán bộ tiểu đoàn) như bóng với hình, luôn luôn đi sát đơn vị, sát các lực lượng nam nữ  thanh niên, ngày đêm cùng họ đào chiến hào, công sự, vận tải, cứu thương.
Tuy vô cùng khó khăn nhưng tỉnh Quảng Nam cũng đã xuất ra hàng trăm tấn gạo, hàng chục triệu đồng để bảo đảm cho công việc phục vụ chiến trường. Lúc này, địch không có phi cơ hoạt động nên trên dọc phía nam sông Thanh Khê, Nam Ô, về đêm còn vui hơn ngày hội.
Với sức mạnh tổng hợp của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng, của Trung đoàn 93, Trung đoàn 96 và du kích địa phương, ta đã chặn đứng được bước tiến của quân thù, gây cho chúng nhiều tổn thất; đảm bảo công cuộc chuẩn bị lâu dài ở hậu phương. Gian khổ, ác liệt là thế, nhưng trên khuôn mặt mọi người đều toát lên một niềm tự hào, kiêu hãnh và đêm đêm vẫn vang vọng đâu đó những lời ca của những thôn nữ với chiếc đàn ghi - ta của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu - Phan Quang Định và sáo trúc của các chàng vệ quốc, dân quân.
Đại tá Nguyễn Lai, nguyên là trung đội trưởng trung đội 9, đại đội 3, tiểu đoàn 17, trong một bài viết của mình, đã tâm sự :
"Tôi và ba đồng chí nữa, trong đó có anh Lê Ngân Hà, được điều về tiểu đoàn 17 chỉ hai ngày sau toàn quốc kháng chiến. Tiểu đoàn 17 là tiểu đoàn bảo vệ nội thành Đà Nẵng, sân bay, là một trong hai tiểu đoàn cứng nhất của trung đoàn 96. Tiểu đoàn gồm nhiều chiến sĩ đã được thử lửa ở Nha Trang. Tiểu đoàn trưởng là đồng chí Lê Kích chiến sĩ khởi nghĩa Ba Tơ, được anh em ca ngợi là một người chỉ huy kiên quyết, dũng cảm, mưu trí, quả đoán. Anh gặp chúng tôi với những lời nhắn nhủ và chỉ thị ngắn gọn. Tôi chỉ còn nhớ một ý sau cùng của anh: "Các anh tuy học ở trường quân sự ra nhưng chưa chiến đấu, do đó không thể phân công chức vụ như giấy giới thiệu được. Trung đoàn giới thiệu chúng tôi về làm trung đội phó. Trước mắt tôi chỉ giao cho các anh chỉ huy một tiểu đội thôi. Anh nào không đồng ý, cho tôi biết, tôi sẽ gởi trả về trung đoàn”.
Chẳng có ai không đồng ý cả. Bất cứ cương vị gì cũng được, miễn là được chiến đấu”.
Không có gì vui sướng hơn khi đọc lại những câu trong cuốn “Lịch sử đấu  tranh cách mạng huyện Hòa Vang”:
"Từ lúc địch đánh rộng ra, cuộc chiến đã mang tính chất toàn dân đậm nét. Suốt thời gian chống cự với địch ở phía tây bắc Hòa Vang, tiểu đoàn 19 chủ yếu dựa vào nguồn tiếp tế của nhân dân"... hay ở Đại Lộc: "Lực lượng vũ trang huyện đã phối hợp tiểu đoàn 17 và tiểu đoàn 18 thuộc Trung đoàn 96 và Trung đoàn 93 của tỉnh, liên tục chặn đánh trên đường 14B và đường 100. Nhiều trận đánh đã diễn ra ở Gò Cà (Phú Hiệp), Gò Muồng (Đại Hòa), động Hà Sống (Đại Hồng)... Ngày 26 tháng 3 năm 1947, trong một trận phục kích tại Ba Khe, ta diệt gọn hai trung đội, thu nhiều vũ khí. Từ chiến thắng này ta có câu hát "Ba Khe nấm mồ năm xưa còn đó".


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2009, 06:34:23 am
Còn ghi mãi trong ký ức của chúng tôi, những người tham gia trận đánh. Đó là 16 giờ ta kiềm chế cánh quân vượt sông Cẩm Lệ tới, tập trung hỏa lực cối 81 ly và 3 khẩu 12,7 ly, đánh tạt hai bên sườn một đại đội địch ở Gò Cà, diệt gần hai trung đội Âu Phi, đẩy lùi địch về phía Túy Loan bên kia sông.
Lại thêm một lần nữa, theo tinh thần chỉ đạo của hội nghị chính trị của Trung ương Quân ủy, chúng ta kết hợp giữa phòng ngự trận địa ngăn chặn bước tiến của quân địch, và đánh vận động, tập trung binh, hỏa lực đánh mạnh vào bên sườn và sau lưng quân địch.
Vận dụng tinh thần chỉ đạo của trên, lãnh đạo Khu 5 và tỉnh đã lệnh cho Trung đoàn 96 và Trung đoàn 93 phải giữ vững thế trận trên tuyến sông Thu Bồn, chặn đứng địch trên tuyến Hà Nha - Hà Sống, giữ vững vùng tự do phía tây Đại Lộc, bảo vệ đường liên lạc Bắc Nam và giữ  vững đường dây chỉ huy thông suốt, kịp thời bổ sung và tăng cường lực lượng chiến đấu; tích cực phát động chiến tranh du kích vùng địch tạm chiếm.
Đầu hè 1947, anh Nguyễn Bá Phát cùng anh Võ Quang Hồ và tôi đã từ vùng tây Đại Lộc, vượt qua hai con sông lớn của quê hương - Thu Bồn và Vu Gia - đến sở chỉ huy mặt trận ở La Pháp, để quán triệt tinh thần chỉ thị mới. Một trận lụt lớn xảy ra gây không ít khó khăn cho nhân dân, nhưng cũng làm cho địch gặp trở ngại gấp nhiều lần.
Tuy nhiên, quân Pháp sau khi chiếm được Ái Nghĩa, nhận thấy bộ đội ta vận dụng chiến thuật mới, không phòng ngự cứng nhắc để giữ đất mà đẩy mạnh hoạt động vào vùng tạm chiếm, chúng liền thực hiện chủ trương nối liền đường 14B, mở cuộc tấn công đợt 2 lên Hà Tân, Hội Khách, Thạnh Mỹ để chiếm đóng Bến Giằng, nhằm cắt đứt con đường liên lạc Bắc Nam.
Với kinh nghiệm và nỗ lực của bản thân, trong vòng 4 tháng đương đầu với địch, chúng tôi đã liên tiếp cùng lực lượng địa phương đẩy lùi 3 lần địch tiến công lên Hà Tân. Bị nhiều tổn thất ở Ba Khe - động Hà Sống, Hà Tân, Hội Khách và Thạnh Mỹ, địch phải rút chạy một mạch về Ái Nghĩa. Sau khi hoàn hồn, chúng lên chốt lại Núi Lở, Định An cho đến cuối năm 1954.
Chiến thắng lớn ở Đà Nẵng là kết quả của sự chỉ đạo chiến thuật sáng suốt của cấp trên, sự cố gắng của đơn vị và chính nó đã làm bộc lộ rõ sự thua kém của địch về nhiều mặt, nhất là về mặt chính trị.
Đánh địch ở chính diện:
- Động Hà Sống-Ba Khe và Ô Gia-Gia Cốc.
Ngày 28 tháng 3 năm 1947, địch mở cuộc tiến công trên hai hướng nhắm vào vùng tây Đại Lộc. Lực lượng chúng sử dụng gồm một tiểu đoàn tăng cường phần nhiều là quân tinh nhuệ Âu Phi, một chi đội bọc thép 24 chiếc, một đại đội pháo 105 ly và 4 máy bay Spi-frai.
Từ 8 giờ sáng, một cánh quân gồm 1 đại đội bộ binh và 8 xe bọc thép từ Đại Lộc vượt qua sông Vu Gia tiến về Ô Gia, Gia Cốc đến bắc sông Thu Bồn . Cánh chủ yếu gồm 2 đại đội bộ binh và 16 xe bọc thép tiến theo trục đường Ái Nghĩa, Hà Tân.
Ở Ô Gia một cánh quân lớn, xuất phát từ  Hà Nha tiến theo trục đường 14B, đồng thời có một mũi bọc sườn theo chân núi ở phía bắc động Hà Sống. Để phối hợp với cánh quân này, cánh quân ở phía nam sông Vu Gia tiến về Cấm Muồng và Hà Vi. Chúng không thể sử dụng cơ giới trên đường 14B vì quân dân ta đã phá đường dựng nhiều chướng ngại vật, đặt mìn ngăn chặn.
Kế hoạch đánh bại cuộc hành quân này đã được Trung đoàn chuẩn y. Đó là dựa vào địa thế thuận lợi và thế trận đã chuẩn bị, kiên quyết chặn đứng địch ở phía tây động Hà Sống, bằng cách dùng hỏa lực mạnh, cối 81 ly, 60 ly, trọng đại liên, bẻ gãy hai cánh quân vu hồi của địch, đồng thời đánh mạnh vào phía Hà Nha (sau lưng địch).
Đồng chí Lê Hữu Đức, tiểu đoàn phó trực tiếp chỉ huy phối hợp chiến đấu giữa hai đại đội 2 và 3 (thiếu một trung đội). Trung đoàn cũng đã điều một đại đội bộ binh và tập trung cối, trọng liên tăng cường cho tiểu đoàn 17 để bảo đảm chắc thắng.
Trong khi đó, Trung đoàn 93 cũng nhận lệnh của mặt trận dùng hỏa lực tập kích Ái Nghĩa, hậu cứ của địch, và đánh mạnh trên trục đường từ Vĩnh Điện lên Ái  Nghĩa để phối hợp với Trung đoàn 96.
Như vậy trận động Hà Sống - Ba Khe là trận quyết chiến lớn có sự thống nhất chỉ huy của Trung đoàn 96, của cả mặt trận. Để theo dõi cuộc chiến đấu, trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát và một bộ phận cơ quan chỉ huy tiền phương của trung đoàn có mặt ở phía tây động Hà Sống (Hà Tân).
Mũi vu hồi bắc sông Vu Gia của địch bị bẻ gãy. Đồng chí Vĩnh, đại đội phó đại đội 3 đã sử dụng trọng liên 12,7 ly và đại liên, hai cối 60 ly bất ngờ nổ súng đánh mạnh vào cánh quân địch đang tiến theo chân núi Sơn Gà. Lúc đó là 13 giờ.
Mũi vu hồi phía nam sông Vu Gia bị đánh lui. Lực lượng ta ở đây có đại đội 3 do đồng chí Kính chỉ huy, được tăng cường hai khẩu 12,7 ly, hai khẩu 81 ly. Đồng chí Lê Hữu Đức chỉ huy thống nhất, đã đánh bật ba đợt tiến công của địch, không cho chúng vượt qua con đường duy nhất Cấm Muồng. Ta còn dùng hỏa lực đánh sau lưng. 14 giờ cánh quân địch này tháo chạy.
Dự  kiến địch nhất định cố tiến về phía động Hà Sống - Ba Khe theo trục đường 14 , ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có tôi và chính trị viên Lê Đức Tham liên lạc chặt chẽ với đồng chí Lê Hữu Đức. Đồng chí Lê Hữu Đức chủ trương : Tập trung toàn bộ hỏa lực của đại đội 3 ở phía nam sông lên Cấm Muồng. Khi địch tiến công thì đánh tạt sườn về phía sau bọn địch ở bắc sông thật mãnh liệt. Bí mật đưa lực lượng hỏa lực vừa đánh thắng ở ven chân núi về áp sát Hà Nha, phía đông động Hà Sống, phối hợp với đại đội 1 ở chính diện, đánh bại cuộc tấn công của địch.
Đúng 15 giờ, sau gần 30 phút pháo bắn chuẩn bị và máy bay oanh tạc, địch ồ ạt tiến công lên động Hà Sống theo đường 14B. Xe bọc thép bị chướng ngại vật và mìn hạn chế, tiến rất chậm. Bộ binh địch bị các súng trọng liên của ta từ bên nam sông và từ chính diện, dồn dập đánh trả, chúng bị thương vong nhiều. Lúc bấy giờ chưa có súng bắn xe tăng, cho nên chúng tôi tập trung diệt bộ binh và dùng ba khẩu trọng liên bắn từng chiếc xe thiết giáp một, đạt kết quả tốt. Địch phải rút chạy về núi Lở ở Ái Nghĩa.
Trên cả ba hướng, ta đã diệt trên một trăm tên địch, thu nhiều vũ khí trang bị. Phía ta có 26 đồng chí hy sinh và 32 người khác bị thương. Trận đánh diễn ra khá ác liệt. Tôi, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 17, chỉ huy trực tiếp bắn trọng liên 12,7 ly. Một lần có 6 quả đạn 105 ly của địch rơi xuống nổ cách khoảng 10 mét. May mắn các vị chỉ huy cũng như trận địa 3  khẩu trọng liên không việc gì, vì đạn pháo rơi trúng một hẻm sâu. Sở chỉ huy  tiền phương của trung đoàn trưởng cũng bị máy bay đột kích, phải rời chỗ, không có ai bị thương vong.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2009, 06:36:52 am
Đánh mạnh vào địch hậu - Tập kích lớn sân bay Đà Nẵng.
Ngay sau hội nghị mặt trận triệu tập ở La Tháp, anh Nguyễn Bá Phát, Võ Quang Hồ và tôi đã bàn bạc và nhất trí với nhau, muốn ngăn chặn  bước tiến của địch, cần phải đẩy mạnh hoạt động phía sau lưng chúng, như chủ trương của Ủy ban Quân sự đã được thảo luận trong hội nghị.
Chúng tôi thông báo với đồng chí Đàm Quang Trung. Đồng chí chỉ thị Trung đoàn 93 phối hợp hành động. Chúng tôi thống nhất với nhau một kế hoạch hoạt động và rút kinh nghiệm để phát động chiến tranh du kích ở địch hậu. Tiểu đoàn 18 tập kích vào Thanh Khê và khu tây Đà Nẵng. Tiểu đoàn 19 vào Nam Ô, Liên Chiểu, tiểu đoàn 17 vào sân bay và nội thành Đà Nẵng. Đề nghị của Trung đoàn 93 cho đánh vào Hội An và Vĩnh Điện được cấp trên chấp nhận.
Địch có viện binh từ  Pháp sang. Ở mặt trận Đà Nẵng có tàu chiến và máy bay yểm hộ. Ngày 7 tháng 1 năm 1947, chúng mở cuộc tiến công quy mô lớn nhất để phá vỡ vòng vây của ta.
Tờ mờ sáng, trong sương mù dày đặc, một tiểu đoàn quân Pháp đổ bộ lên bãi cát Phú Lộc, chiếm ngay đồi Đa Phước rồi từ đó men theo chân núi đánh thẳng vào chiếm đèo Đại La. Đèo Đại La nằm trên con đường chạy từ Đà Nẵng qua Hòa Mỹ lên tận phía tây núi Phước Tường, bọc sau lưng lực lượng chủ yếu của Trung đoàn 96, chặn con đường rút lui của ta. Từ đó, quân Pháp cho một cánh quân đánh xuống rừng cấm Hòa Mỹ, nơi đặt cơ quan chỉ huy tiền phương của ta. Trong khi đó, ở chính diện, từ ngã tư Yên Khê, chúng mở một lúc ba mũi tiến công, đột phá vào trận địa ta.
Mũi thứ nhất, theo quốc lộ 1, xuyên qua các tuyến phòng ngự của ta ở Yên Khê, Trung Ngãi lên ngã ba Hòa Mỹ, phối hợp với cánh quân ở đèo Đại La đánh xuống, dồn bộ đội ta vào một cái túi để tiêu diệt.
Mũi thứ hai từ sân bay, dùng phi pháo áp chế để tiến lên quét sạch bộ đội ta, chiếm các điểm khống chế sân bay.
Mũi thứ  ba tiến lên Nam Hòa An, đẩy lùi bộ đội ta đang đứng ở hai bên đường Quốc lộ 14B từ Nghi An lên Phú Hòa - Túy Loan, mở rộng vùng an toàn phía nam cho sân bay Đà Nẵng.
Trung đoàn 96 đứng trước cuộc chiến đấu sống còn. Nếu địch chiếm được ngã ba và rừng cấm Hòa Mỹ, thì các đơn vị chủ lực của ta không tránh khỏi bị tiêu hao nặng. Nếu địch chiếm được các tiêu điểm của Nghi An - Phước Tường, thì không những tiểu đoàn 17 bị đòn nặng nề, mà lực lượng chủ yếu của trung đoàn ở Yên Khê - Hòa Mỹ bị đánh tạt sườn, bị dồn vào một cái túi thắt chặt. Quả thật lúc này Trung đoàn 96 đối mặt với thử thách ác liệt nghiêm trọng nhất kể từ ngày bắt đầu cuộc chiến đấu.
Ngày 6 tháng 4 năm 1947, trong một đêm tối trời, tôi và đồng chí Phạm Ấn Sơn, đại đội trưởng đại đội 1, chỉ huy đơn vị (được tăng cường 4 khẩu cối 60 ly, ba trọng liên và một tiểu đội trinh sát) tiến về Đà Nẵng. Cuộc hành quân an toàn, thuận lợi, vì địch chỉ chốt một số điểm cao.
Trong hồi ký của mình, đại tá Phạm Ấn Sơn, nguyên đại đội trưởng đại đội 1, nguyên tiểu đoàn phó tiểu đoàn 17, đã có những trang viết đầy tình nghĩa với tôi.
"Được sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Lê Kích, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 17, một cán bộ năng nổ, linh hoạt với những chủ động đánh địch trong thành phố Nha Trang, đại đội chúng tôi càng lập được nhiều chiến công ngay từ những ngày xáp mặt với quân thù, từ trung tâm thành phố Đà Nẵng".
Tôi nhận được lệnh cho đại đội 1 đóng quân đối diện trực tiếp với quân Pháp, ở bên này đường và bên kia đường giữ  trung tâm thành phố.
Riêng đại đội tôi có nhiệm vụ tối tối đi tuần tra với quân Pháp. Mỗi bên một tiểu đội, đi từ 19 giờ đến 20 giờ. Hai bên có những va chạm hay có bất đồng gì thì có Ban Liên kiểm Việt - Pháp giải quyết. Bên ta, lúc đầu do đồng chí Hoàng Đình Phu, sau do đồng chí Lê Hòa làm trưởng ban. Đại đội được ưu tiên mỗi tháng có phiếu do chủ tịch thành phố Trần Đình Chi ký, cho lãnh ba ngàn bao thuốc lá MIC, có thể bán lấy tiền tiếp bọn sĩ quan Pháp từ thiếu úy trở lên. Thuở ấy, đất nước, quân đội ta quá nghèo, mỗi lần lãnh thuốc về bán, tôi rất xúc động.
Ngày 14 tháng 7 năm 1946 là ngày Quốc Khánh nước Pháp. Bọn Pháp tổ chức duyệt binh, mời ta tham gia. Được phép cấp trên, tôi chỉ huy một đại đội chọn lọc của tiểu đoàn tham dự. Bên Pháp do một đại uý chỉ huy một đại đội. Bộ đội ta ăn mặc rất đẹp, được trang bị đầy đủ. Nhân dân thành phố Đà Nẵng đi xem, tán thưởng, tự hào.
Đêm 19 tháng 12, từ 2 giờ sáng, đại đội 1, tự vệ thành và đồng bào, nhất  là  nam nữ thanh niên, gấp rút hoàn thành việc xây dựng công sự trên các con đường Bạch Đằng, Trưng Vương, Thái Thị Bôi ... Tất cả bàn ghế, tủ giường đều được mang ra làm chướng ngại vật chắn ngang các con đường địch có thể tiến quân nhằm nối liền trung tâm thành phố với sân bay. Đến 5 giờ sáng thì mọi việc đã sẵn sàng nhưng ta không chủ động tiến công địch theo kế hoạch được. Tiểu đoàn 18 đã chiến đấu rất ác liệt từ trụ sở Ủy ban Hành chính thành phố,dọc theo các đường Trần Phú và Bạch Đằng, lên Nhà Thờ, Ngã Năm và theo hướng Cầu Vồng, Chợ Cồn, ga Đà Nẵng.
Trong  phạm  vi  tiểu đoàn 17,  đồng chí Lê Hữu Đức, tiểu đoàn phó  trực  tiếp chỉ huy đại đội 2 đánh địch mạnh mẽ ở Ngã Năm. Tôi đến Nhà Thờ, trực tiếp chỉ huy đại đội 3 và đại đội 1, đánh địch dọc theo đường  Trần Phú và Bạch Đằng. Những trận quyết chiến đã diễn ra tại trụ sở  Ủy Ban hành chính tỉnh, nơi tiểu đội Nguyễn Đỏ đã chiến đấu đến người cuối cùng, như một chuyện thần thoại. Những tổ, những tiểu đội chiến đấu ở nhà bưu điện, trụ sở Việt Minh, nha Hải quan. Cổ Viện Chàm  đã  trở  thành trung tâm đề kháng mạnh, chi viện cho các ổ chiến đấu của ta ở gần đấy. Cây súng 12,8 ly của tiểu đội Nguyễn Biết có vai trò rất lớn ...
Cuộc chiến đấu trong nội thành diễn ra đến chiều ngày 21 tháng 12. Nhưng ngay từ đêm đầu tiên, khi địch cụm lại ở Cổ Viện Chàm và bót Đội Cung (ngã tư đường Hoàng Diệu hiện nay), các đơn vị của tiểu đoàn 17 bắt đầu những hoạt động du kích quấy rối địch ở hai vị trí quan trọng này, mở đầu cho việc đánh địch cả trước mặt và sau lưng.
Cuộc chiến đấu trong thành phố đã đạt được mục đích là tiêu hao một phần sinh lực địch. Ta bao vây ngăn chặn chúng trong 3 ngày để  đồng  bào kịp tản cư và các cơ quan có thể chuyển về tuyến sau, các huyện phía trong có thời gian tổ chức kháng chiến.
Ngày 24 tháng 12 năm 1946, tôi nhận được lệnh của mặt trận và của trung đoàn bí mật cho đơn vị hành quân về giữ Nghi An - Phước Tường, những điểm cao án ngữ phía tây sân bay, khống chế vị trí quan trọng của địch, đồng thời giữ không cho địch đánh chiếm các điểm cao chiến lược, bảo vệ sườn bên phải cho các tiểu đoàn 18, 19 phòng ngự ở Phú Lộc - ngã tư Yên Khê - đèo Đại La.
Hàng trăm dân quân đã giúp chúng tôi đào đắp được những hầm hố và những đoạn hào giao thông.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2009, 06:42:55 am
Đại tá Phạm Ấn Sơn viết tiếp:
“... Trong hai đêm 25 và 28 tháng 12, chính tiểu đoàn trưởng Lê Kích đã  lần  lượt đưa từng trung đội vào tập kích các khu Cổ Viện Chàm, Ngã Năm,  bót Đội Cung phối hợp nhịp nhàng với các hoạt động của ta ở Cầu Vồng, Chợ Cồn. Trong khi đó, ta cũng dùng súng cối 81 ly bắn vào  sân  bay  để  đáp  lại  những  cuộc pháo kích của chúng vào các trận  địa  của  ta...
... Với sự có mặt của tiểu đoàn trưởng Lê Kích, cán bộ và chiến sĩ ta  gan góc chịu đựng pháo đạn của địch, chờ chúng đến gần mới phát dương hỏa lực. Từ cao điểm ưu thế, quân ta đã làm cho địch hoảng sợ, không dám tiến mà dần dần tháo lui về sân bay. Địch chết và bị thương khoảng một trung đội. Chúng bỏ lại hai xác chết. Bên ta bốn chiến sĩ bị thương nhẹ. Đáng tiếc, anh Tạ Bá Bến, một chiến sĩ Nam tiến, đã hy sinh.
... Ngày 12 tháng1 năm 1947, có lệnh của Mặt trận cho đại đội về chặn đánh địch ở  đèo Đại La. Trước đó, ngày 7 tháng 1, quân Pháp đã mở cuộc tiến công quy mô rộng lớn, phối hợp hải - lục - không quân, trên cả hai mặt trận ngã tư Yên Khê - đèo Đại La và Nghị An - Phước Tường. Sau một ngày chiến đấu ác liệt chưa từng thấy, trung đoàn đã bảo toàn được lực lượng, chủ động rút về tuyến thứ ba. Tiểu đoàn 19 vây hãm quân Pháp từ đèo Hải Vân qua Thủy Tú - Quan Nam, Tiểu đoàn 18 vây địch ở An Ngãi - Tùng Sơn - Phú Thượng . Tiểu đoàn 17 đánh địch ở Phú Hạ - đèo Đại La - Thạch Nham - Túy Loan. Sở chỉ huy  trung đoàn đóng ở Trúc  Hà.
Đại đội 1 có sáu ngày tiếp theo để quan sát thực địa, kiến thiết trận địa, bố trí hai tổ cảnh giới trên mỏm núi kiểm soát đường đèo Đại La xuống Phú Hạ cả ngày lẫn đêm.
5 giờ sáng ngày 2 tháng 2 năm 1947, trạm cảnh giới báo về đại đội : Một đại đội địch, hầu hết là Âu Phi, lợi dụng sương mù phủ khắp núi rừng, chia làm hai mũi tiến công ta. Khi chúng cách trận địa của ta một ki lô mét, đại đội đã nhanh chóng triển khai chiến đấu. Tôi nhắc anh em để địch đến cách hơn một trăm mét thì cho hai khẩu đại liên phát hỏa. Hỏa lực của ta mở rộng tầm bắn, khống chế cả đường đèo rất chính xác, địch bị rối loạn ngay từ đầu. Trận đánh kéo dài một giờ, địch phải rút chạy, bỏ lại 49 xác chết.
Tiểu đoàn trưởng Lê Kích, nêu gương dũng cảm tuyệt vời, năng động dẫn đơn vị truy kích địch gần hai ki lô mét đến tận đỉnh Đại La".
Tại đỉnh đèo Đại La hiện nay còn tấm bia ghi lại chiến công này.  Tấm  bia  ghi  rõ:
"Tại đây mờ sáng ngày 7 tháng 1 năm 1947, địch huy động toàn lực mở trận tiến công lớn, nhằm phá thế vị bao vây trong nội thành.
Cánh quân đánh lên hướng này bị tiểu đoàn 19 và một đại đội của tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 96 đánh lui cả năm đợt xung phong lên đèo. Ta tiêu diệt nhiều lính Âu Phi, bẻ gãy trận tấn công, giữ vững được trận địa.
Đến ngày 17 tháng 2 năm 1947, hai đại đội lê - dương hùng hổ liều chết đánh lên mở đường qua đèo, bị tiểu đoàn 17 thuộc Trung đoàn 96 và một tổ du kích địa phương chặn đánh  quyết liệt. Tuy vũ khí ta dùng còn thô sơ, nhưng với tinh thần quyết thắng, lại thêm có lợi thế, nên đã gây cho địch tổn thất lớn. Chúng hoang mang hỗn loạn quay lui, ta thừa thắng truy kích, chúng chạy hơn một ki lô mét. Ta diệt tại chỗ 42 tên, thu một trung liên, một máy vô tuyến điện, mười tám tiểu liên, nhiều súng trường và các trang bị khác".
2 giờ sáng ngày 8 tháng 4 năm 1947, tiếng súng dồn dập nã vào sân bay, bót Đội Cung, Ngã Năm . Kho chứa nhiên liệu của địch ở sân bay bốc cháy. Trong khi đó, súng cũng nổ giòn ở ngã ba Thanh Khê và Liên Chiểu. Kho xăng Liên Chiểu phát hỏa. Pháo địch bắn dồn dập về Cẩm Lệ, Thanh Khê. Pháo chiếu của  địch soi sáng cả nội thành. Xa xa tiếng súng cũng nổ ở Hội An, Vĩnh Điện. Thiệt hại của  địch ta không thể nắm được hết, nhưng tiếng súng nổ giòn vang lên ở vùng địch hậu đã gây được niềm tin tưởng và phấn chấn trong nhân dân, sau những tháng địch liên tiếp tấn công ta.
Chúng tôi có thể lui quân theo đường đã hành quân, vì có một mạng lưới du kích, trinh sát bảo đảm. Đồng chí Phạm Ấn Sơn theo ven chân núi Sơn Gà đưa đơn vị về Ba Khe - Hà Tân. Tôi cùng với một trung đội ở lại bố trí phục kích bất ngờ, diệt một trung đội địch tại Cầu Chìm, cách Ái Nghĩa không xa, thu 18 súng các loại. Trận đánh có hiệu quả cao vì đã nắm được quy luật tuần tra của địch hàng ngày. Đây cũng là những trận mở màn cho phát động cuộc chiến tranh nhân dân vùng tạm chiếm; hoạt động của biệt động nội thành sau này.
Đến đây có sự thay đổi cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn. Tôi thay đồng chí Võ Quang Hồ, làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 18. Đồng chí Võ Quang Hồ được điều động về Khu làm giám đốc trường cán bộ đại đội quân sự. Đồng chí Lê Hữu Đức, tiểu đoàn phó, lên thay tôi làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 17.
Ngày 19 tháng 8 năm 1948 tại Quảng Ngãi, trước khi đi Hạ Lào, tôi đã làm lễ thành hôn với cô Lê Thị Mai Khanh. Cô Lê Thị Mai Khanh, ngay từ lúc chào đời đã không biết mặt cha. Cô sinh ra trong một gia đình rất nghèo mang dòng máu cha Pháp mẹ Việt. Bà mẹ phải đi làm thuê, giữ con cho nhà giàu. Nhờ một phần trợ cấp theo diện con lai nên cô Khanh mới có tiền ăn học. Đến năm 1942, cô Mai Khanh đậu bằng đíp - lôm (diplome) được bố trí làm thủ quỹ ở nhà hàng Mo - ran (Moran) Đà Nẵng. Khi tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, cô Mai Khanh tham gia hoạt động ở thành phố Đà Nẵng và đảm nhận cương vị trưởng ban bình dân học vụ huyện Hòa Vang tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Năm 1949, cô Mai Khanh tham gia quân tình nguyện ở Hạ Lào, dạy văn hóa cho cán bộ ở phòng Biên Chính Khu Hạ Lào, phó ban văn hóa và được tặng bằng khen của tỉnh Quảng Nam do chủ tịch tỉnh Nguyễn Thúy ký; một bằng khen do Phòng Biên chính Khu Hạ Lào tặng, được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng Huy Chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất.
Mai Khanh là một cô gái đẹp, giỏi cả cầm - kỳ - thi - họa, rất được nhiều chàng trai ngày ấy để ý. Chúng tôi lấy nhau. Mai Khanh sinh được bốn người con. Đó là, Lê Thị Mai Phương, Lê Du Lâm (thiếu tá công an), Lê Du Anh và Lê Thị Mai Hoàng. Tất cả những người con này hiện đang sinh sống và công tác ở Đà Lạt. Cho đến bây giờ Mai Khanh vẫn không biết tên cha đẻ của mình là gì. Vì chuyện này mà có người nhầm lẫn, dựng chuyện là khi tôi chỉ huy đánh vào một đồn lính Pháp, tiêu diệt kẻ thù, giết chết tên đồn trưởng quan hai Pháp, đã "bắt" người vợ lai Pháp của tên chỉ huy đưa lên ngựa phi về căn cứ, buộc "bà ta" phải làm vợ. Có người còn thêu dệt rằng, chính vì tội này, tôi đã bị Tòa án quân sự của Quân đội cách mạng tuyên án tử hình(!).
Sự thật là không phải như vậy. Người con gái làm vợ của tên quan hai  Pháp ấy  chẳng bao giờ có ở Việt Nam. Chính sự thêu dệt này mà nhiều người nghĩ  tôi bị kỷ luật và không được thăng cấp là do  lấy vợ của tên sĩ quan Pháp. Việc tôi không được thăng cấp và bị cấp trên hiểu lầm tai hại là có thật nhưng do một nguyên nhân khác mà tôi sẽ đề cập trong cuốn  sách  này.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 27 Tháng Ba, 2009, 06:48:51 am
CHƯƠNG V
CHUYỆN KỂ TỪ ĐẤT NƯỚC TRIỆU VOI

Có lẽ trong suốt cuộc đời của mình, tôi không bao giờ quên những tháng năm công tác ở nước bạn Lào. Một đất nước mà trong tiềm thức của tôi là những gì đẹp đẽ nhất, quyến rũ nhất, tình cảm nhất, sâu nặng nhất.
Tôi đã  nhiều lần sang Lào. Khi thì là trưởng đoàn cố vấn quân sự của Việt Nam tại Hạ Lào, lúc thì cùng bạn Lào giải phóng Cánh đồng Chum, lúc thì cùng các đồng chí trong Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước Lào trong những ngày đầu tiên, chiến đấu ở thủ đô Viên Chăn và thành lập Chính phủ Liên hiệp Dân tộc Lào trên đường tiến quân tại thị trấn Phôn Hồng. Những tháng năm nếm mật nằm gai cùng nhân dân Lào tham gia tiễu phỉ, gây dựng phong trào cách mạng có biết bao tình cảm thân thương.
Năm 1949, tại đơn vị Lát-xa-vông, Quân đội Lào Ít-xa-la (Quân đội nhân dân Lào) đã được thành lập và do đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản chỉ huy.
Tôi nhớ đầu tháng 4 năm 1949, sau một tháng kể từ ngày khu Hạ Lào được thành lập và sau hai trận chiến trong cuộc chống càn quét của địch lên căn cứ địa 5: trận Đak  Boong và Đak Ray trên cao nguyên Kà Xên (căn cứ địa 5), tôi đã có mặt ở Lào.
Theo kế hoạch chung là phát triển mạnh về đồng bằng, nơi đông dân, có nhiều lúa gạo chạy dọc từ bản Bạc đến bản Tha Hin Tek gần một trăm cây số. Một đại đội  quân tình nguyện Việt Nam do tôi chỉ huy, phối hợp với hai tiểu đội Pa-thét Lào do đồng chí Phu Ma, đồng chí Tha Von chỉ huy, qua một trận bản Tui, cách thị xã At-tô-pơ hai mươi cây số về phía đông, lực lượng cách mạng Lào đã làm chủ được vùng tả ngạn sông Sê Kông. Ở đây dân cư phần lớn là người Lào Lùm, hầu hết là nông dân, chuyên làm lúa nước.
Chúng tôi hành quân lặn lội vất vả hai ngày đêm mới đến địa điểm cách thị xã Mường Cầu mười ki-lô-mét về phía đông, và cách bản Tui chừng năm cây số. Hơn một trăm con người, hầu như kiệt sức vì dọc đường không làm sao kiếm ra được một giọt nước. Khi ở Xà-la Văng-khăng (Xà-la có nghĩa là trạm dừng chân qua đêm. Văng-khăng là địa danh) - nơi trạm dừng chân đầu tiên, có con suối vắt qua đồi, mỗi người chúng tôi đã mang theo 5 lít nước. Ấy thế mà đến ba giờ chiều, vượt qua rừng thưa, cỏ cháy, với cái nóng hơn ba mươi tám, bốn mươi độ, không ai còn lấy một giọt nước. Cổ họng ai cũng rát buốt. Đói cơm,  thiếu sắn thì còn chịu được chứ thiếu nước thì không ai chịu nổi. Tôi là chỉ huy, lòng dạ càng rối như tơ vò, nhưng phải nghĩ cách, không thể chết vì thiếu nước được.
Rừng núi điệp trùng, lạ nước lạ cái, không ai biết còn phải đi bao xa nữa mới gặp thôn buôn, gặp được dân làng. Cả đơn vị tạm dừng ở ven một con suối khô, cố sức đào đất. Đào sâu gần hai mét mới kiếm được một  ít nước. Ai cũng mừng. Chúng tôi vội chia cho nhau mỗi người một ngụm cầm hơi. Thế là xong rồi!
Đây là lần đầu tiên, tôi thấm thía nhất về việc phải hiểu tường tận nhiều mặt để bảo đảm cho một cuộc hành quân chiến đấu.
Có nước, ai cũng vui mừng nhưng khi nấu cơm, đun nước lên để uống, thật vất vả vô cùng. Mùi nước rất tanh. Màu nước lại sẫm. Nhưng giữa cái sống và cái chết, chúng tôi đành phải chọn lựa.
Viết đến đây, tôi bỗng nhớ lại một sự việc tương tự  xảy ra gần 5 năm sau vụ khát Mường Cầu. Đó là khoảng hạ tuần tháng 1 năm 1954, khi  mà đoàn tiền trạm của tiểu đoàn 436 do tôi chỉ huy, chỉ còn cách bản Tà  Ngô 6 ki-lô-mét nữa thì gần một trăm người không còn lấy một giọt nước. Tôi cũng lả người, vội bảo anh em ngậm muối cho đỡ  khát. Đồng thời bảo anh em bắn súng chỉ thiên. Mỗi lần điểm xạ ba phát để báo cho dân làng kịp đến cứu nguy. Đây là quy ước và tục lệ. Đơn vị chúng tôi còn đốt khói làm tín hiệu cấp cứu.
May quá, đoàn quân đi thêm được một cây số thì gặp một rừng tre. Tôi reo lên:
- Có nước rồi!
Anh em ngơ ngác hỏi:
- Nước ở đâu thủ trưởng?
Tôi bảo chặt tre lấy nước mà dùng. Anh  em vui quá! Ai nấy đều cố gắng chặt tre, vắt nước, quên cả mệt.Không ngờ một cây tre cho gần hai đến ba lít nước.
Cùng lúc đó, dân làng Tà Ngô cũng mang nước đến cứu nguy bộ đội.
Đêm liên hoan lại đến. Đối với tôi thật bất ngờ. Cách đây năm năm tôi có biết đến một cô bé. Vậy mà giờ đây gặp lại, tôi không nghĩ cô bé ấy lại phổng phao đến thế. Cô nàng cứ đi sát bên và đấm vào lưng tôi:
- Sao anh còn trở lại ? Em vẫn đợi đến giờ đây!
Tôi thật sự bất ngờ, lúng túng. Ở chiến trường khi gặp địch, tôi không hề nao núng. Nhưng không hiểu sao trước cô bé người bạn Lào này tôi lại trở nên ngô nghê, ngại ngùng đến lạ.
Khi ấy, cụ Quang Hiếu - một lãnh tụ trong vùng đến đón tôi về vui với ché rượu cần của làng, quả thật vô tình cụ đã gỡ bí cho tôi. Nhưng cô bé có cái tên dễ thương Canh Tơn ấy, cháu gái của cụ Quang Hiếu, vẫn bám sát bên tôi như hình với bóng.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Ba, 2009, 02:55:49 pm
Trở lại chuyện năm 1949. Đang khổ sở vì phải dùng nước có mùi tanh, bỗng chúng tôi nghe tiếng trống, tiếng chiêng xa xa vọng lại. Nỗi vui mừng hiện rõ trên khuôn mặt mọi người. Một tổ trinh sát do đồng chí Cơ (Việt kiều), và tôi vội lên đường. Chúng tôi đi gần 4 cây số thì tiếp cận được với một bản nhỏ, bản Tui, sat́ sông Sê  Ka - man.
Chúng tôi thắc mắc tự hỏi: "Việc gì mà cả làng tụ họp ca hát đông thế?”
Chúng tôi triển khai lực lượng nghiên cứu tình hình thì được biết: Một đại đội ngụy Lào đến đây từ chiều để đón lõng chúng tôi ngày mai qua đây.
Thật may mắn làm sao! Tôi lệnh cho một đồng chí khỏe mạnh trở về nơi đóng quân, đưa bộ đội lên. Một mặt chúng tôi cho người liên lạc, gặp dân, bí mật phối hợp. Khi đơn vị kéo quân đến, chúng tôi đồng loạt bắn đạn lên cao, hò hét xung phong, súng cối bắn cấp tập vào phía xa. Khí thế long trời lở đất. Đại đội ngụy Lào đang vui hát lăm - vông cuống cuồng tháo chạy thục mạng, bỏ lại súng đạn, quân trang, quân dụng. Hai tiểu đội Pa - thét Lào trấn an dân chúng và biến cuộc gặp mặt này thành cuộc mít tinh. Các bạn Lào rất vui mừng. Họ bế xốc tôi tung lên trời, mấy lần mới cho đứng xuống. Họ trân trọng giới thiệu tôi với nhân dân bản Tui. Cũng nhờ vậy mà ta đã phát triển được phong trào cách mạng dọc tả ngạn sông Sê Kông cho đến bản Bạc, gần một trăm cây số.
Bản Hạt - xa - ty nằm sát tả ngạn sông Sê Kông; có khoảng một trăm hộ dân, chủ yếu là làm ruộng nước. Qua giới thiệu của đồng chí Pu Ma, Tha Von, Ôn Kẹo, chúng tôi làm quen với hai tiểu đội Pa - thét Lào và tổ dân vận của ta do anh Cầu Gỗ (tức là đồng chí Cầu làm công tác dân vận) phụ trách. Dân trong làng rất vui mừng khi chứng kiến chiến thắng bản Tui. Nhân dân ở đây trông chờ cách mạng đã lâu. Thôi thì có biết bao câu chuyện tâm tình trong công tác dân vận được dịp tuôn ra. Bà con thức suốt đêm với quân tình nguyện Việt Nam. Họ đốt lửa, làm thịt thú rừng khoản đãi bộ đội linh đình với lòng hiếu khách đặc biệt.
Bản Hạt - xa - ty có hàng chục con voi. Chúng tôi thấy voi, ai cũng thích thú. Nhưng không biết làm sao để cưỡi voi, không biết người ta săn voi như thế nào. Muốn rõ mà không biết hỏi ai. Chiều hôm ấy, tôi ngồi bên cụ Phò Đâm, thôn trưởng, nghe cụ kể chuyện bắt voi.
Cụ bảo: Ở rừng này có nhiều thú rừng lắm, như voi, bò rừng, hưu, nai, gấu, hổ ... Đi năm, bảy cây số thì gặp hàng đàn thú rừng, ít nhất cũng có mười con. Vùng này có nhiều hổ, cần cẩn thận. Mùa lũ thì thú lên rừng. Mùa khô thú phải bám sông, bám suối, vì vậy việc săn bắt rất thuận lợi.
Số voi nhà được thuần mà chúng tôi đang thấy ở bản Tui, là nhờ đi bắt trong rừng về. Chuyện đi săn bắn khó khăn lắm. Phải có lực, nghĩa là phải có voi nhà; có vách săn, có dự trữ  lực lượng cả ba tháng trời cho suốt cả mùa. Có một yêu cầu hết sức nghiêm ngặt mà người đi săn phải chấp hành. Tục lệ là trong suốt thời gian đi săn, hai vợ chồng không ai được ngoại tình, không được chăn gối vì họ quan niệm đó là điềm xấu cho người đi xa. Đây cũng là một phong tục hay, để người lao động kiếm sống ở trong rừng vất vả yên tâm, không lo bị "cắm sừng".
Đi săn quan trọng nhất là người chỉ huy. Người chỉ huy phải biết tổ chức đội hình, sử dụng lực lượng, xác định đúng khả năng của người đi săn với voi rừng; kịp thời cứu trợ và phải có người thạo quăng vòng để bắt voi, sau đó là thuần hóa, ít nhất là ba tháng.
Khi săn voi, nếu phát hiện voi ở gần thì liên lạc bằng tù và; ở xa thì đốt lửa cho khói lên.
Nghe cụ kể, chúng tôi ngẩn người, hóa ra công việc săn thú rất kì công và vất vả. Đúng là khó khăn chẳng khác gì đi đánh trận.
Cụ bảo:
- Có lúc khó hơn đánh trận đấy. Nhất là khi voi rừng thua, ta đuổi theo. Nếu không có bản lĩnh thì chỉ va đầu vào cây cũng đủ chết rồi. Nguy hiểm lắm, nếu sức ta yếu mà lực lượng tiếp cứu đến không kịp thì mất mạng là cái chắc.
Nhưng hiểm nguy nhất là người chuyên quăng thòng lọng nằm dưới bụng voi. Phải tính thật chắc, để sao cho voi rừng đặt được chân vào vòng và kịp thời gút lại. Voi nhà không được huấn luyện thuần thục thì không thể tránh hiểm nguy cho người điều khiển ngồi trên cổ voi và nhất là nằm dưới bụng voi. Họ dễ bị va phải cành cây, vật cản.
Ở vùng gần sông Mê Kông, nhân dân còn có cách đào hầm cho voi  sa hai chân trước xuống hố, sau đó voi nhà kéo lên.
Đang say sưa kể chuyện, bỗng cụ thoắt nhìn lên trời, thấy một con ó bay qua. Cụ vơ vội cung tên, bắn một phát. Con ó lảo đảo rơi xuống ngay trước mắt chúng tôi. Tôi liên tưởng câu chuyện "Bách bộ xuyên dương" trong chuyện xưa và tin là có thật.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Ba, 2009, 02:56:29 pm
Ở Lào có đầm Kiên Ngôn. Kiên Ngôn là tên của một bản gần đầm nước. Đầm Kiên Ngôn nằm sát đường 13, có diện tích khoảng 8 ki-lô-mét vuông. Đây là một kho thủy sản đủ loại, không sao kể xiết. Trong đầm có nhiều rùa, ba ba, có con cân nặng cả chục ký. Đầm này không bao giờ thiếu nước, cho dù trời có nắng gắt và kéo dài đến mức nào. Trong đầm có một loại thủy vật đáng kinh sợ nhất, đó là loại đỉa voi, đỉa trâu. Nó hút máu no nê thì to bằng quả chuối và dài đến cả gang tay.
Đầm nằm sát bìa rừng nam. Có một bản nhỏ gọi là bản Kiên Ngôn - nơi sinh của đồng chí Xổm Xắc, sau này là trung tướng, Tổng tham mưu phó Quân đội nhân dân Lào. Khi đánh trận Kiên Ngôn, đồng chí mới mười bốn tuổi, là chiến sĩ liên lạc cho tôi. Năm 1960, đồng chí Xổm Xắc là tỉnh đội trưởng tỉnh Sa -van Na- khét, người đã giúp tôi trong việc khai thông đường Tây Trường Sơn ngày 27 đến 30 tháng 4 năm 1961.
Tháng 2 năm 1983, gặp lại anh Xổm Xắc ở Viên Chăn. Sau hơn hai mươi năm xa cách, anh vẫn nhớ và đã kể lại bao kỷ niệm ngày xưa khi còn niên thiếu. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, nước mắt tràn mi.
Cuối tháng 7 năm 1950, để bảo đảm xây dựng và bảo vệ an toàn cho căn cứ Tây nam At -tô- pơ (Vùng Xực), tạo bàn đạp vượt sông Mê Kông, ta đẩy mạnh phát triển cách mạng theo trục đường 13.Khu Hạ Lào, mở một chiến dịch hoạt động  lấy đường 13 làm hướng chủ yếu; cao nguyên Bô -lô -ven làm hướng thứ yếu. Đồng chí Đoàn Huyên phụ trách đơn vị quân tình nguyện Việt Nam có đại  đội 200. Phía bạn Lào có hai trung đội và lực lượng tại chỗ. Riêng tôi được giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức chiến đấu ở hướng đường 13. Về phía Lào có đồng chí Pu Ma, Tha- von, Bun chỉ huy.
Bấy giờ là vụ mùa cày cấy của nhân dân trong vùng. Trận giao thông chiến đạt kết quả thấp, do điều tra không kỹ qui luật hoạt động của địch.
Để phá kế hoạch của ta, địch sử dụng bốn tiểu đoàn cơ động càn quét vùng căn cứ tây nam. Nhân dân bạn vô cùng lo lắng, vì chủ lực của ta đã theo kế hoạch xuất quân rồi.
Phải làm thế nào để cứu nguy đây? Chỉ còn một cách là tạo ra một chiến thắng gây chấn động. Nảy ra ý định ấy là do sự̣ nhạy cảm với thực tế tình hình trong tôi. Phương pháp là nghi binh buộc địch ở đồn Pha - pho xuất quân để ta tiêu diệt một bộ phận; bao vây công hãm đồn, kéo viện binh ra và tiêu diệt viện binh; dồn ép địch ở Pha - pho phải tháo chạy. Từ thắng lợi này, buộc bốn tiểu đoàn cơ động đang càng quét ở khu căn cứ phải rút về cứu nguy. Nhờ đó nhân dân vùng căn cứ địa có thể đảm bảo cày cấy vụ mùa.
Nói là làm. Tôi chỉ còn một chút thời giờ trao đổi với các đồng chí chỉ huy Pa - thét Lào, các đồng chí Lê Cứ, Võ Nhị đại đội 200 quân tình nguyện; đồng chí Bùi Mẫn, đồng chí Khế, cán bộ dân vận. Sau đó bắt tay hành động ngay, không kịp xin chỉ thị cấp trên của Quân khu Hạ Lào.
Theo kế hoạch đã được các đồng chí nhất trí, được nhân dân hai bản làng Pha- lai, Pha- hả giúp đỡ; việc nghi binh rất có kết quả. Địch ở trong đồn Pha- pho nghe tin dân làng báo có một tiểu đội " Kuo" (chỉ người Việt Nam) đêm qua đến làng, đang chuẩn bị  vượt sông Mê Kông sang Chăm-pat-xắc. Địch tưởng dễ ăn, cử ngay một trung đội tiến về Pha-lai hình thành thế bao vây để diệt.
Khi địch cách bản làng chưa đầy một trăm mét, quân ta bất ngờ đồng loạt nổ súng diệt gọn, thu toàn bộ vũ khí. Số bị thương, chúng tôi cho cứu chữa và khuyên họ trở về địa phương, kể cả năm tên bị bắt sống. Số bị chết, quân ta đề nghị dân làng đưa vào nơi cao ráo để địch đến thu dọn sau. Toàn bộ những gì thu được tại hiện trường, chúng tôi đều giao cho bạn Lào xử lý.
Ngày hôm sau, lúc mười giờ sáng, dưới sự yểm trợ của máy bay chiến đấu, địch cho một trung đội  Âu Phi nhảy dù xuống cứu nguy cho Pha - pho, trong khi đó quân ta vẫn tiếp tục vây hãm khu vực này bằng hỏa lực.
Chúng tôi đoán địch nhảy dù sẽ phải hành quân bộ về Pha- pho vì vậy chỉ để một bộ phận nhỏ ở lại bảo vệ dân, số còn lại bí mật đến Kiên Ngôn đón lõng .
Cuộc càn quét của bốn tiểu đoàn cơ động vùng căn cứ đã gây nhiều trở ngại cho nhân dân làm vụ mùa. Phải mất hai ba ngày chúng tôi mới có một báo cáo về khu ủy vì mùa mưa lũ ở Hạ Lào bước vào giai đoạn mới.
Chỉ hai, ba phút quân ta nổ súng, cả trung đội dù Âu Phi và trung đội lính hộ tống của đồn Pha - pho bị đánh tơi bời. Một số tên lính nép vào  mép đầm, một số ít ở sau chạy thoát được. Ta đã bắt sống 13 tên lính  dù. Số bị thương quá nhiều, một số chết nằm trên mép nước. Người Âu Phi thật kinh hoàng khi chưa biết con vật to bằng quả chuối dài gần một gang tay đang đeo lòng thòng trên người họ là con gì. Chúng tôi vội vã bứt những con đỉa trên người họ. Tôi cũng bị mấy con đỉa  voi bám vào chân, hút rất nhiều máu.
Những tên lính bị thương được dân làng dùng voi đưa ra đường số 13. Tuyệt đối không ai được lấy một vật gì của kẻ đã chết hoặc bị thương. Tôi đề nghị dân làng đi cấp báo cho đồn địch biết tin để chúng đến thu dọn những xác chết, cũng là cách giải nguy cho họ, khi đã rút quân.
Nhận tin, bốn tiểu đoàn cơ động của địch đang càn quét phải vội vã rút lui, binh lính đồn Pha- pho tháo chạy. Căn cứ Tây Nam của ta được mở rộng đến tả ngạn sông Mê Kông. Phong trào cách mạng dọc quốc lộ 13 phát triển mạnh, bàn đạp sang Chăm-pa- xắc bảo đảm an toàn.
Lễ chào mừng chiến thắng trận Kiên Ngôn được tổ chức trọng thể tại làng Ban Mây hữu ngạn sông Sê  Piên, nhân dân khắp nơi trong vùng về dự.
Trận Kiên Ngôn là một trận chiến qui mô nhỏ nhưng ý nghĩa về chính trị hết sức to lớn. Nó phát triển được lòng tin của nhân dân Lào đối với quân tình nguyện Việt Nam lên cao hơn bao giờ hết. Về cá nhân mình, tôi vô cùng vui mừng vì đã góp phần vào chiến thắng có ý nghĩa này.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Ba, 2009, 02:57:15 pm
Tháng 8 năm 1950, Mặt trận dân tộc thống nhất “ Neo Lào Ít-xa-la” và Chính phủ Kháng chiến lào ra đời và do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm thủ tướng và đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản lám tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Lào Ít-xa-la. Đây là một trong những sự kiện có tầm quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào kháng chiến của nhân dân các bộ tộc Lào quyết tâm xây dựng và bảo vệ tổ quốc của mình.
Trên đường về lại Liên khu 5, khi đi qua các bản làng, tôi được các ông bà, cha mẹ và anh chị em bạn Lào đón mừng như con em của họ lập công lớn.Đây là phần thưởng cao quý nhất của tôi.
Ngày 20 tháng 9 năm 1950, tôi về đến Liên khu 5 để đón tiểu đoàn 49 theo lệnh của Liên khu 5. Thật là một sự trùng hợp không hẹn mà gặp. Tôi vừa đến nhà ở sông Vệ thì gặp đồng chí Tao - người có nhiệm vụ đưa 13 tù binh Âu Phi về giao cho trại giam ở Nghĩa Hành.
Tôi hỏi đồng chí Tao:
- Sao chậm thế?
- Có vài tên bị sốt, phải cứu chữa.
- Được rồi, còn gì nữa không?
- Thưa anh, không ai làm phiên dịch. Mọi người chưa ăn uống gì.
- Hãy cho họ tắm giặt, thay quần áo. Tôi sẽ bàn với xã Nghĩa Phương ở sông Vệ thu xếp cho họ ăn nghỉ. Ngày mai dẫn họ đi. Phiên dịch thì đã có bà xã tôi đây.
Nếu bây giờ có ai đó còn sống, chắc họ không thể nào quên được  những  gì  họ đã được chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã dành  cho, trong khi họ là những tên tù binh. Và không ngờ người chỉ huy trận đánh lại là tôi, người đã cùng họ dùng hai bữa cơm trước khi họ về nơi tạm giữ. Và có lẽ họ ngạc nhiên hơn là người nữ phiên dịch - vợ tôi - lại có dòng máu người châu Âu.
Tiểu đoàn 49 Liên khu 5 do đồng chí Chu Thanh Hương và Nguyễn Xuân Lục chỉ huy được Liên khu 5 tăng cường cho Hạ Lào. Đây là tiểu đoàn chủ lực đầu tiên làm nhiệm vụ quân tình nguyện trên chiến trường Nam Lào.
Cuối tháng 11 năm 1950, tôi trực tiếp đưa một đại đội do đồng chí Quỳ phụ trách từ căn cứ địa 5 xuất phát tiến về Sa-ra-van. Cùng tiến quân có hai trung đội võ trang tuyên truyền Pa-thét Lào do đồng chí Châm Niên, đồng chí Ôn Kẹo chỉ huy (cả hai đồng chí này sau năm 1975 đều là thiếu tướng của Quân đội nhân dân Lào).
Dựa vào dân, phát huy chiến thắng ở Tây Nam Át-tô-pơ và Chăm Pi, Hỉn Lập, chúng tôi vượt sông Sê Kông đến Bản Phồn rồi một mạch tiến thẳng về Lào Ngam. Cũng cần nói thêm rằng, chúng tôi đi vào vùng địch, mà không một ai, kể cả bạn Lào, biết đường sá, địa hình. Chúng tôi chỉ biết tin vào dân, dựa vào dân để mở vùng.
Địch bị bất ngờ. Chúng kinh hoàng tháo chạy khi bất thần thấy một đại đội quân tình nguyện vượt cầu Huổi nậm Xảnh (con suối) đột nhập quận lỵ Lào Ngam, chỉ qua hai trận đánh nhỏ là Lắc Bèn (ngã ba Xẻng Vang) và Tà-xẻng Thoong, cả khu này được giải phóng.
Được nhân dân Lào Ngam tin cậy, chỉ sau hơn một năm vận động cách mạng, chúng tôi đã thành lập một chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương; xây  dựng một chính quyền, mặt trận và lực lượng vũ trang ba thứ quân. Cơ sở cách mạng đã phát  triển đến tận phụ cận thị xã Păk xoòng (đường liên lạc Sa-ra-van, At-tô-pơ, qua cao nguyên Bô-lô-ven được thông suốt).
Lào Ngam là một vùng đông dân, trù phú. Ngoài lúa ngô , nhân dân trong vùng còn trồng cà-phê, sa nhân, canh-ki-na, chè, ... Đặc biệt trong thị trấn và vùng trồng cây công nghiệp có ba mươi hộ gia đình, phần lớn gốc Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, và mười hộ Hoa kiều buôn bán, giúp việc nuôi dưỡng bộ đội. Tất cả đều đứng về phía cách mạng. Trong khi đó, địch mở nhiều đợt càn quét, nhưng đều bị thất bại. Số thanh niên người Việt làm ăn sinh sống trong vùng đã gia nhập lực lượng vũ trang. Một số được đào tạo trở thành cán bộ dân vận như anh Đức, anh Phái. Bà con Việt kiều nuôi dưỡng bộ đội, đóng góp quỹ nuôi quân như ông bà Y Lục, anh Phanh, ông Chắc Hoan, ...
Mặt trận Sa-ra-van được thành lập một tháng sau ngày giải phóng Lào Ngam và tôi đã trở thành chuyên gia quân sự cho bạn.
Đồng chí Huỳnh Tấn Bình, một cán bộ dân vận, người đã xung phong đi vào khu vực Lào Ngam là một trong những đồng chí đã góp phần tích cực trong cuộc vận động cách mạng cả vùng. Tiếp theo là anh Võ Đăng Ngạn, anh Tín, anh Trần Quyết Thắng đều là những cán bộ chính trị, làm công tác dân vận có nhiều thành tích. Ông bà Y Lục ủng hộ 50.000 đồng  Đông Dương.
Với phương châm quân sự đi đôi với chính trị, với phương thức tổ xung phong công tác, trung đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập đã xây dựng tình đoàn kết chặt chẽ Lào - Việt ở tỉnh Sa-ra-van. Cao nguyên Bô-lô-ven đã trở thành một căn cứ cách mạng vững chắc, tạo thế đưa cách mạng vào nội thành Păk Sế, Păk Xoòng và tả hữu ngạn sông Sê Đôn. Khu giải phóng Hạ Lào đã nối liền với Trung Lào, góp phần cùng Việt Nam tạo nên một thế vững chắc trên chiến trường khu vực trung Đông Dương.
Sau chiến thắng Kiên Ngôn, cụ Xi-thôn Com-ma-đam, quân khu trưởng quân khu Hạ Lào, một lãnh tụ của các bộ tộc thiểu số ở Hạ Lào, vì yêu quý tôi, đã đặt tên cho tôi là Khăm Phệt (có nghĩa là vàng ròng). Quan hệ của tôi và cụ vừa là đồng chí vừa là anh em. Tôi nhớ là khoảng tháng 10 năm 1964, tại số 17 phố Hàng Chuối, Hà Nội có các đồng chí : Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi -hản, đồng chí Hoàng Văn Thái, tôi được giao nhiệm vụ sang làm cố vấn quân sự Khu Nam Lào. Về phía bạn, cụ Xi-thôn là chủ tịch. Cụ rất cảm ơn Đảng ta lại cử tôi cùng đi với cụ.
Vui mừng và xúc động, cụ nói:
- Tôi rất lấy làm vinh dự là trong kháng chiến chống Pháp, ông Lê Kích - người mà tôi coi như thầy - đã giúp đỡ tôi. Nay trong chống Mỹ lại cùng đi với thầy, tôi thật hết sức tin tưởng, biết ơn.
Lời bộc trực của cụ làm tôi vô cùng lúng túng. Tôi vội bước tới ôm lấy cụ và trả lời:
- Tôi không dám.
Cụ nói:
- Thật lòng tôi đấy.
Anh Văn (tức Đại tướng Võ Nguyên Giáp), đồng chí Cay-xỏn  Phôm-vi-hản thấy tôi lúng túng, liền tới bắt tay. Một bữa tiệc tiễn đưa đã được tổ chức.
Tháng 12 năm 1983, tôi được về thăm lại làng quê của cụ Xi-thôn ở Pak Xoòng; đến thăm vợ con cụ ở Viên Chăn và cầm lòng không đặng khi biết cụ và người con trai của cụ - đồng chí Khâm (mà chính tôi đã dẫn dắt tham gia cách mạng) không còn nữa! Hỏi thăm dân làng, được biết cụ còn một cháu nội nối dõi tông đường của một bộ tộc có truyền thống chống Pháp từ năm 1905 - đó là dòng họ Com-ma-đam ở cao nguyên Bô-lô-ven.
Từ Bản Bạc tả ngạn sông Sê-Kông là phần địa lý thuộc khu Hạ Lào.  Số đông là các tộc dân thiểu số như : Tà Ôi, Nghé, A Lắc, Ka Xển, La Ven, Nha Hớn,... Được tin cụ  Xi-thôn trở về, khắp vùng nhân dân nô nức  chuẩn bị đón tiếp. Một không khí phấn chấn, một thái độ kính  trọng  thể  hiện  trên khuôn mặt mọi người. Đến đâu tôi cũng thấy buôn làng làm lễ đâm trâu, múa lăm-vông, khua cồng chiêng ... chào đón từ xa để rước cụ về làng.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Ba, 2009, 02:58:29 pm
Tôi ở lại Hạ Lào một thời gian ngắn giúp cụ Xi-thôn, sau đó lên đường  trở  ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới : tôi được cử làm phó đoàn 565 (đồng chí Đồng Sĩ Nguyên làm trưởng đoàn) đồng thời tôi còn kiêm nhiệm chức vụ đoàn trưởng đoàn 165. Đoàn này có nhiệm vụ liên lạc với Đảng Cộng sản Thái Lan ở khu vực đông bắc. Phó đoàn trưởng đoàn 165 lúc bấy giờ là đồng chí Nguyễn Ngọc Lân (Anh là Việt kiều ở Thái Lan, thường gọi là Cha Lơn, quê ở xã Thượng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Trên đường về Hà Nội, đoàn có nghỉ chân tại nhà đồng chí  Lân mấy ngày, cũng là dịp cho đồng chí thăm cha mẹ, vợ con mà đã từ lâu chưa có lần gặp mặt. Đảng bộ và nhân dân xã Thượng Lộc dành cho đoàn sự đón tiếp  rất trọng thị.
Thiếu tướng Trần Văn Trân, nguyên cán bộ Trung đoàn Trần Cao Vân 101 và đồng chí Trương Đình Châu, nguyên cán bộ biệt động, tham  mưu tác chiến Trung đoàn từ năm 1950-1951, kể lại:
"Tháng 1 năm 1953, Trung đoàn 101 tăng cường tiểu đoàn 274, được giao nhiệm vụ giúp bạn đánh địch từ đường 8 tới đường 12, đường 9; tiểu đoàn 391 hoàn thành nhiệm vụ đánh địch, giải phóng Lạc Xao, Căm Cớt, thọc về Nhom-ma-rat Ma-hả-xây. Trung đoàn 101 gồm tiểu đoàn 319 và 328 vừa đặt chân đến Khăm Ma, Khăm He đã diệt gọn một tiểu đoàn địch, thu 4 khẩu pháo 105 ly; sau đó tiến về phía nam giải phóng thị xã Thà-khẹt, phần lớn tỉnh Khăm Muộn và một phần tỉnh Thà-khẹt, buộc địch phải điều bớt lực lượng cơ động từ chiến trường Bắc Bộ vào để bảo vệ Sê Nô và Sa-văn-na-khẹt.
Cùng thời gian đó, ngày 11 tháng 12 năm 1953, tiểu đoàn 436 dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Kích, trung đoàn phó Trung đoàn 101 và đồng chí Bình Sơn, tiểu đoàn trưởng, tách khỏi đội hình trung đoàn, từ Nam Liên quê Bác, bí mật luồn rừng hàng ngàn cây số dọc Trường Sơn, thọc sâu xuống Hạ Lào đánh bọn ngụy Lào, lập chiến tích vang dội. Chỉ trong mười ngày, tiểu đoàn 436 đã cùng quân dân Lào loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, giải phóng trên hai vạn ki-lô-mét vuông với ba vạn dân, làm chủ một địa bàn của ba nước Đông Dương.
Đến cuối tháng 3 năm 1954, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở Trung Lào, trung đoàn 101 tiến về vùng giải phóng Lào Ngam, gặp lại tiểu đoàn 436 và sau đó toàn trung đoàn được lệnh tiến sang Cam-pu-chia. Trên đất nước Ăng-co cổ kính, tiểu đoàn 319 giải phóng tỉnh Chăm-pat-xăc, huyện Xiêng Păng thuộc Stung-treng và cùng tiểu đoàn 328 tiến công Công pông Thôm. Tiểu đoàn 436 giải phóng vùng đông bắc Miên đến tận Kra-chiê.
Trung đoàn đã góp phần thắng lợi chiến cuộc đông xuân 1953 - 1954, tạo ra hành lang an toàn thông suốt từ Trung Lào đến đông bắc Miên, nối liền với vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Qua những thành tích đạt được trong nhiệm vụ quốc tế giúp bạn từ  cuối năm 1953 đến đầu năm 1954, trung đoàn được vinh dự nhận một trong ba lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" mà Hồ Chủ Tịch dành thưởng cho ba trung đoàn có thành tích xuất sắc của toàn quân trong chiến dịch đông xuân 1953 - 1954".
Trong một cuộc gặp mặt nhân dân bạn Lào sau chiến thắng ngày 3 tháng 2 năm 1954, tiêu diệt đồn Pui, một tiền đồn của Át-tô-pơ, tôi đã viết bài thơ "Cảm xúc" tại Hạ Lào mùa Xuân năm ấy:
Ánh sáng trăng mờ, màn sương bạc
Lưng trời tiếng nhạn vọng không gian
Đoàn quân tiến thẳng vào đồn giặc
Tiếng thét xung phong; súng nổ giòn.
Đồn giặc tan rồi, vui xiết bao
Quân dân đàm luận suốt thâu đêm
Giữ dân, bám đất lo sản xuất
Để tiếp thắng dòn những trận sau.

 Đồng chí Trần Đăng Vân, nguyên là tiểu đoàn phó, Trung đoàn 101, trong bài viết "Bên kia Trường Sơn" tâm sự :
 " ... Hồi ấy, tôi là trung đội trưởng trung đội 1, đại đội 40, tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101, Đại đoàn 325. Thật là vinh dự được biên chế trong đội hình của trung đội mũi nhọn của đại đội chủ công, tiểu đoàn chủ công của trung đoàn.
 Thời cơ đã đến, bấy giờ khoảng cuối tháng 11 năm 1953, cán bộ từng cấp luân phiên đi họp. Cán bộ và chiến sĩ chúng tôi hân hoan nhận những khẩu súng tiểu liên K50 sáng ngời ánh thép của Liên Xô chi viện. Chúng tôi chưa biết được nhiệm vụ sẽ chiến đấu ở đâu. Một cuộc bố trí lại đội ngũ được diễn ra: trung đoàn cử đồng chí Lê Kích, trung đoàn phó, đã từng chiến đấu ở chiến trường Hạ Lào, về làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 436; đồng chí Bình Sơn, tiểu đoàn trưởng "hạ cấp" làm tiểu đoàn phó; một cán bộ phiên dịch người Việt biết tiếng Lào được bổ sung về tiểu đoàn ... và tôi được đề bạt lên đại đội phó, nhưng lại làm sĩ quan tác huấn của tiểu đoàn 328".


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Ba, 2009, 03:07:19 pm
Trong hồi ức “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn nhắc đến tôi -  người mà Đại tướng rất tin cậy khi  trực  tiếp  giao những nhiệm vụ quan trọng:
 "Đề án Đông Xuân đã được Bộ Chính trị cho ý kiến và thông qua. Bộ Chính trị xác định Tây Bắc là hướng chính. Nhưng lực lượng địch ở Lai Châu ít, nếu chúng không tăng viện, ta sẽ có điều kiện đánh lớn. Binh lực sử dụng tại đây chỉ cần một đại đoàn. Ta đã trao đổi với các bạn Lào, lực lượng ta sẽ phối hợp với lực lượng bạn và quân tình nguyện giải phóng ngay tỉnh Phông-xa-lỳ ở Thượng Lào. Như vậy sẽ hình thành ba hướng tiến công lớn: hướng Tây Bắc, hướng Trung - Hạ Lào, hướng Tây Nguyên, và hướng phối hợp là trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
 Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương xây dựng kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 .Lần đầu, ta có kế hoạch tác chiến phối hợp quy mô hầu hết bán đảo Đông Dương.
 Hướng chính Tây Bắc, bước đầu sử dụng Đại đoàn 316 tiêu diệt địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc; bước thứ hai, phối hợp giữa Đại đoàn 316 với Trung đoàn 148 của khu Tây Bắc, bộ đội tình nguyện và Quân Giải phóng Pa-thét Lào giải phóng tỉnh Phông-xa-lỳ. Hướng này do các đồng chí Lê Quảng Ba, Chu Huy Mân, tư lệnh và chính ủy Đại đoàn 316 phụ trách.
 Hướng Trung và Hạ Lào, lực lượng gồm Trung đoàn 66 của Đại đoàn 304, Trung đoàn 101 của Đại đoàn 325, do đồng chí Trần Sâm, tư lệnh đại đoàn 304 và đồng chí Trần Quý Hai, tư lệnh kiêm chính ủy Đại đoàn 325 phụ trách, phối hợp với bạn mở rộng vùng giải phóng, đánh thẳng hành lang Nam - Bắc Đông Dương. Tại đây sẽ thành lập Bộ Chỉ huy Mặt trận Trung và Hạ Lào"(1).
 ... Tôi cùng với anh Hoàng Văn Thái làm việc với các đồng chí Trần Sâm, Đại đoàn trưởng 304, Trần Quý Hai, Đại đoàn trưởng 325, cụ thể hóa nhiệm vụ và hoạt động trên chiến trường Trung, Hạ Lào. Ở hướng này chưa diễn ra hoạt động quân sự lớn, nên kẻ địch sơ hở và chủ quan. Bộ đội ta và Quân Giải phóng Pa-thét Lào tiến công có thể tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng trên đất bạn. Và đây cũng là một hướng nhiều khả năng thu hút quân cơ động của địch. Tôi trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Kích phụ trách đơn vị thọc sâu xuống hạ Lào, nhấn mạnh phải tuyệt đối giữ bí mật trong hành quân để tạo  bất ngờ lớn.(2)
 ... Từ cuối tháng 11 năm 1953, cùng với cuộc tiến quân lên Tây Bắc, một cánh quân khác của ta cũng lên đường tiến xuống Trung, Hạ Lào.
 Tham gia tiến công địch hướng này có Trung đoàn 66 của 304, các Trung đoàn 101, 436 và Trung đoàn 18 của 325, cùng với các đơn vị tình nguyện của Liên khu 4, Liên khu 5, đã sang phối hợp với bạn hoạt động từ những năm trước, và một số đơn vị Pa-thét Lào. Bộ chỉ huy chiến dịch Trung Lào, lấy mật danh là "Mặt Trận D" được thành lập. Các đồng chí Trần Sâm, tư lệnh Đại đoàn 304, Trần quý Hai, tư lệnh kiêm chính ủy Đại đoàn 325 được cử tham gia Bộ Chỉ huy liên quân. Lực lượng ta tiến vào Trung, hạ Lào theo ba đường. Các Trung đoàn 66, 101, tiểu đoàn 274 (thuộc Trung đoàn 18) và đại đoàn bộ 325 hành quân theo tỉnh lộ Nghệ An và Chu Lễ, Hương Khê rồi vượt đèo Quắc và dốc Trìm - Trẹo sang bắc Trung Lào. Trung đoàn 18 (thiếu một tiểu đoàn) theo quốc lộ 1 tới Kỳ Anh, vượt đèo Móng Gà sang Cổ Áng theo đường Ba Rền, U Bò tiến vào phía Bắc đường số 9. Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101 theo đường xuyên Trường Sơn tiến thẳng xuống Hạ Lào.
 Trong kế hoạch chiến lược của mình, Na-va đã xác định vĩ tuyến 18 là tuyến ngăn chặn hai miền Nam, Bắc Đông Dương. Các khu vực đường số 12, đường số 9, đường số 8 và cao nguyên Bô-lô-ven ở Trung, Hạ Lào được coi là những địa bàn đặc biệt quan trọng về chiến lược. Nếu để mất những địa bàn này Đông Dương có thể bị cắt làm đôi. Trước khi vào mùa khô, Na-va đã tổ chức tại Trung Lào một bộ máy chỉ huy thống nhất, và tăng thêm lực lượng cho chiến trường này.(3)
 Ngay từ cuối tháng 11 năm 1953, địch đã phát hiện một lực lượng lớn bộ đội ta đang tiến về hướng Trung Lào. Ngày 1 tháng 12, Nava vội vã rút binh đoàn cơ động số 20 (GM20) từ đồng bằng Bắc Bộ vào bịt các cửa ngõ hai tỉnh Khăm Muộn và Xavanakhét, chủ yếu là ba con đường : số 8, số 9 và số 12, nối liền Việt Nam với Trung Lào. Địch phân tán binh lực là điều đáng mừng cho ta. Tuy nhiên, địch sớm đề phòng sẽ gây những khó khăn cho ta khi khởi đầu chiến dịch.
Quyết mở một mặt trận ở Trung, Hạ Lào trong Đông Xuân này, chúng ta đã chọn đúng khu vực xung yếu mà địch không thể bỏ.(4)
... Tại Trung Lào, những cánh quân và hàng vạn dân công của ta đã không lọt qua mắt địch. Tướng Buốc-gun (Bourgound), tư lệnh mới miền Trung Đông Dương, bố trí 3 cụm phòng thủ nhằm bịt các cửa ngõ phía đông. Một cụm ở khu vực Na-pé, Căm Cớt, Lạc Sao trên đường số 8, gồm tiểu đoàn Ta-bo số 9 và một đại đội pháo 105. Một cụm ở Ba-na-phào, Nhom-ma-rát trên đường số 12, gồm hai tiểu đoàn bộ binh Ma-rốc, một tiểu đoàn bộ binh (An-giê-ri) và một tiểu đoàn pháo 105mm. Một cụm ổ Nậm Theun, có tiểu đoàn bộ binh cơ giới Xpa-hi (Spahis) số 6 làm lực lượng dự bị.
Bộ chỉ huy liên quân Lào - Việt đề ra trong kế hoạch đợt 1, tiến công cụm cứ điểm phòng ngự theo chốt trên đường số 12. Lực lượng sử dụng là hai trung đoàn. Ta sẽ dùng chiến thuật  đánh điểm diệt viện. Trung  đoàn  66 đánh cứ điểm Mụ Giạ, Ba-na-phào. Trung đoàn 101 phục kích đánh viện trên đường số 12 đánh về Nho-ma-rát giải phóng phía đông tỉnh Khăm Muộn. Ở hướng thứ yếu của chiến dịch, một tiểu đoàn của  Trung đoàn 101 và bộ đội bạn đánh Na-pé, Lạc Sao, Căm Cớt. Sau đó phát triển theo trục đường số 8, đánh xuống đường 12. Cùng lúc tiểu đoàn 436 của trung đoàn 101, mũi thọc sâu của Bộ trong chiến cục Đông Xuân 1953-1954, đánh xuống Hạ Lào, tạo bàn đạp cho lực lượng lớn của ta phát triển xuống phía nam
"(5).

Đại tướng Võ Nguyên Giáp ĐIỆN BIÊN PHỦ ĐIỂM HẸN LỊCH SỬ,Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân năm 2000, trang 30-31(1), trang 42-43(2), trang 57-58(3), trang 59 (4), trang 60-61(5).


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Ba, 2009, 03:12:10 pm
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của giặc Pháp bị tiêu diệt. Thời điểm này tiểu đoàn 436 do tôi lãnh đạo trên đường tiến quân đi Tây Ninh ở Nam Bộ. Chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, đơn vị tôi tiếp cận thị xã Kra-chiê (Cam-pu-chia) để làm công tác chuẩn bị. Khi qua đồn Bạch Mai, mọi người đều biết tin Điện Biên Phủ đã được giải phóng, cả khu vực đóng quân tiếng hò reo như sấm dậy. Vui mừng đến mức mọi người quên rằng mình đang ở rất gần nơi địch đóng quân. Có lẽ địch biết Điện Biên Phủ thất thủ, nên chúng đều án binh bất động.
Hạ Lào, Xuân - Hè 1954.
Hạ Lào, Đông Bắc Cam-pu-chia là chiến trường phối hợp trực tiếp với chiến trường Tây Nguyên, do Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 chỉ đạo thống nhất, thông qua Ban Cán sự Đảng bộ Hạ Lào.
 Đồng chí Nguyễn Chính Cầu là bí thư, chuyên gia giúp bạn Lào trong cuộc vận động cách mạng ở Hạ Lào, cùng một lực lượng cán bộ dân vận hùng hậu, có trình độ, nắm vững đường lối, chính sách. Quân tình nguyện và lực lượng vũ trang của bạn đặt dưới sự chỉ huy của khu Hạ Lào do ông Xi-thôn Com-ma-đam là khu trưởng. Về phía Việt Nam có đồng chí Đoàn Huyên làm cố vấn.
Từ ngày thành lập khu Hạ Lào, tháng 3 năm 1949 cho đến Xuân Hè năm 1954, công cuộc vận động cách mạng ở Hạ Lào đi đúng đường lối, đã giành được thắng lợi to lớn: Phát động được nhân dân, xây dựng được cơ sở Đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang ba thứ quân. Chiến tranh du kích ngày càng phát triển. Đã mở rộng được vùng giải phóng, xây dựng thành công căn cứ địa ở tỉnh miền Đông (tỉnh Tà-ven Ọoc) sát biên giới Liên khu 5. Hạ Lào trở thành một chiến trường phối hợp tích cực với cả nước và Liên khu 5 trong Xuân Hè 1954.
Tình hình của ta và địch ở Hạ Lào:
Về phía ta: Hạ Lào gồm ba tỉnh Xa-ra-van, Chăm-pát-xắc, Át-tô-pơ. Bạn tách một phần phía đông của hai tỉnh Xa-ra-van và Át-tô-pơ để thành lập tỉnh Tà-ven Oọc chạy dọc Tây Trường Sơn và tả ngạn sông Sê Kông. Hạ Lào có biên giới với tỉnh Kon - Tum, Quảng Nam, một phần phía nam của tỉnh Thừa Thiên - Huế. Núi rừng chiếm hơn bốn phần năm diện tích, khí hậu hai mùa mưa nắng rất gay gắt.
Có hai cao nguyên lớn : Cao nguyên Bô-lô-ven với độ cao từ 1.200 đến 1.500 mét, diện tích trên 6.000 ki-lô-mét vuông, có vị trí chiến lược ở chiến trường Nam Đông Dương. Cao nguyên miền Đông sát biên giới Việt Nam có núi cao rừng sâu, nối liền với cao nguyên Bắc Tây Nguyên, có thế mạnh về địa hình rất có lợi cho ta.
Hạ Lào có năm mươi vạn dân với ba mươi dân tộc. Theo số liệu thống kê của Pháp mà ta lấy được tại huyện lỵ Lào Ngam tháng 12 năm 1954, thì Chăm-pát-xắc có hai mươi hai vạn dân, Xa-ra-van có mười tám vạn dân, Át-tô-pơ có 10 vạn dân. Tộc dân có truyền thống chống Pháp từ 1905 là tộc người La-vên khoảng năm ngàn người sống  tại cao nguyên Bô-lô-ven. Ông Com-ma-đam là lãnh tụ khởi xướng và lãnh đạo phong trào kháng chiến chống Pháp. Khi ông qua đời, con trai ông là Xi-thôn Com-ma-đam kế tục sự nghiệp. Phong trào này đã đoàn kết với tộc dân Tà Ôi là một tộc dân khá đông, sống hầu khắp phía đông Xa-ra-van, do ông Kẹo lãnh đạo.
Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp tự cấp tự  túc. Muối là mặt hàng chiến lược. Hạ Lào không có muối, chỉ có một mỏ muối nhỏ ở Xê-khăm-pho, khai thác được 60 tấn/năm. Lương thực đủ nuôi sống được lực lượng cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Vùng Chăm-pát-xắc là một vựa lúa lớn ở Hạ Lào, thừa ăn, có bán. Thương nghiệp rất nhỏ bé, chủ yếu ở các thị xã, thị trấn; vùng nông thôn không có chợ và trường học.
Các bộ tộc, bộ lạc theo tộc dân sống ở từng khu vực riêng biệt : tộcLa-vên, tộc Nha-hớn ở cao nguyên Bô-lô-ven; tộc La-ve ở giáp biên giới Cam-pu-chia trên hai huyện Phu-vông Nứa, Phu-vông Tạy; tộc Kà-tu ở dọc Trường Sơn; tộc Tà-ôi ở Đông Bắc Xa-ra-van, tộc A-lắc ở Tha-teng. Sự cai trị của Pháp và vua quan (Hạ Lào có một phó vương) khá nặng nề.
Đối với các dân tộc ít người, cuộc sống dựa vào các tộc trưởng. Đạo Phật có ảnh hưởng sâu xa trong nhân dân, nhất là người Lào. Các làng, bản người Lào (Lào Lum) đều có chùa. Nhà chùa vừa là trường học dạy giáo lý đạo Phật, dạy đạo làm người, vừa là nơi dạy chữ. Sư sãi là người cha linh hồn cho mọi sắc dân, rất được kính trọng.
Bị sự cai trị dã man của thực dân, phong kiến đè nặng lên cuộc sống nên khi có tiếng chuông cách mạng thức tỉnh là nhân dân đoàn kết vùng đứng lên thay đổi cuộc đời. Tấm lòng nhân hậu của người dân Lào thể hiện trong cuộc sống hàng ngày: họ hết sức cần cù; trung thực, chất phác; của cải để ngoài rừng, nhà không cài cửa; đùm bọc nhau trong lúc đói nghèo, túng thiếu. Trong bản làng, thôn xóm, trong mọi gia đình không mấy khi có lời qua tiếng lại, thể hiện một đặc điểm của nền văn hóa hết sức thuần nhị. Nhân dân cả nước Lào nói chung và Hạ Lào nói riêng vẫn giữ được đặc trưng của một nền văn hóa dân tộc, bộ thị tộc. Những ngày lễ hội, bên cạnh đống lửa rực cháy, những chàng trai, cô gái, các cụ, các mẹ cùng nhau ca hát, hò lâm-tơi, múa lăm-vông trong tiếng khèn, tiếng chiêng, tiếng cồng thâu đêm suốt sáng.
Lực lượng vũ trang được xây dựng đúng hướng, gồm ba thứ quân, được huấn luyện tốt về chính trị, quân sự, công tác vận động cách mạng. Mỗi bản làng tùy theo số dân, tổ chức từ hai đến ba tiểu đội hoặc một trung đội du kích. Bộ đội địa phương thì mỗi huyện có từ hai đến ba trung đội, tỉnh có một đại đội. Quân tình nguyện Việt Nam có hai đại đội chủ lực tập trung, trang bị mạnh. Ở quân khu, ở tỉnh chưa có đại đội địa phương thì có đại đội độc lập của quân tình nguyện . Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của bạn Lào hoạt động theo hướng chính trị, quân sự đi đôi, lấy chính trị làm chủ yếu, dân vận làm cơ sở, tác chiến là để mở vùng, bảo vệ cơ sở, phát động và phát triển chiến tranh du kích hỗ trợ cho vận động chính trị. Phương thức hoạt động xuyên suốt là tiểu đội xung phong công tác, trung đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung.
Từ xuân hè 1954, trên chiến trường, lấy hoạt động quân sự làm chính. Các hoạt động quân sự phải kết hợp với chính trị nhằm bảo đảm cho cả thắng lợi quân sự và chính trị.
Trong thư đồng chí Võ Nguyên Giáp gởi cho Ban Cán sự Hạ Lào và đồng chí Nguyễn Chí Cầu tháng 11 năm 1953 đã xác định rõ là lấy đẩy mạnh hoạt động quân sự làm chính. Cuối năm 1953, Xuân Hè 1954, lực lượng quân tình nguyện Việt Nam có một trung đoàn gồm tiểu đoàn 200,  tiểu đoàn 49, đại đội 44 và một số trung đội vũ trang công tác. Tiểu đoàn 436 chủ công của Trung đoàn 101 thuộc Đại đoàn 325 được tăng cường phối thuộc ở Hạ Lào. Liên khu 5 còn điều sang một đại đội đặc công do đồng chí Trần Nghiêu Ẩn làm đại đội trưởng.
Về phía địch:
Ở Hạ-Lào, địch tổ chức thành một phân khu ( Seteur Bas-Laos), và một số tiểu khu khác như Xa-ra-van , Át-tô-pơ, Chăm-pát-xắc, Pắc Xoòng. Cơ quan chỉ huy quân khu đóng ở Pắc Xế. Ở đây, địch có hai lực lượng cơ động, chiếm đóng.
Đến Xuân Hè 1954, ngụy Lào có 12 tiểu đoàn, trong đó có 6 tiểu đoàn cơ động, một tiểu đoàn pháo và cối 106,7 ly, một đại đội xe bọc thép.
GM 50 là binh đoàn cơ động chung cho Trung Lào, cơ quan chỉ huy đóng ở Sê Nô. GM 51 là binh đoàn cơ động chung cho Hạ Lào và Đông Bắc Cam-Pu-Chia, cơ quan chỉ huy ở Stung-treng.
Các tiểu đoàn cơ động và binh chủng của ngụy Lào đều có sĩ quan Pháp điều khiển.
Đến cuối tháng 3 năm 1954, ở Đông Bắc Cam-pu-chia, địch đã tổ chức  tiểu khu Siam Pang, do một tiểu đoàn của GM 51 và lực lượng binh chủng chiếm đóng nhằm ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam ( gồm Trung đoàn 101 của Đại đoàn 325) tiến xuống Veun-sai, Stung-treng, Kra-chiê.
Từ  giữa  năm 1953 đến tháng 1 năm 1954, địch mở những cuộc càn quét quy mô từ hai đến ba tiểu đoàn vào vùng tự do của Hạ Lào như vùng tam giác ba huyện Xa-nam-xây, U-đôm-xỉn, Chăn-tha-u-đôm, vùng giải phóng của Xa-ra-van, Chăm-pát-xắc. Ở Át-tô-pơ, chúng tổ chức được lực lượng phỉ ở hai huyện Phu-vông Nứa, Phu-vông Tạy do Nai-koong Tanh, người tộc La-ve đứng đầu, nhằm ngăn chặn lực lượng ta thọc xuống Đông Bắc Cam-pu-chia. Ngoài ra, địch còn thực hiện chính sách chia rẽ và vũ trang toàn bộ cư dân khu Nha Hớn ( phía đông  nam Bô-lô-ven) biến thành một khu dồn lớn.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Ba, 2009, 03:16:08 pm
Giải phóng Át-tô-pơ, Bô- lô-ven, Xa-ra-van ở Hạ Lào
Tháng 10 năm 1953, các lực lượng quân tình nguyện phối hợp chặt chẽ với bạn Pa-thét Lào, phát động toàn dân vùng giải phóng đấu tranh toàn diện với địch, bảo vệ vùng tự do, chống càn quét lấn chiếm và giành được thắng lợi.
Bộ chỉ huy khu Hạ Lào huấn luyện các đơn vị, tổ chức nắm tình hình địch, chuẩn bị lương thực, đạn dược, bảo đảm cho hoạt động Xuân Hè 1954.
Cơ quan tham mưu khu Hạ Lào do đồng chí Võ Quang Hồ phụ trách khẩn trương chuẩn bị chiến trường.
Ngày 16 tháng 11 năm 1953, tôi đến Tổng cục chính trị ở Việt Bắc nhận nhiệm vụ do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao. Đồng chí Nguyễn Chánh, tư lệnh kiêm chính uỷ Liên khu 5 giao cho tôi bức thư của đồng chí Võ Nguyên Giáp gởi Ban Cán sự Hạ Lào và anh Nguyễn Chính Cầu; bức thư gởi Trung đoàn 101 và riêng cho tiểu đoàn 436. Đồng chí đại tướng nhấn mạnh yêu cầu phối hợp chiến trường Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên để tôi về báo cáo với ban cán sự.
Từ đầu tháng 1 năm 1954, Trung đoàn 101, Tiểu đoàn 436 và Trung đoàn 66 thuộc Đại đoàn 304 tiến công Trung Lào, giải phóng thị xã  Thà  Khẹt  và  phần  lớn  tỉnh Xa-va-na-khẹt dọc phía đông trục quốc lộ 13.
Cuộc tiến công đã gây bất ngờ lớn cho địch ở chiến trường Trung Đông Dương và đã phối hợp nhịp nhàng với cuộc tiến công của chủ lực Bộ và Tây Bắc Việt Nam. Các hoạt động nhỏ lẻ ở Hạ Lào tạo điều kiện cho chuẩn bị chiến trường.
Ở Bắc Tây Nguyên, các đơn vị chủ lực của Liên khu 5 hành quân và tiếp cận các vị trí phía Đông Bắc Kon Tum như Mang Đen, Măng Pút, Kom Brai. Sau hơn một tháng hành quân, tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101, đại đoàn 325 xuất phát từ xã Nam Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An đã đến căn cứ địa Miền Đông của Lào (Tà- ven Oọc) giữa hạ tuần tháng 1 năm 1954.
Tại Huội Khâm-xay, cách bản Hạt-xa-ty 20 km, ban cán sự Lào, bộ chỉ huy quân tình nguyện dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chính Cầu đã mở hội nghị quân sự, có cụ Xi-thôn Côm-ma-đam, khu trưởng, tham dự. Hội nghị nghiên cứu quán triệt tinh thần nội dung bức thư của đồng chí Võ Nguyên Giáp và nghe anh Võ Quang Hồ, tham mưu trưởng, báo cáo kế hoạch tác chiến. Lực lượng tại chỗ rất thông thạo địa hình, địch tình, còn tiểu đoàn 436 thì xa lạ với chiến trường.
Chiến thắng tiêu diệt Mang Đen của quân chủ lực Liên khu 5 ngày 27 tháng 1 năm 1954 là một cổ vũ lớn đối với Hạ Lào. Theo kế hoạch  do  tham  mưu  Hạ Lào vạch ra thì mục tiêu chủ yếu là tiêu diệt căn cứ Pui, một vị trí tiền đồn, cùng lúc dùng đặc công đánh vào thị xã Át-tô-pơ và tiêu diệt tiểu khu Át-tô-pơ, giải phóng toàn bộ tỉnh này.
Tiểu đoàn 436 từ xa đến, khẩn trương làm công tác tổ chức chiến đấu. 4 giờ rưỡi sáng ngày 3 tháng 2 năm 1954, vị trí Pui bị tiêu diệt; lực lượng đặc công của ta và bạn cùng lúc tấn công trung tâm thị xã. Địch tháo chạy, ta truy kích tận chân núi Phu Luổng (cao nguyên Bô-lô-ven) và đã tiêu diệt phần lớn lực lượng địch. Toàn bộ hệ thống chiếm đóng của địch trên trục đường 16 dọc sông Sê Kông tháo chạy. Lực lượng Liên khu 5 sau khi tiến vào Đắc Tô, Kon Tum đã truy kích địch tận Mường Cầu, Hạ Lào. Tại đây đã diễn ra cuộc gặp mặt giữa lực lượng Liên khu 5 với quân tình nguyện và lực lượng Pa-Thét Lào. Thật là một hình ảnh rất đẹp và xúc động. Toàn bộ tỉnh Át-tô-pơ đã được giải phóng vào ngày 3 tháng 2 năm 1954.
Chiến thắng Át-tô-pơ, Bắc Tây Nguyên, Trung Lào lan truyền rất nhanh, cổ vũ khí thế quân dân Hạ Lào, gây hoang mang lớn cho địch. Thừa  thắng,  tiểu đoàn 436 truy kích địch lên tận cao nguyên Bô-lô-ven, đập tan các vị trí Chăm-pi, Hởn-lập phía nam Pắc Xoòng, bao vây đập tan vị trí Huội Còn, chỗ dựa của lực lượng phỉ Nha - hớn, tiền đồn của Pắc Xoòng. Một lực lượng chính trị quân sự của bạn Lào từ hướng Tam-ma-lơi, Lạ-nhao ( phía tây thị xã Át-tô-pơ) tiến vào thu phục khu phỉ  Nha - hớn. Hệ  thống  cứ điểm địch từ  Pắc Xoòng đến Tha-teng, bản Phồn đều bị vỡ, quân địch tháo chạy. Tiểu đoàn 436 và bộ đội Pa - thét Lào thừa thắng tiến vào Lào Ngam, Xẻng Vang, Kèng-kịa, thọc sâu đến tả hữu ngạn sông Sê-đôn (Bắc Lào Ngam 50 ki-lô-mét), bao vây thị xã Xa-ra-van. Một vùng rộng lớn tỉnh Xa-ra-van  từ phía đông  đường 13  đến  phía  tây Trường Sơn, không còn địch.
Trung đoàn 101, tiểu đoàn 436 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 66,  đại  đoàn 304, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở Trung Lào, đầu tháng 3 năm 1954 đã tiến xuống Hạ Lào. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 66 do đồng chí Mai Hiền và trung tá Văn chỉ huy hoạt động ở tả hữu ngạn sông Sê-đôn đến Bắc Pắc-xế, một tiểu đoàn của Trung đoàn 101 hoạt động vùng Chăm-pát-xắc phối hợp với bạn Lào.
Sau gần hai tháng, ta đã giải phóng hầu hết Chăm-pát-xắc, từ huyện Phôn - thông (đường số 10) Pắc-xế giáp Thái Lan đến huyện Xu-ku-ma, huyện Mường Mun, huyện Mường Khốn, giáp tỉnh Xiêm Riệp của Cam-pu-chia. Vùng giải phóng Chăm-pát-xắc còn mở rộng đến biên giới Thái Lan. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 101 theo trục đường 13, từ phía nam Pắc-xế tiến sâu đến phía bắc Stung-treng. Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào như tiểu đoàn 200, tiểu đoàn 49 và lực lượng bạn, vừa làm nhiệm vụ phối hợp chiến đấu với các đơn vị của Trung đoàn 101, vừa giúp địa phương củng cố và giữ vững vùng giải phóng.
Ban chỉ huy Trung đoàn 101, do đồng chí Trần Văn Bành làm trung đoàn trưởng, đồng chí Hoàng Văn Thái làm chính ủy và một phần lực lượng cơ quan trở thành cơ quan chỉ huy, giúp đồng chí Trần Quý Hai điều hành chung về hoạt động quân sự. Đồng chí Trần Quý Hai được bổ sung vào thường vụ Ban Cán sự Đảng bộ Hạ Lào đặc trách về mặt quân sự.
Trong một bức thư, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết:
"Trong trường hợp ý kiến chung trong lãnh đạo của Ban Cán sự Đảng không nhất trí được với nhau thì đồng chí Trần Quý Hai trên cương vị đại diện của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu quyết định về mặt quân sự và chịu trách nhiệm trực tiếp với Bộ".
Chỉ thị trên đã chỉ đạo cho Hạ Lào vận dụng đúng đắn phương châm chiến dịch và chỉ đạo tác chiến, phù hợp với yêu cầu chiến lược của cuộc tiến công Đông Xuân 1953-1954. Thắng lợi trên các chiến trường từ Bắc đến Nam mà trực tiếp là Trung Lào, Bắc Tây Nguyên, đã tạo nhiều thuận lợi cho Hạ Lào hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Và chiến thắng của quân dân Hạ Lào có ảnh hưởng trực tiếp đến chiến trường Bắc Cam-pu-chia.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Ba, 2009, 03:20:16 pm
Đông Bắc Cam-pu-chia gồm bốn tỉnh: Stung-treng, Kra-chiê, Rát-ta-na-ki-ri và Môn-đun-ki-ri, có biên giới chung với tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc của Việt Nam. Còn đường liên quốc gia 19 xuyên suốt từ Bình Định đến Gia Lai, vượt biên giới đến Bô-Keo, Stung-treng của Cam-pu-chia. Việc lực lượng của ta phối hợp với bạn Cam-pu-chia giải phóng phần phía đông đường 13 chạy qua hai tỉnh Stung-treng, Kra-chiê có ảnh hưởng trực tiếp đối với Plây-cu, Buôn Mê Thuột.
Đồng thời, một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 66 thọc đến phía bắc Pắc-Xế; hai tiểu đoàn của Trung đoàn 101 từ nam Pắc Xế, thọc sâu đến Bắc Stung-treng. Tiểu đoàn 436 được lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, bỏ việc bao vây chuẩn bị tiêu diệt địch ở Xa-ra-van, cấp tốc tiến xuống Đông Bắc Cam-pu-chia, có nhiệm vụ đánh vòng về Tây Ninh, Nam Bộ. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 101 vượt sông Mê Kông tiến sang Chăm-pát-xắc, phối hợp cùng lực lượng tại chỗ giải phóng Chăm-pát-xắc, bắt sống tên phó vương Phu-mi Bun-ùm và tiến về tây bắc Cam-pu-chia (Công Pông Thơm). Tiểu đoàn còn lại do đồng chí Trần Văn Bành, trung đoàn trưởng Trung đoàn 101, trực tiếp chỉ huy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Trần Quý Hai, tư  lệnh Đại đoàn 325 tiến về Siam Pang, bắc đông bắc tỉnh lỵ Stung-treng.
Hành  quân  qua  khu  phỉ La-ve, tiến xa hậu phương Hạ Lào mà không  hiểu  rõ  địa hình, địch tình, không có tiếp tế là một khó khăn không nhỏ. Quyết tâm và phương hướng của chúng tôi là: Vững tin vào dân, lấy của địch đánh địch, tạo bất ngờ lớn nhất để chiến thắng địch.
Ngày 31 tháng 4 năm 1954, sau hơn mười ngày hành quân, được sự  giúp đỡ của bạn Lào, đơn vị tiếp cận tiền đồn Vơn Xai, thực hành bao vây và tổ chức tiến công. Địch có một đại đội tăng cường thuộc GM 51 đến tăng viện  khi tiểu đoàn 436 còn cách Vơn Xai 15 km. Đây là đại đội đi đầu của địch. Như vậy, ta và địch đồng thời trong cùng một ngày đã đến Vơn Xai. Tiểu đoàn 436 tổ chức tập kích tiêu diệt  phần  lớn  đại đội Âu Phi và một trung đội xe bọc thép, tiêu diệt hai vị trí chiếm đóng; vận động và phục kích đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn cơ động thiện chiến của GM 51, truy kích đến tận Siam Pang, giải phóng hoàn toàn Vơn Xai, thu nhiều vũ khí, trang bị, 41 xe cơ giới, phá hủy bốn xe bọc thép, bắt một số tù binh quân cơ động Âu Phi. Các cứ điểm địch ở Lom Pát, Bô Khâm, Bô Keo, Sê-rê-pốc tháo chạy. Đường 19 từ biên giới Việt Nam đến cầu sông Sê-rê-pốc ( gần thị xã Stung-treng) không còn địch.
Sau chiến thắng ở Vơn Xai, tiểu đoàn 436 phát huy chiến quả thọc sâu xuống hướng Kra-chiê; vận động phục kích tiêu diệt gọn một đoàn xe tiếp viện GM 51 gồm : một đại đội hạ sĩ quan, sĩ quan của Pháp vừa tốt nghiệp trường võ bị Xanh-xia (Saint Cyr) sang bổ sung cho GM 51; bắt sống 45 tên, diệt gần hết một đại đội ngụy Cam-pu-chia hộ tống; thu toàn bộ vũ khí, trang bị, lương thực; phá hủy trên 40 xe các loại, có bốn xe bọc thép. Qua trận này, tiểu đoàn mới có gạo ăn. Thật là may vì không còn gạo từ  mấy ngày hôm trước. Do yêu cầu chủ yếu lúc này là lương thực nên chúng tôi chủ trương đánh "công voa" từ phía nam ra, mà cho qua một tiểu đoàn Âu Phi từ hướng Stung-treng cơ động về phía nam. Khi chúng tôi hoàn tất việc bố trí, đơn vị thay đổi toàn bộ vũ khí, tiêu hủy toàn bộ những gì còn lại vì không biết giao cho ai. Chúng tôi đã tiến sâu vào vùng không có cơ sở cách mạng.
Qua hai trận tác chiến, tiểu đoàn 436 đã tiêu diệt gần hai đại đội Âu Phi, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn thuộc GM 51, phá hủy 80 xe các loại, giải phóng bốn tỉnh đông bắc Cam-pu-chia: Ra-ta-na-ki-ra, Mô-đôn-ki-ri, Kra-chiê và Stung-treng; đã phối hợp tốt với Bắc Tây Nguyên, buộc địch phải đưa GM 100 từ Nam Triều Tiên về cứu nguy cho Gia Lai và nó đã bị Trung đoàn 96 tiêu diệt ngày 24 tháng 6 năm 1954 tại Dak Pơ trên đường 19. Người chỉ huy trận địa nổi tiếng này là đồng chí Nguyễn Minh Châu (tức anh Năm Ngà, sau này anh là Ủy viên Trung ương Đảng, thượng tướng, Tư lệnh Quân khu 7).
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ và Liên khu 5, tiểu đoàn 436 và trung đoàn 101 cùng với quân tình nguyện của Liên khu 5 tại Hạ Lào và đông bắc Cam-pu-chia được sự phối hợp chặt chẽ của lực lượng Pa-thét Lào và sự giúp đỡ của nhân dân nước bạn, đã giải phóng gần hết khu Hạ Lào và đông bắc, tây bắc Cam-pu-chia, buộc địch phải đưa bốn lữ đoàn cơ động trên các chiến trường về cứu nguy. Riêng tiểu đoàn 436 đã cùng Hạ Lào đánh hai trận, giải phóng gần hết khu Hạ Lào, đánh một trận giải phóng bốn tỉnh đông bắc Cam-pu-chia, tiêu diệt gần một ngàn tên địch là lính Âu Phi, thu và phá hủy 80 xe các loại, bắt sống 45 tên lê dương, v.v.  và thu giữ nhiều trang thiết bị, đạn dược.
Sau trận này, đơn vị nhận lệnh tiến quân về Mỏ Vẹt, Tây Ninh. Các anh ở Bộ Tư lệnh Nam Bộ đã cử đồng chí Thành, đại đội trưởng và một trung đội ra đón chúng tôi. Sau nhiều ngày hành quân, đơn vị đến vùng Xê-rê-chi trên đường 13 cách Kra-chiê 20 ki-lô-mét về phía Đông. Để ngăn chặn quân ta tiến về Snôul, địch đã đưa một lực lượng khá đông gồm bộ binh, một đại đội pháo 105 ly, đại đội cối 106,7 ly, hai trung đội xe bọc thép, đánh phá quyết liệt vào khu vực dừng chân. Một vài trận đụng độ đã xảy ra tại Sa-la-va-du cách thị xã Kra-chiê 15 ki-lô-mét  về phía đông theo quốc lộ 13. Vào thời gian này, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch đã bị tiêu diệt. Tiểu đoàn 436 nhận được lệnh chuyển quân về Hạ Lào. Phối hợp với bạn Lào, chỉ trong một thời gian ngắn, đơn vị đã nhanh chóng giải quyết khu vực phỉ Nai Koong Tanh (ở vùng La-ve).
Quân dân Hạ Lào, Đông Bắc Cam-pu-chia cùng quân tình nguyện Việt Nam đã giành thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đối với cuộc cách mạng của nhân dân khu vực này.
Ở miền Đông Cam-pu-chia, quân tình nguyện Việt Nam và bạn Cam-pu-chia giải phóng phần lớn tỉnh Công-pông Chàm. Vùng giải phóng Đông Cam-Pu-Chia và Đông Bắc, Tây Bắc Cam-Pu-Chia đã được nối liền, liên hoàn với vùng giải phóng Hạ Lào, Trung-Lào. Con đường chiến lược Bắc Nam Đông Dương đã được đánh thông.
Thắng lợi được tạo nên do đường lối quốc tế đúng đắn  của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch: "giúp bạn là mình tự giúp mình", "lấy dân làm gốc", do sự chỉ đạo chiến lược, chiến dịch sáng suốt của cấp trên, do quyết tâm cao trong chấp hành nhiệm vụ của mỗi địa phương, mỗi đơn vị; khắc phục khó khăn, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ bất ngờ đánh thắng kẻ địch.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Ba, 2009, 08:01:19 am
Trong hồi ức "Điện Biên Phủ-Điểm hẹn lịch sử", Đại tướng Võ Nguyên  Giáp  đã dành những trang viết đề cập đến đơn vị do tôi chỉ huy. Đại tướng viết:
"Tại Trung Lào, các Trung đoàn 66 và Trung đoàn 101 (thiếu tiểu đoàn 436) cùng Trung đoàn 18 tiếp tục hoạt động giam chân quân cơ động địch ở Xênô, cùng với quân giải phóng Ít - xa - la Lào đánh Cham-pát-xắc tiêu diệt, làm tan rã quân địch ở đây, bắt sống phó vương Bun Ùm ở Đôn-ta-lạt. Tại Cam-pu-chia, Trung đoàn 101 tiến sâu vào Tây Bắc Cam-pu-chia, vượt sông Mê Kông… cuối tháng tư, một vùng rộng lớn đông nam tỉnh Prét-vi-hia và tây bắc tỉnh Công-phông Thom được giải phóng. Tiểu đoàn 436 của Trung đoàn 101 thọc sâu vào tỉnh Kra-chiê bắt liên lạc với Nam Bộ. Hướng về Điện Biên Phủ, tất cả các chiến trường trên toàn Đông Dương không ngừng hoạt động suốt Đông Xuân 1953-1954 để tạo điều kiện cho chiến trường chính giành thắng lợi cuối cùng.
… Nếu  bộ  đội  ta  không  được  rèn luyện liên tiếp trong những trận  vận động và công kiên từ năm 1947 thì sẽ không có thành công trong  trận công kiên lớn nhất ở Điện Biên Phủ, và trong vận động đánh địch  trên  nhiều chiến trường Đông Xuân 1953-1954. Chúng ta chắc chắn sẽ gặp khó khăn về công tác hậu cần nếu không có hậu phương kháng chiến được xây dựng ngày càng vững chắc, không có kinh nghiệm của những chiến dịch Tây Bắc, Thượng Lào. Mũi thọc sâu từ Nghệ An xuống Hạ Lào dọc Trường Sơn là sự khai phá con đường mòn Hồ Chí Minh về sau này".

Làm nhiệm vụ trên chiến trường Lào trong những ngày dầu sôi lửa bỏng ấy, chúng tôi rất nhớ những ngày ở La Ve. Đây là một vùng đất rộng lớn, người thưa, nằm ở phía nam tỉnh Át-tô-pơ. Địa hình như một cái quạt mở rộng về phía Tây Nguyên nước ta và phía đông bắc tỉnh Stung-treng, Cam-pu-chia.
Vùng đất này đã chịu sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp trong mấy chục năm liền, thông qua một hệ thống ngụy quyền do một tên chậu mường người Lào Lùm ở thị xã Mường Mày quản lý.
Trong bài viết: " Bộ đội đóng khố ở La Ve", tác giả Trần Xuân kể rất chi tiết:
"Trong vùng có 5 tên nai-cong (Phìa Đuông, Tiêng, Ệc, Tăn và Hà Lạ) và 2 tên tà-xẻng (Clăng, Đọ), dưới cùng có các nai bản mà La Ve gọi là Nẹ Xrúc.
Dân chuyên  sống bằng nghề đốt rừng làm rẫy, du canh du cư. Sau  mùa  tỉa  lúa, đàn ông đi làm thuê hái chè ở Bô-lả-vên, còn đàn bà thì  vào rừng thu nhặt lâm sản đem bán hoặc đổi lấy muối và váy để mặc vì dân La Ve chưa biết dệt vải. Họ thờ ma và có nhiều tục kiêng cữ  lạc hậu. Đàn ông suốt đời đóng khố, đàn bà thì mặc váy lên đến  tận ngực để che vú… Bà già thì để ngực trần. Họa hoằn một vài làng  mới có người  biết  chữ. Đàn bà thì hoàn toàn mù chữ và biết một  ít tiếng Lào. Thịt cá thường để ươn mới ăn. Sinh đẻ lắm, nhưng chết  cũng  nhiều. Qua những năm tháng kiên trì bám dân vận động cách mạng, tộc La Ve đã cùng các tộc dân khác đoàn kết đánh Tây. Trong Đông Xuân 1953-1954,  tộc dân La Ve là lực lượng chính trong vận động tiễu phỉ trong vùng; đưa đường, vận chuyển giúp cho tiểu đoàn 436 giải phóng 4 tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia.
Đầu năm 1954, thị xã Át-tô-pơ được giải phóng, chính lực lượng dân quân du kích này đã trực tiếp tham gia lùng sục, dẫn đường, tiếp tế lương thực và phối hợp với đội vũ trang của đồng chí Tam Anh và tiểu đoàn chủ lực do đồng chí Lê Kích chỉ huy, tiêu diệt ổ vũ trang La Ve, tên quan hai Pháp nằm vùng và tên Nai Koong Tanh bị bắt. Cũng chính lực lượng dân quân du kích này đã đi dân công vận tải lương thực, vũ khí cho quân chủ lực của ta (Trung đoàn 101) giải phóng vùng đông bắc Cam-pu-chia.”

Tiểu đoàn 436 là một đơn vị cấp chiến thuật, khi làm nhiệm vụ thọc  sâu, do hiệu suất chiến đấu rất cao nên cùng quân dân Hạ Lào thực hiện thắng lợi đòn chiến lược thứ 3 trong chiến cục Đông Xuân 1953-1954 và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Bộ trong chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng 4 tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia trong điều kiện xa hậu phương, không biết địa hình, địch tình, không có tiếp tế. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu về nghệ thuật tác chiến và hành động  của  người  chỉ  huy.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Ba, 2009, 08:05:15 am
CHƯƠNG VI
TÂY BẮC YÊU DẤU
Tư lệnh pháo binh Quân khu Tây Bắc

Cuối năm 1959, tôi về nhận công tác ở Quân khu  Tây Bắc với cương vị là Tư  lệnh  pháo  binh Quân khu (nay có tên gọi là Cơ quan chủ nhiệm pháo binh).
Tôi  công tác ở Tây Bắc được một năm thôi, nhưng đầy ắp kỷ niệm. Đơn vị của tôi là Cơ quan pháo binh. Chúng tôi có ba trung đoàn pháo binh, trong đó có Trung đoàn 168 của Quân khu; hai trung đoàn số 58 của sư đoàn 316(1) và lữ đoàn 335. Ngoài ra, còn có một tiểu đoàn cao xạ.
Là người chỉ huy đơn vị pháo binh Quân khu, tôi có dịp làm việc với các đồng chí trong Bộ Tư lệnh, như anh Chu Huy Mân, bí thư khu ủy kiêm chính ủy quân khu. Đồng chí Bằng Giang là một trong 34 chiến sỹ của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Đồng chí Vũ Lập người dân tộc Mường, làm tham mưu trưởng, (sau này là trưởng Ban Dân tộc Trung ương). Đồng chí Hồng Kỳ là chủ nhiệm chính trị. Đồng chí Nguyễn Hữu An là tham mưu phó (sau này là thượng tướng, từng là giám đốc Học viện Lục quân), v.v.
Các đồng chí lãnh đạo chỉ huy Quân khu đối xử với tôi rất tốt. Các anh luôn quý mến và tin cậy ở tôi. Đặc biệt trong thời kỳ đó, các anh luôn cùng  với cán bộ cấp dưới đi xuống các địa phương và đơn vị rất sát sao với tình hình thực tế ở Tây Bắc.
Thăm nhà tù Sơn La
Trong những ngày còn nhỏ ở quê nhà, mỗi khi nghe các cụ trong làng nói về  nhà tù Sơn La, nhà tù Côn Đảo là tôi thấy lạnh cả xương sống. Tôi  nghĩ  nơi đó chắc ghê rợn lắm, dã man lắm. Nhà tù Sơn La đã đi vào lịch sử nước ta như là nơi ghi dấu tội ác của thực dân đối với nhân dân ta và đối với cách mạng nước ta. Nhiều chiến sĩ cộng sản của ta đã bị thực dân Pháp kết án khổ sai và giam ở nhà tù này. Ví dụ như  đồng chí Trần Cung, cán bộ hoạt động trong tổ chức Việt Nam thanh  niên  cách mạng đồng chí hội ở Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương,  Hưng Yên… bị tên phản Đảng Bếp Ninh chỉ điểm, giặc kết án 20  năm  khổ  sai  và đày lên nhà tù này.Đồng chí Lê Đức Thọ ( Ủy viên  Bộ Chính trị Trung ương trong nhiều khóa liền, từng là cố vấn đặc biệt  của  đoàn  đại biểu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hội nghị Pa-ri  và trực tiếp tham gia chỉ đạo chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh mùa xuân  năm 1975), cũng bị giặc Pháp bắt và giam ở đây. Đồng chí Xuân Thủy  trong  những  năm 1941-1943,  khi bị thực dân Pháp bắt giam trong nhà tù Sơn La đã từng đứng ra làm chủ bút tờ báo Suối Reo, sau đó là chủ bút tờ "Cứu Quốc" bí mật, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh. Đồng  chí Xuân Thủy ở trong nhà tù thực dân, đã từng sống trong cảnh sốt rét, đái ra máu của cái vùng "nước Sơn La, ma Tạ Bú". Đồng chí Trường Chinh cũng từng ở nhà tù Sơn La trong những năm ba mươi đen tối.
Ở nhà tù Sơn La này, hàng ngày các tù nhân bị bọn cai ngục bắt lên rừng đốt than, kiếm củi. Công việc rất cực nhọc và buồn tẻ. Nhiều đồng chí, đồng bào khác cũng chịu chung số phận giữa nhà tù dã man, tàn bạo này.
Khi  chuyển  về  công tác ở Tây Bắc, vài ba tuần lễ tôi lại đưa anh em lên nhà tù Sơn La để thăm cây đào Tô Hiệu. Xem những cảnh cũ trong nhà tù, lòng chúng tôi xót xa vô cùng. Bọn chúng thật tàn ác. Những nơi giam tù nhân là nền xi măng lạnh cóng, bên ngoài thì sương mù dày đặc, bên cạnh là gông xiềng. Tôi cứ nghĩ đến những chiến sĩ cách mạng ở đây, thử thách là thế mà chịu đựng được, thật là đại anh hùng. Tôi nghĩ nhà tù Sơn La, Côn Đảo … là một môi trường đặc biệt để giáo dục anh em đồng chí trong đơn vị.
Trung đoàn 168 và tình nghĩa Quân khu Tây Bắc.
Trung đoàn 168 pháo binh quân khu Tây Bắc do đồng chí Nguyễn Thế Truyện làm trung đoàn trưởng. Anh là người Hải Phòng. Đồng chí Ngữ,  người Tày, làm chính trị viên. Đồng chí Truyện đã anh dũng hy sinh  trong trận đánh với Mỹ, ngụy ở Bình Giã. Đồng chí Truyện hiện nay có hai người con gái đang sinh sống, làm việc ở thành phố; trong đó có một người con tên là Nguyễn Thị Thế Thanh, nguyên Tổng Biên tập của báo Phụ nữ  thành phố Hồ Chí Minh, sau này về làm phó giám đốc Sở  Văn hóa  Thông  tin  Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi nhớ lần đầu tiên về với Sơn La, trung đoàn do đồng chí Truyện  chỉ  huy đã làm cho tôi một căn nhà lá. Căn nhà được làm rất nhanh,  chỉ trong  vòng một ngày là xong. Gia đình tôi lúc đó có 5 người: vợ tôi, hai người con trai, một người con gái và tôi. Các anh Bằng Giang, anh Truyện và các đồng chí trong trung đoàn rất quý mến vợ chồng chúng tôi, nên các anh chăm sóc rất kỹ lưỡng. Tôi ở căn nhà này được bảy tháng thì đành phải chia tay.
Khoảng  22  giờ  11 tháng 12 năm 1960, đồng chí Nguyễn Hữu An đột  nhiên  đến  nhà tôi. Tôi biết anh An trực tính và rất tình cảm. Bắt tay  và chào vợ chồng tôi xong, anh đưa cho tôi một bức điện  và ngắn gọn:
- Anh có điện của anh Văn.
Tôi vội mở bức điện ra xem.
Bức điện có nội dung: “Đúng 10 giờ sáng ngày mai (12 tháng 12) đồng chí Lê Kích có mặt ở Hà Nội mang theo cả gia  đình. 8 giờ máy bay quân sự đón ở sân bay Nà Sản.
- Có chuyện gì vậy anh? - Tôi hỏi anh Nguyễn  Hữu An.
- Các đồng chí Bộ Tư lệnh cũng không biết.
Lệnh đến bất ngờ, trong khi đó gia đình tôi con cái thì còn nhỏ, lại có thêm gia súc, gia cầm  và đồ đạc lỉnh kỉnh. Anh em trong đơn vị quyết định đưa cho tôi một trăm đồng bạc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, để nhận lấy các thứ lỉnh kỉnh đó. Ngày ấy, tiền có giá trị lớn, lương trung tá của tôi là 127 đồng, mà gạo mỗi ki-lô-gam bốn hào; thịt lợn tám hào một ký.
Khoảng 7 giờ sáng ngày 12 tháng 12 năm 1960,  Bộ Tư lệnh quân khu  mời  gia  đình  tôi  ăn  bữa cơm thân mật. Anh Bằng Giang, Tư lệnh; anh Hồng Kỳ chủ  nhiệm chính trị và anh Quốc Tuyển, chủ nhiệm hậu cần ngồi với gia đình tôi rất lâu. Thật không biết nói gì cho hết được tình nghĩa mà anh em ở Quân khu Tây Bắc dành cho gia đình tôi.
Rời Tây Bắc xiết bao nghĩa tình. Rời đơn vị pháo binh sau một năm cùng công tác với các đồng chí đồng đội của mình, lòng biết bao lưu luyến, bịn rịn…

(1) Từ tháng 6 năm 1955, các Đại đoàn  304, 308, 312, 316, 320, 325 thống nhất tên gọi là sư đoàn bộ binh.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Ba, 2009, 08:08:36 am
CHƯƠNG VII
TRỞ  LẠI  QUÊ  HƯƠNG LĂM  VÔNG
Tiến công thần tốc, đập tan căn cứ quân sự Cánh đồng Chum, giải phóng tỉnh Xiêng Khoảng, khai thông đường số 7
Gia đình tôi về Hà Nội tới chiêu đãi sở 354,  còn tôi thì đến ngay tư  dinh  của  Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận lệnh.
Đại  tướng  yêu  cầu  tôi phải có mặt tại thủ đô nước bạn Lào ngay trong  ngày và đúng 19 giờ phải nổ súng. Hóa ra là vụ xảy ra ở Lào. Lúc 2giờ 45 phút ngày 9 tháng 8 năm 1960 tiểu đoàn dù 2, một số đơn vị cơ giới, tiểu đoàn bộ binh số 25, một số phi đội không quân  phối hợp với học sinh, sinh viên Viêng Chăn dưới sự chỉ huy của đại úy Coong-le và Thao Dươn Xa-na-lát, làm đảo chính, lật đổ chính phủ phái hữu của Xổm-xa-nít và Phu-mi Nô-xa-vẳn được Mỹ hậu thuẫn.
Sau khi đảo chính, Uỷ ban đảo chính được thành lập và đặt tổng hành dinh ngay tại Bộ Tham mưu của Quân đội hoàng gia. Uỷ ban Trung ương Neo Lào Hắc-xạt cũng ra tuyên bố ủng hộ cuộc đảo chính, nhằm lập lại an ninh và thực hiện nguyện vọng hòa hợp dân tộc của các bộ tộc Lào.
Tôi thật sự bất ngờ trước mệnh lệnh này. Thấy tôi lúng túng, đại tướng hỏi:
- Anh thấy thế nào?
Sau mấy giây suy nghĩ, tôi đứng nghiêm và báo cáo:
- Thưa đại tướng, cùng đi với tôi có đồng chí Bí thư thứ nhất Đảng nhân dân cách mạng Lào, đồng chí Chu Huy Mân, đại diện Tổng Quân ủy, đồng chí Đinh Khanh, phó ban C, tôi xin làm hết sức mình. Có các đồng chí là tôi yên tâm rồi. Tuy nhiên, có điều là 12 giờ hôm nay còn ở Hà Nội mà 19 giờ tối nay tổ chức chiến đấu ở thủ đô Viêng Chăn thì chưa có thể lường trước được, vì tôi hoàn toàn chưa biết Viêng Chăn, nhưng tôi hứa sẽ cố gắng cao nhất, có gì sẽ xin ý kiến của đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản và đồng chí Chu Huy Mân.
Sau khi nghe tôi báo cáo, đại tướng đồng ý.
Tôi chỉ có được hai giờ đồng hồ kể từ khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Vát Tày , để nghe báo cáo tình hình và đi khảo sát chung. Tôi đi sâu tìm hiểu tình hình của bạn, xem địa hình tổng quát, nghiên cứu địch, khảo sát kho tàng, v.v.
Đoàn xe M 113 hộ tống từ từ lăn bánh qua các đường phố, dọc tả ngạn sông Mê Kông và  Viêng Chăn, thủ đô đất nước Triệu Voi.
Sau  khi thị sát, tôi đã có những nhận định cụ thể để đề đạt. Tại nơi làm việc của Bộ Chỉ huy Đảng nhân dân cách mạng Lào, tôi báo cáo ngắn gọn là  tình hình không thể nổ súng kịp. Tôi yêu cầu chậm nhất đến 14 giờ ngày  13 tháng 12 năm 1960, tại sân bay Vát Tày phải có một đại đội lựu pháo 105 ly và một đại đội cối 120 ly và cán bộ, chiến sĩ cũng như  chỉ huy. Yêu cầu được đáp ứng. Pháo binh Thái Lan từ Nọong Khai lại tiếp tục bắn sang Viêng Chăn chi viện cho bộ binh và thiết giáp của Nô- xa-vẳn tiến vào thủ đô. Trước sức ép của của pháo binh Thái Lan, tôi và Coong-le quyết định bắn pháo vào đội hình địch ở trận địa. Ta đánh bật nhiều đợt tấn công của địch, bắn chìm ba ca - nô chiến đấu trên sông Mê Kông.
Sau ba ngày chiến đấu ngoan cường ở nội thành, lực lượng Pa-thét Lào từng bước lui  quân về hướng bắc theo quốc lộ 13, và dừng chân ở bản Phôn Hồng.
Trong hồi ký “Thời sôi động” của đại tướng Chu Huy Mân do nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 2004,  có những  dòng viết về tôi như sau:
‘‘Trong tình hình quân đội Thái Lan nã pháo 105 ly và cối 120 ly vào thủ đô  Viêng Chăn, trong khi lực lượng quân  đội vương quốc lại không có pháo, tôi điện về Hà Nội, đề nghị anh Văn như một ngoại lệ đưa sang hai đại đội pháo binh với thành phần rút gọn, số còn lại sẽ bổ sung đủ bằng các chiến sĩ Lào. 14 giờ ngày hôm sau, máy bay Liên Xô từ Hà Nội sang đem theo một đại đội lựu pháo 105 ly (2 khẩu) và một đại đội cối 120 ly (2 khẩu) với 29 cán bộ, chiến sĩ do trung tá Lê Kích chỉ  huy. Anh em pháo binh ta triển khai ngay trận địa sẵn sàng đợi lệnh nổ súng.
Pháo binh Thái Lan từ Noọng Khai lại tiếp tục bắn sang Viêng Chăn chi viện cho bộ đội và thiết giáp  của Nô-xa-vẳn tiến vào thủ đô. Nhân dân  Viêng Chăn bắt đầu gồng, gánh, xe thồ, xe đẩy dắt díu nhau sơ tán ra vùng ngoại ô. Trước sức ép của pháo binh Thái Lan, anh Lê Kích và Coong-le đề nghị cho pháo của ta đánh trả, tôi căn nhắc rồi quyết định bắn 10 quả đạn lựu pháo 105 ly vào trận địa pháo Noọng Khai, đúng lúc nó bắn sang đất Lào.
Anh Lê Kích đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, buộc pháo binh Thái Lan ‘‘ câm họng’’. Sau đó pháo ta còn bắn vào một số cụm quân phái hữu triển khai ở căn cứ Chi-nai–mô phía nam Viêng Chăn, gây thương vong cho địch. Quân lính của Coong-le  cũng như bản thân ông  ta vui ra mặt, họ ca ngợi pháo binh Việt Nam bắn giỏi.
Tôi thống nhất một số quy định sơ bộ có tính nguyên tắc về quan hệ làm việc giữa chúng tôi và Coong- le và những người cùng đi phấn khởi sẵn sàng nói mọi chuyện, xem ra không có vẻ giấu giếm. Bắt đầu từ đây nảy sin mối quan hệ tay ba: Việt Nam- Pathét Lào - Ủy ban đảo chính.  Chúng tôi thống nhất với anh Phun Xi-pa-xớt và anh Sin-ka-pô những nội dung đã thống nhất thì Pa-thét Lào làm việc trực tiếp với Coong-le. Nếu Coong-le hỏi lại, chúng tôi nói đúng như đã bàn giữa chúng ta. Cũng có việc chúng tôi chủ động bàn với Coong-le, sau đó báo cho bạn biết. Cách làm việc này đã nâng cao uy tín của Pa-thét Lào; đồng thời nhiệm vụ giúp bạn đã xuất hiên điều kiện mới đòi hỏi cán bộ quân sự Việt Nam  phải có cách nghĩ và cách làm mới để vừa đề cao vị thế Pa-thét Lào vừa nắm được lực lượng Coong-le. 
Trận đánh hỏa lực đã cho chúng tôi một kinh nghiệm thực tế ở Lào , lúc này hơn lúc nào hết vai trò của hỏa lực pháo binh rất quan trọng. Quân Thái Lan và quân phái hữu rất sợ pháo. Dù chúng ta chỉ có hai đại đội, nhưng bộ phận pháo binh này do Lê Kích chỉ huy đóng một  vai trò to lớn.”



Tiêu đề: Re: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Ba, 2009, 08:19:31 am
Một vinh dự  lớn cho tôi là được tham dự lễ thành lập Chính phủ Liên hiệp dân tộc Lào. Hôm đó, phía Việt Nam có 4 người, đó là đồng chí Chu Huy Mân, trưởng đoàn chuyên gia giúp bạn về chính trị, đồng chí thượng tá Nguyễn Hòa (sau này là trung tướng), đồng chí Đinh Khanh và tôi. Phía bạn có đồng chí Cay-Xỏn Phôm-vi-hản, Ki-nim Phôn-xê-na, ủy viên Bộ Chính trị (sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) cùng một số cán bộ khác.
Tình hình chiến sự  lúc đó đã có những diễn tiến phức tạp. Địch bao vây lực lượng của ta cả bốn phía.
Lần thứ nhất, các đồng chí trực tiếp giao cho tôi bảo vệ Chính phủ  Trung ương bạn và lực lượng Pa thét Lào, mở đường máu về Sầm Nưa.
Đồng chí Chu Huy Mân và đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản triệu tập tôi đến và nói rõ ý định mở đường đưa Chính phủ Trung ương và lực lượng Pa-thét Lào về Sầm Nưa, giao cho tôi tổ chức thực hiện.
Sau khi nhận nhiệm vụ, tôi đề xuất cho tôi có thời gian suy nghĩ trước khi trả lời. Qua hai giờ sau, tôi báo cáo và xin được triệu tập Coong-le tới để hỏi tình hình và tham khảo ý kiến.
Tôi hỏi đại úy Coong-le:
- Nếu ta phải lui quân về Sầm Nứa, vượt rừng mà đi thì mất mấy chục ngày?
Coong-le trả lời:
- Từ đây đi bộ  về Sầm Nưa phải mất bốn mươi ngày, phải đi qua vùng rừng rậm, núi cao, lực lượng phỉ có nhiều, cho nên khó khăn lắm đó!
- Vậy theo anh, con đường số 7 có dùng được không? Tình hình địch ra sao trên con đường này?
- Con đường số 7 tuy có bị phá hoại nhưng còn dùng được. Lực lượng  phỉ có nhưng ô hợp.
- Phương tiện vận chuyển cơ  giới của ta như thế nào?
- Hiện nay chúng tôi có 40 chiếc xe GMC vận tải, xe jeep đủ dùng cho chỉ huy, cán bộ; các xe jeep đều trang bị súng trọng liên 12,7ly.
- Còn lực lượng công binh của ta?
- Chúng tôi có một đại đội công binh tốt, có máy ủi, máy húc, xe cần cẩu  đủ khắc phục các chướng ngại vật; có một đại đội xe bọc thép.
- Đạn pháo của ta?
- Nhiều lắm!
Sau khi nắm được tình hình chung, tôi báo cáo với đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản và đồng chí Chu Huy Mân: Tôi đã tham khảo ý kiến của Coong-le. Coong le cho rằng việc đi bộ về Sầm Nưa mất 40 ngày, rất vất vả, khó khăn, nguy hiểm. Tôi đề nghị : Nếu như phải thực hiện phương án này, thì phải xem lại sự phản loạn có thể xảy ra ở dọc đường của lực lượng trung lập, bởi vì họ không chịu nổi gian khổ. Về con đường số 7, từ ngã ba Sa-la Phu Khun về Xiêng Khoảng còn sử dụng được. Dọc đường tuy có phỉ nhưng không mạnh lắm.
Tôi nói rõ quyết tâm của mình:
Qua tham khảo chung và tìm hiểu các mặt, đề nghị tận dụng uy lực pháo binh, tạo bất ngờ lớn, táo bạo bí mật, đánh địch trong hành tiến với yêu cầu dãn địch mà đi, cho đến khi có thể phối hợp được với Quân khu Tây Bắc và Quân khu 4 để về Sầm Nưa. Nếu thuận tiện thì chiếm luôn Cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng.
Theo một số sử liệu, Cánh đồng Chum là cao nguyên trung tâm của tỉnh Xiêng Khoảng, nằm ở Bắc Lào với độ cao 1.200 mét. Người dân địa phương còn gọi Cánh đồng Chum là «Khăng mả len» có nghĩa là đồng cỏ ngựa phi; với bốn cụm chum; trong đó cụm trung tâm là Lạt Thẳm. Xiêng Khoảng là một tỉnh phần lớn là dân tộc ít người, chủ yếu là người Lào, H’Mông, Thay, Khạ Mụ…
Sau khi nghe tôi trình bày, các anh đã báo cáo và xin ý kiến của Bộ. Bộ Quốc phòng đã chuẩn y theo phương án đi theo đường số 7. Đồng chí Chu Huy Mân và đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản giao cho tôi trực tiếp tổ chức chỉ huy cuộc tiến quân này.
Tại đây, đơn vị pháo binh của ta và chính bản thân tôi dã bắt sống chiếc máy bay trinh sát L 19 do viên đại úy phi công Pháp điều khiển. Địch hoàn toàn không hay biết gì về thị trấn Văng Viêng đã bị mất. Pa-thét Lào làm công tác binh vận, toàn bộ lực lượng quân đội Phu-mi Nô-xa-vẳn đã theo cách mạng. Địch ở Viêng Chăn không hay biết.
15 giờ ngày 28 tháng 12 năm 1960, theo kế hoạch đã chuẩn y, chúng tôi gồm hai đại đội pháo binh, tiểu đoàn hai lực lượng trung lập của Coong-le, đại đội Pa-thét Lào, đơn vị công binh, hai trung đội xe bọc thép M113 xuất phát từ thị trấn Văng Viêng tiến quân về đường số 7. Đến 8 giờ sáng ngày 29 tháng 12 năm 1960 ta đã đập tan một tiểu đoàn địch, đánh chiếm Sa-la  Phu-khun, đập tan đại đội chiếm giữ Phu Xủng và tiến đến bản Na Nàn.
15 giờ chiều hôm đó, tôi trở về phía sau để báo cáo. Đồng chí Chu Huy Mân rầy tôi sao sử dụng pháo nhiều quá vậy.
Tôi nói với anh:
- Đơn vị tôi ở cách các đồng chí trên 30 cây số. Tôi là người chịu trách nhiệm tổ chức chỉ huy. Nếu đợi xin chỉ thị của anh trong lúc này thì không còn kịp thời gian nữa. Tôi bắn pháo, một tiểu đoàn địch đã bỏ chạy, dọn đường cho ta đập tan một đại đội khác ở Phu Xủng và hiện quân ta đang ở Na Nàn cách đây  khoảng 20 ki-lô-mét.
Lúc ấy, đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản ôm chầm lấy tôi, và cả hai đều nghẹn ngào xúc động. Thế là chỉ ngày đầu tiên, ta đã tiến quân gần 100 ki-lô-mét.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Ba, 2009, 08:23:45 am
Sáng ngày 30 tháng 12 năm 1960, quân ta tiến theo đường số 7 về Mường Xủi. Đến 16 giờ cùng ngày, ta và địch lại gặp nhau. Dựa vào thế có lợi, một đại đội của Phu-mi và phỉ Vàng Pao đã ngăn chặn chúng tôi tại làng Phắc Pàng Păng. Trận đánh diễn ra ác liệt. Lực lượng Coong le có thiệt hại; đại úy Thoong-my, một trong các phó chỉ huy của Coong-le hy sinh và quân ta cũng có tổn thất. Vì vậy mà lực lượng Coong-le có dao động. Thế là, tôi ra lệnh cho pháo lên để bố trí bắn. Anh Chu Huy Mân và đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản đã đến động viên.
Tôi chỉ đạo kéo bốn khẩu pháo 105 ly lên mé đồi và đề nghị anh Chu Huy Mân và đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản về tuyến sau cho an toàn. Tôi có trách nhiệm là vừa đánh đuổi địch, vừa bảo vệ cán bộ. Mấy chục quả pháo đã làm cho địch chạy thục mạng.
17 giờ, ta đập tan trận địa phòng ngự của địch. Từng loạt pháo bắn thẳng đã  tiêu hủy các điểm tựa của đối phương. Đêm đó, tôi hạ trại cho anh em nghỉ chân tại chỗ, chờ trời sáng lại lên đường. Ngày tiến quân thứ hai cũng không kém phần ác liệt và ta cũng đã đi được gần 100 ki-lô-mét.
Theo đường chim bay, con đường từ Phắc Pàng Păng về Mường Xủi là bảy cây số. Tôi ra lệnh cho pháo bắn dọn đường. Vì chủ trương ban đầu là giãn địch để mở đường đi nhanh nhất.
Từ 3 giờ sáng, tiếng pháo đã vang rền. Đồng chí Chu Huy Mân sốt ruột lại bảo tôi:
- Sao lại bắn nhiều pháo thế!
Tôi báo cáo:
- Anh an tâm. Đây là việc của chỉ huy, tôi bắn để khai thông đường tiến quân.
8 giờ sáng, ta hành quân qua Mường Xủi, địch chạy hết. Đến 10 giờ sáng, chúng tôi đã vượt qua thị trấn - một vùng rộng, bằng phẳng, tiến về Nậm Ngừm, nơi có con sông lớn và có chiếc cầu dài bảy mươi mét bắc qua sông.
Nậm Ngừm cách trung tâm Cánh đồng Chum khoảng 10 cây số, do một tiểu đoàn địch án ngữ bảo vệ căn cứ quân sự Cánh đồng Chum - nơi có sân bay chiến lược Bản Áng có một lữ đoàn bộ binh và pháo binh xe bọc thép phòng giữ.
Tại đây cuộc chiến diễn ra ác liệt. Cuộc chiến đấu diễn ra từ 15 giờ đến 18 giờ mới tạm lắng. Pháo binh địch từ trận địa Cánh đồng Chum bắn như mưa vãi. Lực lượng bạn Pa-thét Lào tiến lên nhưng bị đẩy lùi. Địch đang ở trên cao, chưa xác định được trận địa pháo của địch. Một cuộc họp khẩn cấp được triệu tập để hạ quyết tâm phải chiếm cho được Cánh đồng Chum. Mục tiêu chủ yếu là phải diệt hai trận địa pháo của địch.
Trời tối quá, tôi ra lệnh cho anh em đào hầm hố, nghỉ ngơi ăn cơm và tránh tổn thất.
Sau khi ăn uống xong, tôi chỉ thị cho hai đại đội pháo binh, bộ phận đo đạc, trong đó có đồng chí Trác, đồng chí Bút, từ 20 giờ phải giao hội xác định cho được tọa độ mục tiêu trận địa pháo của địch trên cơ sở căn cứ vào tia chớp đề-pa.
Phía ta lúc ấy có 8 khẩu pháo. Mỗi khẩu có 3 cơ số đạn. Sau khi xác định đúng tọa độ  trận địa pháo của địch, ta phát hỏa. Đoàn xe M113 của  ta đột phá vào sân bay, giải phóng Cánh đồng Chum.
Đêm  đó trăng sáng vô ngần. Trăng mười sáu lan tỏa  cả một vùng cao  nguyên rộng lớn. Đồng chí Cay-xỏn Phôn-vi- hản và đồng chí Chu Huy  Mân đã thông báo cho chúng tôi biết tin vui : Đúng một giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1961, Hà Nội đã đốt pháo mừng chiến công oanh liệt  của  quân  dân  nước  bạn  Lào,  trong đó có quân tình nguyện chúng  tôi. Trong lòng tôi dấy lên niềm tự hào và lòng biết ơn đối với Tổ Quốc.
4 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1961, chúng tôi kéo một đại đội pháo binh và một  trung đội xe bọc thép, lực lượng Coong-le đi theo, tiến về Xiêng Khoảng. 6 giờ sáng, toàn bộ tỉnh lỵ Xiêng Khoảng được giải phóng. Tỉnh lỵ Xiêng Khoảng cách Cánh đồng Chum  ba mươi ki-lô-mét. Đến 15 giờ cùng ngày, chúng tôi dùng bốn khẩu pháo đập tan cuộc nhảy dù của một tiểu đoàn địch tại một cánh đồng cách tỉnh lỵ Xiêng Khoảng ba cây số. Ngày 4 tháng 1, tôi xin cấp trên cho phép sử dụng một đại đội pháo binh, một đại đội của Coong-le tiến quân theo đường số 7 (đường về Việt Nam), giải phóng bản Ban. Đường số 7, con đường chiến lược từ ngã ba Diễn Châu đi Mường Xén qua Khang Khay tới Cánh đồng Chum đã được khai thông.
Vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ, được sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng nhân dân cách mạng Lào, đứng đầu là đồng chí Cay-Xỏn Phôm-vi-hản, tiểu đoàn 2 Pa-thét Lào do đồng chí Châm Niên chỉ huy đã phối hợp với lực lượng nổi dậy tại chỗ, thoát ra khỏi sự kiềm chế của địch tại Cánh đồng Chum, trở về Sầm Nưa an toàn trước khi chúng tôi tới Cánh đồng Chum.
Như vậy là cuối tháng 12 năm 1960 đến tháng 1 năm 1961, sau một thời gian ngắn gây cho địch những tổn thất nặng nề, bạn đã rút khỏi thủ đô Viên Chăn tiến quân về giải phóng toàn bộ tỉnh Xiêng Khoảng, đập tan căn cứ quân sự Cánh đồng Chum, con đường số 7 cũng được khai thông từ đó. Một sự kiện chính trị nổi bật là việc thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc Lào do Hoàng thân Xu-va-na Phu-ma làm thủ tướng đã tập hợp được rộng rãi các lực lượng tham gia trong khối liên hiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào, đứng đầu là đồng chí Cay-Xỏn Phôm-vi-hản.
Chiến thắng Cánh đồng Chum là một chiến công lớn mãi mãi ghi vào lịch sử của nước bạn Lào anh em. Với sự giúp đỡ tận tình toàn diện của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam, có phương hướng đúng, biết tạo thế, tạo thời cơ, dám đánh và biết đánh là điều kiện quyết định để chiến thắng kẻ thù. Chiến công này mãi mãi thuộc về những chiến hữu đã ra đi. Về phần mình, tôi cũng vô cùng phấn chấn bởi sự tin yêu của ta và của bạn. Và thật không ngờ tốc độ tấn công lần ấy lại là tốc độ cao nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Ba, 2009, 08:26:34 am
Cũng trong hồi ký của mình, đại tướng Chu Huy Mân  cho biết thêm:
“Coong-le và các sĩ quan đường như  tin rằng pháo binh Việt Nam sẽ thay họ làm được tất cả.
Theo kế họach, anh Lê Kích  cho hai khẩu 105 ly bắn dọc theo đường số 7 từ Nậm Ngừm đến sân bay Cánh Đồng Chum ( số đạn tập trung chủ yếu vào sân bay). Đây là đòn hỏa lực đầu tiên đánh vào quân địch phòng ngự, có tác dụng chế áp và uy hiếp mạnh quân địch và cổ vũ tinh thần quân trung lập. Pháo ngừng bắn, chúng tôi ra kiểm tra trân địa, đoàn quân của Coong-le mỏi mệt trong khi chờ ăn cơm tối, cả cán lẫn binh lăn ra ngủ, họ ngủ liều lĩnh “ muốn đến đâu thì đến”…
Đối với quân địch ở Lào thì trận tâp kích pháo vừa rồi có thể là một đòn hỏa lực mạnh “chưa từng có” làm kinh hồn binh lính của chúng. Kinh nghiệm ở Viêng Chăn cho thấy quân phái hữu sợ pháo như trẻ con sợ sấm, đêm nay rất có thể chúng lợi dụng bóng tối để rút chạy. Ở Cánh Đồng Chum chưa chắc còn địch - tôi nghĩ vậy. Vừa lúc  ấy, trinh sát báo cáo phía trước có địch.
Tôi như bừng tỉnh. Đúng nó chạy rồi chiến tranh ở Lào lúc này là như vậy. Địch nghe pháo ta bắn, sợ cái uy của chúng ta mà rút chạy và có thể đã chạy xa. Ta tiến lên lúc này chính là đánh vào chỗ hoàn toàn không có trận địa phòng ngự. Phải nhanh chóng vào trung tâm Cánh Đồng Chum, phải bắn pháo ở đó để tuyên cáo quyền làm chủ của ta, phải chiếm ngay sân bay nối liền Cánh Đồng Chum với Hà Nội bằng đường không, ta sẽ có tất cả.
Tôi cho gọi trung tá Lê Kích đến và nói:
- Địch đã rút chạy, tôi cùng trinh sát vào sân bay Cánh Đồng Chum trước chờ quân ta ở đó. Anh cho bộ đôi thu pháo hành quân gấp và báo cho Coong-le đánh thức quân lính dậy tiếp tục tiến về Cánh Đồng Chum  - Xiêng Khoảng. Anh cùng với Két- xa-na tổ chức hai đại đội bộ binh (hành quân bằng ô tô), một đại đội thiết giáp và pháo binh tiến thẳng xuống giải phóng thị xã Xiêng Khoảng.
Giao nhiệm vụ cho Lê Kích xong, tôi, anh Long, anh Ngọc và cậu Điền ( bảo vệ) cùng hai trinh sát ngồi trên  một chiếc  xe Jeep của Mỹ do một sĩ quan quân đội Coong-le lái. Chiếc xe bật đèn sáng vượt cầu sắt Nậm Ngừm. Dọc theo đường 7, thi thoảng lại thấy xác lí́nh chết lẫn trong quân  cụ. Xe chạy khoảng 20 phút, người lại xe dừng lại hỏi: “Báo cáo tướng Thao Chăn ( tên của đại tướng  Chu Huy Mân ở Lào), đây là sân bay Cánh Đồng Chum!’’. Sau khi kiểm tra xác định đúng là sân bay Cánh Đồng Chum, tôi nhìn đồng hồ lúc đó là một giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1961. Bốn chữ số 1 là sự trùng hợp ngẫu nhiên nhưng là sự trùng hợp thú vị, khó phai mờ trong ký ức của tôi. ( trang 344 - 345)
Cùng lúc đó mấy chục chiếc xe cơ giới nối nhau chạy vào sân  bay Cánh Đồng Chum. Trung tá  Lê  Kích và đại úy Két-xa-na  báo cáo: “có mặt’’. Tôi bắt tay và chúc mừng thắng lợi  Két- xa-na và yêu cầu anh ta không cho bô đội xuống xe mà tiếp tục truy kích ngay quân địch giải phóng thị xã Xiêng Khoảng.
Anh  Lê Kích được dùng một đại đội pháo binh đi cùng chi viên cho bộ binh và thiết giáp giải phóng ngay trong đêm, chậm nhất là bảy giờ sáng. Giao nhiêm vụ xong cho cánh quân tiến công giải phóng Xiêng Khoảng, tôi điện báo cáo cho anh  Văn:“cuộc tiến công giải phóng Cánh Đồng Chum đã giành thắng lợi theo phương án một vào lúc 1 giờ sáng nay (1.1.1961). Sân bay Cánh Đồng Chum nguyên vẹn, sử dụng tốt. Chúng tôi sử dụng một tiểu đoàn thiết giáp, một đại đội pháo binh truy kích địch và tiến công giải phóng Xiêng Khoảng. Tình hình biến đổi rất nhanh, lực lượng ta quá mỏng, đề nghị anh tăng cường lực lượng cả bộ binh và pháo binh”.
Mờ sáng, chúng tôi dùng  ba chiếc GMC chạy  hàng ngang mấy lần trên đường băng ghép bằng những tấm ghi mắt cáo để bảo đảm tuyệt đối an toàn cho máy bay của ta khi hạ cánh.
9 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1961, anh Lê Kích cho người về báo cáo đã  làm chủ thị xã Xiêng Khoảng.
Cánh Đồng Chum  - Xiêng Khoảng đã về ta. Ngay  lúc đó tôi cũng chưa hình dung hết ý nghĩa to lớn của cuộc hành quân từ Viêng Chăn đến Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Một cuộc hành binh táo bạo, với lực lượng không lớn nhưng lợi dụng sơ hở của địch, ta đã tạo được một thế lợi và thời cơ hiếm có  để trong 22 ngày đêm đã đánh chiếm một vùng cao nguyên rộng lớn 2.000 km vuông.
Các hãng thông tấn phương Tây không ngớt nói về thất bại nghiêm trọng của quân phái hữu Nô-xa-vẳn. Hãng thông tấn UPI của Mỹ đánh giá:“sân bay quân sự Cánh Đồng Chum là sân bay tốt nhất ở Lào đã thuộc về tay cộng sản”. Còn hãng thông tấn  Roi-tơ của Anh thì cho rằng:“Vùng chiến lược Xiêng Khoảng là cái chìa khóa của nước Lào về mặt quân sự”.
Khoảng 9 giờ sáng ngày 1 tháng 1 năm 1961, chuyến bay đầu tiên chở anh Hoàng Nghĩa Khánh và hai khẩu súng cối 120 ly với mấy trăm viên đạn từ Hà  Nội sang đã hạ cánh an toàn xuống sân bay Cánh Đồng Chum, trong sự vui mừng khôn xiết của anh em Lào Việt.
10 giờ sáng cùng ngày, Nô-xa-vẳn đổ hai đại đội  dù xuống Tha Viêng (nam thị xã Xiêng  Khoảng) anh Lê Kích cho pháo 105 ly bắn mấy chục quả trúng khu vực đổ bộ, làm chết và bị thương một số binh lính địch. Quân dù và quân địa phương còn lại hốt hoảng tháo chạy tán loạn về hướng nam  Tha Viêng và Tha Thom. Dù vậy,tình hình vẫn căng thẳng, chúng tôi chuẩn bị phương án  đề phòng địch nhảy dù chiếm lại sân bay Cánh Đồng Chum. Lúc này ở sân bay Cánh Đồng Chum chỉ còn một đại đội bộ binh  trung  lập và hai khẩu cối 102 ly do anh Hoàng Nghĩa Khánh vừa chuyển sang sẵn sàng đánh quân đổ bộ’’. ( trang 346, 347, 348 sđd).


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Ba, 2009, 08:40:29 am
Khai thông đường Tây Trường Sơn
Từ cuối tháng 4 năm 1961, tuyến phòng thủ của địch từ đường số 9 đến Hạ Lào dọc theo tả ngạn sông Sê Kông, cũng được giải phóng. Đường Tây Trường  Sơn  đươc khai thông và từng bước phát  triển; quân  địch dần dần bị đẩy lùi về phía tây sông Sê Kông và trục đường quốc lộ số 13.
Nhân dân các bộ tộc từ Trung Lào đến Hạ Lào đã sát cánh cùng lực lượng quân tình nguyện (đoàn 565 và đoàn 559) đẩy mạnh các hoạt động chính trị, quân sự, xây dựng lực lượng, xây dựng kinh tế, củng cố và mở rộng vùng giải phóng; mặt khác bạn đã hết lòng giúp Việt Nam trong xây dựng, mở rộng phát triển con đường Tây Trường Sơn (đường mòn Hồ Chí Minh). Sự giúp đỡ đầy tình nghĩa của bạn đối với sự nghiệp giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà là vô giá, Sự hy sinh của nhân dân các bộ tộc Lào suốt trục đường huyền thoại rất to lớn. Nhân dân Việt Nam đời đời ghi nhớ công ơn của bạn Lào.
Đầu tháng 4 năm 1961, tôi được Bộ giao nhiệm vụ trưởng đoàn cố vấn quân sự quân khu Hạ Lào. Trên đường đi, vừa đến làng Mô (Tây Quảng Bình) ngày 6 tháng 4 năm 1961 thì nhận được lệnh của Bộ: "Tình hình có thay đổi, đồng chí Lê Kích không đi Hạ Lào nữa mà phải khẩn trương bắt liên lạc với tỉnh ủy tỉnh Sa-van-na-khẹt, cùng đoàn chuyên gia của ta ở đó, nắm chắc tình hình, chuẩn bị kế hoạch giải phóng đoạn đường số 9 từ đông Pha Lan đến Huội San (giáp Việt Nam); chuẩn bị bãi thả dù, đón quân". Tôi có quyết định làm chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 9. Đến ngày 16 tháng 4 năm 1961, mọi công tác đã chuẩn bị xong, có điều ta chưa nắm chắc tình hình địch.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961 tại bản Kang, tôi lại nhận tiếp lệnh của Bộ: “Ngày 21 tháng 4 năm 1961 đón máy bay nhận hàng, đón quân; ngày 27 tháng 4 năm 1961 phải diệt được địch ở Mường Phìn. Ngày 30 tháng 4 năm 1961 phải tiêu diệt địch ở Sê Pôn do trung đoàn 101, sư đoàn 325 đảm nhận. Từ ngày 25 tháng 4 gởi liên lạc thường xuyên với Bộ Tổng Tham mưu, nắm chắc trung đoàn 101 và liên lạc với quân khu 4-anh Hai (Trần Nam Trung) sẽ phổ biến cụ thể".
Từ 8 giờ đến 16 giờ ngày 21 tháng 4 năm 1961, từng tốp máy bay IL 14 thả xuống bản Kang gần 50 tấn hàng các loại. Nhân dân trong vùng bị bất ngờ hốt hoảng sơ tán vào rừng, nhưng sau đó lại quay trở về giúp ta thu gom phân loại hàng. Đến 18 giờ cùng ngày, tiểu đoàn 19 và đồng chí Hai cũng tới bản Kang. Thật bất ngờ và vui mừng khôn xiết, đồng chí Hai chính là đồng chí Trần Lương, ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm tổng cục chính trị, vào nhận công tác trong Miền. Tại đây, đồng chí Lương phổ biến nhiệm vụ và giao cho tôi làm chỉ huy trưởng mặt trận đường 9. Nhiệm vụ là đánh địch, bảo vệ hành lang, khai thông đường 9. Lực lượng có tiểu đoàn 19, đại đội đặc công, tiểu đoàn 7 (là những đơn vị vào Quân khu 5, B2), và tiểu đoàn 4 Hà Tĩnh. Còn trung đoàn 101 thuộc sư đoàn 325 đảm nhiệm ở khu vực Sê Pôn, bản Đông, Ià Khổng. Sau một ngày đêm chuẩn bị, các đơn vị đã tập kết đến khu vực bản Na-pi-lan.
Ngày 24 tháng 4 năm 1961, tôi lại tiếp tục nhận được lệnh của Bộ: Ngày 1 tháng 5 năm 1961, phải làm chủ được trục đường từ Đông Pha Lan đến Huội-san; phải quét sạch các điểm chốt của địch từ Mường Noọng trở về Nam; chuẩn bị bãi thả hàng tại Mường Phìn, bản Bạc, Dak Chưng, Tà Khổng và đảm bảo cho các đoàn hành quân an toàn.
Ngày 25 tháng 4 năm 1961, tại bản Na-pi-lan tiến hành một cuộc họp để triển khai kế hoạch. Thành phần gồm có đồng chí Trần Lương, các phái viên, cán bộ tiểu đoàn, đại đội các đơn vị. Về phía bạn có đồng chí bí thư tỉnh ủy Thoong Xẩy; đồng chí Xổm xắc, tỉnh đội trưởng; đồng chí Xom Xây, đại đội địa phương tỉnh Sa-va-na-khét, và đồng chí Võ Đăng Ngạn, trưởng đoàn chuyên gia chính trị tham dự. Tất cả nhất trí hạ quyết tâm như sau : tận dụng yếu tố bí mật bất ngờ, tập kích tiêu diệt, bức địch rút ở Mường Phìn, diệt viện binh địch từ  Sê Nô, Mường Pha Lan, Tăng Vai đến. Bảo đảm đơn vị ít thương vong (vì các đơn vị đã được tuyển chọn và huấn luyện công phu để về Nam chiến đấu và làm nòng cốt xây dựng lực lượng). Sử dụng tiểu đoàn 19, từ ba hướng tập kích Mường Phìn. Tiểu đoàn 4 Hà Tĩnh đánh viện. Tiểu đoàn đi B2, trung đội Pa-thét Lào cải trang thành quân đội giải giáp, quét các chốt dân vệ trên trục đường tiến quân từ Sê-tả-Mốc đến Mường Phìn.
5 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1961, được cán bộ cốt cán dẫn đường, các đơn vị xuyên rừng hành quân đến địa điểm quy định.
Vì thời tiết sương mù dày đặc nên đến 4 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4 năm 1961, ta bất ngờ nổ súng chiếm lĩnh hoàn toàn Mường Phìn. Địch bị diệt khoảng 60 tên, số còn lại hốt hoảng bỏ vũ khí chạy thục mạng vào rừng. Ta không ai bị thương vong.
Do đánh bất ngờ, địch ở Mường Pha Lan, Đồng Hến không hay biết gì. 20 giờ ngày 27 tháng 4 năm 1961, một đại đội của tiểu đoàn 6  ngụy Lào có bốn xe bọc thép đi cùng, đến Mường Phìn, bị đại đội đặc công của ta nổ súng tiêu diệt. Một số bỏ chạy vào rừng, để lại bốn xe bọc thép. Địch không kịp báo về Sê Nô 8 giờ ngày 28 tháng 4 năm 1961, lực lượng còn lại của tiểu đoàn 6 ngụy Lào được tăng cường một đại đội pháo 105ly, một đại đội xe bọc thép đã lọt vào trận địa phục kích của ta cách Mường Phìn về phía Tây 8 cây số. Chúng bất ngờ bị ta nổ súng tiến công, một số chết, một số bỏ chạy. Ta thu 37 xe GMC và nhiều trang thiết bị khác, và ta thừa thắng chốt giữ Đông Sê Kôn Kam .
Ở hướng Sê Pôn, lực lượng tăng viện đã bị tiêu diệt. Trung đoàn 101 do đồng chí Võ Hạp chỉ huy; Thái Bá Nhiệm làm chính ủy; Nguyễn Xuân Lự là tham mưu trưởng. Các đồng chí Thái Quang Hồng, Trần Tam, Đặng Ngọc làm tiểu đoàn trưởng. 5 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1961 trung đoàn này tập kích và tiêu diệt địch ở Sê Pôn. Địch ở Bản Đông, Huội San, Mường Noong, Tà Khổng bỏ chạy. Toàn bộ trục Tây Trường Sơn được khai thông. Sân bay Tà Khổng được sửa chữa và sử dụng. Hằng ngày từng tốp máy bay IL 14 từ sân bay Đồng Hới đến thả hàng xuống Mường Phìn, Tà Khổng tiếp tế cho lực lượng tại chỗ và cho cả các đoàn vào Nam. Tất cả chiến lợi phẩm và tù binh bàn giao lại cho tỉnh đội Sa-va-na-khét. Tiểu đoàn 4 Hà Tĩnh chốt giữ bờ Đông Kê Kon Kam. Đồng chí Trần Lương, đồng chí Trần Trọng Tân và các tiểu đoàn, các đại đội chuẩn bị lên đường. Lễ tiễn đưa các đơn vị về Miền Nam được tổ chức trọng thể tại Mường Phìn. Ngày 5 tháng 5 năm 1961 tiểu đoàn 19 và một đại đội đặc công do trung tá Lụa và Trịnh chỉ huy hành quân về Liên khu 5 và B3, tiểu đoàn do trung tá Ngân phụ trách đi về “B2” (Nam Bộ).
Tháng 9 năm 1961, trung đoàn 101 về nước nhận nhiệm vụ mới. Sau đó chúng tôi còn đón và tiễn đưa đồng chí Trần Văn Quang, Tổng Tham mưu phó; đoàn đồng chí Nguyễn Đôn, Tư lệnh Quân khu 4; đoàn đồng chí Biền, Bí thư Quảng Ngãi; đoàn đồng chí Đặng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam và hàng chục đoàn khác trở về quê hương an toàn. Tuy thời gian ngắn nhưng nhiệm vụ đã được thực hiện. Chúng tôi chấp hành nghiêm mệnh lệnh, phối hợp với bạn chặt chẽ, các đơn vị có quyết tâm chiến đấu đạt hiệu suất cao, các lực lượng bạn phối hợp chặt chẽ, nhân dân bạn giúp đỡ hết lòng, tình nghĩa thủy chung Lào Việt càng thêm sâu đậm.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Ba, 2009, 08:47:59 am
Sân bay Sê Pôn được sử dụng. Đầu tháng 8 năm 1961, đồng chí Võ Bẩm, đoàn trưởng đoàn 559 vào thay tôi. Tôi về Hà Nội chưa kịp nghỉ ngơi thì ngày hôm sau đã trở lại Cánh đồng Chum giúp bạn tiêu diệt căn cứ phỉ Vàng Pao tại Pa Đông. Trong lúc đó ở hướng các đơn vị tham chiến gồm: Lữ đoàn 324, trung đoàn bộ binh 95, sư đoàn 325, tiểu đoàn 927, tiểu đoàn 929… đã quét sạch địch lấn chiếm đông bắc tỉnh Khăm Muộn, số địch sống sót co về phòng thủ thị xã Thà Khẹt, ta khai thông trục đường số 8 và 12, vùng giải phóng Trung Lào được mở rộng.
Địch tuy bị tổn thất nặng nhưng chưa bị tiêu diệt lớn. Sau một thời gian củng cố, chúng ra chốt giữ tuyến bờ tây Sê Kon Kam, tuyến Sê Păng Soi đến Đồng Hến, (đường 9 Sa-va-na-khét). Ở Hạ Lào, địch có khoảng hai tiểu đoàn tăng cường tổ chức những đợt hành quân lấn chiếm một số khu vực, uy hiếp hành lang và trục đường chuyển quân của ta vào Nam ở Mường Cầu. Những hành động trên bị ta đánh trả.
Tháng 7 năm 1963, thành lập đoàn 763, tôi được điều về, cùng anh Hoàng Cao phụ trách đơn vị đi Hạ Lào. Nhiệm vụ là giúp quân khu Hạ Lào xây dựng lực lượng, củng cố vùng giải phóng, đồng thời trực tiếp bảo vệ cho đoàn 559 triển khai mở đường dẫn quân, hoàn chỉnh các binh trạm.
Thời gian ở Hạ Lào chúng tôi cũng được tăng cường tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 927. Thế là sau chín năm chúng tôi lại trở về Hạ Lào. Nhớ lại năm 1954, tôi và đồng chí Nguyễn Bình Sơn, chỉ huy tiểu đội 436, trung đoàn 101, sư đoàn 325 đảm nhiệm mũi thọc sâu từ Hà Tĩnh qua Trung Lào đến Hạ Lào, đông bắc Cam-pu-chia. Từ ngày 3 tháng 2 năm 1954, ta đã liên tục đánh địch ở Bản Po-ny, Tha Hin Tek giải phóng Át-tô-pơ. Lần này, trở lại chiến trường xưa lòng tôi bồi hồi xúc động không khác gì những người con xa nhà được trở về quê cũ gặp bà con dân bản đã cưu mang quân tình nguyện từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp.
Đường 559 được xây dựng qua nhiều giai đoạn, nhiều cung đoạn nối tiếp nhau (đường Đông Trường Sơn được xây dựng từ tháng 5 năm 1959 đến tháng 4 năm 1961). Xuyên qua vùng rừng sâu núi cao, gần địch, không thể bảo đảm vận chuyển đáp ứng yêu cầu cho cách mạng Miền Nam.
Theo tôi, riêng đường Tây Trường Sơn (tháng 4 năm 1961 đến tháng 4 năm 1975) có nhiều nội dung chưa được đề cập một cách đầy đủ, toàn diện.
Đường Tây Trường Sơn là một công trình thế kỷ, công trình để bảo đảm cho "Mỹ cút ngụy nhào". Đó là công trình của hàng vạn con người, của các binh đoàn và quân binh chủng làm công tác bảo vệ và xây dựng.
Nói đến con đường Tây Trường Sơn là phải nói tới sự đóng góp to lớn của Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào, mà trực tiếp là của quân và dân Trung Hạ Lào, của nhân dân vùng đông và đông bắc Cam-pu-chia.
Như phần trên đã nói, Chính phủ liên hiệp dân tộc Lào được thành lập ngày 22 tháng12 năm 1960 tại Phôn Hồng (Bắc thủ đô Viên Chăn). Tôi là người được vinh dự có mặt trong ngày lễ trọng đại đó. Thủ tướng chính phủ liên hiệp dân tộc Lào lúc đó đã đồng ý cho Việt Nam sử dụng phần lãnh thổ phía đông trung và Hạ Lào để xây dựng tuyến đường vận chuyển (sau này gọi là đường mòn Hồ Chí Minh).
Trong những tháng đầu, năm đầu, nhất là từ tháng 4 đến hết năm 1961, hệ thống bảo đảm chung của đoàn 559 còn ở buổi sơ khai phần lớn hàng cung cấp do máy bay thả. Việc tổ chức dẫn đường, một phần vận chuyển bộ bằng gùi thồ là do bạn và một số cán bộ quân tình nguyện, các chuyên gia chính trị quân sự Việt Nam lo liệu.
Trong 15 năm (từ tháng 4 năm 1961 đến tháng 4 năm 1975), đường Tây Trường Sơn đã phát triển thành nhiều trục (6-7 trục). Thời gian đó vùng Trung - Hạ Lào, Đông và Đông Bắc Cam-pu-chia đã bị tổn thất rất lớn: Hàng vạn người chết và bị thương; hàng trăm hàng bản bị san bằng; hàng triệu héc-ta rừng bị tàn phá v.v…
Đầu tháng 3 năm 1961, tôi lên Bộ Quốc Phòng nhận nhiệm vụ sang chiến trường “C” (Lào). Đồng chí Hoàng Văn Thái và đồng chí Trần Quí Hai chỉ dặn khi đến Vinh thì gặp đồng chí Nguyễn Đôn, Tư lệnh Quân Khu 4, để nhận thêm tin tức. Lúc đó tôi cảm nhận là có việc gì đó rất khẩn cấp.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Ba, 2009, 06:40:27 am
Ngày 28 tháng 3 năm 1961, tại Bộ Tư lệnh Quân khu 4, anh Nguyễn Đôn trải hai tấm bản đồ Trung Hạ Lào tỷ lệ 1/1.000.000 và tỷ lệ 1/400.000, hỏi tôi có biết đường đi bộ từ Trung Lào đến Hạ Lào về Nam không? Tôi nói Trung Lào thì tôi không biết, nhưng Hạ Lào và đông bắc Cam-pu-chia  thì tôi nắm chắc lắm. Bước đầu tôi và anh Đôn thống nhất vạch một trục đường: Mường Phìn - Bản Đông. Làng Ho (Quảng Bình) - Bản Đông - Mường Noọng - Rừng Thông - Bản Bạc. Bản Bạc-Dak Rây-Đak Chưng-Mang Hạ-Đak Dục - Đak Dục, biên giới Việt Nam và xuyên qua  4 tỉnh Đông bắc Cam-pu-chia đi Tây Ninh. Đây là con đường đi bộ và cũng là trục chính của đường Tây Trường Sơn. Từ năm 1967 trở đi, có thêm rất nhiều trục nhánh, kể cả đường sông Sê Kông và đường 16 vượt Át-tô-pơ đi Vơn Xây, đường xuyên cao nguyên Bô-lô-ven đông bắc Cam-pu-chia v.v…
Ngày 22 tháng 4 năm 1961, máy bay thả hàng xuống Bản Kang, cách Mường Phìn về phía bắc 80 km. 18 giờ ngày 22 tháng 4 năm 1961, đoàn cán bộ, các đơn vị đi "B1", "B2", Tây Nguyên do đồng chí Trần Lương, Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị và đồng chí Trần Trọng Tân, bí thư tỉnh ủy Quảng Trị làm trưởng đoàn, đến bản Kang. Cùng đi có tiểu đoàn 19 do đồng chí Trịnh và đồng chí Lục chỉ huy. Đơn vị đi "B2" do trung tá Ngân, nguyên chủ nhiệm hậu cần sư đoàn 351 chỉ huy. Tiểu đoàn 4 (Hà Tĩnh) ở hướng Sê Pôn. Trung đoàn 101 thuộc sư đoàn 325 do đồng chí Võ Hạp và đồng chí Thái Bá Nhiệm chỉ huy. Tại Bản Kang, các đơn vị nhận hàng bổ sung do chúng tôi cấp phát.
Ngày 25 tháng 4 năm 1961, tại Bản Na-phi-lan, chúng tôi làm việc với thường trực  tỉnh ủy Sa-va-na-khẹt. Phía bạn có đồng chí Thoong Xẩy, Trung ương ủy viên, bí thư tỉnh ủy; đồng chí Xổm Xắc, tỉnh đội trưởng và  thêm đồng chí Võ Đăng Ngạn, chuyên gia. Ta nhờ bạn giúp đỡ tổ chức nhận tiếp tế, cho thêm lực lượng dẫn đường  và cùng ta thống nhất kế hoạch tác chiến.
Ngày 30 tháng 4 năm 1961, trung đoàn 101, sư đoàn 325 tiêu diệt địch ở Sê Pôn, Huội Sản và Bản Đông. Cùng thời gian trên, một tiểu đoàn đi "B2" do đồng chí Ngân chỉ huy tiêu diệt Mường Noọng. Tiểu đoàn 4 Hà Tĩnh (lực lượng dự bị) tiến quân truy quét địch tận Sê Kim Kham.
Toàn bộ địch từ Đông Pha Lan đến biên giới tỉnh Quảng Trị đã tháo chạy. Ta mở được một đột phá khẩu 100 km.
Ngày 29 tháng 4 năm 1961, ta thả tiếp tế xuống Mường Phìn. Các bãi thả tiếp tế tiếp theo là Rừng Thông (Bắc sông Sê Kông-Bản Bạc), Đak Chưng, Đak Dục sát biên giới Kon Tum.
4 tháng đầu (từ tháng 4 năm 1961 đến tháng 8 năm 1961), do đoàn 559 chưa triển khai kịp nên toàn bộ việc thu nhập hàng thả dù, cấp phát, tổ chức dẫn đường đều do đoàn cán bộ, chiến sĩ tôi phụ trách và lực lượng Pa-thét Lào đảm nhiệm. Tháng 7 năm 1961, đồng chí Võ Bẩm, tư lệnh đoàn 559, vào thay tôi, tiếp tục mở đường Tây Trường Sơn. Tôi về Hà Nội để nhận nhiệm vụ sang Cánh đồng Chum, tỉnh Xiêng Khoảng (Lào).
Đường Tây Trường Sơn là một công trình vĩ đại. Nó hình thành và phát triển, hoạt động có hiệu quả trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc là nhờ sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; sự đóng góp sức người, sức của của toàn quân, toàn dân và sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của Đảng, quân đội và nhân dân Lào anh em. Nói đến đường Trường Sơn là nói đến công lao của các tập thể, cá nhân tiêu biểu như đồng chí Đinh Đức Thiện, Đồng Sỹ Nguyên, Đặng Tính, Lê Si, Phan Khắc Hy, v.v… không thể không ghi nhớ sự đóng góp tích cực có hiệu quả cao của cán bộ chiến sĩ có mặt từ những ngày tháng khởi đầu đầy gian nan thử thách. Ta không thể quên đoàn B.90 do đồng chí Phùng Đình Ấm chỉ huy, đã nối tiếp từ Đắc Lắc vào đến "B2".
Năm 1963, tôi là trưởng đoàn cố vấn quân sự cho Quân khu Hạ Lào. Năm 1965, tôi vừa là phó đoàn trưởng đoàn 565  giúp bạn Lào về mặt quân sự, chỉ huy các trung đoàn quân tình nguyện ở Trung Lào và Hạ Lào gồm đoàn 101, 27, 29, tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 927; tiểu đoàn pháo binh, tiểu đoàn cao xạ v.v… Nhiệm vụ là giữ vững phía Tây đường Hồ Chí Minh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc địch tháo chạy về tận đường 13, bảo đảm cho đường Tây Trường Sơn mở rộng, phát triển.
Tôi được giao làm đoàn trưởng đoàn 165, liên lạc với Đảng Cộng sản Thái Lan, trực tiếp theo dõi tổ tình báo, chuẩn bị đánh B 52 ở sân bay U Ia Pao (Nam thủ đô Băng Cốc). Ta đã phá hủy được hai chiếc máy bay vận tải quân sự và một số máy bay chiến đấu khác.
Đập tan căn cứ Phỉ Vàng Pao ở Pa Đông
Đầu tháng 8 năm 1961, tại Sê Pôn, đồng chí Võ Bẩm, đoàn trưởng đoàn 559 vào thay tôi để tôi về Hà Nội.
Đáp máy bay về Hà Nội chiều hôm trước thì 8 giờ sáng ngày hôm sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, lại cử tôi sang Cánh đồng Chum. Chỉ sau  ba giờ đồng hồ, kể từ khi nhận nhiệm vụ, tôi đến gặp đồng chí Hoàng  Sâm, đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản tại Khang Khay.
Anh Sâm nói đùa: “Hà Nội cử cậu sang thay tôi đó à!"
Nói xong, anh Sâm và đồng chí bí thư Đảng bạn ôm chầm lấy tôi.
Tôi báo cáo: “Đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp) cử tôi sang để khảo sát khu phỉ Vàng Pao ở Pa Đông và tìm cách khắc phục gấp tình hình ở đây.”
Các anh rất hoan hỉ và tin tưởng tôi. Tôi đến chào đồng chí Xì-xà-vạt (sau này đồng chí là Thủ tướng nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào). Một  cuộc họp chung để nghe báo cáo tình hình, sau đó là bữa cơm đón khách.
Pa Đông cách trung tâm Cánh đồng Chum bốn mươi cây số về phía Tây Nam, là một căn cứ phỉ lớn sau khi thất thủ Cánh đồng Chum. Địch dựa vào Pa Đông để đánh chiếm lại tỉnh Xiêng Khoảng.
Từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1961 lực lượng phía bạn Lào do đồng chí Xì-xà-vạt Kẹo Bun-phăn, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Lào trực tiếp lãnh đạo chỉ huy, góp phần cùng quân tình nguyện Việt Nam tiêu diệt bọn phỉ.
Đêm hôm đó, mồng 4 tháng 8 năm 1961, tôi triệu tập chỉ huy các đơn vị quân tình nguyện gồm lực lượng bộ binh, tiểu đoàn pháo binh, tiểu đoàn súng phòng không 12,7 ly và 14,5 ly, lực lượng bảo đảm và mời đồng chí Tổng tham mưu  trưởng cùng số cán bộ bạn cùng tham dự. Từ tháng 2 năm 1961 đến cuối tháng 7 năm 1961, hàng mấy ngàn đạn pháo đã sử dụng mà tình hình không chuyển. Sau khi nghe thực trạng chiến trường, tôi đặt ba câu hỏi:
- Tiếp tế của địch từ đâu mà có?
- Chỉ huy sở  phỉ Vàng Pao ở chỗ nào?
- Tổng kho lương thực, đạn dược ở đâu?
Không ai trả lời  được. Tôi nói:
- Khâu quyết định là ba nội dung nói trên. Ta phải cắt tiếp tế, phá hủy tổng kho, đập nát sở chỉ huy.
Những đề xuất của tôi được mọi người nhất trí. Nỗi vui mừng hiện rõ trên khuôn mặt đồng chí Xì-xà-vạt. Nhưng còn biện pháp thực hiện thì như thế nào? Tôi đề nghị đồng chí tổng tham mưu trưởng quân đội bạn cử cho mười quân nhân người H’Mông ăn mặc như quân phỉ dẫn đường. Ta cử một tổ trinh sát pháo binh mang theo đạn khói, hẹn trong ba ngày phải tìm cho được sở chỉ huy và tổng kho. Khi đã xác định được sở chỉ huy và tổng kho  của phỉ thì đốt đạn khói để đo đạc tọa độ, mục tiêu. Súng bắn máy bay bí mật chiếm lĩnh các cao điểm. Lực lượng  bộ binh sẵn sàng đột phá. Trận đánh diễn ra đúng như dự kiến. Chỉ trong mấy tiếng đồng hồ, các mục tiêu bốc cháy, khói lửa bao phủ  một vùng. Súng phòng không cũng tích cực khống chế bầu trời. Căn cứ phỉ Vàng Pao sụp đổ. Nỗi hân hoan chẳng mấy  chốc đã về đến Khang Khay, Sầm Nưa, Hà Nội. Tôi rất sung sướng được đóng góp phần vào thắng lợi nói trên. Đồng chí Hoàng Sâm, người rất hiểu tôi, vô cùng xúc động, cùng đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-bản đã tiễn tôi về  Hà Nội.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Ba, 2009, 06:50:54 am
CHƯƠNG VIII
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG KHU V
 
Sau khi thất bại trong “Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, tổng thống Mỹ Giôn-xơn chuyển sang “Chiến tranh cục bộ", đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ác liệt đối với miền Bắc.
Từ tháng 2 năm 1965, chúng đưa quân Mỹ và quân chư hầu ào ạt vào miền Nam, tăng nhanh số quân ngụy, hòng tạo nên một bước nhảy vọt về so sánh lực lượng có lợi cho chúng. Đến cuối năm 1965, quân Mỹ tăng gấp 6 lần so với năm 1964. Tổng số quân Mỹ-ngụy và chư hầu sang năm 1969 đã tăng lên 1,7 triệu tên. Số phương tiện chiến tranh cũng tăng nhanh. Năm 1969 so với năm 1965, số máy bay chiến đấu và pháo tăng gấp 2 lần, xe tăng thiết giáp gấp bốn lần.
Với lực lượng như vậy, chúng đã mở cuộc phản công chiến lược thứ nhất mùa khô  1965-1966 với hai mươi vạn quân, 2200 máy bay, 1400 xe tăng, xe bọc thép, 1200 khẩu pháo, 50 tàu chiến, thực hiện kế hoạch "5 mũi tên" tập trung vào 3 khu vực chính, đó là: Tây Nguyên, đồng bằng Khu 5, Đông Nam Bộ và ngoại vi Sài Gòn. Bị thất bại, chúng lại  mở  cuộc tấn công chiến lược thứ hai mùa khô 1966-1967 với phương tiện chiến tranh đều tăng gấp đôi, dùng kế hoạch "2 gọng kìm" tìm diệt và bình định, nhằm vào miền Đông Nam Bộ, trọng điểm là Tây Ninh và đồng bằng sông Cửu Long.
Cùng với việc đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, đế quốc Mỹ còn bịa đặt ra "sự kiện Vịnh Bắc Bộ" nhằm lấy cớ đánh phá miền Bắc.
Nhân dân cả nước ta kiên quyết đánh trả bước leo thang mới của đế quốc Mỹ, làm thất bại chiến lược" chiến tranh cục bộ" của chúng.
Trên cơ sở nhận định tình hình ta, địch, Trung ương Đảng hạ quyết tâm "chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới -thời kỳ giành thắng lợi quyết định".
Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, cần động viên sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, thực hiện cuộc tấn công và nổi dạy đồng loạt khắp nông thôn và đô thị, đưa cuộc chiến tranh vào tận căn cứ sào huyệt của địch, dồn địch vào cuộc khủng hoảng lớn về chính trị, quân sự.
Hội  nghị cho rằng tổng công kích và tổng khởi nghĩa là một quá trình liên  tục tiến công truy kích, tiêu diệt, đánh đổ địch về quân sự là chính; là  quá  trình  phản  kích ác liệt để giành lại và chiếm lấy các vị trí chiến lược quan trọng, là giai đoạn sẽ kéo dài trong một thời gian nào đó…
Trong quá trình chiến dịch, phải thực hiện đến mức cao nhất việc kết hợp giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và binh vận, kết hợp hoạt động ở thành thị, nông thôn đồng bằng và rừng núi.
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) tháng 1 năm 1968 đã ra nghị quyết. Hội nghị xác định nguyên tắc cần nắm vững trong quá trình chiến dịch là: “Tập trung lực lượng quân sự và lực lượng chính trị đến mức cao nhất, một cách hợp lý nhất, tiến công mãnh liệt vào những hướng chiến lược chính; kiên quyết tiến công, liên tục tiến công nhằm đúng vào những nơi xung yếu của địch mà đánh những đòn quyết định, giành cho  kỳ được thắng lợi ở những nơi quyết định; phải tuyệt đối giữ cho được yếu tố bất ngờ, phải biết giành  thắng lợi từng giờ, từng phút và không ngừng mở rộng  thắng lợi, kiên quyết chống trả và bẻ gãy các cuộc phản công của địch và truy kích đến cùng để giành thắng lợi cao nhất".
Để chỉ đạo toàn bộ công tác chuẩn bị và thực hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cụ thể cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền Nam Bắc.
Ở  liên khu 5, Thường vụ Khu ủy Khu 5 đã họp hội nghị khẩn cấp để triển khai chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, đưa cuộc chiến tranh cách mạng phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Quân khu cũng quyết định thành lập các đơn vị đặc công để cùng các lực lượng khác đồng loạt tấn công vào các thành phố và thị xã, thị trấn, các nơi xung yếu, v.v… phối hợp với nổi dậy rộng khắp của nhân dân.
Ở Khu 5 lúc này, đồng chí Chu Huy Mân được giao nhiệm vụ làm Tư lệnh Quân khu, Phó Bí thư Khu ủy và Quân khu uỷ; đồng chí Võ Chí Công giữ chức vụ Bí thư Khu uỷ Bí thư Đảng ủy Quân khu,Chính ủy Quân khu.
Trong cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, cán bộ Sư đoàn 2 đang ở trên điểm cao Đồng Mông  - Đá Hàm chuẩn bị cho trận đánh giảu phóng Quế Sơn bị biệt kích phát hiện, chúng cho gọi máy bay Mỹ đến bắn xối xả vào đội hình của ta.  Đồng chí Lê Hữu Trứ, sư đoàn trưởng; Nguyễn Văn Đức, đồng chí Mẫn - cán bộ tham mưu; đồng chí Toản, trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 hy sinh. Đồng chí Giáp Văn Cương được chỉ định làm sư đoàn trưởng Sư đoàn 2.
Sau gần mười ba năm xa quê, tôi nhận được quyết định về công tác chiến đấu ở  Liên khu 5. Thật sung sướng biết bao!


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Ba, 2009, 06:56:37 am
Tháng 3 năm 1968, tôi thay đồng chí Giáp Văn Cương, phụ trách tư  lệnh  Sư  đoàn 2  Liên khu 5.
Sư đoàn 2 là sư đoàn chủ lực của Quân khu, được thành lập ngày 20 tháng 10 năm 1965 tại làng An Tráng, xã Phước Hà, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sư đoàn 2 quy tụ những đơn vị đặc biệt như  trung đoàn 1, trung đoàn 21, tiểu đoàn 12 pháo cối, tiểu đoàn cao xạ 19 tháng 5, cùng nhiều đơn vị hợp thành, bảo đảm về mặt kỹ thuật cũng như sức chiến đấu cơ động.
Đối với tôi, công việc này ở khu 5 thật là mới mẻ. Tôi đã ra sức đi sâu tìm hiểu tình hình địch và học tập từ thực tế đơn vị. Lúc bấy giờ, tình hình căng thẳng lắm: gạo, đạn dược, sức khỏe anh em đều là những vấn đề nan giải, biết lo liệu sao đây khi mà chính bản thân tư lệnh, chính ủy mỗi ngày cũng chỉ có 3 lạng gạo. Đồng cam cộng khổ, chia xẻ ngọt bùi là bản chất, là yếu tố gắn bó với nhau tạo nên sức mạnh trong chiến đấu của Bộ đội Cụ Hồ. Tôi đã qua hai lần làm chỉ huy trưởng chiến dịch tổng hợp Quảng Nam. Mùa hè năm 1968 và xuân hè năm 1969, tôi đã cùng đồng chí Nguyễn Huy Chương, chính ủy sư đoàn, thực nghiệm chiến thuật chốt chặn kéo địch ra để tiêu diệt, tích cực bắn trực thăng, vì vậy mà các trận ở núi Ngang, Núi Vú, Tam Kỳ, ta đã giành được thắng lợi giòn giã.
Trong hồi ức “Chỉ một con đướng”, trung tướng Nguyễn Huy Chương có viết:
“Để thực hiện ý đồ mở khu chiến thứ 2, Bộ Tư lệnh quân khu điện gọi tôi trở về cơ quan Bộ Tư lệnh Quân khu. Ở hướng Khâm Đức, Tư lệnh sư đoàn Giáp Văn Cương, Chính ủy sư đoàn Nguyễn Ngọc Sơn trực tiếp chỉ huy tiến hành phương án giải phóng Khâm Đức. Tôi vừa bước vào cơ quan Bộ Tư lệnh Quân khu liền được đồng chí Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu nói:“Đồng chí mới về Quân khu, ưu tiên giao cho đồng chí và Sư phó Lê Kích, nghiên cứu mở khu chiến núi Ngang”. Nói đến đó, đồng chí Tư lệnh nắm lấy tay tôi siết mạnh. “Chắc ăn nghe”. Tôi đứng nghiêm ráng chịu cái đau của bàn tay đồng chí Tư lệnh siết chặt, để thể hiện quyết tâm của mình.
Đoàn cán bộ nghiên cứu khu chiến núi Ngang, ngoài tôi và sư phó Lê Kích, còn có ban chỉ huy trung đoàn 31 và tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn.”
(1)
Năm 1969, qua một năm đánh Mỹ, tôi đã có một số hiểu biết về địch. Suy nghĩ kỹ, tôi viết một bài nhan đề: “Chỗ mạnh, chỗ yếu của Mỹ và cách đánh của ta". Tài liệu này có lẽ đang được lưu trữ ở Quân khu 5. Lúc bấy giờ có đồng chí Quách Tự Hấp, trưởng phòng huấn luyện biết việc này. Nhiều anh có kinh nghiệm chiến đấu đã đọc và cho đây là một tài liệu tốt. Trước đó,́ tháng 3 năm 1947, tôi có một bài viết bàn về cách đánh du kích dài hơn 20 trang. Tôi đưa tài liệu này cho đồng chí Đàm Quang Trung và được Liên khu 5 lưu giữ. Sau này tại nhà đại tá Hoàng Bào (số 2 Vương Thừa Vũ - Hà Nội), trong buổi gặp mặt gần 40 cán bộ cao cấp để ôn lại lịch sử Trung đoàn 96, nhiều đồng chí cho biết: tài liệu cách đánh du kích của tôi hiện đang được cất giữ ở Bảo tàng  Quân đội.
Để chuẩn bị cho hoạt động quân sự mùa xuân năm 1970, căn cứ vào kế hoạch của Bộ tư lệnh Quân khu 5, anh Giáp Văn Cương (sau này là thượng tướng, đô đốc Hải quân), anh Nam Hà, thiếu tướng, nguyên tham mưu phó Liên khu 5 (sau này phó thanh tra quân đội) và tôi lúc bấy giờ là tư lệnh Sư đoàn 2 được phân công đi làm phái viên cho tỉnh Quảng Đà, Quảng Ngãi và Bình Định.
Ngày 3 tháng 10 năm 1969, tại một địa điểm trong vùng rừng núi huyện Sơn Hà, căn cứ kháng chiến của tỉnh Quảng Ngãi, tôi trực tiếp truyền đạt quyết tâm của Bộ Tư lệnh Liên khu 5 cho thường vụ tỉnh ủy và bộ chỉ huy quân sự địa phương. Tham dự có mặt khá đông các đồng chí có cương vị, trọng trách của tỉnh nhà, như đồng chí Phạm Thanh Biền, khu ủy viên, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Quảng Ngãi; đồng chí Võ, đồng chí Chức, chính trị viên tỉnh đội (hiện nay là trung tướng); đồng chí Lương Văn Thư, tỉnh đội trưởng ( nay là đại tá, nghỉ hưu ở Ninh Bình).
Mở đầu cuộc họp, tôi báo cáo đúng mệnh lệnh mà đồng chí Chu Huy Mân đã ký về hoạt động quân sự: Bộ Tư lệnh Liên khu 5 tăng cường cho Quảng Ngãi Trung đoàn 21 của Sư đoàn 2 và 40 quả đạn ĐKB để cùng tiểu đoàn 48, tiểu đoàn 81 và đội đặc công, mỗi đội có 12 người, có nhiệm vụ đánh chiếm thị xã Quảng Ngãi từ 3 đến 5 ngày, tạo điều kiện để phá dồn, bung dân. Sử dụng, bố trí lực lượng như sau:
- Một tiểu đoàn của Trung đoàn 21 đánh chiếm trị trấn Sơn Tịnh, chốt giữ phía bắc cầu Trà Khúc.
- Một tiểu đoàn khác của Trung đoàn 21 đánh chiếm nhà đèn, nhà ga và chốt giữ các vị trí nói trên.
- Một tiểu đoàn khác của Trung đoàn 21 là lực lượng dự bị đứng chân tại cầu Xóm Xiếc (Chánh An).
Đối với lực lượng địa phương Quảng Ngãi: tiểu đoàn 81 gồm 160 người  đánh  chiếm  Ban Ga Lô, chốt giữ ngã tư. Tiểu đoàn 48 dự bị đóng  ở  núi  Bút.  Riêng 2 đội đặc công làm nhiệm vụ đánh thành cổ. Kế  hoạch  thật  cụ  thể nhưng không sát vì tình hình thực tế đã biến động rất nhiều.
Ở khu 5 lúc này, quân địch đã thực hiện được một phần biệp pháp chiến lược quét và giữ. Chúng tăng cường lực lượng và bộ máy kềm kẹp ở cơ sở. Tổng quân số Mỹ - nguỵ và chư hầu đến cuối năm 1969 đã lên đến 380 nghìn tên, so với năm 1968 là 365 nghìn tên. Địch đã tổ chức thêm 15 vạn phòng vệ dân sự có vũ trang. Về phương tiện chiến tranh, chúng đã trang bị 583 chiếc máy bay tăng,  115 khẩu pháo, 454 chiếc xe tăng, xe bọc thép. Thêm vào đó, vùng căn cứ rừng núi không ổn định. Cơ quan khu, tỉnh thường xuyên phải di chuyển để tránh máy bay địch và biệt kích xâm nhập.
Về lực lượng địch, không kể dân vận, cảnh sát, chúng có ba tiểu đoàn bộ binh vừa chốt giữ, vừa cơ động; một tiểu đoàn pháo 105 ly, cối 106,7 ly; một đại đội xe bọc thép. Căn cứ quân sự Chu Lai của địch cách thị xã Quảng Ngãi 30 ki-lô-mét, có sư đoàn thủy quân lục chiến, có các phi đội oanh kích, có tàu chiến thường trực. Cuộc họp kéo dài từ 13 giờ đến 20 giờ. Hầu hết thấy rằng, với tình hình hiện nay thì khó mà thực hiện chỉ thị của quân khu. Ngay từ khi cùng các anh Giáp Văn Cương và anh Nam Hà nghiên cứu kế hoạch xuân 1970, ba chúng tôi đều rất phân vân tự hỏi: "Xuân 1970 mà đưa lực lượng chủ lực vào thành phố là điều cần phải cân nhắc".

(1)Trung tướng Nguyễn Huy Chương - CHỈ MỘT CON ĐƯỜNG, hồi ức, NXB Đà Nẵng, 2001, trang 273-274.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Ba, 2009, 06:59:59 am
Trước sự bế tắc chung trong cuộc họp giữa tôi và Quảng Ngãi, trên cơ sở nghiên cứu từ đầu, tôi nêu phương án như sau: Nếu xét không có khả năng chấp hành mệnh lệnh của Khu thì có thể tập trung sức mạnh dứt điểm quận lỵ Nghĩa Hành (chợ Mùa), hoặc Trà Bồng, tạo một số trận đánh viện binh tốt, tổ chức hệ thống bắn máy bay trực thăng rộng khắp; tiến hành đồng thời với hoạt động chống càn quét, chống bình định để bung dân phá đồn, hoàn thành mục tiêu chung năm1970. Sau khi trình bày phương án của mình, tôi đề nghị nếu các anh chấp nhận thì lấy làm phương án của tỉnh đề nghị với Quân khu.
Ba ngày sau, tại Bộ Tư lệnh Quân khu, một đồng chí lãnh đạo cho rằng, tôi là người làm dao động cán bộ, chiến sỹ ở Quảng Ngãi. Nghe anh phê phán, tôi cố gắng giữ tự chủ: "Thưa đồng chí, tôi có khuyết điểm, đáng ra phải báo cáo về Quân khu để do Quân khu giải quyết. Nhưng trước thực tế tình hình quá bế tắc, tôi đã mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình để các đồng chí tỉnh ủy Quảng Ngãi xem xét. Nếu các anh chấp thuận thì đó là đề nghị của tỉnh. Tôi nghĩ là người chỉ huy ngoài mặt trận có lúc không thể chấp hành lệnh một cách máy móc vì nó không còn sát đúng trên thực tế".
Và hai ngày, sau tôi nhận lệnh trở về Hà Nội. Trước khi rời Khu 5, tôi đến chào tạm biệt vợ chồng anh Võ Chí Công. Chị Nết - vợ anh Năm Công, chuẩn bị cho tôi một bữa cơm thật ngon. Tôi vô cùng cảm khích.
Nhớ lại những ngày toàn quốc kháng chiến và khi ở Lào, đối với tôi, anh chị Võ Chí Công vừa là bậc cách mạng tiền bối, vừa là người thầy, vừa là bạn vong niên.
Trong khi ăn cơm, tôi có nói với anh Năm Công:
- Thưa anh, việc tôi ra đi chắc anh đã rõ. Tôi chỉ có một đề nghị, mong rằng với cương vị là Bí thư Khu ủy, xin anh đừng thực hiện kế hoạch xuân 1970 mà Quân khu đã phổ biến. Cũng như với sư đoàn chủ lực, cần có đủ cơm ăn, có huấn luyện tốt, và sử dụng đúng lúc đúng thời cơ, đánh những đòn quyết định.
Anh Võ Chí Công bắt tay tôi và nói:
- Cách đây hai tháng, Khu ủy Khu 5 có họp. Căn cứ tình hình lúc bấy giờ, Khu ủy có đề xuất một số phương án chung. Quân khu 5 căn cứ vào đó đề ra kế hoạch. Nay tình hình đã khác rồi. Sắp đến, Khu ủy sẽ có thay đổi.
Tôi vô cùng xúc động. Đang ngồi, tôi đứng ngay dậy chào anh. Anh lại nói:
- Về các sư đoàn chủ lực, đề nghị của anh là đúng. Khu 5 bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Nhớ lại chuyện xưa mà lòng vô cùng căm phẫn: xóm làng xơ xác, núi rừng trơ trọi. Từ  Quảng Nam, Quảng Ngãi, cứ bảy đến mười cây số là một bãi B52. Xương người rơi vãi. Có lúc tôi đã mang theo sáu cái đầu lâu của các chiến hữu ra đi, lại càng nhớ quê nhà tha thiết làm sao. Tôi như sét đánh ngang tai, khi biết rằng cha mẹ đã bị mất xác, một nắm tro tàn cũng không thu nhặt được. Bom na-pan đã thiêu hủy một khu phố ở Ngã bảy Chợ Lớn ngày mồng 4 tết Mậu Thân (1968). Và tại quê nhà, cha và em tôi cũng ra đi như vậy đó!
Tôi ở Sư đoàn 2 chỉ qua hai mùa chiến dịch. Tháng 4 năm 1970, tôi trở về Sư  đoàn 325 hết sức đột ngột…
Ngày 25 tháng 12 năm 2000, tức là sau ba mươi năm kể từ ngày tôi chiến đấu ở Khu 5, tại nhà riêng anh Nguyễn Huy Chương, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên chính ủy Sư đoàn 2, Chính ủy Quân khu 5, hiện nay ở số nhà K7/1 đường Quang Trung, thành phố Đà Nẵng, đã có buổi tọa đàm đề cập đến việc thực nghiệm chiến thuật chốt chặn trong các chiến dịch tổng hợp ở Quảng Nam mà tôi là tư lệnh. Các đồng chí đều cho đây là sáng tạo. Chúng tôi lại càng nhớ biết bao về những ngày gian khổ ở Sơn Cẩm Hà, ở huyện Hiệp Đức, Dương Yên, Núi Ngang, Núi Ngốc và bao trận bom B52, B57 của Mỹ dội xối xả xuống quanh khu vực đóng quân


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Ba, 2009, 07:03:19 am
CHƯƠNG IX
Ở MẶT TRẬN QUẢNG TRỊ

Vận dụng “học thuyết" do tự mình đề xuất, Ních-xơn đã đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh", tăng cường và hiện đại hóa quân đội Sài Gòn để thay thế dần quân Mỹ rút về nước, dùng người Việt đánh người Việt.
Cuối năm 1969, Mỹ tổ chức và chỉ đạo cuộc hành quân lớn đánh chiếm vùng giải phóng Lào. Tháng 3 năm 1970, chúng tổ chức đảo chính ở Phnôm Pênh lật đổ chính phủ của Quốc trưởng Nô-rô-đôm Xi-ha-núc; cho quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn xâm lược Cam-pu-chia nhằm mở rộng chiến tranh ra khắp Đông Dương. Tháng 1 năm 1970, chúng huy động hơn 45 ngàn quân, trong đó có mười ngàn quân Mỹ, hơn một ngàn năm trăm máy bay chiến đấu, trên tám trăm máy bay lên thẳng, gần sáu trăm xe tăng , xe bọc thép, ba trăm khẩu pháo, mở cuộc hành quân lớn mang tên “Lam Sơn 719" ra đường số 9 - Nam Lào hòng cắt đứt đường chi viện của ta từ hậu phương ra tiền tuyến, đồng thời rèn luyện khả năng chiến đấu của quân đội Sài Gòn để thay thế quân Mỹ. Nhưng mọi ý đồ của chúng đều thất bại thảm hại.
Sau này, trong hồi ức của mình, trung tướng Lê Tự Đồng, nguyên tư lệnh kiêm Chính ủy của Quân khu Trị Thiên, cho biết:
“Thắng lợi chiến dịch đường 9 - Nam Lào đã mở ra khả năng thực tế đánh bại hoàn toàn âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh"của Mỹ. Nhận định lực lượng cách mạng ba nước Đông Dương ngày một lớn mạnh, diễn biến tình hình trong đó có lợi cho ta, Trung ương đề ra nhiệm vụ tập trung triển khai cuộc tấn công chiến lược năm 1972. Mục tiêu làm tiêu hao phần lớn sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới. Đối với "B" (chiến trường miền Nam) thì mục tiêu lớn nhất: nếu điều kiện cho phép, sẽ giải phóng toàn bộ Trị Thiên - Huế. Quân ủy Trung ương thành lập một Bộ Tư lệnh chiến dịch đủ mạnh.
11 giờ 30 ngày 30 tháng 3 năm 1972, tiếng súng chiến dịch bắt đầu. Đến ngày 4 tháng 4 năm 1972, một loạt đồn bốt thuộc hệ thống phòng ngự từ đông sang tây mà địch xây dựng trên hai mươi năm đã bị đập nát. Địch thua đau co cụm cố thủ ở Đông Hà, Ái Tử. Ngày 27 tháng 4 năm 1972, quân ta mở cuộc tấn công thứ hai tiêu diệt Đông Hà, Ái Tử. Cánh Nam đánh xuống cắt đường số 1. Cánh Đông cho cơ giới vượt sông Cửa Việt đánh vào. Ngày 2 tháng 5 năm 1972, Quảng Trị giải phóng. Địch chạy sang phía Nam cầu Mỹ Chánh, phá sập cầu, cố thủ. Quân ta đã thấm mệt, tạm dừng. Cánh Nam trở thành tiền phương của Bộ tư lệnh chiến dịch. Đợt tiến công thứ ba bắt đầu từ ngày 20 tháng 6 năm 1972. Lúc này địch phản công quyết liệt. Sức tấn công của ta lại không đủ mạnh. Sau sáu ngày, cuộc tấn công phải chững lại".
(1)
Riêng tôi, sau khi ở  Liên khu 5 ra Hà Nội được bảy ngày, thì được bổ nhiệm làm sư đoàn trưởng Sư đoàn 325C với nhiệm vụ ban đầu là huấn luyện quân tăng cường, bổ sung cho miền Nam.
Từ tháng 5 năm 1970 cho đến tháng 10 năm 1971, dưới sự lãnh đạo chung của Bộ, đơn vị chúng tôi đã huấn luyện được 12 tiểu đoàn bổ sung cho Nam Bộ và chiến trường Liên khu 5.
Ngày 20 tháng 10 năm 1971, nhận được lệnh của Bộ Quốc phòng do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký, gửi Sư đoàn 325 chuyển nhiệm vụ từ huấn luyện quân tăng cường, quân bổ sung cho miền Nam, huấn luyện xây dựng thành sư đoàn cơ động thuộc lực lượng dự bị của Bộ ...
Bộ Quốc phòng đã cử một phái đoàn do đồng chi Trần Sâm, thiếu tướng làm trưởng đoàn, cùng các Cục Quân huấn, Cục Nhà trường đến đơn vị để triển khai lệnh của Bộ.
Tôi rất phấn khởi, vì từ nay lại sẽ được ra chiến trường. Lúc đó, theo yêu cầu chiến trường, trong vòng ba tháng phải huấn luyện chiến đấu đến cấp trung đoàn. Công việc thật gay go, nhưng chúng tôi thực hiện vượt mức kế hoạch đề ra.

(1) Phan Hoàng - PHỎNG VẤN TƯỚNG LĨNH VIỆT NAM  tuyển tập, Nhà xuất bản Trẻ năm 1999, trang 138 –139.


Tiêu đề: Re: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Ba, 2009, 07:06:20 am
Đầu năm 1972, lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn 325C có tôi làm tư lệnh; Nguyễn Công Trang, chính ủy; Nguyễn Duy Sơn, phó tư lệnh (các đồng chí này về sau đều mang quân hàm thiếu tướng). Ngoài ra còn có các đồng chí khác cũng giữ vai trò phó tư lệnh như: Nguyễn Cao Long, Nguyễn Hòe, Mạc Đình Vịnh. Như vậy tất cả có bốn phó tư lệnh.
Giáp tết năm Nhâm Tý (1972), tình hình Quảng Trị sau giải phóng rất gay go căng thẳng. Chấp hành lệnh cấp trên, sư đoàn tôi lần lượt lên đường, bắt đầu từ Trung đoàn 18. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 18 là đồng chí Lê Dũng, sau đó là Lý Long Quân rồi Huỳnh Lan.
Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào quên những ngày giáp tết năm ấy ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Nhân dân ở đây, đặc biệt là xã Kỳ Nam - giáp đèo Ngang, đời sống rất khó khăn. Tôi rất thương bà con nhưng không biết tính  sao khi bộ đội ta gạo cơm cũng chẳng dư dật gì. Cuối cùng, tôi bàn với các đồng chí chỉ huy sư đoàn “góp gạo thổi cơm chung” với dân, nhường một ít thịt và gạo cho bà con ăn tết.
Trong bài báo “Nắm cơm chiều giáp Tết", tác giả Trần Thế Tuyển có ghi lại câu chuyện cảm động này:
“Đó là một buổi chiều giáp tết năm 1972, khi đơn vị của Phạm Trung Kiên vừa hành quân đến một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Là chiến sĩ cơ yếu, Phạm Trung Kiên luôn được đi sát sư đoàn trưởng. Đang hí hoáy chuẩn bị chỗ ở, Phạm Trung Kiên thấy sư đoàn trưởng Lê Kích từ đâu về, vỗ vai anh, bảo rằng:
- Đồng chí xuống ngay nhà bếp, nói anh em nấu cho tôi một nồi quân dụng cơm và luộc 15 ki-lo-gam thịt lợn ...
Lúc đó, cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt, nên Kiên không dám hỏi lại mà đi ngay xuống truyền đạt mệnh lệnh của sư đoàn trưởng. Anh nghĩ  rằng, đêm nay lại hành quân gấp, nên sư đoàn trưởng cho chuẩn bị thức ăn đêm.
Khi nồi quân dụng cơm đã chín và số thịt lợn luộc đã được thái nhỏ, sư đoàn trưởng mới bảo Kiên và anh em phục vụ nắm ra từng nắm nhỏ; mỗi nắm kèm theo một miếng thịt rồi gọi tất cả trẻ con trong làng đến phân phát.
Giữa lúc chiến tranh ác liệt, đời sống khó khăn, có được nắm cơm và miếng thịt như thế thật là một món quà "mơ cũng không thấy" của lũ trẻ. Bọn trẻ reo mừng truyền tin nhau. Chả mấy chốc nồi cơm có đến cả mấy chục người ăn và mâm thịt luộc đã hết.
Đêm ấy, sư đoàn trưởng không ngủ. Ông thả bộ đến từng nhà thăm hỏi bà con nơi đóng quân. Khuya, trở về, ông tâm sự với Kiên:
- Tết đến nơi rồi, mà bà con chẳng có gì đón Xuân. Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dân ở đây cũng như đồng bào miền Bắc đã dốc sức người, sức của cho chiến trường. Sớm mai, đồng chí truyền đạt ý kiến của sư đoàn, mỗi cán bộ, chiến sĩ nhường tiền ăn hai ngày để lo tết cho nhân dân khu vực đóng quân.
Ý kiến của sư đoàn trưởng được toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn hưởng ứng. Tết năm ấy, bà con Kỳ Anh, nơi đơn vị đóng quân, được đón Xuân, vừa đậm đà tình nghĩa quân dân vừa vui vẻ, ấm cúng vì có gạo, thực phẩm do bộ đội ủng hộ"
.
Rời Kỳ Anh, đơn vị chúng tôi lên đường vào mặt trận Quảng Trị.
Mặt trận Quảng Trị trong những ngày mùa hè năm 1972 hết sức căng thẳng. Trung tướng Lê Tự Đồng sau này còn kể lại những gì khó khăn xảy ra trong giai đoạn đó:
“Cái khoảng cách giữa đợt tấn công thứ hai và ba, nó có mấy vấn đề cơ bản như sau: Khó nhất là vượt sông bằng cơ giới. Khi đánh du kích thì tất cả đều trên vai chiến sĩ, giờ đánh lớn, nếu không có xe chở vũ khí, lương thực thì đừng hòng đánh chác gì. Cái khó thứ hai là đường sá cho cơ giới. Đường không có thì xẻ đường bạt núi mà đi, không có cầu, phà. Bắc cầu phao, bị máy bay bắn hỏng. Do đó phải tìm bến vượt, đắp ngầm, mưa như thác đổ, nước sông dâng cao lênh láng. Con đường 15 N mở sau giải phóng Quảng Trị, chủ yếu dựa vào lòng khe suối, đã bị nước tràn, tắc nghẽn. Trong lúc đó, quân trang quân dụng chuẩn bị chỉ nhỏ giọt. Bộ đội đối mặt với nhiều khó khăn, vất vả. Lợi dụng thời gian, địch ra sức củng cố lực lượng để đối phó, đặc biệt chúng dùng phi pháo để ngăn chặn, gây khó khăn cho ta. Tôi nghĩ, sau khi giải phóng Quảng Trị, khoảng sáu đến mười ngày mà không tiếp tục tiến công, thì thời cơ đã mất. Nếu như thấy mở cuộc tấn công vào sâu chưa thể được, thì chuyển hẳn sang chiếm lĩnh địa bàn, bố trí lại lực lượng, xây dựng công sự... tạo thế đứng vững chắc. Sau đó, mới chuẩn bị đợt tấn công mới cũng không muộn. Nhưng tiếc là ta đã không làm thế!
Tám mươi mốt ngày đêm. Ngày 28 tháng 6 năm 1972, địch mở cuộc phản công bằng hai sư đoàn cơ động chiến lược. Sư dù tiến ra theo phía tây đường 1. Sư đoàn thủy quân lực chiến tiến dọc phía đông. Chủ yếu chúng dùng bom, pháo đánh mạnh vào các trận địa của ta. Theo số liệu thống kê, mỗi ngày chúng giội vào đây 24 tấn bom đạn hết sức ác liệt, trước khi chúng tôi rời thành cổ Quảng Trị lui về phía bắc sông Thạch Hãn. Tuy nhiên, phần lớn đất đai được giải phóng vẫn nằm dưới sự kiểm soát của ta"
.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 30 Tháng Ba, 2009, 07:10:59 am
Ngày 20 tháng 9 năm 1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có điện gửi cho các sư đoàn hỏi về việc tổ chức phòng ngự ở Quảng Trị như thế nào.
Thế trận của ta ở mặt trận Quảng Trị được bố trí như sau:
Phía đông thành cổ Quảng Trị có Sư đoàn 320 do đồng chí Sùng Lãm làm tư lệnh.
Phía tây bắc, gồm Ái Tử, Thạch Hãn. Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà có Sư đoàn 325 do tôi phụ trách.
Phía tây nam có Sư đoàn 304 do đồng chí Hoàng Đan chỉ huy. Sư đoàn này đã để mất điểm cao 501 ở khu vực Tây Nam Quảng Trị.
Ngoài ra, còn có các đơn vị khác tham gia như: một trung đoàn xe tăng, một trung đoàn pháo binh nòng dài, một trung đoàn cao xạ 57 ly và 37 ly, một trung đoàn tên lửa ... Lúc ấy, lực lượng của ta khá mạnh.
Sư đoàn 325 còn được phối thuộc ba trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh, 11 tiểu đoàn trực thuộc khác, Trung đoàn 66 của Sư đoàn 312; một trung đoàn của Sư đoàn 304; một trung đoàn của Sư đoàn 308. Tư lệnh sư đoàn trực tiếp hạ lệnh bắn cho trung đoàn pháo binh. Như vậy trong tay tôi, lực lượng không phải là một sư mà là hơn thế nhiều.
Ở Quảng Trị,  giữa ta và địch là sự tranh chấp ác liệt. Tôi đã tám lần trực tiếp đưa các tiểu đoàn vào thành cổ Quảng Trị, với một tinh thần quyết chiến cao độ trong điều kiện hết sức khốc liệt. Đơn vị tôi cứ tám đến mười ngày lại phải một lần thay quân. Tổn thất không phải ít. Lương thực, thực phẩm vô cùng khó khăn; một phần lớn nguồn cung cấp là bằng cách đón gạo, thịt thả từ ngoài biển dạt vào hoặc từ tàu thủy Trung Quốc thả xuống biển.
Sau này, Sư đoàn 325 sử dụng Trung đoàn 1 bám sát chợ Sãi, đồng thời có trách nhiệm cùng với Cửa Việt. Trung đoàn 95 phòng ngự bờ tây sông Thạch Hãn và Trung đoàn 18 làm nhiệm vụ dự bị.
Cuộc giằng co thật sự căng thẳng. Ta không thể giữ được thành cổ Quảng Trị vì sức ép hỏa lực của địch mạnh và vì thiên tai. Địch còn kết hợp đánh lấn, trong lúc đó ta chưa có cách giải quyết có hiệu quả thủ đoạn này của chúng. Nguyên nhân chính nữa là ta không mở rộng được phía sau lưng địch ở Thừa Thiên - Huế.
Ngày 25 tháng 9 năm 1972 ta về giữ bờ sông Thạch Hãn. Chỉ huy sư đoàn hoan nghênh đồng chí Mạc Đình Vịnh luôn có mặt ở sở chỉ huy tiền phương. Tôi thì bám sát các trung đoàn ở tuyến sông Thạch Hãn.
Cuối cùng, sau khi ta lui khỏi thành cổ thì Trung đoàn 101 lại chiếm được Cửa Việt. Ta thu được 12 xe bọc thép, địch tháo chạy tán loạn. Cờ cách mạng miền Nam tung bay giữa mùa thu gió lộng sát biển Đông sau gần 17 năm vắng bóng.
Qua những ngày chiến đấu ác liệt ở Quảng Trị, việc chúng ta không tận dụng thời cơ thọc sâu vào Phong Điền, Quảng Điền của tỉnh Thừa Thiên - Huế là điều đáng tiếc. Việc mất thành cổ là tổn thất  lớn. Tuy nhiên, được Cửa Việt và vùng tự do còn lại đã góp phần làm nên thắng lợi Hiệp định Pa-ri năm 1973.
Mấy chục năm đã qua nhưng tôi vẫn nhớ những cán bộ trong Bộ chỉ huy mặt trận. Các anh Giáp Văn Cương, phó chỉ huy mặt trận; Cao Văn Khánh, Nguyễn Hữu An, Hồng Sơn... đều thường xuyên bám sát chiến trường và có những ý kiến kịp thời giúp cho cấp dưới giữ vững bình tĩnh, sáng suốt, làm nên những thắng lợi.
Ở chiến  trường Quảng Trị nóng bỏng 1972,  tôi đã ghi nhật ký rất tỉ mỉ đều đặn và còn giữ đến hôm nay. Nó vừa là kỷ niệm vừa là dấu ấn của  cuộc  đời.
“Ngày 22 tháng 8 năm 1972
Từ bốn giờ sáng, ta đánh địch ở phường Đệ Ngũ, Tri Bưu và Long Hưng. Trong ngày, địch oanh tạc bằng phi pháo mật độ ngày càng cao so với những ngày trước, chủ yếu vào thị xã Quảng Trị.
Lúc 16 giờ chiều cùng ngày, máy bay B52 oanh tạc gần chỉ huy sở sư đoàn, vào gần trung đoàn xe tăng, tổng đài 300.
Trung đoàn 209 Sư đoàn 312 di chuyển hết quân vào Như Lệ, phối thuộc chiến đấu cho Sư đoàn 325.
Ngay từ đêm trước, tiểu đoàn 3, Trung đoàn 101, trong lúc đi lấy 60 tấn gạo gần Cam Lộ chuyển về, đã có bốn đồng chí hy sinh và hai đồng chí khác bị thương.
Trong đêm này, Trung đoàn 48 đã đưa vào thị xã được 510 quả đạn cối 82 ly; 120 quả đạn B40, một tấn rưỡi gạo; 99 ki-lô-gam thịt. Trung đoàn 95 đưa vào được bảy tấn gạo.
Ngày 23 tháng 8 năm 1972:
Địch tiếp tục oanh tạc vào chung quanh sở chỉ huy sư đoàn. Hôm nay ban  chỉ huy Trung đoàn 141, Sư đoàn 312 đến nhận nhiệm vụ. Trung đoàn trưởng là đồng chí Khê, chính ủy là đồng chí Dĩ. Quân số của trung đoàn là một nghìn bảy trăm người, trang bị đầy đủ quân trang quân dụng, khí thế bộ đội hừng hực, lương thực có đủ để chiến đấu đến ngày 30 tháng 8 năm 1972.
Chúng ta tăng cường thêm tiểu đoàn 7 vào thị xã. Và ngay trong đêm 23 tháng 8, rạng sáng ngày 24 tháng 8, toàn chiến trường Quảng Trị đã phân công đợt 1 đánh chủ yếu vào các tiểu đoàn 6, 7, 9 dù và tiểu đoàn 2 thủy quân lục chiến của Mỹ ngụy.
Ngày 24 tháng 8 năm 1972:
Lúc 20 giờ, tôi gọi điện cho đồng chí Thúy, phó chính ủy sư đoàn 320 yêu cầu không được xé lẻ các tiểu đoàn để tăng cường vào các tiểu đoàn khác, tổ chức đưa 100 quân cho tiểu đoàn 5; giải quyết việc bổ sung quân số chiến đấu thường xuyên cho thị xã; kiểm tra việc sử dụng tân binh. Chỉ thị kiểm điểm đồng chí Mỹ về việc thu súng B40 và B41 của hai đại  đội  tiểu  đoàn 7.

Điện tôi gửi đồng chí Thúy và đồng chí Thiện, còn lưu lại:
“Đồng chí dùng tiểu đoàn 7 tập trung đánh phản kích; không được xé nát tiểu đoàn này để bổ sung cho đơn vị khác. Cần kiên quyết điều chỉnh đội hình các tiểu đoàn để có sự lãnh đạo chỉ huy tập trung của cấp ủy và chỉ huy các tiểu đoàn ở trên một hướng, trừ những chỗ chưa thể giải quyết được, hoặc do điều chỉnh có ảnh hưởng. Những bộ phận lẻ còn lại của các đơn vị đang giữ các chốt quan trọng thì phối thuộc cho tiểu đoàn trên hướng đó. Đồng chí chỉ thị cho phía sau chấp hành nghiêm, đưa quân bổ sung chiến đấu thường xuyên cho các đơn vị. Cho ngay tiểu đoàn 4, Trung đoàn 95 ra củng cố để kịp cho kế hoạch tiếp. Tám Du" (tức Lê Kích).
Tình hình chiến sự trong ngày 24 tháng 8 năm 1972 cho đến 10 giờ sáng ngày hôm sau, diễn biến như sau:
Ta đánh chiếm và giữ ngã ba Long Hưng, địch dùng tiểu đoàn 3 thủy quân lục chiến phản kích. Ở đây ta diệt 100 tên. Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 165 đã vào chiến đấu ở khu trường Bồ Đề, bệnh viện. Ta chiếm được khu bệnh viện và đẩy địch lùi về phía nam khu trường Bồ Đề. Tới đây ta và địch giằng co. Ta diệt gần trăm tên địch, ba xe tăng và một xe bọc thép M113.
Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 165 tiếp vào chiến đấu ở ngã ba Long Hưng; tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 209 đã chiếm cao điểm 105, diệt một đại đội địch.
Sư đoàn 325 do tôi phụ trách trong cuộc kháng chiến chống  Mỹ, cứu nước đã lập nhiều chiến công lớn, nổi bật là trận chiến đấu liên tục 64 ngày đêm ở mặt trận Quảng Trị. Sư đoàn này trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sau này cũng làm nên những chiến công hiển hách, và được thưởng 2 huân chương Quân công; có 2 trung đoàn, 3 tiểu đoàn được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Ba, 2009, 07:49:04 am
Tháng 5 năm 1974, tôi được điều về làm chủ nhiệm lớp K1 của Học viện Quân sự, đào tạo, hướng dẫn cán bộ cao cấp chuẩn bị vào chiến trường làm nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Trong lễ duyệt binh chào mừng sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng ngày 2 tháng 9 năm 1975 tổ chức tại thủ đô Hà Nội, tôi là người vinh dự được cầm cờ “Quyết chiến, quyết thắng" của quân đội ta, đứng trên xe diễu qua lễ đài, sau xe của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị Tổng chỉ huy dẫn đầu cuộc diễu binh trong ngày lễ trọng đại này.
Thủ đô Hà Nội rộn ràng hân hoan và tràn ngập cờ hoa, biểu ngữ. Cả nước bắt nhịp kết đoàn, hát bài ca: "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Bài hát ra đời đúng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 ấy, cho đến bây giờ vẫn vang lên giục giã, tự hào.
Ngày 20 tháng 2 năm 1976, Học viện Quân sự chuyển vào Đà Lạt, tôi đưa toàn bộ gia đình vào thành phố bốn mùa hoa nở này để định cư.
Đây là một thành phố nghỉ mát lý tưởng, mà ngay từ thời Pháp thuộc, thực dân Pháp đã chọn nơi đây làm khu an dưỡng. Kể từ ngày 21 tháng 6 năm 1893, bác sĩ A-lếch-xăng Y-éc-sanh, người Thụy sĩ, quốc tịch Pháp, đã thám hiểm và lên được cao nguyên Lang Bian. Ông đã từng  kể lại trong hồi ký của mình:
“Cảm tưởng của tôi thật sống động, khi từ rừng thông ra, tôi đặt chân lên bờ cao nguyên rộng lớn trơ trụi và mấp mô, chế ngự bởi ba đỉnh núi Lang Bian. Những ngọn sóng của nó làm tôi nhớ lại mặt biển bị dày vò do một đợt sóng vĩ đại như  người ta thường thấy ở duyên hải An Nam tiếp theo sau một trận bão lớn.
Sự mát lạnh của khí trời làm tôi quên đi sự mệt nhọc và tôi nhớ lại sự vui mừng mà tôi đã cảm thấy khi chạy hết tốc lực lên xuống những quả đồi y như một cậu học sinh trẻ trung học”.

Đà Lạt trở thành Hoàng Triều Cương Thổ của triều đình Huế, là nơi diễn ra hội nghị trù bị từ ngày 17 tháng 4 năm 1946 đến ngày 12 tháng 5 năm 1946 do hai đoàn Việt Nam và Pháp tham dự.
Đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ có 13 người, do ông Nguyễn Tường Tam làm trưởng đoàn, ông Võ Nguyên Giáp làm phó đoàn . Đoàn chính phủ Pháp cũng có 13 thành viên do Max André làm trưởng đoàn, Rê-nê Pi-ông (René Pignon) làm phó đoàn. Hội  nghị  kéo  dài  ba  tuần lễ, nhưng những vấn đề chính lại không giải  quyết  được  bao  nhiêu.
Đà Lạt mãi mãi là vùng đất rợp bóng thông xanh, là những mảnh đồi nối nhau tít tắp với khí hậu trong lành. Cảnh quan Đà Lạt thật quyến rũ. Vì vậy, khi đặt chân lên mảnh đất này tôi không làm sao kìm được những cảm xúc của mình.
Tôi đã có một chùm thơ viết về Đà Lạt. Ví như bài thơ “Cảnh đẹp Hồ Xuân Hương”
Sương mai lướt nhẹ như hơi,
Xuân Hương in bóng mây trời ngàn thông.
Mặt hồ sóng gợn nước trong,
Chiếc thuyền câu nhỏ thong dong kéo dài

Vầng hồng sưởi ấm ban mai,
Từng đàn cò trắng nhớ ai bay về.
Nước non, non nước câu thề,
Gìn non, giữ nước vẹn bề hiếu trung.
Khi đến Đà Lạt, ngoài việc ổn định gia đình, tôi còn được giao trực tiếp quản lý khu Học viện. Sau khi đồng chí Tôn Long qua đời, từ tháng 8 năm 1976 cho đến năm 1980, tôi được bổ nhiệm làm Phó cục trưởng Cục Huấn luyện tác chiến cho đến ngày nghỉ hưu.
*   *
*
Như vậy, tôi đã tham gia quân đội liên tục trong 37 năm, kể từ tháng 4 năm 1945, có mặt hầu hết các chiến trường nóng bỏng ác liệt ở Đông Dương.
Trong suốt chặng đường dài liên tục đi theo cách mạng ấy, về công tác Đảng, tôi đã được giao đảm nhiệm các vị trí như: bí thư chi bộ, bí thư Đảng ủy tiểu đoàn, thường vụ Đảng ủy sư đoàn, ủy viên Đảng ủy Quân khu...
Về chính quyền, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ đảm trách các cương vị: Tiểu đoàn trưởng các tiểu đoàn 17,26,53; chỉ huy trưởng Mặt trận phía bắc thành phố Nha Trang; cán bộ tham mưu khu Hạ Lào; chỉ huy trưởng mặt trận tỉnh Sa-ra-van; trung đoàn phó Trung đoàn 101 Sư đoàn 325, đơn vị thọc sâu chiến lược của Bộ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và trong chiến dịch Điện Biên Phủ; cố vấn quân sự cho Bộ Tổng Tham mưu Pha-thét Lào, đoàn trưởng đoàn 165 chỉ huy cuộc tổng tiến công và giải phóng Cánh đồng Chum; chỉ huy trưởng Mặt trận đường số 9, khai thông đường Tây Trường Sơn; Tư lệnh Sư đoàn 2 bộ binh của Khu 5; Tư lệnh Sư đoàn 325C ở Quảng Trị; cố  vấn quân sự  khu Hạ Lào, đoàn phó đoàn 565; chủ nhiệm lớp bổ túc cán bộ cao cấp Học viện Quân sự và lớp K1 chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh xuân 1975.
Về hưu năm 1981, tôi tiếp tục tham  gia các hoạt động các đoàn thể ở địa phương; tham gia Hội Y học cổ truyền dân tộc thành phố Đà Lạt với cương vị là chủ tịch cho đến năm 2001.
Với những cố gắng nỗ lực không ngừng của bản thân, với sự đồng tâm hiệp lực của bao cán bộ, chiến sĩ, nhân dân, bè bạn, đã trải qua gần nửa thế kỷ đấu tranh của toàn dân tộc, tôi đã được Đảng và Nhà nước trao tặng: Huân chương Độc lập hạng 2, Quân công hạng nhì, Huân chương quân kỳ Quyết thắng, 3 Huân chương chiến công hạng nhất, nhì, ba; Huân chương chiến thắng hạng hai; Huân chương chống Mỹ hạng nhất; 3 Huân chương vẻ vang 1,2,3.  Được Đảng trao các huy hiệu : 40 tuổi Đảng, 50 tuổi Đảng, huy chương cựu chiến binh, huy chương Điện Biên Phủ, huy hiệu Xuân 1968,  Xuân 1975. Được Đảng và chính phủ Lào trao tặng huân chương các loại: Huân chương Vàng Lain - khăn, Huân chương Tự do hạng nhất, Huân chương kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, và nhiều bằng khen, giấy khen.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Ba, 2009, 07:56:42 am
Phụ lục: Những bài viết về đại tá Lê Kích

Trần Ngọc Trác
ĐẦU XUÂN GẶP ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
Những người trẻ tuổi chúng tôi hôm nay luôn ao ước sẽ có một ngày được gặp và nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể chuyện. Nếu diễm phúc có một tấm hình chụp chung với Đại tướng thì thật quý hoá biết bao.
Tiếng tăm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp lừng lẫy khắp năm châu  đã  làm  cho kẻ thù kinh sợ, nhân dân kính phục. Hình ảnh ngày đầu tiên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời, Cách mạng tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ, giải phóng thủ đô, cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ và thống nhất Nam Bắc ..., tất cả đều có sự đóng góp không nhỏ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Và điều ấy luôn ở mãi trong tâm thức của chúng tôi. Đối với lực lượng vũ trang, trí thức thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trở thành người anh Cả tuyệt vời.
Năm 1996, trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trường Quốc học Huế, tôi hy vọng sẽ được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì ông là một trong những học sinh của trường. Ngày hội trường năm đó, tôi vinh dự được gặp và chụp hình kỷ niệm với nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân, nhà thơ Tố Hữu, viện sĩ Viện hàn lâm thế giới về thơ Cù Huy Cận, bác sĩ, nhà điêu khắc, viện sĩ thông tấn Châu Âu Điềm Phùng Thị, và những nhạc sĩ, chính khách nổi tiếng khác mà tôi luôn kính trọng. Nhưng rất tiếc, dịp ấy Đại tướng không về dự được vì sức khỏe, nhưng ông vẫn có thư và lẵng hoa gửi từ Hà Nội vào tặng thầy cô giáo, học sinh của trường Quốc học Huế.
Năm 2000, trong lễ kỷ niệm 55 năm ngày Khánh Hoà - Nha Trang kháng chiến (23 tháng 10 năm 1945 - 23 tháng 10 năm 2000), chúng tôi lại hy vọng được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì ông là một trong những tướng lĩnh cao nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có mặt tại Tháp Bà, Nha Trang trong những ngày đất nước dầu sôi lửa bỏng ấy, để giao nhiệm vụ cho các đạo quân tham gia chiến dịch ở đây. Nhưng rồi một lần nữa lại bị hẫng hụt, vì Đại tướng cũng không vào được.
Tháng 2 năm sau, nhân kỷ niệm 60 năm ngày Bác Hồ về nước, Đại tướng và phu nhân đã vào thăm một số cơ quan, đơn vị và nhân dân ở miền Tây. Dạo đó, chúng tôi đang thực hiện ghi hình một số phát biểu của các tướng lĩnh từng tham gia chiến đấu với đại tá Lê Kích; một người đã làm nên những huyền thoại trong chiến đấu.
Chiều hôm đó, chúng tôi ai ai cũng lo lắng hồi hộp. Ngay cả đại tá Lê Kích - người đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao nhiệm vụ nhiều lần mà lòng vẫn nôn nao. Tôi thấy ông cứ đi vào, đi ra; có khi thì vân vê bộ quân phục ; có khi thì bần thần, vui buồn lẫn lộn. Tâm trạng của ông càng làm cho chúng tôi thêm băn khoăn, lo lắng. Qua thiếu tướng Minh Long, đại tá Hoàng Minh Phương - nguyên thư ký riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng tôi đã có cuộc hẹn tại nhà khách T78 ở  thành phố Hồ Chí Minh.
Khi chúng tôi đến với máy quay phim, đồ nghề lỉnh kỉnh, thì được gặp bà Đặng Thị Bích Hà - phu nhân Đại tướng và các cán bộ Hội Cựu chiến binh thành phố  Hồ Chí Minh đến thăm và chúc thọ Đại tướng chín mươi tuổi.
Khoảng chừng năm phút sau, Đại tướng đi từ trên lầu xuống. Các cán bộ quân đội đã nghỉ hưu và đại tá Lê Kích vui mừng dìu Đại tướng vào đi văng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chậm rãi bắt tay từng người một với ánh nhìn thân thiết. Phóng viên quay phim Nam Quan nhanh nhẹn ghi hình. Còn tôi thì chụp một số hình ảnh. Đại diện Hội cựu chiến binh thành phố tặng tướng Giáp lẵng hoa, với lời chúc mừng đại thọ trăm tuổi.
Đại tướng nói vui: “Tôi xin chấp hành”. Rồi mời mọi người cùng vỗ tay.
Đại tướng kể về những khó khăn buổi đầu của chính quyền cách mạng còn non trẻ, những chủ trương đúng đắn của Đảng và Bác Hồ đã dẫn dắt nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Nói về Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp  tâm sự: Bác là một vị lãnh tụ vĩ đại. Bác Hồ thường nói làm cách mạng trước hết là đạo đức, dĩ công vi thượng; chỉ có dân, có nước, không vì cá nhân mình; phải dựa vào dân thì có tất cả. Câu nói ấy của Bác đã bao nhiêu năm vẫn còn nguyên giá trị.
Hôm nay chúng ta gặp nhau, cựu mà phải mới; phải đổi mới, đổi mới; đổi mới càng đổi mới; và càng phải có lý luận đúng. Muốn tiên phong thì phải có Đảng tiên phong. Vì thế cho nên phải học tập trong thực tế, trên báo chí; đặc biệt cựu chiến binh ta phải học tập, học tập suốt đời, học tập đến hơi thở cuối cùng như Bác Hồ từng nói: Nếu chúng ta không phân biệt được đúng sai là không được . Thế giới đã tổng kết: Thắng lợi Việt Nam là thắng lợi của tinh thần yêu nước Việt Nam và trí tuệ thông minh Việt Nam.
Đại tướng cũng khẳng định rằng: Nếu không có Bác Hồ về nước, thì nhất định chúng ta không thể đánh đổ được thực dân, đế quốc, phong kiến; và không có thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.
Sau khi chúc Hội Cựu chiến binh cần phải quyết tâm đổi mới, trí tuệ và đoàn kết tiến lên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn dành những tình cảm thân thương gởi đến các gia đình trong ngày xuân mới có thêm nhiều sức khoẻ và thực hiện tốt tinh thần nghị quyết Trung ương lần thứ IX đề ra.
Đại tá Lê Kích và chúng tôi được ở lại thêm nhiều giờ nữa để nghe Đại tướng nói chuyện và trực tiếp phỏng vấn.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Tôi nhớ Lê Kích luôn, nhưng không biết ở đâu. Gặp Lê Kích trí tuệ vẫn còn minh mẫn, nói năng rõ ràng. Nói đến Lê Kích, tôi nhớ nhất là 436. Lúc đó, vấn đề này có liên quan đến phân tán lực lượng của Na Va tập trung 40 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ; một trong hai hướng quan trọng là Trung Lào và Hạ Lào. Trung Lào đã có Trần Sâm, Hạ Lào thì có Lê Kích. Tôi gặp Lê Kích và bảo anh phải nắm chắc một tiểu đoàn, có máy liên lạc; nhưng không được phát sóng. Tôi chọn một tiểu đoàn;  tôi trực tiếp kiểm tra đến từng đại đội, trung đội, tiểu đội, chiến sĩ. Tất cả là những người kiên quyết và chọn Lê Kích làm chỉ huy. Anh là người biết xung trận lúc nào là thắng lợi nhất. Và tôi nói rằng hướng này địch hoàn toàn bất ngờ. Ta có thể thắng lợi được, trong điều kiện địch bị hoàn toàn bất ngờ. Ta đánh địch trong thế địch không chuẩn bị. Đến lúc tôi nhận được điện của Lê Kích là đơn vị đã đánh và giải phóng Mường Mày, một tỉnh lỵ lớn của Nam Lào. Tôi  dự định đúng,  địch hoàn toàn bất ngờ, ta có thể giành thắng lợi lớn. Bản thân tôi cũng chưa nghĩ rằng giải phóng được hoàn toàn Mường  Mày và các tỉnh lỵ. Vì vậy tôi nhớ mãi Lê Kích cái điểm đó.
Nói đến Cánh đồng Chum, lúc đó trong Quân uỷ có hai ý kiến. Tôi đề nghị cử anh Chu Huy Mân sang Lào giúp bạn. Bác Hồ đồng ý. Anh  Chu  Huy  Mân sang giúp bạn về mặt chính trị, và Quân uỷ cử đồng chí Lê Kích giúp bạn về mặt quân sự và chỉ trong thời gian rất ngắn  sau  khi thành lập Chính phủ Liên hiệp dân tộc Lào - 15 giờ chiều ngày 28 tháng 12 năm 1960, lễ xuất quân tiến về Cánh đồng Chum, Xiêng Khoảng được cử hành trọng thể tại thị trấn Văng Viêng. Và chỉ trong  vòng ba ngày đêm tấn công địch trong hành tiến trên quãng đường dài 300 ki-lô-mét, đúng 1 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1961 ta đã đập tan căn cứ quân sự  lớn nhất ở Bắc Lào, giải phóng tỉnh Xiêng  Khoảng, khai thông đường số 7. Cánh đồng Chum là căn cứ địa lớn nhất của Pháp ở Lào.  Sự kiện này làm chấn động cả châu Á. Do đó, tôi cho rằng Lê Kích là một con người kiên cường, có quyết tâm lớn, không lùi bước trước khó khăn nào; là một con người hoàn thành tốt nhiệm vụ trong những điều kiện khó khăn nhất. Dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên những việc mà chúng ta cho là không làm được, coi như là huyền thoại. Anh là một trong những con người của dân tộc Việt Nam làm được những việc khó khăn cho là không làm được”.

Không những dành những tình cảm sâu đậm cho đại tá Lê Kích, Đại tướng và phu nhân còn quan tâm và hỏi thăm chúng tôi rất cụ thể về gia đình, công việc.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bước sang tuổi 91, nhưng ông vẫn minh mẫn. Tôi nhớ hôm đó, khi phỏng vấn xong, Đại tướng muốn đứng dậy, tôi dìu ông, thì ông bảo rằng: Tôi còn khỏe lắm, và gỡ tay tôi ra. Một  chi  tiết  nhỏ  nhưng  rất  ấn tượng đối với tôi.
Đầu xuân được gặp và nghe Đại tướng kể cho nghe nhiều câu chuyện,  lòng  cảm  thấy  hạnh phúc làm sao. Những ao ước đợi chờ hàng  chục năm qua, nay chúng tôi đã toại nguyện. Những gì tốt đẹp chúng  tôi  nghĩ  về ông,  hôm  nay  đã  thành  hiện thực.
Vui Xuân mới này, chúng tôi càng hiểu hơn những gì mà các vị lãnh đạo tiền bối của cách mạng Việt Nam đã phải chịu đựng biết bao gian nan, khó nhọc để cho các thế hệ hôm nay được sống trong một đất nước hoàn toàn được độc lập, tự do, hoà bình trọn vẹn.
Bài đăng trên tạp chí
NGƯỜI LÀM BÁO LÂM ĐỒNG
Số Xuân Nhâm Ngọ 2002


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Ba, 2009, 08:01:56 am
Trần Thế Tuyển
NẮM CƠM GIÁP TẾT

Đó là một buổi chiều giáp tết năm 1972, khi đơn vị của Phạm Trung Kiên vừa hành quân đến một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Là chiến sĩ cơ yếu, Phạm Trung Kiên luôn được đi sát sư đoàn trưởng. Đang hý hoáy chuẩn bị chỗ ở, Phạm Trung Kiên thấy sư đoàn trưởng Lê Kích từ đâu về, vỗ vai anh bảo rằng:
- Đồng chí xuống ngay nhà bếp, nói anh em nấu cho tôi một nồi quân dụng cơm  và luộc 15 ki-lô-gam thịt lợn ...
Lúc đó cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt, nên Kiên không dám hỏi lại mà đi ngay xuống truyền đạt mệnh lệnh của sư đoàn trưởng. Anh nghĩ rằng, đêm nay lại hành quân gấp, nên sư đoàn trưởng cho chuẩn bị thức ăn đêm.
Khi nồi quân dụng cơm đã chín và số thịt luộc đã được thái nhỏ, sư đoàn trưởng nói Kiên và anh em phục vụ nắm ra từng nắm nhỏ; mỗi nắm kèm theo một miếng thịt rồi gọi tất cả trẻ con trong làng đến phân phát.
Giữa lúc chiến trường ác liệt, đời sống khó khăn, có được nắm cơm và miếng thịt như thế thật là một món quà “mơ cũng không thấy” của lũ trẻ. Bọn trẻ vui mừng truyền tin nhau. Chả mấy chốc nồi cơm có đến cả chục người ăn và mâm thịt luộc đã hết.
Đêm ấy, sư đoàn trưởng không ngủ. Ông thả bộ đến từng nhà thăm hỏi bà con nơi đóng quân. Khuya, trở về ông tâm sự với Kiên:
- Tết đến nơi rồi, mà bà con chẳng có gì đón xuân. Tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân ở đây cũng như đồng bào miền Bắc đã dốc sức người, sức của cho chiến trường. Sớm mai, đồng chí truyền đạt ý kiến của sư đoàn, mỗi cán bộ, chiến sĩ nhường tiền và gạo ăn hai ngày để lo tết cho nhân dân khu vực đóng quân.
Ý định của sư đoàn trưởng được toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn hưởng ứng. Tết năm ấy, bà con Kỳ Anh, nơi đơn vị đóng quân, được đón xuân vừa đậm đà tình nghĩa quân dân vừa vui vẻ, ấm cúng vì có gạo, thực phẩm do bộ đội ủng hộ.
Chuyện ấy cách đây đã hơn 30 năm rồi mà Phạm Trung Kiên vẫn còn nhớ như in. Bây giờ với cương vị đại tá, Cục trưởng Cục Hậu cần của  một cơ quan Bộ Quốc phòng, Phạm Trung Kiên không quên được câu  chuyện bình thường của người lính bộ đội Cụ Hồ nhưng vô cùng cảm  động  ấy.  Bên  cạnh việc tham mưu với cấp uỷ và thủ trưởng biện pháp  nâng cao đời sống bộ đội, anh luôn đề xuất phương án góp phần chăm lo đời sống nhân dân nơi đơn vị đóng quân, đặc biệt các bà mẹ Việt Nam anh hùng và các gia đình thuộc diện chính sách. Nghe câu chuyện nắm cơm chiều giáp tết của sư đoàn trưởng Lê Kích do Phạm Trung Kiên kể, tôi bỗng nhớ đến lời tâm sự của anh Ba Bé, Giám đốc Xí nghiệp in tổng hợp Cần Thơ. Anh Ba kể rằng, sau giải phóng miền Nam (30 –4 -1975) anh có mặt tại thủ đô Hà Nội. Là người Nam bộ, nhưng anh rất thích ăn phở Hà Nội. Vừa đặt chân đến thủ đô, anh đã tìm đến hàng phở. Anh thật ngạc nhiên khi bát phở bưng lên nghi ngút khói mà chỉ toàn bánh và nước dùng, không thấy thịt đâu. Hỏi ra mới biết, phở không người lái, bởi vì trong chiến tranh, chăn nuôi kém phát triển, hơn nữa còn phải ưu tiên chi viện cho chiến trường. Anh Ba Bé ăn tô phở không người lái vừa thấy ngon lại vừa thấy mặn - sự mặn mòi từ những giọt nước mắt của anh.
Chuyện nắm cơm chiều giáp tết của đại tá Phạm Trung Kiên và bát phở không người lái của anh Ba Bé tưởng đâu không ăn nhập gì với nhau, mà sao gắn bó, xúc động đến thế. Tình cảm của những người lính Bộ đội Cụ Hồ với nhân dân và tình cảm của nhân dân với người lính Bộ đội Cụ Hồ như thế đấy.

Bài đăng trong tạp chí “Sự kiện và nhân chứng” Báo QĐND Xuân Tân Tỵ 2001 trang 36.


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Ba, 2009, 08:07:21 am
Trần Nguyên Trang
VẸN NGUYÊN NGƯỜI LÍNH CỤ HỒ

Đoàn Minh Tuấn đạp xe hơn ba chục cây số từ Đức Hoà lên thăm tôi. Anh mang lỉnh kỉnh nào xoài, rượu nếp và cả đậu phụng mới rang gói bằng giấy báo còn thơm mùi cát. Tuấn nói:
- Tất cả những thứ này bà xã tôi chuẩn bị từ  sáng sớm. Cây nhà lá vườn cả đấy.
Tôi đón nhận quà đồng quê từ tay người bạn chiến đấu cũ. Nhìn cái dáng gầy gò, tong teo và mái tóc hoa râm tuổi ngũ tuần của anh, lòng tôi rưng rưng xúc động.
- Ôi! Ông lên thăm được rồi. Còn mang chi mấy thứ  này cho nhọc xác. Không phải bây giờ Tuấn mới nhọc xác vì bạn bè, đồng đội, mà mấy chục năm nay quen biết nhau từ còn ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, chúng tôi đã biết Tuấn luôn luôn sống như thế.
Ngày ấy, chúng tôi còn trẻ lắm, lớp Đảng viên Hồ Chí Minh của những năm đầu thập kỷ bảy mươi đến nay hầu hết đều sống xứng đáng với sự tin yêu của tổ chức và đồng đội. Bây giờ là thương binh nặng, mất sức gần 90 phần trăm, dưới chục lần lên bàn mổ vì vết thương cũ tái phát, nhưng phẩm chất người lính Bộ đội Cụ Hồ trong Tuấn vẫn không phai. Ngôi nhà tình nghĩa do Công ty 32 Tổng Cục hậu Cần  làm tặng gia đình anh cách đây hơn một năm được sắp xếp như một doanh trại quân đội. Có lẽ nếp sống người lính đã hoà lẫn vào dòng máu của anh, nên khi nghỉ mất sức, Tuấn muốn tổ chức gia đình như cách sinh hoạt của người lính. Lần trước xuống thăm anh, nhìn giường chiếu, giá mũ, giá quần áo, nơi treo khăn mặt, nơi để giày dép... đều  ngăn nắp, có tên từng người, tôi lấy làm lạ, nhưng lòng thì vui lắm.
Tuấn nói:
- Lúc đầu, mẹ các cháu và cả nhà hơi khó chịu, nhưng sau quen dần, thành nếp, thấy hay hay, bây giờ thì bỏ không được.
Đoàn Minh Tuấn không chỉ ngăn nắp, chỉnh chu trong việc sắp xếp gia đình, giờ nào việc nấy, mà ngay trong cách sống, cái chất lính “Bộ đội Cụ Hồ” trong anh cũng thể hiện rất rõ. Một người hàng xóm của anh kể rằng, có lần anh suýt bị khai trừ ra khỏi Đảng vì tố giác một số cán bộ làm công tác chính sách ở địa phương có biểu hiện tham nhũng. Lúc đó, thế của những người tiêu  cực ấy rất mạnh, họ có đường dây từ trên xuống dưới, nên ỷ vào số đông, biểu quyết khai trừ anh ra khỏi Đảng. Một đoàn kiểm tra của cấp trên được cử đến, mọi việc sáng tỏ, anh không bị khai trừ khỏi Đảng mà ngược lại những kẻ tiêu cực kia, sau này, kẻ vào tù, kẻ mất chức, nghỉ việc.
Mới đây đứa con trai lớn của anh, sau khi tốt nghiệp trường an ninh về làm cảnh sát kinh tế trên tỉnh. Cảnh sát kinh tế nên rất dễ bị người ta mua chuộc, ví dụ một vài vụ án kinh tế, con trai anh được đương sự biếu phong bì quá mức tình cảm, nhưng con trai người lính bộ đội Cụ Hồ ấy kiên quyết từ chối. Nghe con kể lại chuyển đó, anh vỗ vai con động viên:
- Ba là Bộ đội Cụ Hồ, con là con của người lính bộ đội Cụ Hồ, là Công an Nhân dân, phải sống như thế!
Sắp đến ngày kỷ niệm chiến thắng 30 tháng 4, vết thương trên người Đoàn Minh Tuấn lại tái phát phải đi viện truyền nước biển. Đau yếu thế mà anh vẫn đạp xe mấy chục cây số từ vùng căn cứ kháng chiến cũ lên thăm chúng tôi. Tôi thấy mình có lỗi.
2.
Có người ái ngại cho hoàn cảnh của ông. Nhưng tôi thấy bao giờ ông cũng lạc quan và tin tưởng vào cuộc sống. Chúng tôi đến thăm ông khi tiết trời Đà Lạt, hàn thử biểu chỉ dưới 15 độ C. Trong căn nhà được xây dựng cách đây hơn nửa thế kỷ, dường như không có vật nào đáng giá lắm. Nhưng đối với ông, cái gì cũng vô giá. Ông nói: Vô giá là ở chỗ tiền bạc không thể mua nó được.
So với tuổi trên tám mươi, ông thuộc lớp các cụ cao niên, nhưng vẫn còn tráng kiện, minh mẫn. Ở tuổi ấy, đáng lẽ ra người ta phải được an nhàn dưỡng lão sau những tháng ngày chiến đấu ác liệt vất vả. Nhưng ông vẫn còn cực nhọc, có khi còn cực nhọc hơn ở thời bộ đội. Bởi, ông phải nuôi người vợ bị tàn phế, tật nguyền sau một cơn tai biến cách đây gần ba mươi năm.
Người lính Bộ đội Cụ Hồ ấy đi theo Đảng từ khi thành lập nước, thành lập quân đội. Trong mấy cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, hầu như chiến trường nào cũng có dấu chân ông. Là một trong những chiến sĩ du kích Ba Tơ vào bộ đội, ngọn lửa nhiệt tình cách mạng lúc nào cũng ngùn ngụt trong ông.
Tập kết ra Bắc, sau 1954, ông vinh dự mấy lần được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ: Khi thì sang giúp bạn Lào tiễu phỉ, giải phóng Cánh đồng Chum, khi thì làm chỉ huy Mặt trận đường số 9, cùng tướng Võ Bẩm mở đường Trường Sơn, con đường huyết mạch chiến lược góp phần rất to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hai lần làm sư đoàn trưởng, mấy lần làm tư lệnh pháo binh, tư lệnh mặt trận, cục trưởng... Nhưng khi về hưu, đại tá Lê (tên của ông) vẫn “hai bàn tay trắng”. Có người nói với ông thế, nhưng đại tá Lê đính chính ngay:
- Sao lại nói hai bàn tay trắng được? Ngược lại tôi giàu hơn ai hết, bởi tôi có rất nhiều đồng đội, rất nhiều anh em, đi đâu cũng được người ta quý mến, giúp đỡ.
Đúng là, do phẩm chất sống của ông với đồng đội, nhất là lúc ông đang giữ cương vị chỉ huy, nên bây giờ về hưu ông được mọi người quý trọng.
Mới đây, tôi được chứng kiến buổi gặp mặt cảm động của ông với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp mừng thọ Đại tướng 90 tuổi. Tôi không thể ngờ được tuổi cao như thế, mà Đại tướng vẫn nhớ đến ông - một người lính già, và dành cho ông nhiều tình cảm đến  thế.
Mọi đoàn đến chúc thọ, Đại tướng chỉ có thể tiếp được chừng 10 đến 20 phút, nhưng khi Đại tá Lê đến, người anh Cả của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và cả người vợ thân yêu của mình đã ngồi tiếp ông đến gần ba tiếng đồng hồ. Hai người lính già bạc đầu - một vị Đại tướng lừng danh và một vị Đại tá mà kẻ thù gọi là Hổ Xám chiến trường ôm nhau thân thiết khiến mọi người có mặt không sao cầm được nước mắt.
Vốn là người nhân hậu, lại là người trực tiếp theo dõi những bước đi của Đại tá Lê, có lẽ thế, Đại tướng hiểu được phẩm chất người lính của mình. Đó là những thiệt thòi, những điều trắc trở mà người lính già bạc đầu ấy đã trải qua để hoàn thành nhiệm vụ, nên Đại tướng đã dành cho Đại tá Lê sự ưu ái đặc biệt.
Đêm ấy, sau khi được Đại tướng tiếp chuyện và nói những điều tâm sự đầy tình nghĩa, đồng chí, đồng đội, Đại tá Lê không sao ngủ được. Tôi đã thấy những giọt nước mắt chảy ra từ đôi mắt thẳm sâu trên khuôn mặt đầy “đường gian khổ” của người lính bộ đội Cụ Hồ đã trên tám mươi tuổi.
Đại tá Lê không chỉ xúc động rơi nước mắt trước những lời an ủi chia sẻ, chúc mừng của Đại tướng - vị tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân một thời, mà ông còn khóc với cả những người cùng thời và những người dưới quyền mình.
Tôi cũng đã được chứng kiến cuộc gặp gỡ đó. Ấy là lúc mà cuộc gặp mặt chuyên đề những người đồng đội nói về ông được tổ chức nhân đài truyền hình và phát thanh Lâm Đồng thực hiện một cuốn phim về Đại tá Lê. Trước những lời nhận xét mặt ưu, mặt khuyết trong đó có những người là chỉ huy và cấp dưới của ông, ông đã khóc. Những người có trái tim cứng rắn nhất có lẽ cũng không thể cầm lòng được trước giọt nước mắt của người lính già đầu đã bạc, trên tuổi tám mươi.
Tràn nước mắt nhưng miệng ông vẫn cười: “Hạnh phúc lắm. Cái quý giá nhất trên đời này không phải là nhiều tiền, nhiều của, mà là nhiều tình, nhiều nghĩa. Tôi có nhiều đồng đội, hạnh phúc lắm!”
Anh sĩ quan trẻ chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa tôi và thương binh nặng Đoàn Minh Tuấn, khi nghe tôi kể lại chuyện tình cảm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Đại tá Lê không kìm được xúc động.
- Thế hệ của các bác, các chú tuyệt vời quá. Làm sao để thế hệ chúng cháu bây giờ có được tình đồng đội như thế.
Tôi hoàn toàn thông cảm và chia sẻ với Phan - chàng trung uý vừa từ một trường sĩ quan về nhận nhiệm vụ ở đơn vị mới. Tôi nói với Phan:
- Thế hệ các cháu, tình đồng đội vẫn có thể có được như thời các bác, các chú thôi. Chỉ có điều, con người phải sống thực sự thương yêu nhau, hy sinh cái tôi của mình thật nhiều vì người khác mới có có được những điều tốt đẹp ấy.
Bài đăng trên Báo Hải Quan số 34- 35 ( 138+ 139) thứ hai ngày 30.04..2001


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Ba, 2009, 08:15:22 am
Trần Thế Tuyển
CHUYỆN GỪNG CAY MUỐI MẶN
   
Bước sang năm thứ hai của thế kỷ hai mươi mốt mà có chuyện kể ra tưởng như đùa. Ấy là nhận xét của anh bạn tôi khi chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa tôi và Tuấn – người anh em kết nghĩa, người đồng đội cũ cùng tôi đánh giặc cách đây đã gần ba mươi năm. Giữa phố Sào Gòn tráng lệ, hầm hập nắng nóng, hầm hập không khí làm ăn, giữa những làn xe đủ loại du nhập từ khắp nơi trên thế giới và cả những xe sản xuất trong nước, thường xuyên gây ranạn kẹt đường mà vẫn có một anh thương binh người gầy như cây sậy, đạp xe hai bánh hiệu con nai vàng từ thời còn ở rừng qua hai chục cây số đến thăm người đồng đội cũ - đúng là chuyện thật như đùa.
Bước vào phòng làm việc của tôi, chưa kịp uống nước, Tuấn đã lấy từ túi xách đưa cho tôi hai tờ giấy:
- Em tìm mãi mới thấy hai bưc thư này của anh. Một do chính tay anh viết, một em phục chế lại, ép plastic giữ  tặng anh làm kỷ niệm.
Tôi nhận ra nét chữ của mình cách đây ba mươi năm. Ngay cả bức thư mà Tuấn gọi là phục chế ấy nét chữ cũng là nét chữ của tôi. Đọc lướt qua, tôi nhận ra đó là những bức thư tôi gửi cho Tuấn vào cuối năm 1972 khi tôi ở tiểu đoàn 31 (sư đoàn 5) được điều về trung đoàn 2 (đoàn Cao Bắc Lạng) đang chiến đấu ở vùng Đồng Tháp Mười.
Hóa ra năm tháng qua đi người ta cứ tưởng những gì cũ thì bị lãng quên, hoặc người ta cố tình quên lãng, nhưng ở đây, cái cũ cứ sáng mãi lên, mới y nguyên trong tâm trí con người. Việc Tuấn lưu giữ và phục chế các bức thư của đồng đội từ thời chiến tranh cách đây hơn một phần ba thế kỷ làm tôi nhớ lại lời nhận xét của một nhà văn, đại ý: con người ta có nhiều nối quan hệ như hai sợi chỉ đỏ nổi bật lên, bền vững mãi trong cuộn cáp vô số sợi ấy, đó là tình đồng đội và tình bạn học. Có những cách lý giải cho sự nổi bật và bền vững đó, nhưng theo tôi, cái chính vẫn là từ nền gian khổ, thậm chí phải bằng mồ hôi và xương máu.
Đối với Tuấn, người đồng đội cũ của tôi, chắc anh chẳng nghĩ lòng thòng như vậy. Nhưng anh nói: «Bây giờ, người ta lo làm giàu quá, lo chạy theo dòng chảy của thị trường quá, có lúc quên hết kỷ niệm đẹp một thời chiến tranh. Nhưng với em, mỗi lần nghĩ đến ngày đó cứ thương đến trào nước mắt». Nước mắt về một thời đẹp đẽ đã qua, không chỉ xuất hiện ở anh thương binh - cựu chiến binh tuổi năm mươi như Đoàn Minh Tuấn, mà mới đây tôi đã chứng kiến những giọt nước mắt từ trên khuôn mặt của một vị lão thành cách mạng, một chiến sĩ du kích Ba Tơ thời kỳ đầu chống Pháp.
Xuất thân từ Quảng Ngãi, ông theo cách mạng ngay từ khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập giữa vườn hoa Ba Đình. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, là trung đoàn phó, ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao xuống Nam Lào, làm tiểu đoàn trưởng một đơn vị thọc sâu chiến lược để chia lửa với mặt trận Điện Biên Phủ. Sau này, ông lại vinh dự được Đại tướng giao nhiệm vụ làm trưởng đoàn chuyên gia quân sự giúp bạn Lào, rồi làm tư lệnh mặt trận đường số 9. Hai lần làm tư lệnh sư đoàn, bàn chân in đậm khắp các chiến trường ba nước Đông Dương, nhưng khi về nghỉ hưu ông chỉ mang quân hàm đại tá. Thôi thì, đại tá cũng là quý lắm, vinh dự lắm rồi.
“So với nhiều đồng đội, bạn bè, mình còn là người may mắn”, ông nghĩ thế, cho nên luôn dặn lòng hãy sống thanh thản, sống tốt như phẩm chất bộ đội Cụ Hồ mà ông đã rèn luyện, tu dưỡng gần hơn nửa thế kỷ nay. Nhưng có một điều, mỗi lần nhắc lại thì ông lại thấy nhói tim, ấy là một lần trong chiến tranh, ông bị cấp trên hiểu lầm, cho là nhụt ý chí chiến đấu. Qua kiểm điểm, phân tích, cuối cùng ông không bị kỷ luật. Nhưng cái kỷ luật lớn nhất trong cuộc đời làm lính Cụ Hồ của ông là bị cấp trên, đồng đội coi mình là người sa sút ý chí chiến đấu, là vô tổ chức kỷ luật.
Vào mùa xuân năm nay, nhân ngày chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp chín mươi tuổi, ông được đại tướng tiếp gần ba tiếng đồng hồ. Có nhiều chuyện để nói giữa một người là Tổng tư lệnh tối cao của quân đội ta một thời, một người là cán bộ cấp cao đã có mặt khắp các chiến dịch, khắp mọi nẻo đường đất nước và mấy lần trong điều kiện cực kỳ phức tạp, khó khăn và cấp bách, Đại tướng đã trực tiếp giao nhiệm vụ. Nhân lúc ít khách ông gợi lại chuyện đó (chuyện ông bị cấp trên coi là nhụt ý chí chiến đấu), Đại tướng mới ôm lấy ông mà nói rằng:
-Tôi chưa bao giờ nghĩ đồng chí như thế. Bằng quá trình phấn đấu của mình, đồng chí chính là một trong những người lính làm nên huyền thoại cho quân đội ta, đất nước ta.
Nghe Đại tướng nói bấy nhiêu, người lính già tóc bạc lơ thơ đã gục vào ngực Đại tướng mà khóc. Tôi chưa bao giờ thấy giọt nước mắt của ông già trên tám mươi tuổi mà lại tràn trề, trào dâng như thế! Nhìn ông khóc, tôi có cảm giác như ông trẻ ra, người ông nhanh nhẹn, hoạt bát, hồn nhiên hẳn lên. Thế mới biết, những giọt nước mắt như những đám mưa mùa hạ, gội rửa đi những phiền muộn trong lòng và làm sáng trong cả tâm hồn.
Tôi có may mắn, do công việc nghề nghiệp được tiếp xúc với nhiều loại người, đủ mọi tầng lớp xã hội. Trước thềm năm 2002, tôi được dự lễ 20 năm thành lập và đón nhận danh hiệu Anh hùng lao động lần thứ hai của Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt - Xô.  Không chỉ có ngày này, dường như suốt hai mươi năm qua, những ngày trọng đại của xí nghiệp liên doanh này, tôi đều có mặt.Đó là ngày 26 tháng 6 năm 1985, tấn dầu đầu tiên được khia thác ở giàn khoan MSP-1 tại mỏ Bạch Hổ; đó là ngày 20 tháng 10 năm 1997, tấn dầu thứ  50 triệu  được khai thácvà sau dự kiến này, Xí nghiệp liên doanh được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động.
Và mới đây, ngày 21 tháng 11 năm 2001, Xí nghiệp liên doanh đã khai thác tấn dầu thô thứ 100 triệu và đưa vào bờ trên 6 tỷ mét khối khí cho ngành điện từ mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng. Với thành tích ấy, một lần nữa Xí nghiệp liên doanh lại được Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động lần thứ hai.
Ở đây tôi đã gặp những người lao động Việt Nam và Liên Xô (cũ), Liên Bang Nga hôm nay, đó là những công nhân bình thường và kỹ sư của ngành kinh tế mũi nhọn. Tôi mới hiểu, việc khai phá tài nguyên làm giàu cho đất nước là việc trước mắt cần làm và phải có để đất nước chúng ta ngang tầm, sánh vai cùng với các nước thuộc khối ASEAN và quốc tế! Nhưng điều đọng lại, sâu lắng nhất vẫn là tình đồng chí, đồng đội, tình người.  Ngài Ivanov-Victorltrovic, phó chủ nhiệm văn phòng tổng thống Liên bang Nga, thay mặt chính phủ Liên Bang Nga tại lễ kỷ niệm 20 năm liên doanh Vietsovpetro nói rằng: Nước Nga tự hào về niềm tin mà Việt Nam dành cho chúng tôi… Chúng tôi tự hào thấy rằng, khó có thể tìm thấy ở Việt Nam một công trình khác thực hiện trong khuôn khổ hợp tác quốc tế mà có ảnh hưởng mạnh như vậy.
Đối với công cuộc đổi mới đất nước, Vietsopetro trở thành cơ sở phát triển nhất của ngành dầu khí mà như các bạn Việt Nam thường nói là «mũi nhọn» phát triển kinh tế - Ivanov - Victorpltrovic còn nói nhiều điều, nhưng cái đọng lại trong ông là sức vươn lên của người Việt Nam. Người Việt Nam không chỉ có ý chí trong cuộc kháng chiến  giành độc lập dân tộc, mà còn cả trong lĩnh vực làm giàu, tự chủ về tài chính.
Ivanov nói thế rất chính xác, nhưng ông chỉ nói dược một nửa vấn đề. Người Việt Nam  còn có  một nửa khác ấy là cái nghĩa, cái tình, không bao giờ hòa tan vào những điều hòa nhập. Minh chứng điều ấy có biết bao nhiêu người nhưng tiêu biểu là giám đốc xí nghiệp khoan biển Đinh Văn Danh, một kỹ sư đầu đàn của ngành dầu khí, dù bận bao nhiêu công việc khai thác dầu dưới thềm lục địa nhưng ông vẫn dành cho mình những giờ phút thiêng liêng nhất để nói và viết về tình đồng đội, đồng chí. Bởi, theo ông, đó là cái nền của người Việt Nam. Ấy là cái nghĩa thủy chung như các cụ đã từng dạy: «ăn quả nhớ kẻ trồng cây».
Ngày 31 tháng 12 năm 2001, tôi có mặt trong buổi gặp mặt giữa bộ Tư lệnh Quân khu 7 và những người già trưởng bản tiêu biểu trên địa bàn quân khu. Trung tướng Phan Trung Kiên, Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân khu 7 nói với tôi rằng: trên địa bàn quân khu có trên 50 dân tộc khác nhau, nhưng có chung một ý chí. Nơi đồng bào dân tộc ít người sống trước đây, thường là vùng căn cứ  kháng chiến cũ, là chỗ dựa của cách mạng. Nhưng quả thật, hơn hai mươi lăm năm nay, khi cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi, do bận nhiều việc, có lúc chúng ta xao lãng các vùng quê kháng chiến ấy. Dù vậy, đồng bào các dân tộc vẫn hướng về cách mạng, hướng về Cụ Hồ. Trách nhiệm của chúng ta bây giờ là phải trở về nguồn, không chỉ xây dựng những thành phố, những khu đô thị mới ở vùng xuôi, mà phải xây dựng những thành phố mới, những khu đô thị mới, nơi vùng xa xôi, hẻo lánh, nơi đã che chở, nuôi dưỡng mình trong những năm kháng chiến…
Câu chuyện cuối năm của những người đứng đầu lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ tưởng như là chuyện thường ngày phải nói, nhưng đối với các già làng, trưởng bản lại có sứi cuốn thuyết phục kỳ lạ. Ông Điểu Oan, dân tộc Bmờu Nông, ở xã Thọ Sơn, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, bày tỏ rằng: Đồng bào dân tộc trước sau đi theo Cụ Hồ và cách mạng. Dù người ta có nói gì, đồng bào vẫn theo Đảng, theo Bác Hồ, xây dựng đất nước.
Ông Điểu Oan nói thế, kỹ sư dầu khí Đinh Văn Khanh nói thế và bạn chiến đấu cũ của tôi, thương binh Đoàn Minh Tuấn cũng nói thế. Điều đó gợi dậy trong tôi bao điều suy nghĩ. Đúng như các cụ ta dạy: «Ngày vui ăn trái lộc vừng, gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau».
Làm sao có thể quên được, việc nào ra việc đó, việc làm giàu cứ phải làm giàu. Nhưng chuyện tình, chuyện nghĩa thì như gừng cay, muối mặn, làm sao có thể quên được.
Đầu năm nói chuyện gừng cay muối mặn là thế.
Thành phố Hồ Chí Minh đêm 31.12.2001


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Ba, 2009, 08:21:26 am
Trần Ngọc Trác
MỘT NGƯỜI LÍNH
LÀM NÊN HUYỀN THOẠI

Đó là một con người Việt Nam bình dị, thuỷ chung và tình nghĩa. Bây giờ ông đã qua tám mươi - cái tuổi cần được nghỉ ngơi, được đi đây đi đó, vui hưởng tuổi già Nhưng có ai biết đâu, hằng ngày trong căn nhà nhỏ của mình, ông giúp vợ những khi trái gió trở trời, chăm lo cho vợ từng miếng ăn thức uống; san sẻ những vui buồn với người bạn đời đã gắn bó với ông hơn nửa thế kỷ qua, vẫn nằm liệt trên giường.
Và có ai biết rằng đằng sau những công cuộc tưởng chừng giản đơn và rất đỗi bình thường ấy, là một con người, một cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, không quản ngại khó khăn, gian lao vất vả; không nề hà công việc được giao; không so đo tính toán, lợi lộc riêng tư cho mình mà chấp nhận mọi hy sinh tất cả cho lý tưởng cao đẹp là giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam sum hop một nhà; làm cho dân giàu nước mạnh.
Đã có biết bao câu chuyện huyền thoại kể về cuộc đời của đại tá Lê Kích - một cán bộ quân sự thông minh, dũng cảm, có những hành động rất táo bạo gắn liền với thực tế trên các chiến trường Đông Dương. Và đã có biết bao người bạn, người đồng chí và không ít tướng lĩnh ca ngợi ông là Sa-pa-ép Việt Nam; người chỉ huy chuyên mở vùng giải phóng đất đai; một con người sống có nghĩa có nhân, được nhân dân yêu thương, bạn bè quý mến...
Đó là một con người đã vào sinh ra tử trên khắp các chiến trường nóng bỏng của Đông Dương trong cuộc chiến tranh vì sự  tồn vong của Tổ quốc.
... Từ nhỏ, khi còn ở quê nhà - làng An Thạch xã Phổ An huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi, ông Lê Kích là người có chí khí, bản lĩnh và biết tập hợp những người đồng chí hướng về với mình.
Ông nhớ lại những ngày cùng thanh niên trong thôn vượt biển mò lấy sắt tàu Nhật bị đồng minh đánh đắm ngoài khơi, đem về rèn đao kiếm giết giặc; nhớ những ngày cùng với bạn bè mang cái chữ  xẻ chia cùng với đồng bào, để cho bọn thực dân phong kiến không thể đè đầu cưỡi cổ; nhớ lại những ngày bỏ nhà đi học võ để về đánh Nhật Tây; vận động và đi đầu trong việc tập hợp thanh niên trong thôn trong xã tham gia đội du kích Ba Tơ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa ngày 14 tháng 8 năm 1945.
Đồng chí Lê Kích là đại đội trưởng đại đội mang tên đồng chí Phan Điệt - một chiến sĩ du kích Ba Tơ đã hy sinh anh dũng trong trận chạm trán với một trung đội lính Nhật ở Xuân Phổ.
Chiến công oanh liệt của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ của quân dân Quảng Ngãi trong Tổng khởi nghĩa đã in sâu trong tâm trí của các tầng lớp thanh niên và cũng là những ước mơ mà đồng chí Lê Kích hướng tới. Ghi đậm trong tâm tưởng ông còn có  những người anh hùng theo ông lên đường Nam tiến.
Ngày 23 tháng 10 năm 1945, chi đội Lê Trung Đình - Quảng Ngãi, do đồng chí Lê Kích chỉ huy đã ra lệnh cho nổ quả mìn đầu tiên làm tín hiệu mở đầu cho cuộc kháng chiến ở Nha Trang.
Và ngày 23 tháng 10 hằng năm trở thành ngày hội lớn của Đảng bộ và nhân dân Nha Trang - Khánh Hoà kháng chiến. Và cũng tại nơi đây, vào ngày 20 tháng 1 năm 1946, đại tá Lê Kích đã vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thời gian thì đi qua - mà dấu ấn một thời không làm sao quên được trong mỗi ký ức mọi người.  Đến thăm Bảo tàng 23 tháng 10 giữa Trung tâm thành phố, ông được nhìn lại những bức ảnh do nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản chụp đơn vị của ông, bạn bè, đồng chí của ông những ngày Nha Trang kháng chiến ấy. Trở lại Tháp Bà xóm Bóng - khu di tích Pô-na-ga  nơi ông từng đặt sở chỉ huy. Và chiếc cầu xóm Bóng ngày nào, đơn vị của ông đã cho nổ mìn phá sập vẫn còn đây.
Sau khi kìm chân địch suốt 101 ngày đêm ở mặt trận Nha Trang, ông được cấp trên điều động làm “tiếp phòng quân” ở mặt trận Đà Nẵng được giao trọng trách là Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 7, Trung đoàn 96 thuộc Quân khu 5.
Và cũng ở nơi đây, hội nghị đã nhận được điện của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Chỉ huy quân đội Việt Nam Võ Nguyên Giáp, ra lệnh: “Tổ quốc lâm nguy, giờ chiến đấu đã đến!” Sở chỉ huy ngày đó, bây giờ là trụ sở của Hội nông dân thành phố Đà Nẵng.
Trở lại chiến trường xưa, đại tá Lê Kích xúc động, lặng thầm, trầm ngâm rất lâu bên tấm bia đặt ở ngã tư Yên Khê - nơi đây từng là sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn 96; nơi từng diễn ra các trận đánh ác liệt không cân sức giữa ta và địch trong suốt thời gian từ ngày 24 tháng 12 năm 1946 cho đến ngày 7 tháng giêng năm 1947; ta đã tiêu diệt hơn 600 tên xâm lược Pháp;  kìm chặn địch, làm thất bại bước đầu chiếc lược đánh nhanh, thắng nhanh của chúng.
Trở về Đà Nẵng, ông lại có dịp đến thăm tấm bia ghi công trên đèo Đại La ở xã Hoà Sơn - nơi cách đây hơn 56 năm, quân địch đã bị tiểu đoàn 17 và quân dân địa phương chặn đánh quyết liệt; tiêu diệt 42 tên địch, đánh thiệt hại nặng một đại đội Âu Phi, thu một trung liên, một máy vô tuyến điện, 18 tiểu liên và súng trường và nhiều trang bị khác ...
Đồng chí Lê Kích thực sự bồi hồi khi trở lại Viện Bảo tàng Chàm ở bên sông Hàn - Đà Nẵng. Nơi đây, ông từng chọn làm sở chỉ huy trong những ngày đánh địch quyết liệt ấy.
Không chỉ là cán bộ chỉ huy ở mặt trận Đà Nẵng; năm 1948, đồng chí Lê Kích còn là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 53, Trung đoàn 120 ở Bình Định. Sau đó là tình nguyện quân của Liên khu 5 tại Hạ Lào; là trung đoàn phó Trung đoàn 101,  Đại đoàn 325.
Ngày 20 tháng 11 năm 1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch lớn nhằm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Cũng trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, quân và dân ta tiến công mãnh liệt, đều khắp trên các chiến trường. Tháng 12 năm 1954, liên quân Lào - Việt đánh mạnh ở Trung Lào, tiêu diệt và bức rút hàng loạt vị trí, giải phóng thị xã Thà Khẹt, cắt đứt đường số 9, tiến xuống Hạ Lào, tập kích thị xã Át-tô-pơ phát triển sang Xa-ra-van, giải phóng toàn bộ cao nguyên Bô-lô-ven. Đồng chí Lê Kích và đơn vị của ông đã góp phần to lớn trong chiến thắng này.
Tiểu đoàn 436 do đồng chí Lê Kích làm tiểu đoàn trưởng, đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi là đơn vị thọc sâu chiến lược của Bộ - mở ra một hướng quan trọng trong chiến cục Đông Xuân, góp phần cho bộ đội ta thắng lớn ở Điện Biên Phủ. Xứng đáng với sự  tin tưởng này, đồng chí Lê Kích đã chỉ huy đơn vị làm nên chiến thắng vẻ vang, tạo ra thế và lực mới cho chiến cuộc : Căng kéo địch, phối hợp cùng chiến trường Liên khu 5, Nam Bộ, giải phóng Hạ Lào, bốn tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia; tiêu diệt hoàn toàn sinh lực địch.
Không những được giao trọng trách to lớn và vinh dự ấy, đồng chí Lê Kích còn được tin cậy giao nhiều nhiệm vụ đặc biệt quan trọng như chủ nhiệm, tư  lệnh pháo binh Quân khu Tây Bắc, tư lệnh Quân khu Tả Ngạn; tư lệnh Sư đoàn 2 Quân khu 5 từ năm 1968 đến năm 1970; tư lệnh Sư đoàn 325 ở mặt trận Quảng Trị trong những ngày mùa hè đỏ lửa.
Ông từng giữ nhiều cương vị quan trọng giúp bạn Lào, là trưởng đoàn cố vấn quân sự các khu Hạ Lào, Trung Lào, Bộ Tham mưu Quân đội Lào; từng gần gũi và làm việc thường xuyên với các đồng chí lãnh đạo Đảng Cách mạng nhân dân Lào, làm việc với các đồng chí lãnh đạo quân đội nhân dân Lào. Ông từng là phó Cục trưởng Cục Huấn luyện tác chiến của Học viện Lục quân cho đến ngày về nghỉ hưu.
 Cả cuộc đời ông chịu bao gian nan vất vả, nhưng chưa bao giờ ông nản chí, đầu hàng. Chặng đường đời hơn tám mươi năm biết bao thăng trầm, nhưng không làm ông chùn bước.
Về với cuộc đời thường, ông luôn yêu thương vợ con, chăm sóc người vợ - người đồng chí ốm đau, nằm liệt giường đã hơn nửa thế kỷ qua.
Những ngày này, ông đã dành nhiều thời gian để ghi chép lại những chặng đường lịch sử đất nước trải qua trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ghi lại những trang sử oai hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam giúp đỡ bạn Lào chiến thắng kẻ thù. Những trang hồi ức đầy ắp những sự kiện cứ theo ông tuôn ra trên từng trang giấy.
Đồng chí Lê Kích là bộ đội cụ Hồ trong sáng; là tấm gương tuyệt vời về lòng dũng cảm, nhân hậu bao dung và ý chí quyết tâm không bao giờ nguội lạnh trong ông.
(Lời bình trong phim tài liệu truyền hình: «Một người lính làm nên huyền thoại» của Đài Phát thanh truyền hình Lâm Đồng).


Tiêu đề: Từ Ba Tơ đến chiến trường Ba Nước - Đại tá Lê Kích
Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Ba, 2009, 08:25:22 am
Trần Danh Lân
NHA TRANG 19 ĐẠO QUÂN
VÀ 101 NGÀY ĐÊM ANH DŨ̀NG

Hai tháng sau Cách mạng tháng Tám thành công và chỉ sau Nam bộ kháng chiến tròn một tháng, rạng sáng ngày 23 tháng 12 năm 1945, chiến sự chống quân xâm lược Pháp đã nổ  ra ở Nha Trang. Cuộc chiến đấu kéo dài dai dẳng suốt 101 ngày đêm; quyết liệt không chỉ trên từng đoạn phố, góc nhà, mà còn chuyển hoá cả một lớp người tại chỗ. Với lịch sử, đây là một trận đánh hơn trăm ngày mở đầu cho Nam Trung bộ kháng chiến, góp phần quyết định bảo đảm thông suốt quá trình Nam tiến chi viện cho Nam Bộ những ngày đầu kháng chiến.
Thuở đó, 19 đạo quân mang danh mấy chục địa phương trên cả nước đã dồn về đây, đồng lòng hiệp sức giữ lấy Nha Trang, Khánh Hòa. Nắm chặt tay và rưng rưng lệ, các bà, các chú cựu binh ở Nha Trang đã kể cho chúng tôi về 19 đơn vị bằng ngôn ngữ chân thành và máu thịt nhất. Đó là bộ đội Hà Tĩnh, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Nội. Chiến khu Đông Triều, Bắc - Bắc (Bắc Ninh - Bắc Giang), Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa,  Nghệ An, Quảng Bình, Thuận Hoá (Thừa Thiên - Huế). Thái Phiên (Quảng Nam - Đà Nẵng), Lê Trung Đình (Quảng Ngãi) dồn vào các lực lượng Nam Bộ vừa đánh vừa rút ra, hiệp sức chống cự địch ở đây. Có thể nói cùng với con em Khánh Hoà, vùng Nha Trang - Vĩnh Xương - Diên Khánh ngày ấy, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, con em Việt Nam đã cầm chân quân xâm lược Pháp và bè lũ tay sai. Tôi luyện bằng cuộc chiến đấu này, về sau nhiều người đã trở thành những tướng lĩnh tài ba, như các trung tướng Nam Long, Lưu Giang, Hùng Sơn; các thiếu tướng Hà Vi Tùng, Nam Hồ, Hồ Xuân Anh, Nguyễn Trọng Vĩnh...
Nhiều cán bộ chỉ huy mặt trận thuở đó như Hà Văn Lâu, Nguyễn Minh Vỹ... sau này đã trở thành những nhà chính trị - ngoại giao tên tuổi. Trong trận đánh 101 ngày  đêm  có tính kết nối giữa Nam Bộ kháng chiến với toàn quốc kháng chiến, nhiều đồng chí lãnh đạo quan trọng như Nguyễn Chí Thanh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Sơn, Nguyễn Chánh, Lê Văn Hiến, Trương Quang Giao... đã vào tận đây ngay trong lửa đạn để chỉ huy chiến trường, chuyển hướng chiến lược, tổ chức bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên.
Đặc biệt, đồng bào, chiến sĩ Nha Trang giữa những tháng ngày bi tráng ấy, còn nhận được thư khen rất đặc biệt của Bác Hồ, ca ngợi Nha Trang “tấm gương anh dũng cho Tổ quốc” và “Tổ quốc biết ơn các bạn. Toàn thể đồng bào noi gương các bạn”. Từ việc tập kích bảy cứ điểm địch ngay trong thành phố Nha Trang rạng sáng ngày 23 tháng 10 năm 1945, đến quá trình hình thành ba tuyến phòng ngự lùi dần về hướng Tây (gồm chợ Mới - Bơ-rơ-ten); Cây da, Quán Giếng; Cống Ba - Cầu Lùng) kéo dài đến hết ngày 1 tháng 2 năm 1946: quân và dân Nha Trang - Khánh Hoà, có sự dốc lòng tham gia của quân và dân cả nước, đã phá tan được chiến lược ban đầu “đánh nhanh, thắng nhanh” của đội quân xâm lược Lơ Cléc, Đác-giăng-li-ơ chỉ huy. Từ đó, ta có thêm thời gian chi viện Bắc - Nam, củng cố thêm hậu phương cả nước, chuyển kinh nghiệm đánh đô thị ra áp dụng vào việc kìm chân địch ở Hà Nội vào mấy tháng sau, nhất là chuyển lối đánh chiến tuyến cổ điển sang phương thức mới “du kích chiến”, “vận động chiến”, “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”, để chín năm sau kết thúc cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp bằng chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
Ở thị xã Quảng Ngãi hôm nay, có con đường Lê Kích. Đấy là con đường mang tên vị chỉ huy Bộ đội nam tiến Lê Trung Đình (Quảng Ngãi)  từng chiến đấu quyết liệt thời gian 1945 - 1946 ở Nha Trang.
Cách đây vài năm, vùng Lư Cấm còn có một số mộ liệt sĩ Nghệ An khuyết danh. Ở Nha Trang, từ lâu đã có vườn hoa, con đường mang tên Võ Văn Ký, người liệt sĩ quê Ninh Hoà ngã xuống đầu tiên trong cuộc chiến đấu giành  lấy ga Nha Trang sáng 23 tháng 10 và cả ba anh em ruột đều hy sinh khi kìm chân địch suốt tuần đầu cuộc chiến.
Con đường mới, rộng nhất, nối Nha Trang với Thành (Diên Khánh) rộng 38 mét, dài gần mười ki-lô-mét, cũng đã được mang tên “23 tháng 10“. Ngày 23 tháng 10 trở thành “Ngày Khánh Hòa kháng chiến”. Thành phố Nha Trang đã có hội 23 tháng 10. Một số sách báo về 23 tháng 10 Nha Trang đã xuất bản.
Xưởng quân giới Đồng Trăng đầu năm1946 từng được đổi tên từ Nguyễn Trường Tộ thành Đồng Tiến, vốn là tên hai cán bộ chỉ huy quê gốc Nghệ Tĩnh ghép lại, thời đó đã hy sinh khi chế lựu đạn “đập”cung ứng cho chiến trường Nam Bộ và Nha Trang.
Bác Cung Dữ  Hối (tức Nguyễn Văn Hùng, Lê Trung Kiên), một cán bộ hưu trí 50 năm tuổi Đảng, từng góp phần chỉ huy thông tin ngày ấy,xúc động kể cho chúng tôi nghe lần được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu tiên vào ngày 13 tháng 8 năm 1949 ở Suối Mít và được Bác tặng một tấm ảnh của Người. Bác Hối đã lưu giữ trong an - bum gia đình bức ảnh Bác Hồ trong gần nửa thế kỷ qua. Thiếu tướng Hồ Xuân Anh (quê ở Huế) gọi mặt trận Nha Trang 1945-1946 là “lễ thử lửa” trong đời binh nghiệp của ông. Nơi đó, ông đã kể lại một phần xương máu, tìm ra bạn đời chung thuỷ từ trong khói lửa, và con gái đầu lòng có tên Phước Hải, một địa danh thấm máu ở Nha Trang, mà ngày đó ông phải ghim địch trên từng tấc đất, góc nhà. Tiếc là không thể kể ra hết những gì đã đi qua một thế hệ.
Cũng chưa kể tiếp được vào đây các Trung đoàn 80, 83 - vốn hình thành từ các chiến sĩ Mặt trận Nha Trang dạo đó - về sau đã đánh tơi bời quân xâm lược Pháp trên đất khu 6 và Tây Nguyên ra sao. Song, ngọn lửa kháng chiến thể hiện bằng ý chí tiến công, tinh thần đoàn kết, đã liên tiếp được chuyển giao và cháy sáng qua nhiều thế hệ, mãi tận đến mai sau...
Bài  đăng trên báo NHÂN DÂN số 15149 ra ngày 13 –12 -1999

HẾT