Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Cha ông ta đánh giặc => Tác giả chủ đề:: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 08:47:03 pm



Tiêu đề: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 08:47:03 pm
Tên sách: LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM - TẬP 3: LỊCH SỬ QUÂN SỰ THỜI NGÔ, ĐINH, TIỀN LÊ VÀ LÝ
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 2003
Số hoá: Ptlinh, UyenNhi05


Ban chủ nhiệm:

- Đại tá PGS,TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG 
- Đại tá TS. LÊ ĐÌNH SỸ
- Đại tá TRẦN BÍCH

Tác giả:

- PGS.TS. NGUYÊN DANH PHIệT (Chủ biên)
- Đại tá PGS,TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG
- PGS,TS. TRẦN BÁ CHÍ
- Đại tá TS. LÊ ĐÌNH SỸ




                                       
                                Nam quốc sơn hà Nam đế cư
                                       Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
                                       Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
                                       Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.





LỜI GIỚI THIỆU

Chiến công hiển hách của Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, được xem như trận chung kết toàn thắng của dân tộc, kết thúc một chương sử bi tráng hơn một ngàn năm chống Bắc thuộc, dơa đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ vẻ vang.

Tập 3 của bộ sử này tập trung phản ánh hoạt động quân sự quốc phòng của ông cha ta trong gần ba thế kỷ, từ năm 939 đến năm 1225 trải qua các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý nhằm xây dựng và bảo vệ nhà nước trung ương tập quyền mạnh, bảo vệ nền độc lập, tự do, bảo vệ cương vực và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Hoạt động quân sự, quốc phòng ở giai đoạn lịch sử này nổi lên một số vấn đề lớn:

Dẹp nội loạn, khắc phục hiện tượng phân tán: Nhà nước trung ương tập quyền đang trong quá trình xây dựng hãy còn rất non trẻ, những yếu tố tạo ra và nuôi dưỡng xu hướng phân tán, cát cứ vẫn còn tồn tại một cách dai dẳng, gặp thời cơ là bùng phát trở lại. 

Vì vậy các vương triều đã phải liên tục tiến hành các cuộc đấu tranh khắc phục, điển hình là các vụ dẹp loạn 12 sứ quân, dẹp loạn Cử Long, dẹp loạn Hà Trắc Tuấn, vụ Khai quốc vương Bồ, vụ Nùng Trí Cao, vụ động Ma Sa, vụ phản loạn Thân Lợi, vụ đại loạn vào cuối triều Lý...

Bên cạnh đó, ngay trong nội bộ các vương triều, ở những thời điểm bước ngoặt cũng thường xảy ra các vụ chính biên hoặc bạo loạn mà vương triều phải kiên quyết loại bỏ, điển hình là vụ chính biến của Dương Tam Kha sau khi Ngô Quyền mất, vụ rối loạn ở cuối vương triều Đinh, vụ loạn khi Lê Đại Hành qua đời, vụ loạn ba vương vào buổi đầu triều Lý.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 08:50:14 pm
Như vậy, dẹp nội loạn khôi phục thống nhất, bảo vệ nhà nước quân chủ trung ương tập quyền là một nét chủ đạo của hoạt động quân sự, quốc phòng trong gần ba thế kỷ xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ.

Với vị thế của một quốc gia được thiên nhiên ưu đãi, Đại Cồ Việt và Đại Việt thường bị các lân quốc phía Nam quấy phá cướp bóc ông cha ta đã phải nhiều lần hành binh đẩy lùi nguy cơ xâm lân để giữ biên cương và mở nước, điển hình là vào các năm 982, năm 1044, năm 1069 và nhiều cuộc khác trong suốt thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII.

Trong thế kỷ X và XI, ở phương Bắc, nhà Tống được thiết lập thành một đế chế hùng mạnh, trong đó nhà nước trung ương tập quyền phát triển đến cao độ luôn luôn nhòm ngó phương Nam, lộ rõ âm mưu xâm lược hòng tái đô hộ nước ta. Vì vậy Đại Việt, bên cạnh nhiệm vụ dẹp nội loạn, hành binh chinh phạt đẩy lùi nguy cơ xâm lấn, giữ vững biên cương phía Nam, thì nhiệm vụ củng cố nền quân sự, quốc phòng, sẵn sàng binh bị để đối phó với âm mưu xâm lược từ phương Bắc luôn là mối lo thường trực.

Trong quá trình tồn tại cua mình, nhà Tống đã hai lần tổ chức những đội quân lớn xâm lược nước ta, lần thứ nhất diễn ra vào các năm 980 - 981 và lần thứ hai vào các năm 1075 - 1077, cả hai lần xâm lăng này đều bị quân và dân ta đánh bại.

Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất gắn liền với những tên tuổi lớn như Thái hậu Dương Vân Nga, tướng quân Phạm Cự Lạng, đặc biệt là Lê Hoàn, nguyên là Phó vương của triều Đinh và là người sáng lập ra nhà Tiền Lê oanh liệt.

Trước loạn xâm lăng, Lê Hoàn củng cố vương triều, đứng đầu bộ chi huy, thiết lập hệ thống phòng thủ bảo vệ kinh đô Hoa Lư, đắp thành Bình Lỗ, lập hệ thống đồn trại bảo vệ Đại La - Loa Thành, bố trí tuyến phòng thủ từ xa để chặn giặc. Với thế chiến lược ấy, khi quân Tống kéo vào nước ta, Lê Hoàn đã tiến hành các trận đánh tiêu diệt thuỷ quân của Hầu Nhân Bảo ở Hoa Bộ Đầu, Bạch Đằng, Đồ Lỗ, Lục Giang, trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng, trận Tây Kết và cuối cùng đuổi lịch ra khỏi bờ cõi.

Cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi đã làm cho đất nước yên bình trong gần một thế kỷ.  Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai diễn ra năm 1075 - 1077 gắn liền với tên tuổi vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt, tài năng kiệt xuất của Đại Việt thế kỷ XI.

Trước dân tâm xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đề xuất chiến lược mới và tự cầm quân chủ động tiến công sang đất Tống, hạ thành Ung Châu, phá tan các căn cứ hậu cần - quân sự đang được thiết lập dọc sát biên giới để chuẩn bị xâm lược Đại Việt, kìm chế và gây nhiều khó khăn cho quân giặc trong thực tiễn hành binh sau này. 

Sau khi đã thực hiện “tiên phát chế nhân” (đánh trước dể chế ngự giặc), Lý Thường Kiệt lập tức rút quân về nước, tập trung mọi nỗ lực thiết lập phòng tuyến sông Như Nguyệt nổi tiếng trong lịch sử để chặn giặc. Bằng thế trận chiến tranh nhân dân rộng lớn với nhiều lớp, nhiều tầng, đánh cả trước mặt lẫn sau lưng, thiết lập hệ thống phòng ngự có chính diện rộng, có chiều sâu vững chắc, ta đã phá tan kế hoạch đánh nhanh, tiến nhanh của giặc, làm cho các đạo quân thuỷ, bộ của chúng không hỗ trợ được cho nhau.

Trận quyết chiến chiến lược lớn ở bờ bắc sông Như Nguyệt đã tiêu diệt nhiều giấc, làm cho đội quân xâm lược rơi vào tình thế khủng hoảng, tiến thoái lưỡng nan. Đúng lúc này Lý Thường Kiệt chủ dộng “giảng hoà”, đuổi đội quân Tống về nước, kết thúc chiến tranh.

Hoạt động quân sự, quốc phòng là nét chủ đạo của lịch sử giai đoạn này nhằm bảo vệ toàn vẹn độc lập, thống nhất Tổ quốc, củng cố vương triều. xây dựng nhà nước trung ương tập quyền vừng mạnh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 08:52:06 pm
Từ những kết quả nghiên cửu của mình, bước đầu các tác giả đúc rút phân tích và khái quát một số bài học trên các lĩnh vực hoạt động quân sự của ông cha ta thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý.  Trước hết, về tư tưởng quân sự, quốc phòng nổi lên hai vấn đề lớn: xây dựng quân đội mạnh đi đôi với việc xây dựng, bảo vệ nhà nước tập quyền mạnh và “ngụ binh ư nông”, thực hiện toàn dân là lính khi có chiến tranh.

Thứ hai, về nghệ thuật quân sự trong đó bao gồm cả chiến lược và chiến thuật. Trong vấn đề chiến lược, ông cha ta luôn luôn biết mình, biết người, chủ dộng xây dựng lực lượng và kế sách bảo vệ đất nước; trong tác chiến kết hợp chặt chẽ, sáng tạo giữa tiến công và phòng ngự, phòng ngự và phản công. Về chiến thuật, kế thừa và phát huy truyền thống đánh giặc từ thời dựng nước và những nô lực giải phóng đất nước trong hơn một ngàn năm chống Bắc thuộc, ở giai đoạn này, trong hoạt động quân sự của các vương triều đã vận dụng chiến thuật công thành, diệt viện; dựa vào chiến luỹ để phòng thủ và khi thời cơ đến, lập tức chuyển sang phản công đánh những trận quyết định, nhanh chóng kết thúc chiến tranh một cách có lợi nhất.

Hoạt động quân sự quốc phòng giai đoạn mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự chủ của các vương triều giai đoạn này là tài sản tinh thần vô giá đã được các vương triều kế tiếp nhau giữ gìn, phát huy trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Nhân dịp tập sách ra mắt bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xin chân thành cảm ơn các tướng lĩnh, các nhà khoa học và các cơ quan chức năng đã tận tình giúp đỡ chúng tôi; xin cảm ơn GS,TS, Trương Hữu Quýnh, PGS,TS. Nguyễn Quang Ngọc và PGS,TS. Trần Thị Vinh đã trực tiếp đọc, góp ý kiến để hoàn chỉnh bản thảo. Rất mong nhận được nhiều ý kiến phê bình của các nhà sử học, của bạn đọc gần xa để chúng tôi sửa chữa. bổ sung trong lần tái bản và rút kinh nghiệm cho các tập tiếp sau.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

                                                                     Tháng 12 năm 2002
                                                        NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
                                                           VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM


                                 -------------------------------------------------



MỞ ĐẦU

Từ thế kỷ X, sau khi lật đổ ách đô hộ của các đế chế Trung Hoa từ Tần, Hán đến Tuỳ, Đường, đất nước ta bước vào thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài. Lịch sử quân sự, quốc phòng dưới các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII cũng chuyển sang một thời kỳ mới. 

Khác với thời sơ sử, càng khác với thời chống đô hộ, bối cảnh lịch sử thời kỳ này đặt ra nhiều vấn đề mới cho sự nghiệp xây dựng nền quân sự, quốc phòng của đất nước.  Không còn là tổ chức vũ trang của nhà nước quân chủ thị tộc bộ lạc thời Văn Lang - Âu Lạc, cũng không phải là tổ chức quân sự và hoạt động vũ trang khởi nghĩa chống kẻ thù đô hộ để giải phóng đất nước mà là một tổ chức vũ trang với nền quân sự, quốc phòng của nhà nước quân chủ độc lập tự chủ đã xuất hiện từ thế kỷ X.

Sau chiến thắng Bạch Đằng (938) một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt bắt đầu hình thành từng bước hoàn thiện và củng cố, một lãnh thổ quốc gia có cương vực rõ ràng, một khối cộng đồng dân tộc hợp sức cùng làm chủ đất nước với cuộc sống tự chủ, yên bình, tất cả cần phải được bảo vệ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 08:54:51 pm
Mặt khác, tuy được xây dựng ở một thời kỳ lịch sử hoàn toàn khác. nhưng trong quá trình vận động phát triển của đất nước trong chuỗi liên tục của thời gian, nền quân sự, quốc phòng thời kỳ này còn là sự kế thừa thành tựu của các thời kỳ trước, vươn tới tầm cao mới. xứng đáng với một đất nước đang hồi sinh và phục hưng mạnh mẽ.

Từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII, một bước phát triển không phải là tuần tự, tiệm tiến mà là đột biến đã diễn ra trong lịch sử quân sự. Đó cũng là một mặt trong bước phát triển lớn của đất nước chuyển từ đêm trường đen tối của thời Bắc thuộc sang thời độc lập tự chủ huy hoàng.

Tuy nhiên.  trong cái huy hoàng với những thuận lợi của hoàn cảnh đất nước mới giành được độc lập tự chủ, những khó khăn thử thách xuất hiện cũng không nhỏ.  Âm mưu và hành động xâm lược của đế chế Tống lúc này đang nắm quyền thống trị ở Trung Hoa hòng tái lập nền đô hộ cùng với hành động quấy phá, xâm chiếm từ phía nam của Chiêm Thành là những mối đe doạ thường trực từ bên ngoài. 

Việc xây dựng nhà nước quân chủ tự chủ theo hướng phong kiến tập quyền phương Đông, mô hình Đường - Tống, ít ra cũng còn phải thăm dò, thể nghiệm hầu như suốt thế kỷ X với các vương triều Ngô, Đinh và Tiền Lê, để được xác lập, hoàn thiện bước đầu ở vương triều Lý. Những yếu tố phân tán với xu hướng ly khai trên cơ sở công xã nông thôn còn tồn tại phổ biến ở buổi đầu thường xuất hiện khi có cơ hội thuận tiện. Đó là những khó khăn, thách thức lớn đặt ra cho công cuộc xây dựng nền quân sự, quốc phòng trong những thế kỷ đầu của thời kỳ độc lập tự chủ.


Ngay từ những thế kỷ đầu tiên của thời kỳ này chiến tranh đã liên tục diễn ra. Lịch sử quân sự thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý cho thấy hoạt động quân sự, quốc phòng thời kỳ này đã lần lượt chiến thắng oanh liệt các cuộc xâm lăng lớn nhỏ từ bên ngoài, dẹp yên mọi hành động phân tán. phản loạn nổi lên từ bên trong.

Những chiến tích vẻ vang đó đảm bảo cho quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt tồn tại vững vàng, phát triển mạnh mẽ, hiên ngang bước vào nền văn minh Đại Việt với bao kỳ tích trung khu vực Đông Nam á đang trải qua nhiều biến động.

Hai lần chiến thắng xâm lược với quy mô lớn của giặc Tống vào cáe năm 981, 1077, nhiều lần chinh phạt quân Chiếm Thành, đẩy lùi nguy cơ xâm chiếm. quấy phá từ phía Nam là sự thể hiện sức mạnh vũ trang và nghệ thuật quân sự. thể hiện ý chí kiên cường chống giặc giữ nước của quân dân ta trong thời kỳ này. 

Những vấn đề trên từng được nhiều tác giả đề cập trong nhiều công trình và luận văn nghiên cứu. Tuy nhiên, một biên soạn tổng hợp và hoàn chỉnh nội dung lịch sử quân sự xuyên suốt từ thời Ngô đến thời Lý thì đây là lần đầu. Do đó việc nghiên cứu, biên soạn sách đã gặp nhiều khó khăn, nhất là về tư liệu.

Nền sử học của nước ta ra đời muộn. Những ghi chép của người đương thời cực kỳ hiếm. hầu như tất cả đều được chép lại sau đó hàng thế kỷ, nhưng nó lại ở trong hoàn cảnh đất nước nhiều lần bị ngoại xâm tàn phá.  Ngoài nguồn sử liệu ít ỏi từ biên niên sử được biên soạn vào thời Trần, thời Lê, tham khảo bổ sung thêm từ nguồn sử Trung Hoa có liên quan, còn có nguồn tơ liệu mới và quan trọng thu thập qua điều tra, khảo sát điền dã. Tất cả đều được khai thác, tận dụng.

Phương pháp lịch sử được vận dụng chủ yếu trong quá trình biên soạn. Những sự kiện hiện tượng, nhân vật trực tiếp hoặc có liên quan đến những hoạt động quân sự thời kỳ này đều được xem xét, khảo sát, mô tả theo một trình tự diễn biến lịch sử nghiêm ngặt.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 08:57:57 pm
Khôi phục diện mạo lịch sử quân sự qua hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức chiến đấu chống xăm lăng, bình dẹp ý đồ và hành động phân tán, phản loạn là yêu cầu số một đặt ra cho tập sách này.

Những sự kiện, hiện tượng lịch sử được tiến hành phân tích, tổng hợp lý giải nhằm nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn về nền quân sự, quốc phòng với lực lượng vũ trang hùng mạnh cùng những chiến thắng oanh liệt. Tất cả được nhìn nhận như những thành tựu văn hoá có ý nghĩa lớn trong tổng thể nền văn hoá Thăng Long rực rỡ vào thời đầu của văn minh Đại Việt. 

Lịch sử quân sự thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý đã hiện ra như một khúc quân hành hùng tráng ngay từ nhịp dạo đầu trên hành trình lịch sử dựng nước và giữ nước của một dân tộc biết cầm vũ khí và biết đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Lịch sử đó diễn ra vô cùng phong phú. đa dạng, gắn bó chặt chẽ với lịch sử xây dựng quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt.. dựa trên cơ sở vững chắc của một xã hội đang phục hưng và phát triển mạnh mẽ.

Nhà nước quân chủ thời kỳ này tồn tại qua bốn vương triều Các vương triều Ngô, Đinh,Tiền Lê từ năm 939 đến đầu thế kỷ XI. Tiếp đến vương triều Lý tồn tại hơn hai thế kỷ từ 1010 đến 1225. Sự tiếp nối, thay thế nhanh chóng của các vương triều ở thế kỷ X thể hiện bước đi dồn dập, gấp gáp của lịch sử ngay từ bước khởi đầu để kịp tiến vào thế kỷ XI với tư thế một đất nước vững mạnh trong khu vực dưới sự quản lý của vương triều Lý.

Trong thế tồn tại hiên ngang và phát triển vững mạnh của đất nước thời kỳ này, tổ chức quân sự và hoạt động quốc phòng giữ một vị trí then chốt, nếu không muốn nói là quyết định.

Để thể hiện rõ chân lý lịch sử đó, các vấn đề quân sự, quốc phòng thời kỳ này đã ra đời trong điều kiện và hòan cảnh lịch sử như thế nào? được tổ chức ra sao? gánh vác những chức năng, nhiệm vụ gì và đáp ứng yêu cầu đặt ra của đất nước đến mức nào? Đó là nội dung được trình bày qua năm chương của sách Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 3 - Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý (919 - 1295) .

Từ những vấn đề trên, nền quân sự, quốc phòng của đất nước trong ba thế kỷ đầu thời độc lập tự chủ sẽ hiện ra như một thành tựu lớn lao, đồng thời là một gia tài quý báu của các thế hệ nhân dân đương thời để lại cho hậu thế. 

Lịch sử ghi nhận sức mạnh kỳ diệu, sự trưởng thành nhanh chóng của tổ chức lực lượng vũ trang, của tơ tưởng và nghệ thuật quân sự đặc sắc trong chiến đấu chống giặc giữ nước và dựng nước vào thời kỳ này. Thể hiện rõ ràng, có hệ thống và tương đối đầy đủ thực tế lịch sử đó qua Lịch sử quân sự Việt Nam tập 3 là mục tiêu cố gắng phấn đấu của ban chủ nhiệm cùng tập thể tác giả trong quá trình nghiên cứu và biên soạn.



CHƯƠNG 1


NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT* – ĐẠI VIỆT
THỜI NGÔ - ĐINH – TIỀN LÊ – LÝ (939 -1225)


I. LÃNH THỔ, CƯƠNG VỰC, CƯ DÂN, Vị TRÍ ĐỊA LÝ TRONG MỐI TƯƠNG QUAN KHU VỰC

Chiến thắng giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 do Ngô Quyền tổ chức và chỉ đạo ghi một cột mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.  Lời bình cô đọng và sắc sảo của sử gia Lê Văn Hưu về sự kiện lịch sử lớn lao này đã thâu tóm được tầm quan trọng của nó đối với tiến trình lịch sử dân tộc:


________________________
* Tên nước Đại Cồ Việt xuất hiện cùng với nhà Đinh. Ngô Quyền xưng vương, định đô ở Cổ Loa chưa đặt tên nước. Tuy nhiên, vương triều Ngô đã thực sự mở đầu cho thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc. Vì vậy, chúng tôi xin được nghiên cứu, giới thiệu lịch sử thời kỳ này bắt đầu từ nhà Ngô (T.G).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 09:48:12 pm
Tiền Ngô vương (Ngô Quyền) có thể lấy quân mới họp của nước Việt mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoàng Tháo mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận  mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta ngõ hầu đã nối lại được1.

 “Nước Việt ta” ở đây chính là đất nước của các vua Hùng, vua Thục với tên gọi Văn Lang, Âu Lạc từng tồn tại độc lập từ thế kỷ VII - VIII trước Công nguyên cho đến khi Triệu Đà xâm lược vào năm 179 trước Công nguyên.

Trải qua hơn một ngàn năm dưới ách đô hộ của ngoại tộc, đất nước từng bị chia cắt, tách, nhập với những thử thách hiểm nghèo. Mặc dù vậy, nhân dân ta với tinh thần chiến đầu bền bỉ, anh dũng và kiên cường, cuối cùng đã giành lại được quyền độc lập tự chủ với vai trò của họ Khúc vào năm 905 sau Công nguyên. Tiếp theo là Dương Đình Nghệ. Ông từng đánh đuổi giặc Nam Hán, giải phóng Đại La vào năm 931 .

Tuy giành được quyền tự chủ, nhưng họ Khúc cũng như họ Dương, trong buổi đầu nắm quyền quản lý đất nước vẫn duy trì danh hiệu tiết độ sứ Cho đến Ngô Quyền sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mới xưng vương, định đô ở Cổ Loa, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải phóng dân tộc, khôi phục và tiếp nối chính thống đất nước có lịch sử hàng ngàn năm trước từ thuở các vua Hùng, vua Thục.

Lãnh thổ của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc gồm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu  Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức và bộ Văn Lang 2. Nếu như về địa lý lịch sử, còn khó khăn trong việc xác định vị trí cụ thể của từng đơn vị thì trên đại thể có thể xác định lãnh thổ Âu Lạc gồm dải đất miền Bắc nước ta từ miền Nam tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông (Trung Quốc) cho đến Hoành Sơn ngày nay 3.

Dưới ách đô hộ của phong kiến Trung Hoa; lãnh thổ đó bị sáp nhập vào nước Nam Việt của Triệu Đà năm 179 trước Công nguyên gồm hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Đến thời lệ thuộc nhà Hán từ năm 111 trước Công nguyên, khu vực lãnh thổ đó vẫn chia làm hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân trong chín quận của bộ Giao Chỉ 4.

Vào thời thuộc Đường đó là các đơn vị châu Giao, châu Lục, châu Trường, châu Phong và một số châu ky mi (nay thuộc vùng Bắc Bộ), châu Ái, châu Diễn, châu Hoan, châu Phúc Lộc (nay thuộc vùng đất Bắc Trung Bộ từ đèo Ngang trở ra). Tất cả đều đặt trong cái gọi là Giao Châu đô hộ phủ, đặt năm 622, sau đổi làm An Nam đô hộ phủ vào năm 679.

Từ đầu thế kỷ X, sau khi giành được độc lập tự chủ, tên gọi An Nam đô hộ phủ bị xóa bỏ cùng với ách đô hộ của ngoại bang, lần lượt tên nước Đại Cồ Việt (từ thời Đinh, vào năm 968), tiếp đến Đại Việt (từ năm 1054 - thời Lý) xuất hiện với kinh đô Cổ Loa năm 939, thời Ngô), Hoa Lư (năm 968, thời Đinh - Tiền Lê) và Thăng Long (năm 1010, thời Lý).


________________
1. Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội, 1983, T.1, tr. 198. Trong sách viết tắt là Toàn thư.
2. Về tên 15 bộ, các sách Việt sử lược, Toàn thư, Lĩnh Nam chích quái chép ít nhiều có khác nhau. Chúng tôi chép theo Toàn thư, Sđd, T.1, tr. 118 và theo Việt sử lược, bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, tr.13-14, chép thêm bộ Vàn Lang như Cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn đã chép để tham khảo (T.G).
3. Xem thêm Đào Duy Anh - Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1964, tr. 22.  
4. Chín quận của Giao Chỉ bộ: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố (nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây - Trung Quốc)?  Châu Nhai, Đam Nhĩ (đảo Hải Nam - Trung Quốc), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (nay thuộc Bắc Bộ, Bắc và Trung Trung Bộ của Việt Nam).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 10:55:09 pm
Lãnh thổ quốc gia thời này bao gồm vùng đất phù sa mầu mỡ của châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình (Bắc Bộ); sông Mã, sông Chu (Thanh Hóa) và sông Lam (Nghệ An) cùng với một dải núi rừng chiếm 2/3 diện tích vây bọc các mặt đông bắc (từ Móng Cái đến Lào Cai), tây bắc (từ Lào Cai đến tây Nghệ An) và bắc Trường Sơn (tây Nghệ An, Hà Tĩnh) . Về cương vực, phía bắc giáp Trung Hoa (Tống), tây bắc giáp Đại Lý (Nam Chiếu), tây - tây nam giáp các tộc Lão Qua, Chân Lạp, nam giáp Chiêm Thành và phía đông giáp biển.

Nếu như cương vực về phía bắc, phía tây bắc có thay đổi ít nhiều so với ngày nay, nhưng trên đại thể tương đối ổn định, thì về phía nam thường có biến động theo hướng mở rộng. Từ nửa sau thế kỷ XI (1069) cho đến hết thời Lý (1225) biên giới phía nam đến Cửa Việt (Quảng Trị), bắc sông Thạch Hãn 1.   
   
   Như vậy đất nước Đại Cồ Việt - Đại Việt thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý ở vào một vị trí địa lý quan trọng, mang những đặc điểm nổi bật với nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn trong quá trình dựng nước và giữ nước. 

Trước hết nói đến thuận lợi, về mặt kinh tế phải kể đến các vùng châu thổ mầu mỡ với một lượng phù sa bồi đắp hàng năm, mang nhiều tiềm năng và hứa hẹn một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước phát triển. Một quá trình di dân theo hướng lan toả, tràn xuống chiếm lĩnh khai thác các vùng còn hoang hoá, úng ngập trong nội địa và vùng sình lầy ven biển không chỉ diễn ra trong thời kỳ này mà còn kéo dài đến nhiều thế kỷ về sau đã chứng minh điều này 2.

   Ngoài vùng đồng bằng châu thổ còn lại 2/3 diện tích rừng núi với nguồn lâm thổ sản, khoáng sản bao gồm thảo mộc, động vật quý hiếm và kim loại các loại. Sự phong phú, đa dạng về nguồn lợi kinh tế ở hai miền xuôi và ngược không chỉ gắn bó trong trao đổi nhằm bổ sung, phục vụ đời sống thường nhật của nhân dân mà còn đáp ứng cho nhu cầu của quốc phòng.  Ngoài ra ta còn phải kể đến một nguồn gần như vô tận về thủy, hải sản, về giao thông của một quốc gia có hệ thống sông ngòi chằng chịt và một vùng biển trải dài dọc phía đông của đất nước.

Về vị trí địa lý, từ một cái nhìn tổng thể trong khu vực Đông á, Đông Nam á, ta thấy đất nước Đại Cồ Việt - Đại Việt ở vào một vị trí chiến lược trọng yếu. Đó là chiếc cầu nối giữa đại lục châu á với khu vực Đông Nam á bao gồm cả đất liền và hải đảo trên mặt thủy cũng như bộ.  Lịch sử hình thành, phát triển và tiêu vong, cùng quan hệ giao lưu giữa các quốc gia trước, trong và sau thời kỳ này sẽ cho ta một ý niệm về tầm quan trọng của vị trí địa lý nước Đại Cồ Việt Đại Việt trong khu vực.

Ở vào vị trí thuận lợi đó, nước ta cho đến thời kỳ này đã có quan hề tiếp xúc với những nền văn minh lớn của thế giới.  Rõ nhất là quan hệ giao lưu, tiếp xúc với hai nền văn minh lớn của phương Đông cổ đại. Đó là văn minh sông Hoàng và văn minh sông Hằng, còn gọi là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Quá trình giao lưu, tiếp xúc đó đã để lại dấu ấn khá rõ nét trong xã hội Đại Cồ Việt - Đại Việt. 

Điều đáng quan tâm là tiềm năng phong phú, đầy hứa hẹn về tài nguyên nói chung, tầm quan trọng về vị trí địa lý như đã trình bày là lợi thế cho sự tồn tại và phát triển của đất nước. Mặt khác, điều đó cũng thực sự biến đất nước ta thành miếng mồi béo bở, gợi lên sự dòm ngó, thèm muốn chiếm đoạt đối với các quốc gia láng giềng.



___________________
1. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đem quân đánh Chiêm Thành, bắt được chúa Chiêm là Chế Củ. Chế Củ đem ba châu: Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc thân. Toàn thư, Sđd, T. 1, tr. 287.
   - Xem thêm Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, xuất bản lần thứ hai, năm 1949, bản tái bản của Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995, chú thích 18. tr. 53.
2. Tham khảo thêm Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX, Đặng Thu chủ biên, chuyên san tạp chí Nghiên cứu lịch sử 1997.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 10:58:56 pm
Hơn một ngàn năm đô hộ với mưu toan đồng hóa của phong kiến phương Bắc từ Tần đến Đường, các cuộc xâm lược của Nam Chiếu (Đại Lý), của Nam Hán; những vụ cướp bóc xâm lấn của Chiêm Thành, Chân Lạp đã diễn ra trước đó và còn tiếp diễn trong và sau thời kỳ này là những minh chứng hùng hồn cho luận điểm trên.

Lịch sử cho hay đất nước của cư dân Văn Lang - Âu Lạc từng chịu đựng hơn 10 thế kỷ trong vòng thống trị với ý đồ thôn tính và đồng hóa của đế chế phong kiến Trung Hoa rộng lớn. Đó là một quốc gia đất rộng, người đông với nền văn minh sông Hoàng phát triển rực rỡ của nhân loại ở phương Đông cổ đại.

Vào thế kỷ III trước Công nguyên, Tần Doanh Chính sau khi lần lượt đánh bại sáu nước lớn khác: Hàn, Triệu, Ngụv, Sở, Yên, Tề đã lập nên đế chế Tần rộng lớn tồn tại từ năm 221 đến năm 206 trước Công nguyên. Tần Thủy Hoàng đã tiến hành chiến tranh nhằm thôn tính đất nước của người Hung Nô ở phương bắc và vùng đất Ngũ Lĩnh ở phía nam của người Bách Việt.

Trong bối cảnh đó, lãnh thổ của Văn Lang - Âu Lạc đầy hấp dẫn ở phương nam đã bị Triệu Đà - một viên huyện lệnh của nhà Tần ở Nam Hải - nhân nhà Tần suy sụp và nhà Tây Hán chưa ổn định (từ năm 206 đến năm 202 trước Công nguyên) mưu đồ cát cứ lập nên nước Nam Việt, tiến hành xâm lược.

Từ đó, đất nước ta chịu ách đô hộ trải qua các thời Triệu (từ năm 179 đến 111 trước Công nguyên) ; Hán (Tây Hán - Đông Hán từ năm 111 trước Công nguyên đến 220 sau Công nguyên) ; Ngụy, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần (từ năm 220 đến năm 580), Tùy (từ 581 đến 618); Đườ(từ 618 đến 905 - cuối Đường).

Bước vào đầu thế kỷ X, mặc dù đã khôi phục được độc lập tự chủ, nhưng quốc gia Đại Cồ Việt, tiếp đến Đại Việt vẫn không tránh khỏi sự nhòm ngó của phong kiến Trung Hoa từ phía bắc. Các cuộc xâm lược của Nam Hán (năm 930, 938), của nhà Tống (năm 980 - 981, năm 1077) đã chứng minh điều này. 

Cũng vào thời này, ở tây bắc nước ta đã từng xuất hiện quốc gia Nam Chiếu với địa bàn thuộc vùng Vân Nam có trung tâm là Đại Lý (Côn Minh); vì vậy sử còn chép là nước Đại Lý. Quốc gia này thành lập vào thế kỷ VIII do sự tập hợp của sáu bộ tộc người Thái và trở thành một cường quốc. 

Người Nam Chiếu từng hàng phục được Miến Điện, bành trướng về phía tây đến giáp Ấn Độ, phía tây bắc đến Thổ Phồn (Tây Tạng). Vào những năm 816, 832, 846, Nam Chiếu từng tràn xuống đánh phá, và chiếm được Tống Bình 1 (lỵ sở An Nam đô hộ phủ) vào năm 863 buộc quan, quân đô hộ nhà Đường phải chạy về nước. Từ năm 865 đến năm 866, người Nam Chiếu bị Cao Biền đánh đuổi. 
 
Cho đến thế kỷ XIII, quốc gia này bị quân Nguyên thôn tính và cuối cùng sáp nhập vào bản đồ Trung Quốc từ năm 1253.  Cùng với sự ra đời và tiêu vong của quốc gia này là một cuộc thiên dí của người Thái dọc theo thung lũng các dòng sông lớn tràn xuống phía nam. Đối với Đại Cồ Việt  Đại Việt, vào thời điểm này người Thái theo lưu vực sông Đà, sông Mã tràn vào tụ cơ ở vùng tây bắc, tây Thanh Hóa ngày nay, kết hợp với khối cơ dân người Thái cổ từng cư trú ở tây bắc từ trước trở thành một bộ phận trong đại gia đình các dân tộc của một quốc gia đang trên con đường phục dựng vững vàng.

Trong khi đó, cuộc thiên di của họ theo các dòng sông Iaravađi, sông Saluen (Miến Điện) sông Mê Nam (Thái Lan) sông Mê Kông (thuộc địa phận Lào) đã tạo nên sự xáo trộn, không ổn định kéo dài trong các bộ tộc bản địa, chủ yếu là người Môn - Khơme. Các bộ tộc Lão Qua sống ở phía tây nước Đại Cồ Việt - Đại Việt từng bị người Khơme (Chân Lạp) chiếm giữ, tiếp đến sự xâm nhập của người Thái vào các thế kỷ IX- XIII, hình thành các tiểu vương quốc. Cho đến giữa thế kỷ XIV, một quốc gia Lào thống nhất (Lạng Xang) mới hình thành với vai trò của người thủ lĩnh anh hùng Pha Ngừm 2  .


__________________
1. Thuộc vùng Hà Nội ngày nay. 
2. Tham khảo Lương Ninh - Nghiêm Đình Vì - Đinh Ngọc Bảo: Lịch sử Lào, Đại học Sơ phạm Hà Nội I, Hà Nội, 1991.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 11:03:29 pm
Cũng ở phía tây, quốc gia Chân Lạp vào đầu thế kỷ VIII đã bị chia cắt làm hai: Lục Chân Lạp ở phía thượng Lào với rừng núi và thung lũng thuộc trung và hạ Lào ngày nay, Thủy Chân Lạp ở phía nam có nhiều hồ và biển bao bọc. Quốc gia này bị người Java xâm lược, chiếm đống hầu suốt thế kỷ VIII. Với vai trò đặt nền móng, vua Giayavacman II (802 - 854) đã tiến hành giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của người Java vào thế kỷ IX.

Cũng từ đây, quốc gia này bước vào thời kỳ các vua chúa Ăngco với nền văn minh Ăngco nổi tiếng, cực thịnh vào thế kỷ XI để rồi bước vào suy tàn vào đầu thế kỷ XIII trước sự tiến công của vương quốc Thái thống nhất 1

Ở phía nam Hoành Sơn là quốc gia Chăm Pa còn gọi là Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành) của cư dân người Mã Lai - Đa Đảo (Malayo - polynésien). Họ cư trú ở vùng ven biển miền Trung và Nam Trung Bộ, là chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng.

Vào thế kỷ II trước Công nguyên khi quốc gia Âu Lạc rơi vào ách thống trị của nhà Hán, bị chia thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân thì quốc gia này cũng bị người Hán đô hộ và lập thành quận Nhật Nam gồm năm huyện Tây Quyển, Chu Ngô, Ty Ảnh, Lô Dung, Tượng Lâm.

Trong những thế kỷ đầu dưới ách đô hộ của nhà Hán, nhân dân Nhật Nam cùng Giao Chỉ, Cửu Chân nhiều lần kề vai sát cánh nổi dậy.  Cho đến thế kỷ II sau Công nguyên, nhân Trung Hoa loạn lạc, dân Tượng Lâm dưới sự lãnh đạo của Khu Liên đã nổi dậy giành tự chủ, lập nên quốc gia Lâm Ấp, một trong hai tiểu quốc: Bắc (Lâm ấp - bộ lạc Dừa) và Nam (Panduranga - bộ lạc Cau) vốn có quan hệ thân tộc nhưng thường xảy ra tranh chấp lẫn nhau. Vương triều Đồng Dương 2 (Indrapura - kinh đô của Chăm pa) của tiểu vương quốc Bắc bị chấm dứt vào khoảng năm 982 - 983 thế kỷ X.

Từ một cái nhìn bao quát, chúng ta thấy trong các thế kỷ X - XIII ở khu vực Đông Nam á còn trong tình trạng chưa ổn định. Một số quốc gia chuẩn bị xuất hiện (Lào, Xiêm), có quốc gia vừa trải qua phân tán, bước vào thời kỳ huy hoàng ngắn ngủi để sớm bị lụi tàn (Khơme), có quốc gia từng bị nghiêng ngửa trước làn sóng thiên di của người Thái (Miến Điện), có quốc gia bị xoá sổ trên bản đồ (Đại Lý). Trong khi đó, đất nước Đại Cồ Việt - Đại Việt không chỉ lật đổ ách thống trị của ngoại bang, khôi phục nền độc lập tự chủ, mà còn tồn tại và phát triển vững vàng trước hành động xâm lược của các loại kẻ thù xâm lược lớn nhỏ.

Từ thế kỷ X, cư dân quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt đã bao gồm nhiều tộc người trong đó người Việt (bao gồm người Kinh và người Mường sau này) là chủ yếu, còn có mặt các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Dao, Chăm... cùng chung sống trên lãnh thổ quốc gia độc lập đã giành lại được từ tay bọn đô hộ phương Bắc.

Nếu như người Việt sống chủ yếu ở vùng đồng bằng châu thổ và trung du thì các dân tộc thiểu số lại sinh sống chủ yếu ở vùng rừng núi cao tạo thành một vành đai chặn giữ các vùng biên thùy xa xôi hiểm trở.  Về dân số, sử sách không ghi cụ thể, mặc dù có chép đến việc điểm số hộ, số dân. Một vài con số do sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi cung cấp về số dân thời Ngô, Đinh, Lê, Lý, lại có nhiều mâu thuẫn, khó hiểu 3.

Trước tình hình tư liệu như vậy, người ta ước đoán số dân nước ta thời này khoảng 3.000.000 người.

Dù sự phân bổ của cơ dân các sắc tộc theo những khu vực khác nhau thì trên toàn cục, cộng đồng các dân tộc đa số và thiểu số đã thực sự là chủ nhân của lãnh thổ quốc gia Văn Lang - Âu Lạc xưa. Họ đã cùng phịu chung nỗi đắng cay dưới ách nô lệ của ngoại tộc, cùng chung lưng đấu cật kiên trì bền bỉ đấu tranh giành độc lập tự chủ.

Từ thế kỷ X trong bối cảnh lịch sử mới họ đã cùng nhau lao động xây dựng và chiến đấu bảo vệ đất nước với những thành tựu và chiến công rực rỡ. Họ là chủ nhân của quốc gia Đại Cồ Việt (thế kỷ X) tiếp đến Đại Việt (từ năm 1054) thời Lý Thánh Tông.


_______________________
1. Tham khảo Phạm Việt Trung - Đỗ Văn Nhung - Chiêm Tế (chủ biên): Đất nước Campuchia, lịch sử và văn minh, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội, 1977.
   - D.G.E.Hall: Lịch sử Đóng Nam á (Bản dịch), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 166-205.

2. Làng Đồng Dương ở trên bờ sông Ly Ly - nhánh của sông Thu Bồn, cách Trà Kiệu (Sinhapura) khoảng 15km về phía đông nam. Tham khảo Lịch sử Việt Nam T.I của Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương Ninh. chương V, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, in lần thứ hai, Hà Nội, 1985. 
3. Dư địa chí của Nguyễn Trãi trong Nguyễn Trãi toàn tập, cho biết dân số các thời:
Ngô: 3.100.000 hộ
Đinh-lê: 5.006.500 đinh
Lý : 3.300.100 đinh
Điều khó hiểu là nếu tính theo “hộ” hoặc “đinh” thì dân số thời này quá lớn, khó lý giải. 
 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 11:44:39 pm
II. CƠ SỞ KINH TẾ, KẾT CẤU XÃ HỘI VÀ THẾ CHẾ CHÍNH TRỊ

1. Kinh tế

Nông nghiệp

Bước vào thời sơ sử, nông nghiệp đã giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế của cơ dân Văn Lang - Âu Lạc. Nếu như ở vùng đồi núi người ta tiến hành canh tác nương rẫy với phương thức “đao canh hỏa chủng” (cày bằng đao, trồng bằng lửa) thì ở các vùng thung lũng ven núi, phù sa ven sông và vùng thấp trũng ở đồng bằng lại trồng lúa nước.  Người ta dựa vào nước nguồn, vào thủy triều lên xuống để chủ động tưới, tiêu nước, áp dụng kỹ thuật “đao canh thủy nậu” (cày bằng đao, làm mát đất bằng nước).

Kỹ thuật phát hoặc đốt cây cỏ, lợi dụng nguồn nước hoặc chủ động dẫn nước để cày cấy đã thành truyền thống sản xuất chủ yếu của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Trung tâm đất nước từ vùng ngã ba sông Việt Trì thời Văn Lang chuyển xuống Cổ Loa thời Âu Lạc vào thế kỷ III trước Công nguyên đã thực sự ghi nhận bước phát triển toàn diện của xã hội, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp.

Đến thế kỷ X, hầu như khắp vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam, trừ những ô trũng, những vùng bãi bồi ven biển, đều được khai phá, canh tác. Căn cứ vào ghi chép của sử sách với địa danh Cửa Bố (Bố Hải Khẩu) hồi thế kỷ X, ở vùng thị xã Thái Bình ngày nay, căn cứ vào sự xuất hiện của con đê Hồng Đức vào năm 1472 ở Ninh Bình - Nam Định, và sự hình thành các xã ven biển đồng bằng Nga Sơn 1 (Thanh Hoá) vào những thế kỷ sau này, ta có thể hình dung vào các thế kỷ X - XI - XII, dải đất phía đông nam Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và ven biển đông bắc Thanh Hóa ngày nay  còn chưa được bồi tụ như hiện nay.

Mặc dù vậy, nhìn chung trên phạm vi cả nước thời bấy giờ, kinh tế nông nghiệp đã mở mang nhiều, chiếm ưu thế tuyệt đối và giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong đời sững của cư dân.

Nhận thức được tầm quan trọng của nghề nông, nhà nước quân chủ thời kỳ này đã có nhiều biện pháp, chính sách nhằm khuyến khích nông nghiệp. Cày cấy vốn là công việc của nhà nông, để tỏ ý động viên khích lệ, người đứng đầu nhà nước thường tiến hành cày tịch điền.

Mở đầu cho việc làm này là Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành. Vào năm Đinh Hợi (987), ông cày tịch điền ở Đọi Sơn (Hà Nam) và Bàn Hải (?). Đến các vua nhà Lý, thì nghi thức này đã trở thành thường xuyên, được các nhà vua đặc biệt quan tâm.

Vua Lý Thái Tông đi xem gặt ở Điểu Lộ (Hưng Yên ?) vào năm 1030, cày tịch điền ở Đỗ Động (Hà Tây) năm 1032, ở Cửa Bố (Thái Bình) năm 1038, ở Khả Lãm (Thanh Oai, Hà Tây) năm 1042. Vua Lý Thánh Tông cày ruộng ở Cửa Bố (Thái Bình) năm 1065. Vua Lý Nhân Tông xem cày ruộng ở Ứng Phong (Nam Định) vào các năm 1101, 1102, 1117, 1123, 1124, 1125. Lý Anh Tông cày tịch điền ở Lý Nhân (Hà Nam) vào các năm 1146, 1148 2.

Sử chép trong dịp cày ruộng ở Cửa Bố vào năm 1038, vua Lý Thánh Tông sau khi tế thần nông, tự tay cầm cày. Có viên quan tâu: “Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế ?”. Nhà vua nói: “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo” 3.


_________________________
1. Đó là các xã: Nga Điền, Nga Thái, Nga Thiện
2.Theo các sách Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd; Việt Sử lược bản dịch của Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960; Cương mục, bản dịch của bản Văn Sử Địa, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958, In lại của Nxb. Giáo dục Hà Nội, 1998.
3. Toàn thư, Sđd, t.I, tr. 266.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 11 Tháng Ba, 2009, 11:55:16 pm
Cùng với việc cày tịch điền của các nhà vua thời này, sử còn chép vào năm 1056 đời Lý Thánh Tông, nhà vua đã hạ ‘Chiếu khuyến nông” 1.

Trong sản xuất nông nghiệp, sau ruộng đất, nước là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho năng suất cây trồng (nước, phân,  cần, giống). Ở vị trí địa lý nhiệt đới gió mùa như nước ta vào các thế kỷ X - XIII, khí hậu không khác mấy so với ngày nay.  Tương quan nhiệt ẩm với chỉ số khô hạn thấp (khoảng 1) là điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển 2.

Tuy nhiên nắng lắm, mưa nhiều cũng có những khó khăn, thường gây nên hạn hán và lũ lụt. Vì vậy từ rất sớm đê đập ngăn lũ và hệ thống tưới tiêu “mương phai lái lịn” đã xuất hiện. Vào thời này, tuy tài liệu hiếm hoi, nhưng ít nhất biên niên sử cũng cung cấp cho ta về việc đắp đê đã bắt đầu tiến hành vào năm 1077, đời vua Lý Nhân Tông: “mùa thu, tháng 9, đắp đê sông Như Nguyệt (tức sông Cầu) dài 67.380 bộ (= 134,760 km) 3 ; năm 1108 “mùa xuân, tháng 2, đắp đê ở phường Cư Xá” 4.

Cùng với việc đắp đê, hệ thống đập cũng đã được nhà nước quan tâm. Sách Việt sử lược cho biết, đời Lý Nhân Tông vào năm 1076 “mùa xuân, tháng 3, vua đi xem đập ngăn nước” 5 ; năm 1103 nhà vua lại “xuống chiếu cho trong ngoài thành đắp đê ngăn nước” 6; năm 1192 đời Lý Cao Tông lại khơi sông Tô Lịch, xây đê bằng đá 7.

Vào thời kỳ này, cùng với sự hiện diện phổ biến của nông cụ sắt, sức kéo bằng trâu bò là nguồn bổ sung rất lớn cho sức cơ bắp của con người. Sử chép rõ vào thời này “mấy nhà cày chung một con trâu” 8, và trâu bò được nhà nước đặc biệt quan tâm bảo vệ.

Sử chép vào thời các vua Lý Nhân Tông (1072-l128), Lý Anh Tông (1138-1175), nhà nước đã nhiều lần ra lệnh cấm giết trâu vào các năm 1117, 1123, 1143. Người giết trộm trâu cả vợ lẫn chồng đều bị phạt 80 trượng, tội đồ hàng xóm biết chuyện mà không tố giác cũng bị phạt 80 trượng .
 
 Sự quan tâm của nhà nước quân chủ thời này đến nông nghiệp cùng những hình thức cày tịch điền, chiếu khuyến nông, đắp đê, đập, bảo vệ sức kéo đã tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển với năng suất cao. Sử sách từng chép hiện tượng một gốc lúa chiêm có đến chín bông xuất hiện vào các năm 1032 đời Lý Thái Tổ và năm 1117 đời Lý Nhân Tông. 

Nông nghiệp phát triển không chỉ cung cấp cho đời sống của dân. nuôi quân mà còn tạo được một nguồn dự trữ lương thực dồi dào. Người ta sẽ không khỏi băn khoăn về hiện tượng xảy ra sáu năm sau khi Lý Thái Tổ lên ngôi, tức vào năm 1016, nhà vua đã có thể xá thuế ba năm cho cả nước; năm 1017 xá tô ruộng; 1018 xá ½ tô ruộng; tha ½ tiền thuế vào năm 1044 đời vua Lý Thái Tông 9.
 
Có thể giải thích rằng nguồn chi tiêu cho bộ máy nhà nước trong buổi đầu thời này chưa lớn lắm. Dầu sao hiện tượng tha tô thuế trên là một sự thực được sử sách ghi chép lại, ít nhất những thông tin trên cho phép ta hình dung được cảnh phồn thịnh của kinh tế nông nghiệp thời Lý. Đây là một cơ sở khá quan trọng để có được một lực lượng vũ trang hùng mạnh theo phương châm “quốc phú binh cường”, “thực túc binh cường”  của quốc gia nông nghiệp Đại Việt.



__________________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 282; Cương mục, t.3, Sđd, tr.81. 
2. Xem thêm Lê Bá Thảo - Thiên nhiên Việt Nam, Nxb. Khoa học ky thuật, Hà Nội, 1977, tr. 17-19
3. Việt Sử lược . Sđd, tr . 112 .
4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.299.
5,6,7. Việt Sử lược, Sđd, tr.III, 121, 162. 
8. Toàn thư, Sđd, t. 1, tr. 302, 307, 333, 334.
9. Toàn thư, Sđd, t.I, tí. 248, 249, 277.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 12:07:07 am
Thủ công nghiệp

Là đứa con song sinh với nông nghiệp và gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp, thủ công nghiệp ở nước ta xuất hiện từ khá sớm. Cho đến những thế kỷ đầu của thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài, nền thủ công nghiệp của quốc gia Đại Cồ Việt (thế kỷ X), rồi Đại Việt (từ 1054 trở đi thủ công nghiệp có điều kiện phát triển hơn.

Tuy nhiên tải liệu về thủ công nghiệp rất khan hiếm, không đủ để khôi phục lại diện mạo rất phong phú và sinh động của nó. Mặc dù vậy, bằng cách “lội ngược dòng”, tức từ những sản phẩm thủ công nhu cầu về thủ công được sử sách ghi chép. người ta có thể hình dung sự phong phú về ngành nghề và tinh xảo về kỹ thuật của nó. 

Người ta đã từng nhìn nhận ở các trung tâm Cổ Loa, Hoa Lơ, Thăng Long thời này phần “đô” vẫn là hạt nhân. chiếm một vị trí khá lớn và giữ vai trò quan trọng trong quá trình tồn tại. phát triển hoặc chuyển dời của nó. Mặc dù vậy.  người ta cũng phải thừa nhận bên phần “đô” còn có phần “thị” với nhu cầu của thủ công nghiệp và trao dối phục vụ cho đời sống của trung tâm là rất lớn và có tác dụng kích thích đối với thủ công nghiệp.

Nếu như ở Cổ Loa, thủ công nghiệp hầu nhủ không để lại dấu vết cụ thể thì Hoa Lư, Thăng Long lại khác 1.
 
Không còn nghi ngờ gì về sự tồn tại của một nền thủ công nghiệp phong phú ở Hoa Lư thời Đinh, Tiền Lê và ở Thăng Long thời Lý. Người ta có thể qua những di vật phát hiện được ở Hoa Lư Thăng Long để lập nên một danh mục về các nghề thủ công đương thời đã từng tập trung ở chốn đế đô. 

Chỉ riêng ở kinh đô Hoa Lư đó là các ngành nghề: đục đá, thổ mộc qua viện đắp thành, xây cất cung điện, chùa chiền, kho tàng, đóng thuyền chiến . . . Nghề khai thác và chế biến kim loại quý hẳn đã phát triển qua việc dựng cột điện Bách bảo thiên tuế có dát vàng dát bạc, các lầu Đại Vân, điện Trường Xuân, điện Long Lộc lợp ngói bạc.

Để đúc nên hàng vạn mũi tên đồng, chế tạo nên mũ đầu mâu bằng kim loại, đúc tiền, rèn chiến cụ vũ khí trang bị cho quân đội thì nghề rèn đúc kim loại phải hiện diện phổ biến và đạt đến một trình độ khá hoàn thiện. Với nghề gạch, gốm người thợ thủ công thời bấy giờ đã có thể nung được các loại gạch, xây thành, làm cầu cống, lát đường và đặc biệt là các loại gạch có hoa văn đẹp, có hình đôi chim phượng mà các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở Hoa Lư, ấy là chưa kể đến nghề gốm phục vụ cho đời sống hàng ngày qua các loại bát, đĩa, nồi, chum vại.

 Nếu như nghề dệt từng cung cấp vải lụa cho các loại trang phục của nhà vua, quan lại, binh lính, nhân dân thì nghề đan lát bằng nguyên liệu mây, tre, nứa . . . các loại có từ lâu đời hẳn đã trở thành khá phổ biến ở mọi nơi. Bên cạnh việc cung cấp các mặt hàng thông dụng hàng ngày, nghề đan lát còn góp phần quan trọng trong phục vụ giao thông và chiến đấu trên sông nước qua việc chế tạo thuyền nan và đóng bè các loại.

Cùng với việc mở mang của đất nước, Thăng Long thời Lý đã hiện ra với hai khu vực rõ rệt. Đó là khu vực “đô” gồm các cấm tử thành, hoàng thành, và khu vực “thị” gồm 61 phố phường. Các ngành nghề đã xuất hiện ở Hoa Lư, đến đây hẳn là được phát triển vượt bậc để phục vụ cho việc xây dựng thành trì cung điện, chùa tháp, đúc chuông, tô tượng khá rầm rộ vào đầu thời Lý.

Việc xây cất ở Thăng Long trong buổi đầu này nhiều đến nỗi sử gia Lê Văn Hưu phải than phiền: “tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể ...” 2.

Bên cạnh tổ chức Cục Bách tác sản xuất các mặt hàng phục vụ cho đời sống khốn cung đình,  các ngành nghề thủ công hiện diện phong phú ở Thăng Long đã thỏa mãn nhu cầu của nhiều tầng lớp nhân dân quy tụ sinh sống ở giữa phố phường. Riêng về ngành dệt, tại kinh đô Thăng Long đã dệt được gấm vóc, thay thế cho gấm vóc của nhà Tống. Sử chép vào năm 1040 “vua đã dạy cung nữ dệt được gấm vóc (. . . . .) , xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo cho các quan (. . . . .) để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nước Tống nữa3


_____________________
1. Nguyễn Doãn Tuân: Tìm hiểu lịch sử khu di tích Cổ Loa, luận án PTS khoa học lịch sử Hà Nội 1996, bản lưu tại Viện Sử học, tr. 81-83. 
2. Toàn thư, Sđd, t.1. tr. 242
3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 269. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 12:51:05 pm
Tình hình thủ công nghiệp ở các địa phương ra sao, ta không có tài liệu để khôi phục rõ nét. Riêng ở ngoại vi Thăng Long đã hình thành các phường thủ công chuyên nghiệp như dệt ở Trích Sài, Nghi Tàm, Nhược Công, giấy Hồ Khẩu, Yên Thái.

Việc chuyển đô từ Hoa Lư ra Thăng Long vào năm 1010 ghi nhận một bước phát triển mọi mặt của đất nước. Riêng về kinh tế thủ công nghiệp tuy có phong phú, đa dạng thêm các nghề, nhưng chắc hẳn vẫn còn kết hợp chặt chẽ với nông nghiệp đang được mở mang thêm về diện tích canh tác cũng như về thâm canh tăng vụ.

Tình hình này còn tồn tại lâu dài. Đó là đặc điểm của thủ công nghiệp ở nước ta, đồng thời đó cũng là tác nhân khá quan trọng làm cho thủ công nghiệp không vượt khỏi hàng rào nông nghiệp để hình thành một ngành kinh tế độc lập, có sức mạnh từ thúc đẩy đến mở đường cho những bước phát triển đột biến của xã hội.

Thương nghiệp

Trong bối cảnh một nền sản xuất hàng hóa thủ công hạn hẹp đó, hoạt động thương nghiệp cũng diễn ra chậm chạp.  Tiền tệ với tư cách là một vật ngang giá trong trao đổi ở thị trường cũng đã xuất hiện phổ biến trong thời kỳ này.

Thời Đinh có tiền Thái Bình, thời Lê Đại Hành có tiền Thiên Phúc trấn bảo. Sang thời Lý, tiền xuất hiện nhiều hơn. Các vua Lý Thái Tổ (lolo-l028) có tiền Thuận Thiên đại bảo; Lý Thái Tông 1028-1054 có các loại tiền Minh Đạo thông bảo, Càn Phù nguyên bảo; thời Lý Nhân Tông (1072 - li28) có tiền Thiên Phù nguyên bảo; đời Lý Thần Tông (1128 - 1138) có tiền Thiên Thuận thông bảo; đời Lý Anh Tông (1138-1175) có tiền Đại Đình thông bảo, Thiên Cảm thông bảo. Lý Cao Tông (l176-1210) có tiền Thiên Tư thông bảo, Trị Bình nguyên bảo, Trị Bình thông bảo 1.

Hiện tượng tiền tệ xuất hiện ngày một nhiều với mật độ dày đặc hơn cho phép nghĩ đến sự mở rộng của thị trường. Nếu như tình hình chợ búa ở Hoa Lư ra sao chưa rõ lắm, thì ở Thăng Long thời Lý, theo sử sách, đã có những chợ nổi tiếng: chợ Cửa Đông, chợ Tây Nhai, chợ Đông Tây, chợ Nam.

Tuy nhiên hoạt động thương nghiệp có được mở mang trên cơ sở nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp vào thời này thì nó vẫn mang tính chất nhỏ hẹp tự cấp, tự túc của một xã hội đang lấy công xã nông thôn làm cơ sở. Sở hữu ruộng đất tư nhân tuy đã có, nhưng phải từ thế kỷ XI mới xuất hiện phổ biến. Trong tình hình đó, việc trao đổi hàng hóa nhìn chung còn giới hạn ở từng địa phương nhỏ hẹp .

Đến như Thăng Long, mặc dù có nhiều phố phường với khu vực “thị”’ bên ngoài khu vực “đô” là thế, nhưng 61 phố phường vẫn mang tính chất hỗn hợp của cấu trúc xã hội nông nghiệp. Ở đây mối liên hệ giữa hoạt động nông - công - thương còn gắn bó chặt chẽ, lấy đơn vị gia đình làm cơ sở. Cái gọi là phố phường cũng chỉ là một biến thể theo phương thức chuyển dịch của làng, xã vào nơi đô hội.
 
Mặt khác cũng cần nhìn nhận rõ vị trí thuận tiện trong giao lưu tiếp xúc của đất nước trong mối liên hệ với các quốc gia khác trong khu vực. Do đó, quan hệ trao đổi với nước ngoài, tuy còn hạn chế, nhưng cũng đã xuất hiện như một nhu cầu tất yếu.

Sử sách đã ghi lại mối quan hệ buôn bán với Trung Hoa tấp nập ở các chợ vùng biên xuất hiện dọc biên giới Việt-trung gọi là bạc dịch trường. Có thể kể đến các điểm buôn bán lớn thời này như: Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Tô Mậu, Hoành Sơn, Giang Đông để cho dân địa phương và cả phu thương phía Trung Hoa đến buôn bán, trao đổi hàng hóa.


______________
1. Đỗ Văn Ninh: Tiền cổ thời Lý - Trần; Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số6 (189) tháng 11-12-1979.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 12:54:02 pm
Về các bạc dịch trường này, ông Hoàng Xuân Hãn đã nhận định: “trên những chỗ đường thông lộ lớn, qua biên giới, sự buôn bán khá thịnh và có tổ chức. Tống cũng như Lý, sợ người ngoài giả mạo vào buôn bán để do thám cho nên lúc thường, tuy cho đi lại thông thương, nhưng chỉ được tụ họp tại một nơi nhất định, gọi là bạc dịch trường1

Cùng với các bạc dịch trường, thời Lý còn có trang Vân Đồn. Sử chép: “Vào năm Kỷ Tỵ (1149) mùa Xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trao Oa (Java - Indonêxia), Lộ Lạc (thuộc vùng Thái Lan?), Xiêm La vào Hải Đông xin cư trú buôn bán bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương2.
 
Sự xuất hiện của trang Vân Đồn, một mặt phản ánh mối quan hệ giao lưu thương mại giữa Đại Việt với các quốc gia trong khu vực, mặt khác cũng phản ánh tinh thần cảnh giác của Nhà nước Đại Việt.

Hẳn rằng nhà nước quân chủ thời này đã thấy được yêu cầu cần thiết phải thiết lập thông thương với các quốc gia lân cận. dù mới chỉ ]à bước đầu, giới hạn ở một số điểm vùng biên cũng như hải đảo. Đồng thời, nhà nước cũng ý thức rõ ràng về cảnh giác trước con mắt dòm ngó, hoạt động thăm dò nội tình của người nước ngoài, vì mục tiêu bao vệ độc lập chủ quyền của dân tộc.

Với việc thiết lập các bạc dịch trường, tụ điểm buôn bán ở ngoài đảo, nhà nước quân chủ thời Lý trong mở mang kinh tế thương mại đã kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng.  Nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp là những hoạt động kinh tế quan trọng nhằm xây dựng đất nước và đảm bảo, thỏa mãn nhu cầu đời sống thường nhật của cơ dân.

Trong bối cảnh của một quốc gia nông nghiệp tồn tại và phát triển không bình thường với quá trình lịch sử hàng thiên niên kỷ trước thế kỷ X, tiếp đến những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Đại Việt, các mặt hoạt động kinh tế diễn ra chậm chạp, lấy nông nghiệp làm cơ sở. Quan niệm “dĩ nông vi bản” (lấy nông làm gốc) về mặt ngôn từ là du nhập, phản ánh mặt tiếp thu hội nhập văn hóa nói chung, ngôn ngữ văn tự nói riêng.

Tuy nhiên, đó cũng là sản phẩm bản địa đính thực, là tư duy của một xã hội nông nghiệp đã hình thành và đúc kết dần từ buổi bình minh của lịch sử. Quan niệm này đã chi phối mọi hoạt động, sinh hoạt của từng cá nhân đến cả cộng đồng.

Cũng từ quan niệm này, các nhà nước quân chủ độc lập từ thế kỷ X đã đưa ra những chủ trương, chính sách và hoạt động cụ thể. Dù không đưa ra những văn bản giải thích, thuyết minh, hướng dẫn, nhưng bằng những hành động có tính chất chỉ đạo, nêu gương, hoặc bằng pháp luật người ta dễ dàng nhận ra các nhà nước quân chủ thời kỳ này đặc biệt quan tâm đến nông nghiệp. Những tổ chức hoạt động công thương nghiệp xuất hiện nhiều từng tồn tại và mở mang từ bệ đỡ của nông nghiệp, nếu không muốn nói là bám chặt vào nông nghiệp.

Tất cả mọi hoạt động kinh tế của đất nước trong các thế kỷ này đều diễn ra trên cơ sở của một kết cấu ruộng đất còn tương đối đơn giản, trong đó sở hữu ruộng đất công do công xã quản lý và sử dụng còn chiếm ưu thế.

Hiển nhiên từ sau khi khôi phục được độc lập tự chủ, toàn bộ lãnh thổ, đất đai thuộc quyền quản lý của người đứng đầu Nhà nước Đại Cồ Việt rồi Đại Việt. “Đất vua” chính là khải niệm phản ánh sở hữu ruộng đất chung của nhà nước thời trung đại.

Tuy nhiên, người đứng đầu quốc gia là các nhà vua không trực tiếp quản lý, trừ một bộ phận nhỏ mà sử sách còn thép là “ruộng tịch điền”, “ruộng quốc khố”, còn lại tuyệt đại bộ phận ruộng đất do các công xã nông thôn quản lý, sử dụng và có nghĩa vụ phải nộp tô thuế cho nhà nước theo hình thức cống nạp.

____________________
1. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, bản in lại của Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1994, tr. 7980.
2. Toàn thư, Sđd, i.l, tr. 337, 338.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 12:59:37 pm
Nói rõ hơn, chủ sở hữu danh nghĩa là thuộc nhà nước do nhà vua đứng đầu, còn trong thực tế là giao quyền cho công xã quản lý, phân phối sử dụng, lấy gia đình làm đơn vị sản xuất. Ruộng tư đã từng xuất hiện dưới thời Bắc thuộc với các điền trang của bọn quan lại đô hộ và một bộ phận giàu có người bản địa.

Hẳn rằng từ đầu thế kỷ X, theo chân bọn thống trị đô hộ, điền trang của chung bị quét sạch. Nhưng điền trang của thổ hào bản địa hoặc của người ngoại tộc đã Việt hóa thì sao? Hẳn nó còn tồn tại như những mảnh sót trong cái biển ruộng công mênh mông. Ta có thể hình dung về loại ruộng này qua các trường hợp Lê Lương, Dương Đình Nghệ ở châu Ái, qua trang trại của 12 sứ quân ở những vùng “có máu mặt” của đồng bằng châu thổ.

Mặt khác, với người nông dân công xã, ít nhất những mảnh vườn riêng, những diện tích khai phá còn ẩn lậu của họ là mầm mống đầu tiên của ruộng đất tơ hữu. Nhưng số ruộng đất sở hữu tơ nhân này chiếm một tỷ trọng không đáng kể trong toàn bộ ruộng đất. Vào thế kỷ X, thời Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê chưa có biểu hiện về tính năng động của loại sở hữu tư nhân trong kết cấu ruộng đất.

Tình hình này phải đợi đến hai thế kỷ sau, vào thời Lý Thần Tông (từ 1128 đến 1138), Lý Anh Tông (từ 1138 đến 1175) ruộng tư từ những mầm mống ban đầu đã phát triển thành vấn đề buộc nhà nước quân chủ quan tâm can thiệp. 

Mở đầu cho hiện tượng này là việc xảy ra vào năm Mậu Thân (1128), vua Lý Thần Tông lên ngôi, hạ chiếu: “phàm dân có ruộng đất bị sung công cùng là bị tội phải làm điền nhi thì đều được tha cả1  . Ruộng đất bị sung công ở đây chính là ruộng tư mà chủ của nó bị tước quyền sở hữu. Qua thông tin này ta có thể nghĩ rằng ruộng tư hữu đã xuất hiện nhiều và được nhà nước quân chủ tôn trọng.

Cũng vào đời Thần Tông, năm Ất Mão (1135), nhà vua lại xuống chiếu: “Những người đã bán ruộng ao không được tăng tiền lên mà chuộc lại, làm trái thì phải tội2.
 
Dường như tình hình mua bán, tranh chấp ruộng đất vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, gay gắt cho nên sau Thần Tông, tiếp đến Anh Tông vào năm Nhâm Tuất (1142) đã phải xuống chiếu quy định việc mua bán và chuộc ruộng đất như sau: "những người cầm đợ ruộng thục (tức ruộng đất đang canh tác) trong vòng 20 năm thì cho phép chuộc lại, việc tranh chấp ruộng đất trong vòng năm năm hay mười năm còn được tâu kiện. Ai có ruộng đất bỏ hoang bị người khác cày cấy trồng trọt trong vòng một năm thì được kiện mà nhận, quá hạn ấy thì cấm. Làm trái thì xử 80 trượng. Nếu tranh nhau ruộng mà lấy đồ binh khí nhọn sắc đánh chết hay làm bị thương người thì đánh 80 trượng, xử tội đồ, đem ruộng ao ấy trả lại cho người chết hay người bị thương”. . . “Những người bán đoạn ruộng hoang hay ruộng thục đã có văn khế rồi thì không được chuộc lại nữa, ai làm trái bị phạt đánh 80 trượng3.

Hai năm sau, vào năm Ất Sửu (1145), vua Lý Anh Tông lại xuống chiếu: “Những người tranh nhau ruộng ao của cải không được cậy nhà quyền thế làm trái thì đánh 80 trượng, xử tội đồ4

Nếu như việc tranh chấp đi kèm với nó là mua bán ruộng đất giữa các cá nhân đã thành phổ biến vào đầu thế kỷ XII thì trước đó - thế kỷ X - XI chưa thấy sử ghi chép. Duy nhất có một hiện tượng, đó là trường hợp tranh nhau địa giới, thực chất là ruộng đất, xảy ra vào đầu thế kỷ XI. Nhưng việc tranh chấp này lại xảy ra giữa hai thôn Cổ Bi và Đàm Xá tức giữa hai cộng đồng công xã nông thôn, ở châu Ái (Thanh Hóa). Nhờ sự can thiệp của Lê Phụng Hiểu phần thắng thuộc về thôn Cổ Bi 5. Điều này nói lên ruộng đất vào lúc này còn thuộc quyền sở hữu chung, do làng xã, tức công xã nông thôn lệ thuộc, quản lý và sử dụng.
 
Như vậy là từ thế kỷ XII trở đi, kết cấu ruộng đất đơn giản với sự thống trị của ruộng công bắt đầu có những rạn nứt lớn. Bên cạnh ruộng đất công, có một bộ phận cấu thành mới - ruộng tư, đã hiện diện đáng kể và tỏ ra năng động, buộc nhà nước quân chủ thời Lý phải quan tâm. 


_______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 314.
2. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 326.
3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 333.
4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 334.
5. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 253.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 01:01:34 pm
Hiển nhiên một khi thứ bất động sản có giá trị số một gắn liền với cuộc sống của cơ dân nông nghiệp, đồng thời là cơ sở của công, thương nghiệp, trở thành hàng hóa thì lập tức kéo theo đó sự phân hóa xã hội là điều không tránh khỏi.  Tuy nhiên trong bối cảnh phát triển ở một mức độ còn khiêm tốn của công thương nghiệp như đã trình bày, thì thứ hàng hóa bất động sản số một này có được nhà nước quan tâm tôn trọng, cũng vẫn tồn tại chưa phải với quy mô lớn trong xã hội.

Phải đợi đến thế kỷ XIII với việc nhà nước bán ruộng công cho dân, cho phép vương hầu quý tộc lập điền trang vào các năm 1254, 1266, thì một tầng lớp chủ sở hữu lớn về ruộng đất (địa chủ quý tộc và địa chủ bình dân) mới thực sự xuất hiện. Nhưng đó lại là tình hình của thời Trần.

2. Kết cấu xã hội

Bước vào thế kỷ X, xã hội của cộng đồng các dân tộc quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt tồn tại và phát triển trong một bối cảnh hoàn toàn khác. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc trước thế kỷ X, xã hội này tồn tại chủ yếu với hình thức co cụm lại trong các tụ điểm cơ dân nhỏ hẹp - công xã nông thôn - để khả dĩ đương đầu có hiệu quả đối với bộ máy thống trị ngoại bang.

Cho dù trong xã hội công xã lúc này đã có sự phân hóa nhất định, nhưng nhìn chung cả tầng lớp nắm quyền quản lý, cũng như tuyệt đại bộ phận người lao động đều bị dồn về một tuyến của người dân mất nước, chịu kiếp sống nô lệ. Đối lập với họ là một tuyến khác gồm các quan lại phương Bắc cũng như bản địa, nắm quyền thống trị ở các cấp châu, quận, huyện. Nói rõ hơn quan đô hộ và dân bị đô hộ là hai tầng lớp xã hội rõ rệt.

Quan - một thiểu số nắm quyền lực cai trị và bóc lột; dân - tuyệt đại đa số trong xã hội. Tất nhiên kết cấu này không hoàn toàn ngừng đọng trong hơn một thiên mền kỷ thời Bắc thuộc. Trong quá trình vận động của xã hội cũng như trong quá trình tích tụ quyền lực và tài sản, tầng lớp giàu có ngoại tộc cũng như bản địa đã xuất hiện, có thể là các chủ trang trại mà ta thấy bóng dáng của họ ở tầng lớp quan, đầu mục, hào trưởng với số lượng biết được còn đếm trên đầu ngón tay vào những thế kỷ cuối thời Bắc thuộc.

Trên cơ sở này từ thế kỷ X trở đi, với việc khôi phục, bảo vệ độc lập tự chủ, phục hưng đất nước, xã hội Đại Cồ Việt - Đại Việt vận động phát triển trong điều kiện thuận lợi. Mọi dồn nén, áp đặt, cưỡng bức từ phía bọn đô hộ đã được tháo gỡ.

Tuy nhiên, trên cơ sở một nền kinh tế nông, công, thương nghiệp như đã trình bày, không phải một sớm một chiều đã có thể tạo nên những biến động lớn trong kết cấu xã hội. Nếu như về chính trị, thế kỷ X là một bước ngoặt lớn từ bị nô dịch đến độc lập tự chủ, thì về kết cấu xã hội cũng như về kinh tế, trong giới hạn của nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn đương thời là một bước tịnh tiến có mang ít nhiều tính đảo lộn.

Nhìn chung, trong bối cảnh giành đại được và bảo vệ thành công nền độc lập tự chủ vào thời này, điều trước hết là bài học lịch sử của hơn một ngàn năm chống đô hộ cho thấy mối gắn kết cả cộng đồng thành một khối là điều kiện tiên quyết cho mọi thắng lợi. Vấn đề không chỉ là suy lý, mà được rút ra từ thực tế qua những sự kiện, hiện tượng lịch sử phong phú, sinh động. Không phải không có cơ sở khi người ta nói nhiều đến một xã hội đơn giản với nhà nước thô phác, mộc mạc, dân dã ở thời kỳ này.

Nhưng dầu sao với sự ra đời của bộ máy nhà nước độc lập tự chủ, thì xã hội cũng được phân chia thành hai tầng lớp rõ rệt. Đó là tầng lớp cầm quyền quản lý đất nước mọi mặt và tầng lớp lao động nuôi sống xã hội nói chung và chịu sự quản lý của tầng lớp cầm quyền.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 01:02:24 pm
Tuy nhiên ở đây có sự khác biệt về chất trong kết cấu xã hội thời kỳ đang xem xét với xã hội thời Bắc thuộc. Các tầng lớp xã hội - nắm quyền quản lý và chịu sự quản lý - đều đứng cùng một tuyến. Họ đều là chủ nhân thực sự của đất nước.

Lịch sử đã chứng minh họ cùng xây dựng đất nước thành công và bảo vệ đất nước thắng lợi.  Như đã trình bày, xã hội này tồn tại trên cơ sở kinh tế nông nghiệp với kết cấu ruộng đất công thuộc quyền sở hữu của nhà nước, giao cho công xã - hương giáp trực tiếp quản lý, phân phối và sử dụng.

Sẽ không thấy được tính đa dạng, phức  tạp của một xã hội đang vận động và phát triển mạnh mẽ ở thời kỳ này nếu chỉ dừng ìại ở nhìn nhận một cách đơn giản về kết cấu xã hội như trên.

Do đó, một vấn đề thứ hai cần được quan tâm khi đề cập đến xã hội thời Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý, từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII. Đó là vấn đề xác định hướng xây dựng và phát triển xã hội sau khi giành được độc lập tự chủ từ tay kẻ thù đô hộ.

Hẳn rằng quá trình vận động của lịch sử đòi hỏi không thể dậm chân mãi ở một xã hội nông nghiệp với những mảnh rời rạc của các công xã nông thôn, liên minh công xã, hầu như tự trị, tự quản ở thời kỳ bị đô hộ. Sau khi lật đổ ách thống trị của ngoại bang, con đường đặt ra trước mắt là phải khôi phục, xây dựng và củng cố một nhà nước độc lập tự chủ có nguồn gốc từ thời Văn Lang - Âu Lạc.

Thế kỷ X là thế kỷ mò mẫm thử nghiệm đi đến định hướng cho một nhà nước quân chủ do nhà vua đứng đầu kể từ Ngô quyền xưng vương tiếp đến Đinh Bộ Lĩnh xưng đế. Lịch sử đã chứng minh việc định hướng, lựa chọn này là phù hợp và tỏ ra có tính ưu việt của nó.

Cho dù chế độ quân chủ với bộ máy nhà nước thời đó eòn đơn giản, thô phác, nghĩa là còn mang tính chất của một bộ máy quản lý tự trị của công xã mở rộng trên phạm vi cả nước thì cũng đã có sự phân chia xã hội thành hai tầng lớp thống trị và bị trị, mặc dù đều đứng cùng một tuyến như đã trình bày.

Tầng lớp thống trị ở đây bao gồm đội ngũ cầm quyền gồm vua, quý tộc và quan lại các cấp. Còn lại hầu hết là nông dân bao gồm một số ít chủ sở hữu ruộng đất, nông dân công xã, gia nô, nô tỳ... là những người lao động nuôi sống mình và nuôi sống dội ngũ cầm quyền phi sản xuất.

Còn lại phải kể đến một tầng lớp trung gian mà vai trò của họ còn in khá đậm trong lịch sử thời Kỳ này. Đó là tầng lớp tăng lử xuất hiện từ thời Đinh, nho sĩ các loại chứ yếu xuất hiện từ thời Lý. Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau và phục vụ đời sống tinh thần, văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng cho xã hội.

Một phác hoạ về kết cấu xã hội gồm ba tầng lớp như trên mới chỉ là nhận thức trên những nét lớn. Thực ra xã hội thời này cũng không đơn giản hoàn toàn khuôn vào cái khung cứng nhắc như vậy.

Ngay trong tầng lớp thống trị cũng ngày một phân cấp mạnh mẽ: vua. quý tộc, quan lại. không chỉ về danh phận, chức vụ mà còn đi kèm với quyền lực và cả về lợi ích hưởng thụ. Tầng lớp bị trị cũng vậy.

Sự xuất hiện của hàng hoá bất động sản ruộng đất cùng với tình hình mở mang của nông công Thương nghiệt theo thời gian đã có tác động phân chia cộng đồng xã hội của những người bị trị này thành những “cấu kiện” riêng biệt. Cho đến tầng lớp trung gian cũng không tránh khỏi tình trạng phân hóa.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 01:19:38 pm
Sự phát triển và vai trò độc tôn của Phật giáo suốt thời này sự tiếp thụ và bước đầu đặt cơ sở cho Nho giáo thâm nhập vào thế kỷ XI thời Lý cũng đã đem lại cho tầng lớp này một biến động không ngừng trong các môi trường hoạt động: chính trị, văn hóa xã hội, đời sống tâm linh của họ. Quá trình vận hành lịch sù từ đầu thế kỷ X cho đến đầu thế kỷ XIII đồng thời cũng là quá trình phân hoá dẫn đến bộ mặt sinh động của xã hội theo hướng phát triển phức tạp và đa dạng hơn. Chúng ta lần lượt tìm hiểu sâu về các tầng lớp cơ bản trên.

Vua - quan

Tuy được xếp chung vào tầng lớp thống trì nhưng thực ra ở đây gồm hai bộ phận rõ rệt. Đó là vua, quý tộc bao gồm hoàng tử. công chúa, phò mã thân tộc của nhà vua, và tầng lớp quan lại các cấp thu nhận thêm từ nguồn phì tông thất, tức từ tầng lớp bình dân.

Kết cấu này xem ra cũng tựa hồ là kết cấu chung của tầng lớl thống trị trong lịch sử thời trung đại ở nước ta.  chứng thực ra ở thời này nó có nhiều điểm khác so với các thời kỳ sau.

Vua thì thời nào cũng vậy. là người đứng đầu thiên hạ, cầm đầu bộ máy nhà nước. Nhúng vua và tiếp đến quý tộc thời kỳ này cũng mang những nét khác biệt.  Trước hết về nguồn gốc các bậc vua mở đầu vương triều, kể cả thời “tiết độ sứ”, đều xuất thân từ nghiệp võ.

Đó là Ngô Quyền - bộ tướng đồng thời là con rể của họ Dương, Đinh Bộ Lĩnh - người cầm đầu đội quân dẹp loạn; Lê Hoàn là Thập đạo tướng quân của vương triều Đinh: Lý Công Uẩn là Thân vệ tướng quân điện tiền chỉ huy sứ thời Lê Long Đỉnh. Đó là các vua sáng nghiệp, còn các vua kế nghiệp thì chính bản thân nhà vua cũng trực tiếp tham gia dẹp loạn và chống giặc. Nghĩa là họ cũng thạo về binh nghiệp.

Nguồn gốc võ tướng và binh nghiệp của các vua thời này từng khiến người ta nghĩ đến vai trò của các thủ lĩnh quân sự từng xuất hiện ở thời kỳ thị tộc bộ lạc. Từ thế kỷ X trở đi, cái gọi là chất “thủ lĩnh quân sự” của các bậc đế vương chỉ phản ánh nhu cầu của một thời mà hoạt động quân sự xuất hiện với một tần số cao, nhằm giành lại nền độc lập dân tộc, xây dựng và củng cố một nhà nước quân chủ tập quyền, tổ chức chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc còn nổi lên hàng đầu. 

Đó là bối cảnh của một xã hội đòi hỏi phải có những hoạt động quân sự mạnh mẽ với vai trò của binh nghiệp. Vào thời này xã hội đã tiến được một bước dài. Quyền lực của các bậc đế vương không chỉ tồn tại và dựa hoàn toàn vào uy tín cá nhân, vào tài năng quân sự của cá nhân như các thủ lĩnh thời thị tộc, bộ lạc. Sự tồn tại của quyền lực đế vương còn phải có sự hỗ trợ của tổ chức bộ máy nhà nước cùng với pháp luật, dù còn dân dã như thời Đinh hoặc đã thành văn bản như Hình thư thời Lý. Tóm lại, quyền lực đế vương phải dựa vào sức mạnh của bạo lực.

Mặt khác, ta thấy rất rõ vào thời kỳ này, các vua cũng mang danh thiên tử, nhưng trong đời thường họ còn rất dân dã. Giữa nhà vua và dân chưa dựng lên một bức tường ngăn cách đến khủng khiếp. Nhà vua còn trực tiếp cầm quân tham gia dẹp loạn, chống giặc, cày ruộng, dự lễ hội. . . Nói đến mối quan tâm gần gũi với dân của các bậc đế vương thời này, người ta không thể không nhắc tới một số trường hợp điển hình có ý nghĩa hướng dẫn hành vi đầy lòng nhân ái thân dân của các vua Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông và lời trăng trối của Lý Nhân Tông.

Sử chép vào năm Thuận Thiên thứ 3 (1012), vua Lý Thái Tổ đã làm cung Long Đức ở ngoại thành cho Khai Thiên vương Phật Mã ở với mục đích cho thái tử hiểu biết được mọi việc của dân 1.
 
Chính Thái tử Phật Mã khi nối ngôi tức Lý Thái Tông, đã đặt lầu chuông ở hai bên sân rồng vào năm 1029 để cho dân chúng ai có việc oan uổng thì đánh chuông để nhà vua trực tiếp xem xét 2. Việc làm này còn được vua kế nghiệp là Lý Thánh Tông lặp lại vào năm Nhâm Thìn (1052) “đúc chuông lớn để ở Long Trì, cho dân ai có oan ức gì không được bày tỏ thì đánh chuông ấy để tâu lên3.


____________________________
1. Toàn thư, Sđd, 1.1, tr. 244.
1. Toàn thư, t.l, Sđd, tr. 259.
2. Toàn thư, t.l. Sđd, tr.279.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:37:04 pm
Sử Còn chép, vừa mới lên ngôi, vua Lý Thánh Tông vào năm ất Mùi (1055) nhân trời rét, nói với cáo quan tả, hữu rằng: “Trẫm ở trong cung, nào lò sưởi ngự, nào áo lót hồ cầu còn rét như thế này, nghĩ đến người tù giam trong ngục khổ sở về gông cùm, chưa biết rõ ngay gian mà ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và cấp cơm ăn ngày hai bữa1.

Lại vào năm Giáp Thìn (1065) nhân lúc xử kiện ở điện Thiên Khánh có công chúa Động Thiên đứng hầu, vua Lý Thánh Tông chỉ vào công chúa bảo với lại ngục rằng: "ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót. Từ nay về sau, không cứ gì tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm2 .

Nếu như Lý Thánh Tông (từ 1054 - 1072) bắt đầu đế nghiệp của mình đã nghĩ đến các việc làm khoan thư đối với dân thì Lý Nhân Tông (1072 - 1128) lại khác. Đời làm vua gồm 56 năm, ông đã được tôi luyện, trưởng thành và lập được kỳ tích phá Tống, bình Chiêm. Ông từng được sử chép là “sáng suốt thần võ trí tuệ hiếu nhân, thần giúp người theo . . . . dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua giỏi của triều Lý " 3.

Ấy vậy mà trước lúc lâm chung, nhà vua để di chiếu khi ai tốn tự nhận, ta: . . . “Ta ít đức không lấy gì cho trăm họ được yên, đến khi chết lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào?.... Việc tang thì chỉ ba ngày bỏ áo trở nên thôi thương khóc, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế4.

Lời trăng trối này được vua Lý Thần Tông kế vị thực hiện. Việc làm này bị sử gia Lê Văn Hưu, thế kỷ XIII, đem quan điểm lễ giáo Nho giáo phê phán: “Con nhỏ lên ba tuổi rồi mới rời khỏi lòng ôm ẵm, mới khỏi [gọi là] mất mẹ, cho nên từ thiên tử cho đến dân thường, tuy sang hèn khác nhau mà tình thương nhớ ba năm thì là một (....). Thần Tông còn nhỏ tuổi, bề tôi trong triều cũng lấy việc để tang ngắn làm may, không ai có một lời nói đến. Có thể bảo là trong triều không có người vậy” 5.

Việc phê phán của Lê Văn Hưu càng cho ta một ý niệm rõ ràng về tính “dân dã”, “thuần phác” của các vua thời Lý.

Có thể kể thêm ví dụ điển hình về hành vi thuộc loại quan tâm đến dân của bậc thái hậu. Cũng vào thời Lý Nhân Tông, năm Quý Mùi (1103), trước tình hình trong dân gian có nhiều người phải bán mình đi ở đợ đến nỗi không có vợ, có chồng, Thái hậu Linh Nhân (mẹ Lý Nhân Tông) phát tiền ở kho nội phủ để chuộc lại rồi gả chồng cho họ 6.  Sử thần Ngô Sĩ Liên đã bình việc làm này: “Thái hậu đổi đời cho họ cũng là việc làm nhân chính vậy”. 

Hãy khoan nói đến cái “từ bi bác ái” của nhà Phật đã in đậm trong nhân sinh quan thời này, chỉ xét về mặt gắn bó giữa tầng lớp cầm quyền với dân chúng, thì hiện tượng trên quả là hiếm thất có thể nói là không còn ở các vua chúa sau này. 

Tuy nhiên sẽ là sai lầm cực đoan khi quá nhấn mạnh đến tính thân dân của tầng lớp vua chúa, quý tộc thời này mà bỏ qua bức tường rào, dù chưa phải đã kiên cố, ngăn cách giữa tầng lớp thống trị và bị trì đã thực sự xuất hiện dể ngày càng rõ nét cùng với sự phân hoá xã hội. 

Riêng về trang phục, sự phân biệt giữa vua quan không phải đợi đến thời Lý, mà ngay từ thế kỷ X, theo sử sách thời Ngô quyền đã có quy định về triều nghi phẩm phục. Cho đến đầu thế kỷ XI, thời Lê Long Đỉnh vào năm 1006 đã “đổi lại quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo, theo đúng như nhà Tống 7.


____________________
1. Toàn thư, t.1. Sđd, tr.279.
2,3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 284, 288. 
4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 312.
5. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.313.
6. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.298.
7. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 232, 335.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:40:41 pm
Vua Lý Anh Tông vào năm 1145 có lệnh “cấm các thợ bách tác không được làm đồ dùng theo kiểu nhà nước tự tiện bán cho dân gian1. Đến như Lý Nhân Tông là ông vua anh minh, võ công văn trị rạng rỡ, cho đến lúc qua đời còn ôm mối lo “không lấy gì làm cho trăm họ được yên”, nhưng cũng là ông vua rất có ý thức tạo nên một sự cách biệt trong sinh hoạt của dân với các tầng lớp trên.  Sử chép năm Đinh Sửu (1097) “cấm dân bách tính không được xây nhà ngói, làm thuyền lớn”, hoặc năm Kỷ Mão (1099) “cấm phụ nữ ở kinh thành không được bắt chước lối ăn mặc trong cung”.

Về phương diện kinh tế qua sử sách, một bức tranh hiện ra tuy mờ nhạt nhưng cũng đủ để phân rõ các mảng mầu đen trắng phản ánh lợi ích của tầng lớp thống trị so với trăm họ.

Như đã trình bày, với một quốc gia nông nghiệp, công thương nghiệp yếu ớt ở thời kỳ đang đề cập tới thì ruộng đất  và hoa lợi sinh ra từ ruộng đất là nguồn lợi kinh tế cơ bản để nuôi sống xã hội và xây dựng đất nước. Thời Ngôi Đinh, Tiền Lê, toàn bộ ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước thể hiện qua tô thuế mà các công xã phải nộp cho nhà nước. Tổ chức thu nạp thuế thời này ra sao sử không chép, từ thời Lý trở đi, có chép đôi điều.

Sử chép vào năm Quý Sửu (1013), tức bốn năm sau khi lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đã quy định về thuế khóa trong nước, chia làm sáu loại như sau:

1- Ao hồ, ruộng đất,

2- Tiền và thóc về bãi dâu,

3- Sản vật ở núi nguồn các phiên trấn,

4- Cáo quan ải xét hỏi về mắm muối,

5- Sừng tê, ngà voi, hương liệu của người Man Lão,

6- Các thứ gỗ và hoa quả ở đầu nguồn.

Tất cả đều đặt rõ lệ ngạch để đánh thuế. . . Cho các vương hầu, công chúa được quản các thứ thuế theo thứ bậc khác nhau 2.
 
Rất có thể đây là một hình thức chuyển tiếp trong việc thu thuế ở buổi đầu của thời kỳ này. Ta biết thời Tiền Lê, Lê Hoàn đã phong vương cho 11 người con và chia nhau đi quản giữ các nơi. Điều đó cũng có nghĩa là họ được quyền quản lý và hưởng quyền lợi từ nhân tài, vật lực ở địa phương được phân bổ.

Sang thời Lý, nhà nước cũng quy định như trên, có nghĩa là vương hầu công chúa được quyền trơng thu các loại thuế và nộp lại cho nhà nước theo một tỷ lệ nhất định. Dù dưới hình thức nào thì vương hầu quý tộc vẫn là người được chia sẻ phần tô thuế mà cộng đồng công xã phải nộp dưới hình thức cống nạp.

Dường như tình hình này không kéo dài bao lâu. Bởi vì vào năm 1042, đời Lý Thái Tông, sử có chép đến một loại quan lại thu thuế với phép “hoành đầu”, cho phép được hưởng không quá 1/10 tổng số nhập kho 3. Và vào năm 1092 đời Lý Nhân Tông mới thực sự lập sổ ruộng gọi là “điền tịch”, thu thuế mỗi mẫu ba thăng 4.
 
Qua nguồn thông tin trên, ta có thể nhận định được rằng vào thời Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý, trong tầng lớp thống trị, vua, quý tộc, tông thất tạo thành một khối, là hạt nhân của bộ máy nhà nước quân chủ. Họ chia nhau trách nhiệm và quyền lợi trong những thế kỷ đầu của quốc gia Đại Việt. 

Cái tính chất quý tộc cũng như ý thức thân dân của bộ máy nhà nước quân chủ thời này còn tỏ ra ưu việt và phát huy hiệu lực trong dựng nước và giữ nước ở vài thế kỷ sau thuộc nửa đầu thời Trần.

Cuối cùng, trong đội ngũ tham gia cầm quyền, quản dân, giữ nước thời này ta còn phải kể đến tầng lớp quản lý cấp cơ sở. Có nhiều khả năng ở thời kỳ này cầm đầu cấp cơ sở, giữ nhiệm vụ cầu nối giữa dân công xã lệ thuộc với nhà nước là các bậc bô lão đạo cao đức trọng, có nhiều kinh nghiệm và do đó có uy tín trong dân chúng và được nhà nước giao phó trách nhiệm quản lý làng xã. Tình hình này cũng chỉ là sự kế thừa chế độ tự quản và phát huy truyền thống trọng lão, lão quyền vốn có trong công xã.

Cho đến đầu thời Trần ta mới thấy nhà nước đặt chức xã quan vào năm 1242, tức bên cạnh bộ phận quản lý cổ truyền, nhà nước quân chủ đã đặt một bộ phận nắm quyền lực do nhà nước cắt cử. Trong tình hình đó người ta dễ dàng nhận thấy ở cấp cơ sở, hay nói rõ hơn là đội ngũ nắm quyền ở cấp cơ sở thời này (từ thế kỷ X - đầu XIII) thật sự là của dân, từ dân mà ra. Chính họ có vai trò quan trọng trong việc gắn bó bộ máy cầm quyền nói không với cộng đồng dân chúng chịu sự quản lý của một bộ máy nhà nước quân chủ còn thô phác.


______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 232, 335.
2. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 245.
3.4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 271, 296.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:43:03 pm
Các tầng lớp nhân dân

Nói đến các tầng lớp nhân dân trong bồi cảnh lịch sử của các thế kỷ X - đầu XIII là nói đến một khối cộng đồng cơ dân bắt đầu có sự phân tầng từ những sự khác nhau ở địa vị, tài sản, nghề nghiệp. Tuy nhiên tất cả đều có điểm chung nhất, họ đều chịu sự quản lý, cai trị của bộ máy nhà nước quân chủ đứng đầu là nhà vua, vương hầu quý tộc làm hạt nhân và quan lại các cấp là chỗ dựa.

Tập thể gồm nhiều lớp lang này là sản phẩm của một xã hội trên đường phát triển, đồng thời là đối tượng chịu tác động mạnh mẽ để từ một xã hội phân hóa chưa triệt để thành một xã hội gồm nhiều giai cấp có lợi ích đối kháng rõ rệt ở thời kỳ sau.

Đông đảo nhất, hay nói một cách khác, tuyệt đại đa số trong nhân dân thời này là tầng lớp lao động nông nghiệp, từ nông dân công xã. Chính họ chứ không phải ai khác là những người làm nghề nông kết hợp với thủ công gia đình. Và họ cũng là người thực hiện việc trao đổi sản phẩm thừa trong một thị trường nhỏ hẹp của công xã, liên công xã.

Suy cho cùng, chẳng phải ở thời này, mà trong suốt trường kỳ lịch sử của quốc gia nông nghiệp như nước ta cho đến nay, dù xã hội đã thay đổi khâu nhiều, thì nông dân vẫn chiếm đa số tuyệt đối trong dân cư. Chỉ có điều người lao động nông nghiệp thời kỳ này có khác so với thời sau. đặc biệt từ thế kỷ XV trở đi.

Sự khác nhau cơ bản ở chỗ từ thế kỷ XV trở đi sở hữu tư nhân về ruộng đất đã xuất hiện khá phổ biến, bên cạnh tầng lớp chủ sở hữu nhiều ruộng, một bộ phận khá đông trở thành tiểu nông, nghĩa là có ruộng đất tư dù chỉ là chút ít không đủ sống, còn phải bán sức lao động cho người nhiều ruộng.

Trái lại ở các thế kỷ X - đầu XIII, như phần kết cấu ruộng đất đã trình bày, chế độ sở hữu ruộng đất công chiếm ưu thế tuyệt đối thì đại bộ phận nông dân lúc này gắn bó chặt chẽ với công xã qua ruộng đất công mà công xã được nhà nước trao quyền quản lý, phân phối và sử dụng.

Là thành viên của làng xã (công xã lệ thuộc) họ cũng đồng thời là thần dân của nhà vua. Họ làm nghĩa vụ thành viên công xã cũng tức là làm nghĩa vụ công dân. Công thức này không có được ở hơn một ngàn năm bị đô hộ trước thế kỷ X. Nó xuất hiện với các mối quan hệ gắn bó: cá nhân được giải phóng - làng xã được tự quản - nhà nước độc lập tự chủ và tồn tại bền vững trong trường kỳ lịch sử.

Do đó, nó được cộng đồng quốc gia và cộng đồng làng xã có ý thức duy trì, vun đắp.  Trong cộng đồng nhân dân thời kỳ này có thể nhận ra ba tầng lớp rõ nét. Trước hết, đó là đại bộ phận nông dân công xã không có ruộng tư hữu, chỉ là chủ nhân của căn nhà ở, mảnh vườn nho nhỏ, công cụ sản xuất đơn giản với sức lao động của mình.

Họ có quyền lợi và tự nguyện thực hiện nghĩa vụ lao động của một thành viên cộng đồng làng xã. Qua đó họ được nhà nước và làng xã đảrn bảo mọi quyền lợi theo luật tụe hoặc bằng luật pháp có lẽ còn sơ lược được đúc kết lại trong Hình thư được ban hành vào năm Nhâm Ngọ (1042) đời Lý Thái Tông 1.

Một tầng lớp nông dân khá giả hơn, có nghĩa là họ đã có ít nhiều ruộng đất tư hữu mà nhà nước quân chủ đã thừa nhận và bảo vệ qua quy định thể lệ mua, bán, chuộc vào thời Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, hoặc trả lại ruộng đất của dân bị sung công quy định vào năm 1128 đời Lý Thần Tông.

Tầng lớp nông dân công xã có ít nhiều ruộng đất tư hữu này là tầng lớp xã hội năng động. Họ có thể tích luỹ tài sản để giàu có hơn hoặc ngược lại. Nhưng xét về thành phần, họ có nghĩa vụ và quyền lợi không khác so với tầng lớp nông dân công xã lệ thuộc. Họ phải cố kết trong công xã lệ thuộc để tồn tại.


______________________
1  . Toàn thư, t. 1, Sđd, tr. 2 71. Theo Lê quý Đôn trong Nghệ văn chí thì bộ luật này gồm ba quyển “sai cơ quan trung thư biên soạn có tham khảo châm chước, thích nghi, xếp theo môn loại, biên tập thành điều mục bạn hành, nay không còn”. Lê quý Đôn toàn tập, t III Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.103.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:45:10 pm
Có địa vị thấp nhất trong các tầng lớp nhân dân thời này phải kể đến nô tỳ có nguồn gốc từ những người bị tù tội, vợ con bị sung làm nô, hoặc do nghèo túng phải bán mình làm nô, và một nguồn khác nữa là tù binh. Dường như một khi biến thành nô tỳ, trừ quan nô, họ bị lệ thuộc vào chủ, tuột khỏi sự quản lý của nhà nước, không có nghĩa vụ phu thuế, binh dịch.

Ta biết hoàng nam là đối tượng chính trong huy động phu phen, binh dịch của nhà nước. Vì vậy nhà nước thời này rất có ý thức bảo vệ hoàng nam, cấm biến hoàng nam thành nô bộc. Nhà Lý đã tiến hành kiểm soát hộ tịch nghiêm ngặt.  Dân đinh đến 18 tuổi thì biên vào sổ vàng gọi là hoàng nam, 20 tuổi là đại hoàng nam.

Trên cơ sở này, vua Lý Thái Tông vào năm Quý Mùi (1043) đã xuống chiếu: “kẻ nào đem bán hoàng nam trong dân làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc eho người thì cũng đánh trượng như thế, thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm một bậc1.

Đến vua Lý Nhân Túng sử chép vào năm Quý Hợi (1083) lại duyệt hoàng nam định làm ba bậc, đại hoàng nam, hoàng nam và tiểu hoàng nam 2

Về tầng lớp nô tỳ thời này cũng bao gồm hai loại: quan nô và tư nô. Quan nô có lẽ chủ yếu từ nguồn tù binh và tù tội. Hình như quan nô chịu một thân phận thua thiệt, thấp kém hơn tư nô. Ta biết được điều này qua việc quy định nô bộc, gia nô, tạo lệ, nô tỳ, tức tư nô một khi vi phạm các điều như: thích dấu vào người như cấm quân, xăm hình rồng hoặc cậy thế chủ đánh đập quan quân và bách tính thì bị sung làm quan nô 3.
 
Là lớp người có thân phận thấp nhất trong các tầng lớp nhân dân, chịu thân phận nô bộc, nhưng họ không mất quyền tự do nhân thân, họ còn được nhà nước xuất tiền kho chuộc lại và dựng vợ gả chồng. Về mặt pháp lý, họ bị cấm không được lấy con gái lương dân làm vợ (quy định đời Lý Thần Tông, năm 1128), hoặc gia nô của vương hầu công chúa không được lấy con gái của quan chức đô và bách tính (quy định năm 1131).

Từ quy định trên ta suy ra chuyện nô tỳ lấy con gái lương dân, gia nô của vương hầu lấy con gái của quan chức đô và bách tính đã diễn ra trong đời thường.  Qua đó ta hiểu được trong thực tế thân phận của tầng lớp này không hoàn toàn bị tách ra khỏi cộng đồng, ngược lại họ còn được cộng đồng bao dung, pháp luật nhìn nhận.

Ta không có cơ sở để định lượng tỷ lệ tầng lớp nô tỳ trong xã hội, nhưng sẽ có lý khi suy đoán rằng cùng với sự phân hóa xã hội, tầng lớp này sẽ phát triển đê trở thành một lực lượng đáng kể trong xã hội thời Trần.

Qua tìm hiểu về cán bộ phận cấu thành trong các tầng lớp nhân dân ta thấy được phần nào mức độ phân hóa xã hội chưa sâu sắc ở thời kỳ này. Tuy không phải là đồng nhất bao gồm nhiều lớp lang, nhưng dường như trong xã hội nông nghiệp gồm cộng đồng cơ dân với các tầng lớp khác nhau đó đang vận động theo chiều hướng cố kết nhau lại để tồn tại và phát triển.

Như vậy, xã hội thời Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý chưa phát triển đến mức xuất hiện tình trạng phân hóa sâu sắc. Ngược lại xã hội đó còn có xu hướng gắn bó gần gũi với nhau trong cộng đồng quốc gia vừa mới giành lại được độc lập tự chủ, còn phải ra sức bảo vệ nó, và phải cùng nhau xây dựng, đưa đất nước vào quỹ đạo phục hưng mạnh mẽ.


_______________________
1, 2,3. Toàn thư, t.1, Sđd, tr. 273, 294, 304, 320.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:47:07 pm
Tầng lớp tăng lữ, Nho sĩ trí thức

Trong xã hội Đại Cồ Việt - Đại Việt vào các thế kỷ X - đầu XIII ta thấy có mặt một tầng lớp khá nổi trội với vai trò không nhỏ. Đó là tầng lớp trí thức tăng lữ, tiếp đến Nho sĩ.  Rõ ràng rằng Nho học đã theo chân quan lại đô hộ phương Bắc vào nước từ nhưng thế kỷ đầu Công nguyên mà sử sách có chép đến vai trò của Sĩ Nhiếp (186-296 sau Công nguyên).

Nhưng từ bấy trở đi, trong vòng ngót một ngàn năm việc học hành cũng chỉ dừng lại ở khu vực ly sở các châu quận và đến được với một bộ phận nào đó thuộc tầng lớp trên của xã hội. Người theo học có muốn tham gia thi cử cũng phải sang Trung quốc. Số người đỗ đạt cũng thật hiếm hoi.

Theo sử sách ta được biết chỉ có hai anh em họ Thưởng là Thưởng Công Phụ và Thưởng Công Phục người Cửu Chân, tức Thanh Hóa ngày nay. đều đậu tiến sĩ và làm quan nhà Đường vào những thập niên 70 - 80 của thế kỷ thứ VIII. 

Sử chép vào năm Giáp Tí (năm 784) , “Người quận Cửu Chân là Thưởng Công Phụ làm chức quan ở nhà Đường, đậu tiến sĩ, bổ làm hiệu thư lang” và “Em là Thưởng Công Phục cũng đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Bắc bộ thị lang” 1.

Tình hình trên cho phép nghĩ rằng trong thời Bắc thuộc, khoa cử không có ở nước ta đã đành, còn việc học cũng khá hạn hẹp. Tình hình này còn kéo dài. Cho đến thế kỷ XI triều Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông vào các năm 1070- 1075, việc lập Văn miếu và khoa thi Minh kinh bác học mới bắt đầu xuất hiện. 

Tuy vậy cho đến cuối thời Lý (1225) cũng chỉ có được tất cả là năm khoa vào các năm l075, 1086, 1152, 1185, 1193.  Ngoài ra còn một khoa thi tam giáo (Nho Phật Đạo) vào năm 1195. Về khoa thi này không lấy học vị Minh kinh bác học, sử chỉ chép: “Thi tam giáo, cho đỗ xuất thân” 2.

Trong vòng 120 năm, từ 1075 đến năm 1195 mà chỉ có sáu khoa thi, lấy được 27 người đỗ Minh kinh bác học (tương đương tiến sĩ sau này) thì quả là quá chậm chạp, ít ỏi. Điều này một mặt phản ánh việc học và thi Nho học đã được nhà nước quân chủ thời Lý chính thức tiếp thu, mặt khác ta biết được trong thời Lý giáo dục khoa cử cũng chỉ là mới bắt đầu với một kết quả còn rất khiêm tốn.

Tình hình này có thể có hai lý do: thày học và trường học còn thiếu vắng và tiếp nữa là khoa cử chưa phải là biện pháp duy nhất được sử dụng để tuyển chọn quan lại bổ sung cho bộ máy nhà nước quân chủ thời này. 

Tuy nhiên không thể căn cứ vào việc học hành thi cử chưa phát triển ở thời kỳ này, đặc biệt còn chưa xuất hiện ở thế kỷ X và nửa đầu thế kỷ XI mà cho rằng bước vào thời kỳ độc lập tự chủ trong xã hội còn vắng mặt một tầng lớp trí thức. Đội ngũ này đã xuất hiện từ trước mà nhà chùa là nơi học tập rèn luyện và các bậc cao tăng là người dạy dỗ đào tạo.

Ta biết Phật giáo đã có mặt ở nước ta khá sớm ít nhất là từ thế kỷ III sau Công nguyên với trung tâm Luy Lâu nổi tiếng và phát triển mạnh ở thế kỷ X. Chính đội ngũ tăng lữ là người đã học tập chữ Hán, dùng chữ Hán làm công cụ chuyển tải, phổ biến đạo Phật.

Dù hiếm hoi, theo sử sách ta cũng có thể lập một danh sách các vị trí thức tăng lữ từng tham gia chính sự, góp phần đắc lực trong các lĩnh vực chính trị ngoại giao, văn hóa, phục vụ cho nhà nước quân chủ thời này. Đó là Ngô Chân Lưu, Trương Ma Ni, Đặng Huyền Quang với vương triều Đinh; Pháp Thuận, Quách Nhung, Vạn Hạnh, Viên Chiến, Từ Đạo Hạnh, Khô Đầu, Không Lộ, Giác Hải, Thảo Đường, Khánh Văn... thời Tiền Lê và thời Lý.

Nhìn chung đội ngũ trí thức, dù tăng lữ hay Nho sĩ, cũng không phải đều xuất thân từ một tầng lớp xã hội thuần nhất. Họ xuất hiện trong xã hội đối với bộ máy nhà nước quân chủ cũng như đối với các tầng lớp nhân dân như những bậc trí giả, hiểu biết có hệ thống Phật, Nho và là vốn quý của xã hội. Họ tiêu biểu nho tri thức của thời đại.

Ở thời này người ta thấy họ có ý thức nhập thế một cách tích cực, đặc biệt là tri thức tăng lừ, họ đem tri thức của mình để giáo hóa mọi người, sáng tác văn học, góp phần xây dựng đất nước.  Sự phát triển đến cực thịnh của Phật giáo và bước đầu xây dựng giáo dục khoa cử vào thời Lý xuất hiện đồng thời với việc một đội ngũ sơ tăng cùng nhiều Nho sĩ xuất thân khoa bảng tham chính cho phép ta hình dung rõ điều này. 


_____________________-
1. 2. Toàn thư, t.1, Sđd, tr. 182, 355.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:49:07 pm
Để đảm bảo đời sống và hoạt động xã hội, tảng lữ có người tham chính được nhà nước cấp bổng lộc, hoặc trụ trì một ngôi chùa, có ruộng đất nô tỳ. Họ gắn chặt với đời sống của dân, hòa quyện với các hoạt động xã hội và là hạt nhân trong đời sống tâm linh của mọi tầng lớp, cả giới cầm quyền và các tầng lớp bị trị.

Có thể hình dung tầng lớp này vào buổi bình minh của văn minh Đại Việt như một mắt xích giữ vị trí cầu nối, kết dính cộng đồng dân tộc, đồng thời là chất men kích thích quá trình vận động của xã hội. Vết rạn nứt giữa Nho và Phật cũng như những mặt tiêu cực của Phật chưa xuất hiện ở thời Lý. Vấn đề này sẽ bộc lộ dần ở các thế kỷ sau, đặc biệt từ cuối Trần (thế kỷ XIV). 

Tóm lại, sự phân chia, nhìn nhận kết cấu xã hội thế kỷ X - đầu XIII gồm ba tầng lớp có vị trí, vai trò, chỗ đứng trong xã hội như trên cũng chỉ là một cách làm để nhận chân bộ mặt xã hội còn đơn giản với những ranh giới đã có nhưng chưa hẳn đã rạch ròi.

Ở một phương diện nào đó, điều này nói lên mặt hạn chế, phát triển chậm của xã hội nông nghiệp trong vòng hơn ba thế kỷ, từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII.

Nhưng ở một phương diện khác điều này lại phản ánh đặc trơng hài hòa và xu hướng cố kết của cộng đồng dân tộc đang cần phải xiết chặt đội ngũ để chống hành động xâm lược từ nhiều phía và tạo cho mình một sức mạnh để tồn tại và phát triển.

3. Thể chế chính trị

Sau khi giành lại được quyền độc lập tự chủ, trong bối cảnh phức tạp ở buổi giao thời, đất nước còn phải để một thời gian bảo lưu tổ chức chính quyền tiết độ sứ. Đó là thời của họ Khúc, họ Dương. Chính quyền tiết độ sứ là sản phẩm của nhà Đường đặt ở các châu quận vùng biên viễn.

Tiết độ sứ là chức danh người đứng đầu, được ban tiết việt 1, được nhà vua trao toàn quyền quản giữ và giải quyết mọi việc theo chủ trương của triều đình. Hàng năm tiết độ sứ phải tiến triều và dâng nộp phú cống cho nhà vua theo quy định. Thực chất đó là một loại hình tự trị ở vùng biên viễn mà triều đình trung ương chưa trực tiếp với tay đến được. 

Ngay từ đầu thế kỷ X, chính quyền tiết độ sứ thời họ Khúc, với tư cách là một bộ máy hành chính quản lý quốc gia độc lập tự chủ, đã tiến hành những cải cách được sử sáCh ghi chép. Thay cho chính sách cai trị hà khắc của bọn thống trị đô hộ, họ Khúc đã thực hiện một chính sách “cốt chuộng khoan dung giản dị - nhân dân đều được yên vui” 2
 
Để biểu thị chủ quyền lãnh thổ và cư dân, Khúc Hạo đã tiến hành việc chia đặt lại tên gọi các đơn vị hành chính các cấp: quận đổi thành lộ, huyện thành phủ, châu và hương thành giáp, xã. Họ Khúc tiến hành cải cách thuế (bình quân thuế ruộng), tha bỏ lực dịch, khai hộ khẩu. Mọi việc được tiến hành ở cấp cơ sở, giao cho giáp trưởng trông coi. 

Tổ chức bộ máy quản lý này vừa có tính chất tập dượt vừa để thăm dò, đối phó với chính quyền Trung Hoa, lúc này có quan hệ mật thiết là nhà Hậu Lương (907 - 923), và tiểu vương quốc Nam Hán (từ năm 917). Không phải là nhà Hậu Lương, mà chúa Nam Hán đã hai lần tiến hành xâm lược nước ta vào các năm 930, 938 đều bị thất bại.

Sau thắng lợi chống giặc Nam Hán lần thứ hai vào cuối năm 938 thì danh hiệu tiết độ sứ, biểu thị sự lệ thuộc vào phương Bắc không còn lý thế tồn tại. Ngô Quyền xưng vương, từ chối Đại La - lỵ sở của chính quyền đô hộ - định đô ở Cổ Loa, tiếp nối truyền thống độc lập tự chủ từ quốc gia Âu Lạc của vua Thục, từng tồn tại hơn 1.000 năm trước.


_______________________
1. Tiết là cờ tiết mao, việt là lưỡi búa lớn có cán dài, tượng trưng cho quyền uy được nhà vua ban cho người đứng đầu một địa phương.
2,3. Cương mục. Sđd, t.2, tr. 41.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:50:27 pm
Từ vương quyền triều Ngô (năm 939) đến đế quyền triều Đinh (năm 968), một bộ máy nhà nước quân chủ đã thực sự được khởi dựng với đầy đủ ý nghĩa của nó, thực hiện quyền quản lý quốc gia độc lập tự chủ. Đó là Nhà nước Đại Cồ Việt (Đinh - Tiền Lê) tiếp đến Nhà nước Đại Việt (triều Lý, từ 1054).

Bộ máy nhà nước quân chủ này bao gồm một triều đình do nhà vua đứng đầu và một hệ thống quan lại các cấp.  Mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhà vua. Điều này khác với chế độ quân chủ Tây âu cũng đang phát triển mạnh mẽ vào thời này với chế độ phong kiến phân quyền.  Nhà vua Đại Cồ Việt, Đại Việt, với tư cách người đứng đầu nhà nước, là chủ sở hữu toàn bộ lãnh thổ, là tổng chỉ huy quân đội, định ra pháp luật, trực tiếp xét xử các vụ án kiện lớn. Ngoài ra chính nhà vua là chủ các nghi lễ lớn (tế trời, đất thần nông) và thực hiện quyền quản lý cả bách thần qua hình thức phong sắc như một thứ cấp giấy công nhận công tích.

Theo dõi quá trình lịch sử nhà nước thời này ta thấy nổi lên xu hướng chung là xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền theo mô hình Đường, Tống. Tuy nhiên điều này cũng phải trải qua một quá trình. Hiện tượng phân tán do các thổ hào hoặc do vương hầu gây nên cũng còn thường xảy ra với quy mô khác nhau.

Nếu như “loạn 12 sứ quân” xảy ra vào cuối vương triều Ngô kéo dài đến hai năm có quy mô gần như toàn quốc, thì vụ loạn do Đông Thành vương, Trung Quốc vương, Khai Minh vương đều là con Lê Đại Hành nổi lên vào năm 1005 sau khi vua cha qua đời nhằm giành ngôi vua của thái tử Long Việt nổ ra ở phạm vi kinh thành Hoa Lư kéo dài tám tháng.

Cũng trong dịp này sau khi Long Đĩnh giết Long Việt giành được ngôi vua thì Long Ngân, Long Kính chiếm giữ xã Phù Lan (Hải Dương) chống lại, sau vài tháng thì bị đánh dẹp. Hơn một thế kỷ sau, vào đầu triều Lý, sau cái chết của Lý Thái Tổ (năm Mậu Thìn 1028) lại xảy ra vụ loạn tranh giành ngôi vua do Đông Chinh vương, Dực Thánh vương, Vũ Đức vương nổi dậy chỉ diễn ra ngắn ngày trong phạm vi kinh đô Thăng Long; vụ Khai Quốc vương Bồ nổi dậy ở Trường Yên (năm Mậu Thìn l028) chỉ khoanh lại ở một địa phương.

Ngoài ra ta cũng còn thấy xuất hiện ở một số vùng xa xôi hẻo lánh có hành động thoát ly khỏi sự quản lý của chính quyền trung ương. Nhưng tất cả những hiện tượng có xu hướng phân tán trên đều bị đẩy lùi nhường chỗ cho một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền ngày một được củng cố vững mạnh. 

Giúp việc nhà vua là một triều đình, lấy vương hầu quý tộc làm hạt nhân, gồm các quan văn võ từng được phân công phân nhiệm rõ ràng. Nếu như sự phân công này còn chưa rõ nét lắm ở thế kỷ X thì sang thời Lý ta thấy tình hình này đã có khác. Nhà sử học Phan Huy Chú đã từng khảo xét: “quan chế triều Lý đại lược văn võ đều có chín phẩm. Lấy ba chức thái (thái sư, thái phó, thái bảo), ba chức thiếu (thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo) cùng thái úy, thiếu úy và nội ngoại hành khiển đô tri sự kiểm hiệu bình thường sự, đều làm chức trọng yếu của văn võ đại thần.

Ban văn có bộ thượng thư, tả hữu tham trí, tả hữu gián nghị và trung thư thị lang (thuộc quan thì có các chức trung thư thừa, trung thư xá nhân), bộ thị lang, tả hữu phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sơ điện học sĩ, hàn lâm học sĩ, vệ đại phu, thư gia các hoả, thừa trực lang, thừa tín lang. Các chức kể trên đều là các chức quan trong làm việc trong triều. Các chức làm việc bên ngoài có tri phủ, phán phủ và tri châu.

Võ ban có đô thống nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng( tướng quân các vệ chỉ huy sứ, vũ vệ hoả đầu, cùng là sáu binh tào vũ tiệp, vũ lâm. Các chức kể trên đều là tướng hiệu lĩnh chức ở trong. Còn ở ngoài, các lộ, trấn trại đều đặt quan và binh đóng giữ, về thứ bậc, phẩm cấp thì không biết rõ được” 1

Từ những nét đại lược trên ta có thể hình dung bộ máy nhà nước quân chủ thời này có thể nói đã hoàn thiện, đặc biệt là ở cấp trung ương. Đó là một bộ máy nhà nước quân chủ gồm bốn cấp: Trung ương - lộ, phủ - châu, huyện - hương, giáp, xã. ở cấp trung ương và hai cấp lộ phủ, châu huyện thì quan lại do nhà nước cắt cử.


_____________________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, t.1, phần Quan chức chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr. 443, 444.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:52:50 pm
Quan lại ở đây có lẽ cũng do đội ngù vương hầu, tông thất nắm giữ các cương vị chủ chốt. Tuy nhiên đến một lúc đội ngũ này không đủ để quản lý, khi công việc nội trị, ngoại giao ngày một phát triển thì nhà nước chủ trương tuyển chọn thêm từ người hiền lương, cùng với những người có học hành, đỗ đạt, dù người đỗ đạt chưa nhiều lắm ở thời này.

Đối với cấp cơ sở các chức lệnh trưởng, tá lệnh trưởng, giáp trưởng, quản giáp nhà nước đặt trong dân có lẽ vẫn cắt cử từ tầng lớp già cả, có uy tín theo truyền thống tự quản, dưới sự kiểm soát của nhà nước. Chức xã quan chưa thấy xuất hiện ở thời này cho phép ta hình dung được tính tự  quản của giáp-xã, tức công xã lệ thuộc còn được bảo lưu khá đậm.

Riêng với các vùng biên viễn, núi rừng thuộc các dân tộc thiểu số cơ trú ta thấy chức danh “thủ lĩnh” được sử sách chép lại khá phổ biến. Có lẽ ở khu vực này nhà nước quân chủ chỉ thực hiện quyền quản lý lỏng lẻo bằng cách ban chức tước, hoặc dùng quan hệ hôn nhân để ràng buộc các “thủ lĩnh”, mà ta thấy xuất hiện khá phổ biến ở thời Lý được sử sách chép lại khá nhiều như: Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái vào năm 1029; năm 1036, gả các công chúa Kim Thành cho châu mục Châu Phong là Lê Tông Thuận, công chúa Trường Ninh cho châu mục châu Thượng Oai là Hà Thiện Lãm. Năm 1066, Lý Thánh Tông gã công chúa Thiên Thành cho Thân Đạo Nguyên - con trai Thân Thiệu Thái; gả công chúa Ngọc Kiều cho châu mục họ Lê ở châu Chân Đăng (không rõ năm). Vua Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Chân Đăng là Hà Dí Khánh vào năm 1082, gả công chúa Diên Bình cho thủ lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh vào năm 1128. Lý Thần Tông vào năm 1144 lại gả thêm công chúa Thiều Minh cho Dương Tự Minh, phong Tự Minh làm phò mã lang. Lý Anh Tông gả công chúa Thiên Cực cho châu mục Lạng Châu là Hoài Trung hầu vào năm 1167 1.
 
Lịch sử đã chứng minh vào các thế kỷ XI - XII đầu XIII, tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ đã vượt qua ngưỡng thô phác, dân dã, dưới hình thức bộ máy tự quản của công xã được mở rộng ở tầm vĩ mô hồi thế kỷ X. Điều cần nhấn mạnh là nhà nước đó chưa tỏ ra cồng kềnh và còn có nhiều biểu hiện thân dân, gần dân. Một sơ đồ bộ máy quản lý gồm bốn cấp với tính tự quản cao của cấp cơ sở, những chính sách khuyến nông, khoan giảm tô thuế. quan tâm đến tầng lớp bần cùng của xã hội như đã trình bày ở phần trên là minh chứng.

Trong điều kiện mặt bằng xã hội chưa phân hóa sâu sắc, tất cả còn tồn tại với một nền nông nghiệp có kỹ thuật thô sơ công thương nghiệp eòn hạn chế trên cơ sở tồn tại phổ biến của công xã nông thôn đang trên đường trở thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước, thì một thể chế nhà nước quân chủ trung ương tập quyền tỏ ra phù hợp với bước tiến của lịch sử-xã hội.

Dưới sự quản lý điều hành của nhà nước quân chủ, nhân dân ta đã làm nên những kỳ tích đưa đất nước vượt qua thời kỳ quá độ của thế kỷ bản lề (thế kỷ X) chuyển sang bước đầu của nền văn minh Đại Việt (từ thế kỷ XI). Với thể chế chính trị và cơ cấu tổ chức đó, nhà nước quân chủ Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý đã đẩy lùi được xu hướng phân tán, đánh thắng mọi thế lực xâm lăng lớn nhỏ, tiến hành xây dựng đất nước Đại Việt thành một quốc gia phát triển vững vàng trong khu vực.

4. Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng

Thời kỳ hỗn dung văn hóa bằng biện pháp áp đặt từ phía kẻ thù đô hộ với mục tiêu đồng hóa đã thực sự chấm dứt từ những năm dầu thế kỷ X. Tuy nhiên ảnh hưởng và tác động của văn hóa Hán trong hơn 1.000 năm không phải là nhỏ. 

Cho dù có giới hạn trong không gian nhỏ hẹp với truyền thống tự quản cao, ngoài tầm tay với của quan quân đô hộ thì đời sống của cộng đồng công xã nông thôn Việt không thể không nhiễm mầu sắc Hán. Sẽ không thể duy trì sự tiếp nối và trường tồn nếu các cộng đồng cư dân phân bổ trong các vùng sinh thái nhỏ hẹp như hương giáp, hoặc trong phạm vi không gian rộng lớn như các khu vực địa lý thuộc châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam tồn tại như những ốc đảo. 


_______________________
1. Theo Toàn thư, Sđd, 1.1; Việt sử lược, Sđd.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 09:54:53 pm
Hẳn rằng các cuộc khởi nghĩa, các phong trào giải phóng dân tộc bùng lên rộng lớn ở khắp nơi như các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40-43 sau Công nguyên, cuộc khởi nghĩa Bà Triệu ở quận Cửu Chân vào năm 248, khởi nghĩa Lý Bí với nhà Tiền Lý và nhà nước Vạn Xuân từ năm 542 đến năm 602, khởi nghĩa Mai Thúc Loan từ năm 713 đến 724, khởi nghĩa Phùng Hưng từ năm 767 đến 791 và cuối cùng là phong trào giành tự chủ của họ Khắc vào năm 905 là bằng chứng cho các mối giao lưu, liên kết mỗi khi cần kiến tạo sức mạnh của cộng đồng dân tộc rộng lớn.

Trong sự giao lưu tiếp xúc đó cũng như trong quá trình cộng sinh với người Hán thuộc các loại, nền văn hóa của cơ dân Văn Lang - Âu Lạc xưa cũng dần dần biến đổi theo hướng hội nhập. Trong tiến trình đó, đời sống văn hóa từ gia đình đến làng chạ, đến cả cộng đồng dân tộc một khi đã định hình và từng tạo dựng với những nét độc đáo mang bản sắc dân tộc thì dù có hội nhập thêm yếu tố ngoại lai nó sẽ còn tồn tại và được tiếp nối qua.

Có thể do thiếu tài liệu nên sử cũ của ta như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục mới chép Thái thú Tích Quang, Nhâm Diên vào những năm đầu Công nguyên mới “dạy dân khai khẩn ruộng đất”, “đem lễ nghĩa dạy dân” . . . Điều ghi chép sai lầm này đã bị vua Tự Đức phê phán: “Xem bức thư trả lời Văn Đế nhà Hán thì Triệu Đà vốn là người có học thức lẽ nào lại chưa biết dạy dân phép cày cấy và lễ giá thú mà phải đợi bắt đầu từ hai thái thú ấy (. . . . . . . . . . ) . Xem thế đủ thấy rõ rằng ghi chép thất thực, không đủ tin1.

Các mối quan hệ gia đình, họ hàng làng chạ đã nảy sinh đồng thời với phương thức sinh hoạt, ứng xử phù hợp cùng với phong tục tập quán tín ngưỡng của cơ dân nông nghiệp trồng lúa nước đã hiện diện từ trước khi “Văn minh Hoa Hạ” tràn sang. 

Trong quá trình giao lưu tiếp xúc theo phương thức áp đặt trong hơn một ngàn năm bị đô hộ, lịch sử đã chứng minh hiện tượng Việt hoá của người Hán khá phổ biến. Điều này cũng dễ hiểu vì đó là tác dụng của một nguyên tắc “nhập gia tùy tục”, Cư dân Văn Lang - Âu Lạc của người Việt đã có tục riêng, có lối sông riêng nảy sinh và phát triển trong môi trường sinh sống riêng của nó. Do đó văn hoá, văn minh Hoa Hạ một khi đã du nhập thì chỉ có thích nghi. dung hợp mà không thể thay thế.

Vào thế kỷ X, từ thời Ngô - Đinh - Tiền Lê và Lý, văn hoá Đại Cồ Việt - Đại Việt phát triển trong tư thế hoàn toàn khác - tư thế độc lập tự chủ. Điều đó có nghĩa là người dân Việt được tự do lựa chọn, xây dựng cho mình một nền văn hoá vừa tiếp nối truyền thống vừa đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới. Những phong tục, tập quán tốt đẹp có điều kiện phát huy để xây dựng con người mới, xã hội mới.

Lúc này bên cạnh tín ngưỡng phồn thực mà biểu hiện của nó qua việc thờ cúng và lễ hội là sản phẩm văn hóa đặc trơng của văn minh nông nghiệp, Phật, Đạo và Nho đã từng có mặt và chiếm một vị trí rộng hẹp khác nhau trong đời sống tâm linh của dân tộc. Nếu như Nho giáo, tuy có mặt sớm từ những thế kỷ sau Công nguyên, vẫn còn xa lạ  trong xã hội: thì Phật và Đạo lại tỏ ra thích ứng và được tiếp nhận một cánh dễ dàng.

Học thuyết của đạo Phật với hạt nhân từ bi bác ái, tìm đến và nuôi dưỡng cái thiện của nó có sức thuyết phục. hấp dẫn và phù hợp với nguyện vọng của một dân tộc từng bị nhiều thế kỷ sống chìm nổi dưới ách nô dịch của ngoại bang.

Đạo giáo với tư tưởng vô vi, thoát tục, một khi kết hợp với bùa chú phù phép dẫn dắt con người đến cõi sống yên bình tỏ ra dễ dàng dung hợp với tín ngưỡng đa thần từng ngự trì trong đời sống tâm linh của dân tộc. Vì lẽ đó Phật và Đạo ngay từ đầu dã được nhà nước và xã hội Đại Cồ Việt - Đại Việt tiếp nhận và nuôi dưỡng. Vị trí vai trò của đội ngũ tăng lữ trong hoạt động chính trị và sinh hoạt xã hội vào thời này đã chứng minh điều đó.

Điều đáng nói là Phật và Đạo từ nguyên lý và nghi thức hành đạo của nó hàm chứa một nội dung thoát tục, vô vi.  Địa bàn hoạt động và chiếm lĩnh của nó là trong đời sống tâm linh, ẩn dưới mái chùa, đạo quán nơi âm u thanh vắng.


______________________-
1. Cương mục, Sđd, t.1, tr. 113.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 10:00:36 pm
Thế nhưng một khi du nhập và hòa trộn vào xã hội Đại Cồ Việt - Đại Việt thì nó lại khác. Đội ngũ tăng lữ đặc biệt là đệ tử của Phật lại tỏ ra nhập thế rất tích cực. Trong xã hội sống động với những biến cố phi thường của thời đại đều có sự tham gia, suy ngẫm của các bậc cao tăng.  Nhà sư Pháp Thuận (915 - 990), người đã được vua Lê Đại Hành cử giao thiệp với đoàn sứ giả Tống do Lý Giác cầm đầu đến Hoa Lư vào năm 987 - sáu năm sau chiến thắng giặc Tống lần thứ nhất - đã từng tìm nguồn cảm hứng ở vận mệnh của đất nước trong bốn câu thư như sau:

Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh

(Vận nước như dây mây quấn
ở cõi trời Nam bồi đắp nền thái bình
Vô vi ngự trên cung điện
Khắp nơi chấm dứt đao binh)
1.

Cũng trong dịp tiếp sứ lần này, nội dung không ngoài việc nối lại quan hệ giao hảo sau cuộc binh đao vào cuối năm 980 đầu 981, nhà sư Ngô Chân Lưu tức Đại sư Khuông Việt (933 - 1011) từ thời vua Đinh được vua Lê Đại Hành tiếp tục trong dụng, từng làm bài Vương lang qui tiễn chân sứ giả Lý Giác:

Tường quang, phong hảo, cẩm phàm trương
Dao vọng thần tiên, phục đế hương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang
Cửu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết
Đối ly trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị biên cương
Phân minh tấu ngã hoàng .


Dịch thơ

Điềm lành, gió tốt, buồm gấm giương,
Xa ngóng thần tiên, sứ giả trở lại chốn đế hương. 
Muôn trùng non nước, vượt sóng xanh,
Chín phương trời, đường về dài dằng dặc.
Tình thảm thiết,
Trước chén rượu ly biệt,
Vin xe lưu luyến sứ gia.
Tôi xin đem cái ý sâu xa của sứ giả, vì cải biên cương này,
Về tâu lại rành mạch với hoàng đế của tôi.
2.

Tiếp đến thời Lý, vai trò của Phật càng phát triển mạnh.  Ông vua mở đầu triều Lý được nuôi dưỡng từ cửa Phật. Đến khì lên ngôi, nhà vua cùng với việc xây dựng nhiều cung điện, chùa chiền ở kinh đô còn hạ lệnh cho “các hương ấp, nơi nào có chùa quán đổ nát đều phải sửa chữa lại” và “độ dân làm sư3.


_____________________
1. Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, t.1, tr.253-254.
2. Tổng tập văn học Việt Nam, t.1. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.256-257.
3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 243, 249.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 10:02:37 pm
Có thể nói với triều Lý, từ đầu thế kỷ XI, đạo Phật đã thực sự được sự bảo trợ và nuôi dưỡng của người đứng đầu nhà nước quân chủ. Đó cũng là lý do khiến người ta nhận định Phật giáo trở thành quốc giáo vào thời Lý. Với vị trí quốc giáo, tư tưởng Phật đã có tác dụng chỉ đạo, hướng dẫn hành vi của mọi người, từ quốc vương cho đến dân thường. 

Cần phải nhắc lại rằng Phật giáo thời này nhập thế một cách tích cực và hoà nhập với tín ngưỡng cổ truyền. Nó không những không loại trừ mà còn góp phần gia eố, làm phong phú thêm tục thờ cúng tổ tiên, sùng bái người có công với dân với nước cùng tín ngưỡng phồn thực vốn có của cư dân nông nghiệp.

Đó là nguyên nhân quan trọng khiến cho Phật giáo có sức sống mạnh mẽ, ăn sâu bén rễ vào xã hội và trở thành chất men kích thích các thế hệ trong xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập tự chủ vào thời này.  Ta còn biết thêm, theo sử sách, thời này thường có những hiện tượng lạ như sấm ngữ “Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh minh, cạnh đầu đa hoành nhi, đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị xưng đại vương, thập ác vô nhất thiện, thập bát tử đăng tiên, kế đô nhị thập thiên” (Đỗ Thích giết hại Đinh, nhà Lê nổi thánh minh, tranh nhau nhiều hoành nhi, đường sá người vắng tanh. Mười hai xưng đại vương, toàn ác không một thiện, mười tám con lên tiên, sao kế đô hai chục ngày) 1 báo hiệu sự sụp đổ của nhà Đinh.

Còn bài thơ chiết tự ở hương Diên Uẩn châu Cổ Pháp (nay là Từ Sơn - Bắc Ninh):
Thụ căn diễu diễu, Mộc biểu thanh thanh, Hòa đao mộc lạc, Thập bát tử thành, Đông a nhập địa, Mộc di tái sinh, Chấn cung kiến nhật, Đoài cung ẩn tình, Lục thất nên gian, Thiên hạ thái bình” (Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây hòa đao rụng, mười tám hạt thành, cành đông xuống đất, cây khác lại sinh. Đông mặt trời mọc, Tây sao náu hình, khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái bình) 2 được giải thích là lời tiên đoán về sự thay đổi từ họ Lê suy yếu bằng họ Lý với vai trò của nhà sư Vạn Hạnh ( ? - 1018).
 
Có thể kể thêm hiện tượng rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự nhân dịp Lý Thái Tổ từ thành Hoa Lư dời đến phủ thành Đại La vào năm 1010; Lý Phục Man hiện về trong chiêm bao của vua Lý Thái Tổ trong dịp nhà vua làm lễ tế vong các danh sơn ở bên đò Cổ Sở (Yên Sở - Hoài Đức - Hà Tây) vào năm l016; thần núi Đồng Cổ hiện về báo cho Lý Thái Tông việc nổi loạn của Vũ Đức vương, Đông Chinh vương, Đức Thánh vương để rồi được nhà vua cho dựng miếu thờ ở Thăng Long. . .

Phải chăng những điều ghi chép trên phản ánh thực tế rất phong phú về sự hội nhập giữa Phật, Đạo với tín ngưỡng bản địa trong đời sống tâm linh xã hội của một thời mà Nho giáo chưa có tác dụng chi phổi mạnh mẽ?  Tuy nhiên, một sự thực không thể chối cãi là trước yêu cầu xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền với thể chế và biện pháp quản lý quốc gia theo mô hình Đường, Tống dược xác định tử đầu thế kỷ XI, thời Lê Long Đĩnh thì Phật, Đạo lại tỏ ra bất cập.

Điều này phải tìm ở học thuyết Nho. Chính vì vậy, vương triều Lý sùng Phật đến thế, nhưng cũng chính vương triều Lý đã mở rộng cửa đón Nho giáo. Nhưng cũng phải đợi đến ông vua thứ ba của triều Lý tức vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) chủ trương này mới biến thành hiện thực.

Sử chép vào năm Canh Tuất (1070) lập văn miếu thờ Chu Công.  Khổng Tử, Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử và “thất thập nhị hiền” để tế lễ và sai hoàng tử đến để học tập. Năm năm sau, vào năm Ất Mão (1075), đời Lý Nhân Tông, khoa thi Nho học đầu tiên xuất hiện, tiếp đến năm Bính Thìn (1076) Quốc Tử Giám tức trường đại học được mở ở Thăng Long dùng người có văn vào học trong đám văn thần trông coi.

Theo sử cũ, mãi đến năm 1236 Quốc Tử Giám mới mở rộng cửa hơn, nhưng cũng chỉ cho con em các quan văn học. Phải đợi đến thời Trần, năm 1253, Quốc Tử Giám mới thực sự mở cửa đón các nho sĩ trong nước đến học tập. Cùng với việc đặt cơ sở đầu tiên cho giáo dục khoa cử ở nước ta, vào thời Lý, một tầng lớp Nho sĩ xuất hiện, tuy chưa phải đã đông đảo.

Lê Văn Thịnh, người được trúng tuyển qua khoa thi Minh kinh bác học vào năm 1075, được tuyển vào hầu vua học tập, về sau làm đến Binh bộ thị lang, gia phong Thái sư dưới triều Lý Nhân Tông. Có thể nói ông là người đầu tiên trong đám nho sĩ qua khoa cử bước vào quan trường. Ta cũng cần nhấn mạnh chính vị vua đầu tiên chủ động tiếp thu Nho giáo, đặt cơ sở cho việc mở mang giáo dục khoa cử cũng chính là vị vua đã đặt tên nước là Đại Việt vào năm đầu khi mới lên ngôi (1054) đó là Lý Thánh Tông. Vua kế vị mở khoa thi, mở trường Quốc Tử Giám là Lý Nhân Tông lại là ông vua đã tổ chức đánh tan cuộc xâm lăng lần thứ hai của giặt Tống xảy ra vào năm Đinh Tỵ (1077).


__________________
1, 2. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.209, 237.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 10:04:56 pm
Tóm lại vào các thế kỷ X - đầu XIII, trên bình diện văn hoá, tôn giáo tín ngưỡng ta thấy hiện ra rất rõ nét một sự tự nguyện hòa nhập hai yếu tố cơ bản nổi trội, đó là nền văn hóa bản địa với văn hóa ngoại nhập - Phật, Đạo tiếp đến là Nho. Vào thời này Phật, Đạo chứ không phải là Nho in đậm trong đời sống tâm linh của dân tộc, mặc dù Nho đã chính thức dược tiếp nhận từ giữa thế kỷ XI như đã trình bày. 

Sự hoà nhập của hai yếu tố trên được thực hiện trong bối cảnh khá đặc biệt. Đó là bối cảnh lịch sử của những thế kỷ mà cả dân tộc phải gồng mình lên không chỉ để bảo vệ nền độc lập tự chủ vừa mới giành lại được, mà còn phải tạo dựng cho mình một sức mạnh để vững vàng tiến bước trong một khu vực có nhiều biến động và không ít đe doạ. 

Từ thế kỷ X, qua các đời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý, từ quốc gia Đại Cồ Việt đến quốc gia Đại Việt, lịch sử đã đặt ra cho cộng đồng các dân tộc một nhiệm vụ mới. Đó là nhiệm vụ xây dựng đất nước vừng mạnh và bảo vệ nền độc lập tự chủ vừa mới giành lại được.

Dựng nước và giữ nước là hai mặt hoạt động khác nhau, nhưng có liên quan mật thiết và là tiền đề, là điều kiện của nhau. Nó cũng được đặt ra với bất kỳ một dân tộc, một quốc gia nào và ở một thời nào. Nhưng riêng với nước ta, vào thời kỳ đang được đề cập đến thì vấn đề giữ nước, dựng nước để giữ nước nổi lên hàng đầu, nhưng một thiên niên kỷ bị mất nước không phải là ngắn.  Kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa trong thời bị đô hộ từ Bà Trưng cho đến Phùng Hưng cho hay nếu không có một tổ chức vũ trang và hoạt động giữ nước mạnh thì ách đô hộ lại tái lập để rồi lại phải tiếp tục chịu đựng và tiếp tục đổ máu, hy sinh.

Nói đến hoạt động giữ nước là nói đến xây dựng lực lượng vũ trang, là chiến lược, chiến thuật quốc phòng thời chiến cũng như thời bình.

Bước vào các thế kỷ X, XI, XII và 25 năm đầu thế kỷ XIII đối với quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt không phải tất cả chỉ mới bắt đầu. Cương vực, thể chế chính trị, kết cấu kinh tế - xã hội cùng với văn hoá, tư tưởng đều có nguồn gốc lâu đời, được khôi phục để tiếp tục phát triển trong tình hình mới. 

Thật vậy, một lãnh thổ quốc gia thống nhất dưới sự quản lý của một nhà nước quân chủ tập quyền gần dân, thân dân không ngừng được củng cố, hoàn thiện, một cộng đồng cơ dân gồm nhiều sắc tộc ngày càng cố kết gắn bó thành một khối chung quanh nhà nước độc lập tự chủ, một cuộc sống mới với những đổi thay phát triển mọi mặt từ kinh tế đến văn hoá, xã hội là những thành tựu lớn mà nhân dân ta đã đạt được trong gần ba thế kỷ dựng nước từ năm 939 đến năm 1225.

Trên cơ sở những thành tựu đó, tổ chức lực lượng vũ trang và hoạt động quân sự, quốc phòng của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt ra đời, trưởng thành nhanh chóng. Với nền tảng vững chắc đó, tổ chức quân sự, quốc phòng đã phát huy tác dụng, chiến thắng oanh liệt mọi kẻ thù xâm lược lớn, nhỏ, đẩy lùi hành động phân tán, phản loạn, bảo vệ thành công nền độc lập thống nhất non trẻ của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt, đưa đất nước hiên ngang bước vào kỷ nguyên Đại Việt huy hoàng và trở thành một quốc gia hùng mạnh trong khu vực.



CHƯƠNG 2

BINH CHẾ QUỐC GIA TỪ THỜI NGÔ ĐẾN THỜI LÝ


Thành tựu lớn nhất của nhân dân ta trong các thế kỷ X - XIII là xây dựng được chính quyền dân tộc tự chủ mà nền móng của nó bắt đầu từ họ Khúc (905 - 930) và họ Dương (931 - 937). Trải qua các triều đại Ngô (939 - 965), Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980 - 1009) và Lý (1009 - 1225), quốc gia thống nhất và chính quyền độc lập dân tộc ngày càng được củng cố, vững mạnh.

Đi đôi với thiết chế nhà nước đó là một tổ chức quân sự, một binh chế quốc gia xuất hiện và ngày một hoàn thiện hơn Chiến thắng Bạch Đằng (938) chứng tỏ ngay từ thời kỳ khôi phục nền tự chủ, một tổ chức quân sự đã xuất hiện. Ngô Quyền đã có khả năng liên kết lòng người trong một phạm vi lãnh thổ khá rộng lớn để chiến thắng giặc Nam Hán.

Tiếp đó, những sự kiện lịch sử quan trọng như Ngô Vương thành lập chính thể quân chủ đóng đô ở Cổ Loa Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước và đóng đô ở Hoa Lư, Lê Hoàn đánh thắng giặc Tống (980 - 981), Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long, cùng với những hoạt động quân sự chống ngoại xâm cả hai đầu đất nước và đánh dẹp nội loạn, cho phép ta hình dung sự phát triển ngày một hoàn thiện và lớn mạnh của binh chế thời kỳ này.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 10:07:19 pm
I. TỔ CHỨC BIÊN CHẾ CÁC THỨ QUÂN TỪ THẾ KỶ ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIII

1. Các tổ chức quân sự thời Ngô, Đinh và Tiền Lê (thế kỷ X)

Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc, tự xưng vương, thiết lập nhà nước độc lập tự chủ. Ngô Quyền đã kiên quyết cắt đứt mọi quan hệ lệ thuộc đối với nước ngoài, xây dựng một quốc gia độc lập. Bộ máy chính quyền triều Ngô xây dựng theo thể chế của một nhà nước quân chủ độc lập, mang tính tập quyền, bao gồm các quan văn và võ, trong đó phần nhiều là các võ quan tướng lĩnh đã từng sát cánh với Ngô Quyền dẹp loạn và đánh giặc ngoại xâm.

Trong cơ cấu chính quyền đó đã xuất hiện một tổ chức quân sự riêng đó là tổ chức quân đội đầu tiên của quốc gia độc lập tự chủ sau “trận chung kết” cuối cùng toàn thắng trong cuộc đọ sức kéo dài hơn một ngàn năm giữa dân tộc ta với thế lực xâm lược phương Bắc. Do tư liệu lịch sử hạn chế, chúng ta chưa biết được tổ chức của quân đội triều Ngô ra sao. Nhưng qua cuộc hành quân từ châu Ấi ra Bắc tiêu diệt nội loạn Kiều Công Tiễn và đặc biệt là qua trận chiến Bạch Đằng (938) chúng ta biết được rằng, Ngô quyền trước khi thành lập vương triều đã có một lực lượng quân sự khá mạnh.

Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn diễn ra đúng vào lúc ở phía Bắc cha cón Lưu Cung đang gấp rút điều động binh thuyền, chuẩn bị lực lượng để tiến hành cuộc tiến công xâm lược nước ta lần thứ hai. Điều đó đã gây nên sự căm phẫn cực độ trong các hào trưởng và đông đảo dân chúng.  Nhân dân khắp nơi dưới sự lãnh đạo của các hào trưởng và tướng lĩnh cũ của Dương Đình Nghệ đã nổi dậy chống lại Kiều Công Tiễn, sẵn sàng tham gia đánh giặc Nam Hán. 

Lực lượng quân sự từ nhiều vùng đã dần dần quy tụ dưới ngọn cờ của Ngô Quyền. Như vậy, ngoài lực lượng binh sĩ mà Ngô Quyền đã kế thừa từ số quân của Dương Đình Nghệ, nhiều tổ chức quân sự khác của các hào trưởng ở trong nước đã đến với Ngô Quyền. như quân của Liễu Chữ (ở Thuận Thành. (Bắc Ninh) của Phạm Hổ ở Ngọc Dương (Kim Thi, Hưng Yên), Đỗ Cảnh Thạc (Quốc Oai, Hà Tây), Phạm Chiêm ở Nam Sách (Hải Dương), Đinh Công Trứ ở Hoa Lơ (Ninh Bình). Dương Tam Kha con Dương Đình Nghệ và kể cả số quân của Kiều Công Hãn là cháu của Kiều Công Tiễn cũng đến tụ hội.

Lực lượng quân sự nói trên dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền được nhân dân các làng xã giúp sức đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng, đánh tan đạo thuỷ quân xâm lược của thái từ Nam Hán Hoẵng Tháo. Sau chiến thắng đó, cùng với việc xây dựng chính quyền mới, Ngô Quyền đã tổ chức lại lực lượng quân sự trên cơ sở những dạo quân đã có công đóng góp vào sự nghiệp đánh giặc giữ nước.

Quân đội triều Ngô tuy tổ chức còn đơn sơ, biên chế chưa được phân định rõ rệt chủ yếu là từ những đạo quân riêng lẻ của các hào trưởng hợp thành, nhưng qua chiến trận Bạch Đằng chúng ta biết rằng, Ngô Quyền đã có một lực lượng quân sự đông đảo, trong đó có cả quân bộ và quân thuỷ, đặc biệt họ rất giỏi thuỷ chiến.

Sử cũ không cho biết tổ chức biên chế cụ thể các đơn vị quân đội thời này như thế nào. Do điều kiện địa hình nhiều sông nước và sự hạn chế của giao thông đường bộ thời bấy giờ, nên tuy quân đội có cả quân bộ và quân thuỷ, nhưng rất có thể phương thức hành quân chủ yếu là theo đường thuỷ và vì thế, lực lượng quân đội đánh thuỷ cũng là chủ đạo. Cuộc chiến chống Nam Hán các năm 930 - 931 và 938 phần lớn do quân thuỷ đảm nhiệm.

Có thể biên chế của quân thuỷ lúc đó được tính bằng “thuyền”. Sử cũ của ta cho biết mỗi “thuyền” có 25 chiến thủ và 23 tay chèo. Phả tích của đền Vương (tức đền Kê Lạc) ở xã Dị Chế (Tiên Lữ, Hưng Yên) nói rằng thuỷ quân của Ngô Quyền chia theo các đội và thuyền đội lớn năm thuyền gồm 100 quân (nhất bách nhân cư ngũ thuyền), thuyền chiến nhỏ có 12 quân (thập nhị nhất thuyền). Lực lượng thuỷ quân tuy không đông nhưng là nòng cốt - trụ cột của quân đội triều.

Do những hạn chế lịch sử, tính chất tập quyền của nhà nước tự chủ triều Ngô chưa thật mạnh mẽ, chưa có khả năng liên kết một cánh chặt chẽ các lực lượng địa phương trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, năm 944, khi Ngô Quyền qua đời, Dương Tam Kha - em vợ Ngô Quyền đã đoạt ngay quyền bính, tự xưng là Bình Vương. Từ đó, nội bộ vương triều lục đục mâu thuẫn giữa các phe phái diễn ra và dẫn đến tình trạng cát cứ của 12 thủ lĩnh mà sử đã gọi là “ 12 sứ quân”. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 10:08:25 pm
Như thế, quân đội mới họp của vương triều Ngô đã giành được thắng lợi vang dội trong cuộc kháng chiến giữ nước năm 938, trở thành quân đội đầu tiên của quốc gia độc lập, nhưng lại không đủ sức mạnh để bảo vệ bộ máy nhà nước quân chủ của mình. Quân đội đó còn bị phân tán bởi sự chi phối, khống chế của các tướng vốn là các thủ lĩnh địa phương, như Ngô Xương Xí, Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Ngô Nhật Khánh, v.v.. Xu hướng phân tán địa phương vẫn đang tồn tại và đã dẫn tới sự tan rã quân đội quốc gia.

Quân đội vương triều Ngô tồn tại được 26 năm (939 - 965) đã tan vỡ, trở thành nhiều tổ chức lực lượng vũ trang riêng lẻ dưới quyền diều khiển của các hào kiệt, các sứ quân đóng trên từng địa bàn riêng biệt. Từ đó, các sứ quân kiểm soát những vùng lãnh thổ chịu ảnh hưởng và tiếp tục tuyển chọn các đinh tráng địa phương bổ sung vào đội quân của mình.

Lực lượng quân sự của vương triều trước đây đã bị sẻ chia trở thành nòng cốt của các lực lượng vũ trang riêng đó và là công cụ để các sứ quân tranh quyền lãnh đạo đất nước.  Lấy ví dụ như Nguyễn Siêu vốn là một tướng được Ngô Quyền tin dùng, giao chỉ huy một đạo quân lớn. Khi Ngô Quyền mất, Nguyễn Siêu tập hợp lực lượng chiếm giữ vùng Đông Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội) chống lại Dương Tam Kha. Có tài liệu chép, Nguyễn Siêu nuôi dưỡng môn đệ khoảng tám ngàn người, binh mã có trên 10 vạn (?), lập đồn phủ khắp nơi. Đỗ Cảnh Thạc là một võ quan triều Ngô, đã chiếm vùng Quốc Oai (Hà Tây xây dựng thành Đỗ Động (thành Quèn) nuôi dạy quân sĩ đông đến hàng vạn. 

Như vậy, quân đội quốc gia của vương triều Ngô đã chấm dứt vai trò lịch sử sau 26 năm tồn tại dưới chính thể quân chủ nửa đầu thế kỷ thứ X. Dẫu đó chỉ là “một đội quân mới họp của đất Việt” như lời sử thần Lê Văn Hưu nhận xét, còn sơ khai, mang nhiều hạn chế, nhưng phương thức tổ chức quân sự do Ngô quyền thiết lập là cơ sở đầu tiên để sau này Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn có kinh nghiệm kiện toàn về mặt tổ chức, xây dựng thành quân đội chính quy của quốc gia Đại Cồ Việt.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh một người chỉ huy quân sự giỏi, có tài năng, lại được các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn và nhân dân cả nước ủng hộ, đã lần lượt đánh bại 12 sứ quân lập lại sự thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt.

Dẹp xong loạn các sứ quân, Đình Bộ Lĩnh bát tay xây dựng nhà nước thống nhất và có dụng tâm tổ chức một quân đội mạnh. Sử chép: vua Đinh Tiên Hoàng xuất thân từ mục đồng cờ lau mở nước, lớn lên lại thu phục được anh hùng cả nước. Sau khi thay Trần Lãm (Trần Minh Công) làm sứ quân ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình), vua đã đánh tan các thế lực Ngô Thiên Sách vương, Nam Tần vương, Nguyễn Thủ Tiệp và các sứ quân khác, xưng là Vạn Thắng vương để lập lại chính thống của nước.

Sau việc đánh dẹp, nhà vua đóng đô ở Hoa Lư, xây cung điện, định chế triều nghi, giao thiệp với nhà Tống, đặt hình pháp và không quên một việc trọng đại là chỉnh đốn lại quân ngũ.  Như thế có nghĩa là quân đội của triều Đinh khi thành lập đã có cơ sở từ trước. Đầu tiên, đó là đội quân do ông tổ chức từ những trai tráng đã từng “cờ lau tập trận” ở quê nhà; tiếp đến là sự liên kết lực lượng giữa Đinh Bộ Lĩnh với sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu và sau cùng là thu phục binh sĩ của các thế lực khác.

Lực lượng quân sự của Đinh Bộ Lĩnh từng bước trưởng thành cùng với quá trình mở rộng địa bàn hoạt động, trong đó có cả hơn 3.000 trai tráng do Đinh Liễn tuyển từ châu Ái. Nhiều hào kiệt, tướng lĩnh nổi tiếng như Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Phạm Cự Lạng, Phạm Hạp, v.v. cũng đã đưa quân của mình đến tập hợp dưới ngọn cờ của ông. Trong quá trình đánh dẹp 12 sứ quân, lực lượng quân sự của Đinh Tiên Hoàng ngày càng lớn mạnh, gồm đủ các loại quân như: bộ binh, thuỷ binh, tượng binh và kỵ binh.

Sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn, đội quân của Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành quân đội quốc gia Đại Cồ việt dưới quyền thống lĩnh của Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 10:12:58 pm
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa Quân tháng Hai năm Giáp Tuất (974), vua Đinh chia quân đội trong nước thành 10 đạo. Mỗi đạo 10 quân, mỗi quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Học giả Phan Huy Chú, trong Lịch triều hiên chương toại chí cũng ghi:“Đinh Tiên Hoàng, năm Thái Bình thứ 5 (974), định ngạch quân 10 đạo. một đạo 10 quân, một quân 10 lữ, một lữ 10 tốt, một tốt 10 ngũ, một ngũ 10 người1.

Như vậy, tổ chức quân sự thời Đinh là tổ chức “thập đạo quân”. Đó là hệ thống biên chế, tổ chức quân sự có quy củ đầu tiên của quốc gia dân tộc Việt trong kỷ nguyên độc lập tự chủ. Theo hệ thống này, chúng ta thấy rõ lực lượng quân đội Đại Cồ Việt ở thế kỷ X được chia ra làm năm cấp: "đạo”, “quân”, “lữ”, “tốt” và “ngũ”. Biên chế, tổ chức quân sự theo cách đó, thì “ngũ” là đơn vị cơ sở nhỏ nhất gồm 10 người, một "tốt” có 100 người, một “lữ” có 1.000 người, một “quân” có 10.000 người và “đạo” là đơn vị quân sự lớn nhất gồm 10 vạn người.

Xưa nay, đã có nhiều người nghi ngờ về tổ chức quân sự này. Lẽ nào từ thời Đinh, nước ta đã có một đạo quân đông đến một triệu người? Sau một thời kỳ dài bị phong kiến Trung Hoa đô hộ, dưới sự thống trị hà khắc của kẻ xâm lược, dân ta bị bóc lột, bắt bớ và tàn sát vô cùng dã man. Do đó, dân số nước ta thời kỳ mới bướt vào kỷ nguyên độc lập tự chủ, có đông lắm củng chưa thể đạt đến con số ba triệu 2. Vậy một ngạch binh bao gồm một triệu người thì hẳn rằng diều đó không hợp lý. Nếu một triệu quân mà đưa dùng cả thì dết nước sẽ gặp bao khó khăn. Một nước nhỏ còn nghèo như nước ta thời đó làm gì cung ứng cho đủ? 

Phải chăng đó chỉ là “ngạch quân biên sổ”, đặt sẵn về mặt tổ chức: có thể như sử gia Phan Huy Chú giải thích: “Bấy giờ binh và nông chưa chia. có việc gọi ra, xong việc lại trở về làm ruộng3. Chúng ta nên hiểu rằng, thập đạo quân chính là hình thức tổ chức quân sự gắn liền giữa quân đội với dân binh, giữa hành chính và quân sự. Quân ở đây chủ yếu là “quân biên sổ”, khi có việc mới gọi ra, lúc bình thường thì trở về thôn xã cày ruộng: theo hình thức “động vi binh, tĩnh vi dân”.
 
Chế độ ngạch binh này chính là cơ sở của quốc sách “Ngụ binh ư nông” thời Lý - Trần sau đó. Về hình thức quân số tuy dông nhưng thực tế số quân thường trực tại ngũ ít, chủ yếu là dân, nhà nước đỡ phần tổn phí nuôi dưỡng.  Tổ chức hành chính gắn liền với tổ chức quân sự theo chế độ “thập đạo quân” nói trên là một biểu hiện cụ thể của’chính sách quốc phòng và binh chế nước Đại Cồ Việt hồi thế kỷ thử X.

Thời Đinh và thời Tiền Lê nước ta chia thành 10 đạo Mỗi đạo hành chính là một đạo quân sự. Chính ở cấp “đạo” này đã thực hiện sự thống nhất giữa nông và binh. Chỉ huy đạo là chỉ huy toàn bộ binh đội và tất cả dân binh của các thôn xã trong dạo đó. Các “quân” trong đạo tuỳ thuộc vào nhu cầu phân bố trong các phủ, châu của đạo. Như thế, trong một phủ hoặc một châu. có thể biên chế thành một hoặc hai “quân”, tuỳ thuộc vào quy mô hay vị trí quan trọng của các khu vực địa phương đó.

Tuy quân lính chủ yếu ở các đạo, ở nông thôn song tại trung ương (triều đình) luôn luôn giữ một số lượng quân đội nhất định. Đó là quân thường trực tại ngũ có nhiệm vụ canh phòng bảo vệ kinh đô hoặc lưu dộng chiến đấu trong các vùng khác. Khi cần các đơn vị này lược điều di dẹp loạn hay phòng giữ ở những dịa bàn trọng yếu.

Các đơn vị lưu động này, số lượng có hạn, nhưng tinh nhuệ. Đây là nòng cốt của lực lượng quân sự quốc gia, đượm trang bị tốt nhất, được huấn luyện kỹ càng và tất nhiên đây là lực lượng chính dể bảo vệ nhà nước trung ương tập quyền Đại Cồ Việt.

Vua Đinh qua dời để lại cho dời sau một di sản quý báu, nhờ đó Lê Hoàn lên kế tiếp đà mang quân thập đạo đánh tan đạo quân xâm lược Tống (981). Vốn là Thập dạo tướng quân dưới triều vua Đinh, nên khi lên ngôi, nhà vua (Lê Đại Hành 980 - 1005) đã thừa hưởng hầu như trọn vẹn chính sách quân sự - quốc phòng và binh chế thời Đinh. Triều Tiền Lê duy trì và thực hiện chế độ quân đội thập đạo.


_______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.207; Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, t.III, Binh chế chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr.7.
2. Về dân số thời Đinh, sử cũ không ghi chép. Ý kiến của các nhà nghiên cứu chưa thống nhất. Chàng hạn, theo Văn Tạo thì Nước Đại Cồ Việt. . . với vài bốn triệu dân” (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, 1981, tr.4).
3. Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loại chí. Sđd, t.1II Tr.7.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 12 Tháng Ba, 2009, 10:15:51 pm
Đó là một tổ chức quân sự, một binh chế dựa trên nền tảng nhân dân, dựa trên nền kinh tế nông nghiệp. Quân đội nhu yếu là ở “ngạch biên sổ” “lúc thường là dân, có động là binh”.  Tổ chức lực lượng quân sự bằng cách kết hợp chú trọng hai mặt binh và nông là một đặc điểm nổi bật của binh chế quốc gia Đại Cồ Việt.

Như vậy, lực lượng quân sự của dân tộc ta thế kỷ X bao gồm lực lượng dân binh rộng rãi ở các làng xã và các đơn vị quân thường trực của nhà nước. Lực lượng quân sự đó nằm trong hệ thống biên chế, tổ chức tương đối thống nhất từ trung ương đến các địa phương. Quân đội thời bấy giờ thực chất là quân đội dân tộc - nhân dân, hay nói theo cách hiện đại đó như là một đội quân “nhân dân” mang tính dân tộc.  Quân thập đạo chủ yếu bao gồm những người nông dân công xã làm nghĩa vụ binh dịch theo quy định của nhà nước phong kiến tập quyền.

Trong biên chế của các binh đội “thập đạo quân” thời đó, có cả quân bộ và quân thuỷ. Nhà nước Đại Cồ Việt chú ý cả về mặt tổ chức xây dựng, cũng như đã biết cách sử dụng kết hợp hai loại quân này. Tuy bộ binh có số lượng nhiều, song thời Đinh - Lê, ở nước ta đã tổ chức được những đội binh thuyền khá lớn, gồm hàng trăm chiến và quân thuỷ trở thành lực lượng chiến đấu có hiệu quả nhất. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 938 và năm 981, quân thuỷ của ta đã thể hiện được truyền thống đánh giặc và tính ưu việt của mình.

Chiến đấu hiệp đồng giữa quân thuỷ và quân bộ là một đặc điểm quan trọng trong quá trình tổ chức và chỉ huy của quân đội Đại Cồ Việt. Bấy giờ ở nước ta, do những nét đặc thù của mình, kỵ binh không được chú ý phát triển, nó chỉ là từng bộ phận nhỏ trong biên chế của quân bộ mà thôi. Điều này hoàn toàn khác với tổ chức quân sự của nhiều nước trên thế giới đương thời. Ở các nước phương Bắc, kỵ binh được phát triển mạnh, đặc biệt thời bấy giờ ở phương Tây, nhiều quốc gia đang trong xu thế hiệp sĩ hoá, ky sĩ hoá quân đội. Các lãnh chúa phong kiến châu Âu đua nhau lập các đội quân kỵ sĩ.

Và nhất là như Ăng ghen viết: “đến cuối thế kỷ X, kỵ binh đã trở thành một binh chủng duy nhất thực sự tham gia giải quyết các trận đánh khắp nơi ở châu âu. Còn về bộ binh thì mặc dù ở các quân đội quân số của nó còn đông hơn kỵ binh nhiều, nhưng nó không phải là cái gì khác ngoài đám quần chúng trang bị kém và hầu như không ai còn có ý đồ tổ chức nó nữa1.

Thập đạo quân là mô hình tổ chức quân đội thời Đinh - Lê.  Khi lên ngôi vua Lê Hoàn vẫn nắm thập đạo quân tiếp tục chăm lo xây dựng quân đội. Tuỳ theo nhiệm vụ, quân đội triều Tiền Lê tổ chức thành những đơn vị khác nhau. Binh tuỳ long là binh theo vua, thân vệ là vệ binh của nhà vua; tả hữu Kim Ngô là quan coi giữ quân cấm vệ; cấm vệ là quân bảo vệ cung cấm nhà vua; tả hữu vệ là quân hộ tống khi vua ra ngoài. Tất cả số quân đó đều là quân thường trực của triều đình nhà Tiền Lê, gọi chung là thân quân. Sử chép: “Năm Thiên Phúc thứ bảy (986) Lê Hoàn điểm dân đinh làm lính, lấy người khoẻ mạnh sung vào quân túc vệ gọi là thân quân; tất cả đều thích lên trán ba chữ “Thiên tử quânt2.

Thân quân là quân của vua của triều đình nhà Tiền Lê, là lính chuyên nghiệp, một loại “gia binh của hoàng đế” mang tính chất “thân binh” như kiểu “lính trong nhà” (con nuôi) của Dương Đình Nghệ ngày trước. Số đó cũng được gọi là quân điện tiền, gồm khoảng từ ba đến năm ngàn người.  Năm 990, sứ giả nhà Tống tên là Tống Cảo từ Hoa Lư về thuật lại với vua Tống rằng: “Trong thành không có dân, chỉ có mấy trăm khu nhà làm trại lính. . . Số binh sĩ độ ba nghìn người, đều thính ba chữ “Thiên tử quân” ở trán...”. 

Dẫu chỉ là sự mô tả phiến diện của một sứ thần phương Bắc, nhưng qua đó có thể biết được phần nào tình hình quân lính bảo vệ kinh thành nhà Tiền Lê. Quân đó chia thành tả hữu vệ dưới sự điều hành của một viên tướng tin cẩn gọi là điện tiền chỉ huy sứ hoặc thân vệ điện tiền chỉ huy sứ: phía trong cung cấm có khoảng 1.000 quân tuỳ long túc xa chuyên việc hầu hạ, bảo vệ nhà vua.


_____________________
1. Ph. Ăngghen: tuyển tập luận văn quân sự t.II, Nxb. Quân đội nhân dân? Hà Nội. 1998. t.2, tr.III.
2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.III,


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 13 Tháng Ba, 2009, 05:12:55 pm
Như vậy, “thân quân”,”quân điện tiền” hay “thiên tử quân” chính là bộ phận tổ chức quân đội quan trọng nhất của quốc gia Đại Cồ Việt có nhiệm vụ bảo vệ vua và triều đình. đồng thời đó cũng là chủ lực quân trong cuộc kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn lãnh đạo (981). Như vậy, lực lượng quân sự - quân đội thời Tiền Lê ngoài chức năng bảo vệ cung cấm, bảo vệ nhà vua ở kinh thành và dẹp loạn, còn có chức năng chiến đấu giừ nước khi có giặc ngoại xâm. 

Tóm lại, từ thời Đinh và Tiền Lê (thế kỷ X), quốc gia Đại Cồ Việt đã xây dựng được một hệ thống tổ chức quân sù tương đối hoàn chỉnh với các ngạch bậc khác nhau, mở đầu lịch sử xây dựng một quân đội chính quy của dân tộc.  Nhà nước đã nhiều lần cải cách tổ chức quân đội. bước đầu quy định thống nhất về khung biên chế quân ngũ. Các bậc tiền bối từ Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh đến Lê Hoàn đều rất chú trọng việc dụng võ và nhờ đó mà nước ta thời bấy giờ đã có đủ sức mạnh quân sự, lập nên những võ công hiển hách trong sự nghiệp dẹp trừ nội loạn và đánh giặc ngoại xâm.

2. Tổ chức các thứ quân thời Lý (thế kỷ XI - XIII)

Nhà Lý kế thừa thành quả dựng nước và giừ nước thời Đinh – Lê, trong đó có cả thành quả trên lĩnh vực quân sự.  Trước khi lên ngôi lập vương triều mới, Lý Công Uẩn đã từng là một võ quan có thế lực nhất của triều đình Tiền Lê, giữ chức diện tiền chỉ huy sứ, quản quân tả thân vệ. Vì thế.  Lý Thái Tổ dã kế thừa gần như toàn bộ bộ máy tổ chức quân sự cuối thời Tiền Lê.

Quân thường trực do triều đình trực tiếp quản lý

Đồng thời với việc chuyển kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Lý Thái Tổ cho kiện toàn bộ máy chính quyền. trong đó có cả hệ thống tổ chức quân sự. Lực lượng “thân quân”, “thiên tử quân” thời Tiền Lê, từ năm 1009 đã đổi thành cấm quân thời Lý: đảm đương chức năng bảo vệ kinh đô mới.  Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1028. Lý Thái Tông “đặt 10 vệ điện tiền cấm quân: 1. Quảng Thánh, 2. Quảng Vũ. 3. Ngự Long, 4. Bổng Nhật, 5 Trừng Hải. Mỗi vệ đều chia làm tả và hữu trực, đi quanh để bảo vệ bên trong cấm thành” 1.

Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên các đô quân Khuông Thánh của thần vệ thành Củng Thánh, Quảng Đức thành Trung Vũ, Quảng Vũ thành Chiêu Vũ; đồng thời đặt thêm tả và hữu Long Dực đô, mỗi đô 100 người (?). Đến năm 1059, nhà vua lại chia quân làm tám hiệu: Ngự Long, Vũ Thăng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp, mỗi hiệu quân đều chia ra bốn bộ tả hữu, tiền và hậu: hợp thành 100 đội, trong đó có cả lính kỵ mã, lính cung nỏ và lính bắn đá, mỗi người đều thích lên trán ba chữ “Thiên tử quân”.

Đời Lý Nhân Tông, năm 1104, duyệt binh Hưng Nam. Vũ Tiệp tả và hữu đổi làm đô Ngọc Giai. binh Ngự Long đổi là đô Hưng Thánh và Quảng Vũ; những người thuộc họ lớn trong dân cho làm binh Vũ Thắng; đồng thời đổi Điền nhi làm binh Thiết Lâm 2.   

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết rằng: “sau khi dẹp dược các loạn Lý Giác ở Diễn Châu và quân Chiêm Thành ở châu Bố Chính, ông (tức Lý Thường Kiệt) liền tổ chức lại quân đội. Tháng ba năm Giáp Thân (1104). duyệt lại các đơn vị từ cấm quân đến dân quân. Đổi hai đội Hưng Nam, Dũng Tiệp tả và hữu làm đô Ngọc Giai. Đô Ngọc Giai là đô hầu bên “thềm ngọc”, tức là gần bên ngai vua. Đội binh Ngự Long được đổi ra đô Hưng Thánh và Quảng Vũ. Đó là cấm quân. Quân eủa nhà vua đổi thành lính Vũ Thắng. Điền nhi đổi ra binh Thiết Lâm” 3

Năm 1118, vua Lý Nhân Tông cho tuyển 350 đại hoàng nam khoẻ mạnh để sung làm lính các đô Ngọc Giai, Hưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long. Năm sau, vua sai duyệt lại sáu binh Vũ Tiệp, Vũ Lâm v.v., hạng khỏe giỏi cho làm hoả đầu (đội trưởng) ở các quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thánh, Vũ Đô..., hạng dưới cho làm lính.


________________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.257.
2. Theo Việt sử lược, Điền nhi là quan nô cày ruộng quốc khố.
3. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Ban tu thư Viện đại học Vạn Hạnh ấn hành, Sài Gòn. 1966, tr.371. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 13 Tháng Ba, 2009, 05:16:04 pm
Sách Lĩnh ngoại đại đáp của Trung Quốc thời Tống chép về cấm quân nhà Lý như sau: “Triều Lý có tám quân như: Ngự Long quân, Vũ Thắng quân, v.v., đều chia là tả và hữu; mỗi quân có 200 người, đều thích ở ngang trán ba chữ “Thiên tử quân” 1.

Đại việt sử ký toàn thư cho biết: Buổi đầu đời Lý, cấm vệ có 10 quân, mỗi quân 200 người. Dưới đời Lý Thánh Tông (1054 - 1072) số cấm quân có 3.200 người. Sử thần Ngô Thì Sỹ có nhận xét: “Binh chế buổi đầu đời Lý... lấy thân quân làm trọng, cũng gọi là cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người, đều có tả và hữu; phải túc trực thường xuyên” 2.

Như thế, thời Lý có khoảng vài chục đô quân và vệ quân, mỗi vệ quân khoảng 200 người, đóng trong cấm thành để bảo vệ cung vua. Cấm quân được ưu đãi được cấp lương và cấp bổng, được xăm mình và thích chừ “Thiên tử quân” ở trán. Bấy giờ, nhà nước có lệnh cấm những nô bộc tư gia không được xăm vào ngực, vào chân làm mạo theo hình dạng của cấm quân.

Trong thành phần cấm quân nói trên có một bộ phận gọi là quân túc vệ. tức quân hầu cận, những binh lính bảo vệ và phục dịch nhà vua. Số quân này gọi là tuỳ long quân nội ngoại hay tả hữu túc xa. Vừa lên ngôi Lý Thái Tổ đã đem quân tuỳ long vào làm lính túc vệ bên mình. Việt sử lược chép, Lý Thái Tổ đem 500 quân tuỳ long vào làm quân túc vệ. Năm 1011, vua đặt, quân tả hữu túc xa, mỗi bên 500 người. Lý Thái Tông đổi quân ấy thành tuỳ long quân nội ngoại.

Năm 1051, vua Thái Tông chế xe Thái Bình, một toại “xe ngự” dùng voi kéo được sơn son dát vàng lộng lẫy. Nhà vua còn đặt tuỳ long quân theo hầu xe và cử tướng phiêu kỵ Trần Nẫm cai quản quân ấy. Đến năm 1054, Lý Thánh Tông đặt thêm tả, hữu Long Dực đô, mỗi đô 100 người. Đó là số quân hầu hạ bên xe báu hoặc túc trực bên vua. Mỗi lần xe loan ra hoặc vào, lính Long Dực xếp hàng hai bên, nghi vệ được bày đặt long trọng để chào đón thiên tử. Hoặc gặp ngày triều hội, quân cấm vệ trang phục và đội mũ chỉnh tề đứng trước sân điện, quần thần văn võ đứng chầu hai bên. Khi nhì vua đến, viên chủ sự xướng: “Thánh cung vạn phúc”, quân sĩ đồng thanh hô theo, làm tăng thế uy nghi của buổi lễ.

Năm 1150, đời Lý Thần Tông (1128 - 1138), sau vụ nổi dậy của cấm quân, quan Thái uý Đỗ Anh Vũ đã tổ chức thêm đội quân phụng quốc vệ đô trên 100 người và ra lệnh giữ gìn cẩn mật cung cấm. không cho hoạn quan được vào không cho tụ tập bàn bạc trong cung. Quân cấm vệ được tổ chức chặt chẽ hơn.

Như vậy, trên cơ sở kế thừa tổ chức quân đội thời Tiền Lê, nhà Lý dã phát triển và chính quy hoá quân đội của mình bằng cách mở rộng và đổi tên các quân hiệu: tăng cường quân số và đặt thêm các quân hiệu mới. Tuy vẫn mang danh hiệu là “Thiên tử quân”, nhưng cấm quân thời kỳ này phát triển hoàn chỉnh hơn trên các lĩnh vực.

Về mặt biên chế, cấm quân thời Lý đã chia thành các tướng hiệu, quân hiệu: các vệ quân, đô quân, các đội, ngũ hoặc giáp để thay nhau phụng trực và tuần tra canh gác.  Chẳng hạn, Lý Thái Tổ có 10 quân cấm vệ, ngoài ra còn có chín quân khác để sai khiến. Năm 1025, vua định binh làm giáp, mỗi giáp 15 người dùng một người giỏi; khoẻ làm quản giáp.

Lý Thái Tông đặt 10 vệ Điện tiền cấm quân gọi là “thập vệ”. Tổ chức chính quyền trung tướng cũng như kinh đô Đại Việt thời Lý được xây dựng, mở rộng và hoàn thiện kéo theo sự hoàn chỉnh của cấm quân. Cấm quân thời đó cũng làm trọn chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ kinh đô mới, trong đó có cả triều đình hoàng đế và hoàng tộc.


______________________
1. Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp bản dịch, tư liệu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr.20.
2. Theo Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loại chí, Sđd, t III tr.7. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 13 Tháng Ba, 2009, 05:20:22 pm
Cấm quân vẫn theo nguyên tắc thân quân, tức đội quân của vua. Vua với tư cách là một cá nhân đại diện cho cả bộ máy nhà nước, vua cũng đồng nghĩa với nước - trung với vua cũng tức là trung với nước. Vì vậy. cấm quân thời Lý cũng như các triều đại sau. mang ý nghĩa “thân quân”, được tuyển chọn cẩn thận và thực hiện quyền lực của hoàng đế, bảo vệ hoàng đế và triều đình phong kiến.

Cấm quân là lực lượng chủ yếu để dẹp trừ bạo loạn. đặc biệt là các biến cố ở cung đình. Ví dụ: năm 1028, dưới sự chỉ huy của Vũ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu, cấm quân đã dẹp được “loạn ba vương”, bảo vệ ngôi vua Lý Thái Tông; hoặc năm 1150. quan Điện tiền đô chỉ huy sứ Vũ Đái cùng với Tả hưng thánh hoả đầu Nguyễn Đương, hoả đầu đô Quảng Vũ là Lương Thượng Cá, hoả đầu đô Ngọc Giai là Đồng Lợi đã đem cấm quân xông vào cung đình bắt giam tên loạn thần Đỗ Anh Vũ.

Ngoài nhiệm vụ hộ giá, bảo vệ vua và bao vệ triều đình, cấm quân còn tham gia các hoạt động quân sự khác, như thực hiện các cuộc chinh phạt do vua “tự làm tướng” để dẹp các vụ chống dối địa phương. như ở châu Định Nguyên và châu Tự Nguyên năm 1033.

Vai trò nòng cốt của cấm quân nhà Lý biểu hiện rõ nét nhất trong cuộc kháng chiến chống Tống, khi Lý Thường Kiệt chỉ huy cấm quân kết hợp với quân các châu, lộ “tiên phát chế nhân” (1075) và đánh thắng giặc Tống ở sông Như Nguyệt (1077). 

Về mặt tổ chức, biên chế và chức năng nhiệm vụ, cấm quân nhà Lý và cấm quân nhà Tống (Trung Quốc) có nhiều điểm giống nhau. Cấm quân là quân chủ lực của quân đội, dược tuyển chọn kỹ hơn, chủ yếu đóng ở trong kinh, bảo vệ triều dình. Chỗ khác nhau là cấm quân thời Bắc Tống cứ 50 người lập thành một “đội”, hai đội lập thành một “đô”, năm đô là một “doanh”, năm doanh một “quân”, 10 quân là một “tướng”.

Ngoài nhiệm vụ bảo vệ kinh dô, các đơn vị cấm quân nhà Tống cứ một, hai năm thay nhau đồn trú một lần ở vùng biên, vừa để rèn luyện quân sĩ, vừa để hạn chế bớt binh quyền của các tướng, làm cho “lính không quen tướng, tướng không nắm dược quân” 1. Khi đồn trú, họ thường mang theo cả vợ con, nên cuộc sống khổ cực, lại hay bị bọn quan lại sỉ nhục, do vậy, dưới thời Tống thường xảy ra những vụ binh biến của cấm quân.

Còn cấm quân nhà Lý được coi trọng, là lính hạng nhất, đóng ở kinh đô, có đội ngũ đông, nghiêm, được ưu đãi và trở thành nòng cốt của binh lực cả nước.  Trong cơ cấu tổ chức quân thường trực của quốc gia Đại Việt có một bộ phận gọi là sương quân hay tứ sương quân.  Các sử sách xưa của ta như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Việt sử thông giám cương mục,v.v. đều có nói đến sương quân, nhưng sự ghi chép đó quá ít và sơ lược. Tuy vậy, ta cũng có thể hình dung được một đôi nét về loại quân này.

Theo sự phản ánh của sử liệu thì cái tên sương quân có từ đời Tiền Lê. Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “Vua (tức Lê Long Việt - TG) lên ngôi được ba ngày thì bị Long Đĩnh (tức Lê Ngọa Triều) giết, bầy tôi đều chạy trốn, duy chỉ có Điện tiền quân Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc. Long Đĩnh lên ngôi, truy đặt thuỵ cho vua là Trung Tông hoàng đế, cho Công Uẩn làm tứ sương quân phó chỉ huy sứ2. Bản thân Lý Công Uẩn lúc đó chỉ huy quân điện tiền (thân quân), do hành động nói trên, ông được vua Long Đĩnh khen là người trung, cho làm phó chỉ huy sứ quân tứ sương.

Có thể thời bấy giờ chỉ huy quân tứ sương cũng do quan chỉ huy thân quân (tức cấm quân) đảm nhiệm, vì kinh thành Hoa Lư không lớn lắm và nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài của sương quân cũng gần như bảo vệ cả thành Hoa Lư. Chức vụ mà nhà vua ban cho Công Uẩn vì lòng trung thành, khẳng định đó là một trọng chức của thân quân. Cũng từ chức vụ này mà Lý Công Uẩn được thăng lên làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, một chức võ quan tối cao và quan trọng nhất của ngạch cấm quân.


_______________________
1. Theo Trung Quốc đại bách khoa toàn thư quân sự, Nxb. Khoa học quân sự Trung Quốc, Bắc Kinh, 1986, tr.450. 
2. Toàn thư, Sđd, t .1 , tr. 231.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 13 Tháng Ba, 2009, 05:23:22 pm
Đến thời Lý, sương quân mở rộng và độc lập tương đối với  cấm quân. Ngô Thì Sỹ viết: “tinh chế buổi đầu thời Lý... lấy thân quân làm trọng, cũng gọi là cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân có 200 người, đều có tả và hữu, phải túc trực thường xuyên. Lại có chín quân, như sương quân để sai khiến mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần, gọi là đến canh, hết canh lại cho về cày cấy hoặc làm công nghệ, tự cấp chứ không được cấp lương. Khi có chiến tranh thì gọi ra cho lệ thuộc vào các tướng. Nếu quân này không đủ thì chiếu sổ gọi dân ra tòng ngũ, xong việc lại cho về làm ruộng1.

Chu Khứ Phi, viên quan nhà Tống ở Quảng Đông - Quảng Tây có mô tả về quân đội nhà Lý như sau: “Nhà Lý có tám quân, mỗi quân có 200 người, thích ngang trên trán ba chứ “Thiên tử quân”. Ngoài ra còn có chín quân khác như Hùng Lược, Dũng Kiện... để sai khiến. Binh cứ hàng tháng thay đổi một lần, lúc nhàn hạ thì cấy trồng để tự túc” 2. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép : “Nhà Lý có sáu quân thay nhau về làm ruộng theo đúng chế độ xưa”3.

Binh chế triều Lý quy định chỉ có cấm quân phải thường xuyên túc trực tại ngũ bảo vệ kinh thành, bảo vệ triều đình và được cấp lương, còn các quân khác như sương quân và quân các lộ (ngoại binh) đều phải thực hiện “ngụ binh ư nông”, chia thành nhiều phiên thay nhau ở lại canh phòng và luyện tập hay về nhà cày cấy, hoặc làm công nghệ, tự túc lương ăn.  “Chín quân” hay “sáu quân” nói trên rất có thể là sương quân, một loại quân cơ động của nhà Lý. Lúc thường họ làm nhiệm vụ canh gác và chịu tạp dịch như xây dựng, vận tải, cắt cỏ hay canh gác vòng ngoài kinh thành; khi có chiến tranh họ được điều động đánh giặc. Nếu theo biên chế mỗi quân có 200 người thì riêng số lượng sương quân lúc đó ở các cửa thành đã có 1.800 người.

Trong tổ chức quân thường trực thời Lý có hai bộ phận: quân bộ (bộ binh) và quân thuỷ thuỷ quân).

Bộ binh chiếm đa số, lực lượng voi chiến (tượng binh) và linh kỵ mã (kỵ binh) là những bộ phận phối thuộc trong các đơn vị bộ binh.  Trong cuộc chiến tranh chống Tống (1077), thế trận của Lý Thường Kiệt có chinh diện rộng- có chiều sâu lớn; quân chủ lực tham gia trên mười vạn, được bố trí chặn địch cả trên hai hướng đường bộ và đường thuỷ. Trên hướng bộ, đại quân do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đóng dọc theo chiến tuyến Như Nguyệt - Thiên Đức (Tiên Du) và Thăng Long. Phía trước có phò mã Thân Cảnh Phúc ở Động Giáp, khống chế hai ải hiểm là Quyết Lý và Giáp Khẩu; phía bắc sát dọc biên giới có các tưởng chỉ huy quân địa phương và thổ binh như Lưu Kỷ, Lư Báo. Hoàng Lục Phẫn, Nùng Tồn Phúc, v.v..

Lực lượng thuỷ quân của nhà Lý không đông nhưng tinh nhuệ.  Vua Tống nói quân Giao Chỉ “gan và liều chết”; tướng Tống là Tô Tử Nguyên công nhận: “Người Giao Chỉ giỏi thuỷ chiến”. Theo sách Việt kiệu thư, người Tống có truyền tụng rằng, Giao Chỉ giỏi thuỷ chiến, họ lặn xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói. họ có người đi ngầm dưới đáy biển 50 dặm mà không thở, thuyền đi biển thường bị họ lặn dưới nước đục thủng. Tôn Thăng trong sách Đàm phố cũng ca ngợi đạo thuỷ quân của Thái tử Hoằng Chân là hiệu lệnh nghiêm và chiến đấu rất giỏi.

Thuỷ quân nhà Lý năm 1075 dã tham gia trận tập kích chiến lược vào cảng Liêm Châu và Khâm Châu. Đạo thuỷ quân do Hoằng Chân chỉ huy tham gia trận Như Nguyệt (1077) có tới hai vạn với 400 thuyền chiến; đạo thuỷ quân do Lý Kế Nguyên chỉ huy đánh trận Đông Kênh có khoảng một vạn và trên 100 thuyền chiến.  Riêng trong trận Đông Kênh (năm l077), thuỷ quân nhà Lý do Lý Kế Nguyên chỉ huy đã giành thắng lợi vang đội, đánh tan đạo thuỷ quân nhà Tống do Dương Tùng Tiên chỉ huy, làm tiêu tan ý đồ của quân Tống định phối hợp thuỷ, bộ cùng tiến công phá thế trận phòng ngự ở Như Nguyệt của Lý Thường Kiệt.

Trên thực tế, đạo thuỷ quân của Lý Kế Nguyên tuy không đông nhưng được tuyển chọn và huấn luyện cẩn thận, kỷ luật nghiêm, chiến đấu dũng cảm. Sử nhà Tống có dẫn lời của Dương Tùng Tiên như sau: “Vừa rồi tôi đã gặp quân liên lạc mang lệnh của viên hành quân chiêu thảo sứ giặc là Lý Kế Nguyên. Sau đó nhiều lần tôi đánh chúng, nhưng chúng không có ý khuất phục. Vậy xin nghiêm sai dự bị ở biên giới để chế ngự sự bất ngờ”. 


____________________
1. Theo Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t 3, tr.7.
2. Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp, Sđd, tr. 16. 
3. Toàn thư, Sđd, t.l, tr.260. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 13 Tháng Ba, 2009, 05:27:18 pm
Như vậy, quân thường trực do triều đình nhà Lý trực tiếp quản lý có cấm quân, túc vệ quân và sương quân trong đó gồm cả quân bộ và quân thuỷ. Số quân đó đều đóng ở trong thành hoặc quanh thành; chức năng chủ yếu là bảo vệ kinh thành Thăng Long, trong đó có vua, triều đình và hoàng tộc; ngoài ra còn thực thi các nhiệm vụ khác theo chức trách riêng của từng loại quân, từng đơn vị. 

Quân địa phương (quân các lộ và phủ binh). 

Sau khi nên ngôi, Lý Công Uẩn chia nước chính 24 lộ, hai trại; dưới các lộ có các châu, huyện. Trong các lộ, châu của Đại Việt thời Lý đều có tổ chức quân sự do quan lại địa phương hoặc các vương tôn trong phủ đệ quản lý, chỉ huy. 

Năm 1207, Lý Cao Tông xuống chiếu tuyển đinh nam, lấy những người khoẻ mạnh sung quân, đặt dưới quyền cai quản của các lộ để dẹp giặc. Sử xưa chép một cách sơ sài, rải rác các hoạt động của quân địa phương thời Lý.

Có thể hiểu vai trò quan trọng của tổ chức này qua một số sử liệu. Đó là sự kiện tháng 8- 1132, khi Chiêm Thành và Chân Lạp vào cướp phá ở Nghệ An, vua Lý Thần Tông sai Thái uý Dương Anh Nhĩ đem quân ở phủ Thanh Hoá và châu Nghệ An đánh giặc; năm 1151, vua Lý Thần Tông xuống chiếu cho thống chế Lý Mông đem 5.000 quân Thanh Hoá và Nghệ An đưa Ung Minh Ta Diệp về nước Chiêm Thành làm vua; hoặc năm 1207, Lý Cao Tông ra lệnh tuyển nhân đinh khoẻ mạnh sung vào quân đội đặt dưới quyền cai quản của quan các lộ để dẹp loạn... 1.
 
Sự xuất hiện dông đảo quân các châu, lộ vùng phía bắc và đông bắc đất nước trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077) chứng tỏ phần nào quy mô tổ chức và vai trò của họ trong cuộc chiến tranh giữ nước. Trong lần “tiên phát chế nhân” (1075), Lý Thường Kiệt đã huy động một số lượng lớn quân ở các châu, lộ phía bắc do các thủ lĩnh địa phương chỉ huy như Tông Đản, Thân Cảnh Phúc, Hoàng Kim Mãn, Lưu Kỷ, Vi Thủ An...

Số quân của các “động chủ” này được sử dụng đảm nhận nhiệm vụ của một trong hai cánh quân cùng tiến đánh các mục tiêu quân sự của quân Tống ở Ung Khâm Liêm; họ đã phá huỷ, san bằng các kho trại giặc ở sát dọc biên giới và hợp sức cùng cánh chính binh do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy vây đánh thành Ung Châu...

Năm 1076 - 1077, quân của các thủ lĩnh nói trên lại một lần nữa tham gia chiến đấu chống Tống ở ngay biên giới, chặn đánh và hạn chế bước tiến quân của giặc. Bấy giờ theo Tống sử, tướng Lưu Kỷ có 8.000 quân đóng ở Quảng Nguyên. Dưới quyền thống lĩnh của Lưu Kỷ còn có nhiều tướng kiệt kiệt như Nùng Trí Cao, các con Nùng Tồn Phúc, Hoàng Lục Phẫn... Thân Cảnh Phúc lúc đó đóng ở động Giáp, khống chế hai cửa ải Quyết Lý và Giáp Khẩu; Hoàng Kim Mãn giữ Môn Châu; Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu từ Tư Lăng đến Lạng Châu.

Sử nhà Tống cũng cho biết, khi Quách Quỳ tiến đến huyện Quan Lang thì gặp ngay quân Thân Cảnh Phúc đem voi chặn đường, quân Tống không thể tiến được, Quỳ bèn sai quân thủ tiễn dùng nỏ bắn vào voi, lấy mã tấu chém vào vòi voi, voi sợ quay lại 1.

Sách Quế hải chí của Trung Quốc chép: “tiên tri phủ Quan Lang là phò mã (Thân Cảnh Phúc - TG) bị thua, bèn trốn vào trong bụi cỏ. Thấy quân Tống lẻ loi thì giết chết hoặc bắt về. . . Người ta cho đó là một vị thần” 2.   

Những sự kiện nói trên không chỉ chứng minh sự đóng góp to lớn của quân các lộ trong kháng chiến mà còn cho ta biết một thực tế là lúc đó ở các châu, các lộ đều có lực lượng vũ trang của mình, ở miền núi do các thủ lĩnh và quan lại địa phương (như phò mã Thân Cảnh Phúc) thống lĩnh. 

Triều đình nhà Lý với chính sách “nhu viễn” của mình, bằng nhiều hình thức liên kết với các thủ lĩnh vùng biên như sách lược ky mi (ràng buộc lỏng lẻo) hoặc gả công chúa cho họ với mục đích liên kết và sử dụng lực lượng quân sự này vào công cuộc bảo vệ các vùng biên giới.


______________________
1. Cương mục, Sđd, t.1, tr.430.
1,2. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.195-196.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 13 Tháng Ba, 2009, 05:30:10 pm
Tư liệu lịch sử cũng cho biết rằng, hoàng tử Hoảng tức Lý Nhật Quang, con thứ tám của vua Lý Thái Tổ đã được Lý Thái Tông cử vào trấn trị ở châu Nghệ An. Trong thời kỳ làm tri châu ở vùng đất phương nam này, Lý Nhật Quang đã có công lớn trong việc bảo vệ và ổn định biên giới giáp với Chiêm Thành. Ông đã xây dựng lực lượng quân sự của mình, triển khai quân trấn giừ ở những cửa ải quan trọng và đã tham gia đánh giặc mỗi lần vua Lý Thái Tông đưa quân hỏi tội quân Chiêm Thành quấy phá biên giới. 

Đội ngũ quý tộc nhà Lý mà nòng cốt là bộ phận quý tộc tôn thất, trong đó có các hoàng tử, thân vương được phong chức tước cao và được nhà vua giao cho nhiều trọng trách như phong chức đại nguyên soái cầm quân đánh giặc, lưu giữ ở kinh sư bảo vệ kinh thành, cho quyền trấn trị và thu thuế ở các địa phương, v.v. .

Vua Lý đã từng đưa con cháu của mình đi trấn trị ở một số châu, lộ để bảo đảm sự trung thành về chính trị của địa phương đối với triều đình.Trong một khuôn khổ nhất định, ở những vùng trấn trị đó, các vương tử, quý tộc có quyền tổ chức một bộ phận lực lượng quân sự của mình. Các vương (con vua Lý) đều có lực lượng “phủ binh” riêng gọi là “quân vương phủ”.

Điều này có thể nhận biết qua sự biến cung đình năm 1028. Lúc đó vua Lý Thái Tổ vừa mất, Thái tử Phật Mã (tức Lý Thánh Tông) chưa kịp lên ngôi thì ba vương là: Đông Chinh vương, Dực Thánh vương và Vũ Đức vương đã đem “phủ binh” của mình vào phục sẵn trong cấm thành để giết Thái tử, tranh ngôi báu. Đông Chinh vương phục binh ở trong Long Thành, Dực Thánh vương và Vũ Đức vương phục ở ngoài cửa Quảng Phúc đợi Thái tử đến để đánh úp. Nhưng việc không thành vì Lê Phụng Hiểu và Lý Nhân Nghĩa đã chỉ huy quân cấm vệ đánh tan.

Bấy giờ, Khai Quốc vương trấn trị ở phủ Trường Yên (Ninh Bình) cũng có một đội quân riêng và tỏ ý không chịu mệnh Thái tử, nhân vụ “ba vương” cũng định đem phủ binh làm phản. Vì thế, sau khi lên ngôi, Lý Thái Tông phải thân cầm quân đến Trường Yên vừa dùng áp lực vừa dùng ân đức để chiêu dụ Khai Quốc vương. 

Trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 1077 có đội quân của hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn tham gia đánh trận Khao Túc trên sông Phú Lương (sông Cầu). Khi đó, Hoằng Chân chỉ huy một đạo thuỷ quân mà lực lượng nòng cốt là 500 quân “nuôi riêng” của ông. Loại quân này được tổ chức, huấn luyện và trang bị theo phương thức riêng của chủ tướng. Khi có chiến tranh. nhà nước có thể huy động để huấn luyện và chiến đấu dưới sự chỉ huy thống nhất.

Tôn Thăng, một người Tống, có viết trong sách Đàm phố rằng:“Hoằng Chân có nuôi riêng 500 quân đặc biệt, cấm mọi điều thị dục, dạy cho trận pháp. Đội quân ấy rất giỏi. Hiệu lệnh rất nghiêm. Người nào cũng cầm một cái kim bài để làm hiệu riêng” 1.

Như vậy, “quân vương phủ” thời Lý thực chất cũng như một loại “thân binh”, về hình thức có điểm giống như quân của nhà vua; điểm khác nhau ở chỗ, vua là đại diện cho quốc gia, quân của vua là quân của triều đình, của nhà nước đóng ở kinh đô; còn quân của các vương là quân riêng của cá nhân, có nhiệm vụ bảo vệ phủ đệ và vùng trấn trị của họ.

Như vậy, dưới thời Lý, ở các địa phương, các lộ, phủ, châu đều có lực lượng quân sự riêng. Đó là quân do các quan lại địa phương tổ chức, chỉ huy; có thể đó là các vương tôn, quý tộc vốn là quan lại do triều đình cử xuống; cũng có thể là đó là quân của các thủ lĩnh, các tù trưởng, tộc trưởng miền núi . . . 

Triều Lý cho phép họ tuyển đinh tráng trong địa phương và cai quản binh trong lộ, trong phủ đệ của mình; nhưng họ phải chịu  sự chỉ huy chung của trung ương và có thể được huy động khi có chiến sự. Số quân các lộ không giống nhau nhiều ít tuỳ lộ hoặc châu lớn - bé, hoặc tuỳ nhu cầu phòng giữ trong địa hạt. 

Đây cũng là lực lượng vũ trang canh phòng, tác chiến chủ yếu trên địa phương; nhưng khi có chiến tranh lớn thì quân các lộ, châu hoặc của các vương tôn đều phải chịu sự điều động và chỉ huy của triều đình.


____________________
1. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.209.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:00:11 pm
Trong lực lượng quân thường trực của nhà nước Đại Việt thời Lý thì “ngoại binh”, gồm cả sương quân và quân các lộ đều được chia phiên, thay nhau túc trực hay trở về sản xuất tự túc theo quốc sách “ngụ binh ư nông”. Theo sử gia Phan Huy Chú: “Thời Lý, trong thành có quân túc vệ đội ngũ đông nghiêm quân ở ngoài thì vẫn theo ý đời xưa, lúc vô sự thì làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết. Cho nên, binh vẫn đủ mà không phải chi phí nhiều, càng thêm hăng hái chống giặc” 1.

Ngoài các lực lượng quân sự nói trên, trong các triều đại Đinh, Tiền Lê và Lý, ở khắp các địa phương, làng bản trong cả nước đều có lực lượng dân binh, thổ binh. Ở nước ta từ rất sớm đã có truyền thống dân binh tham gia đánh giặc cùng vời quân đội. Có thể họ là lực lượng bảo vệ quê hương làng xã, động bản và đánh giặc tại chỗ khi quân thù đến; có thể họ được huy động lệ thuộc vào các đội quân địa phương và quân triều đình cùng chiến đấu giữ nước.

Dưới triều Lý, cùng với chính sách cố kết dân tộc, nhà nước rất chú trọng phát triển lực lượng quân sự địa phương trong đó có dân binh hay thổ binh, nhất là ở các vùng lãnh thổ nơi biên giới phía bắc và đông bắc. Vì thế, cuối năm 1075 đầu năm 1076, trong đạo quân tiến sang đất Tống thực hiện cuộn tập kích chiến lược “tiên phát chế nhân” phá tan các căn cứ xuất phát xâm lược của giặc có đông đảo thổ binh nằm trong các đạo quân do thủ lĩnh địa phương các dân tộc miền núi chỉ huy. 

Đến cuối năm 1076 đầu năm 1077, dân binh, thổ binh vùng tử bắc sông Như Nguyệt đến biên giới lại một lần nửa có mặt trong các đội quân chống xâm lăng. thực hành đánh chặn, tập kích, phục kích, tiêu hao địch, tạo điều kiện thuận lợi cho quân chủ lực nhà Lý thực hiện thành công phòng ngự và phản công tiêu diệt quân Tống.

Sử Trung Quốc Tục tư trị thông giám trường biên cho biết: “Dân Man họp nhau chống lại ở bắc Quảng Nguyên có Hoàng Lục Phẫn cùng cu dân chống cự, không cho (người Tống) tiến vào động mình. Cánh quân do Yên Đạt chỉ huy cũng bị Lưu Kỷ chống lại rất hăng. Yên Đạt sai đốt phá các động để đề phòng người ở đó tập kích” 2.

Lực lượng dân binh, thổ binh vừa là nguồn đinh tráng bổ sung cho quân ngũ, vừa là lực lượng đông đảo tham gia cuộc chiến đấu chống xâm lược Tống. Trong một tờ trình của quan địa phương gửi vua Tống có nói: “Dân Man kéo hết cả nhà theo”, “cả nước Giáo Chỉ, nhà có sáu người thì năm người tòng quân, còn một không đi được phải ở lại”; điều đó phần nào chứng tỏ sự tham gia đông đảo của dân binh trong cuộc kháng chiến chống Tống.

Như vậy, căn cứ vào các sự kiện lịch sử trực tiếp phản ánh các hoạt động quân sự vào cuối thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và thời Lý, kể cả trong công cuộc dẹp loạn và hai lần chống quân Tống xâm lược, chúng ta có thể hình dung trong lịch sử quân sự dân tộc giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII đã xuất hiện hình thức tổ chức lực lượng vũ trang với sự kết  hợp của nhiều loại quân và binh, đó là :

1. Quân triều đình, tức quân thường trực của trung ương, với nhiều tên gọi khác nhau như thiên tử quân, thân quân, điện tiền quân hay cấm quân (thời Lý); ngoài ra còn có sương quân (hay tứ sương quân).

2- Quân lính ở các địa phương, tức quân các đạo, quân các lộ phủ, châu và quân vương phủ do các thân vương tổ chức quản lý.

3- Hương binh, dân binh vùng đồng bằng hay thổ binh miền núi, nằm trong các làng xã, động bản; thời bình họ là dân phòng, là tuần đinh, khi có biến họ là lực lượng đánh giặc tại chỗ hoặc tham gia chiến đấu cùng với các đơn vị quân địa phương.

Ba loại quân - binh nói trên cùng tồn tại song song trong xã hội nước ta các thế kỷ X - XIII. Khi có giặc ngoại xâm họ tham gia chiến đấu dưới sự chỉ huy thống nhất của triều đình trung ương.


__________________________
2  Theo Hoàng Xuân Hân: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 269, 166.
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loại chí, Sđd, tr.5


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:01:16 pm
II. CHẾ ĐỘ TUYỂN MỘ, NUÔI DƯỠNG VÀ TRANG BỊ

1. Tuyển quân.

Tuyển quân xưa còn gọi là phép kén chọn binh lính của nhà nước, bao gồm cả vấn đề quản lý nhân đinh và các quy chế tuyển đinh tráng sung vào quân ngũ được vận dụng trong mỗi thời kỳ. Hai vấn đề dân tịch và quân tịch luôn luôn gắn liền.

Từ thế kỷ thứ X, thời Đinh - Lê có thập đạo quân, bắt đầu chế độ binh dịch đối với tất cả các đinh tráng, vì thế vấn đề quản lý hộ tịch để “điểm dân làm lính” đã được đặt ra.  Trên danh nghĩa thập đạo quân gồm một trăm vạn người, nhưng thực chất đó là “ngạch binh biên sổ, binh gắn liền với nông.

Sử chép, năm Thiên Phúc thứ 7 (986) và thứ 9 (988), vua ra lệnh chọn dân làm binh, lấy những người khoẻ mạnh sung vào quân túc vệ. Tháng 3-1002, vua định luật lệnh tuyển chọn quân lính. Thời bấy giờ, thân quân túc vệ quân điện tiền quân hay thiên tử quân đều là cấm binh, loại quân thường xuyên túc trực, canh gác bảo vệ nhà vua và kinh đô Hoa LƯ. Còn quân thập đạo nói chung đều thực hiện chế độ thay phiên canh gác hoặc khi có việc thì gọi ra, khi xong việc lại giải tán về với đồng ruộng và gia đình. 

Sang thời Lý (thế kỷ XI), vấn đề quản lý đinh tráng đã trở thành điển chế của nhà nước. Công việc binh chính, tài chính được chính quyền chú ý; trong đó, biện pháp đầu tiên là Lập hộ tịch và kiểm kê nhân đinh trong nước. Đây là cơ sở để nhà nước tuyển quân.

Thể thức được tiến hành như sau: hàng năm, đầu mùa xuân, các xã quan lập sổ hộ xã mình, kê khai nhân đinh, xếp theo thứ hạng: tôn thất (họ vua), quan văn võ, quan theo hầu, quân nhân, tăng đạo, hoàng nam (những người khoẻ mạnh), người già yếu, tàn tật, lưu tán... 

Đinh nam từ 18 đến 20 tuổi được ghi vào sổ bìa vàng, gọi là hoàng nam, từ 20 đến 60 tuổi gọi là đại nam. Đến đời Lý Anh Tông (1138 - 1175) có quy định khác: từ 16 tuổi trở xuống là hoàng nam, từ 17 đến 19 tuổi là đại hoàng nam.  Tất cả các hoàng nam và đại hoàng nam đều được ghi tên trong cuốn sổ bìa vàng. Đây là nguồn binh của nhà nước. 

Thông qua các tổ chức hương xã, triều Lý quản chặt số đinh tráng trong toàn quốc. Nhà nước nghiêm cấm việc ẩn lậu hoặc trốn tránh ghi tên trong sổ. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ có chiếu lệnh cho những kẻ trốn tránh. phiêu tán phải trở về quê cũ, mục đích là để giữ yên trật tự xã hội, mặt khác để có điều kiện quản lý tốt nhân khẩu, tạo thuận tiện cho việc tuyển lính, thu thuế và bắt sai dịch.

Đặc biệt chính quyền nghiêm cấm việc ẩn giấu và mua bán các hoàng nam và đại hoàng nam. Nhà nước hạn chế các quý tộc thuê mướn, mua bán hoàng nam làm gia nô. Có thời kỳ chỉ cho phép ba người (các quan chủ đô) nuôi chung một gia nô. Ai muốn nuôi tư nô chỉ được nuôi kẻ chưa đến tuổi hoàng nam (tức dưới 18 tuổi). 

Chính quyền nghiêm trị những kẻ cố tình làm trái lệnh trên.  Năm 1043, Lý Thái Tông hạ lệnh: các quan chức cứ ba người phải bảo đảm lẫn nhau, ai chứa giấu đại nam làm gia nô cho người khác nếu đã bán rồi thì đánh 100 trượng và thích 20 chữ vào mặt, chưa bán nhưng đã cho đến ở và làm việc cũng đánh như thế và thích 10 chữ; người nào đã biết chuyện nhưng vẫn mua thì bị xử thấp hơn một bậc so với kẻ bán. 

Quy định trên chứng tỏ thời Lý rất chú trọng quản lý nhân đinh, đặc biệt là quản số hoàng nam rất chặt chẽ. Có như vậy, việc tuyển chọn hoặc điều động, gọi dân đinh ra làm lính mới không sai sót, công bằng và tiện lợi. Trên cơ sở đó, nhà nước tiến hành tuyển dân làm lính theo chế độ: binh dịch là nghĩa vụ đối với tất cả các đinh tráng đến độ tuổi trưởng thành; dưới triều Lý, đối tượng đó là các hoàng nam hoặc đại hoàng nam.

Theo chế độ nói trên, hàng năm vào dịp mùa xuân, triều đình có lệnh cho các lộ, phủ tuyển quân. Số lượng tuyển và điều động đinh tráng vào lính tuỳ theo yêu cầu. Tư liệu lịch sử phản ánh không chi tiết các đợt tuyển quân đó. Nhưng qua sự ghi chép tản mạn, chúng ta có thể biết được một số nội dung và phương thức thực hiện của chế độ này.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:03:16 pm
Chẳng hạn, mùa xuân năm Chiêu Thắng thứ 8 (1083), vua Lý Nhân Tông đích thân duyệt các hoàng nam, định làm ba bậc, từ đó tuyển những hoàng nam khoẻ mạnh làm lính.  Năm 1118. triều đình tuyển 350 đại hoàng nam sung làm quân các vệ Ngọc Giai, Hưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long. 

Trong đợt tuyển cấm quân đầu năm 1146, vua Lý Anh Tông lệnh cho các quan, các quản giáp và chủ đô chỉ được chọn nhân đinh ở hộ đông người, không được tuyển con các nhà cô độc (nhà chỉ có một con trai). Năm 1160, nhà vua giao cho Tô Hiến Thành và Phí Công Tín phụ trách tuyển dân đinh chọn những người khoẻ sung vào quân ngũ.

Năm 1179, vua Lý Cao Tông xuống chiếu tuyển đinh nam, chọn những tráng đinh cho làm lính. Vào cuối triều Lý, các thế lực chống đối ngày một đông, triều đình luôn luôn bận rộn việc đánh dẹp. Lý Cao Tông, năm 1207, đã xuống chiếu chọn các hoàng nam khoẻ mạnh sung quân, cho phép tăng quân số địa phương và ra lệnh cho quan các lộ cai quản quân đó để “dẹp loạn”.

Như vậy, vào những năm hoà bình, triều đình nhà Lý vẫn chú ý tuyển đinh tráng vào quân, lấy người trẻ khoẻ thay thế số binh lỉnh già yếu, bổ sung thêm số thiếu hụt. Số lượng tuỳ theo từng thời kỳ, theo yêu cầu canh phòng và luyện tập. Số đinh tráng còn lại được ghi tên trong sổ bìa vàng, còn gọi là sổ quân, lúc cần chiếu sổ gọi ra tòng quân. Đó là lệ thường hằng năm của nhà nước Đại Việt thời Lý.

Học giả Phan Huy Chú có nhận xét: “Đại ước người trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, người hạng kém thì biên vào sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn mau chóng có lẽ không nhất định”.  Sử sách không cho biết mỗi năm nhà Lý tuyển được bao nhiêu quân và tổng số quân thường trực trong các đời vua bao nhiêu. Nhưng qua biên chế, thời Lý có vài chục đô quân hay vệ quân; mỗi đô có 100 người, mỗi vệ có 200 người.  Ngoài số cấm quân còn có sương quân và quân các lộ phủ. 

Tổng số quân thường trực thời Lý ở trung ương và ở các địa phương ước chừng khoảng từ 5 đến 7 vạn vào lúc hoà bình, thời chiến nhà nước có thể huy động được một lực lượng lớn hơn nhiều, như trong giai đoạn kháng chiến chống Tống lần thứ hai (1075-1077), triều Lý có trên 10 vạn quân chủ lực tinh nhuệ.

Tuy nhiên, số lượng quân thường trực 5-7 vạn nói trên không phải thường xuyên tại ngũ. Trong số đó, chỉ có cấm quân là lính chuyên nghiệp, được hưởng lương và phải túc trực bảo vệ kinh đô, sử sách còn gọi là quân trong kinh thay nội binh); còn ngoại binh (sương quân và quân các lộ) thì được luân phiên thay nhau tại ngũ canh gác và luyện tập hoặc trở về sản xuất tự túc lương ăn.

Ngô Thì Sỹ cho biết:“Chế độ binh lính nhà Lý. . . mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết hạn lại cho về quê làm ruộng, quan không phải cấp lương” 1. Đó là chính sách đối với phần lớn số binh lính được tuyển mộ và trưng dụng dưới triều Lý.
 
2. Trang phục và nuôi dưỡng

Sử sách xưa nói rất tản mạn về cách ăn mặc của các võ quan, còn trang phục của binh lính thì rất khó tra cứu, tìm hiểu.

Nước ta nhỏ, sống chủ yếu bằng nghề nông; thủ công nghiệp tuy phát triển sớm nhưng chưa thể cung ứng đầy đủ mọi nhu cầu về vải mặc và phương tiện cho cả quân đội; vả lại ở một số triều đại, nhất là thời kỳ đầu xây dựng nền độc lập tự chủ sau hơn một ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ chức quân đội quốc gia mới là bước sơ khai, chưa thật sự chính quy như những triều đại sau, do đó binh và nông vẫn gắn chặt với nhau, cả cái ăn và cái mặc của quân sĩ chủ yếu còn phải tự túc, kinh phí của nhà nước còn hạn hẹp, chỉ đủ cung cấp cho đội ngũ võ quan và số thân quân hoặc cấm quân - những người lính chuyên nghiệp phải thường xuyên túc trực bảo vệ kinh thành.

Các sách Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Vân đài loại ngữ, Việt sử thông giám cương mục... có phản ánh một phần cách ăn mặc của võ quan, tướng lĩnh và binh sĩ trong thời kỳ này. Sử chép, năm 975, Đinh Tiên Hoàng quy định áo mũ cho các quan văn võ; quân thập đạo đều đội mũ “tứ phương bình định”, mũ làm bằng da, phía trên bằng, bốn góc vuông khâu giáp nhau, trên hẹp dưới rộng.


_____________________
1. Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiêu án, Sđd, tr.127.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:06:39 pm
Đến thời Tiền Lê, năm 1002, Lê Hoàn trang bị mũ “đầu mâu’ cho quân đội. Sách Đại Việt sử ký toàn thu cho biết, vào mùa đông năm 1055, vua Lý Thánh Tông thương kẻ tù tội, ra lệnh phát “chăn chiếu cho tù nhân”.

Như vậy, chắc cấm quân thời ấy cũng được cấp phát chăn chiếu. Bức vẽ các chiến binh trên đồ gốm thời Lý - Trần cho biết họ đều chít khăn, đóng khố, cởi trần. Vua Lý cho phép cấm quân thích chữ ở trán, vẽ hình ở bụng và vế đùi, có thể vào mùa hè binh sĩ đóng khố cởi trần luyện tập mới khoe được các hình vẽ ấy.

Thời Lý, các quan văn võ từ lục phẩm được mặc áo gấm, từ thất phẩm trở xuống mặc áo the. Điều này cũng phù hợp với lệnh của vua Lý Thái Tông phát gấm vóc trong kho để may lễ phục cho vua quan. Năm 1044, các võ quan lập công trong cuộc chiến với Chiêm Thành được nhà vua ban thưởng, từ lục phẩm trở lên cho áo bào gấm, từ thất phẩm trở xuống ban áo là. Quân sĩ thời đó chủ yếu mặc áo vải thô nhuộm bằng củ nâu và lá cây.

Lê quý Đôn viết rằng:“Nước Nam ta lấy lá chàm nhuộm vải và lấy củ nâu nhựa giã nhỏ, nhuộm, lấy chày đập, rồi phơi khô để may áo. gọi là thanh cát y; có ba thứ: sắc màu lửa sáng, sắc màu sáng nhạt và sắc màu hoa quì. Bất cứ quân, dân, sang hèn đều mặc thế. Chỉ có khác là ở kiểu cách, dài ngắn mà thôi1

Năm 1182, vua Lý ra lệnh cấm nhân dân không được mặc áo sắc vàng vì màu vàng chỉ dành riêng cho vua. Từ đời Lý Thánh Tông, các quan văn, võ đều dùng loại “mũ phốc đầu làm triều phục. Năm 1164, vua Tống (Trung Quốc) thấy sứ giả nhà Lý “ôn hoà, văn phong áo mũ chửng chạc, đàng hoàng, rất lấy làm ưng ý2. Điều đó chứng tỏ, trang phục của các quan văn, võ thời Lý đã hoàn chỉnh, đẹp mắt. 
 
Việc nuôi binh, dưỡng binh tuỳ thuộc vào chế độ tổ chức quân đội từng triều đại. Tuy có phần khác nhau nhưng nhìn chung vấn đề nuôi dưỡng trong quân đội đều được các triều đại quan tâm, vì họ đều hiểu rằng “thực túc binh cường”, “túc thực túc binh”, “có thực mới vực được đạo”. Tuy nhiên, các sử gia thời xưa đã không chú ý ghi chép về vấn đề này, nên việc khảo cứu gặp rất nhiều khó khăn. 

Sử cũ hoàn toàn không cho biết chế độ nuôi quân dưới các thời Ngô, Đinh và Tiền Lê. Sử gia Ngô Thì Sỹ nhận xét về chế độ quân thập đạo thời Đinh - Lê như sau: “Xét quy chế - quân lữ này, từ một ngũ 10 người, đến một đạo 10 quân, thành số mỗi quân 10.000. Tổng số 10 đạo là 100 vạn người.  Số cơm áo 100 vạn người ấy tất phải phiền đến mấy ức vạn người cung cấp, thì dân lực trong nước lấy gì mà cung cho đủ được? Có lẽ bấy giờ binh và nông chưa chia, còn là khi có việc thì gọi ra, khi xong việc lại giải tán về đồng ruộng, hoặc giả như cách kén binh ở tứ trấn ngày nay (thời cuối Lê - TG), chỉ có ngạch biên sổ mà thôi” 3.
 
Có thể công nhận đó là một nhận xét hợp lý. Như trên đã nói, tổ chức quân đội ở nước ta thế kỷ X chưa thật hoàn thiện, cho nên việc ăn và mặc chủ yếu lo cho số thân quân, còn phần lớn làm lính theo nghĩa vụ chủ yếu là tự túc lương ăn; quân lính ở các đạo phần lớn là quân biên sổ, tức là chỉ có biên chế theo sổ sách, khi cần theo sổ mà huy động.

Tuy nhiên, khi có chiến sự, việc binh lương một phần do nhà nước cung ứng, một phần do nhân dân các địa phương đóng góp. Theo truyền thuyết dân gian hoặc thông qua các lễ hội ở một số địa phương chúng ta thấy dân làng thường tế lễ bằng các thứ bánh dày, lương khô (bánh khảo) và hoa quả, tượng trưng cho những thứ lương thực cung cấp cho quân đội thời Ngô Quyền và Lê Hoàn đánh giặc. 

Bước sang thế kỷ XI, vương triều Lý bắt đầu thực hiện “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nông), coi đó là một quốc sách xây dựng lực lượng quân sự nằm trong nhân dân, gắn liền với sản xuất. Vấn đề nuôi dưỡng quân đội thời này có ảnh hưởng rất lớn bởi chính sách ngụ binh ơ nông. Thời Lý, cấm quân là lực lượng thường trực, thường xuyên phải túc trực tại ngũ để canh phòng và luyện tập.


____________________
1. Lê quý Đôn: Toàn tập Vân đài loại ngữ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.155.
2. Cương mục, Sđd, t.1V, tr. 45.
3. Theo Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loại chí, t.1II, Binh chế chí, Sđd, tr.7.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:12:23 pm
Loại quân này được nhà nước cung cấp, nuôi dưỡng theo chế độ của từng giai đoạn. Họ được phát quân trang và cấp lương bằng tiền, bằng thóc, gạo và kèm theo một số thực phẩm khác. Còn các quân khác, mà cụ thể đó là sương quân và quân các lộ (ngoại binh) đều thực hiện phép “chia phiên” theo chính sách ngụ binh ư nông.

Các đơn vị được chia thành nhiều phiên; thay đổi nhau theo định kỳ, một phiên túc trực tại ngũ, luyện tập, canh gác hay phục dịch, các phiên khác trở về gia đình tham gia sản xuất, tự túc lương ăn.  Sách Việt sử tiêu án cho biết: “Chế độ binh lính nhà Lý...  mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh, hết canh lại về làm ruộng, quân không phải cấp lương” 1.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết năm 1128, vua Lý Thần Tông “cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng, theo chế độ xưa” 2. Binh chế chí, sách Lịch triều hiên chương loại chí chép: “Đời Lý, cấm quân mỗi năm được cấp 10 bó lúa. Mồng 7 tháng Giêng, khai hạ, cấp cho mỗi người ba tiền và vải một tấm. Ngày Nguyên Đán, trong lễ đại triều hội, ban ăn có các thứ bánh tày, cá, mắm và cơm gạo nếp cái trồng trọt để tự cấp3..

Bấy giờ lương bổng đều cấp bằng gạo tẻ, tức là gạo chiêm. Còn ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên canh cho về cày cấy. Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp thì, “Binh sĩ (triều Lý) cứ một tháng một lần đổi. Hàng năm, ngày 7 tháng Giêng, mỗi người được chi tiền 300, trừu, lụa, vải đều một tấm. Hàng tháng được cấp 10 bó lúa4.
 
Phan Huy Chú dẫn lời Ngô Thì Sỹ nói rằng: “Binh chế buổi đầu nhà Lý, đại lược bắt chước phép Phủ vệ của nhà Đường và phép cấm sương nhà của Tống, lấy thân quân làm trọng, cũng gọi là cấm quân. Cấm vệ có 10 quân, mỗi quân 200 người, đều có tả hữu, phải túc trực thường xuyên. Lại có chín quân như sương quân, để sai khiến làm mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần, gọi là dện canh, hết canh lại cho về nhà cày cấy hoặc làm công nghệ tự cấp lấy chứ không được cấp lương.  Khi có chiến tranh thì gọi ra cho lệ thuộc vào các tướng. Nếu số quân này không đủ thì chiếu sổ gọi dân ra tòng ngũ’ xong việc lại cho về làm ruộng. Đó là đúng với ý nghĩa ngụ binh ơ nông” 5 .

Căn cứ vào các sử liệu trên, có thể biết, trong quân đội thời Lý chỉ có quân cấm vệ (cấm quân) là quân thường xuyên túc trực, được cấp lương ăn. Các loại quân khác( từ quân tứ sương canh giữ các cửa thành đến quân các lộ đều được vận dụng phép chia phiên theo chính sách ngụ binh ư nông.  Cách chia phiên cụ thể ra sao không rõ, chỉ biết rằng quân lính được cắt canh từng phiên, mỗi tháng một lần thay phiên.

Tức là sương quân và quân các lộ được chia thành nhiều bộ phận, tháng này phiên thứ nhất lên cơ ngũ canh phòng, luyện tập hay làm tạp dịch, còn các phiên khác về nhà sản xuất tự túc. Các phiên cứ thế thay nhau, chu kỳ mau chóng tuỳ theo số phiên. Nhờ chế độ đó, mà quân lính được về sản xuất, gần gũi vợ con, gia đình và vườn ruộng. 

Quân thường trực thời đó tuy đông nhưng số tại ngũ thì hạn chế, đỡ kinh phí nuôi quân cho nhà nước đương thời.  Số cơm gạo, tiền và vải cấp phát cho quân thường trúc đều do dân đóng góp, chủ yếu từ tô thuế hay được huy động khi nhà nước cần.

Năm l092, vua Lý Nhân Tông định lệ thu thuế, mỗi mẫu ba thăng lúa để cấp cho quân đội. Vương triều Lý chia nước thành các châu lộ. Mỗi lộ đều được triều đình cắt cử quan lại về trấn trị để quản lý, thu thuế. Các  vương tôn, hoàng tử cũng được giao cai quản, chỉ huy quân đội và thu thuế từng vùng.


________________________
1. Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiêu án. Sđd, tr.127. 
2. Toàn thư, Sđd, t.l, tr.314.
3. Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loại chí, Sđd, t.III, tr . 314
4.Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp, tr.18. 
5.  Theo Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loạt chí. Sđd, t. ITI, tr. 7,8.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:14:05 pm
Nhà nước tổ chức các kho chứa lương thực. Để dự trữ, cung cấp cho các cuộc hành quân và luyện tập, ngoài việc quân lính phải gói cơm, muối đi cùng, các địa phương còn được lệnh chứa sẵn ở kho lương thực hoặc các loại thức ăn được chế biến trước như bỏng khô, chè lam, các loại bánh hay gạo nấu chín. Quân đi đến đâu thì quan tri châu ở đó có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ lương thực và thực phẩm. 

Hoàng tử thứ tám của vua Lý Thái Tổ được cử làm tri châu ở Nghệ An. Nhờ vận dụng những chính sách khuyến nông hợp lý nên châu Nghệ An ổn định và phát triển, đời sống nhân dân no đủ và thóc gạo dự trữ có phần dư thừa.  Nhờ đó mà Lý Nhật Quang xây dựng được nhiều kho thóc dự trữ cho quân đội.

Sử chép rằng, năm 1037, vua Lý Thái Tông xuống chiếu cho xây dựng các kho Tư Thành, Lợi Nhân, Vĩnh Phong, v.v. , để làm nơi cất giữ các loại tô thuế. Thời kỳ làm tri châu ở Nghệ An, Lý Nhật Quang đã sắp đặt hành doanh ở trại Bà Hoà, trong trại đất rộng có thể chứa được ba, bốn vạn quân; kho tàng, tiền lương đủ dùng trong ba năm. ông cho xây dựng 50 sở để làm kho tích trữ lương thực và tuỳ từng địa bàn quan trọng mà lập các đồn bằng đất chứa thóc tô thuế, rồi đặt binh lính canh giữ để sẵn sàng cung ứng binh lương khi cần thiết.

Năm 1044, trước khi xuất quân chinh phạt Chiêm Thành, vua Lý Thái Tông giao cho Lý Nhật Quang vận tải lương thực. Nhật Quang đã lập sẵn các đồn đất chứa lương. Khi quân đi qua, việc tiếp tế binh lương đều được chu tất, nhà vua khen lắm. Sau thắng trận trở về, vua an ủi Nhật Quang, gia tước vương và trao cho quyền tiết việt vùng đất ấy 1.

Trên đây là một số biểu hiện cụ thể về việc cung cấp nuôi dưỡng binh sĩ trong thời bình và thời chiến. Còn chế độ đối với các võ quan, tướng lĩnh thì nhà nước đã có quy chế rõ ràng về lương bổng và ruộng đất. Khi dã là quan lại thuộc hệ thống chính quyền thì họ được hưởng những đặc ân, đặc quyền và bổng lộc theo quy định trong quan chế của các triều đại.

Như vậy, chế độ cung cấp cho quân đội trong giai đoạn này chủ yếu dựa vào dân và do dân, chính quyền đứng ra tổ chức thực hiện “gửi binh ở nông” để quân lính tự túc, đỡ phần chi phí quân sự, dựa vào dân để huy động lực lượng vật chất, đồng thời tổ chức các kho chứa của trung ương và địa phương là những phương thức hợp lý trong quá trình thực hiện chính sách cung cấp nuôi dưỡng quân đội.

Nhờ thế quân đội các thời Đinh, Tiền Lê và nhất là thời Lý không chỉ có tổ chức ngày một chính quy mà còn cung cấp đủ trang phục, lương thực cho quân sĩ lúc thường cũng như lúc có chiến tranh. Tuy nhiên, cũng phải hiểu rằng, cái ăn. cái mặc của binh sĩ trong các thời kỳ nói trên cũng còn rất giản đơn và nhiều hạn chế.

3. Vũ khí trang bị

Thế kỷ X-XII là giai đoạn quân đội quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt sản xuất và sử dụng hoàn toàn vũ khí bạch binh, bởi vì lúc bấy giờ ở nước ta chưa chế được thuốc súng, nên hoả khí vẫn chưa ra đời.

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo quốc gia cũng nhủ các tướng lĩnh đều nhận biết rằng. vũ khí trang bị là cơ sở vật chất kỹ thoật của sức chiến đấu. là một trong những yếu tố cơ bản để tạo nên sức mạnh quân đội, do đó thời kỳ nào cũng quan tâm đến vũ khí trang bị của quân đội.

Cung, nỏ với các loại mũi tên là thứ vũ khí đánh xa: còn lao: giáo kiếm, côn. dao găm, v.v., là những vũ khí chiến đấu khi tiếp cận quân địch. Kết hợp trang bị giữa lao, giáo...  với cung. nó . . . là một đặc (điểm truyền thống trong tổ chức trang bị quân đội dân tộc ta thời kỳ chưa có hoả khí.

Sử không chép nhiều về việc vũ trang của các binh đội dân tộc ở thế kỷ X. Hắn rằng quân đội thời Đinh và Tiền Lê, bên cạnh các đội quân cung nỏ là các đội được trang bị các bạch khí như giáo, lao, côn, kiếm, v.v.. Trên thuyền chiến bấy giờ đã thấy xuất hiện loại nỏ lớn phóng tên sắt và phóng cả vật mang nhựa thông dễ cháy để đốt phá thuyền giặc.

_________________________
1. Cương mục, Sđd, t.1. tr.276.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:18:12 pm
Ở phần trên đã cho chúng ta biết một đặc điểm đáng lưu ý là, quân đội thường trực thời Đinh - Lê đã bắt đầu có trang phục thống nhất. Binh lính đều đội mũ tứ phương bình đính” bằng da hoặc mũ đầu mâu”, quân cấm vệ thời Tiền Lê đều thích ba chữ “thiên tử quân” ở trán để phân biệt với các loại quân khác.

Điều đó cũng có thể cho chúng ta suy luận rằng, quân đội thời bấy giờ cũng đã được trang bị khá thống nhất về các loại vũ khí. tuy đó mới chỉ là các thứ bạch khí thông thường. Quân đội thời Đinh và Tiền Lê được trang bị áo giáp.  Như thế là đã có sự thống nhất về võ khí và võ phục. Có thể phần nào đó đã lọc theo trang phục của quân Đường - Tống; áo giáp chủ yếu bằng da trâu hoặc bằng đồng (cho võ quan). 

Việc triều đình chế tạo vũ khí trang bị cho quân đội là một yêu cầu tất yếu thường xuyên. Sử cũ ghi rằng, năm 982. vua Lê Đại Hành cử sứ giả Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận lắm sai đóng chiến thuyền, sửa sang binh khí và tự làm tướng đi đánh.  Chiêm Thành thua to.

Trong bài sớ của Tống Cảo dâng lên vua Tống trong một dịp đi sứ Đại Cồ Việt có nói: “Cuối mùa thu năm ngoài (tức năm 989)- chúng tôi là lũ Tống Cảo đến cõi giao Châu, Lê Hoàn đã sai lũ Đinh Thừa Chính làm Nha nội đô chỉ huy sứ.  chở chín chiếc thuyền và 300 quân đến đón ở cửa biển Thái Bình... Đến Trường Châu (gần kinh đô) nước Nam: Lê Hoàn trang hoàng sẵn, đem hết cả thuyền chiến ra nói là “diễu quân”... Sĩ tốt độ 3.000 người. đều viết chữ vào trán là “thiên tử quân”,  ngày lượng cấp thóc lúa cho, sai tự giã lấy mà ăn.  Đồ tinh khí chỉ có: cunn nỏ, mộc bài, giáo gỗ, giáo tre, yếu ớt không thể dùng được . . .” 1 .
 
Tuy lời lẽ bài tấu tỏ ra hết sức khinh miệt, nhưng qua dó chúng ta cũng có thể biệt phần nào tình hình quân số và trang bị quân đội thời Lê Hoàn.  Sang thời Lý, binh chế nói chung cũng như trang bị vũ khí và phương tiện quân sự nói riêng được sử liệu phản ánh rõ hơn.

Thời Lý, nước Đại Việt trở nên khá cường thịnh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự. Đặc biệt các vua Lý rất quan tâm đến võ bị. Vua Lý Thái Tổ khi xây thành Thăng Long đã nghĩ ngay đến việc tăng cường tổ chức cấm quân và trang bị cho quân lính giữ thành.

Năm 1043. vua Lý Thái Tông “Xuống chiếu cho chư quân sắm sửa áo giáp và binh khí”. Lý Nhân Tông, vị vua trị vì trong thời kỳ phạt Tống bình Chiêm, lúc hoà bình vẫn luôn mong sao có quốc phòng tốt để trong nước được trên hàn, ngoài biên không có giặc giã”. Và trước khi qua đời nhà vua không quên dặn Thái tử và các đình thần: “ Lại phải sửa sang giáo mác, đề phòng việc không ngờ” 2. Nhờ vậy dưới triều Lý việc quân sự cũng như việc phòng bị dết nước luôn được chú ý, quân đội được trang bị và huấn luyện tốt hơn.

Quân đội thời Lý vẫn được trang bị các loại bạch khí thông thường như giáo, mác, dao kiếm (gươm), kích, trượng. lao: câu liêm. các loại chông. bẫy dá. máy bắn đá, cung nỏ, v.v.. Bên cạnh các loại vũ khí đó, người chiến binh còn được trang bị kèm theo các phương tiện hộ thân như áo giáp, khiên, mộc, hộ tâm phiến... Tuy vẫn là các thứ bạch khí như các thời trước, nhưng số lượng và chất lượng vũ khí thì đa dạng và tốt hơn nhiều.

Giáo, mác và kiếm (gươm) là vũ khí đột kích bằng sắt, sắc và nhọn rất thông dụng. Vua Lý Nhân Tông căn dặn Thái tử “phải lo sửa sang giáo mác...”. Đội cấm binh của Lý Anh Tông do quan Điện tiền Vũ Đái chỉ huy đã sử dụng giáo trong vụ bắt tên phản thần Đỗ Anh Vũ năm 1150. Lính thị vệ nhà Lý dã sử dụng giáo trong sự biến cung đình năm 1210.

Quân nhà Lý trong khi đánh Tống, phạt Chiêm phần lớn đều cầm giáo chiến đấu. Trên chiếc thạp bằng sứ tráng men hoa văn thời Lý-Trần, ta thấy vẽ hình các chiến binh tay trái cầm giáo. tay phải cầm khiên tròn. Đó có thể là thứ vũ khí chủ yếu thời Lý-trần.
 
Các tướng lĩnh, võ quan thời Lý phần lớn đeo kiếm cưỡi ngựa trong chỉ huy chiến đấu. Năm 1022. khi dẹp vụ loạn ba vương”, Lê Phụng Hiểu đã dùng kiếm chém Vũ Đức Vương. Ông nổi tiếng là người "quăng dao, múa kiếm lừng danh”, được vua Lý Thời Tông ngợi khen là giỏi hơn cả  Kính Đức vậy”.

Năm 1044, nhà vua ra lệnh phát vũ khí trong kho cho quân sĩ trước khi lên đường đánh Chiêm Thành và cuộc chiến tranh đó được sử chép là: máu nhuộm gươm giáo, xác chất đầy đồng” 3 chứng tỏ gươm giáo là những thứ vũ khí trang bị chính của quân đội nhà Lý.

_______________________
1. Dẫn theo ứng Hoè Nguyễn Văn Tố, Tạp chí Tri Tân (1941-1946), trung tâm Unesco Thông tin tư liệu lịch sử văn hoá Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 2000 tr.45-46.
2. Cương mục. Sđd. T.I, tr.379.
3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.276 - 347. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:20:24 pm
Bấy giờ, vũ khí đánh xa chủ yếu chỉ có cung nỏ và máy bắn đá. Cung nỏ là loại vũ khí truyền thống của quân đội nước ta ngay từ buổi đầu dựng nước và giũ nước. Phép cưỡi ngựa bắn cung có ở nước ta từ lâu đời. Thời Lý ở kinh thành Thăng Long có Xạ Đình, tức bãi tập bắn. Sử chép: vua (Lý Anh Tông - 1170) tập bắn và cưỡi ngựa ở phía nam thành Đại La gọi là Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép công chiến, phá trận” 1.
 
Thời Lý. việc cưỡi ngựa, sử dụng cung kiếm là yêu cầu bắt buộc đối với các vương hầu, võ quan, tướng lĩnh triều đình. Bấy giờ, ở kinh thành có Điện Giảng Võ, có bãi tập và trường đua ngựa. Quan Thái uý Lý Tự Khánh nổi tiếng có tài bắn cung. 

Trong các chiến trận lớn đánh quân Chiêm Thành và đánh quân Tống xâm lược, quân Lý sử dụng nhiều cung nỏ để tiêu diệt địch. Các đội quân của những thủ lĩnh dân tộc đã dùng nỏ, bẫy đá mai phục ở những nơi hiểm yếu, khiến quân Tống rất kinh sợ. Trong trận vây đánh thành Ung Châu, quân ta đã dùng tên độc bắn lên thành, người và ngựa quân Tống chết rất nhiều.

Năm 1075, Lý Thường Kiệt khi vây đánh thành Ung Châu đã dùng máy bắn đá để ném đá và những giỏ đựng chất cháy vào thành. Sách Lý Thường Kiệt có ghi: quân Lý dùng công cụ (mát bắn đá) tứ bề trèo lên cao nhằm bắn vào trong thành, giết nhiều quân phòng thủ” 2.

Tuy nhiên, máy bắn đá không phải là thứ vũ khí thông dụng ở nước ta. Cũng trong trận đánh thành Ung Châu. quân ta đã dùng “vân thế” (thang chuyền nối nhau rất cao) để trèo lên mặt thành rồi dùng tên độc và hoả tiễn” (bắn chất cháy) để tiêu diệt và dốt trại giặc. Quân ta còn đào đường hầm, dùng da lót cho kín nước để chui vào thành và cuối cùng ta dùng hàng vạn bao chứa đất xếp chồng thành bậc thềm để quân sĩ leo lên. Nhờ đó quân ta đã hạ được thành Ung sau 42 ngày chiến dấu ác liệt. Điều đó chứng tỏ, trong chiến đấu, quân đội nhà Lý đã sử dụng rất nhiều loại vũ khí và phương tiện đánh giặc.

Về phương tiện cơ động, đối với bộ binh có thể đi bộ hoặc đi thuyền, quân đội cũng có trang bị voi, ngựa nhưng chưa nhiều. Tất nhiên, với thuỷ binh chủ yếu dùng thuyền. Thuyền là phương tiện cơ động và chiến đấu quan trọng nhất. Từ sớm, tổ tiên ta đã nổi tiếng thạo nghề sông nước, giọi thuỷ chiến; mặt khác địa hình sông nước, nhiều sông ngòi, kênh rạch. dầm ao, nên phương tiện giao thông vận tải kể cả dân sự và quân sự, phần lớn dùng thuyền, bè, mảng.

 Quân đội các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý có bộ phận quan trọng là thuỷ quân và thuỷ chiến luôn luôn được coi trọng, vì thế trong các thế kỷ X - XII, trong quân đều chú ý xây dựng các đội thuyền chiến và thuyền vận tải.

Thời Tiền Lê, Lê Hoàn đã đào sông từ Thanh Hoá đến Nghệ An để vận chuyển quân và lương đi đánh Chiêm Thành. Các trận chiến trên sông Bạch Đằng, sông Thương hoặc chặn giặc ở Bình Lỗ thành đều có phần đóng góp to lớn của thuỷ quân.

Đến thời Lý, trong các cuộc hành quân bình Chiêm và đánh Tống, quân đội đều cơ động bằng thuyền.  Năm 1069, Lý Thánh Tông thân hành dẫn quân đi hỏi tội Chiêm Thành và dùng toàn thuyền chiến để cơ động năm vạn quân từ Bắc vào Nam. Nếu tính mỗi thuyền chở được 250 quân và lương thực thì phai có đến 200 chiếc. Năm 1075, đại quân năm, sáu vạn do Lý Thường Kiệt chỉ huy tiến sang Khâm Châu cũng hành quân theo đường thuỷ và ít nhất cũng phải dùng đến 200-300 thuyền lớn. 

Sở dĩ khi có chiến tranh, các triều đại nói trên đã huy động được các đạo binh thuyền lớn như vậy, bởi các nhà lãnh đạo đất nước thuở đó đều ý thức được tầm quan trọng của những hoạt động quân sự trên sông biển, hiểu được tầm quan trọng của chiến trường sông nước ở ta, cói thuỷ chiến là một ưu thế của quân đội Đại Việt và luôn chú ý phát triển quân đội, trong đó có thuỷ quân cùng với các phương tiện cơ động chiến đấu của nó.


_____________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.276 - 347.
2. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.127-128. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:22:38 pm
Vua Lê cũng như vua Lý nhiều lần ra lệnh: “Sắm sửa vũ khí và đóng thuyền chiến”. Năm 1043.  Lý Thái Tông xuống chiếu đóng vài trăm chiến thuyền. Năm 1068, nhà vua lại ra lệnh đóng chiến hạm. Vua Lý Thần Tông (1106), sai đóng thuyền Mông Đồng để trang bị cho thuỷ quân.

Năm 1119, nhà vua hạ lệnh đóng thuyền chỉ huy gọi là Cảnh Hưng và Thanh Lan, đồng thời hạ lệnh cho chư quân đóng thuyền chiến và sắm sửa vũ khí chuẩn bị đánh quân phản loạn Ma Sa.

Chiến thuyền thời Lý có hạng lớn, hạng vừa và nhỏ, trong đó có loại chở được vài trăm quân cùng vũ khí, lương thảo và có khả năng vượt biển xa hàng ngàn dặm. Các cuộc hành quân vượt biển đánh Chiêm Thành, đánh Tống hay cuộc hành trình của thái tử Lý Long Tường cùng gia đình và quân bản bộ của ông hồi đầu thế kỷ XIII từ Đại Việt sang Cao Ly (Triều Tiên) chứng tỏ điều đó. 

Theo sử sách ta biết được thời Lý có nhiều loại thuyền chiến như thuyền Mông Đồng (hai đáy), thuyền Lưỡng Phúc (hai lòng), thuyền Ngự (thuyền vua chỉ huy) và Lâu thuyền (thuyền lầu). Việt sử lược chép: “Tháng 11 (1106) vua sắp có việc lôi thôi với nhà Tống, sai đóng thuyền Vĩnh Long hai đáy và đóng chiến hạm1.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Năm 1124, đóng thuyền Trường Quang kiểu hai lòng” 2. . .  Loại thuyền chiến phổ biến thời bấy giờ là thuyền Mông Đồng và thuyền Lưỡng Phúc, có hai đáy an toàn và tiện lợi.  Trên thực tế, thuyền Mông Đồng đã có từ những đời trước. 

Từ thế kỷ IX, ở nước ta đã đóng loại thuyền này và sau đó được sử dụng phổ biến. Quân thuỷ của Ngô Quyền ngoài các thuyền nhỏ như thuyền độc mộc, thuyền thúng, cũng đã sử dụng loại thuyền Mông Đồng theo sử sách mô tả, lúc đó mỗi chiếc có 25 chiến thủ, 23 tay chèo, thuyền chèo ngược xuôi, nhanh như gió”, đó là thứ “thuyền hẹp và dài, dùng để xông đánh thuyền giặc” 3.

Đến thời Lý, thuyền Mông Đồng nói trên chắc đã được cải tiến, có hiệu quả hơn trong việc vận tải và thực hành chiến đấu so với thế kỷ tx’ước. Thuyền chỉ huy của các vua Lý mang cá tên như Kim Phượng, Thanh Lan, Cảnh Hưng, Vĩnh Xuân, v.v. . Bấy giờ nhà vua thường thân chinh tự làm tướng chỉ huy quân đội đánh giặc.

Ngoài thuyền chiến, thời Lý còn sử dụng voi chiến. Nước ta có nhiều voi và từ rất sớm đã sử dụng voi trong mục đích quân sự. Người Trung Quốc cho rằng: quân Nam đánh trận hay dùng sức voi”. Voi chiến có thể vừa là phương tiện chiến đấu, vừa như một thứ vũ khí để sát thương địch. Voi chuyên chở vũ khí, binh lính và lương thảo khi cận chiến, giáp lá cà, voi có thể dùng vòi, dùng chân tiêu diệt địch, phá rào luỹ, mở đường cho bộ binh. Với ưu thế đó, voi luôn là nỗi kinh hoàng mỗi lần quân xâm lược gặp phải.

Lý Thường Kiệt đã sử dụng voi chiến tham gia chiến đấu ở Ung Cháu, gây cho quân Tống nhiều khốn đốn. Tướng Thân Cảnh Phúc đã sử dụng voi trong trận chặn đánh quân Tống ở ải Quyết Lý (năm 1077), khiến quân giặc bị tổn hao trước khi tiến đến bờ bắc sông Như Nguyệt. 

Tống sử cho biết, khi Quách Quỳ tiến tới huyện Quan Lang, thì tiền quân Lý do Thân Cảnh Phúc chỉ huy đem voi cản đường, quân Tống không thể tiến được. Người Tống vừa sợ hãi vừa khâm phục voi chiến của ta; vì thế sau chiến thắng Như Nguyện, nhà Lý dã sử dụng voi làm sản vật quý dâng tặng vua Tống để đổi lấy châu Quảng Nguyên đang bị Tống chiếm giữ. 

Sứ ta Đào Tông Nguyên mang theo năm con voi để cống. Vua Tống đã nhận voi và trả đất Quảng Nguyên cho ta. Người Tống đã làm thơ chế nhạo vua Tống rằng “nhân tham Giao chỉ tượng, khước thất Quang Nguyên kim” (vì tham voi Giao Chỉ, nên mất vàng Quảng Nguyên). Tất nhiên nguyên nhân chủ yếu phải trả không phải chi vì voi mà do quân Tống không thể giữ được vùng đất ấy nữa.


__________________________
1. Việt sử lược bản dịch của Trần Quốc Vượng: Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, tr.122.
2, 3. Toàn thư, Sđd. t.1, tr 308, 183.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:25:09 pm
III. RÈN TƯỚNG, LUYỆN QUÂN

1. Tuyển chọn, dào luyện võ quan, tướng lĩnh

Nhà nước độc lập tự chủ do Ngô Quyền thiết lập tuy mới là bước đầu nhưng đã có đầy đủ các chức quan văn. võ với mọi nghi lễ triều chính và sắc phục quan lại các cấp. Sử thần Ngô Sĩ Liên viết “tiền Ngô Vương nổi lên không chỉ có công đánh thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương” 1.

Bộ máy triều chính ấy được xây dựng theo thể chế của một nhà nước quân chủ mang tính tập quyền, trong đó có nhiều võ quan, tướng linh của một tổ chức quân đội riêng. Những hào kiệt những thủ lĩnh quân sự từng đồng tâm hợp lúc với Ngô Quyền tiêu diệt thế lực phản động Kiều Công Tiễn và đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, đã được ông tuyển chọn, trao chức vụ trong chính quyền mới, phần lớn họ là tướng lĩnh chỉ huy quân đội quốc gia.

Tiếc thay Ngô Vương ở ngôi vị không được lâu, chưa có điều kiện để kiện toàn tổ chức quán sự đó. Sau khi ông mất (944), Dương Tam Kha cướp ngôi, đẩy chính quyền mới vào thế bị sẻ chia, dẫn đến tình trạng đất nước bị phân hệt bởi các sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh tái thống nhất đất nước, lập triều Đinh, xây dựng kinh đô Hoa Lư.

Lê Văn Hưu viết: “Vua mở nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế. đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ” 2. Năm 971, hoàng đế mới bắt đầu quy định cấp bậc bá quan văn võ. Lấy Nguyễn Bắc làm Định quốc công, Lưu CƠ làm ĐÔ hộ phủ sĩ phu (chức quan coi việc hình trong cả nước), Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân (tổng chỉ huy quân đội) Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, v.v. . Hệ thống các chức quan trong triều được thiết lập khá chu tất.

Như vậy, ở nước ta, từ thời Đinh bắt đầu chế định giai phẩm quan văn võ, đặt chức tướng quân. Phạm Phòng Át có một giai đoạn được cử làm Thân vệ tướng, Lê Hoàn ngoài Chức Thập đạo tướng quân còn kiêm Điện tiền chỉ huy sứ dưới triều vua Đinh. Một đội ngũ đông đảo võ quan, tướng lĩnh tham gia vào cơ cấu chỉ huy quân thập đạo. Mỗi tướng được cử chỉ huy một đạo quân riêng đóng ở các đạo. 

Lê Hoàn sau khi lên ngôi đã kiểm duyệt quân ngũ. Triều đình Tiền Lê chia làm hai ban văn. võ. Trong ban võ có Phạm Cự Lạng giữ chức Thái uý, Tử Mục làm Tướng quản tri quân dân sự, lĩnh tước hầu. Năm 1006 Khai Minh vương Lê Long Đĩnh lên ngôi dã cho sửa đổi quan chế về vàn võ, nhất thiết theo mô hình Tống” 3. Bấy giờ Lý Công Uẩn giữ chức Tứ sương quân phó chỉ huy sứ: sau thăng lên làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, quản cấm quân.

Năm 1010: Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) xây dựng kinh đô mới ở Thăng Long, đã phong tước cho những người thân thuộc và các tướng có công với nhiều danh hiệu như Thái sư Thái phó, Thái bảo, Thái uý, Tổng quản, Tướng công, Tả Kim ngô, Tả hữu vũ vệ. . . Phong Vũ Đức vương Trương Hiển làm Thái uý, Dực Thánh vương làm Tổng quản, Trần Cảo làm Tướng công, Phí Xa Lỗi làm Tả Kim ngô, Vệ Trúc làm Hữu Kim ngô, Đàm Thảo và Đỗ Giản làm Tả, Hữu vũ vệ.  Năm 1028, nhà vua cử Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật, Xung Tân làm Hữu khu mật, Nguyễn Quang Lợi làm Thái uý, Đàm Toái Trạng làm Đô thống, Vũ Ba Tư làm Ung vệ Thượng tướng v.v..

Các đời vua Lý kế tiếp đều giữ cơ cấu quan lại thời Lý Thái Tổ, trong đó có hệ thống võ quan. Năm 1128, Lý Thần Tông xét duyệt các chức quan văn võ, đặt thêm chức Chỉ huy Sứ, Vũ Vệ tưởng và Hoả đầu. Chỉ huy quân triều đình là Thái uý và Điện tiền chỉ huy sứ trực tiếp quản lãnh cấm quân.

Khi điều động quân đội đánh dẹp, vua còn phong các chức Đô thống đại nguyên soái, Đô thống nguyên soái hoặc Chiêu thảo sứ. v.v..

Năm 1182, Lý Cao Tông xuống chiếu cầu người hiền lương và đắp đàn phong tướng cho Ngô Lý Tín làm Thượng tướng quân. Theo Phan Huy Chú, triều Lý đại lược về văn và võ đều có chín phẩm: lấy ba chức thái (thái sư thái phó, thái bảo), ba chức thiếu (thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo), cùng với thái uý, thiếu uý, kiểm hiệu bình thường sự làm trọng chức của văn võ đại thần.

______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.l, tr.198.
2. Toàn thư, Sđd, t.l, tr.205
3. Toàn thư. Sđd. t.l tr.232.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:28:23 pm
Về võ ban có các chức đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu mật sứ. khu mật sứ tả hữu. tả hữu kim ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng quân các vệ, chỉ huy sứ. vũ vệ hoả đầu, v.v.. Đó là các tướng hiệu chỉ huy quân đội triều đình.

Đến nay chưa thể tra cứu được chế độ tuyển chọn võ quan, tướng lĩnh thời Đinh - Lê ra sao. Có thể thời đó các điển chế tuyển lựa quan lại chưa được quy định rõ ràng.  Chắc rằng Đinh Bộ Lệnh cũng như Lê Hoàn đều đã căn cứ vào tài đức thực tế mà cất nhắc, dùng người. Trước hết, trong hệ thống chính quyền đó, nhất là đối với các võ quan, tướng lĩnh, phải chọn những người đã cùng các ông trải qua thực tiễn chiến đấu và xây dựng đất nước.

Theo sử sách, năm 971, triều đình nhà Đinh quy định các thứ bậc giai phẩm cáo quan văn võ trong nước. Những người giỏi võ nghệ, thạo chiến trận được tuyển lựa cho giữ binh quyền, chỉ huy các tổ chức binh đội theo thứ bậc lớn nhỏ từ “đạo”, “quân” đến các “tốt”, “ngũ”.

Lê Hoàn, một tướng trẻ tài giỏi và có uy tín rất lớn trong triều đình và trong các tướng sĩ, là người “lỗi lạc, có chí lớn có mưu lược và sức mạnh”, có công lớn trong sự nghiệp dẹp “loạn các sứ quân” đã được Đinh Bộ Lĩnh tin cẩn cử làm “thập đạo tướng quân”.

Với trọng trách tổng chỉ huy mười đạo quân trong cả nước, Lê Hoàn đã tỏ rõ tài nghệ tổ chức và chỉ huy các lực lượng quân sự phòng giữ đất nước, nhất là ông đã có đủ uy tín tập hợp các tướng, đề ra mưu lược đánh thắng quân Tống xâm lược. 

Từ khi triều đình nhà Tiền Lê thiết lập, Lê Hoàn tiếp tục cho kén dùng người hiền lương tài trí, tuyển dũng sĩ, chỉnh đốn quân ngũ: cử Phạm Cự Lạng làm đại tướng quân và chia các tướng cói giữ quân thập đạo trên những địa bàn xung yếu.

Với tài năng tổ chức và lãnh đạo của Lê Hoàn, thế nước ngày càng mạnh, quân đội quốc gia Đại Cồ Việt có tổ chức quy củ hơn, có đội ngũ tướng lĩnh tài giỏi, nền độc lập thống nhất của Đại Cồ Việt càng được củng cố trên những nền tảng khá vừng chắc.

Bấy giờ ở phía Bắe vẫn còn những thế lực muốn đánh chiếm nước ta, chúng đã dâng thư “xin tính việc đem binh mã đánh Giao Chỉ nhưng vua Tống vẫn trù trừ chưa dám, chỉ vin vào lý do là “núi sông Giao Chỉ hiểm trở, thuỷ thổ độc dữ, có lấy được cũng vô ích1. Quả đúng như lời nhận xét của sử thần Ngô Sĩ Liên rằng, Lê Hoàn “đã làm nhụt cái mưu xâm lăng của Tống” 2

Sử liệu cũng không phản ánh các quy chế về tuyển chọn võ quan, tướng lĩnh thời Lý. Nhưng qua hiện tượng vua Lý sử dụng Lê Phụng Hiểu, Ngô Tuấn (Lý Thường Kiệt)... làm tướng và phong đến chức đô thống thượng tướng quân hay phụ quốc thái uý, chứng tỏ thời Lý rất coi trọng tài năng quân sự và những người có công. Việc chọn các quan giữ chức thái uý như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Đỗ Anh Vũ, Phùng Tá Chu, v.v. cũng phản ánh điều đó.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1076 trước cuộc kháng chiến thống Tống thắng lợi. Lý Nhân Tông ra lệnh: cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quân dân” 3.

Năm 1160, vua Lý Anh Tông sải Tô Hiến Thành tuyển dân đinh, người mạnh khác thì sung vào quân ngũ, chọn các tướng hiệu, người nào thông thạo binh pháp am tường võ nghệ chia cho cai quản 4.

Đối tượng tuyển chọn võ quan ở Đại Việt trước hết là những người thuộc tầng lớp quý tộc tôn thất, từ lớp người có quyền lợi gắn liền với dòng họ thống trị (vương triều), thứ đến là người trong hàng ngũ quý tộc quan lại thuộc họ khác nhưng có tài năng và trung thành (Ngô Tuấn, Tô Hiến Thành...). Đã có lần nhà vua quy định “những người giàu, khoẻ mạnh nhưng không có quan tước thì cả đời phải làm lính”.


__________________________
1. Tống sử, Giao Chỉ truyện .
2. Toàn thư. Sđd, t.l, tr. 46.
3,4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.292. 345.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:31:45 pm
Về phương thức tuyển chọn. ngoài biện pháp nhiệm tử, cất nhắc bổ nhiệm các nhân tài, những người có công trạng, còn có biện pháp khác như tiến cử và thi cử võ quan.  Thời Lý, năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên tuyển chọn nhân tài đất nước. Chế độ khoa trường thời đó còn hạn chế. chủ yếu là chọn văn quan.

Tuy vậy, một số nhân vật đỗ đạt cao cũng được cử tham gia bộ máy quản lý việc binh, trường hợp Lê Văn Thịnh làm Binh bộ thị lang là một thí dụ. Từ tháng 12- 1162, việc tổ chức khảo xét các quan vàn võ được quy định chín năm một kỳ. Chế độ chọn tuyển võ quan nói trên là sự khởi đầu cho một điển chế mới ở Đại Việt.  Vấn đề đào luyện võ quan, tướng lĩnh trong giai đoạn này cũng chưa đặt thành lệ. Tất nhiên ở thời kỳ nào cũng vậy, “văn ôn võ luyện” là việc thường tình.

Trong mỗi triều đại đã có tổ chức quân đội, có cắt đặt phiên chế và chỉ huy, thì tất nhiên vấn đề luyện tập phải đặt ra. Võ quan có trau dồi tinh thông võ nghệ, hiểu biết trận pháp mới chỉ huy được ba quân, tướng sĩ. Thời Lý, ở kinh thành Thăng Long có Điện Giảng Võ và bãi tập. Đó là nơi để các thái tử, thân vương, võ quan, tướng lĩnh trong triều học tập và luyện rèn. Nhiều vua Lý, nhất là vua Lý Anh Tông ngay từ khi hoà bình vẫn thường xuyên chú ý sửa sang binh nhung, lập xạ đình, giảng binh pháp - võ bị, nhắc nhở các quan võ ngày ngày chăm lo luyện tập. Vấn đề học binh pháp, tập cưỡi ngựa, bắn tên, rèn tập võ nghệ, thao diễn quân đội đã được triều đình quan tâm.

Quân đội thời Lý không chỉ có hệ thống biên chế tổ chức hợp lý mà vấn đề huấn luyện cho các võ quan, tướng sĩ cũng theo những quy định riêng và thống nhất mà người Tống gọi đó là An Nam hành quân pháp. Thái Diên Khánh, tri châu đất Hoạt, thường học được phép tổ chức quân đội nhà Lý, viết thành sách An Nam hành quân pháp dâng lên vua Tống và xin phỏng theo đó để chia quân ra làm chính binh và phiên binh.

Chính binh có cung thủ tiễn (quân cung nỏ) và nhân mã đoàn (lính kỵ mã), tất cả gồm chín tướng, mỗi tướng lại đem quân bộ, quân kỵ và khí giới chia ra làm bốn bộ tả, hữu, tiền và hậu, gộp thành trăm đội, có đội “trú chiến” và đội “thác chiến”. Còn phiên binh, người và ngựa chia ra những đội khác để không lẫn với chính binh, đề phòng phiên binh nổi loạn. Đối với những binh lính già yếu thì không bắt đi xa, cho canh giữ các thành trại gần...

Vua Tống Thần Tông xem xong tấm tắc ngợi khen và ra lệnh thi hành ngay. Điều này cho thấy binh pháp, phương thức tổ chức và huấn luyện trong quân đội nhà Lý đã thích dụng và hữu hiệu, đã đạt đến trình độ tiên tiến đương thời. Lê quý Đôn viết trong sách Vân đài loại ngữ rằng: binh pháp của nhà Lý được triều Tống bắt chước như thế. Nước ta thời đó...  đánh đầu được đấy, là do (binh pháp) đó” 1.

2. Rèn tập binh sĩ

Sử sách không cho biết về chế độ và phương thức luyện quân dưới các thời Đinh và Tiền Lê. Nhưng vấn đề luyện rèn binh sĩ dưới các triều vua đó đã được đặt ra, nhất là đối với thân quân, điện tiền quân ở kinh thành Hoa Lư. Thời đó vấn đề luyện tập hẳn đã thực sự được tiến hình từ cơ sở với tinh thần thượng võ.

Truyền thuyết dân gian cũng như Ngọc phả về Lê Hoàn nói rằng năm 16 tuổi Lê Hoàn đã rất giỏi võ nghệ. Năm 975, ông từ Thanh Hoá về thăm mộ ông nội ở xã Bảo Thái, huyện Thanh Liêm (Hà Nam). Ở đây, được nhân dân yêu nết trọng tài, mời ông ở lại dạy võ cho lớp trai trẻ. Nghe tin Đinh Bộ Lĩnh đem quân dẹp loạn 12 sứ quân, Lê Hoàn đến Hoa Lư xin theo và được gia nhập quân ngũ.


_____________________
1. Tống sử: Giao Chỉ truyện, dẫn theo Lê Quý Đôn: Vân đài loại ngữ: Sđd. tr.250. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:34:59 pm
Từ khi tham gia nghĩa quân họ Đinh, Lê Hoàn tham gia huấn luyện võ nghệ, giảng binh pháp, tổ chức quân ngũ, xây dựng nghĩa quân thành lực lượng hùng hậu để dẹp loạn. Buổi đầu ra quân, Đinh Bộ Lĩnh giao cho Lê Hoàn chỉ huy 2.000 quân thiện chiến. Lực lượng nghĩa quân phát triển nhanh chóng, trong đó Lê Hoàn giữ cương vị trọng trách, về sau ông được phong đến chức Thập đạo tướng quân.

Dưới thời Lý, chính sách “ngụ binh ư nông” được vận dụng triệt để đối với ngoại binh. Theo chính sách đó, bộ phận “đến phiên” thực hiện nhiệm vụ canh giữ và luyện tập võ nghệ. Chính sách đó cho phép hầu hết các đinh nam trong nước đều được tham gia luyện rèn võ nghệ trong quân đội thường trực ngay khi đất nước hoà bình. Nhà nước giảm được một phần chi phí nuôi quân, nhưng đảm bảo trong nước thường xuyên có số lượng quân thường trú thích hợp vừa đủ để trấn trị, canh phòng và luyện tập, sẵn sàng ứng phó với địch, đồng thời luôn luôn có một lực lượng dự bị hùng hậu đã được huấn luyện quân sự, sẵn sàng bổ sung vào quân ngũ khi cần thiết.

Cấm quân nhà Lý là lực lượng nòng cốt của quân đội, thường xuyên túc trực tại ngũ, vừa canh phòng vừa luyện tập võ nghệ. Sử chép rằng, Lý Nhân Tông, niên hiệu Hội tường đại khánh thứ 10 (1119), duyệt quân Võ Tiệp, Võ Lâm. Kén chọn trai tráng khỏe mạnh sung vào các quân hiệu... Vua ngự cho chơ quân tuyên thệ ở Long Trì. Trước những kỳ duyệt quân như vậy, các vệ quân, đô quân đều phải luyện tập rất kỹ lưỡng.

Binh lính trong quân đội thời Lý thường được tập trung luyện tập theo định kỳ. Mỗi võ quan, binh sĩ được rèn tập về thể lực và võ nghệ. Họ tập xách nặng, luyện chân tay (như đấm đá vào bì thóc, bao cát, hoặc thân cây chuối); tập nhảy cao, đánh vật và sử dụng các loại binh khí. Đối với lính thuỷ thì được rèn luyện bơi lặn, chèo thuyền và các phép tắc công thủ trong thuỷ chiến.

Trước cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược lần thứ hai (1075-1077). quân đội Đại Việt dưới sự điều hành của Thái uý Lý Thường Kiệt đã khẩn trương luyện tập. Điều này biết được qua lời chiếu của vua Tống Thần Tông gửi tướng Quách Quỳ vào thời gian chuẩn bị cất quân đánh ta: “Hiện ở Giao Chỉ, Lý Thường Kiệt ngày ngày sai tụ tập binh lính, nhóm họp voi ngựa, tập dượt phép chạy và phép xung phong” 1.

Tại làng Nam Đồng, xưa thuộc tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận (nay là phường Nam Đồng, Hà Nội) có đình và chùa thờ Lý Thường Kiệt. Tương truyền, thời Lý đất Nam Đồng còn rất hoang vu, Lý Thường Kiệt đã nhiều lần tổ chức luyện quân ở đây. Vì thế khi ông qua đời dân làng đã dựng đình và chùa để ghi nhớ công lao đánh giặc của vị tướng tài năng này.

Trong đạo quân do hoàng tử Hoằng Chân chỉ huy đánh trận Khao Túc ở Như Nguyệt, có 500 quân đặc biệt do ông “nuôi riêng”, được luyện tập trận pháp kỷ luật nghiêm minh. Kết hợp với việc rèn luyện thời bình, được tôi luyện thử thách trong thời chiến, tinh thần và kỹ thuật chiến đấu của quân lính và đội ngũ tướng lĩnh ngày một trưởng thành. 

Thời Lý, chính quyền được tổ chức quy củ, nhà nước định ra pháp luật và thi hành nghiêm ngặt. Nhà nước quy định chặt chẽ tuổi binh dịch (hoàng nam, đại hoàng nam), kiểm soát nghiêm ngặt các dân đinh đến tuổi. Nhà vua ban bố chiếu rằng: “Ai tự huỷ hoại thân thể (cắt, cứa thương tích để trốn lính) thì phạt 80 trượng và thích vào bắp tay trái 23 chữ rồi thả trở về địa vị cũ” 2.
 
Bấy giờ đã có một số điều quân luật nói về tội “trốn phiên”, tội đào ngũ của các võ quan và binh lính. Thời vua Lý Thái Tông quy định, các quan chức đô ai bỏ trốn quân ngũ về làm việc riêng, nếu bỏ trốn một năm thì phạt 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và bị tội đồ chưa đến một năm thì tội nhẹ hơn; quân sĩ ai bỏ trốn vào rừng và đồng nội để cướp của thì xử 100 trượng, thích 30 chữ, người coi giữ các trấn, trại bỏ trốn công phạt như thế. Ai hối cải trở lại thì cho về đơn vị cũ. Khi vua xuất giá đi kinh lý mà không theo xe hầu, cũng xử 100 trượng, thích 10 chữ. Ai trốn tránh trễ nải việc luyện tập cũng xử phạt.

Ngược lại, các tướng sĩ, quân lính ai có công thì được vua uý lạo, khen thưởng, ban cho tiền và lụa theo thứ bậc, vì thế quân sĩ không cậy công mà xem thường pháp luật. Bấy giờ, Lý Nhật Quang có công theo vua đánh giặc và tích trữ binh lương được vua ban tước vương và cho giữ chức tri châu Nghệ An; Lê Phụng Hiểu có công dẹp “loạn ba vương” và đánh giặc Chiêm Thành được vua ban thưởng và phong cho đất châu Ái; Lý Bất Nhiễm có công lớn dẹp yên quân Chiêm Thành và Chân Lạp, được thưởng tước hầu và ăn thực ấp 7.500 hộ; Lý Thường Kiệt được phong tước Việt quốc công, ăn thực ấp ở Việt Thường và thực phong 4.000 hộ...

Nhờ chế độ thưởng phạt hợp ly mà quân đội nhà Lý có kỷ luật nghiêm minh, có tinh thần phục vụ tốt, tự giác, nhiệt tình trong huấn luyện và chiến đấu.


___________________
1. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 198. 
2. Đại Việt sử lược, bản dịch của Nguyễn Khắc Tường, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.211.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 14 Tháng Ba, 2009, 05:36:47 pm
Sau chiến thắng Bạch Đằng (938), Ngô Quyền là người đầu tiên đặt cơ sở xây dựng quân đội chính quy của nhà nước độc lập tự chủ. Đến giữa thế kỷ thứ X, Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn xây dựng hoàn thiện nhà nước Đinh và Tiền Lê, trong đó có tổ chức ngạch binh mang tên “thập đạo quân”. 

Có thể coi binh chế quốc gia thời kỳ độc lập được xác lập từ thời Đinh - Lê, nhưng biên chế tổ chức quân đội cùng với các chế độ quân sự thời đó còn thô phác, đơn giản. Khi triều Lý thành lập (thế ky XI), nhà nước Đại Việt bước vào giai đoạn phát triển cường thịnh với kinh đô là Thăng Long.

Công cuộc xây dựng đất nước từ đây bắt đầu có quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc, toàn diện cho sự phát triển của quốc gia phong kiến độc lập. Binh chế nước ta bưởi vào giai đoạn xây dựng chính quy. Quân đội quốc gia thời bấy giờ đã khá hùng hậu, có đủ các loại quân và binh, có cả quân thường trực tại ngũ. có lực lượng dự bị “biên sổ” và những binh lính chia phiên thay nhau về sản xuất và canh phòng theo chính sách ngụ binh ư nông

Chế độ nghĩa vụ binh dịch đã được quy định. Quân đội phiên chế thành các đơn vị và đạt đến trình độ tổ chức trang bị, huấn luyện khá tốt. Các ngạch quân được tổ chức hoàn chỉnh từ trung ương đến các địa phương, bao gồm nhiều loại quân và binh.

Hệ thống tổ chức và chỉ huy quân đội đó từng bước hoàn thiện theo chiều hướng phát triển của nhà nước quân chủ tập quyền. Bởi vì lúc đó, cùng với việc khôi phục bộ máy nhà nước quân chủ, lực lượng vũ trang mà nòng cốt là quân đội cũng được thành lập và dần dần phát triển thành tổ chức quân đội hùng mạnh hơn, có hiệu lực trong bảo vệ nhà nước quân chủ trung ương tập quyền và nền độc lập tự chủ cua đất nước. 

Vấn đề tổ chức, huấn luyện và chỉ huy quân đội quốc gia trong giai đoạn lịch sử này được thực hiện với tinh thần thượng võ đã trỏ thành truyền thống. Tinh thần thượng võ ấy đã có nguồn gốc từ xa xưa. không chỉ có ở nhà vua, vương hầu. võ quan, mà cả những người lín, những dân binh ở các hương xã, động, bản.

Đặc điểm của tổ chức quân sự những thế kỷ nói trên còn ở chỗ đi từ phân tán đến tập trung, từ đơn giản sơ khai đến chính quyền hoàn thiện vững mạnh. Thời bấy giờ, tổ chức quân đội bao gồm quân triều đình (thân quân, cấm quân) và quân địa phương (quân các lộ và quân của các thân vương thủ lĩnh), hợp với tổ chức dân binh, hương binh trở thành một hệ thống tổ chức quân sự nhiều thứ quân, một lực lượng vũ trang kết hợp nhiều loại hình quân lính. 

Tổ chức quân đội thời Đinh - Tiền Lê và thời Lý tuy còn nhiều hạn chế, còn đơn sơ và chứa đựng yếu tố phân tán, nhưng nhìn chung nó đã khá phù hợp với hoàn cảnh địa lý và điều kiện lịch sử đất nước trong các thế kỷ X-XII.

Một đất nước nhỏ hẹp, địa hình đa dạng, kinh tế thuần nông nhưng, thường xuyên bị đe doạ bởi nguy cơ ngoại xâm thì tổ chức quân đội gồm nhiều loại quân, cả quân bộ và quân thuỷ, luôn thực hiện chính sách ngụ binh ư nông, việc binh gắn liền với việc nông là phù hợp. Tạo điều kiện cho nhà nước có đủ số quân thường trực hợp lý, không phải chỉ phí quân sự nhiều, mà quân đội luôn luôn có một nguồn dự trữ đông đảo đã qua huấn luyện, sẵn sàng được huy động nhưng lúc cần thiết.

Đó là tổ chức quân sự vừa dựa chặt trên cơ sở truyền thống “tình làng nghĩa nước” của dân chúng vừa có sức mạnh của tổ chức và pháp chế nhà nước, kết hợp lòng tự nguyện của nhân dân với tính bắt buộc của luật lệ.  Quân đội quốc gia giai đoạn này, nhất là từ thời Lý đã được tổ chức khá quy củ, được luyện tập thường xuyên, có kỷ luật nghiêm minh, được thay nhau ở lại canh phòng và về sản xuất.

Đó là một quân đội có chất lượng tinh, được tổ chức, huấn luyện hợp lý lúc hoà bình, đáp ứng nhu cầu dựng nước và giữ nước. Chất lượng của quân đội thời Đinh - Tiền Lê và thời Lý được biểu hiện cao nhất qua hai lần kháng chiến chống Tống (thế kỷ X và XI) dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt.

Những thành quả lớn lao diệt trừ nổi loạn, phá quân Chiêm, những chiến công oai hùng trong hai lần đánh thắng quân xâm lược Tống cũng đủ chứng tỏ binh chế và binh lực nước ta thời kỳ này đã khá hoàn thiện và cường thịnh. Quả đó là một niềm tự hào rất lớn về truyền thống quân sự dân tộc trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 15 Tháng Ba, 2009, 01:10:32 pm
CHƯƠNG 3

DẸP NỘI LOẠN, KHÔI PHỤC THỐNG NHẤT BẢO VỆ NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ, ĐẨY LUI NGUY CƠ XÂM LẤN, GIỮ VỮNG BIÊN CƯƠNG PHÍA NAM CỦA TỔ QUỐC


Trong quá trình vận động của lịch sử, bước vào thời kỳ củng cố nền độc lập tự chủ và xây dựng đất nước vào thế kỷ X và buổi đầu kỷ nguyên Đại Việt, tổ chức lực lượng vũ trang của nhân dân ta mặc dù còn non trẻ nhưng đã sớm phát huy sức mạnh và biểu thị tinh thần chiến đấu ngoan cường trong chống giặc giữ nước.

Đó là các cuộc kháng chiến chống giặc Nam Hán vào các năm 931, 938. Tiếp đến cuối năm 980 đầu 981 của thế kỷ X, 1075 - 1076 thế kỷ XI, quân đội của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt buộc phải lao vào cuộc thử lửa chống giặc Tống xâm lược lần thứ nhất và lần thứ hai. Quân dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn, làm cơ sở cho những chiến thắng vào các thế kỷ sau.

Tuy nhiên, hoạt động quân sự thời kỳ này không chỉ dừng ở chống giặc ngoài. Ngay từ đầu sau khi giành được quyền tự chủ vấn đề dẹp nội loạn, khắc phục hiện tượng phân tán, xây dựng và bảo vệ nhà nước quân chủ, bảo vệ sự toàn vẹn và thống nhất lãnh thổ quốc gia đã sớm được đặt ra. Để làm sáng tỏ vai trò, tác dụng và hiệu lực của tổ chức lực lượng vũ trang vào các thế kỷ X - đầu XIII, chương sách này sẽ lần lượt đề cập đến một số hoạt động cụ thể. Đó là dẹp các vụ nội loạn, các cuộc nổi dậy chống chính quyền, gìn giữ khối thống nhất đất nước, trừ loạn phát sinh từ nội bộ cung đình, bảo vệ nhà nước quân chủ; đẩy lùi nguy cơ xâm lấn quấy phá, bảo vệ biên cương phía nam của Tổ quốc. 
 

I. ĐÁNH DẸP NỘI LOẠN, KHẮC PHỤC HIỆN TƯỢNG PHÂN TÁN

Sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mặc dù đã giành lại được quyền tự chủ, nhưng những hậu quả nặng nề do quá khứ lịch sử để lại cùng những di hại của nó không phải đã có thể sớm khắc phục. Trước hết tổ chức công xã nông thôn với hình thức tự quản dưới thời Bắc thuộc đã thực sự biến thành những pháo đài chống lại sự xâm nhập, đồng hóa của kẻ thù đô hộ, đồng thời bảo tồn, nuôi dưỡng những di sản văn hóa quý báu của tổ tiên.

Bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, tính tự quản, tự thủ được duy trì, vun trồng hơn trong 1.000 năm đó không phải đã có thể xóa bỏ ngay để thích nghi với hoàn cảnh lịch sử mới. Lúc này, sự sống còn của đất nước đòi hỏi các công xã nông thôn phải tập hợp chung quanh nhà nước quân chủ độc lập tự chủ để tạo thành sức mạnh chung của cả nước. 

Không phải chỉ các tổ chức công xã nông thôn tồn tại biệt lập trong vòng ảnh hưởng, chi phối của các thế lực vùng mà sử chép là các thổ hào, cả các thành viên trong cộng đồng các dân tộc từng sinh sống và phân bố ở các vùng biên viễn, rừng núi xa xôi vốn đã quen với sự tồn tại ngoài vòng kiểm soát của chính quyền ngoại tộc chưa thích nghi với việc quản lý, kiểm soát của nhà nước quân chủ cũng có lúc nổi dậy. 

Hiển nhiên trong quá trình chiến đấu chống kẻ thù đô hộ, các công xã nông thôn, các dân tộc không phân biệt thiểu số hoặc đa số đã chụm nhau lại. Nhờ đó nhân dân ta mới có được quốc gia Đại Cồ Việt (thế kỷ X), Đại Việt (từ giữa thế kỷ XI trở đi) tiếp nối truyền thống của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc của mình từng tồn tại từ hơn một ngàn năm trước đó.

Nhưng trong quá trình xây dựng đất nước độc lập tự chủ, không phải không có lúc các thế lực vùng, các thổ tù, châu mục vì lợi ích cục bộ đã lợi dụng cơ hội thuận tiện nổi dậy ly khai với chính quyền trung ương. Việc làm đó ảnh hưởng nguy hại đến khối đoàn kết nhất trí, làm suy yếu đất nước, cần phải khắc phục.

Đặc biệt, cũng thuộc phạm trù nội loạn phải kể đến những vụ rối loạn cung đình, tranh giành quyền lợi giữa hoàng thân quốc thích làm suy yếu bộ máy nhà nước quân chủ thời này.

Chúng ta sẽ lần lượt đề cập đến những hoạt động quân sự nhằm đối phó với các loại hình nổi dậy trên.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 15 Tháng Ba, 2009, 01:14:23 pm
1. Dẹp loạn 12 sứ quân

“12 sứ quân” là một cụm từ biểu thị một cách khái quát hiện tượng nổi dậy của các thổ hào mỗi người chiếm giữ một địa phương nhất định vào buổi suy vong của vương triều Ngô xảy ra vào các năm 965 - 968.

Ngay từ năm 944, sau năm năm giữ ngôi ở Cổ Loa (939 - 944), Ngô Quyền qua đời, vương vị của dòng họ Ngô khuyển sang tay Dương Tam Kha- em vợ Ngô Quyền, đồng thời là người được Ngô Quyền khi lâm bệnh uỷ thác việc giúp đỡ con mình cầm quyền giữ nước.

Phản bội lời dặn của Ngô Quyền, Dương Tam Kha đoạt quyền, xưng là Bình Vương.  Con trai lớn của Ngô Quyền là Xương Ngập phải chạy đi lánh nạn ở nhà Phạm Lệnh Công thôn Trà Hương, nay thuộc huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương. Con trai thứ là Xương Văn biến thành con nuôi của Tam Kha; hai con nhỏ là Nam Hưng và Càn Hưng đi theo Dương Hậu.

Dương Tam Kha nhiều lần lùng bắt Xương Ngập không được. Vào năm 950, nhân dịp được sai đem quân đi đánh dẹp hai thôn Đường Nguyễn ở Thái Bình (nay thuộc Đường Lâm - Sơn Tây) , Xương Văn cùng hai viên quan sứ tòng chinh là Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi đi đến nửa đường (Từ Liêm) bàn nhau kéo quân về đánh úp Cổ Loa. Dương Tam Kha bị bắt, mọi người muốn giết đi, nhưng Xương Văn nói: “Bình Vương đồi với ta cũng có ơn, nỡ nào đem giết”, chỉ giáng làm Trương Dương công 1. Quyền bính lại về tay Ngô Xương Văn lúc này xưng là Nam Tấn vương. Năm sau (951) Xương Văn đón anh là Xương Ngập về cùng cầm quyền tức Thiên Sách vương.

Tình trạng “một nước hai vua” sớm đi vào lục đục vì hành động lấn lướt của Thiên Sách vương Xương Ngập. Năm 954, Thiên Sách vương mất, Nam Tấn vương Xương Văn một mình nắm quyền, sai sứ sang “xin mệnh” của chúa Nam Hán là Lưu Xưởng 2.
 
Trước tình trạng lục đục, bạc nhược vào chặng tàn mạt của vương triều Ngô như vậy, một thế lực mới đã xuất hiện.  Đó là Đinh Bộ Lĩnh (924-979), con trai thứ sử Đinh Công Trứ ở Đại Hữu, thâu Đại Hoàng, nay là xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. ông xuất thân từ nguồn gốc vọng tộc.

Sử chép “Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được Đình Nghệ giao giữ chức quyền thứ sử châu Hoan. Sau theo về với Ngô vương, vẫn được giữ chức cũ rồi mất” 3. Ngay từ đầu, vào năm 951, Đinh Bộ Lĩnh lúc này mồ côi cha, cùng với mẹ về sống ở quê nhà, đã cùng các bạn bè thân cận là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ, Trịnh Tú tập hợp trai tráng trong vùng, lấy động Hoa Lư làm căn cứ để chống lại triều đình Cổ Loa bệnh hoạn. Xương Ngập, Xương Văn từng đem quân đi đánh dẹp, không thắng lợi, phải rút quân về Cổ Loa.
 
Vào thời gian này ở vùng Bố Hải Khẩu (thị xã Thái Bình) cũng đã có Trần Lãm tồn tại ngoài vòng kiểm soát của vương triều Ngô. Theo thần phả đình Xám - còn gọi là đình Hát (thôn Lạc Đạo, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), Trần Lãm người Quảng Đông (Trung Quốc), cha là Trần Công Đức sang nước ta chiếm giữ, lập nghiệp ở vùng ven biển Bố Hải Khẩu (thị xã Thái Bình ngày nay).

Sau nhiều năm khai cơ lập nghiệp, Trần Lãm trở thành một thế lực vùng mạnh mẽ ở ven biển vùng Cửa Bố - Giao Thủy để sớm được Đinh Bộ Lĩnh tìm đến nương tựa, liên kết. Theo thần phả đình Xám, Đinh Bộ Lĩnh làm con nuôi, được Trần Lãm yêu mến, trao cho binh mã, tướng sĩ. Liên kết với Cửa Bố, Đinh Bộ Lĩnh trở thành một lực lượng lớn mạnh, chiếm một địa bàn rộng lớn thuộc hạ lưu sông Hồng, sông Đáy, từ Cửa Bố qua Giao Thủy đến Tạc Khẩu - Thần Phù, tức vùng ven biển Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình thời bấy giờ.


_______________________
1. Việt sử lược Sđd, tr. 42; Toàn thu, Sđd, t.1, tr. 200. 
2. Việt sử lược, Sđd, tr. 43; Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 201.
3. Toàn thư, Sđd, t.1 , tr. 204.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 15 Tháng Ba, 2009, 01:17:22 pm
Cho đến năm 965 khi Nam Tấn vương Xương Văn mất trong dịp đi đánh dẹp hai thôn Đường Nguyễn ở Thái Bình thì triều đình Cổ Loa như rắn không đầu. “Từ đó trong nước rối loạn” 1 .

Ngay tại kinh đô Cổ Loa, Lữ Xử Bình từng giúp việc cho Nam Tấn vương và Kiều Tri Hựu - thứ sử châu Phong - đã gây loạn, tranh nhau nắm quyền 2. Trong khi đó thì viên tướng nhà Ngô là Đỗ Cảnh Thạc khi vương triều Ngô sụp đổ đã về chiếm giữ một dải đất rộng lớn vùng Đỗ Động Giang (từ Quốc Oai đến Bình Đà).

Hậu duệ của họ Ngô - con của Xương Ngập là Xương Xí chạy vào quê ngoại ở Thanh Hóa chiếm giữ đất Bình Kiều nay thuộc xã Hợp Tiến, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa 3.

Cùng với Trần Lãm. Đỗ Cảnh Thạc, Ngô Xương Xí, sử sách chép thêm chín trường hợp thành 12, được sử chép là “12 sứ quân”. Đó là:

1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều - xã Hợp Lý, Hợp Tiến, huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá ngày nay.

2. Kiều Công Hãn xưng là Kiều Tam Chế giữ Phong Châu - Phú Thọ ngày nay.

3. Nguyễn Khoan xưng là Nguyễn Thái Bình giữ Tam Đái - Vĩnh Tường, Vĩnh Phú ngày nay.

4. Ngô Nhật Khánh xưng là Nguyễn Lãm Công giữ Cam Lâm - Ba Vì, Hà Tây ngày nay.

5. Đỗ Cảnh Thạc xưng là Đỗ Cảnh Công giữ Đỗ Động Giang - Thanh Oai, Quốc Oai, Hà Tây ngày nay. 

6. Lý Khuê xưng là Lý Lãng Công giữ Siêu Loại - huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay.

7 . Nguyễn Thủ Tiệp xưng Nguyễn Lệnh Công giữ Tiên Du - huyện Tiên Sơn. Bắc Ninh ngày nay. 

8. Lã Đường xưng là Lã Tá Công giữ Tế Giang - huyện Mỹ Văn, Hưng Yên ngày nay.

9. Nguyễn Siêu xưng là Nguyễn Hữu Công giữ Tây Phù Liệt - Thanh Trì, Hà Nội ngày nay.

10. Kiều Thuận xưng là Kiều Lệnh Công giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê, Phú Thọ ngày nay.

11 Phạm Bạch Hổ xưng là Phạm Phòng Át giữ Đằng Châu - Hưng Yên ngày nay.

12. Trần Lãm xưng là Trần Minh Công giữ Bố Hải Khẩu - thị xã Thái Bình ngày nay.

Trong số 12 sứ quân phần lớn là người gốc Trung Quốc, trong đó các trường hợp Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu, Đỗ Cảnh Thạc, Trần Lãm mới nhập cư một vài đời.  Sử sách không xếp Đinh Bộ Lĩnh vào hàng ngũ sứ quân có lẽ một phần theo quan niệm “được làm vua thua làm giặc”. Nhưng quan trọng hơn là Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra bất hợp tác với triều đình Cổ Loa từ buổi Dương Tam Kha “tiếm ngôi” mà không lợi dụng thời cơ khi chính quyền trung ương rối loạn đi đến sụp đổ mới nổi dậy.


________________________
1. Cương mục, Sđd, t.1, tr. 230.
2. Cương mục, dẫn các sách Ngũ đại sử - Thập quốc Xuân Thu, Sđd, t.1, tr. 233
3. Nguyễn Danh Phiệt: Vùng đất Bình Kiều với ngôi thành của sứ quân Ngô Xương Xí, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4- 1981. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 15 Tháng Ba, 2009, 01:19:40 pm
Từ góc độ quân sự mà xét thì quân đội mới hợp của vương triều Ngô đã giành được thắng lợi trong chống giặc Nam Hán (năm 938), nhưng không đủ sức mạnh để bảo vệ bộ máy nhà nưởe quân chủ vương triều Ngô. Mặt khác, quân đội đó còn bị phân tán, chịu sự khống chế của nhiều thế lực ở ngay trong triều đình như Xương Xí, Đỗ Cảnh Thạp, Phạm Bạch Hổ, Nguyễn Siêu... đều là những người cùng theo Ngô Quyền đánh giặc Nam Hán vào năm 938.

Như vậy, xu hướng phân tán, chia rẽ trong bộ máy vương triều đã dẫn đến sự tan rã. chia sẻ quân đội vào tay các thế lực riêng rẽ. Từ đó, khi vương triều Ngô suy yếu, lập tức cục diện phân tán đã xảy ra đưa đất nước Đại Cồ Việt rơi vào tình trạng bị chia cắt. Lúc này, lực lượng vũ trang của quốc gia Đại Cồ Việt không còn nữa, chỉ còn những đội quân riêng lẻ dưới quyền điều khiển của các sứ quân trong từng địa bàn riêng biệt.

Các đội quân đó không phải ai khác, chính là trai tráng được tuyển lựa trong phạm vi kiểm soát, khống chế của sứ quân. Họ được vũ trang như một thứ “tự vệ” của công xã, liên công xã. Ngoài ra còn có thể có một bộ phận quân của triều đình Cổ Loa bị phân rã chạy theo các sứ quân.

Trong hoạt động quân sự lúc này, ta đặc biệt chú ý đến đội quân của Đinh Bộ Lĩnh. Trước hết đây là một đội quân mới nhóm họp của những người bạn từ thuở còn “cờ lau tập trận”. Ngay từ buổi đầu nhóm họp, đội quân này đã phải đương đầu với quân của triều đình Cổ Loa ở căn cứ động Hoa Lư 1.

Sử chép vào năm 951, Thiên Sách vương và Nam Tấn vương muốn bình định Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh sai con là Đinh Liễn vào triều làm con tin. Triều đình Cổ Loa bắt giữ Đinh Liễn, đem theo đi đánh Đinh Bộ Lĩnh “hơn một tháng không đánh nổi, bèn treo Đinh Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh nếu không hàng thì giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói: “Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?” 2.
 
Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn. Hai vương kinh sợ nói: “Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì”, bèn không giết Liễn mà đem quân về.

Sau thắng lợi trong chống việc bình dẹp của triều đình Cổ Loa, Đinh Bộ Lĩnh liên kết với Trần Lãm ở Cửa Bố. Do đó lực lượng vũ trang của Đinh Bộ Lĩnh không chỉ tăng về quân số, lương thực, mà cả địa bàn hoạt động. Cho đến khi cục diện “12 sứ quân” bùng nổ thì đội quân của Đinh Bộ Lĩnh đã được bổ sung thêm từ nhiều nguồn.

Số lượng 3.000 trai tráng do Đinh Liễn tuyển từ châu Ái 1.000 người do Trần Công Mẫn tuyển từ Nghĩa Hưng, hơn 3.000 trai tráng do Nguyễn Bặc chiêu mộ ở Phú Cốc (Vụ Bản) do nguồn thần phả cung cấp tuy không hoàn toàn chính xác nhưng cũng cho phép hình dung quân số của Đinh Bộ Lĩnh không phải là ít.

Cùng với quá trình phát triển lực lượng, mở rộng địa bàn, Đinh Bộ Lĩnh còn tập hợp dưới cờ nhiều tướng lĩnh tài ba như: Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ, Phạm Cự Lạng, Phạm Hạp . . .  Từ lực lượng quân đội mới nhóm họp này, Đinh Bộ Lĩnh đã tiến hành dẹp loạn, đánh dẹp 12 sứ quân mà mục tiêu đầu tiên là bình định Cổ Loa, tiếp đến các thế lực khác.

Kết hợp các nguồn tài liệu từ chính sử đến thần tích, truyền thuyết, ta biết được Đinh Bộ Lĩnh tiến hành dẹp loạn với chiến thuật “bẻ đũa từng chiếc”, áp dụng biện pháp đánh dẹp bằng quân sự kết hợp với liên kết và hàng phục.  Đối tượng phải tiến hành đánh dẹp bằng quân sự gồm các sứ quân: Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Thuận, Lý Khuê (6/12); liên kết và hàng phục: Trần Lãm, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí, Phạm Bạch Hổ (4/12). Còn lại hai trường hợp “tự tan”, đó là Lã Đường và Nguyễn Khoan (2-12) 3.


____________________
1. Cần phân biệt động Hoa Lư với kinh đô Hoa Lư. Động Hoa Lư cách kinh đô Hoa Lư 8 km về phía tây bắc, thuộc phần cuối dãy núi đá vôi Hòa Bình, cách sông Bôi khoảng 2 km về phía đông, nay thuộc địa phận xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn. Kinh đô Hoa Lư ở huyện Trường Yên.
2. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 201.
3. Xem thêm: Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990 tr. 67 - 75. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 15 Tháng Ba, 2009, 01:22:11 pm
Trong quá trình đánh dẹp, Đinh Bộ Lĩnh phải dùng biện pháp quân sự mãnh liệt, đặc biệt với hai đối tượng có thế lực mạnh nhất, đó là Nguyễn Siêu và Đỗ Cảnh Thạc. Với hai trường hợp này, hoạt động quân sự của quân đội Hoa Lư đã biểu thị sức mạnh và tiến hành tác chiến như một đội quân chuyên nghiệp.

Đỗ Cảnh Thạc vốn là tướng của họ Ngô từng tham gia đánh giặc Nam Hán nam 938. Vào lúc triều đình Cổ Loa tan rã, Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ một vùng khá rộng, có hai thành vào cỡ lớn, đó là thành Đỗ Động tức thành Quèn (ở trang Liệp Tuyết, nay thuộc xã Tuyết Nghĩa, Quốc Oai, Hà Tây) và thành Bảo Đà (nay thuộc Thanh Oai, Hà Tây).

Thần phả độc Nhĩ đại vương chép : “… có một ngày Bộ Lĩnh bàn mưu cùng các tướng rằng: Đỗ Cảnh Thạc trí dũng chỉ có thể thắng bằng kế chứ không chiến thắng bằng lực. Thế rồi nhân lúc đêm tối mới chia quân thành bốn đạo: một đạo xuất phát từ huyện Mỹ Lương đi ra, một đạo từ huyện Yên Lạc, phủ Tam Đới kéo tới, một đạo từ huyện Chương Đức, Sơn Nam tiến lên, một đạo từ huyện Bất Bạt, Quảng Oai đánh xuống, bốn mặt cùng đánh. Lúc bấy giờ Cảnh Thạc đang ở đồn Bảo Đà, còn ở bản doanh trại Quèn chỉ có tướng giữ thành, vì thế đầu đuôi không ứng cứu được nhau. Tất cả cung thành, đồn trại, lương thực, thuyền chiến, khí giới đều bị Đinh Bộ Lĩnh tước đoạt phá phách tan tành.

Đỗ Cảnh Thạc tập hợp tàn quân bại trận cùng với gia thần, dân phu của 72 ấp.lại một phen chỉnh đốn quân ngũ tại trại Quèn, giao tranh với Đinh Bộ Lĩnh và cầm cự hơn một năm trời ( . . ) Một hôm giao chiến với Đinh Bộ Lĩnh , ông bị một mũi tên lạc làm sát thương . . .” 1  . 

Về Nguyễn Siêu, ông là người tỉnh Phúc Kiến, phương Bắc, cha là Nguyễn Nê - một võ tướng thời Tấn Vũ đế, hàm Kiêu Kỵ đại tướng quân Đô thống quản Bình Dương hầu từng đem quân sang nước ta lập đồn binh, nha phủ ở Thanh Quả đến 39 năm. Nguyễn Nê lấy vợ Việt, sinh được ba người con: Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu đều được Ngô Quyền tin dùng, giao cho cầm quân.

Nguyễn Khoan làm Cầm Hạt tướng quân, Nguyễn Thủ Tiệp làm Tứ Xuyên đô hộ, Nguyễn Siêu làm Thống lĩnh tướng quân. Khi vương triều Ngô tan rã, ba anh em phân tán về ba nơi, mỗi người chiếm giữ một vùng, được sử sách ghi chép là sứ quân.  Theo thần phả xã Đông Kết và di tích thì Nguyễn Siêu giữ vùng Phù Liệt (nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội).

Thế lực của Nguyễn Siêu rất mạnh: “Nơi đâu cũng lập doanh trại đồn phủ, thu giữ binh quyền để mưu cầu đại sự. Nguyễn Siêu nuôi dưỡng môn đệ tám ngàn người, binh mã có trên 10 vạn”. Đêm ngày lo toan thu phục anh hào, vợ lớn vợ bé, kẻ theo hầu, nô tỳ không sao đếm xuể....2.
 
Để đối phó với đội quân Hoa Lư dẹp loạn, cũng theo thần phải Nguyễn Siêu bố trí quân lực, cho Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Nguyễn Cẩn làm tả dực (cánh trái): Đỗ Cư làm hữu dực (cánh phải); Phạm Phục tổng quản các quân, đắp thành luỹ, “ban ngày thì chỉnh tề vũ khí, bày trận giao chiến, còn ban đêm thì canh phòng, trống chiêng truyền báo, đóng cửa thành tự thủ” 2.

Vào ngày mùng 6 tháng 6 năm Quý Mão (967) Đinh Bộ Lĩnh điều quân Hoa Lư đến đánh dẹp: “Voi ngựa, tướng sĩ ầm ầm từ miền Thượng Phúc, Phú Xuyên phía Nam tràn tới đóng quân tại địa phận Ngọc Hồi, đất Bình Vọng, gươm dao lấp loáng, cờ bay rợp bóng, quân vây tứ phía”. Nguyễn Siêu hạ lệnh cho các tướng mở cổng thành phản công. Trong trận đầu quân Hoa Lư thất lợi, bị mất bốn tướng: Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Cao Sơn, Đinh Thiết.

Đinh Bộ Lĩnh thống lĩnh toàn quân đem một ngàn thớt voi ngựa, bảy vạn tinh binh theo đường tắt đến xã Cẩm Cơ; lại sai Nguyễn Bắc đi tiên phong lãnh 10.000 quân Thập đạo tướng quân Lê Hoàn tiếp ứng lãnh 8.000 quân. Đinh Bộ Lĩnh hạ lệnh khi nghe tiếng pháo nổ tất cả phải xông lên phá đồn trại của Nguyễn Siêu.


_________________________
1. Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Sđd, phần Phụ lục, tr. 213-214.
2. Như trên, Sđd, tr. 193, phần Phụ lục.
3. Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Sđd, phần Phụ lục, tr.193, 196-197.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 15 Tháng Ba, 2009, 01:31:11 pm
Trước tình hình nguy cấp, Nguyễn Siêu phải chia quân làm đôi, một bộ phận ở lại giừ thành, một bộ phận vượt sông Cái đi cầu viện sứ quân Nguyễn Khoan và Nguyễn Thủ Tiệp. Cánh quân của Nguyễn Siêu điều khiển sang sông lại gặp “lũ dâng cuồn cuộn, trời nước một màu, quan quân ra đi, qua xã Đông Phù Liệt, vừa ra giữa dòng thì bỗng gặp gió lớn, sóng cao gầm thét, trời không phù hộ, thuyền rồng bị đắm, khí giới quân nhu đều mất cả” 1.

Lợi dụng thời cơ, Đinh Bộ Lĩnh sai Nguyễn Đoàn đem hơn 10 người, ban đêm “ngầm lén vào trong doanh, thừa gió phóng hoả, ngọn lửa rừng rực, khói đen ngút trời”. Trong doanh trại mọi người kinh sợ tẩu tán. Thành lũy bị san phẳng. Nguyễn Siêu, cả người ngựa bị chết trong khi qua sông.

Bổ sung cho chính sử, qua thần phả ta biết đội quân dẹp loạn của Hoa Lư có đủ các loại: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh. Sự phối hợp giữa các loại quân đã được thực hiện. Đặc biệt trong trận đánh dẹp Nguyễn Siêu, ta còn thấy xuất hiện lối đánh bí mật cho người lọt vào doanh trại đối phương đốt phá, theo thuật ngữ ngày nay ta có thể gọi là “đặc công”.

Tuy nhiên trong biện pháp dẹp loạn của Đinh Bộ Lĩnh không chỉ có bình định bằng quân sự. Như dã trình bày, ông còn dùng biện pháp thuyết phục “đánh vào lòng người”.  Điển hình nhất là trường hợp Ngô Xương Xí ở Bình Kiều. Về điểm này sử sách không ghi chép. Bổ sung từ nguồn truyền thuyết kết hợp với di tích sưu tầm được ở Thanh Hóa ta biết, sau khi bình định được các sứ quân ở vùng Bắc Bộ ngày nay, Đinh Bộ Lĩnh tiến hành thu phục Bình Kiều của sứ quân Ngô Xương Xí. Theo truyền thuyết ông hành quân vào Ái Châu, đóng quân tại sườn Cửu Noãn Sơn, có thần nhân (mưu sĩ?) mách bảo: không cần đánh, chỉ cần mở tiệc khao quân, Xương Xí hoảng sợ tất phải xin hàng.

Một truyền thuyết sưu tầm được ở Đông Lỗ (nay thuộc xã Thiệu Long, Thiệu Yên, Thanh Hóa) - nơi có vết tích trang trại của Dương Tam Kha, lại cho biết trên đường hành quân đến Bình Kiều, Đinh Bộ Lĩnh đã qua đây yết kiến Dương Tam Kha, ông lấy người con gái của Dương Tam Kha là Ngọc Vân 2  làm vợ tức Dương Thái hậu sau này.

Thông qua mối quan hệ con cậu (Ngọc Vân) - cháu cô (Xương Xí), Đinh Bộ Lĩnh đã hàng phục được Xương Xí. Truyền thuyết có khác nhau, nhưng đều thống nhất’ ở điểm Bộ Lĩnh đã thu được Bình Kiều không phải bằng bạo lúc vũ trang mà bằng cánh thuyết phục 3.
Trong quá trình dẹp loạn, bằng biện pháp vũ trang kết hợp với thuyết phục, đội quân tập hợp dưới cờ của Đinh Bộ Lĩnh ngày một lớn mạnh. Dẹp loạn thành công. đội quân này trở thành lực lượng vũ trang của quốc gia Đại Cồ Việt dưới quyền điều khiển của vị tổng chỉ huy Thập đạo tướng quân Lê Hoàn vào năm 968.

2. Dẹp loạn Cử Long

Cử Long, theo lời chua của sách Cương mục là vùng dân tộc thiếu số thuộc huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa ngày nay 4.  Đây là một cuộc nổi dậy kéo dài trong nhiều năm từ cuối thế kỷ X của thủ lĩnh dân tộc, nhằm ly khai khỏi sự kiểm soát của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, buộc các nhà nước Tiền Lê, Lý phải tiến hành đánh dẹp nhiều lần. 

Khác với dẹp loạn 12 sứ quân, tiến hành dẹp loạn lần này không phải là một đội quân mới nhóm họp. Đây là lực lượng vũ trang của quốc gia Đại Cồ Việt - một quân đội đã từng tôi luyện, thử thách và trưởng thành trong kháng chiến chống giặc Tống vào cuối năm 980 đầu 981. Theo các sách Việt sử lược Đại Việt sử ký toàn thư, Cương mục, lần đánh dẹp vào năm 1001 cũng do đích thân nhà vua (Lê Đại Hành) cầm quân.

Sử chép: “Vua thân đi đánh dẹp Cử Long. Quân giặc thấy vua, giương cung nhầm bắn thì tên rơi, lại giương cung thì dây đứt, tự lấy làm sợ mà rút lui . Vua bèn đi thuyền vào Cùng Giang để đuổi. Giặc bày trận hai bên bờ chống lại, quan quân bị hãm ở giữa sông, vua cũ nhà Đinh là Vệ vương Toàn trúng tên chết tại trận. Vua kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh, giặc tan vỡ” 5.


_______________________
1Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Sđd, phần Phụ lục, tr.193, 196-197.
2. Có thuyết nói tên là Vân Nga.
3. Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Sđd, tr. 10.
4. Cương mục, Sđd, t.1, tr. 267.
5. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 228.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 15 Tháng Ba, 2009, 01:36:17 pm
Như vậy ta có thể hình dung trận thủy chiến này đã diễn ra trên dòng sông Mã ở đoạn chảy qua huyện Cẩm Thủy ngày nay. Theo sách Lịch sử Thanh Hoá, tập II, sông Mã chảy từ phía tây xuống địa phận Cẩm Thủy là đoạn từ Cửa Hà (xã Cẩm Phong) chảy qua tổng Cự Lữ gồm bốn sách: Cự Lữ Trung, Mỹ Ngọc, Cự Lừ Hạ, Thiêm đinh. Đến đây sông đã hết thác ghềnh hiểm trở, nhưng hai bên bờ sông lại có vách núi cao. Gần Cửa Hà có một ngách sông Mã một bên vách đá dựng đứng, một bên bờ sông cao, nhân dân thường gọi là “ngách Cùng”, theo truyền thuyết đây là bãi chiến trường xưa. Hẳn đây là địa danh “Cùng Giang” mà Lê Đại Hành đã đem binh thuyền đuổi theo và đánh dẹp” 1.

Bị đánh dẹp lần này (1001) nhưng thủ lĩnh người Cử Long vẫn chưa hoàn toàn phịu khuất phục. Bốn năm sau, vào năm 1005, trong lúc ở Hoa Lư vua Lê Đại Hành qua đời, các con tranh giành ngôi vua, người Cử Long lại kéo quân đến cửa Thần Đầu (tức Thần Phù) buộc Lê Long Đĩnh, lúc này đã giành được ngôi vua từ tay Long Việt, phải đem quân đi đánh dẹp.

Sử không chép rõ kết quả ra sao. nhưng có thể đoán được rằng quân của triều đình Hoa Lư đã đẩy lùi được người Cử Long, nhưng chưa hoàn toàn khuất phục được họ.  Vì vậy cho đến năm 1011, năm Thuận Thiên thứ hai: thời Lý Thái Tổ, sử còn chép: “Vua thấy giặc Cử Long ở châu Ái hung hăng dữ tợn, trải hai triều Đinh. Lê không đánh nổi, đến nay càng dữ, mới đem sáu quân đi đánh, đốt bộ lạc, bắt kẻ đầu sỏ đem về, giặt ấy bèn tan” 2.
 
Ta lưu ý, ba lần dẹp loạn Cử Long vào đầu thế kỷ XI đều do các nhà vua trực tiếp điều khiển, dùng lực lượng vũ trang để đánh dẹp. Tham gia dẹp loạn, thủy binh giữ một vai trò rất quan trọng vào các năm 1001 và 1005. Cho đến đầu thời Lý, vào năm 1011. sau lần đem “sáu quân” đi đánh dẹp của Lý Thái Tổ, vùng đất Cử Long thuộc miền Cẩm Thủy, Thanh Hóa ngày nay mới hoàn toàn tuân theo sự quản lý của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền Lý. 

3. Vụ Hà Trắc Tuấn ở Vị Long (Tuyên Quang)

Vào năm 1013, Hà Trắc Tuấn thủ lĩnh châu Vị Long, nay thuộc vùng Chiêm Hóa, Tuyên Quang về hùa với người Nam Chiếu nổi dậy chống lại triều đình. Vua Lý Thái Tổ trực tiếp đem quân đi đánh dẹp. Trắc Tuấn sợ, chạy trốn vào rừng núi. Hai năm sau, vào năm 1015, Hà Trắc Tuấn lại nổi lên chiếm giữ vùng đất thuộc các châu Vị Long, Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên đều thuộc Tuyên Quang ngày nay. Lý Thái Tổ hạ chiếu cho con là Dực Thánh vương, Vũ Đức vương đi đánh dẹp, bắt được Hà Trắc Tuấn đem về Thăng Long “chém đầu bêu ở chợ Cửa Đông” 3.
 
4. Vụ Khai Quốc vương Bồ ở Trường Yên

Bồ là con của Lý Thái Tổ được phong Khai Quốc vương quản giữ Trường Yên (Ninh Bình ngày nay) vào năm 1013.  Ông từng được vua cha sai đi đánh dẹp châu Đô Kim (Tuyên Quang) vào năm 1024. Năm 1028, Lý Thái Tổ mất, triều đình lục đục vì vụ Đông Chinh vương Lực cùng Dực Thánh vương và Vũ Đức vương nổi loạn. Nhân dịp này Khai Quốc vương Bồ quản giữ Trường Yên đem quân bản phủ nổi dậy chống chính quyền trung ương, lúc này do Lý Phật Mã tức Lý Thái Tông kế vị.

Sử chép: “Trước vương đóng ở phủ Trường Yên, cậy có núi sông hiểm trở, tụ tập kẻ trốn tránh, cướp bóc dân mọn, Thái Tổ không hề hay biết, nuôi thành tội ác. Đến khi nghe Thái Tổ băng (năm 1028) Vũ Đức vương bị giết, lòng càng bất bình, bèn đem Phủ binh (tác giả nhấn mạnh) làm phản” 4
 
Để đối phó với trường hợp Khai Quốc vương Bồ, Lý Thái Tông giao cho Lý Nhân Nghĩa giữ kinh đô, đích thân cầm quân đi đánh dẹp. Lý Thái Tông đến Trường Yên, Khai Quốc vương Bồ xin hàng phục. Lý Thái Tông ưng thuận, ra lệnh: “Hễ kẻ nào cướp bóc của nả của dân thì chém”. Lệnh của nhà vua được quân sĩ tuân thủ nghiêm ngặt. Khi nhà vua đem quân vào thành dân chúng dâng bò, rượu đón mừng. Lý Thái Tông tha tội và điều Khai Quốc vương Bồ cùng liêu thuộc về Thăng Long, vẫn cho Bồ giữ tước vương như đã từng được vua Lý Thái Tổ phong tặng.


_____________________
1. Lịch sử Thanh Hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, t.II, tr. 111
2. Việt sử lược Sđd, tr.71; Toàn Thư, Sđd, t.l, tr.293; Cương mục, Sđd, t.I, tr. 288.
3. Toàn thư, Sđd, t. 1, tr. 247; Cương mục, Sđd, t.I, tr. 293.
4. Toàn thư, Sđd, t. 1, tr. 255.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 12:06:42 am
5. Vụ Nùng Trí Cao (1041 - 1053)

Nùng Trí Cao là con trai Nùng Tồn Phúc ở Thạch An, Cao Bằng, Tồn Phúc từng được vua Lý giao cho quản giữ vùng châu Thảng Do (thuộc đất Cao Bằng), em trai Tồn Phúc là Tồn Lộc quản giữ châu Vạn Nhai (thuộc đất huyện Bắc Sơn, Lạng Sơn và huyện Võ Nhai, Thái Nguyên ngày nay); em vợ là Đương Đạo thủ lĩnh châu Vũ Lặc (vùng đất giáp ranh Lạng Sơn - Cao Bằng ngày nay) đều thuộc châu Quảng Nguyên, hàng năm phải nộp đồ tiến cống cho triều đình bằng sản vật địa phương. 

Đầu năm 1039 đời Lý Thái Tông, Tồn Phúc giết Tồn Lộc và Đương Đạo, chiếm đất, tự xưng là Chiêu Thánh hoàng đế, lập vợ làm hoàng hậu, phong con là Trí Thông làm Nam Nha vương, lập nước Trường Sinh cắt đứt quan hệ tiến cống vương triều Lý. Nùng Tồn Phúc sửa soạn binh giáp, đắp thành tự thủ, nhằm tách ra khỏi sự quản lý của nhà nước quân chủ Lý.  Vua Lý Thái Tông trực tiếp cầm quân đánh dẹp, bắt được Tồn Phúc và Trí Thông.

Đem quân về Thăng Long, vua Lý Thái Tông xuống chiếu: “Trẫm từ khi có thiên hạ đến giờ, tướng văn tướng võ cùng các bề tôi không người nào dám thiếu đại tiết, phương xa cõi lánh, không đâu không đến xưng thần mà họ Nùng nối đời giữ bờ cõi vẫn thường cúng nộp đồ cống. Nay Tồn Phúc càn dở tự tôn, tiếm vị hiệu, ra mệnh lệnh, tụ họp quân ong bọ, làm hại dân chúng biên thùy. Trẫm vâng mệnh trời đi đánh, bắt được bọn Tồn Phúc năm tên đều chém ở chợ Kinh đô” Trong khi đó vợ Tồn Phúc là A Nùng và con là Trí Cao chạy thoát 1.

Năm 1041 Nùng Trì Cao cùng mẹ từ động Lôi Hỏa (thuộc đất Cao Bằng) về chiếm lại châu Thảng Do lập nên nước Đại Lịch. Lý Thái Tông sai tướng đi đánh dẹp, bắt được Trí Cao đem về Thăng Long. Nhà vua thương tình cha và anh của Trí Cao đã bị giết nên không những không trừng trị, mà Trí Cao còn được vua Lý tha về, cho tiếp tục quản giữ châu Quảng Nguyên và thêm các đất động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và châu Tư Lang đều thuộc các huyện Thượng Lang, Hạ Lang, Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng ngày nay 2. Năm 1043, vua Lý Thái Tông lại ban cho Nùng Trí Cao quả ấn và phong làm Thái bảo 3

Bảy năm sau khi được hưởng đặc ân, vào năm 1048, Nùng Trí Cao lại nổi dậy chống triều đình. Nhà vua sai Thái uý Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao xin hàng 4.

Năm 1049 Trí Cao đem quân vào đất Tống, cướp phá Ung Châu (Quảng Tây). Năm 1050 Trí Cao giữ động Vật Dương ở châu An Đức thuộc đất Tống (tây bắc Cao Bằng) lập nước Nam Thiên cải nguyên là Cảnh Thụy 5. Năm 1051, Trí Cao dâng biểu thần phục nhà Tống. Triều Tống không chấp nhận.

Vào năm 1052, Nùng Trí Cao lại theo gót cha, xưng Nhân Huệ hoàng đế, lập nên nước Đại Nam lại xin quy phục nhà Tống, bị khước từ. Trì Cao đem quân cướp đất đai nhà Tống, đánh phá vùng đất biên giới thuộc Quảng Tây, phá trại Hoành Sơn, vây hãm châu Ung, Hoành, Quý, Đằng, Ngô. Khang, Đoan, Củng Tầm, kéo đến đánh thành Quảng Châu, tiếp lại đánh chiếm Ung Châu đều thuộc Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc 6,  cuối Cùng Trí Cao bị quân Tống do Tống Địch Thanh chỉ huy đánh bại ở Ung Châu. Trí Cao phải đốt thành chạy trốn để rồi bị giết ở Đại Lý (Vân Nam - Trung Quốc) vào năm 1053 7.


______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1: tr. 267.
2,3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 270, 272. Thái bảo một trọng chức của triều đình, sau thái sư, thái phó.
4. Toàn thư, Sđd, t.l, tr. 277.
5. Việt sử lược, Sđd, tr.90.
6. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 279; Toàn thư và Cương mục đều chép sự kiện này vào năm 1052.
7. Toàn thư, Sđd, t.1, tr 280;Việt sử lược, Sđd, tr.92.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 12:09:09 am
Trước việc Nùng Trí Cao bị bắt rồi lại được vua Thái Tông tha, sử gia Lê Văn Hưu từng nói: “Năm trước. Nùng Tồn Phúc phản nghịch, tiếm hiệu, lập nước, đặt quan thuộc, Thái Tông đã trị tội Tồn Phúc mà tha cho con là Trí Cao. Nùng Trí Cao lại noi theo việc trái phép của cha thì tội lớn lắm, giết đi là phải, nếu lấy lại tước và ấp phong, giáng làm thứ dân thì cũng phải. Thái Tông đã tha tội, lại cho thêm mấy châu quận nữa, ban cho ấn tín, phong làm Thái bảo như thế là thưởng phạt không có phép tắc gì (…). Đó là vì Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của nhà Phật mà quên mất cái nghĩa lớn của người làm vua” 1.

Có lẽ cái lòng nhân của nhà Phật ở Lý Thái Tông chưa hẳn đã chi phối việc làm này của nhà vua. Thực ra nhà vua đã từng thân chinh, sai tướng đi đánh dẹp, bắt được Trí Cao. Nhưng ta biết việc khoan dung, vỗ về các thủ lĩnh ở vùng rừng núi xa xôi nhằm cố kết khối cộng đồng các dân tộc, thông qua họ để quản dân giữ đất là quốc sách đúng đắn mà các vua Lý thường theo đuổi. Biện pháp dùng lực lượng vũ trang để đánh dẹp là biện pháp cuối cùng, chỉ sử dụng khi thật cần thiết, ở trường hợp Trí Cao, cho đến lần thứ ba, vua Lý Thái Tông mới có ý định phối hợp với quân Tống để trừ diệt tận gốc, nhưng tướng Tống là Tống Địch Thanh khước từ. Trí Cao bị người Tống giết trên đất Tống.

6. Vụ động Ma Sa ở Đà Bắc (Hòa Bình)

Động Ma Sa thuộc vùng huyện Mai Đà (Đà Bắc), nay thuộc lòng hồ Hòa Bình. Thời Lý, động Ma Sa do tù trưởng Ngụy Bàng quản giữ. Mặc dù Ma Sa nằm trong phạm vi lãnh thổ của Đại Việt, là địa bàn cơ trú của người Mường tách ra từ người Việt cổ, nhưng tù trưởng Ngụy Bàng không chịu sự quản lý của nhà nước quân chủ Đại Việt.

Cách Thăng Long không xa, nhưng núi non cách trở, đường bộ khó đi, đường thủy có thác Bờ nổi tiếng hiểm trở, là chỗ dựa về mặt địa lý để các tù trưởng ở vùng này có thái độ ly khai. 

Vào năm Hội tường Đại khánh thứ 10 (1119) đời Lý Nhân Tông, nhà vua phải tiến hành đánh dẹp. Lần ra quân này được chuẩn bị chu đáo và huy động một lực lượng quân thủy, bộ khá lớn. Từ tháng bảy âm lịch nhà vua đã hạ chiếu cho các quân đóng thuyền chiến, sửa soạn binh giáp. Tháng 10 duyệt binh, huy động cả sáu quân: Ngọc Giao, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, Ngự Long tham gia đánh dẹp.

Trước khi ra quân, nhà vua còn tổ chức hội thề ở Long Trì. Toàn thư chép: “Vua ngự thuyền Cảnh Hưng, xuất phát từ bến Thiên Thu (?), cờ xí rợp trời, gươm giáo rẽ sương, quân sĩ đánh trống reo hò, khí thế trăm phần hăng hái 2. Nhà vua đích thân điều quân tiến vào động Ma Sa” phá tan được, bắt được bọn động trưởng Ngụy Bàng vài trăm người (…). Sai tỳ tướng vào các động dọc biên giới chiêu dụ những người trốn tránh bảo về yên nghiệp 3

Hẳn rằng vào thời Lý không chỉ có động Ma Sa, mà các vùng đất rừng núi, biên viễn còn nằm trong tình trạng gần như tự trị. Bảng liệt kê các vụ nổi dậy ở vùng biên viễn vào thời này do sử cũ chép cho phép ta hình dung xu hướng ly khai buộc nhà nước quân chủ Lý phải giải quyết:

- Năm 999: Hà Động (Thạch Thành - Thanh Hóa) do vua Lê Đại Hành thân chinh cầm quân đánh dẹp. 

- Năm 1001: Cử Long (Cẩm Thủy - Thanh Hóa) do vua Lê Đại Hành thân chinh cầm quân đánh dẹp. 

- Năm 1011: Cử Long (Cẩm Thủy - Thanh Hóa) do vua Lý Thái Tổ thân chinh cầm quân đánh dẹp.

______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.273. 
1,2. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 305.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 12:11:13 am
- Năm 1024: Đô Kim (Tuyên Quang) do Khai Quốc vương Bồ cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1024: Phong Châu (Phú Thọ) do Khai Thiên vương Phật Mã cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1026: châu Diễn (Nghệ An) do Khai Thiên vương Phật Mã cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1027: Thất Nguyên (Cao Bằng) do Khai Thiên vương Phật Mã cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1027: Văn Châu (Lạng Sơn) do Đông Chinh vương Lực cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1033: Định Nguyên (Yên Bái?) do vua Lý Thái Tông thân chinh cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1033: Trệ Nguyên (Yên Bái?) do vua Lý Thái Tông thân chinh cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1035: châu Ái (? - thuộc Thanh Hóa) do vua Lý Thái Tông thân chinh cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1037: Lâm Tây - Đô Kim (Tuyên Quang) do vua Lý Thái Tông thân chinh cầm quân đánh dẹp. 

- Năm 1037: Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên (Tuyên Quang) do Khai Hoàng vương Nhật Tôn cầm quân đánh dẹp. 

- Năm 1039: Thảng Do - Vạn Nhai - Vũ Lặc (Cao Bằng) do vua Lý Thái Tông thân chinh cầm quân đánh dẹp. 

- Năm 1041-1053: Thảng Do - Văn Uyên (Cao Bằng) sai tướng cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1119: động Ma Sa (Đà Bắc - Hòa Bình) do vua Lý Thái Tông thân chinh cầm quân đánh dẹp. 

- Năm 1140- 1141: Thái Nguyên, Tây Nông, Lục Lệnh, Thượng Nguyên, Hạ Nông (Thái Nguyên - Bắc Cạn), sai tướng cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1154: châu Đại Hoàng (Ninh Bình) do vua Lý Anh Tông thân chinh cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1164: Lộng Lạc ‘ Mang Quán Giang (Sơn La), sai tướng cầm quân đánh dẹp.

- Năm 1194: châu Đăng (Phú Thọ), sai tướng cầm quân đánh dẹp.

Chính sách bao quát của nhà nước quân chủ đối với vùng biên viễn là thuyết phục, đoàn kết. giao cho các tù trưởng quản lý đất đai và cơ dân, chỉ phải nộp phẩm vật hàng năm. Hành động ly khai của động Ma Sa là một trong những vụ lớn, hẳn đã gây nhiều bất lợi cho việc quản lý cả một vùng thượng du xa xôi phía tây nam Thăng Long.

Vì vậy cho nên trong lần thân chinh này nhà vua không chỉ chuẩn bị chu đáo về mặt lực lượng quân đội mà còn đặc biệt lưu ý đến động viên cổ vũ tinh thần. Trước khi ra quân, vua Lý Nhân Tông xuống chiếu có đoạn viết:

“Vả xét động Ma Sa sống ở trong cõi của ta, động trưởng Ma Sa thì đời đời làm phiên thần của ta, thế mà nay kẻ tù trưởng ngu hèn ấy bỗng phụ ước của ông cha, quên việc tuế cống, khiếm khuyết lệ thường phép cũ. Trẫm vẫn nghĩ mãi, việc không đừng được, nay trẫm tự làm tướng đi đánh dẹp ...” 1.

Cuộc hành binh lần này kéo dài trong gần hai tháng.  Tháng 10 chuẩn bị xuất quân, đầu tháng 12 nhà vua trở về Thăng Long, dâng tù trưởng Ngụy Bàng ở nhà thái miếu, khao thưởng tướng sĩ ban cho tiền lụa theo thứ bậc khác nhau.


_______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 305.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 12:18:26 am
7. Vụ phản loạn Thân Lợi (1140 - 1141)

Vào năm đầu đời Lý Anh Tông (1140) có một thầy bói  tên là Thân Lợi xưng là con của Nhân Tông cùng đồ đảng theo đường thủy 1 đến chiếm giữ các châu Thái Nguyên, Tây Nông, Lục Lệnh, Thượng Nguyên, Hạ Nông thuộc vùng đất Thái Nguyên, Bắc Cạn ngày nay.

Đầu năm sau (1141), Thân Lợi tự xưng là Bình Vương, lập vợ cả, vợ lẽ làm hoàng hậu, phu nhân, phong vương hầu cho các con, ban quan tước cho tay chân. Lúc đầu có đến hơn 1.000 người theo. Thân Lợi phao tin giỏi binh thuật, hiếp chế người bản địa, khiến cho nhân dân vùng biên giới khiếp sợ

Được tin từ biên giới báo về, nhà vua sai gián nghị đại phu Lưu Vũ Nhĩ chỉ huy quân bộ, thái phó Hứa Viêm chỉ huy quân thủy tiến hành đánh dẹp. Vũ Nhĩ sai tướng tiên phong Tô Tiệm và chủ đô trại Tuyên Minh là Trần Thiềm đem quân đi trước. Gặp thủy quân của Thân Lợi, trận giao chiến đầu tiên xảy ra ở sông Bác Đài, quân triều đình thất lợi, thị vệ Tô Tiệm bị Thân Lợi giết. Thân Lợi giữ châu Thượng Nguyên, đắp đồn ải ở Bác Như. Vũ Nhĩ hạ được Bác Như tiến đến Bồ Dinh (?) gặp thủy quân của Thân Lợi. Chiến trận xảy ra, Vũ Nhĩ cũng bị thua, quá nửa tướng sĩ bị chết, phải rút quân về 2.

Tháng Tư âm lịch, Thân Lợi chiếm châu Tây Nông, nay thuộc huyện Phú Bình - Thái Nguyên, huy động các châu Thượng Nguyên, Tuyên Hóa, Cảm Hóa, Vĩnh Thông (thuộc Bắc Cạn, Thái Nguyên) đánh chiếm phủ Phú Lương, nay là huyện Phú Lương, Thái Nguyên; chiếm giữ phủ lỵ, mưu tính kế về đánh chiếm kinh đô Thăng Long 3

Tháng năm âm lịch, Thân Lợi kéo quân về Thăng Long đóng ở Quảng Dịch (?) bị quân của triều đình do Anh Vũ chỉ huy đánh bại. Thân Lợi chạy thoát về Lục Lệnh. Thủ lĩnh các châu Vạn Nhai, động Kim Khê là Dương Mục, Chu Ái bị bắt giải về Thăng Long, sau đó giải về trói giam ở lỵ sở phủ huyện của họ. Sau thắng lợi nhà vua không truy quét, trừng trị, mà ra lệnh cho Anh Vũ chiêu tập tàn binh của Thân Lợi, tha hai thủ lĩnh bị bắt và đem muối ở kho phát cho họ 4.

Đến tháng 10 âm lịch, Lý Anh Tông lại sai Anh Vũ đi đánh dẹp châu Lục Lệnh, bắt được bè đảng hơn 2.000 người.  Thân Lợi chạy trốn sang châu Lạng (thuộc Lạng Sơn ngày nay), bị thái phó Tô Hiến Thành chỉ huy quân đánh bắt, giải về Thăng Long. Nhà vua ngự điện Thiên Khánh xét tội, xử trảm Thân Lợi và 20 người đồng mưu, tha cho những người bị Thân Lợi ép buộc 5.

8. Đại loạn vào buổi cuối triều Lý

Cuối đời Lý Cao Tông vào năm Trị Bình Long ứng thứ ba (1207) tình hình loạn lạc đã lên đến đỉnh điểm. Có nhiều nguyên nhân. Theo sử sách, một nguyên nhân cực kỳ quan trọng là sự tha hóa, suy thoái của nhà nước quân chủ Lý, đứng đầu là nhà vua.

Sử chép vào năm 1205, đời Lý Cao Tông: “Vua thì ham thích tiền của, các quan phần nhiều bán quan buôn ngục” 6

Sách Việt Sử lược chép cũng vào năm này: “Vua rất ham của cải lợi lộc, lấy việc bán quan buôn ngục làm chính sự. Hai người nào mà tranh nhau ruộng đất, sản vật, hễ một người đem dâng nạp rồi thì vua chẳng hỏi tình lý phải trái thế nào đều tịch thu sung công cả, vì thế mà kho đụn của nhà nước của cải chất như núi, còn bách tính thì kêu ca, oán thán. Giặc cướp nổi lên như ong7.


______________________
1. Có lẽ là đoạn sông thuộc thượng lưu sông Cầu ở các huyện Bạch Thông, Phú Lương, Thái Nguyên ngày nay. 
2,3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 331, 332, 333.
4,5. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 331, 332, 333. 
6. Toàn Thư, Sđd, t.1, tr. 357.
7. Việt Sử lược Sđd, t.1, tr.170.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 12:22:48 am
Cho đến năm 1207 trước tình hình đó ông vua “xây dựng không ngớt, rong chơi vô độ, hàng ngày cùng cung nữ dạo chơi làm vui, nghe ngoài thành có trộm cướp thì lờ đi như không biết1 mới xuống chiếu “chọn các đinh nam, người nào khoẻ mạnh sung vào quân ngũ, sai quan các lộ thống quản để bắt2.

Như vậy là bất lực trước tình thế không ổn định do bộ máy quản lý hành chính từ vua đến quan tha hóa gây nên, lực lượng vũ trang của nhà nước quân chủ không còn khả năng dẹp loạn. Nhà nước phải tăng cường quân số địa phương bằng cách tuyển lựa trai tráng giao nhiệm vụ cho quan các lộ (cấp tỉnh sau này) đánh dẹp.

Mặt khác, nhà vua cũng nhận thấy tội lỗi của mình khi hạ chiếu: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn ở tận nơi cửu trùng không biết cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì trẫm còn dựa vào ai.  Nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới. Ai có ruộng đất sản nghiệp bị sung công thì sẽ được hoàn lại". Mặc dù vậy, tình hình loạn lạc vẫn diễn ra với cấp độ ngày càng mạnh.  Có thể kể một vài vụ điển hình.

Phạm Du - một viên quan coi việc quân ở Nghệ An, lợi dụng tình hình nhà nước yêu cầu mộ quân để dẹp loạn mà “Chiêu tập bọn vong mệnh, tụ tập bọn giặc cướp... ngang nhiên cướp bóc”, làm loạn ở vùng châu Đằng châu Khoái (Hưng Yên). Năm 1209, vua Lý Cao Tông sai Phạm Bỉnh Di đi đánh dẹp, tịch biên gia sản của Phạm Du. Mặt khác, nhà vua lại triệu Phạm Du về kinh. Mâu thuẫn giữa Phạm Du và Bỉnh Di đến cao độ. Nghe lời gièm pha của Phạm Du, vua Cao Tông bắt giam cha con Bỉnh Di.

Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân phá cửa Đại Thành tiến vào thành. Lý Cao Tông sai giết bố con Bỉnh Di. Bọn Quách Bốc lấy xe của nhà vua chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu của nhà vua bọc xác của con Bỉnh Di chở ra bến Đông Bộ Đầu, sau đó trở lại cung Vạn Diên lập hoàng tử Thầm lên làm vua. Lý Cao Tông chạy lên vùng Quy Hóa giang để lánh nạn. Trong khi đó Phạm Du rước con của Lý Cao Tông là Thầm và Sảm về Hải ấp (Thái Bình). Đây là dịp để cho một thế lực vùng lớn mạnh là họ Trần chuyên nghề đánh cá ở Hải ấp, với vai trò mở đầu của Trần Lý, tham gia vào nội bộ của vương triều Lý.

Tại Hải ấp, Hoàng thái tử Sảm lấy con gái Trần Lý làm vợ do đó Trần Lý được ban tước Minh tự, cậu của vợ thái tử Sảm là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ . . . Cuối năm 1209 “Anh em họ Trần họp hương binh để dẹp loạn, rước vua (Cao Tông) về kinh, trừng trị bọn Quách Bốc” 4
 
Như vậy là việc mất còn của ngôi vua nhà Lý, cụ thể là đương kim hoàng đế Lý Cao Tông, cũng như Hoàng thái tử Sảm đã nằm trong vòng tay che chở, khống chế của họ Trần với lực lượng vũ trang ban đầu là hương binh do họ điều khiển.

Đầu năm sau, năm 1210, vua Lý Cao Tông từ kinh đô Thăng Long sai Thượng phẩm phụng ngự là Đỗ Quảng đem quân đến nhà Tô Trung Từ ở Hải ấp đón hoàng thái tử Sảm về kinh sư. Trần Thị - vợ của thái tử Sảm thì về nhà cha mẹ.  Lúc này Trần Lý - bố của Trần Thị đã bị loạn quân giết. Con thứ của Trần Lý là Trần Tự Khánh - anh Trần Thị - thay cha nắm quyền, đem quân bản bộ cùng về kinh đô, được nhà vua phong Thuận Lưu bá.

Cuối năm này Lý Cao Tông chết, Hoàng thái tử Sảm 16 tuổi lên ngôi, tức Lý Huệ Tông. Lập tức nhà vua đem thuyền rồng về Hải ấp đón Trần Thị. Đầu năm 1211, Trần Tự Khánh sai Phùng Tá Chu đưa Trần Thị đi, được Tô Trung Từ đón vào cung. Lý Huệ Tông lập Trần Thị làm nguyên phi, Tô Trung Từ làm thái uý phụ chính, phong Thuận Lưu bá Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu.

Việc làm này không được thái hậu Đàm Thị ủng hộ. Bà tìm cách đuổi bỏ họ Trần, cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, cho Trần Thị lúc này là Thuận Trình phu nhân là bè đảng của giặc. Trong khi đó thì từ đầu năm 1212, Đoàn Thượng được lệnh đi mộ dân châu Hồng bắt đảng giặc, đã tự tiện tác oai, tác phúc. Khi bị đàn hặc, bắt giam vào ngục để hỏi tội, Đoàn Thượng lại chạy về châu Hồng “nhóm bè đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân, triều đình không thể ngăn được5.


_____________________
1,2. Toàn Thư, Sđd, t.1, tr.357.
3. Việt Sử lược, Sđd, t.1, tr.173,174.
4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 360.
5. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 362.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 03:29:56 pm
Ở Thăng Long, vượt qua sự ngăn cản của Đàm Thái hậu, Lý Huệ Tông ngày càng rơi vào vòng kiềm chế của thế lực họ Trần. Cuối năm 1216, nhà vua sắc phong Trần Thị làm hoàng hậu Trần Tự Khánh làm thái uý phụ chính, anh Trần Tự Khánh là Trần Thừa (thượng hoàng nhà Trần sau này) làm nội thị phán thủ. Năm 1217, vua Lý Huệ Tông mắc bệnh điên, chính sự do Trần Tự Khánh quyết đoán.

Vụ Đoàn Thượng nổi loạn kéo dài từ năm 1212 chưa dẹp yên được, thì Nguyễn Nộn vào năm 1220 đã giữ hương Phù Đổng, tự xưng Hoài Đạo vương, dâng biểu xưng thần lại mở đầu cho một vụ loạn mới kéo dài.

Có thể nói từ đây sân khấu chính trị của quốc gia Đại Việt đang chìm trong loạn lạc triền miên nằm trong tay của họ Trần. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, truy phong Kiến Quốc đại vương; Trần Thừa làm làm Phụ Quốc thái úy. Việc Lý Huệ Tông xuất gia vào năm 1224, nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng lên bảy tuổi, để rồi chuyển sang tay Trần Cảnh tám tuổi (tức Trần Thái Tông) vào năm 1225 đã diễn ra theo sự sắp đặt của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ.

Một lần nữa qua vụ đại loạn vào cuối đời Lý, chúng ta thấy rất rõ một khi bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền suy yếu, thì tình trạng phân tán, ly khai cùng với việc nổi dậy của các thế lực vùng xuất hiện, kéo theo đó là sự phân hóa, bất lực của lực lượng vũ trang. Quân đội của triều đình, của các địa phương rơi vào tình trạng bị chia rẽ, giằng co giữa các thế lực.

Lực lượng vũ trang đó không chỉ không làm được nhiệm vụ dẹp loạn, bảo vệ nhà nước, vãn hồi an ninh mà còn bị lôi cuốn vào cơn lốc của loạn lạc.  Từ tám trường hợp điển hình về nội loạn và hành động ly khai cùng với hoạt động vũ trang bình dẹp của thời này, ta có một nhìn nhận bao quát qua bảng tổng hợp sau đây:
 
(http://i468.photobucket.com/albums/rr47/UyenNhi05/untitled.jpg?t=1237192212)

Bảng tổng hợp trên phản ánh khá rõ vị trí và vai trò của lúc lượng vũ trang trong dẹp trừ nội loạn, khắc phục hiện tượng ly khai, đẩy lùi khuynh hướng phân tán, xây dựng và bảo vệ nhà nước quân chủ, quản lý đất nước độc lập, tự chủ và thống nhất.

Bên cạnh đó còn có điều đặc biệt quan trọng cần lưu ý.  Đó là một khi tổ chức lực lượng vũ trang của nhà nước quân chủ bị chia rẽ thì nó cũng sẽ bất lực trong dẹp loạn, hơn nữa còn dẫn đến sự sụp đổ của bộ máy nhà nước. Tình hình đại loạn vào cuối triều Lý là trường hợp tiêu biểu.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:05:56 pm
II. DẸP LOẠN CUNG CUNG ĐÌNH BẢO VỆ NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ

Hành động nội loạn mà lực lượng vũ trang thời kỳ này phải tham gia bình dẹp không chỉ dừng lại ở các đối tượng thổ hào, thủ lĩnh địa phương như đã trình bày ở phần trên. Cũng thuộc loại hình nội loạn còn có những vụ rắc rối, tranh giành quyền lực ở cung đình.

Loại hình này không kém phần nguy hiểm. Chúng thường gây nên những mất ổn định, thậm chí sụp đổ của bộ máy nhà nước mà lực lượng vũ trang phải can thiệp nhàm giữ vừng “an ninh chính trị”, bảo vệ nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.

Khác với loại hình nội loạn, ly khai trên, loại hình nội loạn cung đình thường có nguyên nhân xuất phát ngay từ trong nội bộ triều đình, bao gồm các hoàng thân quốc thích, các quan lại tham dự triều chính, mà mục tiêu thường chỉ vì quyền và lợi ích cá nhân. Tuy nhiên cũng có trường hợp vì lợi ích chung cần phải có sự thay đổi để tạo điều kiện đáp ứng yêu cầu vận động phát triển của lịch sử. Trong trường hợp này, lực lượng quân sự sẽ giữ vai trò chủ động, thông qua “binh biến” để giải quyết vấn đề cấp bách đang đặt ra trước mắt.

Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về diễn biến. hoạt động quân sự qua một số vụ tiêu biểu.

1. Vụ chính biến của Dương Tam Kha sau khi Ngô Quyền qua đời.

Khác vụ Kiều Công Tiễn với hành động phản phúc trắng trợn giết chủ đoạt quyền, vụ chính biến của Dương Tam Kha thực sự là vụ tranh giành quyền bính giữa hai thế lực lớn có quan hệ khăng khít qua con đường hôn nhân. 

Theo sử sách, Ngô Quyền là con Ngô Mân - một hào trưởng tầm cỡ lớn - có nguồn gốc châu Ái, đã nhiều đời di chuyển ra châu Phong, và tụ lại ở Đường Lâm. Ngô Quyền từng là nha tướng và là con rể của Dương Đình Nghệ. ông lấy Ngọc Thư (có thuyết nói là Ngọc Vân), chị (có thuyết nói là em) của Dương Tam Kha.

Như vậy dưới trướng của Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền và Dương Tam Kha với mối quan hệ chiến hữu thân thiết được gắn bó thêm chặt chẽ bằng quan hệ anh em rể.

Sau vụ loạn Kiều Công Tiễn, đồng thời sau chiến thắng giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng vương và Dương Tam Kha trở thành người trợ thủ đắc lực, việt sử lược chép là “gia thần” của Ngô vương ở Cổ Loa. 

Đại Việt sử ký toàn thư chép vào năm 944 “Tiền Ngô vương” (tức Ngô Quyền) bệnh nặng, có ai thúc giao cho Tam Kha giúp rập cho con. Khi Vương mất, Tam Kha cướp ngôi” 1.  Trước việc làm của Tam Kha, con trưởng của Ngô Quyền là Xương Ngập sợ, chạy về Trà Hương, nay thuộc Kinh Môn - Hải Dương, được Phạm Lệnh Công che giấu. 

Sau khi đoạt được vương vị, nắm trong tay mọi quyền lực Dương Tam Kha sử dụng lực lượng quân lính Cổ Loa phục vụ cho mục đích bất chính của mình. Trước sự việc này sử sách không hề chép lực lượng vũ trang từng phục vụ vương triều Ngô, được Ngô Quyền rèn luyện, nuôi dạy có phản ứng tức thời.

Thậm chí các chỉ huy sứ Dương Cát Lợi  và Đỗ cảnh Thạc còn theo lệnh Dương Bình vương Tam Kha sai đi bắt Xương Ngập ở Trà Hương đến ba lần “đều không thực hiện được mệnh lệnh2, Phạm Lệnh Công đem giấu Xương Ngập trong động núi. Liệu có khả năng hai vị chỉ huy sứ họ Dương và họ Đỗ không thực tâm thi hành mệnh lệnh của Tam Kha? Phải đợi đến năm năm sau, vào năm 950, trong dịp được Dương Tam Kha sai đi đánh dẹp hai thôn Đường Nguyễn ở Thái Bình (thuộc Hà Tây) thì tướng lĩnh và quân đội của Ngô Quyền mới tỏ thái độ quyết liệt.

______________________
1. Toàn thư, Sđd, 1.1, tr. 198.
2. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 199.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:09:55 pm
Theo sử cũ trên đường ra quân đến Từ Liêm, Xương Văn nói với hai vị chỉ huy sứ họ Dương họ Đỗ rằng: “Đức của tiên vương ta thấu khắp lòng dân, phàm chính lệnh ban ra không ai không vui lòng nghe theo, không may lìa bỏ quần thần, Bình vương tự làm việc bất nghĩa, cướp ngôi của anh em ta, tội không gì to bằng. Nay lại sai bọn chúng ta đi đánh ấp không có tội may mà đánh được thì thôi, nếu họ không phục thì làm thế nào?” 1.

Đây là lúc quân lính được dịp bày tỏ lòng trung thành của mình với Ngô vương. Quân lính quay trở về Cổ Loa, bắt Dương Tam Kha, giành lại vương vị cho con trai của chủ cũ. Bắt Dương Tam Kha, Xương Ngập không giết mà chỉ giáng làm Trương Dương công, còn ban cho thực ấp ở Chương Dương, ngoại thành Hà Nội ngày nay. 

Dẹp được vụ biến Dương Tam Kha, quân đội Cổ Loa đặt dưới quyền của Xương Văn lúc này là Nam Tấn vương.  Nhưng hàng loạt diễn biến tiếp theo: Xương Văn đón Xương Ngập về cùng cầm quyền giữ nước. Thiên Sách vương Xương Ngập chuyên quyền dẫn đến nội bộ hiềm khích.

Năm 954, Thiên Sách vương Xương Ngập mất, Xương Văn cầm quyền cho đến năm 965 thì bị chết trong khi đem quân đi đánh dẹp hai thôn Đường Nguyễn ở Thái Bình (thuộc Hà Tây).  Dường như sự bất hòa trong nội bộ triều đình Cổ Loa là nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu và tan rã trong quân đội của vương triều Ngô.

Quân lính của Cổ Loa đã không thắng nổi đoàn quân mới nhóm họp của Đinh Bộ Lĩnh ở động Hoa Lư vào năm 951; lại còn bị bại ở hai thôn Đường Nguyễn vào năm 965. Nam Tấn vương Xương Văn bị trúng tên chết tại trận, vương triều Ngô sụp đổ.

Cũng trong thời gian này, tổ chức lực lượng vũ trang của triều đình Cổ Loa bị phân hóa, chia rẽ lực lượng để rồi bị lôi kéo vào cái gọi là “loạn 12 sứ quân” xảy ra từ năm 965, sau cái chết của Xương Văn. Như vậy vào lúc nguy hiểm xảy ra với nhà nước vương triều Ngô, sớm muộn lực lượng vũ trang đã tỏ ra khí tiết và lòng trung thành để bảo vệ sự tồn tại của triều đình Cổ Loa.

Nhưng những người đứng đầu vương triều đã tỏ ra ươn hèn, bất lực, mất đoàn kết đã dẫn đến sự sụp đổ của vương triều. Không những thế, họ còn tạo nên tình trạng tan rã của tổ chức lực lượng vũ trang từng được Ngô Quyền rèn luyện và trưởng thành trong diệt ngoại xâm, trừ nội loạn, tạo cơ hội cho cục diện “loạn 12 sứ quân” xuất hiện như đã trình bày ở phần trên.

2. Vụ rối loạn ở cuối vương triều Đinh

Sau 12 năm tồn tại, vào năm Kỷ Mão (977), vương triều Đinh ra đời từ dẹp loạn “12 sứ quân” bị một phen nghiêng ngả vì hành động bạo nghịch của Đỗ Thích. Theo ghi chép của sử sách. Đỗ Thích giữ chức Chi hậu nội nhân, vì một giấc mơ thấy sao rơi vào miệng, cho là điềm tốt, nảy ra ý định giết vua đoạt ngôi.

Vào một đêm sau bừa yến tiệc, vua Đinh cùng con trai là Đinh Liễn say rượu ngủ ở cấm đình thì bị Đỗ Thích giết hại 2. Nguyên nhân dẫn đến việc Đỗ Thích giết cha con vua Đinh dường như đã rõ qua ghi chép của sử. Nhưng sự thể hẳn không đơn giản chỉ có thế.

Một nguồn tài liệu từ gia phả của chi họ Đỗ lại cho biết Đỗ Thích thuộc dòng dõi của cựu sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, được vua Đinh thu nạp và tin dùng, như trường hợp Ngô Nhật Khánh 3. Cả hai cùng nuôi thù riêng và tìm cách chống vua Đinh, giành quyền lực. Nhưng mỗi người hành động một  cách khác. Ngô Nhật Khánh rước giặc Chiêm Thành về toan đánh chiếm Hoa Lư. Chiến thuyền của chúng bị bão dìm đắm ở ngoài cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang (thuộc Nam Định, Ninh Bình ngày nay) vào năm 979. Còn Đỗ Thích giết vua Đinh và Đinh Liễn thì bị Định Quốc công Nguyễn Bặc bắt trừng trị.

Sự rối loạn ở vương triều Đinh không dừng lại chỉ có thế.  Sau khi vua Đinh và con trưởng là Nam Việt vương Liễn bị giết hại, các tướng lĩnh Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn rước con nhỏ là Đinh Toàn - con của Đinh Bộ Lĩnh và Dương Thái hậu 4 - lên ngôi.

_____________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 199 - 200; Việt sử lược, Sđd, tr. 42.
2. Theo truyền thuyết và thần phả thì nhà vua và Đinh Liễn bị Đỗ Thích đầu độc bằng cách cho thuốc độc vào lòng lợn dâng lên trong bữa yến tiệc.
3. Xem thêm - Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Sđd, tr . 151 .
4. Dương Thái hậu ở đây là con của Dương Tam Kha, khác với Dương hậu, vợ của Ngô Quyền là chị (có thuyết nói là em) của Dương Tam Kha.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:13:43 pm
Vệ vương Toàn mới lên sáu tuổi, mọi việc đều do Lê Hoàn nhiếp chính quyết định. Trước tình hình đó các bậc đại thần như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp “ngờ” 1 sẽ bất lợi cho vua nhỏ nên đã về Ái Châu (Thanh Hóa) họp quân chống lại Lê Hoàn. Lê Hoàn đem quân đánh dẹp. Đinh Điền bị chết tại trận, Nguyễn Bắc bị bắt và bị giết ở Hoa Lư. Còn Phạm Hạp chạy lên Bắc Giang, sau cũng bị bắt đem về giết chết ở Hoa Lư. 

Cho đến lúc này thì nguyên nhân của mọi rối loạn ở triều đình Hoa Lư cũng chỉ vì tranh giành nội bộ, xoay quanh việc trả thù cho chủ, giành giữ quyền lực xung quanh chiếc ngai vàng đang nằm trong tay ấu chúa. Sự phân hóa, chia rẽ giữa các tướng lĩnh thuộc hai phái: phái Lê Hoàn - Phạm Cự Lạng và phái Nguyễn Bặc - Đinh Điền - Phạm Hạp 2, lại một lần nữa dẫn đến sự chia rẽ trong nội bộ lực lượng vũ trang như trường hợp ở triều đình Cổ Loa hơn 10 năm trước.  Nhưng lần này sự chia rẽ đó không dẫn đến đỗ vỡ, mà lại diễn biến theo một hướng khác.

Tiếp sau tình hình rối loạn trong nội bộ triều đình Hoa Lư là hành động lợi dụng cơ hội, chuẩn bị gấp rút tiến hành xâm lược của giặc Tống. Trước tình thế đó, lực lượng vũ trang ở Hoa Lư do đại tướng Phạm Cự Lạng cầm đầu, được sự ủng hộ của Dương Thái hậu, tôn Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, thực hiện việc chống giặc vào cuối năm 980 đầu năm 981.

Kết quả quân, dân Đại Cồ Việt đã đánh bại giặc Tống, bắt sống tướng giặc Triệu Phụng Huân và Quách Quân Biện, bảo vệ được độc lập chủ quyền của quốc gia. 
Qua vụ việc này, lại một lần nữa lịch sử chứng minh sự bất hoà trong đội ngũ cầm quyền đã dẫn đến chia rẽ trong tổ chức lực lượng vũ trang của quốc gia Đại Cồ Việt. Nhưng lần này, tình trạng chia rẽ đó chỉ là hiện tượng tạm thời. Trước nguy cơ giặc ngoài xâm lược lực lượng vũ trang của triều đình Hoa Lư đã nhanh chóng xiết chặt đội ngũ, thống nhất lực lượng để tiến hành thống giặc thắng lợi. 

3. Vụ loạn ba vương vào năm Ất Ty (1005) Sau khi Lê Đại Hành qua đời.

Trong những hoạt động quân sự vào thời Tiền Lê không thể không tìm hiểu về vụ loạn trong nội bộ vương triều có nguồn gốc từ việc phân phong của nhà nước quân chủ thời này.

Theo ghi chép của sử sách, thời Tiền Lê tình trạng phân  tán quyền lực có xu hướng trỗi dậy mà nguyên nhân chính là do chủ trương của người đứng đầu nhà nước. Sách Toàn thư chép nhà vua phong cho các con như sau 3 :

Năm 991, phong hoàng tử thứ tư là Đinh làm Ngự Man vương, đóng ở Phong Châu.

Năm 991, phong hoàng tử thứ sáu là Cân làm Ngự Bắc vương, đóng ở trại Phù Lan (thuộc huyện Đường Hào,Hải Dương) .

Năm 992, phong hoàng tử thứ năm là Đĩnh làm Khai Minh vương, đóng ở Đằng Châu (Kim Động, Hưng Yên).
 
Năm 993, phong hoàng tử thứ bảy là Tung làm Định Phiên vương, đóng ở Tư Doanh, Ngũ Huyện Giang (thuộc vùng Bắc Ninh).

Năm 993. phong hoàng tử thứ tám là Tương làm Phó vương đóng ở Đỗ Động (Quốc Oai, Sơn Tây). 


_____________________
1 Toàn thư, chép là “ngờ”, còn Việt sử lược chép: “Thấy vua (chỉ Lê Hoàn) sẽ bất lợi cho ấu chúa”, Sđd, tr. 54. Cương mục chép: “Lê Hoàn cậy có Thái hậu cưng yêu, không kiêng sợ chi cả. Bọn Bặc bàn với nhau: Lê Hoàn sẽ bất lợi cho nhu tử...”, Sđd, tập 3, tr. 10. 
2. Phạm Hạp, người Chí Linh, Hải Dương là anh ruột Phạm Cự Lạng. ông và cha Phạm Hạp đều tham gia cầm quân dưới thời vương triều Ngô.
3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 224, 225, 226.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:19:20 pm
Năm 993, phong hoàng tử thứ chín là Kính làm Trung Quốc vương. đóng ở Càn Đà,huyện Mạt Liên thuộc đất Phù Tiên, Bắc Ninh).

Năm 994, phong hoàng tử thứ mười là Mang làm Nam Quốc vương. đóng ở châu Vũ Lung (nay thuộc Thanh Hóa). 

Năm 995, phong hoàng từ thứ 11 là Đề làm Hành Quân vương, đóng ở châu Cỗ Lãm (nay thuộc Bắc Ninh).   

Năm 995, phong con nuôi là Phù Đái vương, đóng ở Phù Đái (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng).

Như vậy là trong số 11 con đẻ và một con nuôi, vua Lê Đại Hành đã phong vương và đất phong đến chín người. Còn lại các con thứ nhất, thứ hai và thứ ba, không cấp đất mà chi phong vương vào năm 989. Đó là:

- Con trưởng: Long Thâu làm Kình Thiên đại vương.

- Con thứ hai: Long Tích làm Đông Thành vương.

- Con thứ ba: Long Việt làm Nam Phong vương 1
 
Việc phong vương, kèm theo đất phong cấp đồng nghĩa với việc tạo cho người được phong một quyền lực quản giữ đất đai và quân dân ở địa phương được phong cấp. Đây chính là cơ sở để họ có thể nổi dậy, đem quân bản bộ tranh giành quyền lực một khi thời cơ đến, mà nhà vua không thể lường trước được.

Đến năm 1004, một năm trước khi qua đời, Lê Đại Hành mới tính chuyện lập người nối ngôi. Lúc này thái tử Long Thâu (con trưởng) đã mất. Theo thứ tự thì ngôi thái tử phải trao cho Long Tích - con thứ hai, nhưng nhà vua lại muốn trao cho Long Đĩnh là con thứ năm; triều thần khuyên can nên việc phải đình lại.

Đến đây nhà vua mới lập Long Việt là con thứ ba làm thái tử. Dường như để xoa dịu tình hình, nhà vua gia phong cho Long Tích (con thứ hai) và Long Đĩnh (con thứ năm) từ tước vương lên đại vương 2. Nhưng việc làm này của nhà vua không đem lại hiệu quả như ý muốn. Mối bất hòa và mầm loạn xuất phát từ đây thời cơ nổi loạn đã đến.

Đầu năm 1005, tháng ba âm lịch, nhà vua băng hà. Theo sự sắp đặt từ trước của vua cha, thái tử Long Việt (con thứ ba) lên nối ngôi. Sự việc diễn ra không êm thấm, vấp phải sự chống cự quyết liệt của Đông Thành đại vương Long Tích (con thứ hai), Trung Quốc vương Long Kính (con thứ chín) và Khai Minh vương Long Đĩnh (con thứ năm).

Cuộc tranh chấp diễn ra ở thế giằng co, cầm cự, đến nỗi ngôi vua phải bỏ trống tám tháng. Long Tích bị Long Việt đánh đuổi phải chạy sang Chiêm Thành, chưa đến nơi thì bị giết ở cửa biển Kỳ La (Hà Tĩnh). Cho đến tháng 10 âm lịch, Long Việt mới lên ngôi. Nhưng chỉ ba ngày sau thì Long Việt bị Long Đĩnh con thứ năm, cùng mẹ với (Long Việt) giết, giành lấy ngôi vua mà sử chép là Lê Ngọa Triều, ở ngồi từ cuối 1005 đến cuối 1009.

Trong số ba vương nổi loạn này theo sử sách có hai người là Khai Minh đại vương Long Đĩnh và Trung Quốc vương Long Kính được cắt đất phân phong.

Sự tranh chấp quyền lực không dừng lại ở đây. Long Đĩnh giết anh lên ngôi, lập tức bị Long Ngân và Long Kính, Long Đinh đều được cắt đất phân phong, nổi lên chống lại.  Long Đĩnh phải đích thân cầm quân đi đánh dẹp, bao vây trại Phù Lan đến hai tháng. Thế cùng, Long Ngân bắt Long Kính đem nộp. Long Ngân được tha, Long Kính bị giết 3.  Bình dẹp xong trại Phù Lan, Long Đĩnh đem quân đi đánh Phong Châu, Long Đinh phải đầu hàng 4.

___________________
1. Toàn thư, Sđd, t.I, tr. 223; Cương mục, Sđd, t.III, tr. 20.
2. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 229.
3,4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 232; Cương mục, Sđd, t.1, tr. 271.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:24:18 pm
Từ tranh giành quyền lực dẫn đến cảnh huynh đệ tương tàn giữa các con Lê Đại Hành xảy ra vào năm 1005 đã khiến lực lượng võ trang của quốc gia Đại Cồ Việt không còn sức mạnh của một quân đội thống nhất chỉ huy với ý chí sắt đá trong buổi đầu ở những năm tháng chống giặc Tống xâm lược (980-981).

Chỉ vì một chủ trương sai lầm của người đứng đầu nhà nước: cắt đất phân phong, bỏ trưởng lập thứ rnà dẫn đến sự đổ vỡ của đại cục. Trong tình hình đó, lực lượng vũ trang với tư cách là một công cụ bạo lực của nhà nước cũng bị rơi vào cảnh tượng phân tán chia lìa, đưa vương triều Tiền Lê vào chặng tàn mạt, kết thúc vào năm 1009 thời Lê Ngọa Triều.

4. Vụ loạn ba vương vào buổi đầu triều Lý và vai trò của Vũ Vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu.

Đầu năm 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà ở điện Long An.  Theo di chúc của nhà vua, quần thần tôn thái tử Phật Mã - con trưởng, lên ngôi. Việc chuẩn bị ngôi kế vị cho Phật Mã đã được Lý Thái Tổ tiến hành từ năm Thuận Thiên thứ ba (1012).

Sử chép vào năm này: “Sắc phong hoàng thái tử Phật Mã làm Khai Thiên vương, làm cung Long Đức ở ngoài thành cho ở, ý muốn cho thái tử hiểu biết mọi việc của dân1.  Theo chế độ nhà Lý, ngoài việc phong vương cho các con như thường lệ, dường như còn cho các con quản giữ một địa phương.

Trường hợp Khai Quốc vương Bồ quản giữ phủ Trường Yên (Ninh Bình ngày nay) thì đã rõ. Riêng Dực Thánh vương, Vũ Đức vương, Đông Chinh vương, sử không chép vùng đất họ quản giữ. Nhưng căn cứ vào việc họ đem “phủ binh” của mình tham gia tranh chấp đế vị, ta biết họ có khả năng được có đất phong, hay ít nhất họ cũng có phủ đệ riêng với quân đội riêng của “phủ” mình.

Với lực lượng quân đội trong tay, họ thường được vua cha giao việc cầm quân đánh dẹp các nơi mỗi khi cần thiết. Đó là các trường hợp Dực Thánh vương, Vũ Đức vương đánh dẹp các châu Đô Kim, Vị Long, Thường Tân, Bình Nguyên (Hà Giang - Tuyên Quang ngày nay) vào năm 1015; Khai Thiên vương Phật Mã đánh Chiêm Thành năm 1020; Dực Thánh vương đánh Đại Nguyên Lịch thuộc vùng biên giới phía bắc vào năm 1022; Khai Thiên vương đánh châu Phong, Khai Quốc vương Bồ đánh châu Đô Kim vào năm 1024; Khai Thiên vương đánh dẹp ở Diễn Châu năm 1026; Khai Thiên vương đánh châu Thất Nguyên, Đông Chinh vương đánh dẹp châu Văn (đều thuộc vùng Lạng Sơn) vào năm 1027.

Tất nhiên, các vương nhận chiếu chỉ cầm quân đi thảo phạt, ngoài quân số của bản phủ còn có lực lượng quân lính của triều đình cùng các tướng lĩnh tham gia tòng chinh.  Điều cần quan tâm ở đây là việc cho phép các vương có quân đội riêng sẽ có lợi khi nhà vua cần huy động, nhưng lại có  mặt trái của nó.

Với lực lượng quân đội riêng, họ sẵn sàng nổi dậy mỗi khi bất bình vì một duyên cớ nào đó.  Ngoài trường hợp đem phủ binh “làm loạn” của Khai Quốc vương Bồ ở Trường Yên đã nói ở phần trên, vụ nổi loạn của ba vương xảy ra sau khi vua Lý Thái Tổ băng hà là một trường hợp điển hình vào thời Lý.

Sử chép sau khi được tin thái tử Lý Phật Mã sẽ lên ngôi “Ba vương là Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức nghe tin đều đem quân ở phủ mình vào phục sẵn trong cấm thành.  Đông Chinh vương phục ở trong Long Thành, hai vương Dực Thánh và Vũ Đức phục sẵn trong cửa Quảng Phúc, đợi thái tử đến thì đánh úp” 2.

Biết có biến, thái tử Phật Mã đối phó bằng cách “sai các vệ sĩ trong cung phòng giữ”, bàn bạc với các bề tôi trong cung: “Ta đối với anh em không phụ bạc chút nào. Nay ba vương làm việc bất nghĩa, quên di mệnh của tiên đế, muốn chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ thế nào?”.

Nội thị Lý Nhân Nghĩa nói: “Anh em với nhau, bên trong có thể hiệp sức bàn mưu, bên ngoài có thể cùng nhau chống giặc.  Nay ba vương làm phản thì là anh em hay là kẻ thù. Xin cho bọn thần đánh một trận để quyết được thua” 3.

_____________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 224; tiệt sử lược, sđd, t.1, tr. 72.
2,3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 251-152; Cương mục, Sđd, t.III, tr.52- 53.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:28:49 pm
Thái tử Phật Mã tỏ ý chần chừ vì “tiên đế mới mất chưa quàn mà cốt nhục đã giết nhau sợ để lại tiếng chê cười cho muôn đời”. Lý Nhân Nghĩa tìm cách thuyết phục và nói: “Tiên đế cho điện hạ là người hiền đủ để nối được chí, tài đủ để làm nổi việc, nên đem thiên hạ phó thác cho điện hạ. Nay giặc đến vây bức cửa cung mà ẩn nhẫn như thế thì đối với sự phó thác của tiên đế ra sao?” 1. Lý Phật Mã vẫn muốn để ba vương tự ý rút quân chịu tội để vẹn toàn tình cốt nhục.

Trong khi đó phủ binh của ba vương càng vây bức gấp.  Biết không thể ngăn được, Phật Mã đành phải ủy thác việc đánh dẹp cho đám cận thần: Lý Nhân Nghĩa, Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu. Phật Mã nói với Lê Phụng Hiểu: “Trẫm nay tiến thoái đều không được, giao quyền cho ngươi tùy tiện chống đánh” 2.
 
Được lệnh của Lý Phật Mã, Lý Nhân Nghĩa ra lệnh cho vệ sĩ cấm binh trong cung mở cửa xông ra đánh dẹp. Lê Phụng Hiểu đem vệ binh trong cung ra cửa đại nội giáp chiến. Hai bên đánh nhau chưa phân được thua thì Vũ Vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu nổi giận, tuốt gươm tiến đến cửa Quảng Dương, hô to bảo Vũ Đức vương: “Các vương định cướp ngôi báu coi khinh tự quân, thật là trái mệnh tiên đế, lỗi đạo làm tôi, Phụng Hiểu này xin dâng các vương nhát kiếm”. Tiếp đó Lê Phụng Hiểu đem quân xông vào bắt giết được Vũ Đức vương, Phủ binh của ba vương bị đánh tan, Đông Chinh vương và Dực Thánh vương chạy thoát.

Sau vụ dẹp loạn này Lê Phụng Hiểu được phong Đô thống thượng tướng quân, tước hầu. Khi thái tử Phật Mã lên ngôi, Đông Chinh vương và Dực Thánh vương đến xin chịu tội. Họ được tha và đều cho lại tước cũ.

Đội ngũ tướng lĩnh và quân lính cấm vệ của nhà nước quân chủ Lý đã phát huy tác dụng, kịp thời dẹp loạn xảy ra trong nội bộ vương triều. Họ đã lập lại trật tự, kỷ cương và sự yên bình cho vương triều Lý sau khi Lý Thái Tổ băng hà.

Qua năm vụ nội loạn trong nội bộ vương triều đã khảo sát kể trên, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét sau đây:

1. Nguyên nhân xảy ra nội loạn thường do tranh giành quyền lực nội bộ. Mọi mối quan hệ huyết thống thân tộc, quân thần, ngoại thích, đồng liêu đều bị chà đạp, nhường chỗ cho lòng tham quyền vị, chia rẽ phe phái, cá nhân. 

2. Hầu hết các vụ nội loạn đều bị đánh dẹp bằng biện pháp quân sự. Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền đánh dẹp; Dương Tam Kha bị quân lính của Xương Văn truất quyền; Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp bị Lê Hoàn bình định; loạn ba vương cuối triều Tiền Lê bị Lê Long Đĩnh đánh dẹp; loạn ba vương đầu triều Lý bị Vũ Vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu đem quân diệt trừ.

3. Các vụ nội loạn thường kéo theo sự chia rẽ trong lực lượng vũ trang. Một bộ phận của quân triều đình ngả theo quân phiến loạn mà quân bản bộ trong tay của thế lực cầm đầu là hạt nhân.

4. Bất luận vì lý do gì, nội loạn trong nội bộ cung đình đều gây nên rối loạn, làm suy yếu sứt mẻ, thậm chí đổ vỡ của bộ máy nhà nước quân chủ thời này.

_______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 251-152; Cương mục, Sđd, t.III, tr.52- 53. 
2. Việt điện u linh, truyện Đô thông Khuông quốc tá thánh vương, bản dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1972, tr.65.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:33:36 pm
III. ĐẨY LÙI NGUY CƠ XÂM LẤN, GIỮ VỮNG BIÊN CƯƠNG PHÍA NAM CỦA TỔ QUỐC

Sau khi giành được độc lập tự chủ vào đầu thế kỷ X, biên giới phía nam của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt dừng lại ở Hoành Sơn, giáp với Chiêm Thành. Đây là quốc gia của người Chăm thuộc dòng Mã Lai - Đa Đảo, có lịch sử dựng nước từ cuối thế kỷ II sau Công nguyên.

Sử chép vào khoảng đời Sơ Bình (190- 193) cuối thời Hán, một người tên là Khu Liên đánh chiếm quận Tượng Lâm lập nước Lâm ấp và làm vua nước ấy.

Vào cuối thế kỷ VIII, sử Trung Quốc chép là nước Hoàn Vương. Tên gọi Chiêm Thành dịch nghĩa từ Campapura từng xuất hiện trong bi ký từ thế kỷ XV, được chép trong thư tịch từ cuối thế kỷ IX vào thời Đường, khoảng năm 855 hay 877; cuối thế kỷ IX xuất hiện tên nước Tân Đồng Long phiên âm từ Panduranga.

Trong thực tế, vương quốc Champa chỉ là một tập hợp không ổn định của nhiều nước khác nhau. Mặc dù vậy, người ta đã quen dùng thuật ngữ Champa - Chiêm Thành để chỉ cộng đồng xã hội khu vực này 1.

Dưới thời Bắc thuộc, Chiêm Thành đã nhiều lần đem quân đánh phá vùng châu Hoan (Nghệ An - Hà Tĩnh), châu Ái (Thanh Hóa), buộc quan quân đô hộ phải đánh dẹp.

Vào năm 248, Lâm ấp đã cướp phá các tỉnh phía bắc, bị quan quân đô hộ Trung Quốc đánh dẹp ở khu vực Ba Đồn (sông Gianh) 2.

Theo Toàn thư, năm 399, vua nước Lâm ấp là Phạm Hồ Đạt đánh cướp Nhật Nam, Cửu Chân rồi vào cướp Giao Châu, bị thứ sử Đỗ Viện đánh tan 3. Vào thế kỷ V, năm 413, Phạm Hồ Đạt lại cướp quận Cửu Chân, bị Tuệ Độ đánh tan 4. Năm 543, thời Lý Nam Đế, người Lâm ấp dưới triều vua Rudravarman vào cướp quận Nhật Nam, vua Lý Nam Đế sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở Cửu Đức (nay thuộc vùng Đức Thọ, Hà Tĩnh) 5

Vào thế kỷ IX, từ thời vua Indravarman II (854- 893) , Chiêm Thành dưới sự quản lý của vương triều Đồng Dương của quý tộc bắc Chăm, thủ đô Indrapura trên bờ sông Ly Ly - một nhánh của sông Thu Bồn, cách thành Trà Kiệu khoảng 15 km về phía đông nam.

Đây là thời kỳ phát triển thịnh vượng của vương quốc Chiêm Thành. Từ thế kỷ XI trở đi, Chiêm Thành bước vào suy yếu do nội bộ chia cắt, chiến tranh với Chân Lạp. Đầu thế kỷ XIII, Chiêm Thành biến thành một tỉnh của Khơme từ năm 1203 đến năm 1220... 

Là một quốc gia nông nghiệp còn ở trình độ lạc hậu, diện tích canh tác của Chiêm Thành chỉ giới hạn ở dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy dài ven biển, lọt vào giữa dãy núi Trường Sơn và biển Đông, thuộc Trung và Nam Trung Bộ ngày nay.

Đã vậy, dải đất hẹp này lại bị nhiều mạch núi chắn ngang ngăn cách. Ngoài núi Hoành Sơn ở cực bắc, còn có các núi Hải Vân, núi Thạch Bi, núi Đại Lãnh. Giao thông chủ yếu bằng đường biển. Trong hoàn cảnh đó, nguồn nhân lực dồi dào và của cải giàu có thuộc các vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, đông Nam ở phía bắc Hoành Sơn hẳn có sức hấp dẫn lớn đối với Chiêm Thành.


_____________________
1. Lịch sử Đông Nam á, Sđd, tr. 293-294; Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thiên kỷ X của Viện Sử học - Đỗ Văn Ninh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tr. 388-389.  Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, dẫn lời Cổ Viêm Vũ nói: Lâm ấp sau niên hiệu Chí Đức (nửa cuối thế kỷ VIII) đời Đường vì nước ở chỗ Hoàn Châu mới đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, chỗ vua ở gọi là Chiêm Thành nên lại đổi tên nước là Chiêm Thành. Chiêm Thành bắt đầu gọi từ năm Hiển Đức đời Hậu Chu (giữa thế kỷ X),
2. Lịch sử Đông Nam á, Sđd, tr.56.
3,4,5. Toàn Thư, Sđd, t.1, tr.165, 171. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:42:31 pm
Việc khôi phục lại được nền độc lập tự chủ của cộng đồng các dân tộc Việt vào đầu thế kỷ X dường như không có tác động mấy đến Chiêm Thành. Về vấn đề này tác giả D.G.E Hall có nhận định: “lúc dầu, thay đổi đó (việc giành lại độc lập tự chủ của người Việt) có vẻ có tác động rất ít đối với Champa, trừ phi cho rằng quan hệ hữu nghị mà Jaya Indravarman I, người kế vị vua Indravarman III đã thiết lập với hoàng đế đầu tiên của nhà Tống có thể sẽ gây nên rắc rối giữa Champa và vương quốc mới (Đại Cồ Việt)” 1

Như vậy tác giả Lịch sử Đông Nam A cũng đã nhận ra mối quan hệ tay ba phức tạp giữa Trung Quốc - Đại Cồ Việt - Champa (Chiêm Thành) từ thế kỷ X. Chúng ta biết rằng trong quan hệ đó, về mặt địa lý, cả ba quốc gia đều có chung một bờ biển Đông rộng lớn, nhưng trên lục địa nước Đại Cồ Việt - Đại Việt vào thời này ở vào thế bị kẹp vào giữa.

Phía bắc Đại Cồ Việt là phong kiến Trung Hoa quản lý một đất nước rộng lớn, đông dân, mà ý đồ tái lập ách đô hộ của họ với Đại Cồ Việt chưa phải đã hết. Phía nam là Chiêm Thành tuy nhỏ bé lại luôn luôn khao khát nguồn nhân tài, vật lực phong phú trên vùng đất phù sa các dòng sông lởn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mà họ không có được.

Vào đầu thế kỷ X, dưới thời vương triều Ngô, Chiêm Thành hầu như không có quan hệ với Đại Cồ Việt. Chỉ từ vương triều Đinh mới bắt đầu có quan hệ, nhưng lại là quan hệ không mấy tốt đẹp. Đó là sự kiện Chiêm Thành theo chân Ngô Nhật Khánh vào tiến công Đại Cồ Việt.

Ngô Nhật Khánh là con cháu của Ngô Quyền, khi vương triều Ngô suy sụp, Ngô Nhật Khánh chiếm giữ Cam Lâm (Ba Vì - Hà Tây), là một trong “12 sứ quân” như sử sách ghi chép.  Sau khi thu phục được Cam Lâm, Đinh Bộ Lĩnh lấy mẹ Nhật Khánh làm hoàng hậu, lấy em gái Nhật Khánh làm vợ Nam Việt vương Đinh Liễn, lại gả công chúa cho Nhật Khánh. Tuy vậy Nhật Khánh vẫn bất bình đem vợ chạy sang Chiêm Thành. Đến cửa Nam Giới (Cửa Sót - Hà Tĩnh), Nhật Khánh rút dao ngắn xẻo má vợ kể tội “cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta (. . .) cho mày trở về, ta đi đằng khác tìm kẻ có thể cứu ta” 2.

Năm 979, khi nghe tin Đinh Bộ Lĩnh bị sát hại, Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác 3 Và Tiểu Khang 4.  Qua một đêm gặp gió bão nổi lên, thuyền đều bị lật đắm, Nhật Khánh cùng người Chiêm đều chết đuối. Chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước 5.
 
Tiếp theo sự kiện này, vào năm 982, sau khi được quân sĩ tôn lên làm vua (980) và đánh thắng giặc Tống (cuối 980 đầu 981), Lê Hoàn sai sứ giả là Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm Thành hẳn là để giao hảo, thông báo việc lên ngôi vua và đánh thắng giặc của mình. Nhưng có lẽ vì còn hận về lần tiến công Hoa Lư bị đại bại ba năm trước (năm 979), nên chúa Chiêm Bề Mi Thuế (Paramesvaravarman) đã “ngu ngốc tống giam vị sứ giả đó” 6.

Đây là một biểu thị thù địch trong quan hệ bang giao mà Đại Cồ Việt không thể bỏ qua.  Hậu quả tuyệt giao một cách thô bạo này của chúa Chiêm đã dẫn đến việc Lê Hoàn - vua nước Đại Cồ Việt - thân chinh vào năm 982 đem quân tiến đánh Chiêm Thành, tàn phá Kinh đô Indrapura, mở đầu cho việc các nhà nước quân chủ Đại Cồ Việt - Đại Việt thường tỏ thái độ quyết liệt nhằm giữ quốc thể, bảo vệ và gìn giữ biên cương phía nam. 

Trước khi điểm đến những hoạt động quân sự nhằm bảo vệ biên cương, đẩy lùi nguy cơ xâm lấn bờ cõi từ phía nam của Chiêm Thành, chúng tôi thấy cần phải tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ tay ba: Trung Hoa - Đại Việt - Chiêm Thành vào thời này.


______________________
1. D.G.E.Hall: Lịch sử Đông nam á, Sđd, tr.295
2. Toàn thư. Sđd, t.1 tr. 211.
3. Cửa Đại ác, cửa sông Đáy thời đó, vua Lý Thánh Tông đồi ra Đại An. nay có dịa danh Đại An thuộc Nam Định.
4. Còn gọi là cửa Cỡn ở Ninh Bình.
5. Toàn Thư, Sđd, t.1, tr.211.
6. D.G.E. Hall: Lịch sử Đông Nam á, Sđd, tr.296.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:46:21 pm
Chiêm Thành là một nước nhỏ, từ trước thường hay đem quân quấy phá biên giới phía nam của Đại Việt. Từ thế kỷ X, vị trí và uy thế của Đại Cồ Việt thời Đinh - Tiền Lê đến Đại Việt thời Lý đã được xác lập ngày một vững mạnh. Những chiến công phá Tống lừng lẫy vào các năm 981, 1077 khiến Chiêm Thành cũng phải kiêng nể.

Tuy nhiên, ý đồ quấy rối, chống phá Đại Cồ Việt - Đại Việt của Chiêm Thành chưa phải đã hết. Các vụ chúa Chiêm theo Ngô Nhật Khánh về đánh chiếm Hoa Lư năm 979, bắt sứ giả của Lê Hoàn vào năm 982 là bằng chứng của nửa cuối thế kỷ X.

Mặc dầu vậy, trên đại thể quan hệ bang giao hoà hiếu giữa hai nước vẫn là nét nổi bật, được thể hiện dưới hình thức giao hảo, cống nạp xảy ra khá đều đặn trong một quãng thời gian dài, đặc biệt từ sau chiến thắng giặc Tống trên sông Như Nguyệt vào năm 1077.

Biên niên sử chép về mối quan hệ này diễn ra thường xuyên. liên tục, hầu như tương đối đều đặn. Từ 1077 đến 1126 ít nhất đã có 27 lần sứ Chiêm sang Đại Việt. Trong suốt thời gian ngót nửa thế kỷ này chỉ xảy ra một vụ rắc rối vào năm 1103 mà nguyên nhân là do Lý Giác, người Diễn Châu (Nghệ An) chống lại triều đình bị Lý Thường Kiệt đánh đuổi. Lý Giác chạy sang Chiêm Thành rước người Chiêm về đòi đất sẽ điểm lại sau.

Trước và sau thời gian này, cụ thể là trước năm 1077 và sau năm 1126, không những quan hệ giao hảo xảy ra hiếm hoi, mà Chiêm Thành còn nhiều lần đem quân cướp phá, quấy rối biên giới Đại Việt. Có thể thấy các vụ xâm lấn của Chiêm Thành qua thống kê dưới đây:

- Trước 1077:

+ Năm 997, Chiêm Thành cướp nơi biên giới, vua Lê Đại Hành đem quân đánh dẹp.

+ Năm 1075, Chiêm Thành quấy rối biên giới, Thái úy Lý Thường Kiệt đem quân đánh dẹp.

- Sau 1126:

+ Năm 1132, Chiêm Thành cùng Chân Lạp vào cướp Nghệ An, Thái úy Dương Anh Nhị hội quân với Thanh Hóa, Nghệ An cùng đánh dẹp.

+ Năm 1166, Chiêm Thành dùng quân phong thủy cướp bóc vùng ven biển. Năm sau (1167), Thái úy Tô Hiến Thành đem quân đánh dẹp.

+ Năm 1177, Chiêm Thành cướp phá châu Nghệ An. 

+ Năm 1203, Chiêm Thành đem binh thuyền cướp bóc ven biển Cư La (Cửa Nhượng, Kỳ An, Hà Tĩnh). Đàm Dĩ Mông - Đỗ An đi giải quyết.

+ Năm 1216, Chiêm Thành cùng Chân Lạp vào cướp châu Nghệ An, Bá Tri châu Nghệ An Lý Bất Nhiễm đánh dẹp. 

+ Năm 1218, Chiêm Thành cùng Chân Lạp vào cướp châu Nghệ An, Bá Tri châu Nghệ An Lý Bất Nhiễm đánh dẹp.
 
+ Năm 1043, Chiêm Thành cướp bóc dân cư ven biển - năm sau (1044) vua Lý Thái Tông cầm quân đánh dẹp. 

Trong các vụ xâm lấn trên, có lần Chiêm Thành cùng kết hợp với Chân Lạp, như vào các năm 1132, 1216,1218.  Trong khi đó đối với nhà Tống, vì ngăn cách qua Đại Việt nên Chiêm Thành không có và cũng không thể tiến hành quấy phá. Trái lại, Chiêm Thành còn tìm cách tranh thủ sự ủng hộ, hoặc có thái độ liên minh với quốc gia lớn mạnh này để chống Đại Việt.

Vào những năm cuối thế kỷ X, vua Chiêm Harivarman II đã bằng quan hệ giao hảo tranh thủ được sự công nhận của nhà nước quân chủ phong kiến Tống, khôi phục được kinh đô Indrapura từng bị Lê Hoàn đánh phá vào năm 982. Ỷ vào thế dựa nhà Tống, từ năm 997, Chiêm thành thường “đem quân dòm ngó biên giới nước ta” 1. Vua Chiêm đã “phát động một loạt cuộc phản công đánh vào An Nam2 như đã trình bày.


_________________________
1. Toàn Thư, Sđd, t.I, tr.227; Cương Mục, Sđd, t.III, tr.27. 
2. D.G.E.Hall: Lịch sửầông Nam á. Sđd, tr.296.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 16 Tháng Ba, 2009, 11:53:49 pm
Quan trọng hơn, ở mối quan hệ tay ba này, trong dịp xâm lược Đại Việt vào năm 1075 nhà Tống đã có ý đồ liên minh với Chiêm Thành và Chân Lạp. Lúc đó quan Tống là Hứa Ngạn Tiên tâu xin xui Chiêm Thành, Chân Lạp đánh biên giới phía nam nước ta. Vua Tống hạ chiếu: “Chiêm Thành, Chân Lạp vốn là huyết thù của Giao Chỉ. Vậy sai Hứa Ngạn Tiên và Lưu Sư mộ dăm ba người buôn bể, đi dụ các quốc trưởng nước ấy dự vào việc đánh Giao Chỉ. Khi nào bình định xong, sẽ có thưởng” 1.

Hứa Ngạn Tiên chưa đi. Kịp khi Ung Châu bị Lý Thường Kiệt vây hạ, vua Tống lại xuống chiếu sai Lý Bột và La Xương Hao mang sắc thư, thuốc, khí dụng và lụa sang dụ Chiêm Thành, Chân Lạp đánh Đại Việt Lời chiếu viết: “Chiêm Thành, Chân Lạp từ lâu nay bị Giao Chỉ cướp. Nay vương sư sang đánh Giao Chỉ để phạt tội. Các nước ấy nên thừa cơ hội, hiệp lực mà trừ nó. Ngày nào đánh dẹp xong trẫm sẽ ban thưởng cho. Trẫm lại nghe nói rằng nhiều dân nước ấy đã bị Giao Chỉ bắt về. Trong số ấy có cựu vương Chiêm Thành, khó lòng trở về nước. Nên triệu y sang chầu trẫm sẽ gia ân cho” 2.

Thực hiện ý đồ liên minh của nhà Tống, vào năm 1075, Chiêm Thành bắt đầu đem quân đánh phá vùng biên giới phía nam Đại Việt. Nhưng kế hoạch này đã bị phát hiện, vua Lý Nhân Tông sai Thái úy Lý Thường Kiệt kịp thời thống lĩnh các quân đi đánh dẹp, họa địa đồ hình thế núi sông của ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (Quảng Bình, Quảng Trì ngày nay) vào năm 1075, mộ dân đến ở để thực hiện việc phòng giữ 3.

Trong chiến lược bảo vệ, phòng giữ biên cương phía nam, chủ yếu là đối sách với Chiêm Thành, người đứng đầu các triều đại Tiền Lê, Lý thường áp dụng biện pháp cứng rắn.  Điều này thể hiện rõ ở việc đối phó bằng vũ lực, tuỳ theo quy mô xâm lấn của Chiêm Thành mà huy động quân của triều đình hoặc quân địa phương tiến hành chinh phạt. Dưới đây, chúng ta điểm lại một vài vụ hành binh điển hình xảy ra vào các năm sau:

1. Hành binh năm 982

Trước hành động chúa Chiêm ngang ngược bắt giữ sứ giả Từ Mục và Ngô Tử Canh của triều đình Hoa Lư, vua Lê Đại Hành thân chinh đi đánh dẹp. Sử chép về sự kiện này như sau: “Trước đó vua sai Từ Mục, Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bề Mi Thuế (Paramesvaravarman) tại trận. Chiêm Thành thua to.  Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc lấy các đồ quý đem về, san phẳng thành trì, phá tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư” 4 .
 
Mặc dù sử sách chỉ chép những nét lớn, nhưng qua đó ta cũng hình dung đây là một cuộc chinh phạt có quy mô lớn cả về không gian và thời gian. Tham gia đánh dẹp gồm chủ yếu là thủy binh của triều đình được chuẩn bị chu đáo, do nhà vua đích thân chỉ huy.

Cuộc chiến không chỉ dừng lại ở biên giới Đại quân của Lê Đại Hành đã tiến đến tận kinh đô Chiêm Thành. Chúa Chiêm đã bị chết tại trận. Để tiến vào được Indrapura (thuộc Quảng Nam ngày nay), quân đội của Đại Cồ Việt hẳn đã phải vượt qua Hoành Sơn, theo hai đường thủy (biển), bộ, tiến sâu vào qua đèo Hải Vân, ngược dòng sông Thu Bồn tiến vào Đồng Dương.

Thời gian hành binh kéo dài đến một năm cho phép ta dự đoán rằng trên đường hành quân, quân của Lê Đại Hành không chỉ gặp khó khăn về địa hình, về đường tiến quân, mà còn gặp phải sức chống cự quyết liệt của người Chiêm. Tác giả sách Lịch sử Đông Nam á đã cho biết trong dịp này “Indravarman IV, người kế vị Paramesvaravarman (Bề Mi Thuế), phải đi lánh nạn ở miền nam đồng thời kêu gọi một cách vô vọng sự cầu viện của Trung Quốc” 5.

Cuộc động binh của Lê Đại Hành đã buộc Chiêm Thành phải lùi bước. Khôi phục trong một thời gian ngắn ngủi từ sau năm 982, vào năm 1000 chúa Chiêm phải từ bỏ : Indrapura, chuyển kinh đô xuống phía nam, đóng ở Vijaya (Trà Bàn - Bình Định), kết thúc vương triều Đồng Dương một thời vang bóng.


_____________________________
1,2. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 159
3 . Toàn thư, Sđd, T.1 , tr. 291.
4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 218 - 219; Cương mục, Sđd, t.III, tr.17.
5. D.G.E. Hall: Lịch sử Đông nam á, Sđd, tr.296.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 18 Tháng Ba, 2009, 12:16:35 pm
2. Hành binh vào các năm 1044 và 1069

Sử sách cho biết, bước sang triều Lý, từ khi Lý Thái Tổ lên ngôi, mối quan hệ Đại Việt - Chiêm có những biểu hiện thất thường. Theo biên mền sử, năm 1011 Chiêm Thành tiến dâng sư tử. Hơn 30 năm sau, vào năm 1043 Chiêm Thành lại tràn sang cướp bóc vùng dân cư ven biển 1.

Từ khi Lý Thái Tông lên ngôi (năm 1020), Chiêm Thành không quan hệ với Đại Việt. Trước tình hình đó, vua Lý Thái Tông hạ chiếu đóng hơn vài trăm chiến thuyền mang các tên như:Rồng, Phượng, Cá, Rắn, Hổ, Báo và Anh Vũ, chuẩn bị sang năm thân cầm quân đi đánh Chiêm Thành.

Vào tháng Giêng năm Giáp Thân (1044), nhà vua giao cho Khai Hoàng vương Nhật Tôn coi giữ kinh đô, tự cầm quân tiến về phía nam theo đường biển. Hàng vạn chiến thuyền cùng xuất phát qua cửa Đại ác (nay thuộc Nam Định), gặp gió lặng sóng yên, nhà vua đổi tên Đại ác thành Đại An.

Quân đội của vua Lý qua vùng núi Ma CÔ (thuộc hải phận Kỳ Anh - Hà Tĩnh), vụng Hà Não (vụng Chùa), cửa Trụ Nha... Đại quân vượt qua hai bãi Đại và Tiểu Trường Sa (từ cửa Nhật Lệ đến cửa Tư Hiền - nam Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên), tiến vào nam đèo Hải Vân.

Quân Chiêm đem quân và voi bày trận ở bờ nam sông Ngũ Bồ (hạ lưu sông Thu Bồn - Quảng Nam). Lý Thái Tông truyền cho quân lính bỏ thuyền lên bộ ở bờ bắc sông, chỉnh đốn quân sĩ, “dựng cờ nổi trống, sang tắt ngang sông mà đánh”. Quân Chiêm tan vỡ, chúa Chiêm là Sạ Đẩu bị chết tại trận, bắt hơn 30 thớt voi, bắt sống hơn 5000 người.

Nhà vua ra lệnh “kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha” 2. Tháng Bảy âm lịch, nhà vua đem quân vào thành Phật Thệ (Vijaya) bắt vợ chúa Chiêm và nhiều cung nữ, sai sứ đi phủ dụ các hương ấp 3.

Tháng Chín nhà vua về đến hành cung Lý Nhân rồi về kinh thành.  Từ sau năm 1044, Chiêm Thành có quan hệ với Đại Việt dưới hình thức cống nạp vào các năm 1055, 1057, 1059, 1060, 1063, 1065.

Đến năm 1068 “Chiêm Thành dâng voi trắng, sau đó đại quấy rồi biên giới Đại Việt” . Tháng Hai năm Kỷ Dậu (1069) vua Lý Thánh Tông cùng đại tướng quân Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh Chiêm Thành.

Về nguyên nhân dẫn đến cuộc chinh phạt lần này không hẳn chỉ vì Chiêm Thành không chịu cống nạp. Hoàng Xuân Hãn, tác giả sách Lý Thường Kiệt có lý khi cho rằng nguyên nhân “là sâu xa hơn, chứ không phải vì cớ trên mà thôi”. ở đây có vấn đề từ quan hệ tay ba: Đại Việt - Trung Hoa - Chiêm Thành".

Từ sau năm 1044, Chiêm Thành lén lút sang thần phục nhà Tống, tìm cách dựa vào thế Tống để đánh trả Đại Việt Điều này nằm trong ý đồ của nhà Tống muốn lôi kéo Chiêm Thành làm áp lực với Đại Việt. Theo Tống sử:

Dangpusơli Ludabanmađêpa (Yanpu Cri Rudravarmandra) vừa mới lên ngôi đã tổ chức võ bị, luyện tập binh lính. Lại sai sứ sang Tống cống phương vật và xin mua ngựa; vua Tống ban cho một con ngựa bạch và cho phép mua lừa ở Quảng Châu.

Sách Cương mục chép: “Bấy giờ Chiêm Thành khuấy rối ở biên giới, nhà vua giao cho Nguyên phi (Ỷ Lan) trông coi việc nước, tự làm tướng đi đánh”.

Về phía Đại Việt, bên cạnh quan điểm nhìn nhận nước nhỏ lân bang như một chư hầu, điều quan trọng hơn là muốn thu phục Chiêm Thành, dứt hoạ Chiêm Thành thần phục Tống, biến thành tay chân của Tống đánh phá, quấy rối biên giới chống lại Đại Việt từ phía nam.

Diễn biến lịch sử trong quan hệ tay ba thời Lý - Trần qua các cuộc xâm lược của Tống, Nguyên đã chứng minh rõ hiểm họa thường trực này đối với Đại Việt. Đó là nguyên nhân dẫn đến cuộc chinh phạt năm Kỷ Dậu (1069) do đích thân vua Lý Thánh Tông điều khiển.


_____________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.286.
2,3. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 273. Toàn thu, Sđd, t.1, tr. 286; Cương mục, Sđd, t.1, tr. 344. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 12:51:02 pm
Về cuộc hành binh lần này, Toàn thư và Cương mục chép rất sơ lược, chỉ ghi: mùa xuân, tháng Hai, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Trong trận này nhà vua đánh mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi (Ỷ Lan) giúp việc nội trị lòng dân cảm hóa hoà hợp, trong eõi vừng vàng nhà vua nói:

“Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?”, liền quay lại đánh thắng được, bắt chúa Chiêm là Chế Củ đem về. Chế Củ dâng đất ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) để xin về nước, được nhà vua ưng thuận 1. Trong khi đó sách Việt sử lược được biên soạn từ thời Trần chép kỹ về thời gian và lộ trình hành binh, tuyệt nhiên không chép việc vua Lý Thánh Tông đã có lần quay về đến châu Cư Liên.

Mùa xuân, tháng Hai, năm Kỷ Dậu, ngày Mậu Tuất (24-2-1069), Lý Thánh Tông hạ chiếu thân chinh. 

Ngày Đinh Mùi (5 - 3) thề ở Long Trì.

Ngày Canh Dần (8 - 3) xuất quân.

Ngày Đinh Tỵ (1 - 3) đến châu Nghệ An. 

Ngày Canh Thân (18 - 3) đến cửa biển Nam Giới (Cửa Sót Hà Tĩnh).

Ngày Ất Sửu (28 - 3) đánh thắng ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình) .

Ngày Kỷ Tỵ (27 - 3) qua Đại Trường Sa (Quảng Trị). 

Ngày Canh Ngọ (28 - 3) đến cửa Tư Dung (nam Thừa Thiên) .

Tháng Ba, ngày Bính Tý (3 - 4) đến cửa biển Thị Nại (Cri Bonei) (Quy Nhơn). Đại quân tiến đến bờ sông Tu Mao (Bình Định) đánh phá, chém được tướng Chiêm là bọn Bốtrìđàla. Chúa Chiêm là Chế Củ nghe tin quân bại, đang đêm đem vợ con chạy trốn. Vua Lý Thánh Tông dẫn quân  đến thành Phật Thệ (Vijaya - Bình Định), tới bến Đồng La, người Phật Thệ ra hàng.

Tháng Tư (âm lịch), Lý Thường Kiệt bắt được Chế Củ ở biên giới Chân Lạp.

Tháng Năm (âm lịch), thết đãi quần thần tại điện của vua Chiêm; rút quân về.

Tháng Sáu, ngày Kỷ Hợi (25 - 6) quân vượt biển.

Ngày Mậu Thân (4 - 7 qua cửa biển Bố Chính (bắc Quảng Bình).

Ngày Tân Dậu (17-71069) về đến bến Triều Đông (Thăng Long) 2.

________________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 286; Cương mục, Sđd, t.1, tr. 345.
2. Theo Việt sử lược, Sđd, tr. 103, 104, 105


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 12:55:33 pm
Chắt lọc, tổng hợp từ các nguồn tư liệu trên ta có thể hình dung được những nét đại thể về lần chinh phạt này như sau:

- Về thời gian: Từ khi xuất quân đến khi trở về Thăng Long gồm 4 tháng 10 ngày (từ ngày 8 - 3 đến ngày 17-7-1069).

- Không gian hành quân: Từ Thăng Long đến cực nam đất Chiêm Thành - biên giới Chân Lạp (Phan Thiết ngày nay). 

- Quân lực: trên năm vạn quân thủy - bộ 1.

- Người chỉ huy: vua Lý Thánh Tông - Lý Thường Kiệt.

- Mục tiêu: Dập tắt ý đồ quấy phá, chống đối của chúa Chiêm.

- Trận đánh lớn:

   + Cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) ngày 28-3-1069.

   + Sông Tu Mao (Bình Định) ngày 3-4-1069.

   + Giáp biên giới Chân Lạp (Phan Thiết) tháng 4-1069.

- Phương thức tác chiến: Phối hợp thủy binh và bộ binh tiến công, truy kích.

- Kết quả: Tiến công vào kinh đô truy bắt được chúa Chiêm; mở rộng đất đai thêm ba châu Địa Lý, Ma Linh. Bố Chính, đưa biên giới phía nam từ Hải Vân đến Quảng Bình ngày nay.

3. Những lần hành binh ở thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII

Hơn 30 năm sau vào các năm 1103, 1104 đời Lý Nhân Tông, sử chép vào tháng Mười âm lịch năm Quý Mùi (1103) “người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản ( . . . .  ) chiêu tập kẻ vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn” 2  . 

Nhà vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh, Lý Giác thua chạy trốn sang Chiêm Thành. Cũng vào thời gian này sử chép “Chiêm Thành cướp biên giới” 3.

Hẳn rằng vụ rắc rối ở biên giới này kéo dài từ tháng Mười âm lịch cho đến tháng Hai năm sau (Giáp Thân - 1104) khiến vua Lý Nhân Tông lại sai Lý Thường Kiệt xuất quân. Theo sử cũ, Lý Giác trốn sang đất Chiêm, nói rõ tình hình hư thực ở nước ta, vua Chiêm lúe đó là Chế Ma Na (Jaya Indravarman) lợi dụng cơ hội đem quân vào đánh phá, nhằm giành lại vùng đất mà Chế Củ đã dâng nộp để chuộc thân từ năm 1069.

Đối phó với hành động này của Chế Ma Na, Lý Thường Kiệt phải đem quân đi đánh dẹp. “Chế Ma Na lại dâng nộp đất ấy” 4. Cho đến cuối thời Lý, vào khoảng 20 năm đầu thế kỷ XIII tình hình Đại Việt không yên. Các thế lực vùng nổi dậy tranh giành quyền lực xung quanh chiếc ngai vàng ọp ẹp của vương triều Lý.

______________________
1. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 39. 
2,3,4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.298.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 12:57:10 pm
Đó là các thế lực họ Trần của Trần Lý, Trần Tự Khánh ở Hải ấp (Thái Bình), Đoàn Thượng ở Hồng Châu (Hải Dương), Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, Nguyễn Tự ở Quốc Oai (Sơn Tây)... Lợi dụng tình hình này, Chiêm Thành cùng với Chân Lạp vào cướp phá Nghệ An vào các năm 1216, 1218. Cả hai lần đều bị Lý Bất Nhiễm đem quân đi đánh dẹp. Do chiến công dẹp giặc Chiêm Thành, Chân Lạp này Lý Bất Nhiễm được thăng từ tước bá lên tước hầu, được ban thực ấp 7.500 hộ, thực phong 1500 hộ 1.
 
Tóm lại vào các thế kỷ X - đầu XIII, biên giới phía nam thường xuyên bị Chiêm Thành, có khi cả Chiêm Thành và Chân Lạp cùng đánh phá, quấy nhiễu.

Trong quan hệ tay ba: Tống - Việt - Chiêm, để đối phó với ý đồ liên minh Tống-chiêm nhằm vào Đại Việt, nhà nước quân chủ thời Tiền Lê, Lý đã phải huy động lực lượng vũ trang để đánh dẹp, ngăn chặn và đẩy lùi được nguy cơ xâm lược từ phía nam. Đã hai lần đích thân các nhà vua phải cầm quân.

Vua Lê Đại Hành tiến vào kinh đô Iudrapura (Đồng Dương) vào năm 982 và vua Lý Thánh Tông hạ kinh đô Vijaya (Trà Bàn) vào năm 1069. Biên cương phía nam của Đại Việt được bảo vệ và mở rộng thêm, đẩy lùi nguy cơ xâm lược của Chiêm Thành vào phía nam Đèo Ngang, đến Cửa Việt, sông Thạch Hãn, Quảng Trị ngày nay. 

Vào các thế kỷ X - đầu XIII, chỉ kể từ các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, đất nước ta trải qua một bướt phát triển mạnh mẽ, đồng thời cũng phải vượt qua những khó khăn, thử thách hiểm nghèo. Trong bối cảnh lịch sử vừa mới khôi phục được độc lập tự chủ, nguy cơ xâm lược nhằm tái lập ách đô hộ của ngoại bang chưa phải đã tuyệt, quân dân Đại Cồ Việt- Đại Việt phải nhanh chóng xây dựng một đất nước hùng mạnh dưới sự quản lý của một bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.

Trong khi đó, về phía đối nội, yếu tố phân tán dựa trên cơ sở các công xã nông thôn tồn tại phổ biến ở thế kỷ X - XI thường tái phát, gây nên những tổn thất, trở ngại cho công cuộc phục hưng đất nước. 

Bên cạnh nguy cơ xâm lược từ phía bắc, các nhà nước quân chủ thời này còn phải thường xuyên đồi phó với hành động quấy rối, xâm lấn từ phía nam của Chiêm Thành. 

Hiểm họa đối với nền độc lập của Tổ quốc càng trở nên trầm trọng một khi liên minh Tống-chiêm đã thực sự xuất hiện nhằm tiến công Đại Cồ Việt - Đại Việt từ hai phía. 

Trong tình hình đó, hơn lúc nào hết, lúc này một nhà nước quân chủ độc lập tự chủ mạnh phải được xây dựng trên cơ sở một lực lượng vũ trang mạnh. Hoàn toàn không phải không có lý do khi các nhà nước dưới thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý ở thời này đều ra đời từ những chiến tích dẹp loạn hoặc đánh thắng giặc ngoại xâm.

Và cũng khá rõ ràng trong các mặt hoạt động nhằm xây dựng và bảo vệ đất nước vào thời này, hoạt động quân sự luôn luôn nổi lên hàng đầu.  Không kể hai lần chiến thắng giặc Tống vào các năm 980-981, và năm 1076 -1077 không thuộc phạm vi của chương này, trong hoạt động quân sự, lực lượng vũ trang thời này không ngừng lớn mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đập tan mọi hiện tượng phân tán, cát cứ thực sự là lực lượng nòng cốt trong củng cố và xây dựng quốc gia độc lập thống nhất.


______________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 263-264.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 01:06:22 pm
Để bảo vệ nhà nước quân chủ, lực lượng vũ trang thời này đã đập tan được mọi hành động gây bạo loạn ở cung đình, chặn đứng được mọi biểu hiện ly khai qua nhiều hình thức khác nhau từng diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt vùng rừng núi, biên viễn.

Tuy nhiên, cũng có lúc do tình hình chính trị không ổn định. hiện tượng tranh giành quyền lực xảy ra vào cuối thời Đinh, thời Ngô, thời Lý đã kéo theo sự phân hóa trong lực lượng vũ trang. Nhưng tình trạng này sớm được khắc phục để kịp thời tập hợp, xây dựng một lực lượng quân đội thống nhất của nhà nước quân chủ tiếp tục làm nhiệm vụ giữ nước và dựng nước. 

Lịch sử hoạt động quân sự vào các thế kỷ X - đầu XIII đã chứng minh lực lượng vũ trang ngoài chiến tích vẻ vang trong hai lần đánh thắng giặc Tống, đã thực sự là một công cụ quan trọng số một để bảo vệ nhà nước quân chủ, tiến hành dẹp loạn và bảo vệ biên cương, đẩy lùi nguy cơ xâm lấn từ phía nan của Tổ quốc, tạo thế và lực để nhân dân ta xây dựng đất nước thành công tốt đẹp.


CHƯƠNG 4

HAI LẦN ĐÁNH THẮNG GIẶC TỐNG XÂM LƯỢC


Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta hai cuộc kháng chiến chống Tống ở thế kỷ X và thế kỷ XI có một vị trí và ý nghĩa lịch sử rất quan trọng.

Cuộc chống Tống thế kỷ X do Lê Hoàn lãnh đạo là cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc lừng lẫy nhất, quy mô nhất ở đầu thời kỳ mới khôi phục độc lập sau hơn nghìn năm chống Bắc thuộc .

Đánh giá chiến công này, sử gia Lê Văn Hưu đã viết rằng: “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ; chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên. Công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được1.  

Sau đó mấy thập kỷ, nhà Tống vẫn không quên bài học thất bại chua cay này, buộc họ trong quan hệ bang giao thường phải hoà hoãn với nước ta.

Tuy nhiên, đến các vua sau, thái độ ứng xử hoà hoãn này không còn duy trì được. Đặc biệt đến đời Tống Thần Tông (1068-1085) thì bộc lộ rõ âm mưu xâm lược nhằm tái đô hộ đất nước Đại Việt.

Do tham vọng của Tống Thần Tông và Tể tướng Vương An Thạch, cuộc chiến tranh Tống - Việt lần thứ hai, thực tế đã xảy ra những năm 1075-1077, khi nhà Tống chuẩn bị kế hoạch “nam tiến”, các căn cứ quân sự ở Quảng Tây, đặc biệt thành Ung Châu đã trở thành một nơi tập kết quân đội, tập trung vũ khí, lương thúc để đánh Đại Việt.

Trước tình hình đó, vận mệnh nước ta bị đe doạ thực sự. Lý Thường Kiệt nảt ra một ý nghĩ táo bạo, một chiến lược độc đáo. Ông nói: “Ngồi đợi giặc không bằng đem quân phá trước thế mạnh của giặc2.

Nhờ thực hiện kết quả chiến lược này mà thế lực Tống bị giảm sút từ đầu, rồi sau đó quân Tống sang xâm lược nước ta cũng không thắng nổi tinh thần kháng chiến của quân dân Đại Việt. Rút cục nhà Tống phái giảng hoà để kéo quân về nước.

Đánh giá thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai (1075-1077) này, sử gia Ngô Thì Sỹ (1726-1780) viết “Nước ta đánh với quân Trung Hoa đã nhiều lần. Lý Nam Đế, Ngô Tiên chúa, Lê Đại Hành, Trần Nhân Tông đã mở những trận thắng lợi vẻ vang thật đáng hãnh diện, nhưng đều là những trận ứng chiến khi giặc kéo vào nước nhà. Chỉ có Lý Thường Kiệt mới đường đường chính chính kéo quân đến nước người mà đánh, khi đánh không ai địch nổi, khi rút quân về không ai dám đuổi theo. Rõ ràng trận đánh Ung Liêm (cuối 1075 đầu 1076) là võ công bậc nhất, khiến cho người Trung Hoa từ đó không dám coi thường ta nữa!” 3.

Qua bình luận của sử gia Lê Văn Hưu, Ngô Thì Sỹ nêu  trên, ta cũng có thể hình dung được một cách tổng quan tính chất oanh liệt của mỗi thời và đặc điểm riêng của mỗi cuộc kháng chiến chống Tống đã diễn ra ở thế kỷ X và thế kỷ XI.

_______________________
1.  Toàn thư, Sđd, t. 1, tr. 218.
2. Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1960, tr.30.
3.  Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiêu án, kỷ Lý Nhân Tông (bản Hán).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 02:28:38 pm
I. CHIẾN THẮNG GIẶC TỐNG LẦN THỨ NHẤT (980-981)

1. Nhà Tống với âm mưu xâm lược Đại Cồ Việt

Nhà Tống ra đời năm 60 của thế kỷ X, thời kỳ đầu gọi là Bắc Tống. Vị hoàng đế đầu tiên là Triệu Khuông Dận, sau được tôn hiệu là Tống Thái Tổ, đặt niên hiệu mới là Kiến Long tính từ tháng Sáu năm Canh Thân (960), đóng đô tại đất Biện Lương (nay thuộc huyện Khai Phong tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).

Trong quá trình củng cố chính quyền, tiến tới thống nhất quốc gia, Tống sau khi lập vương triều đã lần lượt tiêu diệt các nước còn lại: Kinh Nam, Hậu Thục, Nam Hán, Nam Đường, Ngô Việt, Bắc Hán, chấm dứt cục diện cát cứ “năm đời mười nước” 1.
 
Một chính sách mới mà Tống Thái Tổ cùng Tể tướng Triệu Phổ đã khẩn cấp tiến hành là tập trung quyền quân sự, hành chính và tài chính về trung ương, hoàng đế trực tiếp nắm binh quyền. Những chính sách mà Triệu Khuông Dận và Triệu Phổ đã làm, đưa chế độ trung ương tập quyền phát triển đến cao độ.

Cuối năm Bính Tý (976 Triệu Khuông Dận mất, em là Tấn vương Triệu Quang Nghĩa lên nối ngôi anh (tức là Tống Thái Tông), mở đầu niên hiệu Thái Bình hưng quốc tính từ tháng 12 năm ấy. Lư Đa Tốn được thay Triệu Phổ làm Tể tướng, Sở Chiêu Phụ làm Khu mật sứ, cùng giúp vua diệt nốt hai nước Ngô Việt và Bắc Hán, hoàn thành công cuộc thống nhất.

Năm 976, Tống Thái Tông lên ngôi thấy Phan Mỹ đã già, liền chọn Hứa Trọng Tuyên giữ chức Lĩnh Nam đạo chuyển vận sứ thay Phan Mỹ. Hứa Trọng Tuyên có tài kiêm văn võ, có uy tín với triều đình, khi giao cho đặc quyền khu xử việc nam thùy, được phép “tiền trảm hậu tấu".

Trọng Tuyên nhậm chức, trực tiếp cai quản miền Ung Quảng. Ở Ung Châu thì Hầu Nhân Bảo được Lư Đa Tốn trao chức Tri Ung Châu từ năm 971, ở Quảng Châu thì có Lưu Hữu Tráng được nhậm chức Tri Quảng Châu từ năm 976. Ba viên quan nói trên là ba viên tham mưu đắc lực cho vua Tống trong mưu đồ xâm lược các nước phương nam 2.

Ngày Kỷ Hợi tháng Sáu năm Canh Thìn 11-8-980), Tri Ung Châu là Hầu Nhân Bảo dâng sớ về Biện Kinh tâu vua rằng: “ở Giao Châu, An Nam quận vương và con là Đinh Liễn đều bị giết, nước loạn to gần mất, có thể đem quân chiếm lấy được. Nếu lúc này không mưu tính, sợ bỏ mất cơ hội. Thần xin được về cửa khuyết để bày tỏ trước vua về việc đó3.

Tống Thái Tông tiếp được mật thư rất đỗi vui mừng, vua định sai lính trạm chạy ngựa gọi Nhân Bảo về gấp để bàn kỹ kế đánh. Nhưng Lư Đa Tốn chủ trương: “cứ để Nhân Bảo ở lại Ung Châu, chuẩn bị kỹ rồi tiến quân bất ngờ đem quân sang đánh úp, như người ta nói “sét đánh không kịp bịt tai”.  Nếu trước gọi Nhân Bảo về, mưu ấy ắt bị lộ, kẻ kia nhờ đó biết được sẽ dựa vào núi ngăn biển mà phòng bị, cái thế thắng thua chưa biết thế nào . . . Vua Tống cho là phải” 4.


________________________
1. Loạn “ngũ đại thập quốc” (năm đời mười nước) ở Trung Quốc xảy ra vào lúc nhà Đường trên con đường suy vong. 
Năm đời:     
    Hậu Lương (907-923)
    Hậu Đường (923-936)
    Hậu Tấn (936-946
    Hậu Hán (947-950)
    Hậu Chu (951-960)
Mười nước:
Tiền Thục (907-925), Hậu Thục (931-965), Ngô (892-937), Nam Đường (937-97 Ngô Việt (895-978), Mân (895-945), Sở (896-951). Kinh Nam (tức Nam Bình, 907-963), Bắc Hán (951-979) và Nam Hán (90971). 
2. Tống sử bản kỷ, quyển 254, tr. 13.
3. Tống sử liệt truyện: Hầu Nhân Bảo.
4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 212.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 02:31:04 pm
Những việc nói trên chứng tỏ vua và tể tướng Tống thường xuyên chú trọng vùng biên giới phía nam, trong đó có mục đích xâm lược Đại Cồ Việt. Về phía ta thì đến cuối thời Đinh, quan hệ Việt- Tống ngày càng thêm khó khăn, phức tạp.

Đầu năm Kỷ Mão (979), ở thành Hoa Lư xảy ra chuyện Nam Việt vương Đinh Liễn ngầm sai quân giết chết em là Thái tử Hạng Lang. Cuối năm Kỷ Mão lại xảy ra một tai biến tày đình nữa, đó là chuyện Đỗ Thích giết hai vua. Vụ biến cung đình này chứng tỏ triều đình lúc bấy giờ đã suy đốn và hậu quả nguy hại nhất là mặt đối ngoại.  Phía bắc, nhà Tống thường xuyên dòm ngó nước ta, phía nam quân Chiêm Thành cũng thường xuyên vào cướp phá vùng phía nam Đại Cồ Việt.

Họa xâm lăng đã thấy rõ trước mắt, mà vua nước ta lúc này là Đinh Toàn mới sáu tuổi, chưa gánh vác nổi việc lớn, trong triều thì một số văn thần võ tướng ngờ vực lẫn nhau, đời sống nhân dân khó khản vì thiên tai địch họa... 

Để giải quyết bế tắc này mùa Thu năm Canh Thìn (8-980) được quân sĩ ủng hộ, các triều thần phải tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, cải niên hiệu Thiên Phúc, nhờ đó mọi mâu thuẫn nội bộ triều đình được thanh toán. Song, với bên ngoài vua vẫn dè dặt thận trọng, nên Lê Hoàn cử ngay Triệu Tử Ái đi sứ sang Tống, cầu phong cho Đinh Toàn. Tống sử chép: “Ngày Quý Mão, mồng Ba tháng Chín năm Canh Thìn (14- 10-980) sứ Lê Hoàn đến Biện Kinh dâng biểu xin tập vị cho Đinh Toàn1.

Đón nhận tờ biểu của sứ thần Đại Cồ Việt, vua Tống và Tể tướng Lư Đa Tốn không được hài -lòng, vì thừa biết Lê Hoàn đã làm vua, sẽ không chịu thần phục theo ý Tống. Do đó, một mặt vua Tống không phong vương cho Đinh Toàn, một mặt sai Lơ Đa Tốn viết thơ ép buộc Lê Hoàn phải đầu hàng, nội phụ.

Trong thư (tối hậu) của Lư Đa Tốn gửi Lê Hoàn có câu:

Nay chín châu bốn biển đã yên, chỉ còn Giao Châu của ngươi ở xa cuối trời... Người định về theo ta, hay muốn chuốc lấy tội? Ta đang chỉnh bị xe ngựa, binh lính, cờ lệnh, chiêng trống... nếu ngươi quy hàng thì ta tha, nếu trái mệnh thì ta đánh. Theo hay không, lành hay dữ, ngươi tự nghĩ lấy...” 

Qua lời thư của Lư Đa Tốn càng lộ rõ ý đồ Tống quyết tâm xâm chiếm nước ta, Lê Hoàn một mặt khẩn trương tập hợp lực lượng bố phòng kháng chiến, một mặt cử Giang Cự Vọng và Vương Thiệu Tộ tiếp tục sang Tống cầu phong cho Đinh Toàn để dò xem thế lực và có thể xin hoàn binh.

Tống chuẩn bị mọi mặt để xâm lược Đại Cồ Việt

- Thiết lập Giao Châu hành doanh

Giao Châu hành doanh là Bộ Chỉ huy quân viễn chinh gồm có:

- Hầu Nhân Bảo: vốn dòng nhà tướng, tài kiêm văn võ, được trao chức Giao Châu lộ thủy lục kế độ chuyển vận sứ, tức Tổng chỉ huy toàn quân thủy bộ ở Giao Châu. 

- Tôn Toàn Hưng: đủ tài thao lược, được phong đại tướng, cùng Hầu Nhân Bảo chỉ huy Giao Châu hành doanh, đặc trách bộ binh.

- Hứa Xương Duệ: làm thông tín sứ.

- Hứa Trọng Tuyên: đặc trách lương thảo.

- Cùng một số tướng lĩnh như Lưu Trừng, Trần Khâm Tộ bổ sung sau.

____________________
1. Tống sử, bản kỷ , tờ 13 b .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 02:33:53 pm
- Điều động quân đội

Sau khi Giao Châu hành doanh được thiết lập, nhà Tống tổ chức một đội quân hùng hậu sang thôn tính Đại Cồ Việt.  Công việc tổ chức này vua Tống, Tể tướng, Khu mật viện cùng Bộ Binh tiến hành khẩn trương và bí mật, còn các tướng trong Giao Châu hành doanh chỉ việc tiếp thu quân và lo phiên chế, huấn luyện, rồi hành quân chiến đấu.

Đợt xuất quân lần đầu, Tống chủ trương điều cấm quân có sẵn ở Ung Quảng, đợt sau Lư Đa Tốn dự kiến điều một hai vạn cấm quân ở Kinh Hồ. Hai nơi đó đều có sẵn quân của triều đình, không tốn thời gian tuyển mộ, phiên chế. Vả chăng có lấy quân sẵn mới thực hiện được kế “đánh gấp như tiếng sấm, đối phương không kịp bịt tai”.

Cấm quân và sương quân ở Ung Châu thì lâu nay đã thuộc quyền cai quản của Hầu Nhân Bảo, còn cấm quân và sương quân ở hai lộ Quảng Nam thì đã sẵn trong tay Hứa Trọng Tuyên. Xét quân số thì đã sẵn, nay Tống chỉ phiên thế lại đội ngũ, tổ chức thêm các khâu hậu cần, vận chuyển, đến khoảng cuối mùa Thu năm Canh Thìn (980) thì tiến sang Giao Châu.

Đợt xuất quân lần đầu do Tổng chỉ huy Hầu Nhân Bảo và Phó tổng chỉ huy Tôn Toàn Hưng trực tiếp điều khiển hành quân.

Đợt xuất quân lần sau, cách lần đầu 70 ngày, điều khoảng hai vạn cấm quân Kinh Hồ mang sang tiếp viện, do Phó chỉ huy Giao Châu hành doanh là Hứa Trọng Tuyên cùng tướng Lưu Trừng chỉ huy quân thủy và tướng Trần Khâm Tộ chỉ huy quân bộ tổ chức, điều khiển hành quân. 

Về số lượng quân viễn chinh Tống điều sang Đại Cồ Việt bao nhiêu, sử Tống và sử ta đều không cho biết tổng số, thỉnh thoảng thấy tiết lộ tản mạn từng bộ phận. nay chỉ có thể chắp vá suy đoán.

Tống sử chỉ tiết lộ quân số qua cuộc họp bàn giữa vua và tể tướng như sau: “... Thái Tông mừng, định sai nha trạm gọi Nhân Bảo về kinh. Lư Đa Tốn can ngay rằng: nếu triệu Nhân Bảo về kinh, thì mưu ta tất bị lộ, Giao Châu dựa vào núi sông phòng thủ, chắc gì ta thắng được họ? Chẳng bằng sai Nhân Bảo sang trước đánh bất ngờ, sau đó sai tiếp các tỳ tướng mang một hai vạn quân Kinh Hồ sang tiếp viện, thì chắc chắn đánh chiếm được...” 1.

Qua đoạn sử trên, ta thấy tể tướng Lư Đa Tốn rất chú trọng số lượng cấm quân ở Kinh Hồ. Nhưng quân Kinh Hồ chỉ là lực lượng đưa sang sau để làm viện binh, vậy số tinh binh Hầu Nhân Bảo (cùng Tôn Toàn Hưng) mang sang trước là quân ở đâu? Số lượng bao nhiêu?

Suy đoán theo phương pháp kết hợp nhiều nguồn tư liệu ta thấy rằng: số tinh binh mà Hầu Nhân Bảo đem sang trước để đánh nhanh bất ngờ là lực lượng cấm quân có sẵn ở Ung Quảng, có địa giới liền với nước Đại Cồ Việt.

An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng (2: Hoạn tích) ghi: “... Hầu Nhân Bảo đem theo vạn tinh binh vào đánh Giao Châu trước . . .” .

Như vậy số lượng quân viễn chinh Tống sang xâm lược Đại Cồ Việt những năm 980-981 có khoảng ba, bốn vạn như sử liệu thời Tống, thời Minh đã ghi trên là hợp lý. 

Đợt đầu: Hầu Nhân Bảo đem khoảng vạn thủy quân.
             Tôn Toàn Hưng cũng khoảng vạn lục quân. 

Đợt sau: Tiếp viện thêm một hai vạn quân Kinh Hồ do Lưu Trừng và Trần Khâm Tộ trực tiếp chỉ huy. 

____________________
[/color]1. Tống sử, Sđd, tr. 254. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 02:40:38 pm
Cộng cả hai đợt điều quân Ung Quảng và Kinh Hồ khoảng ba, bốn vạn quân là phải. Con số này cũng khớp với những lời tiết lộ của Hứa Trọng Tuyên.

- Chiến lược hành quân của quân Tống và các tuyền đường hành quân thời cổ.

Về trách nhiệm, quyền hạn chỉ huy và đường hướng hành quân, ngày Đinh Mùi tháng Bảy năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (19-8-980 vua Thái Tông ban sắc lệnh quy định tiến quân đợt đầu như sau:

   + Trao cho Hầu Nhân Bảo chức Giao Châu lộ thủy lục kế độ chuyển vận sứ (chỉ huy cả quân thủy và quân bộ ở lộ Giao Châu). Nhân Bảo nắm vững biên sự phía nam, có nhiệm vụ cùng Tôn Toàn Hưng tiếp nhận mọi chủ trương từ Biện Kinh, rồi hoạch định kế hoạch hành quân và tác chiến cụ thể.

   + Trao cho Tôn Toàn Hưng chức Lục lộ binh mã bộ thư cùng hai tùy tướng là Trương Tuấn và Thôi Lượng chỉ huy quân bộ theo đường từ Ung Châu kéo sang Giao Châu. 

   Về ba hợp điểm trên đất Giao Châu, Tống chủ trương cho quân thủy bộ gặp nhau lần đầu tại núi Lãng Sơn 1. Đó là hợp điểm thứ nhất. Chiến thuyền Nhân Bảo từ Ô Lôi tới Lãng Sơn thì dừng lại và bộ binh Tôn Toàn Hưng cũng phải dừng lại ở một điểm trên tuyến đường bộ đất Tô Mậu (Tiên Yên) để liên lạc với Hầu Nhân Bảo ở Lãng Sơn bằng đường bộ đi tắt qua Ba Chẽ, hoặc đường sông qua núi Cương, Hải Lãng theo sông Tiên Yên.

Bảo đảm công việc thông tin liên lạc này là tướng Hứa Xương Duệ với chức vụ được vua Tống giao làm Giao Châu hành doanh thông tín sứ 2. 

Lãng Sơn trên bản đồ vùng biển Quảng Ninh ngày nay đã bị thay tên bằng đảo Hai Núi hoặc ghi cù lao Hai Núi ở toạ độ trung bình 21 o 41'  vĩ bắc, 107 o 36’ kinh đông, cách núi Cương (Cương Giáp) về phía tây một lạch nước. Núi Cương ở toạ độ 21 o 26’ vĩ bắc, 107 o 34’ kinh đông; cùng với Lãng Sơn án ngữ phía tây bắc cửa Mô cũng tức là vũng Đa Mỗ, nằm trên tuyến đường lộng của thuyền bè từ phía bắc vào trấn Vân Đồn, để vào sâu nội địa nước ta 3.

Tính theo nhật trình đường thủy thời xưa thì Hầu Nhân Bảo từ núi Ô Lôi đến núi Lãng Sơn đã mất khoảng sáu ngày (nếu gặp trời mưa ngược gió có thể chậm thêm đôi ba ngày), qua hợp điểm thứ nhất trót lọt, thì tiến vào cửa biển Bạnh Đằng. Đây là hợp điểm thứ hai, thủy quân Hầu Nhân Bảo sẽ liên lạc chặt chẽ với bộ binh Tôn Toàn Hưng tại vùng Hoa Bộ.
 
Hoa Bộ là địa điểm tập kết khá dài ngày của bộ binh Tôn Toàn Hưng, vì nó quan trọng trên trục đường bộ thông quốc, hoặc là gần tiện tuyến đường đó, để liên hệ thủy bộ chặt chẽ với sông Bạch Đằng. Xét về quy mô, phạm vi, thì Hoa Bộ cũng phải là một khu vực khá rộng lớn, mới có thể cho phép Tôn Toàn Hưng đóng hàng vạn quân bằng cách dựng lán trại đồn trú, hoặc bằng cách trưng chiếm nhà dân mà ở tạm.

An Nam chí lược của Lê Trắc và Tục tư trị thông giám của Tất Nguyên đều chép : “... Tôn Toàn Hưng đóng quân ở Hoa Bộ 70 ngày, nói để đợi Lưu Trừng đưa viện quân sang.  Nhân Bảo nhiều lần thúc giục tiến quân, nhưng Toàn Hưng vẫn không chịu tiến . . .” .


_______________________
1. Bá Sĩ Tâm: Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1996, tr. 40, 41. 
2.  Lê Trắc: An Nam chí lược, tr. 74.
3. Trần Bá Chí: Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3 1990, tr. 89.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 02:43:02 pm
Soát lại các thư tịch tin cậy thời Tống, ta thấy Hoa Bộ liền cạnh sông Bạch Đằng thuộc địa bàn huyện Thủy Đường thời xưa, tức khoảng vùng đông bắc huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) ngày nay.

Đó là địa vực mà thời nước ta phụ thuộc Hán - Đường có người Hoa sang tụ cư, mở nhiều chợ búa buôn bán. Hoa Bộ đương thời là một trung tâm đô hội vừa tiện đường sông vừa tiện tuyến đường cổ thông quốc qua Quỷ Môn Quan ở ải Bắc Cương phía nam huyện Bắc Lưu, qua Tiên Yên, Đông Triều vào thủ phủ Giao Châu được mở ra từ Đông Hán, đến Tuỳ - Đường mở rộng thêm. sang thời Tống vẫn dùng. ở khu vực này có núi U Bò, sông Bạch Đằng, chợ Giá... là những tên núi, tên sông rất đáng quan tâm.

2. Đại Cồ Việt bố phòng kháng chiến

Củng cố nội bộ triều đình, lập bộ chỉ huy chống Tống.

Những biến cố như Đinh Liễn giết em, Đỗ Thích giết vua chứng tỏ triều Đinh đã suy yếu, xã hội Đại Cồ Việt rối ren phức tạp. Mâu thuẫn trong nội bộ triều đình ngày càng gay gắt giữa một bên là Phó vương Lê Hoàn 1 và những người ủng hộ ông, với một bên là các cựu đại thần như Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp, v.v., ngờ vực Lê Hoàn mưu giành ngôi báu của họ Đinh. Đó là mâu thuẫn tập trung nhất có thể dẫn đến nguy cơ làm tan rã thế nước, tạo thời cơ cho bọn xâm lược ngoại bang thực hiện mưu đồ thôn tính Đại Cồ Việt.

Đứng trước thử thách nguy nan, ai cũng thấy một ông vua non dại mới sáu tuổi như Đinh Toàn không thể đảm đang được gánh nặng của lịch sử giao phó.  Thái hậu Dương Vân Nga (mẹ Đinh Toàn) và tướng Phạm Cự Lạng (em ruột Phạm Hạp) đã nhận thức được yêu cầu bức thiết của đất nước và biết đặt vận mệnh của dân tộc lên trên hết.

Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp sang, tâu trạng về triều. Dương Thái hậu cử Thập đạo tướng quân Lê Hoàn chọn dũng sĩ để chống giặc. Lại cử Phạm Cự Lạng người Nam Sách Giang làm đại tưởng quân. Khi đang bàn kế ra quân, Phạm Cự Lạng cùng các tướng truyền bảo ba quân rằng: “Thưởng người có công giết kẻ trái mệnh là kỷ luật hành quân. Nay Đinh chúa còn nhỏ, chúng ta dù liều chết hết sức xông trận lập được chút công thì ai biết cho; chi bằng trước khi ra trận hãy tôn quan Thập đạo lên ngôi Thiên tử”. Quân sĩ đều tỏ đồng tình, hô vang vạn tuế”. Thái hậu thấy mọi người đều tuân theo, liền lấy áo long cổn dâng lên, mời Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế” 2. 

Rõ ràng sử cũ cho thấy việc Lê Hoàn lên làm vua là hợp thời thế. thuận lòng người, được trọng thần danh tướng tiến cử lên, rồi được quân sĩ đồng thanh ủng hộ, được văn võ trong triều suy tôn. Có thể nói Lê Hoàn, Dương Vân Nga, Phạm Cự Lạng là những người có công đầu trong kháng chiến chống Tống bảo vệ Tổ quốc, vì họ đã giải quyết thành công những mâu thuẫn xung đột phức tạp trong triều, nhanh chóng ổn định nội tình dể kịp thời và khẩn trương chuẩn bị cả nước chống giặc.

Sau ngày lên ngôi, Lê Hoàn tiếp tục củng cố triều đình Hoa Lư, hình thành bộ chỉ huy kháng chiến, kén tướng luyện quân, triển khai công tác bố phòng.

__________________________
1. Theo ngọc phả đền làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm (Hà Nam) và đền xã Văn Tự, huyện Thường Tín (Hà Tây) thì cha sinh ra Lê Hoàn là Lê Hiền. quê xã Trường Yên Thượng và mẹ là Đặng Thị Khiết ở Trường Yên Hạ đều thuộc động Hoa Lư. Cha mẹ mất sớm, Lê Hoàn dược Lê Quan Sát nuôi, cho ăn học tử tế, giỏi văn giỏi võ, được Đinh Bộ Lĩnh trọng dụng. 
2. Toàn thư, Sđd , t.1, tr. 161.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 02:44:09 pm
Về bộ chỉ huy chống Tống, sử cũ chỉ nêu tên ba người là Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng, Hồng Hiến, vậy là quá ít. Vì một cuộc chiến tranh có hàng vạn quân, tất phải có hàng trăm tướng lĩnh đều chưa được sử sách đề cập. Do vậy, khai thác từ một số thần tích địa phương có thể bổ sung thêm một số tướng lĩnh chỉ huy.

Bộ chỉ huy chống Tống thời Tiền Lê:

- Tổng chỉ huy do hoàng đế triều Lê là Lê Hoàn trực tiếp đảm nhiệm.
   
- Tướng chỉ huy cao nhất là đại tướng Phạm Cự Lạng do Thái hậu tiến cử, được hoàng đế chấp nhận. Cự Lạng là em Vệ uý Phạm Hạp, quê ở Nam Sách Giang (Hải Dương). 

- Giúp mua về mưu lược là Hồng Hiến được phong Thái sư Hồng Hiến là người phương Bắc, được vua tin dùng từ đầu.
 
- Cố vấn cho nhà vua còn có một số đại sư hiểu biết rộng lớn như đại sư Ngô Chân Lưu cùng dự bàn mưu kế.

- Các tướng tham gia kháng chiến: Phần này chính sử không chép, chủ yếu dựa vào thần tích và sách địa chí các địa phương lược kê một số tướng chỉ huy các cánh quân hay tham gia các trận đánh.

1. Phò mã Lữ Lang: tướng chỉ huy đạo quân Uy Dũng từ Hoa Lư đến đóng quân ở huyện Hưng Nhân (Thái Bình) bảo vệ tuyến bờ bắc sông Lục Giang.

2. Trần Công Tích: Người trang Đồng Lục Khoái Châu, kéo quân từ Hoa Lư đến đóng đồn ở Nghĩa Đô thành Đại La, có chiến công ở trận Đồ Lỗ.

3. Phùng Phường: được vua phong Bộ đô đại tướng quân chỉ huy bộ binh lập được nhiều chiến công. 

4. Hoàng tử Lê Long Kính: là hoàng tử thứ chín, con bà hoàng phi đất Mạt Liên, được vua phong Trung Quốc vương.  Khi quân Tống kéo sang, hoàng tử thống lĩnh hương binh đóng đồn dọc bờ bắc sông Hải Triều (sông Luộc) ngăn chặn quân Tống.

5. Đào Trực: được vua phong làm tướng, đem đạo quân riêng dự đánh trận Tây Kết.

6. Hoàng Vĩnh Chu: quê Ái Châu (Lôi Dương, Thanh Hóa) theo đại tướng Phạm Cự Lạng đánh thắng nhiều trận. 

7. Đào Công Mỹ: quê ở trang Đông Hưng, xã Dịch Sứ (tổng Phá Lãng) huyện Thiện Tài, Bắc Ninh. Lê Hoàn trao chức Đô dịch sứ thường mang thông điệp của vua sang hành doanh quân Tống. Sau giúp Lê Hoàn làm kế trá hàng thành công, được vua gia chức thượng tướng.

8. Phạm Quảng: quê ở trang Hoa Chương, huyện Thủy Đường (nay là xã Mỹ Đồng, huyện Thuỷ Nguyên) người có trí lực, trước giúp vua Đinh làm tướng sau giúp vua Lê. ông theo xa giá vua Lê đánh giặc, được phong làm tướng. Vua sai ông đem quân đóng dọc thượng lưu sông Cấm để phá giặc ở Bạch Đằng Hoa Bộ.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 26 Tháng Tư, 2009, 02:46:46 pm
9. Bốn tướng ở Xạ Sơn: gồm bốn trai giỏi là Đào Thành, Phạm Minh, Nguyễn Triết và Vũ Uy ở trang Xạ Sơn huyện Giáp Sơn (nay là xã Quang Trung, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương). Bốn người xin tòng quân, vua thử tài đẵn gỗ tre bắc cầu qua sông Kinh Thầy để hành quân, ba ngày bắc xong cầu, được vua cho làm tướng.

10. Đặng Xuân và bốn em: Đặng Xuân cùng bốn em trai ở trang Đốc Kính, huyện Bình Hà, lộ Hải Vương (sau thuộc tổng Cẩm Khê, huyện Tiên Minh, nay là huyện Tiên Lãng, Hải Phòng). Mấy anh em đều được vua phong làm tướng, coi quân ở Bàng Châu và các bờ sông Ngãi Am, Tranh Giang và Văn ục, đã đánh thắng quân Quách Tiến ở Bàng Châu. 

11 . Các tướng họ Vương: Vương Minh, Vương Xuân, Vương Hồng cùng hai em gái quê ở trang Dược Đậu thuộc Bàng Châu, xin đầu quân đi đánh Tống, danh thắng trận. 

12. Dũng mãnh tướng quân: là tướng quản đội Tuỳ Long, hộ vệ xa giá Lê Hoàn, có công dự nhiều trận 1.  

Lập các hệ thống phòng thủ bảo vệ kinh đô Hoa Lư.

Ở thời Đinh - Lê, quốc đô Hoa Lư là một trung tâm chính trị có vị trí chiến lược quan trọng nhất. Trong kháng chiến chống Tống, Hoa Lư còn là đầu não của bộ chỉ huy chiến tranh, vì vậy, quân viễn chinh Tống nhằm mục tiêu chính là phải chiếm kỳ được vị trí này.

Muốn đánh chiếm thành Hoa Lư, tất nhiên thủy quân Tống phải từ biển đi vào bằng  tuyến sông Luộc, sông Hồng, sông Đáy, sông Vân và bộ binh từ Ung Châu sang, tất phải theo đường cổ thông quốc ven biển qua châu Tô Mậu (Tiên Yên, Đông Triều), Trúc Động (liền Hoa Bộ), qua Chí Linh (Hồng Châu), Phá Lãng (Thiện Tài), xuống Tây Kết - Hàm Tử, rồi vượt Chương Dương độ (đò ngang) . . . Đó là đường bộ cổ nhất qua Giao Chỉ, Cửu Chân có từ thời Mã Viện, Lưu Phương sai quân dân khai tạo ra. Đến thế kỷ X còn được sử dụng.

Tính trước được các hướng tiến quân xâm lược của đối phương: Lê Hoàn cùng bộ chỉ huy đã hoạch định địa bàn chiến lược, tiến hành phòng thủ dựa theo dịa hình đất nước có thể chia thành ba tuyến như sau:

- Tuyến phòng thủ gần: gồm hệ thống doanh đồn trong thành và ngoài thành Hoa Lư, để bảo vệ thủ đô. 

- Tuyến phòng thủ giữa: gồm thành Bình Lỗ và các đồn bảo vệ Đại La - Loa Thành.

- Tuyến phòng thủ xa: gồm một số đồn từ sông Kinh Thầy (Xạ Sơn) Bạch Đằng đến biên giới Việt - Tống và từ cửa biển Thần Đầu vào đồn Công Trạng vào đến biên giới Việt-Chiêm.2

Việc đặt các doanh đồn cũng như đắp thành Bình Lỗ là căn cứ tình hình địa lý đương thời, trước hết theo đường hành quân.

Các tuyến đường bộ hướng về Hoa Lư:

-Đường Tiên Yết là đoạn từ cổng thính cửa Đông thành Hoa Lư. hướng đông đến động Thiên Tôn (có lối hướng lên cửa Gián).

- Đường Cổ Lễ tính từ cửa Bắc thành ngoại qua cầu  Hoàng Long, núi Cắm tươm, đến xã Đại Hoàng (còn gọi Đại Hữu). Đến đây đường bộ chia nhiều tuyến: tuyến hướng nam bắc, tuyến hướng đông tây

_____________________
1. Xem thêm Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992.
2. Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiên chống Tống lần thứ nhất.  Sđd, tr. 107-110.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Tư, 2009, 01:08:50 pm
- Tuyến đường bộ hướng nam bắc:

Là đường bộ từ xã Đại Hoàng rẽ về đông bắc, qua Tri Hối, Cầu Đài (xã Gia Tập), vòng sang phía đông núi Miếu, rồi hướng tới khoảng đò Đoan Vĩ ngày nay. Phía bên kia đò đã là đất tổng Mai Cầu, huyện Thanh Liêm. Từ đò Đoan Vĩ xưa có đường bộ qua huyện Thanh Liêm, Nam Xang, vượt sông Kinh (nay gọi là sông Châu), đến đất Kim Bảng, vào Đỗ Động Giang. rồi hướng phía Sơn Tây để vượt Nhị Hà. sang vùng Vĩnh Tường Bạch Hạc... Một ngả là tuyến đường hướng đông bắc, vào thành Đại La, rồi vượt sông Nhị đi đến Loa Thành. Đây là tuyến đường mà năm 965 Đinh Liễn thoát khỏi Cổ Loa trở về Hoa Lư.
   
- Tuyến đường bộ xuyên đông tây:

Giữa tuyến đường hướng nam bắc, ở khoảng đất huyện Sơn Minh (phủ Ứng Thiên) có tuyến đường vắt ngang, nế đi vòng vèo theo hướng tây thì tới được Ái Châu, nếu rẽ quặt sang phía đông, rồi chếch dần hướng đông bắc, thì có thể tới được Nam Sách, Đông Triều, Tiên Yên, sát biên giới Việt-Tống. Từ khoảng đất huyện Sơn Minh đường rẽ hướng đường qua các làng Nghiêm Xá, Ba Lăng. Liền cạnh Ba Lăng là đất hương Chương Lương.,nơi nương náu buổi đầu của cha con Dương Đình Nghệ khi từ châu Ái mới ra Bắc theo giúp họ Khúc.

Rời bến Chương Dương hướng sang đông vòng qua bãi Tự nhiên cặp bến Hàrn Tử.

Sang bờ đông, đường bộ đi qua đất Hàm Tử. Tây Kết, chếch hướng đông bắc đi sang Đại Bi, Kim Tháp huyện Siêu Loại (nay là Văn Lâm). Đứng ở Kim Tháp đã thấy rõ được vết thành Luy Lâu thời Sỹ Nhiếp (đối chiếu Cao Bền địa cảo). Từ Kim Tháp, đường tiếp lên Đông Hương, Phá Lãng đất Thiện Tài (bộ binh Lê Hoàn có đồn trú tại đây) . Từ đây đường bộ lại vượt sông Lâu Khê (nay là thượng lưu sông Thái Bình) qua đất Nam Sách, qua các làng Lai Khê, Quỳnh Khê, An Lưu, vượt dòng Việt Khê, sang Thiểm Khê, Quỳ Khê. Đi hết đất hương Trúc Động (phía tây Hoa Bộ), thì vượt thượng nguồn sông Đá Bạc để sang vùng chợ Tiên, chợ Bí của châu Đông Triều cổ.

Dọc tuyến đường cổ này, dưới thời thuộc Hán, thuộc Đường đến thời chống Tống, dân tộc ta lập nên bao kỳ tích anh hùng. Từ năm Canh Thân (1020), Lý Công Uẩn mở đại lộ thông quốc đến Thăng Long, có đường sứ lộ mới qua ải Nam Quan, ải Chi Lăng, phủ Lạng Thương, Cần Trạm, bến Thị Cầu trạm Gia Quất... thì tuyến đường cổ này ngày càng mất tác dụng. Tuy vậy, đến thời chống Minh, quân ta có lúc cũng còn dùng đôi đoạn của đường này, nhất là đoạn qua Hàm Tử - Chương Dương.

Đắp thành Bình Lỗ phá kế quân Tống

Sự kiện này căn cứ lời Trần Hưng Đạo tâu với vua Trần năm 1300 rằng: “thời Đinh Lê biết dùng người giòi nên nước ta trở nên mạnh, quân Bắc phải suy yếu; trên dưới cùng một chí, lòng dân không lìa tan. Lại biết đắp thành Bình Lỗ mà phá được giặc Tống, ấy là hiệu quả một thời...”. Lời di chúc đó đã chỉ ra ba nhân tố quyết định thắng Tống lần thứ nhất:

- Có đường lối chiến lược đúng: làm cho ta mạnh, địch.

- Đoàn kết được cả nước: tạo nên sức mạnh tổng hợp để thắng;

- Biết cách bố phòng mà thắng: trong đó có tác dụng của thành Bình Lỗ. 

Vậy thì thành Bình Lỗ ở đâu?

Theo các dấu tích, thì thành Bình Lỗ phải nằm trên trục đường chiến lược quan trọng đi vào Hoa Lư, vì Hoa Lư là mục tiêu tiên công số một đối với âm mưu xâm lược của quân Tống. Hiện nay dọc các hệ thống sông có hướng vào Hoa Lư nằm trên đất tỉnh Hà Nam và một phần tỉnh Thái Bình.  Hưng Yên còn có nhiều địa danh có tín hiệu biến thiên từ địa danh Bình Lỗ.

Một điểm nữa cũng quan trọng cần tìm hiểu, đó là khái niệm thành mà Trần Hưng Đạo nói đây là thành như thế nào? Về kiểu dáng, có nhiều kiểu thành thời xưa. Ở đây có hẳn là kiểu thành tuyến dài, hoặc gọi là lũy cũng thích hợp.  Dựng kiểu thành này cũng do yêu cầu về quân sự, mang nặng tính phòng ngự và có thể dùng làm cơ sở xuất phát để tiến công khi có điều kiện. Kiểu thành này như thành tuyến Đa Bang chống Minh của Hồ Quý Ly kéo dài từ ngã ba Hạc, qua làng Cổ Pháp huyện Tiên Phong xuống đến ngã ba Vàng; thành Mạc từ Sơn Động qua ải Chi Lăng lên đến Lạng Sơn; ở Trung Quốc có Vạn lý trưởng thành dài 2.300 km. 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Tư, 2009, 01:10:46 pm
Thành Bình Lỗ chống Tống thời Tiền Lê là chiến lũy theo kiểu thành tuyến dài này kết hợp với chủ trương đóng cọc ngăn sông của Lê Hoàn. Thành này tương ứng với đoạn. sông Hồng ngày nay từ phía bắc ngã ba Lềnh xuống đến phía nam ngã ba Vàng. Đoạn sông Hồng này bên hữu ngạn đi qua địa phận huyện Nam Xang, nay là huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam; bên tả ngạn đi qua một phần đất huyện Kim Động, qua huyện Tiên Lữ, qua cửa Hải Triều (tức cửa sông Luộc), qua huyện Hưng Nhân, Duyên Hà (thuộc tỉnh Thái Bình), đến xã Phạm Nỗ qua cửa Trà Lý, rồi qua đất huyện Thư Trì, xuống đến phía nam ngã ba Vàng.

Thành Bình Lỗ với một phạm vi giới hạn như vậy, đã đủ chặn hết các cửa sông quan trọng của các tuyến sông vào Hoa Lư. Cụ thể đã chặn được cửa phụ lưu Nhị Hà ở ngã ba Lềnh và ngã ba Vàng, chặn được cửa sông Hải Triều (thượng lưu của Lục Giang) và cửa sông Trà Lý 1. 
 
Hệ thống đồn trại bảo vệ khu Đại La - Loa Thành.

Sau Hoa Lư, khu Đại La - Loa Thành là một địa bàn chiến lược quan trọng số hai vì đây là trung tâm Giao Châu trải hàng chục thế kỷ, có nguồn nhân tài, vật lực phong phú, có vị trí chiến lược trọng yếu.

Quân Tống thời ấy trội hơn ta về thuyền thường chuyển quân vận lương cũng dùng thuyền là chính. cho nên khi sang nước ta, muốn chiếm đóng khu Đại La - Loa Thành, tất chúng phải đi vào bằng tuyến sông Hồng hoặc tuyến sông Bạch Đằng - Kinh Thầy- sông Đuống...

Trong hai tuyến sông nói trên, tài liệu đến nay thu thập được mới thấy rõ được một tuyến có sự bố phòng chống Tống của Lê Hoàn. Đó là hệ thống đồn trại chặn quân Tống vào theo tuyến sông Kinh Thầy-sông Đuống.

Hệ thống phòng thủ này. Lê Hoàn thiết lập ba cụm đồn:

- Đồn Nghĩa Đô: đồng thời là Sở chỉ huy của tuyến này.

- Trại Xuyên Bảo: chốt của sông Đống vào Nhị Hà.
   
- Trại Phù Lan: phòng thủ vùng sông Lục Đầu.

Chỉ huy hệ thống phòng thủ này là tướng Trần Công Tích với quân doanh tại đồn Nghĩa Đô và hai kho lương thực chính là kho Nghĩa Đô và kho Hoa Xá ở làng Tó (Tả Thanh Oai).

Bố trí lực lượng phòng thủ tuyến xa

Tuyến xa ở đây giới hạn phía bắc khoảng từ lưu vực sông Kinh Thầy - Bạch Đằng đến biên giới Việt - Tống, giới hạn phía nam khoảng từ cửa biển Thần Đầu vào tới biên giới Việt - Chiêm. Lê Hoàn quan tâm phòng thủ cả hai phía, vì bấy giờ Tống và Chiêm liên kết với nhau xâm lược Đại Cồ Việt.  Đối với tuyến xa thì bố phòng ở Bạch Đằng - Hoa Bộ là quan trọng.

Theo tài liệu địa lý lịch sử của ta và Trung Quốc, nhất là sử liệu thời Tống, Bạch Đằng và Hoa Bộ là hai vị trí gần nhau. Hoa Bộ là căn cứ bộ binh gắn liền với tuyến đường bộ thông quốc qua Tiên Yên, Đông Triều đến thành Luy Lâu, rồi đến Tây Kết, Chương Dương đồng thời nó gần sông Bạch Đằng để kết hợp thủy bộ trong quá trình hành quân, xâm lược của Tống.

__________________________
1. Xem thêm Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chông Tống lần thứ nhất, Sđd, tr. 117-120.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Tư, 2009, 01:12:55 pm
Về lực lượng chiến đấu ở Bạch Đằng - Hoa Bộ sử không chép rõ. Về cách bố phòng thì Cương mục có đoạn chép sơ lược như sau:

Nhà vua (Lê Hoàn) tự làm tướng ra kháng chiến, sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch...” 1.  Như vậy, trong những ngày quân Tống chưa sang, Lê Hoàn đã mang quân đến sông Bạch Đằng đóng cọc sông, bố phòng kháng chiến. Còn cách đóng cọc như thế nào Cương mục không chép và chỉ có thể suy đoán rằng: Lê Hoàn đã rút kinh nghiệm thời Ngô Quyền phá quân Nam Hán.

3. Các trận đánh lớn

Trận đánh thủy quân Hầu Nhân Bảo mới tới Bạch Đằng (ngày 24-1-981)

Theo kế hoạch hành quân của nhà Tống thì Bạch Đằng là hợp điểm thứ hai, nơi tập kết quân thủy bộ, để rồi từ đó chia quân tiến sâu vào kinh đô Hoa Lư. Nhưng trong quá trình tiến quân, tất nhiên quân thủy của Hầu Nhân Bảo sẽ đến Bạch Đằng sớm hơn bộ binh của Tôn Toàn Hưng, vì tốc độ hành quân bằng thuyền lúc bấy giờ thường nhanh hơn tốc độ hành quân của bộ binh.

Nhận rõ vị trí quan trọng của sông Bạch Đằng, Lê Hoàn tổ chức phòng thủ ở đây và theo kinh nghiệm của Ngô Quyền ra lệnh cho quân thấy giặc đến thì đánh ngay, vì rằng :

- Thủy quân Tống đi lâu mỏi mệt, quân ta lâu nay giừ sức chờ giặc, lấy quân còn sức đánh quân mỏi mệt là điều làm được. Đó là điều mà binh pháp nói: dĩ dật đãi lao.

- Thủy quân Hầu Nhân Bảo đến còn chờ bộ binh, tức là lúc thế còn cô lực còn đơn.
   
- Giặc vào cướp nước ta, phải đánh chặn ngay, dẫu chưa thắng về lực cũng đã thắng về uy.

Nghiên cứu các trận đánh thủy quân Hầu Nhân Bảo ở sông Bạch Đằng tháng Chạp năm Canh Thìn, nhiều vấn đề phức tạp cần được làm sáng tỏ. Đó là những vấn đề :

a) Tình hình sử liệu về trận Bạch Đằng tháng Chạp năm Canh Thìn.

Sách Tống sử (Giao Chỉ truyện) có đoạn chép: “Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (980) mùa Đông... quan quân tiến đánh, phá được giặc”.

Sách Tống sử, bản kỷ 4 chép: “Năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (980) tháng 12 ngày Ất Dậu (24- 1- 981) Giao Châu hành doanh đánh nhau với giặc, đại phá được quân giặc”.

Các sách Tục tư trị thông giám trường biên, Đông Đô sử lược cũng chép như Tống sử bản kỷ.

________________________
1. Cương mục,Sđd, t. 1, tr.251.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 27 Tháng Tư, 2009, 01:14:15 pm
Sách An Nam chí lược (4. mục Chinh thảo triều trước) chép rằng: “năm thứ năm hiệu Thái Bình Hưng Quốc, đời Tống Thái Tông. . . Vua lấy Hứa Xương Duệ giữ chức giao Châu hành doanh thông tín sứ. . . Bọn Tôn Toàn Hưng đến từ biệt, vua sai Dẫn tiến sứ là Lương Hồi trần thiết, trang hoàng ở vườn hoa Ngọc Tân để vua ra tiễn. Mùa Thu năm ấy tiến quân đánh. Mùa Đông tháng Chạp đánh nhiều trận phá được hàng vạn quân Giao Chỉ. Sang xuân năm sau lại cũng phá giặc ở sông Bạch Đằng”.

Sách Việt sử thông giám cương mục chép: “Tháng 10 mùa Đông sai sứ sang nhà Tống. . . Giang Cự Vọng và Vương Thiệu Tộ dâng thư, nói trá là tờ biểu của Đinh Toàn xin nối ngôi cha, cầu được ban chân mệnh. Làm vậy chỉ cốt hoà hoãn tình thế. Bấy giờ Tống đã cất quân, nên vua Tống không ưng thuận... Nhà vua tự làm tướng ra kháng chiến, sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch.  Quan quân Tống đông lắm, quan quân ta đánh bất lợi”. 

Theo sử sách, thần tích và theo diễn biến thực tế, thì trong trận Bạch Đằng xảy ra vào tháng Chạp năm Canh Thìn, quan quân ta bất lợi, thủy quân Hầu Nhân Bảo chiếm được sông Bạch Đằng, lấn chiếm các làng mạc chung quanh, lại đặt Giao Châu hành doanh tại đó. . 

b) Vấn đề trận đia cọc.

Sự kiện đóng cọc chống Tống ở sông Bạch Đằng là nối tiếp kinh nghiệm truyền thống thời Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, nhưng điều kiện kháng chiến và tương quan lực lượng thời Lê Hoàn có khác. Tìm hiểu chính sử thì các bộ sử thời Lê về trước chỉ chép chung chung, không ghi địa điểm cụ thể; chỉ riêng sách Việt sử thông giám cương mục thời Nguyễn thì phép như sau:

Nhà vua tự làm tướng ra kháng chiến, sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch. Quan quân Tống đông lắm, quan quân ta đánh bất lợi...”.

Vậy thì việc đóng cọc ở sông bạch Đằng của Lê Hoàn có thể chỉ có tác dụng gây cản trở, khó khăn phần nào cho quân Tống, chứ không đủ tác dụng chặn đứng quân địch và góp phần tạo nên thắng lợi của trận quyết định như trận địa cọc thời Ngô Quyền và thời Trần Hưng Đạo. 

c) Kết quả và ý nghĩa trận đánh thủy quân Hầu Nhân Bảo ngày 24-1-981.

Tư liệu không cho phép phục dựng lại trận Bạch Đằng đánh quân thủy Hầu Nhân Bảo. Sử Tống có phần khuếch đại trận đánh này. Tuy vậy. theo cách bài binh bố trận của Lê Hoàn và diễn biến cuộc kháng chiến sau đó, thì đây không phải là trận quyết chiến. Đây chỉ là trận đụng độ đầu tiên mà quân ta chỉ nhằm gây khó khán, cản trở cho địch và qua đó, thăm dò sở trường sở đoản của địch. 

Tóm lại theo sử liệu đương đại, trận Bạch Đằng ngày 24-1-981 là trận mở màn cuộc chống Tống lần thứ nhất của dân tộc ta. Những bất lợi buồi đầu trở thành những kinh nghiệm quý báu của quân ta, để về sau tạo nên những trận thắng lớn.

Trận đánh quân Tống ở Hoa Bộ - Bạch Đằng (30-1-981)

Ngày 24-1-981, thủy quân Hầu Nhân Bảo vào sông Bạch Đằng. nhưng bộ binh Tôn Toàn Hưng đến Hoa Bộ muộn hơn, tức vào ngày 22 tháng 12 năm Canh Thìn (30-l-981). Có lẽ bộ binh phải đóng vùng Hoa Bộ và Trúc Động, các làng xã phần bắc huyện Thủy Đường.

Về phía quân ta tuy có tổn thương, mất mát trong trận đánh thủy quân Hầu Nhân Bao ngày 24-1-981, nhưng vẫn quyết tâm phá giặc bảo vệ non sông đất nước.

Việc chặn đạo quân bộ của Tôn Toàn Hưng, có lẽ không chỉ đợi chúng tập kết đến Hoa Bộ ta mới đánh, mà chắc rằng trong quá trình chúng hành quân trên đất nước ta cũng có lúc có nơi, chúng bị quân ta chặn đánh bằng nhiều hình thức, nhưng do lâu ngày không còn sử sách tài liệu phản ánh, nay ta chỉ biết được có trận ngày 30-1-981 mà thôi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:24:29 pm
Sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào chép: Thái Bình Hưng Quốc năm thứ năm tháng 12 ngày Tân Mão (30- 1-981) Giao Châu hành doanh phá được hơn vạn quân Giao Chỉ, chém được 2.345 đầu giặc.

- Các sách: Tống sử, Giao Chỉ truyện, Tống Lý bang giao tạp lục. An Nam chí lược, Văn hiến thông khảo đều chép tương tự.

- Thần tích đình Thường Sơn huyện Thủy Đường, nay thuộc huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng cho biết đồn Thường Sơn cũng là hành doanh của Lê Hoàn (hay gọi Hổ trướng) gần núi Đèo về phía đông ở toạ độ trung bình: 20o54’ vĩ bắc, 106o,41’ kinh đông.

Về cách bài binh bố trận, theo các thần tích liên quan thì bấy giờ hành doanh (sở chỉ huy) của Lê Hoàn đặt ở vùng đồi gần chợ Phướn thuộc trang Thường Sơn huyện Thủy Đường.  Các thần tích cũng phản ánh: “Buổi đầu tướng sĩ ta đánh bất lợi”, nhưng quân dân, tướng sĩ trên dưới một lòng, vui vẻ theo vua hếu chết đánh giặc.

Như vậy trong các trận Bạch Đằng - Hoa Bộ buổi đầu, ta bị bất lợi: bị tổn thất, nhưng kết quả là quân dân ta đã chặn và hãm chúng lại trong vùng Bạch Đằng - Hoa Bộ, không cho chúng thực hiện chiến lược tốc chiến tốc thắng.

Trận Đồ Lỗ cuối năm Canh Thìn (7-2-981)

Trận Đồ Lỗ xảy ra vào ngày 30 tháng Chạp, ngày cuối của năm Canh Thìn (7-2-981). Đó có thể cũng là một sự lựa chọn nham hiểm của Hầu Nhân Bảo. Trận này được sử liệu nước ta ghi chép khá nhiều, nhưng sử sách Tống lại không hề ghi chép. Có thể do trận này phía quân Tống không thắng chăng?

Tên sông Đồ Lỗ chỉ sự tích thắng Tống ở sông Lục Đầu và trại Phù Lan đã được ghi trong Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam ngữ lục, Trương tôn thần sự tích và Thần tích thánh Tam Giang ở các xã Vân Mẫu, Phương Cầu, Vĩnh Thế, Hữu Bằng thuộc huyện Võ Giàng; xã An Trạch, Đồng Sài, Phù Lương, An Định, Vệ Xá thuộc huyện Quế Dương và rải rác ở một số tài liệu khác.

Ngày xảy ra trận Đồ Lỗ .

Trận Đồ Lỗ xảy ra ngày nào, các tài liệu chép không giống nhau. Lĩnh Nam chích quái chép trận này xảy ra vào ngày 30 tháng 10 năm Canh Thìn; Trương Tôn thần tích, in bản gỗ, cuối đề tên Mai Du Lân, do Nguyễn Thị Gán xuất bản năm 1929 ghi trận này xảy ra ngày 23 tháng 10; thần tích đền Vân Mẫu ghi xảy ra vào tháng 12 năm đầu hiệu Thiên Phúc . . .

Hệ thống và đối chiếu các văn bản trên thì ngày 30 là hợp lý. Về tháng 12 thì hợp lý hơn tháng 10, vì tháng 10 các tướng chỉ huy của Tống đang trên đường từ Biện Kinh xuống Ung Châu, chưa sang đất nước ta.

Vậy trận Đồ Lỗ xảy vào ngày 30 tháng Chạp năm Canh Thìn, tức ngày 7-2-981. Do phía quân Tống sau mấy trận giao chiến với quân ta, nhất là những trận lớn ở Bạch Đằng (24-l-981) và ở Hoa Bộ ngày Tân Mão tháng Chạp (30-1-981), có đà thuận lợi để tập trung quân đánh chiếm Hoa Lư.

Nhưng rồi chúng lại chưa đánh vào Lục Giang và Hoa Lư, mà phối hợp thủy bộ theo sông Kinh Thầy, tiến vào sông Lục Đầu. Như vậy bây giờ Giao Châu hành doanh đã đổi chiến lược một cách cơ động, nghĩa là đánh chiếm Đại La trước, rồi lấy đó làm bàn đạp đánh xuống Hoa Lư. 

Về phía ta, sau mấy trận đầu ở Bạch Đằng - Hoa Bộ, Lê Hoàn chuyển các đồn binh đóng xa vùng Bạch Đằng một quãng. Khi biết được ý đồ quân Tống sắp tiến quân theo sông Kinh Thầy, Lê Hoàn rút phần lớn lực lượng về giũ vùng sông Lục Đầu, chuẩn bị điều kiện đối phó quân Tống. 

Hệ thống đường thủy từ sông Lục Đầu vào thành Đại La, từ trước đã đặt ba đồn trại dọc sông Diên Uẩn (tức sông Đống) do tướng Trần Công Tích chỉ huy. Đó là trại Phù Lan liền bờ sông Lục Đầu, trại Xuyên Bảo chặn giặc từ cửa sông Già La (Thiên Phù) đến cửa sông Diên Uẩn, đồn Nghĩa Đô cũng là đại bản doanh của Trần Công Tích.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:25:46 pm
Đến đây vua xuống chiếu điều thêm lực lượng dân binh các vùng Long Đỗ, Từ Liềm, Cổ Pháp, Vũ Ninh, Quế Dương, Thiện Tài, v.v., bố trí lực lượng dọc các sông để chống giặc. 

Lê Hoàn cùng tướng Trần Công Tích và các tướng Trần Bảo Trung, Trần Minh thiết, v.v., khẩn trương chuẩn bị mở trận Đồ Lỗ vào những ngày cuối năm, ngày mà quân địch tưởng dân ta bận lo việc Tết mà sao nhãng việc binh...

Tục truyền vua nói với quân : “Tết nay ta trừ tà ở sông Đồ Lỗ”.  Vua lại kể chuyện cho quân sĩ nghe rằng : “Một hôm ngự ở doanh trại Xuyên Bảo, việc quân mệt mỏi ngủ thiếp đi, chiêm bao thấy một nữ thần có vết chén ngọc trên trán, hứa sẽ giúp quân ta Tết này phá được quân Tống”.

Truyền thuyết ven hồ Tây (1975) cũng ghi rằng : “Đến thời Lê Hoàn, trước khi tiến quân đánh Tống. . . vua ngự thuyền qua trang Xuyên Bảo dừng ở doanh trại gần mộ Bà Chén, bỗng nằm mộng thấy một người con gái đến xin vua cho theo giúp phá giặc.  Đánh thắng quân Tống rồi, vua Lê bèn phong cho nữ thần là Y Hạnh phu nhân và lệnh cho dân làng dựng đền thờ phụng . . . “ .

Diễn biến và kết quả của trận đánh

Lực lượng quân ta đánh dọc tuyến sông từ thành Đại La đến trại Phù Lan gồm quân thường trực từ Hoa Lư được điều về đây, nhiều đội quân địa phương tự nguyện xin về tham chiến, hăng hái lên đường vào giữa mùa Tết. 

Về phía Tống, thủy quân Tống dàn chiếm sông Lục Đầu, bộ binh cũng được vận chuyển bằng thuyền, đến nơi thì đổ bộ lên bờ chiếm đóng các làng mạc quanh sông. Nếu không gặp sự đánh chặn của quân ta, thì phần lớn quân Tống sẽ chiếm đóng đất Đại La là mục đích chính. Đây chỉ là một điểm tập kết của quân Tống.

Về tiến trình của trận đánh, sách Lĩnh Nam chích quái cho biết : “bọn tướng Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng kéo quân đến, Lê Hoàn và Phạm Cự Lạng cùng họp quân tại sông Đồ Lỗ chống cự, hai bên đối luỹ . . .” . 

Theo các sách và các thần tích thì ngày 30, quân Tống tiến công mấy đợt, mở đường để vượt sông Đống đột nhập Đại La, nhưng đều bị quân ta đánh chặn kịch liệt và lòng sông có nhiều cọc gỗ chặn thuyền, tạo thành thế hai bên đối lũy.

Chính sử ta và chính sử Tống đều chép Hầu Nhân Bảo mắc mưu trá hàng của Lê Hoàn, đã bị quân ta giết chết ở sông Bạnh Đằng vào tháng Ba năm Tân Tỵ (4-981). Chỉ riêng sách Thiên Nam ngữ lục (câu 4.266) lại nói Hầu Nhân Bảo bị quân ta giết chết ở trận Đồ Lỗ này. 

Trận Lục Giang chặn đứng thủy quân Hầu Nhân Bảo (giữa Xuân Tân Ty (tháng 3-981)
Suy theo cách hành quân thì Bạch Đằng - Hoa Bộ là hợp điểm thứ hai, quân Tống phải tiến lên hợp (điểm thứ ba mới chiếm được Hoa Lư và mới đạt mục đích cuộn xâm lược.  Nhưng từ khi thua trận Đồ Lỗ ở trại Phù Lan và sông Lục Đầu, thì Tôn Toàn Hưng cứ nằm ỳ ở Hoa Bộ, án binh bất động. mặc dầu Hầu Nhân Bảo thúc mấy lần. Tôn Toàn Hưng cũng không chịu tiến quân.

Muốn tạo được một hợp điểm thử ba, thủy quân Tống phải tiến chiếm đại giang (tức sông Nhị Hà), bộ binh Tống phải đến tây Kết, rồi phối hợp thủy bộ nhịp nhàng cùng tiến vào Hoa Lư. Nhưng chính Tôn Toàn Hưng đã làm vỡ lở kế hoạch này vì không chịu mang quân xuống Tây Kết để phối hợp. Do đó lịch trình xâm lược của Giao Châu hành doanh đã gần hai tháng mà vẫn cứ dậm chân tại chỗ. 

Bấy giờ đã đến tháng Hai năm Tân Ty, Hầu Nhân Bảo đã đến lúc tự thấy mình phải quyết đoán lấy mọi viện, không chịu phụ thuộc vào Tôn Toàn Hưng nữa. Ý nghĩ đó đưa Hầu Nhân Bảo tới quyết định mở trận Lục Giang. 

Mặt khác, Hầu Nhân Bảo cũng nghĩ rằng nếu đợi đến lúc có thêm viện binh do Lưu Trừng và Trần Khâm Tộ đem sang thì dù lúc đó có đại thắng Giao Châu, chắc chắn uy danh và công trạng của hắn cũng bị đánh giá giảm sút.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:27:38 pm
Do vậy, khoảng giữa tháng Hai năm Tân Tỵ, Hầu Nhân Bảo cùng Quách Tiến và các tướng kéo toàn bộ thủy quân từ Bạch Đằng đến cửa biển Ngãi Am (cửa Thái Bình nay) rẽ vào sông Tranh, sông Lục (tức sông Hóa, sông Luộc); mặc dầu Tôn Toàn Hưng không đem bộ binh đến Tây Kết theo kế hoạch hội quân tại hợp điểm thứ ba.

Có thể nói nguyên nhân xảy ra trận Lục Giang là do Hầu Nhân Bảo muốn đạt mục đích cuộc hành quân theo dự định và hắn cũng muốn lập công lớn khi các đạo viện binh chưa có mặt ở Giao Châu. 

Tư liệu không cho phép khôi phục lại toàn bộ diễn biến của trận Lục Giang, nhưng kết quả của nó có thể tóm lược như sau:

Bọn Hầu Nhân Bảo, Quách Tiến, v.v. , dốc toàn lực thủy quân Tống, mưu đồ san phẳng lũy thành Bình Lỗ để vào chiếm Hoa Lư, lập chiến công lớn khi viện binh của Lưu Trừng, Trần Khâm Tộ chưa sáng Giao Châu.

Nhưng với quyết tâm cao, quân ta dũng cảm chiến đấu, lại được dân binh các làng xã phối hợp đánh giặc, nên ta đã tháng, đánh đuổi được thủy quân Tống lùi lại căn cứ Bạch Đằng. 

Thắng lợi trận Lục Giang, có phần do tác dụng ngăn chặn của thành Bình Lỗ, nó đã phá tan mưu kế của địch và củng cố thêm lòng tin của quân dân ta vào thành công của cuộc kháng chiến.

Điều này cũng đã được nhà quân sự xuất sắc Trần Quốc Tuấn đánh giá cao qua câu trả lời vua Trần vào năm 1300 về kế chống giặc nếu phương Bắc lại sang xâm lược rằng: “Đời Đinh-lê dùng được người tài, giỏi (...) xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống...” 1.
 
Trận quyết chiến ở sông Bạch Đằng (28-4-981)

Trong chiến sự mùa Xuân năm Tân Ty (981) thì trận Bạch Đằng này là trận lớn nhất, có tính chất quyết định thắng bại của cuộc chiến tranh. Nhưng sử liệu thì mỗi bên chép một khác và cách nhìn nhận của mỗi thời cũng có khác. 

Về thời điểm chiến sự thì Tông sử thường ghi một ngày quyết định nhất. chính sử ta phần nhiều ghi tháng có ý phản ánh chiến sự diễn ra không chỉ một ngày. 

Những trận đụng độ buổi đầu của cuộc phản công chiến lược ở sông Bạch Đằng (28-4-981) sử sách đều chép: “Quân ta đánh bất lợi”, có ý nói quân sĩ ta đã bị hy sinh, tổn thương nhiều. Lê Hoàn phải rút quân ra một quãng xa, rồi sau tập trung củng cố lại ở các đồn Thường Sơn, Hoa Cương Xạ Sơn, v.v., để chuẩn bị lực lượng tổ chức phản công.

Trong quá trình chuẩn bị thêm mọi điều kiện vật chất, tăng cường thêm lực lượng thì quân Tống mở hai trận Đồ Lỗ và Lục Giang nhằm hướng đánh chiếm Hoa Lư, nhưng rút cục chúng bị quân ta đánh bại, đẩy lùi chúng trở lại Bạch Đằng. 

Có thể nói từ sau trận Lục Giang, khí thế chiến đấu và lòng tự tin của quân sĩ ta được nâng cao, sẵn sàng đối phó với viện quân Tống, sẵn sàng mở đợt phản công toàn bộ để đuổi quân Tống ra khỏi đất nước.

Cuộc kháng chiến chống Tống của dân tộc ta bướt vào tháng Ba năm Tân Ty (981) có những thay đổi đột ngột, trước hết là thay đổi về quân số của địch và hình thế chiến trường.

Theo chủ trương của Tống Thái Tông và Lư Đa Tốn từ tháng Bảy năm trước đã dự kiến rằng: “ . . .cho Hầu Nhân Bảo kéo quân sang trước đánh lúc bất ngờ, sau đó sai tướng điều thêm một hai vạn quân Kinh Hồ sang tiếp viện, thì thế nào cũng lấy được Giao Chỉ” .

_______________________
1.  Toàn thư, Sđd, t.2, tr.77 .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:28:49 pm
Đáng lý ra việc đóng quân ở Tây Kết là Tôn Toàn Hưng phải đảm nhiệm từ đầu theo hợp điểm trong kế hoạch hành quân, nhưng do Tôn Toàn Hưng vừa nhát gan sợ chết, lại vừa có sự bất bình với Hầu Nhân Bảo, nên cứ nằm lý ở Hoa Bộ.

Đến đây có quân của Trần Khâm Tộ sang, Tôn Toàn Hưng mới đùn cho Trần Khâm Tộ xuống đóng ở Tây Kết để tiến chiếm Hoa Lư. Trần Khâm Tộ là tướng cấp dưới đã thực hiện sự phân công của Toàn Hưng. Từ đây chiến trường chống Tống của ta đột ngột mở rộng, Lê Hoàn phải điều nhiều quân về Tây Kết để vây hãm, đối phó. 

Bấy giờ quân Tống kéo sang rất đông, bộ binh Trần Khâm Tộ đã đến gần Hoa Lư, vận mệnh đất nước đang bị uy hiếp, nhưng cũng là dịp Lê Hoàn kiếm cớ thực hiện kế trá hàng đã ôm ấp, tính toán từ lâu.

Mưu tính của Lê Hoàn đã được thực hiện một cách khôn khéo. Hầu Nhân Bao đã bị giết và quân đội Tống đóng ở Bạch Đằng đã bị đánh tan vào ngày 28-4-981.

Chính sử Tống nói là “thắng” nhưng cũng phải công nhận Hầu Nhân bảo chết vào ngày đó tại địa điểm đó.

Kết quá trận phản công chiến lược ở sông Bạch Đằng ngày 28-4-981:

- Giết được tên tướng chủ mưu, hiếu chiến nhất, nguy hiểm nhất là Hầu Nhân Bảo.

- Đánh tan lực lượng thủy quân của Lưu Trừng, Lưu Trừng tẩu thoát.

- Bộ binh của Tôn Toàn Hưng tự tan, rút chạy.

- Giải phóng khu vực Bạch Đằng - Hoa Bộ.

- Khai thông các tuyến đường bộ, đường thủy, thừa thắng tiến lên đánh tan lực lượng còn lại của địch.

Rõ ràng đó là thắng lợi lớn lao của một trận quyết chiến chiến lược để trên cơ sở đó quét sạch quân dịch ra khỏi đất nước: giành thắng lợi trọn vẹn, kết thúc chiến tranh . 

Trận Tây Kết đánh tan bộ binh Trần Khâm Tộ.

Trận phản công chiến lược ngày 28-4-981, đã đánh tan thủy quân Hầu Nhân Bảo và Lưu Trừng ở sông Bạch Đằng.  Bộ binh Tôn Toàn Hưng cũng rút khỏi Hoa Bộ, chỉ còn quân Trần Khâm Tộ ở Tây Kết bị ta vây chặt và trận Tây Kết bắt đầu.

Tây Kết là vị trí chiến lược quan trọng nằm bên tả ngạn sông Hồng thuộc đất huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Địa danh Tây Kết được xuất hiện sớm, gàn liền với sự tích sông Kim Ngưu qua quận Tế Giang, một dòng sông có chiến tích từ thời Triệu Quang Phục chống Lương, một bến sông gắn với hệ đường thủy Nhị Hà. 

Tế Giang là một làng cổ (hương Tây Kết) có tuyến đường bộ thông quốc qua Chương Dương - Hàm Tử, nên càng nổi bật lợi thế quân sự của nó. Quân Tống, quân Nguyên đã chiếm đóng ở đây và tổ tiên ta cũng đã thắng trận ở đây, nên tên tuổi Tây Kết mãi mãi sáng ngời trong lịch sử bảo vệ Tổ quốc. 

Lực lượng bộ binh của Trần Khâm Tộ đến chiếm đóng Tây Kết chưa lâu, nhưng đã bộc lộ sự uy hiếp đối với kinh đô Hoa Lư. Do đó, sau trận Bạch Đằng, Lê Hoàn cùng các tướng gấp rút kéo quân về bao vây Tây Kết, nhằm mở một trận đánh tiêu diệt, đánh mạnh vào đạo quân chủ lực của Tống, giáng thêm đòn thất bại nặng nề cho quân Tống. 

Trận này ta tiêu diệt nhiều địch, bắt sống tướng Triệu Phụng Huân. Theo Toàn thư, trong trận này “Quân giặc chết đến quá nửa, thây thất đầy đồng”, thật là một trận thắng lớn trong lịch sử.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:30:41 pm
Trần Khâm Tộ chạy thoát thân còn tướng Quách Quân Biện thì kéo một cánh quân rút chạy theo đường qua Sóc Sơn, Phổ Yên nhằm hướng Vũ Nhai vượt dốc Tam Canh, qua Bình Gia về đất Tống.

Quân ta đánh xong trận Tây Kết thì Lê Hoàn tiếp tục cho quân đuổi theo cánh quân của Quách Quân Biện vây bắt được Quân Biện ở chân núi thuộc châu Vũ Nhai, còn mất chục tên sống sót, chạy tản vào rừng 1.
 
Trận truy kích quân Tống đến Vũ Nhai là trận cuối cùng, kết thúc hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất của dân tộc ta ở thế kỷ X. Sử chép: Từ đây đất nước yên tĩnh .
 

II CHIẾN THẮNG GIẶC TỐNG LẦN THỨ HAI (1075-1077)

1. Âm mưu xâm lược Đại Việt của nhà Tống.

Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (980-981) quân dân nước ta đã giành được thắng lợi vẻ vang, nhưng vua quan nhà Tống vẫn không chịu từ bỏ âm mưu xâm lược, kỳ vọng tái đô hộ Đại Việt.

Giữa thế kỷ XI, nhà Tống lại khẩn trương chuẩn bị xâm lược nước ta lần nửa với mục đích vừa để chiếm đất đai, mở rộng phạm vi bóc lột vừa để trả thù lần trước bị Lê Hoàn đánh bại.

Mặt khác, việc xâm lược Đại Việt còn nhằm giải quyết một số mâu thuẫn về mặt đối nội, đối ngoại, đặc biệt là phải đối phó với Liêu, Hạ ở phía bắc.

Liêu nguyên là Khiết Đan, tộc Hồ ở vùng Mãn Châu, Hà Bắc bây giờ. Từ đời Đường, tộc du mục Khiết Đan chia làm tám bộ tộc do tám thủ lĩnh gọi là “đại nhân” đứng đầu. Vào thế kỷ X, một thủ lĩnh là A Bảo Cơ dùng bạo lực thâu tóm các bộ tộc khác, lập nước, xưng hoàng đế vào năm 916.

Năm 937, Khiết Đan từng chiếm 16 châu đất U Vân (bắc Sơn Tây và Hà Bắc Trung Quốc ngày nay), đổi quốc hiệu là Liêu (năm 983 đổi thành Khiết Đan, năm 1066 đổi lại thành Liêu).

Năm 960, khi Triệu Khuông Dận lập nên triều Tống, sử gọi là Bắc Tống, đóng đô ở Khai Phong thì Liêu là thành lân bang của Tống. Nếu như đối với Liêu, Tống Thái Tổ chỉ giữ thế thủ, thì đến Tống Thái Tông từng hai lần đem quân đánh Liêu vào các năm 979 và 986 nhằm thu hồi đất U Vân, nhưng đều bị thất bại. Tống Thái Tông từng bị thương chữa không khỏi, sau đó bị chết.

Đến đời Tống Chân Tông, vào năm 1003, Liêu đem quân đánh vào đất Trung Quốc, xâm nhập vùng phụ cận Khai Phong. Triều đình Tống hốt hoảng, chia rẽ. Tuy vậy, Tống Chân Tông vẫn cầm quân chiến đấu bảo vệ đất đai, và từng giành được thắng lợi nhỏ.

Nhưng trước sự tiến công của Liêu, nhiều đại thần khiếp nhược, xui Tống Chân Tông cầu hòa (năm 1004). Hàng năm Tống xin nộp cho Liêu 10 vạn lạng bạc, 20 vạn tấm lụa. Liêu rút quân, nhà Tống phải để yên, dọc đường không được đón đánh.

Để yên với Liêu, năm 1075, vua Tống nghe theo lời Vương An Thạch lại nhượng cho Liêu 700 dặm đất Hà Đông để rảnh tay quay về biên thuỳ phía nam với Đại Việt.

Hạ có nguồn gốc từ thời Đường, thuộc bộ lạc Hướng, phiếm giữ vùng Cam Túc, Ninh Hạ ngày nay. Hạ từng giúp Tống đánh Bắc Hán (một tiểu vương quốc thời Ngũ đại thập quốc tồn tại từ năm 951 đến năm 979), sau lại theo Liêu chống lại Tống, được Liêu phong Hạ quốc vương (năm 986). 

Hạ thường uy hiếp biên thùy tây bắc của Tống. Vào năm 1032 đời Tống Nhân Tông, vua Hạ là Nguyên Hiệu nối ngôi, năm 1038 tự xưng hoàng đế. Hạ trở thành một nước mạnh, thường xuyên tính chuyện đánh Tống.

___________________________
1. Bia tám mặt trước đền Thánh Gióng xã Phù Linh huyện Sóc Sơn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:35:09 pm
Trong khi đó lúc đầu triều Tống cho Hạ là giặc cỏ, chỉ yết bảng ở biên cương hứa ban thưởng cho người chém được đầu Nguyên Hiệu. Đến khi lâm trận nhiều lần đều bị thua, Tống Nhân Tông mới giật mình sợ hãi, câu hoà vào năm 1044. Mỗi năm Tống phải nộp cho Hạ bảy vạn lạng bạc, 15 vạn tấm lụa, ba vạn cân trà. 

Vua Hạ nhận lễ vật nhưng vẫn tiếp tục xâm lược đất Tống.  Nhà Tống phải cử những danh tướng như Hàn Kỳ, Phạm Trọng Yêm ra trấn giữ biên ải. Hạ và Tống khi hòa khi chiến thất thường. Đến năm 1099 hòa nghị giữa Hạ và Tống mới thành. Việc dụng binh không xảy ra nữa. 

Như vậy vào thời gian Tống xâm lược Đại Việt. Liêu (Khiết Đan), Hạ ở phía bắc thực sự là mối đe doạ lớn của nhà Tống. Mặc dù nhà Tống từng nhượng bộ cầu hòa với điều kiện nặng nề nhưng mối hoạ Liêu, Hạ vẫn còn đeo đuổi khiến nhà Tống phải chống đỡ và trở thành gánh nặng cho nhân dân.

Năm 1068, Tống Thần Tông lên ngôi, năm 1069 dùng Vương An Thạch - một nho thần có biệt tài về kinh tế, làm tể tướng, ban hành và thực thi một số cải cách nhằm giải quyết nguy cơ suy yếu của đất nước đang ngày càng trầm trọng.  Mục tiêu cải cách nhằm khôi phục kinh tế, củng cố quân lực làm cho nước giàu binh mạnh.

Nội dung “tân pháp” của Vương An Thạch gồm những nét chủ yếu sau:

- Phép thanh miêu: Vào lúc thiếu thốn, giáp hạt, nhà nước bỏ tiền cho nông dân vay, mùa Xuân cho vay mùa Hè trả, mùa Thu cho vay cuối năm trả, lãi 20%. Phép thanh miêu nhằm hạn chế địa chủ, con buôn lợi dụng lúc đói kém bóc lột nông dân bằng cho vay nặng lãi.

- Phép miễn dịch: Người nào đi phu thì theo thứ bậc nộp tiền (tiền miễn dịch). Người trước kia được miễn dịch thì nay theo thứ bậc nộp tiền (tiền trợ dịch). Tiền miễn dịch và trợ dịch dùng thuê người đi phu để cho nông dân có thời gian sản xuất. Phép miễn dịch còn có tác dụng hạn chế đặc quyền của quan lại.

- Phép phương điền (đo ruộng): Địa chủ quan liêu chiếm nhiều ruộng đất, ẩn lậu thuế, nay đo đạc lại làm cơ sở để đánh thuế, tăng ngân sách của nhà nước.

- Phép thị dịch: Hàng hóa nhiều bán không nhạy, nhà nước bỏ tiền ra mua vào, khi hàng hóa thiếu thì bán ra nhằm ngăn chặn sự lũng đoạn của thương nhân và tăng ngân thu cho nhà nước.

- Phép bảo giáp: Tổ chức nông dân lại 10 nhà thành một bảo, 50 nhà là một đại bảo, 10 đại bảo là một đô bảo, có bảo trưởng, đại bảo trưởng, đô bảo chính đứng đầu. Trên cơ sở đó nhà nước nắm số đinh lục nông nhàn thì luyện tập võ nghệ.  Bình thường thì bảo đinh tuần phòng trộm cướp, thời chiến thì bổ sung vào quân ngạch. Với phép bảo giáp, nhà nước vừa tăng được quân số, vừa giảm tổn phí nuôi quân.

- Phép bảo mã: Nhà nước giao cho các bảo phải nuôi ngựa. Nếu ngựa chết thì dân phải bồi thường. Phép bảo mã tạo ra một nguồn dự trữ ngựa rất lớn mà nhà nước không phải nuôi giữ.

Tân pháp của Vương An Thạch có đem lại cho nhà Tống ít nhiều thành tựu: diện tích ruộng đất khai khẩn tăng, ngân sách nhà nước được bổ sung, lực lượng quân ngu tăng cường. Tất cả vì mục đích thu lợi và bảo vệ địa vị cho nhà nước Tống đang trong tình trạng khốn đốn. Trong khi đó đời sống nhân dân không được cải thiện. Tân pháp của Vương An Thạch còn gặp phải sự chống cự quyết liệt của địa chủ, của phái quan liêu cũ, gây nên mâu thuẫn nội bộ giữa các tầng lớp nhân dân.

Do đó, kết quả tân pháp của Vương An Thạch không những bị hạn chế nhiều mà còn làm cho tình trạng xã hội càng thêm rối loạn. Tân pháp sớm bị phá sản, Vương An Thạch phải thôi giữ chức tể tướng vào năm 1074, mười tháng sau lại được triệu về chấp chính (1075). 

Như vậy về phương diện đối nội, tân pháp của Vương An Thạch không giải quyết được mâu thuẫn nội bộ, không đạt được mục tiêu nước giầu quân mạnh. Trong khi đó về đối ngoại thì Liêu, Hạ ở biên thùy phía bắc vẫn là mối lo thường trực .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:36:07 pm
Trước tình hình đó, vua tôi nhà Tống chủ trương xâm lược Đại Việt hy vọng chiến thắng để đánh lạc hướng đấu tranh của quần chúng, củng cố uy thế, khiến hai nước Liều, Hạ phải nể sợ. 

Âm mưu xâm lược Đại Việt đã hình thành cùng với việc Tống Nhân Tông lên ngôi (l068) và Vương An Thạch làm tể tướng (1069). Tuy nhiên tình hình đối nội, đối ngoại cũng như mâu thuẫn nội bộ khiến âm mưu đó chưa được triển khai.

Mặc dù vậy, triều đình Tống thông qua các viên quan nối nhau coi giữ Quế Châu như Tiêu Chú (từ năm 1071), Thẩm Khỉ (1073), Lưu Di (1074) đã từng bước chuẩn bị cho quá trình xâm lược.

Nếu như Tiêu Chú còn dè dặt, thì Thẩm Khỉ đã lấy dân đinh các động thuộc Ung Châu kết thành bảo giáp sai quan rèn dạy và kiểm tra, kiểm điểm dân đinh các khe động lập bảo ngũ, luyện tập trận đồ, tập thủy chiến ở dọc biển, dụ dỗ mua chuộc các tù trưởng.

Lưu Di thay Thẩm Khỉ, được lệnh tăng cường binh lực, tiếp tục điểm dân, tích lương, đóng chiến thuyền, luyện tập thủy binh. Cũng như Thẩm Khỉ, Lưu Di còn cấm người nước ta sang đất Tống buôn bán vì sợ bị do thám.

Để xúc tiến việc xâm lăng Đại Việt, Tống Thần Tông và Vương An Thạch đã ráo riết chuẩn bị nhiều căn cứ quân sự và hậu cần ở vùng giáp biên giới đông bắc nước ta thuộc Quảng Tây, Quảng Đông ngày nay.

Đặc biệt nhà Tống đã biến Ung Châu thành căn cứ quân sự, nơi xuất phát của các đạo quân xâm lược Đại Việt. Thành Ung Châu (Nam Ninh, Quảng Tây) ở trên sông Uất Giang, sau điểm hợp lưu của hai sông Tả Giang và Hữu Giang là vị trí quan trọng và là nơi tập kết quân tiện lợi nhất.

Từ Ung Châu đến các châu biên giới của ta như Quảng Nguyên (Cao Bằng), Quang Lang (Lạng Sơn), Tô Mậu (Tiên Yên, Na Dương, Đình Lập) đều có đường bộ khoảng 150 km. Từ Ung Châu đến cửa biển Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông) cũng có đường thủy dài khoảng 120 km.

Nhà Tống biến Ung Châu thành một căn cứ xâm lược trọng yếu, tập trung tướng tá, luyện tập binh lính, thu giữ quân lương. Từ năm 1071, nhà Tống đã cử viên lão tướng có nhiều kinh nghiệm, già dặn chiến trường là Tô Giám đến coi giữ thành Ung Châu. Tại đây tập trung 5.000 quân chính quy gồm hai bộ phận: 2.000 quân giữ thành, 3.000 quân chia đóng ở nam trại quân sát biên giới nước ta là Thiên Long, Cổ Vạn, Vĩnh Bình, Thái Bình và Hoành Sơn. 

Cùng với Ung Châu, tại Khâm Châu nhà Tống đặt quan cai quản, đóng quân ở hai trại: Như Tính giáp châu Vĩnh An của ta và Đề Trạo ở cửa sông Khâm Châu. 

Về quân lính, ngoài quân của triều đình, nhà Tống còn tổ chức các đội quân của các châu, các động như một thứ dân quân sẵn sàng tham gia canh phòng, xâm lược.

Nhà Tống còn thường xuyên tung gián điệp, thuyết khách mua chuộc các tù trưởng dân tộc thiểu số ở biên giới nước ta làm nội gián cho họ.

Từ năm 1075, mưu toan xâm lược Đại Việt của vương triều Tống đã bộc lộ rõ ràng. Căn cứ Ung Châu cùng các trại quân và các cửa biển Khâm Liêm đã hiện ra như những mũi dao nhọn đe dọa sự sống còn của đất nước Đại Việt.



Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:38:18 pm
2. Chiến lược “tiên phát phế nhân”

Từ khi dời kinh đô Hoa Lư ra Thăng Long vương triều Lý qua các đời vua Lý Thái Tổ (1010-1028), Lý Thái Tông (1028-1054) Lý Thánh Tông (1054-1072) đã tiến hành xây dựng đất nước trên quy mô lớn: kinh tế phát triển mạnh mẽ, quốc gia thống nhất được củng cố, văn hóa dân tộc bước vào giai đoạn rực rỡ - văn hóa Thăng Long.

Trên cơ sở tình hình kinh tế chính trì đó, lực lượng quốc phòng cũng được tăng cường. Ngoài sức mạnh của quân đội chủ lực ở các đặc khu miền núi cũng như ở các địa bàn trang ấp thuộc các vương hầu quý tộc cũng được phép có quân đội riêng chịu sự giám sát, điều động của triều đình.

Vào đầu thời Lý có bộ binh. kỵ binh, tượng binh; lực lượng thủy binh thì khá mạnh vì có truyền thống chiến đấu, rèn luyện từ thời Ngô Quyền, Lê Hoàn. Về vũ khí thì ngoài cung kiếm, gươm giáo còn có máy bắn đá khá lợi hại. Luyện quân đã có trận đồ chỉ dẫn. hành quân biết lợi dụng địa hình. . . Sử nhà Tống gọi là An Nam hành quân pháp 1.
 
Sự lớn mạnh mọi mặt của đất nước cho phép Lý Nhân Tông và Lý Thường Kiệt đối phó với âm mưu xâm lược của Tống một cách kiên quyết. Trước thế uy hiếp của Tống, Lý Thường Kiệt đã nói: “Ngồi đợi giặc không bằng đem quân ra trước phá thê’ mạnh của giặc”.

Chiến lược đó sách Binh thư gọi là “tiên phát chế nhân” mà Lý Thường Kiệt đã đề ra một cách táo bạo, độc đáo. ông nhận thức đúng sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc ta giữa thế kỷ XI, trong khi đó phía Tống đang gặp nhiều khó khăn về đối nội và đối ngoại.

Vào năm 1075, vua Lý Thần Tông mới lên sáu tuổi. Ba năm trước (năm 1072) khi Lý Thánh Tông băng hà, nhà vua nối ngôi mới có ba tuổi, mọi việc trong triều có Thượng Dương thái hậu (hoàng hậu của Lý Thánh Tông) buông rèm cùng nghe chính sự. Giúp rập nhà vua nhỏ tuổi còn có Kiểm hiệu Thái uý Lý Thường Kiệt và Thái úy binh bộ thị lang Lý Đạo Thành.

Liền năm sau (năm 1073) xảy ra vụ tranh giành quyền lực giữa Thái hậu Thượng Dương và Thần phi Ỷ Lan - phi của Lý Thánh Tông, mẹ đẻ của vua Lý Thần Tông. Lúc này Ỷ Lan đã được phong Thái hậu. Kết quả Thái hậu Thượng Dương cùng 72 nữ tì phải chết theo Lý Thánh Tông. 

Bị lôi cuốn vào vụ rắc rối ở cung đình, Lý Đạo Thành hẳn là bảo vệ Thượng Dương nên phải chuyển ra ngoài, coi giữ châu Nghệ An. Tình trạng mất ổn định tạm thời của triều Lý sau cái chết của Lý Thánh Tông càng khiến cho nhà Tống tích cực chuẩn bị xâm chiếm Đại Việt.

Tuy nhiên trước nguy cơ xâm lược của giặc ngoài, mối bất hòa trong nội bộ vương triều sớm được giàn xếp. Năm 1074, Lý Đạo Thành được triều đình vời về giao giữ chức Thái phó bình chương quân quốc trọng sự, cùng với Hoàng hậu Ỷ Lan, Thái sư Lý Thường Kiệt lo toan việc chống giặc giữ nước.

Một năm sau vào cuối năm Ất Mão (1075), chiến lược “tiên phát chế nhân” được triển khai dưới quyền điều hành của Lý Thường Kiệt.  Việc triều chính đã có nhà vua nhỏ tuổi với Thái hậu Ỷ Lan và Thái phó Lý Đạo Thành lo liệu. Vương triều Lý bước vào cuộc chiến đấu với một tinh thần chủ động và tự tin.

Chiến lược “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt được thực hiện với sự kết hợp giữa thu phục nhân tâm và chinh phạt bằng vũ lực. Trong khi chuẩn bị lực lượng để phá tan sào huyệt của giặc trên đất giặc, Lý Thường Kiệt đã soạn  thảo lời hịch mà sử chép là Phạt Tống lộ bố văn có nghĩa là bài văn lộ bố đánh giặc Tống.

________________________
1. Tống sử liệt truyện : chuyện Thái Diên Khánh.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:41:49 pm
Toàn văn bài Lộ bố 1 như sau:
 
Trời sinh ra dân chúng, vua có đức thì tin yêu. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân. Nay vua Tống ngu hèn, không theo khuôn phép thánh nhân, nghe cái kế tham tàn của An Thạch, bày ra phép “thanh miêu’, “trợ dịch”, khiến trăm họ hao kiệt, lầm than, để thỏa cái mưu nuôi béo lấy thân mình.

Số là muôn dân đều dựa vào trời, bỗng sa vào sự độc hại của thói tham lợi. Bề trên cố nhiên phải thương xót. Những việc từ trước, thôi không nói làm gì.

Bản chức vâng mệnh quốc vương, chỉ đường Bắc tiến, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có cái ý phân biệt quốc thổ, chứ không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch cái bẩn thỉu hôi tanh để ca thuở đẹp của ngày Nghiêu, để hưởng hội lành của tháng Thuấn.

Nay ta ra quân cốt cứu vớt muôn dân. Hịch văn này truyền đến để mọi người đều nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi
”.

Qua bài Lộ bô, Lý Thường Kiệt đã biểu thị một sự am hiểu rất rõ tình hình Tống đang rối loạn vì tân pháp của Vương An Thạch. ông thấy được bản chất của tân pháp là nhằm “nuôi béo lấy bản thân mình” làm cho “trăm họ hao kiệt, lầm than”.

Ông ra quân nhằm “dẹp yên làn sóng yêu nghiệt” để cho dân chúng thoát khỏi tội ác mà vua quan Tống đã gây ra cho họ. Sự phân biệt về lãnh thổ quốc gia được tôn trọng, còn dân chúng không có sự phân biệt, đều được quan tâm Bắc cũng như Nam.

Lý Thường Kiệt bố cáo với dân Trung Quốc ở miền biên giới về việc ra quân của Đại Việt là phù hợp với chính nghĩa, vì lợi ích của nhân dân hai nước. Bài Lộ bố được mang theo cùng quân lính và dán yết ở các nơi trên đường tiến quân của Đại Việt.

Bài hịch của Lý Thường Kiệt đã phát huy được sức mạnh như một đạo quân tạo điều kiện cho cánh quân của Đại Việt tiến vào đất Tống với thế mạnh vũ bão.

Về quân đội của ta, sử chép: “Lý Thường Kiệt, Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh, đường bộ đường thủy đều tiến2. Trong số hơn 10 vạn quân này bao gồm cả chính binh của triều đình, trong đó có thủy binh, bộ binh và quân địa phương dưới quyền của các thổ tù ở vùng khe động biên viễn phía bắc.

Quân của triều đình do Lý Thường Kiệt chỉ huy tiến về mạn cửa ngõ đông bắc thuộc châu Vĩnh An (Móng Cái - Quảng Ninh) giáp với đất Tống, tạo thành một mũi tiến công chính gồm cả thủy binh và bộ binh.

Trong khi đó, cánh quân bộ do các thổ tù cầm đầu, dưới quyền chỉ huy chung của Tôn Đản gồm bốn mũi: Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên (Cao Bằng), Hoàng Kim Mãn ở Môn Châu (Đông Khê - Cao Bằng), Thân Cảnh Phúc ở Quang Lang (Lạng Sơn) và Vi Thủ An ở Tô Mậu (Quảng Ninh) 3.

Tất cả tạo thành một thế trận hướng về các trại quân của Tống ở liền kề biên giới từ tây sang đông: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn Thiên Long - vành đai bảo vệ Ung Châu, đồng thời là vị trí tiền tiêu của quân Tống nhằm tiến công Đại Việt. 

Trận chiến đấu thực sự bắt đầu vào ngày 27-10-1075.  Bảy trăm quân từ châu Tô Mậu đánh vào trại Cổ Vạn. Cho đến ngày 21- 12, nhà Tống mới biết tin Cổ Vạn đã mất và ở Quảng Nguyên nhiều hương binh Đại Việt đã tập hợp sửa soạn đánh vào biên giới.

________________________
1. Bản dịch của Trần Văn Giáp, trích theo Tổng tập văn học Việt Nam, t.1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1980, tr. 307. 
Lộ bố. một bài văn viết trên vải trương ra trước công chúng, trên dó nêu rõ tội ác của dịch, hoặc chính nghĩa của ta.
2. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.290.
3. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 118.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:45:44 pm
Trong khi đó, dưới quyền chỉ huy của Tôn Đản thổ binh các châu biên giới được lệnh xuất quân lần lượt đánh chiếm các trại Vĩnh Bình. Thái Bình; quân Lạng Châu chiếm các châu Tây Bình, châu Lộc; quân Quảng Nguyên và Châu Môn chiếm trại Hoành Sơn. Chúa trại Hoành Sơn, viên quản hạt các trại Vĩnh Bình, Thái Bình đều tử trận.

Trận xuất kích mở màn đồng loạt đánh chiếm các đồn trại Tống dọc biên giới che chở Ung Châu đã thu hút sự chú ý của quân Tống về ở mạn tây nam. Trong khi đó mạn đông nam Ung Châu là Khâm Châu bị bỏ ngỏ. 

Lợi dụng sự sơ hở của giặc, Lý Thường Kiệt đem đại quân gồm bộ binh đánh chiếm các trại Như Hồng, Như Tích, Đề Trạo, và thủy binh theo đường thủy từ Vĩnh An đến chiếm Khâm Châu và Liêm Châu. Bị đánh bất ngờ, quân Tống không kịp chống cự.

Khâm Châu bị chiếm vào ngày 30- 12, ba ngày sau, ngày 2-1-1076 đến lượt Liêm Châu thất thủ.  Khi đại quân của Lý Thường Kiệt từ Khâm Châu tiến về Ung Châu cũng là lúc các đạo quân dưới quyền Tôn Đản đã triệt phá được các trại biên giới của Tống, cùng tiến về Ung Châu.

Trên đường tiến quân đánh Ung Châu, Lý Thường Kiệt sai yết bảng dọn đường kể tội quan lại nhà Tống và nêu rõ danh nghĩa hành binh. Lời Lộ bố nói:

Có những dân Giao Chỉ làm phản rồi trốn sang Trung Quốc. Các quan lại dung nạp và giấu đi. Ta đã khiến sứ sang tố giác các việc ấy, quan coi Quế Châu không chịu trả lời. Ta lại sai sứ vượt bể sang tố cáo với Quảng Châu, quan coi Quảng Châu cũng không chịu báo. Vì vậy quân ta tới đuối bắt dân trốn ấy”. Lộ bố còn tố giác “Quan coi Quế Châu đã kiểm điểm dân các động và đã tuyên bố rõ ràng rằng muốn sang đánh giao Chỉ1. 

Lý Thường Kiệt còn tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Trung Quốc. chia rẽ quân dân địch nhân nội bộ triều đình đang có sự phân tranh giữa hai phe phái mới và cũ. Trong Lộ bố còn nói: “Trung Quốc dùng phép thanh miêu, trợ dịch làm dân khốn khổ. Nay ta đây đem quân tới cứu 2.

Thần phả Lý Thường Kiệt do Nhữ Bá Sĩ soạn từng viết:

Dân Tống thấy lời tuyên cáo đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đàng xa thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam, rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thành quân ta lan khắp3.
 
Tranh thủ được sự đồng tình của nhân dân dọc đường hành quân, các cánh quân của Đại Việt do Lý Thường Kiệt và Tôn Đản chỉ huy theo hai hướng cùng tiến vào thành Ung Châu một cách dễ dàng. Đại quân của Tôn Đản đến trước. 

Thành Ung Châu bị vây hãm vào ngày 18 - 1 - 1076.  Thành Ung Châu là một căn cứ quân sự trọng yếu và vững chắc, lại do một viên tướng lão luyện là Tô Giám đóng giữ. Vì vậy lúc đầu nghe quân ta tới Ung Châu, Tô Giám ung dung đóng cửa thành tự thủ.

Y cho rằng quân Đại Việt không đủ sức vây hãm được lâu; mặt khác viện quân ở Quế Châu không xa, cách Ung Châu khoảng 400 km về phía bắc sẽ kéo tới, lúc đó tung quân ra đánh, quân Đại Việt rơi vào thế trước sau đều có địch.

Nhưng ý đồ của Tô Giám không nằm ngoài dự tính của Lý Thường Kiệt. Thành Ung Châu bị vây hãm riết, Tô Giám sai sứ về Quế Châu cầu viện. Viên quan coi Quế Châu là Lưu Di sai đô giám Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu. Thủ Tiết nghe tin quân Đại Việt đông gấp mười lần nên không chịu ra quân ngay, chùng chình nghe ngóng sức chống đỡ thắng bại của Tô Giám.

Không thấy viện binh đến, lại bị vòng vây hãm xiết chặt, Tô Giám viết thư cho người lọt vòng vây cấp báo. Thủ Tiết đưa quân kéo tới ải Côn Lôn cách Ung Châu khoảng 40 km.  Được tin, Lý Thường Kiệt đưa quân đến đón đánh. Bị tiến công bất ngờ, quân Tống thua đánh đã chạy.

_____________________
1,2,3. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt. Sđd, tr.122,123, 128.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:52:36 pm
Thủ Tiết không điều khiển nổi, nhiều quân lính chịu hàng. Thủ Tiết và các viên đề cử Tả Giang ôn Nguyên Dụ, đô giám Hồ Nam Trương Biện, tuần kiểm các châu Ung và Tân Hứa Dự, tuần kiểm Liễu, Tấn, Tượng Vương Trấn đều bị giết tại trận 1. 

Như vậy là viện quân bị diệt, thành Ung Châu nằm trong thế bị vây hãm ngày càng xiết chặt. Lúc đầu Tô Giám còn tuyên bố mạnh mẽ với quân sĩ: “Khí giới ta đã sắm đủ, lương thực cũng không thiếu. Nay giặc đã tới chân thành, thế nào cũng thắng? Nếu ai trốn chạy làm dân hoang mang, làm hỏng việc lớn thì ta sẽ chém” 2.
 
Nhưng cuộc vây hãm kéo dài, trong thành lương hết, đến nước giếng cũng cạn. Không kể số quân lính tử trận, còn nhiều người chết vì dịch bệnh. Tuy vậy, Tô Giám tìm mọi cách trấn an quân lính, đốc thúc quân cố thủ. Ung Châu thành cao, hào sâu, sau nhiều ngày đêm công thành nhưng quân Đại Việt không sao lọt được vào thành.

Quân ta phải dùng máy bắn đá bắn vào thành, dùng vân thê bắc chuyền nối nhau cho quân leo lên mặt thành, đào đường hầm lót da cho kín nước để chui vào thành nhưng bị quân trong thành phóng hoả đốt,quân ta dùng hỏa công bắn các chất cháy vào thành, dùng thổ công đem bao bì đất xếp chồng lên nhau làm thành bậc thềm để leo vào thành. Vào ngày 23 tháng Giêng năm Bính Thìn tức 1-3-1076, thành Ung Châu bị vỡ 3.

Sau 42 ngày đêm vây hãm quân ta lọt vào thành. Chống trả trong tình thế tuyệt vọng, Tô Giám giết 36 gia thuộc và tự thiêu mà chết 4. Lý Thường Kiệt hạ lệnh hủy thành lũy, phá kho tàng dự trữ trong vùng Tả Giang và lấy đá lấp sông chặn đường cứu viện của quân Tống 5. 

Cuộc tập kích chiến lược vào thành Ung Châu của Lý Thường Kiệt đã khiến cho các căn cứ quân sự và hậu cần của Tống chuẩn bị đánh Đại Việt trong chốc lát bị phá tan. Điều đó không chỉ trước mắt nhằm kìm chế việc tiến công Đại Việt của giặc Tống, mà còn gây nhiều khó khăn cho chúng sau này khi sang chiến trường Đại Việt.

Thành Ung Châu đột ngột bị phá tan khiến cho Liêu, Hạ ở phía bắc coi thường nước “thiên tử”, nhân dân oán trách triều đình, nội bộ Tống càng thêm mâu thuẫn, đặc biệt phái chủ chiến bị đả kích mạnh.

Mục đích tiến công trong chiến lược “tiên phát chế nhân” đã đạt, Lý Thường Kiệt lập tức rút quân về để tổ chức bố phòng, sẵn sàng đợi giặc, tổ chức chiến đấu bảo vệ đất nước.

3. Giặc Tống xâm lược và kế hoạch phòng ngự của Đại Việt.

Nhà Tống chuẩn bị xâm lược Đại Việt.

Tám ngày sau khi căn cứ Ung Châu bị triệt phá, ngày 2 tháng Hai làm Bính Thìn (tức 9-3-1076), Tống Thần Tông hạ thiếu đánh Đại Việt 6. Vua Tống cử Quách Quỳ là một võ tướng cao cấp đã có kinh nghiệm từng giúp Phạm Trọng Yêm đánh Hạ giữ biên thuỳ phía bắc làm chánh tướng. 

Về quân viễn chinh, nhà Tống điều khoảng 10 vạn quân chiến đấu gồm bộ binh và kỵ binh. Trong số quân trên có 45 ngàn quân chính thức từng chinh chiến với Liêu, Hạ ở phía bắc điều xuống, chia làm chín đạo do chín tướng điều khiển, mỗi đạo có khoảng 5.000.

Số binh còn lại là quân mới mộ ở các lộ Hà Bắc, Kinh Đông và quân mộ thêm trên đường hành binh từ kinh đô tới Ung Châu, cùng với quân khe động vùng biên giới.


____________________________
1. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 128.
2. Tống sử, Q.446; Lý Đào: Trường biên... Sđd, Q. 271, tr.7b.
3. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd: tr. 129.
4. Việt sử lược - Bản dịch của Trần Quốc Vượng. Nxb. Văn Sử Địa - Hà Nội,1960. tr. 110.
5. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 129 - 130.
6. Đúng ra, ngày 25 tháng Chạp năm Ất Mão (2-1976), vua Tống đã cắt cử Triệu Tiết làm Đô tổng quản, Lý Hiến, Yên Dạt làm phó cầm quân sang xâm lược Đại Việt, nhưng vì y kiến bất đồng nên có sự thay đổi, đến đây mới quyết định lại. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt. Sđd, tr. 125
Quách Quỳ được trao chức An Nam đạo hành doanh mã bộ quân đô tổng quản chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó tướng, cùng Yên Đạt giữ chức phó đô tổng quản. Dưới nữa là các tướng từng tham dự chiến sự ở biên thùy phía bắc.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 08:56:58 pm
Ngoài số quân trên còn có một vạn ngựa và 20 vạn phu vận chuyển. Tống chủ trương tập trung bộ binh và kỵ binh tại Ung Châu rồi đột nhập vào vùng biên giới đông bắc nước ta. Thủy binh Tống do Dương Tùng Tiên được bổ giữ chức Chiến trạo đô giám thuộc An Nam đạo hành doanh cầm đầu sẽ từ cửa biển Ô Lôi men theo bờ biển đến sông Phạch Đằng để phối hợp với bộ binh. Về vũ khí, quân Tống lúc đó ngoài vũ khí thông thường còn sử dụng phổ biến máy bắn đá và hỏa tiễn (tương tự pháo thăng thiên) để đốt cháy doanh trại kho tàng . . .

Trong cuộc viễn chinh lần này vấn đề hậu cần lương thực rất hệ trọng. Đường hành quân qua nhiều vùng hoang vắng, lại gặp nhiều nơi bị mất mùa nên việc cung cấp đủ gạo ăn cho 10 vạn quân, một vạn ngựa và phu tải không dễ dàng.

Ý thức được điều đó, từ tháng Hai năm Bính Thìn (3- 1076) vua Tống đã cử Triệu Tiết trông coi, lo liệu việc lương thảo. Nhà Tống còn xuất tiền, vải thu mua lương thực ở các lộ Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây... để giao nộp.

Mặc dù vậy khi quân sắp tiến vào Đại Việt, số lương thực vẫn chưa đủ. Tháng 11-1076, ty Chiêu thảo phải doạ: “nếu ai thiếu tiền, lúa, cỏ về việc đánh quân An Nam thì lúc quân trở về sẽ thu gấp đôi”. Vua Tống còn phải cấp 150.000 quan giao cho Quảng Đông mua lương thảo 1. 

Nhận thức được phải hành quân trên dết Đại Việt có khí hậu ẩm ướt, nóng bức, mưa nắng thất thường, lại qua nhiều vùng lam sơn chướng khí nên nhà Tống còn quan tâm lo lắng việc thuốc men chữa trị cho quân lính.

Không những chuẩn bị thuốc thang cứu chữa phủ dụ bệnh nhân, khi được tin quân xuống miền nam nhiều người ốm, vua Tống phải hạ chiếu truyền cho binh lính không ăn đồ sống, đồ lạnh, cấm uống rượu, không ăn những thứ mà người miền bắc phải kiêng.

Vua Tống còn sai Thái y cục chế nhiều bài thuốc thửa lam chướng và cử lương y chuyên trì theo quân 2.  Việc chuẩn bị xâm lăng Đại Việt của nhà Tống kéo dài từ trước, cho đến năm 1076 thì gấp rút hơn. Tuy nhiên do gặp nhiều khó khăn, trong đó có nội bộ bất đồng nên mãi đến cuối năm Bính Thìn (đầu năm 1077) Tống mời đưa quân vào biên giới Đại Việt.

Trong cuộc xâm lăng Đại Việt lần này, nhà Tống đã tìm cách liên minh với Chiêm Thành, Chân Lạp. Khi chuẩn bị xâm lăng Đại Việt từ cuối năm Ất Mão (1-1076) vua Tống đã hạ chiếu: “Chiêm Thành, Chân Lạp vốn là huyết thù của Giao Chỉ. Vậy sai Hứa Ngạn Tiên và Lưu Sư mộ dăm ba người buôn bể đi dụ các quốc trưởng nước Tống dựa vào việc đánh Giao Chỉ. Khi nào bình định xong sẽ có thưởng” 3.

Ngày Tống Thần Tông hạ chiếu đánh Đại Việt cũng là ngày vua Tống cho người đem theo sắc thư, thuốc, lụa sang Chiêm Thành, Chân Lạp để chiêu dụ. Lời sắc thư viết:

“Chiêm Thành, Chân Lạp từ lâu nay bị Giao Chỉ cướp. Nay vương sư sang đánh Giao Chỉ để phạt tội. Các nước ấy nên thừa cơ hội, hiệp lực mà trừ nó. Ngày nào đánh dẹp xong, trẫm sẽ ban thưởng cho. Trẫm lại nghe nói rằng nhiều dân nước ấy đã bị Giao Chỉ bắt về. Trong số ấy có cựu vương Chiêm Thành, khó lòng trở về nước. Nên triệu y sang chầu trẫm sẽ gia ân cho” 4. 

Tuy nhiên liên minh này không thành. Lý Thường Kiệt đã đón được âm mưu của Tống nên đã có đối sách từ trước. Sử chép tháng Tám năm Ất Mão (1075), Lý Thường Kiệt đem quân tuần các đất Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, vẽ địa đồ hình thế núi sông, đổi Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh thành Minh Linh, chiêu mộ dân chúng đến ở 5.

Nếu như việc trấn yên phương nam để ngăn chặn âm mưu liên kết của Tống với Chiêm Thành, Chân Lạp đã được Lý Thường Kiệt thực hiện từ trước khi thực hiện chiến lược “tiên phát chế nhân” thì kế hoạch phòng thủ, đợi giặc Tống lại được Lý Thường Kiệt thực hiện liền sau khi san phẳng căn cứ hậu cần của Tống trên đất Tống.

_________________________
1.2. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.153,156.
3.4. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 159. 
5. Toàn thư, Sđd, tr. 291.  


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 09:03:59 pm
Kế hoạch phòng thủ của Lý Thường Kiệt gồm hai nội dung chủ yếu: bố trí quân chặn giặc từ biên giới, nơi cửa ngõ đông bắc của đất nước và lập phòng tuyến chống giặc sâu trong nội địa.

Bố trí lực lượng phòng ngự chặn giặc từ biên giới.

Các tướng lĩnh và quân sĩ vừa hoàn thành việc triệt phá căn cứ quân sự và hậu cần của Tống trên đất Tống đã nhanh chóng rút về nước thực hiện bước hai trong kế hoạch chống giặc: bố trí lực lượng, sẵn sàng đánh tan giặc Tống xâm lược. 

Về thủy binh, Lý Thường Kiệt bố trí một lực lượng gồm thuỷ binh là chính có kết hợp với bộ binh đóng dọc sông Đông Kênh do tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy. Sông Đông Kênh là dải nước nông ven biển Quảng Ninh ngày nay, là tuyến đường thuỷ nối liền các cảng ở địa đầu biên giới Móng Cái đến cửa sông Bạnh Đằng.

Nhiệm vụ của cánh quân thuỷ này là ngăn chặn cho được thủy binh Tống dọc theo ven biển tiến vào đất liền của ta, làm thất bại hoàn toàn kế hợp đồng thủy, bộ của địch.

Về bộ binh, Lý Thường Kiệt dựa theo địa hình và hệ thống đường giao thông vùng đông bắc nước ta để bày một thế trận nhằm đánh kiềm chế, tiêu hao rồi chặn đứng các mũi tiến công của bộ binh Tống.

Các mũi tiến công của địch gồm bộ binh và kỵ binh đã tập kết ở Ung Châu và các trại xung quanh dọc biên giới. Tiến vào Đại Việt chúng đều phải đi qua vùng núi rừng đông bắc nước ta khá hiểm trở. Lý Thường Kiệt đã tổ chức ở đó những đội quân thượng du do trai tráng các tộc thiểu số tham gia, phân phối lực lượng như sau:

- Đạo quân Quảng Nguyên (Cao Bằng) khoảng 5000 quân do tướng Lưu Kỷ trực tiếp chỉ huy. Dưới quyền Lưu Kỷ còn có nhiều tỳ tướng giỏi từng là bộ hạ của Nùng Trí Cao, Nùng Tôn Đán tham gia uy hiếp hậu phương và dường tiếp tế của địch.

- Đạo quân Hạ Liên - Cổ Lộng (Ngân Sơn, Bắc Cạn) đón đánh mũi quân địch khi đã tiến vào sâu, hoặc chia quân cơ động tiếp ứng cho địa bàn Quảng Nguyên.

- Đạo quân Môn Châu (Đông Khê - Cao Bằng) do tướng Hoàng Kim Mãn cùng các tỳ tướng Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh chỉ huy, đón chặn địch từ phía Thái Bình tràn sang hoặc theo đường Bình Gia tiến vào sông Phú Lương (sông Cầu, phần chậy qua Thái Nguyên hiện nay).

- Đạo quân Động Giáp (Lạng Sơn) do Phò mã Thân Cảnh Phúc làm tướng, có nhiệm vụ đối phó quân dịch vào theo đường quan lộ đến Thăng Long. Trên tuyến đường này có những địa điểm rất quan trọng như đèo Quyết Lý (Nhân Lý thuộc Ôn Châu). ải Giáp Khẩu (Chi Lăng)...

Đây là một đạo phòng ngự quan trọng, có sự hỗ trợ của các đạo quân của tướng Hoàng Kim Mãn và đạo quân của Vi Thủ An hình thành tuyến giữa phối hợp với cánh tả của Lưu Kỷ và cánh hữu của Lý Kế Nguyên.

- Đạo quân Tô Mậu (Quảng Ninh) do tướng Vi Thủ An chỉ huy, đón địch vào theo tuyến đường mòn qua Tiên Yên, Đình Lập, Đan Ba rẽ về tây xuống ải Quyết Lý - Lạng Châu (Lạng Sơn) .

Năm đạo quân trên hình thành một tuyến phòng ngự thuỷ, bộ liên hoàn phòng giữ dọc biên giới phía bắc. Những đạo quân miền núi trên đây khá mạnh, bừng bừng khí thế vừa chiến thắng ở Ung Châu và đặc biệt rất am hiểu địa hình, thông thạo đường đi lối lại, chiến đấu ngay trên quê hương của mình. Phó tướng Tống là Triệu Tiết hốt hoảng thấy: “Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Thân Cảnh Phúc ở động Giáp đều cầm cường binh” 1.  

_____________________
1. Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên: Sđd; xem Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.28.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 10:40:12 pm
Nhiệm vụ của các đạo quân thượng du là đánh kiềm chế, tiêu hao các đạo quân địch khi chúng tiến sang và sau đó đẩy mạnh hoạt động vùng sau lưng dịch nhằm quấy rối và nhất là ngăn chặn đường vận chuyển, tiếp tế của địch; đồng thời sản sàng phối hợp với quân chủ lực khi chuyển sang phản công.

Các lúc lượng vũ trang của các dân tộc miền núi đã kìm chân và tiêu hao lực lượng địch nhưng không thể chặn đứng được bước tiến trên đường bộ của các đạo quân Tống. Riêng thuỷ quân Tống do Dương Tùng Tiên cầm đầu tập trung tại cảng Liêm Châu theo dòng Đông Kênh tiến về cửa sông Bạch Đằng đã bị cánh quân của Thân Cảnh Phúc đánh cho đại bại ở Vĩnh An.

Dương Tùng Tiên phải đem binh thuyền còn lại lul về đóng ở cửa sông Đông Kênh cố thủ chờ đợi, nghe ngóng tình hình. Các mũi tiến công trên bộ của địch với thế mạnh ban đầu, đã vượt qua sức chống cự của các đạo quân thượng du cúa Đại Việt, nhưng muốn tiến về Thăng Long chúng đều nhất thiết phải qua dòng sông Cầu (thời Lý gọi là sông Nguyệt Đức) .

Xây dựng phòng tuyến Nguyệt Đức (Sông Cầu).

Sông Cầu bắt nguồn từ Cao Bằng qua Bắc Cạnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh đổ ra sông Lục Đầu ở Phả Lại (Hải Dương). Dòng sông chặn ngang tất cả con đường bộ từ Quảng Tây vào Thăng Long. Thượng lưu sông Cầu rất hiểm trở. Khúc sông từ Thái Nguyên đến Đa Phúc có thể qua lại được, nhưng phía sau lại có dãy núi Tam Đảo án ngữ khó vượt qua. Chỉ có khúc sông từ Đa Phúc đến Phả Lại dài khoảng gần 100 km, nhất là từ ngã ba sông Cà Lồ, sông Cầu trở về xuôi, tức sông Như Nguyệt (đoạn giữa sông Nguyệt Đức) là qua lại dễ dàng, có bến đò và đường bộ về Thăng Long.

Từ bến đò sông Nguyệt Đức theo đường bộ về Thăng Long có hai đường. Một đường qua thôn Đông (tức phường La Đông, xã Tam Giang, huyện Yên Phong) và các làng Yên Vĩ Yên Phụ (thuộc Yên Phong, Bắc Ninh); Thủy Lôi, Vân Điềm (Vân Hà, Đông Anh); Hà Vĩ (Liên Hà, Đông Anh), Dục Tú (Đông Anh, Hà Nội) về Thăng Long.

Đây là con đường giao thông cổ, dài khoảng hơn 20 km phải qua nhiều chỗ lầy lội Nhân dân vùng này có câu ca dao kể về những chỗ lầy lội đó:

Thứ nhất là cửa đền Xà (thôn Đông, Tam Giang)
Thứ nhì cầu Gạo (Yên Phụ),
Thứ ba Vân Điềm (Vân Hà).


Con đường thứ hai từ Như Nguyệt qua Nguyệt Cầu, Trác Bút, Hàm Sơn (Yên Phong, Bắc Ninh) rồi ra con đường chính về Thăng Long (tức đường Từ Sơn - Hà Nội ngày nay). Con đường này dài chừng 30 km và ra đời sau con đường trên. 

Do vị trí và địa thế lợi hại của nó, Lý Thường Kiệt quyết định lập phòng tuyến chủ yếu ở bờ nam sông Nguyệt Đức nhằm chặn đứng các đạo quân Tống xâm lược, kìm giữ chúng ở vùng bắc sông Cầu.

Lý Thường Kiệt “đắp lũy làm rào ở dọc sông để cố giữ”.  Sách Việt điện u linh cũng có nói vắn tắt: Lý Thường Kiệt “dựng rào ở ven sông để chống giữ”. Các tác giả đương thời của nhà Tống cũng xác nhận khi quân Tống qua sông phải vừa chặt vừa đốt phá mấy lớp trại rào bằng tre” 1 .
 
Những tài liệu thư tịch đó kết hợp với kết quả khảo sát thực địa cho phép hình dung chiến tuyến chủ yếu của Lý Thường Kiệt được xây dựng như sau:

Bản thân lòng sông Nguyệt Đức được lợi dụng như một chướng ngại thiên nhiên ngăn cản bước tiến của bộ binh và kỵ binh địch. Chướng ngại thiên nhiên đó càng trở nên khó khăn đối với quân địch khi kế hoạch hiệp đồng với thủy binh để vượt sông bị quân ta làm thất bại từ đầu. 

__________________________
1. Trình Di - Trình Hạo: Nhị Trình di thư, sao lại trong Tống – Lý bang giao tập lục, sách chép tay, do Hoàng Xuân Hãn trích lục.  Nguyễn Văn Dị và Văn Lang. . . Nghiên cứu lịch sử, số 72 năm 1965, tr. 28 - 36.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 10:43:30 pm
Phía nam sông Nguyệt Đức, Lý Thường Kiệt cho đắp chiến lũy bằng đất dọc bờ sông. Phía ngoài lũy, mặt giáp sông, ông sai đóng cọc tre làm dậu dày mấy tầng. Dưới bãi sông còn có những hố chông ngầm. Sông rộng, lũy cao và ở giữa là hai bãi chướng ngại gồm hố chông, dậu tre dày. Tất cả những kiến trúc tự nhiên và nhân tạo đó được tổ chức lại, kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo thành một phòng tuyến vừng chắc.

Nói chung, phòng tuyến sông Nguyệt Đức chạy dài từ chân núi Tam Đảo (khoảng Đa Phúc) chủ yếu là từ ngã ba Cà Lồ - sông Cầu đến Vạn Xuân (Phả Lại). Nhưng trên đoạn sông này cũng có nhiều chỗ địa thế hiểm trở. Đó là những chỗ núi ăn sát bờ sông như núi Nham Biền hoặc rừng cây um tùm 1 qua lại rất khó khăn. ở những chỗ đó, quân ta không cần thiết phải đắp lũy, lập bãi chướng ngại mà chỉ tận dụng địa hình để bảo vệ phòng tuyến ngăn chạn quân địch vượt sông.

Quân đội chủ lực do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, bảo vệ phòng tuyến sông Nguyệt Đức, Lý Thường Kiệt không dàn mỏng lực lượng trên phòng tuyến kéo dài đó mà bố trí binh lực có trọng điểm vừa kiểm soát, bảo vệ được toàn bộ trận địa, vừa dễ dàng cơ động để có thể nhanh chóng tập trung quân đánh bại những mũi đột phá của địch hay tổ chức phản công khi có thời cơ.

Trên phòng tuyến, một bộ phận bộ binh đóng thành từng trại quân ở những vị trí xung yếu mà quân địch có thể vượt sông tiến công nhằm chọc thủng phòng tuyến của ta. Trong số các trại quân đó có ba trại quan trọng là Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động. Hai trại quân Như Nguyệt, Thị Cầu khống chế hai bên đò ngang và con đường tiến về Thăng Long. 

Vùng Phấn Động (xã Tam Đa, Yên Phong) ngược lên phía bắc đến Thọ Đức và xuôi xuống phía nam đến ĐàI Lâm (đều thuộc xã Tam Đa, Yên Phong) xưa kia là cạnh rừng rậm, không có bến đò ngang, nhưng ở đây lòng sông hẹp, giữa sông lại có ghềnh đá Can Vang (khoảng ngang thôn Thọ Đức), quân địch có thể bắc cầu vượt sông.

Trại quân Phấn Động có nhiệm vụ bảo vệ đoạn phòng tuyến này, đề phòng quân địch lợi dụng địa hình có lợi để tổ chức vượt sông 2. Ở mỗi trại quân ngoài bộ binh, có thể có một số thủy binh phối hợp. Thuyền chiến của ta đậu ở ven sông, bên bờ nam. 

Về thuỷ binh, đại bộ phận đóng tập trung ở Vạn Xuân (vùng sông Lục Đầu) về phía cực đông của phòng tuyến. Vạn Xuân là một ví trí chiến lược trọng yếu ở vào đầu mối của tất cả các đường thủy vùng đông - bắc. Từ Vạn Xuân, thủy binh của ta có thể ngược sông Lục Nam, sông Thương, sông Cầu tiến sâu vào địa bàn vùng đông - bắc, có thể xuôi sông Bạch Đằng, sông Thái Bình ra biển, có thể theo sông Thiên Đức (sông Đường) về Thăng Long.

_______________________________
1. Núi Nham Biền một phần huyện Việt Yên và phần lớn huyện Yên Dũng (Hà Bắc), có chỗ chạy sát bờ sông Cầu. Đó là những nới hiểm trở, cư dân thưa thớt.
Hai bên bờ sông Như Nguyệt trước dây có nhiều rừng cây, nhất là bờ bắc. Tại nhiều thôn ở bờ nam như: Đại Lâm, Lương Cầm, Phù Cầm...ngày nay nhân dân vẫn đào được cây gỗ to còn nguyên hình, đã bắt đầu hóa than.  Đó là dấu tích của rừng cây xưa kia.
Bờ bắc trước đây hầu hết là rừng rậm, bãi hoang, dân rất thưa thớt. Cho đến đời Nguyễn, nhân dân bờ nam vẫn sang khai phá bờ bắc, hoặc sáng đi tối về, hoặc lập thành những xóm làng mới ở bờ bắc.
Thôn Vọng Giang hay Vọng Con (xã Mai Đình, huyện hiệp Hòa) là do những người thôn Vọng Nguyệt hay Vọng Cả (huyện Yên Phong) lập nên. Làng Yên Minh (xã Hòa Bình. Hiệp Hòa cũng do dân xã Phù Yên (Yên Phong) lập nên.
Bến Phù Cầm (xã Dũng Liệt, Yên Phong) gọi là bến Gầm. Các làng ở bến đò cũng gọi là làng Gầm. Gầm Thượng là Phù Cầm, Gầm Hạ là Lương Cầm.
Tục truyền xưa kia sông Cầu chưa có đê, sau khi Lý Thường Kiệt đắp lũy chống quân Tống, nhân dân mới theo đó mà đắp thành đê. Điều này phù hợp với tài liệu Đại Việt sử lược chép rằng:
“Năm Anh Vũ Chiếu tháng thứ hai (1077), tháng Chín đắp đê ở sông Như Nguyệt dài 67.360 bộ”.
2. Nhân dân xã Tam Đa còn ghi nhớ truyền thuyết liên quan đến trại quân Phấn Động. Đội quân nhà Lý đóng ở đây có nhiều kỵ binh, cứt ngựa chất thành động. Vì vậy người ta gọi nơi đó là thôn “Cứt Ngựa”, dịch sang tiếng Hán - Việt là thôn Phân Đông rồi sau đọc chệnh đi là Phân Động.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 10:45:43 pm
Lực lượng thủy binh đóng ở Vạn Xuân do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy, có đến trên 400 thuyền chiến và hơn hai vạn quân 1.
 
Nhiệm vụ của đoàn binh thuyền này là sẵn sàng cơ động tiếp ứng cho mọi mặt trận khi cần thiết và đặc biệt quan trọng là phối hợp với chủ lực bộ binh bảo vệ phòng tuyến sông Nguyệt Đức và tổ chức phản công, thực hành những trận quyết chiến. 

Đại bộ phận bộ binh do Lý Thường Kiệt trực tiếp nắm, đóng tập trung ở phủ Thiên Đức, phía sau phòng tuyến. Địa điểm đóng quân là một vị trí cơ động có thể khống chế mọi ngả đường tiến về Thăng Long và kịp thời chi viện cho các hướng trên phòng tuyến mỗi khi bị tiến công.

Nhiệm vụ của đại quân là sẵn sàng sử dụng binh lực tập trung tổ chức phản kích đánh bại mọi mũi tiến công của địch. Theo truyền thuyết dân gian một số làng thì đại bản doanh của Lý Thường Kiệt đóng ở xã Yên Phụ. Xã này nằm trên con đường từ bến đò Như Nguyệt về Thăng Long, cách Như Nguyệt khoảng 6 km, không cách xa những con đường bộ khác về Thăng Long, lại có núi Thất Diệu gồm bảy ngọn núi thấp nổi lên giữa cánh đồng bằng phẳng.

Vị trí và địa hình đó có thể thích hợp với nơi đóng đại bản doanh của Lý Thường Kiệt. Toàn bộ lực lượng chủ lực bố trí ở phòng tuyến sông Nguyệt Đức, kể cả quân bộ và quân thuỷ, có thể lên đến khoảng sáu vạn quân 

Như vậy quân địch sẽ bị kìm giữ ở phía bắc sông Nguyệt Đức trên một địa bàn núi rừng dân cư thưa thớt, lại xa hậu phương của chúng hàng trăm kilômét. Lập phòng tuyến sông Nguyệt Đức nhằm bảo vệ được kinh thành Thăng Long khỏi rơi vào tay giặc, bảo vệ được vùng đồng bằng phì nhiêu đông dân nhiều của, địa bàn trung tâm của đất nước, tránh khỏi sự tàn phá của bọn xâm lược và theo quan niệm đương thời, còn nhằm bảo vệ khu quê hương, lăng mộ tổ tiên của vua nhà Lý ở Thiên Đức.

Thế là sau khi chủ động tiến công Ung Châu trước giáng cho kẻ thù đang chuẩn bị xâm lược một đòn phủ đầu choáng váng hết sức bất ngờ, Lý Thường Kiệt đã kịp thời rút quân về nước, bày sẵn một thế trận để chủ động đánh tan các đạo quân xâm lược Tống.

Đặc điểm nổi bật của thế trận này là bố trí trên diện rộng, có chiều sâu, có trọng điểm, lợi dụng ưu thế hiểm trở của địa hình, phối hợp chặt chẽ giữa quân chủ lực của triều đình với lực lượng vũ trang của địa phương nhằm đánh địch cả trước mặt và sau lưng.

Phòng tuyến sông Nguyệt Đức là nơi sẽ diễn ra những trận chiến đấu ác liệt làm thất bại mọi cố gắng tiến công của quân địch và cũng là nơi sẽ diễn ra trận quyết chiến chiến lược ở sông Như nguyện quyết định thắng lợi của dân tộc ta và thất bại thảm hại của quân Tống xâm lược.

_____________________________
1. Trong cuộc phán công sau này, có lần Hoằng Chân và Chiêu Văn đã dùng 400 thuyền chiến chở vài vạn quân đổ bộ lên bờ bắc, đánh vào doanh trại quân Tống. Như vậy, số thuyền chiến phải có trên 400 chiếc và số quân phải có trên hai vạn (Hoàng Xuân Hãn: Sđd. tr. 259, 276).
Hiện nay chưa tìm thấy một tài liệu nào ghi chép số quân của Lý Thường Kiệt đóng ở phòng tuyến này. Riêng đạo quân thủy của Hoằng Chân, Chiêu Văn phải có ít nhất là hơn hai vạn quân.  Số quân bộ đóng thành trại quân trên phòng tuyến và đóng tập trung phía sau, tất nhiên phải nhiều hơn số quân thủy ở Vạn Xuân, có thể gấp đôi. Căn cứ vào sự bố trí binh lực của Lý Thường Kiệt và số quân địch đóng ở bờ bắc có 10 vạn quân chiến đấu, tạm ước đoán số quân ta là khoảng sáu vạn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 10:47:57 pm
4. Chiến thắng giặc Tống trên chiến trường Như Nguyệt.

Cuối năm 1076, quân Tống bắt đầu cuộc viễn chinh xâm lược nước ta. Thủy quân Tống từ Khâm Châu tiến trước về phía Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh). Bộ binh Tống tập trung ở Ung Châu theo nhiều ngả vượt biên giới tiến vào nước ta.

Ngày 8-1-1077, đại quân do Quách Quỳ chỉ huy vượt qua ải Nam Quan tiến vào vùng Lạng Sơn, định theo đường sứ lộ do nhà Lý đắp từ năm 1020 xuống Thăng Long. 

Trên các đường tiến quân của địch, quân ta chặn đánh quyết liệt ở nhiều nơi, gây cho chúng một số khó khăn, thiệt hại.  Một số trận đầu như trận Ngọc Sơn, Quảng Nguyên, thế giặc mạnh, ta chưa chống nổi, phải tạm rút lui. 

Ngày 18-1-1077, các mũi tiến công của quân Tống đến bờ bắc sông Cầu. Đúng như dự kiến của Lý Thường Kiệt, đến đây bộ binh và kỵ binh địch bị chặn đứng lại trước chướng ngại tự nhiên là dòng sông Cầu và chiến tuyến kiên cố của quân ta ở bờ nam đoạn sông Như Nguyệt.

Đây chính là lúc và nơi quân thủy, bộ của địch cần phối hợp với nhau, tổ chức vượt sông để tiến thẳng về Thăng Long như kế hoạch hành quân đã vạch ra. Nhưng thủy binh Tống do Dương Tùng Tiên chỉ huy đã bị đội binh thuyền của ta do Lý Kế Nguyên chỉ huy chặn lại ở Vĩnh An.

Chúng cố gắng đánh mở đường để theo sông Đông Kênh tiến vào cửa sông Bạch Đằng, nhưng mười trận liền bị quân ta đánh bại, không sao nhích lên được một bước. Tiến không được, rút lui về nước sợ bị tội, thủy binh địch đành đóng ở cửa sông Đông Kênh để chờ đợi tin tức của bộ binh.

Cho đến lúc có lệnh triều đình gọi về, bọn này mới biết bộ binh Tống đã thất bại.

Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân ta nằm trong toàn bộ kế hoạch kháng chiến của Lý Thường Kiệt. Chưa thấy thủy binh vào để hiệp đồng vượt sông, Quách Quỳ quyết định phải đóng quân lại ở bờ bắc sông Nguyệt Đức trên một trận tuyến dài 60 dặm (khoảng hơn 30 km). 

Với ý đồ chuẩn bị vượt sông, tiếp tục cuộc tiến công đánh chiếm kinh thành Thăng Long, hoàn thành cuộc chiến tranh xâm lược. Quân địch không dàn đều lực lượng trên trận tuyến kéo dài đó, mà đóng thành từng khối ở những vị trí xung yếu và nhất là những bến đò. con đường thuận lợi tiến về Thăng Long.

Một bộ phận quan trọng quân Tống do Phó tướng Triệu Tiết chỉ huy đóng ở bờ bắc bến Như Nguyệt, vùng thôn Mai Thượng, xã Mai Đình (huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang) ngày nay. Đại bản doanh của chủ tướng Quách Quỳ đóng ở phía đông, cách khu vực đóng quân của Triệu Tiết 60 dặm (khoảng 30 km) 1.
 
Hiện nay, tài liệu trong thư tịch và kết quả điều tra khảo sát điền dã chưa cho phép xác định địa điểm đóng quân này của định. Nhưng căn cứ vào khoảng cách 60 dặm về phía đông so với sơ chỉ huy của Triệu Tiết thì có thể phỏng đoán đại bản doanh của Quách Quỳ đặt ở khoảng đối diện với Thị Cầu (gần thị xã Bắc Ninh), thuộc huyện Việt Yên (Bắc Giang) ngày nay. Đây cũng là một vị trí trọng yếu ở gần bến đò Thị Cầu và nằm trên đường quan lộ đi Thăng Long.

Như vậy là quân địch chia làm hai khối lớn do chánh tướng và phó tướng trực tiếp nắm, đóng ở hai địa điểm cách nhau 60 dặm ở bờ bắc sông Nguyệt Đức. Hai địa điểm ấy đều ở trước hai bến đò quan trọng của sông Nguyệt Đức (bến Như Nguyệt và bến Thị Cầu) và nằm trên hai trục vận động thuận lợi nhất tiến về Thăng Long.

________________________
1. Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên (bản Hán). 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 10:51:10 pm
Khoảng giữa hai khối quân lớn ở hai phía đông, tây, một bộ phận quân Tống còn chia nhau đóng giữ một số vị trí cần thiết để có thể liên hệ, tiếp ứng với nhau khi tổ chức vượt sông cũng như khi bất ngờ bị quân ta tiến công. Trong số các vị trí đó có địa điểm núi Tiên Lát ở thôn Hạ Lát, xã Tiên Sơn (huyện Việt Yên, Bắc Giang) ngày nay.

Khu núi Tiên Lát gồm có núi Voi, núi Chút, núi Lều, núi Phượng Hoàng. . . độ cao dưới 80m. Đứng trên núi Phượng Hoàng có thể quan sát một vùng rộng lớn ở bờ nam đoạn sông Như Nguyệt (từ xã Dũng Liệt đến xã Hòa Long và cả vùng Thị Cầu, Đáp Cầu). 

Giữa các ngọn núi có một khu lòng chảo gọi là cánh đồng Nội rộng khoảng 20 mẫu Bắc Bộ. Từ đồng Nội ra bờ sông có đường đi dài gần 2 km. Khu núi Tiên Lát cách doanh trại của Triệu Tiết ở phía tây khoảng 20 km và cách đại bản doanh của Quách Quỳ ở phía đông khoảng 10 km.

Khúc sông Nguyệt Đức qua vùng này lại hẹp và ở giữa có ghềnh Can Vang. Quân Tống đóng ở Tiên Lát và chiếm giữ một vị trí trung gian giữa hai khối quân chính, vừa chiếm lĩnh một điểm cao có lợi để quan sát trận địa quân ta ở bờ nam đối diện với Tiên Lát có trại quân Lý ở Phấn Động, vừa có thể khi cần thiết sẽ bắc cầu phao qua ghềnh đá Can Vàng để vượt sông 1. 

Tiến xuống bờ bắc đoạn sông Như Nguyệt, quân Tống chỉ cách Thăng Long khoảng 20 km. Từ biên giới đến đây, chúng đã tiến quân không đến nỗi khó khăn lắm, nên muốn thừa thắng tiếp tục cuộn tiến công. Quách Quỳ cũng nóng lòng muốn chiếm Thăng Long để thực hiện kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh như vua Tống đã căn dặn. Chúng bất đắc dĩ phải tạm đóng quân lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt là để chờ sự chi viện của thủy quân.

Sau một thời gian không thấy thủy quân, Quách Quỳ và Triệu Tiết quyết định tổ chức vượt sông bằng lực lượng bộ binh và kỵ binh. 

Phía trước đại bản doanh của Quách Quỳ, bên kia sông Như Nguyệt có một trại quân của ta án ngữ và dịch về phía đông lại có lực lượng thủy binh mạnh của Hoằng Chân, Chiêu Văn đóng ở Vạn Xuân (gần Phả Lại) có thể cơ động ngược sông Nguyệt Đức đánh phía trước hay ngược sông Thương chẹn phía sau quân Tống.

Chúng đoán rằng quân ta tập trung lực lượng ngăn chặn đại quân của Quách Quỳ tiến theo đường quan lộ, nên phòng không dám vượt sông ở bến Thị Cầu. Trong lúc đó, tướng Miêu Lý ở Như Nguyệt lại bảo rằng: “Giặc Man (chỉ quân ta - T.G.) đã trốn đi2 và xin “thừa hư” đem bộ bình vượt sông đột phá phòng tuyến quân ta ở mạn này để mở đường cho đại quân tiến công. Quách Quỳ đã chấp nhận kế hoạch đó.
 
Tướng Vương Tiến liền được lệnh bắc cầu phao qua bến Như Nguyệt để cho đội quân xung kích do Miêu Lý chỉ huy sang sông. Đội quân Miêu Lý gồm khoảng vài nghìn quân.  Chúng dùng cầu phao vượt sông và chọc thủng được phòng tuyến quân ta.

Miêu Lý hết sức chủ quan, khinh địch. Hắn cho rằng “một trận đánh tan quân giặc” nên không cần chờ đại quân qua sông, mà tự mình đưa đội xung kích tiến quân.  Đội quân Miêu Lý vừa tiến đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi (Đông Anh, Hà Nội) cách Như Nguyệt khoảng 6 km thì bất ngờ bị quân ta đổ ra chặn đánh quyết liệt.

Yên Phụ lại có núi Thất Diệu cây cối rậm rạp, có cầu Gạo là chỗ lầy lội khó đi qua. Lý Thường Kiệt sử dụng một bộ phận quân chủ lực, lợi dụng địa hình, tổ chức phản kích vừa chặn đánh phía trước vừa chẹn đường rút lui phía sau.

_________________________
1. Nhân dân thôn Hạ Lát cũng kể rằng: quân Tống đóng quân ở cánh đồng Nội và núi Phượng Hoàng chống nhau với quân ta ở bờ nam thuộc xã Tam Đa (Yên Phong - Bắc Ninh). Truyền thuyết vùng Tam Đa cũng nói quân nhà Lý đóng ở Phấn Động đánh nhau với quân Tống ở bờ bắc.
2. Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên, dẫn theo Tống-Lý bang giao tập lục, Sđd.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 07 Tháng Năm, 2009, 10:55:45 pm
Quân ta được nhân dân hết lòng giúp đỡ, chiến đấu ngoan cường. Quân Tống bị đánh tan số sống sót cùng với Miêu Lý hốt hoảng chạy về Như Nguyệt. Nhưng đến nơi thì cầu phao đã bị cắt 1 và quân ta đã chẹn đường về của chúng. Bên kia sông, quân địch cho bè sang cứu nhưng không có kết quả.

Hầu hết đội quân xung kích của Miêu Lý đều bị tiêu diệt.  Chỉ có Miêu Lý và một số ít tàn quân liều chết mở đường chạy thoát về bờ bắc. Cuộc tiến công lần thứ nhất của quân địch đã bị đập tan. Quách Quỳ rất tức tối và đổ cơn giận giữ lên đầu Miêu Lý.  Hắn coi Miêu Lý là một “tướng kiêu” và “định xử tử theo quân pháp2.

Sau chiến thắng Như Nguyệt, tướng Quách Quỳ không dám chủ quan và liều lĩnh vượt sông, mà đành phải chờ thủy binh. Nhưng hắn có biết đâu thủy binh Tống đã bị thủy binh ta chặn đứng ở ngoài bờ biển, không tiến lên được. 

Chờ mãi không thấy thủy binh, Quách Quỳ lại phải ra lệnh tổ chức cuộc tiến công lần thứ hai. Lần này chúng huy động một lực lượng mạnh hơn và đóng bè lớn chở quân qua sông. Mỗi lần bè đưa được 500 quân. Hết lớp này đến lớp khác, quân địch đổ bộ sang bờ nam sông Như Nguyệt rồi xông lên phá bãi chướng ngại ven sông 3 chúng chặt, đốt  những hàng rào bằng tre.
 
Nhưng dậu dày mấy tầng rất khó phá, lại bị quân ta từ trên chiến luỹ đánh xuống dữ đội. Do khả năng chuyên chở của bè, mỗi lần quân địch chi đổ bộ được 500 quân rồi phải đưa bè về bờ bắc để tiếp tục chở đợt sau. Nhờ chiến tuyến kiên cố nên quân địch đổ bộ đợt nào bị tiêu diệt đợt đó. Một người Tống đương thời đã mô tả trận đánh như sau: “dùng bè chở 500 quân vượt sông vừa chặt vừa đốt mấy lần rào tre không được. Đem bè không trở về để chở cứu binh nhưng lại bị giặc (chỉ quân ta) bắt giết. Thế là quân không được cứu, kẻ trốn, kẻ chết, không thành công được4.

Cuộc tiến công lần thứ hai của quân Tống lại bị đập tan.  Hai lần vượt sông tiến công, hai lần bị thất bại thảm hại.  Trước đoạn sông Như Nguyệt và chiến thuyền bờ nam của quân ta, Quách Quỳ cảm thấy bất lực, không có sự hiệp đồng của thủy binh thì bộ binh và kỵ binh Tống không thể vượt qua được. Viên chánh tướng thống lĩnh 10 vạn quân chiến đấu và 20 vạn phu phục dịch của triều Tống không dám nghĩ đến tiến công nữa. Quách Qùy quyết định dứt khoát phải chờ thủy quân và buồn rầu ra lệnh “Ai bàn đánh sẽ chém5.

Quân địch từ thế tiến công đã phải chuyển sang thế tạm thời cố thủ để chấn chỉnh lực lượng và đợi thủy quân. ý đồ đánh nhanh thắng nhanh của địch đã bị phá sản. Đó là một thất bại về chiến, lược rất nặng nề đối với quân Tống.  Lực lượng quân địch chưa bị tổn thất nhiều lắm, nhưng thế của địch đã trở nên suy yếu, bị động.

Trước mắt quân Tống, chiến tuyến Như Nguyệt của quân ta ngày càng trở nên vững vàng và bất khả xâm phạm. Hàng ngày Lý Thường Kiệt cho quân sĩ khiêu khích nhưng quân địch không dám liều lĩnh tiến công.

Như trên đã trình bày giờ ở bờ bắc sông Như Nguyệt, quân Tống đóng thành hai khối lớn trên hai con đường tiến về Thăng Long, ở khoảng giữa có một số doanh trại để sẵn sàng liên hệ, tiếp ứng cho nhau. Khối quân của thánh tướng Quách Quỳ đóng ở phía đông, khoảng bờ bắc bến đò Thị Cầu, trên đường quan lộ.  Khối quân của Phó tướng Triệu Tiết đóng ở phía tây, khoảng bờ bắc bến đò Như Nguyệt.

___________________________
1. Theo Tục tư trị thông giám trường biên thì Vương Tiến đã “vội vàng cắt cầu” vì sợ quân ta lợi dụng tràn sang bờ bắc. Nhưng theo truyền thuyết nhân dân vùng Mai Đình thì quân ta đã phá cầu để chẹn đường rút lui cua Miêu Lý và ngăn cản quân Tống ở bờ bắc sang tiếp cứu.
2. Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên, Sđd.
3. Truyền thuyết dân gian vùng ven sông Như Nguyệt có nhắc đến một trận đánh ác liệt của quân ta ở Phấn Động (Tam Đa, Yên Phong) chống lại quân Tống từ Tiên Lát (Tiên Sơn, Việt Yên) tiến công sang. Phải chăng đây là nơi quân địch vượt sông tiến công vào chiến tuyến quân ta lần thứ hai này?
4. Trình Di -Trình Hạo: Nhi Trình di thư. 
5. Tôn Thăng: Đàm Phô, dẫn theo Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.289


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 12:47:56 am
Trước hết, Lý Thường Kiệt chọn khối quân của Quách Quỳ làm đối tượng tiến công.

Khối quân của Quách Quỳ khá đông, khoảng trên một nửa số quân viễn chinh nghĩa là trên năm vạn quân. Dưới trướng của Quách Quỳ có phó đô tổng quản Yên Đạt và những bộ tướng như Diêu Tự, Trương Thế Cự, Khúc Chẩn, Vương Mẫn . . .

Khu vực đóng quân của Quách Quỳ nằm giữa ba mặt uy hiếp của quân ta: trước mặt (phía nam) là chiến tuyến Như Nguyệt và trại quân ta ở Thị Cầu; bên trái (phía đông) là đội thủy binh của Hoằng Chân, Chiêu Văn ở Vạn Xuân; sau lưng (phía bắc) là đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phút đang hoạt động ráo nết ở động Giáp.

Theo kế hoạch của Lý Thường Kiệt, hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn được lệnh chỉ huy một đoàn chiến thuyền 400 chiếc chở hai vạn quân, từ Vạn Xuân ngược sông Nguyệt Đức mở một cuộc tiến công lớn vào khu vực doanh trại của Quách Quỳ.

Đây là mũi tiến công chính diện vào cánh trái khối quân địch lớn nhất là đại bản doanh của chánh tướng Quách Quỳ. Như nhà sử nhà Tống mô tả: “Vài vạn quân quát tháo, chửi mắng đến đánh” 1.  Đoàn chiến thuyền của ta đổ quân lên bờ bắc, đánh thẳng vào doanh trại của quân Tống. Lúc mới giao chiến, quân địch lúng túng và phải lui.

Sách Tục tư trị thông giám trường biên cua Tống ghi “tiến quân bất lợi”. Quách Quỳ phải huy động toàn bộ lực lượng và đem cả đội thân quân ra chống cự.  Quân ta tiến đánh khá sâu vào trận địa của địch, quân địch tung ra ngày càng đông và tổ chức phản kích quyết liệt.Từ trên bờ quân địch dùng máy bắn đá dữ đội làm cho một số chiến thuyền của ta bị đắm. Hai hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn đã hy sinh anh dũng trong chiến đấu. 

Nhìn chung, cuộc tiến công của thủy quân ta có gây cho quân địch nhiều thiệt hại, nhưng bản thân ta cũng bị tổn thất khá nặng. Hai vị hoàng tử chỉ huy và khoảng vài nghìn quân đã hy sinh. Do vậy, Lý Thường Kiệt phải tạo ra thời cơ, chuẩn bị điều kiện có lợi cho một mũi tiến công khác - mũi tiến công chủ yếu do Lý Thường Kiệt đích thân chỉ huy - bất ngờ tập kích vào chỗ sơ hở của địch, giành thắng lợi quyết định. 

Trong lúc quân địch đang lo đối phó với cuộc tiến công ồ ạt của thủy quân ta vào doanh trại của chánh tướng Quách Quỳ thì đang đêm Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đại quân vượt bến đò Như Nguyệt đánh úp vào doanh trại của phó tướng Triệu Tiết ở bờ bắc.

Dưới quyền của Triệu Tiết có những tướng cao cấp của quân Tống như Vương Tiến, Miêu Lý. Số quân do Triệu Tiết trực tiếp chỉ huy cũng khá đông, ước đoán khoảng dưới một nửa số quân Tống, nghĩa là độ ba, bốn vạn quân chiến đấu.

Khu vực đóng quân của Triệu Tiết ở phía bắc bến Như Nguyệt, nay là thôn Mai Thượng, xã Mai Đình (huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang). Đây là một khu vực tương đối rộng, quang đãng, đối diện với bến Như Nguyệt nằm trên một con đường bộ quan trọng về Thăng Long.

Riêng cánh đồng phía đông bắc Mai Thượng - nhân dân gọi là cánh đồng Xác - rộng khoảng 30 mẫu, cách bờ sông khoảng 200-300m. Giữa cánh đồng có một gò đất cao - nhân dân gọi là gò Xác - nhìn thẳng ra ngã ba Xà là cửa sông Cà Lồ đổ ra sông Cầu. Từ trên gò đất này có thể nhìn bao quát một vùng rộng lớn. 

Khu doanh trại của Triệu Tiết cũng bố trí theo lối dã chiến, không có thành lũy phòng vệ. Quân địch dựa vào xóm làng và địa hình ven sông để dựng doanh trại, tổ chức phòng ngự tạm thời. Gò Xác hàn là một vị trí quan trọng của địch. Từ đó có thể kiểm soát con đường giao thông qua bến Như Nguyệt, có thê nhìn bao quát toàn bộ khu doanh trại và theo dõi những hoạt động của quân ta ở chiến tuyến bờ nam.

_________________________
1. Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên. Sđd.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 12:49:28 am
Căn cứ vào tên đất là truyền thuyết dân gian địa phương còn có thể xác định được sở chỉ huy của Triệu Tiết đặt ở khu đất đến nay vẫn mang tên là Dinh rộng hai mẫu, ba sào Bắc Bộ, cách bờ sông khoảng 500 m. Trước mặt Dinh, hai bên tả và hữu có hai khu đất mang tên là Miễu rộng một mẫu và Trại rộng một mẫu ba sào. Theo truyền thuyết dân gian, đấy là trạm gác phía ngoài và trại quân bảo vệ trực tiếp sở chỉ huy của Triệu Tiết. Miễu là di tích trạm gác phía ngoài. Trại là trại quân phía trong. Ba địa điểm Miễu, Trại, Dinh nằm trên ba góc của một hình tam giác, bố trí thành khu sở chỉ huy của phó tướng Triệu Tiết 1.

Khi đại bản doanh của Quách Quỳ ở phía tây bị tiến công, hẳn Triệu Tiết lo đối phó mặt đó và có thể điều một bộ phận quân lính đi tiếp ứng cho chánh tướng. Giữa lúc quân địch đang bị thu hút về mặt đông và đang hí hửng trước "chiến thắng” đánh lui quân ta thì ngay tối hôm ấy ở mặt tây, doanh trại của Triệu Tiết bị tập kích.

Quân địch hết sức bất ngờ, lại bị đánh úp vào ban đêm nên không kịp tổ chức đối phó có hiệu quả. Trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta, quân địch đại bại và bị tiêu diệt đến năm, sáu phần mười.  Đại Việt sử lược, một tác phẩm đời Trần, ghi chép trận tập kích của quân ta như sau : “Lý Thường Kiệt biết quân Tống sức lực đã khốn, đang đêm vượt sông tập kích, đại phá được quân Tống mười phần chết đến năm, sáu2.

Sử sách ghi chép quá sơ sài, không cho phép phục dựng lại trận đánh úp táo bạo, tài tình này cùng những hình thức chiến thuật Lý Thường Kiệt đã áp dụng. Nhưng chiến công oanh liệt cua dân tộc ta thế kỷ XI vẫn được nhân dân địa phương ghi nhớ, truyền tụng và để lại những di tích còn đến ngày nay.

Do cuộc tập. kích của quân ta, khu vực đóng doanh trại của Triệu Tiết biến thành bãi chiến trường và sau đó, hàng vạn xác giặc nằm ngổn ngang khớp cánh đồng, gò cao mà nhân dân địa phương liền đặt tên là cánh Đồng Xác, Gò Xác 3 để nêu cao một chiến công chống ngoại xâm xảy ra ở xóm làng. 

Chỉ trong vòng một đêm, cả khu doanh trại tập trung đến ba, bốn vạn quân Tống do phó tướng của địch chỉ huy bị đánh tan, năm sáu phần mười quân địch bị giết chết. Trận tập kích bằng bộ binh này đã giáng một đòn quyết định vào kế hoạch và mưu đồ xâm lược của quân Tống. Quách Quỳ và các tướng tá phải than thở với nhau:” Số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết mất quá nửa, số còn lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn” 4...

Trong trận chiến đấu quyết liệt trên chiến trường Như Nguyệt, theo ghi chép của sách Việt điện u linh và sách Đại Việt sử ký toàn thư, từ ngôi đền Trương Hống ở bờ nam sông Như Nguyệt đã vang lên bài thơ:

“Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên đinh phận tại thiên thư;
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Như đẳng hành khan thủ bại hư.”

(Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận ở sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời) 5.
 
Đây là bài thơ thần kích động tinh thần yêu nước, quyết tâm chống giặc giữ nước của binh sĩ nhằm tiêu diệt kẻ thù cướp nước giành thắng lợi hoàn toàn. Về tác giả bài thơ, tương truyền là do Lý Thường Kiệt sáng tác. nhưng chưa có cứ liệu chắc chắn. Do đó không thể khẳng định, còn phải tiếp tục nghiên cứu.

_____________________________
1. Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí: Một số trận quyệt chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 66 - 13.
2. Đại Việt sử lược, bản dịch Nxb. Văn –Sử-Địa, Hà Nội. 1960 . 
3. Gắn liền với tên cánh Đồng Xác, Gò Xác: nhân dân xã Mai Đình còn lưu truyền những truyện kể về cuộc tập kích của quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy. Trên Gò Xác còn dấu vết một ngôi chùa gọi là chùa Xác hay An Lạc tự được tập lên, theo nhân dân địa phương, là để “siêu thoát” cho những “oan hồn” quân Tống. 
4. Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên, Sđd; Tống - Lý bang giao tập lục, tr. 170.
5. Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh, bản dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1972, tr.70-71. Toàn thư, Sđd, t.1, tr. 291.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 12:59:34 am
5. “Giảng hoà” kết thúc chiến tranh

Trận quyết chiến - chiến lược ở sông Như Nguyệt vào cuối mùa Xuân năm 1077 là thắng lợi oanh liệt có ý nghĩa kết thúc chiến tranh. Sau đòn phản công quyết định này, quân địch thực sự bị dồn vào cảnh “thế cùng lực kiệt”. Thêm vào đó vào dịp cuối Xuân đầu Hạ, tiết trời xấu, dịch bệnh phát sinh. Nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn đang chờ đợi nếu chúng vẫn ngoan cố đóng quân.

Nhưng rút lui thì mất thể diện của “thiên triều”. Biết rõ ý chí xâm lược của quân thù đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động đưa ra đề nghị “giảng hòa” thực chất là mở lối thoát cho quân Tống. Đó là cách kết thúc chiến tranh mềm dẻo như Lý Thường Kiệt đã chủ trương “dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu1.

Để giành được mục tiêu giặc Tống phải rút quân về nước, Lý Thường Kiệt tạm thời chấp nhận hai điều kiện: sau chiến tranh sẽ sai sứ giả sang triều cống và tạm thời nhượng những vùng đất mà Tống đã chiếm được cho nhà Tống. Đó là năm châu miền núi: Quang Lang, Tô Mậu, Môn, Tư Lang và Quảng Nguyên. 

Nhưng khi quân Tống rút lui, Lý Thường Kiệt đã cho quân chiếm lại các đất Tô Mậu, Môn và phao tin sẽ chiếm lại đất Quảng Nguyên, Quang Lang. Phần đất còn lại triều đình .Lý dùng biện pháp ngoại giao hòa bình đòi lại. Cho đến cuối năm 1079, nhà Tống trả toàn bộ đất đai mà Quách Quỳ đã chiếm giữ.

Như vậy, sau khi giành được thắng lợi quyết định về quân sự, công cuộc điều đình “giảng hòa” nhanh chóng đạt kết quả. Quách Quỳ ngoài miệng còn nói vớt vát:

Ta không thể đạp đổ được sào huyệt giặc (chỉ quân ta), bắt được Càn Đức (vua Lý Nhân Tông) để báo mệnh triều đình. Tại trời vậy? Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng2. Nhưng tâm trạng hắn lúc đó đã được bộc lộ qua lời bình luận của các học giả nhà Tống “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì làm thế nào?” 3.

Tháng 3-1077, quân Tống rút lui trong cảnh hỗn loạn vì Quách Quỳ bắt quân lính rút vào ban đêm. Tống sử chép về cuộc rút quân như sau: “Quỳ muốn rút quân về sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn giẫm xéo lên nhau” 4. 
 
Những chiến công lừng lẫy bên dòng sông Như Nguyệt đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu xâm lược của triều Tống. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và lãnh thổ của Tổ quốc ta đã được bảo toàn. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai rất oanh liệt, to lớn.

Nhà Tống không những không chiếm được nước ta mà còn phải chịu thiệt hại nặng nề: 10 vạn quân chiến đấu lúc trở về chỉ còn hơn hai vạn; tám vạn trong số 20 vạn phu đã bỏ mạng. Chi phí chiến tranh tốn hết 5.190.000 lạng vàng. Từ đó về sau, trong khoảng 200 năm, “thiên triều" Tống đã phải từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta.

Liền sau khi giành lại được độc lập tự chủ vào đầu thế kỷ X, quân dân ta đã phải cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ thành quả đã đạt được ách đô hộ của ngoại bang mặc dầu đã bị quét sạch, nhưng kẻ thù luôn luôn tìm cách tái lập, hy vọng tiếp tục duy trì nền thống trị của chúng.

Liên tiếp trong hai thế kỷ X và XI, từ sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, quân dân ta đã phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống giặc từ phương Bắc tràn tới. Đó là hai lần chống giặc Tống vào các năm 981 và 1077. Lịch sử đã chứng minh cả hai lần kháng chiến, quân dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

_________________________
1.Văn bia chùa Linh Xứng (Thanh Hóa), Hoàng Xuân Hãn dẫn.
2. Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên, Sđd; Tống - Lý bang giao tập lục, tr. 170.
3,4. Trình Di - Trình Hạo: Nhị Trình di thư, xem Tống - Lý bang giao tập lục, tr. 174.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:00:55 am
Cuộc kháng chiến chống giặc Tống lần thứ nhất, gắn liền với tên tuổi quốc vương nước Đại Cồ Việt - Lê Hoàn. Cuộc kháng chiến chống giặc Tống lần thứ hai gắn liền với tên tuổi vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. 

Vào nửa đầu thế kỷ X, năm 938, để đối phó với hành động xâm lược của vương quốc Nam Hán do Hoằng Tháo cầm đầu; người anh hùng đất Đường Lâm có thể đem “quân mới họp” để chỉ một trận mà đánh tan giặc trên cửa biển Bạch Đằng.

Hai cuộc xâm lược của giặc Tống vào nửa cuối thế kỷ X và thế kỷ XI có khác. Đương đầu với quân Tống xâm lược mạnh mẽ gấp nhiều lần Nam Hán, không còn là đội “quân mới họp”, mà là một tổ chức lực lượng vũ trang của nước Đại Cồ Việt - Đại Việt từng được rèn luyện thử thách, trưởng thành trong dẹp loạn, trừ nội phản, chống giặc Nam, Kháng chiến đấu bảo vệ biên cương phía nam của Tổ quốc.

Lịch sử đã chứng minh, cùng với sự phát triển của đất nước, từ những bước đi ban đầu với chính quyền tiết độ sứ đến vương quyền (thời Ngô) và đế quyền (thời Đinh - Tiền Lê, Lý), lực lượng vũ trang của nước ta đã trưởng thành vượt bậc.

Vấn đề không chỉ trưởng thành về quân số cùng eáe loại quân mà còn về tổ chức về trang bị, vũ khí, về chỉ huy và chiến lược, chiến thuật tác chiến. Tất cả đều được thử nghiệm và kiểm tra, chứng minh qua thực tế chiến đấu. 

Chiến trường chính là nơi kiểm tra nghiêm ngặt và cho đáp số chính xác nhất về mạnh yếu. hơn thua của bất kỳ một lực lượng vũ trang nào. Các trận đánh quyết định như trận Đồ Lỗ tháng 2-981, trận Lục Giang tháng 3-98, trận quyết chiến ở sông Bạch Đằng và trận Tây Kết tháng 4-981 trong kháng chiến chống giặc Tống lần thứ nhất; chiến trường Ung Châu trên đất Tống, phòng tuyến sông Như Nguyệt trong kháng chiến chống Tống lần thứ hai, thực sự đều là những trận thử lửa đối với lực lượng vũ trang Đại Cồ Việt - Đại Việt.

Ở đây, với sức mạnh tổng hợp: thế và lực của đất nước đang trên đà hưng khởi phát triển, quân dân một lòng, lực lượng vũ trang mạnh mẽ với tinh thần chiến đấu anh dũng, ngoan cường, bộ phận tổ chức và chỉ huy kháng chiến tài ba với chiến lược, chiến thuật phù hợp, đúng đắn và sáng tạo là những yếu tố quan trọng hợp thành để tạo nên chiến thắng, khẳng định sức mạnh vô địch của nhân dân ta nói chung, của lực lượng vũ trang thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý nói riêng.

Nét nổi bật nhất trong hai cuộc kháng chiến trên là chúng ta đã giành được thế chủ động hoàn toàn trên chiến trường.

Trong chống giặc Tống lần thứ nhất, nội tình triều đình Hoa Lư không ổn định, Tống Thái Tông muốn nhân cơ hội sang xâm lược, đánh nhanh thắng nhanh như tiếng sấm khiến “đối phương không kịp bịt tai”. Trước tình thế đó, chính lực lượng vũ trang đã chủ động tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua để kịp thời tổ chức chống giặc. 

Cũng để giành thế thủ động, Lê Hoàn đã tìm kế hòa hoãn bằng cách cử Triệu Tử Ái sang Tống cầu phong cho Đinh Toàn nhằm có thời gian chuẩn bị. Tất nhiên nhà Tống không nghe, vẫn tiếp tục chuẩn bị ra quân. Nhưng trong thời gian này quân Đại Cồ Việt đã kịp thời bố phòng kháng chiến. Đó là việc lập các tuyến phòng thủ gần xa để bảo vệ kinh đô Hoa Lư.

Trong đó đặc biệt phải kể đến tuyến thành Bình Lỗ ở đoạn sông Hồng từ phía bắt ngã ba Lềnh đến phía nam ngã ba Vàng đã phát huy tác dụng lớn, góp phần đẩy giặc vào thế bị động, lúng túng trong ác chiến trường Hoa Bộ - Bạch Đằng tháng 1-981, trận Đồ Lỗ tháng 2-981, trận Lục Giang kết hợp với chiến trường thành Bình Lỗ tháng 3- 981, trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng tháng 4-981 giết chết tướng Hầu Nhân Bảo. Cuối cùng là trận Tây Kết cũng vào tháng 4-981, đã bắt sống được tướng Triệu Phụng Huân tại trận, truy bắt tướng Quách Quân Biện trên đường tháo chạy về nước.

Trong kháng chiến chống giặc Tống lần thứ hai (1077).  dưới sự chỉ đạo của nhà quân sự lỗi lạc Lý Thường Kiệt, quân, dân ta đã chủ động phá tan hậu cần giặc ngay trên đất giặc. Đó là trận vây hãm và hạ thành Ung Châu vào tháng 1-1076. Sau đó quân ta rút về bố trí phòng chống giặc, và lập phòng tuyến trên sông Như Nguyệt để rồi chủ động tiêu diệt, đập tan ý chí xâm lược của giặc ngay trên phòng tuyến sông Như Nguyệt



Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:02:02 am
Trong cả hai cuộc kháng chiến, vùng cửa ngõ sông biển ở phía đông bắc của Tổ quốc nổi lên như một vị trí cực kỳ quan trọng. Không lần nào thủy quân địch không tìm cách lọt vào nước ta qua vùng cửa sông, cửa biển Bạch Đằng để rồi lợi dụng hệ thống đường thủy chằng chịt tìm đường tiến vào kinh đô Hoa Lư (thời Tiền Lê) hoặc Thăng Long (thời Lý) . 

Nhưng cũng trong hai cuộc kháng chiến, nhưng người tổ chức và chỉ đạo chổng giặc đều xác định đúng đắn vị trí chiến lược của vùng sông nước này và đều có kế hoạch chặn phá địch. Trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Tống thời Tiền Lê và thời Lý, vùng cửa biển Bạch Đằng đều được sử dụng như một chiến trường cản phá, kìm chân giặc.

Trong kháng chiến chống giặc Tống lần thứ nhất có tuyến phòng thủ gồm đồn binh từ sông Kinh Thầy, Bạch Đằng đến biên giới Việt - Tống.

Trong kháng chiến lần thứ hai, để đối phó với mũi tiến công của thủy quân địch do Dương Tùng Tiên cầm đầu, có Lý Kế Nguyên chỉ huy hạm đội mạnh đóng ở Đông Kênh tại Vân Đồn kết hợp với bộ binh đóng ở trại Ngọc Sơn - Vĩnh An.

Nhưng một khi chúng lọt được vào sâu trong nội địa thì tuyến thành Bình Lỗ, Tây Kết trong kháng chiến lần thứ nhất, phòng tuyến sông Như Nguyệt kết hợp với dòng sông trong kháng chiến lần thứ hai đã là mồ chôn xác giặc, đồng thời là nơi kết thúc chiến tranh với thắng lợi hoàn toàn thuộc về quân, dân nước Việt.

Trong hai lần chống giặc Tống, quân dân ta phải đối đầu với hành động xâm lược của một quốc gia hùng mạnh và ra đời từ sau nạn chia cắt “năm đời mười nước”. Sau khi lần lượt đánh dẹp các tiểu vương quốc, Triệu Khuông Dận lên ngôi lập nên nhà Tống, xây dựng một quốc gia quân chủ phong kiến trung ương tập quyền hùng mạnh đang trên đà phát triển.

Mặc dù còn bị Liêu, Hạ uy hiếp từ phía bắc ròng rã suốt thời gian tồn tại của vương triều, nhưng Tống Thái Tông làm vua từ 976, Tống Thần Tông ở ngôi từ năm 1068 đã hai lần chủ quan ở binh hùng tướng mạnh, tiến hành xâm lược nước ta để sớm muộn chuốc lấy thất bại thảm hại. 

Cùng với tổ chức lực lượng vũ trang đã trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm chiến trường, được nhân dân hết lòng ủng hộ, còn phải kể đến một yếu tố khác cực kỳ quan trọng, đó là sự hiện diện của đội ngũ tướng lĩnh tài ba mà Lê Hoàn (thế kỷ X) Lý Thường Kiệt (thế ky XI) là tiêu biểu. 

Trong chống giặc Tống lần thứ nhất, đối đầu với giặc mạnh quân dân Đại Cồ Việt có Lê Hoàn - người đã từng trải trận mạc trong dẹp loạn 12 sứ quân để sau đó trở thành vị tổng chỉ huy quân đội quốc gia Đại Cồ Việt thống nhất với chức vụ Thập đạo tướng quân. Ông là người có đủ uy tín và tài năng được triều đình Hoa Lư, toàn quân toàn dân ủng hộ. Vị quốc vương xuất thân từ nghiệp võ đã không phụ lòng tin của quân dân cả nước. Ông dẫn dắt quân đội lập hết chiến công này đến chiến công khác, đi tới thắng lợi hoàn toàn.

Trong cuộc chống giặc Tống ìần thứ hai, bên cạnh vua Lý Nhân Tông đã có Phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt từng cầm quân chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi vào năm 1069.  Ông là một nhà chiến lược tài ba, võ công văn trị lừng lẫy. Chỉ một trận tiến công chiến lược “tiên phát chế nhân” quân ta đã phá tan hậu cần địch từ trên đất địch để rồi kịp thời về bố trí phòng tuyến Như Nguyệt với quyết tâm chặn phá địch tại đó. Khi địch lâm vào thế cùng lực kiệt, ông lại quyết định mở lối thoát cho địch, chấm dứt binh đao tạo mối quan hệ hòa hiếu bằng cách “giảng hoà” cho địch rút về nước, bằng con đường ngoại giao hòa bình tiếp tục thu hồi đất đai đã bị địch chiếm giữ.

Trong lịch sử chống xâm lược bảo vệ độc lập của Tổ quốc, các cuộc kháng chiến chống giặc Tống vào các năm 981 và 1077 thực sự là những chiến công chói lọi của quân dân ra trong thời kỳ đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài. Nó không chỉ biểu thị sức bật mạnh mẽ của một dân tộc từng bị dồn nén trong hơn một ngàn năm dưới ách thống trị của ngoại bang, mà còn là thành tựu rực rỡ của nhân dân ta trong dựng nước và giữ nước trên con đường bước vào kỷ nguyên Đại Việt huy hoàng.

Cuộc kháng chiến chống giặc Tống lần thứ nhất và lần thứ hai đã để lại những kinh nghiệm, bài học lịch sử vô cùng quý báu để rồi được tiếp nồi và phát huy trong chiến đấu giữ nước ở các thế kỷ tiếp theo.

Trong chiến đấu chống xâm lăng bảo vệ đất nước thời kỳ này, các chiến thắng trên đã khẳng định sức mạnh vô địch của tổ chức vũ trang của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt, khẳng định trí tuệ, tài năng và sáng tạo trong chiến lược, chiến thuật chỉ huy tác chiến của tướng lĩnh. Tất cả đều được thể hiện với ý chí quyết tâm chiến đấu và lòng dũng cảm hy sinh tuyệt vời của quân dân Đại Cồ Việt - Đại Việt cho độc lập của Tổ quốc, tự do của giống nòi.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:41:32 am
CHƯƠNG 5

TƯ TƯỞNG VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ

Trong gần ba thế kỷ (939 - 1225), kể từ khi giành lại chủ quyền độc lập, quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt vừa phải xây dựng một cơ đồ hoàn toàn mới. vừa phải chống giặc phương Bắc, phương Nam nhằm bảo vệ toàn vẹn cương vực, lãnh thổ của mình.

Từ nhu cầu và thực tế dựng nước và giữ nước đó, cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang và tổ chức hoạt động chiến đấu chống giặc, những nội dung về tư tưởng và nghệ thuật quân sự, quốc phòng của quốc gia độc lập tự chủ dã ra đời, ngày một hoàn chỉnh và phong phú. 

I. TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ, QUỐC PHÒNG

1. Xây dựng quân đội mạnh đi đôi với việc xây dựng, bảo vệ nhà nước tập quyền mạnh.

Với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đánh bại hoàn toàn quân xâm lược Nam Hán, dân tộc ta đã giành lại được độc lập chủ quyền. kết thúc hơn một nghìn năm Bắc thuộc. Lịch sử đặt ra cho Ngô Vương Quyền và các triều đại kế tiếp nhiệm vụ phải giữ cho được nền độc lập và từng bước xây dựng quốc gia vững mạnh.

Vấn đề sẽ không đơn giản, dễ dàng với một đất nước vừa thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang hơn một nghìn năm còn mang trong mình nhiều di sản nặng nề. Cùng với những hiện tượng tiêu cúc phát sinh từ nội tình đất nước gây hậu quả nặng nề, làm suy yếu thậm chí dẫn tới đổ vỡ đối với nhà nước quân chủ, còn có những đe doạ, uy hiếp từ bên ngoài, ảnh hưởng đến sự mất còn của đất nước.

Đương thời những yếu tố tạo ra và nuôi dưỡng xu hướng phân tán vẫn tồn tại, gặp thời cơ thuận lợi còn phát huy tác dụng tiêu cực. Thời Ngô, bộ máy chính quyền đã mang tính chất tập quyền nhùng còn non trẻ, thô phác với tổ chức đơn giản, tính tập quyền chưa cao, ở nhiều địa phương từng lớp trưởng hào, thổ trưởng vẫn tồn tại như những thế lực mạnh với lực lượng quân sự riêng.

Thời Tiền Lê, Lê Hòan từng phong vương cho 11 người con và cắt đặt đi quản giữ các nơi. Họ quản lý mọi mặt và hưởng những quyền lợi (theo quy định) trên địa phận được phân bổ. Thời Lý, vương hầu, công chúa cũng được hưởng những lợi ích tương tự. Trong khi đó, kinh tế lại ở trình độ tự cung tự cấp với nông nghiệp là chủ đạo. Do đó tính độc lập của vương hầu, tôn thất thủ lĩnh địa phương càng đậm nét.

Vương hầu, quý tộc, tôn thất có lực lượng quân sự riêng và trong điều kiện kinh tế nói trên. các thế lực ở địa phương dễ nảy nở tâm lý phân quyền, cắt cứ. Như vậy trong cơ chế của bộ máy nhà nước tập quyển đương thời, không phải không có kẽ hở làm nảy sinh tâm lý và xu hướng phân tán, thậm chí cát cứ.

Tuy ở quy mô khác nhau nhưng loạn “12 sứ quân” vào cuối triều Ngô (965 - 968), vụ rối loạn cuối vương triều Đinh (977). vụ loạn ba vương sau khi Lê Đại Hành qua đời (1005), loạn ba vương vào đầu triều Lý sau khi Lý Thái Tổ băng hà (1028) và vụ Khai Quốc vương Bồ ở Trường Yên (l028) đã chứng tỏ điều đó. 

Vào thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý tuy đã giành được độc lập nhưng nguy cơ xâm lược từ phương bắc luôn là mối đe doạ đối với quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt. Vốn mang tư tưởng nước lớn. các triều đại phong kiến Trung Quốc không ngừng nuôi tham vọng bành trướng thế lực, áp đặt ách đô hộ, bóc lột nhân dân nước khác.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:43:17 am
Trong khi đó đất Đại Việt được nhìn nhận là: “Ruộng đất ở đó màu mỡ, cấy lúa, trồng dâu và chăn nuôi đều thích nghi cả... Muối thì trắng sạch như tuyết. Cánh chim trả thì đỏ tía đẹp mắt. Vàng thì sẵn ở các châu Phú Lương và Quảng Uyên. Hạt trai sáng thì sẵn ở các xứ Vĩnh An và Vân Đồn. Còn san hô và đồi mồi thì sẵn ở trong biển” 1.

Ngoài ra, các thế lúc phong kiến phương Bác còn bị chi phối bởi các động cơ khác. Đó là hy vọng dùng thắng lợi quân sự ở ngoài biên để tạo thế mạnh giải quyết những mâu thuẫn bên trong từ nội bộ vương triều đến bên ngoài xã hội.

Việc nhà Tống gây chiến tranh xâm lược Đại Việt hồi nửa cuối thế kỷ XI là một ví dụ. Họ muốn đạt được thắng lợi không những để giải quyết nội tình đang phức tạp với những mâu thuẫn gay gạt mà còn tạo thế đối phó với các thế lực Liêu, Hạ đang uy hiếp Trung Quốc từ phía bắc. Sau này, giặc Nguyên - Mông (cuối thế kỷ XIII) và giặc Minh (nửa dầu thế kỷ XV) gây chiến tranh xâm lược Đại Việt cũng có nguyên nhân tương tự.

Cùng với nguy cơ xâm lược từ phía bác là các cuộc quấy nhiễu: cướp phá khởi phát từ phương nam, từ phía tây Đại Việt, ở miền biên thuỳ hoặc lợi thế tiến sâu vào nội địa. Trong đó có nhiều cuộc xâm lấn, cướp phá do chính các triều đại phong kiến phương bắc xúi giục, tạo thế hiệp đồng, hỗ trợ hành động xâm lược của họ.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì vào thời Lý. năm 1069, Chiêm Thành (sát phía nam Đại Việt) đem quân quấy nhiễu miền biên giới. năm 1128, Chân Lạp (phía tây nam Đại Việt, đem hơn hai vạn quân vào cướp phá châu Nghệ An; năm 1132, Chân Lạp và Chiêm Thành cùng đánh vào đến tận Nghệ An, năm 1159 quân Ai Lao (nằm sát phía tây Đại Việt) cướp phá miền biên giới... 

Trong khi đó, như đã trình bày ở các chương trên, nước ta đát không rộng, người không đông. Cương vực về phía bắc phía tây bắc có thay đổi ít nhiều nhưng trên đại thể không khác mấy so với ngày nay, riêng phía nam tiếp tục được mở rộng theo thời gian. Đến hết thời Lý (1225), biên giới phía nam đến Cửa Việt (Quảng Trị), bắc sông Thạch Hãn.

Về dân số theo tính toán của các nhà sử học. nước ta đến thời Lý có khoảng bốn triệu người 2.

 Nước ta nhỏ, dân số ít, lại phải thường xuyên cùng một lúc đối phó với âm mưu xâm lược, uy hiếp của các thế lực ngoại bang từ nhiều phía và thêm vào đó là xu hướng cát cứ, phân tán trong nội bộ giai cấp thống trị. Mặt khác, dân tộc ta còn phải hiệp lực cùng nhau khai thác và đấu tranh với thiên nhiên, nhất là trong việc xây dựng và quản lý các công trình thuỷ lợi.

Bối cảnh đó tự thân đất nước đã đặt ra nhu cầu xây dựng một quân đội mạnh đi đôi với việc xây dựng và bảo vệ một quốc gia hùng mạnh với sự quản lý của một nhà nước tập quyền mạnh và ngược lại.

Lịch sử đã chứng minh với ý chí bất khuất kiên cường, cuối cùng bằng sức mạnh vũ trang. dân tộc ta đã lật đổ ách đô hộ, khôi phục nền độc lập tự chủ của đất nước. Một nhà nước quân chủ tập quyền tiêu biểu cho ý chí và nguyện vọng toàn dân đã ra đời dam đương sứ mệnh xây dựng đất nước về mọi mặt.

Tuy nhiên, giành được chủ quyền đã khó. nhưng bảo vệ và gìn giữ được chù quyền lại càng khó. Nền độc lập mong manh với tổ chức quản lý đất nước non trẻ thời Hai Bà Trưng (thế kỷ I); sự tiêu vong của nhà nước Vạn Xuân thời Lý Bí (thế kỷ VI) trước sức tiến công của nhà Lương, nhà Tuỳ là những bài học lịch sử sâu sắc.

Chính vì vậy sau khi giành được độc lập, xây dựng và bao vệ một nhà nước tự chủ có hiệu lực trong tổ chức đất nước và quản lý mọi mặt xã hội là yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa sống còn của dân tộc. Lịch sử đặt ra cho nhân dân ta nhiệm vụ vô cùng trọng đại, nhưng lịch sử cũng đã để lại không ít khó khăn trở ngại.

___________________________
1. Cao Hùng Trưng: An Nam chí nguyên. Bản dịch, tư liệu Viện Sử học, tr.85.
2.  Hồng Nam và Hồng Lĩnh (chủ biên): Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr.238.   


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:44:37 am
Ngay từ buổi đầu bộ máy quản lý nhà nước quân chủ thời Ngô, Đinh, Tiền Lê đã phải đối diện với những thử thách hiểm nghèo có nguồn gốc từ di sản nặng nề của quá khứ cùng với hậu quả mới phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý đất nước. Mặt khác, âm mưu xâm lược nhằm tái lập ách thống trị của kẻ thù đô hộ vẫn tồn tại như những mối hiểm hoạ thường trực.

Thực tế lịch sử cho hay sau hơn một ngàn năm bị đô hộ, thấm thía nỗi đau của một dân tộc mất chủ quyền, các tầng lớp nhân dân trong cộng đồng dân tộc cư dân Văn Lang - Âu Lạc xưa đã kề vai sát cánh, cố kết lại thành sức mạnh đánh đuổi chính quyền đô hộ giành lại nước, tập hợp chung quanh nhà nước tự chủ mở đầu từ vương triều Ngô.

Mặc dù vậy,  lịch sử cũng cho hay: chỉ có một quốc gia tập quyền có mạnh mới có thể tập trung sức xây dựng một đất nước thống nhất cả về lãnh thổ, thể chế chính trì, phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và bảo vệ nền độc lập tự chủ.

Để làm tốt vai trò nêu trên, quốc gia đó tất phải có một quân đội mạnh.  Quân đội đó cùng chung ý chí xây dựng quốc gia thống nhất, hùng mạnh. giữ vững độc lập, tự chu và là chỗ dựa vững chắc của nhà nước tập quyền.

Thể hiện tập trung tư tưởng xây dựng nhà nước tập quyền mạnh đi đôi với xây dùng một quân đội mạnh, giải quyết vấn đề quốc phòng là việc chọn nơi đặt cơ quan đầu não của cả nước.

Sau khi danh thắng giặc Nam Hán vào cuối năm 938, trong việc định đô, Ngô Quyền đã từ chối Đại La ít nhất có ngót hai trăm nam là thủ phủ của Giao Châu từ khi Trương Bá Nghi đắp Đại La thành vào năm 767. Hẳn rằng người anh hùng dân tộc Ngô Quyền không phải không biết Đại La đã là nơi đô hội trù phú, có địa thế đẹp. Nhưng hẳn ông cũng nhận thức được rằng chốn lỵ sở cũ của chính quyền đô hộ còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với việc xây dựng nhà nước vương quyền do ông dựng đầu.

Bài học thời các tiết độ sứ họ Khúc; họ Dương đóng ở Đại La và cùng rơi vào tay giặc ở Đại La còn nóng hổi. Ngô Quyền định đô ở Cổ Loa, đô cũ của nước Âu Lạc với ba vòng thành kiên cố gắn liền với một hậu phương rộng lớn miền gò đồi trung du. núi rừng cao nguyên, giao thông thuỷ bộ tiện lợi. Sau ngót 30 năm tồn tại (939 – 965) đặt viên gạch đầu tiên cho nhà nước quân chủ tự chủ với nhiều sóng gió phát sinh từ bên trong: vương triều Ngô rút lui khỏi vũ đài lịch sử, nhường chỗ cho vương triều Đinh ra đời từ dẹp loạn.

Trong bối cảnh lịch sử mới với những thành tựu của một đất nước đã có ngót 30 năm xây dựng. Đinh Bộ Lĩnh định đô ở Hoa Lư, cùng với việc đặt tên nước Đại Cồ Việt.

Hoa Lư vừa có thế hiểm núi non vây bọc, tiện đường vào Nam ra Bắc. lại vừa gắn liền với động bằng rộng lớn. dân cư đông đúc cua vùng châu thôn sông Hồng tiện giải quyết vấn đề lương thảo; huy động nhân lực.

Hoa Lư có vị trí thích hợp cho việc phòng ngự chống giặc khi mà nguy cơ bị xâm lược, thâu tóm lân bang của nhà Tống dã rõ từ khi Triệu Khuông Dận lên ngôi vào năm 960. Với kinh dô Hoa Lư, dưới quyền điều khiển của Lê Hoàn. quân và dân Đại Cồ Việt đã đánh thắng giặc Tống vào năm 981.

Sang triều Lý, với thế đang lên của đất nước sau hơn 70 năm củng cố khối thống nhất, đánh thắng giặc mạnh, kiến thiết mọi mặt, với tầm nhìn chiến lược và quyết tâm xây dựng một quốc gia độc lập, hùng cường, năm 1010 Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là thành Thăng Long.

Thăng Long nằm giữa vùng đồng bằng rộng lớn, ở vị trí trung tâm đất nước. giao thông thuỷ bộ thuận tiện, dân cơ đông đúc. Thăng Long lúc này đã hội đủ điều kiện cho quốc đô Đại Cồ Việt - Đại Việt với nhà nước mới lập của vương triều Lý.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:46:31 am
Điều này thể hiện tư tưởng xây dựng quân sự mạnh phải gắn liền với xây dựng một nhà nước mạnh của vị vua đầu triều Lý xuất thân từ nghiệp võ với chức Điện tiền chỉ huy sứ.

Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ nói rõ mục dính dời đô: “để mưu nghiệp lớn, chọn chỗ ở giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân” 1. Bản chiếu cũng nêu rõ Thăng Long là nơi đủ điều kiện giải quyết mục đích đó. 

Thăng Long “ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng cuộn hổ ngồi chính giữa đông, tây, nam. bắc; tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thật là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng kinh đô sư mãi muôn đời” 2.

Kinh đô Thăng Long được xây dựng, tồn tại và phát triển đúng như ý tưởng của Lý Thái Tổ. Đó là một sự lựa chọn chính xác.

Cùng với việc chọn đất định đô sau võ công thắng giặc ngoại xâm của Ngô Quyền, dẹp loạn thành công, giải quyết tình trạng chính sự bê bối của Đinh Bộ Lĩnh. Lý Công Uẩn,  việc xây dựng bảo vệ nhà nước quân chủ tập quyền thời kỳ này với vai trò của lực lượng vũ trang là những biểu hiện sinh động của tư tưởng xây dựng quân đội mạnh đi đôi với việc xây dựng bảo vệ nhà nước tập quyền mạnh. 

Lịch sử cho hay vào cuối vương triều Ngô, khi bộ máy nhà nước quân chủ ở Cổ Loa suy yếu, bệnh hoạn, thì lực lượng vũ trang cũng mất hiệu lực, phân tán, bị cuốn hút vào “loạn 12 sứ quân”.

Dưới sự tập hợp, rèn luyện của Đinh Bộ Lĩnh qua chiến đấu dẹp loạn thắng lợi một tổ chức quân 10 đạo ra đời, thực sự mở đầu cho lực lượng quân sự quốc phòng của quốc gia độc lập thống nhất Đại Cồ Việt dưới quyền tổng chỉ huy của Thập đạo tướng quân Lê Hoàn.

Ra đời chưa bao lâu, lúc lượng vũ trang của nước Đại Cồ Việt đã phải đương đầu với những thách thức lớn lao. Đó là các vụ loạn liên tục xảy ra ở Hoa Lư: Chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn; Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp lấy cớ bảo vệ ấu chúa Đinh Toàn đã đem quân nổi dậy chống Lê Hoàn; Ngô Nhật Khánh rước giặc Chiêm về nhằm đánh chiếm Hoa Lư đều xảy ra vào năm 979.

Một năm sau: vào năm 980, nhân cơ hội triều đình Hoa Lư mất ổn định, nhà Tống mưu toan cất quân xâm lược Đại Cồ Việt. Trước tình thế hiểm nghèo, ý thức được sứ mệnh lịch sù của mình, lúc lượng vũ trang của quốc gia Đại Cổ Việt đã nhanh chóng diệt trừ phản loạn ổn định tình hình.

Đặc biệt trước hành động xâm lược của giặc Tống, chính lực lượng vũ trang dưới quyền điều khiển của tướng Phạm Cự Lạng dã chủ động tôn thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi thay Đinh Toàn mới sáu tuổi để chuẩn bị chống giặc. Việc làm của quân lính được thái hậu, triều thần và nhân dân đồng tình ung hộ.

Trong tình hình chính trị đã ổn định, nhà nước quân chủ đã được củng cố, lực lượng quân sự quốc phòng dưới quyền tổng chỉ huy của Lê Hoàn đã kịp thời bố trí trận địa, tổ chức đánh thắng giặc Tống xâm lược vào cuối năm 980 đầu năm 981, bảo vệ thành công dốc lập tự chủ và vẹn toàn lãnh thổ của đất nước.


_______________________________
1. 2. Toàn thư, Sđd, t.1  tr. 241 .


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 07:56:02 am
Vào đầu vương triều Lý, sau khi Lý Thái Tổ qua đời (1028) loạn đã xảy ra ở Thăng Long. Theo di chúc của Lý Thái Tổ, Lý Phật Mã lên ngôi. Lập tức Đông Chinh vương Lực, Đức Thánh vương và Vũ Đức vương đều là con của Lý Thái Tổ, đem phủ binh của mình vào cấm thành nhằm bức hại thái tử để giành ngôi báu.

Sử chép: “khi ấy phủ binh của ba vương vây bức càng gấp, thái tử liệu không thể ngăn được nói: “Thế đã như vậy, ta còn mặt mũi nào trông thấy ba vương nữa. Ta chỉ biết làm lễ thành phục đến hầu tiên đế, ngoài ra đều uỷ thác cho các khanh cả” 1.

Được sự uỷ thác của thái tử, võ quan Vũ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu và Lý Nhân Nghĩa chỉ huy cấm quân đánh dẹp. Vũ Đức vương bị giết tại chỗ, Đông Chinh và Dực Thánh chạy thoát. Nhờ có sự can thiệp kịp thời của lực lượng vũ trang, Lý Phật Mã tức Lý Thái Tông đã lên ngôi duy trì sự ổn định chính trị, tiếp tục đưa đất nước phát triển về mọi mặt. trong đó có tổ chức quân sự. quốc phòng. Ngót 50 năm sau quân đội của quốc gia Đại Việt thời Lý dưới quyền chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã lập nên kỳ tích, chiến thắng oanh liệt giặc Tống xâm lược lần thứ hai vào năm 1077.

Từ những sự kiện lịch sử trên hiện ra chân lý: để có một tổ chức vũ trang, quốc phòng mạnh nhất thiết phải có một nhà nước tập quyền vững mạnh. Và ngược lại một nhà nước tập quyền mạnh không thể không xây dựng một tổ chức lực lượng vũ trang mạnh, có hiệu lực trong chống giặc giữ nước, bảo vệ chủ quyền.

Đó chính là tư tưởng xây dựng quân đội mạnh phải đi đôi với việt xây dựng bảo vệ nhà nước tập quyền mạnh của nền quân sự Việt Nam được hình thành bước đầu trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước thời Ngô. Đinh, Tiền Lê, Lý.

2. “Ngụ binh ư nông” và toàn dân là lính, tư tưởng lớn về tổ chức quân sự, quốc phòng.

Trong quá trình xây dựng tiềm lực quốc phòng nhằm củng cố và giữ vững đội láp dân tộc, Ngô Quyền và các triều đại kế tiếp rất coi trọng lình vực tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang.

Như đã biết, đương thời, dân số nước ta ít. Vấn đề đặt ra là xây dựng quân đội như thế nào để đảm bảo có thể huy động đủ số cần thiết vào thời chiến và có nhân lực đảm bảo sản xuất trong thời bình.

Trong mấy thập niên từ thời Ngô đến Tiền Lê (938-1009) tổ chức quân đội theo quy chế của một nhà nước bắt đầu được xây dựng nhưng còn sơ sài. binh chế chưa xác định đầy dù và rõ rệt. Đinh Tiên Hoàng đã định quân thành 10 đạo: Lê Đại Hành, vào năm 986 “cho điểm dân để lấy lính” 2. Đó là manh nha của chế độ binh dịch đối với tất cả đinh tráng. 

Đến thời Lý, binh chế nước ta bước đầu được xác định, trong đó có chính sách “ngụ binh ư nông”. Sách Đại Việt sử ký toàn thu viết: “Binh chế buổi đầu nhà Lý... lấy thân quân làm trọng, cũng gọi là cấm quân... Lại có chín quân như sương quân, để sai khiến làm mọi việc mỗi tháng đến phiên một lần gọi là đến canh, hết canh cho về nhà cày cấý, làm công nghệ tự cấp lấy chứ không được cấp lương. Khi có chiến tranh thì gọi ra cho lệ thuộc vào các tướng. Nếu số quân này không đủ thì chiếu sổ gọi dân ra tòng ngũ. Xong việc lại cho về làm ruộng. Đó là đúng với ý nghĩa ngụ binh ư nông” 3.

Ngô Thì Sỹ khảo cứu từ thư tịch cổ giúp hình dung về chế độ “ngụ binh ư nông trong thực tiễn thời Lý: “ Chế độ binh lính của nhà Lý... mỗi tháng lên cơ ngũ một lần gọi là đi canh, hết hạn canh lại về làm ruộng, quân không phải cấp lương...  không có phí tổn nuôi lính mà có công hiệu dùng sức lính; cũng là một chế độ hay” 4.  

__________________________
1. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.252.
2. Toàn thư. Sđd, t.1, tr.220.
3. Lời bàn của Ngô Thì Sỹ, xem: Lịch triều hiến chương loại chí, t. 3, Binh chế chí. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr.7 - 8.
4. Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiêu án, Sđd, tr.127.  


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 07:58:24 am
Trong thực tiễn, vào thời Lý Thái Tông trong lần chiến tranh với Chiêm Thành năm 1069. đại quân xuất chinh lên tới năm vạn (trong đó quân eấm vệ chỉ có 3.200), như thế. “Quân ấy không phải có sẵn cả. Phần lớn  huy động dân thường” 1. “Người dân nào đến tuổi cũng phải đăng lính, nhưng vẫn được ở nhà cày bừa. mỗi tháng mới phải đi phen một kỳ ngắn lúc chinh phạt thì cắt quân ấy giao cho các tướng. Nếu quân không đủ thì lấy dân đinh mà dùng. Xong việc rồi lại trở về cày ruộng” 2. Đó là kết quả của chính sách “ngụ binh ư nông”.
 
Chính sách “ngụ binh ư nông” gồm những quy chế về quân biên sổ và quân chia phiên. Nhà nước lập ra sổ hộ tịch, trong đó, những đinh nam khoẻ mạnh đến tuổi trưởng thành đều có nghĩa vụ quân dịch, được ghi tên vào cuốn sổ bìa vàng mà thời Lý gọi là sổ hoàng nam. Hằng năm, chính quyền chiếu sổ chọn những đinh tráng sung vào quân ngũ theo yêu cầu, số còn lại ở nhà sản xuất, tham gia dân binh, sẵn sàng nhập ngũ khi cần thiết.

Quân thường trực được nhà nước quy định chế độ “chia phiên”. Khi đất nước thanh bình, thì trừ cấm quân phải thường xuyên túc trực để bảo vệ kinh đô, bảo vệ nhà vua và triều đình, còn sương quân và quân các lộ được chia thành nhiều phiên theo định kỳ một bộ phận thường trực tại ngũ, luyện tập và canh phòng, bộ phận còn lại trở về sản xuất tự túc, thời hạn tuỳ theo từng thời kỳ. Khi có chiến tranh tất cả trở lại quân ngũ theo đơn vị đã định và lệ thuộc vào các tướng.

Việc lập hộ tịch và kiểm kê nhân đinh là cơ sở để nhà nước định quân hạng. Theo lệ, hàng năm vào mùa Xuân, các xã lập sổ hộ xã mình, kê khai số dân chia thành nhiều hạng: tôn thất (người trong họ vua), các quan (quan văn, quan võ, quan theo hầu), quân nhân, tăng đạo, hoàng nam (từ 18 tuổi đến 60 tuổi), long lão (người già yếu), bất cụ (người tàn tật), người xiêu tán, . . . tất cả đinh nam khoẻ mạnh được ghi vào sổ, phân chia thành hai hạng: hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi) và đại nam (từ 20 tuổi trở lên). Đó là nguồn nhân lực trong cả nước để huy động sai dịch và quân dịch. 

Năm 1083, Lý Nhân Tông duyệt hoàng nam, định làm ba bậc rồi cho tuyển những người khoẻ mạnh làm lính. Năm 1146, Lý Anh Tông lệnh cho các quan, các quản giáp và chủ đô, khi tuyển quân phải chọn người ở hộ đông người, không lấy con nhà cô độc. Theo Phan Huy Chú, “Đại ước người trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, người hạng kém thì biên tên vào sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn, lâu chóng có lẽ không nhất định” 3.
 
Phải đến thời Trần và Lê Sơ, tư tưởng và chính sách “ngụ binh ư nông” mới hoàn thiện, nhưng trong xây dựng lực lượng quân đội từ thời Ngô cho đến thời Lý đã có thể thấy rõ một phương thức tổ chức lực lượng vũ trang phòng giữ đất nước. Đó là, chế độ binh dịch với tất cả đinh tráng (dân binh đến tuổi trưởng thành đều được đặt trong diện chịu binh dịch) và, chế độ quân lính chia phiên về sản xuất (quân lính luân phiên nhau vừa canh phòng và luyện tập vừa trở về sản xuất).

Phương thức tổ chức lực lượng vũ trang và phòng giữ đất nước như vậy được gọi là “ngụ binh ư nông”. Nên hiểu trong các khái niệm “việc binh”, “binh gia”, “binh nghiệp”, “binh pháp”, “binh thư ‘ , . . . chữ binh không chỉ có nghĩa hẹp là lính-quân đội-chiến tranh mà bao quát nhiều lĩnh vực liên quan đến (việc binh. quân sự. chiến tranh và quốc phòng. Và “nông” ở đây nên được hiểu gồm nhà nông nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Như thế “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nông) bao gồm các nội dung về quân đội, chiến tranh: quân sự và quốc phòng.

Cách tổ chức lực lượng như trên đã tạo ra một thế trận quốc phòng rộng khắp và thuận lợi trong điều động lực lượng, ở đâu có dân là ở đó có quân, tức là những trai tráng từng được tập trung luyện tập quân sự, có tên trong sổ, thời bình ở nhà sản xuất, có biến được huy động vào đội ngũ.

Đây cũng chính là cách sau này được vận dụng và phát triển trong xây dựng tiềm lực quốc phòng, kết hợp quân sự với kinh tế. Sử sách cho biết, với chính sách kể trên, khi quân giặc xâm lấn bờ cõi, các triều đại có thể huy động lực lượng vũ trang ngay tại địa bàn để tổ chức đánh địch kịp thời.  Hoặc khi đất nước phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn, các triều đại có thể nhanh chóng huy động được nguồn binh lực lớn và có nguồn bổ sung dồi dào trong quá trình kháng chiến.

____________________
1,2. Đại việt sử ký, dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 39.
3. Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loại chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, t. 3, tr.24.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 08:00:03 am
Ví dụ: trong cuộc tuyển quân chống Tống xâm lược lần thứ hai (1075 - 1077), riêng số quân do Lý Thường Kiệt và Tôn Đản thống lĩnh đánh phá căn cứ xuất phát tiến công của đối phương đã là khoảng 10 vạn. Cùng lúc, số quân ở trong nước để bảo vệ kinh đô, bảo vệ biên thuỳ phía nam thường xuyên bị Chiêm Thành uy hiếp và bảo vệ lãnh thổ nói chung, hẳn cũng phải rất lớn. Cũng có nhà khoa học ước lượng số quân đó có thể tương đương lực lượng được huy động đánh sang đất đối phương.

Nếu như vậy, tổng số quân thời Lý dược động viên ở thời điểm kể trên là rất lớn so với số dân Đại Việt lúc đó khoảng bốn triệu người. Mặt khác, chất lượng quân đội thời Lý cũng cao. Không những họ có tinh thần yêu nước, căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng mà còn giỏi võ nghệ, thạo binh khí, kỹ thuật, nắm chiến thuật. hợp đồng bộ binh và thuỷ binh tài giỏi. Kết quả của đợt tác chiến tại Ung, Khâm, Liêm, của tác chiến chặn giặc dọc phòng tuyến dọc theo sông Như Nguyệt (sông Cầu) đã khẳng định điều đó. Đây cũng thể hiện tính ưu việt, hiệu quả của tư tưởng “ngụ binh ư nông”.

“Ngụ binh ư nông”, đã giúp nhà nước quản lý tốt nhân đinh, mọi đinh nam từ 18 tuổi trở lên, khi cần đều được huy động theo nghĩa vụ binh dịch. Mọi đinh tráng, nhờ chính sách này mà đều được huấn luyện quân sự, có hiểu biết thông thường về quân sự và khi hữu sự, ai nấy đều biết rõ quân ngũ của mình.

Nhờ việc thay phiên về sản xuất: nghĩa vụ binh dịch, do đó, có thể thực hiện công bằng xã hội, giảm chi phí quốc phòng, đảm bảo sản xuất không ngưng trệ.  “Ngụ binh ư nông” là sự kết hợp chặt chẽ “binh” với “nông” tiếp tục phát huy mạnh mẽ tác dụng trong các triều đại tiếp sau và vẫn có giá trị gợi mở trong tư duy xây dựng quân đội nói riêng, lực lượng vũ trang nói chung trong sự nghiệp quốc phòng toàn dân.

Tư tưởng “toàn dân là lính” đã sản sinh từ hoàn cảnh lịch sử của dân tộc ta. Đó là sau khi giành được độc lập vào năm 938, để bảo vệ nền độc lập đó, quân và dân Đại Cồ Việt - Đại Việt thường xuyên phải đương đầu với các thế lực xâm lược hầu như tuôn đông: mạnh hơn.

Như thế, với một quốc gia dân không đông, vấn đề đặt ra là xác lập ngay một cơ cấu xã hội thế nào để vừa có lực lượng sản xuất đông đảo, vừa có quân đội và lực lượng vũ trang đủ sức bảo vệ Tổ quốc, cả thời bình cũng như thời chiến.

Ở buổi ban đầu Ngô Quyền dựng nghiệp, lực lượng vũ trang còn trong tình trạng phân tán thuộc các thế lực vùng.  Ngô Quyền khi đi diệt trừ bọn phản bội Kiều Công Tiễn, chỉ có một đội binh Ái Châu. Nhưng khi chuẩn bị kháng chiến chống quân Nam Hán xâm lược trở lại, đội binh ấy nhanh chóng trở thành một đội binh dân tộc, được sự hưởng ứng nhiệt liệt của nhân dân.

Truyền thuyết dân gian còn ghi nhớ chuyện 38 chàng trai làng Gia Viễn (An Hải) do Nguyễn Tất Tố và Đào Nhuận dẫn đầu đã tự vũ trang xin theo Ngô Quyền phá giặc. Trai tráng các làng Lâm Động (Thuỷ Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hưng Yên), người. mang vũ khí, kẻ mang chiến thuyền tìm đến cửa quân xin giết giặc. Ngoài cha con Ngô Quyền, trong đội quân phá giặc Nam Hán còn có lực lượng của Dương Tam Kha, Đỗ Cảnh Thạc (hào trưởng Thanh Oai) 1, v.v... 
 
Từ yêu cầu thường xuyên và nhiều khi nóng bỏng của sự nghiệp bảo vệ đất nước, một hệ thống quân ngạch hợp lý dần dần hình thành. Như đã đề cập ở các chương trên, đó là: - quân chủ lực của triều đình; - quân của lộ, phủ, châu; - quân của quý tộc, tôn thất (quân vương hầu); - và lực lượng dân binh (hương binh) trong làng xã, động bản. 

Như vậy, trải qua các thời Ngô - Đinh - Tiền Lê đến Lý, nhận thức về xây dựng quân đội, lực lượng vũ trang, dân binh ngày càng sáng tỏ. Tổ tiên ta thời đó luôn coi “việc quân là việc thiết yếu của quốc gia”, “quân đội là thiết bị giữ nước không thể thiếu được” đồng thời với việc xây dựng dân binh sẵn sàng được huy động khi hữu sự.

Nhận thức đó càng trở nên sáng suốt khi nước ta đương thời dân số ít và luôn phải chiến đấu với quân xâm lược lớn mạnh. Nhận thức, tư tưởng đó đã biến thành phương lược cụ thể trong xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng - kế sánh giữ nước hiệu quả, đánh bại nhiều đội quân xâm lược, bảo vệ vững chắc quốc gia Đại Việt.

_______________________
1. Xem Hồng Nam và Hồng Lĩnh (chủ biên): Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiên Trung Quốc xâm lược, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr.197.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 08:57:10 am
II. NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ

Ở các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý, dù chiến tranh xảy ra chưa nhiều, nhưng yêu cầu bức xúc của sự nghiệp giữ nước đã đặt ra cho các vương triều những vấn đề về nghệ thuật quân sự. Căn cứ vào hoạt động quân sự của quốc gia Đại Việt qua các thời kể trên, có thể phác thảo những nét chính về nghệ thuật quân sự.

1. Về chiến lược

a) Biết mình biết người, chủ động xây dựng lực lượng và kế sách bảo vệ đất nước.

Từ khởi nguyên, trong quá trình hình thành, quốc gia Văn Lang - Âu Lạc mà sau này là Đại Cồ Việt - Đại Việt đã ở vào một vị trí địa lý khá đặc biệt.

Về cương vực, đó là vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, có đồng bằng màu mỡ, có rừng với lâm, thổ sản, thú lạ và cây thuốc quý, có biển với hải sản và ngọc trai; nơi đây còn là tụ điểm giao lưu giữa Đại Việt với bên ngoài bằng đường bộ và đường biển.

Nhờ vị trí đó, người Đại Việt có điều kiện tiếp xúc, hấp thụ tinh hoa các nguồn văn hoá, văn minh của nhân loại. Mặt khác, do vị trí đó mà nước Đại Việt luôn là mục tiêu thôn tính, xâm lược của các thế lực ngoại bang. Cùng với việc tổ chức đất nước sẵn sàng đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược, quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt còn luôn phải giải quyết các vấn đề nảy sinh ở biên giới bảo vệ biên cương trọng thời bình.

Ở mặt nam, tây nam cố sự quấy rối, lấn cướp của Chiêm Thành, Chân Lạp và Lão Qua. Ở phía bắc, đó là nhà Nam Hán và nhà Tống. Ở đây có vấn đề do lịch sử để lại và do đặc điểm dân cư, việc hoạch định chủ quyền của Đại Việt trên vùng đất biên cương còn chưa rõ ràng, các thổ tù, châu mục bản địa quản giữ và nhà nước quản lý chưa được chặt chẽ.  Dân cư tại vùng này, “một bên thì chịu sự kimi (ràng buộc lỏng lẻo) của chính trị và văn hoá Trung Quốc, một bên thì chịu sự kimi chính trị và ảnh hưởng của văn hoá Việt Nam” 1.

Còn về bộ máy quản giữ, như Nguyễn Thế Anh viết:

“Hiển nhiên, các thủ lĩnh địa phương đó không thừa nhận những quy phạm và giá trị của chế độ quan liêu Khổng giáo.  Họ dễ mua chuộc và chia rẽ cũng như khó khuất phục và hợp nhất, từ đó họ tạo thành yếu tố rối động cho hai chính quyền Việt Nam và Trung Hoa, những hành động không hợp thời của họ [đột kích, xâm phạm biên giới] có thể là nguyên nhân xung đột [giữa hai nước] 2.

Từ thực tế trên, các nhà cầm quyền Đại Cồ Việt - Đại Việt luôn chú trọng xây dựng đất nước về nhiều mặt, đặc biệt là lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, hoạch định kế sách bảo vệ đất nước, sẵn sàng chống xâm lược. 

Nhận thức rõ về vị thế và tiềm năng của đất nước với những mặt mạnh mặt yếu tức “biết mình” là điều cực kỳ quan trọng, cũng như “biết người” vậy. Để “biết người” các vương triều Đại Cồ Việt - Đại Việt luôn chú trọng công tác nắm địch tìm mọi cách để hiểu ý đồ đối phương. 

Vào cuối thời Đinh, thừa dịp Hoa Lư có loạn, nhà Tống tính chuyện xâm lăng Đại Cồ Việt theo đề nghị của tể tướng Lư Đa Tốn: “An Nam bên trong rối loạn, đó là lúc trời làm mất, triều đình nên bất ngờ đem quân sang đánh úp, nhủ người ta nói : “sét đánh không kịp bịt tai” 3  . Do dã theo dõi nắm bắt động tĩnh của nhà Tống nên các biên quan đã kịp thời báo về.

Sử chép: “Bấy giờ Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang liền làm tờ tâu báo về” 4. Nhờ vậy triều đình Hoa Lư đã kịp thời chấn chỉnh, cắt cử Phạm Cự Lạng làm đại tướng, tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi, ổn định tình hình, chuẩn bị đối phó với giặc mạnh. 

Thời Lý cũng vậy. Thông qua nhiều mối quan hệ đặc biệt quan hệ giao lưu trao đổi với vùng kề biên giới Trung Hoa của cơ dân biên thuỳ phía bắc dưới quyền quản lý của thổ tù châu mục, mọi âm mưu và hành động của nhà Tống đối với Đại Việt đều không qua được con mắt của triều đình Thăng Long.

Ngay từ năm 1073, qua thư của một tiến sỹ nhà Tống có tên là Từ Bá Tường vì không được trọng dụng nên đã thông báo với vua Lý: “hiện nay Trung Quốc muốn cử binh diệt Giao Chỉ” 5.

____________________________
1. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, tr. 188.
2. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Kế sách giữ nước thời Lý Trần, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.230.
3,4. Toàn thư, Sđd, t.1, tr.212.
5. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr. 116.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 08:59:56 am
Nhờ biết rõ hành động chuẩn bị xâm lăng của nhà Tống với việc tập trung binh lính, lương thảo ở thành Ung Châu và các căn cứ đồn trại gần kề biên giới Đại Việt cho nên Lý Thường Kiệt đã kịp thời thực hiện kế sách “tiên phát chế nhân” thắng lợi.

Không phải nhà Tống không biết Đại Việt đà tung quân do thám nắm bắt tình hình trên đất Tống. Vua Tống từng hạ chiếu: “Nghe Giao Chỉ sai nhiều kẻ gian tới thám Lưỡng Quảng. Vậy các chỉ huy, các tướng phải coi chừng. Đừng để nó dò được phép công, thủ, tiến. thoái của ta” 1.

Nhà Lý còn dùng bằng của sư nhà Tống thu được khi quân Lý đánh sang Khâm, Liêm giao cho điệp viên sang đất Tống hoạt động.  Biết việc này, vua Tống hạ chiếu cho lộ Quảng Tây đình việc cấp bằng cho các sư 2.
 
Từ nhu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước, nhà Tiền Lê và nhà Lý đã xây dựng nhà nước tập quyền gồm một hệ thống chính quyền các cấp từ triều đình đến tận các làng xã. Triều đình trung ương là cơ quan tập trung quyền lực cao nhất.  Vua đứng đầu triều đình, có quyền lực tối cao trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt, vua có quyền hạn to lớn, nắm quyền tối cao về quân sự, quốc phòng.

Các vua Tiền Lê và Lý giữ vai trò thủ lĩnh quân sự của cộng đồng dân tộc, là người có quyền quyết định đường hướng quốc phòng, phát động chiến tranh và xuống chiếu huy động quân đội, tiềm lực đất nước cho cuộc chiến. Nhiều vị vua thân cầm quân đánh giặc. Cách tổ chức như vậy khiến những vấn đề trọng đại về quân sự, quốc phòng trong thời bình và khi hữu sự được thực thi kịp thời, nhanh chóng.

Cảnh giác trước các thế lực ngoại xâm là ý thức thường trực của nhiều vị vua đương thời. Ngay trong lúc đất nước thanh bình. nhiều nhà vua vẫn thường xuyên xuống chiếu nhắc nhở tướng sĩ không được lư là việc phòng thủ, phải chăm lo luyện rèn binh sĩ, sắm sửa chiến thuyền và rèn đúc vũ khí.

Lý Nhân Tông, vị vua anh hùng từng kinh qua cuộc kháng chiến chống Tống, trước khi mất đã dặn dò các đại thần: “Nên sửa sang giáo mác để đề phòng việc không lường, chớ làm sai mệnh lệnh, trẫm dù nhắm mắt cũng không di hận” 3. Vua Lý Anh Tông trước lúc lâm chung, cũng đã căn dặn thái tử thay mình trị vì đất nước: “Nước ta non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất thiêng, châu ngọc bảo bối không cái gì không có, nước khác không thể nào ví được. Con hãy nên giữ gìn cẩn thận” 4.
 
Nhà nước được xây dựng theo cơ cấu và chế định như thế cùng những nhà vua biết chăm lo giữ nước như vậy đã là tiền đề cho thắng lợi của công cuộc chống ngoại xâm.

Nhiều lĩnh vực khác đóng vai trò quyết định trong công cuộc phòng giữ đất nước và trực tiếp tác động tới chiến lược quân sự được giải quyết tốt. Các nhà cầm quyền luôn chăm lo xây dựng khối đoàn kết dân tộc. Ở các vùng biên viễn, núi rừng xa xôi, triều Lý vẫn áp dụng chính sách “kimi” qua những biện pháp mềm dẻo và hình thức linh hoạt, thực chất là một cách quản lý lỏng lẻo.

Để tập trung được mọi lực lượng, trong đó có lực lượng thuộc dân tộc thiểu số cho công cuộc chống thù trong giặc ngoài, các triều đại đương thời đã thực thi nhiều biện pháp hữu hiệu. Đó là việc phong quan tước, giao quyền quản lý địa. phương. giữ gìn an ninh, bảo vệ lãnh thổ biên cương và coi sóc nhân dân.

Mặt khác, nhà nước còn dùng quan hệ hôn nhân gả công chúa cho các tù trưởng, qua vai trò của họ tập hợp cơ dân thành một khối xung quanh nhà nước quân chủ trung ương tập quyền. Đây là chính sách đặc biệt của vương triều Lý.

________________________
1. 2. Dẫn theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd.
3. Toàn thư, Sđd, t.l, tr.312.
4. Việt sử lược, Nxb. Văn-Sử- Địa, Hà Nội, 1960, tr.152.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 09:01:45 am
Theo sử sách, từ năm 1036 thời Lý Thái Tông đến năm 1167 thời Lý Anh Tông, ít nhất có chín trường hợp gả công chúa cho tù trưởng các châu thuộc vùng trung - thượng du Bắc Bộ ngày nay.  Các biện pháp kể trên đã phát huy tác dụng rất lớn trong việc giữ gìn an ninh, bảo vệ lãnh thổ nơi biên cương. Hai cha con phò mã Thân Thiệu Thái, Thân Đạo Nguyên đã xứng đáng với vai trò làm phên giậu, quản giữ vùng đất biên cương xung yếu ở Lạng Sơn ngày nay. Các châu mục, tù trưởng Nùng Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An, Lý Kế Nguyên có những đóng góp tích cực huy động quân, dân các tộc thiểu số chung sức cùng triều đình đánh giặc Tống vào năm 1077. 

Như nhận xét của Trần Quốc Tuấn, thời Đinh, Lê “dùng được người tài giỏi”, “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa” 1.  Nhiều triều đại đã giải quyết được các bất hoà trong dòng tộc tôn thất trên cơ sở đó củng cố được khối đoàn kết các dân tộc miền xuôi, miền ngược, thực hiện “vua tôi đồng lòng, cả nước chung sức”. Nhờ đó sức mạnh quân sự được nhân lên và phát huy tác dụng chiến thắng ngoại xâm, bảo vệ và mở mang bờ cõi.

Ở phía nam, quốc gia Chiêm Thành với nền nông nghiệp lạc hậu trên giải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển Trung và Nam Trung Bộ ngày nay, hẳn rằng nguồn nhân lực và tài vật phong phú ở phía bắc Hoành Sơn có sức hấp dẫn lớn đối với họ. Vì vậy Chiêm Thành thường đánh phá quấy rối nhằm bắt người cướp của. Vả lại, họ rất thạo nghề biển. Đó là những nguyên nhân dẫn tới những cuộc cướp phá, quấy rối và xâm lấn của họ đối với Đại Việt. Các cuộc xâm lấn ấy có quy mô lớn khi người Chiêm dựa được vào hoặc do các vương triều kẻ thù của Đại Việt liên minh, thúc ép.

Người đứng đầu các triều đại Tiền Lê và Lý ý thức đầy đủ về tình hình trên nên thường dùng biện pháp cứng rắn với vua Chiêm. Cuộc chinh phạt của Lê Đại Hành vào đất Chiêm năm 982 khi vua Chiêm ngang ngược bắt giữ sứ thần của triều đình Hoa Lư, các cuộc phạt Chiêm của Lý Thường Kiệt trong các năm 1069, 1103, v.v... khi quân Chiêm quấy nhiễu hoặc cướp phá vùng biên giới tỏ rõ sự chủ động chiến lược đó.

 Trên cơ sở “biết mình biết người”, các vương triều Tiền Lê - Lý đã chủ động xây dựng lực lượng và đề ra kế sách chống giặc thích hợp. Trong chống giặc Tống lần thứ nhất, Lê Hoàn đã chủ động bố trí lực lượng phòng thủ và kết hợp quân sự với ngoại giao để hoà hoãn tình hình, tranh thủ thời gian chuẩn bị kế hoạch chống giặc.

Từ tháng 10-980, nhận được thư vừa dụ hàng vừa đe doạ của Lư Đa Tốn, Lê Hoàn đã sai sứ sang Biện Kinh thác lời Đinh Toàn dâng biểu cầu xin nối ngôi vua cha để hoà hoãn. Tất nhiên nhà Tống không ưng thuận, lại cho Trương Tôn Quyền đem thư sang dụ:

“Họ Đinh truyền nối đã được ba đời, trẫm muốn cho Đinh Toàn làm thống soái, khanh làm phó. Nếu Đinh Toàn không đáng tướng tài, hãy còn tính khí trẻ con thì nên cho ngay mẹ con và thân thuộc y sang đây. Đợi khi vào chầu tất sẽ ban điển lễ ưu hậu. Khanh sẽ được trao cờ tiết và cây việt. Có hai đường đấy, khanh nên xét kỹ mà chọn lấy một” 2.

Lê Hoàn không trả lời. Bằng con đường ngoại giao, Lê Hoàn tranh thủ thời gian được hơn ba tháng, từ tháng 10-980 đến cuối tháng 1- 981, để chủ động bố trí quân phòng ngự ở các tuyến gần xa, dựng trận địa cọc ở cửa sông Bạch Đằng, đắp thành Bình Lỗ để chặn giặc, bảo vệ kinh đô Hoa Lư.

Do có thời gian chủ động lập kế chống giặc nên khi quân Tống tràn vào bờ cõi chúng bị quân và dân Đại Cồ Việt đánh chặn ở cửa sông Bạch Đằng, ở Hoa Bộ, bị đánh bại ở Đồ Lỗ (vùng sông Lục Đầu), ở trận Lục Giang - Bình Lỗ, Tây Kết. Và đặc biệt Lê Hoàn đã chủ động lập kế trá hàng đánh lừa quân Tống để phá giặc trên sông Bạch Đằng, giết chết tướng Hầu Nhân Bảo tại trận, buộc giặc phải rút chạy về nước, giành thắng lợi hoàn toàn.

____________________________
1. Toàn thư, Sđd, t.2, tr, 77.
2. Cương mục. Sđd. t.1. tr.251.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 09:02:59 am
Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai, Lý Thường Kiệt sau khi đã nắm vững tình hình chuẩn bị xâm lược của địch đã chủ động thực hiện “tiên phát chế nhân”, xuất quân đánh phá các đồn trại của nhà Tống ở biên giới, từ hai cánh quân tràn vào đất Tống, tiến lên bao vây và tiến công Ung Châu.

Bị tiến công bất ngờ, quân Tống không kịp trở tay. Căn cứ hậu cần của địch ở Ung Châu và các đồn trại quân Tống ở biên giới bỉ san ‘phẳng. Từ chủ động tiến công kìm chế địch sau 42 ngày đêm trên đất Tống, Lý Thường Kiệt lại kịp thời rút quân về chủ động lập phòng tuyến sông Như Nguyệt, bố trí lực lượng chặn đánh thuỷ quân Tống ở Vĩnh An, Vân Đồn, ung dung sẵn sàng đợi giặc.

Đưa quân vào Đại Việt mặc dù có binh hùng tướng mạnh, nhưng giặc Tống từ chủ động tiến công xâm lược rơi vào thế bị động chống đỡ. Thuỷ quân bị đánh phá, kìm chân ở dòng Đông Kênh. Quân bộ bị chặn đứng bên tả ngạn sông Như Nguyệt.  Sau vài lần đưa quân vượt phòng tuyến nhằm tiến về Thăng Long bị thất bại, giặc Tống chỉ còn cách cố thủ chờ thuỷ quân một cách vô vọng.

Lý Thường Kiệt tổ chức tiến công vào bản doanh của Quách Quỳ, Triệu Tiết bên tả ngạn, đẩy giặc lâm vào thế khó khăn tuyệt vọng. Nắm bắt được tâm lý hoang mang với thế cùng của giặc, Lý Thường Kiệt lại chủ động đưa ra kế giảng hoà. Quách Quỳ, Triệu Tiết lại phải bị động rút quân về nước. Cuộc kháng chiến chống giặc Tống lần thứ hai thắng lợi hoàn toàn.

Qua hai cuộc kháng chiến chống Tống vào thời Tiền Lê và thời Lý, quân đội của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt dưới sự chỉ đạo của Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đã trưởng thành nhanh chóng, thể hiện sức mạnh vô địch trong chiến đấu giữ nước.

Qua quá trình tổ chức và hoạt động chống giặc, chiến lược biết mình biết người và chủ động xây dựng lực lượng, kế sách bảo vệ đất nước đã hình thành sắc nét. Ngay từ đầu chiến lược đó đã phát huy hiệu lực, đánh thắng giặc, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước.

b) Kết hợp chặt chẽ, sáng tạo giữa tiến công và phòng ngự, phòng ngự và phản công.

Trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống vào năm 981, Lê Hoàn cùng các tướng lĩnh đã tổ chức hệ thống phòng thủ nhiều lớp liên hoàn, trên cả đường bộ và đường sông ở hướng tiến đến kinh đô Hoa Lư. Đó là tuyến phòng thủ quanh Hoa Lư, gồm hệ thống đồn và thành (luỹ). Tuyến giữa gồm thành Bình Lỗ và nhiều đồn trại. Xa hơn là các đồn từ sông Kinh Thầy - Bạch Đằng đến biên giới Việt - Tống theo hướng Quảng Yên, Quảng Ninh ngày nay và từ cửa biển Thần Đầu vào đồn Công Trung, đến biên giới Việt - Chiêm.

Lê Hoàn còn sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng, lập trận địa ngăn cản địch. Những trận giao chiến lớn đã diễn ra ở Hoa Bộ - Bạch Đằng (1-981), Đồ Lỗ (2-981), Lục Giang (3-981) và trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng (4-981). Để có trận Bạch Đằng giành thắng lợi lớn vua Lê Đại Hành đã dùng kế trá hàng.

Bởi vậy, bên trong bí mật củng cố lực lượng, bài binh bố trận. phòng vệ cẩn mật; bên ngoài tạm án binh, nới vây hãm, giảm canh phòng. Mặt khác, nhà vua gửi thư từ thông điệp cho phía Tống dùng lời lẽ nhún nhường tỏ vẻ e sợ uy “thiên triều’, ngỏ lời cầu xin quy phụ để bảo toàn tính mạng...

Quả nhiên, quân Tống mắc mưu. Sử cũ chép “Lê Hoàn giả vờ xin hàng mà Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cứ tưởng là thật”. Tuy nhiên để đối chọi và làm giảm thế mạnh ban đầu của quân Tống, thực hiện được kế trá hàng, quân đội Tiền Lê phải thực hành thế trận phòng ngự chiến lược trong thời gian trên dưới 70 ngày.

Thế trận phòng ngự chiến lược diễn ra xung quanh khu vực sông Bạch Đằng từ khoảng tháng 2 và đến tháng 4-981 mới tổ chức trận phản công giết được chủ tướng địch là Hầu Nhân Bảo, đánh tan lực lượng thuỷ quân và khiến quân bộ do Tôn Toàn Hưng chỉ huy tự tan, rút chạy.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 09:05:06 am
Vậy là từ thế trận phòng ngự, nhà Tiền Lê đã thực hành nhiều trận đánh tiêu hao, tiêu diệt, làm giảm dần thế mạnh của địch. Những trận đó đạt được mục đích và tạo ra điều kiện thuận lợi, tạo ra thế chiến lược mới và thế trận mới để thực hiện phản công truy kích đuổi quân Tống ra khỏi bờ cõi.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược dưới triều Lý vào những năm 1075 đến 1077, tuy quy mô và diễn biến có khác, song về chiến lược quân sự cũng có nét tương đồng.

Đến năm 1075 nhà Tống đã hoàn tất việc chuẩn bị cho cuộc xâm lăng Đại Việt. Thành Ung Châu (Quảng Tây) và hai cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu (Quảng Đông) đã trở thành căn cứ hậu cần và căn cứ quân sự sẵn sàng xuất phát tiến công. Giây cung đã căng lên mà mũi tên đã được đặt vào lẫy.

Trước thế uy hiếp của quân Tống. với tinh thần chủ động, tự tin. Lý Thường Kiệt nói: “Ngồi đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc” 1.

Quyết kế của Lý Thường Kiệt thể hiện rõ sự tự tin của ông và triều đình nhà Lý thể hiện rõ rằng công cuộc xây dựng đất nước, chăm lo binh bị và theo dõi động thái của đối phương đã được triển khai rất tốt.

Quyết kế ấy cũng tỏ ra triều Lý và quân dân ĐạI Việt có quyết tâm cao trong công cuộc bảo vệ nền độc lập, tự chủ. Quyết kế ấy thường được gọi là “tiên phát chế nhân”.

Cuối năm 1075, Lý Thường Kiệt chỉ huy đại quân bất ngờ tập kích vào các căn cứ quân sự, hậu cần của quân Tống ở Ung, Khâm, Liêm. Sau 42 ngày vây hãm và công phá, giải quyết được mục tiêu căn cứ xuất phát tiến công của đối phương, Lý Thường Kiệt thu quân về nước.

Hoạt động quân sự tiến công kể trên (có ý kiến xem như một chiến dịch tiến công) 2 nằm trong chiến lược tiến công (có tác giả coi đây là chiến lược phản công vì đối phương đang triển khai chiến lược tiến công) 3  của Lý Thường Kiệt. Điều đó không có gì mâu thuẫn vì thực chất của phản công là tiến công. 

Sau khi rút đại quân về nước, Lý Thường Kiệt cho bố trí các trận địa phòng ngự. Mặt đường thuỷ, ông cho đóng cọc dọc sông Đông Kênh và đặt thuỷ binh nhằm ngăn chặn việc hợp binh giữa quân thuỷ - bộ của địch. Mặt đường bộ, ông sử dụng quân các châu, động giáp miền biên ải và thượng du, bố trí chặn địch theo hướng đông - bắc: Quảng Nguyên (Cao Bằng), Hạ Liên - Cổ Động (Bắc Cạn), Giáp Khẩu (Chi Lăng), Tiên Yên, Đình Lập. v.v...

Đặc biệt, Lý Thường Kiệt tập trung lực lượng lập phòng tuyến Như Nguyệt (sông Cầu).  Dựa vào thế hiểm của sông - chướng ngại tự nhiên, tại bờ nam ông cho đóng cọc tre nhiều lớp làm dậu, dựng luỹ, đào hố đặt chông. . . Cấu trúc dựa vào thế thiên hiểm kết hợp với chướng ngại nhân tạo đó biến nơi đây thành một chiến tuyến có giá trị rất lớn về quân sự, có thể phòng ngự vững chắc đồng thời cũng có thể bố trí kín đáo đội dự bị chiến lược ở phía sau sẵn sàng chuyển sang tiến công.

Chiến tuyến Như Nguyệt kết hợp chặt chẽ với hệ thống thành quách, đồn ải ở phía bắc và lực lượng thuỷ binh trên sông Đông Kênh tạo thành một thế trận phòng ngự vừng chắc, có chiều sâu, thuỷ bộ hỗ trợ được cho nhau, trung du và đồng bằng chi viện được cho miền núi.

Cuối năm 1076, quân Tống vượt biên giới tiến công vào Vĩnh An và Quảng Nguyên, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Quân và dân Đại Việt dựa vào thế đất hiểm, các cửa ải và đồn trại bố trí từ trước, đánh trả mạnh mẽ. 

Đầu năm 1077, đại quân Tống ào ạt tiến sang đất ta. Chiến sự diễn ra quyết liệt ở Quảng Nguyên, Quyết Lý, Chi Lăng. . .  Vừa sử dụng lực lượng lớn tạo thế tiến công mạnh mẽ, vừa áp dụng kế ly gián nên tuy bị tổn thất lớn, quân Tống vẫn tiến tới bắc ngạn sông Cầu.

_____________________________
1. Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh, bản dịch, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1960.
2,3. Xem: Nghiên cứu lịch sử, số 6 (177), tháng 11 và 12-1977.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 09:06:12 am
Chặn được quân Tống bên bờ bắc sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt chủ động điều binh đánh địch. Đó là trận chặn quân Miêu Lý ở vùng Yên Phụ, Thuỷ Lôi (Đông Anh ngày nay). Bị tổn thất nặng, Miêu Lý thu tàn quân chạy thoát qua sông. Đây là thắng lợi mở màn của quân ta trên chiến tuyến sông Như Nguyệt.

Tiếp đó, chờ mãi không thấy thuỷ binh (trên thực tế đã bị ta chặn đứng ở ngoài bờ biển), quân Tống dùng bè tiến sang bờ nam. Quân Lý liên tiếp bẻ gãy các đợt tiến công của địch. Khả năng tiếp tục đột phá phòng tuyến quân ta không còn, phía sau vẫn thường xuyên bị nhân dân các dân tộc thiểu số, dân binh và các đội quân nhỏ của ta đánh lén, đánh vào lực lượng tiếp viện, quấy rối; kế hoạch hiệp đồng giữa bộ binh và thuỷ binh bị phá vỡ, Quách Quỳ rơi vào thế lúng túng, tiến lui đều khó. Quân Tống buộc phải chuyển hẳn sang phòng ngự bị động về chiến lược. Chiến lược tiến công đánh nhanh thắng nhanh của chúng thất bại hoàn toàn.

Sau khi làm cho địch không còn khả năng tiến công, phải co vào phòng ngự, Lý Thường Kiệt tổ chức những trận đánh lớn vào các cụm quân của chánh tướng Quách Quỳ và phó tướng Triệu Tiết ở bờ bắc sông Như Nguyệt. Cụm quân của Quách Quỳ bị tổn thất nặng, còn cụm quân Triệu Tiết “mười phần chết đến năm sáu”.

Theo cách nói hiện đại. với hai đòn đánh lớn kể trên, ta đã làm nhụt ý chí xâm lược của địch. Kế đó, Lý Thường Kiệt phái biện sĩ đến bản doanh Quách Quỳ đề nghị “giảng hoà”, kết thúc chiến tranh. 

Vậy là trong kháng chiến lần thứ hai, Lý Thường Kiệt đã chỉ huy hiệp đồng ăn ý giữa lực lượng bộ binh và thuỷ binh, giữa tác chiến trên sông và sông biển, phá vỡ việc hợp binh giữa hai lực lượng này của địch, tạo ra thuận lợi cho chiến thắng sông Cầu.

Lần này cũng như cuộn chống Tống ở thời Tiền Lê các nhà cầm quân đã ý thức đầy đủ và thực hiện được việc phối hợp giữa quân triều đình, quân địa phương và dân binh, thổ binh các làng xã. động bản. Đó chính là một trong những nhân tố cơ bản khiến các ý định chiến lược kể trên có hiệu quả trong thực tiễn.

Ví như trong lần kháng chiến thứ hai, mũi tiến công trên bộ sang đất địch chủ yếu do quân địa phương đảm nhiệm, còn mũi đánh vào Khâm. Liêm do quân chủ lực của triều đình tiến hành. Hoặc như để các tuyến phòng thủ liên hoàn có chính diện rộng và chiều sâu lớn tạo thành thế hiểm, phát huy tác dụng mạnh mẽ phải có sự phối hợp tác chiến và hoạt động của mọi lực lượng, vừa bao vây, ngăn chặn phía trước, vừa dành nhỏ lẻ, quấy rối phía sau và khắp nơi mới đẩy quân địch vào thế khó khăn.

Trên tinh thần chủ động chiến lược, kết hợp tác chiến của cáe loài quân, kết hợp đánh nhỏ tiêu hao, cầm chân với đánh lớn tiêu diệt, tạo thời tạo thế phản công tiêu diệt địch là phương pháp tác chiến thích hợp, có hiệu quả trong cả hai lần kháng chiến chống Tống.

Một khía cạnh khác thuộc phạm trù chỉ đạo chiến tranh và cũng thuộc lĩnh vực chỉ đạo chiến lược quân sự đó là kết hợp giữa chiến đấu trên chiến trường với bàn bạc, thương lượng.

Suốt quá trình chiến tranh, cho đến trận Kháo Túc, quân Lý giành nhiều thắng lợi song cũng chịu tổn thất lớn. Lý Thường Kiệt cũng thấy rõ quân Tống bị tổn thất nặng, hết sức lúng túng, mỏi mệt. Nhân đó, Thường Kiệt chủ trương giảng hoà nhằm giảm bớt hy sinh, tổn thất và bảo vệ được tông miếu.

Đúng như đánh giá của Lý Thường Kiệt, sau thời gian dài tiến hành xâm lược, bị chặn lại ở bắc ngạn sông Cầu, gặp nhiều khó khăn, Quách Quỳ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Đánh tiếp thì khả năng bị tiêu hao, tiêu diệt đã rõ và mùa nắng đã tới gần, rút lui thì các mục tiêu chưa đạt. Chán chường và bị động khiến Quách Quỳ đã ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ chém”.

Ở tình thế như vậy, Quách Quỳ sẵn sàng nắm đầu gậy ngoại giao mà Lý Thường Kiệt đưa ra, chấp nhận điều kiện giảng hoà, rút quân về nước. Ở đây, cũng cần lưu ý gia thiết về thực chất chủ trương giảng hoà của Lý Thường Kiệt.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:19:20 am
Ai cũng biết cách dùng binh của Lý Thường Kiệt là hết sức chủ động “tiên phát chế nhân”. Vậy mà sau khi đã tiêu diệt phần lớn cụm quân Triệu Tiết, dồn Quách Quỳ vào tình thế bất lợi, lại dừng lại, cho quân qua sông e không phải cách dùng binh của ông và chỉ như vậy cũng khó ép được quân Tống lui quân. Có khả năng sau khi tạo được thế trận như trên, Lý Thường Kiệt cho hoạt động quân sù gây sức ép như thế nào đó mới khiến quân Tống chịu nhận giảng hoà, rút quân.

Bởi, tình thế quân Tống hắn là rất khó khăn mới khiến học giả Tống thốt lên: “may được lời giặc nói nhũn liền nhân đó giảng hoà. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì làm thế nào?” 1. Và, Quách Quỳ khi lui binh đã bắt quân khởi hành ban đêm. Hình ảnh cuộc rút quân có khác gì một cuộc tháo chạy hỗn loạn, mạnh ai nấy được, hàng ngũ không còn chỉnh tề, dẫm xéo lên nhau, như chính sử Tống miêu tả. Khi Tống rút quân, Lý Thường Kiệt đã tổ chức các hoạt động quân sự giành lại đất đai trên hướng rút chạy của địch.
 
c) Đánh vào lòng người

Đánh vào lòng người là một loại hình hoạt động ngày càng được mở rộng và phát triển theo thời gian, đã xuất hiện và phát huy hiệu lực trong chiến tranh ở thời điểm này.

Đó thực chất là hoạt động tác động tư tưởng và tâm lý nhằm xây dựng đoàn kết và quyết tâm chiến đấu trong nội bộ quân và dân nước mình, đồng thời tuyên truyền về sự nghiệp chính nghĩa của phía kháng chiến, phân hoá, chia rẽ, làm giảm sức mạnh của địch.

Trước cuộc xâm lược của nhà Tống (981), các đại thần triều Đinh, Tiền Lê đã biết dẹp mâu thuẫn sau khi Đinh Tiên Hoàng bị hành thích, chung sức tổ chức chống ngoại xâm. Lê Hoàn sau khi lên ngôi vua đã đề ra chính sách nhằm xây dựng, cung cố khối đoàn kết dân tộc, quy tụ sức mạnh chống giặc Tống.

Phương sách đó đã làm phá sản âm mưu chính trị chia rẽ nội bộ Đại Cồ Việt của nhà Tống. Điều này còn làm cho những hành động chống đối, chia rẽ của một số quan lại thuộc phái bảo hoàng họ Đinh không thực hiện được.

Giải quyết thống nhất được vấn đề chính trị - tư tưởng khiến chính trị quốc gia ổn định vừng mạnh, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố. Đây chính là cơ sở tạo nên sức mạnh của nước Đại Cồ Việt để chiến thắng quân xâm lược nhà Tống trong cuộc kháng chiến năm 981.

Nhận rõ nhà Tống có quân đông, tướng mạnh, chiến đấu với đội quân xâm lược của chúng hẳn sẽ rất gay go, quyết liệt, bởi vậy vua Lê Đại Hành mưu tính dùng kế trá hàng để có thể giết được chủ tướng cùng bộ phận chỉ huy quân địch. 

Bên trong, vua Lê ra sức củng cố lực lượng, bài binh bố trận, phòng vệ cẩn mật; bên ngoài tạm án binh, nới vây hãm, giảm canh phòng, đồng thời đưa thư từ, thông điệp sang phía Tống tỏ vẻ run sợ trước quân binh hùng hậu của “thiên triều” với lời lẽ nhún nhường ngỏ lời xin quy phục để bảo toàn tính mạng v.v...

Cách nghi binh, đánh vào tâm lý kiêu ngạo của bộ chỉ huy quân Tống như vậy khiến chúng mắc lừa. Tống sử chép: “Lê Hoàn giả vờ xin hàng mà Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cứ tưởng là thật...”. Và “Tôn Toàn Hưng cùng Lưu Trừng hợp quân lại, theo đường thuỷ đến đồn Đa La, nhưng không thấy giặc đâu lại phải về Hoa Bộ”. 

Rõ ràng, Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng tin rằng Lê Đại Hành đã hàng phục. Kế nghi binh, “đánh vào lòng người” đó của Lê Hoàn khiến đối phương mắc lừa, thuỷ quân Tống bị đánh bại và Hầu Nhân Bảo tử trận.

Trong lần xuất quân đánh sang cơ sở xuất phát tiến công xâm lược của nhà Tống, sau khi chiếm được hai hải cảng Khâm, Liêm, Lý Thường Kiệt cho quân tiến vào nội địa. Lúc đó quân Tống dường như không còn đủ sức cản quân Lý. 

___________________________
1. Dẫn theo: Phan Huy Lê, Bùi Đăng Duy. . . Một số trận quyết chiến chiên lược trong lịch sử dân tộc, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr.74.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:21:24 am
Tuy nhiên Lý Thường Kiệt đã tính đến thái độ phản ứng của dân chúng. ông phải nêu danh nghĩa của cuộc hành quân, và Phạt Tông lộ bố văn ra đời. Bản Lộ bố chỉ gồm 144 chữ Hán, nhưng là một bản tuyên cáo đánh Tống rất rõ ràng, được yết ở những nơi có nhiều người qua lại, nhanh chóng được nhân dân vùng biên tiếp thu và lan truyền tới binh lính đối phương.

Mở đầu, bản Lộ bố nêu đạo lý thánh hiền về quan hệ vua tôi thần dân. Kế đó, văn bản chỉ đích danh đối tượng lên án: “Nay vua Tống ngu hèn, không theo phép thánh hiền, nghe kế tham tà của An Thạch, bày ra phép “thanh miêu’, “trợ dịch” khiến trăm họ hao kiệt, để thoả mưu nuôi béo thân mình”.

Đây là lời tố cáo vua Tống Thần Tông và tể tướng Vương An Thạch với tội danh là thẳng tay bóc lột dân nghèo, làm trái đạo thánh hiền. Phần cuối bản Lộ bố nói rõ lý do cuộc ra quân với quan điểm an dân, kêu gọi tất cả trấn tĩnh, rằng Bắc tiến là “muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân” . . . Đây là quan điểm rất tiến bộ và cách tư duy, biểu đạt thật sắc sảo.

Mặc dầu từng thất bại trong chiến tranh xârn lược Đại Việt, nhà Tống luôn lăm le tiến hành xâm lược và thường xuyên mua chuộc các tù trưởng miền núi nước ta, dụ dỗ họ theo về nước Tống. Đại Việt phải ra quân phá cuộc xâm lược đó. Đây là việc hợp lẽ đời. Nhưng nhân dân hai vùng biên giới vốn có quan hệ họ hàng thân tộc và láng giềng thân thiện, không bị hạn chế bởi địa bàn cư trú.

Chính sách của nhà Lý là không phân biệt đối xử với nhân dân hai bên biên giới, luôn tôn trọng tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Quân nhà Lý, trong quá trình hành quân đã tịch thu lương thực dự trữ trong các trại địch (dùng đi đánh Đại Việt) đem chia cho dân, được dân chúng đồng tình. hưởng ứng 1.

Có thể nói với Phạt Tống lộ bố văn, nhà Lý đã mở đầu một phương thức tiến công chính trị - tư tưởng. nêu cao mục tiêu chính nghĩa của hoạt động quân sự. “Dân Tống thấy lời tuyên cáo đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Lý Thường Kiệt đằng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam... Nhờ đó mà uy danh quân ta lan khắp nơi” 2.

Được nhân dân biên giới phía Tống đồng tình, ủng hộ quân Lý đã giành thắng lợi trong các hoạt động quân sự trên đất đối phương. Thắng lợi đó có vai trò quan trọng của mặt trận đấu tranh chính trị -tư tưởng - tâm lý - một phương thức “đánh vào lòng người” hợp lẽ sắc sảo và sáng tạo.

Tương tự như vậy, vào năm 1077, hai bên Lý Tống đối ngạn trên hai bờ sông Như Nguyệt. Quân Tống có thế mạnh, Miêu Lý từng mở mũi tiến công sang bờ nam, nhưng bị quân ta đánh cho thua đau, phải lùi. Nhưng quân Lý cũng gặp nhiều khó khăn, tổn thất, chưa phá được giặc.

Sử chép rằng, trong tình thế đó, một lần, để cổ vũ binh sĩ, Lý Thường Kiệt sai người giả làm thần nhân, nấp trong đền Trương Hát ở bờ nam sông Như Nguyệt đọc bài thư vừa uy hiếp tinh thần quân địch, vừa khích động tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu của quân ta.

________________________
1. Theo Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.122, ta còn biết ngoài Lộ bố văn trên, còn có một “lộ bố văn” khác với nội dung thuyết minh việc đưa quân vào đất Tống “nhằm đuổi bắt dân Giao Chỉ làm phản rồi trốn sang Trung Quốc” và còn vì “Quan coi Quế Châu đã kiểm điểm dân các động và đã tuyên bố rõ rằng muốn sang đánh Giao Chỉ. Như vậy phải chăng Lý Thường Kiệt đã thảo hai bài “lộ bố văn”?
2. Nhữ Bá Sĩ: Thần phả Lý Thường Kiệt. dẫn theo Hồng Nam và Hồng Lĩnh (chủ biên): Những trang sử vàng của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 1984, tr. 265, 266.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:23:39 am
Sách Việt điện U linh chép chuyện Trương Hát, thần sông Như Nguyệt, kể lại rằng chính thần nhân đã đọc bài thơ sau:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch ìỗ lai xâm phạm?
Như đẳng hành khan thủ bại hư.

Sách trên chép tiếp: “Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đởm, không đánh đã tan1. Nhân dân địa phương vẫn truyền tụng nhiều chi tiết và chỉ rõ những di tích ghi lại chiến công oanh liệt này, khu vực doanh trại địch biến thành bãi chiến trường. Hàng vạn xác giặc nằm ngổn ngang khắp cánh đồng, gò đất. Nhân dân địa phương gọi là cánh đồng Xác , gò Xác 2.

Như thế phép “đánh vào lòng người”, mà có thể nói ngày nay đã phát triển thành lĩnh vực hoạt động đặc biệt quan trọng - hoạt động chính trị - tư tưởng, đã xuất hiện và mang lại hiệu quả lớn từ những cuộc chiến tranh khi nhân dân ta vừa giành lại quyền độc lập tự chủ.

2. Về chiến thuật

Để những tính toán chiến lược trở thành hiện thực, giành thắng lợi trên chiến trường phải có cách đánh, chiến thuật thích hợp. Các nhà cầm quân thời Tiền Lê và Lý đã giải quyết tốt vấn đề này. ở những mức độ khác nhau, nhiều hình thức chiến thuật đã xuất hiện và được vận dụng hiệu quả.

a) Công thành, diệt viện

Trên thực tế chiến đấu, quân đội Tiền Lê và Lý phải đánh vào các đồn, trại nơi đóng quân và thành trì, căn cứ của đối phương. Các hình thức chiến đấu với địch trong điều kiện kể trên, được hiểu là công thành. Trong lần chống Tống năm 981, sau khi diệt địch ở sông Bạch Đằng, Lê Hoàn kéo quân về bao vây đạo quân chủ lực địch ở Tây Kết. Trận này, quân ta bắt sống tướng địch, diệt nhiều tên khiến chúng phải tháo chạy về nước.

Trong cuộc chống Tống những năm 1075 - 1077, thực hiện “tiên phát chế nhân”, Lý Thường Kiệt cho quân đánh sang Ung, Khâm, Liêm bằng cả đường thuỷ và đường bộ.  Tuy nhiên lúc đầu ông cho quân địa phương vây đánh, quấy rối các đồn trại biên giới, làm cho quân Tống tưởng rằng ta sẽ bằng đường bộ kéo vào châu Ung. Trong khi đó quân ta theo đường thuỷ đánh Khâm Châu rồi tiến thẳng tới ung Châu. Quân Tống bị đánh ở hai đầu, bị chia cắt, không thể ứng cứu nhau. Quân ta đã đánh phá các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình và Cổ Vạn. Ở đây, hẳn rằng các hình thức bao vây chia cắt, đánh chặn, tập kích, đột kích đã được vận dụng.

Tiêu biểu về chiến thuật công thành trong cuộc chiến kể trên là trận đánh thành Ung. Sau khi hạ được Khâm, Liêm, Lý Thường Kiệt chia quân làm hai đạo: một mặt từ Liêm Châu theo hướng đông, mặt kia từ Khâm Châu kéo thẳng lên, hợp vây Ung Châu.

Thành Ung được xây dựng thành cao hào sâu rất vững chắc, có thế lợi khi chiến đấu phòng thủ. Quân Tống dưới quyền chỉ huy của Tô Giám, một mặt tìm mọi cách cố thủ trong thành Ung Châu, mặt khác đợi chờ viện binh. Ngay từ đầu Tô Giám đã sai sứ về Quế Châu cách Ung Châu 400 km để cầu viện. Quế Châu cử đô giám Trương Thủ Tiết đem quân đi cứu Thủ Tiết dùng dằng cuối cùng kéo quân tới giữ ải Côn Lôn cách Ung Châu chừng 40 km. Được tin viện binh giặc đến, Lý Thường Kiệt điều quân đến đón đánh. Thủ Tiết cùng các đô giám, tuần kiểm đề cử thuộc quyền đều bị chết tại trận.

Viện binh Tống bị đánh tan. Thành Ung Châu rơi vào thế hoàn toàn bị cô lập. Suốt hơn một tháng trời bị vây hãm, quân Tống trong thành Ung Châu kháng cự quyết liệt quân Lý sử dụng nhiều biện pháp công thành. Đó là dùng vân thê, một thứ thang bắc chuyền nối nhau rất cao để trèo lên thành và dùng tên độc bắn vào thành, là đào tường hầm để đột nhập vào thành. Với biện pháp chất bao đất theo tường thành làm bậc thang để lcó lên, quân Lý đã lấy được thành Ung.

_____________________________
1. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.206.
2. Theo Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn. Nguyễn Cảnh Minh: Đại cương Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997, t.1, tr.162.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:28:36 am
Tuy sử sách không ghi lại tỉ mỉ các trận kể trên song có thể thấy quân Lý đã vận dụng các cách, mà thời hiện đại gọi là các thủ đoạn chiến đấu vây thành diệt viện, đột phá, vu hồi . . . Và như thế, với việc đánh chiếm các đồn, trại địch và phá thành Ung, quân Lý đã sáng tạo và vận dụng hiệu quả chiến thuật công thành, diệt viện.

b) Dựa vào chiên luỹ chiến đấu phòng thủ và sẵn sàng chuyển sang tiến công.

Như đã biết ở các thời Tiền Lê và thời Lý, quân và dân Đại Việt phải tiến hành các cuộc chiến tranh mà sau này gọi là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đó là các cuộc kháng chiến đánh địch từ ngoài biên giới tràn sang, khi quân địch chưa chiếm được đất đai, chưa lập được bộ máy cai trị. Chính vì thế, việc bên bị xâm lược dựa vào địa thế tự nhiên sông, biển hoặc gia cố thêm tạo thành những thành luỹ lợi hại, vừa là sáng tạo, vừa là lẽ thường trong quân sự.

Hẳn rằng, như thành Bình Lỗ, thực tế có thể là luỹ (đất, đá) theo tuyến dài ven sông, kết hợp với chướng ngại hoặc vật che khuất như các lùm cây. Dựa vào đó, quân ta chiến đấu phòng ngự, ngăn chặn địch tiến về kinh đô Hoa Lư và, khi thế trận cho phép, chuyển sang phản công quân địch.

Hình thức chiến đấu dựa vào chiến luỹ, phải kể đến chiến tuyến sông Cầu trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ hai là tiêu biểu.

Như đã trình bày ở trên, Lý Thường Kiệt cho đắp luỹ chạy dài theo nam ngạn sông Như Nguyệt. Ở bãi sông, ông cho đóng cọc tre làm dậu dày mấy tầng kết hợp với những hố chông ngầm. Dựa vào chiến tuyến lợi hại đó, quân ta chiến đấu phòng ngự giữ vừng trận địa không cho địch qua sông khiến chúng không tạo được đầu cầu đổ quân lên bờ nam. 

Địch không qua được sông để tiến về Thăng Long giải quyết mục tiêu chiến tranh và lại bị quân ta thường xuyên tập kích, quấy rối khiến chúng lâm vào tình thế khó khăn, lúng túng. Đây thực chất là lối phòng ngự trận địa. Và sau một thời gian, quân Tống phải chấp nhận hoà đàm rút quân về nước .

Trong lịch sử dân tộc ta nói chung và lịch sử các cuộc kháng chiến thời Tiền Lê và Lý nói riêng, quân và dân ta thường phải đương dầu với kẻ xâm lược đông hơn mình nhiều lần. Bởi thế, đánh địch bằng bí mật bất ngờ, đánh dịch ngoài đồn trại, trong hành tiến là đắc sách hơn cả.

Bởi thế, lối đánh bằng mai phục, cả trên bộ và trên sông đã xuất hiện khá sớm. Trải qua thời gian, đến thời hiện đại, cách đánh đó đã định hình thành chiến thuật phục kích vô cùng lợi hại. Ví như trận ải Côn Lôn. Trong khi quân Lý đang vây thành Ung, Lý Thường Kiệt được tin viện binh Tống do Thủ Tiết chỉ huy kéo tới ải Côn Lôn. Lý Thường Kiệt đưa quân đón đánh. Bị bất ngờ, “quân Tống chưa đánh đã chạy. Thủ Tiết nhu nhược không điều khiển nổi binh sĩ, liền bị thua” .

Cũng có thể kể về trận đánh ở vùng Yên Phụ, Thuỵ Lôi (Đông Anh, Hà Nội). Bị ta chặn ở chiến tuyến sông Cầu, Miêu Lý xin Quách Quỳ để được mở mũi đột kích, dùng cầu phao vượt sông nhằm bất ngờ tiến tới Thăng Long. Lý Thường Kiệt dấu một bộ phận quân chủ lực ở núi Thất Diệu (thuộc Yên Phụ) cây cối rậm rạp, cạnh đó có cầu Gạo, nơi lầy lội cản trở kỵ binh. Quân ta mai phục chặn đánh phía trước, thừa thắng phản kích địch. Trong khi đó, một lực lượng chẹn đường rút của địch được bố trí trước, đổ ra đánh ập lại. Quân xung kích của Miêu Lý bị diệt hầu hết, trừ Miêu Lý và một số tàn quân chạy thoát.

Như vậy, do sử liệu về các trận đánh rất hiếm, nếu có thì cũng chỉ là sự miêu tả sơ sài nên ngày nay khó hình dung về các chiến thuật nói không, chiến thuật phục kích nói riêng. Tuy nhiên. có thể thấy quân đội Tiền Lê đã khéo chọn trận địa phục kính. Đó là nơi ta có thê bí mật dấu quân tiện triển khai lực lượng gây bất ngờ đối với địch và ta cũng có thể rút nhanh khi cần (như vùng Yên Phụ, Thuỷ Lôi) . Đó cũng có thể là quãng đường quanh co, lên xuống dốc, bị bất ngờ đối phương thường bị động, lúng túng (ải Côn Lôn).

Rõ ràng là, quân đội Tiền Lê, Lý đã biết lợi dụng yếu tố địa hình, thực hiện mai phục (dấu quân), bí mật triển khai đội hình bất ngờ tiến công quân địch đang hành quân. Nhờ lợi thế về địa hình và tạo ra bất ngờ, quân phục kính tuy ít có thê thắng đối phương đông hơn.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:29:34 am
Nước ta có nhiều sông, biển. Đó cũng là chiến trường diễn ra nhiều trận thuỷ chiến lớn chống xâm lược.  Từ năm 938, trong đánh giặc Nam Hán, Ngô Quyền với “mưu giỏi mà đánh cũng giỏi” đã phá giặc trên sông Bạch Đằng ghi một cột mốc phát triển của quân thuỷ và chiến thuật đánh thuỷ của quân dân ta.

Bước sang thời kỳ này con sông Bạch Đằng cùng với đường nước nông dọc ven biển Quảng Ninh ngày nay mà sử sách chép là sông Đông Kênh ít nhất cũng đã ba lần là chiến trường chống giặc. Tuy nhiên trong các trận đánh thuỷ lần này nhiều hình thức chiến thuật được vận dụng một cách linh hoạt, phong phú.

Các trận đánh thuỷ lần thứ nhất và thứ hai diễn ra vào đầu năm 981 trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống lần thứ nhất. Vào cuối tháng 1- 981, thuỷ quân Tống do Hầu Nhân Bảo theo đường biển tiến vào cửa sông Bạch Đằng nhằm hợp lực với quân bộ của Tôn Toàn Hưng ở vùng Bạch Đằng - Hoa Bộ. Đoán đúng đường hành quân của giặc, về mặt thuỷ, Lê Hoàn vận dụng chiến thuật của Ngô Quyền, bố trí thuỷ quân và cắm cọc ở cửa sông Bạch Đằng để phá giặc. 

Nếu như trong trận đánh thuỷ thứ nhất này chưa cản được giặc, chỉ có tác dụng đánh phủ đầu nhằm tiêu hao, gây khó khăn, nhụt nhuệ khí của giặc thì trận đánh thuỷ lần thứ hai lại diễn ra với chiến thuật khác. Nắm vững nội bộ chỉ huy địch không ăn ý nhau, hợp đồng hành quân và tác chiến không chặt chẽ, Lê Hoàn đã bố trí chặn đánh đạo quân thuỷ của Hầu Nhân Bảo.

Các trận cản phá giặc ở sông Đồ Lỗ (sông Lục Đầu) ở Lục Giang sông Luộc) đã buộc tên chủ tướng Hầu Nhân Bảo phải lui quân từ Lục Giang về sông Bạch Đằng để hội quân với thuỷ quân của Lưu Trừng và cánh quân bộ của Tôn Toàn Hưng chốt ở Hoa Bộ nhằm tổ chức tiến công Đại Cồ Việt theo hướng mới.

Nhưng tại đây, Hầu Nhân Bảo đã mắc mưu “trá hàng” của Lê Hoàn và bị phục binh và thuỷ binh của Đại Cồ Việt đánh cho đại bại.  Tống sử liệt truyện ghi: “Nhân Bảo bị giặc vây, bị giết ở giữa sông”. Sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng chép:“Nhân Bảo đem vạn quân xông lên trước, thế giặc rất mạnh, viện quân phía sau dện không kịp, trận thế bị vây hãm nên Nhân Bảo bị loạn quân giết chết quẳng xáe xuống sông”. 

Như vậy, trước sức tiến công của thuỷ quân Đại Cồ Việt, Hầu Nhân Bảo bị giết chết tại trận, Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng phải dẫn quân tháo chạy về nước.

Qua diễn biến của quá trình chống giặc Tống năm 981 ta thấy về đánh thuỷ không chỉ có hai lần tổ chức đánh phá giặc ở của sông và trong sông Bạch Đằng mà còn có các trận đánh cản phá giặc thắng lợi ở sông Đồ Lỗ, sông Lục Giang. 

Có thể nói trong kháng chiến chống giặc Tống lần thứ nhất, chiến trận đã diễn ra chủ yếu trên sông nước. Thuỷ binh, có kết hợp với bộ binh, dưới sự bài binh bố trận của Lê Hoàn đã chiến đấu trên chiến trường sông nước với không gian và thời gian khác nhau, lần lượt đi từ thắng lợi cục bộ đến thắng lợi quyết định toàn cục trên chiến trường. 

Sang thế kỷ XI, trong tổ chức đánh giặc Tống vào năm 1077 thời Lý, lại một lần nữa thuỷ chiến lại diễn ra không phải trên sông Bạch Đằng, mà tại sông Đông Kênh trên con đường dẫn đến cửa sông Bạch Đằng.

Theo kế hoạch tiến công Đại Việt, cánh quân thuỷ của Dương Tùng Tiên sẽ theo dòng Đông Kênh vào cửa sông Bạch Đằng ngược dòng về vùng Lục Đầu, hội quân với cánh quân bộ của Quách Quỳ, Triệu Tiết theo hai đường thuỷ bộ cùng tiến về Đại La. Nắm được ý đồ của giặc, Lý Thường Kiệt không đợi giặc ở cửa sông Bạch Đằng như thời Ngô Quyền và Lê Hoàn. Ông đã bố trí một đạo quân thuỷ do Lý Kế Nguyên - viên tướng từng tham chiến trong “tiên phát chế nhân” tiến về vây phá Ung Châu vào đầu năm 1076, chỉ huy án ngữ ở vùng hải phận Vĩnh An.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:31:01 am
Như vậy, về không gian chiến trường, cũng trên con đường nước Đông Kênh, nhưng thuỷ quân Đại Việt đã đợi giặc ngay ở đầu cửa ngõ. Chưa bén mảng tới vùng cửa sông Bạch Đằng, đội binh thuyền của Dương Tùng Tiên đã bị chặn đánh ở Vĩnh An. Quân Tống cố gắng mở đường vượt dòng Đông Kênh qua sông Bạch Đằng tiến tới điểm gặp cùng bộ binh và kỵ binh. Nhưng hàng chục trận đánh đã diễn ra, quân thuỷ của Dương Tùng Tiên không tiến lên được. Chúng phải lùi về đóng ở của sông Đông Kênh (có lẽ là cửa Tiên Yên ngày nay) . Cho đến khi cánh quân bộ của Quách Quỳ, Triệu Tiết bị đại bại ở chiến trường Như Nguyệt, Dương Tùng Tiên mới bị gọi về nước.

Hẳn rằng trong những trận đánh thuỷ ở khu vực hải phận Vĩnh An, thuỷ quân ta đã khéo sử dụng lợi thế của địa hình, thuỷ triều, mai phục và kiên cường đánh trận làm thất bại kế hiệp đồng thuỷ, bộ của địch. Thắng lợi của chiến thuật phá giặc của thuỷ quân Đại Việt đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến lược. 

Trước đó, trong cuộc chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1069 nhằm ngăn chặn hành động tiếp tay cho nhà Tống quấy phá biên giới phía nam Đại Việt, hành quân đường biển và thuỷ chiến là một lợi thế của quân Đại Việt. Với năm vạn quân, vua Lý Thái Tông và Lý Thường Kiệt tiến về phía nam theo đường thuỷ 1. Đến cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) quân Đại Việt gặp thuỷ quân Chiêm chặn đánh.

Do điều kiện tự nhiên lãnh thổ quốc gia hẹp lại trải dài dọc theo bờ biển, giao thông nối liền hai đầu Nam Bắc bằng đường bộ không thuận tiện, chủ yếu bằng đường biển nên người Chiêm rất thạo nghề sông biển, và có tổ chức hải quân mạnh. Với lực lượng đó, quân Chiêm Thành từng nhiều lần cướp phá Đại Việt.

Về trận Nhật Lệ, sách Việt sử lược chép: “Vua sai đại liên ban Hoàng Kiên đánh cửa biển Nhật Lệ, thắng được” 2.  Kế đó, Lý Thánh Tông cho quân tiến xuống cửa biển Thị Nại (Cribonei - Quy Nhơn) không gặp sức kháng cự nào của thuỷ quân Chiêm. Hẳn rằng thuỷ quân Chiêm đã tan vỡ từ trận Nhật Lệ.
 
Như vậy, vào thời này, ngay từ thế kỷ X trong tổ chức quân sự, quốc phòng của đất nước Đại Cồ Việt - Đại Việt đã có binh chủng thuỷ quân mạnh, từng nhiều lần đánh thắng giặc. Trong giao chiến với những đối tượng nhất định, thuỷ quân Đại Cồ Việt - Đại Việt đã tác chiến ở sông, biển với những địa hình khác nhau, tác chiến chính quy, quy mô lớn, mai phục, bao vây áp đảo tiêu diệt quân địch, góp phần to lớn vào thắng lợi cuối cùng của công cuộc chống giặc giữ nước.

Suốt ba thế kỷ từ sau khi khôi phục nền độc lập, quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt kể từ thời Ngô đến Lý, do nhu cầu sông còn giữ vững nền độc lập, tự chủ, trai qua thực tê tư tưởng về quân sự - quốc phòng và nghệ thuật quân sự đã xuất hiện, hình thành rõ nét và bước đầu tỏ rõ tính ưu việt của nó.

Trong thời Ngô - Đinh - Tiền Lê đến Lý, tổ tiên ta đã biết, muốn giữ nước phải làm cho “nước giàu dân mạnh”, đất nước phải được chăm lo xây dựng về mọi mặt. Hàng loạt chính sách và biện pháp để phát triển đất nước về chính trị, kinh tế, quân sự được ban hành và triển khai. Nhà nước tập quyền được củng cố, các xu hướng phân quyền, cát cứ bị loại bỏ. Khối đoàn kết dân tộc được củng cố thêm một bước. 

Chính sách khuyến nông với mục tiêu “xem sự đủ ăn là ý nguyện của dân, lấy việc cày cấy là gốc của nước”, đã tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy nông nghiệp phát triển, kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác. 

Đi đôi với việc xây dựng đất nước về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, tổ tiên ta thời đó đã đặc biệt chăm lo công cuộc phòng thủ đất nước mà tập trung là xây dơng lực lượng vũ trang. Phép “ngụ binh ư nông” trở thành quốc sách, được thực hiện trên cả nước.

Nhờ đó, đến thời Lý, nước ta có một đội quân thường trực mạnh và đội quân hậu bị đông đảo, gồm cả quân trung ương và quân tại chỗ ở các lộ. Không chỉ đến triều Lý mà từ thời Ngô Quyền, nước ta đã chú trọng xây dựng thuỷ binh vừa tác chiến giỏi trên sông nước, vừa giỏi hiệp đồng với bộ binh.

Chủ động là nét đặc sắc, nổi bật trong tư tưởng quân sụ và nghệ thuật quân sự đương thời. Ở vị trí địa - chiến lược quan trọng, nhạy cảm, nước ta luôn bị kẻ thù nhòm ngó.  Nhà nước Đại Cồ Việt - Đại Việt luôn theo dõi âm mưu địch, không khi nào lư là cảnh giác. Cứ mỗi lần kẻ địch có dấu hiệu tiến hành chiến tranh xâm lược là Đại Việt lại giải quyết trước vấn đề biên cương phía nam, phá tan mưu đồ liên minh của các thế lực thù địch.

____________________________
1. 2. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Sđd, tr.42.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:32:29 am
Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai, ta đã chủ động đánh sang đất địch phá cơ sở xuất phát tiến công của chúng, kế đó chủ động rút về nước vì không có tham vọng chiếm đất và để tổ chức phòng ngự. Chủ động phản công quân địch khi thời cơ đến, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.

Trong quá trình đó, nhà Lý còn biết chủ động kết hợp giữa đánh địch trên chiến trường với thương lượng khiến nhà Tống ra lệnh bãi binh, ta tránh được tổn thất không cần thiết và nối lại bang giao hai nước láng giềng. Chủ động của ta gây ra bất ngờ cho địch, nhờ đó làm tăng sức mạnh lên gấp bội.

Trong chỉ đạo chiến tranh và chỉ đạo tác chiến, nhà Lý đã khéo kết hợp quân triều đình với quân các lộ và hương binh, đánh giặc trên một không gian rộng lớn, kết hợp giữa tập trung đánh lớn với phân tán đánh nhỏ, kết hợp giữa tiến công với phòng ngự.

Nắm thời cơ và hành động đúng thời cơ cũng là nét độc đáo nữa của nghệ thuật quân sự Đại Việt thiên kỷ X. Lý Thường Kiệt đánh sang Ung - Khâm - Liêm khi hơn 10 vạn quân Tống vừa tuyển mộ được đưa về đây tập kết, đang chấn chỉnh cơ ngũ, phiên phế binh lính và chỉ huy, chưa sẵn sàng chiến đấu.

Lúc đó, đạo quân Nam Viện, quân chủ lực, lực lượng đột kích chiến lược của Tống chưa tổ chức xong, chưa thể cơ động có mặt ở Ung, Khâm, Liêm. Mặt khác, lương thảo, vũ khí trang bị đã dồn chứa đầy các kho ở ba thâu kể trên. Mở tiến công sớm hơn thực tế thời gian đã diễn ra thì thắng lợi không lớn vì quân địch tập kết về đây chưa đủ; còn muộn hơn chắc hẳn quân Nam viện do Quách Quỳ chỉ huy dã tới, chiến thắng sẽ khó khăn hơn và thắng lợi cũng không lớn.

Ở trận tuyến Như Nguyệt, thời cơ cũng được sử dụng để tạo ra lực lượng và sức mạnh. Sau một thời gian đối ngạn, quân ta phòng ngự vững chắc có chiều sâu, bẻ gãy các lần đột kích của đối phương. Khi đối phương không còn khả năng tiếp tục tiến công quân ta ngày một xiết chặt vòng vây cụm quân Quách Quỳ. Lúc đó, nhà Lý thực hiện giảng hoà kết thúc cuộc chiến.

Dưới thời Lý, với việc tổ chức và điều hành các trận đánh lớn trong sự liên kết giữa chúng nhằm đạt mục tiêu xác định, đã manh nha các yếu tố tiền thân cua nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Đấy là một sáng tạo của cha ông ta. Sáng tạo đó bắt nguồn từ tính ưu việt của nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân chính nghĩa, bảo vệ Tổ quốc.

Có thể nói hoạt động quân sự trên đất Ung, Khâm, Liềm, cuộc phòng ngự ở nam sông Như Nguyệt và tiến công bắc Như Nguyệt đã mang bóng dáng của loại hình chiến dịch. Trong nghệ thuật quân sự thời này ta còn thấy đã xuất hiện loại hình hoạt động “đánh vào lòng người” được vận dụng một cách tài tình, linh hoạt và phát huy tác dụng mạnh mẽ.

Đó là những hoạt động nhằm mục đích tác động vào târn lý, tư tưởng con người vì mục tiêu đánh thắng giặc. Bài “thơ thần” trên sông Như Nguyệt đã động viên cổ vũ quân dán Đại Việt, làm tan rã ý chí chiến đấu của quân Tống. Bài Phạt Tống lộ bố văn đã phân hoá nội bộ địch, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của quân dân Tống thực hiện “tiên phát chế nhân” thắng lợi.

Một số nội dung nghệ thuật quân sự, như trình bày ở trên, cũng đã hình thành rõ nét và được vận dụng với chiên thuật linh hoạt, phong phú đạt hiệu qủa tốt; như công thành diệt viện khi đánh vào thành Ung, như lập thành Bình Lỗ hoặc chiến tuyến sông Cầu, đánh mai phục phục kích trên bộ và trên sông, v.v. .

Hiệu quả chiến thuật càng cao khi nó được các hoạt động nghi binh làm cho địch bị lừa, bị bất ngờ, hết bất ngờ này tới bất ngờ khác khiến địch nhiều khi trở tay không kịp.

Vào thời Ngô - Đinh - Tiền Lê và Lý tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước và truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm đã dượt phục hưng và phát triển. Trong đó, tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam có bước phát triển mới, trên nhiều lĩnh vực.

Chính đó là nhân tố quan trọng góp phần quyết dình vào thắng lợi của các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ này và là di sản quý báu của tổ tiên trong Linh vực quân sự, quốc phòng được kế thừa và phát triển ở các thời kỳ kế tiếp.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:33:14 am
KẾT LUẬN


Xây dựng lực lượng vũ trang và tổ chức chiến đấu chống kẻ thù xâm lược đã trở thành hoạt động bức thiết của nhân dân ta từ buổi đầu dựng nước. Lịch sử đấu tranh giữ nước từ đầu thế kỷ X về trước đã để lại cho dân tộc ta nhiều bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá.


Vấn đề không chỉ là tổ chức lực lượng, là trang bị, rèn luyện, là nghệ thuật tác chiến. . .  mà còn là bài học chân lý ngời sáng về sự tồn tại của một dân tộc biết cầm vũ khí tự vệ chống lại kẻ thù xâm lược, ách đô hộ hơn một ngàn năm của các đế chế Trung Hoa từ Tần, Hán đến Tuỳ, Đường trên đất nước ta cuối cùng bị xoá bỏ vào đầu thế kỷ X.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 dưới sự chỉ huy của vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền đã hoàn thành triệt để sự nghiệp giải phóng dân tộc, mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của đất nước. 

Từ sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, với vương triều Ngô, tổ chức quân sự và hoạt động quốc phòng của nước ta bước vào thời kỳ xây dựng lực lượng vũ trang tổ chức chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đi đôi với xây dựng đất nước dưới sự quản lý của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền độc lập tự chủ. Đây là nét khác biệt cơ bản so với thời kỳ trước, là bước ngoặt, và đúng hơn là bước phát triển vượt bậc của nền quân sự, quốc phòng thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý, từ năm 939 đến năm 1225.

Nếu như trong thời kỳ lịch sử đấu tranh dựng nước từ buổi ban đầu tiếp đến giai đoạn chiến đấu lật ách đô độ, giải phóng đất nước đã để lại những bài học quý báu về khởi nghĩa giành quyền tự chủ, thì quá trình vận động và phát triển từ đầu thế kỷ X đến năm 1225 lại đặt những vấn đề mới cho quân sự, quốc phòng của đất nước, do đó có những bài học kinh nghiệm mới.

Lúc này không phải là giành quyền tự chủ mà là bảo vệ quyền tự chủ đã giành lại được từ kẻ thù đô hộ. Cụ thể hơn, lãnh thổ quốc gia, bộ máy quản lý nhà nước, cuộc sống ấm no, yên bình của nhân dân phải được bảo vệ bằng mọi biện pháp trong đó có biện pháp cao nhất là sử dụng sức mạnh của lực lượng vũ trang. 

Bước vào thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài, đất nước ta đã phải đối diện với vô vàn khó khăn khắc nghiệt. Trước hết, độc lập đã giành lại được nhưng kẻ thù cận kề từ phía bắc vẫn luôn có ý đồ dùng sức mạnh của một nước lớn, giàu tiềm năng hơn, có quân hùng tướng mạnh để khống chế, xâm lược, tái lập ách đô hộ trên đất nước ta.

Mặt khác, trong bối cảnh quan hệ khu vực, quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt từng là đối tượng quấy phá, xâm chiếm của eác nước lân bang như Chiêm Thành, Chân Lạp, Lão Qua từ biên giới phía nam, phía tây. Nguy hiểm hơn, đế chế Tống đang nắm quyền ở Trung Hoa trong chủ trương mở rộng thế lực về phía nam lại có ý đồ lôi kéo các tiểu que, chủ yếu là Chiêm Thành chống phá Đại Việt.

Tình thế bị sức ép đe doạ từ hai đầu Tổ quốc đã hình thành, xuất hiện ngay trong thời kỳ này và còn tồn tại về sau, buột các nhà nước Đại Việt phải quan tâm đối phó.

Tiếp đến những khó khăn phức tạp xuất hiện từ bên trong của đất nước vừa thoát khỏi ách đô hộ lâu dài của ngoại bang. Vẫn hay đoàn kết gắn bó, chung lưng đấu cật để dựng nước và giữ nước là truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt đã được hình thành từ rất sớm. Nhưng trải hơn một ngàn năm Bắc thuộc, tình trạng bị chia cắt, phân tản, từng nơi từng lúc các cộng đồng cơ dân co cụm lại để tự thủ, quay lưng lại với chính quyền đô hộ cũng là phản ứng - tự nhiên trước chính sách áp bức tước đoạt, cai trị tàn bạo của kẻ thù. Đó là hành động đúng đắn tích cực trong điều kiện đất nước mất chủ quyền.

Bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, trình trạng phân tán, xu hướng ly tâm chưa phải đã chấm dứt. Hiện tượng thổ hào châu mục xuất hiện như những thủ lĩnh vùng cầm đầu dân chúng để tự thủ ở cả miền xuôi miền ngược cần phải nhanh chóng khắc phục. Phân tán, ly tâm lúc này là đi ngược lại lợi ích sống còn của dân tộc cản trở việc xây dựng, củng cố một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền mạnh đang trở thành xu hướng phát triển, phù hợp với công cuộc phục hưng đất nước.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:41:38 am
Xây dựng và bảo vệ một nhà nước quân chủ tập quyền, khắc phục tình trạng phân tán, ổn định xã hội luôn là một chức năng quan trọng của tổ chức lực lượng quân sự, quốc phòng thời kỳ này. 

Như vậy, bước vào thời kỳ đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài, trong tình trạng bộn bề ngổn ngang nhiều việt, đất nước lại phải đứng trước những thách thức, khó khăn to lớn. Hàng loạt vấn đề đặt ra đối với tổ chức quân sự, quốc phòng.

Đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược lớn nhỏ, chống hành động phân tán, phản loạn, xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền, báo vệ cuộc sống yên bình cho nhân dân, chính là nội dung “giữ nước đi đôi với dựng nước” trong hoạt động quân sự quốc phòng thời kỳ này.

Vấn đề sẽ được nhận thức sâu sắc hơn từ một cái nhìn bao quát về những đường nét “thủ lĩnh quân sự” ở các nhà vua mở đầu, cùng những hoạt động “chiến chinh” xuất hiện khá đậm nét, dày đạc và đa dạng trong vòng ba thế kỷ từ vương triều Ngô đều hết vương triều Lý.

Việc xây dựng lực lượng vũ trang chính quy và tổ chức quốc phòng với tư cách là một lĩnh vực hoạt động của nhà nước vào thời kỳ này còn là bước khởi đầu mới mẻ, cũng như việc xây dựng bộ máy quản lý nhà nước với thể chế chính trì quân chủ trung ương tập quyền khởi đầu từ vương triều Ngô vậy.

Có thể nghĩ rằng mọi thứ đều được bắt tay xây dựng từ đầu mặc dù chiến đấu và biết cầm vũ khí chiến đấu thắng lợi đã trở thành truyền thống lâu đời. Chỉ kể từ cuộc đấu tranh chống đô hộ, các phong trào giải phóng dân tộc, từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43) cho đến họ Khúc (955), họ Dương (931) diễn ra với quy mô và mức độ khác nhau đều là những hoạt động vũ trang anh dũng kiên cường của nhân dân ta.

Nhưng lực lượng vũ trang còn trong tình trạng “nghĩa binh” chưa phải là binh lính chuyên nghiệp. Bà Trưng vẫn còn “tự nghĩ quân mình ô hợp” 1. Dương Đình Nghệ cũng nhóm quân từ “3.000 nghĩa tử” và Ngô Quyền cũng chỉ “lấy quân mới họp” 2. Lực lượng vũ trang bắt đầu cd quy chế, nề nếp của một tổ chức quân đội quốc gia phải kể từ Đinh Tiên Hoàng với “10 đạo quân” do Thập đạo tướng quân Lê Hoàn đứng đầu, được xây dựng và tôi luyện trong quá trình dẹp “loạn 12 sứ quân”.

Tất cả đều là những người dân cầm vũ khí ra trận theo tiếng gọi cứu nước, cứu nhà. Trưởng thành từ quá trình dẹp loạn, tổ chức “thập đạo quân” hình thành với các cấp đạo, quân, lữ, tốt, ngũ, số lượng đến một triệu người, phân bổ ở các loại quân và binh, trong đó chủ yếu là thuỷ binh và bộ binh, bao gồm quân trung ương và quân địa phương.

Tổ chức quân “10 đạo” thời Đinh tồn tại suốt thời Tiền Lê gắn liền tổ chức quân sự với tổ chức đơn vị hành chính đất nước, đã trở thành chỗ dựa vững chắc của nhà nước và là người bảo vệ trung thành lợi ích của quốc gia Đại Cồ Việt trong suốt thế kỷ X đầy biến động và không ít thử thách hiểm nghèo.

Trên cơ sở 10 đạo quân với nguyên tắc gắn tổ chức quân sự với tổ chức hành chính đó, vương triều Lý trong hơn 200 năm tồn tại đã từng bước xây dựng hoàn thiện thành một lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân: quân trung ương (nội binh) gồm cấm quân, túc vệ quân và sương quân, quân địa phương ở các lộ phủ (ngoại binh) và dân binh. thổ binh (dân quân) ở đồng bằng và miền núi.  Ngoài ra còn có quân của vương hầu quý tộc (phủ binh hoặc gia binh).

Với vương triều Lý, có thể nói, tổ chức lực lượng vũ trang đã trở thành một hệ thống chặt chẽ từ trung ương đến địa phương, dưới quyền chỉ huy tối cao của nhà vua với sự hợp tác của một đội ngũ tướng lĩnh lấy vương hầu quý tộc tôn thất làm nòng cốt. Tướng lĩnh tham gia cầm quân các cấp đã hình thành đội ngũ võ quan trong hàng “văn võ bá quan” của triều đình mà “quan chế triều phục các quan văn võ và tăng đạo theo đúng như nhà Tống” từ năm 1006 triều Lê Long Đỉnh.

__________________________
1. 2. Toàn thư. Sđd, t.1, tr. 232; Cương mục, Sđd, t.1, tr.272.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:43:30 am
Cùng với việc hình thành, xây dựng lực lượng quân đội, các chế độ tuyển quân, nuôi quân, luyện quân cũng đi vào nề nếp, quy củ. Việc tập hộ tịch, kê khai nhân khẩu, lập sổ hoàng nam làm cơ sở tuyển quân, việc quân lính (trừ cấm quân) chia phiên thay nhau về làm ruộng với chính sách ngụ binh ư nông” được áp dụng từ thời Lý.

Về luyện quân, thời Lý đã có điện Giảng Võ ở Thăng Long giành cho thái tử, thân vương, võ quan, tướng lĩnh học tập, rèn luyện; lại có Xạ đình ở nam thành Đại La để võ quan hàng ngày luyện tập cách đánh phá trận. Đối với binh si, ngoài bộ phận cấm quân thường trực thay nhau luyện tập còn các loại quân khác như sương quân, quân lộ phủ ở địa phương đến phiên đều tập trung luyện tập võ nghệ kết hợp với canh gác, bảo vệ, sẵn sàng làm nhiệm vụ quốc phòng.

Về vũ khí, chiến cụ, quân lính được trang bị các loại bạch khí quen thuộc như gươm, đao, giáo, mác, trượng, cung, nỏ...  còn có chiến cụ như thuyền chiến các loại, thang mây (vân thê) vượt hào leo thành, xe phá thành, máy bắn đá, khiên, mộc, giáp trụ. . .

Về quân phục thời này có mũ “tứ phương binh đính” thời Đinh và mũ “đầu mâu " thời Tiền Lê.  Như vậy trong gần ba thế kỷ, trải qua các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý, lực lượng vũ trang của đất nước từng bước được tổ chức thành một hệ thống chặt chẽ, binh chế rõ ràng, trang bị đầy đủ phản ánh đúng tầm vóc quân đội của một quốc gia đang trên đà phục hưng mạnh mẽ, đạt đến trình độ tiêu biểu đương thời.

Qua ghi chép của sử sách về thời Ngô - Đinh - Tiền Lê -Lý người ta thấy hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang khá “bận rộn”. Xuất phát từ tình hình cụ thể của đất nước thời này, lực lượng vũ trang phải thường xuyên tham gia chống giặc ngoại xâm, bình dẹp các hiện tượng phân tán, các vụ phản loạn dưới sự điều động của nhà nước quân chủ tập quyên.

Về chống ngoại xâm, bên cạnh nhiều lần chinh phạt Chiêm Thành, Chân Lạp quấy phá. cướp bóc, lấn chiếm từ phía nam và phía tây nổi lên hai cuộc chống xâm lăng của giặc Tống với quy mô lớn vào các năm 981 thời Tiền Lê và 1077 thời Lý. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất dưới quyền điều khiển của Lê Hoàn từ cuối tháng 1 đến tháng 4 - 981; cuộc kháng chiến lần thứ hai do Lý Thường Kiệt chỉ đạo kéo dài đến ba tháng, chỉ kể trên chiến trường Như Nguyệt từ tháng 1 đến tháng 3 – 1077 1.
 
Về chinh phạt Chiêm Thành, trong nhiều lần hành binh nổi lên ba cuộc lớn. Lần thứ nhất vào năm 982 thời Tiền Lê, Lê Hoàn đưa quân tiến vào kinh đô Indrapura (Đồng Dương - thuộc Quảng Nam ngày nay). Từ khi xuất quân đến khi rút về đến Hoa Lư là một năm. Lần thứ hai vào năm 1044, vua Lý Thái Tông đem binh thuyền tiến vào kinh thành Vijaya (Phật Thệ - Bình Định ngày nay), thời gian hành binh bảy tháng, từ tháng 2 đến tháng 4 - 1044; và lần thứ ba vào năm 1069, vua Lý Thánh Tông đem quân tiến vào thành Phật Thệ, thời gian hành binh hơn 4 tháng, từ tháng 3 đến tháng 7.

Về hoạt động quân sự bình dẹp những vụ ly khai, phản loạn từ bên trong đã xuất hiện dày đặc, phức tạp và đa dạng hơn. Trong số đó nổi lên một số vụ điển hình: Đó là vụ chính biến do Dương Tam Kha gây ra ở Cổ Loa vào năm 944; dẹp loạn “12 sứ quân” từ năm 965 đến 968 (chủ yếu ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ ngày nay); vụ loạn ba vương ở Hoa Lư vào năm 1005 sau khi Lê Hoàn qua đời; vụ Cử Long từ năm 1001 đến năm 1005 (vùng Câm Thuỷ, Thanh Hoá ngày nay) thời Tiền Lê và năm 1011 thời Lý: vụ loạn ba vương ở Thăng Long vào năm 1028 sau khi Lý Thái Tổ qua đời: vụ Nùng Trí Cao các năm 1041-1053 thời Lý (ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn nửa phần Thái Nguyên ngày nay vụ), động Ma Sa năm 1119 thời Lý (ở Đà Bắc, Hoà Bình ngày nay). vụ Thân Lợi vào năm 1040 - 1041 thời Lý; vụ đại loạn vào các năm 1207-1224 cuối thời Lý.

Hầu hết việc bình dẹp các vụ phản loạn đều do nhà vua, các hoàng tử trực tiếp cầm quân.

Những ghi chép của sử cũ đã phản ánh rõ sứ mệnh nặng nề của tổ chức lực lượng vũ trang, quốc phòng thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý. Với tư cách là tổ chức vũ trang của nhà nước, quân đội thời kỳ này không ngừng lớn mạnh và đã gánh vác trách nhiệm nặng nề: chống ngoại xâm bảo vệ độc lập của Tổ quốc và tham gia bình dẹp hiện tượng phân tán, phản loạn các loại để bảo vệ nhà nước quân chủ, ổn định xã hội .

_________________________
1. Không kể thời gian “tiên phát chế nhân” đánh phá và vây hạ thành Ung Châu từ tháng 1 đến tháng 3 - 1076.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:50:31 am
Tổ chức quân sự, quốc phòng thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý đã ra đời trong chiên đấu giữ nước và dựng nước, đồng thời cũng thật sự trưởng thành trong dựng nước và giữ nước.  Trong thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức chiến đấu chống xâm lăng, bình dẹp phản loạn của quân đội quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt thời kỳ từ 939 đến 1225, tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự đã sớm xác lập, ngày một nâng cao với hiệu lực mạnh mẽ.

Nói về võ công trong đánh thắng giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, sử gia thế kỷ XIII Lê Văn Hưu nhận định “mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy1.  Kế thừa và phát huy “mưu giỏi”, “đánh giỏi” của Ngô Quyền cùng đội quân “mới họp” của người anh hùng dân tộc “mở nước xưng vương” đó, quân đội thời Đinh, Tiền Lê, Lý đã nhanh chóng tô điểm và xây đắp nên một nền nghệ thuật quân sự mang đậm bản sắc dân tộc.

Trước hết, về mặt tư tưởng, ngay từ đầu đã xuất hiện một sự kết hợp chặt chẽ giữa quân sự quốc phòng với chính trị. Một quân đội mạnh có hiệu lực trong chiến đấu đã được kết hợp với xây dựng và củng cố một nhà nước vững mạnh.  Lịch sử cho hay khi nhà nước vương triều Ngô ở Cổ Loa suy sụp lập tức tổ chức quân đội tan rã, phân tán, dẫn tới “loạn 12 sứ quân”.

Dẹp loạn thành công, nhà nước quân chủ vương triều Đinh ra đời. Một tổ chức “quân 10 đạo” được thành lập, gắn tổ chức quân sự với tổ chức đơn vị hành chính. Đó chính là mầm mống của ba thứ quân: quân triều đình (trung ương), quân các đạo (địa phương) và hương binh sẵn có trong cơ sở giáp, xã, động, bản, được các vương triều Tiền Lê và Lý kế thừa, phát triển thành một đội quân hùng mạnh để có khả năng hai lần lập nên chiến công oanh liệt đánh thắng giặc Tống vào thế kỷ X, thế kỷ XI.

Cũng ngay từ thế kỷ X, vào năm 980 vương triều Đinh suy yếu, vua nhỏ tuổi, nội bộ lục đục hoạ xâm lăng của nhà Tống đến gần. Trước tình hình đó, lực lượng quân đội ở Hoa Lư do Phạm Cự Lượng cầm đầu đã can thiệp, được Dương Thái hậu và triều thần đồng tình cùng tôn Lê Hoàn lên ngôi vua ổn định tình hình.  Quân đội không những không bị tan rã mà còn được củng cố, tiếp tục phát huy sức mạnh đánh thắng giặc Tống lần thứ   nhất, bảo vệ độc lập cho quốc gia Đại Cồ Việt. 

Vấn đề thứ hai khá cơ bản, đó là chính sách “ngụ binh ư nông” đã được vận dụng rõ nét từ thời Lý. Xuất phát từ một đất nước nhỏ, nông nghiệp nghèo, dân số không đông để có một đội quân đông đảo gồm ba thứ quân với các loại binh thuỷ, lục, kỵ, tượng, nhà Lý đã thực hiện việc kiểm kê dân đinh, phân theo lứa tuổi ghi vào sổ, sẵn sàng huy động khi cần thiết.

Bình thường trong quân đội chỉ có một bộ phận thường xuyên tại ngũ đó là cấm binh, còn lại sương quân và quân địa phương đều chia phiên thay nhau về làm ruộng.  Lúc lâm sự tất cả được huy động dưới quyền điều khiển của các tướng lĩnh. Như vậy nhà nước khi cần thiết có thể đảm bảo một số lượng quân đông đảo, mặt khác còn giảm bớt được gánh nặng nuôi quân.

Chính sách “ngụ binh ư nông” là cơ sở để thực hiện “toàn dân là lính” đã thực sự hình thành từ thời Lý, từng tồn tại xuyên suốt quá trình xây dựng lực lượng vũ trang của nhân dân ta trong lịch sử.  Như vậy, xây dựng quân đội mạnh đi đôi với xây dựng bảo vệ nhà nước mạnh và “ngụ binh ư nông”, “toàn dân là lính” là tư tưởng quân sự lớn đã được hình thành vào thời kỳ này.

Từ những tư tưởng quân sự lớn đó, tổ chức quân đội và hoạt động chống giặc trong vòng ba thế kỷ từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIII, đã tạo dựng nên một nền nghệ thuật quân sự đặc sắc thể hiện ở chiến lược chiến thuật được vận dụng linh hoạt và thắng lợi. 

Ý thức đầy đủ về sự tồn tại của đất nước trong điều kiện khó khăn và hoàn cảnh phức tạp, lại thường xuyên bị nhòm ngó của kẻ thù xâm lược từ hai đầu nam bắc, ngay từ buổi đầu sau khi giành lại quyền tự chủ, quân sự, quốc phòng đã được nâng lên hàng đầu trong quốc sách kết hợp dựng nước với giữ nước.

Một tổ chức quân đội quốc gia từ “10 đạo quân” thời Đinh và Tiền Lê phát triển thành một quân đội hùng mạnh gồm ba thứ quân, khi hữu sự dặt dưới quyền chỉ huy của triều đình do nhà vua đứng đầu đã thể hiện nhận thức đúng đắn và quyết tâm của nhà nước quân chủ trong hoạt động giữ nước.

______________________________
1. Toàn thư, Sđd. t.l, tr. 198.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:59:01 am
Trong chiến lược giữ nước thời này, bên cạnh ý thức cảnh giác, biết mình, biết người, chủ động xây dựng lực lượng và kế hoạch bảo vệ đất nước và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu nổi lên vấn đề giành thế chủ động trong cuộc chiến.

Trong kháng chiến lần thứ nhất, khi được tin quân Tống sắp kéo sang trong lúc kinh đô Hoa Lư còn đang rối bời, Lê Hoàn với tư cách người đứng đầu Đại Cồ Việt dã tìm mọi cách hoà hoãn, ổn định tình hình, có thời gian bố trí lực lượng giành thế chủ động đón giặc.

Trước khi phát binh, Lê Hoàn còn sai Giang Cự Vọng và Vương Thiệu Tộ thác lời Đinh Toàn sang vua Tống xin nối ngôi cha. Trong thời gian vua Tống cử sứ giả đến Hoa Lư đưa thư với lời lẽ vừa dụ dỗ vừa đe doạ thì Lê Hoàn đã kịp thời điều quân thuỷ, bộ chốt ở những nơi hiểm yếu trên đường tiến quân của giặc từ biên giới phía bắc đến Hoa Lư.

Dấn quân vào đất Đại Cồ Việt quân Tống gặp phải sự chống cự quyết liệt của một đội quân thuỷ, bộ lớn mạnh đã sẵn sàng đợi giặc. Trong gần ba tháng lao vào cuộc xâm lăng Đại Cồ Việt, tướng giặc Hầu Nhân Bảo bị chém đầu trên sông Bạch Đằng, các tướng Quách Quân Hiệu Triệu Phụng Huân bị bắt sống ở chiến trường Tây Kết, chịu thất bại hoàn toàn.

Cũng để giành thế chủ động trên chiến trường. trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai vào năm 1077, sự việc lại diễn ra theo một cách khác.

Nắm bắt được tình hình nhà Tống tập trung binh lực, quân lương ở gần kề biên giới, lấy Ung Châu làm tổng hành doanh, Lý Thường Kiệt đã chủ động xuất quân san phẳng hậu cứ của địch trên đất địch. 

Sau khi triệt phá các cơ sở hậu cần của địch mà trung tâm là thành Ung Chân Lý Thường Kiệt rút quân về nước, chủ động sắp đặt mưu kế, bố trí lực lượng thuỷ bộ, lập phòng tuyến Như Nguyệt sẵn sàng đời địch. Sau ba tháng bị giam chân bên kia bờ sông Như Nguyệt, một vài lần đem quân sang sông đều bị chặn đánh, đẩy lùi thuỷ quân bị hãm bên dòng Đông Kênh không tiến lên được; quân lính sau nhiều lần bị tiến công khiếp sợ và chán nản, lại gặp thời tiết khắc nghiệt, Quách Quỳ, Triệu Tiết phải chịu thất bại, nhân đề nghị “giảng hoà” của Đại Việt mà rút quân về nước. 

Như vậy, trong hai lần nhà Tống chủ động tổ chức lực lượng tiến hành xâm lược vào các năm 981 và 1077, hai lần bằng mưu lược tài tình, linh hoạt, quân dân Đại Cồ Việt ‘ Đại Việt đã giành được thế chủ động, ung dung đợi giặc, buộc giặc Tống lâm vào thế bị động trên chiến trường. 

Sau khi bằng con đường ngoại giao để hoà hoãn hoặc “tiên phát chế nhân”, giành thế chủ động để tổ chức phòng ngự đợi giặc trong hai cuộc kháng chiến chống Tống, Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đã chỉ huy quân đội tổ chức nhiều đợt tiến công chặn giặc, phá giặc buộc chúng phải chịu thất bại hoàn toàn. Kết hợp phòng ngự với tiến công và tiến công để phòng ngự là nét đặc sắc trong nghệ thuật quân sự thời này.

Chiến lược quân sự đúng đắn triển khai thực hiện thông qua những chiến thuật sắc bén thích hợp. Đó là phối hợp chặt chẽ giữa bộ binh và thuỷ binh, giữa đánh trên bộ và trên sông biển trong hai cuộc kháng chiến chống Tống, là vây thành diệt viện trong thực hiện “tiên phát chế nhân”, là công thành trong hạ thành Ung Châu năm 1075, tiến công cứ điểm Tây Kết năm 981, tiến công Indrapura (Đồng Dương) năm 982, tiến vào Vijaya (Phật Thệ) năm l069; là dựa vào chiến luỹ chiến đấu phòng thủ sẵn sàng chuyển sang tiến công ở chiến trường Như Nguyệt năm 1077; là mai phục cả trên bộ, trên sông trong hai lần chống giặc Tống, là truy kích ở chiến trường Tây Kết năm 981 ; là “đánh vào lòng người” trong cổ vũ quân lính qua bài thư trên sông Như Nguyệt, qua Lộ bô’ văn của Lý Thường Kiệt cáo yết cho dân bản địa trên đường hành quân sang đất Tống, qua tấu của Lê Hoàn thác lời Đinh Toàn gửi xin mệnh của vua Tống, qua kế trá hàng của Lê Hoàn đánh lừa Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng năm 981 . . .

Như vậy, vào thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh và tổ chức chống giặc thắng lợi, tư tưởng lớn về quân sự đã hình thành cùng với một nền nghệ thuật quân sự đặc sắc.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 10:59:57 am
Kết hợp quân sự, quốc phòng với chính trị, “ngụ binh ư nông” thực hiện ‘toàn dân là lính” là những tư tưởng lớn chỉ đạo cho hoạt động quốc phòng giành thắng lợi đã xuất hiện từ thời này. Công cuộc chống xâm lăng, đặc biệt hai lần đánh thắng giặc Tống đã thực sự nâng “mưu giỏi” và “đánh giỏi” kế thừa của quá khứ lên thành nghệ thuật quân sự độc đáo. Với chiến lược đúng đắn, chiến thuật sắc bén, linh hoạt, quân đội Đại Cồ Việt - Đại Việt đã đánh bại mọi kẻ thù xâm lăng lớn nhỏ trên mọi địa hình núi lừng, trung du, đồng bằng, sông, biển.

Qua lịch sử xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức chiến đấu chống ngoại xâm và bình dẹp các hiện tượng phân tán, phản loạn trong vòng ba thế kỷ trải các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý từ năm 939 đến năm 1225, nền quân sự của đất nước đã sớm xác lập, phát triển với một tổ chức quân đội quốc gia khá hùng mạnh.

Có thể nói, trong lịch sử trung đại, sau một quá trình tồn tại và phát triển không bình thường dưới ách đô hộ hơn một ngàn năm, sau khi giành được độc lập tự chu vào đầu thế kỷ X, lần đầu tiên nền quân sự quốc phòng quốc gia với đầy đủ nội dung của nó được thiết lập cùng với công cuộc phục hưng đất nước, xây dơng nhà nước quân chủ tập quyền độc lập tự chủ. 

Tập hợp dưới dưới cờ đuổi giặc giữ nước không phải là mới đối với dân tộc ta vào đầu thế kỷ X. Nhưng xây dựng một nền quân sự quốc phòng có hệ thống chặt chẽ, binh chế rõ ràng của một quốc gia lại là bước khởi đầu như bước khởi đầu xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vào thời này vậy.

Từ một đoàn “quân mới họp” thời Ngô Quyền đến đoàn quân lớn lên từ “cờ lau tập trận” của Đinh Bộ Lĩnh trong dẹp loạn thắng lợi, tiến tới một lực lượng vũ trang “quân 10 đạo” của quốc gia Đại Cồ Việt dưới quyền quản lệnh của Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn là một bước phát triển tuần tự nhịp nhàng nhưng nhanh chóng.

Quá trình ban đầu đó chỉ diễn ra trong vòng 30 năm, từ năm 938 đến năm 968. Mười ba năm sau, vào năm 981, tổ chức 10 đạo quân đó lại tiếp tục thử lửa trong cuộc đọ sức với đại quân nhà Tống trong lần xâm lược thứ nhất, và trong dịp chinh phạt Chiếm Thành vào năm 982. Cả hai lần quân đội Đại Cồ Việt đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

Ra đời từ dẹp loạn, trưởng thành trong chiến tranh vệ quốc, nền quân sự quốc phòng của quốc gia Đại Cồ Việt hồi thế kỷ X đã qua những bước khởi đầu oanh liệt, để tiến vào thế kỷ XI - quốc gia Đại Việt thời Lý - với hào quang của một quân đội bách chiến bách thắng.

Nền quân sự - quốc phòng đó được hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ vào thời Lý từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIII.  Trên cơ sở đất nước được phục hưng, củng cố và phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. nền quân sự - quốc phòng thời kỳ này đã phát huy hiệu lực, giữ một vị trí vô cùng quan trọng, nắm phần quyết định không chỉ trong sự nghiệp giữ nước, bảo vệ chủ quyền mà cả trong sự nghiệp xây dựng đất nước.

Gắn liền vời tên tuổi các vị anh hùng dân tộc: Ngô Quyền Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, nền quân sự, quốc phòng đó mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân đồng thời là một di sản vô cùng quý báu. Với những thành tựu lớn lao trong xây dựng nền quân sự, quốc phòng đó, quân và dân ta bước vào thời Trần với ba lần lập nên chiến công oanh liệt đánh thắng giặt Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 11:34:43 am
PHỤ LỤC

PHỤ LỤC I

(http://i468.photobucket.com/albums/rr47/UyenNhi05/Chieudoido-chuHan.jpg?t=1241756987)

Dịch

CHIẾU DỜI ĐÔ

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô  1. Nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô  2. Các Vua thời Tam Đại  3 đâu có phải chỉ theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời. Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu đồ nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu, trên vâng mệnh trời,  dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì mới thay đổi. Vì vậy vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Còn như hai nhà Đinh, Lê thì lại theo ý riêng mình, coi thường mệnh khiến cho trời không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên ở nơi này  4 , khiến cho triều đại không được lâu dài, số vận ngắn ngủi; trăm họ hao tổn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót, không thể không dời. 

Huống chi thành Đại La là cố đô của Cao Vương 5 , ở vào nơi trung tâm trời đất, có cái thế rồng cuốn hổ ngồi, đúng ngôi vị Nam, Bắc, Đông Tây, thuận núi sông quay đi ngoảnh lại. đất rộng mà bằng, cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cái khổ ngập lụt muôn vật rất dồi dào. Xem khắp đất Việt chỉ đây là nơi thắng địa. Thật là nơi tụ hội quan trọng cửa bốn phương, nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Trẫm muốn nhân cái địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh thấy thế nào?


Nguyễn Đức Vân dịch.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư.



_____________________________
1. Nhà Thương, hoặc Ân Thương, là triều đại chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc từ thời cổ đại trước Công nguyên. Bàn Canh là vua thứ mười bảy của nhà Thương. Vua đầu tiên của nhà Thương là Thành Thang đóng đô ở đất Bắc, nay thuộc huyện Thương Khẩu tỉnh Hà Nam. Đến với Bàn Canh dời đô đến đất Ân, nay thuộc huyện Yên Sở, tỉnh Hà Nam.
2. Thành Vương là vua thứ ba của nhà Chu. Nhà Chu là triều đại tiếp nối liền với nhà Thương. Chu Văn Vương nhà Chu dựng nghiệp ở đất Kỳ, tỉnh Thiểm Tây. Chu Vũ Vương lại dời đô đến Trường An: tỉnh Thiểm Tây. Chu Thành Vương lại dời đô đến Lạc Ấp, tỉnh Hà Nam.
3. Tam Đại: tên chung chỉ ba triều đại: Hạ, Thương, Chu.
4. Chỉ Hoa Lư, đô của hai nhà Đinh và Tiền Lê. nam thuộc Ninh Bình: Hoa Lư còn gọi là Trường Yên.
5. Cao Vương: chỉ Cao Biền, viên quan đô hộ thời nhà Đường làm Tiết độ sứ. Cao Biền xây thành Đại La (nay thuộc quanh vùng đường Đại La, Hà Nội) vào khoảng 866. Tương truyền Cao Biền có nhiều thủ thuật về phép phong thuỷ, cho nên giới phong thuỷ thời phong kiến tôn Cao Vương cũng như giới nhà Nho tôn Sỹ Nhiếp là Sĩ Vương. Từ đó, tên Cao Vương quen dùng, ngay cả khi người đời sau chế giễu Cao như trong câu đối đình Tân Khai (44 phố Hàng Vải Hà Nội) ca tụng tinh thần Bạch mã - thành hoàng của thủ đô Thăng Long - đã giúp vua Lý và đã nổi sấm sét phá phép của Cao.  Trong đối câu đối có ngụ ý đối lập sự tôn nghiêm của vua nhà Lý nước ta với sự hài hước trong việc Cao Biền giở trò phù thuỷ mà bị thất bài nhục nhã:
“Đan giá tự nhiên lai, thành quách dĩ tiền khai Lý đế,
Nhất thanh tòng địa chấn, sơn hà y cựu tiếu Cao vương”. 
(Giáng hạ tự mây trời, thành quách ngàn xưa, mở nghiệp Lý đế;
Sấm sét vang mặt đất, núi sông như cũ, cười giễu Cao vương).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 12:03:31 pm
(http://i468.photobucket.com/albums/rr47/UyenNhi05/Bolovan.jpg?t=1241758817)

Phiên âm:

PHẠT TỐNG LỘ BỐ VĂN

Thiên sinh chúng dân, quân đức tắc mục. Quân dân chi đạo vụ tại dưỡng dân. Kim văn Tống chủ hôn dung, bất tuân thánh phạm, thính An Thạch tham tà chi kế, tác “thanh miêu”, “trợ dịch” chi khoa, sử bách tính cao chi đồ địa, nhi tư kỳ phì kỷ chi mưu.

Cái vạn dân tư phú ư thiên, hốt lạc na yêu lợi chi độc. Tại thượng cố nghi khả mẫn, tòng tiền thiết mạc tu ngôn. 

Bản chức phụng quốc vương mệnh, chỉ đạo Bắe hành; dục thanh yêu nghiệt chi ba đào, hữu phân thổ vô phân dân chi ý; yếu tảo tinh uế chi ô trọc, ca Nghiêu thiên hưởng Thuấn nhật chi giai kỳ.

Ngã kim xuất binh, cố tương chưng tế. Hịch văn đáo nhất, dụng quảng văn tri. Thiết tự tư lường, mạc hoài chấn bố.

Theo Việt điện u linh .


Dịch nghĩa:

BÀI VĂN LỘ BỐ ĐÁNH GIẶC TỐNG

Trời sinh ra dân chúng, vua có đức thì tin yêu. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân. Nay nghe biết vua Tống ngu hèn, không theo khuôn phép thánh nhân, nghe cái kế tham tà của An Thạnh, bày ra phép “thanh miêu”, “trợ dịch”; khiến trăm họ hao kiệt, lầm than, để thoả cái mưu nuôi béo lấy thân mình.

Số là muôn dân đều dựa vào trời, bỗng sa vào sự độc hại của thói tham lợi. Bề trên cố nhiên phải thương xót. Những việc từ trước, thôi không nói làm gì.

Bản chức vâng mệnh quốc vương, chỉ đường bắc tiến, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có cái ý phân biệt quốc thổ chứ không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch cái bẩn thỉu hôi tanh để ca thuở đẹp của ngày Nghiêu, để hưởng hội lành của tháng Thuần.

Nay ta ra quân cốt cứu vớt muôn dân. Hịch văn truyền đến để mọi người đều nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi.

Trần Văn Giáp dịch.

_______________________
Mấy chữ cuối của câu này, các bản chữ Hán thường chép là “yêu ly chi độc”, nhưng “yêu ly” thì không rõ nghĩa. Chúng tôi ngờ, rằng đây là yêu lợi chi độc”; “yêu lợi là chữ trong Hậu Hán thư (Trương Hoành truyện) và trong sách Không tùng tử. “yêu lợi” tức là cầu lợi. Trong bài này, văn bản đổi “lợi” thành “ly” có thể là vì một trong hai lý do sau đây:
a) Đời Tống (như trong từ khúc) thường hay có lối cho phép viết tự do, miễn là đồng âm hay gần âm là được. Sống trong đời Lý, cùng thời đại với đời Tống, tác giả đã viết “ly” thay cho “lợi” chăng .
b) Từ Hậu Lê trở về sau, kỵ huý tên vua Lê Lợi. Cho nên nếu tác giả viết là “lợi”? thì người đời Lê đã kỵ huý mà đổi ra “ly” chăng? 


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:02:19 pm

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ph. Ăng ghen: Tuyển tập luận văn quân sự, tập 1, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978.

2. Ph. Ăng ghen: Tuyển tập luận văn quân sự, tập 2, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978.

3. Ph. Ăng ghen, Lênin, Stalin: Bàn về chiến tranh nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970.

4. A.B.Pohacốp: Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X-XIV. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. 

5. Anh linh chính khí, bản chữ Hán, Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu VHV. A.2423.

6. Bách thần lục, bản chữ Hán, Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu VHV. 1276.

7. Binh thư yếu Xược (Phụ Hổ trướng khu cơ), bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.

8. Cao Hùng Trưng: An Nam chí nguyên, bản in Viễn Đông bác cổ, Hà NộI, 1932. bản dịch của Hoa Bằng.

9. Chu Khứ Phi: Lĩnh ngoại đại đáp, tư liệu khoa sử, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. Chu Quang Trứ: Mỹ thuật thời Trần, Khảo cổ học, 5-6-1970.

11. D.G.E.Hall: Lịch sử Đông Nam A, bản dịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội: 1997.

12. Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội , 1994 .

13. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội.

14. Đại Nam thần lục, Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu A.29134 .

15. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I-IV, in lần thứ hai, Nxb.  Khoa học xã hội, Hà Nội. l971 - 1972. 

16. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I-IV, mộc bản khắc năm Chính hoà, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993. 

17. Đại Nam thần lục, Thư viện Viện Hán Nôm, ký hiệu: A2913.

18. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, bản dịch, Nxb. Văn hoá thông tin?, Hà Nội -1977.

19. Đặng Xuân Khanh: Thăng Long cổ tích khảo, Thư viện Viện Hán Nôm, Ký hiệu: VHV. 2471.

20. Định Quốc Công Nguyễn Bặc, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình và trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nxb. Khoa họe xã hội, Hà Nội, 1998. 

21 . Đỗ Văn Ninh (chủ biên) : Lịch sử Việt Nam từ khởi thuỷ đến thế kỷ X, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.

22. Đỗ Văn Ninh: Thành Cổ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983.

23. Đỗ Văn Ninh: Tiền cổ thời Lý - Trần, Nghiên cửu lịch sử số 6 (189) tháng 11,12-1979.

24. Hà Khứ Phi: Hà Bác sĩ bị luận, bản chữ Hán.

25. Hán Ngọc Lâm: Quảng Đông thông chí, bản chữ Hán.

26. Hoa dược đích phát ninh hoà Tây truyền, Hoa Đông nhân dân xuất bản xã, Thượng Hải, 1954.

27. Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Nxb. Văn hoá, Hà Nội. 1994.

28. Hoàng xuân Hãn, Lý Thường Kiệt tập 1, 2, Nxb. Sông Nhị. Hà Nội. 1949 - 1950.

29. Hoàng Đình Phu (chủ biên): Mây nét về sự phát triển kỹ thuật quân sự, Nxb. quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.

30. Hoàng Điền (chủ biên): Tìm hiểu công tác hậu cần thời xưa, Bộ Tham mưu Tổng cục Háu cần xuất bản, Hà Nội, 1977 .

31. Hoàng Minh: Tìm hiểu tổ tiên ta đánh giặc, In lần thứ ba, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 1977.

32. Hợp tuyển thư trăn Việt Nam thế kỷ X-XVII, in lần thứ hai, Nxb. Văn học. Hà Nội, 1976.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:02:41 pm
33. Hồng Nam và Hồng Lĩnh (chủ biên): Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.

34. Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, bản chữ Hán, ký hiệu: A993.

34 Lê Bá Thảo: Thiên nhiên Việt Nam, Nxb. Khoa học kỹ thuật Hà Nội, 1977.

36. Lê Đình Sỹ: Hoàng tử Đại Việt chiến đấu và ăn Tết ở hải ngoại, Lịch sử quân sự, số 1-1997.

37. Lê Đình Sỹ: Vương triều Lý - những công hiến trên lĩnh vực quân sự, Lịch sử quân sự, số 1-2002.

38. Lê Đình Sỹ: Binh chế thời Lý, Lịch sử quân sự, số 2- 1989

39. Lê Đình Sy: Binh chế Trung Quốc thời Tống, Lịch sử quân sự, số 3- 1993.

40. Lê Đình Sỹ: Có một trận quyệt chiên trên sông Bạch Đằng Xuân Tân Ty (981), Lịch sử quân sự, số 2-2002. 

41 . Lê Đình Sỹ: Dân binh Đại Việt trong chiến tranh chống ngoại xâm: Lịch sử quân sự, số 3- 1982.

42. Lê Đình Sỹ: Thuỷ quân Đại Việt trong chiến tranh giữ nước, Quốc phòng toàn dân, số 2-1993.

43. Lê Đình Sỹ: Tổ chức quân đội và binh chế thời Đinh - Lê, Quân. đội nhân dân số 3-1982.

44. Lê Đình Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt: Kế sách giữ nước thời Lý - Trần, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. 

45. Lê Hữu Huấn: Hai Dương địa dư, Thư viện Viện Hán Nôm. ký hiệu A.3167.

46. Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1978.

47. Lê Quý Đôn: Vân đài loại ngữ, Nxb. Sử học,Hà Nội,

48. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.

49. Lê Khắc Hy: Sóc Sơn Thánh Gióng vương bi, bia đền Gióng, Sóc Sơn.

50. Lý Đào: Tiệc tư trị thông giám trường biên, bản in của Đàm Chung Lâu.

51 . Lý Tế Xuyên: Việt điện U Linh, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1972.

52. Lý Văn Phượng, Việt kiệu thư, bản chữ Hán chép tay.

53. Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 1976.

54. Lịch sử Việt Nam thời kỳ chế độ phong kiên dân tộc, Tổ cổ sử Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội, 1976

55. Lịch sử Hà Nam Ninh, tập I, Phòng Nghiên cứu Lịch sử Hà Nam Ninh, Nam Định, 1988.

56. Lương Ninh - Nghiêm Đình Vì - Đinh Ngọc Bào: Lịch sử Lào, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. 1991.

57. Mã Đoan Lâm: Văn hiến thông khảo, bản chữ Hán.

58. Mỹ thuật thời Lý, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2000.

59. Ngô Thì Sỹ: Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội liên lạc nghiên cứu Á Châu, Sài Gòn, 1960.

60. Ngô Thì Sỹ: Đại Việt sú ký tiền biên, bản dịch Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.

61. Nguyễn Danh Phiệt: Vùng đất Bình Kiều với ngôi thành của sử quân Ngô Xương Xí, Nghiên cứu lịch sử , số 4-1981.

62. Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và giữ nước, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

63. Nguyễn Doãn Tuân: Tìm hiểu lịch sử và hhu di tích Cổ Loa, luận án PTS sử học, 1996, bản lưu trữ tại Viện Sử học Việt Nam.

64. Nguyễn Lương Bích: Mấy vấn đề soi sáng sử liệu thời Lý, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 7- 1976.

65. Nguyễn Quang Ngọc: Chiến trường Bạch Đằng, kỷ yếu Hải Phòng, 1960.

66. Nguyễn Văn Dị - Văn Lang: Phòng tuyên sông Cầu, Nghiên cứu lịch sứ, số 72- 1965.


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân sự Việt Nam - Tập 3
Gửi bởi: UyenNhi05 trong 08 Tháng Năm, 2009, 01:04:21 pm
67. Nguyễn Việt - Vũ Minh Giang - Nguyễn Mạnh Hùng: Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.

68. Nguyễn Hồng Phong: Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1963.

69. Nguyễn Trái toàn tập, In lần thứ hai, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.

70. Những sự kiện có liên quan đến Việt Nam trong lịch sử Trung Quốc, trích dịch Tống sử, tư liệu Khoa Lịch sử.  trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

71. Những phát hiện khảo cổ học năm 1980, Viện Khảo cổ học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.

72. Phạm Ngọc Phùng:Tổ Tiên ta đánh giặc, Nxb. Quân giải phóng, Sài Gòn, 1975

73. Phạm Thị Tâm - Hà Văn Tấn: Vài nhận xét về ruộng đất tư hữu ở Việt Nam thời Lý - Trần, Nghiên cứu lịch sử, số 520 - 1963.

74. Phạm Việt Trung - Đỗ Văn Ninh - Chiêm Tế: Đất nước Campuchia - Lịch sứ và văn minh, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1977.

75. Phan Huy Lê - Bùi Đăng Dũng - Phan Đại Doãn - Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí: Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.

76. Phan Huy Chú: Lịch triều hiên chương loại chí, tập I- IV, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1961.

77. Phan Huy Thiệp - Trịnh Vương Hồng: Bàn thêm về một số vấn đề xung quanh trận Như Nguyệt, Nghiên cứu lịch sơ số 177-1977.

78. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, tập I-IV, bản dịch của Viện sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969-1971.

79. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I,II, bản dịch của Viện sử học, Nxb.  Giáo dục, Hà Nội, 1993.

80. Thế kỷ thứ X- Những vấn đề lịch sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984.

81. Thư văn Lý - Trần, tập I, Viện Văn học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.

82. Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981.

83. Tỉnh uỷ Cao Bằng - Viện sử học: Nùng Trí Cao, Kỷ yếu khoa học, Cao Bằng, 1995.

84. Tống Trung Tín: Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý - Trần (thê kỷ XI - XIV) Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1997.

85. Tuyển tập văn học Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.

86. Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiên chống Tống lần thứ nhất, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992.

87. Trần Bá Chí: Lê Đại Hành và hậu duệ, Lịch sử quân sự số 4-2002.

88. Trần Bá Chí: Trận Đồ Lỗ thắng Tống, Lịch sử quân sự 11-1989.

89. Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiên Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1963.

90. Trần Quốc Vượng - Vũ Tuấn Sán: Bàn thêm về Thăng Long đời Lý - Trần, Nghiên cứu lịch sử, số 85- 1982. 

91 . Trần Quốc Vượng: Tìm hiểu về những truyền thống thượng võ của dân tộc, Nxb. Y học và Thể dục thể thao, Hà Nội, 1969.

92. Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982.

93. Trương Hữu Quýnh - Phan Đại Doãn - Nguyễn Cảnh Minh: Đại chúng lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.

94 . Trương Hữu Quýnh : Chế độ ruộng đất Việt Nam, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982.

95. Trương Hữu Quýnh: Thử bàn về quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiên Việt Nam thế kỷ X- XV, Nghiên cứu lịch sử, số 93- 1966.

96. Văn Tân: Ý thức dân tộc Việt Nam trong giai đoạn lịch sử Lý - Trần, Nghiên cứu lịch sử, số 44- 1962.

 97. Việt sử lược, bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb. Văn Sử Địa Hà NộI, 1960.

98. Vũ Minh Giang: Sự phát triển của các hình thái sở hữu ruộng đất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 3-1988.

99. Vũ Quỳnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, bản dịch, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1960.



- HẾT TẬP 3-