Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:20:56 pm



Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:20:56 pm
Tác giả: Hồ Sĩ Thành
Nhà xuất bản: Trẻ
Năm xuất bản: 2003
Số hoá: ptlinh



Lời nhà xuất bản


Chiến khu Đ là một trong hai căn cứ quan trọng nhất của miền Đông Nam Bộ, trải rộng từ triền rừng bạt ngàn nối từ cao nguyên miền Trung và biên giới Campuchia xuống giáp cận thành phố Sài Gòn và những đô thị lớn thuộc tỉnh Biên Hoà (nay là Đồng Nai), Thủ Dầu Một (nay là Bình Dương). Với địa hình rừng rú hiểm trở, Chiến khu Đ trở thành mật khu căn cứ, nơi trú dấu lực lượng, kho tàng dự trữ vũ khí, lương thực và phát triển mọi hoạt động của cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng đất nước.


Ngoài việc giữ vị trí chiến lược nối nhiều chiến trường ở Nam bộ và là “trạm trung chuyển” quan trọng từ miền Bắc vào miền Nam, Chiến khu Đ còn là ưu thế của một “bàn đạp” tấn công vào các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế của địch ở Sài Gòn và nhiều tỉnh miền Đông Nam Bộ.


Trên một phương diện khác, với tầm vóc của mình, Chiến khu Đ được coi như một trung tâm kháng chiến, là nơi ra đời của các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, đã lập nên những chiến công vang dội, góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ vang của cả nước trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.


Qua biết bao gian khổ, thăng trầm, Chiến khu Đ đã đi vào lịch sử như một biểu tượng rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.


Chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ gần một phần ba thế kỷ, nhưng những bài học quý giá về lòng yêu nuước, tinh thần xả thân vì độc lập tự do của Tổ quốc, còn nguyên giá trị, đặc biệt là vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời đại mới.


Về Chiến khu Đ, đã có những công trình nghiên cứu lịch sử, sách báo đăng tải. Lần này Thượng tá Hồ Sĩ Thanh (nhà thơ Lam Giang), cán bộ nghiên cứu lịch sử quân sự Quân khu 7, tiếp tục sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, biên soạn dưới dạng hỏi đáp, một cách hàm súc và mang tính phổ cập, đưa đến bạn đọc những tư liệu và hình ảnh về Chiến khu Đ trong kháng chiến và hiện nay. Đây là tập thứ tư trong bộ sách “Việt Nam kỳ tích” của tác giả, sau 3 tập đã ấn hành: Địa đạo Củ Chi, Biệt động Sài Gòn, Đặc khu Rừng Sác, chắc chắn sẽ đem lại những điều bổ ích cho bạn đọc.


Nhà xuất bản Trẻ


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:22:48 pm
Chiến khu Đ rất nổi tiếng, không những trong nước mà cả thế giới. Xin cho biết xuất xứ tên “Chiến khu Đ”?


Trong các thời kỳ kháng chiến, các căn cứ, khu chiến đấu lần lượt ra đời nhằm bảo tồn lực lượng và tiến công tiêu diệt kẻ thù. Nhiều căn cứ mang chính tên địa danh sở tại, hoặc tên các anh hùng, danh nhân, tên các đồng chí lãnh đạo kiệt xuất, nhưng cũng có nhiều khu căn cứ mang tên ký hiệu bằng các ký tự A, B, C, D… (còn gọi là mật danh) để nguỵ trang, che mắt địch. Chiến khu Đ cũng là một vùng căn cứu mang ký tự như vậy.


Ngày 20-3-1946 (năm thứ hai của cuộc kháng chiến chống Pháp), Khu bộ Khu 7 họp bất thường tại Lạc An (thuộc tỉnh Biên Hoà, nay thuộc tỉnh Bình Dương), tiến hành cải tổ lại cơ quan khu bộ, thảo luận những biện pháp xây dựng địa bàn đứng chân, qui định các khu vực doanh trại, bố trí hệ thống phòng thủ chiến đấu nhằm ngăn chặn, tiêu diệt giặc và bảo vệ an toàn căn cứ.


Sau hội nghị, công tác xây dựng căn cứ bắt đầu được triển khai tương đối có hệ thống. Các cơ quan, đơn vị, công xưởng… phân chia đóng từng khu vực. Mỗi khu vực mang một mật danh A, B, C, D. Theo đồng chí Võ Bá Nhạc nguyên chánh văn phòng Khu bộ Khu 7 thì: A là căn cứ giao thông liên lạc đóng ở Giáp Lạc, B là căn cứ hậu cần đóng ở Thường Lang, C là khu vực bộ đội thường trực đóng ở sở Ông Đội, Đ là tổng hành dinh Khu 7 đóng ở Ngãi Hoang. Dần dần về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả vùng chiến khu rộng lớn ngày càng phát triển.


Khu bộ lập một trung đội “bộ đội danh dự gương mẫu” làm nhiệm vụ nghi thức và lưu động tác chiến bảo vệ cơ quan trung khu. Từ đây căn cứ Tổng hành dinh Khu 7 thường được gọi là Chiến khu Đ.

Về phía địch, thực hiện kế hoạch bình định, thực dân Pháp ra sức lôi kéo các phe nhóm tôn giáo phản động, lập các đảng phái và mặt trận quốc gia giả hiệu, các “khu quốc gia”, “khu an ninh” nhằm tạo thêm cơ sở xã hội cho chúng và chia rẽ hàng ngũ kháng chiến của ta. Tướng NyÔ tổ chức bố trí lại chiến trường, chia Nam Bộ thành 3 tiểu khu và đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn. Vùng Chiến khu Đ thuộc tiểu khu 3 gồm: Biên Hoà, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Thủ Đức.


Tên Chiến khu Đ sinh ra như trên; tuy nhiên có nhiều người cho rằng chữ Đ ở đây mang ý nghĩa là “đỏ”, hàm ý là vùng chiến khu cách mạng kiên cường, tập trung những cơ quan đầu não kháng chiến quan trọng, một “địa chỉ đỏ” của cả nước. Hoặc chữ Đ là viết tắt địa danh Đất Cuốc, nơi bộ đội Huỳnh Văn Nghệ khởi cứ đầu tiên, tập hợp lực lượng. Hoặc chữ Đ là viết tắt chiến khu Đồng Nai, chiến khu miền Đông… Ngoài ra do Chiến khu Đ là vùng rừng hoang nước độc rất gian khổ, bệnh tật, nên nhiều người còn gọi đùa là “chiến khu đói”, “chiến khu đau”…


Cũng cần nói thêm hai từ “chiến khu” ở đây, ta hiểu là có nhiều căn cứ hợp lại, trong đó có căn cứ lãnh đạo chỉ huy, nhưng cũng có nhiều căn cứ của các đơn vị chiến đấu hoặc chuyên môn phục vụ của các ngành quân, dân, chính, Đảng…


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:25:10 pm
Chiến khu Đ đã hình thành như thế nào?


Như ta đã biết một chiến khu bao giờ cũng có điểm xuất phát, quá trình hình thành, xây dựng và phát triển. Nhưng giai đoạn ra đời hình thành có những hoàn cảnh rất đặc thù.

Đối với Chiến khu Đ, giai đoạn ra đời kéo dài trong một bối cảnh đặc biệt của vùng đất là hậu phương của cuộc kháng chiến, nhưng lại là cửa ngõ của trung tâm bộ máy chiến tranh của bọn xâm lược và tay sai.

Ngay từ tháng 10-1945, trong những tháng mở đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, bọn thực dân phá vòng vây của ta xung quanh Sài Gòn, muốn nống ra đánh chiếm các đô thị và vùng kinh tế, các đường giao thông… hòng tiêu diệt đầu não kháng chiến.

Biên Hoà, Thủ Dầu Một là cửa ngõ quan trọng của Sài Gòn trở thành một trong những hướng đánh chiếm đầu tiên của địch.

Do tương quan lực lượng không cân sức, các đơn vị kháng chiến dần dân rút ra vòng ngoài để bảo toàn, củng cố lực lượng. Tân Uyên (thuộc tỉnh Thủ Dầu Một) với ưu thế địa hình quân sự, trở thành hướng rút quân thuận lợi cho nhiều đơn vị võ trang từ các nơi.

Đêm 22-10, một bộ phận gồm 40 người, trang bị 30 khẩu súng trường do đồng chí Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy, kéo về Tân Tịch, Đất Cuốc, dựa vào rừng làm căn cứ để xây dựng lực lượng chống Pháp. Nhiều lực lượng ở các nơi khác cũng lần lượt rút về Tân Uyên.

Đầu tháng 11, đồng chí Nguyễn Bình được Trung ương Đảng cử vào phụ trách công tác quân sự ở Nam Bộ. Trong khi đi khảo sát địa hình, nhận rõ vị trí địa thế lợi hại của vùng rừng Tân Uyên, đã chọn khu Lạc An lập căn cứ địa cho an toàn khu.

Ngày 10-2-1945, tại Đức Hoà (Chợ Lớn) hội nghị quân sự toàn Nam Bộ được triệu tập, quyết định chia Nam Bộ thành các chiến khu 7, 8, 9. Chiến khu 7, tổ chức hành chính quân sự được thành lập chính thức gồm các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Bà Rịa và Sài Gòn. Đồng chí Nguyễn Bình được chỉ định làm Khu trưởng và đồng chí Trần Xuân Độ làm Chính trị uỷ viên khu.

Chấp hành nghị quyết của hội nghị Đức Hoà, ngày 17-12-1945, cơ quan khu bộ Khu 7 về đứng chân và xây dựng hệ thống phòng thủ Tân Uyên. Lạc An tên một xã trong vùng căn cứ thuộc Tân Uyên-nơi đứng chân của Vệ quốc đoàn Biên Hoà được chính thức xây dựng thành căn cứ địa kháng chiến của Chiến khu 7.

Như vậy, sau hai tháng kể từ khi thực dân Pháp đánh lên Biên Hoà, Thủ Dầu Một, cùng với quá trình phân hóa tan rã của các sư đoàn Cộng hoà vệ binh (thành lập sau Cách mạng tháng Tám) và sự ra đời của lực lượng vũ trang cách mạng trong toàn khu, nhiều đơn vị vũ trang và cơ quan đầu não kháng chiến Khu 7 đã lần lượt rút về căn cứ Tân Uyên củng cố xây dựng lực lượng.

Đầu năm 1946, giặc Pháp đánh lan ra. Căn cứ Tân Uyên trở thành mục tiêu tấn công đầu tiên của chúng.
Trong năm 1946, cùng với cuộc kháng chiến của quân và dân cả nước, Chiến khu 7 phát triển nhiều mặt. Các lực lượng vũ trang ở đây đã dũng cảm chiến đấu tiêu diệt và đẩy lùi quân địch.

Chiến khu Đ đã hình thành trong điều kiện áp lực nặng nề của quân Pháp và đứng trước những thử thách mới của một cuộc chiến đấu lâu dài gian khổ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:25:58 pm
Xin cho biết vị trí của Chiến khu Đ qua các thời kỳ kháng chiến?


Nhìn tổng quan vùng miền Đông Nam Bộ, Chiến khu Đ có một hình thể tương đối đặc biệt. Nó tiếp cận được với trung tâm đầu não của kẻ thù từ một vòng cung không lớn, nhưng có một chiều sâu không bị gián đoạn và nằm trên triền đất thoải dần từ cao nguyên miền Trung chạy về phía nam, nối lền rừng núi bạt ngàn của nam Tây Nguyên và cực Nam Trung Bộ xuống giáp với các đô thị lớn như Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Sài Gòn.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ở từng giai đoạn lịch sử, Chiến khu Đ có phạm vi rộng hẹp khác nhau.

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Chiến khu Đ được hình thành từ 5 xã: Tân Hoà, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An (thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hoà). Từ năm 1948 trở đi, Chiến khu Đ được mở rộng ra, lấy đường 16 từ phía tây và sông Đồng Nai từ phía nam làm ranh giới để không ngừng mở mang lên phía bắc tới Phước Hoà về phía đông tới sông Bé; rồi vượt qua sông Bé phát triển mãi lên phía bắc và đông bắc. Mặc dù vậy, phạm vi chủ yếu của chiến khu nằm trên vùng đất: tây giáp đường 16, đoạn từ thị trấn Tân Uyên lên Cổng Xanh; bắc giáp sông Bé, đoạn từ cầu Phước Hoà lên Chánh Hưng đến ngã ba Hiếu Liêm và nam giáp sông Đồng Nai, đoạn từ ngã ba Hiếu Liêm về thị trấn Tân Uyên.

Sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, do qui mô cuộc chiến tranh ở mức cao hơn, từ phạm vi chiến khu cũ (chủ yếu nằm trên địa bàn Tân Uyên), trung tâm chiến khu chuyển dần lên phía đông bắc. Đến đầu năm 1975, sau khi giải phóng Phước Long, các khu căn cứ được xây dựng hoàn chỉnh, phạm vị phát triển đến mức cao nhất. Toàn bộ Chiến khu Đ nằm ở phía bắc sông Đồng Nai, phía tây giáp tỉnh Bình Dương và cắt qua địa phận hai tỉnh Phước Long, Bình Long (nay là Bình Phước), phía bắc vương xa giáp biên giới Việt Nam-Campuchia (đoạn từ Bù Đốp đến Bù Đăng), phía đông giáp các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng.

Trải qua hai cuộc kháng chiến, diễn biến vùng căn cứ có nhiều thay đổi, nhưng danh từ Chiến khu Đ luôn gắn bó với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào vùng chiến khu như máu thịt. Đối với nhân dân cả nước ngày nay Chiến khu Đ không đơn thuần là một địa danh lịch sử mà là một biểu tuợng hào hùng của đất nước Việt Nam, một Việt Bắc của Nam Bộ thành đồng Tổ quốc.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:27:31 pm
Chiến khu Đ có những đặc trưng về địa lý và thiên nhiên?


Có thể nói Chiến khu Đ là “dấu nối” giữa rừng núi với đồng bằng, vì nó nằm trên bán bình nguyên. Địa hình cao dần từ tây nam lên đông bắc với độ cao trung bình 40m. Ở mạn bắc thuộc huyện Phước Long và Đồng Phù có các bậc thềm với độ dốc thoải dần theo hai hướng; Sông Bé về phía tây và Đồng Nai về phía nam. Được cấu tạo bởi đất phù sa cổ sinh thuộc hệ thống sông Đồng Nai, chất đất ở đây theo sự biến thien của độ cao mà chuyển dần từ màu xám sang màu nâu đỏ và đỏ bazan ở vùng cao. Núi đứng từng ngọn hoặc từng cụm nhỏ trên nền đá hoa cương, là những sơn địa cuối cùng của xương sống Trường Sơn ở phía nam. Hàng trăm đồi núi, cao nhất là ngọn Bà Rá 723m, tạo thành một dải rừng núi hùng vĩ trùng điệp, lợi hại về mặt quân sự.

Rừng Chiến khu Đ là rừng nguyên sinh, cây hỗn hợp và mọc nhiều tầng dày đặc. Trong đó, “rừng cấm” Cát Tiên là phần sót lại sau chếin tranh. Trong từng có nhiều loại “danh mộc” như cẩm lai, gõ, sao sến, trắc, căm xe, huệ mộc, huỳnh đường, ván hương; những rừng tre lồ ô bạt ngàn dọc triền bắc sông Bé và nhiều cây thuốc quý như bạch truật, cam thảo, đẳng sâm, mã tiền…

Các loại động vật nhiệt đới có đủ mặt trong rừng Chiến khu Đ như cọp, gấu, beo, trâu rừng, bò rừng, tê giác, hươu, nai, mễn, khỉ, chồn, heo… và hàng trăm loại chim muông. Dưới sông Đồng Nai (đoạn chảy qua Chiến khu Đ) có cá sấu…

Chiến khu Đ có hàng chục đồn điền cao su. Đây là một bộ phận rừng không nhỏ chiếm diện tích của hàng vạn ha rừng tự nhiên đầu thế kỷ XX cho đến nay như các sở cao su Đa Kia, Thuận Lợi, Phú Riềng và nhiều sở nhỏ như Phước Hoà, Bác Vật, Cô Mười…

Khí hậu thời tiết ở Chiến khu Đ chịu ảnh hưởng của vùng nhiệt đới đông Nam Bộ, nói chung ôn hoà theo hai mùa mưa nắng. Nhưng trong các thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đây là vùng rừng núi hoang vu “Mã Đà sơn cước”, “lâm sơn chướng khí”; càng lên phía bắc và đông bắc càng khắc nghiệt, nhất là vùng Bà Rá như cái “nôi” của sốt rét, đã cướp đi hàng ngàn sinh mạng cán bộ, chiến sĩ ta. Ở vùng cao hơn như Phước Long, ngày nóng, đêm lạnh buốt. sương mù bao ơhủ dày đặc. Mùa mưa kéo dài 6 tháng (từ tháng 5 đến tháng 10) với lượng mưa rất cao. Có tháng mưa dầm dã suốt ngày đêm, các sông suối nước chảy cuồn cuộn đục ngàu. Sông Bé trở nên hung dữ nước tung bờm ngựa như muốn cuốn đi tất cả.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:28:21 pm
Địa hình Chiến khu Đ phức tạp như vậy, xin cho biết hệ thống giao thông ở đây?


Quả là đi vào Chiến khu Đ như vào “mê hồn trận” của thiên nhiên. Tuy nhiên, trong vùng chiến khu này, giao thông vẫn thuận lợi do có cả đường bộ và đường thuỷ (sông suối).

Về đường thuỷ, sông Đồng Nai chảy qua chiến khu, chia làm hai đoạn. Đoạn thượng nguồn từ rừng Cát Tiên đến Vĩnh An dài khoảng 80km, lòng sông rộng trung bình từ 90-120m với độ sâu hàng chục mét. Bờ sông dựng đứng, có nhiều thác ghềnh và đá ngầm hiểm trở. Đoạn từ Vĩnh An xuôi về thị trấn Tân Uyên cũng dài khoảng 80km, chảy qua bậc thềm thác Trị An, lòng sông rộng dễ giao thông hơn. Một chỉ lưu quan trọng của sông Đồng Nai là sông Bé; bắt nguồn từ ngã ba Hiếu Liêm chạy ngoằn ngoèo lên phía bắc đến suối Brơlinh, dài khoảng 60km, rộng trung bình 30, sâu hàng chục mét. Ngoài ra trên địa bàn Chiến khu Đ còn có hàng trăm sông suối và nhiều thác khác nổi tiếng như Trị An, thác Mơ, thác Trời, Cần Đơn, Tóc Đồng… có tiềm lực thuỷ điện rất cao.

Tuy nhiên hệ thống giao thông đường bộ là chủ yếu đối với Chiến khu Đ. Xung quanh chiến khu có các trục lộ bao bọc như quốc lộ 20 và quốc lộ 13. Có 3 tuyến đường chính nối Chiến khu Đ với các tỉnh. Đó là đường 10 dài khoảng 80km nối đường 14A ở đông bắc thị trấn Bù Đốp xuyên dọc chiều dài bắc nam của chiến khu (phía tây) về thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương). Con đường này nối liền các thị trấn, các đồn điền cao su quan trọng: Phước Bình, Đa Kia, Thuận Lợi, Phú Riềng và các khu dân cư: Đồng Xoài, An Ninh, Phước Vĩnh. Đường 13 (đoạn từ Nha Bích đến Đồng Xoài) và đường 14B từ thị trấn Đồng Xoài chạy theo hướng đông-đông bắc là tuyến đường xuyên suốt từ cực tây sang cực đông của chiến khu, dài 85km.

Trong lòng Chiến khu Đ còn có các đường: tỉnh lộ 8 dài 32km nối thị trấn Tân Uyên với Hiếu Liêm chạy men theo bờ bắc sông Đồng Nai; đường 322 dài hơn 50km nối thị trấn Đồng Xoài với Cây gáo xuyên qua sân bay Rang Rang, Mã Đà, suối Bà Hào; đường 323 dài hơn 70km nối liền Cây Gáo với Vĩnh An và Tà Lài; đường liên xã nối thị trấn Bù Đăng với các xã Đồng Nai, Thống Nhất và vùng bắc Cát Tiên; đường (không số) nối lộ 16 tại Bình Cơ đi Sình, Bà Đã, Hiếu Liêm tới lộ 8 tại Lạc An.

Trong kháng chiến, ta lợi dụng sông suối, đường sá để đánh giặc, nhưng chính hệ thống giao thông đường bộ cũng gây cho ra những khó khăn. Có lúc địch đã lợi dụng những con đường này đẩy ta vào thế vô cùng khó khăn, do chúng có sức cơ động bằng cơ giới rất mạng; đặc biệt là trong thời kỳ đánh Mỹ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:29:05 pm
Địa hình Chiến khu Đ có những lợi thế gì để xây dựng căn cứ địa cách mạng?


Mặc dù đã triệt để khai thác những nhược điểm của Chiến khu Đ để bao vây tiêu diệt lực lượng ta, nhưng Chiến khu Đ vẫn tồn tại và biến thành “Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp” và cả giặc Mỹ sau đó.

Những mặt thuận lợi, ưu điểm của Chiến khu Đ là ta đã lợi dụng được điều kiện tự nhiên của vùng đất này để xây dựng căn cứ chiến đấu trường kỳ cho đến toàn thắng.

Đất rừng ở đây gần sông suối dễ trồng tỉa cây lương thực, hoa màu ngắn ngày, lại có nguyên liệu cao lanh cho ngành gồm và nhiều ngành công nghệ khác. Rừng vừa “che bộ đội” và cung cấp cây thuốc chữa bệnh và nguồn thịt động vật, các loại cây, trái, củ, lá… nuôi sống con người, nhất là trong các thời kỳ ác liệt, do địch đánh phá, phong toả kinh tế.

Đồi núi, đất đai được phủ xanh bằng rừng cây tầng tầng lớp lớp, những tuếyn hào phòng thủ thiên nhiên do sông suối tạo nên và đường xá giao thông lớn nhỏ trong rừng tạo cho Chiến khu Đ một thế lợi hại về quân sự.

Đất rừng Chiến khu Đ có độ cao và rắn chắc thuận lợi cho việc cấu trúc công sự chiến hào và địa đạo để bám trụ chiến đấu lâu dài, nhất là những đợt địch gia tăng hoạt động bao vây đánh phá các khu căn cứ.

Hơn thế, phần lớn Chiến khu Đ nằm trong hệ thống rừng núi, địa hình hiểm trở là địa bàn lý tưởng cho việc xây dựng căn cứ làm nơi trú đóng lực lượng, dự trữ kho tàng và phát triển mọi mặt của vùng căn cứ. Lưng dựa vào Trường Sơn và rừng núi miền nam Đông Dương, gắn với một phần đoạn cuối đường Hồ Chí Minh; phía trước lấn sát vùng đồng bằng dân cư và các đô thị lớn, Chiến khu Đ còn là vung án ngự chiến lược, nối nhiều chiến trường với nhau, là cầu nối “trung chuyển” quan trọng từ hậu phương lớn miền Bắc vào Nam Bộ.

Trong 30 năm ròng rã chống quân xâm lược, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Chiến khu Đ đã khai thác triệt để tiềm năng của vùng chiến khu đặc biệt này để phục vụ cho cuộc kháng chiến. Đóng góp của Chiến khu Đ vào thắng lơi hai cuộc chiến tranh giải phóng đã qua, thể hiện rõ năng lực khắc phụ rất cao những mặt khó khăn, phát huy những ưu điểm thuận lợi của những yếu tố điều kiện tự nhiên, của quân và dân Chiến khu Đ, tạo nên một chiến khu nổi tiếng ngang tầm với lịch sử của nó.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:30:20 pm
Xin cho biết về con người và yếu tố đặc trưng văn hóa-xã hội ở Chiến khu Đ?


Qua các hiện vật khảo cổ khai quật được tại các di chỉ Vương Dũ, dốc Chùa, gò Đá, suối Linh, Hiếu Liêm, lòng hồ Trị An… các nhà khảo cổ đã xác định: Cách đây khoảng 2.500 đến 3.000 năm (thời đại đồng thau phát triển) trên địa bàn Chiến khu Đ đã có con người cư trú. Cùng với nghề trồng lúa nước của một nền nông nghiệp phát triển, cư dân ở đây đã biết những nghề thủ công như khai thác đá, đồ gốm, dệt vải, đúc đồng…

Cư dân bản địa sống trên vùng Chiến khu Đ là các dân tộc ít người, trong đó có dân tộc Stiêng và Chơro thuộc ngữ hệ Môn Khơme chiếm đa số. Những dân tộc ít người hơn có: Mơnông, Mạ, Tàmưng, Khơme.

Từ xã xưa, xã hội chưa phân hóa giai cấp, hình thái kinh tế của đồng bào ở đây phổ biến là du canh du cư, phong tục tập quán còn rất lạc hậu.

Từ khoảng giữa thế kỷ XVII về sau, đồng bào người Kinh từ miền Bắc, miền Trung di cư vào Nam lập nghiệp, đã đến định cư ở vùng chiến khu. Trước thế kỷ XIX, các đợt di cư ấy hầu hết là những nông dân cùng cực mong muốn thoát khỏi tai họa, đói khổ, tang tóc do cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn gây ra. Từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng Tám 1945, thành phần chủ yếu trong các đợt di dân là các thế hệ nông dân bị bần cùng hóa, phải rời bỏ quê hương đi làm cho chủ Tây ở các đồn điền cao su.

Từ sau cách mạng Tháng 8-1945, trên vùng Chiến khu Đ đã khá đông đảo dân cư, chủ yếu vẫn là người Kinh sinh sống bằng nhiều nghề khác nhau. Tuy nhiên, đời sống của đồng bào trong Chiến khu Đ thấp hơn đồng bào thành thị và đồng bằng rất nhiều; có 95% mù chữ, hàng năm chỉ đủ gạo ăn 6 thán, còn lại phải ăn rau, củ, trái rừng. Những người nông dân tha hương dám chấp nhận cuộc sống khắc nghiệt, trui luyện thành những con người kiên gan, với sức chịu đựng phi phàm. Họ chính là nơi gieo trồng những mầm cây cách mạng cho chiến khu.

Nhìn bao quát ta thấy vùng đất này có một nền văn minh lâu đời, trước khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai đã là nơi cư sống của hàng vạn người-một cộng đồng dân chúng chúng được kết cấu từ 3 thành phần cơ bản: đồng bào dân tộc ít người, nông dân và công nhân cao su.

Ngoài truyền thống chung của dân tộc, nhân dân ở vùng Chiến khu Đ còn có những truyền thống mang tính đặc thù của miền đất pha màu sơn cước: sẵn sàng xả thân cho lẽ phải, niềm tin; đề cao tình thần thượng võ, thích tự do, phóng khoáng, cư xử nghĩ hiệp và giàu lòng tương ái đùm bọc lẫn nhau; ham mê, kiên nhẫn và sáng tạo trong lao động, chịu đựng gian khổ, khắc phục hoàn cảnh để tồn tại và vươn lên không ngừng.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:31:24 pm
Chiến khu Đ bao hàm ý nghĩa của một vùng đất bất khuất. Vậy những phong trào đấu tranh ở đây đã ra đời như thế nào?


Như ta đã biết chiến khu là một điểm son của xứ sở Bến Nghé-Đồng Nai, tự thân đã có khi phách kiên cường. Vì thế ở đây cũng là nơi hội tự những trào lưu yêu nước.

Tính từ nửa cuối thế kỷ XIX, sau khi quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng làm cuộc “thập tự chinh” xâm lược Việt Nam, trên vùng đất Chiến khu Đ đã hình thành một phong trào chống xâm lăng sâu rộng và liên tục đến nửa đầu thế kỷ XX.

Ngay sau khi thực dân Pháp đánh chiếm tỉnh Biên Hoà, nhân dân Tây Nguyên cùng lực lượng bán võ trang đã tập kích vào tỉnh lỵ, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Đó là trận đầu đánh Pháp của vùng đất mà về sau gọi là Chiến khu Đ.

Trong gần nửa thế kỷ sau, phong trào tiếp tục phát triển làm nên những sự kiên sôi động như: cuộc nổi dậy của hàng vạn nông dân Tân Uyên và dọc sông Thị Tính (một nhánh sông Sài Gòn) năm 1870, đốt phá nhiều công sở đồn bót và diệt nhiều binh lính địch; nhân dân và lực lượng nghĩa quân đồng loạt nổi dậy giết nhiều lính canh, đốt cháy trụ sở địch, chiếm đồn Kiểm Lâm…

Ở vùng đông bắc, đồng bào dân tộc đấu tranh quyết liệt chống lại bọn tư bản Pháp chiếm đất, đuổi dân, phá rừng lập các đồn điền cao su, bắt dân làm đường… suốt từ năm 1912 đến năm 1935. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của người anh hùng Mơtranlơn lãnh đạo 170 nghĩa quân tiến công tiêu diệt đồn Fus dưới chân núi Namly. Ở vùng đông bắc và tây bắc, cuộc đấu tranh diễn ra liên tục trong 15 năm (1914-1929).

Gần 80 năm cai trị, thực dân Pháp không khuất phục nổi đồng bào các dân tộc ít người và không làm chủ được vùng rừng núi rộng lớn của Chiến khu Đ.

Năm 1929, chi bộ Đảng cộng sản ra đời tại Phú Riềng. Ngày 3-2-1930, đúng ngày khai sinh Đảng cộng sản Việt Nam, 5.000 công nhân Phú Riềng đã tiến hành cuộc đấu tranh qui mô chưa từng có. Cờ đỏ búa liềm xuất hiện, Xích vệ đội ra đời. Đây là phát pháo hiệu mở đầu của phong trào công nhân trên vùng Chiến khu Đ và Nam Kỳ nói chung, dưới sự lãnh đạo của các chiến sĩ cộng sản. Sự kiện “Phú Riềng đỏ” có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ phong trào công nhân cả nước và trở thành truyền thống của công nhân cao su Việt Nam.


Tiêu đề: Re: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười, 2007, 07:32:35 pm
Lực lượng vũ trang Chiến khu Đ xuất hiện từ bao giờ?


Từ khi Đảng lãnh đạo, cùng với phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân trong vùng, lực lượng vũ trang ra đời như một sự tất yếu để làm nòng cốt cho cuộc chiến đấu lâu dài.

Năm 1937, Tỉnh uỷ Biên Hoà được thành lập. Để chuẩn bị cho lực lượng khởi nghĩa sắp tới, thán 7-1940, tỉnh đã bí mật xây dựng lực lượng võ trang tại Châu Thành và Tân Uyên, do đồng chí Huỳnh Liễn chỉ huy. Đơn vị vũ trang gồm có 35 người được trang bị vài khẩu súng trường và giáo mác, gậy tầm vông, hoạt động chủ yếu trong vùng rừng Tân Uyên. Quận Tân Uyên được chọn làm nòng cốt cho phong trào trong toàn tỉnh. Các chi bộ ở Mỹ Lộc, Mỹ Quới, Tân Tịch, Tân Hoà đều tổ chức các nhóm quần chúng trung kiên rèn dao gắm, sắm ná, gậy tầm vông vạt nhọn…

Đêm 22 rạng ngày 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ làm rung chuyển các vùng nông thôn sát các đô thị Nam Bộ. Cuộc khởi nghĩa bị lộ nên thất bại và bị giặc Pháp đàn áp đẫm máu. Tại Tân Uyên, các chi bộ Đảng bị vỡ. Đồng chí Huỳnh Liễn hy sinh. Các đồng chí Lê Văn Tôn, Nguyễn Hồng Kỳ bị địch bắt, đày ra Côn Đảo.

Trước sự truy lùng gắt gao của địch, đồng chí Chín Quỳ tập hợp bộ phận vũ trang còn lại (khoảng 1 tiểu đội) rút vào ẩn náu trong rừng núi thuộc các xã Tân Hoà, Tân Tịch, Mỹ Lộc, Thường Lang, Lạc An. Tại đây đơn vị đã tổ chức nhiều trận đánh cướp của nhà giàu chia tài sản, tiền bạc cho người nghèo, đồng thời tích cực tuyên truyền phát triển lực lượng.

Sau năm 1943, phong trào cách mạng ở Tân Uyên dần dần hồi phục. Rải rác ở các xã, nhân dân bí mật chuẩn bị vũ khí.

Tháng 7-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị chuẩn bị khởi nghĩa. Xứ uỷ Nam Kỳ chủ trương xây dựng một số căn cứ làm nơi cất giấu vũ khí, huấn luyện cán bộ và các đơn vị võ trang, in ấn sách báo, truyền đơn… Từ 23-8-2945, nhân dân các xã vùng lên cướp chính quyền từ tay phát xít Nhật. Tiểu đội vũ trang Chín Quỳ và lực lượng thanh niên Tiền phong làm nòng cốt đổ về thị trấn giành thắng lợi ở quận lỵ Tân Uyên.

Sự ra đời của lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hoà và tiểu đội vũ trang quận Tân Uyên tuy chưa mạnh mẽ và phát triển, nhưng đã góp phần vào thắng lợi cách mạng Tháng 8 ở những vùng quan trọng là những cái nôi cách mạng hình thành căn cứ địa Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 15 Tháng Mười, 2007, 08:10:28 pm
Trung tướng Nguyễn Bình là người chỉ huy cao nhất lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ từ năm 1945-1951. Xin cho biết sự chỉ đạo trực tiếp của ông ở vùng Chiến khu Đ?


Trung tướng Nguyễn Bình là một nhân vật nổi tiếng ở Nam Bộ. Ông sinh năm 1908, quê ở Hưng Yên, tham gia sinh hoạt xã hội từ khi còn rất trẻ và bị giặc Pháp cầm tù ở Côn Đảo (1930-1935). Sau khi ra tù, ông sang Quảng Châu-Trung Quốc học trường Hoàng Phố. Khi về nước ông tham gia cách mạng ở vùng Hưng Yên-Kiến An-Hải Phòng; năm 1945, là một trong số cán bộ lãnh đạo Chiến khu Đông Triều.

Sau cách mạng Tháng 8, ở Nam Bộ tình hình các lực lượng võ trang hết sức phức tạp. Ngoài 4 sư đoàn mang tên Đệ nhất sư đoàn, Đệ nhị sư đoàn, Đệ tam sư đoàn, Cộng hoà vệ binh (trong đó có những sư đoàn do các tên phản động cầm đầu) còn có các nhóm Bình Xuyên, Hoà Hảo, Cao Đài và lực lượng giang hồ hảo hớn. Các sư đoàn và các nhóm võ trang này cát cứ từng địa bàn với những mục đích khác nhau, trong đó có vùng Biên Hoà, Bà Rịa…

Trước tình hình đó, tháng 10-1945, Hồ Chủ tịch và Trung ương đã phái đồng chí Nguyễn Bình lúc đó là Tư lệnh Bộ chỉ huy liên tỉnh miền Duyên Hải-Đông Bắc Bắc Bộ, vào Nam Bộ với sứ mạng thống nhất các lực lượng vũ trang Nam Bộ dưới tôn chỉ mục đích chông thực dân Pháp.

Với khả năng tổ chức quân sự và uy tín cá nhân, ông đã lặn lội khắp chiến trường để thực hiện mệnh lệnh của Trung ương và Hồ Chủ tịch, thu phục được cả những phần tử ngang tàng bằng cốt cách anh hùng, hào hiệp, nghĩa cả của mình.

Đầu tháng 11-1945, trong khi đị thị sát tình hình chiến trường miền Đông, đồng chí Nguyễn Bình đã đến nghiên cứu thực địa Tân Uyên và thảo luận với Ban chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hoà chọn khu vực Lạc An để lập căn cứ cho toàn khu.

Ngày 20-11, đồng chí Nguyễn Bình triệu tập hội nghị quân sự tại An Phú Xã (Thủ Dầu Một). Từ nhiều tỉnh của miền Đông Nam Bộ, 49 đại biểu đủ các thành phần quân dân chính đảng đã về dự. Hội nghị thảo luận về các vấn đề chính trị, kinh tế, và đặc biệt nhấn mạnh công tác quân sự nhằm thống nhất tổ chức, chỉ huy, hoặc định chương trình và phân chia địa bàn hoạt động cho các đơn vị vũ trang. Hội nghị An Phú Xã đã củng cố một bước về mặt tổ chức các đơn vị vũ trang trong kháng chiến trên chiến trường miền Đông.

Tháng 3-1946, khu Xứ uỷ Nam Bộ quyết định chia Nam Bộ làm 3 khu: 7, 8 và 9, đồng chí Nguyễn Bình được chỉ định giữ chức Trưởng khu Khu 7, phụ trách chiến trường trọng điểm gian khổ. Trong quá trình hoạt động, Khu trưởng Nguyễn Bình đã đóng góp nhiều công sức cho Chiến khu Đ. Ngày 25-8-2948, ông được Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh phong quân hàm Trung tướng.

Tiếc thay, con người mưu dũng và tài năng quân sự lỗi lạc đã sớm ra đi. Ngày 29-9-1951, trong chuyến công tác ra Bắc, ông bị bọn thổ phỉ phục kích và hi sinh tại một vùng rừng núi của tỉnh Strungcheng-Campuchia.

Với những công lao đặc sắc trong quãng đời hoạt động, nhất là ở chiến trường Nam Bộ những năm đầu cuộc kháng chếin chống Pháp đầy gian lao, ác liệt, Trung tướng Nguyễn Bình đã được Đảng và Nhà nước truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2000. Cũng trong năm này, được sự giúp đỡ nhiệt tình của Bộ tổng tư lệnh quân đội Hoàng Gia Campuchia và đồng bào tại địa phương nơi ông hi sinh, hài cốt của Trung tướng Nguyễn Bình đã được đưa về Việt Nam và làm lễ truy điệu, an táng trọng thể tại nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 15 Tháng Mười, 2007, 08:11:23 pm
Hội nghị Cù Lao Vịt có ý nghĩa như thế nào với việc xây dựng căn cứ và lực lượng vũ trang ở Chiến khu Đ?


Trong chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” Ban chấp hành Trung ương Đảng đã vạch cho Nam Bộ hướng cơ bản về việc chuẩn bị tinh thần và thực lực cho cuộc kháng chiến toàn diện và lâu dài. Trong đó vấn đề xây dựng căn cứ địa và lực lượng vũ trang đóng vai trò then chốt hàng đầu.

Để thực hiện chủ trương của trên, cuối tháng 4-1946, hội nghị cán bộ tỉnh Biên Hoà được triệu tập tại Cù Lao Vịt do đồng chí Nguyễn Đức Thuận chủ trì. Sau khi phân tích tình âm mưu và hoạt động của thực dân Pháp sau Hiệp ước sơ bộ (6-3), kiểm điểm tình hình lực lượng kháng chiến, đồng chí Nguyễn Đức Thuận nêu rõ những nhiệm vụ của tỉnh và chỉ định đồng chí Trần Minh Trí làm Bí thư Tỉnh uỷ. Hội nghị đã thảo luận quyết nghị một số công tác quan trọng, trong đó nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang và cử đồng chí Huỳnh Văn Nghệ làm uỷ viên quân sự tỉnh Biên Hoà…

Sau hội nghị Cù Lao Vịt, tháng 5-1946, tại Xóm Đèn (thuộc Tân Hoà), hội nghị quân sự tỉnh Biên Hoà đã nhất trí thông qua hai vấn đề chính:

-Nhập Vệ quốc đoàn huyện Châu Thành với Vệ quốc đoàn Biên Hoà (bộ đội Huỳnh Văn Nghệ) thành lực lượng vũ trang thống nhất của tỉnh, lấy tên là Vệ quốc đoàn Biên Hoà.

-Xây dựng Chiến khu Đ thành căn cứ chính thức của tỉnh Biên Hoà.

Hội nghị ở Cù Lao Vịt và sau đó là Xóm Đèn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc khôi phục và khẳng định quyền lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng đối với lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hoà; tập hợp các lực lượng vũ trang nhỏ lẻ thành một lực lượng thống nhất. Hội nghị đã tạo tiền đề căn bản cho việc phát động cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp và xây dựng căn cứ địa của tỉnh, chuẩn bị thực lực để đảm bảo tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 15 Tháng Mười, 2007, 08:12:02 pm
Tân Uyên là mục tiêu tiến công đầu tiên của giặc Pháp?


Tân Uyên là trọng điểm của Chiến khu Đ kể từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, do đó đã trở thành đối tượng nguy hiểm của địch.

Đầu năm 1946, quân Pháp được tăng viện lên 3 vạn. Chúng đánh lan ra vừa để tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và các đơn vị vũ trang, vừa để đóng đồn bót chiếm đất giành dân. Căn cứ Tân Uyên trở thành mục tiêu tiến công trước tiên của giặc Pháp.

Để thực hiện âm mưu đánh vào vùng căn cứ đầu não kháng chiến, từ giữa tháng 1-1946, địch bắt đầu tổ chức các cuộc trinh sát và hành quan thăm dò lên Tân Uyên. Hàng ngày máy bay Pháp bay lượn trên chiến khu.

Sáng 20-1, các trạm gác dọc sông Đồng Nai báo về sở chỉ huy có một đoàn tàu địch theo sông Đồng Nai tiến về Tân Uyên. Các trung đội phục kích dọc bờ sông được lệnh sẵn sàng nổ súng. Quân ta chọn khúc sông gần Lò Ren cách thị trấn Tân Uyên 2km bố trí trận địa phục kích tiêu diệt địch. Một bè cây được địch đẩy ra néo chặn không cho tàu địch chạy sát bờ sông phía cù lao.

Hơn 6 giờ sáng, đoàn tàu giặc gồm 1 tàu chiến và 2 xuồng kéo tới, gặp bè cây buộc phải chạy sát bờ phải. Lập tức quân ta tung lựu đan tới tấp vào mục tiêu. Chiếc tàu chiến bị trúng lựu đạn hỏng máy không chạy được. Địch trên 2 xuồng nhỏ hoảng sợ bắn loạn xạ lên bờ và đón bọn Pháp nhảy trên tàu xuống xuồng, vội vã quay lui.

Ngày 22-1, địch lại tổ chức tân công thăm dò lần thứ hai. 9 giờ sáng, 2 tàu chiến từ Biên Hoà chém sóng lên Tân Uyên và lọt vào trận địa phục kích của quân ta bên bờ sông Cù Lao. Tên lái tàu bị bắn chết khiến chiếc tàu đâm vào bờ, 30 tên giặc trên tàu bị diệt. Chiếc tàu còn lại vãi đạn lên hai bờ sông, liều lĩnh tiến về Tân Uyên, bị các chiến sĩ đuổi theo bắn chặn. Núng thế, tàu địch buộc phải quay lui, khi cách thị trấn Tân Uyên còn 1km.

Thắng lợi hai trận đánh đầu tiên bảo vệ được căn cứ Tân Uyên gây phấn khởi trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, cổ vũ vùng chiến khu chuẩn bị bước vào cuộc chến đấu mới.

Sau hai lần đánh thăm dò, ngày 24-1, quân Pháp tổ chức cuộc tiến công qui mô vào căn cứ Tân Uyên với lực lượng khá lớn gồm 4.000 tên có kết hợp máy bay, tàu chiến và xe cơ giới; chia thành 5 cánh. Do có sự chuẩn bị tốt, các đơn vị vũ trang đã chặn đánh địch quyết liệt trên các hướng. Tại Tân Long, địch bị tiêu diệt 120 tên, 6 xe cam nhông bị đốt cháy. Ở hướng Tân Phong, địch bị bắn chìm 2 xuồng. Ở hướng Tân Ba-thị trấn Tân Uyên, địch bị chặn đánh khắp các ngả, đội hình rối loạn, cố thoát khỏi vòng vây của ta. Bọn viện binh bị tiêu diệt 40 tên, ta thu 18 súng.

Buổi chiều cùng ngày, Pháp dùng cả thuỷ lục không quân ồ ạt đánh vào Tân Uyên. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, nhưng do bất lợi, quân ta rút ra vòng ngoài về căn cứ. Quân Pháp chiếm được thị trấn Tân Uyên. Mặc dù vậy, chúng không đạt được mục tiêu là diệt cơ quan đầu não và lực lượng vũ trang chiến khu, mà bị tổn thất nặng: 220 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu, 6 xe cam nhông và 2 xuồng bị phá huỷ.
Chiêm được thị trấn, quân Pháp lập chi khu Tân Uyên ở hữ ngạn và chi khu Cây Đào ở tả ngạn sông Đồng Nai, kiểm soát được từ Vĩnh Cửu sang Tân Uyên.

Trước tình hình đó, các phân đội vũ trang Khu 7 và Vệ quốc đoàn Biên Hoà rút sâu vào rừng 5 xã. Cơ quan khu bộ rời Mỹ Lộc vào đóng ở Giáp Lạc, Bưng Kè, Lạc An. Từ đây vấn đề củng cố lực lượng, xây dựng bố trí phòng thủ để ngặn chặn tiêu diệt địch, bảo vệ că cứ trở nên hết sức cần thiết.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 15 Tháng Mười, 2007, 08:14:58 pm
Sau khi đánh chiếm được một địa bàn quan trọng của Chiến khu Đ, Pháp đã hành động ra sao? Ta đối phó lại chúng như thế nào?


Ngày 6-3-1946, thực hiện chủ trương “hoà để tiến”, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ký với Pháp Hiệp ước sơ bộ. Theo Hiệp ước, quân đội của hai phe ngừng bắn và ở nguyên vị trí chờ đợi thực hiện các điều khoản được ký kết. Tuy ký, nhưng thực dân Pháp cố tình không thực hiện Hiệp ước. Tướng NyÔ lên thay Vanluy làm tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại miền Nam ra lệnh tăng cường hành quân bình định…

Ngày 15-3, chưa đầy 10 ngày sau lễ ký kết, quân Pháp tổ chức cuộc càn lớn vào vùng rừng căn cứ 5 xã: Tân Hòa, Tân Tịch, Mỹ Lộc, Thường Lang, Lạc An. Hơn 5.000 quân có tàu chiến và máy bay yểm trợ hình thành nhiều mũi tiến công ào ạt vào chiến khu; thực hiện đốt sạch, phá sạch, giết sạch những nơi chúng đến. Các đơn vị vũ trang đã anh dũng chiến đấu nhưng không ngăn được bước chân quân giặc. Vùng chiến khu bị tàn phá nặng nề.

Thái độ lật lọng của thực dân Pháp bị dư luận lên án mạnh mẽ. Chúng thấy bất lợi nên cho tướng NyÔ ngỏ ý muốn tiếp xúc với Bộ chỉ huy Khu 7.

Biết rõ “tim đen” của giặc, nhưng cần tranh thủ thời cơ hoà hoãn để củng cố và phát triển lực lượng, đồng thời đánh một đòn chính trị, vạch mặt kẻ thù, ta đồng ý thương thuyết.

Ngày 10-4, tại miếu Bà Cô (Vĩnh Cửu-Biên Hoà)-một cửa ngõ quan trọng vào chiến khu bên bờ sông Đồng Nai, đại diện quân Pháp và Bộ chỉ huy Khu 7 tiến hành cuộc đàm phán. Phía Pháp do Pâylơ làm trưởng đoàn. Phái đoàn Khu 7 có các đồng chí Phạm Thiều, Huỳnh Văn Nghệ, Võ Bá Nhạc, Lê Đình Chi…

Do bất đồng quan điểm (phía Pháp trịnh thượng và đưa ra những yêu cầu vô lý ngang ngược), ngày 16-4, cuộc đàm phán chấm dứt trong tình trạng bế tắc.

Không khuất phục được ta trong đàm phán, Pháp tổ chức tiến công qui mô lần thứ ba vào Chiến khu Đ. Chúng huy động quân từ Buôn Mê Thuột và các vùng xung quanh về hợp với lực lượng tại chỗ thành một đội quân đông tới 8.000 tên, do tướng Lơ Cléc chỉ huy. Cuộc hành quân lớn này của địch nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến ở miền Đông Nam Bộ để giành thắng lợi quyết định, tạo điều kiện thuận lợi cho giải pháp chính trị chúng đang tiến hành ở Nam Bộ.

Đoán được mưu đồ của quân Pháp, chiến khu đã tích cực triển khai đánh địch, sơ tán các cơ sở hậu cần vào các khu rừng hẻo lánh, bố trí các lực lượng bảo vệ các khu vực xung yếu như Lạc An, Giáp Lạc, Xóm Sình, Mỹ Lộc…

3 giờ sáng ngày 19-4, quân Pháp chia làm nhiều mũi ồ ạt tiến công vào vùng chiến khu. Các đơn vị vũ trang linh hoạt cơ động đánh tiêu hao địch ở khắp nơi, diệt hàng trăm tên, bắn bị thương 1 máy bay. Ở suối Voi, ta dùng cả trọng liên 12 ly 7 tập kích quân Pháp đang nghỉ ngơi ăn uống, diệt 80 tên, phá huỷ nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

Quân Pháp không tìm diệt được cơ quan đầu não và các đơn vị bộ đội tập trung của Khu 7, trong khi quân số ngày càng tiêu hao. Tuy vậy, lực lượng của chúng còn rất đông và hầu như đã làm chủ được toàn bộ vùng căn cứ đứng chân của ta. Trước tình thế đó, Bộ chỉ huy Khu 7 và Ban chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hoà quyết định phá vòng vây vượt ra ngoài. 9 giờ đêm 22-4, toàn cơ quan khu bộ, các đơn vị bộ đội, các cơ quan kháng chiến, cơ sở hậu cần ở chiến khu gần 2.000 người bí mật rời khỏi xóm Sình và các địa điểm ẩn náu trong khu căn cứ, rút ra ngoài vòng vây của địch an toàn.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 25 Tháng Mười, 2007, 08:37:57 pm
Xin cho biết tình hình ở Chiến khu Đ trong vòng vây phong toả của địch?


Trong chiến tranh, có khi lực lượng ta phải lùi, nhưng “lùi để tiến”, đó là phương thức bảo toàn lực lượng phòng ngự để tiến công.

Do Chiến khu Đ bị địch tiến công bao vây thường xuyên, tháng 5-1946, cơ quan khu bộ Khu 7 rút về Vườn Thơm (Bình Chánh) sau đó về Đức Hoà (Long An) lập căn cứ mới gọi là Quân khu Đông Thành. Một số đơn vị hậu cần được phân công ở lại Chiến khu Đ, do Ban chỉ huy Vệ quốc đoàn Biên Hoà trực tiếp quản lý.

Mặc khác, chấp hành nghị quyết hội nghị Xóm Đèn (5-1946), các cơ quan dân chính Đảng của tỉnh, huyện chuyển sâu vào Chiến khu Đ, tiếp tục xây dựng phát triển căn cứ, tạo nơi đứng chân vững chắc.

Trong hoàn cảnh rất khó khăn, Chiến khu Đ vẫn được tăng cường lực lượng. Vệ quốc đoàn Biên Hoà biên chế thành 5 phân đội. Công tác xây dựng lán trại, kho tàng được triển khai. Ban chỉ huy Vệ quốc đoàn thành lập ban sanh sản-địa hình, do đồng chí Chín Quỳ phụ trách làm nhiệm vụ sản xuất lương thực và đảm trách các khu vực theo từng phương án chiến đấu. Các đội trinh sát, tình báo, liên lạc được thành lập làm nhiệm vụ theo dõi tình hình địch, liên lạc giữa Chiến khu Đ với Quân khu Đông Thành và các khu vực bên ngoài. Tất cả cán bộ, chiến sĩ đều xác định tư tưởng trụ lại chiến khu để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.

Lực lượng vũ trang ngày càng phát triển, nhưng vấn đề lương thực thực phẩm rất khó khăn. Ban chỉ huy Vệ quốc đoàn tổ chức ra 9 “quận quân sự” trong tỉnh, vừa làm nhiệm vụ dìu dắt dân quân du kích xã vừa làm nhiệm vụ thu thuế, vận động nhân dân ủng hộ đóng góp tiếp tế cho bộ đội.

Do yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, tháng 6-1946, Bộ chỉ huy Khu 7 thống nhất các lực lượng vũ trang toàn khu, tổ chức bộ đội trên địa bàn từng tỉnh thành các chi đội.

Theo chủ trương trên, Vệ quốc đoàn Biên Hoà (gồm bộ đội Huỳnh Văn Nghệ và bộ đội Châu Thanh) và Vệ quốc đoàn Long Thành được thống nhất lại, tổ chức thành chi đội, lấy phiên hiệu là Chi đội 10. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ làm chi đội trưởng. Lực lượng của chi đội có 1.100 người trang bị 380 súng trường, 13 súng máy, 25 tiểu liên, 1 súng cối; hoạt động ở vùng hữu ngạn sông Đồng Nai thuộc quân Tân Uyên.


Sự thành lập Chi đội 10 đã đánh dấu một bước phát triển mới của lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hoà nói riêng và Chiến khu Đ nói chung. Các đại đội Vệ quốc đoàn Chi đội 10 phân tán thành từng đơn vị nhỏ xuống đứng chân và hoạt động tại các xóm ấp, do dân tiếp tế nuôi dưỡng. Về tổ chức, tỉnh chuyển các “quận quân sự” thành các “Ban công tác liên thôn”; dưới ban công tác liên thôn là “Ban công tác xã”. Các cơ quan quân sự địa phương này giúp cho uỷ ban hành chính quận xã thực hiện nhiệm vụ quân sự trên địa bàn của mình do chi đội thống nhất chỉ huy.


Đến lúc này, trong chiến khu xuất hiện 3 hình thức tổ chức vũ trang: bội đội địa phương, du kích tập trung và du kích xã. Đây là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng 3 thứ quân trong thời gian đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Chiến khu Đ.


Như vậy, trong vòng vây ráo riết của quân thù, Chiến khu Đ vẫn hoạt động và phát triển nhiều mặt, tự khẳng định khả năng phòng vệ của mình để vươn lên lập những kỳ tích chiến công trong cuộc chiến tranh giải phóng.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 25 Tháng Mười, 2007, 08:39:26 pm
Việc ký kết tạm ước 14-9-1946 ở Fontainnableaur (Pháp) có tác động đến Chiến khu Đ như thế nào?


Việc Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ Việt Nam ký tạm ước với chính phủ Pháp là nhằm hoà để tiến, chứ không hề có sự thỏa hiệp với thực dân Pháp.

Được tin tạm ước ký kết, Ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ họp hội nghị chủ trương triệt để lợi dụng hình thức công khai để tuyên truyền mạnh mẽ cho kháng chiến và Chính phủ, tích cực củng cố và phát triển các đoàn thể cứu quốc và các tổ chức chính quyền, đẩy mạnh hoạt động quân sự kết hợp với binh vận làm hoang mang tinh thần nguỵ binh.

Lúc này, hoạt động của địch ở vùng chiến khu giảm thiểu. Địch chỉ còn giữ lại ở Tân Uyên chi khu và các bót Tân Uyên, Cổng Xanh, Phước Hoà. Bên tả ngạn sông Đồng Nai chỉ còn chi khu Cây Đào và bót Rạch Đông. Phạm vi kiểm soát của địch ở Chiến khu Đ hẹp lại. Từ Đất Cuốc, Lạc An, ta mở đường liên lạc vận tải dễ dàng lên đường 13 ở phía bắc và qua sông Đồng Nai về Long Thành, Bà Rịa phía Nam.

Các cơ quan kháng chiến của tỉnh, huyệntừ trong rừng sâu chuyển ra phía ngoài, đóng dọc Đất Cuốc, Tân Lợi, Mỹ Lộc, Tân Tịch, xây dựng lán trại khang trang.

Sở chỉ huy Chi đội 10 từ Bình Chánh chuyển về Tân Tịch. Các phân đội về bám ấp xóm hoạt động gây dựng, phát triển phong trào cách mạng ở địa phương. Bộ phận quân nhu do đồng chí Cao Văn Bổ phụ trách xây dựng mạng lưới bảo đảm hậu cần xung quanh căn cứ, tổ chức đường dây vận chuyển thuốc men, hóa chất từ nội thành về căn cứ.

Cơ sở quân giới do đồng chí Nguyễn Cao phụ trách được bổ sung thêm 2 đồng chí Bùi Cát Vũ, Đặng Sĩ Hùng và nhiều công nhân kỹ thuật giỏi, quân số lên tới hàng trăm người. Ngoài việc nhồi đạn (rờ sạc), sửa súng, làm lựu đạn, xưởng còn sáng chế được lựu đạn cầu, lựu đạn phóng, địa lôi bằng đầu đạn, bom lép của địch. Các công binh xưởng cũng chuyển dần phía ngoài, đời sống của cán bộ, công nhân được cải thiện một bước quan trọng.

Quân y viện do bác sĩ Võ Cương phụ trách được bổ sung dụng cụ y tế và một số y sĩ, y tá từ trong thành ra chiến khu. Quân y viện mở các lớp đào tạo y tá, cứu thương cung cấp cho các đơn vị; khắc phục mọi thiếu thốn tực hữa các bệnh sốt rét, ho, kiết lỵ, ghẻ lở… cho bộ đội và nhân dân trong chiến khu. Nhiều chiến sĩ bị thương, khu cưa cắt không có thuốc tê vẫn cố chịu đau và hát vang bài ca cách mạng.

Trong điều kiện hết sức thiếu thốn, khó khăn, các cơ quan kháng chiến và đơn vị vũ trang đã trụ lại Tân Uyên với quyết tâm xây dựng căn cứ cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ trên vùng đất Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 25 Tháng Mười, 2007, 08:40:05 pm
Xin cho biết chính sách bình định của địch và những thất bại của chúng?


Nhằm thực hiện chiến lược “đánh nhanh, thắn nhanh”, đầu năm 1947, Bộ chỉ huy quân đội Pháp tập trung lực lượng bình định Nam Bộ.

Thực hiện kế hoạch thâm độc này, thực dân Pháp ra sức lôi kéo các phe nhóm tôn giáo phản động, lập các đảng phái và mặt trận quốc gia giả hiệu, các “khu quốc gia”, “khu an ninh” nhằm tạo thêm cơ sở xã hội cho chúng và chia rẽ hàng ngũ kháng chiến của ta; củng cố các cơ sở kinh tế như cao su miền Đông, lúa gạo miền Tây và các đường giao thông chiến lược.

Về quân sự, NyÔ chia Nam Bộ thành 3 tiểu khu ở vùng Chiến khu Đ gồm: Biên Hoà, Bà Rịa, Thủ Dầu Một-Thủ Đức để tiến hành bình định, phát triển nguỵ binh, đặc biệt trong các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo. Biện pháp hoạt động quân sự của chúng là dùng lực lượng lớn hành quân sâu vào các vùng căn cứ kháng chiến, nhằm đánh cơ quan đầu não của ta, tìm diệt lực lượng vũ trang, triệt phá cơ sở hậu phương, đánh phá các vùng du kích, từng bước mở rộng vùng kiểm soát và vùng địch chiếm.

Chiến khu Đ trở thành mục tiêu càn quét chủ yếu của lữ đoàn Lê dương thứ 13 của Pháp.

Nhằm đối phó hữu hiệu những âm mưu của địch, Tư lệnh bộ Khu 7 mở hội nghị quân sự chấn chỉnh lại lực lượng vũ trang, tổ chức đánh các tuyến giao thông, chống càn quét và đẩy mạnh chiến tranh du kích trong toàn khu.

Thực hiện kế hoạch bình định Chiến khu Đ, ngày 18-1-1947, quân Pháp ồ ạt càn vào Tân Tịch; một bộ phận nhảy dù xuống Mỹ Lộc nhằm đánh úp cơ quan kháng chiến tỉnh và Chi đội 10. Do có sự chuẩn bị, các phân đội bảo vệ căn cứ đã chặn đánh quyết liệt, diệt một tiểu đội địch, thu nhiều đạn dược, thuốc men và 100 chiếc dù. Tiếp theo, tháng 3-1947, Chi đội 10 đã tập kích diệt gọn 1 trung đội địch đóng giữ đồn Đất Cuốc, giải toả vùng trung tâm chiến khu. Từ đó, tình hình sinh hoạt trong chiến khu tương đối ổn định. Bọn giặc chủ yếu cố thủ trong các đồn bót lớn, các cuộc càn vào căn cứ giảm hẳn.

Ngày 19-5, kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ, Chi đội 10 chiến đấu lập công, đánh đoàn xe lửa địch ở Bảo Chánh, thu nhiều súng. Tiếp theo, đơn vị lại đánh đoàn xe lửa ở Trảng Táo, thu 22 súng và 10 tấn gạo. Đồng chí Lê Duẩn phụ trách Nam Bộ đã đến Chi đội 10 biểu dương tinh thần vượt khó, dũng cảm chiến đấu của bộ đội Biên Hoà.

Trong những chiến công của Chi đội 10 trong thời gian này là trận phục kích đánh hai đoàn xe lửa của địch ở Bàu Cá ngày 14-7. Trong trận này, Chi đội đã tập trung lực lượng lớn gồm 400 cán bộ, chiến sĩ, trang bị vũ khí mạnh, đã diệt 200 tên (có 1 đại uý Pháp), thu 60 súng và 3 máy thông tin vô tuyến.

Những trận thắng của Chi đội 10 và các lực lượng bảo vệ căn cứ đã góp phần bẻ gãy âm mưu bình định của giặc Pháp đối với Chiến khu Đ, mở ra tiền đề tươi sáng giành thắng lợi của quân và dân vùng chiến khu, dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 25 Tháng Mười, 2007, 08:41:40 pm
Trận La Ngà đánh dấu một điểm son lịch sử của Chiến khu Đ. Xin cho biết cụ thể về trận đánh này?


Sau khi từ Chiến khu Đ tiến công lên Đồng Xoài và tổ chức trận đánh giao thông địch trên đường 14, phá huỷ 14 xe thiết giáp, 9 xe chở lính, diệt 60 tên địch, trên đường trở về căn cứ, Đảng uỷ và ban chỉ huy Chi đội 10 họp rút kinh nghiệm và đánh giá khả năng đơn vị có thể đánh lớn ở một địa bàn xa căn cứ, từ đó quyết định tổ chức một trận đánh giao thông lớn trên đường 20 (Dầu Giây đi Đà Lạt).

Tại Chiến khu Đ, đơn vị đắp sa bàn cát, lên phương án tác chiến trận đánh quan trọng. Đến cuối tháng 2-1948, công tác điều nghiên nắm địch, chuẩn bị hậu cần cho trận đánh được hoàn tất. Đảng uỷ và Ban chỉ huy Chi đội 10 thông qua quyết tâm chiến đấu, chủ yếu hai vấn đề then chốt:

-Tập trung lực lượng toàn Chi đội, có tăng cường Liên quân 17 tổ chức phục kích đoàn xe của địch từ Sài Gòn lên Đà Lạt (đoạn qua cầu La Ngà-Định Quán).

-Để lại một bộ phận đủ sức bảo vệ căn cứ, đề phòng địch phản ứng mạnh sau trận đánh, đồng thời đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở thị xã và sân bay Biên Hoà, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó.

Đêm 25 rạng ngày 26-2-1948, các trạm gác phía mặt sông Đồng Nai vẫn hoạt động bình thường để đánh lạc hướng phán đoán của địch. Trong lúc đó, toàn bộ lực lượng Chi đội 10 và Liên quân 17 bí mật rời khởi căn cứ theo hướng đông vượt sông Bé, băng rừng hơn 80 km về phía La Ngà. Trận đánh diễn ra đúng với dự kiến.

Ngày 1-3, một đoàn xe Pháp 70 chiếc (có xe thiết giáp hộ tống) vận chuyển hàng và sĩ quan cao cấp đi họp từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Đúng theo kế hoạch tác chiến, lực lượng du kích Long Khánh đã làm vật cản và đánh nhỏ làm hạn chế tốc độ đoàn xe. 15 giờ 15 phút, tốp xe đi đầu bị địa lôi nổ bốc cháy nằm chắn giữa đường. Bộ phận chặn đầu dùng hoả lực bắn mạnh vào đội hình rồi đồng loạt xung phong, diệt gọn toán địch và bắt nhiều tên. Phối hợp với bộ phận chặn đầu, bộ phận đánh chính diện dùng trung liên, tiểu liên, lựu đạn diệt nhiều tên và ném các chai xăng đốt cháy xe tải, nhanh chóng làm chủ trận địa, phá huỷ 16 xe.

Bộ phận khoá đuôi chờ tốp xe cuối cùng lọt vào trận địa mới nổ súng. Địch tháo chạy tranh nhau lên xe rút về phía đồn La Ngà. Ta diệt 31 tên.

Tại một đoạn đường khác, Liên quân 17 và công nhân quân giới đồng loạt xung phong tiến công áp đảo địch, diệt 26 xe và 56 tên.

Trận đánh kết thúc lúc 6 giờ. Các đơn vị nhanh chóng thu dọn chiến trường, rút về căn cứ, dẫn theo 200 tù binh. Riêng số lính Pháp bị thương không đi được, ta giải thích chính sách khoan hồng của chính phủ và thả tại chỗ.

Kết quả trận đánh: trên quãng đường dài hơn 9km, 59 xe bị phá huỷ; 150 tên bị diệt, trong đó có 25 sĩ quan. Đại tá De Sérigué chỉ huy bán lữ đoàn Lê dương số 13 và Đại tá Patơruýt Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp tại nam Đông Dương bị chết.

Chiến thắng La Ngà gây tiếng vang lớn trong cả nước, làm chấn động dư luận nước Pháp.

Cay cú trước thất bại chưa hề có, Bộ chỉ huy quân Pháp ở Sài Gòn điên cuồng mở cuộc phản kích phục thù.
Đoán được ý đồ của địch, bộ đội ta cấp tốc hành quân trở về chiến khu, mặt khác để một bộ phận kết hợp với lực lượng du kích hoạt động sát vào các vùng thị trấn, thị xã không cho địch tập trung lực lượng phản công.

Trong lúc ta đã về đến căn cứ chuẩn bị chiến đấu thì địch loay hoay mãi tới 5-3 mới triển khai được lực lượng trên các hướng, kể cả quân nhảy dù và tàu chiến từ sông Đồng Nai lên sông Bé. Quân giặc rất hùng hổ, nhưng không thấy lực lượng ta, quân Pháp điên cuồng bắn phs, thiêu đốt nhà cửa đồng bào trong các buôn, sóc Lý Lịch, Bù Cháp.

Cùng ngày, 5 máy bay vận tải thả quân xuống Đất Cuốc; 1.000 bộ binh và 50 xe cơ giới hình thành 2 gọng kìm vây kín khu vực cơ quan tỉnh ở Tân Hoà, Mỹ Lộc. Nhưng ta đã kịp thời sơ tán, chỉ để lại một phân đội cùng dân quân du kích đánh quấy rối quân địch, làm thương vong trên 60 tên.

Thua mưu trí, tổn thất lực lượng, giặc Pháp càng lồng lộn trả thù, đốt nhà của đồng bào các xã trong vùng chiến khu; giết chết 20 người dân, hơn 100 con trâu bò, thiêu cháy 500 giạ lúa. Tuy nhiên, tội ác của chúng đã bị trừng trị đích đáng trên 100 tên Lê dương bị tiêu diệt, nhiều tên khác bị thương.

Chiến thắng La Ngà đánh dấu một bước phát triển quan trọng của lực lượng vũ trang Biên Hoà, rút ra được nhiều bài học về tổ chức, chỉ huy, tác chiến; đặc biệt là tổ chức hành quân với cự ly xa gần 100km, xuất phát từ căn cứ để tiến công địch và trở về bảo vệ căn cứ an toàn.

Với chiến công xuất sắc trong trận đánh giao thông La Ngà, các đơn vị tham gia đều được Chính phủ tặng thưởng huân chương.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 25 Tháng Mười, 2007, 08:42:17 pm
Sau trận đánh La Ngà có sự cải tổ và phát triển mới về lực lượng vũ trang?


Về qui luật chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang càng đánh càng phát triển lớn mạnh về thực lực và nghệ thuật chiến đấu.

Trong trường hợp này, Chiến khu Đ có cũng những bước chuyển quan trọng cho phù hợp với tính chất giai đoạn cuộc kháng chiến phát triển, tương xứng với tầm vóc của một chiến khu rộng lớn, có vị trí trung tâm và sát gần đầu não trung ương địch.

Đầu năm 1948, Tư lệnh Bộ được củng cố một buớc. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ từ chi đội trưởng Chi đội 10 được đề bạt lên Khu bộ phó, và sau đó lên Khu bộ trưởng. Và để tiện việc nắm tình hình chỉ đạo chung, cơ quan khu bộ Khu 7 từ chiến khu Đồng Tháp Mười trở về Chiến khu Đ. Văn phòng Tư lệnh đóng tại Nhà Nai. Lực lượng bảo vệ các cơ quan Khu va an toàn căn cứ có đại đội A thuộc Chi đội 10, tiểu đoàn lưu động khu vực và lực lượng dân quân du kích các xã căn cứ. Ngoài phương tiện giao liên chạy chân và chạy ngựa, từ Sở chỉ huy Tư lệnh đến một số cơ quan, đơn vị được trang bị máy thông tin vô tuyến điện (gọi tắt là VTĐ).

Tại Nhà Nai, ngày 27-3-1948, Tư lệnh khu bộ Khu 7 hội nghị quyết định thống nhất tổ chức bộ đội trong khu thành 10 trung đoàn và 1 tiểu đoàn lưu động (goi là bộ đội lưu động khu).

Chi đội 10 được xây dựng thành trung đoàn 310 do đồng chí Nguyễn Văn Lung làm trung đoàn trưởng. Biến chế của trung đoàn gồm 3 tiểu đoàn và 1 đại đội trợ chiến, trang bị 800 súng trường, 40 tiểu liên, 16 trung liên, 6 đại liên, 3 súng cối, 1 súng chống tăng. Đảng bộ trung đoàn có tới 155 đảng viên. Đại đội A được xây dựng thành tiểu đoàn mang tên vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, do đồng chí Nguyễn Văn Lắm làm tiểu đoàn trưởng.

Ngoài Trung đoàn 310, trên địa bàn Chiến khu Đ còn có đơn vị bộ đội lưu động của khu do Hoàng Thọ làm chỉ huy trưởng. Đơn vị của Hoàng Thọ có nhiệm vụ phối hợp với Trung đoàn 310 bảo vệ cơ quan Khu 7, bảo vệ Chiến khu Đ và lưu động tác chếin trong và ngoài chiến khu.

Chi đội 1 Thủ Dầu Một xây dựng thành Trung đoàn 301 do đồng chí Nguyễn Văn Thi làm trung đoàn trưởng, hoạt động ở vùng phía tây Chiến khu Đ.

Sau hơn một năm kháng chiến, lực lượng vũ trang Biên Hoà và Khu 7 không ngừng phát triển lớn mạnh về mọi mặt, đã tạo điều kiện bảo vệ an toàn các căn cứ ở Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 29 Tháng Mười, 2007, 06:53:06 pm
Đại hội đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất đã có những quyết định quan trọng gì về Khu 7 và Chiến khu Đ?


Tháng 7-1948, đại hội đại biểu Xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất họp tại bờ kênh Năm Ngàn giữa chiến khu Đồng Tháp Mười. Đồng chí Lê Duẩn được uỷ nhiệm thay mặt Thường vụ Trung ương Đảng chủ trì hội nghị. Đại hội đề ra chủ trương nhằm chống chiến lược của giặc, bảo vệ hậu phương của ta.

Quán triệt nghị quyết của đại hội, Khu uỷ và Bộ chỉ huy Khu 7 đề ra các nhiệm vụ bức thiết:

- Đánh mạnh vào hậu phương địch, gây cơ sở địch hậu, thu hẹp vùng kiểm soát của chúng.

- Phá hoại trọng tâm kinh tế của địch (chủ yếu là cao su) làm cắt đứt đường giao thông quan trọng của ta.

- Mở rộng khu giải phóng, kiến thiết căn cứ địa bảo vệ lực lượng dự trữ, bảo vệ mùa màng của ta.

- Tích cực phòng gián điệp, tiến hành địch vận và nguỵ vận.


Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu uỷ, cuộc chiến đấu của quân và dân ta phát triển đều khắp trên cả 3 vùng: tạm chiếm, du kích và vùng tự do.

Các trung đoàn phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương hoạt động mạnh trên các tuyến đường giao thông của địch, như phục kích các đoàn xe, phá cầu, đào đường. Các tuyến đường bị ta phá hư hại nhiều như Thủ Dầu Một-Dầu Tiếng, Dầu Tiếng-Minh Thạnh, Thủ Dầu Một-Lộc Ninh.

Tính đến cuối năm 1948 sang năm 1949, chủ động đánh địch để bảo vệ căn cứ, lực lượng vũ trang Chiến khu Đ đã chiến đấu hàng chục trận, thu nhiều vũ khí và quân trang quân dụng của địch.

Tác dụng của những đợt hoạt động với nhiều chiến thuật đã làm cho địch phải bị động đối phó liên miên trên các chiến trường, không tập trung được lực lượng lớn tấn công vào các vùng căn cứ của ta. Âm mưu khai thác, vơ vét, chuyên chở vật chất từ vùng chiến khu của địch gặp nhiều khó khăn trở ngại.

Các huyện, xã tích cực xây dựng căn cứ du kích, căn cứ lõm như Bình Đa, Long Thành, Chứa Chan (Biên Hoà), Bình Chánh, Bình Thuận, An Hoà, An Điền, Long Nguyên… (Thủ Dầu Một), Long mỹ, Xuyên Mộc (Bà Rịa)… hình thành một hệ thống căn cứ ken dày xung quanh Chiến khu Đ, tạo nên thế xen kẽ và liên hoàn khắp các chiến trường, chống lại chủ trương chia cắt để dễ đánh phá, tảo thanh của địch.

Với những cố gắng cao nhất trong giai đoạn này, Chiến khu Đ đã thự chiện được những chủ trương quan trọng của Xú Đảng bộ Nam Bộ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 29 Tháng Mười, 2007, 06:54:03 pm
Trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn, Chiến khu Đ đã làm gì để giữ vững căn cứ?


Chiến khu Đ ngày càng phát triển nhưng vẫn nằm trong sự kềm toả gắt gao của địch. Bởi chủ trương của chúng lúc này là đánh mạnh vào tiềm lực của chiến khu để thực hiện chủ trương “đánh nhanh thắng nhanh”.
Trước tình hình đó, Khu uỷ Khu 7 và Tỉnh uỷ Biên Hoà chỉ đạo các lực lượng kiên quyết giữ vững căn cứ, bảo vệ mùa màng, bảo vệ dự trữ kháng chiến; đồng thời ra sức phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất mọi mặt… Khẩu hiệu lúc này của chiến khu là “giữ người giữ của, xây dựng người, xây dựng của, lấy của địch bồi dưỡng ta, không để một tấc đất hoang”.

Uỷ ban kháng chiến hành chánh tỉnh Biên Hoà đề ra nhiều biện pháp nhằm phát triển kinh tế, khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất như: nông dân được phép phá rừng làm rẫy, lập mỗi xã một hội đồng canh nông, lập quỹ nghĩa thương dự trữ lúa giống và nông cụ giúp đỡ các gia đình khó khăn, nâng giá thu mua thóc từ 12 đồng lên 20 đồng 1 giạ.

Các đơn vị bộ đội tổ chức bố phòng canh gác bảo vệ nhân dân sản xuất, mở lò rèn nông cụ đối lúa cho nông dân; bản thân vừa đẩy mạnh sản xuất tự cung tự cấp. Bộ chỉ huy Khu 7 thành lập 2 tiểu đoàn sản xuất. Các cơ quan, ban ngành của khu, tỉnh, trung đoàn đều cử người lập bộ phận sinh sản và xây dựng trại sản xuất cây lương thực, chăn nuôi heo, gà… gọi là các “nông trường”.

Trong chiến khu còn xây dựng các cơ sở, xí nghiệp sản xuất các mặt hàng công nghệ phẩm, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho bộ đội và nhân dân. Ở Lạc An xây dựng được một số lò đường. Xưởng thuộc da Khu 7 sản xuất được các loại thắt lưng, bao đạn, dây dúng, giày da, xắc cốt, cặp đựng tài liệu. Xưởng giấy sử dụng nguyên liệu sẵn có ở rừng như tre, nứa, bông gòn, vỏ cây để sản xuất các loại giấy đánh máy, giấy bìa. Chỉ tíng riêng trong 2 năm1948-1949, trung bình mỗi tháng, xưởng sản xuất được 30.000 tờ giấy in báo. Công nhân còn chiết mủ cao su chế thành một loại dầu đỏ thắp sáng cung cấp cho nhân dân và bộ đội. Đặc biệt là gốm ở Đất Cuốc nơi có sẵn nguyên liệu cao lanh, đã sản xuất nhiều loại chén đĩa và dụng cụ sinh hoạt phục vụ rộng rãi trong chiến khu. Các sản phẩm gốm có in hình Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh hoặc có dòng chữ “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Kháng chiến nhất định thắng lợi” cùng nhiều loại hoa văn trang trí đẹp mắt… Do thiếu nguyên liệu sản xuất vũ khí, lò rèn còn kiêm việc sản xuất các loại vỏ lựu đạn, mìn bằng sành kịp thời cung cấp cho nhu cầu chiến đấu. Tại suối Sâu, từ năm 1947, đã xây dựng được một xa nước phát điện có công suất đủ cho Binh công xưởng khu sản xuất vũ khí và sinh hoạt. “Nhà máy thuỷ điện” này hoạt động đến năm 1951 mới thôi.

Cùng với việc sản xuất tại chỗ, Khu 7 và tỉnh Biên Hoà còn xây dựng được nhiều tuyến hàng lang tiếp tế từ các nơi về Chiến khu Đ. Các cơ quan, đơn vị đều có cơ sở ở nội thành Sài Gòn và các thị trấn, thị xã để vận động đồng bào đóng góp hoặc thu mua hàng hoá khan hiếm như vải vóc, thuốc chữa bệnh, nguyên liệu cho quân giới. Nhiều chủ cơ sở cao su “đóng thuế” khá thường xuyên, tạo một nguồn cung cấp hậu cần đáng kể cho kháng chiến. Ngoài ra chiến khu còn một nguồn cung cấp vật chất qua các nhà buôn và lực lượng vũ trang vận tải từ Đồng Tháp Mười về Khu 7 trên con đường dài gần 300km, phần lớn phải vượt qua vùng địch kiểm soát. Nhiều chiến sĩ và dân công đã hi sinh vì nhiệm vụ gian khổ này.

Mạng lưới tổ chức hậu cần, tiếp tế của nhân dân và bộ đội đã góp phần nào phá thế bao vây kinh tế của địch đối với Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 29 Tháng Mười, 2007, 06:54:31 pm
Trong chiến khu, đơn vị quân giới đã tự túc vũ khí ra sao?


Vào những năm cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào thời kỳ cầm cự (1947-1951), Chiến khu Đ càng gay go gian khổ hơn nhiều. Trong những thiếu thốn, thì vũ khí và lương thực là bức xúc hơn cả.

Một số anh em từ Sài Gòn-Chợ Lớn ra Chiến khu Đ lập binh công xưởng để tự sản xuất vũ khí cung cấp cho bộ đội chiến đấu. Đồng chí Lê Công Tâm cán bộ của Phòng Quân giới Nam Bộ kể rằng: Vào năm 1950, xưởng hoá chất đóng ở Đất Cuốc, cách sông Đại An gần 3km. Anh em thanh niên nội thành chư hề biết tính năng của súng đạn, thậm chí chưa cầm nó bao giờ, những học vừa làm, anh em đã biết pha chế thuốc nổ cho viên đạn; nấu thuốc nổ cực mạnh (Fulminate de Hg) nhồi vào ống kíp, lắp ráp các loai tromlon, lựu đạn ném, lựu đạn gài, thuỷ lôi, mìn FT (phá tường).

Cuối năm 1950, huyện Hớn Quản thành lập “công xưởng” sản xuất vũ khí, pha chế, lắp ráp được một số vũ khí thô sơ cung cấp cho bộ đội địa phương hoạt động. Công trường dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chỉ huy liên xưởng tỉnh Thủ Biên về chuyên môn; về tư tưởng, chính trị do Đảng bộ huyện lãnh đạo.

Tuy là đơn vị phục vụ chiến đấu nhưng những hoạt động hết sức khắt khe, gian khổ. Nếu người lính ở ngoài chiến trường trực tiếp đối mặt với quân giặc, sống chết kề bền, thì các chiến sĩ quân giới có thể hi sinh ngay nơi mình làm việc. Không ít trường hợp “sinh nghề tử nghiệp” chỉ do sơ xuất nhỏ nào đó như hai đồng chí Thái và Phẩm. Trái nổ làm 2 anh tan nát thị xương, không lượm được mảnh nào.

Chung quanh xưởng cũng phải gài trái tự động để bảo vệ, chỉ trừ một lối nhỏ ra vào. Đi đúng không cẩn trọg là xảy ra thương vong tổn thất khó lường.

Những ngày thiếu thức ăn, thiếu thuốc, bệnh đau phù thũng, phải ăn ăn bắp giã trừ cơm suốt mấy tháng trời, thỉnh thoảng mới bẫy được con nai, con mễn, con nhím… để cải thiện bữa ăn.

Trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế, các chiến sĩ quân giới vẫn khắc phục khó khăn, chèo xuồng qua sông Bé sản xuất ngô, khoai, đậu xanh, xắn mang, câu cá. Đặc biệt là bảo vệ an toàn công xưởng. Có lần trái gài tự động diệt được 3 tên lính biệt kích. Bọnlính Châu Thành, Bến Cát đi ruồng về nói với dân: “Mẹ kiếp cái xưởng gì mà chúng giăng trái tự động dày đặc như mồi trùm. Tới đây cấp trên có bảo đi vô đó thì chắc phải cáo bịnh thôi…”.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 29 Tháng Mười, 2007, 06:55:06 pm
Địch tìm mọi cách lọt vào Chiến khu Đ hoạt động gián điệp. Xin cho biết những biện pháp đối phó của ta?


Với tính chất quan trọng như Chiến khu Đ, địch không thể không sử dụng chiến tranh gián điệp để tăng cường biện pháp đánh phá. Do đó chống chiến tranh gián điệp, biệt kích… là một mặt quan trọng của chiến khu.

Lợi dụng chính sách của cách mạng kêu gọi thu hút các thành phần trong đô thị thoát ly kháng chiến, các cơ quan phản gián của địch đã cho bọn mật thám, gián điệp chỉ điểm xâm nhập vào vùng chiến khu, chui sâu vào các cơ quan quan trọng của ta. Với nghiệp vụ được chuấn luyện, chúng bí mật thu thập tin tứ qua tài liệu, điều tra nắm cán bộ cao cấp, chỉ huy, làm ám hiệu chỉ điểm cho máy bay đến đánh phá căn cứ, dẫn bộ binh tập kích, ngấm ngầm phá hoại sản xuất bằng những biện pháp kinh tế.

Địch còn tổ chức bọn buôn lậu đưa hàng hoá xã xỉ và gái điếm vào chiến khu, khêu gợi lối sống ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, tung tin giả gây hoang mang dao động trong lực lượng ta.

Đề cao tinh thần cảnh giác phòng gia, các đơn vị quan trọng chiến khu, được trên chỉ đạo học tập, vạch rõ âm mưu thủ đoạn thâm độc của địch, nâng cao ý thức phòng chống chiến tranh tâm lý, gian điệp của địch, quyết tâm bảo vệ vững chắc căn cứ. Các đơn vị, cơ quan dân quân chính đảng đều rà soát, củng cố lại nhân sự, đề ra qui định, chế độ bảo mật phòng gian, tăng cường kiểm soát giao dịch, quan hệ với bên ngoài, kiểm tra chặt chẽ việc thu nhận người từ vùng địch chiếm, vào chiến khu. Bộ chỉ huy Khu 7 ra chỉ thị thẩm tra lý lịch, chọn lọc cán bộ, nhân viên làm việc ở các cơ quan quan trọng, các kho tàng công binh xưởng… Tổ chức di chuyển một số cơ quan quan trọng đến địa điểm bí mật; tập trung điều tra giải quyết dứt điểm các vụ gián điệp chui vào hàng ngũ kháng chiến. Khắp nơi cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đều thực hiện “ba không”: không biết, không nghe, không thấy để bảo đảm bí mật an toàn căn cứ.

Nhờ có cũng biện pháp mạnh mẽ, chiến khu đã phòng chống có hiệu quả các thủ đoạn hoạt động gián điệp và chiến tranh tâm lý của địch, góp phần củng cố nội bộ, gây không khí an tâm phấn khởi trong chiến đấu và công tác.

Công tác bảo vệ an ninh trong chiến khu bao gồm cả việc chống thú dữ, nhất là nạn “cọp ba móng”, hoành hành giết hại nhiều người, gây tâm lý sợ hãi trong cán bộ và nhân dân.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 29 Tháng Mười, 2007, 06:55:56 pm
Trong rừng Chiến khu Đ có “cọp ba móng” nổi tiếng. Xin cho biết đôi điều về con cọp này, những tác hại của nó và biện pháp đối phó của ta?

“Ở miền Đông gian lao mà anh dũng” không chỉ đói cơm, thiếu muối, khắc phục mọi hoàn cảnh khắc nghiệt để chiến đấu với quân giặc có quân số đông và vũ khí mạnh, mà còn phải thường xuyên đối phó với thú dữ như heo rừng, chó sói, trăn, rắn độc và nhất là cọp. Nhưng nguy hiểm hơn cả là “cọp ba móng”.

Ai đã từng sống, chiến đấu ở Chiến khu Đ thì không thể không biết cọp ba móng. Nó xuất hiện và “tung hoành” mạnh nhất từ năm 1949 đến năm 1951. Theo dân trong vùng, nguồn gốc cọp ba móng là do chủ một đồn điền cao su nuôi một con cọp, chân chỉ có ba móng chứ không phải bốn móng như cọp thường. Về sau, con cọp này bị xổng chuồng, chạy vào rừng và sống hoang dã, lại rất hung dữ. Cũng có người cho rằng nó là cọp rừng, nhưng bị các tay thợ săn bắt đứt một móng.

Sau trận La Ngà ở đường 20 (đi Đà Lạt) năm 1947, xác giặc Pháp hàm trăm tên, chúng không lấy hết, số còn lại trở thành bữa tiệc thịnh soạn cho cọp rừng. Cọp ba móng “tham gia” rất nhiều quen miệng nên luôn rình bắt người để ăn thịt. Chỉ trong vòng 3 năm, họ nhà cọp mà đứng đầu là cọp ba móng đã cướp đi hàng chục sinh mạng của dân, bộ đội, cán bộ, nhân viên các cơ quan Tỉnh.

Phạm vi hoạt động của cọp ba móng rất rộng, bao gồm Hàng Dài, Bà Đã, Lạc An, Đất Cuốc, Đất Đạo, Nhà Nai, Bưng Kè, Bàu Bếp… Nó bắt người bất kể thời gian: chập tối, nửa đêm, mờ sáng, thậm chí cả ban ngày. Để đối phó, đồng bào và các cơ quan làm nhà gác, hoặc chặt những cây cao lớn ken dày làm hàng rào… Thế nhưng cũng không thoát khỏi con vật hung dữ, Có đơn vị trú quan quyây quần, ở giữa đốt đống lửa chát rừng tực, vậy mà cọp ba móng vẫn nhảy vào chộp mất một người. Nhiều người dân cũng bị cọp ba móng xé xác một cách thương tâm.

Quả thật sự lộng hành của gã “chúa rừng” ba móng này đã gây hoang mang cho nhân dân Chiến khu Đ. Nhiều gia đình phải rời bỏ nơi cư ngụ ra vùng địch tạm chiếm để sinh sống. Lợi dụng tình thế đó, địch tung bọn cọp giả vào rừng (thực chất là bọn biệt kích mang lốt cọp) tiếp tục gieo rắc sợ hãi để đồng bào rời khỏi vùng chiến khu. Biết được âm mưu của chúng, bộ đội đã phục kích bắn chết nhiều “cọp biệt kích”. Làm sao loại trừ được cọp ba móng như một đại họa, là câu hỏi đau đầu của cán bộ, chiến sĩ và cả lãnh đạo. Không diệt được nó không chỉ hao tổn sinh mạng mà còn làm giảm sức mạnh của căn cứ kháng chiến. Qua nghiên cứu và nhiều người hiến kế, biện phát trừ cọp ba móng được triển khai thực hiện. Bộ phận công binh đã “lấy độc trị độc”, gài trái gần nạn nhân để bẫy “hung thủ”.

Một hôm, một người đi làm rẫy bị cọp ba móng vồ tha vào rừng. Lần theo dấu máu khoảng 1km, anh em phát hiện được thi thể nạn nhân, liền gài mìn tại chỗ rồi leo lên cây cao bí mật quan sát. Đến chiều “tên sát thủ” trở lại để ăn thịt tiếp, lập tức mìn nổ, con cọp to lớn quỵ xuống rồi lăn đùng ra chết. Thế là mối hiểm hoạ cọp ba móng ở Chiến khu Đ đã được thanh toán trong nỗi vui mừng phấn khởi của các lực lượng và nhân dân bám trụ trong vùng.

Tuy nhiên cọp ba móng đền tội, Chiến khu Đ vẫn chưa hết hậu hoạ. Một “chúa rừng” khác xuất hiện cướp đi mạng sống một số người nữa, chủ yếu là dân làm rẫy. Nhưng với quyết tâm tiêu diệt cọp, bảo vệ dân và cả tính mạng của mình, trung đội 5 đại đội 60 đã truy lùng chúng vào tận rừng già… Từ dó, ở Chiến khu Đ không còn thấy cọp nữa.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 29 Tháng Mười, 2007, 06:56:43 pm
Chiến thuật tháp canh Đờ Latua ra đời đã gây nhiều khó khăn cho ta. Xin cho biết ta đã phá chiến thuật Đờ Latua bằng cách nào?


Cuối năm 1949, thực dân Pháp đẩy mạnh bình định trên chiến trường Nam Bộ. Đặc biệt chúng triển khai thực hiện chiến thuật Đờ Latua, xây dựng hàng ngàn đòn bót tháp canh trên các trục lộ giao thông, các cửa khẩu và xung quanh căn cứ cách mạng.

Xung quanh Chiến khu Đ, địch dựng lên hàng loạt tháp canh nối nhau dày đặc, tạo thành vành đai vây bọc chiến khu từ 3 phía bắc, tây và nam. Các tháp canh này vừa làm nhiệm vụ bảo vệ giao thông của chúng vừa khống chế lực lượng của ta, cô lập Chiến khu Đ, mở rộng phạm vi kiểm soát, lấn dần vào vùng căn cứ. Tháp canh hình vuông, mỗi cạnh từ 4-5m, xây bằng gạch, cao từ 8-10m. Xung quanh được bao bằng luỹ đất dày, có lỗ châu mai bốn bên để quan sát và bắn đối phương, bên ngoài có hào, chông, mìn, dây thép gai…

Chiến thuật tháp canh thật là nguy hiểm cho lực lượng ta. Yêu cầu bức bách lúc này của chiến khu là phải diệt được tháp canh, từ đó đánh mạnh vào giao thông địch, giải toả bớt áp lực của chúng để mở rộng vùng căn cứ.

Một cuộc hội nghị được triệu tập tại dốc Bà Nghiêm xã Tân Hoà vào tháng 11-1949 bàn cách đánh và sử dụng vũ khí diệt mục tiêu tháp canh. Bộ Tư lệnh Khu 7 giao nhiệm vụ cho tỉnh Biên Hoà tổ chức đánh tháp canh và chỉ thị cho ban quân giới khu sản xuất loại mìn “chuyên dụng” có khả năng phá sập tường tháp.
Chấp hành mệnh lệnh của Khu, tỉnh đội Biên Hoà mở lớp học đánh tháp canh. Tỉnh đội phó Bùi Cát Vũ cho dựng một tháp canh giả và chỉ huy 300 học viên luyện tập đánh tháp.

Sang đầu năm 1950, mọi công tác chuẩn bị đánh tháp canh đã hoàn tất. Tỉnh đội Biên Hoà quyết định tiến hành trận đánh. Đêm 21 rạng 22-3, 50 tổ du kích đồng loạt đánh 50 tháp canh dọc các lộ 24, 16, 15 và quốc lộ 1, kết quả các tháp canh đều bị thủng chứ không sập tháp nào.

Sau trận đánh, Bộ Tư lệnh Khu 7 cùng tỉnh đội Biên Hoà họp rút kinh nghiệm, bổ sung hoàn chỉnh cách đánh mới và sử dụng thêm mìn Peta. Đêm 18-4, một tổ du kích Tân Uyên do hai đồng chí Bùi Cát Vũ và Trần Công An (sau này được tuyên dương Anh hùng) chỉ huy đột nhập một tháp canh “mẹ” tại cầu Bà Kiên. Hai quả mìn FT và Peta đã phá sập tháp canh, diệt toàn bộ bọn lính trong tháp.

Sau trận cầu Bà Kiên, ta diệt tháp canh Vàm Giá và khẳng định khả năng đánh bại chiến thuật Đờ Latua của giặc Pháp.

Xung quanh Chiến khu Đ từ sau tháng 4-1950 trở đi, phong trào đánh tháp lan rộng ra toàn tỉnh, Khu 7 và nhiều chiến trường trên khắp nưpức. Kỹ thuật đánh tháp canh được bộ đội ứng dụng rộng rãi trong đánh lô cốt, đồn bót, cầu cống, kho tàng… hình thành một cách đánh đặc biệt gọi là ”chiến thuật đặc công”. Từ đó, đặc công ra đời trở thành nỗi kinh hoàng của giặc Pháp và nguỵ, là tiền thân của Binh chủng đặc công lớn mạnh trong chống Mỹ sau này. (Tuy nhiên Binh chủng đặc công chính thức thành lập ngày 19-3-1967, khi Bác Hồ đến thăm và biểu dương: “Đặc công là công tác đặc biệt, cần phải cố gắng đặc biệt”). Đặc công còn được gọi là “Bộ đội đặc biệt tinh nhuệ”.

Với cách đánh của lực lượng vũ trang Khu 7, chiến thuật Đờ Latua của Pháp bị giáng một đòn nặng. Chiến khu Đ-Biên Hoà trở thành nơi khởi đầu chiến thuật đặc công.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 29 Tháng Mười, 2007, 06:57:12 pm
Chiến khu Đ đã đối phối hợp với chiến dịch Biên giới Việt-Trung như thế nào?


Tháng 6-1950, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, giải phóng một phần đất đai, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc. Trong bối cảnh đó Chiến khu Đ có sự chuyển động lớn để tổ chức lại chiến trường chung trên cả nước. Theo quyết định của trên, Khu 7 và khu Sài Gòn-Chợ Lớn được mở rộng gồm các tỉnh: Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Gia Định, Sài Gòn-Chợ Lớn, Tây Ninh. Đồng chí giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ Khu, đồng chí Tô Ký và đồng chí Huỳnh Văn Nghệ Phó tư lệnh, đồng chí Lê Đức Anh Tham mưu trưởng.

Để phối hợp với chiến dịch Biên giới và các chiến dịch khác trên cả nước, Bộ Tư lệnh Khu quyết định mở chiến dịch Bến Cát (Thủ Dầu Một) vào tháng 10-1950 nhằm giải phóng đường 7, mở thông hành lang tiếp vận từ đồng bằng sông Cửu Long và Sài Gòn lên căn cứ miền Đông… Tại Chiến khu Đ, không khí rất sôi động, khẩn trương; bộ đội và nhân dân hăng hái tham gia chiến dịch. Từ 7-10 đến 5-11, trên mặt trận chính bao gồm đường 7, liên tỉnh lộ 14 và các mặt trận phụ… quân ta đã tiêu diệt 509 tên địch, đánh sập hàng chục tháp canh, đồn bót, cầu cống; phá huỷ 84 xe quân sự, 5 đầu máy xe lửa, 7 tàu thuyền, thu nhiều vũ khí, lương thực, thực phẩm và đồ dùng quân sự. Đây là chiến dịch qui mô lớn đầu tiên và duy nhất được tiến hành ở miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tuy nhiên, sau thất bại ở chiến dịch Biên giới, Bộ chỉ huy quân Pháp tại miền Nam đã huy động lực lượng đánh sâu vào một số vùng căn cứ của ta, tiếp hợp mở đường, đóng thêm tháp canh, tạo điều kiện bàn giao trách nhiệm bình định lãnh thổ cho quân nguỵ, để điều binh ra miền Bắc. Đối với Chiến khu Đ, chúng tăng cường phong toả, bao vây kinh tế, hành quân càn quét cấp tiểu đoàn kết hợp các đội Comando và dùng không quân ném bom. Chiến khu Đ phải đương đầu với những thách thức mới của cuộc chiến tranh giải phóng.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:11:54 pm
Bước sang giai đoạn cầm cự với giặc Pháp, Chiến khu Đ được phát triển mở rộng phạm vu, qui mô mới?


Đầu năm 1951, quân Pháp cố gắng giành lại quyền chủ động trên chiến trường Nam Bộ, mở các cuộc hành quân nhắm vào mục tiêu tiêu diệt lực lượng ta ở Đồng Tháp Mười và dọc theo sông Cửu Long, kiểm soát chặt chẽ Khu 8, cắt đứt Nam bộ ra vùng đông và tây.

Để phù hợp với chiến trường và tình hình chung, tháng 5-1951, Trung ương Cục miền Nam quyết định bố trí lại chiến trường, lấy sông Tiền làm ranh giới phân chia Nam Bộ thành 2 Phân liên khu miền Đông và miền Tây. Căn cứ vào tình hình cụ thể ở Nam Bộ, Trung ương Cục chủ trương đẩy mạnh công tác xây dựng căn cứ địa cho từng chiến trường và cả Nam Bộ.

Thực hiện chủ trương này, Ban căn cứ địa Nam Bộ được thành lập. Tại Chiến khu Đ, ban căn cứ địa hội nghị đề ra nội dung phương hướng xây dựng căn cứ trong tình hình mới và xác định những căn cứ địa chính của toàn Nam Bộ là Chiến khu Đ, Chiến khu Dương Minh Châu, Chiến khu Đồng Tháp Mười và Chiến khu U Minh.

Ban căn cứ địa Nam Bộ và Ban căn cứ tỉnh Thủ Biên (Thủ Dầu Một-Biên Hoà) dã xúc tiến việc xây dựng mở rộng và phát triển Chiến khu Đ từ căn cứ của Biên Hoà và Khu 7 lên thành một trong những căn cứ chính của miền Đông Nam Bộ; đồng thời xác định căn cứ không chỉ đơn thuần bảo đảm địa bàn đứng chân cho cơ quan cấp trên mà phải có chiều sâu và toàn diện, đảm bảo vị thế chiến lược và liên hoàn trong phạm vi toàn miền.

Tháng 7-1951, huyện căn cứ Đồng Nai thuộc tỉnh Thủ Biên được thành lập trên cơ sở sát nhập một số xã căn cứ của huyện Tân Uyên với huyện Hớn Quản. Phạm vi Chiến khu Đ được nới rộng, với diện tích khoảng 3.700km vuông, dân số độ 10.000 người. Sự thành lập huyện căn cứ và sắp xếp lại các xã đã góp phần định lại căn cứ về mặt hành chính, tạo điều kiện thuận lợi trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ đặc biệt của vùng căn cứ địa quan trọng này.

Đi đối với việc mở rộng và nâng cao chất lượng căn cứ, công tác bố phòng bảo vệ, trinh sát, thông tin, quân báo nắm địch cũng được tổ chức chặt chẽ. Các đội bảo vệ các tuyến giao thông từ Chiến khu Đ đi Bến Cát, Thủ Đức, Thuận An Hoà, Bà Rịa hoạt động khá tốt. Công tác tăng gian sản xuất lương thực thực phẩm, vũ khí trang bị cũng có những bước tiến mới đáp ứng với tình hình phát triển căn cứ. 

Giờ đây Chiến khu Đ đã mang một tầm vóc mới như một căn cứ địa cơ bản của miền Đông và cả Nam Bộ, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam và cả nước.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:12:19 pm
Xin cho biết một số trận đánh tiêu biểu ở Chiến khu Đ trong thời gian này?


Sau khi thiết lập được hệ thống đồn bót và củng cố các hành lang vận chuyển, tạo thành vành đại siết chặt Chiến khu Đ, tháng 6-1951, địch mở cuộc càn lớn vào vùng căn cứ của ta. Hàng trăm xe cơ giới, có pháo binh, tàu chiến và máy bay yểm trợ chia thành 3 mũi tiến công vào Tân Dân, Bà Đã và theo sông Đồng Nai lên Tân Hoà, Tân Tịch. Các Tiểu đoàn 295, 303, bộ đội địa phương huyện và du kích chặn đánh địch quyết liệt. Tại Tân Dân, một tiểu đoàn lính Âu-Phi ngủ đêm, bị Đại đội 55, Tiểu đoàn 303 tập kích gây thiệt hại nặng. Sáng ra, khi chúng vội vàg đưa thương binh lên trực thăng để rút quân, liền bị đại đội địa phương dùng súng cối bắn vào đội hình, làm tử thương tên Panren chỉ huy cuộc càn. Mũi tiến công vào Bà Đã bị tập kích vào lúc mờ sáng, 1 đại đội lính lê dương toi mạng. Trên đường 16, đội biệt động Thủ Biên diệt 3 xe cơ giới, buộc địch phải rút lui, bỏ lại 1 xe và hàng trăm xác chết. Chiến khu Đ được bảo vệ an toàn.

Đây là trận chống càn lớn đầu tiên sau kế hoạch Chiến khu Đ được củng cố và phát triển thành căn cứ của cả Nam Bộ. Thắng lợi của cả trận chống càn chứng minh việc chỉ đạo xây dựng có chiều sâu và hoàn chỉnh căn cứ, cũng như khả năng phối hợp chiến đấu giữa bộ đôi tập trung và bộ đội địa phương.

Sau hội nghị Ban căn cứ địa, tháng 10-1951, giặc Pháp lại càn vào Chiến khu Đ. Chúng huy động nhiều tàu chiến dàn trên sông Đồng Nai đánh lên vây mặt trước căn cứ. Tiểu đoàn 303 và đại đội địa phương Đồng Nai đã dùng súng SSA SSB (do Phòng Quân giới Nam Bộ chế tạo) bắn chặn địch, khiến 3 tàu bị hỏng, bẻ gãy cuộc hành quân của chúng.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:12:46 pm
Công tác an ninh được đặc biệt coi trọng. Xin cho biết Chiến khu Đ đã phá được vụ án nào?


Như ta đã biết Chiến khu Đ được bảo vệ cả vòng trong lẫn vòng ngoài, không những luôn làm trong sạch nội bộ mà còn chống sự xâm nhập của địch từ nhiều hướng vào căn cứ. Đặc biệt chú trọng đề phòng những phần tử “chui sâu leo cao” gây thiệt hại lớn cho cách mạng.


Để bảo đảm an ninh chính trị cho căn cứ, công tác phòng gian bảo mật được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả. Ty công an Thủ Biên của cán bộ về phối hợp với công an huyện căn cứ và các xã đội tổ chức đoàn thể các xã phát động quần chúng giữ gìn an ninh căn căn cứ, xây dựng ý thức cảnh giác phòng gian, tổ chức các tổ “ngũ gia liên bảo” để quản lý được chặt chẽ. Đặc biệt trong thời gian này, ngành công báo và công an tỉnh Thủ Biên điều tra phá án hàng loạt vụ gián điệp của địch cài vào nội bộ ta. Nhiều tên trong tổ chức Phòng Nhì của Pháp như Đường, Khôi, Điệp, Tòng, Kia… đã tìm cách chui được vào liên hiệp Công đoàn tỉnh, Phòng tham mưu và văn phòng tỉnh đội, Ty kinh tài…


Một trong những vụ án nghiêm trọng nhất trong thời gian này là điệp viên Mai Văn Hạo. Y vốn gốc là công chức của Pháp tại toà hành chánh tỉnh Biên Hoà. Lợi dụng chỉ thị 4/NV về thu hút viên chức từ vùng đô thị vào chiến khu của Uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, Hạo vào căn cứ Bình Đa và được nhận vào công tác tại cơ quan huyện Vĩnh Cửu, sau đó được điều lên cơ quan tỉnh đóng tại Chiến khu Đ. Y tỏ ra giác ngộ và hoạt động tích cực nên được tín nhiệm và cử làm Phó bí thu Tỉnh uỷ đảng Dân chủ tỉnh Biên Hoà, rồi Uỷ viên ban liên Việt tỉnh Thủ Biên. Trong thời gian làm việc trong các cơ quan của ta, Hạo đã bí mật cung cấp cho địch nhiều tin tức, tài liệu mật, vẽ bản đồ khu vực căn cứ, chỉ điểm cho máy bay đánh bom một số cơ quan làm nhiều người chết và bị thương. Trong lần Hạo mật báo cho Pháp ném bom, bắn phá vào khu vực tổ chức hội nghị cán bộ Thủ Biên lần thứ nhất ở Suối Sâu, gồm 100 đại biểu, có đồng chí Lê Duẩn tham dự, y bị ta theo dõi phát hiện và bị bắt. Rất may cuộc họp đã xong, các đại biểu vừa ra về nên đều an toàn, chủ hư hại nhà cửa, lán trại.

Trước toà, Mai Văn Hạo phải cúi đầu nhận tội và lãnh án tử hình. Một bản án đích đáng cho kẻ phản bội tổ quốc.

Ngoài ra, những cán bộ sa sút phẩm chất, anh hùng cá nhân, quan liêu quân phiệt gây nhiều khó khăn tổn thất cho cách mạng cũng bị xử lý kỷ luật nghiêm minh.

Tình hình an ninh trong căn cứ nhờ thế được củng cố một bước quan trọng; cán bộ, chiến sĩ và nhân dân thêm phấn khởi, tin tưởng.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:13:13 pm
Chiến khu Đ là “vùng rốn” củ dịch bênh, ta đã làm gì để khắc phục tình trạng này?


Chiến khu Đ là vùng rừng thiêng nước độc, nhất là các vùng phía bắc ắn sâu vào biên giới. Cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở đây không ai được “miễn trừ” sốt rét là con bệnh hoành hành dữ dội nhất. Do cuộc sống kham khổ, ăn uống thiếu chất bổ dưỡng, thuốc men lại rất thiếu nên dịch bệnh có cơ hội lan truyền.

Mặc dù như vậy, tinh thần tự lực tự cường đã khắc phục và đẩy lùi bệnh đau. Vấn đề phòng bệnh, chữa bệnh đặt ra song song với các mặt bảo đảm hậu cần của chiến khu. Đến năm 1952, hệ thống quân dân y được sát nhập từ cấp xã lên đến cấp tỉnh, Phân liên khu. Các cơ sở bào chế thuốc và quân y xã học tập áp dụng kinh nghiệm y học tiến bộ, đồng thời thực hiện phương châm “địa phương hóa tây y, khoa học hóa đông y”.

Phong trào tận dụng nguyên liệu rừng để sản xuất thuốc nam bào chế thành thuốc viên hay thuốc ống theo hình thức tây y, đã giải quyết được một phần nhu cầu điều trị bệnh trong căn cứ; đặc biệt là các loại thuốc chữa bệnh sốt rét, kiết lỵ, ho, đau bao tử (dạ dày)… Các cuốn sách “Tánh dược đông y”, “Tủ thuốc nhân dân” hướng dẫn cách sử dụng các vị thuốc thông thường có sẵn trong vùng căn cứ được in ấn lưu hành rộng rãi và tái bản nhiều lần. Bộ đội và nhân dân khắp nơi tích cực sưu tầm gửi hàng ngàn toa thuốc gia truyền về Ban nghiên cứu đông y Nam Bộ.

Khẩu hiệu ngành y dược được mọi người hưởng ứng nhiệt liệt lúc này là “Dùng thuốc nam là yêu nước, là đấu tranh kinh tế với địch”. Về tây y, các bác sĩ đã áp dụng có hiệu quả phương pháp cấy Filatop trong điều trị, gây thêm niềm tin, phấn khởi trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong và ngoài chiến khu. Đặc biệt, có cả gia đình nguỵ binh ở vùng địch tạm chiếm móc nối vào chiến khu xin được trị bệnh bằng phương pháp này.

Với nhiều biện pháp tích cực của ngành quân y trong chiến khu, bệnh đau bị đẩy lùi một bước. Sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ tăng dần, đảm bảo quân số chiến đấu, công tác ngày càng cao; nhất là các dịch bệnh được ngăn chặn kịp thời.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:13:38 pm
Trong những gian lao cực khổ ở Chiến khu Đ, bộ đội ta còn phải chịu cảnh thiếu nước?


Có lẽ không riêng gì Chiến khu Đ mà cả miền Đông Nam Bộ vào mùa khô “nước” trở thành vấn nạn. Riêng ở Chiến khu Đ, nhiều nơi thiếu nước trầm trọng dưới cái nắng như thiêu đốt hút cạn các con sông nhỏ và toàn bộ các dòng suối luồn lách trong rừng. Có những ngày hành quân xuyên chiến khu không hề gặp một khe nước, ai nấy khát cháy khô cổ họng như muốn nổ yết hầu, người sắp lả đi.

Rút được kinh nghiệm, các chiến sĩ mang theo ống bương tre đựng nước để chống khát dọc đường và đến nơi trú quân có thể nấu cơm ăn. Nhưng nước đâu có đủ khi cơn khát dày vò khủng khiếp mọi người. Những lúc như thế, anh em có sáng kiến chặt dây rừng hứng nuốt từng giọt từ trong dây chảy ra để thấm cho đỡ khô cổ. Cũng có khi may mắn gặp được bãi nước, thôi thì “trong nhờ đục chịu” uống cho thỏa cơn khát, mặc dù thú rừng đã đến uống và lội xuống quậy khiến nước đục ngầu.

Đó là chuyện hành quân, những khi đóng quân mà không có nước mới thật cực khổ. Vào cuối năm 1953 đầu năm 1954, để phối hợp với chiến trường miền Bắc và Nam Bộ, Tiểu đoàn 303 Thủ Biên đã đưa phần lớn lực lượng luồn sâu xuống vùng địch hậu để làm nòng cốt phát triển chiến tranh du kích và phối hợp với địa phương đẩy mạnh tác chiến diệt địch. Hai trung đội của Đại đội 60 được bố trí tại rừng gò Ông Mai, căn cứ Thuận An của huyện lái Thiêu. Do địa thế gò cao lại đồn bót địch bốn bề nên đơn vị buộc phải đào giếng để lấy nước ăn uống và sinh hoạt. Nhưng ác thay, các chiến sĩ đào sâu tới 20m mà vẫn không có nước, chỉ toàn là bùn. Đào sâu xuống nữa thiếu dưỡng khí có thẻ bị chết ngạt. Thế là phải bỏ phí hết bao công sức mồ hôi. Nhưng không thể bó tay chịu chết khát giữa rừng, đơn vị phải lần mò ra vùng địch kiểm soát xa hàng mấy kilomet để lấy nước. Mỗi chuyến đi như vậy phải vào buổi đêm và tổ chức chặt chẽ như hành quân chiến đấu: có bộ phận tiền vệ, trắc vệ (bảo vệ hai bên đội hình và hậu vệ. Đến nơi phải bố trí canh phòng chu đáo rồi mới thay nhau tắm giặt, xong lấy nước gùi về. Có lần bị địch phục kích, nước đổ lẫn máu, nhiều chiến sĩ hi sinh.

Những lúc giặc bao vây bố ráp, phong toả các điểm lấy nước, mọi người phải nhín từng ngụm để chia nhau trang trải cho qua những thời khắc khó khăn. Có lúc nước dự trữ hết sạch, anh em phải múc bùn nhão từ đáy giếng lên, để rất lâu mới lắng được một ít nước, dùng ống hút nhỏ chia nhau hút cho đỡ khát.

Chuyện nước muỳa khô ở Chiến khu Đ là nỗi ám ảnh với nhiều người và trở thành những kỷ niệm khó quên.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:14:01 pm
Sự ra đời của đơn vị vận tải có ý nghĩa gì với Chiến khu Đ?


Chấp hành chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam, ngày 1-5-1952, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông ra quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải 320, làm nhiệm vụ tiếp nhận hậu cần của Trung ương do Liên khu 5 chuyển giao từ Bình Thuận vào Chiến khu Đ, để phân phối cho các đơn vị trên khắp chiến trường; giữ vững đường liên lạc giữa Nam Bộ với Trung ương, đồng thời đưa đón các đoàn cán bộ qua lại trên tuyến đường này. Tiểu đoàn vận tải 320 do đồng chí Nguyễn Văn Lung phụ trách, gồm 3 đại đội vận tải và 1 đại đội làm nhiệm vụ “đầu cầu” tiếp nhận hàng, chuyển nhập kho, xây dựng kho tàng, bảo quản vật chất, bàn giao hàng, tăng gia sản xuất.

Tháng 6-1952, tại Bà Đã, những bộ phận đầu tiên đã tổ chức lễ thành lập tiểu đoàn. Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ các nơi, kể cả du kích dân tộc ít người như Châuro, Stiêng… cũng đến xin gia nhập đơn vị vận tải.
Hành lang vận tải dài từ 200-300km, từ Xóm Sình lên Lạc An vượt sông Đồng Nai qua Vĩnh Cửu xuống Rừng Lá, Xuyên Mộc đến Bình Châu, Bình Thuận. Thời gian mỗi lượt đi từ 7-8 ngày đêm; mỗi người tải từ 15-20kg hàng ngoài ba lô, súng đạn và lương thực ăn dọc đường. Hàng vận tải giai đoạn này chủ yếu là nguyên hóa liệu cho quân giới và một số súng lớn như đại liên, ĐKZ, đạn lõm…

Quá trình làm nhiệm vụ âm thầm của bộ đội vận tải 320 giữa rừng sâu là một cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt với kẻ thù, với đói rét và cả tư tưởng thoái chí trước gian khổ. Giặc Pháp nhanh chóng đánh hơi được tuyến đường vận chuyển chiến lược của ta nên tăng cường đòn bót dọc theo hành lang và dùng bọn tay sai người dân tộc thiểu số luồn rừng dẫn đường gài mìn phục kích, tập kích… Địch còn cho pháp bắn cầm canh cả ngày lẫn đêm vào tuyến đường vận tải. Các chiến sĩ vận tải vừa phải mở đường vừa phải chiến đấu diệt địch. Có lần vừa chở hàng về đến Chiến khu Đ, gặp địch càn quét, tiểu đoàn đã phối hợp với đơn vị bạn chống càn, diệt được 20 tên.

Sự ra đời của tiểu đoàn vận tải 320 đã thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp nhận kịp thời sự chi viện của Trung ương cho Nam Bộ trong giai đoạn đầy khó khăn, thiếu thốn vật chất. Từ đây, Chiến khu Đ giữ trọng trách làm “đầu cầu” cho con đường vận chuyển chiến lược từ Trung ương vào Nam Bộ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:14:37 pm
Trận bão lụt lịch sử năm Nhâm Thìn (1952) đã gây hậu quả khôn lường cho Chiến khu Đ?


Đây là trận báo lụt được nhiều người nhắc tới trong mấy chục năm qua vì nó tàn phá hết sức dữ dội và rộng lớn, trong lúc cuộc kháng chiến của ta đang gặp muôn vàn khó khăn.

Cơn bão xảy ra đầu tháng 10-1952 tràn ngập các tỉnh miền Đông. Lương thực, hoa màu sắp đến kỳ thu hoạch bị hư hại nặng. Các đơn vị, cơ quan và nhân dân trong chiến khu chưa kịp khắc phục hậu quả thì đêm 18-10, một cơn bão khác lại bất ngờ ập đến với mức độ tàn phá chưa từng thấy. Cây rừng đổ ngổn ngang. Nước sông Đồng Nai dâng lên đột ngột, chảy ào ạt cuốn phăng cây cối, nhà cửa hai bên bờ và cả những thú rừng lớn như voi, cọp… Vùng căn cứ dọc sông thành biển nước mênh mông, kéo dài trên nửa tháng mới rút dần, gây úng lụt nghiêm trọng.

Vùng Chiến khu Đ bị tổn thất nặng nề. Một số ít người và tài sản bị cuốn trôi. Nhà cửa doanh trại bị đổ sập, tốc mái. Toàn bộ cây lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang, sách báo… bị ẩm mốc, mục rữa. Vũ khí đạn dược bị sét rie, hư hỏng.

Lợi dụng lúc ta bị khó khăn nghiêm trọng do thiên tai, giặc Pháp âm mưu triệt phá căn cứ. Chúng liên tục hành quân càn quét, bao vây, ngăn chặn các đường vận chuyển lương thực, tuyên truyền chiêu dụ cán bộ, chiến sĩ ta ra đầu hàng.

Cuộc sống ở Chiến khu Đ gặp vô vàn gian khó. Mọi hoạt động sản xuất, huấn luyện bị gián đoạn. Hàng vạn cán bộ, bộ đội và nhân dân thiếu ăn hàng ngày. Đến nỗi không còn đủ gạo để nấu cháo cho thương bệnh binh ăn. Những ai khỏe mạnh phải đi đào củ mì đã thối do ngập nước lâu ngày, hoặc đào củ mài, củ chụp, tìm các loại rau rừng, măng tre để ăn trừ bữa. Nạn thiếu muối xảy ra thường xuyên. Bị đói, thiếu quần áo, thuốc men, phải liên tục dời cứ và chống càn nên số người đau bệnh tăng vọt, có đơn vị chiếm tới 60% quân số. Khá đông nông dân dù gắn bó với kháng chiến cũng phải tạm lánh về dùng địch. Nhiều gia đình phải gửi cha mẹ già và con nhỏ về thành phố để “bớt miệng ăn”. Một số phần tử không chịu đựng được gian khổ đã bỏ cách mạng ra đầu hàng giặc và trở thành những tên phản bội dẫn đường cho chúng trở lại ruồng bố căn cứ.

Thiên tai địch họa đã làm cho phong trào cách mạng Chiến khu Đ đứng trước những thử thách to lớn, tưởng chừng khó có thể vượt qua. Danh từ Chiến khu Đ bị gọi đùa là “chiến khu đói”, “chiến khu đâu” có lẽ xuất phát từ giai đoạn này.

Trước tình hình đó, Trung ương Cục miền Nam họp ra chỉ thị khắc phục khó khăn, phát động phong trào sản xuất cứu đói và kêu gọi đồng bào khắp nơi ủng hộ nhân dân vùng bão lụt.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Cục, nhân dân và bộ đội các miền không bị bão lụt đã tổ chức “tuần lễ ủng hộ miền Đông” vận động quyên góp hàng triệu đồng tiền Đông Dương, hàng chục vạn tấn gạo và thực phẩm gửi cứu trợ miền Đông và Chiến khu Đ. Các gia đình vùng địch tạm chiếm cũng tìm cách gửi vào chiến khu nhiều tiền, gạo, thuốc men, vải vóc…

Sự giúp đỡ đầy tình tương thân tương ái đã giải quyết được 50% nhu cầu về lương thực của quân và dân chiến khu trong 3 tháng sau bão lụt; biểu hiện sâu sắc, lòng tin yêu hướng về cách mạng của các tầng lớp nhân dân.

Sau trận “đại hồng thuỷ” khủng khiếp, Chiến khu Đ nhanh chóng khắc phục hậu quả: xây dựng lại lán trại, đẩy mạnh sản xuất tự túc. Nước rút đến đâu, cây lương thực, hoa màu được trồng đến đó. Đến cuối năm, khắp chiến khu, nhất là dọc sông Đồng Nai, sông Bé, Mã Đà, bà Hào… các loại cây lương thực ngắn ngày đã lên xanh tốt. Đơn vị nào cũng có gà, vịt, heo để cải thiện bữa ăn. Cuộc sống khá dần lên.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:15:20 pm
Có phải bài ca nổi tiếng “Lên ngàn” của nhạc sĩ Hoàng Việt ra đời từ trận bão lụt năm Thìn?


Đúng như thế, trận bão lụt tháng 10-1952 gây hậu quả lớn lao cho đồng bào và bộ đội ta, khiến nhạc sĩ Hoàng Việt xúc động viết thành công bài ca “Lên ngàn”. Lúc đó Hoàng Việt đang ở tại căn cứ Tha La chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Những tổn thất, đau xót của nhân dân và bộ đội dồn nén làm bật lên lời ca:

“Gió mưa sụp đổ mái nhà
bao nhiêu gia đình tan hoang
đau thương lệ rơi chứa chan…”

Bài ca đau thương bi tráng nhưng cũng đầy lãng mạn cách mạng, phản ánh những khó khăn gian khổ và sức vươn lên của một miền đất anh dũng kiên cường.

Lên ngàn
Nhạc và lời: Hoàng Việt

Hò… ơ… Dòng sông chảy xiết lái thuyền chèo đi.
Trên sông Vàm Cỏ Đông nước chảy ngược dòng.
Nước ngược dòng.
Hò… ơ… Em chèo thuyền đi lên rẫy Trảng Cồng cắt lúa thay chồng thay chồng… nuôi con.
Nước ngập đồng xanh lúa chết, gió mưa sập đổ mái nhà, bao nhiêu gia đình tan hoang, đau thương lệ rơi chứa chan.
Em đi cắt lúa trên ngàn, rẫy trên ngàn nắng thiêu chang chang.
Đường đi nước ngập mênh mang bàn chân dẫm gai lòng không thở than.
Người dân dưới ruộng lên ngàn tìm lúa đổ bao mồ hôi.
Gánh về từng hạt lúa vàng cùng nhau chung sống căm thù giết Tây. 
Em đi cắt lúa lên ngàn. Còn anh chiến đấu sa tràng.
Kháng chiến nhất quyết thành công!
Kháng chiến nhất quyết thành công!
Mai này kháng chiến thành công, anh về em thoả ước mong
Em… …mong


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:15:52 pm
Trong lúc bộ đội và nhân dân lâm vào cảnh khó khăn do bão lụt gây nên, địch đã tăng cường đánh phá vùng chiến khu như thế nào?


Quả là họa vô đơn chí. Thiên tai địch hoạ đi liền với nhau như những thứ giặc đồng hành siết thòng lọng vào Chiến khu Đ.

Đang lúc nhân dân và bộ đội tích cực lao động sản xuất và chờ ngày thu hoạch thì địch điên cuồng phá hoại mùa màng. Chủ trương của giặc Pháp lúc này là phá sạch, đốt sạch. Muốn tiêu diệt kháng chiến trước hết phải triệt phá nguồn lương thực. Khẩu hiệu của chúng là “giết một con bò bằng giết 3 nông dân, giết một nông dân bằng giết 3 bộ đội”. Hàng ngày chúng cho máy bay quần đảo trên vùng căn cứ bắn chết trâu bò, người làm ruộng rẫy, tưới xăng và dùng bom napan đốt cháy cây cối, hoa màu. Trâu bò chết trương thối khắp nơi. Không những thế, chúng còn dùng xe lội nước càn qua ruộng lúa, hoa màu, cho bọn biệt kích đột nhập vào vùng căn cứ cắt lúa, nhổ khoai, mì và đốt phá nhà cửa. Trên đường 16, chúng đóng thêm một số đồn bót, thường xuyên tung các đội Commando vào càn phá vùng căn cứ, rồi nhanh chóng rút ra.

Sang đầu năm 1953, địch càng đẩy nhanh hơn các đợt càn quét, bắn phá Chiến khu Đ.

Để đối phó với hành động phá hoại của giặc, ta chuyển sang sản xuất ban đêm. Phong trào trồng khaoi mì thành rừng lan rộng khắp nơi. Phân liên khu miền Đông đề ra chủ trương nhiệm vụ: Ra sức phục hồi và bảo vệ sản xuất… Thực hành đấu tranh kinh tế với địch. Cán bộ, chiến sĩ đều tham gia hăng hái sản xuất. Đêm đêm quanh đống lửa trại, các chiến sĩ hát vang bài “Sinh sản tự túc”, “Lửa bốc cao”, ngâm thơ, ca dao, hò vè tự biên tự điển… Những câu ca dao, hò vè tự biên tự diễn… Những câu ca đầy khí thế lạc quan, coi thường gian khổ, đói rét vang lên: “chúng ta là chiến sĩ miền Đông, chiến đấu đã từng, thêm lòng kiên quyết, chiến đấu chống đói, chiến đấu chống rét, chống thú rừng, chống giặc ngoại xâm…”, “Lúa khoai ta gắng trồng sườn non đến bờ sông…”.

Các lực lượng vũ trang khắc phục để chống càn, bảo vệ mùa màng. Các đội võ trang tuyên truyền toả ra hoạt động mạnh ở cá vùng địch tạm chiếm nông thôn và thành thị. Tiểu đoàn 303 phối hợp với bộ đội địa phương và du kích các huyện diệt hàng loạt đồn bót ở Bến Tranh, Bến Thế, Trương Bình Hiệp, Trảng Bom… đốt kho xăng thị xã Biên Hoà. Các lực lượng vũ trang tại căn cứ đã chống trả quyết liệt cuộc càn kéo dài 52 ngày đêm của địch…

Những hoạt động vũ trang kết hợp với chính trị, binh vận của ta ở vòng ngoài đã buộc địch phải rút bớt lực lượng về để đối phó. Áp lực bao vây phong toả Chiến khu Đ của chúng giảm hẳn.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:16:18 pm
Phải thường xuyên đối phó với các thứ giặc, vậy đời sống chính trị tinh thần của chiến khu có được cải thiện không?


Như ta đã biết cuộc sống của các lực lượng và nhân dân bám trụ ở Chiến khu Đ luôn căng thẳng do địch tàn phá và thiếu đói nhưng cán bộ, chiến sĩ rất lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cách mạng. Lại được sự lãnh đạo thường xuyên của trên nên công tác chính trị, văn hóa tinh thần lúc nào cũng được quan tâm. Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh hơn bất cứ lúc nào từ chi bộ cấp xã, chi bộ công pháo, các đoàn vũ trang tuyên truyền, các liên chi huyện đội bộ, tỉnh đội bộ đến các Tiểu đoàn 303, Tiểu đoàn 320, xưởng quân giới, nông trường sản xuất… Chi uỷ các xã Chánh Bình, Sông Lô, Cộng Hoà, Thanh Tâm được kiện toàn và phát triển thêm 20 đảng viên. Các tổ chứuc đoàn thể như nông hội, phụ nữ, thanh niên được chấn chỉnh một bước mới.

Đi đôi với công tác xây dựng Đảng, phong trào giáo dục văn hóa, văn nghệ cũng phát triển. Các căn cứ mở được 14 lớp bình dân học vụ. Đoàn văn công tỉnh Thủ Biên được thành lập, thường xuyên phục vụ các đơn vị bộ đội và sản xuất trong khu căn cứ. Hơn thế, còn tổ chức những đội xung kích đi phục bộ đội và đồng bào vùng tranh chấp. Những lời ca, điệu múa của văn công tuy mộc mạc đơn sơ, như “Mùa đông binh sĩ”, “Hành khúc Thăng Long”, “Nhớ chiến khu”… đã động viên khích lệ lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần khắc phục khó khăn, xả thân vì cách mạng, gây niềm phấn chấn lạc quan trong cán bọ, chiến sĩ và nhân dân. Các vở cải lương “Cánh tay Vương Tá”, “Hưng Đạo bình Nguyên”… rất được mọi người ưa thích. Nghe tin có văn công chiến khu biểu diễn, nhiều bà con ở vùng du kích, vùng địch tạm chiếm cũng lặn lội tìm đường đến xem…

Trong khu, đơn vị, cơ quan nào cũng tổ chức các đội văn nghệ “cây nhà lá vườn”, các đội bóng đá, bóng chuyền. Ngoài ra, sách báo văn nghệ cũng được ấn hành rộng rãi trong khu và lan ra cả vùng tranh chấp. Trong đó, tập thơ “Chiến khu Đ” của Khu phó Huỳnh Văn Nghệ và các bài thơi của nhà thơ Xuân Miễn như “An Phú Đông”, “Nhớ miền Đông”… được cán bộ chiến sĩ yêu thích tìm đọc hoặc chép tay truyền cho nhau.

Nhìn chung cuộc sống tinh thầ là một nét văn hóa khá đặc trưng của Chiến khu Đ và nó được tiếp nối phát triển theo cuộc kháng chiến như một thứ vũ khí góp phần chiến thắng kẻ thù.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:19:10 pm
Xin cho biết tình hình nhiệm vụ Chiến khu Đ khi cả nước chuẩn bị bước vào giai đoạn phản công quân Pháp?


Từ cuối năm 1953 trở đi, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đi dần vào ngõ cụt. Chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng đã bị ta làm phá sản hoàn toàn. Thế nhưng chúng vẫn rất ngoan cố, tranh thủ thêm viện trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm ra một “lối thoát danh dự” bằng thắng lợi quân sự.

Thực hiện kế hoạch Nava, địch ồ ạt bắt lính và xúc tiến âm mưu đánh chiếm vùng căn cứ của ta. Nhưng do bị động trên chiến trường toàn quốc, phải phân tán lực lượng đối phó nên chúng gặp hàng loạt khó khăn không thể khắc phục.

Xung quanh Chiến khu Đ, địch rút đi 3 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn cơ giới và rút một số đồn bót, tháp canh nhỏ. Tinh thần binh lính sa sút. Lực lượng còn lại chỉ đủ sức giữ các đường giao thông, các cửa ngõ xung yếu và tổ chức phân đội thọc vào căn cứ nhằm phá hoại các cơ sở sản xuất, kho tàng, cơ quan của ta rồi nhanh chóng rút lui.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục về “chuẩn bị đón thời cơ”, khuếch trương những chiến thắng quân sự, chính trị, kết hợp với chiến dịch địch nguỵ vận để phố hợp với chiến trường miền Bắc, đầu mùa khô năm 1953, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông đề ra ba nhiệm vụ chính:

-Giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích.

-Củng cố và mở rộng căn cứ địa.

-Đẩy mạnh công tác địch nguỵ vận.


Riêng đối với căn cứ địa Đồng Nai (Chiến khu Đ) có 6 nhiệm vụ:

-Tích cực mở rộng về phía trước, kiểm soát tới bờ sông Đồng Nai, giữ vững vùng phì nhiêu dọc sông và bảo đảm an toàn để dân chúng trở về tăng gian sản xuất, nâng cao mức sống trong căn cứ.

-Bảo đảm việc nối liền căn cứ Châu Thành và Lái Thiêu; căn cứ của Vĩnh Cửu là phá thế bao vây của địch. Phải tiến về đằng trước, tích cực sửa chữa tình trạng lùi mãi lên rừng sâu.

-Tiếp tục củng cố vùng sông Bé là chính, Lộc Ninh là phụ, tiến dần lên qua khỏi đường 14 để đảm bảo phía hậu phương vững chắc cho căn cứ và tiến tới nối thông được với cao nguêyn Trung Bộ.

-Đặc biệt căn cứ này nghèo nàn, bị địch phong toả, cần phải nắm vững chính sách và nghị quyết kinh tài. Tăng gia sản xuất, tiết kiệm, biên chế giản chính gọn nhẹ, tăng thu giảm chi đúng mức và mở rộng mậu dịch với vùng du kích và tạm bị chiếm.

-Thi hành đúng chính sách dân tộc thiểu số của Đảng và Chính phủ. Căn cứ này có 70.000 đồng bào dân tộc thiểu số ở phía hậu cứ, là một lực lượng quan trọng cần phải tranh thủ. Công tác dân tộc thiểu số cần có kết quả là giữ vững và mở rộng được căn cứ, đồng thời uy hiếp hệ thống giao thông quan trọng của giặc.

-Sau cùng là phải đảm bảo việc giao thông với căn cứ Hớn Quản, Long Nguyên và Dương Minh Châu, dần dần nối liền các căn cứ này lại với nhau.

Những nhiệm vụ này là nội dung nghị quyết chuyên sâu đầu tiên về căn cứ địa ở Nam Bộ. Sự ra đời của nghị quyết đã kịp thời uốn nắn những quan niệm chưa đủ, chưa đúng về vị trí, nội dung, phương pháp xây dựng căn cứ trước đó, chỉ dẫn công tác củng cố và mở rộng căn cứ được tiến hành thuận lợi, đúng hướng, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ tạo thế tạo lực phối hợp với chiến trường chính tại Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:19:41 pm
Chiến dịch địch nguỵ vận trong giai đoạn cuối ở Chiến khu Đ đã góp phần vào thắng lợi chung của cả nước?


Thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục, phối hợp nhị nhàng với chiến trường miền Bắc, miền Trung và Lào, bộ đội và nhân dân Chiến khu Đ đã tập trung mũi tấn công địch nguỵ vận đi đôi với tác chiến đánh địch hỗ trợ phong trào chính trị, binh vận trong vùng.

Bộ đội địa phương Đồng Nai cùng với các đội binh chủng chuyên mông trinh sát, quân báo tỏa ra hoạt động vùng ven căn cứ, hỗ trợ các xã ấp, góp phần biến các vùng du kích xung quanh căn cứ thành vùng độc lập, tạo ra một “vành đệm” bảo vệ Chiến khu Đ.

Trong khi đó, Tiểu đoàn tập trung 303 phối hợp với bộ đội địa phương các huyện Tân Uyên, Vĩnh Cửu, Bến Cát, Châu Thành, Lái Thiêu, Thủ Đức sôi nổi hoạt động vũ trang với các trận chống càn ở Long Nguyên, Thanh An, Thanh Tuyền, Rừng Sác, Chiến khu Thuận An Hoà… phục kích địch trên các đường 13, 14, 16, quốc lộ 1; tập kích, pháo kích các đồn ở Lạc An, đồi Bà Cẩm, Uyên Hưng, Tân Ba, thị trấn Bến Cát, Rạch Bắp, Bến Súc, Rạch Kiến, Rinét, thị trấn Lái Thiêu, sân bay Biên Hoà.

Thắng lợi của đòn tiến công quân sự đã tạo điều kiện cho chiến dịch địch nguỵ vận thu nhiều kết quả. Tại chiến khu, bộ đội và nhân dân tham gia tuyên truyền vận động nguỵ binh bỏ hàng ngũ địch, về nhà làm ăn hoặc quay súng bắn giặc, trở về hàng ngũ kháng chiến; thực hiện 4 không: không cướp phá, không bắn giết, không bắt bớ, không hãm hiếp. Nhiều hình thức tuyên truyền vận động như treo khẩu hiệu, lập trạm thông tin ở các ngả đường có địch đi lại, cắm áp phích vào bè thả trôi trên sông, gửi thư tay, quà bán kèm theo truyền đơn… đã thức tỉnh được bọn địch trong cơn rệu rã, suy sụp tinh thần. Kết quả ở huyện căn cứ Đồng Nai, ta vận động được trên 500 lính nguỵ bỏ hàng ngũ về làm ăn, 17 tên mang 21 súng ra đầu hàng cách mạng.

Các đội võ trang tuyên truyền hoạt động ở các huyện xung quanh căn cứ thuyết phục được nhiều thanh niên không đi lính cho Pháp; phát triển cơ sở, vận động đồng bào trở về căn cứ. Hơn 300 người từ Chiến khu Đ trước đây lánh về vùng địch tạm chiếm, nay trở lại chiến khu sinh sống, tiếp tục ủng hộ kháng chiến.

Do tình hình thất bại trên chiến trường chung cả nước, nhất là ở mặt trận Điện Biên Phủ, tinh thần binh sĩ địch ở trong vùng suy giảm tệ hại. Đến mức nhiều vùng địch tạm chiếm trở thành vùng du kích, vùng du kích trở thành vùng tự do. Các hành lang từ Chiến khu Đ sang Long Nguyên, Dương Minh Châu về Vĩnh Cửu, Long Thành, Bà Rịa lên Đồng Xoài mở ra thông suốt.

Ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị thất thủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Tin chiến thắng lan nhanh làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:35:21 pm
Có phải chiến tranh kết thúc là lúc Chiến khu Đ chuẩn bị tư thế bước vào một giai đoạn mới?


Ngày 21-7-1954, Hiệp định Geneva được ký kết, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và cả Đông Dương. Sau 9 năm trường kỳ gian khổ kháng chiến, quân và dân ta đã đánh bại thực dân Pháp, giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Theo hiệp định, miền Bắc giải phóng hoàn toàn; miền Nam (kể từ vĩ tuyến 17 trở vào) tạm thời đặt dưới sự kiểm soát của địch. Sau 2 năm sẽ hiệp thương tuyển cử thống nhất đất nước.

Tuy nhiên, do phương tiện thông tin thô sơ, tin đình chiến đến Chiến khu Đ không đều khắp, nên mặc dù đã có lệnh ngừng bắn toàn bộ trên chiến trường, nhưng đây đó vẫn còn tiếng súng nổ. Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông và tỉnh uỷ Thủ Biên kịp thời truyền đạt những nội dung cơ bản của hiệp đinh xuống từng đơn vị cơ sở, phổ biến nhiệm vụ sắp tới, chỉ đạo kế hoạch thực hiện việc tập kết chuyển quân và cất dấu vũ khí, sắp xếp cán bộ ở lại tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi địch thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Geneva, tiến tới hiệp thương thống nhất đất nước.

Chiến khu Đ trở thành một địa điểm tập trung của lực lượng vũ trang tại chỗ tỉnh Thủ Biên để sắp xếp lực lượng, từ đó hành quân xuống khu vực Hàm Tân, Xuyên Mộc, tập kết ra miền Bắc.

Huyện căn cứ Đồng Nai được giao nhiệm vụ chuẩn bị trạm tiếp đón ăn nghỉ, học tập, chờ đợi và chuẩn bị khẩu phần lương thực, thực phẩm đi đường cho hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ, thương binh, bệnh binh tập kết. Vùng Bà Đã, Nhà Nai trở nên rộn rịp tấp nập. Tiểu đoàn 320 lo việc vận chuyển thương binh, đưa đường cho các đoàn từ Chiến khu Đ về kv tập kết an toàn.

Cùng lúc đó, hàng trăm cán bộ được học tập xác định tư tưởng ở lại bám trụ địa bàn để tiếp tục cuộc đấu tranh trong tình hình mới. Công tác bàn giao các kho tàng hậu cần, tài liệu, các trại sản xuất chưa thu hoạch… được tiến hành chu đáo. Riêng về vũ khí, do Chiến khu Đ là nơi tập trung chuyển quân trong thời hạn rất ngắn, nên nhiều người chọn vũ khí tốt mang đi; việc cất dấu bị trở ngại, về sau mới được hoàn tất.

Ngày 15-8-1954, tại Bà Đã đã diễn ra cuộc mít tinh lớn chào mừng thắng lợi cuộc kháng chiến. Lần đầu tiên giữa lòng Chiến khu Đ, dưới bầu trời cao rộng, hàng ngàn con người từng gắn bó máu thịt với vùng căn cứ ác liệt này đã hát vang bài “Tiến quân ca”. Ai nấy bùi ngùi nhớ lại biết bao đồng chí, đồng bào đã ngã xuống cho thắng lợi hôm nay. Những tên đất tên người và 3 tiếng: “Chiến khu Đ” đã khắc ghi vào lòng người một biểu tượng rực rỡ tự hào, đánh dấu một giai đoạn lịch sử chống xâm lược trên miền đất anh hùng.

Sau những giờ phút chung vui đầy xúc động là cuộc chia tay vô cùng lưu luyến giữa người đi kẻ ở. Trước mắt họ còn bao nhiệm vụ nặng nề. Người ra đi hứa quyết tâm học tập để trở về xây dựng quê hương. Người ở lại xác định trách nhiệm chuẩn bị mọi mặt cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, chắc chắn sẽ nhiều gay go gian khổ.

Ngày 2-9-1954, đoàn quân cuối cùng sau khu sự lễ quốc khánh đã rời Chiến khu Đ, xuống tàu ra miền Bắc.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:35:52 pm
Xin cho biết tình hình sau khi lực lượng ta rời khỏi Chiến khu Đ, tập kết ra Bắc theo Hiệp định Geneva?


Có thể nói sau ngày 2-9-1954, Chiến khu Đ trở nên vắng lặng, gần như trả lại cho thiên nhiên miền sơn cước. Một cuộc chia tay không tiền khoáng hậu.

Tại Chiến khu Đ, không còn lực lượng vũ trang cách mạng, không còn chính quyền và đoàn thể quần chúng. Số còn lại đa số là cán bộ dân, chính, đảng được bố trí ở lại đều bám vào dân, sống “hợp pháp” để xây dựng cơ sở và hoạt động. Hình ảnh những ngày sống và chiến đấu gian khổ, đậm đà tình đồng chí, tình quân dân thắm thiết in sâu và ký ức của những người dân vùng căn cứ.

Với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa, đế quốc Mỹ dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và bắt đầu đánh phá phong trào cách mạng miền Nam.

Ngay từ khi thay chân thực dân Pháp, giặc Mỹ đã nhận thức Chiến khu Đ là một căn cứ cách mạng nguy hiểm uy hiếp trực tiếp các cơ quan đầu não của chúng ở Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Do vậy, một trong những mục tiêu hàng đầu của Mỹ-Nguỵ là triệt phá, chia cắt Chiến khu Đ và các căn cứ quan trọng khác của ta ở miền Đông.

Sau khi lực lượng ta vừa rút khỏi căn cứ, tập kết về Ham Tân, Xuyên Mộc chuẩn bị xuống tàu ra Bắc, địch lập tức tràn vào Chiến khu Đ. Chúng nhanh chóng xây dựng bộ máy tề nguỵ, xây dựng đồn bót, tổ chức các đội bảo an, dân vệ để khống chế, kềm kẹp nhân dân trong vùng.

Trong 2 năm 1954-1955, Mỹ-Nguỵ đã cưỡng bức hơn 150 ngàn đồng bào theo đạo Thiên Chúa bị chúng lừa gạt dụ dỗ từ miền Bắc vào, bố trí định cư dọc quốc lộ 1, đường 15, 20-cửa ngõ Sài Gòn và ngoại vi Chiến khu Đ. Ngay trong vùng căn cứ, chính quyền Diệm bố trí gần 1 vạn đồng bào Thiên Chúa giáo di cư (vốn là dân 2 tỉnh Thái Bình và Hưng Yên), thành lập xã Thái Hưng (thuộc xã Lạc An, huyện Tân Uyên-vùng ruột Chiến khu Đ). Hàng loạt dinh điền được địch lập lên ở Khánh Vân, Xóm Sình, Bà Đã, Ván Hương, bàu Cá Trê, Nước Vàng… Ở phía nam Chiến khu Đ, địch cho bọn tư sản và công chức cao cấp lập nhiều trại Be (xe be chở gỗ) để khai thác lâm sản, nhưng mục đích chính là phá rừng, ủi mở đường. Nhiều lộ ủi mang tên Trần Lệ Xuân (vợ của Ngô Đình Nhu, em tổng thống bù nhìn Ngô Đình Diệm) cắt ngang xẻ dọc chiến khu nhằm phục vụ việc kiểm soát lực lượng của ta và phá huỷ vùng căn cứ kháng chiến.

Tháng 9-1959, địch thành lập tỉnh Phước Thành gồm 3 quận: Phú Giáo, Hiếu Liêm, Tân Uyên. Phước Thành cùng các chi khu, tiểu khu Châu Thành, Bình Long, Phước Long, Đồng Xoài, Lộc Ninh… tạo thành một hệ thống căn cứ quân sự liên hoàn bao vây, chia cắt Chiến khu Đ với nam Tây Nguyên, đồng thời tạo thành tuyến phòng thủ ở hướng đông và đông bắc cho “thủ đô” Sài Gòn của chúng. Đây cũng là nơi xuất phát các cuộc hành quân để đánh phá Chiến khu Đ.

Nhìn chung hình thái Chiến khu Đ sau Hiệp đinh Geneva: ta chấp hành nghiêm chỉnh các điều khoản hiệp định với thiện chí đi đến thống nhất Tổ quốc, còn địch thì ra sức phá hoại hiệp định với âm mưu đen tối là chia cắt đất nước Việt Nam; do đó ngay từ đầu thực thi hiệp định chúng đã công khai việc đánh phá Chiến khu Đ nhằm trừ “hậu họa” cho chúng sau này. Quả đối thủ của ta rất gian manh, tàn bạo, mưu lược, chứ không tầm thường, báo hiệu một cuộc chiến khốc liệt gấp nhiều lần sẽ xảy ra ở Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:36:22 pm
Có phải khi địch ra tay, Chiến khu Đ một lần nữa trở thành nơi hội tụ lực lượng cách mạng?


Ở miền Nam, tháng 7-1956, thực hiện những âm mưu đen tối, chính quyền Diệm mở chiến dịch Trương Tấn Bửu nhằm tiêu diệt các chiến sĩ cộng sản, những người yêu nước và kháng chiến trở về. Lúc này do ta tin tưởng vào Hiệp định Geneva, công khai hợp pháp trong dân nên bị địch khủng bố dã man mà không được chống lại do chưa có lệnh của trên. Hàng loạt cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước bị địch bắt và giết hại khắp nơi. Ở miền Đông Nam Bộ, số cán bộ, đảng viên được giao ở lại và những người yêu nước đã thoát ly gia đình thoát khỏi sự truy lùng của chiến dịch diệt cộng chạy bào chiến khu, dựa vào rừng núi để hoạt động. Ở Chiến khu Đ, nhiều đảng viên phải lánh vào các phum sóc của đồng bào dân tộc Stiêng, Châuro, Mạ… ở Lý Lịch, Bù Cháp, Boxompo tạo địa bàn hoạt động. Đồng chí Chín Quỳ, một cán bộ đảng viên được bố trí ở lại miền Nam, hiểu rành địa bàn rừng núi chiến khu, trước sự khủng bố trắng trợn của địch, đã quy tụ một số anh em kháng chiến cũ vào rừng chiến khu tổ chức sản xuất và tìm cách cướp súng địch, tái vũ trang, bí mật diệt ác ôn. Đồng chí Lê Thanh (sau này là Trung tướng Phó tư lệnh bộ đội Biên phòng) và đồng chí Lâm quốc Đăng (sau này là đại tá Phó tư lệnh Phân khu 1) cũng vận động được một số thanh niên trốn lính vào rừng núi sản xuất, lánh né địch, manh nha xây dựng cơ sở cho lực lượng vũ trang cách mạng sau này.

Ngày 2-12-1956, đồng chí Bảy Tâm bí thư Đảng uỷ nhà lao Tân Hiệp (Biên Hoà) sau khi bắt được liên lạc với Tỉnh uỷ, đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước bị đích giam giữ, nổi dậy cướp súng, vượt ngục. Trong cuộc đào thoát dũng cảm này, 21 người đã hi sinh trước cửa trại giam. Khi đến rừng Tân Định (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu), Đảng uỷ quyết định phân tán đoàn, mỗi tỉnh sẽ lập một chi bộ 8 đồng chí ai về địa phương nấy, tiếp tục hoạt đông. Tỉnh uỷ Biên Hoà đã kịp thời cử nhiều cán bộ đón các đoàn dọc theo tả ngạn sông về Chiến khu Đ an toàn. Số cán bộ này được tăng cường cho các tổ chức Đảng và lực lượng vũ trang cách mạng đang nhen nhóm trở lại ở Chiến khu Đ.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chiến khu Đ là một trong những cái nôi của cách mạng miền Đông Nam Bộ; bước sang thời chống Mỹ, với địa hình lý tưởng rừng rậm điệp trùng và chỉ cách sào huyệt kẻ thù ở Sài Gòn 30km, Chiến khu Đ sẽ là nơi phát triển lực lượng cách mạng và là một bàn đạp tiến công ở các đô thị miền Đông, nhất là vị trí trung tâm đầu nào Sài Gòn.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:37:00 pm
Chiến khu Đ có ý nghĩa thế nào đối với việc tái xây dựng lực lượng vũ trang?


Trong hoàn cảnh hết sức bức xúc, tháng 12-1956, căn cứ vào “Đề cương cách mạng miền Nam” do đồng chí Lê Duẩn soạn thảo, Xứ uỷ Nam Bộ họp đánh giá tình hình cách mạng miền Nam, trong một chừng mực nào đó cần phải có lực lượng tự vệ võ trang tuyên truyền hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng lực lượng vũ trang đó để làm cách mạng đánh đổ Mỹ-Diệm… Xứ uỷ quyết định: “… Tích cực xây dựng lực lượng võ trang tuyên truyền, lập các đơn vị vũ trang bí mật, xây dựng căn cứ miền núi…”. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến được Xứ uỷ cử về miền Đông để thực hiện nhiệm vụ thống nhất các lực lượng vũ trang. Hai đồng chí Lê Thanh và Lâm Quốc Đăng phụ trách việc xây dựng căn cứ trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.
Đến năm 1957, miền Đông Nam Bộ đã hình thành 2 vùng căn cứ lớn: căn cứ đông bắc gần Chiến khu Đ cũ được mở rộng lên giáp biên giới Việt Nam-Campuchia, sau gọi là Chiến khu A. Vùng căn cứ tây bắc gồm căn cứ Dương Minh Châu và vùng rừng núi Tây Ninh, sau gọi là Khu B. Khu căn cứ Thị Tính, long Nguyên (Bến Cát) goi là khu C. Các căn cứ núi Mây Tàu, Hắc Dịch, Rừng Sác, Lạc An Ngà là khu E. Từ Chiến khu Đ (khu A), liên lạc đường bộ được nối thông với các căn cứ.

Để bảo đảm đời sống, lực lượng Bình Xuyên ly khai khoảng 200 quân đóng ở Mã Đà, Bàu Phụng (hợp tác với ta chống Diệm), ngay những ngày đầu được cán bộ, chiến sĩ ta hướng dẫn đã thực hiện nhiều biện pháp như săn bắn thú rừng, khai thác lâm sản đổi lương thực… Trong năm 1956, lực lượng ta triển khai được 4 khu vực sản xuất ở vùng suối Linh và nhiều lần tổ chức tiến công một số mục tiêu của địch để giải quyết vấn đề tài chính, lương thực, vũ khí là những thứ rất bức thiết lúc này.

Mang danh nghĩa “bộ đội Bình Xuyên”, ngày 20-10-1956, lực lượng ta đánh sân bay Bến Củi, thu được 5 xe vận tải gạo, gần 2 triệu đồng (tiền nguỵ) và nhiều vũ khí…

Đầu năm 1957, Đảng uỷ trong lực lượng Bình Xuyên được thành lập. Đồng chí Phạm Văn Thhuận (nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Biên Hoà) được cử làm bí thư Đảng uỷ, đồng chí Lâm Quốc Đăng phó bí thư Đảng uỷ phụ trách quân sự. Lực lượng Bình Xuyên biên chế thành 3 đại đội, được trang bị khá mạnh gồm 2 đại liên Mácxim, 8 trung liên, 70 tiểu liên, 10 súng trường, 1 khẩu moócchê và 2 khẩu ĐKZ.

Đảng uỷ đơn vị đã liên lạc với các cấp uỷ địa phương tỉnh Biên Hoà và Thủ Dầu Một để vận động lương thực nuôi lực lượng, đồng thời tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng để từng bước chuyển hóa lực lượng này thành lực lượng vũ trang cách mạng. Bên cạnh đó, Đảng uỷ đã bí mật tổ chức một lực lượng vũ trang thành phần gồm những đảng viên, cốt cán cách mạng làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang ở căn cứ Đông Bắc.

Cũng trong thời gian này, một số cán bộ, đảng viên ở Biên Hoà bị địch khủng bố đã về Chiến khu Đ phối hợp với lực lượng vũ trang của đồng chí Chín Quỳ hình thành đội vũ trang lấy phiên hiệu C250. Đây là một trong những đơn vị tiền thân quan trọng của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ sau này. Đội vũ trang C250 do đồng chí ba Viên làm đội trưởng, đồng chí Năm Hoà làm đội phó, đồng chí Nguyễn Văn Luông (Sáu Phát) Tỉnh uỷ viên Biên Hoà làm chính trị viên.

Đến giữa năm 1957, Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một phối hợp với Đảng uỷ lực lượng vũ trang Bình Xuyên của các đồng chí Chín Quỳ, Năm Thành, Sáu Chắc, ba Tiền vào Vĩnh Lợi (phía tây Chiến khu Đ) thu phục được đảng cướp “Rừng Xanh” do Tám Liễu và Út Bời chỉ huy. Nhiều người trong đảng cướp này sau đó trở thành các chiến sĩ cách mạng.

Sự chỉ đạo của Đảng uỷ và thắng lợi của lực lượng vũ trang tấn công địch ở đồn điền cao su trại Be… đánh dấu một bước phát triển của lực lượng vũ trang cách mạng trên địa bàn chiến khu, bước đầu phá vỡ âm mưu của địch nhằm bao vây, chia cắt Chiến khu Đ, góp phần giải quyết một phần khó khăn lương thực cho lực lượng tại đây.

Tháng 10-1957, Xứ uỷ cử đồng chí Lê Thành Công tập hợp những đồng chí cốt cán kết hợp với lực lượng địa phương Tây Ninh thành lập đại đội vũ trang ở Bàu Rã, lấy phiên hiệu C60. Đây là một trong những đơn vị đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Đông; lấy thành phần nòng cốt để xây dựng phát triển nhiều đơn vị sau này như C50, C80…

Cùng với việc tái lập và phát triển lực lượng vũ trang, Chiến khu Đ bước đầu được khôi phục, là địa bàn xs lực lượng vũ trang của Xứ, nơi đứng chân của nhiều đơn vị vũ trang tập trung như: C50, C70, C80, C250…


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:37:27 pm
Xin cho biết trận đánh mở đầu cho thời kỳ tái lập Chiến khu Đ?


Để đáp ứng yêu cầu mở rộng căn cứ làm chỗ dựa cho việc phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, tháng 8-1958, Xứ uỷ thành lập Ban quân sự và Đảng uỷ lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ. Đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến uỷ viên quân sự Xứ uỷ được phân công kiêm nhiệm vụ Trưởng ban quân sự miền Đông. Đảng uỷ lực lượng vũ trang gồm các đồng chí: Mai Chí Thọ, Nguyễn Việt Hồng, Mai Trọng Nhân.

Trước tình hình các đơn vị vũ trang phát triển, nhưng vũ khí, lương thực lại thiếu gat gắt, Ban quân sự và Đảng uỷ lực lượng miền Đông, được Xứ uỷ đồng ý, đã quyết định tổ chức một trận đánh lớn nhằm gây thối động tinh thần địch, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị, đồng thời giải quyết vấn đề tài chính, lương thực cho lực lượng trong căn cứ.

Chi khu quân sự Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một) được chọn làm mục tiêu trânh đánh.

Chi khu quân sự nằm trong sở cao su Dầu Tiếng cách Sài Gòn khoảng 70km còn gọi là chi khu Trị Tâm. Dầu Tiếng là quận được địch công nhận đã được bình định. Lực lượng địch tại đây có 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 43, 1 đại đội và 1 trung đội bảo an cùng với các đơn vị cảnh sát, bảo an, dân về, tề điệp… khoảng trên 900 tên.

Tham gia trận đánh gồm C60, C80, C90 và các đơn vị vũ trang tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hoà do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến làm chỉ huy trưởng. Chiến khu Đ là nơi tập kết quân, huấn luyện và chuẩn bị hậu cần cho các lực lượng tham gia chiến đấu.

Theo phương án kế hoạch đã định, 24 giờ ngày 10-8-1958, lực lượng ta chia làm 3 mũi tập kích vào các mục tiêu trong chi khu. Sau 30 phút nổ súng, các đơn vị chiếm toàn bộ căn cứ tiểu đoàn của địch và nhà tên chủ cao su. Đến 2 giờ 30 phút sáng 11-8, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, kể cả khu vực hành chính quận, diệt 300 tên, bắt 200 tên giáo dục, thả tại chỗ, thu 650 súng các loại, 12 tấn đạn, 5 xe, nhiều quân trang quân dụng, 1,5 triệu tiền nguỵ và 500 đô la.

Chiến thắng Dầu Tiếng gây tiếng vang lớn trên toàn miền Nam. Lần đầu tiên sau năm 1954, lực lượng vũ trang miền Đông tiêu diệt một căn cứ quân sự cấp quận của địch. Chiến thắng Dầu Tiếng đã khai thông liên lạc giữa căn cứ Đông và Tây, đồng thời tạo điều kiện cho Xứ uỷ về đứng chân ở vùng căn cứ miền Đông để chỉ đạo phong trào cách mạng.

Sau thắng lợi ở Dầu Tiếng, Ban quân sự và Đảng uỷ quân sự miền Đông thành lập một đơn vị vũ trang phát triển hoạt động về hướng đông căn cứ Chiến khu Đ với nhiệm vụ giữ đất, giữ dân, nhất là đồng bào dân tộc, tạo điều kiện đứng chân lâu dài cho cách mạng và cơ quan lãnh đạo miền Đông.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:37:52 pm
Đặc công Chiến khu Đ là đơn vị đầu tiên trừng trị bọn cố vấn Mỹ?


Mỹ-Nguỵ đẩy mạnh cuộc chiến tranh đơn phương đánh phá quyết liệt phòng trào cách mạng miền Nam. Tình hình miền Nam rất đen tối, cơ hồ lực lượng kháng chiến cũ và những người yêu nước bị dìm vào biển máu. Chính sách “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” của gia đình họ Ngô, mặc sức cho chúng lộng hành bắn giết, đốt phá. Cao điểm của sự đàn áp dã man là Luật 10/59 do chúng đặt ra. Máy chém được lê đi khắp nơi giết hại cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước, gây nên bao cảnh tham khốc đau thương. Tình hình vô cùng bức xúc ngột ngạt. Không thể ngồi yên nhìn bọn giặc hoành hành. Cần phải đánh một đòn trừng trị tội ác Mỹ-Nguỵ, động viên tinh thần ý chí quật khởi của nhân dân, Ban quân sự Miền quyết định tấn công vào bọn cố vấn quân sự Mỹ MAAG đang đóng trụ sở tại nhà máy cưa BIF (Biên Hoà).

Một phân đội đặc công do đồng chí Năm Hoà chỉ huy đứng chân tại Chiến khu Đ được giao nhiệm vụ này. Công tác điều nghiên mục tiêu và huấn luyện tác chiến được tiến hành khẩn trương. Thị uỷ Biên Hoà phối hợp chặt chẽ với phân đội đặc công, bố trí cho phân đội trú cứ trong nhà má Nguyễn Thị Xuân ở Gò Me để trinh sát nắm địch.

Thực hiện phương án chiến đấu, phân đội đặc công hoá trang thành lính đi tuần, từ Chiến khu Đ vượt sông Đồng Nai, bí mật đột nhập thị xã Biên Hoà.

Đêm 7-7-1959, khi toán lính bảo vệ vừa đi từ nhà máy cưa về hướng suối Sơn Máu, các chiến sĩ đặc công nhanh chóng tiếp cận và bất ngờ nổ súng vào trụ sở đoàn cố vấn Mỹ trong lúc chúng đang tập trung xem chiếu bóng. Địch không kịp chống trả, 2 cố vẫn Mỹ bị diệt và 11 tên khác bị thương.

Đây là trận tiêu diệt Mỹ đầu tiên ở miền Nam. Trận đánh thắng lợi trong lúc địch tiến hành khủng bố ác liệt phong trào cách mạng, có ý nghĩa rất lớn về mặt chính trị, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của nhân dân; cũng là đòn cảnh cáo đối với bọn cố vấn Mỹ đang âm mưu can thiệp sâu vào miền Nam Việt Nam.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:38:31 pm
Trận Tua 2 đã tác động mạnh mẽ đến vùng Chiến khu Đ?


Trong cơn ngột ngạt do sứap bức nặng nề của Mỹ-Nguỵ, Nghị quyết 15 (1-1959) của Trung ương đến với miền Nam như một luồng gió mới “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân” và “cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có thể chuyển thành một cuộc đấu tranh võ trang trường kỳ…”.

Tháng 11-1959, sau khi họp quán triể Nghị quyết 15 của Trung ương, Xứ uỷ họp bàn về công tác vũ trang và quyết định tổ chức một trận đánh lớn nhằm thúc đẩy phong trào kết hợp với vũ trang trong toàn Miền. Căn cứ Tua 2 của địch ở Tây Ninh được chọn làm mục tiêu trận đánh. Đại đội 59 và 80 của Chiến khu Đ được điều động phối hợp thực hiện trận tấn công quan trọng này.

Đêm 25 rạng ngày 26-1-1960, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến kết hợp với nội tuyến, các đơn vị dũng mãnh tiến công căn cứ Tua 2. Trận đánh diễn ra thuận lợi. Ta nhanh chóng diệt địch, thu nhiều vũ khí và rút lui an tòn. Cánh quân rút về Chiến khu Đ mang theo 1.500 khẩu súng lấy được trong Tua 2.
Chiến thắng Tua 2 như sấm sét mở đầu phá tan đêm tối ở miền Nam, là sự kiện nổi bật có ý nghĩa về quân sự và chính trị trong toàn Miền, làm dấy lên phong trào đồng khởi long trời lở đất ở miền Nam, mở đầu một giai đoạn mới của cuộc đấu tranh chống Mỹ-Nguỵ.

Sau trận Tua 2, phong trào quần chúng nổi dậy kết hợp vũ trang diệt ác phá kềm ở Chiến khu Đ phát triển mạnh. Trên cả hai hướng tây và tây nam, lực lượng vũ trang huyện Phú Giáo, Tân Uyên phối hợp với nhân dân truy lùng trừng trị bọn ác ôn, tiến công các trụ sở tề xã, ấp, làm tan rã bộ máy tay sai của địch ở cơ sở. Dy kích xã Tân Phước Khánh dùng mìn đánh giao thông địch, diệt nhiều xe Jeép, giết chết quận trưởng Tân Uyên. Cán bộ và nhân dân trong căn cứ tổ chức nhiều hình thức phong phú trấn áp và hạ uy thế địch như cảnh cáo chúng bằng thư, mở toà án nhân dân xét xử bọn có tội với đồng bào.

Hàng trăm thanh niên yêu nước phần lớn từ Sài Gòn và các vùng nông thôn miền Đông thoát ly gia đình vào căn cứ xin gia nhập lực lượng vũ trang. Xứ uỷ điều tra hơn 500 tân binh từ miền Trung và miền Tây Nam Bộ tăng cường cho miền Đông để chuẩn bị thành lập bộ đội chủ lực tập trung. Để đảm bảo lương thực nuôi quân, Đảng uỷ và Ban quân sự miền Đông quyết định dùng lực lượng C200 làm chủ công đánh vào quận lỵ Đức Phong (Bù Đăng-Sa Ray) nằm trên đường 14 từ Đồng Xoài đi Tây Nguyên. Ở đây có một kho gạo lớn của địch.

Từ Chiến khu Đ, C200 xuất phát vượt dốc Tam Cấp, băng rừng tiến về mục tiêu. 4 giờ 30 phút ngày 29-6-1960, đơn vị nổ súng tấn công. Bị bất ngờ, bọn địch trong quận lỵ chống trả yếu ớt rồi rút chạy. Thừa cơ, lực lượng tân binh tiến vào dinh điền chiếm kho gạo và khu thực phẩm. Sau khi đánh lui cánh quân địch tiếp viện cho Đức Phong, lực lượng ta rút về căn cứ an toàn, mang theo gần 18 tấn gạo cùng 20 khẩu súng các loại, trong đó có 2 khẩu trung liên.

Tiếp theo, lực lượng vũ trang miền Đông và bộ đội địa phương tỉnh Phước Long tổ chức tiến công giải tán các dinh điền dọc đường 14, diệt các chốt của địch cắm sâu trong căn cứ. Các tuyến đường trong căn cứ được nối thông.

Trên cơ sở phát triển lực lượng vũ trang và đánh thắng liên tiếp nhiều trận, tháng 7-1960, Bộ chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng miền Đông (còn gọi là T1) được chính thức thành lập và đặt cơ quan lãnh đạo, chỉ huy tại suối Linh (goi là căn cứ 820) thuộc Chiến khu Đ. Khu uỷ miền Đông do đồng chí Mai Chí Thọ làm bí thư, đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến giữ chức chỉ huy trưởng, đồng chí Lâm Quốc Đăng làm chỉ huy phó. Đây là một “cột mốc” quan trọng của Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:39:03 pm
Sau đồng khởi ở miền Nam, đường mòn Hồ Chí Minh được nối vào miền Đông và Chiến khu Đ ở trở thành “ttrạm trung chuyển”?


Đường Trường Sơn còn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh là “huyết mạch” vô cùng quan trọng đối với miền Nam, đặc biệt là chiến trường Nam Bộ. Bộ Chính trị và Trung ương Đảng quyết định mở tuyến đường xuêyn Trường Sơn vào Nam vào tháng 5-1959, nên còn gọi là “Đường dây 559”.

Để nhanh chóng chi viện sức người sức của cho miền Nam đánh Mỹ, ngoài việc tổ chức mở đường từ phía Bắc vào, Trung ương Đảng đã lần lượt cử các đoàn cán bộ gồm các đồng chí miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, nay”xoi đường” trở về Nam để liên lạc với Xứ uỷ Nam Bộ. Đoàn cán bộ làm nhiệm vụ xoi đường đầu tiên gồm 25 người, do đồng chí Phạm Lạc làm trưởng đoàn, đồng chí Phùng Đình Ấm (Thiếu tướng-nhà văn Phùng Đình Cung) làm phó đoàn, đồng chí Nguyễn Văn Phước bí thư chi bộ. Tháng 7-1960, khi vào đến Đắc Lắc, đoàn chia làm 2 đoàn nhỏ tiếp tục cắt rừng dò đường về miền Đông.

Nhận được điện của Trung ương, Xứ uỷ và Khu miền Đông đã cử 2 đại đội vũ trang từ Chiến khu Đ cắt rừng theo hai hướng bắc và đông bắc để đón các đồng chí xoi đường từ miền Bắc vào, đồng chí thời nối thông hành lang từ Chiến khu Đ ra nam Tây Nguyên. Đoàn mở đường ở hướng bắc do đồng chí Lâm Quốc Đăng và Phạm Văn Thuận chỉ huy, từ Mã Đà lên Bãi Bằng, Phước Sang, vượt đường 14 lên Phú Riềng, qua các sở cao su… lên Đa Kia, Bù Đốp. Một cánh khác của đoàn này mở đường lên sóc Bombo qua Bù Gia Mập, Bù Gia Phúc đến Bù Đăng. Vừa hành quân, đơn vị vừa làm tuyên truyền giáo dục, xây dựng cơ sở  trong đồng bào dân tộc để tổ chức các trạm liên lạc vận chuyển sau này.

Ở hướng đông bắc, đoàn mở đường gồm có 18 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Hồng Sơn chỉ huy, Nguyễn Trọng Tâm uỷ viên. Trong đoàn có 1 tổ điện đài 2 người, 1 đồng chí cơ yếu (dịch mật mã điện) và 1 y sĩ. Đoàn xuất phát từ suối Nhung, đi cặp theo sông Đồng Nai thượng đến Bù Ta Go ra hướng Lâm Đồng. Đường đi vất vả gian nan, phải cắt rừng để bảo đảm bí mật, 2 tháng mới đến điểm hẹn, trong khi lương thực mang theo chỉ đủ 15 ngày ăn. Vì thế gạo để đành nấu cháo cho người bệnh, muối phải chia ra từng hạt cho mỗi người. Phải bẻ măng tre, kiếm rau rừng, đào củ… ăn thay cơm.

Cuối tháng 8-1960, đoàn tới được ngã ba vàm suối Đatơri nhưng không gặp đoàn xoi đường từ miền Bắc vào. Theo điện của Trung ương từ đài căn cứ chuyển đến, anh em biết đoàn xoi đường đã đến điểm hẹn, nhưng không gặp người đón, lại hết lương thực nên quay trở ra. Xứ uỷ chỉ đạo phải ở lại chờ đoàn vào. Và thật may mắn, lúc 16 giờ ngày 30-10, qua ám hiệu (được điện báo từ trước), hai đoàn cán bộ từ Trung ương và khu miền Đông đã gặp nhau tại vàm suối Đatơri (ngang với địa điểm Sania).

Trong lúc đó, vào tháng 12-1960, ở hướng bắc đội vũ trang tuyên truyền của Xứ uỷ đã bắt được liên lạc với đoàn xoi đường của Trung ương tại Km 5 đường 14B.

Con đường chiến lược Trung uơng-Nam Bộ từ Trường Sơn vào miền Đông Nam Bộ đã được khai thông. Chiến khu Đ trở thành “trạm trung chuyển” đón nhận cán bộ, bộ đội, vũ khí, trang bị, lương thực, thực phẩm… của hậu phương lớn miền Bắc gửi vào chiến trường Nam Bộ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:39:45 pm
Có phải Chiến khu Đ là nơi thành lập Trung ương Cục-Trung tâm chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam?

Sau đồng khởi, cách mạng miền Nam bước sang một giai đoạn mới, buộc địch phải bỏ chiến tranh đơn phương chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Tháng 1-1961, Bộ Chính trị ra nghị quyết về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: “Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng ta về cả hai mặt chính trị và quân sự… đấu tranh chính trị mãnh mẽ… tích cực tiêu diệt sinh lực địch… tạo điều kiện và nắm thời cơ thuận lợi để đánh đuổi chính quyền Mỹ-Diệm, giải phóng miền Nam”.

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ uỷ Nam Bộ cũ. Lễ thành lập Trung ương Cục được tổ chức long trọng tại Mã Đà. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Căn cứ Trung ương Cục đóng tại suối Nhung. Cùng với suối Linh, suối Nhung ngày tháng âm thầm chảy dưới đại ngàn, nay bỗng trở thành những địa danh lịch sử. Từ đây những chủ trương đường lối của Trung ương, Bộ Chính trị cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam được toả đi khắp nơi. Các chủ trương xây dựng phong trào, mệnh lệnh tác chiến cũng từ vị trí lịch sử này phát ra.

Thời gian đầu, Trung ương Cục miền Nam được Trung ương giao nhiệm vụ lãnh đạo phát triển cách mạng từ khu 5 trở vào, do đó Trung ương Cục chọn Chiến khu Đ mở rộng (khu A)-căn cứ nối liền nam Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ làm nơi đặt cơ quan lãnh đạo của Trung ương Cục.

Tháng 3-1961, Trung ương Cục giao cho T1 (Khu miền Đông) nhiệm vụ xây dựng khu A (gồm Chiến khu Đ cũ mở rộng đến đông đường 13, mang phiên hiệu C150). Đảng uỷ khu A chỉ đạo:

-Xây dựng khu A trở thành một căn cứ địa hoàn chỉnh.

-Mở rộng diện tích sản xuất trong căn cứ, dự trữ vật chất để đón cán bộ, chiến sĩ từ Trung ương vào miền Nam chiến đấu.

-Xây dựng lực lượng vũ trang tập trung cơ động từ 1 đến 2 tiểu đoàn.

-Tổ chức đường dây liên lạc, nối liền Trường Sơn với các tỉnh…

Từ đây Chiến khu Đ ngày càng phát triển nối liền hậu phương lớn miền Bắc qua đường Trường Sơn, cùng với căn cứ các tỉnh phía đông tạo thành thế liên hoàn, là hậu phương chiến lược ở miền Đông Nam Bộ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:40:18 pm
Tại Chiến khu Đ, tiểu đoàn chủ lực của miền Đông Nam Bộ ra đời?


Thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” với ý đồ giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng, trên địa bàn Chiến khu Đ (đã mở rộng ra phía đông và đông bắc), địch tăng cường lực lượng và đóng thêm đồn bót, mở rộng tiểu khu Phước Thành thành một cứ điểm quân sự mạnh, làm bàn đạp đánh phá, chia cắt căn cứ, tìm diệt lực lượng vũ trang ta.

Tháng 4-1961, địch thành lập khu chiến thuật 31 đặc trách đánh phá cách mạng ở miền Đông, trong đó có 2 tỉnh Phước Thành và Phước Long nằm trong Chiến khu Đ. Sư đoàn 5 nguỵ và các tiểu đoàn biệt động quân 35, 38 ở Biên Hoà làm lực lượng cơ động đánh phá và yểm trợ cho bọn bảo an, dân vệ đánh vào vùng chiến khu.

Trước những chuyển biến của chiến trường, thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Cục, tháng 2-1961, Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông quyết định thành lập Tiểu đoàn 800 chủ lực tập trung ở Khu, quân số lấy từ các đơn vị vũ trang địa phương đóng ở vùng căn cứ đông bắc Chiến khu Đ, gồm 600 quân, biên chế thành 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội pháo binh và 1 đại đội trinh sát. Đây là tiểu đoàn chủ lực tập trung đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ. Tiểu đoàn do đồng chí Đặng Ngọc Sĩ làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Trọng Tâm chính trị viên.

Sau một thời gian huấn luyện, củng cố, dưới sự chỉ đạo của Khu, Tiểu đoàn 800 đã mở đợt hoạt động đầu tiên, mục tiêu là chi khu Hiêu Liêm đóng ở xã Lạc An, các đồn bót địch đóng trong vùng căn cứ và võ trang tuyên truyền hỗ trợ quần chúng nổi dậy diệt ác phá kềm, làm chủ xã ấp.

Ngày 16-3, tiểu đoàn tổ chức 3 mũi tấn công chi khu Hiếu Liêm. Trong lúc đang triển khai đội hình thì địch phát hiện nổ súng. Ban chỉ huy tiểu đoàn lập tức cho tổ đặc côg dùng bộc phá đánh tung hàng rào, mở cửa cho đại đội 2 đột phá vào mục tiêu. Sau 30 phút chiến đấu, đơn vị diệt gọn chi khu Hiếu Liêm, thu 1 pháo 105 ly, 30 súng các loại, 3 máy thông tin VTĐ, phá hủy 1 kho đạn.

Thừa thắng, tiểu đoàn tiếp tục tấn công các bót Lạc An, uy hiếp các bót núi Bà Cẩm, Mã Đà, Tân Hoà, Tân Tịch, Mỹ Lộc, phát động nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kềm. Toàn bộ tề xã nguỵ tan rã. Ta làm chủ một đoạn đường 16 và đường 8, giải phóng một mảng lớn ở phía tây nam chiến khu.

Ngày 15-4-1961, Quân khu tổ chức lễ mừng chiến thắng và chính thức ra mắt Tiểu đoàn 800 tại Suối Linh.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:41:00 pm
Trận đánh vào tỉnh lỵ Phước Thành là đòn phủ đầu “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Xin cho biết cụ thể về trận đánh này?

Có thể nói trong giai đoạn đầu đánh Mỹ, trận Phước Thành là trận đánh lịch sử của quân và dân Chiến khu Đ, gióng lên một đòn cảnh báo đối với quân Sài Gòn làm “bung xung” cho đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam.

Tháng 6-1991, Tiểu đoàn 800 chuyển hướng hoạt động về hướng đường 20, quét sạch các dinh điền của địch ở Võ Đắc, Võ Su, hỗ trợ bộ đội địa phương Long Khánh, Bà Rịa đẩy mạnh hoạt động; đánh thông hành lang hoạt động; đánh thông hành lang từ Chiến khu Đ xuống Xuân Lộc qua đường 20 về Bà Rịa, Xuyên Mộc ra sát bờ biển phía Đông.

Trong lúc đó, tại tỉnh Phước Thành, địch tiếp tục ủi phá rừng, mở nhiều đường, chia cắt chiến khu thành từng mảnh. Chúng củng cố các khu dinh điền, khu trù mật, tạo thành lá chắn bảo vệ vòng ngoài thị xã Phước Bình. Địch tổ chức nhiều cuộc hành quân càn qui mô càn quét nhằm đánh bật lực lượng ta ra khỏi căn cứ. Ý đồ của Mỹ-Diệm là xây dựng Phước Thành thành một tiểu khu mạnh, cùng với Châu Thành, Phước Long, Đồng Xoài, Lộc Ninh, Phước Bình tạo nên một hệ thống phòng thủ liên hoàn, chia cắt vùng căn cứ cách mạng, bảo vệ phía bắc và đông bắc Sài Gòn.

Trước tình hình đó, tháng 6-1961, Khu uỷ miền Đông quyết định giải thể tỉnh Thủ Biên và tổ chức lại 3 tỉnh: Biên Hoà, Thủ Dầu Một và Phước Thành. Phước Thành là một tỉnh rừng núi bao gồm trung tâm chiến khu phía đông bắc Sài Gòn. Tháng 9-1961, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh khu miền Đông quyết định tấn công tỉnh lỵ Phước Thành, nhằm phá tan ý đồ của địch chia cắt vùng căn cứ; mở rộng chiến khu, chuẩn bị đón các đoàn cán bộ của Trung ương tăng cường cho Nam Bộ. Chỉ huy trận đánh do các đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến, Nguyễn Việt Hồng, Đặng Ngọc Sĩ, Đặng Hữu Thuấn.

Mục tiêu trận đánh nhằm tiêu diệt toàn bộ quân địch, làm chủ tiểu khu và tỉnh lỵ, giải thoát tù chính trị. Lực lượng chính tham gia trận đánh gồm Tiểu đoàn 500 (mới thành lập), đại đội 26 trinh sát đặc công (Miền tăng cường) cùng lực lượng vũ trang địa phương.

20 giờ ngày 17-9-1961, 3 mũi tiến công của ta tiềm nhập mục tiêu. 23 giờ, quả bộc phá lệnh nổ vang tại dinh tỉnh trưởng. Các mũi xung phong đánh chiếm mục tiêu qui định. Trong 10 phút đầu, ta tiêu diệt gọn bọn địch trong dinh, giết chết tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn, bắt tỉnh phó cùng một số nhân viên quan trọng trong toà hành chính. Sau đó, một cánh quân khác tiến công diệt đại đội bảo an và chi đội thiết giáp. Một cánh quân nữa đánh vào trại giam giải thoát các đồng chí, đồng bào yêu nước bị địch giam giữ. Trong 20 phút, lực lượng ta làm chủ hoàn toàn tiểu khu.

Trên các hướng nghi binh và chặn viện, bộ đội địa phương tỉnh Phước Thành và các huyện Tân Uyên, Phú Giáo đã đánh cắt đường giao thông của địch, đốt cháy cầu sắt của Tổng Bản trên đường 16, chặt cao su làm chướng ngại vật trên các trục đường…

Trận đánh kết thúc vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 18-9-1961. Ta tiêu diệt hoàn toàn bộ máy chỉ huy quân sự, hành chính của địch ở tỉnh lỵ Phước Thành; diệt 40 tên, làm bị thương 30 tên, bắt 11 tên, thu 322 súng các loại, phá huỷ 1 khẩu pháo 105 ly, 32 máy truyền tin, 12 xe cơ giới, giải thoát 272 tù binh.

Chiến thắng Phước Thành làm nức lòng quân, dân miền Nam và Chiến khu Đ; đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội chủ lực Quân khu và địa phương. Tướng Oétmolen-Tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở Việt Nam trong hồi ký “Người lính tường trình” đã phải thú nhận: “Mùa thu nam 1961 đã chứng kiến một bước ngoặt rõ rệt trong cuộc tiến công của Việt cộng, lần đầu tiên họ tạm thời chiếm được tỉnh lỵ Phước Thành”. Tài liệu mật Lầu Năm Góc của Mỹ cũng xác nhận: “Trận tiến công lớn nhất đã có tác dụng làm cho Sài Gòn nhốn nháo là trận đánh chiếm Phước Thành, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 55km”.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:41:34 pm
Địch đã thực huiện quốc sách “ấp chiến lược” để “tát nước bắt cá” như thế nào?


Nhằm thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ-Nguỵ tăng cường đẩy mạnh quốc sách “ấp chiến lược” thay thế “ấp dân sinh”, “ấp đời mới”, “khu dinh điền”, “khu trù mật” bị thất bại. Thực tế các “khu trù mật” này đều là những trại tập trung trá hình để tách lực lượng cách mạng ra khỏi dân chúng. Đây là một âm mưu rất thâm độc của địch nhằm giành lại địa bàn nông thôn, nắm dân; cô lập cách mạng và tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta.

Chiến khu A và các tỉnh ven chiến khu, vành đai Sài Gòn như Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hoà, Phước Tuy, Phước Thành là những vùng trọng điểm địch đánh phá để tiến hành bình định.

Từ giữa năm 1962, địch mở nhiều cuộc càn quét vào các vùng căn cứ của ta, hỗ trợ cho các đoàn bình định tiến hành gom dân, lập ấp chiến lược. Chiến khu Đ và vùng ven chiến khu là một trọng điểm của địch trong việc thực hiện quốc sách ấp chiến lược, quyết tâm đẩy lực lượng ta ra xa. Ở phía nam căn cứ, kết hợp với các cuộc càn, địch gom dân ở các xã Mỹ Lộc, Thường Lang, Tân Hoà, Tân Tịch vào các ấp chiến lược lớn, đồng thời xây dựng các ấp chiến lược Xóm Sình, Bà Đã, Ván Hương… để chia cắt vùng căn cứ của ta. Các xã Thái Hoà, Thạnh Hội, Bình Chánh… dân bị xúc vào các ấp chiến lược dọc sông Đồng Nai.

Phía tây căn cứ (huyện Phú Giáo), địch lập các ấp chiến lược liên hoàn Anh Linh, An Long, Phước Sang… để ngăn chặn ta bung ta. Riêng ở tỉnh lỵ Phước Vĩnh, địch lập một hệ thống ấp chiến lược dài hơn 10km, tập trung vào đây hơn 17 ngàn dân. Chúng thiết lập thêm sân bay Nước Vàng để tăng cường việc đánh phá căn cứ. Dọc các đường 8, 13, 14, 16, nhiều đồn bót mọc thêm để giữ cầu, giữ đường, bao vây căn cứ và cắt đứt giao thông của ta.

Ở phía bắc căn cứ, địch dồn đồng bào Kinh, Stiêng, Châuro vào các ấp chiến lược dọc đường 14, tách dân ra khỏi lực lượng ta.

Nhằm tăng cường thêm lực lượng cơ động để đánh phá cách mạng ở Phước Thành, địch điều trung đoàn 48 sư đoàn 10 về đây. Mỗi ấp chiến lược, chúng còn bố trí một đại đội bảo an, không kể lực lượng “thanh niên chiến đấu” thường xuyên canh giữ ấp.

Tuy nhiên không một âm mưu nào của địch thực hiện được suôn sẻ. Quốc sách ấp chiến lược bị chống trả quyết liệt tại Chiến khu Đ. Dưới sự lãnh đạo của Khu uỷ miền Đông và các cấp uỷ Đảng địa phương, cuộc đấu tranh chống địch dồn dân lập ấp liên tục diễn ra bằng nhiều hình thức phong phú, kết hợp phong trào 3 mũi giáp công: vũ trang, chính trị, binh vận. Nổi bật nhất là các xã Tân Khánh, Bình Mỹ, Phước Hoà, Rầy Gạch, Ván Hương…

Tại xã Tân Khánh, chi bộ xã lãnh đạo trên 700 đồng bào kéo lên đồn giặc đấu tranh chống bắn phá bừa bãi, đòi tự do đi lại làm ăn, bồi thường thiệt hại, chống gom dân vào ấp chiến lược. Tại xã Tân Bình, nhân dân đấu tranh kiên quyết không cho địch cướp lúa… Tháng 3-1962, giặc đốt hàng trăm nhà dân, đồng bào vẫn bám đất, không ra khu tập trung đồn bót. Không những thế, bà con còn cung cấp tình hình cho bộ đội đánh địch.

7 giờ 30 sáng 14-3, đoàn xe 11 chiếc của đại đội 5 tiểu đoàn 31 bảo an khu Phước Thành lọt vào trận địa phục kích của bộ đội Khu và bộ đội địa phương Phước Thành, trên đường 16 (đoàn từ Mỹ Đức đến bót suối Cầu). Mìn nổ khiến chiếc xe đi đầu lật nhào. Các đơn vị xung phong nổ súng mãnh liệt vào đội hình địch, làm chủ trận địa, diệt và bắt 33 tên (trong đó có tên đại uý quận trưởng Phú Giáo), thu 42 súng.

Tháng 9-1962, Trung đoàn mới thành lập tại Mã Đà, mang mật danh C58, đã tổ chức chống càn, bẻ gãy cuộc hành quân qui mô của sư đoàn 5 ngụy vào căn cứ Bàu Buông, diệt 50 tên. Sau đó, đơn vị tấn công diệt đồn Bù Đăng, mở rộng căn cứ về phía Bắc (đường 14).


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:42:05 pm
Vào thời điểm Mỹ tổ chức đảo chính Ngô Đình Diệm (11-1963), hệ thống ấp chiến lược phía tây Chiến khu Đ bị phá rã hoàn toàn?

Quả là vào thời điểm đầu năm 1963, quốc sách ấp chiến lược “xương sống” “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ đạt được đến cực điểm. Nhưng đây cũng là lúc chúng nhận được sức phản kháng cực đại từ phía nhân dân. Tức nước vỡ bờ. Sức tấn công liên tục mạnh mẽ bằng 3 mũi giáp công của quân, dân miền Nam đã làm rung động toàn bộ hệ thống ấp chiến lược của địch, phá vỡ từng mảng, dẫn đến sự tan rã không sao tránh khỏi của một chiến lược đầy tham vọng được quảng bá rùm beng của thầy tớ Mỹ-Nguỵ.

Ở Chiến khu Đ, Khu uỷ và Quân khu 7 chỉ đạo ráo riết việc chống phá ấp chiến lược, nhằm phối hợp nhịp nhàng với toàn miền, đánh mạnh vào hệ thống ấp chiến lược của địch, củng cố và mở rộng căn cứ địa. Tỉnh Phước Thành được Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu chọn làm “điểm” để đánh phá ấp chiến lược ở khu. Giữa năm 1963, Tỉnh uỷ Phước Thành đã tăng cường cán bộ về cơ sở, lấy ấp chiến lược An Long ở phía tây căn cứ làm điểm chỉ đạo. Chi bộ An Long đưa một số đảng viên vào trong ấp bám trụ, kết hợp với cơ sở tại chỗ nắm chắc tình hình địch.

Nhằm gia tăng cường độ đánh phá toàn diện căn cứ và tiêu diệt lực lượng ta, năm 1963, địch thành lập biệt khu Phước Bình Thành (gồm 3 tỉnh Phước Long, Bình Long, Phước Thành); sở chỉ huy đóng tại Phước Bình, do trung tá Đỗ Văn Diễn chỉ huy.

Thực hiện triệt để chủ trương của trên, bộ đội địa phương và lực lượng du kích xã nổ súng tấn công ấp chiến lược An Long. Hợp đồng chặt chẽ với mũi quân sự, quần chúng trong các ấp An Long, An Linh, Phước Sang đã nhất tề nổi dậy đánh trống mõ liên hồi, truy lùng bọn ác ôn, đồng thời xông ra nhổ hàng rào thép gai, lấp hào… Bọn đich bị đánh bất ngờ, rơi vào thế hoang mang cực độ, hoảng sợ bỏ đồn bót, công sở chạy sạch. Lực lượng ta tràn vào làm chủ, thu 120 súng các loại. Ấp chiến lược An Long bị phá banh hoàn toàn. Đây là một thắng lơi có ý nghĩa quan trọng đối với Chiến khu Đ trong tiến trình chống phá bình định của địch ở giai đoạn quyết định.

Rút kinh nghiệm phá ấp chiến lược An Long, Tỉnh uỷ Phước Thành chỉ đạo tiến công 3 mũi, kết hợp bên trong với bên ngoài tiếp tục đánh phá quyết liệt các ấp chiến lược khác. Và sức mạnh của sự kiên trì với ý chí cao độ đã chiến thắng. Đến cuối năm 1963, toàn bộ ấp chiến lược của địch ở phía tây Chiến khu Đ từ An Long đến Bà Đã bị phá rã hoàn toàn. Hành lang từ phía tây căn cứ xuống Khu C (Long Nguyên) được nối liền.

Nắm thời cơ bọn nguỵ ở địa phương đang hoang mang trước sự kiện đảo lộn triều chính ở Sài Gòn, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 chủ trương đẩy mạnh tiến công địch, phá ấp chiến lược, tập trung vào khu vực tỉnh Phước Thành và vùng ven chiến khu. Tháng 4-1964, bộ đội địa phương Phước Thành tấn công diệt 2 đồn Tân Bình và Nhà Đỏ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá banh ấp chiến lược Nhà Đỏ. Đồng bào các xã Thái Hoà, Thạnh Hội, Tân Phước Khánh, Phước Hoà (Tân Uyên) cũng kiên trì đấu tranh và nổi dậy phá tan các ấp chiến lược dọc sông Đồng Nai, “phá cũi sổ lồng” trở về quê cũ làm ăn.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:15:45 pm
Trước tình thế địch hoang mang rệu rã, ta đã tiến lên phá thế bao vây của chúng, mở rộng địa bàn, uy hiếp trực tiếp Biên Hoà và Sài Gòn?

Thực hiện nghị quyết Trung ương và Trung ương Cục miền Nam, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông quyết định mở đợt hoạt động hè-thu nhằm đánh bại hoàn toàn âm mưu bình định lập ấp chiến lược của địch; phá thế bao vây căn cứ, mở rộng địa bàn đứng chân và hành lang chiến lược từ Chiến khu Đ về hướng Biên Hoà, Bà Rịa, Long Khánh xuống bờ biển Xuyên Mộc. Vùng căn cứ hoạt động thuộc tỉnh Phước Thành (Thủ Dầu Một) và Vĩnh Cửu (Biên Hoà). Đồng chí Nguyễn Hồng Lâm (Hai Bứa) Tư lệnh Quân khu làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Ngọc Tân Bí thư Khu uỷ làm chính uỷ.

Lực lượng tham gia đợt hoạt động gồm 1 tiểu đoàn bộ binh, 2 đại đội đặc công, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội công binh, 1 đại đội trợ chiến ĐKZ và cối 81 ly; các đại đội địa phương và du kích của tỉnh Phước Thành và Thủ Dầu Một. Miền tăng cường thêm Trung đoàn 2 (Q762). Bộ Tư lệnh Quân khu và Khu uỷ cử các cán bộ cơ quan phục vụ chiến đấu và phối hợp với địa phương phát động nhân dân nổi dậy…

Qua hơn một tháng điều nghiên mục tiêu, ban chỉ huy đã thông qua phương án tấn công đồn bàu Cá Trê, có một bộ phận chặn viện đánh địch từ Tân Uyên lên ứng cứu. Đồn bàu Cá Trê bảo vệ ấp chiến lược, nằm trên đường 16, có 2 trung đội biệt động quân thuộc tiểu đoàn 37 “cọp đen” và nhiều dân vệ, thanh niên chiến đấu đóng giữ. Quân ta nổ súng tấn công chỉ trong vòng 23 phút là diệt gọn và rút an toàn mang theo nhiều chiến lợi phẩm. Bọn địch từ tiểu khu Phước Thành lên tiếp viện ứng cứu đồn bàu Cá Trê, bị đơn vị phục kích đánh tan tác. Xác giặc trên trận địa; có tất cả 130 tên (trong đó có 4 cố vấn Mỹ) bị diệt, 8 tên bị bắt, ta thu 70 súng các loại.

Đồn bàu Cá Trê và bọn viện binh bị tiêu diệt, đã tác động tinh thần bọn địch trong các đồn bót còn lại và trong các ấp chiến lược nằm sâu trong căn cứ của ta.

Chớp thời cơ, bộ đội địa phương Phước Thành và du kích xã tổ chức vây lấn địch trong các đồn Xóm Sình, Bàu Phụng, Ván Hương… buộc địch phải tháo chạy. ta truy kích gây nhiều thiệt hại cho chúng, thu được 24 súng và 230 quả mìn. Duy có đồn Bà Đã địch ngoan cố chống trả quyết liệt. Ta chuyển sang bao vây, bắn tỉa, chặn đường tiếp tế của chúng trong 32 ngày đêm. Chịu hết nổi, ngày 25-6-1964, địch mở đường chạy thoát thân. Ta bắn rơi tại chỗ 2 máy bay lên yểm trợ, bắn bị thương hai chiếc khác, bắn cháy hai xe thiết giáp, diệt 50 tên.

Bước 1 đợt hoạt động thu nhiều thắng lợi. Ta bức rút, san bằng hàng rào đồn bót… Chiến khu Đ được mở rộng về hướng tây nam áp sát thị xã Tân Uyên.

Rút kinh nghiệm, Ban chỉ huy quyết định triển khai tiến công địch mạnh mẽ hơn. Mở đầu là trận đánh tiêu diệt đồn Cây Gáo án ngự phía nam căn cứ. Phối hợp với đòn tiến công của chủ lực, dân quân du kích và đồng bào vùng lên diệt bọn ác ôn, nổi trống mõ hù dọa địch, dùng cào cuốc xông ra phá tan tành các ấp chiến lược Thanh Giang, Thanh Bình, Phù Cát… Hệ thống ấp chiến lược trong sở cao su Cây Gáo hoàn toàn bị phá rã, hơn 600 dân được giải phóng. Căn cứ Chiến khu Đ được mở rộng về phía năm hữu ngạn song Đồng Nai nối dài với Túc Trưng, Trảng Bom. Ta xây dựng Cây Gáo thành một cửa khẩu hậu cần quan trọng cho lực lượng Khu và Miền.

Trên đà tiến công, đêm 12-9-1964, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 4 đánh diệt chi khu Hiếu Liêm, tiêu diệt đại đội bảo an và dân vệ, bắt 18 tên, thu trên 100 súng các loại.

Phối hợp với quân chủ lực tấn công Hiếu Liêm, bộ đội địa phương và du kích tấn công đồn Trị An nằm trên đồi cao, giải phóng toàn xã.

Đợt hoạt động hè-thu 1964 của chủ lực Quân khu giành thắng lợi lớn, quét sạch các cứ điểm của địch ở phía nam Chiến khu Đ cùng hệ thống ấp chiến lược. Chiến khu mở rộng, tạo bàn đạp uy hiếp các cơ quan đầu não của địch ở Biên Hoà và Sài Gòn đồng thời mở thêm hành lang chiến lược từ Chiến khu Đ qua Trị An, Cây Gáo đến đường 20 nối liền xuống Long Khánh, Bà Rịa ra giáp biển đông.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:16:26 pm
Có phải từ Chiến khu Đ quân giải phóng đã trút bão lửa xuống sân bay Biên Hoà?

Việc mở rộng Chiến khu Đ trong những năm cuối của cuộc “Chiến tranh đặc biệt” đã tạo ra một khả năng rất lớn để quân chủ lực đánh lớn trong lòng địch, làm rung động tận sào huyệt của chúng.

Trên cơ sở thế trận đang nghiêng về phía cách mạng, địch đang lún sâu vào thất bại, Bộ chỉ huy Miền quyết định tổ chức một trận tập kích bằng hoả lực vào sân bay Biên Hoà, vào lúc Mỹ mở rộng và kiện toàn thành một căn cứ không quân chiến lược ở miền Nam. Đây cũng là trận đánh mở đầu mùa khô 1964-1965 của Miền, góp phần bẻ gãy âm mưu tiến công miền Bắc bằng không quân và trả thù cho 500 đồng bào ta bị địch ném bom giết chết ở Ông Kèo, xã Phú Hữu, huyệnNhơn Trạch, Biên Hoà ngày 27-9-1964.

Ngày 3-10, Ban chỉ huy đoàn pháo binh đã họp bàn phương án tác chiến và chuẩn bị chiến trường. Cơ sở mật của Thị uỷ Biên Hoà bên trong sân bay đã cung cấp bản đồ sân bay cho đơn vị. Đội biệt động thị xã cũng giúp cán bộ tham mưu và trinh sát hoàn thành tốt công tác điều nghiên mục tiêu để đơn vị lên sa bàn trận đánh.

Sân bay Biên Hoà cách Sài Gòn 30 km về hướng đông bắc, sát thị xã và ở phía nam Chiến khu Đ. Sân bay có 2 đường băng, 1 đường dài 3.600m và 1 đường dài 1.000m, bảo đảm lên xuống cho các loại máy bay vận tải hạng nặng và máy chiến đấu trong mọ thời tiết. Ngoài ra còn có các kho chứa bom đạn xăng dầu và trang thiết bị sửa chữa. Sân bay Biên Hoà được trang bị hệ thống kỹ thuật ra đa và thông tin tối tân nhất; là căn cứ xuất phát của máy bay Mỹ để đánh phá miền Nam, miền Bắc, Lào, Campuchia, vừa là nơi huấn luyện đào tạo phi công cho không quân nguỵ ở miền Nam. Do vị trí quan trọng như vậy nên sân bay được tổ chức bố phòng nghiêm ngặt với 15 hàng rào dây thép gai, nhiều chướng ngại vật, cạm bẫy, hệ thống đèn pha chiếu sáng… Tại đây thường xuyên có 2.500 sĩ quan, phi công, nhân viên kỹ thuật và lính gác vòng trong. Lực lượng bảo vệ cơ động vòng ngoài có từ 1 đến 2 tiểu đoàn lính dù, 1 đại đội pháo và 1 đại đội xe tăng. Mỹ, nguỵ cho rằng sân bay Biên Hoà là căn cứ “bất khả xâm phạm”.

Sau khi hoàn tất công tác chuẩn bị, trận pháo kích sân bay được ấn định vào ngày 31-10-1964. Chỉ huy toàn bộ trận đánh là đồng chí Lương Văn Nho (sau này là Thiếu tướng Phó Tư lệnh Quân khu 7), đoàn U80.
Ngày 28-10, Đoàn pháo binh của Miền gồm Z35, Z41 và đại đội pháo mang vác của Quân khu miền Đông hành quân về tập kết ở tỉnh đội Phước Thành (trong Chiến khu Đ). Tỉnh đã huy động nhân dân góp 15 chiếc ghe để đưa các đơn vị pháo qua sông. 23 giờ ngày 31-10, toànbộ lực lượng chiến đấu vào chiếm lĩnh trận địa phía nam đồi Tân Phong và tây nam núi Bùng Binh. Vào lúc 23 giờ 20 phút, trên cả hai hướng, trận địa pháo đồng loạt bắn cấp tập vào sân bay. Đạn rơi chính xác. Tiếng nổ dữ dội làm chấn độn cả thị xã Biên Hoà. Lửa bốc cháy sáng rực một góc trời. Sau 20 phút, bắn hết các cơ số đạn, các đơn vị rời khỏi trận địa. Lúc này địch mới phản ứng cho trực thăng và Dakota từ sân bay Tân Sơn Nhất lên thả pháo sáng và bắn dọc theo tuyến đường ra sông Đồng Nai, nhưng hoàn toàn vô vọng.

Trận tập kích hoả lực nhanh gọn giành thắng lớn: phá huỷ và hỏng 59 máy bay các loại, trong đó có 21 máy bay ném bom B57; 1 kho đạn 105 ly, 1 kho xăng, 1 đài ra đa, 18 căn nhà lính bị thiêu huỷ, phá sập; hàng trăm sĩ quan, phi công và nhân viên kỹ thuật bị thương vong.

Trận đánh đã mở ra khả năng tác chiến độc lập, cơ động xa và đánh gần của lực lượng pháo binh Miền. “Pháo binh Biên Hoà“ trở thành tên truyền thống của lực lượng pháo binh miền Đông Nam Bộ.

Ca ngợi chiến thắng Biên Hoà trên báo Nhân dân số ra ngày 12-11-1964, Hồ Chủ tịch đã viết bài bình luận, kết thúc bằng 4 câu thơ:
“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu
Thành đồng chiến thắng lay lầu trắng
Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu”
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1989, trang 804)


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:17:14 pm
Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên trên chiến trường miền Nam. Chiến khu Đ là hậu phương và bàn đạp của chiến dịch?


Dựa trên khả năng thực tế của chiến trường miền Nam, Trung ương Cục đề ra nhiệm vụ năm 1964-1965 là tiến công liên tục, kiên quyết làm thất bại kế hoạch Mác Namara, tạo điều kiện mở ra cục diện mới, tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Thực hiện chủ trương này, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch trên địa bàn miền Đông Nam Bộ; lấy Bình Giã làm điểm quyết chiến của chíên dịch, nên gọi là “chiến dịch Bình Giã”. Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm các đồng chí: Lê Văn Tưởng chính uỷ, Nguyễn Văn Bứa chỉ huy phó, Lê Xuân Lựu phó chính uỷ, Nguyễn Hoà tham mưu trưởng.

Chiến khu Đ là hậu phương trực tiếp đồng thời là bàn đạp của chiến dịch quan trọng này.

Để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch, các đoàn hậu cần khu vực 81 của Miền tại Chiến khu Đ cùng đoàn quân nhu Khu E và các hội đồng cung cấp tỉnh Phước Thành, Biên Hoà, Bà Rịa chuẩn bị lương thực đảm bảo cho 7.000 quân tập trung huấn luyện tại Chiến khu Đ và hành quân xuống chiến trường. Đoàn hậu cần còn kết hợp với các tỉnh miền Đông thành lập các đội dân công hoả tuyến, thanh niên xung phong tải thương, tải đạn, các đội phẫu thuật cứu chữa thương binh. Trong một thời gian ngắn, được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, ta đã chuẩn bị được 217 tấn gạo, đảm bảo cho chiến dịch mở màn đúng thời gian.

Lực lượng chủ công của chiến dịch gồm 2 trung đoàn: Q761 và Q762 của Miền, từ Chiến khu Dương Minh Châu và Long Nguyên vượt đường 13 tập kết về Chiến khu Đ để học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Sau đó 2 đơn vị vượt sông Đồng Nai qua đường 20, đường 1, hành quân liên tục ngày đêm về phía đông và bí mật tập kết ở lộ 2.

Sau khi nghiên cứu kỹ địa hình ở khu vực Bà Rịa, Bộ chỉ huy chiến dịch đề nghị Bộ Chỉ huy Miền chấp thuận mở màn là “ấp chiến lược Bình Giã”, với ý đồ kéo chủ lực địch đến đây để tiêu diệt.

Ấp chiến lược Bình Giã có hơn 400 giáo dân di cư bị địch lừa hỉnh tuyên truyền đầu độc tư tưởng “chống cộng”, đa phần có gia đình là sĩ quan, binh lính nguỵ. Nếu bị ta tiến công, địch buộc phải chiếm lại Bình Giã và giải vây chi khu quân sự Đức Thạnh bằng mọi giá.

Theo đúng kế hoạch, đêm 4-12-1964, các đơn vị nổ súng tiến công Bình Giã và pháo kích chi khu Đức Thạnh. Địch chống trả hết sức quyếtliệt nên đến sáng, ta chỉ chiếm được hai phần ba ấp. Địch cho trực thăng đổ quân xuống cứu viện. Q762 vận động kịp thời đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 38 và 1 đại đội bảo an, buộc địch phải tháo chạyv ề ấp Ngãi Giao ven lộ 2. Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương gài thế buộc địch kéo thêm lực lượng đến để ta tiêu diệt…

Chiến dịch tiếp diễn từ 7-12 đến 20-1-1965, sau gần 100 ngày chiến đấu liên tục, bộ đội chủ lực kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị của quần chúng, đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.755 tên địch; đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn biệt động quân, 1 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến, 1 chi đoàn thiết xa M113, 2 đoàn xe cơ giới, 7 đại đội bảo an, phá huỷ 45 xe các loại, bắn rơi và bắn bị thương 55 máy bay, thu trên 1.000 súng và 100 máy thông ti; bắt 293 tù binh.

Kết hợp với mũi tiến công quân sự, nhân dân phá banh, phá rã nhiều ấp chiến lược dọc lộ 2, ven biển Hàm Tân. Hầu hết lực lượng dân vệ tan rã. Ta giải phóng vùng này và toàn bộ huyện Hoài Đức, mở rộng căn cứ từ Hắc Dịch và đông tây lộ 2 nối lên Chiến khu Đ với tỉnh Bình Thuận của Khu 6, mở ra các bến tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc chi việncho chiến trường Nam bộ.

Một lẫn nữa chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của Mỹ bị thất bại. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, ta diệt đơn vị nguỵ cấp tiểu đoàn, trong đó có tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ thuộc lực lượng tổng trù bị của Sài Gòn.

Chiến thắng Bình Giã thể hiện một bước phát triển nhảy vọt của lực lượng vũ trang giải phóng, khẳng định vai trò vị trí Chiến khu Đ đối với các chiến dịch lớn ở miền Đông.

Về thắng lợi của chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định: “Chiến thắng Bình Giã đánh dấu sự thất bại về căn bản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:17:41 pm
Chiến dịch Đồng Xoài-Phước Long làm sụp đổ cụm quyết định của địch án ngự phía bắc Chiến khu Đ?


Trong giai đoạn cuối của “Chiến tranh đặc biệt”, chính quyền tay sai nguỵ Sài Gòn đã đứng bên bờ vực thất bại. Tinh thần của nguỵ quân, nguỵ quyền trên đà suy sụp. Cách mạng miền Nam đang tiến dần đến thắng lợi trong tầm tay với.

Thực hiện sự chỉ đạo của trên “quyết tâm đánh những đòn tiêu diệt lớn, thúc đẩy nhanh quá trinhg tan rã của bọn tay sai đế quốc Mỹ”; căn cứ vào tương quan so sánh lực lượng và vị trí chiến lược của miền Đông, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Đồng Xoài-Phước Long vào mùa mưa năm 1965, nhằm mục đích tiêu diệt cụm quân sự phía bắc Chiến khu Đ nằm trong phạm vi 2 tỉnh Phước Long-Bình Long và trên trục đường giao thông chiến lược Sài Gòn-Tây Nguyên (quốc lộ 13 và quốc lộ 14).

Hướng phối hợp chiến lược là Biên Hoà, Bà Rịa, Long Khánh, Lâm Đồng nhằm cắt đứt các đường 20, đường 15 và đường xe lửa (dọc theo quốc lộ 1) hỗ trợ cho hướng chính hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch. Đây là những mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ vòng ngoài bảo vệ hướng bắc và đông bắc Sài Gòn; là những bàn đạp xuất phát các cuộc hành quân càn quét, chia cắt, bao vây căn cứ, ngăn chặn đường tiếp tế chiến lược của ta từ hậu phương lớn miền Bắc vào Nam Bộ.

Chiến dịch Đồng Xoài-Phước Long diễn ra từ tháng 5 đến tháng 7-1965 với lực lượng tham gia gồm 3 trung đoàn chủ lực Miền, bộ đội tập trung, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Chiến dịch kéo dài 64 ngày đêm đã diệt 4.500 tên địch, gồm 4 tiểu đoàn bộ binh, 6 chi độ cơ giới, 24 đại đội, 3 trung đội pháo binh, 1 trung đội công binh; thu 1.652 súng các loại, bắn rơi 34 máy bay, phá huỷ 60 xe vận tải, 20 xe bọc thép, 5 xe tăng, 6 đầu máy, 72 toa xe lửa, 390 súng và 20 cầu cống. Nhiều cố vẫn Mỹ và sĩ quan chỉ huy quân nguỵ bị diệt. Sư đoàn 5 được coi là mạnh nhất trong tổng số 10 sư đoàn nguỵ bị đánh thiệt nặng nặng.

Trên các hướng phối hợp, lực lượng vũ trang và nhân dân phá tan hàng chục ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng. Riêng ở Phước Long, ta giải phóng 56.000 trong tổng số 67.000 dân. Tuyến hành lang chiến lược của ta từ Tây Nguyên vào chiến trường Nam Bộ được khai thông; vùng căn cứ ở nam bắc đường 14 được nối liền, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và hoàn chỉnh căn cứ địa miền Đông.

Như vậy, từ năm 1961 đến giữa năm 1965, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu uỷ và Quân khu uỷ, các lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn Chiến khu Đ đã liên tục tiến công đánh bại các âm mưu của địch nhằm bao vây chia cắt, tiêu diệt lực lượng cách mạng và triệt phá căn cứ. Chiến khu Đ ngày càng mở rộng trở thành hậu phương trực tiếp vững mạnh cho các lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Đông. Không những thế, Chiến khu Đ còn làm bàn đạp xuất phát cho nhiều cuộc tiến công, nhiều chiến dịch lớn tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ nguỵ, góp phần vào thắng lợi quan trọng của miền Nam trong giai đoạn đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chuyển giai đoạn sa lầy sâu vào một cuộc chiến tranh không lối thoát.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:18:18 pm
Cùng với cả nước, Chiến khu Đ thực sự bước vào cuộc đọ sức với quân xâm lược Mỹ. Xin cho biết những trận đánh thắng đầu tiên của quân và dân Chiến khu Đ?


Đầu năm 1965, các chiến thắng lịch sử Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài… cùng với cao trào phá ấp chiến lược đã đẩy chính quyền nguỵ miền Nam vào nguy cơ thảm bại. Trước tình thế chỉ có một sự lựa chọn là can thiệp để tránh ván bài trắng tay, Mỹ quyết định đưa quân chiến đấu vào miền Nam, đồng thời “leo thang” chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Tháng 3-1965, những tên lính thuỷ đánh bộ đầu tiên đặt chân lên Đà Nẵng, thì ở Sài Gòn, các chiến sĩ biệt động đã đánh đòn phủ đầu vào Đại sứ quán Mỹ ở đường Hàm Nghi, làm thương vong trên 150 quan chức Mỹ và chư hầu, cảnh cáo trước thế giới tính chất cuộc chiến tranh phi nghiã của đế quốc Mỹ.

Tháng 5-1965, quân Mỹ và chư hầu bắt đầu càn quét khu vực bắc Biên Hoà và nam Chiến khu Đ với ý đồ đẩy lực lượng ta ra xa; triển khai nhanh các căn cứ quân sự, kho tàng, các cơ quan đầu não để tiến hành đánh phá lực lượng ta ở miền Đông và thị xã Biên Hoà.

Trên hướng tây nam Chiến khu Đ, tháng 7-1965, Mỹ đưa lữ đoàn 3 Sư đoàn 1 (còn gọi là “Anh cả đỏ”) đến xây dựng căn cứ quân sự Lai Khê trên đường 13. Sang tháng 9, Lữ đoàn 1 của “Anh cả đỏ” xây dựng tiếp căn cứ quân sự Phước vĩnh trên đường 14.

Vào thời điểm này, miền Đông nói chung, Chiến khu Đ nói riêng là vùng căn cứ rất mạnh trực tiếp uy hiếp Biên Hoà và Sài Gòn. Địch nhận thức được tính chất nguy hiểm đó, triển khai ngay kế hoạch đánh phá Chiến khu Đ và các vùng ngoại vi căn cứ.

Tháng 6-1965, Lữ đoàn dù 173 Mỹ phối hợp với 1 tiểu đoàn Úc, có pháo binh va máy bay yểm trợ mở cuộc hành quân đầu tiên vào nam Chiến khu Đ. Quân chủ lực Khu chủ trương rút sâu vào căn cứ để tránh hoả lực rất mạnh của địch, đồng thời nhử địch vào rừng rậm để tiêu diệt. Quân địch đến đâu cũng bị đánh từ nhiều phía. Lợi dụng địa hình hiểm trở, bộ đội Phước Thành tổ chức liền 3 trận tập kích vào quân Mỹ đóng dã ngoại tại Bà Sầm (Mỹ Lộc), diệt 56 tên, buộc chúng phải rút lui.

Trận đánh thắng quân Mỹ tại Bà Sầm khẳng định quyết tâm đánh Mỹ của quân và dân chiến khu, giải quyết tư tưởng ngán ngại hoả lực mạnh và quân đông của Mỹ.

Không những nhử địch vào sâu để đánh, mà còn thực hiện sự chỉ đạo của trên là trừng trị bọn xâm lược ngay trong căn cứ trước khi chúng hành động, ta quyết định tập kích sân bay Biên Hoà lần thứ hai. Đoàn pháo binh 75 của Miền được giao nhiệm vụ thực hiện trận đánh. Hai trận địa pháo được thiết lập ở cù lao Rùa (Thạnh Hội) và Hoá An cho 4 khẩu cối 82 ly, 2 khẩu sơn pháo 75 ly và 2 khẩu ĐKZ75. Một trận địa giả được lập tại Tân Tịch với 20 khối bộc phá để nghi binh, thu hút hoả lực phản kích của địch.

Đêm 24-8-1965, từ 2 trận địa, hoả lực pháo binh của ta đã nã 300 quả đạn vào các mục tiêu trong sân bay Biên Hoà, phá huỷ 68 máy bay các loại, 8 dàn hoả tiễn, 22 bồn nhiên liệu, 30 ô tô, 300 phi công và nhân viên kỹ thuật của Mỹ chết và bị thương.

Được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, các đơn vị nhanh chóng vượt sông, trở về Chiến khu Đ an toàn.
Trận pháo kích sân bay Biên Hoà lần thứ hai đã giáng một đòn đau khi quân Mỹ vừa đặt chân vào chiến trường miền Đông. Chiến khu Đ, một bàn đạp tiến công chỉ cách thị xã Biên Hoà 4km đường chim bay, đã tạo điều kiện tốt để đơn vị pháo binh Miền giành thắng lợi giòn giã, gây cho địch những tổn thất nặng nề.

Như vậy, hai trận ra quân đánh Mỹ đầu tiên của Chiến khu Đ với hai hình thức chiến thuật tập kích và pháo kích đều thắng lợi.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:18:46 pm
Sư đoàn 9 anh hùng là sư đoàn chủ lực đầu tiên của Miền thành lập tại Chiến khu Đ. Có phải trận Đất Cuốc là chiến công đầu của sư đoàn?

Cùng với việc xây dựng và mở rộng căn cứ, lực lượng vũ trang cũng trưởng thành nhanh chóng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu với đối tượng kẻ thù mới là quân viễn chinh Mỹ thiện chiến được trang bị hiện đại, tối tân. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, Quân uỷ và Bộ Chỉ huy Miền quyết định thành lập các sư đoàn chủ lực nhằm “tạo quả đấm thép” của chiến trường miền Đông để thực hiện những trận đánh lớn, những chiến dịch tầm cỡ giải quyết cục diện chiến trường trong bối cảnh mới.

Ngày 2-9-1965, tại Chiến khu Đ, Sư đoàn 9, sư đoàn chủ lục đầu tiên của Miền được thành lập trên cơ sở 2 trung đoàn đã dày dạn kinh nghiệm chiến đấu là Q761 và Q762. Tiếp theo, ngày 23-11-965, Sư đoàn 5 của Miền ra đời.

Lực lượng chủ lực của Miền và của Quân khu miền Đông đều đứng chân ở Chiến khu Đ để huấn luyện, học tập và lấy đây làm nơi xuất phát các trận tiến côn tiêu diệt địch, phối hợp với chiến trường chung toàn Miền, đồng thời là lực lượng bảo vệ vững chắc căn cứ.

Trong kế hoạch “tìm diệt” của Mỹ, Chiến khu Đ luôn là địa bàn trọng điểm-mục tiêu tiến công của chúng, nhắm vào hai điểm chính: diệt chủ lực quân giải phóng và triệt hạ cơ sở vật chất, hậu cần dự trữ của ta. Đểt hực hiện ý đồ đó, ngày 6-11-1965, lữ đoàn dù Mỹ 173 ào ạt đổ quân xuống Hiếu Liêm, từ đó càn vào các khu vực Xóm Sình, Bà Đã và Đất Cuốc-nơi đóng quân của Sư đoàn 9. Nắm được ý đồ của địch, Sư đoàn gài thế, nhằm giáng cho bọn “mũi lõ” một đòn bất ngờ.

Sau hai ngày hành quân sâu vào căn cứ không thấy bóng dáng đối phương ở đâu, địch lục tục kéo nhau rút ra liền sa vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 bố trí sẵn tại Đất Cuốc. Quân ta nổ súng mãnh liệt và xung phong. Bọn Mỹ rơi vào thế bị động đối phó, phải gọi máy bay và pháo binh yểm trợ để rút lui, nhưng không thoát. Các mũi xung kích của ta vượt qua lưới lửa của chúng, dùng lựu đạn và cả lưỡi lê đánh xáp lá cà. Trước lối đánh táo bạo của ta, hoả lực phi pháo địch trở nên bất lực. Sau 5 giờ chiến đấu quyết liệt, 300 tên Mỹ bị loại khỏi vòng chiến, 4 máy bay bị bắn rơi; ta thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự.
Thắng lợi trận Đất Cuốc của Sư đoàn 9 có một ý nghĩa quan trọng: Lần đầu tiên một tiểu đoàn chủ lực của miền Đông đánh thắng 1 tiểu đoàn Mỹ; cho thấy khả năng đánh Mỹ và thắng Mỹ rõ ràng. Vùng căn cứ chiến khu không chỉ là hậu phương mà còn là trận địa hiểm yếu tiêu diệt cả quân Mỹ lẫn quân Ngụy.

Sau trận này, Sư đoàn 9 được sự phối hợp của lực lượng địa phương còn tiêu diệt 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội pháo binh, 2 chi đoàn thiết giáp đóng quân dã ngoại tại Bàu Bàng, phá huỷ 40 xe tăng và thiết giáp M113, 2 đại bác 105 ly, 2 súng cối 106,7 ly, bắn rơi 2 máy bay. Tổng số địch bị diệt 2.040 tên.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:19:23 pm
Cuộc hành quân “Hòn đá lăn” và “Thành phố bạc” của địch vào Chiến khu Đ đã diễn ra như thế nào?

Việc Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, trên thực tế đã cứu vãn được chế độ Nguỵ Sài Gòn không sụp đổ và gây cho ta những khó khăn to lớn. Với những tham vọng giành thắng lợi trên chiến trường, đẩy ta vào thế chống đỡ để kết thúc chiến tranh trên thế mạnh, đế quốc Mỹ phiêu lưu mở cuộc “Chiến tranh cục bộ”, đánh phá ác liệt toàn diện cả hai miền Nam Bắc.

Cuối năm 1965, tổng quân số Mỹ và các nước chư hầu như: Úc, Tânm Tây Lan, Nam Triều Tiên, Philippin, Thái Lan đã lên tới 20 vạn, cộng thêm 52 vạn quân nguỵ. Với lực lượng hùng hậu này, Mỹ quyết tâm giành thế chủ động ra quân thực hiện cuộc phản công chiến lược mùa khôn lần thứ nhất (1965-1966).

Trung ương Đảng kịp thời đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ cho cách mạng miền Nam “kiên quyết chiến đấu tiêu diệt quân xâm lược Mỹ và tay sai để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc”.

Thực hiện chiến lược “2 gọng kềm”: tìm diệt và bình định, ngày 5-2-1966 Mỹ mở cuộc hành quân qui mô loén mang tên “Hòn đá lăn” (Rolling Stone) vào Chiến khu Đ.

Sau những đợt “pháo đài bay” B52 (mỗi chiếc mang được gần 30 tấn bom) dội bom và pháo binh bắn cấp tập “don đường”, quân Mỹ chia làm hai cánh tiến vào căn cứ. Cánh thứ nhất, bọn “Anh cả đỏ” được trực thăng đổ xuống khu vực Xóm Sình, Bà Đã, Ván Hương. Cánh thứ hai gồm lữ đoàn dù 173, 1 tiểu đoàn Úc, 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 10 nguỵ từ Tân Uyên, Biên Hoà xuống Hiếu Liêm. Chúng triển khai thành hai mũi thọc vào căn cứ.

Trước sức tấn công của địch, Sư đoàn 9 chia thành nhiều bộ phận phối hợp với bộ đội địa phương Phước Thành và điều kiện xã, liên tục chặn đánh, tiêu hao sinh lực của chúng. Bọn giặc càn tới đâu cũng đụng phải mìn, chông của ta nên sợ hãi, dè chừng. Từ thế “tìm diệt”, quân Mỹ phải chuyển sang yểm trợ quân nguỵ tiến hành “bình định” ở khu vực Nhà Đỏ, Bông Trang, Tân Bình, Bình Mỹ, Vĩnh Tân và các xã dọc đường 16.
Mệt mỏi, ngán sợ bị ăn đòn, tối 23-2-1966, cả 2 cánh quân Mỹ cụm lại tại Bông Trang, Nhà Đỏ, có 2 chi đoàn thiết giáp bảo vệ vòng ngoài. Thời cơ đến, đặc công và bộ binh Sư đoàn 9 tổ chức 3 mũi tiến công vào 2 cụm quân dã ngoại của Mỹ, diệt trên 1.000 tên, bắn cháy và hỏng 48 xe tăng và thiết giáp; tiêu hao 1 tiểu đoàn Úc Đại Lợi, chiếm sở chỉ huy sư đoàn 1 “Anh cả đỏ”.

Cuộc hành quân “Hòn đá lăn” bị chặn đứng.

Bị thất bại nặng, Mỹ buộc phải “theo lao” mở cuộc hành quân qui mô lớn hơn mang tên “Thành phố bạc” (Sliver City) vào căn cứ miền Đông (ngày 7-3-1966) do lữ đoàn 173 đảm nhiệm với sự yểm trợ của máy bay, xe tăng, pháo binh. Khu vực trọng điểm của cuộc càn là Mã Đà, Rang Rang, Bà Hào, Bà Buông… nơi trú đóng của cơ quan Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông. Tiếp theo ngày 10-3, chúng mở tiếp cuộc hành quân “Dân tâm 38” ở khu vực bắc Tân Uyên, dùng xe tăng càn rừng để tìm phá các kho tàng, bến bãi của ta. Bộ Tư lệnh Miền thành lập Bộ Chỉ huy tiền phương chống càn do đồng chí Hoàng Cầm (sau này là Thượng tướng-Tư lệnh Quân đoàn 4) chỉ huy. Các cơ quan đều bố trí các trận địa chông mìn, cạm bẫy để bảo vệ căn cứ.

Trong các cuộc hành quân này, quân Mỹ bị Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 bao vây tiêu diệt 1 tiểu đoàn tại Tân Uyên và 2 lần tập kích lữ đoàn 173, diệt 300 tên ở Cù Định; đội bảo vệ căn cứ Bộ Tư lệnh Quân khu diệt 1 đại đội của Sư đoàn 1 Mỹ.

Sau một tuần càn quét đánh phá, không “tìm diệt” được lực lượng ta, lại bị tổn thất nặng nên ngày 15-3-1966, Mỹ phải chấm dứt cuộc càcn. Chúng phải huy động phi pháo “dọn bãi” cho trực thăng đáp xuống bốc quân về căn cứ. Song “hoạ vô đơn chí”, quân chủ lực Sư đoàn 9 lợi dụng sự chủ quan của địch, đã bất ngờ tấn công vào cụm quân Mỹ ở Bàu Sắn đang chực chờ máy bay xuống bốc, hạ tại chỗ 1.000 tên và vít cổ 5 trực thăng xuống đất.

Thế là hai cuộc hành quân hợm hĩnh “Hòn đá lăn” và “Thành phố bạc” đã bị quân và dân Chiến khu Đ hoá giải thành những thất bại ngấm đòn cho bọn xâm lược khi mới mon men vào cuộc phản công chiến lược mùa khô đầu tiên trên vùng “thánh địa” Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:19:54 pm
Có phải những trọng trách của Đặc khu Rừng Sác được hình thành từ Chiến khu Đ?


Đúng thế, đầu năm 1965 khi bước vào cuộc đọ sức với quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, Quân uỷ Trung ương đã chỉ thị thành lập Đặc khu quân sự Rừng Sác, nhằm khống chế sông Lòng Tàu, con đường “huyết mạch” chuyển tải phương tiện chiến tranh vào Sài Gòn và cả Nam Bộ.

Theo ý định của trên, tại Chiến khu Đ, một dự án về tổ chức và nhiệm vụ cụ thể của Đặc khu Rừng Sác được hình thành. Đồng chí Trần Văn Trà Tư lệnh B2 (vùng Nam Bộ) và đồng chí Trần Độ Phó chính ủy Miền trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Lương Văn Nho lúc đó là Tham mưu trưởng Sư đoàn 5 của Miền phụ trách việc thành lập Đặc khu với các nhiệm vụ quan trọng:

1.Xây dựng một khu căn cứ “bàn đạp” vững chắc cho các lực lượng vũ trang tại chỗ tấn công địch trong mọi tình huống.

2.Đánh địch trên các dòng sông, chủ yếu là sông Lòng Tàu, phá huỷ thật nhiều phương tiện chiến tranh của chúng và tiêu diệt sinh lực.

3.Kết hợp chặt chẽ với các tổ chức Đảng, dân chính và dựa vào dân để xây dựng cơ sở, phát động mạnh mẽ chiến tranh du kích trên địa bàn.

4.Bảo vệ an toàn hành lang vận chuyển của ta.


Do những biến đổi nhanh chóng của chiến trường, cũng như tại Chiến khu Đ, Bộ Tư lệnh Miền tiếp tục điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ cho Đặc khu Rừng Sác: Đảm nhiệm một hướng tiến công vào cơ quan đầu não của địch tại Sài Gòn. Tấn công liên tục vào các cảng quân sự của địch dọc sông Sài Gòn; đánh phá các kho tàng có tính chất chiến lược như tổng kho xăng dầu Nhà Bè, kho dự trữ bom đạn Thành Tuy Hạ… Tích cực hỗ trợ phong trào cách mạng địa phương: diệt ác phá kềm, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, xây dựng lực lượng vũ trang ở xã ấp…

Như thế, Đặc khu Rừng Sác tuy mang tính độc lập nhưng liên quan chặt chẽ với Chiến khu Đ, vì đây cũng là một cửa ngõ, một hướng tiến công của chiến trường miền Đông và cả Chiến khu Đ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 07:20:28 pm
Chiến khu Đ đã phối hợp với các chiến dịch lớn ở miền Đông đánh bại các cuộc hành quân lớn của Mỹ như Attenboro, Gianxơn Xity?

Mặc dù thất bại nặng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, nhưng Mỹ vẫn gia tăng cường độ thực hiện cuộc “Chiến tranh cục bộ” đẩy chiến tranh lên ở mức cao hơn. Chúng tiếp tục tăng quân Mỹ và chư hầu lên gần 1 triệu tên. Để chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966-1967), Mỹ hướng mục tiêu chính vào căn cứ Dương Minh Châu (Tây Ninh).

Ngày 14-9-1966, Mỹ mở cuộc hành quân qui mô lớn mang tên Antemboro vào chiến khu Dương Minh Châu. Trong gần 2 tháng, quân chủ lực Miền và lực lượng vũ trang Tây Ninh đã chiến đấu kiên cường bẻ gãy hoàn toàn cuộc càn lớn đầu tiên của Mỹ vào vùng căn cứ Tây Ninh.

Phối hợp với chiến trường Tây Ninh, quân và dân Chiến khu Đ đã dựa vào hệ thống chiến hào, các ụ, ổ chiến đấu và các trận địa chông, mìn… chống trả quyết liệt cuộc càn của 6 tiểu đoàn Mỹ vào Phú Hoà, Phước Hoà, Bình Mỹ, Tân Bình, Vĩnh Tân và đường 16, diệt 300 tên Mỹ, nguỵ, bắn rơi 2 máy bay, 4 xe tăng, 3 xe cơ giới. Ngày 8-12-1966, địch phải rút quân khỏi Chiến khu Đ.

Đầu năm 1967, với tham vọng lớn đánh vào tổng hành dinh Mặt trận giải phóng miền Nam, bắt sống các nhân vật lãnh đạo, chỉ huy của Mặt trận giải phóng miền Nam, Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền; phá huỷ Đài phát thanh giải phóng, đánh gãy “xương sống” chủ lực Việt Cộng ở miền Đông Nam Bộ, Mỹ mở cuộc hành quân qui mô lớn nhất trong cuộc chiến tranh với 45.000 quân Mỹ, do tướng Xi-man chỉ huy, vào cùng biên giới Việt Nam-Campuchia. Gần như toàn bộ quân Mỹ ở miền Đông và một khối lượng phương tiện chiến tranh hiện đại dồn vào cuộc hành quân khổng lồ này.

Nắm thời cơ, các sư đoàn thiện chiến của Mỹ bị thu hút vào vùng rừng núi bắc Tây Ninh, Khu uỷ chủ trương mở đợt tiến công mạnh vào các căn cứ, đồn bót địch, tích cực đánh phá các ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ của ta xung quanh Chiến khu Đ. Từ tháng 3 đến tháng 4-1967, bộ đội địa phương Phú Giáo, Tân Uyên đã đánh bại cuộc càn của trung đoàn 7 sư đoàn 5 nguỵ vào căn cứ. Cùng lúc, các đơn vị hoạt động mạnh trên các đường 14, 16, bức rút bức hàng 10 đồn bót địch, phá rã 22 ấp chiến lược, giải phóng 100 ngàn dân.

Các hoạt động phối của quân và dân Chiến khu Đ trong mùa khô 1967 đã góp phần “chia lửa” với chiến trường sôi động ở Tây Ninh giành thắng lợi lớn, đập tan cuộc càn của quân Mỹ, bảo vệ được vùng căn cứ quan trọng bậc nhất là đại bản doanh của Mặt trận giải phóng miền Nam; bước đầu làm thất bại ý chí của “Nhà Trắng” Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:02:03 pm
Chiến khu Đ đã chuẩn bị công tác bảo đảm cho cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 như thế nào?

Như ta đã biết Chiến khu Đ vừa là cầu nối vận chuyển của nhiều hành lang trên chiến trường miền Đông vừa là khu vực dự trữ hậu cần cho phía trước, nhất là mục tiêu trọng yếu Sài Gòn-Gia Định.

Tháng 11-1967, Hội nghị lần thứ 14 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ trọng đại là “… dùng phương pháp tổng công khởi nghĩa-tổng công kích để giành thắng lợi quyết định”.

Thực hiện nghị quyết lịch sử này, chiến trường miền Đông được bố trí lại cho phù hợp với ý đồ lấy Sài Gòn-Gia Định làm hướng tiến công chính của chiến dịch. Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn-Gia Định giải thể, tổ chức thành 6 phân khu; 5 phân khu hình thành mũi tiến công vào Sài Gòn, duy nhất Phân khu 6 phụ trách nội đô.

Phân khu 5 nằm trên địa bàn Chiến khu Đ, có đủ các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ hậu cần và một bệnh xá quân y. Đội vận tải phân khu đóng thùng hai ngăn ngụy trang đưa vũ khí từ căn cứ vào nội thành Sài Gòn. Các đơn vị quân nhu được bố trí ở Bình Mỹ, Nước Vàng, đường 20, tổ chức chuyển gạo và thực phẩm từ vùng địch chiếm, về cất dấu trong căn cứ.

Quân y Phân khu 5 hình thành trên cơ sở quân y T1 và một bộ phận quâny của tỉnh đội Bình Dương, có 1 bệnh xá tại suối Tây Ngủ với 300 giường, 3 đội phẫu thuật tuyến sáu…

Chiến khu Đ trở thành một hậu phương quan trọng phục vụ cho các lực lượng tiến công vào sào huyệt địch ở Sài Gòn. Cán bộ, chiến sĩ phòng hậu cần Phân khu 5 được sự tham gia giúp đỡ tích cực của nhân dân trên các tuyến thu mua vận chuyển hàng về căn cứ và tải hàng ra phía trước sẵn sàng phục vụ chiến dịch.

Đoàn hậu cần 84 của Miền cùng các đội dân công và nhân dân vùng chiến khu ngày đêm băng rừng lội suối tải hàng từ biên giới Campuachia về chiến khu chuẩn bị cho các đơn vị chủ lực Miền tiến công Sài Gòn ở phía đông và đông nam.

Đến cuối tháng 1-1968, kết hợp hậu cần khu vực với hậu cần nhân dân, ta đã dự trữ được 1.500 tấn lương thực và 750 tấn vũ khí đạn dược trong Chiến khu Đ, tạo điều kiện cho Sư đoàn 5 chủ lực Miền, Trung đoàn Đồng Nai và các lực lượng địa phương tiến công địch ở Biên Hoà, Sài Gòn-Gia Định đúng giờ qui định của cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:02:45 pm
Các đơn vị Cánh đông bắc xuất phát từ Chiến khu Đ đồng loạt vào chiến dịch Mậu Thân. Xin cho biết diễn biến các mũi tiến công?

Mậu Thân 1968, hướng tiến công chủ yếu được xác định là Sài Gòn, trung tâm guồng máy chiến tranh của Mỹ-Nguỵ, nhưng các hướng phụ cận cũng rất quan trọng, có tác dụng căng kéo, giữ chân địch cho các mũi chủ công đánh vào Sài Gòn, thực hiện nhiệm vụ chiến lược là tiêu diệt và làm chủ các mục tiêu trọng yếu nhất của địch như Đại sứ quán Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu Nguỵ, Biệt khu thủ đô, Đài phát thanh…
Lực lượng đứng chân ở Chiến khu Đ khá đông và mạnh, trong đó có những đơn vị được lệnh đánh sâu vào nội đô Sài Gòn và Gia Định.

Cuối tháng 1-1968, đồng chí Lê Đức Anh (sau này là Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Miền đã xuống Chiến khu Đ để trực tiếp chỉ đạo và thông qua kế hoạch tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Đông. Đêm 29-1-1968, được lệnh của Miền, Sư đoàn 5 chủ lực từ Chiến khu Đ vượt sông Đồng Nai về tập kết ở hốc Ông Tạ (Tân Định-Vĩnh Cửu) triển khai kế hoạch tiến công đợt 1 Mậu Thân. Trên hướng đường 13 và 16, Sư đoàn 7 chủ lực cũng từ căn cứ triển khai lực lượng hành tiến về các mục tiêu đã định.

Do không thống nhất thời gian trên toàn miền Nam, nên Tây Nguyên và một số tỉnh ở Khu 5 nổ súng trước 1 ngày. Cuộc tiến công và nổi dậy chính thức của nam Bộ khởi sự vào đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (tức đêm 1 tết Mậu Thân). Từ bàn đạp Chiến khu Đ, các lực lượng vũ trang của Miền và Phân khu 5 gồm Trung đoàn Đồng Nai và 5 tiểu đoàn hành quân tiến công các mục tiêu.

Sư doàn 5 chủ lực Miền và Trung đoàn pháo ĐKZ 724 tấn công sân bay Biên Hoà, khu kho Long Bình, Bộ Tư lệnh quân đoàn 3 nguỵ, Bộ Tư lệnh 2 dã chiến Mỹ, phá huỷ trên 120 máy bay, diệt nhiều địch và phương tiện chiến tranh của chúng, nhưng không chiếm được các mục tiêu.

Trung đoàn Đồng Nai tấn công các vị trí ở Phú Giáo, Tân Uyên. Bộ đội tập trung ở Phân khu tấn công các căn cứ Phước Vĩnh, Lai Khê, Phú Lơi. Tiểu đoàn Phú Lợi cùng bộ đội Tân Uyên đánh diệt các đồn bót địch ở Đồi Xiêm, dốc Bà Nghĩa, hậu cứ trung đoàn 48-sư đoàn 18 nguỵ ở dốc Bàn Tay, chi khu Tân Uyên… Các xã ven căn cứ ở hai bờ sông Đồng Nai (nam Chiến khu Đ), du kích và nhân dân nổi dậy diệt ác phá kềm, diệt các bót nguỵ, giành quyền làm chủ xã ấp.

Trên hướng đông bắc tiến công vào Sài Gòn, tiểu đoàn 3 Dĩ An thọc sâu đánh chiếm được các chi khu cảnh sát. Địch điều tiểu đoàn 30 biệt động từ Thủ Đức đến ứng cứu. Đến sáng 1-2, một bộ phận phát triển về khu vực Cầu Sơn. Địch mở liên tiếp nhiều cuộc phản kích giải toả có trực thăng võ trang và chiến xa yểm trợ. Tiểu đoàn 3 kiên cường chiến đấu, đến tối thì rút khỏi khu vực này. Một bộ phận về bám trụ tại xóm Đáy xã Bình Quới Tây, ngày 7-2 đã anh dũng chống càn 1 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến nguỵ, diệt 1 trung đội.

Tiểu đoàn 4 Thủ Đức cùng với đội biệt động quận tấn cộng địch ở khu vực cầu Sài Gòn, nhưng bị chúng phản công quyết liệt ngay từ đầu nên chưa tiếp cận phá cầu được. Tối 31-1, đại đội 2 của tiểu đoàn vượt sông Sài Gòn chiếm ấp 10 xã Bình Quới Tây. Ngày 4-2, phát triển sang ấp 9 diệt bót Bình Địa, đánh sập cầu Kinh. Địch đổ 2 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến, kết hợp với tàu chiến dưới sống và bọn bảo an trên bộ, dưới sự yểm trợ của phi pháo, phản kích ác liệt. Đơn vị dũng cảm chiến đấu, sau đó rút về căn cứ an toàn.

Cùng thời gian trên, Trung đoàn 4 Sư đoàn 7 chủ lực Miền tấn công chi khu quân sự và Liên trường Võ khoa Thủ Đức; Trung đoàn 1 Sư đoàn 7 đánh địch phản kích ở khu vực Lái Thiêu (Bình Dương) để giữ địa bàn phía sau.

Do địch phản kích mạnh, các đơn vị chủ lực Miền và Phân khu 5 bị thương vong nhiều trên đường rút ra vùng phụ cận trở về căn cứ. Góp phần vào chiến dịch, trên 1.000 dân công của Phân khu đã dũng cảm vượt qua bom pháo địch, tải thương, tải đạn. Bệnh xá Phân khu tuyến trước ở bàu Tiền Tà đã khắc phục nhiều khó khăn cứu chữa khoảng 1.500 thương binh.

Đêm 17-2, ta mở cao điểm 2 của đợt 1. Cùng với các hướng quanh Sài Gòn, Tiểu đoàn Đồng Nai và Tiểu đoàn Dĩ An tiến công địch ở cầu Bình Lợi diệt 60 tên thuỷ quân lục chiến. Kế hoạch phá cầu Bình Lợi không thực hiện được. Đêm 24-1, các đơn vị ở cánh Thủ Đức phá sập cầu giồng Ông Tố, cầu Gò Dừa và cầu Kinh Thanh Đa.

Kết thúc đợt 1 Mậu Thân, các đơn vị chủ lực Miền và Phân khu rút về Chiến khu Đ. Nhờ công tác đảm bảo vật chất tốt, hậu cần Phân khu 5 và các đoàn hậu cần của Miền ở phía sau đã tạo được “đầu cầu” cho các đơn vị tiến công địch ở Sài Gòn, hoàn thành tốt nhiệm vụ hậu cần của một chiến dịch lớn và duy trì cho các lực lượng tiếp tục hoạt động trong các đợt sau.

Trong đợt 2 của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, các lực lượng vũ trang của Miền từ bàn đạp Chiến khu Đ đã tiến công và pháo kích vào các thị trấn Phước Bình, chi khu Lộc Ninh, tiểu khu Bình Long gây cho địch nhiều thiệt hại. Riêng ở hướng bắc Sài Gòn do Phân khu 5 đảm trách, đêm 25-5-1968, 2 tiểu đoàn của Trung đoàn Đồng Nai vượt sông chiếm được khu vực giồng ông Ông Cộ, ngã năm Bình Hoà (nay thuộc quận Bình Thạnh), Bà Chiểu, chùa Quản Tám, Cây Quéo. Sau nhiều ngày chiến đấu ác liệt, đơn vị đánh thiệt hại 1 tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến. Đến 7-5, rút về căn cứ theo hướng An Phú Đông (Hóc Môn).

Như vậy, cùng với những chiến công trong chiến dịch Mậu Thân lịch sử, tạo bước ngoặt trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, quân và dân Chiến khu Đ đã góp phần đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô của đế quốc Mỹ trên chiến trường miền Nam.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:03:24 pm
Sau Mậu Thân, địch quay lai phản kích cực kỳ ác liệt. Xin cho biết hình thái Chiến khu Đ trong thời điểm này?

Cuộc tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Ý chí của bọn xâm lược bị lunglay, chúng phải “xuống thang chiến tranh”, tới Hội nghị Paris bàn việc chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, với bản chất hiếu chiến, Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” thay màu da cho xác chết, hi vọng tìm kiếm một giải pháp có lợi cho chúng. Từ “tìm diệt”, địch chuyển sang “quét-giữ”, đi đôi với thực hiện chương trình bình định một cách ráo riết hơn.

Đầu năm 1969, Mỹ điều sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và lữ đoàn 1 sư đoàn dù 101 từ Trị Thiên vào miền Đông Nam Bộ, kết hợp với lực lượng tại chỗ lập phòng tuyến từ xa để bảo vệ Sài Gòn.

Mỹ cho rằng Chiến khu Đ sẽ uy hiếp nơi quân Mỹ tập trung “xuống thang” để rút quân về nước, nên chúng lập tức thực hiện kế haọch bao vây chia cắt vùng căn cứ quan trọng này. Quân Mỹ lập nhiều cụm chốt trên các đường 13, 14, 16, 20, trong đó có nhiều chốt cấp tiểu đoàn.

Trong năm “con gà”, Mỹ có ý định bới tung các căn cứ, đánh trốc lực lượng ta ra xa, càng xa càng tốt, nhằm trấn an chính quyền Thiệu, để chúng có thể rút chân ra khỏi “vũng lầy” miền Nam một cách “danh dự”.

Từ căn cứ Lai Khê, Phước Vĩnh, quân Mỹ phối hợp với quân nguỵ từ chi khu Phú Giáo, Tân Uyên, có máy bay, xe tăng, pháo binh hỗ trợ đắc lực, liên tục đánh phá dọc theo các đường 13, 14, 16; càn quét vào các vùng căn cứ Rầy Gạch, Bàu Gốc, Suối Ổi, Bến Tràng, Rang Rang, Bà Hào, Bà Đã, Vĩnh An… khống chế các đường liên lạc, vận chuyển của ta dọc sông Bé và sông Đồng Nai. Đi liền với càn quét đánh phá địch, địch dùng máy bay phun chất độc hóa học và bom xăng huỷ diệt nhiều cánh rừng chiến khu; thả máy ghi tiếng động và các toán biệt kích luồn sâu vào cùng căn cứ để phát hiện nơi đóng quân, các hành lang vận chuyển, các kho tàng hậu cần của ta.

Trên các vùng ven phụ cận chiến khu, quân nguỵ liên tiếp mở các cuộc hành quân càn bố gom dân, củng cố các ấp chiến lược, đồng thời tung bọn tình báo, “Phượng Hoàng”, ”Thiên Nga” (bọn nửa gián điệp, mật vụ) trà trộn vào dân chúng để theo dõi cơ sở cách mạng. Ngoài ra là các chiến dịch “B52 trải thảm”, “biệt kích tràn ngập lãnh thổ” nhằm tiêu diệt, phong toả lực lượng ta trong và ngoài căn cứ.

Ở các vùng địch kiểm soát tiếp giáp với vùng căn cứ, địch dựng thêm hàng trăm đồn bót, củng cố bộ máy hạ tầng cơ sở, cưỡng ép thanh niên vào lực lượng phòng vệ dân sự để bảo vệ ấp chiến lược; đi đôi với vơ vét thóc gạo, ngăn chặn, cắt đứt đường dây tiếp tế, cô lập lực lượng ta.

Với những thủ đoạn tàn bạo, địch dần dần chiếm lại được một số vùng giải phóng và vùng tranh chấp ở Phú Giáo, Tân Uyên.

Lực lượng của ta ở Chiến khu Đ sau những đợt chiến đấu, hoạt động liên tục, bị nhiều tổn thất chưa kịp củng cố bổ sung… đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng do địch đánh phá, phong toả liên miên. Đây là thời kỳ các lực lượng bám trụ Chiến khu Đ phải chịu đựng nhiều khó khăn, ác liệt, hi sinh trong thế địch phản kích mạnh mẽ, quyết liệt.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:03:59 pm
Trước những thủ đoạn đánh phá khốc liệt của kẻ thù, các lực lượng trong Chiến khu Đ đã làm gì để xoay chuyển tình thế?

Quả là những thủ đoạn đánh phá đầy nỗ lực của địch nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường đã làm cho lực lượng ở chiến khu thực sự “lâm trận”. Lực lượng ta ngày càng bị tổn thất thêm và thiếu đối nghiêm trọng. Lúc này ra khỏi hầm là đụng biệt kích, bom pháo; gạo muối, thực phẩm của Chiến khu Đ phải đổi bằng xương máu của nhiều cán bộ, chiến sĩ. Bộ đội chủ lực Quân khu phải đào củ chuối, ăn cháo… làm sao cầm nổi khẩu súng… Đây là một thực trang của chiến trường lúc này, mà anh em thường nói “tình hình dày như da trâu”.

Tuy nhiên ta không chịu bó tay, “co lại” cho địch hoành hành. Các đoàn hậu cần của Miền đóng ở chiến khu, chuyển hoạt động về đông bắc, mở được một số cửa khẩu ở Bàu Hàm, Hưng Lộc và đường 20 giải quyết được một phần lương thực cho các đơn vị, nhưng ta vẫn chưa phá được sự phong toả gắt gao của địch.
Trong điều kiện rất gian khổ khó khăn, thực hiện nhiệm vụ do Hội nghị lần thứ 9 Trung ương Cục đề ra, tháng 11-1969, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền mở đợt tiến công mùa đông nhằm khắc phục khó khăn trước mắt, tiêu diệt sinh lực địch, thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta. Ở miền Đông Nam Bộ hướng tiến công chủ yếu của quân chủ lực Miền nhắm vào các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Long Khánh, đường 20, đường 14 và vùng ven Sài Gòn. Trong tuần đầu tháng 11, ta tấn công tiêu diệt chi khu Bù Đốp trên tỉnh lộ 1A, đánh chặn viện chung quanh chi khu, diệt 500 tên… làm vỡ một mảng phòng thủ của địch ở phía bắc Chiến khu Đ.

Ở Chiến khu Đ, lực lượng vũ trang huyện Phú Giáo và Tân Uyên mở đợt võ trang tuyên truyền vào các ấp chiến lược Vĩnh Hoà, Vàm Giá, Nước Vàng, Bình Mỹ, Tân Bình, Lạc An… diệc ác, phá kềm; tấn công các đoàn bình định nông thôn và lực lượng phòng vệ dân sự… Bộ đội tập trung Phân khu 5 pháo kích căn cứ Phước Vĩnh, chi khu Tân Uyên; gây thiệt hại nặng cho các cụm quân Mỹ đóng dã ngoại ở  ngã tư Bằng Lăng, Nhà Đỏ, Lạc An, Vĩnh Hoà… Các xã căn cứ Thường Lang, Lạc An, Mỹ Lộc vận dụng 3 mũi giáp công, khiến bọn bảo an, dân vệ không dám bung ra, tạo điều kiện cho các đơn vị hậu cần đột ấp, thu mua lương thực đưa về căn cứ.

Trong lúc tiến hành rút quân chiến đấu khỏi miền Nam, các đơn vị Mỹ vẫn đánh phá ác liệt Chiến khu Đ. Tình hình bẫn còn rất khó khăn. Phân khu uỷ chỉ đạo các lực lượng kiên quyết bám trụ vừa chiến đấu vừa đẩy mạnh tăng gia sản xuất tự túc. Các cơ quan liên tục di chuyển căn cứ, vừa đánh bọn biệt kích vừa nuôi dưỡi, điều trị thương bệnh binh và chiến đấu bảo vệ căn cứ.

Ngày 18-3-1970, Mỹ giật dây cuộc đảo chính ở Campuchia, lật đổ Hoàng thân Xihanúc, đưa Lonol lên nắm quyền; đồng thời mở rộng cuộc chiến tranh ra khắp Đông Dương. Nhiều sư đoàn ngụy bị chôn chân trên chiến trường biên giới và Campuchia, nên mức độ đánh phá vùng chiến khu giảm dần.

Chiến khu Đ đang đứng trước một thời cơ mới để củng cố và phá triển lực lượng, vượt qua khó khăn, chuyển sang thế chủ động tiến công, giải toả dần áp lực nặng nề của địch.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:04:36 pm
Nắm thời cơ quân đội giành chiến thắng tên các mặt trận ở Campuchia và Lào, lực lượng vũ trang Chiến khu Đ đã phá thế bao vây, phát triển mạnh phong trào chiến tranh nhân dân?

Để thực hiện nhiệm vụ củng cố và xây dựng căn cứ, các lực lượng vũ trang tiến hành đợt học tập quán triệt tình hình nhiệm vụ mới. Trên cơ sở quân chủ lực Miền và quân giải phóng Campuchia đã giành được thắng lợi trên chiến trường Campuchia, mở rộng vùng giải phóng, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, là cơ hội tốt cho cách mạng miền Nam phát triển. Từ tháng 2 đến tháng 5-1971, thất bại trên mặt trận đường 9-Nam Lào và đông bắc Campuchia, làm quân đoàn 3 chủ lực nguỵ là lực lượng tác chiến ở miền Đông.

Nắm thời cơ này, Phân khu 5 chỉ đạo các lực lượng đẩy mạnh tiến công địch, hỗ trợ đánh phá bình định ở vùng ven và vùng căn cứ. Các đơn vị địa phương và du kích mở nhiều cuộc tiến công địch trên đường 14, Đồng Xoài, Phú Lợi, Tân Uyên, Bình Cơ gây cho địch nhiều thiệt hại về người và phương tiện chiến tranh.
Được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, các chi bộ mật trong các ấp chiến lược Bình Mỹ, Tân Bình, Vĩnh Tân, Phước Vĩnh… đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống kềm kẹp, đòi bung về đất cũ sản xuất… Địch phải chấp nhận yêu sách mở cổng ấp chiến lược cho đồng bào đi làm sớm. Qua phong trào đấu tranh chính trị, các lực lượng đã vận động được 5.000 dân về vùng căn cứ sản xuất và xây dựng được nhiều cơ sở mật trong các ấp chiến lược làm “tai mắt” cho cách mạng.

Trong thời gian này, quân Mỹ rút khỏi một số căn cứ ở Chiến khu Đ, bàn giao địa bàn cho sư đoàn 5 nguỵ, nên việc đánh phá, càn quét của địch giảm sút, cũng là thời cơ tốt cho chiến trường Chiến khu Đ. Phân khu 5 tập trung đánh phá bình định mạnh hơn, tăng cường các đội vũ trang xuống vùng Phú Giáo, Tân Uyên cùng lực lượng địa phương mở các đợt tiến công, phá lỏng thế kềm kệp của địch ở các ấp chiến lược.

Trong đợt hoạt động mùa mưa năm 1971, từ bàn đạp căn cứ, các đơn vị vũ trang kết hợp với các mũi chính trị, binh vận tiến công các căn cứ quân sự ở Phú Lợi, Phước Vĩnh và các ấp chiến lược trong vùng, diệt ác phá kềm, phát động quần chúng bung dân về vùng căn cứ, vận động thanh niên tòng quân… Bộ máy chính quyền tề xã, ấp hoạt động kém hiệu quả. Bọn bảo an dân vệ không dám lộng hành như trước. Thế làm chủ của nhân dân được nâng lên.

Trên chiến trường Đông Dương, địch liên tục bị thất bại trong các chiến dịch lớn của ta. Tuy một bộ phận quân chủ lực của miền Đông được điều phối lên chiến trường bạn, nhưng các lực lượng ở Chiến khu Đ, chủ yếu là của Phân khu 5 và địa phương vẫn bảo đảm tốt vai trò đòn seo trên mặt trận diệt địch và đánh phá bình định, từng bước lấy lại thế chủ động chiến trường. Đặc biệt là củng cố được phong trào và tiếp tục phát triển chiến tranh nhân dân, dần dần khôi phục lại thế trận như trước năm 1968.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:05:22 pm
Trong thời gian Mỹ rút quân, Chiến khu Đ đã được củng cố và phát huy nội lực ra  sao?

Mỹ “xuống thang chiến tranh” là điều không cưỡng được do những thất bại liên tiếp về chiến lược và làn sóng đấu tranh phản đối cuộc chiến vô nghĩa, hao người tốn của, của nhân loại tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là ngay trong lòng nước Mỹ. Từ cuối năm 1970, những đơn vị viễn chinh sừng sở của Mỹ như Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới”, Sư đoàn 1 “Anh cả đỏ”, “Kỵ binh thiết giáp”... lần lượt rút khỏi chiến trường Sài Gòn-Gia Định và miền Đông Nam Bộ. Đội quân của các nước chư hầu “theo đóm ăn toàn” cũng dần biến mất…

Trước tình hình đó, tháng 5-1971, Trung ương Cục quyết định giải thể Phân khu 5 (thành lập tháng 10-1967) để thành lập Phân khu Thủ Biên, bao gồm các xã Chiến khu Đ, Câu Thành, thị xã Biên Hoà, huyện Vĩnh Cửu, Trảng Bom ở phía nam chiến khu bên bờ hữu ngạn sông Đồng Nai. Căn cứ Phân khu đóng bên suối Bà Thơ. Đồng chí Nguyễn Văn Trung Bí thư Phân khu uỷ, đồng chí Nguyễn Hồng Lâm Tue lệnh Phân khu. Việc thành lập Phân khu Thủ Biên đã thống được sự chỉ đạo chung ở chiến trường căn cứ phía nam, tạo bàn đạp trực tiếp tiến công các cơ quan đầu não địch ở miền Đông, thiết lập hành lang và cửa khẩu cho các căn cứ ở lộ 1 và 20.

Tháng 7-1971, Trung ương Cục họp tổng kết tình hình chiến trường miền Nam; đặc biệt nhấn mạnh vấn đề xây dựng hậu phương và căn cứ, giữ vững đường hành lang chiến lược, tăng cường dự trữ vật chất, phát huy nội lực hậu phương để đảm bảo nhu cầu cho phía trước. Trong đó chú trọng khu vực biên giới Bình Long, Phước Long xuống Chiến khu Đ, kết hợp với lực lượng Miền và địa phương để tổ chức hành lang vận chuyển.

Thực hiện chủ trương này, không những các đoàn hậu cần đẩy mạnh các mặt hoạt động mà cả đơn vị chiến đấu, cơ quan, ban ngành đứng chân trên địa bàn chiến khu, ngoài nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ căn cứ đều thành lập các khu vực sản xuất, trồng các cây lương thực như bắp, khoai, đậu…. Vụ mùa 1971, thu hoạch được gần 100 tấn và thu mua vùng ngoài căn cứ hơn 50 tấn lương thực. Đến đầu năm 1972, Chiến khu Đ đã có lương thực dự trữ cho 1.500 người trong 1 tháng. Các đoàn hậu cần của Miền và Phân khu đã mở được hành lang từ Chiến khu Đ xuống chiến trường… Đây là một thắng lợi có ý nghĩa về kinh tế đối với Chiến khu Đ vừa trải qua một bị địch bao vây phong toả, đánh phá hết sức ác liệt, bảo đảm sức chiến đấu cho các lực lượng trong căn cứ.

Mỹ tiếp tục rút quân khỏi chiến trường để hồi hương. Lúc này ở Chiến khu Đ chỉ còn lại vài tiểu đoàn mỹ với tâm trạng trông chờ ngày về nước, nên hoạt động không có gì đáng kể. Cái “đuôi thừa” của cuộc viễn chinh thế kỷ đang uể oải buông xuôi. Đó là cơ hội để các lực lượng vũ trang Chiến khu Đ vươn lên giành thế trận mới.

Để giữ vững và phát triển địa bàn trong tình hình mới, các đơn vị ở Chiến khu Đ mở nhêìu đợt tiến công vào các cứ điểm cơ bản của địch ở vùng ven và các cụm quân địch đóng dã ngoại trong vùng chiến khu, diệt nhêìu đơn vị bộ binh và binh chủng của chúng ở Tân Uyên, Phú Giáo; tập kích vào sân bay Biên Hoà, căn cứ Phú Lợi, Phước Vĩnh, Rày Gạch, Nhà Đỏ, Vàm Giá, Phước Hoà… diệt 160 tên, phá huỷ 18 máy bay, 2 khẩu pháo 105 ly, một số trụ sở tề nguỵ, kho tàng.

Vừa tiến công tiêu diệt vừa căng kéo địch trên chiến trường, Chiến khu Đ còn xây dựng được tiềm lực vật chất để chuẩn bị cho thời cơ mới, vượt thoát được thời kỳ khó khăn nhất, là một thành công lớn về chỉ đạo và thực hiện của chiến khu trong giai đoạn chuyển chiến lược từ phòng ngự, chống đỡ sang chủ động tiến công toàn diện.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:06:10 pm
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giáng cho Mỹ-nguỵ thêm một đòn nặng sau Mậu Thân, xin cho biết các lực lượng ở Chiến khu Đ đã vào cuộc như thế nào?

Với những nỗ lực khắc phục khó khăn, vươn lên của cách mạng miền Nam, đã đẩy “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ vào thế tiến thoái lưỡng nan và nguy cơ phá sản như hai chiến lược thể nghiệm đã bị thất bại. Mỹ tăng cường quân sự để giành “thế thượng phong” trên chiến trường hay chịu thua trên bàn hội nghị. Rõ ràng Mỹ phải chấm dứt can thiệp để rút khỏi đường hầm không lối thoát của một cuộc chiến tranh bể bạc nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Tình hình đã khá sáng sủa. Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ: Nắm lấy thời cơ lớn, quyết đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, giành thắng lợi quyết định trọng năm 1972. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam. Trên chiến trường B2, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền vạch kế hoạch: Đánh quị khối chủ lực quân đoàn 3 và lực lượng tổng trù bị của nguỵ, đánh bại cơ bản kế hoạch bình định của địch ở đồng bằng sông Cửu Long và xung quanh Sài Gòn, đưa phong trao đô thị lên một cao trào mới…

Thực hiện quyết tâm của trên, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch cấp tương đương quân trên chiến trường miền Đông, gọi là “chiến dịch Nguyễn Huệ”. Đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh chiến dich, đồng chí Trần Độ làm Chính uỷ. Hướng chủ yếu của chiến dịch là đường 13, khu vực quyết chiến là Lộc Ninh (đợt 1), Hớn Quản, Châu Thành (đợt 2)…

Trên địa bàn Chiến khu Đ, Mỹ điều 2 trung đoàn thiết giáp và 1 tiểu đoàn kỵ binh không vận đến án ngự đường 16; 3 tiểu đoàn thiết giáp và 3 tiểu đoàn bộ binh nguỵ ngăn chặn hành lang từ nam Tây Nguyên về Chiến khu Đ, đồng thời bảo vệ đường 14 từ Đồng Xoài đi Phước Long. Địch tổ chức càn quét liên tục dọc sông Đồng Nai, bắc Tây Nguyên, đường số 7, số 8… đánh vào các cửa khấu phá thế chuẩn bị của ta.

Chuẩn bị cho đợt 1 xuân-hè 1972, Phân khu Thủ Biên mở đợt đánh phá bình định trên địa bàn Chiến khu Đ.
Ngày 31-3-1972, chiến dịch Nguyễn Huệ mở màn… Chủ lực Miền tiến công tiêu diệt chi khu Lộc Ninh, giải phóng toàn huyện ngày 7-4. Địch phải rút phần lớn quân nguỵ ở Long Khánh về miền Tây về ứng cứu giải toả đường 13 là con đường huyết mạch từ Sài Gòn đi Phước Long.

Phối hợp với mặt trận đường 13, bộ đội địa phương Phước Long đánh 2 đồn ở phía bắc Chiến khu Đ là Vĩnh Thiện, Phú Nghĩa… tiến lên dùng 3 mũi giáp công bức hàng, bức rút hàng loạt đồn bót trên đường 14… Bọn địch đứng chân ở Bù Na, sông Bé hốt hoảng rút chạy.

Trên hướng tây và tây nam Chiến khu Đ, bộ đội tập trung phân khu và bộ đội địa phương Tân Uyên tấn công tiêu diệt đồn An Lợi, Tân Bình. Pháo binh Phân khu dội lửa vào sân bay Biên Hoà, Phú Lợi, Phước Vĩnh. Lực lượng của Phân khu, Phước Long, Tân Uyên tấn công hàng chục mục tiêu và chốt dã ngoại, phá thế kềm kẹp cho nhân dân ở các xã Bình Mỹ, Bình Cơ, Nước Vàng, Vàm Giá, Phước Tiến…

Ở phía nam Chiến khu Đ, ta đã bao vây cô lập địch ở bót Bình Cơ, cắt đứt giao thông đường 16… bẻ gãy cuộc phản kích của bọn bảo an từ Phú Giáo xuống giải toả Bình Cơ. Địch ở Tân Uyên bị ta uy hiếp mạnh…
Tháng 8-1972, để thống nhất chỉ đạo chiến trường miền Đông, tập trung lực lượng cho “thời cơ” chiến dịch Nguyễn Huệ, Trung ương Cục quyết định thành lập lại Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông. Căn cứ đóng tại suối Bon, suối Ràng, Mã Đà, Vĩnh An, Bà Hào, Rang Rang.

Vào đợt 3 chiến dịch (6-10-1972), các sư đoàn 7 và 9 của Miền phát triển xuống phía nam uy hiếp địch ở vùng bắc Sài Gòn. Pháo binh của Quân khu tấn công cụm pháo địch ở Chánh Lưu, phá huỷ 1 khẩu 105 ly và làm cháy 5 kho đạn, xăng dầu. Bộ đội địa phương Thủ Dầu Một đánh diệt bọn bảo an ở Nhà Đỏ, Bông Trang, giải phóng trên 1.000 dân. Bộ đội địa phương Châu Thành diệt đồn An Lợi, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 25 nguỵ trên đường 14…

Trên đường phối hợp ở nam Chiến khu Đ, chủ lực Quân khu tiến công đồn Sông Thao, Bàu Hàm, phá rã lực lượng phòng vệ dân sự của địch tại đây. Pháo binh của Miền kết hợp với nội tuyến trong sân bay Biên Hoà, gài mìn hẹn giờ làm nổ tung 4 kho bom, phá huỷ 200 máy bay các loại. Đặc công Miền đột nhập khu kho liên hợp Long Bình phá huỷ 200 nhà kho chứa trên15 ngàn tấn bom đạn, diệt 300 tên.

Cuối năm 1972, chiến dịch Nguyễn Huệ kết thúc thắng lợi, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, tác động lớn trên mặt trận ngoại giao, thúc đẩy tiến trình đàm phán Hội nghị Paris về Việt Nam đi tới hồi kết.

Cùng với thắng lợi chiến dịch “Điện Biên Phủ trên bầu trời Hà Nội” trong 12 ngày đêm đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ, ta đã buộc địch phải ký kết hiệp định, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Đây là một thắng llợi hết sức to lớn trong sự nghhiệp giải phóng đất nước, để ta tiến lên gình thắng lợ hoàn toàn sau này.

Với chiến dịch Nguyễn Huệ, quân và dân Chiến khu Đ đã cùng với quân chủ lực Miền mở thông tuyến hành lang biên giới Campuchia-Lộc Ninh-Bù Đốp-Phước Long và Chiến khu Đ-nam Phước Long-Tây Nguyên với đường dây 559 của Bộ Quốc phòng, tiếp nhận sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho chiến trường Nam Bộ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:06:50 pm
Với bản chất ngoan cố, Mỹ-nguỵ đã phản bội Hiệp định Paris khi chữ ký chưa ráo mực. Chiến khu Đ đã cảnh giác kịp thời chống lại những hành động trắng trợn của địch?

Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về châm dứt chiến tranh Việt Nam, lập lại hoà bình, được ký kết. Theo tình thần cơ bản của hiệp định đã được 4 bên (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam, Chính phủ Mỹ, Chính phủ Việt Nam cộng hoà) ký kết, mọi điều khoản phải được các bên thi hành nghiêm chỉnh. Song trên thực tế, với bản chất ngoan cố, lật lọng, Mỹ-nguỵ đã vạch ra một loạt kế hoạch nhằm tiêu diệt cách mạng, tiến tới kiểm soát toàn bộ miền Nam. Ngay từ cuối năm 1972, chuẩn bị ý kết Hiệp đinh Paris, địch đã đề ra kế hoạch “Hùng Vương” nhằm “tràn ngập lãnh thổ”, giành đất, giành dân trước khi hiệp định có hiệu lực. Trước hàng ngàn binh sĩ, tên tổng thống Việt gian Nguyễn Văn Thiêu hô hào “Thừa thắng xông lên tái chiếm lãnh thổ”, “trên chiến trường ai mạnh người đó thắng”…

Trên địa bàn Chiến khu Đ và vùng ven, ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết, địch liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn chiếm. Xung quanh các ấp chiến lược, địch ủi phá địa hình, nhất là các khu rừng chồi chúng nghi là có căn cứ du kích. Các cụm pháo ở Biên Hoà, Đại An, Tân Uyên, Phước Hoà, Phước Vĩnh, Đồng Xoài bắn loạn vào vùng giải phóng, up hiếp, gây trở ngại cho nhân dân ra đồng sản xuất, liên lạc với cách mạng.
Ở các vùng trọng điểm, nam bắc đường 14, địch xua quân càn quét lấn chiếm, dựng thêm các đồn bót, bố trí các đơn vị chủ lực nguỵ và bảo an cấp tiểu đoàn…

Đi đôi với việc lấn chiếm vùng giải phóng, địch còn hỗ trợ cho bọn tư  sản đưa dụng cụ cơ giới vào khai thác gỗ để phá địa hình vùng căn cứ.

Tháng 2-1973, quân nguỵ có xe tăng, pháo binh yểm trợ, liên tục đánh sâu vào căn cứ phía nam, tây bắc và bắc chiến khu.

Tình hình trở nên phức tạp. Do ta chủ trương chấp hành hiệp định, chưa nắm được âm mưu của địch nên nhiều nơi lúng túng trước hành động trắng trợn giành dân lấn đất của chúng. Tư tưởng “hoà bình chủ nghĩa” xuất hiện trong một số cán bộ.

Nhận rõ nguy cơ, trên kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc mơ hồ mất cảnh giác muốn “xả hơi” trong một số cán bộ, chiến sĩ, tăng cường đề cao cảnh giác, kiên quyết chống địch lấn chiếm.

Được học tập quán triệt tình hình nhiệm vụ, nhận rõ âm mưu thủ đoạn mới của kẻ thù, các lực lượng trong chiến khu bắt đầu chuyển biến.

Ở phía nam Chiến khu Đ, theo chỉ đạo của Khu uỷ và Quân khu uỷ miền Đông, ngày 26-5-1973, tiểu đoàn Phú Lơi đã giáng cho quân nguỵ một đòn đích đáng, làm thương vong nặng 1 tiểu đoàn và phá huỷ nhiều xe quân sự càn vào vùng Bình Mỹ, Tân Bình. Chặn đứng cuộc hành quân lấn chiếm này, trào chiến tranh nhân dân ở địa phương được đẩy lên một bước. Bộ đội địa phương Phú Giáo, Tân Uyên và du kích các xã liên tục chặn đánh các mũi tiến công lấn chiếm, hạn chế hoạt động của địch trên các đường 8, 14, 16…

Đi đôi với đánh địch lấn chiếm, cán bộ phong trào bám sát cơ sở tuyên truyền vận động nhân dân dựa vào pháp lý hiệp định đấu tranh với địch, đòi tự do đi lại làm ăn, không bắn pháo vào xóm lang, ruộng rẫy…

Ở phía bắc căn cứ, bộ đội địa phương Phước Long, Đồng Xoài, Bù Đăng kiên quyết không để mất đất, mất dân, đã đánh trả bọn địch lấn chiếm 163 trận, diệt 788 tên, nhổ 2 bót địch đóng trái phép trên đường 14, bảo vệ được vùng giải phóng. Đầu tháng 6-1973, lực lượng vũ trang Phú Giáo, Đồng Xoài phối hợp với bộ đội Sư đoàn 7 của Miền chặn đánh địch quyết liệt trên đoạn đường từ Nước Vàng đến bàu Đồng Sen, diệt 1 tiểu đoàn và 1 đại đội, đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn khác; tổng cộng địch thương vong 315 tên, 85 tên bị bắt… bẻ gãy cuộc hành quân giải toả đường 14 của chúng. Bộ đội địa phương Thủ Dầu Một, Phước Long, Phú Giáo, Tân Uyên diệt 350 tên, phá huỷ 5 xe tăng, buộc địch phải rút về Đồng Xoài, Phước Vĩnh, không thực hiện được ý đồ càn quét lấn chiếm vùng giải phóng.

Trước những đòn giáng trả mạnh mẽ của quân và dân Chiến khu Đ, địch phải bỏ một số chốt, đồn bót đóng sâu vào căn cứ, sau ký kết Hiệp định Paris. Ta tấn công bằng cả ba mũi: quân sự, chính trị, binh vận, buộc địch phải lùi từng bước. Đồng bào trong các ấp chiến lược ngày càng nới lỏng ách kềm kẹp của địch, bung về vùng giải phóng làm ăn, tạo thế hợp pháp cho cách mạng, ngăn chặn có hiệu quả những âm mưu, thủ đoạn phá hoại hiệp định, của địch.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 09 Tháng Mười Một, 2007, 10:07:27 pm
Trong chiến dịch mùa khô 1973-1974, Chiến khu Đ đã phản công quân địch, tiến lên mở rộng vùng giải phóng, chuẩn bị cho thời cơ lớn trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh?

Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, ta đã lập lại thế cân bằng và nghiên dần cán cân lực lượng về phía cách mạng. Một thế trận mới đã mở ra triển vọng đánh thắng giặc Mỹ theo lời di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cuối năm 1973, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch mùa khô 1973-1974 phản công và tiến công nhằm đánh bại kế hoạch bình định của địch, tiếp tục mở hành lang, toạ bàn đạp vững chắc, mở rộng hơn nữa vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ, tạo thế và phát triển thực lực, chuẩn bị giành thắng lợi lớn hơn trong mùa mưa tới. Trong thực hiện kế hoạch mùa khô, phải thu hồi, làm chủ 4 xã ở Chiến khu Đ cũ, mở rộng và làm chủ một số khu vực phía nam sông Đồng Nai, đường 14 từ Đồng Xoài đi Bù Na, Bù Đăng, cô lập thị xã Phước Long và chi khu Phước Bình.

Đêm 4-11-1973, chiến dịch Bù Đăng-Tuy Đức (Quảng Đức) mở màn. Đoàn 249 đặc công R cùng bộ đội chủ lực tiến công địch trong căn cứ Bù Đăng, Tuy Đức, Đắc Sông và trụ lại đánh phản kích làm thiệt hại quân nguỵ thuộc sư đoàn 22 và đoàn biệt bích B1 đến chi viện, giải vây.

Chiến dịch Bù Đăng-Tuy Đức thắng lợi, mở ra một vùng giải phóng liên hoàn dọc theo tuyến biên giới từ Quảng Đức-Phước Long-Bình Long-Tây Ninh-Lộc Ninh nối liền xuống tới vùng trung tuyến Dầu Tiếng-Bến Cát-Củ Chi. Đặc biệt đường hành lang chiến lược từ hậu phương miền Bắc theo đường Trường Sơn có thể đi ô tô qua Chiến khu Đ về Lộc Ninh-thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam từ khi ký kết Hiệp định Paris 1972.

Phố hợp với chiến dịch Bù Đăng-Tuy Đức, lực lượng vũ trang Chiến khu Đ và vùng ven đã tiến lên phản công, đẩy quân địch ra khỏi vùng căn cứ và vùng tranh chấp, giữ vững các cửa khẩu của chiến khu. Đầu tháng 1-1974, tiểu đoàn Phú Lợi và du kích xã đã chặn đánh trung đoàn 43 sư đoàn 18 nguỵ và 2 tiểu đoàn biệt động quân, diệt 134 tên, bắn cháy 6 xe thiết giáp. Bộ đội địa phương Châu Thành và Lái Thiêu đánh lui 1 tiểu đoàn bảo an, diệt 54 tên, bắn cháy 5 xe quân sự.

Trong lúc chiến dịch mùa khô đang diễn ra sôi động, Trung ương Cục chỉ thị “công tác xây dựng căn cứ là vấn đề rất lớn và cơ bản, bức thiết trước mắt cũng như lâu dài. Phải tạo được sự liên hoàn giữa các địa phương, các đơn vị của Quân khu và quân chủ lực Miền”.

Thực hiện chỉ thị của trên, Khu uỷ và Quân khu miền Đông đã chỉ đạo xây dựng vùng căn cứ mạnh cả kinh tế và an ninh quốc phòng; tập trung sản xuất lương thực để chống đói trước mắt và dự trữ lâu dài. Trong năm 1974, các đơn vị hậu cần Quân khu và hậu cần căn cứ đa gieo trồng và thu hoạch được 8.000 tấn lương thực. Bên cạnh đó, hậu cần Quân khu và các tỉnh Chiến khu Đ cũng mở được thêm nhiều cửa khẩu, thu mua nguồn hàng từ vùng địch đưa về căn cứ.

Các tuyến đường giao thông vận chuyển hàng hóa trong vùng căn cứ được lực lượng công binh làm tốt hơn, bắc được cầu dã chiến qua sông, suối, nhiều tuyến, nhiều đoạn chạy được xe ô tô vận tải, xe máy, xe quân sự. Từ những trung tâm Mã Đà (căn cứ Khu uỷ và Quân khu) đi ô tô được về Phước Hoà, Phước Tiến, Bình Mỹ, Bình Cơ… Đoạn Tà Lài, Vĩnh An đã có cầu phao để vượt sông Đồng Nai. Đặc biệt xe tăng và thiết giáp của ta có thể đi qua vùng Chiến khu Đ xuống tận vùng ven phía bắc và tây bắc Sài Gòn.

Nhìn chung, thế và lực ở miền Đông và Chiến khu Đ trong mùa khô 1974, đã mở ra rất lớn. Đây là một bước nhảy vọt của lực lượng ta sau cuộc tiến công chiến lược 1972. Căn cứ Chiến khu Đ đóng một vai trò quan trọng trong nhiệm vụ “trung chuyển” ở miền Đông, chuẩn bị cho những trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:01:24 pm
Có phải Chiến khu Đ là địa bàn hậu thuẫn trực tiếp cho các mặt trận ở miền Đông và Tây Bến Cát?


Ngay từ đầu năm 1974, không khí chiến trường B2 đã nóng dần lên với những cuộc chạm súng của hai bên nhằm giành giật tranh chấp đất đai và dân chúng để củng cố vị thế có lợi cho mình.

Công thức “vũ khí Mỹ+bộ binh nguỵ” không làm nên chuyện gì, mặc dù chúng đã cố gắng hết sức, vẫn bị thất bại liên tiếp. Ta bị mất đất, mất dân ở một số nơi, nhưng đã dần dần lấy lại được.

Phát hiện được các hoạt động của ta chuẩn bị cho các chiến dịch lớn, địch liều lĩnh mở các cuộc càn vào phía tây và tây nam Chiến khu Đ. Lần này chúng huy động lực lượng khá đông gồm lính của sư đoàn 18, các trung đoàn thiết giáp, liên đoàn biệt động quân… càn quét vào các vùng căn cứ của ta và đóng được một số chốt nhỏ. Đi liền với càn quét đánh phá, quân nguỵ cho xe cơ giới ủi phá địa hình, đào các giao thông hào để ngăn chặn xe cơ giới của ta từ phía nam Chiến khu Đ đánh vào các thị xã Biên Hoà và tiến vào Sài Gòn.

Tuy nhiên những nỗ lực của chúng không ngặn chặn được cường độ tấn công của ta.

Từ 26-3 đến 31-4-1974, Quân khu mở chiến dịch tiến công địch ở đường số 2 Bà Rịa-Long Khánh, tiêu diệt một số bộ phận quân chủ lực nguỵ, mở vùng, mở mảng thu hồi vùng giải phóng bị địch lấn chiếm trước đó.
Ngày 14-4, từ phía tây Chiến khu Đ, quân chủ lực Miền bap vây tiến công tiêu diệt căn cứ Tống Lê Chân, một cứ điểm xung yếu án ngự đường 13 (cách Long Bình 5km về hướng tây nam). nhổ bật căn cứ Tống Lê Chân, ta đã mở được một mảng lớn đất đai trên tuyến đường 13, ăn thông với “thủ phủ” Lộc Ninh.

Thắng lợi trong mùa khô đặt cơ sở cho Bộ Tư lệnh Miền hạ quyết tâm đánh lớn trong mùa mưa năm 1974. Với tinh thần đó, sau khi xem xét tương quan lực lượng địch-ta và thực tế diễn biến trên chiến trường, tháng 5-1974, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền quyết định mở chiến dịch tây Bến Cát, nhằm phá vỡ tuyến phòng ngự vùng trung tuyến bảo vệ Sài Gòn ở hướng tây bắc; kìm chân quân chủ lực nguỵ tại chỗ, phá tan ý đồ tăng viện cho đồng bằng sông Cửu Long để bình định Khu 8; điều lực lượng tấn công lấy lại Lộc Ninh, nơi đặt cơ quan lãnh đạo của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam.

Mặt trận tây Bến Cát trở thành “chảo lửa” từ tháng 5 cho đến mùa mưa 1974. Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 của Miền đảm nhiệm 2 hướng chính có xe tăng của Bộ phối thuộc và pháo binh Miền trợ chiến tiến công vào quân địch trên đường 7 kéo dài từ Rạch Bắp đến Bến Cát và ở phía đông, từ bắc Tân Uyên nối với đường 1A.
Sau khi diệt đồn Rinet, vây ép bức rút đồn Rạch Bắp, chi khu Bến Cát bị uy hiếp mạnh. Trước nguy cơ bị xe tăng và bộ binh quân giải phóng tràn ngập, địch huy động bộ binh, xe tăng, bom pháo phản kích vô cùng ác liệt suốt 135 ngày đêm. Sư đoàn 9 đã hoàn thành nhiệm vụ kềm chân địch ở tây Bến Cát, mặc dù phải chịu thương vong lớn.

Ở hướng Tân Uyên, Sư đoàn 7 phối hợp với lực lượng địa phương tấn công căn cứ Phước Hoà trên đường 16, bức rút một đồn bót địch đóng lấn chiếm vào cùng giải phóng. Một mũi khác của Sư đoàn 7 đánh chiếm đồn Nha Bích, giải phóng đường 14 (đoạn Chơn Thành-Đồng Xoài), tiến ra bờ sông Đồng Nai, đánh Lạc An-Bà Sầm, thu hút sư đoàn 18 nguỵ để “chia lửa” với mặt trận đường 7-Bến Cát. Địa bàn Chiến khu Đ được củng cố và mở rộng về phía tây nam và nam giáp đường 16; nối với khu tam giác (Dầu Tiếng-Bến Cát-Củ Chi) uy hiếp địch ở “thủ đô” Sài Gòn.

Chiến khu Đ đã góp phần rất lớn cho các chiến dịch năm 1974 về tổ chức lực lượng, bàn đạp xuất phát tiến công, công tác hậu cần, hậu cứ, giải quyết các hậu quả sau chiến dịch…


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:02:03 pm
Trong mùa khô cuối cùng của cuộc chiến tranh, trận Phước Long báo hiệu sự sụp đổ của nguỵ quyền Nam Việt Nam?


Mùa khô 1974-1975, chiến trường miền Nam đã có sự chuyển biến quan trọng. Nguỵ quân thay vai trò quân Mỹ không đủ sức đương đầu với quân giải phóng. Kết hợp với mặt trận chính trị và ngoại giao, lực lượng cách mạng đang thắng thế. Mục tiêu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” đã hiện ra trước mắt. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình “Ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, tạo nên những yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”.

Cuối tháng 11-1974, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở đợt hoạt động mùa khô 1974-1975 ở miền Đông Nam Bộ với nội dung: Hoàn chỉnh khu giải phóng cách mạng, nối liền hành lang chiến lược từ biên giới xuống bờ biển phía đông, xây dựng thành căn cứ địa vững chắc, liên hoàn, tạo thế bao vây Sài Gòn… Riêng khối chủ lực đứng chân trên địa bàn Quân khu 7 phải đánh những trận thối động, tiêu diệt gọn từng đơn vị địch.

Chiến dịch mùa khô 1974-1975, bắt đầu từ tháng 12-1974 kéo dài đến tháng 4-1975. Lực lượng của Miền và Quân khu đã tiến công mạnh mẽ quân địch trên đường 14 Phước Long, giải phóng Bù Đăng, Bù Na, đánh chiếm chi khu Bù Đốp; tấn công địch ở Châu Thành, phía nam Chiến khu Đ, chi khu Đồng Xoài, diệt các đồn bót trên tỉnh lộ 1A, giải phóng đoạn từ Phước Vĩnh lên Đồng Xoài.

Mất toàn bộ đường 14 và Đồng Xoài, tàn quân địch dồn hết về tiểu khu quân sự và thị xã Phước Long, tổ chức phòng thủ để giữ vững vị trí quan trọng sâu nhất trong vùng giải phóng của ta.

Trong lúc địch đang hoang mang lúng túng, Bộ Tư lệnh Miền và Quân đoàn 4 hạ quyết tâm giải phóng Phước Long. Kế hoạch giải phóng Phước Long được Bộ Chính trị chấp thuận. Bởi hệ quả của nó có thể dẫn đến những tình huống phức tạp, cần được cân nhắc và quyết định sáng suốt.

Thị xã Phước Long cách Sài Gòn 120km về hướng đông bắc, nằm sâu trong vùng căn cứ Chiến khu Đ có 50 ngàn dân. Địa hình Phước Long bao trùm rừng núi, có nhiều cao điểm. Đặc biệt phía nam thị xã và đông nam chi khu Phước Bình có núi Bà Rá cao 763m địch dùng để khống chế toàn khu vực thị xã, chi khu và cả sân bay Phước Bình.

Tham gia chiến dịch Phước Long, lực lượng chủ yếu của Quân đoàn 4 phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương (có cả hoả lực pháo binh, cao xạ, xe tăng, công binh). Trận đánh vào Phước Long bắt đầu lúc 5 giờ 30 phút ngày 31-12-1974. Ngày 1-1-1975, quân ta chiếm cao điểm Bà Rá, truy quét và bức rút các cụm quân địch ở Thác Mơ, Hiếu Phong, Long Điền… Từ ngày 2-1, tuyến phía nam thị xa Phước Long bị phá vỡ, quân ta đột phá vào trung tâm thị xã… Trước nguy cơ mất Phước Long, Nguyễn Văn Thiệu triển khai kế hoạch đổ quân tiếp ứng, từ ngoài đánh vào nhưng không thực hiện được. Chiều 6-1, Sư đoàn 9 đã chiếm được dinh tỉnh trưởng, Phước Long được hoàn toàn giải phóng. Trong chiến dịch này, ta tiêu diệt 500 tên địch, bắt 1.179 tên, thu 1.498 súng các loại, 190 máy thông tin, 80 xe cơ giới; bắn rơi 12 máy bay, phá huỷ 10 xe cơ giới và ra đa… Phía ta 150 chiến sĩ, cán bộ hi sinh.

Phước Long thất thủ làm cho Mỹ và tướng tá nguỵ bàng hoàng. Mỹ-nguỵ định tập trung lực lượng tái chiếm, nhưng mọi toan tính của chúng dẫn đến quyết định bất khả kháng: “bỏ Phước Long!”. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh do địch kiểm soát. Chiến thắng Phước Long đã góp phần cho Trung ương Đảng đánh giá đúng tình hình khả năng Mỹ-Nguỵ, đề ra chủ trương chiến lược, quyết tâm giành thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Với chiến dịch đường 14, Phước Long, căn cứ Chiến khu Đ đã được mở rộng về phía bắc và tây bắc giáp với Bình Long và biên giới Campuchia. Chiến khu Đ thực sự trở thành một hậu phương lớn và trực tiếp của miền Đông Nam Bộ, nơi tiếp nhận, triển khai binh khí, kỹ thuật và cơ sở vật chất từ Trung ương xuống các chiến trường; đồng thời là địa bàn tập kết các cánh quân lớn tiến công vào hang ở đầu não địch ở Sài Gòn.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:02:44 pm
Không thể chiếm lại Phước Long, nhưng địch phản ứng rất mạnh nhằm giữ vững tinh thần quân nguỵ. Lực lượng vũ trang Chiến khu Đ đã làm gì để bảo vệ căn cứ, tạo điều kiện cho chiến dịch mùa xuân 1975 giành thắng lợi?


Phước Long-vịi trí “tiền đồn” quan trọng số 1 của quân nguỵ ở phía bắc Sài Gòn bị mất, địch không những phá vỡ thế phòng thủ vòng ngoài, mà còn thất thế về chính trị. Quân nguỵ ở miền Đông rất hoàn mang trước sức tấn công của quân giải phóng. Nguy cơ những vị trí xung yếu khac rơi vào tay đối phương xảy ra bất cứ lúc nào. Trên cục diện chiến trường miền Đông, Phước Long đã tạo ra một khoảng trống bất lợi chưa từng có đối với Mỹ-Nguỵ.

Trước những thuận lợi mới có thể dẫn đến những tình huống đột biến, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền họp quán triể Nghị quyết của Bộ Chính trị; bổ sung và điều chỉnh kế hoạch bước 2 mùa khô 1975 trên chiến trườg B2 để đáp ứng với sự phát triển vượt bậc của cách mạng.

Yêu cầu bước 2 phải tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở thông hành lang xuống phía đông và tây bắc Sài Gòn; phát triển xuống cả đường 20 về Long Khánh, Bà Rịa; mở chiến dịch Dầu Tiếng và đường 20.

Về phía địch, sau khi ta giải phóng Phước Long, chúng bị dồn vào thế bị động lúng túng về chỉ đạo chiến lược. Trên địa bàn Chiến khu Đ, địch ra sức củng cố lực lượng, cố gắng tổ chức những cuộc hành quân càn quét vào phía nam căn cứ, hòng tạo ra một vành đại bảo vệ Sài Gòn về phía đông, ngăn chặn lực lượng tiến công vào các cơ quan đầu não của chúng ở miền Đông.

Ngày 20-2-1975, quân nguỵ tổ chức hành quân càn quét vào khu vực Bình Chánh, Khánh Vân, Vĩnh Tân, Phú Chánh với lực lượng tương đối lớn gồm một số tiểu đoàn biệt động quân, chủ lực sư đoàn 5 và thiết giáp. Tiếp theo, địch cho lực lượng tràn vào khu vực Ông Đông, Ba Tri ủi phá địa hình, lập tuyến ngăn chặn ta từ Bến Sắn đến đường 8. Đến tháng 3-1975, bọn sư đoàn 18 nguỵ càn quét vào Đất Cuốc đế suối Cát để thăm dò lực lượng ta…

Kiên quyết giữ vững vùng căn cứ giải phóng, chặn đứng âm mưu ủi phá địa hình, lấn chiếm đất, bộ đội địa phương tỉnh Thủ Dầu Một, Tân Uyên, Châu Thành liên tiếp chặn đánh các mũi tiến quân của địch diệt 100 tên, phá huỷ 23 xe tăng và xe bọc thép; đồng thời tổ chức các trận tập kích, pháo kích vào các vị trí xuất phát hành quân của địch. Sau 7 ngày nống ra vùng giải phóng, bị lực lượng ta đánh thiệt hại, địch buộc phải rút quân, co cụm về chi khu Tân Uyên.

Ngày 10-3-1975, quân chủ lực Tây Nguyên mở cuộc tiến công đánh chiếm Bôn mê Thuột. Đòn “điểm huyệt” này đã mở đầu sự sụp đổ dây chuyên của quân nguỵ trên toàn miền Nam. Hoà cùng chiến thắng Tây Nguyên, quân chủ lực Miền Đông tấn công giải phóng huyện Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một). Chiến khu Đ được nối liền với vùng giải phóng dọc đường 14; Long Nguyên, Thanh An, Thanh Tuyền, Rạch Kiến, Bưng Còng, Rạch Bắp, nối sang vùng giải phóng Củ Chi, uy hiếp Sài Gòn từ hướng tây bắc. Cũng trong tháng 3-1975, quân chủ lực Miền tiến công trên đường 13, giải phóng An Lộc và bao vây quận lỵ Chơn Thành; giải phóng chi khu Định Quán, làm chủ đường 20 đi Đà Lạt. Đường hành lang về phía đông nam của Chiến khu Đ được mở thông… Các đoàn công binh, thanh niên xung phong ngày đêm khẩn trương bắc cầu, mở đường từ Đồng Xoài về Vĩnh An ra đường 20 cho các đơn vị cơ giới và bộ binh hành quân về phía đông Sài Gòn. Sư đoàn 6 Quân khu 7 tiến ra giải phóng đường 1 từ căn cứ số 4 đến căn cứ số 10 giáp Bình Tuy.

Như vậy, trong tháng 3-1975, quân chủ lực Miền và Quân khu 7 đã tiến công địch, giải phóng vùng nối liền Chiến khu Đ với vùng giải phóng Bà Rịa-Long Khánh, nối sang Khu 6, mở một địa bàn lớn cho các binh đoàn chủ lực triển khai các mũi tiến công vào Sài Gòn từ hướng đông và đông nam.

Căn cứ Chiến khu Đ không những giữ vững mà còn mở rộng làm bàn đạp xuất phát cho các cánh quân chủ lực của Miền và của Bộ áp sát quân địch từ nhiều phía.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:03:26 pm
Trận Xuân Lộc, đập tan “cánh cửa thép” cuối cùng của địch, mệnh lệnh xuất phát từ Chiến khu Đ?

Đầu tháng 3-1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp tại Hà Nội khẳng định: Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm nhiệm vụ giải phóng miền Nam. Trung ương Cục cũng đề ra nhiệm vụ khẩn cấp: tập trung mọi nỗ lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của 3 mũi giáp công, 3 thứ quân, 3 vùng nhanh chóng đánh sụp toàn bộ nguỵ quyền, nguỵ quân, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân…

Thực hiện quyết tâm của Trung ương Cục, Sư đoàn 7 của Miền cùng với bộ đội địa phương Bình Long tiếp tục tiến công quận lỵ Chơn Thành, đánh tan rã bọn địch cố thủ ở chi khu, giải phóng toàn huyện Chơn Thành. Tuyến phòng thủ của địch ở phía bắc Sài Gòn hoàn toàn tan vỡ.

Tháng 3 đến giữa tháng 4, chiến thắng giải phóng Tây Nguyên, Trị Thiên-Huế, Đà Nẵng và dọc ven biển miền Trung làm nức lòng quân và dân Chiến khu Đ. Bọn nguỵ quyền, nguỵ quân còn lại ở vùng căn cứ và vùng ven vô cùng hoang mang.

Để kịp thời chỉ đạo phong trào, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông chuyển căn cứ về khu vực Vĩnh An sát bờ sông Đồng Nai. Đồng chí Trần Văn Trà thay mặt Bộ Tư lệnh Miền xuống căn cứ Khu uỷ miền Đông triển khai nhiệm vụ mới cho Khu. Trong cuộc họp có hầu hết các đồng chí lãnh đạo của Khu uỷ và Quân khu, đã quyết định mở chiến dịch Xuân Lộc giải phóng thị xã Long Khánh-tuyến phòng thu mạnh sau cùng của địch ngăn chặn quân ta tiến về Sài Gòn từ hướng đông.

Lúc này từ phía bắc Sài Gòn trở ra, địch mất gần hết các cứ điểm, các nút chặn quan trọng. Vì thế Xuân Lộc trở thành trận địa tử thủ sống chết của nguỵ quyền Sài Gòn. Vị trí này nằm trên quốc lộ 1, chỉ cách Sài Gòn 80 km, do sư đoàn 18 nguỵ, một trong những sư đoàn sừng sở nhất ở miền Đông đảm nhiệm. Mỹ-nguỵ đặt huy vọng rất nhiều vào “nút chặn” Long Khánh có thể kéo dài được ngày tàn của chúng để tìm kiếm một giải pháp cho chính quyền Sài Gòn tồn tại. Nguyễn Văn Thiệu còn hung hăng tuyên bố: Cộng sản muốn vào Sài Gòn phải xuyên thủng được “cánh cửa thép” Xuân Lộc.

Theo chỉ đạo của Khu uỷ, Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một, huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Vĩnh Cửu nhanh chóng tăng cường các cấp uỷ về cơ sở, củng cố bộ đội địa phương cùng du kích và cơ sở mật tiến hành các mặt công tác chuẩn bị đón lực lượng chủ lực và nổi dậy giành chính quyền làm chủ xã ấp. Các đoàn hậu cần của Miền và Quân khu nhanh chóng vận chuyển lương thực, khí tài từ nam Tây Nguyên về Chiến khu Đ. Từ chiến khu, các đoàn ô tô vận tải, xe thồ, các bến phà hoạt động liên tục, chuyển nhanh những nhu cầu thiết yếu về hậu cần cho các chiến trường phía đông đánh trận then chốt Xuân Lộc và trận quyết chiến chiến lược tiến công thủ phủ nguỵ quyền Sài Gòn.

5 giờ 30 phút 9-4-1975, ta nổ súng công kích căn cứ Xuân Lộc. Quân đoàn 4, Quân khu 7 cùng bộ đội địa phương Long Khánh-Bà Rịa tiến công mãnh liệt vào thị xã Long Khánh. Hỗ trợ cho chiến dịch, trận địa pháo 130 ly của Miền đặt tại Hiếu Liêm (Chiến khu Đ) nã đạn vào db Biên Hoà chế ngự không quân địch ứng viện cho Xuân Lộc.

Xuân Lộc trở thành trận chiến ác liệt nhất trước cửa ngõ Sài Gòn. Ta và địch giành nhà từng ngôi nhà, con đường… Bom đạn như mưa bão làm đổ nát phần lớn thị xã. Trước nguy cơ bị đối phương tràn ngập, thiệu đem cả lực lượng tổng trù bị đổ vào Xuân Lộc. Đến mức địch tập trung 50% lực lượng chủ lực, 60% lực lượng pháo binh, gần hết số xe tăng của quân đoàn 3, đồng thời đánh bom dữ dội vào những khu vực ta đã chiếm. Chúng còn dùng cả bom CBU huỷ diệt, gây thương vong lớn cho ta; bằng mọi giá cố giữ cho được Xuân Lộc như chúng đã xác định “mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, một thắng lợi tâm lý và chính trị ở thời điểm nguy cấp này. Báo chí Sài Gòn và phương tây làm rùm beng lên về “khả năng chiến đấu của quân ngụy đã phục hồi”, rằng “quân nguỵ vẫn còn dư sức mạnh để giữ chế độ”…

Trận tiến công phòng tuyến Xuân Lộc gặp khó khăn. Đến lúc này, tại Xuân Lộc, lực lượng ta đã hi sinh tới 1.500 chiến sĩ, cán bộ. Trước tình hình đó, đồng chí Trần Văn Trà Phó Tư lệnh chiến dịch xuống mặt trận Xuân Lộc để chỉ đạo chuyển cách đánh.

Đêm 13 rạng ngày 14-4, Sư đoàn 6 của Quân khu 7 đã diệt gọn 1 tiểu đoàn của sư đoàn 18 và chi đoàn thiết giáp nguỵ, giải phóng Dầu Giây (ngã 3 quốc lộ 1 và đường 20); ngày hôm sau đơn vị diệt nốt trung đoàn 52 và phòng ngự đánh diệt quân địch từ Trảng Bom liên tục đến phản kích. Không chiếm lại được Dầu Giây, mất toàn bộ đường 20, Xuân Lộc bị cô lập hoàn toàn. Ngày 21-4, tàn quân địch bí mật tháo chạy khỏi Xuân Lộc về Biên Hoà.

Giải phóng Xuân Lộc và một vùng rộng lớn trên đường 20 và đường số 1, ta đã mở toàn cửa ngõ tiến về Sài Gòn. Mất Xuân Lộc coi như hồi chuông báo tử cho Sài Gòn đã rung lên. Nguyễn Văn Thiệu tối 22-4, lên vô tuyến truyền hình và đài phát thanh đọc bài diễn văn từ chức tổng thống “Việt Nam cộng hoà” rồi khăn gói chuồn ra nước ngoài, trút lại hậu quả to lớn lên đầu Phó tổng thống Trần Văn Hương trong tình thế chế độ Sài Gòn sắp tới giờ cáo chung.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:04:12 pm
Chiến khu Đ tham gia vào đầu trận quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn như thế nào?

Trong những ngày cuối tháng 4, chính trường Sài Gòn nhốn nháo, phức tạp. Tinh thần chủ bại đã tràn lan trọng nguỵ quân, nguỵ quyền. Các đại quân của ta từ các hướng thần tốc tiến về Sài Gòn, siết chặt vòng vây quân địch. Sài Gòn như cá nằm trên thớt. Một chế độ phản động mấy đời làm tay sai cho ngoại bang để chống lại Tổ quốc Việt Nam, đang hấp hối từng ngày.

Hoà cùng thắng lợi của cánh quân phía đông, các đơn vị công binh Miền, Quân khu, các đội dân công hoả tuyến ở Chiến khu Đ khẩn trương hoàn chỉnh các tuyến đường, làm cầu, bắc phà qua sông Đồng Nai phục vụ các binh đoàn chủ lực hành quân tiến về Sài Gòn.

Các sư đoàn từ nam Tây Nguyên hành quân về phía bắc Chiến khu Đ hợp với các sư đoàn từ miền Bắc vào tập kết ở đồn điền cao su Thuận Lợi, thành lập Quân đoàn 1. Quân đoàn 1 có nhiệm vụ hỗ trợ cho bộ đội địa phương Thủ Dầu Một tiêu diệt hệ thống đồn bót địch còn lại ven Chiến khu Đ; tiến công căn cứ Lai Khê của sư đoàn 5 nguỵ, Phú Lợi, Sóng Thần; tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh đánh chiếm Bộ tổng tham mưu nguỵ.

Đêm 24-6-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Các binh đoàn chủ lực của ta có xe tăng đột phá dẫn đường và pháo binh yểm trợ, từ các hướng thần tốc tiến về sào huyệt cuối cùng của địch tại Sài Gòn.

Tưng bừng vào chiến dịch, Sư đoàn 312 cùng bộ đội địa phương Thủ Dầu Một tiến công giải phóng Bình Cơ, Bình Mỹ, đường 16, rồi phát triển thành 2 mũi tiến chiếm căn cứ Lai Khê, Phú Lợi và tiểu khu Bình Dương. Trên hướng khác, các đoàn đặc công 113, 116 đã dũng mãnh đánh chiếm căn cứ Hốc Bà Thức (Tân Phong), sau đó bám trụ đánh địch phản kích giữ vững các đầu cầu đảm bảo cho Quân đoàn 4 và Quân đoàn 1 tiến nhanh đánh chiếm các cơ quan đầu não địch ở Biên Hoà và Sài Gòn.

Cùng lúc đó, Sư đoàn 320B hàn quân bằng cơ giới theo đường 16, hỗ trợ bộ đội địa phương, du kích và nhân dân tiến công và nổi dậy giải phóng toàn huyện Tân Uyên, Dĩ An, Lái Thiêu. Trên hướng này, Quân đoàn 1vượt cầu Bình Triệu tiến vào gặp cánh quân của Quân đoàn 3 tại Bộ tổng tham mưu nguỵ lúc 12 giờ 30 phút ngày 30-4-1975.

Trước đó ở cánh đông, Quân đoàn 4 sau khi lực lượng đặc công và địa phương đập tan quân địch cố thủ ở cầu Rạch Chiếc và cầu Sài Gòn, đã tiến thẳng vào dinh Độc Lập, phủ tổng thống của nguỵ quyền Sài Gòn, hạ cờ địch, cắm cờ giải phóng lên dinh vào lúc 11 giờ 30 phút. Kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Như vậy lực lượng vũ trang trên bàn đạp Chiến khu Đ đã phối hợp chiến đấu và tạo điều kiện cho hai quân đoàn 1 và 4 tiến chiếm những mục tiêu trọng yếu tại sào huyệt cuối cùng của địch. Trong suốt chiến dịch, Chiến khu Đ là nơi dự trữ vật chất, kỹ thuật là nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo chỉ huy của Quân khu, Miền và đặc biệt là Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh ở Căm Xe, chỉ đạo các cánh quân đánh chiếm Sài Gòn, góp phần giành thắng lợi chiến dịch lịch sử giải phóng thành phố Sài Gòn-Gia Định, kết thúc rực rõ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước-một cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ nhưng rất vẻ vang của dân tộc Việt Nam.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:04:53 pm
Sau ngày giải phóng miền Nam, ta đã khắc phục hậu quả, hàn gắn những vết thương chiến tranh ở vùng Chiến khu Đ. Xin cho biết những đổi thay ở vùng đất lịch sử này?


Như ta đã biết Chiến khu Đ là căn cứ cách mạng qua các thời kỳ chiến tranh, nhưng tiềm ẩn một vùng kinh tế trù phú không những của Nam Bộ mà của cả nước, Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các địa phương của vùng Chiến khu Đ không ngừng khắc phục khó khăn, ra sức phát huy nội lực của một vùng đất có nhiều thế mạnh về nông nghiệp, công nghiệp, kết hợp với quốc phòng an ninh, nhất là từ khi bước vào thời kỳ đổi mới và công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.

Ngày nay, Chiến khu Đ xưa là vùng đất sôi động của những cánh đồng lúa ven sông, những nông trường cao su trải rộng, những lâm trường bạt ngàn, những nhà máy, xí nghiệp và những công trình thuỷ điện lớn như Trị An, Thác Mơ. Hàng vạn đồng bào từ khắp mọi miền đất nước đã vê đây cùng với nhân dân địa phương xây dựng những khu trung tâm kinh tế mới với tầm cỡ là một trong những khu công nghiệo lớn của cả nước.
Dưới ánh sáng nghị quyết của Đảng, đảng bộ và nhân dân các tỉnh vùng Chiến khu Đ năm xưa như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước đã vươn lên đạt được những thành tựu mới trên bước đường đi lên chủa nghĩa xã hội, thực hiện các mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Với thế mạnh về nhiều mặt, Đồng Nai từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, qui hoạch và phát triển các khu công nghiệp, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, đưa kinh tế phát triển với tốc độ cao… Trong 10 năm (1991-2000), nhịp độ tăng trưởng trung bình của tỉnh đạt 13% trong một năm. Đến năm 2000 tỷ trọng công nghiệp đã chiếm 52,1% GDP toàn tỉnh, thu nhập bình quân đầu người 6,1 triệu đồng/năm… Đời sống đại bộ hận nhân dân được cải thiện rõ rệt, hầu như không còn hộ đói và số hộ nghèo đã giảm xuống còn 5%.
Bình Dương là một trong những điểm sáng về phát triển kinh tế của cả nước với tổng sản phẩm (GDP) từ năm 1997-2001 tăng bình quân 14,2% là một trong 4 tỉnh tứ giác kinh tế phát triển ở phía nam Tổ quốc. Bình Dương đã sớm tập trung cho cơ sở hạ tầng để phát triển, qui hoạch 13 khu công nghiệp tập trung với diện tích 6.200 ha và các cụm công nghiệp nhỏ ở các huyện thị. Việc xây dựng các khu công nghiệp gắn liền với hình thành các trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật cao, các khu đô thị mới, các khu nhà ở cho công nhân.

Về thu hút đầu tư nước ngoài, đến tháng 8-2002, Bình Dương đã thu hút thêm 101 dự án mới và 38 dự án bổ sung với tổng số vốn 295 triệu USD, nâng tổng số dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh lên 571 dự án với tổng số vốn 2 tỷ 912 triệu USD.

Bình Phước mới tách ra khỏi Bình Dương từ 1-1997, dường như làm lại từ đầu, nhưng tiềm năng kinh tế cũng rất lớn, nhất là cao su và lâm sản…

Trước những đổi thay lớn lao của cuộc xây dựng mới, dấu tích của một căn cứ kháng chiến tồn tại gần 1/3 thế kỷ đang mờ ngạt dần, nhưng niềm tự hào về một Chiến khu Đ lịch sử là mãi mãi.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:05:23 pm
Xin cho biết về địa danh Bà Rá và những đổi thay hôm nay?


Bà Rá là một vùng đất đã đi vào huyền thoại của người dân Bình Phước. Đây là một đỉnh cao cuối cùng của dãy Trường Sơn hùng vĩ, là cái “rốn sốt rét” trong 2 cuộc kháng chiến chống xâm lược đã cướp đi hàng ngàn sinh mạng cán bộ, chiến sĩ.

Truyền thuyết kể rằng vị tổ của người Stiêng có hai người em gái; ông đắp núi Bà Đen cho cô em gái đầu và đắp núi Bà Rá cho người em gái thứ hai để trấn giữ đất đai của người Stiêng.

Thực dân Pháp đến đây lập trại tù Bà Rá để giam giữ các chiến sĩ cách mạng. Trại tù này có 3 khu: trại A sát chân núi giam giữ tù thường phạm, trại B giam giữ nữ tù nhân thường phạm hoặc chính trị phạm đặt tại trung tâm trại Bà Rá, trại C lập vào đầu năm 1941 để giam giữ số tù nhân chính trị ở Tà Lài chuyển về; đây còn là nơi giam hàng trăm tù chính trị bị treo án và khổ sai từ các nhà tù khác chuyển về, phần lớn là những người yêu nước tham gia hoạt động cách mạng. Nỗi thống khổ của những tù nhân Bà Rá không sao kể xiết, đau ốm không có thuốc men lại còn bị đánh đập dã man và lao động khổ sai. Nỗi uất hận của tù nhân ở đây đã nhóm lên ngọn lửa đấu tranh. Trại tù Bà Rá đã thành lập được một chi bộ cộng sản để lãnh đạo phong trào và tổ chức nhiều cuộc vượt ngục. Cách mạng Tháng 8-1945 thành công, tù nhân trại Bà Rá đã nổi dậy đập tan xiềng xích, trở về chiến khu, trở vè quê hương góp phần giải phóng đất nước.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bà Rá, Thác Mơ trở thành căn cứ địa cách mạng. Những cái tên Bà Rá, Hang Dơi, Nửa Lon, Bù Gia Mập, Sóc Bom Bo… đã đi vào sử sách và gắn liền với những chiến thắng vang dội Phước Long, Đồng Xoài…

Bà Rá-Thác Mơ trở thành di tích lịch sử-văn hóa của Bình Phước. Trên đỉnh Bà rá có trạm tiếp vận truyền thanh, truyền hìh phục vụ đồng bào Chiến khu Đ và toả sóng khắp cả miền Đông Nam Bộ. Dưới chân núi, ngày xưa là trại tù khét tiếng, giờ đây là những khu dân cư trù phú, ruộng rẫy tươi xanh, trường học, trạm xá… phục vụ bà con dân tộc ít người. Cuộc sống mới đang từng ngày vươn lên khoả lấp những quá khứ đau thương và làm đẹp thêm truyền thống hào hùng của Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Re: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:05:57 pm
Định Quán-La Ngà nơi lưu dấu những địa danh lịch sử?


Sông La Ngà chảy qua huyện Định Quán thuộc tỉnh Thủ Biên thời 9 năm chống Pháp, nay trở thành địa danh lịch sử tỉnh Đồng Nai. Những ai đi theo đường 20 lên Đà Lạt sẽ thấy nơi đây sừng sững tượng đài chiến thắng La Ngà trên đỉnh đồi cao, soi bóng xuống dòng sông. tại đây, trận phục kích giao thông của Chi đội 10 Biên Hoà trên quãng đường dài gần 10 km, đã phá huỷ 59 xe quân sự của giặc Pháp, diệt và bắt hàng trăm tù binh.

Từ La Ngà đi ngược lên 10km là gặp khu Đá Ba Chồng (những tảng đá lớn chồng lên nhau) tạo nên vẻ đẹp kỳ thú cho du khách. Ai lên thành phố hoa Đà Lạt lại không chiêm ngưỡng cổng Đá Ba Chồng. Khu Đá Ba Chồng này thời chống Mỹ thuộc Định Quán. Trên những hòn đá khổng lồ cao nhất có ổ đề kháng cả địch với hoả lực mạnh sẵn sàng nhả đạn khống chế Định Quán-La Ngà nếu ta tấn công. Cứ điểm Đá Ba Chồng là điểm tranh chấp giữa ta và địch. Trước chiến dịch Hồ Chí Minh, Sư đoàn 7 Miền đã xoá sổ cứ điểm này vào ngày 16-3-1975, cũng là ngày Định Quán hoàn toàn giải phóng.

Từ Đá Ba Chồng ngược lên 20km nữa là Căng Tà Lài, một trại giam biêt lập thời Pháp là chốn rừng thiền nước độc. Giáo sư Trần Văn Giàu và Thiếu tướng Tô Ký từng bị thực dân Pháp giam giữ tại đây. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940), chi bộ nhà tù tổ chức cho 2 đồng chí Tô Ký, Trần Văn Giàu và 9 đồng chí khác vượt ngục, Vùng Tà Lài xứ sở của đồng bào Stiêng đã ủng hộ lương thực cho các đồng chí trốn thoát trở về tham gia cách mạng ở Sài Gòn và Nam Bộ.

Ai lên Định Quán, La Ngà
Đá Ba Chồng đó, căng Tà Lài đây.


Câu thơ đã khắc hoạ nên địa danh vùng đất lịch sử này.

Định Quán xưa đã định hình 3 dân tộc đồng bào ít người ở đây. Người Stiêng ở bắc huyện, người Châu Mạ ở thị trấn, người Châu Ro ở nam La Ngà. Ngoài 3 dân tộc thổ địa lâu đời, người Kinh không có bao nhiều. Sau ngày miền Nam giải phóng, dân tứ xứ kéo về đây sinh sống, chủ yếu là dân “tứ Quảng” (Quảng Bình, QUảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi) và dân “ngũ Hà” (Hà Nội, Hà Giang, Hà Tây, Hà Nam, Hà Bắc) làm cho Định Quán thêm sắc tộc: người Tày, người Nùng. Con gái Châu Ro, Châu Mạ xưa ở trần. Ngày nay trai gái các dân tộc này sinh hoạt theo nhịp sống văn minh của cộng đồng, khó mà nhận ra họ. Trước kia họ đi làm rẫy là chính, nay tham gia cả thị trường kinh doanh buôn bán, công tác xã hội với người Kinh, nói tiếng Kinh thông làu. Các xã đều có điện từ mạng lưới quốc gia dẫn về; riêng làn nổi Định Quán dùng điện xạc bình, ban đêm cũng sáng trưng như thành phố trên sông, họ có cả ti vi, tủ lạnh, xe máy…

Ngày nay Định Quán-La Ngà có 3 khu du lịch hấp dẫn. Đó là Thác Mơ, vì ở đấy có nhiều cây mai và mạch nước nóng; thác ba Giọt hùng vĩ nên thơ; Đá Ba Chồng kỳ thú và tượng đài vươn cao giữa không gian bao La Ngà… Bàn tay con người đang đánh thức tiềm năng say ngủ hàng bao năm nay trên vùng đất này.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:06:26 pm
Sóm Bom Bo “điểm sáng” của cuộc kháng chiến đã qua, còn hôm nay?


Trong kháng chiến chống Mỹ, sóc Bom Bo chưa tới 100 hộ người Stiêng. Đồng bào sống bằng nền kinh tế tự cung tự cấp theo lối du canh du cư. Lúa khoai là lương thực chính nhưng những năm mất mùa thì phải ăn củ, rau rừng; thiếu muối triền miên, phải đốt cỏ tranh lấy tro ăn cho khỏi lạt miệng. Ban đêm thắp sáng bằng đuốc lồ ô. Nam đóng khố, nữ để ngực trần.

Tuy vậy nhưng đồng bào ở sóc Bom Bo rất giàu lòng yêu nước. Khi có chút ít gạo, họ sẵn sàng ăn củ rừng để nhường gạo cho bộ đội.

Giữa năm 1965, ta mở chiến dịch Đồng Xoài. Một số đơn vị chủ lực Muiền được lệnh cắt rừng đi, không nhận gạo ở các trạm để giữ bí mật, mà phải đến điểm X. Đó là sóc Bom Bo. Lúa trên nương đã chín, nếu không gặt nhanh máy bay sẽ đến ném bom xăng đốt sạch. Phải làm sao có mấy tấn gạo tiếp tế cho bộ đội. Tập quán xưa nay của người Stiêng là giã gạo ngày nào ăn ngày ấy. Già làng đã huy động và đưa ra khẩu hiệu “cả sóc Bom Bo giã gạo”. Do có lòng yêu nước, người dân Bom Bo đã bỏ tập tục, làm theo già làng.

Ngày ấy, nhạc sĩ Xuân Hồng, trưởng đoàn văn công Quân giải phóng được tận mắt chứng kiến những đêm đồng bào giã gạo, cảm hứng khởi nguồn gíup ông viết thành công bài ca ”Tiếng chày trên sóc Bom Bo” phổ biến rộng rãi khắp miền Nam và cả nước. Bài ca với giai điệu hào phóng trữ tình, đằm thắm tình quân dân cá nước, đã động viên quân và dân ta trog những năm đánh Mỹ và có sức sống lâu bền với thời gian. Đây là một trong những tác phẩm âm nhạc hay nhất của cố nhạc sĩ Xuân Hồng.

Sau ngày miền Nam giải phóng, sóc Bom Bo thuộc xã Minh Hưng, huyện Bù Đăng, tỉnh Sông Bé (nay là Bình Phước), dân số phát triển lên 300 hộ, nhưng cái nghèo kiết xác vẫn đeo đẳng họ.

Bây giờ sóc Bom Bo đã đổi mới rất nhiều. Dân đi vào địnhcư từ năm 1991. An cư mới lạc nghiệp. Từ đó mới tính chuyện làm nhà ngói, sân gạch, làm đường xe hơi, đưa điện về… Dự án “Điểm sáng Bom Bo” mà Viện khoa học miền Nam và tỉnh Sông Bé đề ra được triển khai từ năm 1994. Một kỹ sư của Viện đã tình nguyện ở lại sóc trong hai năm liền để giúp đỡ bà con ở đây tiếp thu kỹ thuật trồng trọt chăn nuôi theo phương pháp mới. AREBCO, một tổ chức từ thiện của Pháp tài trợ kinh phí để chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp tại sóc và tặng một số gia súc làm giống… Cơ quan khoa học và cấp uỷ, chính quyền địa phương quyết biến sóc Bom Bo trở thành điểm sáng.

Đến nay bà con sóc Bom Bo đã có điện, chà gạo vằng máy. Tuy nhiên giai điệu “các cùm cum, cắc cùm cum… đuốc lồ ô bập bùng trong ánh lửa…” vẫn mãi mãi ngân vang trong lòng đồng bào Stiêng và trong lòng chúng ta.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:07:07 pm
Có một huyền thoại về người thương binh Chiến khu Đ?


Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chiến khu Đ đã tồn tại một đội ngũ thương binh trùng điệp. Đó là những con người trung hiếu đã để lai một phần xương thị trên chiến trường, vì chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Nhưng rất nhiều người nhắc tới người thương binh đầu tiên của Chiến khu Đ là đồng chí Bùi Xuân Tảo. Chuyện kể lại rằng trong hoàn cảnh thiếu thốn đặc biệt của chiến khu, bác sĩ phải cưa cánh tay bị thương của anh Tảo không phải bằng cưa giải phẫu mà là cưa thợ mộc không có thuốc gây mê. Tảo đề nghị anh chị em y tá hát quốc ca với mình để lấy can đảm chịu đựng. Có người còn thêm thắt vào một chút lãng mang. Khi đó chi đội trưởng Tám Nghệ (Huỳnh Văn Nghệ) cưỡi con xích thố đi ngang, nghe quốc ca thì xuống ngựa, đứng nghiêm. Nhưng bài quốc ca cứ trở đi trở lại mãi làm anh thắc mắc. Anh bước vào trạm quân y chứng kiến lòng dũng cảm của người chiến sĩ thương binh, nên làm ngay một bài thơ tại chỗ:

Ngựa hồng dừng chân
Bên quân y viện
Giật mình nghe tiếng quốc ca vang
Xuống ngựa buông cương
Hỏi ra mới rõ
Bác sĩ đang cưa chân
Một thương binh bằng cưa thợ mộc
Bác sĩ vừa cưa vừa khóc
Chị cứu thương nước mắt tràn trề
Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre
Người chiến sĩ vẫn mêm man hát
...


Sự thật về ca “siêu phẫu thuật” này, bác sĩ Võ Văn Cương, người cưa tay cho anh Tảo, sau này là Phó hiệu trưởng Trường đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh (đã nghỉ hưu) kể lại:

“Bùi Xuân Tảo bị thương vào tay trog trận đánh thị xã Biên Hoà tết dương lịch 1946. Lúc đó tôi chạy thoát Đem tam sư đoàn từ Cao Lnãh lên. Tới xã Tân Hoà bên sông Đồng Nai gặp anh Huỳnh Văn Nghệ giữ lại giúp chiến khu Tân Hoà.

Trong ca phẫu thuật này cần phải nói lại cho rõ: Dùng cưa thợ mộc là đúng. Cái cưa này bén lắm, gỗ lim, giá tỵ cứng như sắt cũng cưa tuốt luốt. Còn hát quốc ca không giống như người ta kể. Tôi chuẩn bị cưa, chị An (y tá do Pháp đào tạo tại Sài Gòn chuyên gây mêm bằng chloroforme, sau là bạn đời với anh Bùi Cát Vũ, giám đốc công binh xưởng) có nhiệm vụ nhiễu từng giọt chloroforme vào mũi anh Tảo. Chị An bảo anh Tảo đếm một, hai, ba đi… Tôi thấy hát hay hơn nên bảo anh Tảo hát một bài nào đó anh thích. Anh Tảo hát quốc ca. Chỉ hát có câu đầu thôi: “Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc”. Chị An nhiễu thuốc mêm ngay. Mấy tiếng “chung lòng cứu quốc” yếu dần vì thấm thuốc mê. Như vậy chi tiết cưa tay không có thuốc mê cần được đính chính, không lại phủ nhận công lao của bác sĩ Hồ Văn Huê đã đưa ra chiến khu nhiều thuốc mê… xài tới năm 1948 hãy còn.

Còn bài thơ, anh Tám Nghệ đi ngang qua trạm xá nghe hát quốc ca (anh chị em y tá hát phụ với anh Tảo) anh xúc động lắm, nhưng vài ngày sau đó bài thơ mới được phổ biến trong cơ quan…”.

Còn rất nhiều ca thương binh dũng cảm tiêu biểu cho hào khí Đồng Nai những cánh rừng gian khổ của Chiến khu Đ.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:07:40 pm
Rất nhiều bà má Chiến khu Đ được tôn vinh danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, xin cho biết một bà mẹ tiêu biểu?

Quê hương ta “ra ngõ gặp anh hùng”. Câu nói đó càng đúng với Chiến khu Đ, vùng đất đã tạo nên nhiều nét đẹp lịch sử. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, số người hi sinh ở Chiến khu Đ phải tính tới con số vạn. Chính những người con anh hùng này ngã xuống đã tôn vinh lên những bà mẹ anh hùng của Chiến khu Đ.

Ở Thường Tân (Tân Uyên), một trong những địa danh đầu tiên của Chiến khu Đ, có một bà má tên là Trần Thị Đẹp, sinh năm 1916. Thời trẻ má là một phụ nữ xinh đẹp, nhưng không có hạnh phúc trọn vẹn do những cuộc chiến tranh kéo dài suốt đời người. Ở Thường Tân này không ai sống được yên thân vì giặc giã. Từ một gia đình yên ấm, người bạn đời của má cùng với những người trai tráng phải chia xa, vào Chiến khu Đ cầm súng đánh giặc.

Những năm đánh Mỹ, má Đẹp từng lặn lội nửa đêm vào rừng, mang cơm nước, thuốc men tiếp tế cho bộ đội, du kích. Rồi làm liên lạc, nhận đủ mọi thứ công việc cách mạng, lén lút đi về giữa đồn bót, bom đạn quân thù. Mấy lần bị địch bắt vì “tội” có chồng, con tham gia kháng chiến; bị đánh đập, hành hạ, má vẫn giữ vững tấm lòng son.

Bốn người con của má khôn lớn trưởng thành, lần lượt nối gót cha ,lên đường đi kháng chiến. Đó là những cuộc chia xa đầy thương nhớ, lo âu đối với một người mẹ hết lòng thương con, nhưng đặt lợi ích Tổ quốc lên trên hết. Chiến tranh như má thường ngĩ, nó dồn đến những nỗi bất hạnh và khố khổ, nhưng vì nghĩa lớn, mọi người phải chịu đựng vượt qua. Và điều lo lắng trong má đến thật sự. Tin người chồng hy snh báo về thật đột ngột, nhưng má giấu nước mắt vào lòng, nén đau thương lại để lo công tác cách mạng. Chiến tranh ngày càng ác liệt, đạn bom cày xới đất đai, thôn xóm điêu tàn. Ba đứa con của má: Trần Văn Nết, Trần Văn Thưởng hy sinh cách nhau không lâu, lại đến Trần Thị Chưởng, đứa con mà má thương yếu nhất vĩnh viễn không về. Bốn người thân ngã xuống là bốn lần trái tim má tan nát, đến nỗi không con nước mắt để khóc, buồn…

Nhưng nỗi buồn nào rồi cũng theo năm tháng qua đi. Những ngày băng rừng lội suối đã trở thành ký ức khó phai mờ trong lòng người mẹ Chiến khu Đ. Giờ đây mảnh đất Thương Tân đã đổi thay với cuộc sống mới vui tưới no ấm, nhưng má Đẹp vẫn đi về trên con đường đất đỏ năm xưa với người con gái út, núm ruột còn lại duy nhất và đứa cháu ngoại, niềm an ủi cuối đời của má.

Cũng như bao bà mẹ Chiến khu Đ, như má Thiếu, má Mua, má Yếm… má Trần Thị Đẹp đang sống trong niềm vui chăm sóc, yêu thương của chính quyền, đoàn thể và bà con xóm làng đền đáp lại một phần sự cống hiến hy sinh to lớn của những người mẹ anh hùng, theo đạo lý Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”, “ăn trái nhớ người trồng cây”.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 13 Tháng Mười Một, 2007, 07:08:40 pm
Sông Đồng Nai là con sông chính gắn liền với lịch sử Chiến khu Đ. Có phải đây cũng là dòng sông của thơ ca và truyền thuyết?

“Sinh ở đâu mà ai cũng anh hùng
Tất cả trả lời sinh bên một dòng sông”

(Bế Kiến Quốc)

Dòng sông Đồng Nai với thiên nhiên, lịch sử tuyệt vời, là niềm tự hào của những người dân Đồng Nai và căn cứ Chiến khu Đ.

Vì sao lại có tên Đồng Nai? Đồng Nai thoát thai từ hai tiếng Nông Nại, tức Chu Nại-nghĩa là đất Nai, là cánh đồng có nhiều nai vàng, đó là loài vật mảnh mai cao ráo luôn ngẩng cao đầu lao về phía trước, với cặp sừng tua tủa như gươm giáo và đôi  mắt dịu hiền êm ái như nhung, đôi khi rực rỡ như đuốc, như sao. Có lẽ vẻ đẹp của nai vàng bên sông khiến cho những tên khác của dòng sông này tuy gợi cảm như Lộc Giả, Phước Long, Hoà Quí, Sa Hà… nhưng qua sàng lọc tháng năm, duy nhất hai tiếng Đồng Nai còn lại.

Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền
Phái đẹp lấy sông để khích lệ “hướng đạo” giới mày râu:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng
Bạn bề nhờ sông để dẫn dụ, mời mọc, rủ rê:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về


Dân gian truyền tụng về những đặc sản nổi tiếng phương Nam:

Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai
Ca ngợi một vùng quê lý tưởng, có câu:
Đồng Nai nước ngọt, gió hiền
Biên Hùng muôn thuở đây miền yên vui
Kẻ thù kháo với nhau nỗi kinh hoàng truyền kiếp về một dòng sông:
Đồng Nai đi dễ khó về
Lính đi bỏ mạng, quan về mất lon
Mô tả về biến cố do quân xâm lược gây ra, nhà thơ yếu nước Nguyễn Đình Chiểu viết:
Bến Nghé, của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây

v.v…

Viết về truyền thuyết, sông Đồng Nai có một câu chuyện tình thật lãng mạn, bi thương:

Ngày xửa ngày xửa, vào giữa thế kỷ VI, nước Chiêm Thành ở cuối sông Đồng Nai còn vương quốc Phù Nam đóng đô trên thác Trị An. Là một dũng sĩ Chiêm Thành với khao khát đi tìm miền đất lạ để thoả chí giang hồ, Satrida ngược sông Đồng Nai rồi gác mái chèo lãng du ngắm cảnh vật u nhàn, non xanh nước biếc, chim hót, hoa cười trên dòng suối hùng vĩ. Đang say sưa ngắm cảnh vật chàng bị nghi vấn, bắt giải vào cung vua. Sau khi xét thấy chàng trai không có ý đồ do thám, xâm lược, lại trí dũng hơn người, giỏi nghề cung kiếm và được công chúa Liễu Du quyến luyến, nhà vua Phù Nam giao cho chàng việc bảo giá hoàng gia, Mặc dù được yêu chiều rất mực và bản thân chàng cũng quyến luyến Liễu Du, nhưng trong sâu kín tâm hồn, Satrida không nguôi nỗi nhớ Chiêm Thành, một lòng khao khát trở về quê hương. Biết được điều đó, vua Phù Nam lăn đá lấp sông, tạo thành thác Trị An ngày nay để cản đường về của chàng dũng sĩ Chiêm Thành. Đường trở về bị lấp nhưng nỗi nhó nhà nung nấu trong Satrida. Và khi phát hiện ra lối về sau linh kiều Tsien-nơi thờ thần mà tập tục thượng nguôn cấm không ai được bước qua vì điều đó dẫn đến vong quốc-Satrida nhân lúc vắng vẻ liều mạng chạy qua. Chàng liền bị bắt về, trói đứng giữa thác Trị An. Rồi một loạt mũi tên bắn ra khiến chàng rớt xuống vực sâu, bị nước cuốn trôi… Công chúa Liễu Du ngày đêm khóc thương người yêu vô tội, đêm lẻn xuống bậc pháp trường giữa sông tìm xác Satrida, cũng chính cha nàng ra lệnh xử bắn nàng tại đây để vừa lòng quốc dân “vì con gái cưng của nhà vua, niềm kiêu hãnh của thượng nguồn khóc than kẻ phản nghịch”. Thế là từ đó Trị An vang lên tiếng khóc oan ức của nàng công chúa Liễu Du. Cũng theo truyền thuyết, trên bậc tam cấp của thác Trị An có một hòn đá mang dáng người đàn bà, đó là nàng công chúa Liễu Du hóa đá vọng phu. Và bậc thang cuối cùng của sông Đồng Nai có tên là Trị An như một triết lý sâu sắc: muốn an ninh phải nội trị. Có người cho rằng hai tiếng Trị An được đọc trại từ linh kiều “Tsien” mà thành.

Sông Đồng Nai cảnh quan xinh đẹp tới tận thượng nguồn. Ít ai ngờ dòng sông gắn liền với lịch sử Chiến khu Đ lại có một cái tên sinh ra từ truyền thuyết và trở thành một tượng đài của lòng quyết tâm, lao động và sáng tạo làm nên Nhà máy thuỷ điện Trị An, một công trình thuỷ điện lớn nhất ở phía nam Tổ quốc.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 17 Tháng Mười Một, 2007, 06:27:57 pm
Nhà máy thuỷ điện Trị An ở thượng nguồn sông Đồng Nai Chiến khu Đ là tượng đài chiến thắng của cách mạng sau chiến tranh. Xin cho biết sơ qua về công trình xuyên thế kỷ này?


Ở các tỉnh thành phía nam, nhất là những thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh thiếu điện nghiêm trọng vào những năm 80-81. Trong lúc đó Nhà máy Thuỷ điện Đa Nhim cạn nước, thiết bị hư hỏng; Nhà máy nhiệt điệt Thủ Đức không có đô la nhập dầu, thay thế thiết bị; dấn số tăng nhanh, nhiều xí nghiệp ngành nghề, vùng chuyên canh… ra đời sau giải phóng. Đó là lý do dẫn đến việc cắt điện mỗi tuần 4 đến 5 ngày, có khi 6 ngày.

Giáo sư tiến sĩ Trần Kim Thạch đã dự báo tình trạng này từ cuối năm 1975 và thấy cần phải xây dựng ngay nhà máy thuỷ điện Trị An. Ý kiến này được các đồng chí trong Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh ủng hộ. Đồng chí Võ Văn Kiệt lúc đó là Bí thư Thành uỷ ra Trung ương đấu tranh cho thuỷ điện Trị An được đưa vào kế hoạch công trình trọng điểm của Nhà nước. Nhưng kẹt vốn phải tập trung đầu tư cho thủy điện Sông Đà.
Nếu như đồng chí Võ Văn Kiệt là người khởi xướng, thì sau khi ông ra Trung ương, Thiếu tướng Trần Văn Danh (nguyên là chỉ huy tình báo B2, sau khi rời chức Tư lệnh thành phố sang làm Phó Chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, được bổ nhiệm chức thứ trưởng Bộ Điện lực) là người trường kỳ huy động sức dấnuốt 7-8 năm ròng. Lúc ấy, Liên Xô còn đầy khó khăn nhưng cũng đứng ra giúp ta xây dựng công trình thuỷ điện quan trọng này.

Từ đầu năm 1982, phong trào ủng hộ thuỷ điện Trị An dấy lên vô cùng rầm rộ trong mọi ngành mọi giới ở thành phố. Từ đó phong trào lan ra các tỉnh phía Nam. Kết quả đã huy động được 100 tỷ đồng, chiếm 1/5 tổng số tiền đầu tư của nhà nước cho Trị An, trong đó thành phố Hồ Chí Minh đóng góp hơn phân nửa. Bà con Việt kiều ủng hộ 100 ngàn đô la.

Nhà máy khởi công đổ khối bê tông đầu tiên ngày 23-9-1985. Hàng ngàn thanh niên thành phố lên công trường Trị An. 19 ngàn dân Đồng Nai ở Chiến khu Đ di dân khỏi lòng hồ, chịu biết bao thiệt thòi, hi sinh cho đại sự. Hàng triệu lượt người dân Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, Quân khu 7… kéo lên làm trắng lòng hồ… Hồ Trị An dài 30km, rộng 10km, nơi sâu nhất 24m. Diện tích mặt hồ ở cốt 62 là 32.300ha với 78 đồi núi biến thành đảo nổi. Đáy hồ có 30.000 ha rừng. Đây là 1 trong 3 hạng mục chính của công trình thuỷ điện Trị An.

Các đơn vị thi công công trình gồm Liên hiệp các xí nghiệp Thuỷ lợi 4 thuộc Bộ Thuỷ lợi, Tổng công ty xây dựng, Xí nghiệp khai thác vât liệu, Công ty xây dựng và cung ứng vật tư vận tải, nhà máy sửa chữa xe máy Bình Triệu, Trường công nhân cơ giới… đã tạo nên hệ thống đập Trị An: Đập tràn có 8 khoang tràn, mỗi khoang rộng 15m, xả lũ với lưu lượng 19.000m3/giây với tổng khối lượng đào móng 1,5 triệu m3 đất đá và đổ 150.000m3 bê tông cốt thép. Đập chính ngăn sông dài 960m, cao 40m, khối lượng đào đắp 1,6 triệu m3… Toàn bộ công trình với khối lượng đào đắp 45 triệu m3 đất đá, đổ gần 40 vạn m3 bê tông, khoan phụt 63 ngàn m3 xi măng xử lý lòng hồ, lắp ráp 13 ngàn tấn thiết bị sắt thép; sử dụng hàng vạn tấn sắt thép, hàng chục vạn tấn cát sỏi, xây dựng hàng chục vạn m2 kho tàng, và cả một hệ thống cầu đường, bến cảng, điện nước, khai thác vật liệu…

10 giờ ngày 12-1-1987, hàng vạn người trên công trường chứng kiến giờ phút ngăn sông Đồng Nai. Hơn 300 ô tô, xe máng trút xuống dòng sông hàng ngàn mét khối đá hộc, bê tông. Dòng chảy vạn kiếp của sông Đồng Nai qua thác Trị An vĩnh viễn bị chặn lại.

Sau những tháng ngày lao động cật lực của cán bộ, công nhân và chuyên gia Liên Xô, ngày 31-1-1987, tổ máy số 1 khởi động và đến ngày 27-4, chính thức hoà vào lưới điện quốc gia, sau 100 ngày đêm gian khổ sửa chữa đường ống số 1 bị sự cố nứt rạn. Ngày 5-9-1989, tổ máy số 4 cũng là tổ máy cuối cùng của nhà máy Thuỷ điện Trị An vận hành đưa dòng điện vào cuộc hành trình của đất nước.

Sau 5 năm xây dựng, nhà máy Thuỷ điện Trị An một công trình thế kỷ ở Chiến khu Đ đã đi vào hoạt động với công suất 400Kw, điện lượng 1.760 Kwh là biểu tượng rực rỡ của ý chí Việt Nam, là bài ca bất hủ của tình hữu nghị Việt Nam-Liên Xô.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 17 Tháng Mười Một, 2007, 06:28:39 pm
Chiến khu Đ có rừng cấm Nam Cát Tiên. Xin cho biết khu rừng bảo tồn thiên nhiên độc đáo này?


Sau ngày giải phóng, khu rừng cấm Nam Cát Tiên đã được Nhà nước quyết định bảo tồn thành rừng quốc gia. Đây là một trong hai khu rừng nguyên sinh còn sót lại ở nước ta: Cát Tiên và Cúc Phương.

Nằm trọn trên thượng nguồn các con suối đổ ra sông Đồng Nai, với diện tích 38.000 ha, Nam Cát Tiên vừa là vùng đồi thấp, vừa có địa hình bậc thềm sông lại liên tiếp có những vùng nước sình lầy. Trong rừng có 200 loài thực vật, hàng chục loài cây thuốc, 62 loài thú, 121 loài chim, hàng chục loài bò sát, hàng triệu cây tre, lồ ô…

Ở đây có loài gỗ quí thân cao 40-50m, gốc to 10 người ôm không xuể như bằng lăng, gõ đỏ, vên vên, căm xe, ván hương. Trong rừng có những đàn chim độc đáo nhất nước với đủ loài chim ăn cá, những bàu nước với hàng trăm con cá sấu vùng vẫy; những loài chim hiếm có như công, trĩ, sếu và từng đàn mễn, voi, hổ, báo, trâu rừng, bò rừng, lợn rừng, bò tót, gấu, hươu, nai,… Vẻ đẹp của Nam Cát Tiên được trang điểm bởi Thác Trờì ào ào trút nước trắng xoá một dải giữa núi rừng nguyên thuỷ âm u. Xen trong tiếng thác triền miên là tiếng voi rống, vượn hú, mễn tác, cọp gầm…

Đi vào Nam Cát Tiên là đi vào cõi thuỷ mạc của muôn loài sơn lâm với cảnh đẹp ru hồn, cho ra những phút thư giãn vô cùng sảng khoái. Cùng tồn tại với Cát Tiên là những hồ Đa Dung, Đa Nhim, Liên Khương, Định Quán, Tà Lài, Trị An. Nơi đây thấp thoáng bóng ngườì cổ xưa, những di chỉ tiền sử, những tầng hóa thạch, những mỏ khoáng sản vùi sâu dưới lớp đất đá mênh mông.

Phải chăng thiên nhiên đã hào phóng ưu đãi cho xứ Đồng Nai một cảnh sắc khó so bì để trung hoà lại sự khắc nghiệt gian khổ của Chiến khu Đ?

Rừng quốc gia Nam Cát Tiên đang được bảo tồn nghiêm ngặt để giữ gìn những báu vật thiên nhiên ban tặng, đã trở thành tài sản vô giá của người nhà.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 17 Tháng Mười Một, 2007, 06:29:02 pm
Có phải nghề gốm sứ là một công nghệ độc đáo của vùng Bình Dương-Biên Hoà?


Những địa phương vùng Chiến khu Đ từ trước đến nay là nơi tập trung rất nhiều làng nghề mỹ nghệ thủ công, như gốm sứ, chạm khắc, sơn mài, đục đẽo đá, đan lát, mây tre, may, dệt… Nhưng có lẽ nổi tiếng hơn cả và trở thành một tiềm năng trong nền kinh tế là gốm sư Biên Hoà, Bình Dương.

Nhưng nghiên cứu về nguồn gốc của gốm sứ cho rằng cái nôi nổi tiếng và có truyền thống khá lâu đời là ở vùng Tân Phước Khánh (Tân Uyên) có mối liên hệ trực tiếp với nghề gốm sứ Đồng Nai. Thủ Dầu Một-Biên Hoà-Sài Gòn, trong lịch sử đã hình thành một “tam giác gốm” của khu vực Nam Bộ. Mặt khác sự hiện diện của người Hoa ở 3 tỉnh liền nhau này có một vai trò quan trọng trong hoạt động nghề gốm, bởi trong số cư dần đầu tiên ngược sông Sài Gòn và sông Đồng Nai đến định cư, khẩn đất làm ăn lập nghiệp, bản thân có nghề truyền thống là các ngành nghề thủ công, đặc biệt là ngành gốm sứ nổi tiếng khắp thế giới thế kỷ 16, 17, 18… nên đã có những tàu buôn của Anh, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Trung Quốc… đến Việt Nam buôn bán, vì gốm sứ Lái Thiêu, Biên Hoà có một nét rất riêng hết sức độc đáo mang cốt cách Việt Nam.
Hơn nữa các lò gốm lâu đời ở Thủ Dầu Một kiểu dáng các lò nung cũng gần giống của Biên Hoà, mang bản sắc Nam Bộ và chứa đựng các yếu tố văn hóa của cộng đồng.

Hiện nay sản phẩm gốm của Bình Dương, Biên Hoà rất đặc sắc đa dạng từ kiểu dáng đến hoa văn, do những bàn tay khéo léo của đội ngũ nghệ nhân tạo thành rất bắt mắt, đặc biệt đối với khách du lịch nước ngoài. Bình Dương và Biên Hoà đã cung câp cho nhiều địa phương ở Nam Bộ sản phẩm xây dựng, công nghiệp, dân dụng… Một số lượng gạch ngói lớn cho các công trình xây dựng ở thành phố Hồ Chí Minh, các loại sản phẩm cho đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là các đồ dùng để chứa nước ngọt cho vùng thiếu nước với các loại lu, vại sành có độ nung cao, chất lượng tốt. Các sản phẩm gốm mỹ nghệ cao cấp còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị cung cấp cho thị trường nhiều nước trên thế giới.

Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, công nghệ phát triển và hiện đại, gốm sứ Bình Dương, Đồng Nai vẫn giữ được bản sắc riêng của mình bằng nghề thủ công khéo léo, thu hút một lượng lao động, giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn người, trở thành một nét đặc sắc trong ngành nghề hấp dẫn khách du lịch bốn phương.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 17 Tháng Mười Một, 2007, 06:29:50 pm
Thượng tướng Trần Văn Trà gắn bó với miền Đông và Chiến khu Đ với cương vị lãnh đạo quân sự cao nhất. Xin cho biết về vị tướng lỗi lạc này?


Trần Văn Trà là một vị tướng rất đặc biệt về tài năng quân sự. Ông “khắc tinh” với quân địch ở vùng Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, là nỗi ám ảnh của chúng khi phải đối đầu với ông trên chiến trường. Cuộc đời gian khổ và vinh quang của ông gắn liền với những vùng đất và những trận đánh vang lừng suốt chiều dài lịch sử của mảnh đát “miền Đông gian lao mà anh dũng”.

Thượng tướng Trần Văn Trà (tức Nguyễn Chấn) sinh năm 1919 trong một gia đình nông dân lao động ở xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông tham gia cách mạng năm 1936 khi còn học ở trường kỹ nghệ huế. Tháng 8-1938 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm đó, ông bị địch bắt tại Sài Gòn và sau 5 tháng giam giữ, được trả tự do, nhưng bị quản thúc vô thời hạn ở quê. Tháng 3-1941, ông trốn lên Đà Lạt rồi về Nha Trang, sau đó trở lại Sài Gòn bắt liên lạc với cách mạng. Tháng 11-1944, ông bị địch bắt lần thứ hai, giam tại Khám Lớn Sài Gòn.

Cách mạng Tháng 8-1945 thành công. Ông là uỷ viên Kỳ bộ Việt Nam và lần lượt giữ các chức vụ: Uỷ viên chính trị liên quận Hóc Môn-Bà Điểm; Khu trưởng Khu 8; Xứ uỷ viên-Phó tư lệnh Nam Bộ kiêm Tư lệnh và Chính uỷ Khu Sài Gòn-Chợ Lớn; Khu uỷ viên-Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ…

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với những cương vị khác nhau, ông đã góp phần lãnh đạo quân và dân miền Đông Nam Bộ xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng căn cứ kháng chiến mở các chiến dịch để phối hợp với chiến trường toàn quốc, giành nhiều thắng lợi trong các trận đánh lớn…

Sau ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp (7-1954), ông tập kết ra Bắc và được bổ nhiệm chức Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, kiêm giám đốc Học viện Chính trị và Toà án Quân sự Trung ương. Năm 1959 ông được đề bạt cấp Trung tướng.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam ngày càng mở rộng, năm 1963, ông được Trung ương cử về Nam đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, là Uỷ viên Trung ương Cục và Phó bí thư Quân uỷ Miền. Với tài thao lược quân sự, ông đã góp phần chỉ đạo chỉ huy làm nên những trận thắng vang dội như Đất Cuốc, Đồng Xoài, Phước Long, chiến dịch Bình Giã, Mậu Thân, Nguyễn Huệ…

Năm 1973, Hiệp định Paris vê Việt Nam được ký kết, Trung tướng Trần Văn Trà được cử làm trưởng đoàn đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, kiểm soát thi hành hiệp địn do 4 bên tham chiến. Năm 1974, ông được đề bạt quân hàm thượng tướng.

Bước vào mùa Xuân 1975, quân ta thắng lớn trên các mặt trận, dồn quân địch về phía nam trong thế chống đỡ tuyệt vọng. Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn-Gia Định và cả miền Nam. Với cương vị Phó Tư lệnh chiến dịch, ông đã góp phần lãnh đạo cuộc tiến công nổi dậy ở B2, hoàn thành thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh, kết thúc rực rỡ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm.

Sau ngày giải phóng miền Nam, Thượng tướng Trần Văn Trà được cử làm Chủ tịch Uỷ ban quân quản thành phố Sài Gòn-Gia Định, sau đó giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu 7. năm 1978, được bổ nhiệm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, uỷ viên thường vụ Quân uỷ Trung ương.

Ông đã từng được bầu vào Uỷ ban Trung ương Đảng và đại biểu Quốc hội. Năm 1982, Thượng tướng nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù vậy, ông vẫn được tín nhiệm bầu là Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam năm 1992 và kiêm Chủ tịch hội cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh. Trong một lần đi công tác ở nước ngoài, Thượng tướng Trần Văn Trà đột ngột từ trần ngày 20-4-1996, để lại biết bao niềm tiếc thương cho đồng chí và đồng bào.

Cũng như nhiều chiến sĩ anh hùng, các nhà lãnh đạo kiệt xuất, các danh nhân… cái tên Trần Văn Trà đã đi vào bất tử.

Cuộc đời chiến đấu hào hùng của ông đã để lại cho các thế hệ sau một tấm gương soi:

“Ra đi hai bàn tay trắng
Trở về, một dải giang san
Trăng xưa, hạc cũ, dòng sông lặng
Mây nước yên bình, thiên mã thăng”
-Trần Văn Trà


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 17 Tháng Mười Một, 2007, 06:30:55 pm
Huỳnh Văn Nghệ là một trong những vịchỉ huy võ trang đầu tiên của Chiến khu Đ, đồng thời ông là một nhà thơ; xin cho biết sơ lược về thân thế sự nghiệp và bài thơ “Nhớ Bác” nổi tiếng của ông?


Theo nhiều tài liệu thì Huỳnh Văn Nghệ là Kho bộ phó Khu 7 dưới trướng Trung tướng Nguyễn Bình và có lúc là Khu bộ trưởng lại có thiên bẩm thơ phú, nên ông trở nên nổi tiếng không những ở miền Đông Nam Bộ mà cả nước.

Huỳnh Văn Nghệ sinh năm 1914 ở Tân Tịch, Tân Uyên, Biên Hoà (Tân Uyên nay thuộc tỉnh Bình Dương). Khi còn nhỏ ông học ở Sài Gòn rồi ra làm công chức hoả xa. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), ông sáng tác nhiều bài thơi yêu nước. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, ông chạy sang Thái Lan, liên lạc với phong trào yêu nước ở hải ngoại. Sau đó ông trở về tham gia cách mạng tháng Tám ở quê nhà. Và khi quân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, ông ra chiến khu cùng với các đồng chí thành lập lực lượng vũ trang, chỉ huy Chi đội 10 Vệ quốc đoàn Biên Hoà… làm Khu bộ phó rồi Khu bộ trưởng Khu 7, tỉnh đôi trưởng Thủ Biên (Thủ Dầu Một-Biên Hoà), trực tiếp chỉ huy nhiều trận vận động chiến giành thắng lợi.

Năm 1955, ông tập kết ra miền Bắc và được phong quân hàm thượng tá giữ chức Phó Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng tham mưu. Năm 1965, ông được điều động về Nam làm Trưởng ban căn cứ Trung ương Cục kiêm Phó ban kinh tài. Sau ngày giải phóng miền Nam, ông chuyển ngành làm Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp kiêm Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp miền Nam.

Do bệnh đau, ông đã qua đời ngày 5-3-1977, thọ 63 tuổi.

Theo Thiếu tướng Bộ Chính trị, hồi ở Chiến khu Đ, ông Huỳnh Văn Nghệ có một vài đặc điểm là chữ ký như bộ chân con dế đá và đôi môi thâm sì vì hút thuốc lá quá nhiều.

Sức hút của Huỳnh Văn Nghệ toả rộng còn ở phẩm chất và phong cách mang đậm nét truyền thống anh hùng dân tộc trong lịch sử: hiếu thảo và khảng khái. Ông có nhiều bài thơ tặng mẹ rất xúc động. Trong cuộc họp cục bộ 2 bên ở miễu Bà Cô để bàn việc thực hiện ngừng bắn theo tạm ước 6-3-1946 Đà Lạt, phía Pháp khư khư đòi yêu sách “Nam Kỳ quốc”. Biết ông là người Nam Bộ, nhưng chúng vẫn hỏi ông là người Nam Kỳ hay Bắc Kỳ. Ông đáp ngay “người Bắc”. Tên cáo già Phòng nhì hẳn chưa biết ông ra Bắc vào Nam nên mới có hai câu thơ:

Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

Bảy Viên là một lãnh tụ Bình Xuyên, khi được đề bạt Khu bộ phó (một lượt với Huỳnh Văn Nghệ) đã không chịu về nhận chức. Huỳnh Văn Nghệ đích thân xuống tận sào huyệt thuyết phục mới gỡ được Bảy Viễn ra khỏi gọng kềm sắt của Phòng nhì Pháp.

“Võ tướng-Thi nhân”, người đương thời gọi Huỳnh Văn Nghệ như thế. Ông làm thơ rất ít. Đối với ông nói và làm chưa đủ mà đôi lúc phải cầu viện đến thơ mới bày tỏ hết nỗi niềm yêu thương và thù hận tận đáy lòng. Như giáo sư Hoàng Như Mai viết: “Huỳnh Văn Nghệ làm thơ không phải vì danh giá, lợi lộc, ghi tên tuổi cho hậu thế gì hết… Đọc thơ ông ta càng thấm thía câu thơi của Bác Hồ “Nay ở trong thơ nên có thép”.

Có lẽ trong “sự nghiệp” thơ văn của Huỳnh Văn Nghệ, bài thơ “Nhó Bác” được đánh giá cao nhất. Sau đây là toàn văn bài thơ:

Nhớ Bác
Ai về Bắc, ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

Ai nhớ người chăng? Ơi Nguyễn Hoàng!
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu sầu xa xứ
Non nước rông tiên nặng nhớ thương.

Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần man mác hương sầu riêng

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại… Ôi đất Bắc!
Muốn trở về quê, mơ cánh tiên.

Chiến khu Đ 1946-1958
Huỳnh Văn Nghệ


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 17 Tháng Mười Một, 2007, 06:31:37 pm
Có một Thiếu tướng-nhà văn trưởng thành từ Chiến khu Đ?


Không ai xa lạ. Đó chính là nhà văn Bùi Cát Vũ-Thiếu tướng Phó Tư lệnh Quân khu 7 vào những năm của thập niên 80, thế kỷ 20. Vừa giữ rất nhiều chức vụ chỉ huy lại vừa duy trì văn nghiệp trong suốt cuộc đời binh nghiệp như ông quả là hiếm. Nhưng người ta biết đến ông nhiều nhất có lẽ là vị Tư lệnh pháo binh miền Đông Nam Bộ, mà tên tuổi ông gắn liền với những chiến công vang dội như La Ngà, Tecnit, sân bay Biên Hoà, Hớn Quản, Phước Long…

Thiếu tướng-nhà văn Bùi Cát Vũ sinh năm 1924 ở xã Hưng Mỹ huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Cha mất khi ông 11 tuổi, ông phải làm thuê phụ mẹ nuôi 3 em nhỏ. Trong thời gian lên Sài Gòn làm thợ hồ và bán báo, ông học được cách lấy tin, viết phóng sự và truyện ngắn từ các bậc huynh trưởng Văn Nguyên, Thanh Mại và học làm cách mạng từ các bậc thầy tâm huyết An Ninh, Văn Hùm, Văn Tạo, Thu Thâu, Bạch Mai… Trên con đường dấn thân, ông bị địch bắt giam. Nhờ sự bênh vực của luật sư nên ông được tại ngoại hầu toà.

Trở về con sông Cổ Chiên quê hương, Bùi Cát Vũ bắt liên lạc với Quang Đông vào thời điểm khởi nghĩa (tháng 8-1945), Quang Đông là Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chánh tỉnh, Bùi Cát Vũ làm giám đốc Cộng hoà vệ binh. Nghiệp quân sự của ông bắt đầu từ đó.

Sau khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, Bùi Cát Vũ trở lại Sài Gòn rồi lên Biên Hoà bắt liên lạc với Chiến khu Đ do Khu trưởng Nguyễn Bình và Khu phó Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy. Ông kết bạn với nhà quân sự-nhà thơ “mang gươm đi mở bờ cõi”. Khi được giao làm giám đốc Binh công xưởng, ông nghiên cứu chế tạo thành công mìn lõm.

Khu phó-nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ mô tả chiến công mìn lõm của Bùi Cát Vũ: Mặt nước bàu Cá Trê óng ánh như có trăng dưới rừng lá rộng… Các trái mìn lõm như những con mắt theo dõi bước đi của quân giặc. Và từ sau hốc đá trên sườn cao, chỉ huy phó vừa bấm công tắc mìn vừa ra lệnh: “Chi đội, nổ!”. Loáng một cái, đoàn xe thiết giáp từ Nha Trang vào tiếp sức cho địch ở Chiến khu Đ nổ tung trong biển lửa dậy trời. Trong số giặc bị tiêu diệt, có những sĩ quan cấp cao tử trận.

Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Phó tư lệnh pháo binh Bùi Cát Vũ theo đơn vị tập kết ra miền Bắc và được cử đi học đào tạo Phó tiến sĩ pháo binh. Ông trở về Nam và được bổ nhiệm chức Tư lệnh pháo binh Miền. Gần 20 năm lăn lộn trên chiến trường trọng điểm cửa ngõ sào huyệt địch ở Sài Gòn, Biên Hoà với đối tượng kẻ thù là mới xâm lược Mỹ, ông đã góp nhiều công sức xây dựng lực lượng pháo binh Miền không ngừng lớn mạnh và lập được nhiều chiến công xuất sắc, nhất là trong các chiến dịch lớn như Đồng Xoài, Bình Giã, Mậu Thân, xuân-hè 1972, mùa xuân 1975 kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam hạ màn, Tư lệnh phó Quân đoàn 4 chỉ huy đồng đội tiến vào giải phóng Phnôm Pênh, chấm dứt cuộc diệt chủng đẫm máu của bọn đồ tể man rợ Polpot-Iengsary.

Chính ở thời điểm giải phóng và làm nhiệm vụ quốc tế giúp đất nước Campuchia hồi sinh trên đống tro tàn, văn nghiệp của Thiếu tướng Bùi Cát Vũ được dịp thăng hoa. Ông viết thành công các tác phẩm: Đường vào Phnôm Pênh, Vòng hoa sứ trắng, kịch bản phim “Thành phố có người” (đã dựng thành phim) và đặc biệt là phim “Cơn lốc đen” khắc hoạ tội ác tày trời của tập đoàn phản động diệt chủng Campuchia. Truyện “Vòng hoa sứ trắng” được giải thưởng văn học. Ngoài ra ông còn viết truyện thiếu nhi, trong đó có tác phẩm Cát bụi Sài Gòn được giải thưởng văn học thiếu nhi của Hội nhà văn.

Từ năm 1980-1981, ông lên giữ chức Phó tư lệnh Quân khu 7, nhưng vẫn cần cù cày xới trên những trang văn đầy hơi thở của cuộc sống. Ông viết văn hay nhưng nói chuyện thì rất “buồn ngủ”, đó là một cá tính nổi bật của vị tướng nhà văn. Sau này ông bị đau nặng và đã qua đời vào tháng 3-2002 tại thành phố Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 17 Tháng Mười Một, 2007, 06:32:16 pm
Chiến khu Đ đã trở thành di tích lịch sử, một “địa chỉ đỏ” của cả nước. Ta đã có kế hoạch bảo tồn, khôi phục và tôn tạo như thế nào?

Trải qua hai cuộc kháng chiến, Chiến khu Đ tuy có nhiều thay đổi, nhưng đã đi vào lòng cán bộ, chiến sĩ và nhân dân tại chiến khu, và cả với những người chưa một lần đặt chân tới. Chiến khu Đ với những nội dung lịch sử và những bài học lớn đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Để tái tạo một Chiến khu Đ lịch sử, bảo tồn một căn cứ kháng chiến tầm cỡ làm nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ Việt Nam, cũng như tạo điều kiện cho việc nghiên cứu khoa học lịch sử, văn hóa nghệ thuật… ngày 26-7-1996, Tỉnh uỷ và UBND tỉnh Đồng Nai đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo xây dựng khu di tích lịch sử và Khu tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Chiến khu Đ. Ban chỉ đạo gồm các đồng chí Nguyễn Trùng Phương-Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Nguyễn Nam Ngữ-Giám đốc Sở Văn hóa thông tin-thể thao, Trần Đình Thành-Trưởng ban tuyên giáo Tỉnh uỷ. Bên cạnh đó, lãnh đạo tỉnh còn ra quyết định thành lập Ban tư vấn chỉ đạo xây dựng khu di tích lịch sử để giúp Ban chỉ đạo xác định địa điểm, xây dựng phương án và triển khai thực hiện sưu tầm tài liệu, hiện vật để phục vụ cho việc phục hồi, tái tạo khu di tích quan trọng này.

Trung tướng Phan Trung Kiên, nguyên Tư lệnh Quân khu 7 (nay là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), đồng chí Lê Hoàng Quân, Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Nai, Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước, Thượng tướng Bùi Thiện Ngộ, nguyên Bộ trưởng Bộ Công an, Trung tướng Nguyễn Thới Bưng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Ngô Bá Cần, nguyên Bí thư tỉnh uỷ Biên Hoà… cũng đã đi khảo sát thực địa và góp ý chỉ đạo xây dựng công trình di tích lịch sử Chiến khu Đ.

Di tích căn cứ Chiến khu Đ được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử vào năm 1999. Theo quy hoạc trùng tu, khôi phục thì khi di tích kết hợp với du lịch sinh thái Chiến khu Đ, cách Sài Gòn khoảng 69km, diện tích tổng thể 60.000 ha; phạm vi bảo tồn 800 ha, bao gồm các cụm căn cứ: “Khu miền Đông thu nhỏ” 540 ha, khu bảo vệ thú hoang dã 746 ha, khu rừng gỗ quý 1.250 ha, khu du lịch dã ngoại, khu du lịch hồ Bà Hào (độc lập với hồ Trị An) 300 ha, có nhiều đảo và bán đảo, làng du lịch các dân tộc miền Đông Nam Bộ, nhà du lịch dưới tán cây và ven hồ.

Khu di tích gồm 2 cụm chính: Khu uỷ miền Đông với các hạng mục: nhà các đồng chí lãnh đạo, văn phòng Khu uỷ, cơ yếu, vệ binh, giao thông hào, địa đạo… Khu tượng đài chiến thắng Chiến khu Đ ở ngã ba Bà Hào kết hợp với rừng tái sinh, hồ Bà Hào, khu Văn hoá truyền thống, khu sinh thái, nhà nghỉ mát, ao sen… khu vực tổng thể vươn tới cả khu di tích sân bay Rang Rang, kuh bảo tồn rừng quốc gia Nam Cát Tiên, khu du lịch thuỷ điện Trị An, di tích Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông.

Sau một thời gian triển khai, đến cuối năm 2002, du di tích đã hoàn thành một số công trình như trùng tu di tích địa đạo Suối Linh, các cơ sở sinh hoạt và chiến đấu trong căn cứ Khu uỷ, tượng đài chiến thắng Chiến khu Đ…

Việc khôi phục tái tạo di tích căn cứ Chiến khu Đ, kết hợp với du lịch sinh thái rộng lớn, được đầu tư rất lớn của tỉnh Đồng Nai va chia thành nhiều giai đoạn sẽ đem lại những lợi ích thiết thực về lịch sử, văn hóa và kinh tế vùng Chiến khu Đ, góp phần tôn vinh truyền thống vẻ vang của một vùng đất sáng ngời chiến công, đã từng là “Việt Bắc” của miền Đông Nam Bộ anh hùng.


Tiêu đề: Chiến khu Đ
Gửi bởi: ptlinh trong 17 Tháng Mười Một, 2007, 06:33:00 pm
Tài liệu tham khảo


1. Lịch sử Chiến khu Đ-Nxb Đồng Nai 1997.
 
2. Miền Đông Nam Bộ kháng chiến 1945-1975, Nxb Quân đội nhân dân 1993.

3. Ký ức miền Đông, Nxb Văn Nghệ TP.Hồ Chí Minh 2000.

4. Những trận đánh LLVT Quân khu 7 (tập 1, 2, 3), Nxb Quân đội nhân dân 2001, 2002.

5. Đặc khu Rừng Sác, Hồ Sĩ Thành, Nxb Trẻ 2002..

6. Từ điển Thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ 2001.

7. Đồng Nai niềm tin và hy vọng, Nxb Đồng Nai 2000.

8. Đá nổi xôn xao, Hoài Tố Hạnh, Nxb Đồng Nai 1995.

9. Đồng Nai truyền thống hào hùng, Nxb Đồng Nai 2001.

10. Xây dựng hệ thống tư liệu địa chí Bình Dương, kỷ yếu 2002.

11. Bình Dương đất lành chim đậu, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh 1999.

12. Báo cựu chiến binh TP.Hồ Chí Minh.

13. Báo Quân khu 7.