Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thảo luận Lịch sử bảo vệ Tổ quốc => Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước... => Tác giả chủ đề:: kevin trong 14 Tháng Chín, 2007, 08:19:53 pm



Tiêu đề: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 14 Tháng Chín, 2007, 08:19:53 pm
Ke ke ke, mấy bác trong này vui tính nhờ. Đặt tên box là "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước..." mà chả có chủ đề nào về đường Trường Sơn à? Hài thật. Đúng kiểu dân Việt Nam toàn hô hào to tát, làm những việc ở tận đẩu tận đâu trong khi việc còn con, ngày bên cạnh thì... He he he!


Bí mật Đường mòn Hồ Chí Minh
Tác giả: Phạm Tiến Duật
(từ mấy tờ An ninh thế giới cách đây lâu lắm rồi, chả nhớ là năm nào nữa).
Số hoá: kevin chứ ai.


Cho đến tận bây giờ, mùa hè năm 1999, sau 24 năm kết thúc chiến tranh, công dân các nước Việt Nam, Mỹ và một số nước khác có tham chiến ở Việt Nam vẫn không có điều kiện để hiểu đầy đủ về tuyến đường xuyên ngang, xẻ dọc dãy núi Trường Sơn trùng điệp của ba nước Đông Dương. Mật danh, tên gọi công khai, chính thức được các phương tiện thông tin đại chúng của phía ta công bố là “Đoàn vận tải quân sự Quang Trung” để chỉ các lực lượng của Bộ đội Trường Sơn. Cái tên ấy được lặp đi lặp lại trên báo, trên đài nhiều năm thành quen. Không chỉ cán bộ dân sự mà cả bộ đội ta, nhiều người chỉ hiểu “Đoàn vận tải” nghĩa là một đoàn xe tải, chắc là hàng trăm chiếc hay nhiều hơn nữa. Bằng suy diễn và tưởng tượng, người ta hiểu thêm rằng, xe muốn chạy thì phải có đường và người làm đường. Thế là người ta lại hiểu thêm rằng, bên cạnh các anh lái xe Trường Sơn còn có thanh niên xung phong làm đường. Hiểu như thế là đúng ý định của Tổng hành di quân đội ta lúc ấy. Cách nguỵ trang chiến lược ất rất tốt, làm cho kẻ địch không nắm được ý đồ chiến lược, không hiểu được quy mô của một thế trận. Thực ra, cái tên “Đoàn vận tải quân sự Quang Trung”, có một từ phát lộ bí mật mà ít ai để ý: từ “Quang Trung”. Tại sao không gọi là Đoàn vận tải quân sự Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo hay một vị anh hùng nào khác mà lại phải gọi là Quang Trung? Ấy chỉ vì Quang Trung (Nguyễn Huệ) là vị tư lệnh, vị anh hùng duy nhất của thời phong kiến nước ta lập được tuyến đường quân sự Nam-Bắc vượt Trường Sơn, người đã có mệnh lệnh “thần tốc!” nổi tiếng vào năm 1789.


Tuy nhiên, cái tên “Đoàn vận tải quân sự Quang Trung” ít thấy phía Mỹ và phương Tây dùng, trừ những khi họ đưa tin theo tin tức mà ta công bố. Để chỉ tuyến đường Hồ Chí Minh, đường Trường Sơn, phía đối phương gọi là “Đường mòn Hồ Chí Minh” (Ho Chi Minh Trail).


Tên gọi “Đường mòn Hồ Chí Minh" do ai, ở đâu đặt và được đặt ra khi nào?Chính là tại đây, Việt Nam, cán bộ, chiến sĩ ta đã đặt tên. Cái tên ấy có từ cuối năm 1945 khi đoàn quân Nam tiến chống thực dân Pháp.
Tháng 5-1959.

Cùng với những mật danh: Đường Trường Sơn, Đường mòn Hồ Chí Minh, Đường dây Thống Nhất, Đoàn vận tải quân sự Quang Trung, Bộ đội Trường Sơn-rồi tiép đến là Đoàn 559-đây là một phiên hiệu khái quát nhất, ngắn nhất và cũng rất thiêng liêng vì nó ra đời ngày 19-5-1959. Càng thiêng liêng hơn khi người thay mặt Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ là Bác Hồ. Người nhận nhiệm vụ là Đại tá Võ Bẩm.

Đằng sau các mật danh, thực chất quy mô của hệ thống Tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh như thế nào xin hãy suy ngẫm từ các con số sau đây dựa trên Tập số liệu 16 năm của Bộ tư lệnh 559:

-Quân số cao nhất ở một thời điểm: trên 20 vạn người (Nếu tính số lượt người tham gia chiến đấu trên Trường Sơn thì đến trên 1 triệu).

-Số tấn bom đạn Mỹ trút xuống Trường Sơn: hơn 3 triệu tấn, gồm bom khoan, bom phá, bom cháy; các loại mìn; các loại đạn pháo; chất độc hoá hjc các loại, trong đó có chất độc màu da cam.

-Số cán bộ, chiến sĩ hy sinh trên Trường Sơn: gần 3 vạn.

-Số cán bộ, chiến sĩ bị thương: trên 10 vạn.

-Số xe, máy bị đánh hỏng: 14.500 chiếc.

-Số hàng hoá bị phá huỷ: 90.000 tấn, trong đó có 703 súng, pháo.

-Độ dài của tuyến đường giao liên: 1.600 km.

-Độ dài hệ thống đường ôtô (cố nhiên chỉ tính hệ thống đường ngang dọc trên Trường Sơn): 20.000 km, trong đó có 5 hệ thống đường trục dọc (theo chiều dài dãy núi đến Đông Nam Bộ), 21 đường trục ngang. Trong hai vạn kim ấy có 3.140 km đường kín (đường được nguỵ trang để xe chạy ban ngày).

-Độ dài tuyến cơ giới đường sông (chủ yếu là các nhánh của sông Xê Công và Mê Công): 600 km.

-Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển: 1 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 603) gồm 107 cán bộ, chiến sĩ do Đoàn 559 thành lập tại Cảng cá Thanh Khê (cách cửa sông Gianh, Quảng Bình 4 km) với mật danh “Tập đoàn đánh cá miền Nam”. Sau này bàn giao cho Bộ tư lệnh Hải quân quản lý.

-Số máy bay Mỹ bị lực lượng phòng không thiết giáp bắn rơi: 2.4555 chiếc.

-Số bộ binh địch bị tiêu diệt trên Trường Sơn: 18.000 tên, bắt sống 1.190 tên.


Tiêu đề: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 14 Tháng Chín, 2007, 08:21:01 pm
“Thà xước da người còn hơn sẩy da cống”

Có một bài hát của nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng tác từ năm xưa mà cho tới bây giờ không mấy ai không thuộc, bài Chiếc gậy Trường Sơn: ”Thanh niên quê tôi làm chiếc gậy hành quân…”. Chữ “quê tôi” trong bài hát có địa chỉ cụ thể: đấy là làng Hoà Xá, huyện Vân Đình, tỉnh Hà Tây, nơi có sáng kiến làm gậy leo núi để tặng bộ đội. Tuy nhiên, không phải đến khi có bài hát này mới có các cuộc tập leo núi. Sau Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) và sau khi thành lập Đoàn 559, các cuộc tập leo núi đã được tiến hành ở một nơi bí mật, ấy là vùng núi phía nam tỉnh Hoà Bình-vùng địa hình na ná như Trường Sơn.
Những chiến sĩ được huấn luyện chuẩn bị vượt Trường Sơn phải giữ bí mật tuyệt đối, kể cả với bố mẹ và anh chị em trong gia đình. Họ lên xe đi tập trong những chiếc xe vận tải buông kín bạt và chỉ lái xe mới được biết là đang đi đâu. Và thế là sáng sáng, chiều chiều, ở vùng núi Xuân Mai người ta thấy từng đoàn chiến sĩ, với chiếc gậy trong tay, nối nhau trèo núi, hết ngày này sang ngày khác.


Đoàn người đầu tiên vượt Trường Sơn gồm nửa nghìn chiến sĩ tình nguyện, được tập họp thành Tiểu đoàn giao liên vận tải 301 do đồng chí Hà Kỳ Thự phụ trách.
Bối cảnh miền Nam cuối năm 1959 là bối cảnh đầy máu lửa và sự nhảy múa của quỷ dữ. Con đường số 9 từ cảng Cửa Việt qua thị trấn Đông Hà (Quảng Trị) cắt ngang Trường Sơn, nối với thị xã Thà Khẹt của Lào, hoàn toàn do địch kiểm soát. Quân lính của Ngô Đình Diệm, có cả lính con gái của Lệ Xuân ngày đêm tuần tiễu. Chúng vừa nắn bóp trêu đùa nhau vừa quăng lựu đạn, bắn vu vơ vào các bụi rậm ven Đường 9. Cho đến những năm sau này, cả Trường Sơn đều là tuyến lửa nhưng chăng đường vượt qua Đường 9 vẫn là chặng đường gian nan, ác liệt.


Các chiến sĩ đầu tiên ngày ấy tập trung tại một thung lũng hẻo lánh phía tây Vĩnh Linh, gọi tên là Khe Hó. Trước khi hành quân vào Nam, họ phải bỏ lại tất cả các hiện vật có liên quan đến các lai lịch đơn vị và cá nhân: tiền miền Bắc, tem phiếu, các sổ sách có ghi các địa chỉ… Con đường mà họ sẽ vượt qua là phía tây tỉnh Quảng Trị đến phía tây Thừa Thiên, tuyến đường mòn của dân đi hái củi và lối mòn của voi, của thú rừng đi qua.


Vượt rừng không khó vì đã có nhân dân các dân tộc ít người trên Trường Sơn, mà ở phía tây Quảng Trị là bà con Vân Kiều, chỉ đường dẫn lối. Đoạn khó nhất vẫn là vượt qua Đường 9. Để đảm bảo tuyệt đối bí mật, an toàn, các chiến sĩ đã tuân thủ một mệnh lệnh có vần, dễ nhớ: “Ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”. Còn khẩu hiệu để vượt Đường 9 là: “Thà xước da người còn hơn sầy da cống”. Nguyên do là đoàn chiến sĩ vượt qua Đường 9 không thể băng qua mặt đường mà phải chui qua những cái cống ngầm ở đó. Họ phải gùi những hòm đạn, hòm súng trên lưng. Dưới cống lẹt xẹt nước có rất nhiều cây xấu hổ (hay còn gọi là cây mắc cỡ), rất nhiều gai. Nếu nâng người lên để tránh gai thì các thùng hàng sẽ làm xước thành cống, để lại dấu vết, sẽ lộ. Mà ép bụng xuống thì gai cây xấu hổ sẽ xé áo, rách da. Thế là các chiến sĩ ta dũng cảm chọn cách thứ hai.


Chuyến hàng đầu tiên chưa phải là vào Nam Bộ mà là tới Thừa Thiên, phía tây huyện Phong Điền. Chuyến hàng xuất phát ngày 13-8-1959, tới đích ngày 21-8 cùng năm. Số vũ khí vận chuyển đầu tiên mang tiến công thăm dò, số lượng rất ít ỏi, bao gồm 20 khẩu tiểu liên (loại Tuyn), 20 khẩu súng trường (Mat), 10 thùng đạn. Đồng chí Bí thư Phong Điền tiếp nhận lô vũ khí đầu tiên từ miền Bắc gửi vào đã ôm lấy bó súng mà reo lên: “Cách mạng đây rồi! Chính quyền đây rồi!”.

Cũng vào tháng 5-1959, Bộ Quốc phòng còn quyết định thành lập Đoàn B90 tăng cường cho Liên khu 5. Đoàn B90 gồm 25 cán bộ, chiến sĩ đã vượt thượng nguồn sông Bến Hải để nhằm khai đường, mở lối, nối hai chiến trường miền Trung và Nam Bộ. Các đơn vị giao liên, vận tải, gùi thồ kế tiếp được thành lập, ngày càng nhiều, ngày càng đông.


Tiêu đề: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 14 Tháng Chín, 2007, 08:22:09 pm
Chặng đường gùi thồ kéo rất dài, rất dài. Từ năm 1959 một phương thức mới, lại rất hiện đại: vận chuyển bằng cầu hàng không. Những chiếc máy bay cánh quạt Liên Xô vận chuyển hàng cho Lào, kết hợp vận chuyển cho ta. Những chiếc Li-2 thả dù hàng xuống phía bắc và nam Đường 9. Đội quân gùi thồ đỡ được một đường, lại gùi tiếp, thồ tiếp. Phải nói thêm rằng việc thả hàng từ máy bay Li-2 cũng chỉ được một số chuyến thôi. Công cuộc gùi thồ tiếp tục kéo qua các năm 1963, 1964. Từ năm 1963, ta đã bắt đầu dùng ôtô vận chuyển từng đoạn. Những văn bản nói lên chủ trương của những năm ấy có ghi “kết hợp cơ giới với gùi thồ”, nhưng số phương tiện chiến đấu vận chuyển bằng gùi thồ vẫn chiếm một tỷ trọng lớn. Vận chuyển cơ giới đáng kể là từ mùa khô 1963-1964.


Do xuất hiện việc vận chuyển bằng cơ giới nên một mặt hàng cần thiết cung cấp cho ôtô trên đoạn đường tây Quảng Trị-Thừa Thiên là xăng dầu. Dưới gầm trời này không có một nơi nào vận chuyển xăng dầu như ở Trường Sơn. Bộ đội khiêng và vác các thùng phuy xăng qua đèo, qua suối. Người ta bắc các máng từ đỉnh núi xuống chân núi, đổ xăng rồi hứng ở dưới, như thể hứng nước. Cái kỳ lạ nhất là gùi xăng trên lưng. Người ta cho nilông vào trong balô rồi đổ xăng vào, buộc chặt và gùi. Một balô xăng nhẹ hơn nhiều so với một ba lô dạn, mà dường như lại nặng hơn gấp bội: balô xăng lại cọ vào da gây bỏng da lưng. Ấy là chưa nói đến sự nguy hiểm. Băng qua các vạt lửa do dân đốt nương, do đạn pháo của giặc bắn, mỗi chiến sĩ gùi xăng đều có thể biến thành một cây đuốc sống. Có lẽ chỉ có anh bộ đội Cụ Hồ mới làm được những việc như vậy.


Cho đến mãi những năm 1967-1968, khi từng đoàn ôtô cỡ tiểu đoàn, trung đoàn rồi sư đoàn xẻ dọc Trường Sơn thì đội quân gùi thồ vẫn còn tồn tại. Chừng ấy năm họ đã gùi nhưng gì trên vai mình? Đủ các thứ: đạn cối, tên lửa loại nhỏ, vàng bạc, ngoại tệ, máy móc, chữ chì của nhà in, thuốc men, công văn, thư từ. Khi có đội quân cơ giới rồi thì trên lưng người là những mặt hàng quý hiếm, cán độ an toàn cao.


Cuối năm 1964, “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ thất bại hoàn toàn và đến năm 1965, bộ binh Mỹ phải ồ ạt đổ bộ vào miền Nam thì bộ đội Trường Sơn gùi các trận đánh trên vai mình. Lối mòn của người chiến sĩ gùi thồ ngoằn ngoèo vắt qua hệ thống hàng trăm ngọn núi lớn nhỏ của Trường Sơn cũng là tuyến đường giao liên chuyển quân nối hai miền Nam-Bắc.


Có lẽ, đã đến lúc bộ Từ điển tiếng Việt phải bổ sung ngay một số định nghĩa kẻo mấy chục năm nữa người sau sẽ lúng túng. Ví dụ:

-Trạm giao liên: Là nơi đón các đoàn bộ đội hành quân. Mỗi trạm thường cách nhau từ 6 đến 8 giờ đi bộ, nếu là đường đèo thì thuờng cách nhau một con đèo.

-Bãi khách: Là cánh rừng bộ đội nghỉ qua đêm có sẵn cây cối để buộc võng và gần suối nước để tiện nấu ăn.

-Dốc ba thang: Dốc dựng đứng, phải dùng ba đoạn thang (gỗ hoặc dây) mới có thể qua được (…).


Năm 1970, tôi có gặp một chiến sĩ gái trên tuyến giao liên, cô tâm sự: “Em cứ tưởng Trường Sơn là một quả núi thật to, trèo lên đến đỉnh là nhìn thấy miền Nam. Nào ngờ Trường Sơn nhiều núi thế, đi mấy tháng mà không hết núi”. Một anh hoạ sĩ trên đường giao liên nói: “Núi trên Trường Sơn nhiều như số gai mít trên vỏ quả mít”, nghe buồn cười nhưng cũng đúng.


Những năm đầu khi đường giao liên thuần tuý là “đường mòn”, chưa được cải tạo, thì đi bộ từ Quảng Bình đến Đông Nam Bộ phải mất khoảng 5 tháng, có khi tới 6 tháng. Chặng sau, đường tốt, khoảg cách ấy cũng phải đi bộ tới 3 tháng. Vừa sốt rét vừa đi với đôi chân sưng tấy và đôi vai bỏng rát vì mang vác, có chiến sĩ phải kêu lên: “Cho tôi bay vào Nam đánh giặc, tung hoành lửa đạn chết cũng được, chứ đi bộ thế này thì khổ quá”.


Tuy là gian khổ, nhưng các chiến sĩ giao liên Trường Sơn và bộ đội hành quân qua Trường Sơn không ít những niềm vui. Mỗi một ngày đi bộ đều có cái gì khấp khởi chờ đợi ở phía trước. Chẳng hạn Trạm giao liên T8 là trạm có con chồn bay. Con chồn bay to như con mèo nhưng có cánh như con dơi, thịt nó ăn mềm mà thơm. Chẳng biết tại sao cánh rừng ở Trạm T8 nhiều chồn bay đến vậy. Ngày nào bộ đội cũng bắn được chồn bay để ăn thịt mà không hết. Không biết chúng ở đâu bay đến. Kho hoàng hôn đổ sập xuống cánh rừng già, những con chồn bay từ các ngọn cây cạo buông mình rơi xuống rồi xoè hai cánh chao liệng một vòng và đậu đâu đó ở một lùm cây khác, tiếng kêu khe khẽ mà nhọn như tiếng kim khí. Hay như ở Trạm 21 rất nhiều thỏ rừng. Chỉ trông thấy chúng lướt qua chứ bắt được là rất hiếm. Niềm vui của chiến sĩ giao liên đôi khi chỉ đơn giản là ở trạm trước mặt có mấy cô nuôi quân cực kỳ xinh đẹp. Trong số các cán bộ, chiến sĩ được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có chiến sĩ giao liên Nguyễn Viết Sinh. Nếu cộng độ dài mà anh đã đi lại nhiều lần trên Trường Sơn thì tổng chiều dài bằng hơn một lần đi quanh quả đất.


Đường giao liên Trường Sơn đã dưa đón nhiều triệu lượt người (cả bộ đội và cán bộ các ngành, các địa phương, cả phụ nữ và trẻ em ra vào hai miền Nam-Bắc). Cho đến bây giờ, sau hơn 40 năm, không biết có đoạn nào trên vệt đường dài dằng dặc ấy còn nguyên vẹn hay không.


Tiêu đề: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 14 Tháng Chín, 2007, 08:24:57 pm
Những câu chuyện mà các nhà chế tạo bom đạn của Mỹ nên biết

Tại chương “Cái giá của cuộc chiến tranh" trong bộ “Sử biên niên quốc tế của cuộc chiến tranh Việt Nam", trang 358, các tác giả đã công bố hàng loạt số liệu. Số sĩ quan và binh lính Mỹ của bốn quân chủng từ tháng 8-1964 đến tháng 1-1973 có 8.744.000 lượt người Mỹ tham chiến. Cũng chừng ấy năm họ tiêu tốn tới 150 tỷ USD tại Việt Nam. Họ không nói tổng số máy bay Mỹ các loại bị bắn rơi nhưng có đưa ra con số máy bay trực thăng Mỹ bị mất tại Việt Nam là 4.865 chiếc. Số lượng bom Mỹ sử dụng trên Đường mòn Hồ Chí Minh (hình như con số này thấp hơn sự thật rất nhiều-PTD) là 2.236.000 tấn bom. Các tác giả Mỹ nói rằng nếu cộng cả số bom Mỹ đánh xuống miền Bắc thì gấp bốn lần số bom trong Chiến tranh thế giới thứ II.


Tác giả của bài viết này đã từng là người trong cuộc của các trận bom Mỹ ném xuống các vùng đất khác nhau của miền Nam: Thừa Thiên, Tây Quảng Đà, Tây Ninh, Củ Chi (ngoại thành Sài Gòn). Và cũng chứng kiến các trận bom Mỹ ném xuống Hà Nội, Hà Bắc, Phú Thọ và các tỉnh thuộc Khu Bốn cũ. Cuộc chiến tranh giữa trên không và mặt đất không đâu giống như ở Trường Sơn. Dường như, cuộc hợp đồng tác chiến giữa các loại máy bay trên Đường mòn Hồ Chí Minh, Mỹ tiến hành công phu, bài bản hơn cả.


Phải chăng Mỹ hoàn toàn nắm thế chủ động, làm chủ hoàn toàn bầu trời Trường Sơn?

Có những buổi trưa, nằm trên bãi cỏ, tôi nhìn bầu trời thấy tầng cao, tầng thấp máy bay Mỹ và ao ước ở đâu đó của mạn Quảng Bình có được mấy cái sân bay cho máy bay MiG của ta thì tốt biết bao. Ngoài kia, xa quá.


Nhưng không phải hoàn toàn như vậy. Theo cách phân tích của Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên thì không quân Mỹ dù áp đảo trên không, song sức mạnh có hạn, tập trung đánh trọng điểm này thì giảm hoặc bỏ trọng điểm khác. Tập trung đánh đêm thì giảm ngày và ngược lại. Ấy là chưa kể thời tiết xấu không hoạt động được. Tổng kết lại 24 giờ trong ngày, máy bay Mỹ chỉ hoạt động được từ 3 đến 4 giờ. Người thực sự làm chủ dưới mặt đất là bộ đội Trường Sơn.


Bằng tin tức tìn báo chiến lược, chiến thuật và tb kỹ thuật của chúng ta, hằng ngày, tại Bộ tư lệnh (BTL) 559, họp giao ban có thể dự đoán được số lượng máy bay chiến đấu của Mỹ chuẩn bị tác chiến ở Việt Nam. Tại các sân bay của Mỹ trên đất Thái Lan: Utapao, Đon Mường, có bao nhiêu chiếc B-52 đã mắc bom, bao nhiêu chiếc đã bơm đủ xăng dầu… Tình hình di chuyển của các hàng không mẫu hạm Mỹ, tình hình các địa điểm mà máy bay Mỹ tập trung trinh sát… Có thể nói, một trong những lý do mà không quân Mỹ tác chiến kém hiệu quả là vì ta nắm được khá chính xác ý đồ chiến lược, chiến thuật của Mỹ. Cùng với việc nắm chắc diễn biến thời tiết hằng ngày ở cả Đông và Tây Trường Sơn, chúng ta có thể dự báo đúng ý đồ của không quân Mỹ. Cũng có khi chúng ta dự báo đúng cả nơi đánh, giờ đánh và quy mô đánh của Mỹ.


Các sĩ quan tham mưu của Quân đội ta, từ sĩ quan tham mưu của Bộ Tổng tham mưu đến ban tham mưu của BTL 559, là những người phân tích trận chiến tuyệt vời. Không chỉ có các tướng lĩnh và sĩ quan tham mưu mà mỗi một chiến sĩ Trường Sơn đều có cái đầu tham mưu như thế. Nghe cánh đuôi bom của Mỹ từ không trung xé gió, chiến sĩ Trường Sơn đoán biết đấy là loại bom gì và nó sẽ nổ cách mình bao xa. Nghe tiếng động cơ máy bay, các chiến sĩ có thể biết là nó chở nặng hay nhẹ, còn bom hay đã trút hết bom.


Trong số các chiến sĩ của Tiểu đoàn 2 Công binh, đơn vị anh hùng, có một chiến sĩ học dở dang năm thứ hai Đại học Mỹ thuật công nghiệp, quê ở Thái Bình. Tên anh là Phùng Hoàng Nam. Anh đã từng cho tôi xem các ký hoạ của mình vẽ các ký hoạ của mình vẽ các loại bom mìn của Mỹ ném xuống Trường Sơn.
-Làm sao cậu có màu để vẽ thế này, mang ở Hà Nội vào à?-Tôi hỏi.
Phùng Hoàng Nam đáp:
-Không. Hôm qua ở Phanốp (một địa danh gần Seng Phan, thuộc tỉnh Khăm Muộn, Trung Lào-PTD) có một chiếc xe bị đánh hỏng, trên xe chở toàn văn hoá phẩm,có rất nhiều bột màu và sơn dầu.
Chỉ vào mấy bức ký hoạ, Nam nhận xét:
-Phải công nhận cái tài tạo dáng công nghiệp của các nhà chế tạo vũ khí Mỹ. Không biết khi chế tạo, các kỹ sư Mỹ có biết là sẽ đem dùng những thứ bom mìn này tại Việt Nam không mà họ toàn lấy hình thù các trái cây nhiệt đới để tạo dáng.


Tôi ngắm nhìn. Đúng là như vậy. Này là bom bi hình quả dứa, quả ổi, quả bom này giống hình quả bầu, quả bom kia giống hình quả dưa hấu. Trông vẻ đẹp của bom đạn mà thấy gai người. Phải lạnh lùng trước sự sống của con người đến thế nào, máu phải lạnh như lươn như rắn mới đủ bình tĩnh tỉa tót cho các dụng cụ giết người mạn rợ ấy.


Tiêu đề: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 14 Tháng Chín, 2007, 08:26:04 pm
Có một vài loại bom mìn hình như Mỹ chỉ sử dụng ở Trường Sơn. Chẳng hạn như mìn vướng. Nó giống hệt loại bom bi hình quả ổi. Quả bom mẹ rơi nổ trên không trung làm văng xuống đất hàng trăm quả bom con, mỗi quả có đường kính khoảng 6 cách mạng. Khi rơi xuống đất chừng mấy chục giây, từ xung quanh cái quả nổ ấy văng ra những cái lò xo, kéo theo các sợi dây mảnh màu xanh lá cây. Nếu người đi qua gạt phải cái dây là mìn nổ. Tất cả những điều này thì khỏi phải nói cũng biết là nằm trong sự tính toán của các nhà chế tạo Mỹ. Chỉ tình tiết sau đây là Mỹ không biết: Các sợi dây mìn vướng là một loại chỉ khâu rất đẹp, rất bền. Nhiều chiến sĩ công binh đã lấy dây mìn vướng tặng người yêu của mình. Cách lấy dây mìn vướng rất dễ. Chỉ cần vào bãi bom với một cái bật lưa. Cố nhiên phải rất tinh mắt vì các sợi chỉ ấy mảnh lắm, rất khó thấy, gạt vào thì hết sống. Chớ chạm tay vào mà chỉ dùng bật lửa đốt ở hai đầu, lấy đoạn giữa. Mỗi sợi chỉ của mìn này dài đến 8 mét, tha hồ mà khâu vá. Tuy nhiên việc đi lấy dây mìn làm chỉ khâu bị các cấp chỉ huy nghiêm cấm. Dù cẩn thận đến đâu cũng mất an toàn. Vào những đêm gió Trường Sơn, người ta thấy tiếng nổ liên tiếp của mìn do các cành cây gạt nổ. Ấy vậy mà có chiến sĩ lấy được từng cuộn dây mìn to bằng cuộn chỉ lớn. Tình yêu trai gái được kết nối bằng loại dây mìn này chắc là bền vững lắm.


Còn một loại mìn nữa chỉ Trường Sơn mới có là mìn lá. Đấy là những cái gói nhỏ bằng vải, giống hệt những cái băng y tế cá nhân, nhỏ hơn bao thuốc lá. Trong bọc vải là bột thuỷ tinh trộn với thuốc nổ và một loại chất độc nào đó: Chỉ cần giẫm chân lên là mìn nổ, tiếng nổ chỉ bằng tiếng pháo tép. Người giẫm phải mìn lá bàn chân bị xé rách. Phải cắt cụt nhanh chóng, để thuốc mìn ngấm vào sẽ hoại thư mà chết.


Tôi đã từng đi bộ, lội qua trọng điểm La Hạp (đất Lào, phía Tây Thừa Thiên, ngã ba của Đường B41 và Đường 128) cùng một đồng chí đội trưởng công binh. Chúng tôi giẫm lên bước chân của nhau mà đi. Mỗi người ôm một cái mũ cối để ngửa, vừa đi vừa nhặt mìn lá, bỏ vào mũ. Đi hết trọng điểm thì hai cái mũ đã đầy ắp các gói chết chóc. Chúng tôi đặt hai cái mũ thật nhẹ nhàng vào một nơi rồi quay lui mấy bước, rút súng bắn. Một bưng khói lớn bốc cao. Hai cái mũ đi tong, tiếc ngẩn người.


Nghe những chuyện này, có người sẽ cho rằng các chiến sĩ Trường Sơn rất táo gan, chẳng sợ gì bom đạn Mỹ. Không hoàn toàn thế đâu. Có những lúc rất sợ. Chẳng hạn câu chuyện sau đây:

Một hôm vào mùa khô 1969-1970, tôi đi cùng một đoàn xe tải của Tiểu đoàn 102, đơn vị anh hùng. Tôi là phóng viên mặt trận. Anh lái chính tên Thủy, người Thái Bình. Anh lái phụ tên Mẫn, quê Thanh Hóa. Dọc đường, xe của chúng tôi bị địch đánh cháy… Chỉ còn một cách là băng rừng, tìm đến trạm giao liên gần nhất để về đơn vị. Suốt đêm quần nhau với giặc, vừa đói, vừa mệt. Chúng tôi thèm thuốc lào. Trong túi có thuốc, có lửa mà không có điếu. Bỗng giữa rừng chúng tôi thấy một hố nước to bằng cái nong. Mẫn reo lên:
- Điếu bát đây rồi!-Tôi nghe mà không hiểu. Mẫn ngồi sụp xuống, chúng tôi ngồi theo. Mẫn lấy nước nhào đất, đắp thành một cái ụ rỗng rồi cho nước ở cái hố to chảy vào. Thế là thành cái điếu bát. Lấy lá cây cuộn vào làm xe điếu… Chúng tôi hút ngon lành và thở khói trắng bay mờ mịt trên cái hố nước yên tĩnh. Hút đã rồi chúng tôi đi tiếp. Mới đi được chừng ba chục mét thì một tiếng nổ lớn hất cả ba ngã nhào. Ngoảnh lạl thấy một cột khói bom và đất đá rụng rào rào như mưa. Thì ra cái hố nước kia lả một hố bom nổ chậm bi nước mưa che phủ. Qua bao nhiêu bom đạn không thấy sợ mà lần ấy thấy sợ. Bây giờ nghĩ lại vẫn thấy gai người. Ai đời châm lửa vào đuôi bom mà hút thuốc bao giờ.


Bom Mỹ đã làm thay hình đổi dạng sông núi Trường Sơn. Có những quả núi biến thành núi bột, chỉ cần mưa xuống, núi sẽ hố thành dòng sông bùn.

Những thân cây cổ thụ, ba bốn người ôm, bom làm thân cây cổ thụ to cỡ ấy giập nát như tăm.

Thuốc độc hóa học của Mỹ làm từng cánh rừng đại ngàn rụng lá.

Không biết có bao nhiêu loại chất. độc hóa học Mỹ rải trên Trường Sơn? Cho đến tận bây giờ, hơn hai mươi năm sau chiến tranh, thuốc độc Mỹ vẫn để lại bao di họa. Nhiều phụ nữ không thể sinh đẻ được Nhiều đứa trẻ dị dạng, què quặt. Lẽ ra, khi nói về “nhân đạo" các "ông chủ” Mỹ hiện nay phải dè dặt lắm mới phải, họ ba hoa thế mà không thấy xấu hổ cũng lạ. Hãy sang Việt Nam mà nhìn di họa của nền văn minh Hoa Kỳ để lại như thế nào.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: dongadoan trong 14 Tháng Chín, 2007, 09:03:47 pm
Ke ke ke, mấy bác trong này vui tính nhờ. Đặt tên box là "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước..." mà chả có chủ đề nào về đường Trường Sơn à? Hài thật. Đúng kiểu dân Việt Nam toàn hô hào to tát, làm những việc ở tận đẩu tận đâu trong khi việc còn con, ngày bên cạnh thì... He he he!
-----------------------------------------------------------------------------------
  Trời, bác không hiểu một điều đơn giản là câu "Xẻ dọc Trường Sơn..." dùng làm tên box là tiêu biểu cho cả giai đoạn chống Mỹ sao?
  Cái gì cũng hiểu theo nghĩa đen, nghĩa trần trụi của nó thì thiếu...lãng mạn quá!


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 18 Tháng Chín, 2007, 09:30:41 pm
  Cái gì cũng hiểu theo nghĩa đen, nghĩa trần trụi của nó thì thiếu...lãng mạn quá!

Lạng mạn hay không em không cần biết. Em là chỉ thấy các bác giống mấy ông đi xe 4 bánh không cài dây an toàn lại ra luật bắt thằng đi xe 2 bánh đội nồi cơm điện thôi. Hê hê hê.

Giờ tiếp này:


Sở Chỉ huy của Bộ tư lệnh 559 đóng ở đâu?

BTL Đường mòn Hồ Chí Minh (559) đã trải qua nhiều thời, nhiều đồng chí cán bộ cao cấp của Quân đội ta được phân công phụ trách suốt chặng đường 16 năm chiến tranh (1959-1975), nhưng vị Tư lệnh có thâm niên lâu nhất, ở chặng đường ác liệt nhất là đồng chí Đồng Sĩ Nguyên.

Sau chiến tranh, anh đã từng tham gia nhiều công việc khác nhau của Chính phủ: Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó thủ tường Chính phủ-Ủy viên Bộ Chính tri Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện nay anh là chuyên viên cao cấp của Chỉnh phủ.

Trước khi vào Trường Sơn nhận chức vụ Tư lệnh 559, anh Đổng Sĩ Nguyên đã từng kinh qua các chức vụ: Cục trưởng Cục Dân quân, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Trung-Hạ Lào, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó tổng tham mưu trưởng, Chính ủy Quân khu IV, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương.

Anh Đồng Sĩ Nguyên có dáng người to cao và có nhiều cử chỉ, thói quen điển hình của một người được đào tạo chính quy ở Học viện quân sự: mạch lạc, dứt khoát, không có cử chỉ thừa.

Tất nhiên, trong một cuộc chiến tranh lớn, muốn thắng lợi phải cần đến các vị tướng giỏi. Nhưncg một vị tướng dù tài đến mấy cũng không thể làm nên chiến thắng. Trước hết phải nói đến cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến là các đồng chí lãnh đạo hàng đầu của Đảng, của Nhà nước và Quân đội ta. Tôi cứ nhớ mãi câu nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào năm 1970. Ấy là khi đồng chí tiếp một số nhà thơ được giải thưởng cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ, trong đó có tôi, chị Phan Thị Thanh Nhàn và anh Bế Kiến Quốc. Cuộc gặp còn có nhà thơ Chế Lan Viên và thư ký riêng của Thủ tướng là anh Trần Việt Phương. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau một hồi tư duy, trầm ngâm nói:
-Tôi chỉ có khoảng ba mươi phần trăm thì giờ để làm công tắc thủ tướng. Bảy mươi phần trăm thì giờ là để cùng Bộ Chính tri suy nghĩ về đánh giấc. Rồi Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi tôi về sức khỏe của đồng chí Đồng Si Nguyên, sau đó ông nhắm mắt, khẽ gật đầu mấy lần và thốt lên:
-Đấy là một người thật có tài, thật có tàl!

Kể lại câu chuyện này, tôi chỉ muốn nói rằng, các đồng chí lãnh đạo hàng đầu của đất nước quan tâm thế nào đến tuyến đường mang tên Bác, bên cạnh các đồng chí trực tiếp lãnh đạo của Bộ Tổng tư lệnh đêm ngày theo dõi mọi diễn biến trên Trường Sơn. Về những điều này, các tổng thống Mỹ thời ấy và các tướng lĩnh Mỹ hẳn biết rất rõ. Nhưng guồng máy trực tiếp quyết đáp hằng ngày trên Trường Sơn là BTL 559 thì Mỹ biết rất muộn và rất ít chuẩn xác.

Mùa khô 1968-1969, Sở chỉ huy của BTL 559 đóng tại xã Cổ Giang, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, nơi đầu Đường 20. Địa điểm ấy được thiên thời, nhân hòa, nhưng địa không lợi. Sở chỉ huy ở hơi xa các trục đường huyết mạch. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên, sau khi nghiên cứu địa thế, đã dời Sở chỉ huy đến một ngôi làng kề bến phà Xuân Sơn. Nói tới phà Xuân Sơn là nói tới một trọng điểm lửa vô cùng ác liệt trên quốc lộ 20.

Trong một cuộc họp quan trọng bao gồm các thành viên chủ chốt của Sở chỉ huy, có nhiều ý kiến không tán thành. Được Chính ủy đồng ý, Tư lệnh quyết định lập tức làm công sự và di chuyển Sở chỉ huy đến gần Xuân Sơn. Một quyết định táo bạo, làm những người yêu quý và kính trọng anh Đồng Sĩ Nguyên lo lắng cho anh. Chẳng may Sở chỉ huy mất an toàn thì chắc chắn kỷ luật quân đội không tha thứ cho người chỉ huy cao nhất của Trường Sơn. Nhưng rồi thực tế chứng minh quyết định của Tư lệnh là đúng. Từ vùng ngã ba kề Xuân Sơn là điểm bắt đầu của Đường 20 nối với Đường 15 "tọa độ lửa". Tại đây, Sở chỉ huy của BTL nắm tình hình một cách chặt chẽ hơn trước, các quyết đáp cần triển khai được thực hiện nhanh chóng hơn. Và cán bộ, chiến sĩ thuộc BTL sau đó đều hiểu rõ: Đây là một cử chỉ mà Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên muốn thử thách và đào luyện cán bộ; cần phải gan góc trước mọi khó khăn, xóa tan tâm lý hoảng sợ trước sức mạnh vũ khí của địch.

Sự kiện dòi Sở chỉ huy ra gần phà Xuân Sơn chính là giành yểu tổ bất ngờ, độ an toàn cao hơn. Mỗi ngày, máy bay Mỹ hàng chục lần xuất kích ném bom bắn phá xuống Xuân Sơn. Tầm lượn của máy bay bao quát tất cả các cơ quan của Sở chỉ huy. Nhưng phi công Mỹ đã có mục tiêu sẵn, chỉ dán mắt vào con phà mà không nhìn thấy gì khác. Từ đó khi chuyển sang Tây Trường Sơn trên đất bạn Lào, một Sở chỉ huy dưới địa đạo hiện đại nhất, cũng đóng ngay bên "tọa độ lửa”. Vào chặng cuối của cuộc kháng chiến, Sở chỉ huy của BTL 559 còn trú đóng ở một địa đếm nữa tại phía Đông Trường Sơn, bên bờ sông Bến Hải, xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Các địa điểm khác của Sở chỉ huy đều đặt ở phía Tây Trường Sơn, trên đất Bạn.

Có thể nói rằng, cho tới khi chiến tranh kết thúc, chưa khi nào phía Mỹ tìm được vị trí Sở chỉ huy của Bộ tư lệnh Trường Sơn Nói chính xác thì có hai lần bom Mỹ rơi xuống Sở chỉ huy của BTL 559 nhưng cả hai lần đeu là ngẫu nhiên, chứ phía Mỹ không biết rõ nơi chúng đánh. Nói như lời của đồng chí Thượng tướng đánh Đức Thiện thì "bọn Mỹ đi mò cua nhưng lại suýt bắt được ếch mà chúng không biết”.

Giữ được bí mật của Sở chỉ huy là một việc không dễ. Sở chỉ huy của BTL 559 có quy mô như bộ khung của một tổng cục Ngoài trụ sở của Đảng ủy và BTL còn có các Cục: Chính trị, Tham mưu tác chiến (phòng không và mặt đất), Tham mưu vận chuyển (vận chuyển xăng dầu, vận chuyển thô sơ, cơ giới đường bộ, cơ giới đường thủy), Công binh (xây dựng và sửa chữa cầu đường, tháo gỡ bom mìn), Hậu cần và các cơ quan khác như Thông tin, Hành chính. Cơ quan đông người, phạm vi đóng quân rộng, phương tiện, khí tài nhiều... mà hàng chục năm trời, địch không phát hiện ra, không bị đánh trúng; vừa bảo vệ được mình, vừa đánh thắng địch, phải nói là một sự kiện lịch sử kỳ diệu, một chiến công tuyệt vời của BTL 559-trong đó được đúc kết bằng sự tài giỏi, khôn khéo, dũng cảm của người chỉ huy, của cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn và điều quan trọng là có công lao chăm sóc, đùm bọc, che chở của nhân dân, của đồng bào các dân tộc.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 18 Tháng Chín, 2007, 09:32:11 pm
Binh trạm và trọng điểm lửa

Cho tới những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã quyết định giải tán các binh trạm để lập thành các sư đoàn, kịp ứng phó với mọi diễn biến của chiến tranh. Nhưng đến nay, sau mấy chục năm, khi Bộ Tư lệnh 559 đã giải thể thì Ban liên lạc của các binh trạm khi xưa vẫn hoạt động. Vậy thực chất binh trạm là gì? Ai là người đầu tiên sáng tạo ra các binh trạm dọc dài theo đất nước?

Như chúng ta đều biết, trong lịch sử chiến tranh-nhiều thời của nhiều  vùng đất trên hành tinh này-có những tuyến đường quân sự nổi tiếng: Đường vận chuyển quân lính trong bụng các con ngựa gỗ khổng lồ vào thành Tơróa; đường vận tải qua hồ Lađơga đóng băng của Liên Xô bảo vệ thành phố Lêningrát; "Con đường xanh" của Stalin xuyên dọc Châu Âu đánh vào sào huyệt của phát xít Đức... Nhưng tuyến đường Trường Sơn có hai sự độc đáo. Một là, thời gian tồn tại của tuyến đường dài hơn mọi tuyến đường chiến tranh ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới. Hai là, tuyến đường Trường Sơn là một chiến trường trọng yếu và là một căn cứ hậu phương chiến lược cho chiến trường 3 nước Đông Dương.

Tôi không thật rõ ai là tác giả của việc lập các binh trạm đầu tiên trên Trường Sơn thời chống Mỹ, nhưng từ "binh trạm" thì đã có ở nước ta từ lâu rồi. Thời Quang Trung đã thành công trong đợt hành quân thần tốc từ Nam ra Bắc dẹp giặc ngoại xâm năm 1789. Hệ thống binh trạm thời bấy giờ là tuyến đường chạy từ trung tâm của Vua Tây Sơn-ấp Bình Sơn, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, theo dọc đường ven biển ra Bắc, có một số đoạn đi qua dãy Trường Sơn. Trạm U BÒ là một trạm của Quang Trung đã trùng với hệ thống trạm giao liên Trường Sơn.

Về mặt biên chế, các binh trạm của Bộ đội Trường Sơn được tổ chức theo "biên chế mềm", nghĩa là tùy theo yêu cầu của mỗi nơi mà tổ chức lớn hay nhỏ. Một binh trạm cỡ trung bình có quy mô như một trung đoàn. Những binh trạm lớn hơn có quy mô như một lữ đoàn. Đại thể, mỗi binh trạm có khoảng 2 tiểu đoàn ôtô, 1-2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội hoặc 1 tiểu đoàn thanh niên xung phong, 1 -2 tiểu đoàn pháo cao xạ, 1 đại đội thông tin, 1 tiểu đoàn bốc vác và các khu kho (vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm...), 4-6 trạm giao liên chuyển quân gồm các trạm giao liên và các cung đường giao liên.

Trước đây, các quốc lộ nối Việt Nam với Lào ở miền Bắc có mấy con đường chính: Đường 217 nối Thanh Hóa với Sầm Nưa, đường số 7 nối Nghệ An với Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng, đường số 8 nối Hà Tĩnh với Boly Khâm xây, đường số 12 nối Quảng Bình với tỉnh Khăm Muộn. Quốc lộ duy nhất mà chúng ta sử dụng vào Tuyến chi viện chiến lược là đường số 12. Binh trạm làm nhiệm vụ vượt đỉnh Trường Sơn ở Cổng Trời-kề gần Đồn biên phòng Cha Lo mang theo tên đường: Binh trạm 12.

Cái tên “trọng điểm" là do ta đặt ra. Mỹ thì gọi là các "Điểm tắc”. Muốn tạo ra một trọng điểm, không quân Mỹ dùng pháo đài bay B-52 ném bom rải thảm liên tục xuống nơi đó nhằm "bẻ gãy" hết các con đường và làm thay đổi cả địa hình. Sau đó, cho máy bay cường kích liên tục oanh tạc. Cho tới đầu những năm 70, việc tạo ra những trọng điểm được các nhà quân sự Mỹ tiến hành một cách bài bản hơn: Dùng bom cháy, bom hóa học phát quang; dùng B-52 thay đổi địa hình; ném bom nổ chậm, bom từ trường, bom bi không cho bộ đội ta sửa đường, rải các loại mìn: mìn cóc, mìn vướng, mìn lá... để ngăn chặn công binh ta gỡ bom nổ chậm; gài các loại vũ khí trinh sát-như cây nhiệt đới-một loại máy thu phát và đo đạc tự động trông giống như một cái cây xương rồng không gai-ở hai đầu trọng điểm. Ấy chỉ là mưu mẹo của Mỹ mà chiến tranh thì không có điều nào gọi là đơn giản cả.

Điều mà phía Mỹ phán đoán nhầm liên miên trong cuộc chiến tranh là từ sự chủ quan: khả năng sử dụng lối đánh hiện đại và tổng hợp của quân đội ta. Ví dụ như về t lý thuyết thì không có cách gì có thể làm đường ống dẫn xăng vượt qua trùng điệp các dãy núi hàng ngàn cây số. Trùng điệp các trọng điểm lửa mà Mỹ ngăn chặn đêm ngày, làm sao đưa xe tăng, đưa tên lửa và các loại vũ khí khác vào được miền Nam... Và ở đây trọng điểm, nếu chỉ tháo gỡ bom mìn bằng tay, nếu chỉ làm đường bằng cuốc xẻng thì làm sao khai 1 thông các trọng điếm nhanh chóng. Ấy thế mà phía Mỹ lại đánh nhau theo các chương mục viết trong sách giáo khoa. Đến người lính thường mà nhiều kinh nghiệm cũng biết được cách sắp xếp, bài bản của Mỹ.

Mỗi khi máy bay Mỹ rải mìn vướng, mìn lá xuống đâu thì y như rằng, ngày hôm đó tại địa điểm ấy tạm yên.

Chưa dứt tiếng máy bay người ta đã thấy tiếng gầm rú của nhiều xe bọc thép phóng từ của công binh lao vào các bãi bom. Bom mìn nổ rền như thế lại có một đợt bom B-52 mới. Khói bom chưa tan, từ trong các khe núi, góc rừng, từng đoàn máy ủi máy xúc và trên xe là các chiến sĩ đội mũ sắt, mặc áo giáp lẫm liệt tiến ra trọng điểm. Những đoạn đường cũ, những đoạn đường mới dù còn lô mô) đất đá trộn sắt thép nhưng dẫu sao cũng vẫn hiện ra.

Trong chiến tranh, bất kỳ ở đâu cũng có kẻ bạo, người nhát. Nhút nhát vốn dĩ không phải là lỗi lầm mà do khí chất của mỗi người, nhưng khi đối mặt với cam go phải quyết đoán thì cái nhát rất dễ biến thành cái hèn. Những kẻ hèn nhát như thế, ở Trường Sơn chắc là cũng có nhưng rất ít. Cái quả cảm làm cho cái thấp kém gượng dậy mà biến cải. Nhân nói về điều này, tôi bỗng nghĩ tới nhiều bộ phim truyện, phim truyền hình được phát hành những năm qua và không thể nói là không khó chịu. Đại thể, cái “mô-típ" này lặp đi lặp lại mãi: Anh lái xe yêu cô gái thanh niên xung phong, rồi trong đêm mưa hay giữa lúc ác liệt cô ta có thai. Người yêu chết trận, người bạn chiến đấu trở về là một gã khốn nạn... Hình như, qua đầu óc một số nhà thì hễ con gái ra trận là phải chửa hoang (!). Thật là một điều quái lạ. Nếu chỉ xem vài phim, vài cuốntiểu thuyết của mấy "nhà" ấy thì người đời sẽ không hiểu tại sao ta lại có thể thắng giặc. Phải có cốt cách thế nào mới có thể tồn tại trên các trọng điểm lửa sống chết kề gần như thế. Tôi cũng xin được nhắn các "nhà” ấy thế này: Phụ nữ đi kháng chiến không những không có sự phổ biến "ngủ lang" như các vị tưởng tượng mà có nhiều chị không thể có khả năng ấy. Cả mấy đại đội Thanh niên xung phong của Tiểu đoàn 25 đều là phụ nữ, cả thời gian dài không có được chu kỳ thông thường của người con gái; sự vất vả quá đỗi và sự căng thẳng liên miên trước bom đạn làm biến đổi cả các diễn biến sinh hóa ở mỗi một người. Viết gì thì viết nhưng đừng xúc phạm đến những người đã hy sinh một đời cho cuộc sống thanh bình hôm nay.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 18 Tháng Chín, 2007, 09:34:07 pm
Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?

Nếu như câu hỏi ấy, Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu? chỉ để nói đến người của một tờ báo mặt trận tên là Trường Sơn thì câu trả lời đã khó nhưng không khó lắm. Nếu "người cũ” là hàng triệu lượt người ngày nào đã gặp nhau, cùng chiến đấu những năm gian khó thì câu hỏi ấy chỉ là một tiếng vọng thật dài.

Ở vào chặng đường trước năm 1968, Bộ Tư lệnh 559 chỉ có một tờ tin in rônêô với cái tên nghe như tên một vở chèo: Hoa thắm Trường Sơn. Người làm tờ tin ấy là một sĩ quan chinh trị, anh đã về hưu với quân hàm đại tá. Còn tờ báo in tipô ra đời từ cuối năm 1968 do một nhà báo chuyên nghiệp, nguyên là Trướng Phòng Quân sự báo Quân đội nhân dân tăng cường cho Trường Sơn, làm tổng biên tập. Tên anh là Lục Văn Thao. Thời chống Pháp, anh Thao làm báo Quân đội và đã có những năm tháng sống cùng với nhà văn nổi tiếng Nguyễn Huy Tưởng.

Cũng ở báo Quân đội nhân dân tăng cường cho tờ Trường Sơn, còn có hai phóng viên nữa là Như Phong (trùng với một cây bút hiện nay) và Xuân Hội. Sau chiến tranh có lẽ các anh đã về quê đồng đội cũ không ai được gặp. Nhà báo Phương Nam, phóng viên quân sự của báo Tiền Phong tăng cường cho tờ Trường Sơn thì đã bị bom, hy sinh ngay tại tòa soạn. Còn một nhà báo nữa, vốn là cán bộ của Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Buổi phát thanh Quần đội nhân dân, sau chiến tranh về làm tạp chí Văn nghệ quân đội là nhà báo, nhà thơ Duy Khán. Anh đã từng có một tập văn xuôi hay đến mức khó ngờ là tập tuổi thơ im ắng đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Rất tiếc do bệnh trọng, anh đã mất cách đây nhiều năm. Cùng làm báo Trường Sơn, chúng tôi còn có nhà văn nhiều lời khen và nhiều lời đồn-Lê Lựu. Khi vào với Trường Sơn anh mới có một tập truyện ngắn trình làng là tập Người cầm súng. Nay thì Đại tá Lê Lựu có hàng chục tiểu thuyết trong đó có Thời xa vắng nổi tiếng.

Phóng viên ảnh của Trường Sơn sau chiến tranh đã có những năm làm phó tổng thư ký Hội nhiếp ảnh Việt Nam, nghệ sĩ Hoàng Kim Đáng. Bây giờ anh vẫn sáng tác ảnh và hình như còn viết văn, làm báo nữa. Bốn họa sĩ chính của Trường Sơn thì một đã mất vì tai nạn là họa sĩ Vĩnh Phúc. Nhà điêu khắc chân phương và cần mẫn Minh Đinh vẫn làm tượng đều đều. Còn họa sĩ Hoàng Đình Tài thì từ ký họa thuở nào đã và đang chuyển qua lĩnh vực sơn dầu, sơn mài. Họa sĩ Đức Dụ vẫn vẽ chăm chỉ. Đấy là mới điểm xuyết một số tên người trong đội ngũ biên tập. Ở Trường Sơn còn có nhà in nữa. Nòng cốt của bộ phận in là mấy chiến sĩ vốn là thợ bậc cao của Nhà máy in Tiến Bộ, của Nhà in báo Hải Phòng kiến thiết và xưởng khắc gỡ nổi tiếng của Hà Nội-Xưởng Tinh Hoa. Những người có nghề ấy kèm cặp những người lính mới học nghề. Trong số các cô lính trẻ làm nghề sắp chữ hồi ấy nay có một người nổi tiếng, nhà báo Nghiêm Thị Hằng. Chị đã có gần trăm bài thơ được phổ nhạc, mà toàn nhạc sĩ nổi tiếng cộng tác. Nghiêm Thị Hằng đã xuất bản hai, ba tập thơ, được bạn đọc quan tâm như thể quan tâm đến ca hát.

Nhưng không phải tất cả những người ở Trường Sơn từ mặt trận về đều thành đạt cả. Xin bạn hãy đến đầu phố Lê Văn Hưu của Hà Nội, nơi giáp với phố Huế, nhìn sang bên trái sẽ thấy một thiếu phụ ngồi bán rượu trắng và chân chó hầm. Chị chỉ ngồi ghé bên vỉa hè chứ không có quán. Chị có tên là T.B, vốn là một chiến sĩ gái đẹp đến mức lộng lẫy của Trường Sơn. Chồng chị đã mất, hình như chị ở vậy nuôi con.

Chị kể, ở Hà Nội thôi, hình như phố nào cũng có người của Trường Sơn. Phố Vọng ở gần Bạch Mai, cứ vài ba nhà lại có một nhà mà chủ hộ là cựu chiến binh. Gần quán bia hơi Cây Gạo có một ngôi nhà xây dở dang, trước cửa có biển quảng cáo nước giải khát Coca-cola và Pepsi. Chủ hộ là anh Lê Điềm, nguyên là xưởng trưởng một xưởng sửa chữa xe máy công binh Trường Sơn, trú đóng ở vùng ngã ba biên giới thuộc Binh trạm 37. Gần đây, anh có tặng Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh một cái cờ-lê mang về từ mặt trận và một cái ba lô con cóc bị bom bi xé rách. Anh cùng nhập ngũ với nghệ sĩ ưu tú Hoàng Chè (Trưởng đoàn Nghệ thuật Quân khu II-vốn là ca sĩ của Đoàn văn công Trường Sơn). Bây giờ hai người vẫn thân nhau. Nghe nói về Lê Điềm thì thấy mát lòng: hết chiến tranh, về học tiếp đại học, hiện đang sinh hoạt trong một câu lạc bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ do Cộng hòa Liên bang Đức tài trợ cho việc huấn luyện. Anh đã từng là đại diện của hãng này, hãng kia. Nhưng hình như bất kỳ ai đã lâm vào cõi thương trường thì đều thích làm to mình lên, tự giàu có, hiển hách trong tưởng tượng để tăng thêm uy tín với khách? Nhưng tôi có phải là khách hàng của anh đâu, tôi chỉ là một người bạn lính một thời của anh mà thôi. Anh không giấu được tôi bao cực nhọc đăng sau cái biển quảng cáo. Cũng ngay tại Hà Nội, tôi đã gặp lại một số đồng đội cũ hiện nay đang có đời sống sung túc ở mức thượng lưu. Chăng hạn như V.X Hồi chiến tranh, anh là lái xe Trường Sơn. Mùa hè năm ngoái khi tôi gặp lại thì V.X đã là một giám đốc của một tập đoàn kinh tế mạnh. Tiền anh kiếm được chủ yếu là tiền thưởng được công bố công khai thác công ty và tổng công ty. Chỉ trong năm 1998, riêng cá nhân anh đã làm lợi cho tổng công ty trên một trăm tỷ đồng.

Cách đây vài năm, một nhà báo ở Thái Bình có một bài phóng sự về hàng chục sư nữ ở tỉnh ấy nguyên là bộ đội và thanh niên xung phong Trường Sơn. Lần theo địa chỉ bài báo, tôi đã đến tận nơi và thấy tài liệu của nhà báo ấy là đúng sự thực. Chỉ một ngôi chùa ở huyện Kiến Xương kề gần thị xã Thái Bình đã có đến ba sư nữ xuất xứ từ Trường Sơn, trong đó có một sư thầy nguyên là đội viên thanh niên xung phong của Tiểu đoàn 25, Binh trạm 14. Tôi chỉ nói thêm rằng họ không hề bi luỵ, mà ngược lại, rất giác và rất ngộ công việc từ thiện mà họ làm, cũng chẳng mong thành Phật mà trước hết là để quên mình lần nữa cho chúng sinh.

Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?
Không làm sao biết hết được, hàng triệu lượt người đã đến với Trường Sơn những năm tháng ấy đang sống ở khắp mọi miền của Tổ quốc. Tuy chưa được gặp lại, nhưng tôi hoàn toàn tin rằng, từ lâu họ đã hoà nhập với cuộc sống thường nhật đầy vất vả nhưng còn giữ mãi cốt cách của những người đã từng sống và chiến đấu trên tuyến đường mang tên Bác Hồ vĩ đại.

Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?

Vâng, cái “con voi” tên là 559 thì bây giờ không thấy, nhưng cái “ngà voi” rất dài thì vẫn tồn tại: Đó là Binh đoàn 12-Binh đoàn Trường Sơn. Bộ tư lệnh Trường Sơn thì giải thể nhưng gần 20 đơn vị cấp sư đoàn và trung đoàn (chủ yếu là các đơn vị xe, công binh và các đơn vị kỹ thuật) thì vẫn tồn tại và tồn tại một cách đáng tự hào. Cố nhiên, chỉ có các sĩ quan chỉ huy là có người cũ ngày nào. Đội ngũ các chiến sĩ thì là mới cả, đa phần sinh trước và sau năm 1975 chút ít và chỉ biết Trường Sơn đánh giặc thông qua các lời kể. Điều này cũng dễ hiểu, lịch sử đánh Mỹ của Trường Sơn dù dài đến 16 năm vẫn ngắn hơn chặng đường sau chiến dịch của Binh đoàn 12: hơn 20 năm.

Việc vấn đề làm kinh tế ở nước ta không phải là việc mới. Phan Đình Phùng đã trụ bám ở Trường Sơn trên mười năm trời, vừa đúc súng, chế tạo đạn dược, luyện quân vừa làm kinh tế để nuôi quân, chuẩn bị cho việc đánh thực dân Pháp. Việc bộ đội làm kinh tế bộc lộ phẩm chất tốt đẹp là sự không phân biệt tố chất của người chiến sĩ, phần nào là lính, phần nào là dân. Ấy thế mà khi chiến tranh kết thúc, Bộ đội Trường Sơn đang còn quản lý một khối lượng xe, máy (ôtô vận tải các loại, máy húc, máy uỷ, xe lu, máy trộn bê tông…) và các phương tiện kỹ thuật với một khối lượng khổng lồ. Và thế là một chặng đường mới của Bộ đội Trường Sơn lại được mở ra. Hình như công việc đầu tiên cả họ là một công việc mang tính lịch sử: tham gia sửa chữa và xây dựng tuyến đường sắt nối liền Nam-Bắc mà suốt mấy thập kỷ đã bị cắt rời và băm nát. Cùng thời điểm, họ còn xây dựng cơ bản Đường Hồ Chí Minh dọc theo Đông Trường Sơn có tổng chiều dài tới 1.920 km.

Tôi sẽ không nói tới tất cả các công việc mà đơn vị “hậu duệ” của 559 đã làm, chỉ cốt nhấn mạnh đến một số việc có ý nghĩa để các thế hệ mai sau này cũng không thể quên: Làm thủy điện Sông Đà (Cả hai đơn vị tham gia đều được Nhà nước phong danh hiệu Anh hùng lao động); đường dây siêu cao áp 500 kV Bắc-Nam; đường ôtô cấp cao Bắc Thăng Long-Nội Bài; tham gia xây dựng lại đường số 1, đường số 5; xây dựng lại nghĩa trang đồi A1 và Sài Gòn Điện Biên Phủ; nghĩa trang Hàng Dương, Côn Đảo và nhiều công trình khác. Chỉ riêng việc góp phần xây dựng đường sá, cầu cống, các công trình về y tế, văn hoá… tại Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào sau chiến tranh, 5 đơn vị  của Binh đoàn 12 đã được Nhà nước ta tuyên dương đơn vị Anh hùng.

Hiện nay, Binh đoàn 12-tên giao dịch là Tổng công ty xây dựng Trường Sơn-là một trong vài chục tập đoàn kinh tế hàng đầu của đất nước ta đang tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?

Câu hỏi ấy là câu nhắn tìm đồng đội. Sau biết bao nhiêu năm, sống chết có nhau, giờ mong mỏi được biết về nhau, được gặp lại.

Câu hỏi ấy cũng dành cho tất cả những ai từng một lần tới Trường Sơn nhưng trong sâu thẳm của trái tim vẫn dành một góc cho những người xẻ núi mở đường vào mặt trận ngày nào.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: tuoithantien trong 20 Tháng Mười, 2007, 08:05:04 pm
Ke ke ke, mấy bác trong này vui tính nhờ. Đặt tên box là "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước..." mà chả có chủ đề nào về đường Trường Sơn à? Hài thật. Đúng kiểu dân Việt Nam toàn hô hào to tát, làm những việc ở tận đẩu tận đâu trong khi việc còn con, ngày bên cạnh thì... He he he!

-Số máy bay Mỹ bị lực lượng phòng không thiết giáp bắn rơi: 2.4555 chiếc.

Xem lại mình trước khi đi chê người khác đi. Mấy ông phòng không Trường Sơn giỏi thế, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ thế này thì mấy chú Boeing, Mc Donald cứ gọi là mừng hơn bắt được vàng.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: kevin trong 23 Tháng Mười, 2007, 09:20:38 pm
Ke ke ke, mấy bác trong này vui tính nhờ. Đặt tên box là "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước..." mà chả có chủ đề nào về đường Trường Sơn à? Hài thật. Đúng kiểu dân Việt Nam toàn hô hào to tát, làm những việc ở tận đẩu tận đâu trong khi việc còn con, ngày bên cạnh thì... He he he!

-Số máy bay Mỹ bị lực lượng phòng không thiết giáp bắn rơi: 2.4555 chiếc.

Xem lại mình trước khi đi chê người khác đi. Mấy ông phòng không Trường Sơn giỏi thế, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ thế này thì mấy chú Boeing, Mc Donald cứ gọi là mừng hơn bắt được vàng.
Sai sót khi đánh máy thôi mà. Có quái gì đâu mà phải chọc với ngoáy.

Có bác mod nào đi qua thì sửa dùm em cái, 2.455 chiếc máy bay thôi.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Ngocvancu trong 29 Tháng Mười Hai, 2007, 11:24:39 pm
Nếu Mỹ dùng toàn bộ B52 ném bom đường mòn HCM thì hậu quả sẽ thế nào nhỉ?


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: ChienV trong 30 Tháng Mười Hai, 2007, 09:43:36 am
Nếu Mỹ dùng toàn bộ B52 ném bom đường mòn HCM thì hậu quả sẽ thế nào nhỉ?

Thì có lẽ kiệt lực mà rút sớm từ năm 70 ạ!

Các phi vụ B-52 được cân nhắc sử dụng rất kỹ, không phải vì Mỹ thương ta, mà vì thương cái hầu bao của họ. 1 phi vụ B-52 rất đắt đỏ so với 1 phi vụ cường kích A6, A7 hay F4, F8: tiền bom gấp ít nhất 20 lần, nhiên liệu ngốn ít nhất 50 lần, tiền bảo trì bảo dưỡng cỡ 20 lần, chỉ tính riêng cho chiếc B-52 làm nhiệm vụ. Tốn kém còn tính vào các máy bay yểm trợ, tiếp dầu, tìm cứu, tính cả vào chi phí phục vụ như lắp bom, bơm dầu, hệ thống sân bay.... sơ tính ít nhất là tương đương với vài chục lần tới vài trăm lần 1 phi vụ cường kích (đặc biệt với các máy bay xuất phát từ Guam). Vậy với mỗi tốp 3 máy bay B52 cho 1 lần oanh tạc, đã tương đương hàng trăm lần máy bay cường kích, đắt quá ạ!

Số tiền chi cho VNW của Mỹ cỡ 800 tỷ đô (không rõ là quy đổi về hiện giá chưa), gấp 2 lần chiến tranh công nghệ cao mấy năm rồi ở Iraq (đến giờ tính ở Iraq mất cỡ 450 tỷ).

Ở Trường Sơn chưa cần B-52, chỉ cần tính số phi vụ cường kích, phóng pháo, trinh sát các lọai thì tính cũng thấy ỏai rồi bác! Vác B-52 dện Trường Sơn thì ai trực ban chiến lược cho Mỹ để còn đối trọng LX và khối XHCN ???


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: ChienV trong 30 Tháng Mười Hai, 2007, 09:53:23 am


Xem lại mình trước khi đi chê người khác đi. Mấy ông phòng không Trường Sơn giỏi thế, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ thế này thì mấy chú Boeing, Mc Donald cứ gọi là mừng hơn bắt được vàng.

Chết thật, Mc Donald sản xuất máy bay ạ, em giờ mới biết đấy!


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Ngocvancu trong 30 Tháng Mười Hai, 2007, 12:42:23 pm
MD cũng là hãng sản xuất máy của Mỹ


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: ChienV trong 30 Tháng Mười Hai, 2007, 05:25:20 pm
MD cũng là hãng sản xuất máy của Mỹ

Em xin bác, tên đúng của nó là McDonnel Douglas chứ không phải Mc Donald (thằng này bán đồ fát fút thôi)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Ngocvancu trong 30 Tháng Mười Hai, 2007, 10:01:17 pm
MD cũng là hãng sản xuất máy của Mỹ

Em xin bác, tên đúng của nó là McDonnel Douglas chứ không phải Mc Donald (thằng này bán đồ fát fút thôi)
Mình quên MD là tên chung của các loại máy bay chở khách của hãng McDonnel Douglas chẳng hạn như MD 109


Tiêu đề: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Giêng, 2008, 09:16:43 pm
Bên talawas họ mới đăng một bài của ông Nguyễn Kỳ Phong (quân sử gia VK thuộc loại làm việc có phương pháp đàng hoàng).

Nguồn: talawas

Nội dung chủ yếu thắc mắc về một số con số, dữ liệu,...không khớp nhau trong nhiều tài liệu chính thức của ta về đề tài Đường Trường Sơn.

Thỉnh thoảng có người phản biện thế này, cũng là một việc tôi thấy có ích.

Trích dẫn
Người viết chú trọng đến quyển Chiến tranh cách mạng Việt Nam vì quyển này được sự hiệu đính của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, và Ban Chỉ đạo này trực thuộc Bộ Chính trị Đảng CSVN. Bản liệt kê tên những tác giả đóng góp nhìn rất hùng hậu. Nhưng chỉ tiếc khi có một vài con số vô lý một cách hiển nhiên lại bị những người biên soạn không để ý đến. Nhìn vào con số 5.500.000 m3 dầu xăng đã chuyên chở trên tuyến là một thí dụ. Chúng ta thấy rõ ràng con số 5.500.000 m3 là vô lý; có thể đây là lỗi ấn công [17] . Nhưng từ đó, nhìn vào những con số tiếp tế nhiên liệu đến từ các sách, chúng ta thấy thống kê của các tác giả cũng không đồng nhất. Độc giả chắc chắn thấy con số 5.500.000 m3 dầu xăng là trật, vì ở trang 601 cùng sách, ban biên tập cho biết trong 20 năm, 1955-1975, tổng cộng số hàng viện trợ miền Bắc nhận từ Nga, Trung Cộng, và các quốc gia cộng sản Đông Âu chỉ có 2.362.682 tấn. Trong số đó, quân nhu dụng thuộc về hậu cần (lương thực, thực phẩm, quân trang, quân y, xăng dầu, mỡ, vật liệu xây dựng…) là 1.101.346 tấn. Như vậy, con số 5.500.000 m3 không có nghĩa — tìm đâu ra được năm triệu rưởi tấn trong 15 năm nếu cả 20 năm chỉ nhận được hơn hai triệu tấn? Nếu con số đó là 550.000 m3 thì cũng không có nghĩa vì sẽ tăng tổng số hàng chuyển trên tuyến đường Hồ Chí Minh lên gấp đôi. Và nếu là 55.000 m3 thì lại mâu thuẫn với những gì viết trong sách khác. Nguyễn Việt Phương trong bài viết “Lịch sử hình thành, phát triển vận tải quân sự chiến lược 559 – Đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu mước” (in chung trong tuyển tập, Đường về thành phố mang tên Bác), trang 532, viết: “Chỉ trong hai năm [1973-1974], tuyến ống [đường ống dẫn xăng, dầu] tăng gấp bốn lần những năm trước (1965-1972), nâng tổng số chiều dài lên 1.331 km. Đã tiếp xăng dầu cho chiến trường được 59.000 tấn (bằng 6,2 lần tổng số trong tám năm trước).” [18] Qua chi tiết đó, làm một bài toán, chúng ta biết cho đến thời gian trên, tổng cộng Cộng sản Bắc Vtệt đã cung cấp cho các chiến trường là 68.516 tấn, hay là hơn 68 triệu 500 ngàn lít dầu xăng. Ở trang 537 sau đó, tác giả viết tiếp: “Cuối tháng 12-1974 đã hoàn chỉnh hai tuyến xăng dầu (Đông Trường Sơn – Tây Trường Sơn) dài 1.400 km, có 113 trạm bơm, 46 kho trữ lượng 270.000 mét khối.” [19] Câu văn này không rõ ở một điểm: các bồn, kho chứa xăng dầu, có khả năng dự trữ 270 ngàn mét khối (bằng 270 ngàn tấn; bằng 270 triệu lít), nhưng họ đã dự trữ được bao nhiêu rồi? Ở trang 548 cùng sách, tác giả cho biết, để chuẩn bị cho chiến dịch sau cùng đánh chiếm miền Nam, bộ tư lệnh Trường Sơn có số nhiên liệu bảo đảm là 68.472 tấn. Người viết rất nghi ngờ những con số về nhiên liệu cung cấp từ những thư liệu đã trích trên. Ở trong hai tài liệu khác, chúng ta thấy có thể đại tá Nguyễn Việt Phương hay là ấn công đã viết lộn giữa hai số 27.000 và 270.000 (hai mươi bảy ngàn và hai trăm bảy mươi ngàn). Trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, trang 203-204, tác giả Nguyễn Việt Phương viết về các trung đoàn đường ống phụ trách công tác cung cấp xăng dầu cho tuyến: “Trung đoàn 671 có 10 kho trữ lượng 6.800m3, với 36 trạm bơm đẩy và cấp phát. … Trung đoàn 592 … có 13 kho trên đường, trữ lượng 6.900m3, với 28 trạm bơm cấp phát. … Trung đoàn 532 … có 12 kho trên đường, trữ lượng 7.600m3, với 26 trạm bơm và cấp phát. … Trung đoàn 537 … có 11 kho trên đường, trữ lượng 5.750m3, với 23 trạm bơm và cấp phát.” So sánh đoạn văn này và đoạn văn trên (nguyên văn ở phụ chú 16 của tác giả viết bài này), chúng ta thấy có một sự làm lẫn nào đó. Đoạn văn trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, khi cộng các con số lại, chúng ta thấy có 46 kho dự trữ và 113 trạm bơm xăng dầu, với khả năng chứa là 27.050 mét khối. Trong khi đó ở Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 1, tác giả lại viết tổng cộng xăng dầu dự trữ trên tuyến, trước giờ G chiến dịch Hồ Chí Minh, “… trữ lượng tổng cộng 23.522 m3 + 3.500 m3.” Có thể nào từ 27.050 m3, tác giả Nguyễn Việt Phương đã viết lầm là 270.000 m3? Để có một khái niệm về số lượng xăng dầu tiêu thụ hàng năm trên tuyến, theo những gì tác giả Nguyễn Việt Phương viết, chúng ta được biết năm 1969 nhu cầu xăng dầu cho toàn tuyến là 25 ngàn tấn và năm 1971 là khoảng 40 ngàn tấn [20] . Trong khi đó, năm 1988, nhà xuất bản Ngoai văn ở Hà Nội xuất bản một cuốn sách có tựa là The Ho Chi Minh Trail, trong đó cho biết tổng số nhiên liệu chở qua tuyến Đường Hồ Chí Minh là 56 triệu m3! Còn ban soạn thảo quyển Bách khoa Từ điển Quân sự Việt Nam (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1996, đề mục “Đường mòn Hồ Chí Minh”, trang 304) cũng không giúp ích được gì, khi họ cho biết hệ thống tiếp tế nhiên liệu trên Đường Hồ Chí Minh có “46 kho với sức chứa 17.050 t[ấn], 113 trạm bơm đẩy và cấp phát.” Nhưng những chi tiết từ đề mục “Đường Hồ Chí Minh” trong quyển từ điển bách khoa đó cho thấy ban chủ biên đã dựa theo số tư liệu đã trích dẫn trên. Các con số 270.000; 27.050; 7.050 tấn - hay 56 triệu m3 - một lần nữa cho thấy sự thiếu nhất quán của tất cả các tài liệu nói về chủ đề này [21] .


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: ChienV trong 15 Tháng Giêng, 2008, 09:52:21 pm
Bác dongadoan cho ý kiến nhỉ?

Bác Altus có thể kéo cả về giúp em không, em không vào được talawas


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: chiangshan trong 15 Tháng Giêng, 2008, 10:00:34 pm
Em đoán mò tí, con số 5,5 triệu m3 có thể là do cộng từng báo cáo lại. Kiểu A chuyển 100 tấn đến B, B chuyển 95 tấn đến C.... => 195 (lượt) tấn, giống cái ví dụ nuôi gà của bác leopard bên topic Linebacker 2.

Mấy cái chênh nhau thì chắc là do in ấn.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Giêng, 2008, 10:23:57 pm
Xem kỹ lại thì talawas hình như cũng đăng lại từ tạp chí (hải ngoại) khác là Dòng Sử Việt.

Mới có kỳ 1. Còn một kỳ nữa.

Các bác có trách nhiệm nếu thấy có vấn đề gì thì đề nghị là cứ xử lí.

====

Nguyễn Kỳ Phong

Binh đoàn, binh trạm và đường đi B: Đọc một vài quyển sách về đường Hồ Chí Minh

1.
 
Từ năm 1988 đến nay, một số cựu sĩ quan cao cấp của quân đội cộng sản Việt Nam (CSVN) đã xuất bản nhiều sách và bài viết về hệ thống vận tải chiến lược trên đường Hồ Chí Minh, một hệ thống đường vận tải phục vụ cho chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia từ năm 1959 cho đến năm 1975. Trong số tài liệu này, trừ những bài viết có tính cách tuyên truyền và phóng đại, một số tài liệu phản ánh tương đối có luận cứ và khoa học, đáng được chú ý và tìm hiểu.

Nằm trong kế hoạch dài hạn đánh chiếm miền Nam, đường Hồ Chí Minh được ví như một mạch máu chính, chuyên chở dưỡng khí cho tất cả quân đội cộng sản ở ba chiến trường Đông Dương. Đường Hồ Chí Minh tiếp tế cho các đơn vị CSVN đóng trên cứ địa từ phía nam sông Bến Hải cho đến vùng Bù Gia Mập ở tây bắc Sài Gòn; cho quân Pathet Lào từ phía tây Tchepone đến Thượng, Trung và Hạ Lào; và cho quân Khmer Đỏ ở Campuchia từ tây nam Phi Hà (ngã ba biên giới) xuống bắc Stung Treng. Đường tiếp tế đó bắt đầu từ đầu thập niên 1960, và hoạt động cho đến ngày cả ba quốc gia ở Đông Dương thất thủ vào tay cộng sản. Với vai trò quan trọng như vậy, chúng ta có thể nhận định: không có hệ thống vận chuyển đường Hồ Chí Minh, quân đội CSVN không thể nào đánh chiếm miền Nam, và tất cả các lực lượng cộng sản địa phương ở miền Nam - cũng như ở hai quốc gia Lào và Campuchia - không thể nào tồn tại lâu dài.

Bài viết dưới đây chỉ khảo sát sơ lược về những con số, tính chất hư thực và mức độ khả tín của các tài liệu nói về đường Hồ Chí Minh do các cựu sĩ quan quân đội CSVN, hay ban quân sử CSVN xuất bản [1] . Người viết có sử dụng một số tài liệu quân sự của Hoa Kỳ đã được giải mật để lượng định và so sánh những chi tiết về số lượng quân nhu dụng xâm nhập, số lượng bom đánh phá ngăn chặn, và số thiệt hại về nhân mạng của Binh đoàn Trường Sơn/ 559 (BĐTS/ 559), mà chúng ta có thể lượng định được một cách tương đối và khoa học.


Sơ lược lịch sử đường Hồ Chí Minh

Lịch sử hình thành đường Hồ Chí Minh, hay đúng ra là một hệ thống đường dùng để tiếp viện cho các phong trào võ trang của cộng sản ở miền Nam, bắt đầu sau khi Nghị quyết 15 ra đời vào tháng 5-1959. Trong quyết nghị này, nói một cách tổng quát, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn biểu quyết là phải dùng bạo lực võ trang để chiếm miền Nam và thống nhất đất nước. Muốn thực hiện mục đích đó, miền Bắc phải tìm cách du nhập vũ khí, cán bộ khung (cán bộ nòng cốt) vào Nam để chuẩn bị cho một cuộc chiến trường kỳ. Từ nghị quyết đó, CSVN cho thành lập một tổ chức có tên là “Đoàn 559” để tìm và thành lập một con đường tiếp vận vào Nam [2] . Về giai đoạn hình thành đường Hồ Chí Minh, tác phẩm cho một cái nhìn tổng quát và khá chi tiết là Mở đường Trường Sơn – Đường mang tên Bác, của thiếu tướng Võ Bẩm. Tác giả Võ Bẩm, lúc đó mang quân hàm thượng tá, quê ở miền Trung, là một đảng viên cộng sản từ thập niên 1930, có mặt trong đội du kích Ba Tơ, rồi chính uỷ trung đoàn 803 và giữ nhiều chức vụ quan trọng về hậu cần trong chiến tranh Việt-Pháp. Trong tác phẩm, tác giả Võ Bẩm kể lại một số kế hoạch trá hình (ở Hà Nội thì đoàn 559 là “đoàn nghiên cứu quân sự đặc biệt”; vào Vĩnh Linh, đối với dân đia phương, họ là “đoàn khai thác lâm sản”), số nhân sự, và những khởi công đầu tiên của Đoàn 559. Tướng Võ Bẩm nói người liên lạc đầu tiên và trực tiếp với ông về kế hoạch đường Hồ Chí Minh là trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đương thời. Tướng Vịnh cho Võ Bẩm biết kế hoạch đường Hồ Chí Minh được quyết định và chỉ huy thẳng từ bộ chính trị qua Trung tướng Trần Văn Trà, tham mưu phó quân đội CSVN lúc đó. Tướng Võ Bẩm có quyền liên lạc với cấp chỉ huy cao nhất ở các bộ như quốc phòng, tổng cục hậu cần, quân uỷ trung ương, tổng cục chính trị, để xin yểm trợ mọi thứ khi cần [3] . Sách của tướng Bẩm nhắc đến tên của hầu hết các nhân vật quan trọng của CSVN đương thời, có trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến kế hoạch đường Hồ Chí Minh. Một chi tiết lý thú là tác giả có nhắc đến một nhân vật tên Trần Lương, tự là Trần Nam Trung, một bí thư của Khu V, đồng thời là một uỷ viên trung ương đảng phụ trách về miền Nam. Trần Nam Trung, trong danh sách nhân sự ngày đầu thành lập Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN), 20-12-1960, là tư lệnh của quân “giải phóng.” Khi MTGPMN đổi tên thành Chính phủ Cách mạng lâm thời năm 1973 thì ông ta là “Bộ trưởng Quốc phòng” của chính phủ đó. Điều này cho thấy những nhân sự khung của MTGPMN đều là các đảng viên cộng sản thâm niên do miền Bắc chỉ định để trực tiếp lãnh đạo lực lượng “cách mạng” nội tuyến ở miền Nam. Có một thời gian tình báo VNCH và Hoa Kỳ nghĩ Trần Nam Trung là bí danh của Trần Văn Trà, nhưng cho đến khi Võ Bẩm nhắc tên trong sách, chúng ta mới thật sự biết tên thật và lai lịch của Trần Nam Trung (Trần Văn Trà, trong hồi ký, cũng nhắc đến chuyện tình báo VNCH nghĩ ông là Trần Nam Trung [4] ). Ở giai đoạn hình thành của đường Hồ Chí Minh, chúng ta có thể so sánh những chi tiết trong sách của Võ Bẩm và một đoạn ngắn trong sách của Thượng tướng Trần Văn Trà, Những chặng đường lịch sử của B2 Thành Đồng: Hoà bình hay chiến tranh. Sách của tướng Trà không có chủ đích nói về đường Hồ Chí Minh, nhưng ông có viết một đoạn ngắn về kế hoạch xâm nhập trở lại Nam đầu tiên. Tướng Trà nói ông và tướng Vịnh đã đích thân đến nhà của Bí thư Lê Duẩn để xin cho một số cán bộ nòng cốt — đa số là các cán bộ tập kết ra bắc năm 1955 như Trà — xâm nhập trở lại miền Nam (mà dạo đó gọi là đi B). Tướng Trà nói ông xin 100 người nhưng Lê Duẩn chỉ cấp cho trước 25 người như một thử nghiệm đầu tiên. Sách của tướng Trà chỉ nói sơ qua về đường Hồ Chí Minh, những chi tiết tổng quát đều giống như những gì tướng Võ Bẩm viết. Nhưng qua sách của tướng Trà chúng ta biết được thêm CSVN có hai kế hoạch song song: nhiệm vụ dọn đường, tuyển mộ cán bộ cấp dưới là nhiệm vụ của tướng Bẩm; tuyển chọn một số cán bộ “khung”, cán bộ có kinh nghiệm quân sự gởi vào B để thành lập và chỉ huy các đơn vị chủ lực miền (các trung đoàn cơ hữu của Trung ương cục miền Nam) là nhiệm vụ của tướng Trà [5] . Theo hai sách này, toán phụ trách chyển vận đầu tiên được gọi là tiểu đoàn 301. Cấp số quân của tiểu đoàn khoảng 470 người, được tuyển chọn từ sư đoàn 305, một đơn vị được thành lập từ các đoàn quân từ miền trung (Liên Khu 5, trong thời chiến tranh Việt-Pháp) tập kết ra Bắc. Sách của Võ Bẩm cung cấp thông tin về thời điểm và địa danh của những cơ sở đầu tiên của đường Hồ Chí Minh. Qua sách, chúng ta biết được sở chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn 301 đặt ở Khe Hó, một địa danh nằm phía tây nam Vĩnh Linh, không xa vĩ tuyến 17, rất tiện để vượt qua quốc lộ 9, trên đường về Khu 5 (các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Ngãi), trong khi các trạm giao liên và điểm khởi hành thì ở Làng Ho, không xa bờ sông Bến Hải. Bộ Tư lệnh tối cao của Đoàn 559, ban đầu đóng ở Hà Nội, sau đó dọn ra gần địa bàn hoạt động hơn, đặt bản doanh ở Khe Ve, Hoá Tiến, một địa điểm nằm trên đường 12 ở phía bắc đèo Mụ Già (Mụ Giạ, trong bản đồ và trong sách của CSVN. Có một thời gian vào năm 1967, Bộ Chỉ huy tiền phương của BĐTS/ 559 đóng ở phía bắc Tchepone ở ngã ba đường 9, 128 và 129. Trừ những chi tiết về những năm đầu và sự hình thành của đường Hồ Chí Minh, Mở đường Trường Sơn không cho độc giả biết sự trưởng thành của con đường vào những năm cao điểm của chiến tranh, khi tướng Võ Bẩm rời khỏi chức vụ tư lệnh Đoàn 559 vào năm 1966.



Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Giêng, 2008, 10:24:32 pm
Giai đoạn vận chuyển bằng cơ giới trên đường Hồ Chí Minh

Trong thời gian từ tháng 8-1959 cho đến gần cuối năm 1965, phương tiện chuyển vận chính trên hệ thống đường xâm nhập phần lớn là gùi, xe đạp thồ, sức người, và đôi khi voi hay trâu bò. Sang năm 1965, với nhiều hoạt động quân sự được khởi động ở miền Nam, quân uỷ trung ương Hà Nội biết họ không thể sử dụng phương tiện thô sơ đang có để tiếp viện cho một cuộc chiến càng ngày càng lớn rộng. Theo Võ Bẩm, CSVN quyết định cơ giới hoá phương tiện vận tải trên đường Hồ Chí Minh vào mùa khô 1965-1966. Dùng xe để chuyên chở thì phải có đường cho xe chạy: quyết định cơ giới hoá đưa đến quyết định thành lập các đoàn dân công và thanh niên xung phong để kiến tạo các con đường vận tải bằng xe. Hoạt động và nhân sự trên đường Hồ Chí Minh lớn mạnh từ giai đoạn này.

Giai đoạn vận chuyển bằng cơ giới được đại tá Nguyễn Việt Phương, trong Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ [6] (từ đây sẽ viết gọn là Vận tải quân sự chiến lược – NKP) cung cấp nhiều chi tiết quan trọng. Tác phẩm Vận tải quân sự chiến lược cung cấp những con số về nhân sự, lực lượng phòng thủ (các đơn vị phòng không đóng bảo vệ đường Hồ Chí Minh), số lượng hàng hoá xuất kho từ miền Bắc phân phối vào miền Nam, Lào và Campuchia. Tác phẩm đôi khi nói đến các địa điểm chính xác của các binh trạm đóng dọc theo Đường Hồ Chí Minh, bắt đầu từ Quảng Bình xuống tận bắc Bù Gia Mập. Đại tá Phương, theo một số tác phẩm đã xuất bản, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong cơ cấu chỉ huy của Bộ Tư lệnh Trường Sơn/ Đoàn 559. Tác giả từng là Cục phó cục vận tải, rồi chính uỷ và chỉ huy trưởng hai binh trạm 12 và 13 — hai binh trạm xuất khẩu quan trọng trong những binh trạm trên hệ thống đường Hồ Chí Minh. Gạt đi một số chi tiết mâu thuẫn, sách của Nguyễn Việt Phương cho độc giả nhiều sự kiện về con đường vận tải chiến lược đường Hồ Chí Minh và cơ cấu của Binh đoàn Trường Sơn/ 559.

Đọc cuốn sách Vận tải quân sự chiến lược của Nguyễn Việt Phương song song với hai cuốn sách khác là Lịch sử bộ đội Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh (từ đây sẽ viết gọn là Lịch sử bộ đội Trường Sơn – NKP), do Tổng cục Hậu cần biên soạn và Đường xuyên Trường Sơn của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, cựu tư lệnh Binh đoàn 559; và một phần phụ chú nằm trong Chiến tranh cách mạng Việt Nam: Thắng lợi và bài học, 1945-1975, do Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - Bộ Chính trị xuất bản. Ba tư liệu này này dựa vào một nguồn tài liệu chung đến từ những thống kê của Bộ Tư lệnh Trường Sơn/ 559, và chỉ do một hay vài người người soạn, vì nhiều lỗi rất hiển nhiên nhưng vẫn bị lập đi lập lại nhiều lần trong các sách (Đọc Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2) trang 283, và so sánh với Lịch sử bộ đội Trường Sơn, trang 334-335; đọc Vận tải quân sự chiến lược, trang 554 và so sánh Lịch sử bộ đội Trường Sơn, trang 342; hay đọc một số chi tiết trong Chiến tranh cách mạng Việt Nam, trang 571-572, so sánh với những chi tiết trong các quyển sách liệt kê trên). Hai trong ba quyển đều có nhiều lỗi ấn công, nhất là ở phần phụ lục, nơi có nhiều con số tổng kết sự chi viện cho chiến trường.

Từ số nhân sự không hơn một tiểu đoàn vào năm 1959, BĐTS/559, với phương tiện vận tải thô sơ, từ năm 1959 đến năm 1964, chỉ chuyên chở được 2.912 tấn. Con số này tăng lên 12 lần, tức hơn 35.000 tấn - trong giai đoạn cơ giới hoá đầu tiên từ 1965-68. Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết và khi không quân Mỹ không còn hoạt động, BĐTS/559 vận chuyển hơn 363.000 tấn trong năm và một quân số trên 100.495 người. Từ năm 1965, hệ thống vận chuyển của CSVN không còn giới hạn vào một hay hai con đường độc đạo xuôi nam nữa mà là một hệ thống đường xuôi, ngang, dọc, nhất là khi tất cả bộ chỉ huy và một số kho chứa hàng quan trọng được dời sang Trường Sơn Tây — phía tây của dải núi Trường Sơn trên đất Lào. Trong những năm đầu, hai con đường chuyển vận chính là đường 12 băng qua đèo Mụ Già rồi theo hai con đuờng 128 và 129 để băng qua quốc lộ 9 xuôi nam. Con đường kia là đường 15 dẫn từ hậu tuyến Quảng Bình, Vĩnh Linh, theo về hướng tây nam, cũng để băng qua quốc lộ 9 [7] . Từ sau những chiến dịch càn quét của quân lực VNCH dọc theo quốc lộ 9 về hướng biên giới Lào, và vào năm 1966 khi không quân Hoa Kỳ oanh kích mạnh vào những tụ điểm trên đường 12 và đường 20 (hai đuờng này dẫn qua hai đèo Mụ Già và đèo Ban Karai mà trong bản đồ CSVN gọi là đèo Phu La Nhích) CSVN xây thêm nhiều hệ thống đường ngang, đường vòng, để giải toả lưu lượng giao thông và để tránh bom. Theo Nguyễn Việt Phương (trong Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 1, trang 245-248) và Lưu Trọng Lân trong Ký ức Trường Sơn (trang 102), đến năm 1975, hệ thống đường Hồ Chí Minh có tất cả sáu trục dọc ở hai bên Trường Sơn đông và tây, và năm trục ngang chỉ riêng ở Quảng Bình và Vĩnh Linh [8] . Sâu vào bên trong nội địa hạ Lào, Đoàn 559 xây rất nhiều những khoảng đường vòng, đường ngang để tranh bom hay để đi vào các kho chứa hàng của họ. Con số đường này thì không thể nào tính được, vì đôi khi đó chỉ là một con đường được thiết lập tạm thời cho một chiến dịch vận tải/ tác chiến nào đó (các tác giả CSVN gọi đó là đường chiến lược và đường chiến dịch). Tác giả Nguyễn Việt Phương tính tổng cộng cây số đường đoàn 559 xây dựng/ quản trị, là hơn 18.000 cây số, với sáu trục dọc, 13 trục ngang, và bảy đường chiến lược đi vào chiến trường ở miền Nam và Lào. Trong khi đó, sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam, trang 571, nói hệ thống đường Hồ Chí Minh có tất cả năm đường trục dọc và 21 đường trục ngang, tổng cộng 17.000 cây số. Chúng ta sẽ trở lại ước tính của tác giả Nguyễn Việt Phương trong phần nói về những con số của đường Hồ Chí Minh.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Giêng, 2008, 10:25:40 pm
Những con số xâm nhập trên đường Hồ Chí Minh

Trong Chiến tranh cách mạng Việt Nam, trang 571, Ban chủ biên viết: “Từ 1959 đến 1975, bộ đoọi Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh đã vận chuyển được gần 1.400.000 tấn hàng hoá, vũ khí, trong đó cho các chiến trường [miền Nam] và cách mạng Lào, Campuchia hơn 583.000 tấn, 5.500.000 m3 xăng dầu; bảo đảm hành quân cơ động, tiêu thụ trên tuyến và tổn thất trên đường chuyển vận hơn 765.000 tấn; năm 1974 vận chuyển số lượng hàng gấp 22 lần năm 1966; mùa xuân năm 1975 được 413.000 tấn gấp đôi năm 1974; đưa đón vận chuyển trên 2 triệu cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vào ra trên tuyến.” Tóm lược câu văn này cho rõ nghĩa là: chuyên chở qua Đường Hồ Chí Minh là 1 triệu 400 ngàn tấn; giao cho chiến trường miền Nam, Campuchia và Lào là 583 ngàn tấn; tổn thất, tiêu thụ, và trang bị cho các cuộc hành quân là 765 ngàn tấn. Ngay dưới đó, một đoạn văn quan trọng hơn cho biết: “Để giao được 1.000 tấn hàng, bộ đội Trường Sơn bị tổn thất: 57 người bị thương, 21 người hy sinh, 25 xe ô tô, 143 tấn hàng bị phá huỷ.” Một vài chi tiết khác cũng đến từ sách trên: BĐTS/ 559 đã đưa đón chuyển vận trên hai triệu cán bộ ra vào trên tuyến; và, trong suốt thời gian hiện hữu, tuyến đường Hồ Chí Minh đã bị hơn 7.500.000 quả bom bỏ xuống đường. Những chi tiết trên được lấy từ những bản thống kê nằm trong Vận tải quân sự chíên lược, và được nhiều sách khác trích lại. Nhưng nếu độc giả tính kỹ lại những con số và chi tiết, chúng ta thấy hoặc là sách có nhiều lỗi ấn công/ biên tập (typos/ editing), hoặc là ban chủ biên không quan tâm đến sự mâu thuẫn của những con số đưa ra. Để làm cơ sở cho sự so sánh về những con số mà Bộ Tư lệnh BĐTS/ 559 đưa ra — và các tác giả CSVN từ đó viết theo — người viết xin lấy những phụ lục bắt đầu từ trang 374-385; 424-426; và, 428-437, trong quyển Vận tải quân sự chiến lược do Tổng cục Hậu cần xuất bản (mà tác giả Nguyễn Việt Phương là một trong những chủ biên chính). Lý do chúng ta chọn những phụ lục này vì ít ra các con số đã được sắp xếp một cách có hệ thống và từ đó, chúng ta có một mức định để so sánh và tham khảo.

Trước hết, chúng ta nói về con số đường 18.000 cây số mà BĐTS/ 559 xây dựng và quản trị. Ông Nguyễn Việt Phương đi đến con số 18.000 rất lạ và thiếu thuyết phục. Ở trang 245-246, trong ĐHCMH , tập 1, tác giả viết là đến cuối năm 1972, hệ thống trục đường dọc đã có được 3260 km; hệ thống trục đường ngang, đường vòng, có 5.050 km. Đến đầu năm 1975, hệ thống đường lên đến 3.900 km cho trục dọc và 8.700 km trục đường ngang, đường vòng — kể luôn trục đường dọc quốc lộ 1, qua Đông Hà - Quảng Trị, vùng bị cộng sản đánh chiếm. Tác giả viết tiếp: khi bắt đầu chiến dịch Hồ Chí Minh (24 tháng 4-1975, sau khi quân đội VNCH đã bỏ cứ điểm Xuân Lộc), tổng số cây số đường do BĐTS/ 559 xây dựng và quản trị lên đến 7.710 km đường dọc; 5.980 km đường ngang, và 5.020 km đường vòng, đường tránh. Tổng cộng là 18.710 km. Tác giả cho biết tổng số cây số đường là kể luôn những con đường CSVN chiếm được khi quân đội VNCH di tản hay thất thủ (chữ quản trị ở đây là có ý nghĩa đó). Tác giả Nguyễn Việt Phương có nói đến 870 km đường “duyên hải” - quốc lộ 1, và gần 200 km của đường 7B. Tính như vậy thí quá vô lý. Nếu tính như vậy thì tại sao BĐTS/ 559 không kể luôn quốc lộ 9, quốc lộ 21, quốc lộ 19, quốc lộ 14 và quốc lộ 13, khi Vùng I, Vùng II, và một phần Vùng III bị “quản trị” sau khi quân lực VNCH bị thất thủ ở những vùng đó? Tính như vậy thì tổng số cây số của tất cả những trục lộ quan trọng ở miền Nam, Lào và đông bắc Campuchia đều nằm trong tổng số cây số đường BĐTS/ 559 xây dựng và quản trị? Lối tính đó không thuyết phục độc giả được về công trình xây dựng của BĐTS/ 559. Ở hai tài liệu khác thì tác giả Nguyễn Việt Phương lại cho hai con số khác nhau. Trong một bài viết ngắn có tên “Đường Hồ Chí Minh – Tuyến hậu cần chiến lược phía trước trong cuộc tiến công và nổi dậy Xuân 1975”, in trong tuyển tập Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975, trang 378, tác giả viết: “Tuyến 559 đã thực hiện tốt nhiệm vụ, nhanh chóng sử dụng hai sư đoàn ô tô để chuyển ba quân đoàn chủ lực và bảo đảm giao thông an toàn trên 30.000 km đường (gồm cả những trục đường mới giải phóng).” Ở một tài liệu khác, phụ lục số 5, “Trang bị súng pháo mật độ hoả lực phòng không” (trong Vận tải quân sự chiến lược, trang 435), tác giả viết: năm 1974-1975, hệ thống đường có tất cả là 14.680 km. Bản phụ lục số 5 này nói về hoả lực phòng không của BĐTS/ 559 có trên mỗi cây số đường để bảo vệ tuyến đường Hồ Chí Minh. Cũng theo phụ lục này, năm 1973, tổng cây số đường là 11.230 km; một năm trước đó, chỉ có 8.310 km. Phụ lục 4, “Các tác động vào hiệu suất vận tải” (ibid., trang 379-380), cũng cho con số về cây số đường tương tự như phụ lục 5. Trong khi đó, trong Đường về thành phố mang tên Bác, trang 556, tác giả Nguyễn Việt Phương viết, “… [hệ thống đường Hồ Chí Minh] gồm sáu trục dọc, 13 trục ngang và các đường vòng tránh, liên hoàn với mạng chiến dịch, tổng cộng gần 20.000 ki-lô-mét.” Để kết luận về những chi tiết không thống nhất này, chúng ta trích một đoạn ở trang 571, trong Chiển tranh cách mạng Việt Nam - Sách do Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh thuộc Bộ Chính trị chủ biên: “[Đường Hồ Chí Minh] đã mở năm hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang nối liền các chiến trường dài gần 17.000 km.” Người viết để độc giả tự suy luận về những chi tiết không ăn khớp đó.

Về con số 1.400.000 tấn hàng BĐTS/ 559 đã di chuyển trên Đường Hồ Chí Minh. Đây là con số được mọi sách trích dẫn. Tuy nhiên sách Vận tải quân sự chiến lược của Nguyễn Việt Phương là chi tiết nhất, với bảng thông kế số hàng vận tải và thất thoát hàng năm và nhiều bản thống kê về những chi tiết khác. Như đã trích trong sách ở trên: chuyên chở 1,4 triệu tấn; thất thoát tiêu dùng trên đường là 765.000 tấn; giao đến tay các chiến trường là 583.000 tấn. Các chiến trường ở đây là chiến trường của quân CSVN ở miền Nam, Pathet Lào (cộng sản Lào) ở Lào, và quân Khmer Đỏ ở Campuchia. Theo tác giả Nguyễn Việt Phương, những năm 1959-1964, phải tốn gần 2 ký quân nhu dụng để giao 1 ký hàng đến tay người nhận ở chiến trường (họ gọi là chi phí vận tải: gồm xăng, dầu mỡ; vật liệu sửa chữa; vật chất cho tài xế, nhân công, và bị oanh kích huỷ diệt trên tuyến). Con số chi phí này hạ xuống dần khi BĐTS/ 559 cơ giới hoá hệ thống vận chuyển trên các tuyến đường [9] . Năm 1974, khi các cuộc oanh tạc trên đường Hồ Chí Minh không còn nữa, hiệu quả vận chuyển của BĐTS/ 559 gia tăng: khi họ chỉ cần hơn nửa ký để giao một ký (tốn 84.861 tấn; giao 145.818 tấn; 58% phí tổn). Qua bảng thống kê về hàng di chuyển và hàng giao đến tay này, chúng ta suy ra được rất nhiều chi tiết khác như cấp số ẩm thực hàng ngày cho mỗi đầu người, sự thiệt hại trên tuyến đường Hồ Chí Minh do không quân Hoa Kỳ gây ra, sự thiệt hại ở những chiến trường khác và nhất là số quân của CSVN có ở mặt trận Lào — một con số mà cho đến bây giờ CSVN vẫn chưa công bố. Sách của Võ Bẩm viết, sau khi đường Hồ Chí Minh được thiết lập ở tây Trường Sơn trên đất Lào, CSVN phải đánh chiếm và duy trì những hành lang chạy theo hai truyến quan trọng để bảo vệ đường vận tải của họ. CSVN có quân bảo vệ trục dọc nằm song song với các đường 128, 129 và 23 xuôi nam; trục ngang là quốc lộ 12 đi về hướng Mahaxay (Trung Lào) và quốc lộ 9, bắt đầu từ phía tây Lao Bảo đi về Tchepone và Muong Phine (Hạ Lào). Tuy CSVN không cho biết số quân ở Lào (cả ba mặt trận: Thượng, Trung và Hạ Lào), nhưng với số lượng hàng cung cấp, chúng ta có thể lượng định một cách tương đối lực lượng của Cộng sản Bắc Việt ở chiến trường Lào. Lấy một thí dụ: Đọc hai bản phụ lục “Chi phí cho hàng tới đích” và “Xuất hàng cho các đối tượng” (Vận tải quân sự chiến lược, trang, 382, 374), Bộ Tư lệnh BĐTS/ 559 cho biết: năm 1965, họ giao cho các chiến trường là 4.379 tấn nhưng họ không nói tên tất cả các chiến trường. Ở bản phụ lục kia, họ cho biết các chiến trường nhận là: Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên và Nam Bộ. Lấy tổng số bốn chiến trường đó, trừ cho tổng số nhận, thì số còn lại là số tấn quân nhu dụng giao cho chiến trường Lào (giao 4.379 tấn; bốn chiến trường ở miền Nam nhận 3.127 tấn, vậy còn lại, chiến trường Lào nhận 1270 tấn). Từ con số 1.270 tấn đó, dựa theo căn bản trang bị cấp số của một đơn vị, chúng ta có thể ước lượng được số quân tối thiểu của một mặt trận [10] . Cũng nên biết thêm, từ năm 1960 đến năm đầu năm 1970, CSVN không phải tiếp tế cho các lực lượng ở đất Campuchia hay đóng quân dọc theo biên giới Cam-Bốt - Việt Nam. Ngược lại, Campuchia là nơi đã tiếp tế rất nhiều cho các đơn vị ở Tây Nguyên và Khu V, khi hai mặt trận này không nhận được hàng tiếp tế từ miền Bắc. Năm 1964, qua một thoả thuận ngầm giữa Hoàng thân Sihanouk và Trung cộng, Campuchia được lấy quyền 10% trên số lượng quân nhu dụng Trung cộng viện trợ cho CSVN qua hải cảng Sihanoukville. Ngoài ra, một số đơn vị hậu cần trá hình của CSVN ở Campuchia cũng dùng ngoại tệ (dollars Mỹ) để mua hàng và chở ngược về các mật khu của cộng sản ở các vùng Bù Gia Mập, Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu [11] . Hệ thống tiếp vận theo đường cảng Sihanoukville bị gián đoạn hoàn toàn khi Lon Nol đảo chánh Sihanouk vào tháng 3-1970 và cuộc hành quân của quân đội VNCH đánh vào các mật khu của cộng sản Bắc Việt ở nội địa Campuchia hai tháng sau đó.

Con số tấn hàng giao cho các chiến trường rất quan trọng vì từ con số đó, chúng ta có thể suy ra nhiều con số khác (thí dụ như tổng số quân của CSVN ở Lào; hay số thiệt hại ở Lào). BĐTS/ 559 dựa vào tổng số tấn hàng giao tới đích để cho con số thiệt hại về nhân mạng và những tổn thất khác trên toàn tuyến. Ở đây, độc giả không đòi hỏi một thống kê thật chính xác từng con số. Nhưng một thống kê không chính xác khác với một thống kê sai lạc hay không thống nhất. Đó là trở ngại của độc giả khi đọc các con số của Tổng cục Hậu cần hay BĐTS/ 559 đưa ra, vì mỗi sách ghi khác nhau, từ đó, khiến độc giả hoài nghi về sự chính thống của tài liệu gốc.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: dongadoan trong 15 Tháng Giêng, 2008, 10:25:55 pm
Hì, cái này thì phải có thời gian tìm tài liệu đã! Nhưng đúng như chiangshan nói, rất có thể cái số liệu 5.500.000 m3 xăng dầu là tính kiểu m3/km giống như vận tải cơ giới tính kiểu tấn/km. Để mai đi lục cuốn Lịch sử bộ đội xăng dầu trong KCCM đã nhé! ;D


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Giêng, 2008, 10:26:59 pm
Sách CTCMVN ghi tổng số hàng di chuyển tương đương 1.400.000 tấn. Giao tới đích 583.000 tấn; thiệt hại và phí tổn 765.000 tấn. Sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam ghi họ chú theo sách Lịch sử bộ đội Trường Sơn…. Trong khi đó, bảng phụ chú “Chi phí cho tấn hàng tới đích” (VTQSCL, trang 382) tổng kết hai con số quan trọng là hàng giao tới đích - 686.185 tấn và tốn kém cùng tổn thất để giao số tấn hàng đó - 552.221 tấn [12] . Đọc đến đây, độc giả sẽ chú ý về sự sai biệt của hai con số, hàng di chuyển và hàng giao đến đích, từ hai tài liệu nói trên - sai biệt gần 100.000 tấn. Sự sai biệt càng quan trọng hơn khi tác giả Nguyễn Việt Phương là người soạn lại ấn bản thứ nhì của cuốn Lịch sử bộ đội Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh (theo lời giới thiệu ở trang trong bìa sách). Là một soạn giả trong ban chủ biên của hai tác phẩm, tác giả Nguyễn Việt Phương không thể không thấy sự khác biệt này. Thêm một sự khác biệt đáng chú ý nữa là: bảng phụ lục 1 “hàng tới đích” không nói đến tổng số tấn hàng giao trong năm 1975, trong khi phụ lục 6 “hàng cho đối tượng” thì ghi số tổng kết cho đến hết mùa xuân của năm 1975. Sự thiếu sót (hay cố ý không tổng kết vào) này quan trọng vì theo hai quyển sách khác, trong bốn tháng đầu của năm 1975, BĐTS/ 559 đã chuyên chở hơn 350. 000 tấn quân nhu dụng cho các chiến trường để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công miền Nam sau cùng. Sách Lịch sử bộ đội Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh, trang 292 viết: “… dứt điểm sớm chỉ tiêu nhiệm vụ năm 1973 và 1974: tổng hàng nhận từ hậu phương 550.000 tấn; khai thác hướng đường C4 khoảng 20.000 tấn [hướng đường C4 là hàng mua ở thị trường Campuchia]. Tổng hàng vận chuyển bảo đảm cho các đối tượng 523.000 tấn. Hàng dự trữ cho các hướng chiến lực 30.000 tấn, bảo đảm dân sinh và xây dựng cơ bản 86.000 tấn. Tổ chức quân vào bổ sung vào và chuyển thương ra khoảng 400.000 người.” Nhưng đến trang 310 của cuốn sách thì con số chỉ tiêu chỉ còn lại 350 ngàn tấn cho mùa khô năm 1973-1974. Dù chỉ còn lại 350.000 tấn, con số này vẫn tương đối lớn so với tổng số tấn mà họ đã giao trong 15 -16 năm. Đến đây, nếu độc giả đọc hai trang 519-520 trong sách Vận tải quân sự chiến lược của Nguyễn Việt Phương, chúng ta thấy hai sách dựa vào cùng một tài liệu. Nhưng Nguyễn Việt Phương viết tiếp ở trang 524-525 là, sau khi đã đạt được chỉ tiêu vận tải 163%, “quân uỷ trung ương lại chỉ thị làm gấp khối lượng 282.000 tấn theo yêu cầu của [chiến trường] Tây Nguyên, Nam Bộ và chiến trường Campuchia.” Nếu hai chỉ tiêu này đã được thực hiện, thì tổng số tấn hàng giao phải hơn những gì các sách đã viết ở trên. Trong bài viết “Đường Hồ Chí Minh – Tuyến hậu cần chiến lược phía trước trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975,” đăng trong tuyển tập Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975, cũng chính tác giả Nguyễn Việt Phương ở trang 375 viết: “… nâng hiệu suất chuyển vận mùa khô 1973-1974 lên 360% so với năm 1970-1973.” Nếu chúng ta cộng tổng số vận chuyển các năm ghi trong bản tổng kết (cũng lấy từ sách của Nguyễn Việt Phương) thì chúng ta không tìm được một con số nào có liên hệ đến con số 360% đó. Trong sách Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2 trang 229, Nguyễn Việt Phương ghi đến cuối tháng 8-1974, BĐTS/ 559 đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nhiệm vụ của năm, giao tổng cộng 183.434 tấn [13] , trong đó nói đã giao “chiến trường Tây Nguyên: 64.828 tấn.” Nhưng theo bảng tổng kết của thống kê, Tây Nguyên chưa bao giờ nhận hơn 30 ngàn tấn một năm trong suốt 16 năm nhận tiếp liệu. Rồi độc giả sẽ như đi lạc vào một cánh rừng mâu thuẫn khi đọc đến trang 289, khi ông nói tổng số hàng giao cho tất cả chiến trường trong 16 năm là 1.030.935 tấn. Rồi hơn sáu tháng sau, tác giả viết ngược lại những gì ông đã viết [14] . Vấn đề thống kê càng phức tạp thêm khi chúng ta đọc một đoạn văn trong hồi ký của tướng tư lệnh BĐTS/ 559, Đồng Sĩ Nguyên (Đường xuyên Trường Sơn, trang 281-283), “Ngày 30 tháng 9 năm 1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp bàn nhiệm vụ quân sự hai năm 1974-1975… Dự kiến ban đầu khối lượng vật chất mà bộ đội Trường Sơn chuyển chi cho các chiến trường trong mùa khô 1974-1975 là 510.000 tấn nhưng quá trình thực hiện đã lên tới 560.000 tấn.” Câu văn này cho ta thấy: 560.000 tấn đã được giao đến tay các chiến trường trong năm 1974 rồi. Nhưng trong hai bản phụ lục “Xuất hàng cho các đối tượng,” và “Chi phí cho tấn hàng tới đích,” (Vân tải quân sự chiến lược, trang 374; 382) chúng ta không thấy những con số này. Sự thiếu thống nhất của các con số là một khó khăn cho độc giả và giới tham khảo khi muốn kiểm chứng tài liệu. Lấy một thí dụ khác: tác giả Ngô Vi Thiện - cựu đại tá (chỉ huy trưởng hậu cần trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, 1971; phía VNCH gọi là hành quân Lam Sơn 719), đồng thời là giáo sư, tác giả trong ban soạn thảo Chiến tranh cách mạng Việt Nam — trong bài viết “Một số vấn đề chuẩn bị hậu cần trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975” (Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975, trang 361-362), cho biết: “Từ năm 1960 đến tháng 4-1975, tuyến vận chuyển chiến lược 559 đã giao cho các chiến trường 1.035.000 tấn/ [với]1.025.000 tấn sử dụng tổn thất trên tuyến.” Cộng hai con số này lại, chúng ta có hơn 2 triệu tấn vận chuyển trên hệ thống đường Hồ Chí Minh — hoàn toàn ngược lại những gì tất cả các tài liệu khác viết sau đó [15] . Cũng từ hai trang đã trích trên, tác giả Ngô Vi Thiện cho chúng ta biết, nguồn vật chất kỹ thuật (vũ khí, quân dụng) do bộ đội tự sản suất và khai thác tại chiến trường từ năm 1960 đến năm 1972 là 301.780 tấn; và từ năm 1973 đến tháng 4-1975 là 124.160 tấn. Như vậy, tổng cộng trong 16 năm, khả năng tự sản xuất và khai thác tại chiến trường là 425.940 tấn. Nhưng ở trang 598-599 trong sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam, con số đưa ra lại khác: Trong 20 năm, tất cả sản xuất của bộ đội ở miền bắc và chiến trường miền Nam tổng cộng chỉ được 93.775 tấn kể luôn lương thực và thực phẩm. Nếu chỉ nói về vật chất kỹ thuật thì trong 20 năm chỉ được 44.751 tấn. Ở đây, người viết bài này không thể giải thích được tại sao có sự khác biệt như vậy [16] .

Người viết chú trọng đến quyển Chiến tranh cách mạng Việt Nam vì quyển này được sự hiệu đính của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, và Ban Chỉ đạo này trực thuộc Bộ Chính trị Đảng CSVN. Bản liệt kê tên những tác giả đóng góp nhìn rất hùng hậu. Nhưng chỉ tiếc khi có một vài con số vô lý một cách hiển nhiên lại bị những người biên soạn không để ý đến. Nhìn vào con số 5.500.000 m3 dầu xăng đã chuyên chở trên tuyến là một thí dụ. Chúng ta thấy rõ ràng con số 5.500.000 m3 là vô lý; có thể đây là lỗi ấn công [17] . Nhưng từ đó, nhìn vào những con số tiếp tế nhiên liệu đến từ các sách, chúng ta thấy thống kê của các tác giả cũng không đồng nhất. Độc giả chắc chắn thấy con số 5.500.000 m3 dầu xăng là trật, vì ở trang 601 cùng sách, ban biên tập cho biết trong 20 năm, 1955-1975, tổng cộng số hàng viện trợ miền Bắc nhận từ Nga, Trung Cộng, và các quốc gia cộng sản Đông Âu chỉ có 2.362.682 tấn. Trong số đó, quân nhu dụng thuộc về hậu cần (lương thực, thực phẩm, quân trang, quân y, xăng dầu, mỡ, vật liệu xây dựng…) là 1.101.346 tấn. Như vậy, con số 5.500.000 m3 không có nghĩa — tìm đâu ra được năm triệu rưởi tấn trong 15 năm nếu cả 20 năm chỉ nhận được hơn hai triệu tấn? Nếu con số đó là 550.000 m3 thì cũng không có nghĩa vì sẽ tăng tổng số hàng chuyển trên tuyến đường Hồ Chí Minh lên gấp đôi. Và nếu là 55.000 m3 thì lại mâu thuẫn với những gì viết trong sách khác. Nguyễn Việt Phương trong bài viết “Lịch sử hình thành, phát triển vận tải quân sự chiến lược 559 – Đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu mước” (in chung trong tuyển tập, Đường về thành phố mang tên Bác), trang 532, viết: “Chỉ trong hai năm [1973-1974], tuyến ống [đường ống dẫn xăng, dầu] tăng gấp bốn lần những năm trước (1965-1972), nâng tổng số chiều dài lên 1.331 km. Đã tiếp xăng dầu cho chiến trường được 59.000 tấn (bằng 6,2 lần tổng số trong tám năm trước).” [18] Qua chi tiết đó, làm một bài toán, chúng ta biết cho đến thời gian trên, tổng cộng Cộng sản Bắc Vtệt đã cung cấp cho các chiến trường là 68.516 tấn, hay là hơn 68 triệu 500 ngàn lít dầu xăng. Ở trang 537 sau đó, tác giả viết tiếp: “Cuối tháng 12-1974 đã hoàn chỉnh hai tuyến xăng dầu (Đông Trường Sơn – Tây Trường Sơn) dài 1.400 km, có 113 trạm bơm, 46 kho trữ lượng 270.000 mét khối.” [19] Câu văn này không rõ ở một điểm: các bồn, kho chứa xăng dầu, có khả năng dự trữ 270 ngàn mét khối (bằng 270 ngàn tấn; bằng 270 triệu lít), nhưng họ đã dự trữ được bao nhiêu rồi? Ở trang 548 cùng sách, tác giả cho biết, để chuẩn bị cho chiến dịch sau cùng đánh chiếm miền Nam, bộ tư lệnh Trường Sơn có số nhiên liệu bảo đảm là 68.472 tấn. Người viết rất nghi ngờ những con số về nhiên liệu cung cấp từ những thư liệu đã trích trên. Ở trong hai tài liệu khác, chúng ta thấy có thể đại tá Nguyễn Việt Phương hay là ấn công đã viết lộn giữa hai số 27.000 và 270.000 (hai mươi bảy ngàn và hai trăm bảy mươi ngàn). Trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, trang 203-204, tác giả Nguyễn Việt Phương viết về các trung đoàn đường ống phụ trách công tác cung cấp xăng dầu cho tuyến: “Trung đoàn 671 có 10 kho trữ lượng 6.800m3, với 36 trạm bơm đẩy và cấp phát. … Trung đoàn 592 … có 13 kho trên đường, trữ lượng 6.900m3, với 28 trạm bơm cấp phát. … Trung đoàn 532 … có 12 kho trên đường, trữ lượng 7.600m3, với 26 trạm bơm và cấp phát. … Trung đoàn 537 … có 11 kho trên đường, trữ lượng 5.750m3, với 23 trạm bơm và cấp phát.” So sánh đoạn văn này và đoạn văn trên (nguyên văn ở phụ chú 16 của tác giả viết bài này), chúng ta thấy có một sự làm lẫn nào đó. Đoạn văn trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, khi cộng các con số lại, chúng ta thấy có 46 kho dự trữ và 113 trạm bơm xăng dầu, với khả năng chứa là 27.050 mét khối. Trong khi đó ở Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 1, tác giả lại viết tổng cộng xăng dầu dự trữ trên tuyến, trước giờ G chiến dịch Hồ Chí Minh, “… trữ lượng tổng cộng 23.522 m3 + 3.500 m3.” Có thể nào từ 27.050 m3, tác giả Nguyễn Việt Phương đã viết lầm là 270.000 m3? Để có một khái niệm về số lượng xăng dầu tiêu thụ hàng năm trên tuyến, theo những gì tác giả Nguyễn Việt Phương viết, chúng ta được biết năm 1969 nhu cầu xăng dầu cho toàn tuyến là 25 ngàn tấn và năm 1971 là khoảng 40 ngàn tấn [20] . Trong khi đó, năm 1988, nhà xuất bản Ngoai văn ở Hà Nội xuất bản một cuốn sách có tựa là The Ho Chi Minh Trail, trong đó cho biết tổng số nhiên liệu chở qua tuyến Đường Hồ Chí Minh là 56 triệu m3! Còn ban soạn thảo quyển Bách khoa Từ điển Quân sự Việt Nam (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1996, đề mục “Đường mòn Hồ Chí Minh”, trang 304) cũng không giúp ích được gì, khi họ cho biết hệ thống tiếp tế nhiên liệu trên Đường Hồ Chí Minh có “46 kho với sức chứa 17.050 t[ấn], 113 trạm bơm đẩy và cấp phát.” Nhưng những chi tiết từ đề mục “Đường Hồ Chí Minh” trong quyển từ điển bách khoa đó cho thấy ban chủ biên đã dựa theo số tư liệu đã trích dẫn trên. Các con số 270.000; 27.050; 7.050 tấn - hay 56 triệu m3 - một lần nữa cho thấy sự thiếu nhất quán của tất cả các tài liệu nói về chủ đề này [21] .

(còn 1 kì)


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Giêng, 2008, 10:28:22 pm
[1]Người viết giới hạn sự tham khảo về hệ thống đường Hồ Chí Minh vào những tác phẩm dưới đây:
Võ Bẩm, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Việt Phương. Đường về thành phố mang tên Bác, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2001. Đây là một tuyển tập, in lại ba tác phẩm của ba tác giả đã xuất bản trước: 1- Võ Bẩm, với tác phẩm tên Những nẻo đường kháng chiến, được đặt tựa lại là “Mở đường Trường Sơn – Đường mang tên Bác” trong tuyển tập này; 2- Đồng Sĩ Nguyên. Đường Xuyên Trường Sơn, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2001. In lại trong tuyển tập nói trên, cùng tựa; 3- Nguyễn Việt Phương. Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ. Tổng cục Hậu cần, Hà Nội, 1988. Tác phẩm này xuất bản năm 1984 với tên Công tác vận tải chiến lược trên đường Hồ Chí Minh. Trong Tuyển tập Võ Bẩm, tác phẩm được rút ngắn và in lại với tựa mới, “Lịch sử hình thành, phát triển tuyến vận tải quân sự chiến lược 559 – Đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Một vài phụ lục trong sách nguyên thuỷ không được in lại trong Tuyển tập của Võ Bẩm.
Nguyễn Việt Phương. Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, 2 tập, TP Hồ Chí Minh: NXB Trẻ, 2004. Nhiều chi tiết trong sách này được lấy từ quyển Vận tải quân sự chiến lược. Sách được soạn theo dạng hỏi và trả lời, dành cho độc giả phổ thông.
Trường Sơn. Cuộc hành trình năm ngàn ngày đêm (Đường Hồ Chí Minh). NXB Văn nghệ, TP.Hồ Chí Minh, 1992. Trường Sơn là bút hiệu của cựu đại tá Phạm Tề, trưởng ban tổ chức Đoàn 559. Tác giả gia nhập Bộ Tư lệnh Đoàn 559 và làm việc dưới quyền thượng tá Võ Bẩm khoảng một năm sau khi Đoàn được thành lập. Sách có nhiều chi tiết như trong sách của Võ Bẩm - nếu không nói là viết lại những gì đã được Võ Bẩm kể. Sách có một số chi tiết lý thú nhưng cũng có nhiều đoạn thiếu sót, phóng đại. Nhiều chi tiết cho thấy tác giả nghe kể lại hay suy đoán chứ không phải từ kinh nghiệm cá nhân hay dựa vào cơ sở tài liệu.
Phòng Khoa học, Tổng cục Hậu cần. Lịch sử bộ đội Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994. Theo lời ghi ở trang bìa trong, Nguyễn Việt Phương là người soạn ấn bản lần thứ nhì của quyển sách này.
Lưu Trọng Lân. Ký ức đường Trường Sơn, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2004. Tác giả là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn phòng không-không quân, và sau đó là chỉ huy phó phòng tác huấn Bộ Tham mưu quân chủng phòng không-không quân. Sách của tác giả thuộc về loại bút ký nhưng có nhiều chi tiết quân sự đáng chú ý.
Lâm Giang. Trên con đường không cột số, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2004. Tác giả (còn viết một vài tác phẩm khác với tên là Hồ Sĩ Thành) kể lại chuyện xâm nhập vào Nam, đi trong đoàn quân tác chiến từ làng Kim Bôi, Hoà Bình, đến Bà Rá, Phước Long, trong sáu tháng, với số quân chỉ còn 1/3 so với ban đầu.
Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - Bộ Chính trị. Chiến tranh cách mạng Việt Nam: Thắng lợi và bài học, 1945-1975, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
Trần Văn Trà. “Những chặng đường lịch sử của B2 Thành đồng: Hoà bình hay chiến tranh”, Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975, Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1990. Đây là một tuyển tập của 30 tác giả, phần lớn là sĩ quan cao cấp, viết về mọi vấn đề quân sự trong cuộc chiến Việt Nam. Trong tuyển tập này, có hai bài viết liên quan đến chủ đề về đường Hồ Chí Minh của hai tác giả Ngô Vi Thiện và Nguyễn Việt Phương

[2]Đoàn 559 thành lập tháng 5-1959, để phụ trách chuyển vận bằng đường bộ. Tháng 7-1959, CSVN thành lập Đoàn 759 với bí danh là “tập đoàn đánh cá sông Gianh” để phụ trách chuyển vận qua đường biển. Tuy nhiên, ngay trong chuyến xâm nhập đầu tiên, thuyền đã bị hải quân VNCH phát hiên... và Đoàn 759 bị tạm thời giải tán từ đó. Trong những năm kế tiếp cộng sản Bắc Việt thỉnh thoảng vẫn có những chuyến chuyên chở xâm nhập bằng đường biển tiếp tế vào Nam. Tháng 2-1965, không quân VNCH đánh chìm một tàu sắt chở hơn 100 tấn vũ khí của cộng sản Bắc Việt ở Vũng Rô, Phú Yên. Sau đó, những cuộc tuần thám liên tục của hải quân Mỹ-VNCH dọc theo miền duyên hải hạn chế gần như hoàn toàn các cuộc xâm nhập bằng đường biển của cộng sản Bắc Việt.

[3]Nguyễn Văn Vịnh, vào khoảng năm 1964-66, nghe nói bị hạ bệ và giam vì có liên hệ đến vụ án “xét lại” và phản đảng. Các sách sau này không nói rõ câu chuyện như thế nào và Bộ Chính trị CSVN có bằng chứng gì để giam tướng Vịnh. Tướng Vịnh chiến đấu ở miền Nam trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt như tướng Trà. Hồi ký của Thượng tướng Trần Văn Trà chỉ nhắc về tướng Vịnh bằng một câu rất ngắn với nội dung là ông ta bị nạn. Đến giữa năm 1966, tờ Học tập vẫn còn đăng một bài viết của tướng Vịnh.

[4]Một tài liệu giải mật của Ban Tham mưu liên quân Hoa Kỳ (U.S. Joint Chiefs of Staff) có tựa “Nhân sự và cơ cấu của Mặt trận Giải phóng miền Nam,” viết vào tháng 6-1969 và được giải mật tháng 7-1999, trong đó ghi lai lịch một số tư lệnh cộng sản Bắc Việt/ Việt cộng đang có mặt ở B-2/ Trung ương Cục, ghi Trần Nam Trung tự là Trần Lương. Tuy nhiên, họ cũng nói rõ, trong thời gian đó, để đánh lừa tình báo VNCH - Hoa Kỳ, nhiều tư lệnh khác vẫn ký là “Trần Nam Trung.” Tình báo CIA và MACV đưa thêm một thí dụ khác về môt nhân vật là Cao Đăng Chiếm - một người thật, tên thật nhưng lại được nhiều tư lệnh tình báo của Việt cộng sử dụng cùng một lúc để đánh lạc hướng đối phương.

[5]Nguyễn Việt Phương, Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 1, trang 98-100, có nhắc đến chi tiết đoàn quân sự 25 người này.

[6]Xin được nói ở đây, người viết sử dụng hai ấn bản của tác giả Nguyễn Việt Phương vì vài con số, sự kiện, của hai bản khác nhau. Những khác biệt đó đưa đến câu hỏi về sự chính xác của tài liệu nguyên thuỷ mà các tác giả đều trích từ thư liệu của Bộ Tư lệnh Trường Sơn/ 559. Những chữ viết nghiêng đều do tác giả bài viết này nhấn mạnh.

[7]Số tên các con đường của cộng sản Bắc Việt trên bản đồ hệ thống đường ở tỉnh Quảng Bình và Vĩnh Linh khác hơn trên bản đồ của VNCH, mặc dù một số đường đã có từ thời Pháp. Một số đường mới được đặt tên dựa theo hệ thống đường cũ (nối đường số 8 và đường 12 tạo thành đường 128; Nối đường 12 xuống đường 9 tạo ta đường 129), một số đường, tuy là cũ, nhưng đặt tên mới hoàn toàn. Thí dụ: Chạy song song bên trái quốc lộ 1A là đường 101 (quốc lộ 1 trở thành quốc lộ 1A khi qua khỏi sông Bến Hải), đường này chạy thẳng lên hướng tây bắc, gặp đường 15 trên đầu của đèo Mụ Già. Nối ngang từ 1A qua 101 là các con đường 102, 103… Xây dựng và bổ túc thêm, cộng sản Bắc Việt đặt lại tên đường 101 thành đường 15 và kéo dài từ Vĩnh Linh lên tận đường 12 trên đầu đèo Mụ Già. Hai đường ngang 102 va 103 được kéo dài về hướng tây nam xuống tận Tchepone ở đường 9 bằng nhiều khúc đường và đổi tên là các đường 10, 20, 16, 18, 24. Trên hướng bắc tỉnh Quảng Bình, gần biên giới tỉnh Hà Tĩnh, một hệ thống đường khác mà chúng ta không thấy trong bản đồ đường sá thông thường. Để nhận diện và so sánh các con đường, cách hay nhất là so sánh bản đồ quân sự (người viết sử dụng bản đồ do Phòng 2, Bộ Tư lệnh lục quân Thái Bình Dương xuất bản năm 1972) và bản đồ trong các quyển sách như: Nguyễn Duy Hinh, Lam Sơn 719; Nguyễn Việt Phương, Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại; Hoàng Văn Thái, Những năm tháng quyết định; và Ký ức đuờng Trường Sơn của Lưu Trọng Lân. Những con đường nhắc tên ở trên, trong bản đồ VNCH, là các đuờng 12, 23, 911, 91, 914, 92, 96, và 615. Sách do CSVN xuất bản, khi nói về địa hình hay vùng hành quân ở Lào, rất khó đọc: Họ có khuynh hướng Việt hoá các địa danh Lào; độc gia cần phải có một bản đồ nước Lào kế bên để có thể hiểu dể dàng khi tác giả nói đến các địa danh bị Việt hoá.

[8]Sách của Lưu Trọng Lân, Ký ức Trường Sơn, ở giữa hai trang 80-81 có một tấm bản đồ vẽ rất rõ về hệ thống đường ở Vĩnh Linh, Quảng Bình, và tây Trường Sơn, ngay dưới đèo Mụ Già.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 15 Tháng Giêng, 2008, 10:29:35 pm
[9]Những chi tiết về số hàng quân nhu dụng chuyển vận hàng năm nằm trong Bảng phụ lục số 6 (vận tải), có tên “Chi phí cho tấn hàng tới đích.” Bản phụ chú này không được in lại trong tuyển tập Đường về thành phố mang tên Bác (Võ Bẩm và nhiều tác giả khác). Bản phụ lục này chỉ nằm trong cuốn Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ, do Tổng cục Hậu cần xuất Bản. Một số chi tiết về sự tốn kém khi giao hàng là: trong khoảng những năm 1959-1964, BĐTS/ 559 tốn 6.707 tấn quân nhu dụng để giao 3.429 tấn cho các chiến trường (chi phí tốn kém là 195% so với hàng tới đích; tốn kém gần 2 ký để giao 1 ký). Tỉ lệ này giảm xuống 186% ( tốn 8.141 để giao 4.379 tấn), và 103% (tốn 13.850 tấn để giao 13.449 tấn) trong hai năm 1965 và 1966, khi phương tiện chuyên chở bằng xe bắt đầu thực hiện.

[10]Đây là một trong những cách căn bản để tính quân số một lực lượng của đối phương (giống như dùng gạo để tính số người). Lấy thí dụ, một tiểu đoàn CSVN có quân số là 650 người, thì căn bản phải có: 25 súng lục cho cấp chỉ huy; 362 súng trường, đại liên, trung liên, súng cối, cho lính.… Cộng 150 viên đạn cho mỗi khẩu súng cá nhân; hai lựu đạn cho mỗi người; sáu súng cối 60 ly, và 20 viên đạn cho mỗi súng cối, và những trang bị khác… đại khái như vậy. Rồi tính ra mỗi viên đạn nặng bao nhiêu (17 grams cho 1 viên đạn AK-47; lựu đạn nặng 750 grams; đạn cối 60 ly nặng 1.5 ký; đạn 80 ly nặng hơn hơn 3 ký… ). Từ đó, chúng ta biết căn bản một tiểu đoàn cần tối thiểu bao nhiêu tấn vũ khí. Nhưng, những bí số quan trọng là chúng ta phải biết một tiểu đoàn loại nào và bao nhiêu người — một tiểu đoàn của Việt cộng địa phương thì khoảng 350-400 người và trang bị ít hơn so với một tiểu đoàn chính qui CSVN với số quân 550-650. Và dĩ nhiên, một đại đội súng nặng (đại đội súng cối 60; 82 ly; phòng không 12.7 37 hay 57 ly…) thì trang bị khác hơn, nặng hơn. Trong một tài liệu tối mật có tên “A Study of Data Related to Viet Cong / North Vietnamese Army Logistics and Manpower” (tài liệu tối mật, soạn ngày 29-tháng 8, 1966; giải mật ngày 29-10-1984), cho thấy trang bị cho một tiểu đoàn CSVN cần 3.41 đến 8 tấn vũ khí căn bản. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa chúng ta chia số tấn tiếp liệu cho số nhu cầu thì có được số quân. Nhu cầu ẩm thực, cường độ tác chiến (một tháng giao chiến một ngày hay ba, bốn ngày), cấp số tiểu đoàn loại nào… sẽ thay đổi sự tính toán rất nhiều. Đây là cách tính cuối cùng, thiếu chính xác nhất, chỉ xử dụng khi không còn một tin tức tình báo nào khác hơn về đối phương. Tài liệu nói trên ước lượng với số hàng tiếp tế vào năm 1966, CSVN có số quân tác chiến tương đương 7.000 người ở Hạ Lào và đồng thời phải cung cấp tiếp liệu thêm cho 12.000 quân Pathet Lào đang làm công tác bảo vệ hành lang chung với họ.

[11] Nhiều tài liệu nói về chuyện hoàng thân Sihanouk, hay những thẩm quyền thân cận với ông, lấy 10% trên số hàng viện trợ từ Trung cộng cho CSVN. Những cuộc nói chuyện đó được ghi lại trong 77 Converations Between Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964-1967. Tác giả Nayan Chanda trong Brother Enemy cũng nói đến chuyện này. Tướng Lê Đức Anh, trong một lần nói chuyện với Mao Trạch Đông, đã phàn nàn là Sihanouk lấy 10% tổng số hàng thì nhiều quá.… Nhưng Mao trả lời là vì quân đội CSVN đóng trên đất Campuchia thì phải chịu vậy. Xin đọc chương 6, “China and the Vietnam War”, của Qiang Zhai để biết thêm những chi tiết xung quanh. Những tổ chức hậu cần hoạt động mua hàng ở thị trường Campuchia bằng tiền dollars được nhắc đến rất nhiều trong sách của các tác giả CSVN đã nêu ở trên. Một tác giả cho biết trong trong 6 năm (1964-1970), thị trường Campuchia đã cung cấp trung bình 10 ngàn tấn mỗi năm cho các lực lượng cộng sản. Đây là một số lượng tương đối lớn so với tổng số cung cấp từ đường Hồ Chí Minh. Đọc Trường Sơn (đại tá Phạm Tề), Cuộc hành trình năm ngàn ngày đêm, trang 145. Về những hoạt động kinh tài của Cộng sản Bắc Việt ở Campuchia, xin đọc một tài liệu viết sâu rộng hơn, Đặng Phong, Kinh tế Việt Nam: Thời kỳ 1955-1975, trang 575-615.

[12]Thật ra, nếu căn cứ vào những con số cung cấp trong bản phụ lục, số hàng giao tới đích là 696.177 tấn, thay gì 686.175: Ban chủ biên đã cộng sai tổng số tấn hàng giao trong năm 1972, từ con số cộng sai đó đưa đến số sai tổng cộng của 15 năm. Số cộng và số chia sai (chia sai tỉ lệ thiệt hại trung bình ở bản phụ lục “Tổn thất trên tuyến vận tải chiến lược,” trang 437, sđd; số tổn thất xe vận tải của năm 70-71 là 51.60% thay gì 41.60%. Đọc phụ lục số 1, trang 428 và so sánh) là hai thất vọng độc giả gặp nhiều lần khi đọc những bản phụ chú này. Đó là chưa kể những cột không có con số mà không có một lời giải thích nào từ ban chủ biên hay tác giả.

[13]Tác giả Nguyễn Việt Phương có nói: “Giao bạn Lào đạt 102%, Campuchia đạt 130%,” nhưng không cho biết số tấn hàng là bao nhiêu. Trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, Nguyễn Việt Phương cho biết trong 16 năm, CSVN đã cung cấp cho Pathet Lào 173.755 tấn. Nhưng con số này tại sao không nằm trong các bản thống kê thì không hiểu được.

[14]Quyển Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, xuất bản tháng 7-2004; quyển Đường về thành phố mang tên Bác (mà trong đó có bài viết của Nguyễn Việt Phương) xuất bản tháng 3-2005. Phải nói, bộ sách Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại có nhiều lỗi ấn công/ biên tập. Cái khó chịu của độc giả là tác giả viết cùng một sự kiện nhưng khác nhau ở hai nơi mà không có một lời giải thích. Nếu đọc Lịch sử bộ đội Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh, trang 342 — mà Nguyễn Việt Phương là soạn giả, theo lời giới thiệu của nhà xuất bản — rồi đọc trang 553-554 trong Đường về thành phố mang tên Bác, chúng ta thấy tác giả Nguyễn Việt Phương không còn chắc chắn về những con số ông ta đưa ra. Người viết bài này thông cảm với một tác giả 83 tuổi. Nhưng ban chủ biên/ chủ bút của nhà xuất bản phải có vai trò trong những sơ hở này — nếu đây là những sơ hở, lỗi lầm thành thật.

[15]Bài viết của tác giả Ngô Vi Thiện trong Trận quyết chiến lịch sử Xuân 1975, được xuất bản năm 1990. Đọc bài viết, chúng ta nhận thấy vài chi tiết, con số đến từ tư liệu của Tổng cục Hậu cần. Con số 1.035.000 tấn này giống với số lượng 1.030.935 tấn của tác giả Nguyễn Việt Phương. Nhưng hai con số này không thấy xuất hiện ở những thống kê chinh thức khác (e.g., thống kê của Tổng cục Hậu cần; thống kê của Bộ Tư lệnh Trường Sơn/ 559). Ấn bản 1996 của Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, trang 304 viết, “Từ khi xây dựng (1965) đến khi kết thúc (1974), đã có 4.500.000 lượt người đi lại, vận chuyển trên 1.500.000t [tấn] hàng,… Vận chuyển giúp Lào 66.354t [tấn], Campuchia 8.179 t[tấn] …” Với những chi tiết trái ngược đó, độc giả phải đặt một câu hỏi về sự chính tông của tài liệu gốc.

[16]Ở trang 601, trong Chiến tranh cách mạng Việt Nam, có bảng phụ lục cho biết tổng số hàng hậu cần (lương thực, thực phẩm, xăng dầu, hàng dân sự) và hàng kỹ thuật (vũ khí, quân nhu dụng) miền Bắc nhận từ các quốc gia khối cộng sản trong hai mươi năm là: hàng hậu cần, 1.101.346 tấn; hàng kỹ thuật, 1.261.336 tấn. Cũng theo bảng phụ lục đó, trong hai năm 1973-1975, tổng số tấn của hai loại hàng miền Bắc nhận từ nước ngoài là 124.513 tấn. Nhìn vào con số đó, rồi nhìn vào những thống kê chuyển vận do BĐTS/ 559 thực hiện, độc giả không thể không nghi ngờ về sự chính xác của thống kê. Ở cột năm 1965-1969 trong sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam, ta thấy bốn năm đó tổng số hàng hậu cần nhận được là 316.130 tấn. Nhưng theo tài liệu 77 Converations Between Chinese and Foreign Leaders on the Wars in Indochina, 1964-1967 (trang 103), trong cuộc nói chuyện ở Bắc Kinh ngày 11 tháng 4-1967, dưới sự có mặt của Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Ngô Minh Loan (đại sứ CSVN ở Bắc Kinh, thay đại sứ Trần Tử Bình, vừa chết), khi nói về vấn đề viện trợ lương thực, ông Phạm Văn Đồng nói, “… như vậy, chỉ trong năm này thôi [1967], Trung Quốc đã giúp Việt Nam tương đương 500 ngàn tấn lương thực. Sự giúp đỡ này to lớn lắm.” Và nếu chúng ta có thể tin được những gì đến từ tài liệu của Trung Cộng, khi đọc trang 136, trong China and the Vietnam War, 1950-1975, về số vũ khí viện trợ đến từ Trung Cộng trong 15 năm, thì bản thống kê trong Chiến tranh cách mạng Việt Nam trở thành vô nghĩa.

[17]Các sách trích dẫn trên dùng mét khối (m3) cùng nghĩa với tấn. Thông thường, 1 m3 bằng 1 tấn, bằng 1.000 lít. Đây là trọng lượng của nước — 1 lít bằng một ký; 1.000 lít bằng một tấn; bằng 1 m3. Tuy nhiên, nói một cách kỹ thuật thì 1 m3 dầu có 1.000 lít nhưng chỉ cân nặng 878 ký, vì tỉ trọng dầu nhẹ hơn nước. Trong bài viết này, chúng ta giả định các tác giả nói 1 tấn bằng 1.000 ký; bằng 1.000 lít; bằng 1 m3.
[18]Trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 1, trang 277-278, tác giả Nguyễn Việt Phương lại cho một chi tiết khác: Ông nói năm 1969 tuyến đường ống cung cấp tất cả 7477 tấn nhiên liệu cho các binh trạm; và năm 1971, tuyến cung cấp tất cả 18.785 tấn. Như vậy, chỉ trong hai năm, tuyến đã cung cấp tất cả hơn 26 ngàn tấn nhiên liệu, nghĩa là bằng phân nửa tổng số của hai năm 72-73. Như vậy số nhiên liệu “bằng 6,2 lần tổng số của tám năm trước” chắc chắn không phải 59 ngàn tấn như tác giả viết.
[19]Nguyên văn phần phụ chú nói về 270 ngàn m3 xăng dầu của tác giả Nguyễn Việt Phương: “Bố trí: Trung đoàn 471 vào đến Bãi Quang và đến Khâm Đức có 23 trạm bơm; 10 kho, trữ lượng 68.000m3. Trung đoàn 532 bơm vào Dakcông có 26 trạm bơm, 12 kho, trữ lượng 76.000 m3. Trung đoàn 537 bơm vào K28 Đức Lập và 50 Bù Gia Mập có 23 trạm bơm, 11 kho trữ lượng 57.000m3. Trung đoàn 592 vào đến Km 64 đường Trường Sơn có 28 trạm bơm, 12 kho, trữ lượng 60.000m3.” Cộng lại cho đúng thì chỉ có 100 trạm bơm với tổng số trữ lượng là 261 ngàn m3. Nguyễn Việt Phương, Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tâp1, trang 277-278. Trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, trang 298 tác giả nói tổng số nhiên liệu cung cấp trong 10 năm là 118.332 tấn xăng dầu. Đồng Sĩ Nguyên, trong Đường xuyên Trường Sơn, trang 346, thì nói tổng số lượng là 270 ngàn tấn.

[20]Để có một khái niệm về khoảng cách những đoạn đường trên hệ thống tiếp tế nhiên liệu đường Hồ Chí Minh, xin đọc trang 283, Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 1, trang đó có sơ lược khoảng cách những đoạn đường (từ đoạn này qua đoạn kia bao nhiêu cây số). Tuy nhiên trang sách đó in lộn: Hệ thống đường bên Trường Sơn Đông thì ghi là Trường Sơn Tây, và ngược lại. Độc giả nên để ý sự sai lộn đó.
[21]Đôi khi có những lỗi chúng ta không biệt được là lỗi ấn công hay lỗi ban chủ biên, và như vậy, gây nhiều khó khăn trong việc lượng định thống kê: Trong Chiến tranh cách mạng Việt Nam, ở hai trang 588 và 601 đều nói về tổng số hàng viện trợ CSVN nhận từ Trung Cộng và Nga Sô trong 20 năm. Nhưng trang 601 thì nói số hàng nhận trong năm 1973-1975 là 124.513 tấn, trong khi đó, ở trang 588 lại ghi là 724.512 tấn. Thêm vào đó, cả hai cột 1961-1964 và 1965-1968 đều cộng sai. Làm toán cộng sai là lỗi lầm thường xảy ra nhất trong phụ lục về thống kê của hai tác phẩm nói trên.

Nguồn: Dòng sử Việt số 4, tháng 7-9, 2007


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: rongxanh trong 17 Tháng Giêng, 2008, 01:34:57 pm
Các bác tìm cuốn Vận tải chiến lược trên đường Hồ Chí Minh mà đọc.
Rõ cả số lượng xe máy thiệt hại của Bộ đội Trường sơn trong từng năm...


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 17 Tháng Giêng, 2008, 03:47:10 pm
Tiếp kì 2

===

Những thiệt hại trên đường Hồ Chí Minh

Trong bài viết này, chúng ta tạm chấp nhận tổng số tấn hàng di chuyển trên đường Hồ Chí Minh trong 15 năm là 1.400.000 tấn; và, tổng số thiệt hại về nhân mạnh trên đường Hồ Chí Minh là 12.487 người chết và 21.802 bị thương. Những con số này được lấy từ hai cuốn Chiến tranh các mang Việt Nam và Vận tải quân sự chiến lược. Mặc dù có nhiều lỗi ấn công [1] nhưng những thống kê trong hai tác phẩm này được sắp xếp tương đối có hệ thống và được nhiều sách khác trích dẫn. Thiệt hại về vật chất là 14.540 xe vận tải và xe xây cất các loại; và 83.832 tấn hàng bị phá huỷ (trong nghĩa bị oanh tạc, bị dội bom phá huỷ) trên đường di chuyển. Sách Chiến tranh cách mạng Việt Nam tóm tắt tổng số thiệt hại trên Đường Hồ Chí Minh theo liên hệ của số tấn hàng giao đến tay người nhận như sau: “Để giao được 1.000 tấn hàng, bộ đội Trường Sơn bị tổn thất: 57 người bị thương, 21 người hy sinh, 25 xe ô tô, 143 tấn hàng bị phá huỷ.” Tổng số thiệt hại liệt kê ở trên dựa vào khoảng 600 ngàn tấn được giao. Dĩ nhiên, số thiệt hại về nhân mạng và vật chất sẽ gia tăng nếu chúng ta dựa vào con số hơn một triệu tấn vận chuyển mà hai tác giả Ngô Vi Thiện và Nguyễn Việt Phương đã nhắc qua đâu đó một cách không chính thức. Ở phần này, chúng ta thử lượng định những chi tiết về sự thiệt hại nhân mạng của BĐTS/ 559.

Những tác phẩm lược kê trên không cho độc giả biết được số dân công phục vụ trên hệ thống đường Hồ Chí Minh là bao nhiêu, và tổng số thiệt hại từ đó. Người viết, sau khi so sánh nhiều con số, nhận thấy số thiệt hại về nhân mạng chỉ nói đến lính (lính tài xế, phòng không và giao liên đường bộ/ đường thuỷ) chứ không kể đến dân công và các lực lượng thanh niên xung phong phục vụ trên đường Hồ Chí Minh. Tổng số hai lực lượng thanh niên xung phong và dân công có con số đáng kể phục vụ trên đường Hồ Chí Minh trong suốt thời gian con đường hiện hữu. Ba phụ lục số 2, 3, và 4, (trang 423-425) trong Vận tải quân sự chiến lược ghi số quân dân và các khác lực lượng yểm trợ khác nhau. Nhưng khi nói đến số thiệt hại thì sách chỉ ghi số thiệt hại của các đơn vị công binh, vận tải, cao xạ và giao liên. Người đọc thấy điều này khi nhìn phụ lục số 4, liệt kê các đơn yểm trợ như quân y, kỹ thuật, thông tin, và lính giữ kho hàng. Tổng số nhân sự của các đơn vị này lên đến hơn 15.923 người vào năm 1972. Ở phụ lục số 2, “Lực lượng qua từng năm”, ghi số quân là 100.495 người vào năm 1973. Nhưng trong hai tác phẩm của Nguyễn Việt Phương và Đồng Sĩ Nguyên, ở một vài đoạn, họ cho biết quân số trung bình của hai năm 1973-1975 là 112.720 người và năm cao nhất là 145.200 người, trong đó gần 45 ngàn người thuộc về các lực lượng yểm trợ. Tác giả Nguyễn Việt Phương liệt kê trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, số thanh niên xung phong và dân công chết là 2.115 và bị thương là 5.400. Theo sau đó, tác giả cộng vào con số đã ghi trong Vận tải quân sự chiến lược, tổng cộng thiệt hại trên toàn tuyến của lính và dân là 14.602 chết và 27.202 bị thương (nhưng ở trang 554 trong Đường về thành phố mang tên Bác, Nguyễn Việt Phương lại viết số thương vong ngược lại). Một tác phẩm khác, Chiến tranh cách mạng Việt Nam, trang 513, ghi thiệt hại của toàn tuyến là “hơn hai vạn chết và ba vạn bị thương.” Điều này cho thấy những người có thẩm quyền và nghiên cứu vẫn chưa thống nhất với nhau về một con số thiệt hại tạm gọi là khả định. Nhưng với số lượng hơn 7.500.000 quả bom và vô số đạn pháo oanh tạc xuống đường Hồ Chí Minh trong 15 năm như các sách đã viết [2] nhưng số thiệt hại nhân mạng trung bình hàng năm chỉ hơn 1.000 chết và 2.000 bị thương, độc giả sẽ hỏi: vậy, những con số đó có khả tín không? Hoặc là, dưới số lượng bom đạn đó, bộ tư lệnh BĐTS/ 559 chỉ thiệt hại 14.500 xe trên toàn tuyến trong 15 năm?

Để thấy được những kế hoạch oanh tạc mãnh liệt của không lực Hoa Kỳ trên đường Hồ Chí Minh, người viết xin phép đi xa hơn chủ đề một vài trang, nói sơ qua phương thức và các tiến trình oanh tạc của Mỹ trên các tuyến đường vận tải đường Hồ Chí Minh. Từ đó, chúng ta có thể có một khái niệm về những thiệt hại nhân mạng vật chất do không lực Mỹ gây ra và so sánh với các con số từ tài liệu của CSVN nói trên.

Từ cuối năm 1964, Hoa Kỳ đã thực hiện một số kế hoạch dội bom nhắm vào mục đích ngăn chặn chuyển vận và xâm nhập trên đường Hồ Chí Minh qua đất Lào. Kế hoạch oanh kích đầu tiên có tên là Barrel Roll, bắt đầu vào ngày 24 tháng 12 năm1964. Mục tiêu ban đầu của Barrel Roll là các đường chuyển vận tiếp tế của Cộng sản Bắc Việt cho cộng sản Pathet Lào ở miền bắc và đông bắc Lào. Đến tháng 4-1965, Barrel Roll được chia ra hai làm vùng rõ ràng để tiện việc phân chia trách nhiệm oanh tạc và điềm chỉ mục tiêu: Vùng bắc và đông bắc Lào vẫn giữ tên là Barrel Roll. Một vùng mới ở đông và đông nam (hạ) Lào được đánh dấu cho kế hoạch Steel Tiger. Như vậy, trong khi Barrel Roll nhắm vào đường tiếp tế cho cộng sản Pathet Lào ở trung và thượng Lào, Steel Tiger nhắm vào đường xâm nhập và tiếp tế của CSVN vào lãnh thổ VNCH qua ngã hạ Lào. Cuối tháng 10-1965, sau trận đụng độ mãnh liệt với quân chính quy Cộng sản Bắc Việt ở thung lũng Ia Drang, phòng tình báo của MACV (Bộ Chỉ huy viên trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Việt Nam – A Millitary Assistance Command Vietnam) ước tính Cộng sản Bắc Việt đang có khả năng đưa khoảng 4.500 quân và chừng 300 tấn quân nhu dụng/ một tháng vào lãnh thổ VNCH. Để giới hạn tối đa khả năng tiếp liệu của đối phương, Bộ Tư lệnh MACV xin phép thẩm quyền Washinton cho phép họ oanh tạc thêm một số mục tiêu mới ở hạ Lào nằm dọc theo biên giới Việt Nam. Cuối tháng 12-1965, Ban Tham mưu liên quân và Bộ Quốc phòng chấp nhận đề nghị của MACV. Vùng dội bom mới có tên là Tiger Hound, được giới hạn bởi biên giới VNCH ở phía đông và một đường thẳng chạy từ ngả ba biên giới Việt-Miên-Lào đến phía nam vĩ tuyến 17 (vùng Lang Vei-Lao Bảo) ở phiá tây [3] . Kế hoạch Tiger Hound bắt đầu vào cuối năm 1965. Đến năm 1968, đường lối chính trị của Mỹ về chiến tranh Việt Nam bắt đầu thay đổi: tháng 3, Mỹ ngưng dội bom trên lãnh thổ Bắc Việt từ vĩ tuyến 20 trở lên; tháng 11, hoàn toàn ngưng dội bom trên toàn miền Bắc. Không còn được phép dội bom những kho quân nhu dụng trên miền Bắc, bộ tư lệnh MACV và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương dồn khả năng không lực vào những vùng oanh tạc mới [4] .

Ngay từ khi Tổng thống Johnson ra lệnh ngưng dội bom miền Bắc, thẩm quyền quân sự Hoa Kỳ xúc tiến một kế hoạch dội bom khác — song song với ba kế hoạch Barrel Roll, Steel Tiger, và Tiger Hound đang áp dụng. Kế hoạch mới có tên là Commando Hunt. Vùng oanh kích của Command Hunt vẫn là những mục tiêu nằm trong hai vùng Steel Tiger và Tiger Hound, nhưng phương thức và chu kỳ dội bom hoàn toàn khác. Trước Commamdo Hunt, Hoa Kỳ dựa vào phi cơ quan sát, máy truy tần điện tử, và các toán biệt kích để chỉ điểm các mục tiêu xâm nhập, kho chứa hàng, hay các binh trạm trên đường Hồ Chí Minh. Lối đánh bom này có tính cách may rủi, nhất thời, và kết quả không bù lại tốn kém của các phi vụ. Lối đánh bom của Commando Hunt tuy cũng đúc kết từ những tin tức trên, nhưng các phi vụ chỉ dồn nỗ lực vào một số trọng điểm quan trọng: các cửa khẩu trên đường vượt biên giới qua đất Lào. Những khung trọng điểm được chọn là những con đường vượt đèo hiểm trở, hay những điểm tập trung của các đoàn xe chờ qua sông. Tại đây, mỗi mục tiêu là một khung hình chữ nhật, có chu vi dài hai cây số, rộng một cây số (tầm sát hại của một phi vụ B-52). Mỗi ngày, có khoảng từ 27 đến 33 phi vụ B-52 được giao trách nhiệm oanh tạc vào bốn khung đó. Vì những khung dội bom được chọn nằm chặn ngang những độc đạo, Cộng sản Bắc Việt không có cách nào khác hơn là phải tiếp tục sửa khúc đường đó để có thể lưu thông hoặc làm một con đường vòng để tránh khung bị oanh tạc. Tương tự, không quân Mỹ sẽ dời những khung oanh tạc đến địa điểm những con đường vòng mới khi thấy lưu lượng giao thông bị tê liệt ở khung đường cũ. Chiến dịch dội bom Commando Hunt có tất cả bảy đợt, mỗi đợt dài khoảng sáu tháng: Commando Hunt I bằt đầu 1-11-1969; đợt Commando Hunt VII kêát thúc vào 30-3-1972.

Một đợt dội bom tiêu biểu của chiến dịch Commando Hunt là đợt dội bom số V, diễn ra từ 10-10-1970 đến 30-4-1971. Trong chiến dịch này, bốn khung trọng điểm được chọn là Seng Phan (đường 128), Đèo Phu La Nhích-Ta Lê (đường 20), đường 18 (đoạn dẫn về Thà Khống-Tchepone), và đường 16 (ngay dưới vĩ tuyến 17, bên biên giới Lào). Nhìn vào bản đồ, những yết hầu trọng điểm này là những độc đạo: Một bên là núi một bên là sông (Seng Phan), hay bến sông chờ qua cầu ngầm (Phu La Nhích-Ta Lê). Còn hai đường 18 và 16 là hai con đường ngắn nhất và duy nhất để di về đường 9. Ngoài ra, cuối hai con đường này là sông lớn, có thể dùng để chuyên chở hay thả hàng hoá trôi sông xuôi nam (một lối vận tải được áp dụng rất nhiều ở những khung đường có nhiều sông). Trong chiến dịch Commando Hunt V, ngoài 27 đến 33 phi vụ B-52 một ngày, phi cơ chiến thuật (F-4, F-105, A-4, A-6, A-7) bay trung bình 300 phi vụ oanh kích. Bình thường, tất cả các phi vụ hàng ngày được chia đều cho bốn khung trọng điểm. Tuy nhiên, một đôi khi tất cả các phi vụ được dồn vào một khung nếu không ảnh và máy báo động cho thấy công binh trên tuyến đang cố gắng sửa chữa một khung đường nào đó. Một ngày ném bom tiêu biểu của Commando Hunt V xảy ra như sau: B-52 bỏ bom ba lượt, sáng, trưa và tối. Khoảng giữa những phi vụ B-52 là các phi vụ chiến thuật. Một số phi cơ này trang bị bom nổ chậm, với ngòi nổ được gài từ 2 đến 36 tiếng đồng hồ. Bom nổ chậm dùng trong khoảng giữa các phi vụ B-52 có mục đích ngăn chặn hoặc làm đình trệ các toán công binh sửa chữa cho đến khi có phi vụ B-52 kế tiếp. Ban ngày, song song với các phi vụ oanh kích là các chuyến bay thám thính, không ảnh để lượng định kết quả của các phi vụ ngày hôm trước. Thông thường, kết quả ngăn chặn lưu lượng xâm nhập có thể biết được ngay lập tức: nằm dọc và ngang các trục giao thông là những chuỗi máy truy tầm điện tử. Một chuỗi dài chừng hơn một cây số, có năm đến bảy máy báo động và thu âm được “trồng” cách nhau 200-300 mét. (Một “chuỗi” không có nghĩa là những máy báo động nằm dính chung với nhau trên một sợi dây. Chuỗi ở đây là phi cơ cắm những máy báo động này theo một số thứ tự liên tục dài từng cây số.) Từ những tín hiệu của máy báo động, kết quả ngăn chặn từ những khung oanh tạc được thẩm định mau chóng. Ngoài những phi vụ nói trên, hàng đêm còn có thêm chừng 10 phi vụ AC-130, AC-119-K (loại vận tải được biến tạo thành phi cơ không kích), dùng để săn lùng những đoàn xe vận tải lẻ, chạy thoát được từ những khung oanh tạc. Trung bình một B-52 chở được từ 26 đến 29 tấn bom (105 trái bom 500 cân anh; hay 42 bom 750 và 24 bom 500 cân anh). Các phi cơ chuyến thuật thì chở 1.5 đến 3 tấn bom. Căn cứ vào trọng tải của các phi cơ trên, một ngày bốn khung trọng điểm bị oanh tạc chừng 1.700 tấn bom, tương đương 6.800 trái bom 500 pound (cân Anh) [5] .



Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 17 Tháng Giêng, 2008, 03:47:49 pm
Cường độ dội bom trong chiến dịch Commando Hunt V tuy không bằng Commando Hunt III của mùa khô năm 1969-1970 [6] nhưng nhờ vào khái niệm đánh bom mới, cộng với kỹ thuật diện tử săn lùng ban đêm được phát triển hơn (Màn ảnh hồng ngoại tuyến gắn trên các vận tải cơ không kích AC-119K, AC-130 nhìn được xa và rõ. Một số AC-130 được gắn thêm đại bác 105 ly, ngoài đại bác 40 ly đã có.). Đợt dội bom CH V đã gây nhiều thiệt hại về nhân mạng và vật chất trên tuyến đường Hồ Chí Minh. Sách Vận tải quân sự chiến lược, phụ lục số 2 (trang 424) ghi thiệt hại của năm 1970 (Commando Hunt III) là 3.336 bị thương, 1587 chết, 1.858 xe các loại bị huỷ (xe của binh chủng vận tải cộng với xe của các binh chủng phụ thuộc). Thiệt hại năm 1971 (Commando Hunt V), là 4.617 bị thương, 2087 chết, 2.842 xe các loại bi huỷ. Hồi ký của các tác giả Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Việt Phương, Phạm Tề, hay tài liệu của BĐTS/ 559 đều nhắc đến sự thiệt hại và gian khổ mà các đơn vị trên đường Hồ Chí Minh phải chịu đựng qua hai chiến dịch dội bom Commando Hunt III và V. Các đơn vị vận tải bị thiệt hại nặng khi lần đầu đối diện với các vận tải oanh kích trang bị hồng ngoại tuyến. Bộ Tư lệnh Trường Sơn không giải quyết được lối đánh này cho đến mùa khô năm sau, khi họ xây dựng loại đường kín để di chuyển ban ngày, vô hiệu hoá đi lối truy tầm bằng hồng ngoại tuyến trang bị trên máy bay đánh đêm. Ở đây, câu hỏi của người đọc là: con số thiệt hại ghi trong Vận tải quân sư chiến lược có phản ánh một cách tương đối chân thực thiệt hại thật sự của BDDTS/ 559 trong năm 1970 hay năm 1971 không? Như đã nói ở trên, thiệt hai về nhân mạng nằm trong Phụ lục số 2 chỉ nói đến lính chứ không nói đến dân công hay thanh niên xung phong. Nhưng dù chỉ nói đến lính thôi, con số 4.617 bị thương và 2.087 tử thương của năm 1971 vẫn là quá ít.

Lý do người viết có thể khẳng định như vậy, vì có ít nhất là tám (08) binh trạm tham dự vào cuộc phòng thủ và phản công trong trận Đường 9-Nam Lào (phía VNCH gọi là hành quân Lam Sơn 719). Sự thiệt hại của tám binh trạm này - và các đơn vị phòng không đóng bảo vệ các khung đường - phải nhiều hơn những thiệt hại đã được ghi. Trận Đường 9-Nam Lào xảy ra vào hai tháng cuối của chiến dịch Commando Hunt V (đầu tháng 2 – cuối tháng 3, 1971). Theo hồi ký Đường xuyên Trường Sơn của cựu tư lệnh BĐTS/ 559 Đồng Sĩ Nguyên, từ cuối tháng 1-1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã phân định khu vực chiến đấu và trách nhiệm cho tám binh trạm. Các binh trạm đó là, 9, 12, 14, 27, 31, 32, 34, và 41 (Đồng Sĩ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn, trang 183-185). Những binh trạm này là lực lượng có cơ sở và căn cứ hay phụ trách di chuyển tiếp liệu trên những khung đường nằm trong địa bàn của cuộc hành quân. Dĩ nhiên, chúng ta không nói đến những sư đoàn chủ lực — lực lượng tác chiến chính — như sư đoàn 2, 304, 308, 320, 324, và 968, là lực lượng đương đầu chống lại ba sư đoàn của quân lực VNCH. Sự thiệt hại của sáu sư đoàn Cộng sản Bắc Việt nói trên nằm ngoài chủ đề của bài viết này. Bài viết chỉ muốn đưa một số chi tiết ra đây để suy luận về những thiệt hại của các binh trạm mà hình như Bộ Tư lệnh BĐTS/ 559 đã bỏ quên trong bảng tổng kết thiệt hại năm 1971 trên toàn tuyến đường Hồ Chí Minh của BĐTS/ 559.

Để yểm trợ cuộc hành quân Lam Sơn 719, một số lớn phi vụ của chiến dịch Commando Hunt V được thay đổi để không quân tập trung hoả lực vào vùng hành quân Lam Sơn 719. Và tám binh trạm kể tên trên, không nhiều thì ít, phải chịu phần lớn hoả lực tập trung này. Những binh trạm loại tổng kho như 9, 12, 14, 27, chỉ bị tổn thất tương đối nhưng các binh trạm 31, 32, 34, và 41 nằm ngay các mục tiêu hành quân thì không thể ước lượng được sự thiệt hại của họ. Tài liệu về cuộc hành quân Lam Sơn 719 và chiến dịch Commando Hunt V của Hoa Kỳ cho thấy những địa điểm như Na Mi, Tha Mé, Văng Mu, Thà Khống, Bản Cọ, Tà Bạt, Tà Chấp —những địa điểm nhận và giao hàng từ các đường 24, 18, 16 xuống đường 9 — bị oanh tạc dữ dội hơn hết trong suốt cuộc hành quân Lam Sơn 719. Chỉ trong thời gian gần hai tháng, trong một chu vi không hơn 300 cây số vuông (khu vực hành quân của Lam Sơn 719) đã phải hứng chịu 8.512 phi vụ oanh tạc chiến thuật, 1.358 phi vụ B-52 và 162 phi vụ săn lùng ban đêm của vận tải oanh kích. Đó là chưa kể bốn trái bom CBU loại 15.000 cân được xử dụng khi quân VNCH tấn công và triệt thoái khỏi Tchepone. Với số lượng bom đạn đó, thiệt hại về nhân sự của các binh trạm tham dự là bao nhiêu? Phía Cộng sản Bắc Vtệt chưa bao giờ công bố con số về thiệt hại; phía VNCH và Hoa Kỳ thì chỉ thông báo con số thiệt hại chung cho toàn mặt trận [7] . Cũng nên biết thêm, cùng thời gian với cuộc hành quân Lam Sơn 719, hai cuộc hành quân khác của quân VNCH ở Vùng III và quân Hoàng gia Lào ở Muong Phine, Saravane, Bản Bạc (Ban Bak, trong bản đồ), tấn công vào những binh trạm 35-37, 50-52 ở phía tây nam của đường 9. Những cuộc tấn công này gây thiệt hại không nhỏ cho các binh trạm phục vụ cho hướng đường C-4 (Đông Bắc Campuchia). Trong tất cả sách của các tác giả xuất bản ở Việt Nam đã trích, chỉ có quyển Cuộc hành trình năm ngàn ngày đêm: Đường Hồ Chí Minh của đại tá Phạm Tề, là có nói đến thiệt hại của Cộng sản Bắc Việt trong cuộc hành quân nói trên. Theo Phạm Tề, đến hết tháng 6-1971, tuyến đường Hồ Chí Minh bị thiệt hại: chết 3.500 người, bị thương 4.700, và 860 xe bị huỷ (sđd, trang 224-225) [8] .

Về số xe vận tải bị huỷ trong năm 1971, Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ cho biết trong chiến dịch Commando Hunt V, không quân đã huỷ diệt hơn 16.000 xe vận tải và xây cất đủ loại. Kết quả thiệt hại này đến từ báo cáo của các phi vụ và không ảnh hàng ngày. Nhưng theo tài liệu CSVN thì 16.000 xe là tổng số xe tuyến đường Hồ Chí Minh bị thiệt hại trong 15 năm (Phụ lục số 1 và 2, Vận tải quân sự chiến lược, trang 428-429). Chính xác hơn, số thiệt hại trong 15 năm là, 11.347 xe vận tải; 3.193 xe xây cất). Đọc hai tài liệu trái ngược như vậy, chúng ta phải tin vào tài liệu nào? Chúng ta chỉ tin vào những tài liệu nào có sự thuyết phục liên tục - có nghĩa là không phải một tài liệu này nói như vầy, tài liệu kia thì nói ngược, khi hai tài liệu đều từ cùng một nguồn. Điều chắc chắn chúng ta biết là tuyến đường Hồ Chí Minh phải có hơn 16.000 chiếc xe, bởi như thế, không quân Mỹ mới có thể huỷ diệt đến con số đó. Nhưng theo hai Phụ lục 1 và 2 nói trên, năm 1971, đường Hồ Chí Minh có tất cả là 4.108 xe vận tải và 2.293 xe xây cất - tổng cộng chỉ bằng phân nửa số xe mà Hoa Kỳ nói họ đã tiêu diệt. Theo một tài liệu xuất bản ở Hà Nội, số xe vận tải bị huỷ nhiều hơn con số bộ tư lệnh BĐTS/ 559 đã đưa ra. Quyển Lịch sử giao thông vận tải cho biết: trong 15 năm, BĐTS/ 559 đã bị thiệt hại gần 50.000 xe vận tải (NXB Giao Thông Vận Tải: Hà Nội, 1998, trang 486-488) [9] . Một tài liệu khác cho biết: mùa khô năm 1970-1971, BĐTS/ 559 có trong kho từ 23.000 đến 25.000 xe vận tải. Cũng trong năm đó, Hà Nội còn xin viện trợ thêm 9.000 xe từ Nga, và 3.000 từ Trung Cộng [10] . Để thẩm định tài liệu nào có lý, điều đầu tiên chúng ta cần xác định là năm 1971, tuyến đường Hồ Chí Minh đã vận chuyển bao nhiêu tấn hàng? Và cần bao nhiêu xe vận tải để chuyển số tấn hàng đó đến đích. Từ đó, chúng ta có thể tìm ra con số xe cần thiết tối thiểu. Năm 1971, tuyến đường Hồ Chí Minh chuyển vận tất cả 144.336 tấn. Trung bình xe hàng của tuyến chở được bốn tấn một chuyến xe. Như vậy, cần hơn 36.000 chuyến (lượt) xe để chuyển vận hơn 144.000 tấn. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy: 36 ngàn chuyến xe không đủ để chuyên chở 144 ngàn tấn trên tuyến đường Hồ Chí Minh. Chuyên chở trên tuyến đường Hồ Chí Minh được thực hiện theo từng khung, mỗi khung dài từ 50-80 km. Hàng đến mỗi khung được dỡ xuống, chuyển lên một xe khác để tiếp tục đi đến một khung đường nữa. Thí dụ như từ binh trạm 12 (đèo Mụ Già) xuống binh trạm 33/32 ở khu Tchepone (khoảng chừng 140km), thì có ít nhất là ba khung đường. Theo lối di chuyển đó, muốn giao bốn tấn hàng từ binh trạm 12 xuống binh trạm 33, phải cần đến ba chuyến xe - trong trường hợp này là phải cần ba chiếc xe khác nhau để chuyển hàng lên xuống, qua lại trên đoạn đường. Theo Nguyễn Việt Phương trong Vận tải quân sự chiến lược (Quy định hiệu suất vận tải ô tô, trang 376), một xe có trọng tải bốn tấn, chạy khung đường 54-80 km chừng một ngày, một tháng thì trung bình chạy được tám chuyến. Ở đoạn đường xa, nhiều khung đường, thì lại cần nhiều xe hơn (như từ Mụ Già xuống binh trạm 35 ở Bản Bạc để đi vào binh trạm 42 ở A Shau, đoạn đường hơn 350 km, nguy hiểm và gian nan nhất trong các đoạn đường). Lý do phải di chuyển theo khung vì: (1) tài xế mỗi xe chạy liên tục một khung để quen thuộc đoạn đường; (2) giới hạn thời gian di chuyển để giới hạn xác xuất bị khám phá; và (3) công binh kiến tạo và nguỵ trang những khung đường ngắn dể hơn khung đường dài. Lối di chuyển hàng theo từng khung tốn nhiều xe và nhiều tài xế nhưng rất hiệu nghiệm để lẫn tránh sự truy lùng 24/24 giờ của không quân Mỹ. Tóm lại, chỉ với 4.108 chiếc xe, mỗi xe chạy từ sáu đến tám chuyến một tháng, phục vụ một đoạn đường 50-80 km, một mùa vận tải là 180-200 ngày, thì BĐTS/ 559 có thể vận chuyển 144.000 tấn trong năm 1971 hay không? Người viết nghĩ BĐTS/ 559 phải cần một số xe nhiều hơn thế. Nhất là khi họ bị thiệt hại hơn 50 phần trăm tổng số xe trong năm 1971. Một chi tiết nữa liên hệ đến hệ thống chuyển vận: năm 1971, quân số của ngành ô tô (phục xe vận tải) là 14.130 người cho 4.108 xe, gia tăng khoảng 65% so với năm 1970 (8.861 người cho 2.623 xe). Ở đây, chúng ta biết quân số ô tô là 2.5 người cho mỗi xe (tài xế và thợ sửa xe). Nếu tính theo tỉ lệ 2.5 người cho mỗi xe thì năm 1971 BĐTS/ 559 có 5.652 xe vận tải. Nhưng dù với số quân xa đó, đi chuyển 144 ngàn tấn dưới dưới điều kiện oanh tạc nói trên thì khó thực hiện.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 17 Tháng Giêng, 2008, 03:49:16 pm
Qua những gì đã viết trên, chúng ta đã cố gắng đi tìm một một thống kê, một con số tương đối có thể xác nhận được, để đúc kết những hoạt động của BĐTS/ 559 trong 15, 16 năm. Nhưng như đã thấy, sự thiếu nhất quán của các tác phẩm đưa đến thất vọng cho độc giả. Hoặc là một số tài liệu về quân sự, hậu cần, chưa được giải mật và chưa được phép công bố; hoặc là những tác giả nói trên chưa thu tập đủ tất cả các tài liệu cần thiết, để trình bày vấn đề cho được thông suốt. Chúng ta đều đồng ý, soạn thảo một tài liệu có nhiều chi tiết, nhiều con số là một khó khăn. Sự sơ suất của tác giả, ban chủ biên, ấn công (người đánh máy, trong trường hợp hiện đại) là điều khó tránh được. Nhưng cùng lúc chúng ta cũng phải đồng ý là những tác phẩm được điểm ở trên có quá nhiều chi tiết khác biệt. Khác biệt đến độ trở thành mâu thuẫn với nhau. Làm sao độc giả có thể chấp nhận được số người chết trong 15 năm trên đường Hồ Chí Minh là 12.487, trong khi một báo cáo khác cho biết, chỉ ở bên tây Trường Sơn thôi, toán tìm kiếm hài cốt đã thu lượm được 10.300 xác tử sĩ. (Đồng Sĩ Nguyên, Đường xuyên Trường Sơn, trang 285) Và đây chỉ là ở phía tây tuyến đường Hồ Chí Minh, còn phía đông thì sao? Thiệt hại của BĐTS/ 559 ở đông trường sơn không thể nào dưới 2.000 người trong 15 năm. Nhất là đông Trường Sơn có những binh trạm đứng mũi chịu sào trong cuộc Tổng tấn công mùa xuân năm 1972 (Chiến dịch Quảng Trị, trong quân sử CSVN).

Thu thập tài liệu để viết thành một quyển sách là một công việc khó. Khó hơn khi những tài liệu nằm trong dạng rãi rác và không được sắp đặc một cách có hệ thống. Những sử liệu về đường Hồ Chí Minh được xuất bản nói trên đạt được mục đích là thu lượm các tài liệu vào một nơi để tiện việc tra cứu về sau. Nhưng rất tiếc nhiều chi tiết ghi lại trong một số tác phẩm không thuyết phục được lòng tin của những người nghiên cứu nghiêm túc, cẩn thận. Và đó là một điều thật đáng tiếc khi đọc những tác phẩm viết về Binh đoàn Trường Sơn và lịch sử của nó.


[1]Trong Vận tải quân sự chiến lược của Nguyễn Việt Phương, trang 186, tác giả liệt kê số lượng từng loại bom oanh tạc xuống tuyến đường Hồ Chí Minh — chính xác đến từng quả bom và trái đạn. Sách liệt kê, trong 10 năm (1965-1975) toàn tuyến đường Hồ Chí Minh bị 7.526.740 quả bom thường; 66.000 bom từ trường; 67.200 bom bi; và, 329.000 đạn rockets loại 40 đến 105 ly. Nếu liệt kê được con số như vậy thì quá chính xác. Tuy nhiên, làm sao lại có được những con số chính xác về số lượng bom đạn như trên thì tác giả không cho biết. Nhưng cũng chính những chi tiết này, khi đăng ở một tuyển tập khác (với tựa được thay đổi là “Lịch sử hình thành, phát triển tuyến vận tải quân sự chiến lược”, trang 583) thì những con số về bom đạn và phi vụ B-52 được ghi lại khác đi. Đôi chỗ sự tính toán/ tài liệu của tác giả đưa ra về số lượng bom rất khó hiểu, nếu không nói là vô lý: Ở trang 549, sách đã dẫn, tác giả cho biết năm 1969-1972 đường Hồ Chí Minh bị 528.502 phi vụ đánh 470.00 quả bom, tương đương 1.600.00 tấn bom. Năm 1973-1975, đường Hồ Chí Minh bị 58.012 phi vụ, đánh 568.000 quả bom, tương đương 5.697 tấn bom. Trừ khi đây là một lỗi ấn công, còn không, không thể nào giải thích được tại sao 470.000 quả bom thì tương đương 1 triệu 600 ngàn tấn bom, và 658.000 quả thì tương đương chỉ 5.697 tấn? Ba loại bom thông dụng nhất mà không quân VNCH và Hoa Kỳ sử dụng là 250, 500 và 750 pounds, nhân chia tới lui như thế nào đi nữa thì cũng không cho chúng ta con số 5.697 tấn đến từ 658 ngàn qủa bom. Lỗi ấn công ở đây không đáng quan tâm. Điều đáng quan tâm nhất là một chi tiết, đến từ một tác giả nhưng viết khác nhau ở hai nơi.

[2]Trong suốt cuộc chiến Việt Nam, vấn đề xin phép thẩm quyền dân sự (Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ) để ném bom ở Lào rất khó khăn và phức tạp. Mục tiêu và toạ độ dội bom phải được xác định rõ ràng với đại sứ Mỹ ở Vạn Tượng; các phi vụ phải được thông báo trước 48 tiếng. Trong kế hoạch dội bom Tiger Hound, chu vi của vùng được phép dội bom phải được phân định rõ ràng trên bản đồ để toà đại sứ Mỹ ở Vạn Tượng duyệt xét. Bộ Tư lệnh MACV đã nhiều lần phản đối với bộ Ngoại giao là với những qui luật như vậy, kế hoạch dội bom sẽ chậm trể và mất đi hiệu quả ... nhưng sự phản đối của MACV trở nên vô ích trước sự cứng rắn của các viên chức dân sự Hoa Kỳ phụ trách về Lào. Đại sứ William Sullivan là một trong những viên chức phản đối lại những kế hoạch oanh kích ở Lào mạnh nhất. Thái độ bất hợp tác của đại sứ Sullivan làm cho nhiều sĩ quan ở Bộ Tư lệnh MACV chọc ông bằng cách đổi tên Ho Chi Minh Trail (Đường Hồ Chí Minh) thành “Sullivan Trail.”
[3]Những tên gọi như Barrel Roll, Steel Tiger, Tiger Hound hay Commando Hunt vừa chỉ một kế hoạch hay chiến dịch dội bom, vừa chỉ một vùng riêng biệt có giới hạn địa lý rất rõ rệt. Lý do phải đặt tên và phân biệt ra từng vùng vì rất nhiều đơn vị không lực của quân đội Hoa Kỳ tham dự vào tất cả bốn chiến dịch này: không lực của bốn quân binh chủng: hải quân, lục quân, không quân, và thuỷ quân lục chiến. Thêm vào đó, mỗi không lực của không quân Hoa Kỳ (không lực 7 ở Việt Nam; không lực 7/13 ở Thái Lan; Không lực 8 ở đảo Guam, trong trường hợp B-52) được chỉ định một "vùng trách nhiệm" riêng. Kế hoạch Commando Hunt có tất cả bảy đợt, đánh số từ I cho đến VII. Chiến dịch mang số chẵn là chiến dịch đánh vào mùa mưa; số lẽ là chiến dịch đánh vào mùa khô. Mỗi chiến dịch kéo dài chừng sáu tháng. Chi tiết về những chiến dịch dội bom này được nhiều sách nói đến. Người viết sử dụng tài liệu giải mật đến từ Bộ Tư lệnh Không quân Hoa Kỳ và một số sách khác như: Project CHECO: Tiger Hound. Headquarters Pacific Air Force (6 September, 1966); Project CHECO: Commando Hunt V. Headquarters Seventh Air Force (May 1971); The Air War in Southeast Asia. Herman L. Gilster. Air University, 1993; và, The Air War in Indochina, Cornell University, 1972.

[4]Đọc The Air War in Indochina, trang 218-224, với một số chi tiết về trọng lượng chở bom và vũ khí trang bị của một số phi cơ điển hình trong chiến tranh Việt Nam

[5]Trong chiến dịch Commando Hunt III, không lực Mỹ bay 1400 phi vụ chiến lược và 21.000 phi vụ chiến thuật một tháng. Năm sau, ngân sách quốc phòng bị cắt giảm, chi phí chỉ cho phép CH V bay 1.000 phi vụ chiến lược và 14.000 phi vụ chiến thuật hàng tháng. Để so sánh: chiến dịch dội bom Rolling Thunder trên miền bắc, bắt đầu 3-1965, kết thúc 11-1968, trong ba năm chín tháng của chiến dịch, không lực Mỹ bay hơn 300 ngàn phi vụ, bỏ tương đương 643.000 tấn bom. Chiến dịch Commando Hunt V, bay sáu tháng, hơn 93.000 phi vụ, bỏ hơn 300.000 tấn bom. Sự khác biệt là B-52 không có tham sự vào chiến dịch Rolling Thunder. Như đã thấy B-52 trọng tải 10 đến 15 lần máy bay thường.

[6]Theo tình báo không quân Mỹ và tường trình của VNCH, thiệt hại của Cộng sản Bắc Việt trong phạm vi chiến trường Lam Sơn 719 là hơn 13.000 tử thương và hơn 500 xe vận tải bị huỷ (Project CHICO: Commando Hunt V, trang 72, 74). Bộ Tư lệnh MACV, trong một buổi họp tối mật ngày 25 tháng 3-1971, cũng báo cáo thiệt hại của Cộng sản Bắc Việt là trên 13.000 người. Nhưng đến ngày 5 tháng 6-1971, MACV nhận được tin tức tình báo mới từ các quốc gia cộng sản ở Đông Âu và Ba Lan: Tin cho biết thẩm quyền Cộng sản Bắc Việt nói số thương vong của họ trong trận Lam Sơn 719 là 16.224 người (Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes, 1968-1972, trang 635).

[7]Người điểm sách ghi chi tiết này ở đây như là một phụ chú “phụ.” Người viết không tin nhiều vào những chi tiết đến từ tác giả Phạm Tề. Nhiều chi tiết cho thấy tác giả viết ra nhưng không suy luận, hay nghe người khác kể lại mà không kiểm chứng. Thí dụ: ở trang 224 tác giả viết trong sáu tháng đầu của năm 1971 (tổng kết mùa khô 70-71), Hoa Kỳ bay 161.225 phi vụ, bỏ 8.000.000 (tám triệu) quả bom. Đây là một chi tiết vô lý cùng cực. Hay là Phạm Tề nói xe tăng Cộng sản Bắc Việt tràn vào hầm của đại tá Thọ (Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù) ở Bản Đông, khi căn cứ Bản Đông bị co cụm … Những chi tiết lệch lạc như vậy làm người đọc nghi ngờ đến những chi tiết khác.

[8]Người viết trích theo Đặng Phong, Kinh tế miền Nam Việt Nam: Thời kỳ 1955-1975, trang 547

[9]“Truck Count”, Trung Tá Henry Zeybel, USAF, đăng trong Air University Review, January-February 1983. Tài liệu này viết chi tiết về hệ thống điện tử và hoả lực trên máy bay AC-130. Theo báo cáo trong Commando Hunt V (sđd, trang 48), lối di chuyển mỗi tài xế chạy một khung làm cho tài xế quen thuộc khung đường đến độ họ có thể chạy dưới ánh trăng không cần để đèn. Máy báo động và truy tầm điễn tử của Mỹ cho thấy lưu lượng xe gia tăng theo tuần trăng: trăng càng sáng thì xe vận chuyển càng gia tăng (nhưng lưu lượng giới hạn lại chừng 3, 4 ngày trước khi trăng rằm, vì trăng rằm thì trời quá sáng).

[10]Lịch sử bộ đội Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh, trang 131. Ở đây, chỉ nói tài xế và thợ sửa xe vận tải. Các trung đoàn xe xây cất có lính công binh riêng. Lính vận tải đường sông và lính giao liên cũng hoàn toàn biệt lập nhau.

Nguồn: Dòng sử Việt số 4, tháng 7-9, 2007


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 17 Tháng Giêng, 2008, 04:06:57 pm
Các bác tìm cuốn Vận tải chiến lược trên đường Hồ Chí Minh mà đọc.
Rõ cả số lượng xe máy thiệt hại của Bộ đội Trường sơn trong từng năm...

Vâng, thì bài viết này cũng tập trung mổ xẻ các số liệu trong quyển này mà bác.

Trích dẫn
3- Nguyễn Việt Phương. Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ. Tổng cục Hậu cần, Hà Nội, 1988. Tác phẩm này xuất bản năm 1984 với tên Công tác vận tải chiến lược trên đường Hồ Chí Minh. Trong Tuyển tập Võ Bẩm, tác phẩm được rút ngắn và in lại với tựa mới, “Lịch sử hình thành, phát triển tuyến vận tải quân sự chiến lược 559 – Đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Một vài phụ lục trong sách nguyên thuỷ không được in lại trong Tuyển tập của Võ Bẩm.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: chiangshan trong 17 Tháng Giêng, 2008, 05:38:03 pm
Ông này nhiều chỗ cũng hơi cứng nhắc. Báo cáo của KQ Mỹ thì nó còn cộng cả kết quả đánh đi đánh lại nhiều lần, xe giả, pháo giả, rồi sai số trong trinh sát cũng phải có vv và vv. Rồi còn xe bị đánh cũng có thể sửa lại chạy tiếp được.

Hoặc là cái đoạn tính số hài cốt được quy tập ở tuyến tây Trường Sơn, số này có thể là gồm cả thiệt hại của những đơn vị hành quân qua tuyến, không chắc là chỉ có quân 559.

Nhưng cũng phải công nhận là số liệu của ta lung tung nhiều quá.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 17 Tháng Giêng, 2008, 06:34:53 pm
Hoặc là cái đoạn tính số hài cốt được quy tập ở tuyến tây Trường Sơn, số này có thể là gồm cả thiệt hại của những đơn vị hành quân qua tuyến, không chắc là chỉ có quân 559.

Nhưng cũng phải công nhận là số liệu của ta lung tung nhiều quá.

Một trong những cái dở của bên mình là hay cung cấp con số mà không có giải thích cụ thể về đối tượng, thời gian, phạm vi v.v. làm người đọc phải đoán rất nhiều. Có cảm giác hầu hết các tác giả ta không mấy để tâm đến phần số liệu, kiếm được cái nào đưa cái ấy, không quan tâm mấy đến việc giải thích, cụ thể hóa, hệ thống hóa, phân tích số liệu một cách đầy đủ.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: rongxanh trong 23 Tháng Giêng, 2008, 10:17:57 am
Các bác tìm cuốn Vận tải chiến lược trên đường Hồ Chí Minh mà đọc.
Rõ cả số lượng xe máy thiệt hại của Bộ đội Trường sơn trong từng năm...

Vâng, thì bài viết này cũng tập trung mổ xẻ các số liệu trong quyển này mà bác.

Trích dẫn
3- Nguyễn Việt Phương. Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ. Tổng cục Hậu cần, Hà Nội, 1988. Tác phẩm này xuất bản năm 1984 với tên Công tác vận tải chiến lược trên đường Hồ Chí Minh. Trong Tuyển tập Võ Bẩm, tác phẩm được rút ngắn và in lại với tựa mới, “Lịch sử hình thành, phát triển tuyến vận tải quân sự chiến lược 559 – Đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Một vài phụ lục trong sách nguyên thuỷ không được in lại trong Tuyển tập của Võ Bẩm.
Bác đã xem cuốn này chưa?


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 23 Tháng Giêng, 2008, 03:31:22 pm
Bác đã xem cuốn này chưa?

Dạ tôi chưa được xem ạ.

Bác có thể cho biết sách này có những thông tin cụ thể nào giải đáp những vấn đề tác giả bài viết thắc mắc được không ạ?


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: rongxanh trong 10 Tháng Hai, 2008, 11:56:51 pm
Bác đã xem cuốn này chưa?

Dạ tôi chưa được xem ạ.

Bác có thể cho biết sách này có những thông tin cụ thể nào giải đáp những vấn đề tác giả bài viết thắc mắc được không ạ?
Không rõ họ lấy nguồn từ đâu chứ con số cụ thể về xăng, dầu như sau:
Tổng hợp từ 8/1965 đến 6/1975 (Xăng):
1. Tổng nhập (chiến lợi phẩm và trên cung cấp): 384.000 tấn
2. Tổng xuất cho các đối tượng: 325.000 tấn

Tổng hợp từ 8/1965 đến 6/1975 (Dầu diezen):
1. Tổng nhập (chiến lợi phẩm và trên cung cấp): 44.000 tấn
2. Tổng xuất cho các đối tượng: 43.000 tấn

@altus: Chắc bác đã rõ?


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 12 Tháng Hai, 2008, 03:09:23 am
Không rõ họ lấy nguồn từ đâu chứ con số cụ thể về xăng, dầu như sau:
Tổng hợp từ 8/1965 đến 6/1975 (Xăng):
1. Tổng nhập (chiến lợi phẩm và trên cung cấp): 384.000 tấn
2. Tổng xuất cho các đối tượng: 325.000 tấn

Tổng hợp từ 8/1965 đến 6/1975 (Dầu diezen):
1. Tổng nhập (chiến lợi phẩm và trên cung cấp): 44.000 tấn
2. Tổng xuất cho các đối tượng: 43.000 tấn

Dạ họ có ghi rõ cả đấy ạ:
Trích dẫn
Trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, trang 298 tác giả nói tổng số nhiên liệu cung cấp trong 10 năm là 118.332 tấn xăng dầu. Đồng Sĩ Nguyên, trong Đường xuyên Trường Sơn, trang 346, thì nói tổng số lượng là 270 ngàn tấn.

Còn cái con số 5.500.000 tấn thì chắc là lỗi in thôi.

Con số của bác chép từ sách ra là của riêng 559 hay là của toàn miến Bắc ạ?


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: rongxanh trong 12 Tháng Hai, 2008, 08:59:24 am
Qua đường 559 thôi bác ạ: Vận tải chiến lược trên đường Trường Sơn


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: rongxanh trong 13 Tháng Hai, 2008, 08:04:00 am

Vâng, thì bài viết này cũng tập trung mổ xẻ các số liệu trong quyển này mà bác.

Không phải bài này tập trung mổ xẻ các số liệu trong cuốn này đâu bác ạ.
Tôi có cảm tưởng ông N.K.P chưa đọc cuốn "Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ"; các nội dung nêu trong này lấy từ 1 dạng tham khảo khác?
Cuốn "Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ" viết rất chi tiết và tuơng đối công phu (về các mốc thời gian, các số liệu thống kê, quá trình tìm kiếm tập hợp và viết nên cuốn sách này ...)


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: ChienV trong 13 Tháng Hai, 2008, 08:36:40 am
Em chưa đọc quyển này nên chỉ phỏng đóan:

- Các lượng tổng hợp trên tính không phải trên số tấn thực mà là số tấn cung cấp chuyền nhau (kiểu như đơn vị tấn-km, tấn-chặng hay tấn-trạm) nghĩa là tổng kho giao cho kho tính 1 lần, rồi kho giao xuống đơn vị tính lần nữa, đơn vị vận tải bằng người, xe... tính lần nữa, mà các số này không trùng nhau do mỗi trạm thì nhận từ nhiều nguồn, lại cấp đi nhiều nguồn khác, chỉ có thể lấy tổng sổ sách... đại khái thế.
- Trong cuốn này không rõ có đề cập đến lượng nhập từ viện trợ và nhập từ các nguồn khác (mua tại vùng địch, chiến lợi phẩm... ) không!


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: rongxanh trong 13 Tháng Hai, 2008, 10:24:59 am
Em chưa đọc quyển này nên chỉ phỏng đóan:

- Các lượng tổng hợp trên tính không phải trên số tấn thực mà là số tấn cung cấp chuyền nhau (kiểu như đơn vị tấn-km, tấn-chặng hay tấn-trạm) nghĩa là tổng kho giao cho kho tính 1 lần, rồi kho giao xuống đơn vị tính lần nữa, đơn vị vận tải bằng người, xe... tính lần nữa, mà các số này không trùng nhau do mỗi trạm thì nhận từ nhiều nguồn, lại cấp đi nhiều nguồn khác, chỉ có thể lấy tổng sổ sách... đại khái thế.
- Trong cuốn này không rõ có đề cập đến lượng nhập từ viện trợ và nhập từ các nguồn khác (mua tại vùng địch, chiến lợi phẩm... ) không!
1. Tính trên số tấn thực, cho từng năm ...
2. Có đề cập rõ số lượng nhập từ Bắc (đương nhiên là viện trợ), số lượng chiến lợi phẩm (chủ yếu năm 1975).
Nói chung là rất chi tiết.
Có lẽ tác giả bài này viết chủ yếu để phân tích những sai sót của những cuốn ra sau.


Tiêu đề: Re: Binh đoàn, binh trạm và đường đi B:
Gửi bởi: altus trong 13 Tháng Hai, 2008, 09:35:46 pm
Tôi có cảm tưởng ông N.K.P chưa đọc cuốn "Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ"; các nội dung nêu trong này lấy từ 1 dạng tham khảo khác?

Tôi thì không có cảm giác như vậy, vì thấy tác giả dẫn trích số trang, bàn đến việc bản ra sau (in chung với hai sách khác) khác các bản ra năm 84/88 thế nào... Nhưng chắc là nếu không hỏi thẳng tác giả thì cũng chẳng thể biết được... ;D

Tôi không nghĩ bài viết này có mục đích công kích một cuốn sách cụ thể nào, mà chủ yếu đề cập đến việc các số liệu trong các sách mang tính chính thống, được NXB giới thiệu là biên soạn công phu, của QĐND VN nhiều chỗ mâu thuẫn, sai sót, chưa rõ ràng chi tiết.

Tôi không có điều kiện để phối kiểm xem các chi tiết mà tác giả nêu ra có chính xác không, có chỗ nào trong các sách nguồn bị tác giả bỏ sót không, tuy nhiên tôi thấy phương pháp tiếp cận của tác giả là nghiêm túc, và toàn bộ bài viết rất đáng để tham khảo.


Tiêu đề: Đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất
Gửi bởi: van_ly_ doc_hanh trong 23 Tháng Tư, 2008, 03:06:18 pm
Bài viết này của tác giả Tuấn Phùng đã đăng trên báo Tuổi Trẻ dịp 27-7-2007. Tuy nhiên đây là bài viết chi tiết, nguyên gốc bản thảo so với 3 kỳ đăng trên báo Tuổi Trẻ. Phần lớn những nhân chứng xuất hiện trong bài viết đã được gặp, phỏng vấn trực tiếp nhằm lấy tư liệu cho bài viết.


                  HUYỀN THOẠI "ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH XUYÊN LÒNG ĐẤT"     
  “Nếu mọi người gọi đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn là một huyền thoại thì  công trình đường ống dẫn xăng dầu vượt Trường Sơn là huyền thoại trong huyền thoại đó”- Trung tướng Đồng Sĩ Ngyên- nguyên Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn đã đánh giá như vậy khi nói về công trình đường ống vượt Trường Sơn đưa xăng dầu vào chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ. Bất chấp sự dánh phá ác liệt, không sợ gian khổ, không quản hy sinh, trong vòng 6 năm ( 6-1968 đến 2-1975) những người lính xăng dầu đã làm nên một “đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất". Từng đoạn  đường ống vượt sông sâu, núi cao, len lỏi giữa đại ngàn Trường Sơn để cho xăng dầu tiếp bánh xe lăn, tiếp bước quân hành vào sát nách dinh luỹ của kẻ thù, góp phần làm nên chiến thắng. Năm tháng phôi pha, tuyến đường ống xăng dầu vượt Trường Sơn có tổng chiều dài gần 5.000km từ biên giới Việt- Trung vào Bình Phước không còn nhưng trong ký ức của những con người làm nên kỳ tích đó, câu chuyện làm đường ống xăng dầu vẫn không thể nào phai nhạt.

                          Bài 1:   TIỀN TUYẾN “KHÁT” XĂNG              
    Với dã tâm băm nát cửa ngõ đường vận chuyển hàng tiếp tế của ta cho chiến trường, không quân, hải quân  Mỹ đã  không tiếc bom, pháo đánh phá điên cuồng eo đất vùng nam khu 4 cũng như các cửa khẩu sang nước bạn Lào. Xe hàng ùn tắc, xe chở xăng không vào được, xe vận tải của Đoàn 559 ở Trường Sơn thiếu xăng kéo theo nguy cơ thiếu hàng, thiếu vũ khí, thiếu ăn ở chiến trường. Mỗi giọt xăng đưa lên phía trước phải đổi bằng mồ hôi, bằng máu. Phải tìm phương thức mới để vận chuyển xăng mới đảm bảo chiến thắng ở chiến trường. Đường ống dẫn xăng dầu vượt Trường Sơn đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
          Đổi xăng bằng máu 
        Cuối tháng 3-1968, Mỹ tuyên bố xuống thang ném bom hạn chế miền Bắc nhưng lại tăng cường ném bom nhằm"chặt đứt giao thông" ở các tỉnh khu 4 để băm nát "khu vực cán xoong" từ vĩ tuyến 19 trở vào. Từ tháng 7-1968 địch mở thêm chiến dịch Sấm rền 57 (Rolling thunder 57) ở nam khu  4 kết hợp chiến dịch Hổ thép (Steel Tiger) trên đất Lào để chặn phá các "yết hầu" trên đường chi viện của ta. Hàng chục trọng điểm bị B52 rải thảm đêm ngày. Các cửa khẩu sang Lào cứ 15 phút lại hứng một trận bom B52. Đặc biệt, ba trọng điểm phà Bến Thuỷ- Nam Đàn- Linh Cảm bị địch đánh triền miên tạo thành một “tam giác lửa” ngăn chặn vận chuyển từ miền Bắc vào. Ngã ba Đồng Lộc cũng bị ném bom cày đi xới lại tạo thành "điểm tắc", xe vận tải, xe chở xăng khó lòng qua lọt. Ngoài các xe hàng, một xe chở xăng bốc cháy không chỉ làm tắc đường mà còn tạo thành một khối lửa làm tâm điểm để máy bay Mỹ đánh huỷ diệt rộng ra xung quanh gây thiệt hại lớn.
    Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên vẫn nhớ như in những ngày “đứng ngồi không yên” vì xe không vượt qua được tuyến lửa để vào Trường Sơn. “Lúc này ở Trường Sơn, gần nửa tháng Đoàn 559 không còn xăng cho cơ giới hoạt động, kế hoạch vận tải cho mùa khô có nguy cơ bị trì hoãn. Có lúc cả ngàn xe vận tải nằm chờ. Cán bộ như ngồi trên đống lửa, mình tôi mỗi đêm đốt hết 4 bao thuốc lá Điện Biên ”. Vị tướng già ngậm ngùi nhớ những ngày bộ đội thiếu thốn đủ thứ. “Xăng cạn nên chỉ dành cho cấp cứu, cấp phát khi có lệnh của binh trạm trưởng trở lên. Thiếu xăng nên đạn, lương thực, quân nhu không vào được chiến trường. Thiếu gạo, thiếu muối,  khẩu phần ăn của chiến sĩ chỉ còn 4 lạng gạo/ngày có khi chỉ còn 2 lạng…"
      Lúc này, ở phía trong tam giác lửa, Binh trạm 12 nhận lệnh phải bằng mọi giá đưa nốt số xăng dầu còn lại vượt Trường Sơn giao cho Đoàn 559. Tuy nhiên, tại cửa khẩu binh trạm 12 (Tuyên Hoá, Quảng Bình) đoạn ngã ba Khe Ve đến đèo La Trọng bị bom đạn làm đất đá trên núi trút xuống tạo thành một đỉnh lầy hàng km. Đã có 8 chiến sĩ cụt mất bàn chân do các loại mìn lá, mìn gíp…lẫn trong bãi lầy khi cõng hàng qua đó. Lực lượng công binh phải dùng mìn định hướng, bộc phá nhằm thổi bay bùn đất nhưng tốn hàng tấn thuốc nổ mà bãi lầy vẫn không di chuyển, xe không thể qua. Binh trạm phải bơm xăng vào phi 200 lít rồi cho 4 chiến sĩ khiêng qua bãi lầy. Nhưng ba tốp chiến sĩ (12 người) suốt 1 ngày chỉ khiêng được 15 phuy. Ròng rã 2 ngày, binh trạm giao đủ 2 xe xăng cho đoàn 559 nhưng tổn thất nặng nề: một chiến sĩ trượt chân rớt xuống vực, hai chiến sĩ trúng mìn hy sinh. Không chịu khuất phục, cả binh trạm tiến hành gùi xăng vượt bùn. Xăng được bọc trong 4.000 túi nilon (20lit/túi) rồi cho vào balô để từng người cõng qua trọng điểm. Sau một ngày cõng xăng chân bì bõm lội bùn, đầu hứng đạn chịu bom, 500 chiến sĩ cũng chỉ vận chuyển được 10m3 xăng (đủ 2 xe xitec) nhưng 40 chiến sĩ đã bị rộp lưng, bỏng da vì xăng làm giòn túi nilông thấm qua ba lô ướt đẫm cả áo, ngấm vào da thịt.
    “Một số chiến sĩ gùi xăng bị bỏng rộp da quá nặng, nhiễm độc chì nên đã hi sinh. Vì vậy Binh trạm trưởng Nguyễn Đàm đã bàn với chúng tôi làm đường ống dẫn xăng qua núi”- Đại tá Lưu Vĩnh Cường (nguyên kỹ sư xây dựng kho chứa xăng) cho biết: về đường ống tự tạo "đặc biệt" ra đời trong lúc đó. “Tôn cuốn, các đoạn ống cao su nối với nhau vẫn thiếu 100m nên chúng tôi dùng ống lồ ô khoét rỗng nối vào. Máy bơm đẩy xăng từ sườn phía bắc theo "đường ống" lên bể chứa  (làm bằng phi 200 lít đặt trên đỉnh đèo) rồi cho xăng tự chảy xuống. Trong vòng hai tháng,"đường ống" này đưa được khá nhiều xăng vào phía trong nhưng luôn xảy ra trục trặc vì sau một tuần những đoạn lồ ô bị xăng làm teo tóp lại làm trật điểm nối khiến xăng thất thoát nhiều.
     Cũng trong thời gian này, Binh trạm 14 cũng không thể đưa hàng và xăng vào chiến trường. Ngoài các đoạn đường hiểm yếu, cửa khẩu Trà Ang (km 12 và km 16 đường 20) mỗi ngày hứng từ 30-40 trận bom khiến đường đứt đoạn, xe không thể qua. Binh trạm trưởng Hoàng Trá kể lại "Trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, tôi nhận được mật lệnh của Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên: Nếu Binh trạm 14 không tiếp xăng vào, sẽ có hàng vạn bộ đội đói, chết”. Vì vậy, Binh trạm đã kết các phuy xăng thành bè để thả xuôi sông Nậy, chống ngược sông Son. Nhưng bè xăng trúng thuỷ lôi, xăng và máu chiến sĩ loang lổ khắp sông, ba ngày sau vẫn chưa tìm vớt hết thi hài liệt sĩ. Các tổ chuyển tải được lập để kéo từng phuy xăng ngược suối Trà Ang. Đêm đầu, địch ném bom trúng hai phuy xăng khiến ngọn lửa trùm lên cả đoạn suối chụp xuống đội quân chuyển tải, 20 phuy xăng được kéo qua trọng điểm nhưng có 9 chiến sĩ hy sinh. Đêm  thứ hai kéo được 30 phuy lại thêm 29 người ngã xuống lòng khe. Nước suối Trà Ang thêm một lần đượm máu và xăng…
     Phải làm đường ống
     Ở độ tuổi 84, Đại tá Phan Tử Quang (nguyên Cục trưởng Cục xăng dầu đầu tiên của quân đội- Người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống) vẫn nhớ rõ nhiệm vụ mang tính lịch sử từ Quân uỷ TƯ giao phó cho Cục Xăng dầu vừa mới thành lập: làm đường ống vượt Trường Sơn.
    "Theo đề xuất của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện trong chuyến thăm Liên Xô cùng phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, bạn đã viện trợ 200km đường ống dã chiến cùng 20 máy bơm xăng. Năm 1967, ống và máy bơm được nhận về và nhiều phương án được đưa ra: Lắp tuyến đường ống từ cảng Hải Phòng nối kho xăng Đức Giang (Hà Nội) để nhận xăng dầu bơm từ tàu biển vào; dùng đường ống tiếp nhận xăng dầu ở tàu hoả bơm từ vào các khu chứa xăng dầu…? Nhưng sau cuộc họp Quân uỷ TƯ anh Đinh Đức Thiện gọi các cán bộ trong Cục lên phổ biến: Theo nhận định của Quân uỷ TƯ địch sẽ đánh phá ác liệt các cửa khẩu của hậu phương vận chuyển hàng vào cho Đoàn 559. Quân uỷ TƯ đã tính các giải pháp để tạo chân hàng sâu cho Bộ Tư lệnh 559 nên đã đồng ý cho chúng ta đưa đường ống vào làm tuyến từ Khe Ve vượt đèo Mụ Giạ (Quảng Bình) xuyên qua tây Trường Sơn xuống Lùm Bùm (Lào) để tiếp cận đường 9 tạo điều kiện thuận lợi cho Đoàn 559 vận tải vào Nam"
     "Lúc này,  số anh em hiểu biết về đường ống được đi học ở Liên Xô, Trung Quốc về rất ít nên phải đi xin thêm các cán bộ, kỹ sư của các bộ, các khu công nghiệp, giáo viên dạy xăng dầu ở trường sĩ quan Hậu cần, các  kỹ sư vừa ra trường,sinh viên tốt nghiệp các trường đại học Bách Khoa, Xây dựng, Mỏ địa chất, Thuỷ lợi… Cùng lúc đó, Liên Xô cử hai chuyên gia  qua giúp huấn luyện lắp ráp và sử dụng đường ống dã chiến, tôi và anh Nguyễn Hữu Lê- chính uỷ đầu tiên của Cục xăng dầu-  tổ chức ngay cho anh em huấn luyện  tại Phú Xuyên (Hà Tây)".
      Ngày 12-4-1968, 12 cán bộ, chiến sỹ của đoàn khảo sát tuyến đường từ Khe Ve theo đường 12 qua đèo Mụ Giạ sang Lùm Bùm do đại uý Trần Xanh (đang là Phó phòng xăng dầu) làm trưởng đoàn lên đường làm nhiệm vụ.
        "Nhưng lúc đó các xe chở xăng không thể vượt qua được "Tam giác lửa" để chuyển cho đoàn 559. Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện cử tôi sang báo cáo tình hình với đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Sau khi nghe báo cáo, đại tướng chỉ thị: Phải đảm bảo xăng dầu cho đoàn 559 hoạt động. Đồng ý với phương án của các anh,  trước mắt phải làm ngay đường ống vượt các trọng điểm đánh phá của địch nhưng sau đó phải làm ngay đường ống vượt Trường Sơn vào càng sâu càng tốt"
         Vì vậy, đội khảo sát thứ 2 do Hoàng Ngọc Minh dẫn đầu  tiếp tục đi khảo sát từ Thiệu Dương (Thanh Hoá) vào Nam Đàn, Linh Cảm qua Hương Khê (Hà Tĩnh) vào giáp đoạn đoàn của Trần Xanh đang khảo sát. Công trường 18  được thành lập do Mai Trọng Phước (đang là thiếu tá Chủ nhiệm Khoa xăng xe vận tải của trường Sĩ quan Hậu cần, sau này là Cục trưởng Cục xăng dầu) làm đoàn trưởng, thiếu tá Hoàng Sùng làm chính uỷ chuẩn bị vào Nghệ An làm đường ống vượt “Tam giác lửa” (công trình X42).   


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất
Gửi bởi: van_ly_ doc_hanh trong 23 Tháng Tư, 2008, 03:07:22 pm
                   Bài 2:   ĐƯỜNG ỐNG VƯỢT QUA "TAM GIÁC LỬA"       
  Khởi đầu từ sông Lam (Nghệ An) để vượt qua “Tam giác lửa” đường ống tiếp tục chui sông, vượt núi dẫn xăng qua các trọng điểm đến với Trường Sơn. Từ 42km đường ống ban đầu, hơn 8 tháng sau lần đầu tiên dòng xăng vượt Trường Sơn được bơm đồng thời trên toàn tuyến dài 350 km  km từ Vinh đến Ka Vat (Lào ). Trường Sơn đã hết khát xăng         
          Kéo ống vượt sông   
        "Đêm 12-6-1968 hơn 400 người của Công trường 18 (trong đó có 240 cán bộ, công nhân của Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Thuỷ lợi, Công ty gang thép Thái Nguyên, công nhân xây dựng khu nam Hà Nội) rời Hà Nội hành quân vào Nam Đàn. Hành quân cấp tốc nhưng hết sức bí mật, đi vào tuyến lửa nhưng gia đình và đơn vị cũ không được biết" - Đại tá Mai Trọng Phước bồi hồi nhớ lại ngày lên đường làm nhiệm vụ.
          Theo đại tá Mai Trọng Phước ngoài nhân lực, thiết bị, tài liệu quý giá nhất của đoàn chỉ có hai quyển sách về đường ống xăng dầu của Liên Xô xuất bản. Mặc dù vậy, ngày 15-6-1968 những ký hiệu của đoạn đường ống đầu tiên đã được vạch ra trên tấm bản đồ Nam Đàn- Đức Thọ- Can Lộc. Tuy nhiên, một vấn đề mới nảy sinh khi hai chuyên gia Liên Xô vì lý do khách quan đã không vào giúp đỡ trực tiếp về mặt kỹ thuật được. Nhiều ý kiến tranh luận đã nổ ra  khi lực lượng thi công một công trình kỹ thuật mỏng, phụ kiện còn thiếu lại bị địch đánh phá suốt đêm ngày nên rất khó kéo ống qua sông. Lúc đó, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện yêu cầu nếu cần sẽ đưa về làm thử vượt sông Hồng trước rồi mới đưa vào làm vượt sông Lam. "Cuộc thảo luận đi đến thống nhất: không có chuyên gia ta cũng cứ làm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm từ thực tiễn để học chứ không đưa về Hà Nội làm thử. Thứ hai là người dân ven sông Lam nói vớí chúng tôi: Bây giờ nước cạn các chú không làm thì một tháng sau nước lên đò qua còn khó. Vì vậy, toàn công trường quyết tâm đưa ống vượt sông trong mùa khô".
      Khúc sông Lam nằm giữa bến đò Vạn Rú (xã Nam Đông, nay là Khánh Sơn, Nam Đàn) cách trọng điểm Rú Trét 500m (còn gọi là Rú Chết do địch đánh phá quá ác liệt) được chọn làm điểm thi công tuyến đường ống đầu tiên. "Vị trí này vì nó rất gần trọng điểm nên địch không thể ngờ mình dám thi công. Chúng tập trung đánh phá con đường chiến lược 15 độc đạo trên Rú Trét và phà Nam Đàn nên không để ý đến việc kéo ống". Đúng 21g, hiệu lệnh vượt sông bắt đầu. Mai Trọng Phước chỉ huy lực lượng công trường 18 cùng dân quân xã Nam Đông kéo ống phía bờ nam (có thêm chiếc xe GAT 69). Phía bờ bắc, lực lượng do Trần Xanh chỉ huy nối  3 ống vào nhau, đầu ống lắp cút chữ T để buộc dây.
     Những chiếc ống đang nhích dần bỗng nhiên cả đoàn người khựng lại. Chiếc GAT 69 tăng ga cũng chẳng làm đoạn ống nhúc nhích. “Nhiều người lộ vẻ thất vọng ... Lại chụm đầu bàn bạc. Hai thợ lặn được cử xuống kiểm tra cho biết đầu ống mắc vào đá.”. Cuối cùng, hai chiếc thuyền được điều đến kèm hai bên nâng đầu ống ngóc lên để tiếp tục kéo. Đển 5g sáng ngày 23-6-1968, 500m đường ống đầu tiên đã vượt sông an toàn. Từ đây, đường ống tiếp tục vượt sông La (Hà Tĩnh) vào Nga Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh). Ngày 10-8-1968 tuyến đường ống  42 km  vượt “Tam giác lửa” hoàn thành. Dòng xăng từ kho N1 (Nam Thanh, Nam Đàn)  bơm vào kho N2 (Nga Lộc). Chai xăng đầu tiên của dòng xăng vượt “Tam giác lửa” được chuyển ra Tổng cục Hậu cần báo cáo lên Chính phủ.
        Một kỷ niệm đáng nhớ của cán bộ, chiến sĩ làm tuyến đường ống này là quá trình đào hào đặt ống đều phải làm đêm để che mắt máy bay địch nên hào lệch rất khó chôn ống, tiến độ thi công bị chậm. “Chúng tôi thấy người dân vẫn làm đồng bình thường mà không bị máy bay  ném bom. Khi hỏi, bà con cho biết là địch rải truyền đơn bảo dân cứ làm ruộng bình thường, đừng cho bộ đội vào thì nó không đánh. Vì vậy, bộ đội cũng mặc áo tơi, đội nón làm nông dân đào rãnh qua đồng ruộng ban ngày, tối chôn ống. Để bảo đảm bí mật chúng tôi thông báo với bà con là đặt ống làm thuỷ lợi dẫn nước sông vào chống hạn cho đồng ruộng phía trong”  Ngoài ra, ban ngày các chiến sĩ  nhờ người dân dùng trâu kéo cày theo tuyến để tạo rãnh sâu để đêm đến đào hào chôn ống.
        Dòng xăng vượt Trường Sơn
    Vượt “Tam giác lửa”  thành công, một bộ phận của  Công trường 18 tiếp tục dẫn ống vào Hương Khê (Hà Tĩnh) hướng tới Khe Ve (Quảng Bình). Tuy nhiên, lúc này không lực Mỹ lại tăng cường đánh phá các của khẩu từ Quảng Bình sang Lào, đặc biệt là các trọng điểm cua chữ A, Ta Lê, Phu-la–nhic… “ Tổng cục Hậu cần yêu cầu thi công nhanh đoạn đường ống vượt đèo Mụ Giạ sang Na Tông (Khăm Muộn- Lào) để đảm bảo xăng cho chiến dịch vận tải nước rút của Đoàn 559. Chúng tôi bàn giao phần việc đang làm cho bộ phận khác, khẩn trương vào Quảng Bình để làm đoạn đường ống từ Cổng Trời vượt qua đèo Mụ Giạ xuống Na Tông”- đại tá Mai Trọng Phước cho biết.
   Giữa tháng 12-1968 tuyến ống hoàn thành, kho Na Tông (500m3) được xây dựng xong nhưng lúc vận hành thử rửa đường ống bằng nước lại không bơm lên được đỉnh đèo Mụ Giạ cao 700m. “Lúc đó không có kinh nghiệm nên đặt hai máy bơm cùng một chỗ. Đến lúc tách 2 máy để bơm nối tiếp thì bơm được lên đỉnh đèo. Nhưng dòng nước dội từ đỉnh đèo xuống đã làm vỡ ống đặt dưới chân núi vì áp suất quá cao. Sau khi lắp van điều chỉnh áp suất, cho đường ống chạy thẳng qua trạm tiếp nhận một đoạn để giảm áp suất xuống còn 5kg/cm2 sự cố này được khắc phục”.
     Vượt Cổng Trời, Mụ Giạ thành công, kỹ sư khảo sát Nguyễn Tráng đọc những vần thơ mới  ra đời đầy cảm khái:
          Có ai dám phá Cổng Trời
       Để cho nước chảy ngược đồi lên non
         Trải qua sông cạn đá mòn
      Cổng Trời cửa khẩu vẫn còn trơ trơ
        Một phen sấm sét bất ngờ
     Đội quân đường ống bất ngờ tiến công…
        Cuối tháng 12-1969,  đường ống đang vận hành bơm thử rửa nước vào kho Na Tông thì bất ngờ từng loạt bom từ B52 trút xuống. Vệt bom cắt ngang trọng điểm 050 đã làm vỡ đường ống. Những ngày sau B52 tiếp tục đánh phá đêm ngày đoạn đường ôtô và kho hàng của Đoàn 559 tại đây. Đơn vị công binh bạt hàng trăm khối đá tạo thành đường hào 10km để chôn ống nhưng bom đạn vẫn bóc từng lớp núi đá nghiền thành lớp bột dày. “Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện gọi tôi ra Hà Nội báo cáo tình hình. Cuối cùng một tuyến đường tránh được làm cách điểm bị đánh chừng 1 km. Nhưng chúng tôi vẫn phải khắc phục như thật trên tuyến bị địch đánh phá để đánh lừa địch. Lúc nào bị đánh thì đốt các phuy xăng dầu cho chúng bâu lại thả bom để tuyến tránh vận hành. Vì vậy, xăng đã kịp vào kho Na Tông phục vụ đợt vận tải đột kích thứ nhất của đoàn 559.  Đến đêm giao thừa năm Kỷ Dậu xăng vẫn còn đầy kho để chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo”…
    Ngày 3-3-1969 tuyến đường ống đầu tiên vượt Trường Sơn dài 350 km đã nối thông từ Vinh- Cổng Trời- Na Tông tới kho Ka Vát (Lào). Sáu ngày sau, bốn tiểu đoàn đường ống lần đầu tiên đã vận hành thông suốt dòng xăng từ miền Bắc đến Ka Vát đảm bảo xăng dầu kịp thời cho 5.000 xe của đoàn 559 tiếp tục đợt vận tải đột kích thứ hai mùa khô 1968-1969. Từ đây,  xe chở xăng dầu của các binh trạm không phải qua trọng điểm để lấy xăng nữa. “Ở tuyến đường ống đầu tiên, chúng ta có được kinh nghiệm vượt sông, vượt núi. Đây là những kinh nghiệm quý báu để thi công những tuyến sau này thuận lợi hơn”- Đại tá Phan Tử Quang cho biết.

-   Theo đại tá Mai Trọng Phước, đường ống dã chiến của Liên Xô chỉ sử dụng trong từng chiến dịch để nối ống bơm từ hậu phương của chiến dịch đến mặt trận trong  khoảng cách 200km trở lại. Sau đó thu hồi phục vụ chiến dịch khác. Nhưng chúng ta đã sử dụng đường ống dã chiến để làm thành tuyến đường ống chiến lược liên hoàn. Việc này chưa được sử dụng trong lịch sử chiến tranh.
 - Để nguỵ trang, đường ống, trạm bơm và các kho được chôn ngầm hoặc làm trong hang đá. Khi vượt sông, đường ống đi ngầm nhưng có những đoạn sông, suống nhiều đá ngầm, dòng chảy mạnh phải làm cầu treo ống (sông Sêrêpôc) Giữa các đoạn ống, bể kho có van khoá để tránh thất thoát khi bị đánh hỏng. Kho được xây ở các vị trí cao để dẫn xăng tự chảy  ra các bãi cấp phát (cách 1 -2km). Kỹ sư Phan Văn Hợi cho biết, sau khi xây dựng xong kho Đức Trường (Đức Thọ- Hà Tĩnh) hai tốp máy bay F4 đã đến ném bom (do cỏ ghép nguỵ trang bị chết nên nhìn rõ sơ đồ kho từ trên cao). Các đoạn ống, bể sắt bị đánh bật lên mặt đất sau 2 đợt bom nhưng không cháy. Chỉ huy công trường 18 quyết định để nguyên hiện trạng, không cần phải nguỵ trang nữa. Từ đó cho đến hết cuộc kháng chiến  kho này vẫn vận hành tốt nhưng không bị đánh lần nào nữa.
                     
                 


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất
Gửi bởi: van_ly_ doc_hanh trong 23 Tháng Tư, 2008, 03:09:08 pm
Bài 3: KHUẤT PHỤC THIÊN NHIÊN, CHỐNG GIẶC THÙ 
       Theo kế hoạch, đường ống từ Ka Vat sẽ đi đến Lùm Bùm vào đường 9 nhưng đây là con đường vòng cung có cự ly xa. Vì vậy, Tổng cục Hậu cần yêu cầu làm đường ống từ Long Đại (Quảng Bình) theo đường 18 vòng sang Lào để xuống đường 9. Ngoài những khó khăn do thiên nhiên gây ra, bộ đội đường ống phải chống phá sự đánh phá khốc liệt chưa từng thấy của kẻ thù. Để bảo vệ đường ống, mồ hôi, máu của các chiến sĩ  phải đổ nhiều hơn.
      Vượt lên khó khăn
     Theo Đại tá Mai Trọng Phước phương án làm đường ống xuyên từ phía Đông sang Tây Trường Sơn theo trục đường ngang thứ 5 (đường 18) được tiến hành theo hướng từ Long Đại vào Cẩm Ly (Lệ Thuỷ, Quảng Bình) rồi vượt các đèo cao 400m, 700m, 900m đến bản Ra Mai gần sông Sê Băng Hiêng (Lào) đi tiếp vào Bản Cò (Xanavakhet- Lào) xuống đường 9.
    Tuy nhiên, sau một thời gian vận hành được được 200 tấn xăng vào kho Ra Mai cấp phát cho xe vận chuyển và thả phuy theo sông cho Binh trạm 9, ngày 6- 9-1969  địch dùng B52 rải thảm cắt ngang tuyến ống trên suối Ra Vơ làm lửa bùng cháy cả hai bên suối rồi đánh ngược theo tuyến ống 3km dọc suối vào kho Ra Mai. Cả khu rừng nguyên sinh rộng hàng trăm ha bị san thành bình địa. Kho bị cháy, phần lớn bể chứa và tuyến đường ống bị tàn phá nặng nề. Một số chiến sĩ của tiểu đoàn 668 hy sinh, lực lượng của tiểu đoàn 337 đang nối nhau vác ống cũng bị B52 đánh vào đội hình làm hơn 70 chiến sĩ hy sinh và bị thương.
      “Tuyến đi Ra Mai không khắc phục được, tôi bàn với anh Phan Tử Quang là chỉ còn cách làm theo phương án 2 đi từ đỉnh 900m vượt qua 1.001m để vào Bản Cò. Sẽ gặp nhiều khó khăn khi thi công nhưng có rừng rậm, núi cao để gây bất ngờ cho địch”- Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên cho biết. Thế nhưng, thách thức lớn nhất là địa hình quá hiểm trở nên không thể đưa máy bơm (nặng 2,8 tấn) vào chân đỉnh 1.001m để bơm xăng vượt qua. Để khảo sát được tuyến này một số chiến sĩ của đội khảo sát đã hy sinh vì bom dội, vì trượt chân xuống vực,
    Thiếu tướng Hồ Sĩ Hậu, Cục trưởng Cục kinh tế Bộ Quốc phòng (nguyên kỹ sư xây dựng đường ống) kể lại: “Để vượt qua  từ đỉnh 900m qua đỉnh 1.001 khi không đưa được máy bơm vào chân đèo 1.001m, chúng tôi phải bỏ van điều chỉnh áp suất ở đoạn ống đổ xuống chân đèo 900m. Vì vậy, điểm sâu nhất của đường ống giữa đỉnh 900m và 1.001m đạt áp suất rất cao (khoảng 30-35 kg/cm2) gần với giới hạn cho phép của đường ống. Với áp suất đó, dòng xăng từ đỉnh 900m đổ xuống đã vượt qua được đỉnh 1.001m vị trí có bình độ khoảng 850m”.
       Đúng ngày 22-12-1969, lễ khánh thành tuyến đường ống xăng dầu từ kho K200 (km 21, đườgn 18) vào kho K5 (nam Bản Cò-200m3 ) được tiến hành sau gần 10 tháng thi công. Trong thời khắc thiêng liêng này, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên xúc động nói: “Hôm nay chúng ta đang chứng kiến một sự kiện có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đoàn 559 đưa vào vận hành đoạn đầu tuyến đường ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Với sự kiện này, bộ đội Trường Sơn có thêm một phương thức vận tải xăng dầu mới, hiện đại, một binh chủng mới. Từ nay, chúng ta cơ bản khắc phục được tổn thất lớn về xăng dầu do phải sử dụng ô tô chuyển bằng phuy, hoặc xi-téc. Đây là một bước ngoặt quyết định, bảo đảm vận tải hàng hoá và cơ động binh chủng kỹ thuật quy mô lớn”. Sau buổi lễ, mọi người tận mắt chứng kiến một công trình đặc biệt, bốn vòi cùng lúc tiếp xăng cho một tiểu đoàn xe chỉ mất một giờ rưỡi, nếu cấp phát qua phuy hoặc xi- téc như trước đây phải mất hơn ba giờ.
      Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại thời khắc đó: “Tôi như thấy qua dòng xăng tuôn chảy, bóng dáng hàng trăm chiến sĩ đang vượt núi, băng sông gùi cõng những ba lô xăng, can xăng năm nào! Chỉ những người trong cuộc, hoặc chứng kiến những tháng ngày đắng cay, cơ cực, khi mà một giọt xăng vào tới chiến trường được đổi bằng cả bát mồ hôi, thậm chí bằng máu, mới ý thức được tầm thế lớn lao của sự kiện đưa đường ống xăng dầu Trường Sơn vào vận hành. Dòng xăng dầu theo tuyến ống vào tới Sê Pôn cung cấp trực tiếp cho Binh trạm 32 và một số binh trạm khác là một sự kiện lớn”
     Bám đường ống, đánh địch   
 Để đường ống được vận hành thông suốt, bộ đội đường ống phải hàng ngày, hàng giờ đấu trí, đấu sức với địch. Đại tá Trần Đình Bảo (chính trị viên tiểu đoàn 668) vẫn không bao giờ quên những ngày đối phó với địch ở đoạn đường ống đi từ kho K4 (trong hang Cọp Đen) đến K5 (Bản Cò). Đoạn đường ống nằm trong đoạn đường dài 3 km rất hẹp vừa là đường ôtô, đường sông kẹp giữa hai dãy núi cao là Pha Băng Nưa và Cọp Đen (tỉnh Khăm Muộn) bị địch tập trung đánh triền miên. “Chỉ trong tháng 11-1970 đã có 387 lần B52 rải thảm, 91 lần tuyến ống bị đánh trúng, hố bom chồng lên hố bom, không thể vận hành được. Trong 5 tháng phải thay thế 1.318 ống. Vì vậy, phải làm đường tránh đưa ống vượt từ bờ tây sông Sê Băng Hiêng sang bờ đông, đi theo bãi trống dọc sông 2km rồi vượt sông trở về bờ tây đến kho K5”.
       Muốn vượt qua bãi trống dày đặc bom bi, bom từ trường… đại đội 4 của tiểu đoàn 668 phải lập các tổ rà phá bom mìn. Ngoài tổ của chiến sĩ Nguyễn Văn Hà rà phá được 27 quả bom, tổ của chiến sỹ Lương Văn Định ở đại đội 2 đến chi viện rà phá được 36 quả nhưng còn  một quả bom từ trường nằm sâu dưới lòng đất, đánh bộc phá không nổ. Định xung phong vác đường ống dài 6m đi trinh sát thử nghiệm nhưng được 500m thì bom nổ hất tung người lên làm giập nát phần hông và 2 chân.…
      Trong chiến dịch đường 9–Nam Lào đập lại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch (đầu năm 1971), tuyến đường ống dài 40 km chạy qua đường 9 nằm trong vùng tâm của chiến dịch. “Khi quân địch đổ quân xuống Bản Đông và các điểm cao cũng là lúc tiểu đoàn đường ống 968 bơm vận hành xăng cho chiến dịch. Lực lượng tiểu đoàn đóng cài răng lược với địch nên vừa vận hành vừa phối hợp với bộ binh sư đoàn 2 (Quân khu 5) đánh địch giữ tuyến. Cả tiểu đoàn gồm 450 cán bộ, chiến sĩ phải căng dọc giữ ống theo chiều dài của tuyến.”- Đại tá Hà Khắc Thuần (nguyên tham mưu tiểu đoàn 968 lúc bấy giờ) cho biết.
    “Cả đại đội có 76 người nhưng được giao giữ bằng được 24 km đường ống và 1 trạm bơm cùng đường dây thông tin từ bắc đường 9 về Bản Đông: Dù mất người nhưng không được để dòng xăng và thông tin bị tắc”- Thiếu tá Nguyễn Thọ Sĩ, nguyên đại đội trưởng đại đội 6, tiểu đoàn 968 kể lại những ngày chiến đấu với địch đổ quân xuống các cao điểm án ngữ cho bộ binh của chúng xuống Bản Đông. “Chúng ở trên đỉnh cao điểm, ta ở dưới giữ ống và trạm bơm. Giằng co nhau cả tháng trời. Đến ngày 31-1-1971, hai tiểu đoàn địch tràn vào chân đỉnh 660 nhưng 21 người  (thuộc quân số đại đội 6, trạm bơm, 1 tiểu đội của sư đoàn 2) đã bám vào 120m hào đánh bật 5 cuộc tấn công của chúng. Sau khi phá 24 bể cao su chúng rút lên đỉnh 723 nhưng để lại nhiều xác chết và 8 tên bị bắt sống”. Trong trận đánh này, đại đội trưởng đại đội 3 Nông Văn Hoàng khi dẫn đơn vị đi nối thông tuyến ống đã đánh lui nhiều đợt phản công của địch, dù bị thương nặng vẫn chỉ huy chiến đấu đến lúc hy sinh. Riêng trung đội phó Lương Văn Phương chiến đấu với địch lúc đi tuần đã hy sinh gục trên đường ống nhưng bị địch khống chế, đơn vị phải giành giật 4 đêm mới lấy được thi hài…”Trong 61 ngày đêm chiến đấu bảo vệ đường ống, đã có 24 chiến sĩ của đại đội 6 hy sinh. Để bảo vệ 1 hố van qua chân 660 có đêm phải hi sinh 3 chiến sĩ. Buổi ngày địch cắt ống, đêm đến ta giành giật nối lại”.
      Kết thúc chiến dịch, tiểu đoàn 968 đã tiêu diệt và bắt sống 109 tên.(tính cả trung đoàn 592 là 135 tên), bảo vệ nguyên vẹn ba trạm bơm. Địch chỉ lấy được một số ống dự phòng chưa kịp nguỵ trang đưa về Sài Gòn triển lãm rêu rao phá được đường ống của chúng ta. “Sau chiến dịch, địch rải bom ác liệt hơn khiến tổn thất của tiểu đoàn lên 10% quân số nhưng đơn vị vẫn đưa  lên phía trước 10.500m3 xăng, đảm bảo thắng lợi của chiến dịch.”- Đại tá Hà Khắc Thuần cho biết.

        Ngoài những hiểm nguy sinh rập từ các loại mìn lá, mìn dây, bom bi, khi đi kiểm tra sự cố nhiều chiến sĩ đã bị ngộ độc xăng. “Có lần đi kiểm tra tuyến ống, thấy một nữ chiến sĩ cứ ngồi cười sằng sặc, chỉ huy hỏi gì cũng cười. Thì ra, đường ống bị bom bi đánh thủng, xăng phun thành sương khiến nữ chiến sĩ đó bị ngộ độc xăng. Mãi đến khi các kỹ sư tìm ra phương pháp phát hiện điểm bị sự cố từ xa mới giảm được thương vong, ngộ độc xăng cho bộ đội. Phương pháp này đã hạn chế việc huy động động bộ đội chạy theo hàng trăm km trên tuyến tìm chỗ hỏng. Nhiều lúc chạy băng rừng ban đêm mà không được dùng đèn pin, thương lắm!”. Đại tá Mai Trọng Phước  ngậm ngùi. Còn với thiếu tướng Hồ Sĩ Hậu, đến giờ vẫn không nguôi ngoai trước cái chết bi thương của đồng đội. “Khi phát hiện bom đánh đứt tuyến, anh Quy trạm trưởng trạm bơm ở Ka Tần đã lao ra nối ống. Trong lúc thao tác bất ngờ  xăng trong ống phun ra tưới khắp người, ngập đầy vũng bom dưới chân. Cùng lúc ấy một loạt bom dội tiếp, nơi anh đứng trở thành biển lửa. Đồng đội nhìn thấy nhưng không sao cứu được”


Tiêu đề: Re: Đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất
Gửi bởi: van_ly_ doc_hanh trong 23 Tháng Tư, 2008, 03:12:19 pm
Bài 4: TẠO THẾ LIÊN HOÀN, GÓP PHẦN THẮNG LỢI
     
        Từ 200km đường ống dã chiến và 20 máy bơm do Liên Xô viện trợ ban đầu, chúng ta đã tái tạo được máy bơm theo mô hình của Liên Xô, sản xuất roăng, ngàm, ống, sử dụng ống của Trung Quốc cung cấp để hoàn thiện mạng đường ống 5.000 km từ biên giới Việt Trung Vào tới Bù Gia Mập (Bình Phước). “Khi đường ống dẫn xăng dầu vào tới Lộc Ninh, Bộ Chính trị, Chính phủ…mới  cầm chắc phần thắng. Và chỉ có đường ống mới phục vụ kịp xăng dầu cho hành quân thần tốc trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.”- Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên đã đánh giá như vậy.
        Đường ống đi trước, đón đầu
         Đại tá Phan Tử Quang cho biết, trong lúc ở Trường Sơn đường ống đã vượt nam đường 9, thì ở miền Bắc, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện nhận định: “Nếu địch đánh trở lại miền Bắc, ta không thể dùng phương tiện vận tải theo đường bộ, đường sắt hay đường biển để đưa xăng dầu vào Bến Thuỷ, cảng Gianh để cung cấp cho đường ống được. Vì vậy, để đảm bảo xăng dầu cho quân đội cần khẩn trương xây dựng tuyến đường ống từ Hà Nội- Vinh  nối liền tuyến đường ống của tiền tuyến tạo thế vận chuyển liên hoàn”.
      Ý kiến trên được Đại tướng Võ Nguyên Giáp ủng hộ và Phó Thủ tướng Đỗ Mười thay mặt Chính phủ nhất trí tạo mọi điều kiện để Cục xăng dầu thi công đường ống hàn dài 338km. Sau 13 tháng, đến 13h ngày 13-12-1971, mối hàn cuối cùng của tuyến đường ống Hà Nội- Vinh hoàn tất, vượt thời hạn Chính phủ quy định.
      Tháng 4-1972, Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá trở lại miền Bắc. Các cảng biển, cửa sông bị thuỷ lôi phong toả nhằm bịt chặt vận chuyển đường biển quốc tế vào miền Bắc. Việc tiếp nhận xăng dầu của Liên Xô từ đường biển hoàn toàn bế tắc. Nguy cơ thiếu xăng dầu cho chiến trường miền Nam hiện rõ. Chính phủ triệu tập phiên họp bất thường bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn về xăng dầu. Theo đề xuất của Cục xăng dầu, phương thức tiếp nhận xăng dầu bằng đường biển sẽ chuyển sang đường bộ: chúng ta yêu cầu Chính phủ Trung Quốc giúp đỡ chúng ta nhận xăng của Liên Xô qua biên giới Việt - Trung. Trong vòng 15 ngày (đến 16-6-1972), các lực lượng với sự hỗ trợ của máy bay trực thăng chở ống đã hoàn thành đường ống từ biên giới về Đồng Đăng (Lạng Sơn) cùng hai kho đã hoàn thành tiếp nhận xăng từ Bằng Tường (Quảng Tây-Trung Quốc) bơm qua để dẫn về Hà Nội. Để mở rộng cho việc nhận xăng từ Trung Quốc, tuyến đường ống từ Pò Hèn (Móng Cái -Quảng Ninh) qua Hải Dương nối về Hà Nội cũng hoàn thành. Cuối năm 1972, tuyến đường ống xăng dầu chiến lược đã thành một hệ thống từ biên giới Việt - Trung vào đến Cam Lộ (Quảng Trị) và sang nam đường 9 (tây Trường Sơn) có tổng chiều dài 3.278km với hơn 81 ngàn tấn nhiên liệu dự trữ.
         Ngày 15-2-1973 Thường vụ Quân uỷ TƯ họp nhấn mạnh: Phải xây dựng được hệ thống đường phía đông Trường Sơn. Đảng uỷ 559 cũng đề ra nhiệm vụ kéo dài tuyến ống cho đến hết Tây Nguyên và các đường ngang ra một số chiến trường, tiến tới xây dựng tuyến phía đông song song với tuyến phía tây. Trong ba năm, phải đưa đường ống vào tới hậu cứ chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ.
      “Tháng 4-1973, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện có lệnh gọi tôi về Hà Nội giao nhiệm vụ vào khảo sát xây dựng kho xăng dầu lớn cho chiến trường B2 ở Lộc Ninh dù đường ống mới làm tới Tây Nguyên”. Đại tá Mai Trọng Phước nhớ lại nhiệm vụ xây dựng hai kho dự trữ (thay thế các kho tập hợp bằng phuy sắt) cho kế hoạch giải phóng miền Nam. Phối hợp với Cục hậu cần Nam Bộ hai cụm kho bằng bể sắt hàn ở làng Bảy (500 tấn - thuộc Sở cao su Lộc Ninh) và cụm kho làng Chín (1.000 tấn- cạnh suối Pờ Lin- Cốc Rưới) đã được hoàn thành vào tháng 1-1974.
         Ngày 20-11-1974, hai tuyến đường ống Đông và Tây Trường Sơn đã hội tụ về ngã ba biên giới (Plây Khốc- Kon Tum) để tiếp tục kéo dài về Bù Gia Mập (2-1975). Từ đây xăng được tiểu đoàn xe xi tec 103 chở về đổ vào cụm kho Lộc Ninh chuẩn bị cho các chiến dịch lớn. Thời gian này, các kho của Quân đoàn 2, Quân khu 5, Quân khu Trị Thiên… cũng được nối thông với đường ống.
      “Nguồn xăng dầu chính phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh vẫn là nguồn xăng dầu từ đường ống bơm 24/24h từ Hà Nội vào. Bên cạnh đó còn có nguồn xăng dầu từ miền Bắc chở vào theo đường biển, đường bộ, xăng dầu thu được của địch được bố trí theo các kho ở các tỉnh duyên hải cùng một số tuyến đường ống dẫn từ Trường Sơn xuống cấp cho quân đoàn 2, quân khu 5. Quân đoàn 4 được đảm bảo xăng dầu từ các kho Bù Gia Mập, Lộc Ninh (tích trữ từ năm 1974). Quân đoàn 1, quân đoàn 3 hành quân từ Tây Nguyên về vị trí tập kết ở Đồng Xoài, Chơn Thành đều được nguồn xăng từ đường ống cung cấp. Ngoài ra, còn bố trí những đại đội xe chở xăng dầu tới mặt trận tiếp tế cho các đơn vị…”. Đại tá Lục Văn Châu- nguyên Trưởng phòng Xăng dầu 559 cho biết thêm, để đảm bảo xăng dầu phục vụ cánh quân từ hướng Tây Nguyên và từ nam đường 9 (Lào)  thần tốc vào Sài Gòn, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên giao nhiệm vụ sau 48 tiếng phải cấp xăng lớn đượcở Đức Lập (Đắc Lắc). Vì vậy, song song với rải ống làm tuyến 26km nối Đắc Đam ra Đức Lập chúng tôi phải mang theo 1 đại đội xe xi téc và bể cao su dã chiến chở xăng từ Đắc Đam ra cấp cho xe trong lúc đang rải ống. “Thực tế từ khi có đường ống xăng dầu, các chiến dịch của ta luôn giành được thắng lợi nhưng trong chiến dịch Hồ Chí Minh chúng tôi mới thấm thía hơn chủ trương xăng dầu phải đi trước một bước để đảm bảo cho thắng lợi là thế nào”.
       Sum họp với nghĩa tình      
   Chiến tranh lùi xa, những người lính xăng dầu trở về với cuộc sống đời thường nhưng trong số nhiều người làm nên kỳ tích vẫn đang chịu đựng nỗi đau, mất mát do di chứng của chất độc da cam, nhiễm độc chì từ xăng. Để xoa dịu nỗi đau của đồng đội, Ban liên lạc truyền thống ngành xăng dầu quân đội đã cùng nhau chung tay chia sẻ  với đồng đội của mình.
      “Năm 1996, qua báo chí chúng tôi phát hiện gia đình chị Nguyễn Thị Bích Liên,  chiến sĩ đường ống Binh trạm 169 (ở Sơn Thuỷ, Hương Sơn, Hà Tĩnh) có 3 người con gái bị mù bẩm sinh do nhiễm chất độc da cam có hoàn cảnh khó khăn. Chồng chị là anh Đoàn Quang Soàn thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc. Hai vợ chồng ra quân mất hết giấy tờ, nên Ban liên lạc đã báo cáo với Cục xăng dầu và địa phương hỗ trợ gia đình làm chế độ, quyên góp giúp đỡ. Sau đó liên hệ để các cháu được chữa sáng mắt. Từ đó, Ban liên lạc luôn thông qua các chi hội, báo đài tìm kiếm, phát hiện đồng đội bị nhiễm chất độc để giúp đỡ, làm chế độ chính sách cho họ”- Đại tá Mai Trọng Phước cho biết, ngoài phần quyên góp, các thành viên của Ban liên lạc còn đi “bán” các tập sách “Xăng dầu một thời đáng nhớ”  để có những phần quà, chút tiền hỗ trợ các cháu bị tật nguyền   
    Tương tự, Ban liên lạc cũng tìm kiếm và giúp đỡ làm chế độ cho vợ chồng anh Dương Ngọc Hồi, chị Phùng Thị Hoa (ở Hiệp Hoà, Bắc Giang) nguyên là chiến sĩ của trung đoàn đường ống 592 có 2 con và một cháu ngoại bị dị tật bẩm sinh do bố mẹ bị nhiễm chất độc da cam. Chị Nguyễn Thị Hẹ (Thuận Thành-Bắc Ninh) 2 con bị nhiễm chất độc da cam, hoàn cảnh khó khăn phải ở nhờ trạm bơm thỷ lợi của xã 20 năm cũng được Ban liên lạc hỗ trợ, liên hệ các ban ngành xây dựng nhà tình nghĩa. Ngoài ra, các thành viên của Ban liên lạc cũng tìm lại được thương binh Nguyễn Lương Định (người vác ống phá bom từ trường) sau hai mươi năm mất liên lạc, đề nghị xét tặng huân chương Chiến công hạng 2 cho người chiến sĩ dũng cảm này.
     Đại tá Lưu Vĩnh Cường (Trưởng Ban liên lạc) cho biết phần lớn bộ đội đường ống đều ở những vị trí rừng rậm, những vùng bị rải chất độc da cam, thường xuyên tiếp xúc với xăng chì, cọ rửa phuy bể nên tỉ lệ nhiễm độc rất nhiều.  Hiện nay ngoài việc thăm hỏi, động viên gia đình đồng đội lúc khó khăn Ban liên lạc vẫn tiếp tục tìm kiếm, liên hệ với chính quyền, các ban ngành để làm chế độ cho những đồng đội và con cái bị nhiễm chất độc da cam. Đến nay đã có 60 trường hợp bị nhiễm chất độc da cam đã được phát hiện, chứng nhận làm chế độ. Riêng đại tá Mai Trọng Phước sau những lần thăm đồng đội đã về sưu tầm những bài thuốc chữa bệnh dễ kiếm, rẻ tiền trên sách báo in thành sách phát tặng cho mọi người. “Thấy nhiều anh em sức khoẻ yếu nên mình làm thế này để giúp họ. Mình có điều kiện giúp đỡ được anh em thì cố giúp từ những cái nhỏ nhất”.
     
 
      *  Tổng chiều dài mạng đường ống từ biên giới Việt – Trung vào Bù Gia Mập là 5.000km. Riêng đường ống xăng dầu trên đường Trường Sơn là 1.399km (từ Long Đại, Quảng Bình đi theo 2 nhánh đông và tây Trườg Sơn, hội tụ ở  Plây Khốc- Kon Tum rồi kéo về rừng Bù Gia Mập (Bình Phước). Trong đó, hướng đông là 830km tuyến bơm xăng và 74km tuyến bơm diezen từ Đông Hà lên A Lưới. Hướng tây có 495km tuyến bơm xăng. Toàn tuyến Trường Sơn có 46 kho, tổng sức chứa hơn 27.000m3. Có 114 trạm bơm đẩy bơm  từ 600- 800m3/ngày đêm, đảm bảo cung cấp cho 10.000 xe trong một ngày đêm. Đến đầu năm 1975 bộ đội đường ống trên tuyến Trường Sơn là 7.602 người (gồm 4 trung đoàn). Năm 1974-1975 nhập được 99.560 tấn, cấp cho các chiến trường 21.025 tấn (đầu năm 1975 lượng dự trữ đủ cho chiến đấu trong 6 tháng)
      -  Trước ngày mở màn chiến dịch Tây Nguyên toàn miền Nam đã có 13.000 tấn xăng dầu ( lượng xăng dầu của 559 chiếm 60%, trong vòng  7 tháng đã bơm vận hành hơn 80.000 tấn xăng dầu qua đường ống).
    - Chuẩn bị cho chiến dịch Huế- Đà Nẵng,  quân khu Trị Thiên bố trí 4 kho (mỗi kho 100m3), 10 tấn phuy. Quân khu 5 bố trí 7 kho với  450 tấn chứa bể, 300 tấn chứa phuy. Quân đoàn 2 có 3 kho với 1.200 tấn bể và 700 tấn phuy
-  Cuối năm 1974 kho Quân đoàn 2 đã nối thông với kho đường ống tại Cam Lộ. Quân khu Trị Thiên nối thông kho với kho đường ống ở A Lưới, Quân khu 5 nối với kho đường ống ở Trao và Bến Giàng
      Trong 55 ngày đêm chiến dịch Hồ Chí Minh đã đảm bảo 77.000 tấn xăng, 18.000 tấn diezen. Các bãi tra nạp dọc đường tiến quân có 2 đến 3 điểm tra nạp trong vòng 5 phút giải phóng được 12 xe.
    * Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên- Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn:
- “Do có đường ống dẫn xăng dầu vào Trường Sơn, tổ chức được trạm tra nạp xăng dầu lớn nên cuối năm 1973, Binh đoàn Trường Sơn mới dám tổ chức sư đoàn xe vận tải (2 sư đoàn, mỗi sư đoàn 4.000 xe, tính cả các tiểu đoàn xe độc lập là 10.000 xe). Đường ống làm xong đã kịp thời phục vụ Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Và chỉ có đường ống  mới phục vụ kịp bước tiến thần tốc của các đơn vị. Bởi vì, không có đường ống thì 1.000 xe chở một quân đoàn tham gia chiến dịch phải  bố trí  các xe chở theo 1.000 tấn xăng.
   Một xe chở xăng từ Hà Nội (5m3) vào tới Lộc Ninh phải mất 2 tháng nhưng với đường ống thì sau 12 tiếng, xăng từ Móng Cái đã bơm vào đến Lộc Ninh. Vì vậy có thể nói đường ống là loại hình vận tải bán tự động thoả mãn được cả số lượng, chất lượng và thời gian, phục vụ được cơ động binh chủng quy mô lớn”


Tiêu đề: Truông Bồn - 40 năm quên và nhớ
Gửi bởi: TQNam trong 13 Tháng Mười, 2008, 07:44:43 am
Truông Bồn - 40 năm quên và nhớ

TT - Rạng sáng 31-10-1968, một trận bom cướp đi sinh mạng 11 cô gái và hai chàng trai cùng một đơn vị thanh niên xung phong ở Truông Bồn (Đô Lương, Nghệ An) khi đang bám trụ mặt đường cho đoàn xe ra tuyến trước. 100 ngày trước đó, chiều tối 24-7-1968, mười cô gái thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) hi sinh trong một trận bom khi đang làm đường.

Truông Bồn nằm trên tuyến đường 30 thuộc đường chiến lược 15A, địa phận xã Mỹ Sơn (huyện Đô Lương, Nghệ An), cách thành phố Vinh khoảng 40km về phía tây và cách huyện lỵ Đô Lương 10km về hướng nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, Truông Bồn là huyết mạch giao thông chi viện nhân tài vật lực cho chiến trường miền Nam. Phát hiện đây là “yết hầu” của tuyến vận tải chiến lược nên từ 1964-1972 đối phương liên tục đánh phá ác liệt.
Hơn 200 cán bộ chiến sĩ, bộ đội phòng không, bộ đội công binh Quân khu 4 và đại đội 317, 314 TNXP của Nghệ An đã hi sinh và bị thương trong khi làm nhiệm vụ.
(Nguồn: Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An)


Hai địa điểm cách nhau chỉ 50km đường chim bay. Nếu Đồng Lộc được thường xuyên nhắc nhớ thì Truông Bồn đã có lúc bị quên lãng đây đó! 40 năm sau, người duy nhất còn sống sót trong trận bom ở Truông Bồn nay có mặt trong câu chuyện bi hùng xưa.

13 người tan vào đất đá

 
Đúng 6g10 sáng 31-10-1968. Chỉ vài giờ nữa, theo giờ GMT, sẽ là 0g ngày 1-11-1968, Mỹ sẽ thực hiện “ném bom hạn chế” trên miền Bắc.

Hi sinh trước cánh cửa ước mơ

Chỉ chưa đầy một giờ nữa, đúng 7 giờ sáng, Cao Ngọc Hòa - tiểu đội trưởng tiểu đội 6 và Nguyễn Thị Tâm - tiểu đội 2 thanh niên xung phong (TNXP) sẽ đưa nhau về nhà của Tâm để chú rể ra mắt nhà gái trong lễ đính hôn. Lúc đó, ở ngôi nhà nhỏ của Tâm, xóm 6, xã Hợp Thành (huyện Yên Thành, Nghệ An), mẹ và anh trai của Hòa mang theo cau trầu và mấy chai rượu đi bộ gần 30km từ xã Diễn Lộc (huyện Diễn Châu, Nghệ An) đến ngồi chờ.

Chỉ chưa đầy một giờ nữa chị Đàm Thị Bốn sẽ được xuất ngũ về với mẹ do anh trai vừa hi sinh ở chiến trường, nhà không còn ai chăm nom mẹ.

Chỉ chưa đầy một giờ nữa Trần Thị Doãn, Hà Thị Đang, Phan Thị Dung, Vũ Thị Hiên và Nguyễn Thị Phúc sẽ về nhà chuẩn bị đi học ở Trường trung cấp Y tế Nghệ An do thành tích công tác đủ ba năm ở tổng đội, những tờ giấy báo nhập học đang cột trong khăn mùi xoa buộc ở cổ tay.

Nhưng đúng 6 giờ 10 sáng 31-10-1968, cả tám chiến sĩ TNXP ấy cùng năm đồng đội khác là Hoàng Thị Nhung, Nguyễn Thị Văn, Nguyễn Thị Hoài, Đinh Thị Vinh và Trần Văn Hạp đã vĩnh viễn nằm lại sau trận bom tọa độ đánh phá tuyến giao thông Truông Bồn. Người trẻ nhất 17 tuổi, lớn nhất cũng chỉ 22 tuổi. Tất cả đã nằm lại với tuyến đường.

Đau đớn thay khi có bảy người trong số 13 liệt sĩ hi sinh hôm đó không tìm thấy chút xương thịt nào sau trận bom khủng khiếp ấy. Và mãi đến năm 1996, Truông Bồn mới được công nhận là một di tích lịch sử. Một tượng đài chiến thắng khiêm tốn được dựng lên để tưởng nhớ. Còn trong lòng những cựu TNXP Nghệ An, trong tâm khảm những người dân Đô Lương, Yên Thành…, sự hi sinh của “tiểu đội thép” TNXP Truông Bồn ấy vẫn không bao giờ bị quên lãng.

 
Trận bom định mệnh

Chúng tôi trở lại Truông Bồn đúng dịp Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vừa ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 14 chiến sĩ TNXP của đại đội 317, nhân kỷ niệm 40 năm ngày hi sinh của những TNXP Truông Bồn. Ngoài 13 anh chị em hi sinh sáng 31-10-1968, người duy nhất còn sống sót trong trận bom ấy là chị Trần Thị Thông, nay đã 63 tuổi, là nông dân sống ở ngoại ô thành phố Vinh.

Điều để nhận biết Truông Bồn vẫn nằm sâu trong lòng nhiều người dân xứ Nghệ là khi đến phường Đông Vĩnh hỏi đường về nhà chị Thông, nhiều người dân đã nhiệt tình: “Hỏi nhà o Thông Truông Bồn hả?” rồi tận tình chỉ dẫn. Ngôi nhà đơn sơ ngập trong lúa và rơm rạ giăng giăng từ ngõ vào sân. O Thông đang cặm cụi trên vuông sân để phơi thóc. Đã 40 năm kể từ trận bom định mệnh ấy.

Những hồi ức của buổi sáng 31-10-1968 ùa về rưng rưng đôi mắt người phụ nữ sắp lên lão: “Mấy bữa trước ít khi đi ra mặt đường sớm như rứa, nhưng đêm trước anh Thỏa, “xê” trưởng (đại đội trưởng), họp với các tiểu đội thông báo sáng mai (31-10) phải ra hiện trường sớm để bảo đảm thông đường cho xe. Trên dự báo vài giờ trước khi ngưng ném bom thế nào máy bay cũng oanh tạc dữ dội. Cả đêm ấy mấy chị em nằm ở nhà mẹ Thởm thao thức. Không phải vì nhiệm vụ mà vì ngày mai trong tiểu đội có mấy người ra quân, đứa về lấy chồng, đứa đi học… Chị em miên man rồi thiếp đi”.

Bốn giờ sáng, tiếng kẻng trực ban đại đội vang lên. Tất cả ra hiện trường, hôm nay tiểu đội chị Thông không làm ở phía trên dốc nơi đối phương thường đánh phá mà xuống quãng dưới xa hơn. Nhận khẩu phần mỗi người mấy lát mì luộc, vừa đi vừa ăn. Quốc lộ 15 bấy giờ là đường đất, còn hẹp lắm, không chỉ bom đánh mà chỉ một đoàn xe qua là đường đã bị cày xới lổn nhổn. Mải miết san lấp, trời vừa hửng sáng chợt nghe tiếng anh Hạp trực ban báo động máy bay. Anh Hạp chưa dứt lời đã nghe tiếng rú rít bổ nhào, theo phản xạ chị Thông nhảy xuống chiếc hầm bên vệ đường cùng anh Cao Ngọc Hòa và chị Đinh Thị Vinh, quờ tay đưa khẩu súng trường lên cao bắn báo động. Nhưng chỉ kịp đến thế thì hàng loạt bom trút xuống và chị không còn biết gì nữa.

Sau này chị nghe kể lại trận bom vừa dứt, toàn đơn vị ào xuống quãng đường vừa bị đánh bom. Tất cả chìm trong đất đá và khói bụi. Chị Hường phát hiện có một nòng súng nhô lên mặt đất, đó chính là khẩu súng trường của chị Thông. Chị Phan Thị Thao cùng đơn vị lao đến hét to: “Chị Thông dưới này!”. Cả đơn vị xúm lại đào bới, chị Thông nhờ đang ở động tác quỳ bắn nên chỉ đào sâu vài tấc đã lộ phần đầu. Đưa được chị Thông lên, mọi người bế vội chị về nhà mẹ Thởm. Anh Hòa và chị Vinh cùng trú chung hầm với chị Thông đều hi sinh vì ngạt và sức ép. Tìm kiếm suốt cả ngày hôm ấy cũng chỉ có thêm thi thể bốn chiến sĩ. Còn lại bảy đồng đội khác đã tan vào đất đá.

Kể đến đây chị Thông chợt lặng đi, rồi chị lẳng lặng đốt nhang thắp lên bàn thờ đồng đội. Ở nhà chị, ngoài bàn thờ tổ tiên, chị lập một bàn thờ nhỏ thờ đủ 13 liệt sĩ đã nằm lại trong trận bom định mệnh sáng 31-10 ấy. Tôi nhìn lên bàn thờ, thay cho bài vị hay những tấm hình, sau lư nhang có một tấm bìa in hình đài tưởng niệm Chiến thắng Truông Bồn do chị Thông dán. Đó là bìa cuốn Bản tin của Hội Cựu TNXP Nghệ An.

Chị Thông ngậm ngùi: Cả mười mấy anh chị em hi sinh nào có mấy người có ảnh chân dung để thờ đâu. Đợt này Hội Cựu TNXP tỉnh đứng ra phục hiện chân dung cho 13 liệt sĩ Truông Bồn phải dùng cách chọn lấy một người có gương mặt giống với liệt sĩ nhất trong gia đình rồi vẽ, vừa vẽ vừa chỉnh sửa theo ký ức của mọi người. Có người nay không còn ai trong gia đình để có thể dựa vào đó mà phục hiện. Hi sinh, thịt xương thân xác đã không còn mà cả tấm hình để thờ tự cũng không có nốt.

LÊ ĐỨC DỤC - VŨ TOÀN

________________________________

Truông Bồn ngày ấy có hàng ngàn TNXP tuổi đôi mươi. Dẫu đạn bom vây bủa, sống chết gang tấc, họ vẫn đến với nhau. Nhưng bom giội xuống, mãi mãi không có những cuộc đưa dâu.

Kỳ tới: “Em không về, vắng một cuộc đưa dâu”


Tiêu đề: Re: Truông Bồn - 40 năm quên và nhớ
Gửi bởi: TQNam trong 13 Tháng Mười, 2008, 07:50:49 am
“Em không về, vắng một cuộc đưa dâu”

TT - Truông Bồn ngày ấy có hàng ngàn TNXP tuổi mười tám đôi mươi. Cho dẫu đạn bom vây bủa, sống chết gang tấc, bao nhiêu đôi lứa vẫn yêu nhau, bao nhiêu người đã nên chồng vợ, nhưng có lẽ ít có câu chuyện tình nào bi tráng như mối tình của Cao Ngọc Hòa và Nguyễn Thị Tâm. Nhiều người dân ở Hợp Thành ngày đó và nhiều bạn bè của Tâm cũng nhận tin cô hi sinh trước, rồi sau đó bất ngờ và xót xa khi biết tiếp tin cô vừa đính hôn.

Chuyện tình bi tráng

Trong căn nhà ở xóm 6, xã Hợp Thành, huyện Yên Thành (Nghệ An), ông Nguyễn Trọng Đàn, người gọi liệt sĩ Nguyễn Thị Tâm bằng cô ruột, mang ra tấm hình chân dung của Nguyễn Thị Tâm vừa được phục dựng. Tuy là ảnh phục dựng nhưng ông Đàn bảo rất giống. Trong ảnh là cô gái với vẻ đẹp tươi trẻ và rạng rỡ. Và gương mặt ấy, ánh mắt ấy mãi mãi dừng lại ở tuổi 20.

Chuyện chị Tâm và anh Hòa yêu nhau “bí mật” suốt ba năm không ai hay biết, bởi cũng vì kỷ luật thời chiến. Và mối tình ấy chỉ được “công khai” khi cả hai đến ngày chuẩn bị xuất ngũ.

Tuy gọi chị Tâm bằng cô nhưng ông Đàn chỉ kém người cô ruột vài tuổi. Trước khi Tâm hi sinh chừng mươi ngày, từ đơn vị cô tranh thủ ghé về trình bày với gia đình chuyện tình cảm giữa cô và Hòa. Tâm cũng cho biết sắp đến nhà trai sẽ lên làm lễ bỏ trầu, có thể ngày ấy cô và Hòa chưa chắc về được, nếu nhà trai mang lễ vật đến xin mẹ và các anh chị trong nhà cứ coi như đang có mặt hai đứa. Báo cho gia đình xong, Tâm trở về đơn vị kịp ngay trong đêm. Chừng hơn một tuần sau, chiều 30-10-1968, gia đình ông Đàn đón hai người khách lạ: mẹ và anh Lợi - anh trai Hòa.

40 năm rồi ông Đàn vẫn nhớ như in hình ảnh bà mẹ và anh Lợi với giỏ xách xếp một ít bánh trái, chai rượu và cau trầu lên nhà dạm hỏi. Họ cùng đi bộ, dù đường từ Diễn Lộc (huyện Diễn Châu) lên đến Hợp Thành dài gần 30km. Bom đạn đánh phá ác liệt. Thương con, bà mẹ đã thức dậy từ sớm chuẩn bị rồi lên đường. Đến nhà rồi, ông Đàn còn nhớ chiều muộn, chờ mãi không thấy Hòa và Tâm về, anh Lợi đã tranh thủ dắt ông Đàn đi hớt tóc ở nơi mấy người thợ sơ tán trong làng. Lại ngóng mãi mà chẳng thấy cô dâu và chú rể thu xếp về được, nhà trai đã bày biện mâm lễ mọn ra mắt họ hàng nhà gái. Đêm ấy, bà mẹ anh Hòa ngủ lại nhà cô con dâu tương lai, hi vọng sáng mai cả hai con sẽ cùng về ra mắt. Bởi cho đến giờ phút ấy nhà gái vẫn chưa biết mặt chú rể và ngược lại, nhà trai cũng chưa từng thấy mặt con dâu!

Vắng nhiều cuộc đưa dâu
 
Cũng trong buổi chiều ấy, ở đại đội TNXP 317, tranh thủ lúc không ra hiện trường mấy anh chị em pha ấm trà với mấy chiếc kẹo vừng để chia tay tám người trong tiểu đội. Vui nhất là Hòa và Tâm. Hòa đã xong thủ tục xuất ngũ ở tiểu đội mình, trong lúc chờ người yêu làm thủ tục để cùng về, anh gia nhập luôn tiểu đội của Tâm. Chiều ấy, không chỉ Hòa và Tâm vui vì sắp được về nhà, chung sống bên nhau mà cả sáu đồng đội khác cũng có niềm vui riêng, người chuẩn bị đi học, người được về chăm mẹ già neo đơn.

Chị Trần Thị Thông bồi hồi kể lại: biết tin Hòa và Tâm sắp cưới cả đại đội ai cũng mừng, hai người đẹp đôi đã đành mà còn vì thời chiến, yêu nhau, cưới nhau không đơn giản. Buổi sáng 31-10, khi ra hiện trường, nhận mấy lát mì luộc khẩu phần buổi sáng, Tâm còn xé nửa miếng mì luộc âu yếm đưa cho người yêu, mấy chị em thấy vậy vỗ tay hoan hô vun vào: “Mau mau mời bọn tôi ăn kẹo đấy nhé!”. Không ngờ chỉ chưa đầy một giờ sau tất cả đều tan vào đất đá!

Ông Đàn bảo khi ấy vừa hửng sáng, bà mẹ anh Hòa cũng trở dậy. Vừa bước ra sân thì nghe tiếng bom vọng về từ phía Mỹ Sơn (Đô Lương), cũng chỉ nghĩ rằng chiến tranh, bom rơi đạn nổ thường tình, không hề hay biết bom đạn đã cướp mất đôi vợ chồng sắp cưới! Lại nghĩ chắc Hòa và Tâm không về nhà được nên bà cụ và anh Lợi xin chào để về lại Diễn Lộc vì đường xa. Chừng 10 giờ sáng, gia đình ông Đàn nhận được hung tin. Bố ông Đàn, tức anh ruột của Tâm, bấy giờ là chủ tịch xã Hợp Thành, nghe tin em gái hi sinh vội đạp xe lên Mỹ Sơn. Ba ngày lăn lộn cùng đồng đội trong đơn vị tìm kiếm nhưng không thể tìm thấy được mảnh thi thể nào của Tâm. Hòa may mắn hơn còn nguyên vẹn thi thể!

Và thế là mãi mãi không có cuộc đưa dâu từ Hợp Thành về Diễn Lộc như mơ ước của Tâm và Hòa.

Trong danh sách 13 liệt sĩ Truông Bồn, phần ghi “người thờ phụng” của các liệt sĩ ai cũng có. Riêng phần liệt sĩ Cao Ngọc Hòa thì để trống. Hỏi ông Đàn về gia cảnh anh Hòa, ông bảo sau này có hỏi tìm nhưng hình như bên gia đình anh Hòa không còn ai. Mẹ và anh trai của anh cũng đã mất.

Mà đâu chỉ có Nguyễn Thị Tâm. Tất cả mười cô gái TNXP Truông Bồn cùng hi sinh hôm ấy với Tâm đều rất trẻ, đều vừa mười tám, đôi mươi! Họ đã mãi mãi nằm lại với tuyến đường, như câu thơ tưởng niệm các nữ TNXP đã hi sinh trĩu nặng thương yêu khắc khoải: Đường làng tháng giêng dài ra hút tắp/ Em không về, vắng một cuộc đưa dâu! (thơ Trần Tuấn). Làm sao có thể kể hết bao nhiêu cô gái TNXP mãi mãi không bao giờ có niềm hạnh phúc một lần làm cô dâu! Mơ giấc mơ về một tổ ấm gia đình như mười cô gái Đồng Lộc trước đó, như hàng ngàn cô gái TNXP mở những tuyến đường ra trận đã không về!

LÊ ĐỨC DỤC - VŨ TOÀN
___________________

Nếu trên đời có hai chữ số phận thì người phụ nữ sống sót trong trận bom ngày ấy đã mang trên mình số phận nhân chứng. Bởi nếu ngày ấy chị cũng hi sinh, rất có thể bây giờ câu chuyện Truông Bồn sẽ có vài điều khác đi.

Kỳ tới: Người ở lại làm nhân chứng



Tiêu đề: Re: Truông Bồn - 40 năm quên và nhớ
Gửi bởi: TQNam trong 13 Tháng Mười, 2008, 07:52:31 am
Người ở lại làm nhân chứng


TT - Trong lúc ngồi đợi anh Lê Hải Diên - chồng chị Trần Thị Thông - từ ruộng về, chị Thông bảo: “Đi qua bom trên đạn dưới chừ vẫn chưa hết khổ, nhưng nghĩ lại số phận những chị em cùng đơn vị hi sinh hôm đó thì chuyện sống sót của mình quả là vạn lần may mắn. Bởi chỉ khoảnh khắc ấy, nhanh hơn hay chậm hơn một chút thôi thì có lẽ tuổi tên của mình đã được khắc cùng tên đồng đội trên tấm bia đá tưởng niệm! Nghĩ rứa, biết rứa mà sống thanh thản”.


Người còn lại

Hôm chúng tôi trở lại làng Mỹ Thái (xã Mỹ Sơn, Đô Lương, Nghệ An) tìm gặp mẹ Thởm, người mẹ nuôi của tiểu đội TNXP Truông Bồn ngày ấy, nghe mẹ tường tận kể lại trận bom định mệnh ngày 31-10-1968 mới biết sự sống của chị Thông quả là kỳ diệu. Mẹ Thởm là tên mọi người gọi theo tên người con trai đầu của mẹ, Nguyễn Trọng Thởm, còn tên mẹ là Nguyễn Thị Phác. Ngôi nhà của mẹ ở làng Mỹ Thái là nơi các chị Thông, Vinh, Hiên, Đang… ở từ đầu năm 1967, khi đại đội TNXP 317 chuyển từ Rú Đụn (Nam Đàn) lên Đô Lương cho đến cuối năm 1968.

Đã nghe chị Thông kể về buổi sáng tang tóc ấy, nhưng khi ngồi với mẹ Thởm trong căn nhà cũ kỹ với mái tóc bạc như cước của bà cụ vào tuổi 86, tất cả ký ức 40 năm trước cứ hiện về mồn một.

Khi chị Thông được anh em trong đơn vị tìm thấy và khiêng thẳng từ hố bom về nhà mẹ Thởm, đặt lên trên tấm sạp tre mà mấy cô TNXP đêm đêm vẫn ngủ thì chị Thông đã chết ngất. Mẹ Thởm kể: “Khi ấy nghe nói cả tiểu đội hi sinh cả, tui cứ sợ con Thông không sống nổi. May sao có đoàn xe chở quân từ tuyến sau ra chiến trường đang đợi thông đường, tránh máy bay ở trong xóm”. Sau trận bom, hai anh bộ đội quân y được chỉ huy đơn vị cử ở lại tham gia tìm kiếm, cấp cứu cùng anh em TNXP.

Trong căn nhà mẹ Thởm suốt sáng hôm ấy, các anh quân y đã tìm mọi cách cứu sống chị Thông. Quá trưa, khi chị bắt đầu tỉnh lại, hai người lính vội vã đuổi theo đơn vị, không quên để lại mấy dòng chữ viết vội: “Chúc em gái chóng bình phục, bọn anh đi tiếp vào mặt trận. Hẹn gặp lại ngày chiến thắng”. Không thêm một dòng tên tuổi, địa chỉ nào nữa. Rồi chiến tranh kéo dài, ước mong được gặp lại những người lính quân y ân nhân của chị Thông vẫn chưa thực hiện được.

Nếu trên đời có hai chữ số phận thì chị Thông đã được số phận mỉm cười, bởi dù đã được cứu ra khỏi ngổn ngang đất đá, mịt mùng bom đạn, nhưng nếu không có hai người chiến sĩ quân y tận tình cứu chữa chắc gì chị đã sống. Chị đã sống để làm chứng nhân cho sự hi sinh oanh liệt ấy. Bởi nếu ngày ấy chị cũng hi sinh, rất có thể bây giờ câu chuyện Truông Bồn sẽ có vài điều khác đi.

Chuyện là cách nay mấy năm, trong khi tìm hiểu chưa thấu đáo về sự kiện này, có một bộ phim tài liệu về Truông Bồn được thực hiện vội vàng và đã xảy ra nhầm lẫn. Nhân vật lẽ ra là chị Thông đã được thay bằng một nữ TNXP khác, chị ấy cũng đã lăn lộn trên tuyến đường Truông Bồn nhưng ở một đại đội khác, càng không phải là người sống sót duy nhất trong trận bom cướp đi sinh mạng 13 TNXP của đại đội 317. Và khi tình cờ coi những thước phim tài liệu kia, chị Thông đã đi tìm sự thật, không phải sự thật cho mình mà vì anh linh đồng đội đã ngã xuống. Và hơn thế, những sự thật ấy đã nhắc nhở về những lãng quên đây đó với Truông Bồn.

Và có phải những đồng đội của chị nằm xuống mặt đường hôm ấy đã xui khiến phù hộ một “nhân duyên” may mắn cho đời chị?

Hạnh phúc như chuyện tình cờ
 
Những ngày bám trụ mặt đường, những nữ TNXP và những anh bộ đội trên đường vào tuyến lửa gặp nhau. Vài câu chào hỏi, mấy câu hò đối đáp, một chuyến xe mắc lầy, tắc đường... Rồi đi, đi miết không chắc ngày gặp lại.

Một đêm tình cờ trên cung đường Truông Bồn ấy, một đoàn xe vào tuyến trong, xôn xao giọng Nam giọng Bắc, có tiếng hỏi: “Có ai người Hưng Nguyên không?”. Có tiếng đáp: “Đây chỉ có người Yên Thành!”.

“Cũng là đồng hương cả”. Thế rồi những người lính nhảy xuống xe làm quen với tiểu đội nữ TNXP. Những câu hò đối đáp vang lên, chị Thông chỉ nhớ một chiến sĩ trẻ cũng là lính quân y. Không hẹn hò gì nhưng họ đã âm thầm trao gửi chút cảm tình. Vài câu thăm hỏi vội vàng, rồi kẻng trực ban vang lên báo đã thông đường, đoàn xe hối hả lăn bánh ra tiền tuyến mang theo những chàng lính trẻ. Chị Thông cũng không hình dung được những ngẫu nhiên mà số phận sắp đặt cho mình.

Đầu năm 1969, chị Thông xuất ngũ, được bố trí về Xí nghiệp may Việt Đức ở thành phố Vinh. Hồi ấy công nhân xí nghiệp được bố trí ở tạm trong nhà dân. Chị Thông được phân về nhà ông bà cụ Đèo ở khối Yên Duệ, phường Đông Vĩnh. Con cái trong nhà đã ra chiến trường, chị Thông xem hai cụ như bố mẹ mình, vừa công tác ở xí nghiệp vừa hôm sớm đỡ đần. Ông bà Đèo cũng xem chị Thông như con. Cuối năm ấy ông Đèo ốm nặng, gia đình sợ ông không qua khỏi nên đánh điện cho người con trai trưởng đang ở chiến trường. Thu xếp được phép, người con của ông bà từ mặt trận Quảng Trị tìm về. Và thật bất ngờ khi về nhà, cả hai anh chị cùng nhận ra nhau là người quen trong cái đêm trên tuyến đường Truông Bồn năm ấy. Anh là Lê Hải Diên, chiến sĩ quân y của sư đoàn 308.

Câu chuyện gặp gỡ ngẫu nhiên năm nào, cuộc gặp tình cờ trong ngôi nhà ở quê hương đã gắn kết số phận hai người. Thư đi thư về, đến cuối năm 1970 thì anh Diên về phép và cả hai tổ chức đám cưới. Xong ba ngày phép cưới vợ, anh Diên lại vào chiến trường, chị Thông trở thành cô con dâu hiền thảo của ông bà Đèo.

Gần 40 năm sau ngày cưới, chị Thông và anh Diên đã lên chức ông chức bà. Và như phần đông những người cùng thế hệ, hòa bình họ lại về với ruộng nương. Nhìn ngôi nhà của hai vợ chồng ở khối Yên Duệ, phường Đông Vĩnh (thành phố Vinh), không thể không nhận ra sự khó nghèo vẫn đeo đẳng họ. Tài sản đáng giá duy nhất trong nhà có lẽ là chiếc tivi màu đã cũ.

Vẻ lam lũ vẫn hiện ra trên gương mặt chị Thông, nhưng dường như chị không mấy bận tâm về cuộc sống gian khó hiện tại. Đi qua những lằn ranh sinh tử của chiến tranh với bao đồng đội ngã xuống, chị Thông luôn tâm niệm mình còn sống trở về là một điều may mắn. Và may mắn hơn khi chị đã có một gia đình, một mái ấm với những đứa con đã trưởng thành.

Biết chúng tôi sẽ đi thăm lại những gia đình liệt sĩ Truông Bồn ở Đô Lương, Yên Thành..., chị Thông bảo: “Cứ mỗi lần gặp mặt cựu TNXP là mấy chị em lại ôm nhau khóc! Cứ cảm giác mình có lỗi với đồng đội, bạn bè đã hi sinh sao mình còn sống! Mà biết mần răng cho thỏa vong linh anh em đây!”. Thật ra chị đã thỏa vong linh anh em phần nào rồi, bởi chị đã được sống như để làm chứng nhân cho sự hi sinh oanh liệt của đồng đội năm xưa.

Sự hi sinh làm lay động lòng người

Sự kiện Truông Bồn xảy ra khi tôi mới 12 tuổi. Nhưng hình ảnh những người lính lái xe, dân quân tự vệ, giao thông vận tải, đặc biệt là những cô gái TNXP thời đó đã bồi hồi hiện lên khi tôi đọc từng trang viết thật ấn tượng đang đăng trên Tuổi Trẻ.

Hồi đó, con đường ác liệt phải chạy rẽ qua làng tôi. Nhà tôi là một trong nhiều nhà dân có các cô TNXP đến ở. Tôi không thể quên có đêm các cô bất chấp bom đạn, mặc áo trắng để làm “cọc tiêu sống” cho hàng ngàn chuyến xe đi vào Nam. Vực Chỏng là một trong bốn trọng điểm ác liệt cùng với trọng điểm Truông Bồn. Mùa mưa lũ, nước dâng ngập vực Chỏng, ngày nào quần áo các cô cũng ướt đầm. Vì thế, các cô thường mặc chung quần áo của nhau miễn người nào đó có dư một bộ quần áo khô. Rồi bất ngờ các cô hi sinh, vùi trong đất đá. Đó là sự hi sinh cao cả, làm lay động ký ức tôi không chỉ đến bây giờ.

Từ Truông Bồn, tôi lớn lên, đi xa, trở thành chủ doanh nghiệp. Việc công ty chúng tôi đóng góp 1 tỉ đồng để tỉnh Nghệ An xây dựng di tích lịch sử Truông Bồn chỉ mới là bước đầu, vì tôi nghĩ Truông Bồn quê hương sẽ là kỳ tích cho đời sau bởi nó gắn với sự hi sinh bi hùng của nhiều lực lượng, trong đó có cuộc đời trẻ trung của các cô TNXP Nghệ An.

NGUYỄN BÁ THI
(chủ tịch HĐQT Tổng công ty Bia - rượu - nước giải khát Sài Gòn - SABECO)[/
color]


LÊ ĐỨC DỤC - VŨ TOÀN

--------------------------------------------------

Hàng vạn chuyến xe đã chở quân chở hàng vượt qua trọng điểm Truông Bồn an toàn. Còn họ ở lại, chẳng tiếc đời mình, dù điều họ làm là những huyền thoại.

Kỳ tới: Lặng thầm như đất


Tiêu đề: Re: Truông Bồn - 40 năm quên và nhớ
Gửi bởi: TQNam trong 13 Tháng Mười, 2008, 08:02:56 am
Kỳ 4: Lặng thầm như đất

TT - Những câu chuyện về sự hi sinh cả một tập thể của TNXP thường có những huyền thoại. Và hơn thế, những huyền thoại ấy được lòng ngưỡng vọng và yêu quý của người đang sống. Những câu chuyện như thế có thể nghe ở ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), hang Tám Cô trên đường 20 - Quyết Thắng (tây Quảng Bình)... Và ở Truông Bồn cũng vậy. Sự thật về sự hi sinh ngày ấy của các nữ TNXP có những huyền thoại mà nhiều chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn ngày ấy vẫn thường kể. Một hình ảnh vừa đẹp, vừa lãng mạn, vừa không kém phần khốc liệt.

 
Huyền thoại “cọc tiêu sống”

Đó là đêm đêm khi vượt qua cung đường Truông Bồn nguy hiểm, ôtô không được bật đèn pha, không được bật cả đèn gầm vì tránh để đối phương phát hiện. Đi mò mẫm trong đêm với hàng cọc tiêu quét vôi trắng mờ mờ hai bên đường làm lộ giới. Nhưng với mật độ đánh phá ác liệt, không cọc tiêu nào chịu đựng nổi, tất cả đều bị xóa sạch. Và khi ấy, những cô gái TNXP tự mình biến thành những “cọc tiêu sống” với mảnh vải dù trắng khoác trên vai, đứng thành hàng trong đêm để các chiến sĩ lái xe nương theo dấu hiệu ấy mà đi.

 
Không biết có hư cấu quá không khi có nhà văn trong một câu chuyện về những nữ TNXP đã kể rằng trên những tuyến đường năm ấy, có đoàn xe được lệnh hành quân khẩn cấp thoát qua cửa tử, trên trời máy bay quần đảo, cả những mảnh dù trắng khoác làm cọc tiêu cũng bị bom hất đi. Và thay cho mảnh dù trắng, các cô gái đã dùng chính làn da con gái trinh bạch của mình để làm tín hiệu trắng giữa bốn bề màn đêm!

Hỏi chị Trần Thị Thông sự thật về những đêm làm “cọc tiêu sống” ở Truông Bồn ngày ấy, mới hay chuyện làm cọc tiêu cũng lắm điều thú vị. Ban đầu các chị dùng cọc gỗ, nhưng rồi gỗ cũng không đủ cung cấp, chị em sáng kiến lấy lõi thân cây chuối, bóc lấy bẹ trắng rải dọc theo mép đường hằng đêm. Nhưng từ tháng này qua tháng khác, triền miên bom đạn như vậy thân chuối cũng không còn bởi làng xóm cũng bị bom đánh tan nát. Và chính các chị, với những chiếc áo lá màu trắng đã hóa thân làm “cọc tiêu sống” đêm đêm, như một thách thức can trường với đạn bom.

Trong hàng vạn hình ảnh ấn tượng về cuộc chiến tranh nhân dân suốt mấy chục năm cho đến ngày thắng lợi, có lẽ hình ảnh những cô gái bất chấp đạn bom gầm réo, đem thân mình làm cọc tiêu trắng đêm đêm cho đoàn xe ra mặt trận là một trong những hình ảnh có tính biểu tượng bất khuất hơn cả. Và cũng nhờ những “cọc tiêu sống” ấy mà hàng vạn chuyến xe đã chở quân, chở hàng vượt qua trọng điểm Truông Bồn an toàn.

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình”

Những ngày ở Đô Lương, Yên Thành (Nghệ An), tìm về gia đình các liệt sĩ ngã xuống ở Truông Bồn, chúng tôi chợt nhận ra sự hi sinh của mỗi người trong số họ thật lớn lao. Loanh quanh gần một buổi sáng chúng tôi mới tìm ra nhà ông Vũ Đình Liêu ở xã Tăng Thành.

Ông Liêu là em ruột liệt sĩ Vũ Thị Hiên. Là chị cả trong nhà, chị Hiên ngày ấy rất xinh đẹp và có năng khiếu văn nghệ. Hồi học cấp II, khi nào chị cũng đóng vai Bà Trưng. Kể về sự hi sinh của chị Hiên, ông Liêu cứ ngậm ngùi: “Ngày chị ấy hi sinh tôi còn nhỏ, chỉ nghe bố kể là sau trận bom, mọi người chỉ tìm thấy một cánh tay của chị. Biết được đó là cánh tay của chị Hiên bởi trên cổ tay còn buộc chặt chiếc khăn tay, trong khăn gói ghém mấy cái tem gạo và giấy gọi nhập học trường trung cấp y tế, nhờ tên chị Hiên ghi trong tờ giấy của trường mà mọi người nhận ra cánh tay đứt lìa ấy!

Liệt sĩ Phan Thị Dung ở Hợp Thành cũng vậy. Mấy anh chị em ruột chị Dung nay làm ăn sinh sống xa quê hương, di ảnh chị được thờ ở nhà thờ bổn tộc. Từ Yên Thành, chúng tôi nối điện thoại liên lạc với người em trai của chị Dung đang công tác trong ngành dầu khí ở Vũng Tàu. Người em trai của chị cho biết trước khi hi sinh một tuần, chị Dung được cho về nhà chuẩn bị đồ đạc rồi quay lại đơn vị chia tay trước khi tựu trường. Rồi chị mãi mãi không về nữa.

Chị Trần Thị Doãn ở Sơn Thành thì chỉ hai hôm trước khi hi sinh do không về nhà được để thu xếp hành trang đi học, mẹ chị đã sắp xếp quần áo, rang thêm mắm muối, gói ghém lặn lội mang vào đơn vị cho cô con gái yêu để mấy hôm sau từ đơn vị chị Doãn có thể yên tâm về thẳng thành phố Vinh nhập học. Càng nghe kể về những mơ ước, khát vọng, dự tính của những anh chị em TNXP Truông Bồn trước lúc hi sinh càng thấm thía sự hi sinh lặng thầm như đất vì tuyến đường Truông Bồn. Và với những hi sinh như thế, câu chuyện Truông Bồn càng cần được nhắc nhớ với hôm nay nhiều hơn, như một câu thơ của Thanh Thảo: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?)/Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc!

Không chỉ có sự hi sinh của người nằm xuống trên những cung đường ra trận. Đất nước hòa bình, về lại với đời thường rất nhiều anh chị em TNXP ngày ấy vẫn chịu nhiều thiệt thòi. Và khi gặp họ rồi, những ngỡ cái điều khiến tất cả mọi người âu lo, day dứt sẽ là cuộc sống với bao khó khăn mỗi ngày nơi đồng ruộng quê hương mà những cựu TNXP vẫn ngày ngày đối mặt, nhưng hóa ra không phải thế! Điều tất cả đau đáu nhất vẫn là nỗi khắc khoải về những đồng đội mình đã ngã xuống. Giống như chị Thông đã tâm sự với chúng tôi trong lần đầu trò chuyện là khao khát làm sao cho anh linh những liệt sĩ được siêu thoát. Những người đã mang tuổi trẻ ra trận, khi hi sinh không tìm thấy thi thể, nay phụng thờ không có di ảnh và có liệt sĩ không còn thân nhân để thờ tự. Còn sự hi sinh nào lớn hơn thế?

Sự hi sinh làm lay động lòng người.

Sự kiện Truông Bồn xảy ra khi tôi mới 12 tuổi. Nhưng hình ảnh những người lính lái xe, dân quân tự vệ, giao thông vận tải, đặc biệt là những cô gái TNXP thời đó đã bồi hồi hiện lên khi tôi đọc từng trang viết thật ấn tượng đang đăng trên Tuổi Trẻ.

Hồi đó, con đường ác liệt phải chạy rẽ qua làng tôi. Nhà tôi là một trong nhiều nhà dân có các cô TNXP đến ở. Tôi không thể quên có đêm các cô bất chấp bom đạn, mặc áo trắng để làm “cọc tiêu sống” cho hàng ngàn chuyến xe đi vào Nam. Vực Chỏng là một trong bốn trọng điểm ác liệt cùng với trọng điểm Truông Bồn. Mùa mưa lũ, nước dâng ngập vực Chỏng, ngày nào quần áo các cô cũng ướt đầm. Vì thế, các cô thường mặc chung quần áo của nhau miễn người nào đó có dư một bộ quần áo khô. Rồi bất ngờ các cô hi sinh, vùi trong đất đá. Đó là sự hi sinh cao cả, làm lay động ký ức tôi không chỉ đến bây giờ.

Từ Truông Bồn, tôi lớn lên, đi xa, trở thành chủ doanh nghiệp. Việc công ty chúng tôi đóng góp 1 tỉ đồng để tỉnh Nghệ An xây dựng di tích lịch sử Truông Bồn chỉ mới là bước đầu, vì tôi nghĩ Truông Bồn quê hương sẽ là kỳ tích cho đời sau bởi nó gắn với sự hi sinh bi hùng của nhiều lực lượng, trong đó có cuộc đời trẻ trung của các cô TNXP Nghệ An.

NGUYỄN BÁ THI
(chủ tịch HĐQT Tổng công ty Bia - rượu - nước giải khát Sài Gòn - SABECO)



LÊ ĐỨC DỤC - VŨ TOÀN

_____________________________

Đối với rất nhiều cựu TNXP khắp Yên Thành, ký ức chiến tranh khốc liệt quá, bi tráng quá nên khi bước ra từ hôm qua, họ nhìn những khó khăn hôm nay không còn là khó khăn nữa. Chỉ còn nỗi khắc khoải khôn nguôi về những đồng đội hi sinh.

Kỳ tới: Không sợ cực, chỉ sợ lãng quên!


Tiêu đề: Re: Truông Bồn - 40 năm quên và nhớ
Gửi bởi: TQNam trong 14 Tháng Mười, 2008, 07:33:41 am
Kỳ cuối: Không sợ cực, chỉ sợ lãng quên!

 
TT - Tin tập thể 14 chiến sĩ TNXP của đại đội 317 - Tổng đội TNXP Nghệ An - được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân kỷ niệm 40 năm ngày các anh chị hi sinh tại Truông Bồn đã bay nhanh khắp vùng Đô Lương, Yên Thành. Đó là sự tưởng niệm và vinh danh xứng đáng của đất nước với những người con đất Nghệ An. Truông Bồn không còn là câu chuyện của riêng 13 liệt sĩ TNXP đại đội 317 nữa.


Nỗi niềm đồng đội

Chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Tâm Cớn, một cựu TNXP của đại đội 317, nay là chủ tịch Hội cựu TNXP huyện Yên Thành. Những năm tháng ở Truông Bồn ông Cớn là tổ trưởng tổ phá bom của đại đội 317. Không hiểu sao thời đó tên Nguyễn Tâm Cớn của ông được anh em thay chữ đệm bằng chữ “Bích” - Nguyễn Bích Cớn! “Tổ phá bom Nguyễn Bích Cớn” lừng danh tuyến đường 15A, vang tên trên khắp các báo, đài trung ương. Hôm xảy ra trận bom 31-10 ấy, khi máy bay ngớt oanh tạc, chính ông Cớn và đồng đội trong tổ đã lao vào rà phá bom từ trường để đảm bảo an toàn cho đơn vị, sau đó đào bới tìm kiếm thi thể mọi người.

Hòa bình, ông Cớn mang mẫu số chung gian khó của hầu hết cựu TNXP trở về. Trong căn nhà nhỏ và ẩm tối ở xã Liên Thành, ông Cớn lật cuốn sổ tay của mình. 127 chiến sĩ của đại đội 317 ngày ấy nay chỉ còn 70 người. Mỗi cựu đội viên đều được ông ghi chi tiết hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú. Dường như đã đi qua những năm tháng khốc liệt, chịu đựng quá nhiều thử thách của chiến tranh nên cũng như chị Thông, ông Cớn luôn xem mỗi ngày bình yên, không đạn không bom, được thanh thản đi thăm bạn bè đã là hạnh phúc.

Còn bữa cơm nghèo mỗi ngày hay căn nhà ọp ẹp với ông không là điều gì khó nhọc. Như rất nhiều đồng đội cựu TNXP khác khắp Yên Thành mà ông đưa chúng tôi đến thăm, ký ức chiến tranh khốc liệt quá, bi tráng quá nên khi bước ra từ hôm qua, họ đã nhìn những khó khăn hôm nay không còn là khó khăn nữa.

Ông Cớn đưa chúng tôi về Sơn Thành thăm ông Nguyễn Xuân Thỏa, nguyên đại đội trưởng 317 TNXP, nhưng ông Thỏa đã về bệnh viện ở Vinh. Ghé sang Vĩnh Thành thăm bà Phạm Thị Thuần, cũng là cựu TNXP của Truông Bồn, rồi bà Nguyễn Thị Hương ở Lăng Thành, ông Nguyễn Văn Tải ở Thọ Thành...

Nỗi niềm đau đáu nhất bây giờ của họ không là những khó khăn mưu sinh thường nhật mà là nỗi khắc khoải khôn nguôi về những đồng đội hi sinh. Tâm nguyện của ông Cớn khi đưa chúng tôi về thăm những cựu TNXP Truông Bồn xưa cũng chỉ để cho chúng tôi biết nhiều nỗi niềm tâm tư của anh chị em 40 năm rồi vẫn còn day dứt lắm.

Thông điệp máu xương

Bà Thuần từng là tiểu đội trưởng đại đội 317. Tìm đến nhà, bà ra ruộng chưa về. Ông Cớn bảo: “Bà này khổ lắm, không có cả giường mà nằm!”. Rồi ông tất tưởi ra ruộng tìm. Một lúc sau bà Thuần về. Khi bà Thuần mở liếp cửa để lách vào nhà, chúng tôi mới “mục sở thị” điều ông Cớn nói. Trên nền nhà chỉ có mớ thóc vừa gặt vun đống, góc bếp là mấy nồi niêu chỏng chơ và chiếc giường gỗ lung lay đã gãy vai được tháp bởi một đoạn gỗ thô vụng.

Ngày rời TNXP trở về, bà Thuần được bầu làm chủ tịch Hội phụ nữ xã. Lấy chồng, sinh được ba đứa con, đứa út chưa đầy bốn tuổi thì chồng bỏ đi theo người đàn bà khác. Bà tảo tần mấy chục năm nuôi con, không thoát khỏi khó nghèo, con cái chỉ học hết cấp II rồi lại quay về cùng mấy sào ruộng, đứa nào thoát ly được thì đi làm công nhân da giày tận miền Nam.

Đồ vật trong nhà của bà, như chúng tôi chứng kiến, chỉ là cái giường gãy. Bà cười với chúng tôi: “Ừ, thì nằm cái giường gãy như vậy nhưng vẫn ngủ ngon vì không còn nghe kẻng báo động, nghe tiếng máy bay, tiếng bom nổ như hồi xưa!”. Tuổi 63, những trận bom ở Truông Bồn cộng với tuổi tác đã khiến hai tai bà gần như điếc hẳn. Có lẽ sự lam lũ và khốn khó đeo đẳng suốt đời nên khi muốn hỏi bà về một điều gì đó bà đang mơ ước, cứ nghĩ bà Thuần sẽ mơ về một ngôi nhà tươm tất hơn, công ăn việc làm ổn định cho con cái hay ít ra bà sẽ mơ có cái giường lành lặn.

Nhưng không, bà không hề nghĩ đến cái giường gãy, không nghĩ đến những vất vả bao năm, mà chỉ băn khoăn thương xót chị em ngày ấy hi sinh sao mình còn sống! Sao những đồng đội chưa được phong anh hùng (bà vẫn chưa biết tin Chủ tịch nước vừa truy tặng danh hiệu anh hùng cho những liệt sĩ Truông Bồn)? Sao di tích Truông Bồn chưa được đàng hoàng to đẹp như di tích ngã ba Đồng Lộc?... Khi chúng tôi cho biết ngày 23-9-2008 danh hiệu anh hùng đã được truy tặng cho các liệt sĩ và sắp tới đây Truông Bồn sẽ được trùng tu xây dựng thành một khu tưởng niệm bề thế, xứng đáng với máu xương đã đổ xuống của anh chị em TNXP ngày ấy, bà Thuần cười rạng rỡ: “Ừ, có rứa chớ, bầy tui không sợ cực bằng sợ người đời quên!”.

Câu nói bột phát của bà Thuần “không sợ cực bằng sợ người đời quên” đã mang được thông điệp mà bắt đầu từ bây giờ người dân Nghệ An đang khởi động: làm sống lại huyền thoại Truông Bồn! Rồi nhiều thế hệ sẽ hành hương về đây, soi mình vào cuộc đời của những tuổi 20 đã mãi mãi dừng lại với ngày hôm qua, để hiểu hơn cái giá của mỗi ngày đang sống và có thêm sức mạnh đi tới ngày mai.

Truông Bồn là Truông “hồn”

Sau khi loạt bài về Truông Bồn đăng trên Tuổi Trẻ, bà Nguyễn Thị Thanh, một cựu TNXP của đại đội 317 hiện sống ở đường Nguyễn Trọng Tuyển, Q.Tân Bình (TP.HCM), đã liên lạc với Tuổi Trẻ. Những mạch ký ức của bà đã chắp nối thêm về ký ức oanh liệt và bi tráng của Truông Bồn. Đi qua chiến tranh, xuất ngũ, bà được đi học Trường trung cấp Lao động - tiền lương rồi tham gia công tác ở nhiều đơn vị.

Bây giờ ở tuổi 61, con cái đã trưởng thành, Truông Bồn vẫn là nỗi thao thức trong bà suốt mấy chục năm nay. Bà Thanh cho biết cuối tháng mười này anh chị em cựu TNXP của đại đội 317 sẽ họp mặt, bà sẽ về lại Truông Bồn dâng hương cho đồng đội. Giọng chị nghẹn ngào: “Truông Bồn chính là Truông “hồn”. Những linh hồn của đồng đội tôi vẫn còn in dấu ở đó! Biết bây giờ được phong anh hùng ai cũng mừng, nhưng với tôi ngoài niềm vui vẫn thấy day dứt! 40 năm mới phong anh hùng. Các liệt sĩ chẳng mấy ai còn được bố mẹ đang sống để nhận lấy vinh dự này của con cái mình!”.



LÊ ĐỨC DỤC - VŨ TOÀN


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: conghdv trong 19 Tháng Mười Một, 2008, 10:58:37 am
Bác Kevin viết bài nay hay wa > Em linh mới nhập ngũ ở dd này. Vốn là dân HDV du lịch tới đây em có tour đi Đường mòn 7 ngày từ TP.HCM Tới` Quảng Bình. Các bá giúp em một ít tư liệu nhé. Thanks


Tiêu đề: Đường Trường Sơn bí mật
Gửi bởi: thanhsondlbk trong 18 Tháng Năm, 2009, 02:50:05 pm
Thầy giáo em kể chuyện ngày xưa đi bộ đội đơn vị ông quản lý một đoạn đường bí mật ở Trường Sơn đó là toàn bộ tuyến đường được bộ đội ta trồng đỗ cô-ve che kín (Thầy giáo em bảo đến giờ vẫn còn sợ đỗ cô-ve vì ăn nhiều quá) hết mùa đỗ thì trồng cây dây leo khác để ngụy trang. Tuyến đường này chưa bao giờ bị lộ và chỉ phục vụ đi lại cho những đoàn công tác quan trọng. Tụi em há hốc mồm nghe mà không biết đúng hay sai nên hỏi các bác xem có đoạn đường nào như thế không? Nếu có sao không thấy ai nhắc đến vậy?


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: ahuuls trong 18 Tháng Năm, 2009, 09:23:56 pm
Theo thiển nghĩ của em cái này nó chỉ là 1 trong muôn vàn cách ngụy trang của bộ đội Trường sơn,nó không được nhắc đến vì cảnh ấy đối với bộ đội ta là chuyện bình thường,nó sẽ nổi tiếng nếu nó nổi bật vì 1 lí do nào đấy hoặc 1 trận đánh nổi tiếng.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: lixeta trong 23 Tháng Năm, 2009, 10:29:02 am
Chào các đồng đội!
Quả thật không cường điệu chút nào khi người ta (cả chúng ta và thế giới) đã gọi Đường Trường Sơn là con đường huyền thoại. Chỉ đi qua đó có một lần nhưng hơn 30 năm qua đi rồi vẫn còn đọng lại trong tôi những cảm xúc thật là sâu sắc và chắc là không bao giờ quên được. Không biết các đồng đội nghĩ thế nào, còn riêng tôi rất tâm đắc với hai câu thơ của Tố Hữu:
..."Trường Sơn đông nắng, tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa biết mình"...
Và tôi cũng nghĩ rằng: không có ngôn từ nào có thể kể hết những hy sinh của đồng bào ta, chiến sĩ ta trong KCCM nói chung và bộ đội Trường Sơn nói riêng.
Nhưng cũng có một vài điều cứ ám ảnh mãi trong tôi, xin chia sẻ cùng các đồng đội.
Trước hết, xin cảm ơn bạn rongxanh đã giới thiệu rất nhiều tư liệu tại BT Trường Sơn. Nhưng tôi cũng xin hỏi thật: các đồng đội của chúng ta trên QSVN này đã mấy ai biết BT này nằm ở đâu, mấy ai đã một lần đến đó và  các đồng đội suy nghĩ thế nào sau khi từ đó ra về ???
Riêng tôi- đó là một cảm giác hơi buồn, có phần cám cảnh sau một lần đến đó!
Trong khi quân đội có bao nhiêu mảnh đất rất đẹp, rất tiện lợi về đi lại, ngay TCT Trường Sơn- hậu duệ trực tiếp của BĐ TS cũng tọa lạc trên một vị trí rất đẹp ngay trên mặt đường Nguyễn Trãi thì BT Trường Sơn được người ta "dúi" vào một góc rất ư là khuất nẻo và xa trung tâm đến hơn 20 km. Muốn đi đến đó các đồng đội phải vượt qua TX Hà Đông, theo đường 6 đến Ba La và phải rất chú ý quan sát (hoặc phải hỏi thăm dân ở đấy) mới tìm đến được vì BT nằm cách đường 6 khoảng hơn 1 km, bên rìa một khu doanh trại cũ của 1 đơn vị nào đó thuộc BĐTS. Đến đó về rồi tôi cứ băn khoăn- chắc những người lựa chọn địa điểm này cho rằng "BT thì nhét chỗ nào chả được. Còn những mảnh đất đẹp kia nó sẽ còn đẻ ra vàng, bạc và làm lợi cho một số người". Thật tình, cứ nhìn sang cái anh chàng nghèo kiết xác như BCTTG mà cũng còn xây được cái BT ở Hoàng Quốc Việt thì mới thấy cảm cảnh cho truyền thống của BĐTS.
Có lẽ chính vì không có được một địa điểm gần trung tâm, thuận lợi cho đi lại... cho nên nói thực tình hiệu quả của BT này vô cũng hạn chế. Đồng đội có đến đấy thì cũng thấy chủ yếu là một không khí vắng lặng đến tẻ nhạt- "còn hơn chùa Bà Đanh. Đã thế lại còn thu tiền người vào xem nữa ??? (Đó là năm 2006, còn bây giờ tôi không biết có thu nữa hay ko?).
Và cũng có thể do quá ít khách thăm, ít có dịp được trau dồi kiến thức nên trình độ các nhân viên ở đây cũng khá là hạn chế. Các đồng đội có hỏi gì thêm ngoài bài giới thiệu thuộc lòng thì họ gần như không biết gì cả.
Các đồng đội bảo như thế thì có cám cảnh hay không? ??? ??? ???


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: ahuuls trong 23 Tháng Năm, 2009, 10:51:41 am
he.he.he cảm ơn bác Lixeta không có bài của bác em còn không biết có bảo tàng riêng của Binh đoàn Trường sơn nữa cơ.Mà bác ơi em đi qua chỗ BTLTTG ở Đông ngạc-Từ liêm thì phải từ hồi 1991-1992 thấy cơ ngơi cũng khang trang đấy ạ.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: TimeBreak trong 23 Tháng Năm, 2009, 12:33:58 pm
Bộ Tư lệnh Tăng Thiết giáp - tọa lạc tại khu vực đất thuộc xóm 2 - xóm 4 , xã Cổ Nhuế, Từ Liêm Hà Nội. Nếu so với Bảo tàng TTG thì quả thực là BT TTG có vị trí tọa lạc, bộ mặt khang trang hơn rất nhiều so với BTL. Đấy chính là cái em đánh giá rất cao : Những người lãnh đạo hiện thực tôn trọng Quá khứ.

Ấn tượng nhất là cổng BTL có hệ thống " con lươn" ép giảm tốc - có lẽ là đầu tiên, sớm nhất ở Hà nội, từ những năm 1993 - 1995 đã có, to, cao, rất hầm hố

Cổng BTL được làm cách điệu từ mặt trước chính diện của chiếc T54, nòng pháo dựng đứng hết cỡ  ;D

Suốt bao năm gắn bó với cái cổng ấy, giờ BTL đã sửa sang lại, cổng mới, lại theo motip " cổng thành nhà Mạc" khá phổ biến trong toàn quân, em đi qua cứ nhớ nhớ cái cổng cũ  :-[


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: lixeta trong 25 Tháng Năm, 2009, 06:13:17 pm
Bộ Tư lệnh Tăng Thiết giáp - tọa lạc tại khu vực đất thuộc xóm 2 - xóm 4 , xã Cổ Nhuế, Từ Liêm Hà Nội. Nếu so với Bảo tàng TTG thì quả thực là BT TTG có vị trí tọa lạc, bộ mặt khang trang hơn rất nhiều so với BTL. Đấy chính là cái em đánh giá rất cao : Những người lãnh đạo hiện thực tôn trọng Quá khứ.

Ấn tượng nhất là cổng BTL có hệ thống " con lươn" ép giảm tốc - có lẽ là đầu tiên, sớm nhất ở Hà nội, từ những năm 1993 - 1995 đã có, to, cao, rất hầm hố

Cổng BTL được làm cách điệu từ mặt trước chính diện của chiếc T54, nòng pháo dựng đứng hết cỡ  ;D

Suốt bao năm gắn bó với cái cổng ấy, giờ BTL đã sửa sang lại, cổng mới, lại theo motip " cổng thành nhà Mạc" khá phổ biến trong toàn quân, em đi qua cứ nhớ nhớ cái cổng cũ  :-[

Quê chỉ được cái nói đúng thôi!
Còn cái cổng cũ chắc không chỉ một mình quê nhớ. Oai phong thế cơ mừ. Nòng pháo dựng đứng hết cỡ! ;D
Cảm ơn quê nhé! ;D


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: baogt trong 25 Tháng Năm, 2009, 06:36:11 pm
Bộ Tư lệnh Tăng Thiết giáp - tọa lạc tại khu vực đất thuộc xóm 2 - xóm 4 , xã Cổ Nhuế, Từ Liêm Hà Nội. Nếu so với Bảo tàng TTG thì quả thực là BT TTG có vị trí tọa lạc, bộ mặt khang trang hơn rất nhiều so với BTL. Đấy chính là cái em đánh giá rất cao : Những người lãnh đạo hiện thực tôn trọng Quá khứ.

Ấn tượng nhất là cổng BTL có hệ thống " con lươn" ép giảm tốc - có lẽ là đầu tiên, sớm nhất ở Hà nội, từ những năm 1993 - 1995 đã có, to, cao, rất hầm hố

Cổng BTL được làm cách điệu từ mặt trước chính diện của chiếc T54, nòng pháo dựng đứng hết cỡ  ;D

Suốt bao năm gắn bó với cái cổng ấy, giờ BTL đã sửa sang lại, cổng mới, lại theo motip " cổng thành nhà Mạc" khá phổ biến trong toàn quân, em đi qua cứ nhớ nhớ cái cổng cũ  :-[

Cổng cũ bị phá bỏ và xây lại theo mẫu chuẩn của các BTL rồi bác ạ, mới hoàn thành đầu tháng này. Cảnh cổng cũ chắc đi sắt vụn rồi.
Và địa điểm là xóm 7 chứ không phải là 2 hay 4 đâu.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: chiangshan trong 19 Tháng Chín, 2009, 01:03:29 pm
(http://i496.photobucket.com/albums/rr325/chippymick/hcmexpressway.jpg)

Nguồn: ACG (http://www.armchairgeneral.com/forums/showthread.php?t=82436&page=3)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: napoleon trong 19 Tháng Chín, 2009, 04:33:10 pm
1973 sau khi Mỹ rút, ta mới có thể đi đoàng hoàng vào ban ngày trên đường Trường Sơn. Hoành tráng thật, nhiều xe quá ;D


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Trinhsat trong 16 Tháng Mười, 2009, 10:25:24 pm
        Từ sau 1973, chuyển quân trên Trường sơn phần nhiều dùng xe tải (xe zin khơ). Tuy nhiện các đường nhánh vẫn phải đi bộ, nhất là mùa mưa.

      Các con đường trục dọc như trong ảnh, bụi vô cùng. Bụi trên mặt đường mịn tơi và thường ngập cỡ 40 phân.

      Lính ngồi xe tải không mui sau một cung đường đi đêm, đeo khẩu trang mà bụi bám dày cả lớp chỗ có hơi nước thỏe ở mồm. Còn đầu tóc tai thì như nhuôm bạc. Lông mày trắng phớ.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: daothidiemkieu trong 25 Tháng Mười Hai, 2009, 11:15:53 pm
hay quá, em là lính mới ạ.
nhà có nguyên 1 cuốn về Trường Sơn nhưng chưa dc đọc hết, bận học mà.
cảm ơn anh chị nhiều


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: lonesome trong 20 Tháng Giêng, 2010, 04:37:16 pm
(http://www.tlc-brotherhood.org/hochiminh69.jpg)

Đường HCM gần Bản Ban - Lào


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: lonesome trong 20 Tháng Giêng, 2010, 04:37:49 pm
(http://www.tlc-brotherhood.org/airstrike.jpg)


Tiêu đề: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:42:05 pm
(tài liệu do @bodoibucket sưu tầm)
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855851_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-01---bia/v/8855851.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:43:51 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/LT0.8855853_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-02/v/8855853.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:44:59 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/LT0.8855857_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-03/v/8855857.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:45:49 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/LT0.8855858_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-04/v/8855858.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:46:39 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855859_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-05/v/8855859.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:47:37 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/SC0.8855862_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-06/v/8855862.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:48:28 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/3L0.8855864_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-07/v/8855864.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:49:09 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/LK0.8855865_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-08/v/8855865.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:50:06 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855869_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-09/v/8855869.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:50:38 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/LT0.8855871_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-10/v/8855871.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:51:37 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855872_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-11/v/8855872.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:58:32 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855876_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-12/v/8855876.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 02:59:20 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/5A0.8855880_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-13/v/8855880.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:00:01 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855884_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-14/v/8855884.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:00:39 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855891_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-15/v/8855891.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:01:20 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/3L0.8855900_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-16/v/8855900.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:02:07 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/VZ0.8855910_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-17/v/8855910.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:02:38 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/GL0.8855913_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-18/v/8855913.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:03:10 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855919_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-19/v/8855919.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:05:18 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/EG0.8855926_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-20/v/8855926.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:05:58 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855928_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-21/v/8855928.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:06:36 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855931_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-22/v/8855931.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:07:12 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/C20.8855940_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-23/v/8855940.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:07:47 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/3L0.8855942_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-24/v/8855942.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:09:14 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855948_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-25/v/8855948.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:09:54 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/XV0.8855950_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-26/v/8855950.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:11:06 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/NT0.8855957_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-27/v/8855957.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:11:41 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855963_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-28/v/8855963.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:12:20 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/790.8855965_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-29/v/8855965.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:12:57 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855969_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-30/v/8855969.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:13:37 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/3L0.8855970_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-31/v/8855970.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:14:14 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/BA0.8855976_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-32/v/8855976.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:14:48 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/3L0.8855980_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-33/v/8855980.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:15:26 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855983_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-34/v/8855983.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:16:03 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/TD0.8855984_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-35/v/8855984.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:17:06 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855988_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-36/v/8855988.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:17:40 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8855990_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-37/v/8855990.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:26:54 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/EG0.8855996_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-38/v/8855996.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:27:17 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/SC0.8855998_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-39/v/8855998.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:28:06 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/TL0.8855999_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-40/v/8855999.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:28:34 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/ZL0.8856001_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-41/v/8856001.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:29:49 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/UL0.8856004_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-42/v/8856004.htm")


Tiêu đề: cho em hỏi ai biết đường 28 Trường Sơn
Gửi bởi: Gà_BH trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:30:04 pm
Dạ cho em hỏi có ai biết đường 28 Trường Sơn ko nếu có thì post lên cho em


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:30:26 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/S50.8856007_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-43/v/8856007.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:31:06 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/TL0.8856008_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-44/v/8856008.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:31:38 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8856010_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-45/v/8856010.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:32:14 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/3L0.8856011_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-46/v/8856011.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:32:47 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/LT0.8856013_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-47/v/8856013.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:33:21 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/5A0.8856014_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-48/v/8856014.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:41:38 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/3L0.8856016_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-49/v/8856016.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:42:14 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/CS0.8856017_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-50/v/8856017.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:42:38 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/C20.8856018_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-51/v/8856018.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:43:44 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/3K0.8856022_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-52/v/8856022.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Trên Lầu trong 03 Tháng Tư, 2010, 03:44:43 pm
(http://c.upanh.com/upload/4/725/ZL0.8856023_29458_1.jpg) (http://"http://www.upanh.com/page-53/v/8856023.htm")


Tiêu đề: Re: Trung đoàn vận tải ô tô 13 (Trường Sơn) - sách ảnh.
Gửi bởi: Nguoixaquehuong trong 16 Tháng Tư, 2010, 09:49:31 am
Có bác nào có thông tin về các đơn vị ô tô vận tải trong KCCM không ạ?
Bố em nói là bố em thuộc đoàn xe 28 Hà Nội mà em tìm trên mạng không có.


Tiêu đề: Một vài thắc mắc về Binh đoàn 559
Gửi bởi: jasmine2011 trong 02 Tháng Tư, 2011, 04:02:29 pm
Chào các bác và các anh.
Trường cháu sắp tổ chức buổi ngoại khóa lich sử phục vụ ba bài học trong chương trình về thời kì chống Mỹ. Cháu có nhiệm vụ tìm tư liệu về các chiến sĩ vận tải. Các chiến sĩ Lữ đoàn 125 hải quân thì cháu tìm rồi, còn về binh đoàn Trường Sơn thì Google mãi mà chỉ toàn thứ vơ vẩn thôi bác ạ. Các bác cho cháu hỏi mấy vấn đề sau:
1, 9 sư đoàn của binh đoàn 559 và chức năng? Cháu chỉ biết có 968 bộ binh với 471,571 ô tô thôi.
2, Tư lệnh các lực lượng trên đường Trường Sơn vào các thời điểm của cuộc chiến. Nhất là Đại tá Võ Bẩm và Đồng Sĩ Nguyên.
3, Quy mô của 559 và tiền thân 559 theo từng thời kì.
4, Nếu có thể, có ông hay bác nào là lính Trường Sơn và vượt Trường Sơn năm xưa cho cháu xin một đoạn hồi kí. Xin các ông, các bác cho biết rõ cả tên đơn vị.

Cháu xin cảm ơn nhiều.
TB: Tháng trước bọn cháu còn làm cả về vụ 14/3/1988 cơ ạ. Được cái là cô giáo Sử không hề e ngại đụng đến vấn đề này. Còn tháng sau, bộn cháu làm về Thành cổ Quảng Trị. Có bác nào thuộc Trung đoàn Triệu Hải vào 1E ra 1A cho cháu hỏi thăm với.


Tiêu đề: Re: Một vài thắc mắc về Binh đoàn 559
Gửi bởi: chiangshan trong 02 Tháng Tư, 2011, 05:44:52 pm
1, 9 sư đoàn của binh đoàn 559 và chức năng? Cháu chỉ biết có 968 bộ binh với 471,571 ô tô thôi.

8 sư đoàn: 968 bộ binh; 471, 571 ô tô vận tải; 377 phòng không; 470, 472, 473, 565 công binh.

Trích dẫn
2, Tư lệnh các lực lượng trên đường Trường Sơn vào các thời điểm của cuộc chiến. Nhất là Đại tá Võ Bẩm và Đồng Sĩ Nguyên.

Các TL: Võ Bẩm (5/1959-4/1965), Phan Trọng Tuệ (4/1965-11/1965), Hoàng Văn Thái (11/1965-12/1966), Đồng Sĩ Nguyên (12/1966). Thông tin cụ thể của các vị này thì xem trong topic http://www.quansuvn.net/index.php/topic,1667.0.html hoặc hỏi trực tiếp tay Lốp ;D

Trích dẫn
3, Quy mô của 559 và tiền thân 559 theo từng thời kì.

Ối giời, cái này thì quá khủng, không thể trả lời trong 1, 2 bài được. Bạn có thể đọc hồi ký của tướng Đồng Sĩ Nguyên (http://www.quansuvn.net/index.php?topic=94.0) để tự tổng kết.

Trích dẫn
4, Nếu có thể, có ông hay bác nào là lính Trường Sơn và vượt Trường Sơn năm xưa cho cháu xin một đoạn hồi kí. Xin các ông, các bác cho biết rõ cả tên đơn vị.

http://www.quansuvn.net/index.php/topic,3330.0.html
http://www.quansuvn.net/index.php/topic,2805.0.html


Tiêu đề: Re: Một vài thắc mắc về Binh đoàn 559
Gửi bởi: quangcan trong 02 Tháng Tư, 2011, 06:40:23 pm
Cô giáo sử của bạn có vẻ rất hay nhỉ,  ;D. Nghiên cứu về 559 thì tài liệu nhiều lắm nhưng rất đa dạng và sâu, bạn nên xác định một vài điểm chính sẽ quan tâm hoặc trình bày tại buổi ngoại khóa thôi, như vậy mới có chất lượng. Như thế thì trang nhà dư sức giúp bạn,  ;D


Tiêu đề: Re: Một vài thắc mắc về Binh đoàn 559
Gửi bởi: jasmine2011 trong 03 Tháng Tư, 2011, 04:21:05 pm
Cảm ơn rất nhiều
Nhưng về cái vụ quy mô của 559 thì tìm mãi không thấy.
Nhớ không nhầm thì năm 68 559 được lên quy mô Sư đoàn, còn năm 70 lên quân đoàn thì phải


Tiêu đề: Re: Một vài thắc mắc về Binh đoàn 559
Gửi bởi: panphilov trong 03 Tháng Tư, 2011, 07:00:54 pm
Cảm ơn rất nhiều
Nhưng về cái vụ quy mô của 559 thì tìm mãi không thấy.
Nhớ không nhầm thì năm 68 559 được lên quy mô Sư đoàn, còn năm 70 lên quân đoàn thì phải

 Trong quân sự đông tây kim cổ, thì hậu cần giữ vị trí vô cùng quan trọng quyết định cách đánh, quy mô đánh đồng thời tương lai phát triển... Nhìn vào sự phát triển của hận cần ta có thể nhận biết được những điều trên. Cho nên, khi trình bày sự phát triển của Đường Trường Sơn thì bạn phải gắn với sự phát triển, từng thời kì của Cách mạng miền Nam, với quy mô và cách đánh của Quân Giải phóng Miền (du kích -> tiểu đoàn -> trung đoàn -> sư đoàn -> quân đoàn).



Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 16 Tháng Năm, 2012, 09:37:08 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 1

http://www.youtube.com/watch?v=9CEdUGnd-mU


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 17 Tháng Năm, 2012, 08:39:06 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 2

http://www.youtube.com/watch?v=JNK5z-xBwkI


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 18 Tháng Năm, 2012, 07:42:12 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 3

http://www.youtube.com/watch?v=Iwej0Ok9BF0


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 20 Tháng Năm, 2012, 11:39:19 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 4

http://www.youtube.com/watch?v=U-X8XC4LuLQ


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 21 Tháng Năm, 2012, 06:26:18 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 5

http://www.youtube.com/watch?v=XUdKnCAYNT8


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 22 Tháng Năm, 2012, 10:13:31 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 6

http://www.youtube.com/watch?v=8CG5JPpV8UY


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 23 Tháng Năm, 2012, 06:32:58 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 7

http://www.youtube.com/watch?v=hWUBhq2btR0


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 24 Tháng Năm, 2012, 01:15:43 pm
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 8

http://www.youtube.com/watch?v=zSy0_5XlpGI


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 25 Tháng Năm, 2012, 07:04:27 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 9

http://www.youtube.com/watch?v=OMPXMPYj3gU


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 26 Tháng Năm, 2012, 09:51:57 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 10

http://www.youtube.com/watch?v=2Blx8QPskF8


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: longtt88 trong 28 Tháng Năm, 2012, 07:24:34 am
Nơi Huyền Thoại BẮT ĐẦU - Tập 11

http://www.youtube.com/watch?v=VLPV2_ltoJ8


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:25:03 pm
Tập thơ này LSV1972 đang đăng ở mục Chúng tôi lính F5, MT479. Tuy nhiên thấy không phù hợp với tiêu chí của topic đó nên chuyển sang đăng tại topic này. Ai thích đọc thì đọc, chẳng thích thì thôi không sao! LSV1972.
***************
(http://linhsinhvien.vnweblogs.com/gallery/33592/previews-med/428252-Quang2.jpg)

KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN

CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
*********************
LSV vừa nhận được thư anh Thế Lộc gửi tới kèm theo bài thơ "Ký ức Trường Sơn" của anh Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8). Đây gần như là một bản "trường ca" của đời lính trẻ trong huấn luyện và chặng đường hành quân ra trận. Những vần thơ như thế chỉ có người lính đã từng hành quân trên đường Trường Sơn ra trận mới mô tả chính xác và thấu hiểu sâu sắc được. Ngày đó, đoàn 2013 và 2018 luôn hành quân cùng nhau trên một chặng đường, cùng nghỉ ăn tết Quý Sửu tại Binh trạm 6, Tây Trường Sơn (thuộc tỉnh Khăm Muộn, bên Lào), nhiều đồng đội lính trong đoàn 2018 là người Hải Phòng và Hải Dương).
Chân thành cảm ơn anh Thế Lộc, xin phép anh Thiều Quang Thạch được đăng tải lên QSVN cho bạn bè đồng đội thưởng thức để nhớ về thời kỳ hành quân ra trận đầy gian nan vất vả. (Vì bản "trường ca" này khá dài nên LSV phải tách ra nhiều phần, rất mong được thông cảm!)

Trân trọng giới thiệu với đồng đội và bạn hữu - LSV


*****************
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (1)

Mười ngày phép đã qua, mai con về Yên Tử
Chỉ còn gần cha mẹ đêm nay
Quê nhà chưa xa mà con đã nhớ
Tuổi thơ ngọt ngào, bay bổng – cánh diều bay.

Con thức trắng, chẳng mình con không ngủ
Đóm thuốc lào trong tay cha cháy đỏ năm canh
Mẹ cứ vào-ra, ngắn-dài than thở
Mai con lên đường! Sao đêm chỉ có năm canh?

Về Yên Tử - hội quân nhận súng
Mai con lên đường, thương quá mẹ ơi.
Tiết Đông hàn, chết cóng từng vuông mạ.
Tiễn con lên đường, trán mẹ đẫm mồ hôi.

Bữa cơm chiều nay, trọn đời con nhớ
Biết có còn, đoàn tụ đủ hay không?
Mẹ thịt nốt mái gà đang nằm ổ
Con gắp trên tay, mà nước mắt lưng tròng.

Thôi! Sáng mai này, con lên Yên Tử
Đường vào Nam, cách trở ngàn trùng.
Biết bao lớp trai làng ra trận
Người đi thì có, người về có không?
......
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:27:44 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(http://linhsinhvien.vnweblogs.com/gallery/33592/previews-med/Quang-1.jpg)

(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (2)
...
Chỉ còn đêm nay, con gần bên mẹ
Đêm chiến tranh, không có nổi một vì sao
Không có sao bầu trời cô đơn tuyệt vọng
Phải xa con, mẹ đau khổ biết nhường nào.

Gác học của em đèn không đủ sáng
Chẳng dám khêu lên, sắp hết dầu rồi
Mắt thì khóc, miệng cười mẹ bảo
Thằng em mày lớn lên, chắc hết đánh nhau rồi.

Nếu có thể ... đưa em về Yên Tử
Mơ mộng đèo Vàng, thênh thang đèo gió
Ông Yên Sinh Vương - hóa đá cổng trời
Núi mang tên ông đã trải ngàn đời

Từ cổng trời qua bàn cờ tiên huyền bí
Tay người tạc lên hay kiệt tác thần tiên?
Em sẽ đến chùa Đồng tôn nghiêm, kỳ vỹ
Nơi vua Trần Nhân Tông - Phật tổ trúc lâm thiền.

Ba lăm tuổi, vua không làm vua nữa
Vua lên chùa gõ mõ niệm ... nam mô
Người chiến binh Bạch Đằng, khoác áo nâu phật tử
Cởi bỏ hoàng bào, mặc áo vải thô.

Lên đỉnh cao 1008 mét
Có con ốc, con nghêu, cây sú, cây bần…
Nơi vũ trụ và đại dương đã từng hội tụ
Cô tiên vẫn còn say giấc ngủ ngàn năm.

Lên núi nhìn qua, một dải Bắc Giang
Voi hóa núi, đủ 99 con tề chỉnh
Còn một thớt voi, lẻ bầy đơn lạnh
Trời chém cụt đầu, vì chẳng phục về nam

Có tiếng mõ trâu, bản Thanh Nhi, trong chiều nhạt nắng vàng         
Vó ngựa rộn ràng, chợ phiên Năm Mẫu
Lán trú quân, nằm ven bờ suối
Vách nứa thưa, ngăn sao nổi gió Đông lùa.

Dòng sông nhỏ rồi sẽ ra biển lớn.
Con lên đường thành giải phóng quân
Hà Nội, Hải Phòng … dậy trời bom nổ
Qua Đông lạnh rồi, trời sẽ lập xuân.
   
Buổi chia tay lặng lẽ, sáng mùa Đông
Hành trang lớn, trong cuộc đời chiến sỹ
Điểm tựa chúng con chính là lòng mẹ
Tần tảo – nhọc nhằn ... lặng lẽ bình minh.

Nhiều thời khắc trong đời con đã trải.
Mười ngày phép kia, con ghi khắc trong lòng
Cái buổi xuất quân, không thể nào không nhớ
Hơn 30 năm rồi – ngày ấy trẻ trung
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:32:38 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (3)
...
Bạn cứ than … dạo này bệnh quá
Năm mấy tuổi rồi, đâu phải tuổi hai mươi
Cái tuổi lấy bom bi làm đèn đốt nghịch
Chân đạp lún Trường Sơn, đầu kiêu hãnh đội trời.

Chẳng phải chuyện hoang đường hay cổ tích
Trong khó nguy, vẫn tươi rói miệng cười
Ba lô cóc, đè ngang thân đói lả
Chân gầy run, đè ngang dốc cổng trời.

Tuổi hai mươi có gì ngăn cản nổi
Vết chân người mòn lõm đá Trường Sơn
Nếu sau này có đoàn người thám hiểm
Tưởng nơi đây có dấu chân thần.

Đêm lạnh quá rắn chui vào túi cóc
Nghe tiếng Tắc kè đoán được nắng mưa
Điếu cày rít, nghiêng núi rừng Khăm Muộn
Rau Tập tàng, nhiều bữa giúp cầm hơi.

Sang bờ nam sông Ranh bằng sà lan
Cuộc chiến 300 năm mờ theo bến cũ
Các ông chúa đánh nhau và mở mang bờ cõi
Có thức dậy cùng ta – hành phương Nam!

Cự Nẫm, sương sớm mờ giăng ngang
Nghỉ lại làng Ho, Trường Sơn phía trước ngút ngàn
Làng nhỏ-bến dân cuối cùng, trước đại dương hiểm họa
Gửi lại hậu nhân, dòng lưu bút gốc tre già.

Nắng rát lửa, rồi mưa rừng ập tới
Dép Trị Thiên tụt vượt bụng chân 
Mìn biệt kích sát hại năm đồng đội
Chiều cuối Đông, tai họa bất thần.

Nhớ Tết năm xưa trạm sáu (T6) đón xuân
Chỉ có cho con, một nửa bánh chưng
Mẹ gượng dậy, sau bom thù rải thảm
Bánh lạt không nhân nhưng tình nghĩa mặn nồng.

Chiếc bánh lạt năm xưa giờ ta còn nhớ
Hai thằng chung một chiếc giữ ấm lòng
Kẹo Hà Nội sáu anh một chiếc
Thuốc Điện Biên lấm tấm mốc xanh

Tết xa nhà, nghe lòng bâng khuâng quá
Những trận cười, vẫn nghiêng ngả rừng cây
Con gái Lào bỏ ngực trần vào bãi
Lính tò mò đu đẩy … thấy hay hay...
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:33:31 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (4)
...
Mới thấy đó, mà đã ba mươi năm lẻ
Bỗng nhiên mình tuổi ngoại năm mươi
Vẫn thủy chung đi tìm đồng đội
Những cánh buồm còn lạc đâu đó ngoài khơi

Thắp nén nhang, viếng nghĩa trang Cái Bè, Cai Lậy
Những bia mộ chỉ đề quê miền Bắc
Những chàng trai có họ, có tên đi đánh giặc
Ngã xuống rồi, chỉ còn mộ vô danh.

Thôi cứ về đi, hãy để bạn nằm yên
Những chiến hữu kiên cường, không họ không tên
Sống mãi trong ta, những người đồng chí
Yên Tử xuất quân, giờ nằm nghỉ ở bưng biền.

Xa Yên Tử năm nào, giờ vẫn nhớ núi Cô Tiên
Cô thanh thản, gối đầu lên trời biếc
Ngực vồng cao hừng hực sức xuân
Khăn trinh nữ trắng ngần quấn cổ.

Từ huyền thoại ngàn năm, cô tiên bước vào đời
Để đêm lạnh thức làm người gác lửa
Mới canh tư, đã thấy có em ngồi
Đồi Sim vụng về, gỡ làn tóc rối
Nước mắt chia tay, lưu luyến bồi hồi.

Chẳng có người thân đến đây đưa tiễn
Chỉ có các em, bịn rịn vẫy tay đưa
Nắng mai nhuộm vàng, đồi Ba Cô hiu quạnh
Vạn dặm đường xa, nào ai dám hẹn hò
Chúng mình ra đi, không để lại một bến chờ.

Những kỹ sư mới ra trường, cầm ngay khẩu súng
Những thợ cả, thợ hai vững vàng năng động
Những thợ cày chất phác chân quê
Và những chàng trai thành phố lắm đam mê…
Đã ra đi không hẹn ngày trở lại.

Chúng mình ra đi, không một cuộc hẹn hò
Tượng gạo vắt vai, ba lô cóc trên lưng
Những hạt gạo lẫn mảnh bom, mảnh pháo
Những hạt gạo cháy bầm như máu
Thành cơm rồi, vẫn còn khét hơi bom.
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:34:39 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (5)
...
Hạt gạo quê ta, gánh gồng mưa bão
Mẹ thắt chặt dây lưng, em đứt bữa nuôi quân
Đội bom đạn, gội nắng mưa ra trận
Đến được Trường Sơn, trải qua lắm gian truân

Mốc, mục, mọt, gạo ơi hời gạo
Xác gạo bồng bềnh, con cá suối vẫy đuôi
Cơm gạo mốc giúp tôi rèn chí khí
Dễ dầu gì, mang danh lính Trường Sơn!

Những hạt gạo đau thương, nhiều bữa cũng chẳng còn
Bản xa đổi mớ rau, củ sắn
Bữa đại tiệc trong rừng sâu, núi thẳm
Chỉ đơn thuần là một bữa no.

Chàng lính cận đeo kính vào bản vắng
Dân bản chạy nhào, la hoảng hốt –phu mi!
Bó nhỏ, bó to cũng đồng giá trị
Bộ đội ưng gì, đổi lấy mang đi.

Thăm thẳm núi cao, hun hút rừng sâu
Sát cánh bên nhau, những người đồng đội
Đùm bọc, chở che không mệt mỏi
Vì bạn sẵn sàng đeo nặng hơn.

Ngày, tụi OV-10 lắc láo, ngó dòm
Đêm, bọn C-130 bắn dai như bò đái
Cả đất, cả trời không giây phút bình yên
Hiểm họa khôn lường rình rập suốt ngày đêm

Đi ta đi, thành lính Trường Sơn
Chẳng biết đã vượt qua bao sông, bao suối
Chẳng thể nhớ đã vượt qua bao rừng, bao núi
Ta vượt lên chính mình để đến miền Nam.

Ngày ta đi, mìn phong tỏa giăng ngang sông Cấm
B52 rải thảm nội thành
Huyếch hoác nhân quyền, huênh hoang dân chủ
Mùa giáng sinh, trút bom xuống cả nhà thờ.

Ngày ta đi chúng mình còn trẻ cả
Chỉ một đôi anh kịp lập gia đình
Chỉ một đôi chàng yêu đương lớ ngớ
Năm trăm thằng, khi ấy vẫn trai tân.
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:35:37 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (6)
...
Những năm ấy, chúng mình qua trường Sơn
Trường Sơn! Trường Sơn! Còn khó nguy nào hơn?
Dưới chân, đá bén như dao sắc
Cây rừng, dốc dựng tựa thang trời

Núi ngồi lên núi, rừng nối rừng
Phía trước vẫn còn núi cao hơn
Ai bảo lên trời không có lối?
Nhà trời để cổng ở Trường Sơn!

Những người lính chúng ta đi qua cổng nhà trời
Chỉ với lưng gô cơm và tý teo ruốc muối
Thân sũng mồ hôi, mệt bã người
Đến trạm dừng cũng chẳng được nghỉ ngơi.

Phân nhau đào hầm, đào bếp tả tơi
Đứa khiêng nước, đứa kiếm rau rừng làm bữa
Trạm năm bẩy (T57), gạo cũng không còn nữa
Lá bứa chua, chỉ làm bụng đói thêm
Cái đói ngặt nghèo, làm héo cả rừng đêm.

Lắm thác dữ nên sông mang tên Bạc
Vẫn dành lại cho ta một bến hiền
Đoàn vừa qua sông, máy bay thù ập đến
Cảm ơn nhiều, trạm sáu mốt (T61) giao liên.

Bám dây cáp ngầm vượt Xê Băng Hiêng
Sông kiêu hãnh gầm gào tung bọt trắng
Sông chẳng xô ta nhào vực thẳm
Có tình thân đồng đội kết thành dây

Hơn ba tháng Trường Sơn giầy vẹt gót
Áo sờn vai có gió rét rừng Lào
Đồng đội bên nhau võng kề bên võng
Điếu thuốc chuyền nhau bớt lạnh giữa rừng già

Mỗi ngày mới lại đi trên đường mới
Ba lô trên vai rồi còn lưu luyến chốn qua đêm
Những cọc phụ, giá ba lô, hầm tạm
Cũng âm thầm đỡ bước ta đi.

Trên đỉnh Trường Sơn những cánh rừng trút lá
Truyền đơn thù rải trắng xóa Trường Sơn
Chốn rừng sâu cái gì cũng thiếu
Lính nhặt truyền đơn làm đóm hút thuốc lào...
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:38:42 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (7)
...
Trạm 36 nhìn sang đồi 31
Cao điểm ngổn ngang cây đổ, đá lăn
Hố pháo, hố bom chồng lên nhau dữ dội
Trận địa vừa im tiếng súng nửa tuần trăng.
         
Đường 9 mềm như cầu dải yếm
Kết nối tình Lào–Việt anh em
Xe, pháo Mỹ cháy đen đường đất đỏ
Cao điểm ven đường loang nổ hố bom

Pháo ngụy vẫn bắn xăm, bom Mỹ đều đều tọa độ
Trúng pháo, cây rừng còn cháy đỏ từng đêm
Gác lại đau thương, rộng lòng che chở
Rừng giúp mình vượt lộ bình yên.

Bên kia đường vẫn còn quả bom khoan
Bên đây đường vẫn còn bom nổ chậm
Và đâu đó vẫn còn mìn cóc
Nối tiếp chân nhau không được bước lạc đường.

Đổ dốc hành quân nghiêng về trạm 63 (T63)
Gặp em gái má hồng, mắt đen lúng liếng
Em là thanh niên xung phong-hay dân công hỏa tuyến
Bối rối lòng quân, gió núi ngập ngừng.   
   
Thôi ? Anh cứ gọi em là đồng chí
Em đẹp thế kia, em trẻ thế kia mà…
Biết em có vượt qua cuộc chiến
Khuất bóng em rồi, lòng chưa thôi xót xa.
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:42:15 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN-8
...
   
Trạm 64 bên dòng sông Sê San
Vượt núi ba giờ đến kho gạo cháy
Đeo gạo cháy bốn giờ về đến trạm
Đồng đội đón ta như đón những anh hùng.
 
Núi thẳm, đèo cao, rừng rậm bịt bùng
Thừa đói khát, quá nhiều bom đạn Mỹ
Năm ngày hành quân, một ngày dừng nghỉ
Rồi cũng quen dần cùng mũi chỉ đường kim
  
Ba mươi mấy năm rồi vẫn đỏ như son
Những gương mặt trẻ trung bè bạn
Hiểm họa, khó nguy vô cùng vô tận
Nụ cười trên môi, vẫn cứ nụ cười hồng.
  
Có những hôm, trời mịt tối mới về đến trạm
Càng lên cao, càng lễnh loãng gió trời
Bãi phụ đêm thải ra toàn thán khí
Ngày kiệt sức rồi, đêm lại giấc ngủ vơi
 
Tấm đắp xé đôi, nằm ngủ có lạnh lưng
Võng sẻ phần ba, nằm nghiêng còn té
Những tấm ảnh Ái Vân và ảnh cha già nữa
Cũng tần tảo cùng mình đổi bữa no
 
Ngày vượt Trường Sơn chúng mình thật vô tư
Có cãi vã nhau vì những điều vô cớ
Có giận dỗi và đôi co đâu đó
Rồi lại chia nhau cả riêng tư và…điếu thuốc cuối cùng
Gian khổ san đều, quyền lợi chẳng ai hơn
Thường xưng mày tao, lúc họp hành gọi nhau đồng chí.
 
Thôi tạm biệt Trường Sơn hùng vĩ
Xin chào! Xin chào những cánh rừng nguyên thủy    
Ba bốn tầng cây che chở cho nhau
Có những cơn mưa nước không ướt đất
Có những cây che, đất bớt xói đau.
 
Xin chào! Xin chào! Núi cao, dốc đứng
Dắt tay nhau lên từng bậc cổng trời
Gậy Trường Sơn đưa chúng mình xuống núi
Cảm nhận cái nặng từ trên ba lô có chiếc lá rừng rơi.
 
Xin chào! Xin chào! Âm thanh rừng núi
Đêm bỗng tan trong tiếng vượn gọi bầy
Tiếng mang tác thiết tha tìm bạn
“Bắt con tép kho cà” tiếng chim rừng dứt dạ từng đêm.
 
Xin chào nhé những dòng suối khát
Đá mẹ, đá con đầu trọc ngóng mưa trời
Lính dành nước hiếm hoi cùng bầy đàn nòng nọc
Nước sậm màu cà phê muốn uống phải nín hơi.
 
Chào tạm biệt những dòng sông thác bạc
Sau cơn mưa tung bờm trắng về xuôi
Máu và mồ hôi chúng mình trải dài đường nam tiến      
Góp một nét son vào trang sử Trường Sơn huyền thoại muôn đời.
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:48:19 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (9)
...
Ta nhớ những đêm võng treo đầu núi
Súng gối đầu nằm ngắm trăng khuya
Và mơ tới một ngày về gặp mẹ
Bỗng giật mình bởi pháo bắn cầm canh
 
Nhớ! Nhớ mãi! Những buổi đi võng nước
Phân thằng cao thằng thấp một đôi
Lùn leo trước thân gấp hình thước thợ
Cao đẩy sau nhón gót hụt hơi
 
Rồi có bữa nước sắp về đến bãi
Bỗng tụt khiêng bạn chỉ biết kêu trời
Giọt nước dưới khe bò lên đỉnh núi
Miếng nước nào cũng thấm mặn mồ hôi.
 
Cảm ơn nhé cây sâm cau và nồi canh môn thục
Giúp sức ta ròng rã vượt đường xa
Những mớ rau tầu bay trảng trống
Cả tiếng chim “khó khăn khắc phục” thiết tha
 
Xin chào nhé bạn Vân Kiều trần lưng gùi đạn
Chị Lào Thơng em gái Lào Lùm
Họ chất phác như cây rừng gió núi
Với bộ đội “Cụ Hồ” chỉ một dạ tin thương
 
Chào Trường Sơn hào hùng ở lại
Ta xuống rừng bằng mang theo niềm kiêu hãnh
Chúng mình chưa bước vào trận đánh
Nhưng lò luyện Trường Sơn đã hóa thép gang rồi.
 
…và vất vả ngẩng cao đầu bước tới
Buốt xé gan chân, nắng dội lửa trời
Cây xăng lẻ cũng xé thân ra để thở
Nắng lặn hết vào người, áo quần chẳng kịp thấm mồ hôi.
 
Nào bắt tay nhau tạm biệt bạn ơi
Ngã ba Đông Dương kìa chiến trường đi tới
Bạn về B3 Tây Nguyên vẫy gọi
Tiểu đoàn mình vào Nam Bộ B2
 
Ta vượt Sê Công sang bờ tây
Con trâu bản chết sình suối cạn
Bãi trú quân trạm giao liên 78
Lính được tắm sông, sướng cả đời

Tìm nước uống, lợn lạc vào bãi khách
Lợn rừng con rơi xuống hố củ mài
Những chú khỉ lom khom quỳ mỏm đá
Thợ săn đêm thấy bé ngại mang về.
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:50:43 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (10)
...
Vẫn mùa khô nắng rộp đất bỏng trời
Ta mới biết trong nắng Lào có sóng
Áo quân phục khô ròn bánh tráng
Bước chơi vơi, mắt thấy lắm hoa vàng

Mình thiếu rau, dù chỉ nắm tập tàng
Như vẫn hái trên Trường Sơn núi thẳm
Chỉ có những bụi cây gai còn lại chút xanh trong nắng hạn
Tháng ngày này lại chợt nhớ Trường Sơn

Khó khăn chỉ làm mình tháo vát hơn
Không có lưới lấy mùng tuyn kéo cá
Mùng chắn muỗi đêm đêm rừng lạ
Mùng giúp ta kiếm cá, đưa cơm

Rồi có một ngày ta thét cá ơi
Ghèn đá cạn đỏ máu hồng thằng Hán
Ghép cây rừng làm quan tài tạm
Di vật của mày chỉ có chiếc ba lô
Cặp bé gái song sinh vài tháng tuổi ngây thơ
Sẽ sớm bước vào đời bởi không có bố

Trạm 79 ém quân lặng lẽ
Cứ nằm chờ đón đợi thời cơ
Thằng Mỹ ỷ giầu, lắm bom nhiều pháo
Chúng ngăn đường, gây cách trở bằng bom

Cây rừng phá, chúng trồng cây nhiệt đới
Tai mắt thù rình rập bước chân ta
Nhưng làm sao ngăn được những đoàn quân
Và vẫn hát rung rừng cây vách núi

Có được vài ngày bận rộn nhận đồng hương
Đoàn dân chính mới từ miền Bắc tới
Ta bốn tháng hành quân lỏng gối
Họ cưỡi xe ào tới có sáu ngày

Một đêm tối trời nhìn không rõ bàn tay
Những chiếc xuồng chở chúng mình rời bến
Miền Nam, Miền Nam chính là bến hẹn
Mặc pháo sáng chập chờn và những chớp bom

Những ngày cuối cùng thằng Mỹ ở Đông Dương
Tưởng có bao nhiêu bom đổ xuống Căm Pu Chia cả     
B57 đánh ngày, đêm B52 rải thảm
Giao liên vẫn tìm những khoảng trống đưa quân
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 11 Tháng Hai, 2014, 02:52:57 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (11)
...
Sang Xtung–treng đời sống có khá hơn
Ta đã có tiêu chuẩn Quân Giải Phóng
Khô cá Tra thơm lừng hấp dẫn
Trà củ măng, hạt é mát lòng

Bên bàn trà xưa không bàn chính sự
Những chuyện đời thường cũng đủ trắng đêm
Chỉ ước nguyện cuộc chiến mau tàn để về với con trâu, đàn vịt
Hoặc sau buổi tan ca đón em về xem một bộ phim
 
...Ngày dấu mình chuyển qua hành quân đêm
Những trở ngại nhỏ nhoi cũng làm đội hình chùn lại
Có nhiều bữa đầu đội hình đã về đến trạm
Còn khúc đuôi chưa qua nổi nửa đường
 
Thấy bạn ăn lầm rau độc mà thương
Thân héo lả như tầu lá nướng
Giống rau muống quá chừng quá đỗi
Khát rau mà, bạn được tưởng là rau
 
Vượt cầu cháy Xa Long trong đêm
Được nghe tiếng khóc đêm con trẻ
Ta không khóc mà trong lòng có lệ
Nôn nao nỗi nhớ quê nhà
 
Chỉ thấy cao su bạt ngàn Tắc Tum, Sở Ba, Mi Mốt
Xuống sông Chiêu bắt con trai cải thiện
Rừng tre hóa tay gai dài sắc nhọn
Bởi đói ăn lính chẳng ngại chui vào
 
Và những trận sốt rét bắt đầu ghê gớm lạ
Sốt võng rung, môi viền đen, mắt trắng
Cũng chỉ có những viên Qui-nin cho bạn
Có những anh sốt rét đến loạn thần         
 
Vẫn bầy bầy OV-10 đeo đuổi các đoàn quân
Cuộc sống mỏng như cánh diều trong bão
Nghe tiếng nổ đề ba đếm từ từ đến sáu
Nếu nó chấm mình đếm đến bảy sẽ là xong
 
Có nhiều đêm đếm hoài những điệp khúc cô hồn
Mắt đã bạc vì sốt rừng phá máu
Mắt quầng thâm vì điệp khúc đếm buồn
Chào Công-Pông-Chàm bến đợi yêu thương.
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 12:48:19 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (12)
...
Rừng cao su tiễn mình giáp gianh biên giới
Bầu trời miền Đông cao xanh vời vợi
Những rừng cây hoang cháy dở, não lòng
Thảm họa đó đến từ bom na-pan, chất độc màu da cam

Lính mới có anh ngây thơ không hiểu nổi
Hậu quả khôn lường chất độc da cam
Có anh lính còn ôm thùng phi US mà hát
Tiếng hát vang trời…còn ai hát đoạn sau?

Nửa bước chân nữa thôi – Cà Tum đất mẹ đây rồi
Còn nửa bàn chân bên này là Sở Ba-Mi Mốt
Những hố pháo, đìa bom tầng tầng lớp lớp                               
Chốt Mỹ hoang tàn dài đến tận Đồng Ban

Vào mùa mưa chỉ thấy mưa thôi
Đất nhão nhẹt, con đường thành ruộng
Ta hối hả bước vào trận mới
Đem sức mình ra đánh giặc mưa.

Chỉ với vài ba con dao rựa thô sơ
Làm cầu cạn dài mười cây số
Dầm đặt cây to, đà chằng cây nhỏ
Từ ngã ba Cây Cầy đến tận bờ sông

…Búp măng le trắng ngần còn hăng mùi đất
Lũ vắt no tròn bám thân gầy bụng đói
Cháo nọng heo? Hư rồi làm sao nuốt nổi
Lửa bếp nhạt nhòa ánh đèn dù chốt Tống Lê Chân.

Có thể nào quên một sáng não lòng
Học bột, gượng ngồi xe cười mệt
Đã mệt lắm sau cả tuần sốt rét
Đồng đội đưa mày đi ĐT25

Rừng đêm âm u thắp sáng đèn măng sông
Bảng, Huyền, Nhật đưa mày ra mộ
Chỉ gọi Bảng ơi! Khi sống chết còn chưa phân rõ
Những giây cuối cùng, Học cứ gọi Bu ơi!
Phút giây thiêng cao quý cuối đời
Giành cho mẹ Thanh Am, Vĩnh Bảo

Đâu chỉ sốt rừng mà đạn bom tàn bạo
Hết gạo mình phải ăn cả tháng lạc ròng
Lính sốt rét ăn gì cũng ói
Uống nước suối thôi cũng thấy ngọt như đường
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 12:50:05 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (13)
...
Lạc nướng, lạc rang không còn thơm nữa
Lạc giã nấu canh, rau lá bát hết bùi
Thèm đến cả lá khoai đọt sắn
Gẫy một cánh tay vì lá sắn Bẩy "bò" ơi !

Từ giã suối Ngô mình chia tay nhau
Những lính thợ tài hoa, các kỹ sư cơ khí
Các anh ở lại miền Đông này nhé
Về miền Tây ta tiếp bước quân hành

Có ba ngày để dựng năm gian nhà tranh
Mỗi tiểu đội lại làm thêm kỳ tích
Nhà để che nắng, mưa tù binh địch
Còn chúng mình chào từ giã Soóc-ky

Vượt Vàm Cỏ Đông lại sang Cam-Pốt
Qua Cây Dầu, về bến Trung Dân nghỉ tạm
Đêm Pắc-Rinh lại một đêm buồn
Nhớ đến bây giờ cái buổi chia tay

Trời thiếu sao làm đêm hẹp lại
Còn lại gì, mang hết ra đây !
Nào ai biết mai này còn gặp lại
Con gà ơi! Xin đừng gáy gọi ngày

Đêm thổn thức vai gầy sương lạnh
Bắt tay thề! Còn sống ráng tìm nhau
Cũng đến lúc nắng mai òa đến
Nước Thốt Nốt chua không cất được men sầu.

Giải phóng rồi, những người còn sống tìm nhau
Chợt nhớ những tia nắng ban ngày đã rụng
Những vì tinh tú trong đêm băng xuống
Các bạn đã hóa thân khi tuổi mới đôi mươi.

Những thiên thần còn chưa biết hôn môi
Mẹ đứt ruột chôn nhúm nhau ngoài quê Bắc
Châu thổ Cửu Long chôn xác những anh hùng
Góp hồn thiêng vào sinh khí núi sông.

Ở nơi xa mẹ có biết không ?
Địch đánh điểm, Cảnh “đen” nằm xuống
Rừng tràm Tân Hòa Đông quằn quại
Cảnh hy sinh một phút hóa anh hùng.

Mồng bốn Tết mất thêm Thiết “chóe” !
Tại ngã ba Bình Thạnh địch phục kích trong đêm
Thì Phương ơi lau nước mắt đi em
Và Sông Lấp, Cầu Quay ... Thiết không về nữa !

Không! Thiết đã về trên ba lô Phượng “cọ”
Sông Lấp ngừng trôi, không bên lở bên bồi.
Cháu ngoại Thiết giờ này đã lớn
Và đẹp trai như một thiên thần
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 12:51:54 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (14)
...
Ôi thương quá mẹ già ngồi đợi cửa !
Đón con về mẹ chỉ thấy trong mơ
Mơ ngày mai hai miền thống nhất
Trong đoàn quân sẽ có con về

Ngày Chiến đi ngõ Lửa Hồng đỏ lửa
B52 đánh sập phố đổ nhà
Mẹ An Dương! Xin mẹ đừng đợi nữa
Tại Mỹ Thuận, Cái Bè, Chiến của mẹ đã hy sinh

Trung B1 cái thằng bô bô ba loa
Đã bị pháo trúng hầm ngã tư Kinh Nguyễn Văn Tiếp
Còn thằng Trâm trong trận đánh bốt Kênh Bùi
Đã ngã xuống không một lời trăng trối

Thằng Tống Quảng Ninh ít nói hay cười
Đã ra đi vào ngày 27
Trên sông Vàm Cỏ Tây nước cuồn cuộn chảy
Chỉ còn ba ngày nữa đã hòa bình

Thằng Ngọt (Hưng Hà) tinh nghịch như ranh
Đã ngã xuống trên chiếc xuồng ba lá
Trái mìn Clay mo nghiệt ngã
Phải đi dọc sông, ba bữa kiếm xác mày

 “Anh không thể yêu em được nữa”
Lời chia tay nói chi sớm Lộc ơi !
Hay mày biết một ngày ra trận
Sẽ vĩnh biệt cuộc đời dưới làn đạn M60

Ngày dời Yên Tử chỉ 37 ký thôi
Trung lại mất một đùi trong trận đánh                                   
Nhức buốt lắm phải không khi trời trở lạnh
Ở Hải Dương có người bán dép một bên?

Trẻ trung, thuận hòa, như một sáng bình yên
Áo xanh "si-lâm" mặc hoài không đổi
Quần có một và áo thì có mỗi
Khi chết rồi, đồng đội gói chôn theo

Kênh 61 hoang tàn cỏ dại dây leo
Cây chanh trớ trêu trên vuông vườn cũ
Mày gục xuống khi trái gài phát nổ
Trong tay Phàn còn chưa có trái chanh

Tú bị trọng thương “ém vè” cặp bờ kênh
Lũ lính ngụy còn lôi ra hành hạ
Những báng súng AR15 trong tay lũ người hung hãn
Tú chỉ lặng im đến chết chẳng hé lời

Với chiếc ba lô nghèo như đời lính
Về miền Tây còn chưa biết miền Tây
Phúc "gió" ra đi trong một ngày dữ dội
Bục chốt, địch càn, lửa khói cháy Bằng Lăng

Ngã tư Bằng Lăng giờ có hoa Bằng Lăng tím
Mầu tím chung tình còn nhắc mãi chuyện xưa
Trước đấy mấy năm, Hạnh! Anh của Phúc cũng ngã xuống vùng này
Long Khốt-Bằng Lăng cái tên này nhớ mãi

Trở về quê hương ba lô con cóc
Có em gái theo chân Duyệt đón Phúc về
Nhưng mẹ vẫn đêm ngày đợi cửa
Còn thằng anh vẫn chửa thấy về !

Và Đượm ơi ở Ninh Giang cũng có Nghĩa Trang
Bạn đã về quê hay vẫn còn nằm lại
Còn Viên nữa, cái thằng gầy trắng trẻo
Đã cùng tao đi khắp các nẻo đường

Những đêm vượt sông, những ngày vượt lộ
Trận chống càn nằm lại lộ 12
Vào đúng ngày Nguyễn Thành Trung đánh bom dinh Độc Lập
Đượm –Viên ơi hãy yên lòng nằm nghỉ
Bạn nơi đây vẫn nhớ thắp hương mày.
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 12:55:59 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (15)
...
Mẹ cứ hỏi Quảng ơi! Thằng Lý đâu?
Mẹ hỏi con còn biết nói sao
Con may mắn …con không có lỗi
Con chẳng biết làm gì cho lòng mẹ bớt đau?

Thằng Lý cùng con bay bổng lưng trâu
Thằng Lý cùng con vượt Trường Sơn gian khổ
Thằng Lý cùng con chung chiến hào đánh Mỹ
Con trở về còn thằng Lý thì không!

Không có lỗi mà lòng con bối rối
Trước nỗi đau người mẹ mất con
Trước mất mát không gì bù đắp nổi
Chẳng phép mầu nào khuất lấp được thương đau

Chỉ may mắn thôi mà, ta có lỗi gì đâu
Đứng trước mẹ lòng ta bối rối
Mang mặc cảm như một người có tội
Bởi ta về, còn con mẹ thì không!

Mẹ đã đợi chờ ròng rã 30 năm
Mắt người đã mờ, tóc người bạc trắng
Người vẫn ngày ngày nuôi hy vọng
Sẽ có ngày con được trả lại tên

Vẫn nghe khét một thời lửa cháy
Vùng Bốn kia bom đạn ngút trời
Đồn bót giặc ken dày mặt đất
Xe, pháo thù và đủ loại máy bay
 
Còn chúng ta chỉ có súng trong tay
Hỏa lực đi cùng vác lên vai người lính
Hy hữu lắm mới được trên chi viện
Được vài mươi trái cối đã là sang

Hoặc hôm nào có trận đánh thật to
12 ly 8 - “con gà cồ” - xuất trận
Bạn vác trên vai những “thân”, “tầm” nóng hận
Khuất trận rồi khói bám trên vai

Ta kiên gan giữ đất giữ làng
Chúng hùng hổ đưa quân tái chiếm
Mỹ tuy cút âm mưu còn nguyên vẹn
Tuồn đạn bom cho ngụy phá hòa bình

Tân “quậy” ơi, giờ đã về Phi Liệt
Yên giấc rồi không còn nghĩ thiệt hơn
Xiểng “già” vẫn thân gầy trong áo rộng
Ngủ cũng cười mà lại rất lo xa
Mong bạn hãy yên nằm nơi Đồng Tháp
Nghĩa trang nào cũng có mộ vô danh !
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 12:57:26 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (16)
...
Bom đạn Hoa kỳ cầy nát Tháp Mười xanh
Ta vẫn bền gan giành dân giữ đất
Tương lai xa xôi, sống chết cận kề giáp mặt
Ngày nối ngày chồng chất hy sinh

Trên Trường Sơn chỉ cần bẻ cây che mình qua khoảng trống
Ở Đồng Tháp phải che đi cả cái lỗ cọc mùng
Miếng cơm nấu nước phèn dở sống
Nghe tiếng trực thăng mà nghẹn ở ngang chừng

Mùa hè đến con cuốc kêu gọi bạn
Mà Biên ơi sao bạn mãi không về
Mùa nước nổi kênh Kỳ Đà nằm lại
Mảnh pháo thù làm rớt một miếng gan

Đông Triều đó chiều nay chiều vẫn tím
Tím lòng ta tím cả một vòng cung
Tiễn anh một điếu Ru-bi
Một quan tài gỗ với 52 quân bài

Mùa nước, mùa khô đều có nỗi khổ riêng
Mùa nước nổi hầm cũng không đào được
Chen lấn cùng côn trùng, rắn, chuột…
Nhờ các chú Bù chao, ta biết cách "ém vè"

“Trên trời muỗi kêu như sáo thổi
Dưới đồng đỉa lội tựa bánh canh”
Câu ca cũ lính "ém vè" mới hiểu
Đỉa Tháp Mười và muỗi, vắt đồng bưng

Mùa khô lửa cháy đồng hoang trắng
Nước phèn chua, nước mặn cũng hiếm hoi
Mỗi miếng nước qua ba tầng than lọc
Cơm nấu lên rồi, chát sượng nuốt không trôi

Thương con cá, trơ xương đầu quái dị
Còn thân khô như một chiếc lá gầy
Thương đồng đội khi ốm đau thương tật
Mơ ước chỉ là miếng nước ngọt trong tay

Thương thương quá thằng Lem quê Vĩnh Bảo
Mắt kèm nhem nghễnh ngãng chỉ cười
Tuổi hai mươi cánh chim trời không mỏi
Nay trở về điên dại chẳng ai chơi !!!
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 12:58:58 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (17)
...
Và vẫn là cây rừng che chở
Sống trong lá chết vùi trong lá
Thằng Hán xưa còn có cây rừng làm quan tài tạm
Ta chôn đồng đội bây giờ chỉ có tấm ni long

Tấm ni lông che mưa nằm gọn trong góc bồng
Khi bạn chết lại mang ra gói bạn
Không cả lọ bi để ghi tên trong đó
Bia đá cứ lặng câm ôm mối hận vô tình
Bia lạnh đồng hoang bạn tôi cô quạnh
Nỗi đau này mẹ gánh nát con tim

...Lại nhớ khi cùng bạn một chiếc xuồng con ngang dọc tung hoành
Một cây súng, quần đẫm phèn xốc tới
Khăn Cà ma, mũ tai bèo lặn lội
Khắp vùng bốn Kiến Tường tới tận Mỹ Tho

Từ trên trời lũ cá rô trút đạn như mưa
Bọn giang thuyền cày nát kênh ngang, sông dọc
Đất đẫm máu người, bầm dập thương đau
Vườn cây đang xanh, pháo chụp cụt đầu
Lớp lớp dừa xanh bom cày trốc gốc

Máu xanh chảy, đất nhuốm màu tang tóc
Bày muỗi bu vón cục nóc mùng
Tóp thuốc rê, dán gốc tràm dành dụm
Nhiều bữa giúp mình vượt cơn đói thuốc giữa đồng bưng

Cũng lắm lúc đời lên hương bát ngát
Đánh bốt song rồi trà thuốc "tẹt ga"
Trà Củ măng pha bi đông Mỹ
Ngọn lửa chân tình tan giá lạnh đồng khuya

Đánh xong trận lại trở về cuộc sống
Lại lần hồi đắp đổi bữa no
Bắp cải nước, tóc tiên, bông súng
Một tay lưới, một dây câu cũng lần mò lặn lội

Đặc sản Tháp Mười đơn giản hóa hoang sơ
Con ốc, con cua cũng cùng mình bám trụ
Miền Tây ơi! Hơn cả những anh hùng.
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 01:00:37 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (18)
...
Chuột luộc, chuột xào, chuột kho, chuột nướng
Chuột nấu canh chua, khô chuột, chuột rang
Cá lóc nướng trui, thơm ngược lên đầu gió
Cua đinh, rô mề chấm muối ngọt chân răng

Rắn mang gầm, hổ mang, hổ lửa
Rắn bông súng rất nhiều, ngắt ngang cổ phơi khô
Mật ong rừng tràm, sánh vàng như nắng
Sản vật quê hương, cùng ta giữ đất, giữ cờ

Bông súng, bông trang, lục bình, tai tượng
Cũng cùng ta theo con nước lớn dòng
Bông sen trắng bạt ngàn nơi Đồng Tháp
Trăng treo đèn cho lính gác làm thơ

Đánh xong trận, miệng nhai trầu mẹ bảo
Tụi cha mi- đánh giữ quá hè
O du kích ca cải lương Đồng Tháp
Lộ 4-Ba Dừa tàu chuối đong đưa

 “Đêm nay mới thật là đêm”
Rượu lai rai với tầm tay khô mùng
Ai về Cai Lậy, Cái Bè
Hỏi em gái nhỏ đánh bao trận rồi

Em cười: ”Một trận thì chưa
Ngoài 30 trận còn thừa mấy anh”
Tiếng cười lan cả đầm sen
Trời nghiêng, đất ngả tan trong trận cười

Chị hai chở mía bán dọc sông
Lính vui hỏi chị: Mấy đồng một ôm?
Chị cười: ”Mấy chú mình ơi
Chị đây chỉ lấy ba dầm một ôm”

Cười vui sóng vỗ tròng trành
Đoàn thuyền rẽ nước xuyên vào bóng đêm
Hương tràm hòa lẫn hương sen
Có con chim vạc ăn đêm giật mình

Trăng vàng khi tỏ khi mờ
Đèn dù thấp thoáng soi đường quân đi
Lại vào trận, lại hành quân vào trận
Đội nắng, gội mưa đánh ngày, đêm lại đánh

Những chiến dịch, cứ chờ ta phía trước
Chốt chặn, công đồn, diệt viện triền miên...
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 01:02:03 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (19)
...
Khi chiến dịch Tây Nguyên tạo ra cơ hội lớn
Là lúc chúng điên lên muốn xóa sổ tụi mình
Miền Tây, lửa cháy từng thân cỏ
Mới gặp bạn cười đã thấy bạn hy sinh

Lợi ho lao bên bờ kênh ba, đìa chuối
Chống nạng đứng chờ đón nhận đồng hương
Thương nhau tay nắm chặt tay
Còn bao "tiếp vụ" lại nhường cho nhau

Tàn cuộc chiến, lại giã từ thành phố
Lính trở về rừng, sáng lửa Sóc Bom Bo
Đuốc lồ ô bập bùng câu hát
Trấn biên cương giữ vững cơ đồ

Có những người con đi thêm hai cuộc chiến
Một dải biên cương Long An, An Giang, Đồng Tháp
Những điểm tựa Sông Bé, Tây Ninh…hơn ba năm trời
Ăn bo bo, trần thân đánh giặc

Hơn ba năm trời có mặt giữ biên cương
Gác lại riêng tư, như năm xưa rời Yên Tử lên đường
Mặt đối mặt từng giây cùng cái chết
Chẳng có bản tình ca nào riêng tặng cho ta

Một khúc quân hành dài theo đất nước
Xẻ dọc Trường Sơn là những binh đoàn
Nước mắt đã khô sau những lần khóc chôn đồng đội
Chẳng khát khao nào hơn là giữ lấy hòa bình.

Biên giới Tây-Nam rồi cũng tắt lửa chiến tranh
Đất sạch bóng thù cuối năm 78
Lại thần tốc hành binh giúp bạn
Vì nghĩa cứu dân làm nên chiến tích có bảy ngày

Cuộc trường chinh hơn mười năm nếm mật nằm gai
Một sớm giật mình thấy tóc đã chớm bạc
Những bài ca trên Trường Sơn năm xưa ta hát
Giờ thành lời ru nâng giấc cho con

Truyền lại cho con niềm kiêu hãnh Trường Sơn
Tài sản thiêng liêng khi bố là người lính!
Nước có giặc thì bố cầm khẩu súng
Lời ru chẳng mềm để năm tháng bình yên
...
(còn nữa) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 01:03:56 pm
KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
CCB đoàn 2018 - Tác giả: Thiều Quang Thạch (CCB E320, QK8); Chỉnh sửa bổ sung: Dương Tiến Nghiệp (C3, đoàn 2018); Biên soạn: Thế Lộc; LSV biên tập và giới thiệu - Tháng 8/2003 - 30/4/2005
********
(tiếp theo) KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN (20)
...
Tan giặc rồi, bạn lại về với lúa
Gốc thị cổ xưa che mát ao làng
Cưới cô Tấm, nhận vài sào ruộng khoán
Cờ chuối phất lên, lùa vịt lúc ruộng nhàn

Chàng lính thợ, lại trở về làm thợ
Hối hả vào ca, rộn rã tan tầm
Qua tem phiếu, bo bo vất vả
Tiền tệ hóa vào lương, nghèo khó bớt vài phần

Chiến trường xưa, giờ đã xanh màu lúa
Trái ngọt, bông thơm nặng trĩu cành
Đường mòn Hồ Chí Minh đã thành đại lộ
Những bến đợi bây giờ, điện sáng rừng xanh

Tuổi năm mấy bạn kiêng đủ thứ
Rượu thì không, thuốc bỏ lâu rồi
Vẫn còn đó bài ca ra trận
Và nghĩa tình đồng đội những ngày xanh

Còn lại đó dấu chân ta tạc vào đá núi
Còn lại trong ta niềm kiêu hãnh Trường Sơn
Em thôn nữ có vài ngày làm vợ
Rồi một ngày làm góa phụ trăm năm

Vọng phu! Vọng phu! Không phải câu chuyện cổ
Nước mắt thờ chồng, bạc cả thời gian
Có góa phụ tuổi đôi mươi rạng rỡ
Vượt ngàn cây số kiếm mộ chồng

Đến những nơi xưa ta từng đánh giặc
Chỉ gặp những mộ vô danh, bạc trắng một niềm đau
Còn biết làm gì để giúp mẹ và em
Dưới bia không tên đều là đồng đội

Yêu hạnh phúc, mẹ đặt tên con Hạnh, Phúc
Nhưng mất cả Hạnh, Phúc rồi hỡi mẹ ơi!
Nỗi đau nhân đôi, nỗi đau còn đọng lại
Mối thù này mẹ phải nuốt vào trong

Lá xanh rụng, lá xanh không về cội
Lòng mẹ thương con - lời trăn trối vẫn dặn: Tìm
Thời gian cứ trôi với vui, buồn, trắc trở
Vẫn ấm trong lòng ngọn lửa tuổi 20
Tuổi 20 cánh chim trời không mỏi
Tuổi 20 xẻ dọc Trường Sơn

Bây giờ kẻ Nam, người Bắc
Đứa thành đạt - kẻ dở dang
Ngẩng đầu lên nhìn về dĩ vãng
Vẫn một Trường Sơn kiêu hãnh - làm người.
...
(hết) - LSV1972 giới thiệu


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 03:10:37 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 1 - Từ Âu Lạc đến Đại Nam - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=vniSSGfQHcg

LSV1972 (s/t & g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 03:12:45 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 2 - Thời đại Hồ Chí Minh - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=PHLw_UxCiC4

LSV1972 (s/t & g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 05:32:25 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 3 - Chỉ có một con đường - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=nfQv3vsFgzg

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 05:34:54 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 4 - Miền Nam Việt Nam sau hiệp định Geneve - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=3uY0vtUybnw

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 12 Tháng Hai, 2014, 05:38:53 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 5 - Mở đường 20 - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=6MWKhqcYMN8

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 13 Tháng Hai, 2014, 12:08:22 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 6 - Trên đỉnh ý chí - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=iPUmH7d8ZIQ

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 13 Tháng Hai, 2014, 12:09:46 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 7 - Xẻ dọc Trường Sơn - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=tyBj7iaugMg

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 13 Tháng Hai, 2014, 12:11:14 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 8 - Tiền tuyến gọi - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=F16sHeCwHYc

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 13 Tháng Hai, 2014, 12:12:29 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 9 - Người Mỹ và vũng lầy Nam Việt Nam - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=MasZKMch-Co

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 13 Tháng Hai, 2014, 12:13:44 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 10 - Trường Sơn ngàn dặm - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=ZgAKoNxp1Vc

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 14 Tháng Hai, 2014, 12:07:40 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 11 - Vượt qua sự bất tận - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=SwQGO8GzJ_A

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 14 Tháng Hai, 2014, 12:09:06 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 12 - Điểm hẹn 30 năm - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=EtN4wt9K2G0

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 14 Tháng Hai, 2014, 12:10:19 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 13 - Và thời gian dừng lại - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=PIvTUBowLpI

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 14 Tháng Hai, 2014, 12:11:31 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 14 - Kí ức và sự thật - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=DbUl16nrYUQ

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: Linhsinhvien1972 trong 14 Tháng Hai, 2014, 12:12:29 pm
PHIM TÀI LIỆU:

TRƯỜNG SƠN - NƠI HUYỀN THOẠI BẮT ĐẦU - TẬP 15 - YouTube.MP4

http://www.youtube.com/watch?v=tMKxGys1M0M

LSV1972 (s/t &g/th)


Tiêu đề: [Điểm Sách] - MACV và Chiến Tranh Việt Nam: Những Cuộn Băng của Đại Tướng Abra
Gửi bởi: altus trong 25 Tháng Sáu, 2014, 09:34:19 pm
MACV và Chiến Tranh Việt Nam: Những Cuộn Băng của Đại Tướng Abrams

Điểm sách: Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes 1968 – 1972
Tác giả: Lewis Sorley
Texas Tech University Press; 917 trang; $50.00
Người điểm sách: Nguyễn Kỳ Phong

Trong một buổi họp ở bộ tư lệnh MACV vào cuối năm 1969, đại tướng Abrams đọc một huấn lệnh mới nhất của tổng trưởng quốc phòng Melvin Laird cho các sĩ quan cao cấp nghe. Laird ra lệnh cho MACV thay đổi một số chi tiết quan trọng về chương trình Việt Nam Hóa đang tiến hành ở Việt Nam: (1) Chương trình Việt Nam Hóa sẽ chấm dứt vai trò tác chiến của quân đội Mỹ tại Việt Nam. (2) Trong kế hoạch Việt Nam Hóa do chính phủ trước (Lyndon Johnson) soạn thảo, bộ quốc phòng ước lượng quân đội Bắc Việt sẽ rút khỏi lãnh thổ miền Nam, và vai trò của quân đội VNCH chỉ giới hạn vào mục tiêu đương cự với các lực lượng Việt Cộng còn lại ở miền Nam. Trong kế hoạch mới của chính phủ Nixon và tổng trưởng Laird, vai trò của quân đội VNCH không chỉ giới hạn vào nhiệm vụ chống lại quân Việt Cộng, mà họ còn có nhiệm vụ đương đầu với các đơn vị chánh qui từ miền Bắc đưa vào dù quân đội Bắc Việt có rút khỏi miền Nam hay không. Buổi họp ngày thứ Bảy đó có hai ông đại sứ; ba đại tướng; sáu trung tướng; năm thiếu tướng; chín chuẩn tướng; năm đại tá; và bốn, năm, nhân viên dân sự cao cấp. Những người đang có mặt là đại diện cho tất cả sức mạnh của Hoa Kỳ ở Việt Nam  nếu không nói là cho cả sứ mạnh của Hoa Kỳ ở vùng Thái Bình Dương. Thái độ của tất cả sau khi nghe huấn lịnh của Laird là ngỡ ngàng, bực tức ... họ thấy một chút xấu hổ đối người bạn đồng minh Việt Nam. Sự xấu hổ đó được đại tướng Abrams diễn tả khi ông kết thúc buổi họp khi ông nói: “Tôi vẫn thường nói, ngày vui nhất của tôi là ngày đại tướng Cao Văn Viên gọi điện thoại và xài xể tôi. Ngày đó là ngày tôi vui nhất. Nhưng tướng Viên sẽ không làm chuyện đó; ông ta quá lịch sự. Nhưng tôi muốn ông ta làm như vậy.” (The Abrams Tapes, trang 302-316).

Trong buổi họp tình báo của MACV ngày 8 tháng Giêng, 1972, thuyết trình viên thông báo: “Vào tháng 11-1971, với những dữ kiện thâu thập đủ để có thể thử nghiệm phương cách đánh dấu những mục tiêu [xâm nhập], các trạm giao liên T-54, T-55, T-61, và T-62 [thuộc binh trạm 35 và 38] được chọn để thử nghiệm. Với các toán đầu của đoàn xâm nhập đang trên đường hướng về B-3, chiều ngày 6-tháng 12, B-52 oanh tạc trạm giao liên T-54 và T-61. Chiều ngày 14 tháng 12, hai phi tuần B-52 oanh tạc trạm T-62. [MACV] Có kế hoạch sẽ sử dụng bom CBU [để dội bom các binh trạm]. Sư đoàn 320 đang chuyển quân; Binh trạm 35 [phụ trách B-1 và Khu 5] thay đổi hệ thống trạm giao liên. ... [Tình báo] Thẩm định từ ngày 18 đến ngày 31 tháng 12-1972, các đơn vị thuộc sư đoàn 320 sẽ đi ngang các trạm giao liên T-31, T-35 và T-36. [MACV] Rải máy điện tử báo động và truy tầm. Sáng ngày 23 tháng 12, B-52 dội bom trạm giao liên T-31 bằng bom CBU. Chiều ngày 24 và sáng ngày 25, không quân chiến thuật và B-52 tiếp tục tấn công trạm giao liên này bằng bom CBU. Trạm giao liên T-36 bị tấn công ngày 28; T-35 bị tấn công ngày 29. Ngay ngày Tết Tây, T-62 bị tấn công với hơn 500 tiếng nổ phụ.” Sau khi thuyết trình viên chấm dứt, đại tướng Abrams lên tiếng: vì đây là kế hoạch tối mật, ông ra lệnh cho các sĩ quan cao cấp có mặt trong phòng không được bàn về chương trình Island Tree hay những gì họ đã được nghe với bất cứ ai (trang 743).
Ở trên là một vài đoạn trong tác phẩm The Abrams Tapes của sử gia quân sử Lewis Sorley. The Abrams Tapes, với những tin tức tối mật xuất hiện lần đầu tiên, được giới quân sử coi là một tác phẩm quan trọng về đại tướng Abrams và vai trò của bộ tư lệnh MACV (Military Assistance Command, Vietnam) trong chiến tranh Việt Nam. Như tựa sách cho thấy, nội dung của tác phẩm đến từ những cuộn băng thâu lại hơn hai ngàn giờ họp tại bộ tư lệnh MACV do Abrams chủ tọa và có sự hiện diện của các tư lệnh quân sự, dân sự, cao cấp nhất của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Ở đoạn nói về chương trình Việt Nam Hóa, câu nói chua xót và hối tiếc của tướng Abrams về tướng Cao Văn Viên vào cuối năm 1969, cho thấy những gì Bộ tư lệnh MACV đã hứa với bộ tổng tham mưu VNCH và tướng Viên sẽ không thực hiện được. Trước khi có huấn Lệnh của tổng trưởng Laird, Abrams đã thông báo cho bộ tổng tham mưu VNCH, là Hoa Kỳ sẽ rút quân theo khả năng gánh vác của quân đội VNCH; và, quân đội Mỹ vẫn duy trì một lực lượng tác chiến căn bản để canh chừng những vi phạm và hoạt động của Quân giải phóng, như họ đã và làm ở Nam Hàn, hay Tây Đức (Residual Forces). Nhưng tân tổng trưởng quốc phòng Melvin Laird — vì một áp lực chính trị, hay một khó khăn ngân sách nào đó — đã ra lệnh cho MACV rút tất cả quân tác chiến. Chủ trương giữ lại một số residual forces hoàn toàn bị hủy bỏ khi vào ngày 9 tháng 12-1971, Abrams yêu cầu ban tham mưu đừng nhắc đến nhóm từ residual forces nữa (trang 708). Hai ngài sau, 11 tháng 12, tương lại liên hệ Việt Mỹ càng mù mờ hơn trong buổi của tất cả các đại sứ vùng Đông Nam Á: ý kiến chung của họ là Việt Nam không còn là yếu tố quan trọng trong những quyết định chính trị, quân sự và ngoại giao của Hoa Kỳ ở Á Châu (714-718). Nghe những gì nói ra trong buổi họp của các đại sứ, chúng ta biết thêm là họ bị cấm không được bàn về tính cách chính trị chuyến viếng thăm của Nixon ở Trung Cộng sắp xảy ra (hơn hai tháng sau, tháng 2-1972, Nixon qua Trung Cộng); và chính họ cũng hoài nghi về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á.   
Ở đoạn trích dẫn thứ nhì về những chiến dịch đánh bom CBU vào binh trạm của Quân giải phóng trên đường xâm nhập: Đó là lần đầu tiên MACV và bộ tư lệnh Thái Bình Dương chuyển sang kế hoạch tiêu diệt quân chính quy, thay vì tấn công các đoàn quân xa xâm nhập như họ đã cố gắng thực hiện từ lâu (trang 650). Trong quá khứ, Không Lực 7 và không lực của Hải Quân chú trọng vào các điểm tập trung quân xa, và các đoàn quân xa di chuyển trên các lộ trình xâm nhập. Nhưng từ lúc tình báo MACV nghe lén được truyền tin và biết được địa điểm chính xác của nhiều binh trạm, MACV quyết định tiêu diệt các đoàn quân xâm nhập khi họ nghỉ chân ở các binh trạm trên đoạn đường vào Nam. Loại bom CBU được nói đến là lọai CBU dùng để sát thương bộ binh, rất nhỏ, chứa chừng một ký chất nổ mỗi trái. Theo thuyết trình viên cho biết, mổi chiếc B-52 có thể chở được 44 ngàn quả bom bi BLU-23 và BLU-49. Những chi tiết này và kế hoạch tối mật Island Tree lần đầu tiên được tiết lộ ra công chúng trong The Abrams Tapes.
Sự thành hình của tác phẩm The Abrams Tapes: Theo tác giả Sorley vào năm 1994, trong lúc biên soạn về cuộc đời và binh nghiệp của đại tướng Abrams (Thunderbolf: General Creighton Abrams and the Army of His Times), Sorley được các sĩ quan cao cấp nói về sự hiện hữu của các cuộn băng này. Sorley dò theo các nguồn tin thì được biết thêm: sau khi Abrams mãn nhiệm chức tư lệnh MACV ở Việt Nam để trở về Ngũ Giác Đài nắm chức Tư Lệnh Lục Quân, ông đem theo 455 cuộn băng nói trên. Khi Abrams chết vào năm 1974 lúc còn đang tại nhiệm, tân tư lệnh Lục Quân Frederick Weyand (cũng là người theo sau Abrams giữ chức tư lệnh MACV ở Việt Nam năm 1972- 1973), ra lệnh mật hóa những cuộn băng và đem cất vào một thư khố quân sự bí mật. Sau khi nghe sự vụ, tác giả Sorley làm đơn xin tư lệnh Lục Quân Gordon Sullivan cho phép ông được nghe những cuộn băng đó với mục đích nghiên cứu về MACV và về tướng Abrams. Khi được cho phép, Sorley bỏ ra một năm trời làm việc: năm ngày một tuần; 10 tiếng một ngày để ghi lại những chi tiết quan trọng của 455 cuộn băng. Tổng cộng, Sorley ghi lại gần 3.200 trang tài liệu từ những cuộn băng. Sau đó ông đưa những gì được ghi lại đến những cơ quan thẩm quyền để được giải mật. Và tất cả những tài liệu đó là căn bản của tác phẩm A Better War: The Unexamined Victories and Final Tragedy of America's Last Years in Vietnam (Một Cuộc Chiến Tốt Hơn: Những Chiến Thắng Chưa Được Nói Đến và Thảm Kịch Những Năm Cuối của Hoa Kỳ ở Việt Nam), một quyển sách nói về những thành quả và chiến thắng của quân lực VNCH trong những năm sau cùng mà không được giới truyền thông báo chí Mỹ tìm hiểu hay để ý. Cũng với những trang tài liệu đến từ các cuộn băng đó, qua một hình thể khác, tác giả Sorley soạn ra The Abrams Tapes.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: altus trong 25 Tháng Sáu, 2014, 09:38:31 pm
Tài liệu đến từ The Abrams Tapes rất có giá trị về phương diện quân sử. Qua những gì tiết lộ, chúng ta có thể thấy được bên trong guồng máy quản trị và điều khiển chiến tranh Việt Nam của MACV — và một cách gián tiếp — của thẩm quyền dân sự từ Hoa Thịnh Đốn. Những buổi họp vào ngày thứ bảy hàng tuần (và mỗi đầu tháng, với sự tham dự của các tư lệnh quân đoàn dã chiến Hoa Kỳ) có tên là Weekly Intelligence Estimate Updates (Cập Nhật Uớc Lượng Tình Báo Hàng Tuần). Tuy nói là họp để cập nhật tin tức tình báo, nhưng những gì được bàn luận hàng tuần đi xa hơn là tin tức tình báo. Trong những buổi họp chúng ta nghe Abrams — hay các tư lệnh khác — nói về mọi đề tài liên hệ đến quân sự và chính trị ở Việt Nam cũng như ở Mỹ: từ chuyện hòa đàm ở Ba Lê và sự nghi ngờ của họ đối với những chính trị gia ngây thơ như Averell Harriman (trang 41-42), đến những hoạt động và khả năng của các đơn vị VNCH; từ chuyện dội bom các mật khu của Quân giải phóng bên Lào cho đến những lời khen chê về khả năng cầm quân của các tướng lãnh Mỹ, Việt. Vì những cuộn băng được thâu từ tháng 6-1968 cho đến tháng 6-1972 (thời gian Abrams chánh thức làm tư lệnh MACV; trước đó ông đã đến Việt Nam từ tháng 5-1967 làm tư lệnh phó cho tướng Westmoreland), chúng ta thấy vai trò của Abrams gần như bao trùm các thời điểm quan trọng nhất của cuộc chiến Việt Nam: Bắt đầu chương trình Việt Nam Hóa, 1969-1970, rồi hành quân đánh qua Cam Bốt năm 1970 và Hạ Lào 1971, cho đến trận phản công của quân lực VNCH năm 1972, cũng như các kế hoạch bình định phát triển nông thôn (như chiến dịch Phụng Hoàng) trong suốt thời gian Abrams làm tư lệnh.
Qua tác phẩm, chúng ta thấy lối làm việc và tác phong và tánh tình của Abrams: Abrams có sự chân thật của một sĩ quan biết lo cho lính, thẳng tánh, và — một chi tiết ít sách nào nói đến — ông công khai bênh vực, bảo vệ thanh danh và ca ngợi những thành quả của quân lực VNCH trước những sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ. Có một lần, khi các sĩ quan so sánh về tỉ lệ gây thương vong cho Quân giải phóng giữa quân đội VNCH và Hoa Kỳ (thí dụ như mỗi cuộc hành quân thì giết được bao nhiêu địch), Abrams không ngần ngại nói cho các sĩ quan dưới quyền biết lý do: quân đội VNCH không được trang bị, không có yểm trợ hỏa lực dồi dào như các đơn vị Mỹ. Ông nói thêm, quân đội VNCH (vào những tháng đầu năm 1968) nằm ở dưới đáy của thứ tự ưu tiên để nhận yểm trợ hỏa lực (trang 48) từ quân đội Hoa Kỳ. Khi nói về lối hành quân và kế hoạch hành quân của tướng Nguyễn Viết Thanh lúc đánh qua Cam Bốt (trước khi tướng Thanh tử nạn trực thăng), tướng Thanh hành quân nhanh đến độ ông làm cho các tướng lãnh Mỹ tham dự song song trong cuộc hành quân thấy họ chậm như những con voi (trang 418-419). Tiếp theo đó ông không tiếc lời khen ngợi những sĩ quan trung cấp VNCH trong cuộc hành quân. Một lần khác, khi có sự va chạm giữa thiếu tướng Charlie Stone của sư đoàn 4 Bộ Binh Mỹ, và cố chuẩn tướng Nguyễn Bá Liên (khi tướng Liên rời binh chủng TQLC, về coi Biệt Khu 24 ở Vùng II, rồi sau đó tử nạn trực thăng vào tháng 12-1969), Abrams nói cho các sĩ quan biết ông không tin những gì tướng Stone nói về tướng Nguyễn Bá Liên. “Ông ta [đại tá Liên] đã hoạt động tích cực ở vùng trách nhiệm ... ông ta là một sĩ quan giỏi mà lâu nay chúng ta mới thấy được,” Abrams nói về tướng Liên (trang 83-94). Hay là Abrams thuật lại những đối thoại giữa ông và đại tướng Viên về các tư lệnh Việt Nam — những đối thoại sau lưng mà chúng ta không thể biết nếu chưa đọc tác phẩm này. Một lần, khi ông có lời khen tướng Nguyễn Văn Toàn (lúc tướng Toàn còn coi sư đoàn 2 Bộ Binh) với tướng Viên, và so sánh sư đoàn 2 của tướng Toàn với sư đoàn 1 của tướng Ngô Quang Trưởng. Abrams nói sư đoàn 2 sẽ theo kịp sư đoàn 1 trong tương lai. Nghe xong, tướng Viên nói cho tướng Abrams biết sự khác biệt về lối chỉ huy giữa hai tướng Trưởng và Toàn: “Khi tướng Trưởng ra quân lệnh, ông sẽ đích thân xuống từng đại đội để coi huấn lệnh của ông được thi hành hay không; trong khi tướng Toàn thì chỉ giao quân lệnh cho sĩ quan cấp dưới thực thi, chứ ông ít để ý về chi tiết ở những đơn vị cấp nhỏ.” Abrams thú nhận là những gì tướng Viên nói với ông sau này ông thấy rất đúng (trang 258). Cũng từ những đối thoại đó, chúng ta thấy sự cách biệt giữa tướng Viên và tổng thống Thiệu đã bắt đầu xảy ra từ cuối năm 1968, khi tướng Abrams kể lại cho ban tham mưu của ông biết sự “khó khăn” của đại tướng Viên. Tướng Abrams nói tướng Hoàng Xuân Lãm (tư lệnh Vùng I) đã bắt đầu liên lạc và nhận lệnh trực tiếp từ tổng thống Thiệu (thay gì qua bộ tổng tham mưu và tướng Viên theo hệ thống quân giai); và tướng Đỗ Cao Trí thì ăn cơm với tổng thống Thiệu một tuần vài lần. ... Theo những gì đại tướng Abrams nói lại trong băng, tướng Viên gần như chỉ còn lo về vấn đề hành chánh quân sự ... trong khi tổng thống Thiệu và các tư lệnh quân đoàn nói chuyện thẳng với nhau về vấn đề hành quân và tác chiến (trang 82). Ở trang 114, Abrams nói tổng thống Thiệu đặt ông Viên vào một thế kẹt, vì nhiều khi tướng Viên chỉ biết được những quyết định quân sự của ông Thiệu một cách ... tình cờ và qua thuộc cấp. Sau này (năm 2002) trong lời bạc của cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH, tướng Viên có nhắc lại chuyện này. Ông nói vào cuối năm 1970, tướng Abrams tiết lộ cho ông biết tổng thống Thiệu muốn thay ông bằng tướng Đỗ Cao Trí. Tướng Viên cũng cho biết càng ngày các tướng lãnh càng nhận lệnh trực tiếp từ tổng thống Thiệu (hay báo cáo thẳng cho ông Thiệu), và dần dần Bộ Tổng Tham Mưu mất đi vai trò căn bản của một bộ tư lệnh chỉ huy quân sự tối cao.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: altus trong 25 Tháng Sáu, 2014, 09:39:24 pm
Nếu độc giả nào thích về vấn đề quân sự và tình báo quân sự, thì The Abrams Tapes sẽ đem lại nhiều thích thú —  càng thích thú hơn cho những tác giả Việt Nam viết về đường mòn Hồ Chí Minh hay các sĩ quan, quân nhân Quân giải phóng đã sống và phục vụ trên hệ thống đường xâm nhập này. Tác giả ghi lại khá nhiều những chi tiết tình báo mà MACV đã thâu thập được từ những binh trạm chỉ huy từng chặn đường xâm nhập. Qua tác phẩm, chúng ta biết MACV đã nghe được những liên lạc giữa những binh trạm quan trọng thuộc bộ chỉ Đoàn 559 (một vài thí dụ ở trang 14 và 247). Binh trạm là trạm chỉ huy đóng dọc theo hệ thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh để điều khiển và phân phối lưu lượng xâm nhập người và quân nhu dụng vào nam. Dưới quyền điều khiển của binh trạm là nhiều trạm giao liên do các tiểu đoàn giao liên, công binh, phòng không phòng bị. Một binh trạm tương đương với một trung đoàn. Đọc những gì do sĩ quan tình báo báo cáo trong các buổi họp ở MACV, rồi đọc những biên khảo hay hồi ký đã được xuất bản của các sĩ quan Quân giải phóng phụ trách hệ thống đường xâm nhập, chúng ta thấy những gì MACV biết được về hệ thống xâm nhập của Quân giải phóng rất chính xác — chính xác đến độ chúng ta suy luận: hoặc MACV đã gài được người vào hệ thống tình báo của Quân giải phóng, hoặc MACV bằng một cách nào đó, đã nghe được đường điện thoại liên lạc qua lại ở các binh trạm (trang 30, 59). So sánh những gì MACV biết vào 1968-1972, với sách vở về Binh Đoàn Trường Sơn 559 được xuất bản trong những năm gần đây, chúng ta thấy những chi tiết của đôi bên rất giống nhau. Một thí dụ: qua những tác phẩm như Trường Sơn: Đường Mòn Hồ Chí Minh Huyền Thoại, Tập I và II (đại tá Nguyễn Việt Phương, TP HCM: NXB Trẻ, 2004); Đường Về Thành Phố Mang Tên Bác (thiếu tướng Võ Bẩm, trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, đại tá Nguyễn Viết Phương, Hà Nội, NXB Quân Đội Nhân Dân, 2005); hay, Cuộc Hành Trình Năm Nghìn Ngày Đêm (Trường Sơn, NXB  Văn Nghệ, TP HCM, 1992. Trường Sơn là bút hiệu của đại tá Phạm Tề, một sĩ quan cao cấp của bộ tư lệnh Đoàn 559 từ những năm đầu thành lập), chúng ta đọc được địa điểm của các binh trạm và trạm giao liên phụ thuộc; chúng ta biết được Quân giải phóng đã ăn chia và hối lộ chánh phủ Cam Bốt và hoàng thân Shihanouk để họ giúp đỡ Quân giải phóng trong vấn đề chuyên chở vũ khí từ hải cảng Shihanoukville về các căn cứ của Quân giải phóng trên đất Cam Bốt, hay băng qua đất Cam Bốt để đi về vùng ba biên giới, bản doanh của bộ tư lệnh B-3. The Abrams Tapes chúng ta thấy MACV đã biết tất cả những chuyện đó: họ biết công ty Hắc Lỉ là công ty của Trung Ương Cục Miền Nam và do Đoàn Hậu Cần 17 quản trị (Nguyễn Việt Phương, sđd, trang 15-16; Abrams Tapes, trang 94-95). Hơn một năm trước khi Hoa Kỳ và VNCH tấn công qua Cam Bốt, MACV đã có tất cả tang chứng về những công ty vận chuyển hàng hải và đường bộ ăn chia với giới lãnh đạo Cam Bốt — trong đó có luôn hoàng thân Shihanouk — để chuyển quân nhu dụng về căn cứ của Quân giải phóng trên đất Cam Bốt. Đối chứng những chi tiết này và ngững chi tiết được giải mật trong một tài liệu có tên là 77 cuộc đối thoại của cấp lãnh Đạo Trung Cộng về Chiến Tranh Dông Dương, chúng ta đọc được lời phàn nàn của Lê Đức Anh với Mao Trạch Đông khi Quân giải phóng phải cắt 10 phần trăm trên mỗi chuyến hàng để hối lộ giới lãnh đao Cam Bốt. Chúng ta đọc và thấy, khi MACV càng biết rõ những sào huyệt của Quân giải phóng bên kia biên giới, họ càng bực tức vì những giới hạn chính trị (không được tiết lộ và không được tấn công qua Cam Bốt vì sự “trung lập” của Cam Bốt) không cho phép bộ tư lệnh Hoa Kỳ ở Việt Nam hành động. Tác phẩm cung cấp rất nhiều tin tức về số lượng xâm nhập người và quân nhu dụng của Quân giải phóng qua hai hệ thống đường xam nhập Shihanoukville và Hạ Lào. Một đôi khi The Abrams Tapes đưa ra những con số rất khó tin. Nhưng nếu so sánh với những tài liệu của Quân giải phóng viết hay công bố về sau này, chúng ta có thể tin những tin tức đó. Thí dụ: ở trang các 72, 79, 85, 92-95, MACV đưa ra nhiều con số về sự thiệt hại và số lượng xâm nhập để bổ sung vào những thiệt hại mà Quân giải phóng chịu đựng sau Tết Mậu Thân. MACV cho biết từ tháng 10-1965 cho cuối năm 1968 Quân giải phóng đã xâm nhập vào miền Nam khoảng 600 ngàn quân; trong năm 1968, họ đưa vào khoảng 236 đến 250 ngàn quân; thiệt hại của Quân giải phóng (ở đây tính luôn Việt Cộng) trong năm 1968 là 289 ngàn quân (bị thương, chết, ra hồi chánh, đầu hàng và tù binh). Con số này hơi khó tin. Nhưng nếu chúng ta nghe chính lời tướng Võ Nguyên Giáp vào giữa năm 1969 thì những con số do MACV cung cấp không xa sự thật lắm. Chính Giáp đã công bố với ký giả Tây phương là đến giữa năm 1969, Quân giải phóng đã chết nửa triệu quân (đọc Oriana Fallaci, Interview With History, trang 82). Song song với những con số lính xâm nhập vào nam do chính các sĩ quan Quân giải phóng cung cấp, chúng ta có thể đặt một câu hỏi thật căn bản: nếu Quân giải phóng không bị thiệt hại nặng thì số quân xâm nhập hàng năm biến đi đâu? Đơn vị nào xử dụng khối lượng quân nhu dụng khổng lồ mà bộ tư lệnh Đoàn 559 nói đã đưa vào Nam — hơn một triệu bốn trăm ngàn tấn (1.400.000)  vũ khí và quân nhu dụng trong mười bốn năm.


Tiêu đề: Re: Đường Trường Sơn - Con đường huyền thoại
Gửi bởi: altus trong 25 Tháng Sáu, 2014, 09:40:03 pm
Trở về phía quân lực VNCH. Tác phẩm chúng ta một số chi tiết quan trọng về hai trận đánh được coi là lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam: Cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh qua Hạ Lào, và trận phản công của quân đội VNCH vào mùa Hè năm 1972 khi Quân giải phóng mở cuộc tấn công toàn diện trên bốn vùng chiến thuật. Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, qua những gì được bàn luận giữa các tướng lãnh ở bộ tư lệnh MACV, chúng ta thấy cuộc hành quân được hoạch định một cách rất hấp tấp; cơ cấu điều khiển có nhiều khiếm khuyết; và phương tiện vận chuyển cũng như hỏa lực cần thiết để áp đảo đối phương không đầy đủ. Cho đến khi những chi tiết trong The Abrams Tapes được giải mật, chưa bao giờ chúng ta đọc được những lời chỉ trích hằn học của các tư lệnh đối với thuộc cấp; chưa bao giờ nghe ông đại tướng chửi thề một trung tướng vì sự chểnh mảng của vị tướng ba sao khi ông này không lượng định được khả năng vận chuyển để cung ứng cho cuộc hành quân. Đồng thời, từ những trang sách này, chúng ta thấy chính cơ cấu điều khiển cuộc hành quân từ phía VNCH cũng không được hoàn hảo. Đọc The Abrams Tapes chúng ta sẽ thấy tại sao cuộc hành quân lớn nhất trong lịch sử cuộc chiến đã không giống như được hoạch định và dự tính (đọc các buổi họp từ đầu tháng 3 đến tháng 5-1971 trong sách). Cuộc hành quân được tổ chức một cách thiết hoàn mỹ đến độ tướng Abrams đã hậm hực về những khiếm khuyết cho đến hai ba tháng sau khi cuộc hành quân chấm dứt.
Về cuộc tổng công kích của Quân giải phóng vào năm 1972 (thường được gọi là trận Mùa Hè Đỏ Lửa), nhiều sự kiện trong The Abrams Tapes sẽ cho độc giả một ấn tượng — cũng như đã cho người viết này nhiều ấn tượng — là thẩm quyền dân sự và quân sự Hoa Kỳ đã biết trước cuộc tấn công qui mô của Quân giải phóng, nhưng họ không ra tay tấn công trước đễ ngăn ngăn ngừa. Hình như Hoa Kỳ làm ngơ để cho cuộc tấn công xảy ra, để hai bên — Quân giải phóng và VNCH — bị tiêu hao nặng, rồi Hoa Kỳ mới ra tay phản công bằng hỏa lực khủng khiếp của họ. Trong một tài liệu giải mật mới nhất, chúng ta nghe Nixon nói với Kissinger là, “trong trận này [1972] thế nào cũng có một bên chết! (đọc thêm Jeffrey Kimball, The Vietnam Wars Files, trang 216) Làm sao MACV không biết được ý định của Quân giải phóng, khi bắt đầu từ những buổi họp vào cuối năm 1971, Abrams đã xin phép Hoa Thịnh Đốn cho ông dội bom các điểm tập trung quân của Quân giải phóng ở bên kia vĩ tuyến 17, và các mật khu sát biên giới Việt Nam ở Hạ Lào, vì tình báo cho biết Quân giải phóng đã phát động một kế hoạnh gọi là chiến dịch vận tải để chuẩn bị tác chiến cho mùa khô 1972 (Võ bẩm, et al., trang 308-309; Abrams Tapes, trang477) Nếu MACV có được khả năng nghe lén liên lạc giữa những binh trạm — như đã nói ở trên — thì làm sao họ không biết gì về những di chuyển của hơn 400 xe tăng từ Vùng I cho đến Vùng III? Ngày 28 tháng 12-1971, Abrams họp tất cả các tư lệnh để thông báo về tin tức tình báo, báo động cuộc tấn công sắp đến của Quân giải phóng vào muà xuân 1972. Ngày 20 tháng Giêng, tại bô tư lệnh MACV, tướng Abrams đọc cho đại sứ Bunker nghe tờ tường trình ông sẽ gởi cho tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, John McCain, và tham mưu trưởng Liên Quân Thomas Moorer, về cuộc tổng tấn công của Quân giải phóng sẽ xảy. Trong tờ tường trình đó, Abrams xin phép Hoa Thịnh Đốn được quyền dội bom các căn cứ quân sự, nhà kho, giàn hỏa tiển SAM, và nơi tập trung quân. Buổi họp quan trọng đó, ngoài Abrams, chỉ có năm người hiện diện: đại sứ Bunker; phó đại sứ Samuel Berger; đại tướng John Lavelle của Không Lực 7, và ba ông thiếu tướng chỉ huy trưởng phòng hành quân, tình báo và tham mưu của MACV. Sau khi trình bày, Abrams nói với đại sứ Bunker một câu rất khó hiểu: ông sẽ họp tất cả các tư lệnh để thông báo về nội dung của bức điện văn sẽ gởi đi, nhưng ông chỉ đọc cho họ nghe chứ không cho họ giữ bản sao vì tính chất tối mật của bản báo cáo (trang 753-757). Nếu đây là một tiên đoán tình báo chánh thức, thì tại sao các tư lệnh cao cấp khác của MACV không được biết? Ngày hôm sau, 21 tháng Giêng, trong bản tường trình viết về cho tổng thống Nixon, đại sứ Bunker nhấn mạnh là cuộc tổng tấn công của Quân giải phóng sẽ xảy ra sau Tết, khoảng trung tuần tháng 2-1972 (đọc The Bunker Papers, quyển 3, trang 849). Khi ba sư đoàn Quân giải phóng tấn công vào các tiền đồn của TQLC và sư đoàn 3 Bộ Binh đóng bảo vệ hướng cực tây của Quảng Trị ngày 30 tháng 3, Ngũ Giác Đài và Tòa Bạch Ốc đã thông báo cho nhau là cuộc tổng tấn công đã bắt đầu. Nhưng trong buổi họp ngày 2 tháng 4, thái độ của đại tướng Abrams hoàn toàn khác hẳn: ông không tin hơn ba sư đoàn chánh qui của Quân giải phóng đã vượt biên giới Lào/ vĩ tuyến 17 và đánh thẳng vào Quảng Trị. Không những như vậy, ông còn nặng lời khi đọc diện tín báo cáo và lời yêu cầu xin đổ bộ quân tiếp viện của đại tá Gerald Turley, cố vấn sư đoàn TQLC Việt Nam, đang hiện diện tại mặt trận (về chi tiết này, đọc The Easter Offensive of 1972, của đại tá Geral D. Turley).
Rất khó biện luận là MACV hay Ngũ Giác Đài không biết chính xác về thời điểm cuộc tấn công “bất thần” của Quân giải phóng trong năm 1972. Và quan trọng hơn, với những hiểu biết họ đã bàn luận trong các buổi họp, MACV có thông báo với thẩm quyền quân sự VNCH để cho họ có một phòng dự tổng quát hay không. Những tuần lễ tiếp theo sau, trong các buổi họp, MACV lần lượt cho thấy họ đã thu thập được nhiều tin tức liên quan đến ngày tổng tấn công của Quân giải phóng.  Tuy nhiên khi Quân giải phóng thật sự tấn công, thái độ của bộ tư lệnh MACV gần như là, “cứ để cho Quân giải phóng tấn công sâu vào hơn ... rồi tính.” Phải chăng đây là một cố ý của người Mỹ vào năm cuối cùng của họ trong cuộc chiến?
Qua 879 trang của The Abrams Tapes, độc giả thấy được ít nhiều những chi tiết về chiến tranh Việt Nam — ở phương diện chỉ huy và điều khiển từ bộ tư lệnh cao nhất. Có một điều làm người điểm sách tò mò: không biết hơn hai ngàn trang còn lại — những trang bị kiểm duyệt và chưa được công bố — chứa đựng những gì trong đó.
The Abrams Tapes, dù chỉ cho độc giả những bí mật trong bốn năm của cuộc chiến, nhưng đó là bốn năm quan trọng, bốn năm quyết định nhất của cuộc chiến. The Abrams Tapes là một tác phẩm đáng được tham khảo trong tương quan của người Mỹ về cuộc chiến Việt Nam.

Nguyễn Kỳ Phong