Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 10 Tháng Chín, 2007, 07:34:51 pm Nhà xuất bản: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm xuất bản: 2004 Số hóa: Daibangden. 60 NĂM QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ANH HÙNG (HỎI VÀ ĐÁP) Lời nhà xuất bản Ngày 22-12-1944, tại Nguyên Bình, Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền than của Quân đội nhân dân Việt Nam, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy được thành lập. Ra đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, là con đẻ của nhân dân, vì nhân dân, mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, nêu cao chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, truyền thống và phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ: ”Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng", trải qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, đánh bại mọi kẻ thù hung bạo, giải phóng dân tộc,thống nhất đất nước, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Ngay từ khi mới ra đời với trang bị hết sức thô sơ, lạc hậu, với phương châm ”chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, được sự che chở đùm bọc của quần chúng cách mạng, quân đội ta đã giành được nhưng thắng lợi làm nức lòng nhân dân cả nước. 60 năm qua là một chặng đường chiến đấu và xây dựng đầy hi sinh gian khổ, vô cùng oanh liệt của quân đội ta. Nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 – 22-12-2004) và 15 năm ngày Quốc phòng toàn dân (22-12-1989 – 22-12-2004), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (Hỏi và đáp) do các tác giả Nguyễn Đăng Vinh và Nguyễn Thị Phương Túy biên soạn. Nội dung cuốn sách phản ánh cô đọng, ngắn gọn quá trình hình thành, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam từ ngày đầu thành lập đến nay. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 10 năm 2004 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA Tiêu đề: 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 10 Tháng Chín, 2007, 07:35:59 pm PHẦN THỨ NHẤT QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM: NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU,TRƯỞNG THÀNH VÀ CHIẾN THẮNG VẺ VANG I-QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM NHỮNG NGÀY ĐÂU THÀNH LẬP VÀ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC(1944-1954) 1.Lịch sử ra đời, nhiệm vụ và biên chế tổ chức, chỉ huy của Đội vũ trang Cao Bằng? Đội vũ trang Cao Bằng, đội vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh Cao Bằng làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng, giữ vững giao thông liên lạc, vũ trang tuyên truyền trong quần chúng, huấn luyện tự vệ và tự vệ chiến đấu trong tỉnh. Độ được thành lập vào tháng 10-1941 tại Pác Bó theo chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), gồm 12 người, 7 súng (3 súng lục,4 súng trường), do Lê Quảng Ba làm Đội trưởng,Hoàng Sâm-Đội phó, Lê Thiết Hùng-Chính trị viên.Từ cuối năm 1942, lực lượng của Đội được phân tán về các địa phương huấn luyện các đội tự vệ chiến đấu.Tới ngày 22-12-1944, một số cán bộ, đội viên Đội vũ trang Cao Bằng được lựa chọn vào Đội Viêt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, số còn lại nhận nhiệm vụ khác. 2.Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân của chủ tịch Hồ Chí Minh?(1) 1.Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự.Nó là đội tuyên truyền.Vì muốn có kết quả thì về quân sự,nguyên tắc chính là tập trung lực lượng,cho nên,theo chỉ thị mới của Đoàn thể,sẽ chọn lọc trong hang ngũ những du kích Cao-Bắc-Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết,hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực. Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của địa phương, giúp đỡ huấn luyện,giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên. 2.Đối với các đội vũ trang địa phương: Đưa cán bộ địa phương về huấn luyện,tung các các bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến. 3.Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông, mai tây, lai vô ảnh, khứ vô tung. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ,nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân,nó có thể đi suốt từ Băc chí Nam, khắp đất nước Việt Nam. Tháng 12-1944 Hồ Chí Minh (1) Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.3, tr 507-508. 3.Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập khi nào? Ở đâu? Biên chế tổ chức, chỉ huy và nhiệm vụ của Đội khi mới thành lập? Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập ngày 22-12-1944 tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Đội gồm 34 chiến sĩ, có 34 khẩu sung các loại, biên chế thành 3 tiểu đội, có chi bộ Đảng lãnh đạo. Đội trưởng: Hoàng Sâm Chính trị viên: Xích Thắng Quản lý: Văn Tiên (tức Lộc Văn Lùng). Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo,chỉ huy tuyên bố thành lập Đội” Nhiệm vụ mà Đoàn thể ủy thác cho chúng ta là một nhiệm vụ quan trọng và nặng nề. Chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến, nhiệm vụ ấy có tính chất là một nhiệm vụ giao thời.Vận dụng vũ trang tuyên truyền để kêu gọi toàn dân đứng dậy,chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này… Theo chỉ thị của Đoàn thể, dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, tôi xin tuyên bố: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thành lập và hạ lệnh cho các đồng chí tiến lên con đường vũ trang tranh đấu…”(1) (1) Những ngày kỉ niệm lớn trong nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1972, tr 189-190. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng(hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 16 Tháng Chín, 2007, 04:45:15 pm 4.Danh sách 34 chiến sĩ Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân dự lễ thành lập(ngày 22-12-1944)?
1.Trần Văn Kỳ (bí danh Hoàng Sâm), dân tộc Kinh, quê Lệ Sơn, Tuyên Hóa, Quảng Bình-Đội trưởng. 2.Dương Mạc Thạch (bí danh Xích Thắng), dân tộc Tày, quê Minh Tâm, Nguyên Bình, Cao Bằng-Chính trị viên. 3.Ngô Quốc Bình (bí danh Hoàng Văn Thái), dân tộc Kinh, quê An Khang, Tiền Hải, Thái Bình-tình báo và kế hoạch tác chiến. 4.Lâm Cẩm Như (bí danh Lâm Kính), dân tộc Kinh, quê Đông Khê, Thạch An, Cao Bằng-Công tác chính trị. 5.Lộc Văn Lùng (bí danh Văn Tiên), dân tộc Tày, quê Mai Pha, Cao Lộc, Lạng Sơn-quản lý. 6.Hoàng Thịnh (bí danh Quyền), dân tộc Tày, quê Tràng Xá, Võ Nhai, Thái Nguyên. 7.Nguyễn Văn Càng (bí danh Thu Sơn) ,dân tộc Tày, quê Hồng Việt, Hòa An, Cao Bằng. 8.Đàm Quốc Chủng (bí danh Quốc Chủng), dân tộc Tày, quê Bình Long, Hòa An, Cao Bằng. 9.Hoàng Văn Nình (bí danh Thái Sơn) dân tộc Nùng, quê Thượng Ân, Ngân Sơn, Bắc Kạn. 10.Hà Hương Long, dân tộc Tày, quê Nam Tuấn, Hòa An , Cao Bằng. 11.Đức Cường (tức Cơ), dân tộc Tày, quê Đề Thám, Hòa An, Cao Bằng. 12.Bế Văn Sắt (bí danh Hồng Quân Mậu), dân tộc Tày, quê Bình Long, Hòa An, Cao Bằng. 13.Đinh Trung Lương (bí danh Trung Lương), dân tộc Tày, quê Lê Lợi, Thạch An, Cao Bằng. 14.Tô Vũ Dâu (bí danh Thịnh Nguyên), dân tộc Tày, quê Vĩnh Quang, Hòa An, Cao Bằng. 15.Đồng chí Luận, dân tộc Kinh, quê Quảng Bình. 16.Bế Bằng (bí danh Kim Anh), dân tộc Tày, quê Hồng Việt, Hòa An, Cao Bằng. 17.Nông Phúc Thơ, dân tộc Nùng, quê Tràng Xá, Võ Nhai, Thái Nguyên. 18.Nông Văn Kiểm (bí danh Liên), dân tộc Tày, quê Tam Kinh, Nguyên Bình, Cao Bằng. 19.Ma Văn Phiêu (bí danh Bắc Hợp(Đường)), dân tộc Tày, quê Nguyên Bình, Cao Bằng. 20.Chu Văn Đế (bí danh Nam) ,dân tộc Tày, quê Minh Tâm, Nguyên Bình, Cao Bằng. 21.Bế Văn Vạn (bí danh Vạn), dân tộc Tày, quê Vân Tùng, Ngân Sơn, Bắc Kạn. 22.Nông Văn Bê (bí danh Thâm), dân tộc Nùng, quê Hoàng Tung, Hòa An, Cao Bằng. 23.Hồng Cô, dân tộc Mông, quê Lũng Giẻ, Nguyên Bình, Cao Bằng. 24.Nguyễn Văn Phán (bí danh Kế Hoạch), dân tộc Tày, quê Hồng Việt, Hòa An, Cao Bằng. 25.Đặng Dần Quý (bí danh Quí), dân tộc Dao, quê Tam Kinh, Nguyên Bình, Cao Bằng. 26.Tô Văn Cắm (bí danh Tô Tiến Lực), dân tộc Tày, quê Tam Kinh, Nguyên Bình, Cao Bằng. 27.Hoàng Văn Lương (bí danh Kinh Phát), dân tộc Nùng, quê Đức Vân, Ngân Sơn, Bắc Kạn. 28.Hoàng Văn Nhủng (bí danh Xuân Trường), dân tộc Tày, quê Sóc Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. 29.Trương Đắc (bí danh Đồng),dân tộc Tày,quê Minh Tâm, Nguyên Bình, Cao Bằng. 30.Dương Đại Long, dân tộc Nùng, quê Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng. 31.La Thanh, dân tộc Nùng, quê Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng. 32.Ngọc Trình, dân tộc Nùng, quê Bình Long, Hòa An, Cao Bằng. 33.Nông Văn Ích, dân tộc Nùng, quê Hà Quảng, Cao Bằng. 34.Thế Hậu, dân tộc Nùng, quê Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng(hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 16 Tháng Chín, 2007, 04:47:18 pm 5.Nội dung 10 lời thề danh dự của Đội Quân giải phóng Việt Nam:
“Chúng tôi, đội viên Đội Quân giải phóng Việt Nam, xin lấy danh dự một người chiến sĩ cứu quốc mà thề dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh: 1.Xin thề:Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam, chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để chống xâm lược và bon Việt gian phản quốc để giải phóng cho toàn dân Việt Nam, làm cho nước Việt Nam trở nên một nước dân chủ, độc lập, tự do, ngang hang với các nước dân chủ trên thế giới. 2.Xin thề:Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên,khi nhận nhiệm vụ gì sẽ tận tâm, tận lực thi hành cho nhanh chóng và chính xác. 3.Xin thề:Bao giờ cũng kiên quyết phấn đấu,dù gian lao khổ hạnh cũng không phàn nàn, vào sống ra chết cũng không sờn chí, khi ra trận mạc quyết chí xung phong, dù đầu rơi máu chảy cũng không lùi bước. 4.Xin thề:Lúc nào cũng khẩn trương, hoạt bát,hết sức học tập, chiến đấu để tự rèn luyện thành một người quân nhân cách mạng, xứng đáng là một người chiến sĩ tiên phong giết giặc, cứu nước. 5.Xin thề:Tuyệt đối giữ bí mật cho mọi việc của Đội như nội dung,tổ chức, kế hoạch hành động cùng những người chỉ huy trong Đội và giữ bí mật cho tất cả các đoàn thể cứu quốc. 6.Xin thề:Nếu trong luc chiến đấu bị quân địch bắt được, dù bị cực hình tàn khốc thế nào,cũng quyết một lòng trung thành với sự nghiệp cứu quốc, không bao giờ phản bội xưng khai. 7.Xin thề:Hết sức ái hộ các bạn chiến đấu trong Đội cũng như ái hộ bản thân, hết lòng giúp nhau trong lúc thường cũng như lúc ra trận. 8.Xin thề:Bao giờ cũng chủ trương giữ gìn vũ khí của Đội,quyết không chi vũ khí hư hỏng hoặc rơi vào tay quân thù. 9.Xin thề:Khi tiếp xúc với dân chúng sẽ làm đúng ba điều nên:Kính trọng dân, cứu giúp dân,bảo vệ dân; và ba điều răn:Không dọa nạt dân,không lấy của dân, không quấy nhiễu dân để gây lòng tin cậy ái đới của dân chúng,thực hiện quân dân nhất trí, cứu nước diệt gian. 10.Xin thề:Bao giờ cũng nêu cao tinh thần tự phê bình và sửa chữa giữ tư cách cá nhân mô phạm, không làm điều gì hại đến thanh danh của đội quân giải phóng và hại đến quốc thể Việt Nam. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng(hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 16 Tháng Chín, 2007, 04:52:31 pm 6.Hai trận thắng đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là những trận nào?Ý nghĩa những trận thắng đó?
Đó là trận Phai Khắt và trận Nà Ngần.Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh:”Trong một tháng phải có hoạt động.Trận đầu nhất định phải thắng lợi”.Ngày 25-12,Đội Việt NamTuyên truyền giải phóng quân đã cải trang, dùng mưu tập kích đồn Phai Khắt (xã Tam Lộng, tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng); ngày 26-12 diệt đồn Nà Ngần (cách Phai Khắt 15 km về phía đông-bắc) bắt 30 lính ngụy, diệt 2 sĩ quan (1 sĩ quan Pháp), thu vũ khí.Đây là hai trận đánh đầu tiên, thể hiện sự gan dạ mưu trí, tinh thần triệt để chấp hành mệnh lệnh của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân.Hai trận đánh có tiếng vang lớn, cổ vũ phong trào cách mạng trong khu căn cứ, mở đầu truyền thống đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng, đánh thắng ngay từ trận đầu của Quân đội nhân dân Việt Nam. 7.Đội du kích Ba Tơ thành lập khi nào?Ở đâu?Ai là những người chỉ huy đầu tiên của đội? Đội du kích Ba Tơ thành lập ngày 12-3-1945, tại tỉnh Quảng Ngãi, gồm28 chiến sĩ, 24 khẩu súng. Những người chỉ huy đầu tiên của Đội là: Đội trưởng:Phạm Kiệt. Chính trị ủy viên:Nguyễn Đôn. 8.Việt Nam Giải phóng quân thành lập khi nào?Ở đâu?Biên chế tổ chức khi mới thành lập? Ngày !5-5-1945, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân gặp nhau ở bãi Thàn Mát (tên một loài cây) phía sau đình làng Quặng (xã Định Biên,huyện Định Hòa,tỉnh Thái Nguyên).Cùng ngày, tại đình làng Quặng, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thống nhất các đội vũ trang cách mạng trong cả nước thành Việt Nam giải phóng quân.Lực lượng ban đầu gồm 13 đại đội (thống nhất từ các đại đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và các trung đội Cứu quốc quân) và các đội vũ trang tập trung ở các tỉnh,huyện. 9.Chiến khu Đông Triều thành lập khi nào?Ai là những người chỉ huy đầu tiên của Đội du kích chống Nhật của chiến khu này? Chiến khu Đông Triều (Trần Hưng Đạo) thành lập ngày 8-6-1945.Đội du kích chống Nhật của chiến khu ra đời do các đồng chí Nguyễn Bình, Hải Thanh, Trần Cung…chỉ huy.Từ Đông Triều,Chí Linh (Hải Dương) địa bàn chiến khu nhanh chóng phát triển ra Quảng Yên, Kiến An, Hải Ninh, Hải Phòng, vùng duyên hải đông-bắc Bắc Bộ. 10.Việt Nam Giải phóng quân có vi trò như thế nào trong cuộ Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945? Việt Nam Giải phóng quân đã góp phần cùng toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Đêm 15 và ngày 16, từ Tân Trào, Việt Nam Giải phóng quân chia thành hai bộ phận tiến đánh tỉnh lỵ Tuyên Quang và Thái Nguyên.Ngày 17, tiến công trại lính Nhật (hơn một tiểu đoàn) ở thị xã Tuyên Quang.Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng Tám, bao vây tiến công các vị trí quân Nhật ở Thái Nguyên, kêu gọi chúng đầu hang. Ngày 19-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội,ngày 23-8 ở Huế và ngày 25-8 ở Sài Gòn.Ngày 28-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi trên cả nước. Việt Nam Giải phóng quân phát triển nhanh chóng trong quá trình Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, 11.Bộ Quốc phòng được thành lập vào thời gian nào?Các đồng chí đã từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng qua các thời kỳ? Bộ Quốc phòng được thành lập ngày 27-8-1945, các đồng chí từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng::Thượng tướng Chu Văn Tấn (1946-1946), Phan Anh (1946), Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1946-1980), Đại tướng Văn Tiến Dũng (1980-1987), Đại tướng Lê Đức Anh (1987-1991), Đại tướng Đoàn Khuê (1991-1997),Đại tướng Phạm Văn Trà (từ 1997 đến nay)* *Tính đến tháng 10-2004-thời điểm xuất bản sách.Từ 2006 đến nay Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng là Đại tướng Phùng Quang Thanh. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 24 Tháng Chín, 2007, 07:28:26 pm 12.Nhiệm vụ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra cho Bộ Tổng tham mưu trong Chỉ thị thành lập ngày 7-9-1945 là gì?
Ngày 7-9-1945,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Bộ Tổng tham mưu,trong đó nêu rõ rằng Bộ Tổng tham mưu là cơ quan tham mưu cơ mật của Đoàn thể,cơ quan đầu não của quân đội,có nhiệm vụ: “Tổ chức,huấn luyện quân đội cho giỏi,tổ chức nắm địch,nắm ta rõ ràng; bày mưu kế khôn khéo; tổ chức chỉ huy thông suốt; bí mật, nhanh chóng; kịp thời;chính xác để đánh thắng mọi kẻ thù,bảo vệ thành quả cách mạng”(1). 1.55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam , Sđd, tr.21. 13.Vì sao ngày 9-9 hằng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội thông tin liên lạc? Ngày 9-9-1946,thành lập Phòng Thông tin liên lạc quân sự Bộ Tổng tham mưu do đồng chí Hoàng Đạo Thúy phụ trách.Vì thế,ngày 9-9 hàng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội thông tin liên lạc. 14.Vì sao ngày 12-9 hằng năm trở thành ngày truyền thống của ngành cơ yếu quân đội? Ngày 12-9-1945, thành lập Ban Mật mã quân sự ( thuộc phòng Thông tin liên lạc quân sự-Bộ Tổng tham mưu) có nhiệm vụ nghiên cứu, biên soạn và sử dụng mật mã, bảo đảm bí mật nội dung lãnh đạo và chỉ huy các cấp trong quân đội khi chuyể qua các phương tiện thông tin. Cán bộ phụ trách:Tạ Quang Đệ. Vì thế,ngày 12-9 hằng năm trở thành ngày truyền thống của ngành mật mã (cơ yếu) của Quân đội nhân dân Việt Nam. 15.Tại sao ngành tòa án quân sự lấy ngày 13-4 hằng năm làm ngày truyền thống? Ngày 13-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh thiết lập các tòa án quân sự.Trong đó quy định: “Điều 1 – Sẽ lập tòa án quân sự ở Bắc Bộ: tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung Bộ: Tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam Bộ: tại Sài Gòn, Mĩ Tho. Điều 2 – Tòa án quân sự sẽ xử tất các các người nào phạm vào một việc gì phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Trừ phi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật”(1). Từ đó, ngày 13-9 trở thành ngày truyền thống của ngành toà án quân sự. (1).55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr23. 16.Tại sao Tổng cục Công nghiệp quốc phòng lấy ngày 15-9 hằng năm làm ngày truyền thống? Ngày 15-9-1945, quân đội ta thành lập Phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc phòng.Nhiệm vụ: thu thập, mua sắm và tổ chức các cơ sở sản xuất vũ khí để trang bị cho quân đội.Tổ chức gồm các bộ phận: Sưu tầm, mua sắm, phân phối vũ khí; lập các bản vẽ kĩ thuật vũ khí, văn phòng. Phụ trách chung: Vũ Anh. Trưởng phòng: Nguyễn Ngọc Xuân. Vì thế, ngày 15-9 hằng năm trở thành ngày tryền thống của ngành quân giới Việt Nam; ngày truyền thống của Tổng cục Công nghiệp quốc phòng ngày nay. 17.Trong chỉ thị Chấn chỉnh,mở rộng và đổi tên Việt Nam Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn,Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những gì?Biên chế của Vệ quốc đoàn khi mới thành lập? Giữa tháng 9-1945,Chủ tịch Hồ Chí Minbh ra Chỉ thị chấn chỉnh, mở rộng và đổi tên Việt Nam Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn – quân đội của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Người căn dặn Vệ quốc đoàn,các lực lượng vũ trang và nhân dân, thực hiện sách lược mềm dẻo đối với quân đội Tưởng Giới Thạch (dưới danh nghĩa quân Đồng minh, kéo theo bọn phản động tay sai vào miền Bắc, giải giáp quân đội Nhật).Phải hết sức tránh khiêu khích, không để xảy ra xung đột với quân Tưởng.Nếu xảy ra xung đột thì biến xung đột lớn thành xung đột nhỏ, biến xung đột nhỏ thành không xung đột(1).Thực hiện chỉ thị mở rộng lực lượng của Bác, từ một số chi đội, đại đội ( khoảng 5.000 người) trong những ngày tổng khởi nghĩa đến cuối năm 1945, Vệ quốc đoàn đã phát triển lên 50.000 người,gồm 40 chi đội (mỗi chi đội từ 1.000 đến 2.000 người). (1). 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.23. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 24 Tháng Chín, 2007, 10:24:02 pm 18.Nam Bộ mở đầu toàn quốc kháng chiến khi nào?
Ngày 23-9-1945, Nam Bộ mở đầu kháng chiến toàn quốc. Được quân Anh, Nhật tiếp sức, quân Pháp mở cuộc tiến công Sài Gòn (Nam Bộ).Các chiến sĩ tự vệ chiến đấu, thanh niên xung phong, xung phong công đoàn, thanh niên tiền phong cùng nhân dân Sài Gòn anh dũng chiến đấu đánh trả quân Pháp xâm lược.Các tỉnh miền Đông Nam Bộ thành lập Ủy ban kháng chiến. Nhân dân quyên góp lương thực, thực phẩm, thuốc men cho bộ đội đánh giặc.Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam bộ họp tại số nhà 269, đường Cây Mai, Chợ Lớn, quyết định điện báo ra Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh xin chỉ thị, đông thời phát động ngay cuộc kháng chiến chống Pháp. 19.Ví sao ngày 16-4 hằng năm trở thành ngày truyền thống của ngành quân y? Quân y Cục thành lập ngày 16-4-1946 (Nghị định số 12/NĐ của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: Tổ chức việc y tế và thú y trong quân đội. Cục trưởng: Bác sĩ Vũ Văn Cẩn. Vì thế, ngày 16-4 hằng năm trở thành ngày truyền thống của ngành quân y. 20.Hội nghị quân sự toàn quốc ngày 19-10-1946 họp tại nhà số 58 phố Nguyễn Du, Hà Nội đã có những nhận định và quyết định gì về cuộc kháng chiến và xây dựng lực lượng vũ trang? Ngày 19-10-1946, Hội nghị quân sự toàn quốc họp tại nhà số 58, phố Nguyễn Du, Hà Nội do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì.Các đồng chí Ủy viên Quân ủy Hội và cán bộ quân sự, chính trị chủ chốt của các khu tham dự.Hội nghị nhận định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”,; Quyết định gấp rút xây dựng lực lược kháng chiến, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là công tác đảng – công tác chính trị trong Vệ quốc đoàn.Mỗi đại đội hay một cơ quan từ tiểu đoàn trở lên tổ chức một chi bộ.Chỉnh đốn các cán bộ chính trị viên bằng cách đưa ngươì có năng lực vào.Mở trường huấn luyện chính trị viên.Quy định rõ chế độ chính trị viên và các cơ quan chính trị trong bộ đội… 21. Trường võ bị Trần Quốc Tuấn được thành lập vào thời gian nào? Lá cờ mà Bác Hồ tặng nhà trường trong lễ khai giảng đâu tiên mang dòng chữ gì? Ngày 17-4-1946, thành lập Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn trên cơ sở Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam. Giám đốc: Hoàng Đạo Thúy. Phó Giám đốc: Trần Tử Bình. Ngày 26-5-1946, trường khai giảng khóa I tại Sơn Tây ( 288 học viên). Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự, tặng trường lá cờ thêu dòng chữ: "Trung với nước, hiếu với dân". 22. Quỹ "Mùa đông binh sĩ" và "áo trấn thủ" sử dụng trong quân đội ra đời vào thời gian nào?ư Tháng 10-1946, Chính phủ lập quỹ "Mùa đông binh sĩ". Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng áo, tư trang và lương của người cho bộ đội. Các tầng lớp nhân dân, đoàn thể cứu quốc quyên góp được nhiều vải, quần, áo, chăn, màn. Áo trấn thủ do một cửa hàng ở phố Hàng Trống, Hà Nội may bắt đầu được sử dụng trong quân đội vào thời gian này. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 15 Tháng Mười, 2007, 12:01:16 am 23. Nội dung Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
Đêm 19 rạng ngày 200 tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm" (1) (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr 480-481 24. Chi đội Trần Phú thành lập khi nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi thành lập? Ngày 26-12-1946, thành lập Chi đội Trần Phú gồm 426 cán bộ, chiến sĩ tuyển chọn trong các tổ chức Việt kiều yêu nước ở Lào và Thái Lan. Chi đội gồm 3 đại đội, một phân đội trinh sát, một phân đội vận tải và một tiểu đoàn bộ. Chi đội trưởng: Nguyễn Chánh. Chính trị viên: Trần Văn Sáu. Sau lễ thành lập, chi đội hành quân về nước tam gia chiến đấu ở Nam Bộ với tên gọi "Chi đội Hải ngoại IV". 25. Trung đoàn Thủ Đô được thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy của trung đoàn khi mới thành lập? Trung đoàn Thủ đô thành lập ngày 6-1-1947. Các đơn vị Vệ quốc quân, tự vệ, công an xung phong của Liên khu I Hà Nội (khu vực quận Hoàn Kiếm ngày nay) chính thức làm lễ thành lập trung đoàn, lúc đầu mang tên "Trung đoàn Liên khu I". Hội nghị quân sự toàn quốc (từ ngày 12 đến ngày 16-1-1947) tặng danh hiệu "Trung đoàn Thủ đô". Biên chế ba tiểu đoàn 101, 102, 103. Trung đoàn trưởng: Hoàng Siêu Hải. Chính trị viên: Lê Trung Toản. Tham mưu trưởng: Hoàng Phương. Ngày 13-1, trung đoàn làm lễ tuyên thệ tại rạp hát Tố Như (nay là Rạp Chuông Vàng), thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". 26. Trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô nhân dịp Tết Đinh Hợi (1947), Bác Hồ đã căn dặn những gì? Ngày 17-1-1947, nhân dịp Tết Đinh Hợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ trung đoàn: "Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau" (1). (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 35. 27. Trận đánh nào được coi là trận đánh phục kích thắng lợi đầu tiên của Khu VIII, đánh dấu bước trưởng thành của bội đội khu, tỉnh góp phần thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh ở các địa phương phát triển trong kháng chiến chống Pháp? Đó là trận Cổ Cò (ngày 22-1-1947 - mồng một Tết Đinh Hợi). Đây là trận phục kích của các Chi đội 17, 18, Đại đội Trường quân chính khu 8, một bộ phận Quốc vệ đội và du kích đánh tiểu đoàn cơ giới của Pháp từ chợ Mới về Sài Gòn. Trận địa bố trí từ cầu Bà Tồn đến cách Mĩ Thuận 1 km (trên quốc lộ 4), chủ yếu ở khu vực Cổ Cò (xã An Thái Đông, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho). 10 giờ 30 phút trận đánh bắt đầu. Sau khi nổ mìn chặn đầu, bộ binh dùng tiểu liên, lựu đạn diệt địch. Sau hai giờ chiến đấu, ta diệt 170, bắt 15 quân Pháp, phá 14 xe quân sự (8 bọc thép), thu trên 100 súng. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng(hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 17 Tháng Mười, 2007, 02:50:30 am 28. Hội nghị chính trị viên lần thứ nhất họp ngày 15-12-1947 đã có những quyết định gì về nhiệm vụ của công tác chính trị, của đảng viên trong quân đội?
Hội nghị chính trị viên lần thứ nhất họp ngày 15-12-1947. Đồng chí Võ Nguyên Giáp - Bí thư Trung ương quân ủy và đồng chí Văn Tiến Dũng - Cục trưởng cục chính trị chủ trì. Hội nghị quyết định nhiệm vụ của công tác chính trị, của đảng viên trong quân đội: "Dù trong trường hợp nào cũng phải nắm cho vững bộ đội, củng cố và mở rộng cơ sở đảng, thi hành cho được nhiệm vụ quân sự". Hội nghị đề ra 12 điều kỉ luật dân vận, 10 nhiệm vụ của công tác chính trị trong quân đội, quyết đính ra báo Vệ quốc quân. 29. Vì sao ngày 28-2* hằng năm trở thành ngày truyền thống của Cục Cán bộ? Phòng Cán bộ thuộc Cục Chính trị - Bộ Quốc phòng thành lập ngày 28-2-1947 (Nghị định số 243/NĐ của BBộ trưởng Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: giúp cục Chính trị kiểm soát cán bộ, thu nhập danh sách, lý lịch cán bộ; hiểu rõ trình độ năng lực cán bộ để đề nghị đề bạt, bổ dụng và thuyen chuyển, kiểm tra thi hành kỷ luật với số cán bộ phạm sai lầm khuyết điểm. Biên chế: 11 cán bộ và nhân viên. Trưởng phòng: Trần Tử Bình. Vì thế, ngày 28-2 hằng năm trở thành ngày truyền thống của Cục cán bộ, Tổng cục Chính trị ngày nay. * Theo sách in là ngày 28-12 hằng năm. 30. Lịch sử ra đời súng Bazôka Việt Nam? Tháng 4-1947, quân đội ta đã chế tạo thành công súng Bazôka. Việc nghiên cứu, chế tạo đã được thức hiện ở Xưởng quân giới Giang Tiên (Thái Nguyên) từ giữa năm 1946. Sau đó, Kỹ sư Trần Đại Nghĩa trực tiếp nghiên cứu và chỉ đạo chế tạo thành công Bazôka theo mẫu của Mỹ (kiểu ATM6A1), cỡ 60 ly, dài 12,7 mét, nặng 11kg, có thể vác vai, bắn không giật; cự ly bắn hiệu quả từ 50 đến 60 mét, xa nhất 300 mét. Đạn Bazôka là đạn lõm chống tăng. Ngày 3-5-1947, Bazôka được sử dụng diệt xe tăng Pháp tại Sơn Lộ - chùa Trầm, Hà Đông. 31. Trận đánh điển hình về vận dụng cách đánh phục kích giao thông thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp? Đó là trận Giồng Dứa (ngày 25-4-1947). Đây là trận phục kích của của Đại đội học viên Trường quân chính Khu VIII phối hợp với Chi đội 17 và du kích Mỹ Tho đánh đoàn xe của quân Pháp từ Sài Gòn đi tiếp tế vũ khí cho binh sĩ các tỉnh miền tây Nam Bộ (đoàn xe của chính phủ ngụy quyền Nam Kỳ cùng đi) trên quốc lộ 4 (ngã tư Trung Lương - cầu Long Định). 10 giờ ngày 25-4, khi đoàn xe địch lọt vào trung tâm trận địa phục kích tại Giồng Dứa (xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho), ta dùng mẹo đẩy xe bò đá chặn đầu, tổ chức lực lượng khóa đuôi, chặn viện và đánh chính diện. Sau 10 phút chiến đấu, đã phá hủy 14 xe, làm thương vong 80 tên địch (có quan năm chỉ huy tình báo Pháp), bắt 7 tên (có Trương Vĩnh Tống, bộ trưởng ngụy quyền và sĩ quan kỹ sư Pháp). Trận Giồng Dứa làm chấn động dư luận trong nước và ở Pháp, góp phần thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích địa phương. 32. Hội nghị dân quân du kích toàn quốc lần thứ nhất họp vào thời gian nào? Cho biết những nội dung chính trong trong thư gửi Hội nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh? Hội nghị dân quân du kích toàn quốc lần thứ nhất họp ngày 24-5-1947, thống nhất việc tổ chức dân quân tự vệ và du kích từ những tổ chức vu trang quần chúng do Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc xây dựng trở thành một bộ phận trong các lực lượng vũ trang nhà nước, do các cơ quan quân sự chỉ huy. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho hội nghị, trong thư có đoạn: "...Dân quân,tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã. Các chiến sĩ dân quân, tự vệ và du kích ở Nam Bộ, ở Thủ đô, ở miền duyên hải và ở các nơi, đã chứng rõ sự thực đó một cách rất anh hùng. Từ đây về sau, lực lượng ta càng ngày càng vững, kinh nghiệm ta càng ngày càng nhiều thì ta càng tỏ cho địch biết, tỏ cho thế giới biết rằng dân quân, tự vệ và du kích Việt Nam là những người ái quốc sắt đá, là những chiến sĩ anh hùng. Nhưng chúng ta không tự mãn tự túc, không kiêu ngạo, chúng ta luôn luôn phải thực hành mấy điều này: 1. Trong bộ đội phải đồng cam cộng khổ. Phải giữ kỷ luật, phải siêng năng tập tành, phải giữ bí mật, luôn luôn cẩn thận, lúc có địch trấn tĩnh như không có địch, lúc xa địch nghiêm ngặt như gần địch; 2. Đối với dân - phải bảo vệ dân, phải giúp đỡ dân, phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu; 3. Đối với công việc - phải lập làng kháng chiến khắp nơi, phải luôn tích cực hành động; 4. Đối với địch - phải kiên quyết, dũng cảm. Phải có kế họach, mưu trí, phải hữu tiến vô thoái, phải thi đua nhau trong việc sát giặc cướp súng, v.v..Song đối với tù binh thì phải ưu đãi họ".(1). (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr 132-133. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 19 Tháng Mười, 2007, 12:59:27 am 34. Trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ Quân đội quốc gia ngày 2-9-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ chỉ huy và đội viên những gì?
Ngày 2-9-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội quốc gia, trong đó Người căn dặn: ..."Các cấp chỉ huy cần phải: a) Biết rõ bộ đội, chăm nom bộ đội. b) Mỗi một các mệnh lệnh đưa ra thì cần phải mau chóng và chuyển khắp đến từng đội viên và phải thi hành triệt để. c) Mỗi người chỉ huy về quân sự cũng như về chính trị, phải làm kiểu mẫu, phải giữ gìn đúng đạo đức của quân nhân. Tất cả quân nhân cần phải: a) Ra sức học tập kinh nghiệm, và cố gắng nghiên cứu kỹ thuật. b) Rèn luyện tinh thần chịu khó, chịu khổ. Toàn thể bộ đội cần phải: Ra sức thực hành những nghị quyết đã do những hội nghị quân sự toàn quốc ấn định. Phải thực hành cho đến nơi đến chốn. Quân đội ta quyết phải làm được những điều đó, để khỏi phụ lòng tin cậy của Chính phủ, của đồng bào, và trở nên một quân đội tất thắng" (1). (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 204-205. 35. Nguồn gốc tên gọi "Pháo binh Sông Lô" và "Trung đoàn Sông Lô"? Trong các ngày 23, 24-10 và ngày 10-11-1947 đã diễn ra trận Sông Lô. Đây thực chất là các trận phục kích đường sông của lực lượng pháo binh Khu X, có sự phối hợp của trung đoàn bộ binh 112 và dân quân du kích địa phương, đánh tàu chiến Pháp trên sông Lô (địa phận Tuyên Quang - Phú Thọ), trong chiến dịch Việt Bắc (từ ngày 7-10 đến 22-12-1947). Ngày 23-10, tại Khoan Bộ với 1 sơn pháo 75 ly và 1 súng chống tăng 25 ly, Trung đội pháo binh 175 bắn trọng thương 2 tàu vận tải. Trưa ngày 24-10, tại trận địa chân Gò Đồi (gần bến phà Đoan Hùng), với 2 pháo 75ly Trung đội pháo binh 200 đã bắn chìm và bắn bị thương 4 trong số 5 tàu địch có máy bay hộ tống từ Tuyên Quang về Đoan Hùng. 10 giờ ngày 11-10, tại Khe Lau (ngã ba sông Gâm - sông Lô), với 1 sơn pháo 75 ly, Trung đội pháo binh 225 đã bắn chìm 2 và bắn bị thương 1 tàu chở quân từ Chiêm Hóa về Tuyên Quang, diệt hàng trăm tên địch. Đây là chiến công đầu của pháo binh Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Bằng cách đánh gần, bắn thẳng, bí mật bất ngờ bố trí trận địa sát bờ sông, kết hợp nghi binh (tạo khói thuốc để hút máy bay, dùng bưởi sơn đen giả làm thủy lôi trên sông lừa địch vào hướng đã định), trận sông Lô đã góp phần bẻ gãy gọng kìm phía Tây của quân Pháp vào Việt Bắc. Sau chiến thắng sông Lô, lực lượng pháo binh Khu X và Trung đoàn 112 được tặng danh hiệu "Pháo binh sông Lô và "Trung đoàn sông Lô". 36. Nêu tóm tắt diễn biến và kết qủ của chiến dịch Việt Bắc? Chiến dịch phản công Việt Bắc diễn ra từ ngày 7-10 đến 9-12-1947. Bộ Tổng chỉ huy sử dụng các Trung đoàn 147, 165 (chủ lực Bộ), 72, 74, 121 (Khu I), 11, 26, 98 (Khu XII), 1 tiểu đoàn pháo binh và Trung đoàn sông Lô (khu X), 5 tiểu đoàn độc lập của Bộ, Khu I và Khu XII, các đơn vị binh chủng và du kích đánh bại cuộc tiến công lớn của quân Pháp lên căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 8-10, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi cán bộ, chiến sĩ ra sức tiêu diệt địch. Ngày 15-10, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của Pháp. Chiến dịch diễn ra thành hai đợt. Các đơn vị thực hiện phương châm” đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” và cách đánh du kích, vận động, đánh địch trên các địa bà, trọng điểm là các mặt trận đường số 3, đường số 4 và sông Lô; bẻ gãy các mũi tiến công đường không, đường bộ và đường thủy của Binh đoàn đổ bộ đường không, Binh đoàn bộ binh thuộc địa, Binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa, lính thủy đánh bộ cùng lực lượng dự bị của Pháp (tổng số khoảng 1,2 vạn quâm). Nhiều trận gây cho địch tổn thất lớn: bắn rơi tại chỗ máy bay chở viên Tham mưu phó quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, thu bản kế hoạch tiến công Việt Bắc của địch (ngày 9-10); phục kích bản Sao – đèo Bông Lau ( ngày 30-10); bắn tàu chiến, ca nô tại Khoan Bộ (ngày 23-10), Đoan Hùng (ngày 24-10), La Hoàng (ngày 2-11), Khe Lau ( ngày 10-11)… trên sông Lô; tập kích đồn Phủ Thông (ngày 30-11); phục kích tại đèo Giàng trên đường số 3 (ngày 15-12)… Toàn chiến dịch, các đơn vị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 Pháp, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến và canô, phá hủy 100 khẩu pháo, cối, hàng nghìn súng, hàng trăm xe quân sự, thu hàng chục tấn chiến lợi phẩm. Chiến dịch phản công Việt Bắc đánh dấu bước trưởng thành mới của quân đội ta. Bộ đội ta dần dần quen tác chiến. Bộ Chỉ huy của ta học được những kinh nghiệm lãnh đạo chiến tranh…. Chiến thắng Việt Bắc làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, đưa cuộc khoáng chiến của quân và dân ta chuyển sang một giai đoạn mới. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 22 Tháng Mười, 2007, 12:49:50 am 37. Vì sao có tên gọi “Tiểu đoàn Lũng Vài”?
Ngày 8-1-1948 đã diễn ra trận phục kích của Tiểu đoàn 223 chủ lực của Bộ Tổng tư lệnh có sự phối hợp của tiểu đoàn 429 (Lạng Sơn) chặn đánh quân Pháp trên đường số 4, đoạn Bố Củng – Lũng Vài (Lạng Sơn), dài khoảng 6 km. Rạng sáng ngày 8-1-1948, Tiểu đoàn 223 bố trí xong trận địa phục kích, gồm hai bộ phận: bộ phận chủ yếu (hai đại đội) ở Lũng Vài, bộ phận thứ yếu (một đại đội) ở Bố Củng. 14 giờ , 4 xe chở quân Pháp (gần một đại đội) tiến đến Lũng Vài. Do ta sơ hở, địch phát hiện và tổ chức tiến công ba lần vào trận địa ta nhưng đều bị đẩy lùi, buộc phải rút chạy về Na Sầm; đến Bố Củng bị chặn đánh và thiệt hại nặng. Kết quả: ta diệt gọn 2 trung đội địch, phá hủy 4 xe, thu 27 súng các loại. Qua trận Bố Củng – Lũng Vài ta có thêm nhiều kinh nghiệm tổ chức đánh giao thông trên chiến trường rừng núi. Sau trận Bố Củng – Lũng Vài, Tiểu đoàn 223 được tặng danh hiệu “Tiểu đoàn Lũng Vài”. 38. Trận đánh nào để lại nhiều kinh nghiệm về đánh du kích của quân và dân Nam Bộ trong nhưng năm đầu kháng chiến chống Pháp? Đó là trận Đồng Tháp Mười (từ ngày 14 đến ngày 18-1-1948). Đây là trận chống càn của quân và dân khu VIII đánh bại cuộc hành quân Vêga, một trong những cuộc hành quân càn quét lớn của Pháp vào Chiến khu Đồng Tháp Mười với ý đồ phá căn cứ, diệt bộ đội chủ lực và cơ quan lãnh đạo kháng chiến ở Nam Bộ. Lực lượng quân Pháp gồm 11 tiểu đoàn (có 2 tiểu đoàn dù), 4 tàu đổ bộ, 1 đội tàu công binh, 3 đại đội xe bọc thép, 2 tiểu đoàn xe lội nước bánh xích, 9 pháo 105 ly,13 máy bay. Sáng 14-1,sau khi dùng máy bay, pháo binh dọn đường, quân Pháp chia làm ba cánh bao vây và tiến công; một cánh đổ bộ lên tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông, một cánh nhảy dù xuống kênh Trà Cú Thượng và một cánh xuống phía bắc giáp biên giới Việt Nam - Campuchia đánh xuống. Các lực lượng vũ trang khu VII vừa kịp thời tổ chức đánh chặn các cánh quân địch, vừa phân tán rút khỏi vòng vây, dựa vào địa hình kênh rạch chằng chịt, cỏ lác mọc kín đầu, dùng cách đánh nhanh, rút nhanh, phục kích, quấy rối, bắn tỉa, kết hợp gài mìn, địa lôi diệt từng toán quân địch đi lùng sục. Sau bốn ngày chiến đấu, ta diệt hàng trăm tên địch, buộc Pháp phải kết thúc cuộc hành quân. 39. Ba nhiệm vụ của chính trị viên được Bác Hồ nêu ra trong thư gửi Hội nghị chính trị viên toàn quốc lần thứ hai là gì? Hội nghị chính trị viên (chính trị ủy viên khu và chính trị viên trung đoàn) toàn quốc lần thứ hai họp ngày 6-3-1948. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị, nêu rõ ba nhiệm vụ của chính trị viên: “1. Đối với bộ đội, chính trị viên phải săn sóc đến sinh hoạt vật chất của họ: ăn, mặc, ở, nghỉ, tập luyện, công tác, sức chiến đấu. Về mặt tinh thần, phải săn sóc đến nâng cao kỷ luật, bài trừ hủ hóa, phát triển văn hóa, và đường lối chính trị trong bộ đội….Chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn.”. “2. Đối với nhân dân…”, Chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội.” “3. Đối với quân địch…., Chính trị viên phải biết cách tuyên truyền khôn khéo, thiết thực, để giác ngộ, lôi kéo họ về phía ta.”(1). (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t.5, tr. 392-393. 40. “Bài ca Tầm Vu” ra đời từ thắng lợi của trận đánh nào? Bài hát này ra đời từ trận Tầm Vu (ngày 18-4-1948). Đây là trận phục kích của các Chi đội 24, 25, 26 Vệ quốc quân Khu IX chặn đánh đoàn xe quân sự của Pháp ở Tầm Vu (tỉnh Cần Thơ), loại khỏi vòng chiến đấu 200 địch, phá hủy 14 xe vận tải, thu 100 súng trường, 1 pháo 105 ly. Lần đầu tiên thu được pháo 105 ly ở Khu IX trong kháng chiến chống Pháp. 41. Trận thắng nào được coi là thắng lợi lớn đầu tiên của quân và dân Việt Nam trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp? Đó là trận Ân Thi (từ ngày 26 đến ngày 30-5-1948). Đây là trận chống càn của Trung đoàn 64 (bộ đội chủ lực Liên khu III) cùng du kích và nhân dân địa phương bẻ gãy cuộc càn quét lớn của quân Pháp tại Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Thực hiện ý đồ giải tỏa vùng giáp ranh, vây diệt chủ lực và cơ quan lãnh đạo kháng chiến tỉnh Hưng Yên, ngày 26-5-1948 Pháp huy động 3.000 quân có thủy quân, không quân và pháo binh phối hợp, thọc sâu vào vùng tự do thuộc các huyện Khoái Châu, Kim Động, Ân Thi. Du kích và nhân dân địa phương đào đường, đắp ụ để ngăn chặn các mũi tiến công của địch. Đồng thời Tiểu đoàn 239 và 182 của Trung đoàn 64 tổ chức chặn đánh quyết liệt ở Cầu Đìa, Làng Thi tới phố Thi, bẻ gãy nhiều đợt xung phong của quân Pháp, diệt hơn 200 tên, bắn chìm 3 canô. Đến ngày 30-5, Pháp buộc phải lui quân. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 24 Tháng Mười, 2007, 03:35:29 am 42. Trận đánh cứ điểm bằng hiệp đồng bộ binh với pháo binh, để lại nhiều kinh nghiệm về cách đánh công kiên của bộ đội chủ lực ta trong kháng chiến chống Pháp?
Đó là trận Phủ Thông (ngày 25-7-1948). Đây là trận tiến công của tiểu đoàn 11 (Trung đoàn 308), có pháo binh chi viện, đánh đồn Phủ Thông (bắc Bắc Kạn 20km), một vị trí tương đối kiên cố trong tiểu khu Bắc Kạn của Pháp do một đại đội lê dương đóng giữ, mở đầu Chiến dịch đường số 3 (từ ngày 25-7 đến ngày 2-8-1948). 18 giờ ngày 25-7, pháo binh bắn chuẩn bị, sau đó bộ binh chia thành ba mũi, dùng thang, ván vượt rào, diệt các ụ súng, phát triển vào tung thâm, đánh chiếm gần hết các lô cốt và diệt phần lớn quân địch trong đồn. 43. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch đường số 3? Chiến dịch tiến công đường số 3 diễn ra từ ngày 2507 đến ngày 2-8-1948. Lực lượng tham gia của ta gồm hai8 trung đoàn, ba tiểu đoànvà một số đại đội độc lập, do Bộ Chỉ huy Liên khu I chỉ huy, đánh vào phòng tuyến đường số3 của Pháp, nhằm diệt sinh lực, phá kế hoạch củng cố thế chiếm đóng của địch ở Cao Bằng – Bắc Kạn sau Thu Đông 1947. Lực lượng quân Pháp trên địa bàn có ba đại đội lê dương và một số lính khố đỏ. Chiến dịch mở đầu bằng cuộc tiến công đồn Phủ Thông nhưng không thành công, chặn một đoàn xe địch từ Cao Bằng xuống tăng viện cũng không kết quả. Sau đó, ta chuyển sang đánh tiêu hao địch ở Bắc Kạn, Bằng Khẩu, Nà Phạc, kết hợp với phá giao thông trên đường Bắc Kạn – Nà Phạc. Đến ngày 2-8 chiến dịch kết thúc. Là một trong những chiến dịch quy mô nhỏ ở chiến trường Bắc Bộ, kết quả còn hạn chế (diệt trên 50 địch), song đã để lại bài học kinh nghiệm về tổ chức và thực hành chiến dịch, bài học kinh nghiệm rất cần cho Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn xây dựng bộ đội chủ lực, đẩy mạnh vận động chiến. 44. Vì saongày 10-3 hằng năm là ngày truyền thống của Học viện Quân y? Ngày 10-3-1949, Trường Quân y sĩ Việt Nam được thành lập theo Sắc lệnh số 234/SL, ngày 28-8-1948 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khai giảng khóa I (55 học viên). Giám đốc: Đinh Văn Thắng. Từ đó, ngày 10-3 hằng năm trở thành ngày truyền thống của Học viện Quân y. 45. Vì sao có tên gọi “ Tiểu đoàn Lũng Phầy”? Ngày 25-4-1949, đã diễn ra trận phục kích đoàn xe quân sự Pháp trên đường số 4 (đoạn Bông Lau – Lũng Phầy) do tiểu đoàn 23 chủ lực Bộ Tổng tư lệnh và ba tiểu đoàn bộ binh do Liên khu I tiến hành, có pháo binh chi viện, mở đầu đợt 2 chiến dịch Cao – Băc – Lạng (từ ngày 15-3 đến ngày 30-4-1949), nhằm tiêu diệt sinh lực, phá việc vận chuyển tiếp tế của địch từ Lạng Sơn lên Cao Bằng. Sáng ngày 25-4, đoàn xe chở quân Pháp gồm 114 chiếc có xe tăng, xe bọc thép được máy bay yểm trợ lọt vào trận địa phục kích (dài 6km), những xe đi đầu bị xịt lốp do đâm vào đinh ba chạc rải trên đường phải dừng lại gây ùn tắc. Ta dùng hỏa lực pháo binh bắn phá đội hình, sau đó bộ binh xung phong chia cắt diệt từng bộ phận quân địch. Kết quả diệt 500 quân địch, phá hủy 53 xe, 500 thùng xăng, thu nhiều vũ khí. Đây là trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao, tạo điều kiện cho chiến dịch Cao – Bắc – Lạng phát triển thuận lợi.Sau trận Bông Lau – Lũng Phầy, Tiểu đoàn 23 được tặng danh hiệu “Tiểu đoàn Lũng Phầy”. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 26 Tháng Mười, 2007, 05:31:34 am 46. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Cao – Bắc – Lạng?
Chiến dịch Cao – Bắc – Lạng diễn ra từ ngày 15-3 đến ngày 30-4-1949. Lực lượng tham gia gồm: ba trung đoàn bộ binh (28, 72, 74) Liên khu I, có sự phối hợp của bốn tiểu đoàn bộ binh chủ lực cảu Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam cùng một số đơn vị kỹ thuật, hỏa lực và dân quân du kích địa phương, do Bộ Tư lệnh Liên khu I chỉ huy, đánh vào tuyến phòng thủ đường số 4 và lực lượng chiếm đóng của Pháp ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, trọng đó trọng điểm là đường số 4, nhằm tiêu diệt sinh lực và triệt vùng tiếp tế của địch trên vùng Đông Bắc, làm tan rã khối ngụy quân, buộc địch phải rút khỏi Bắc Kạn. Để đánh lạc hướng địch, đồng thời phối hợp với phối hợp với chiến dịch, ta mở chiến dịch Đông Bắc II (từ ngày 3 đến ngày 30-4-1949) và tiến hành các hoạt động tác chiến ở vùng trung du, đường sô 5. Chiến dịch chia làm hai đợt. Đợt 1 (từ ngày 15-3 đến ngày 14-4-1949) đánh phục kích các đoàn xe địch trên đường Cao Bằng – Thất Khê, liên tiếp tấn công diệt các đồn Bản Trại, Đèo Khách, uy hiếp cứ điểm Bông Lau, thị trấn bản Thất Khê, pháo kích thị trấn Na Sầm, đánh đồn Bản Na, Nà Lạng, bức rút hai vị trí Bình Nhị, Nà Mần, đồng thời chặn viện binh địch từ Thất Khê lên ứng cứu cho Bản Trại. Từ cuối tháng 3-1949, ta nhiều lần pháo kích sân bay Mai Pha, thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn và đánh giao thông trên đường Đông Khê – Phục Hòa. Đợt 2 (từ ngày 25 đến ngày 30-4-1949), chuyển sang đánh vận động là chính, mở đầu bằng trận Bông Lau – Lũng Phầy (ngày 25-4-1949), tiếp đó bao vây tiến công một số đồn bốt trên đường Cao Bằng – Trà Lĩnh, diệt đồn Bàn Pái và buộc địch ở Pò Mã, Pò Pạo rút chạy. Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.400 tên địch, phá hủy trên 80 xe quân sự, san bằng và bức rút hàng chục đồn bốt, nhưng do ham đánh điểm nên bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt viện và chưa thực hiện được nhiệm vụ chủ yếu là làm tê liệt đường số 4. 47. Mục đích, diễn biến và kết quả của chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn? Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn diễn ra từ ngày 10 đến ngày 5-7-1949. Thực hiện thỏa thuận giữa Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Đảng ta, ngày 23-4 1949, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh (Số 264 – bis/TTL), giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Liên khu I: “giúp Giải phóng quân (Trung Quốc) xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung – Long – Khiêm liền với biên giới đông – bắc của ta, thông ra biển, gây điều kiện để khuếch trương lực lượng đón quân tiến xuống phía nam, đồng thời hoạt động ở đông – bắc để mở rộng tự do của ta sát tận biên giới và thông ra biển, liền với khu giải phóng Việt Quế”. Tư lệnh Bộ Chỉ huy chiến dịch: Lê Quảng Ba. Chính trị ủy viên: Trần Minh Giang (Trung Quốc). Chiến dịch diễn ra trên hai mặt trận. Mặt trận Điền Quế do đồng chí Nam Long làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Bình (Trung Quốc) làm Chỉ huy phó, đồng chí Đỗ Trình làm Chính trị viên. Mặt trận Tả Giang – Long Châu do đồng chí Thanh Phong, Tư lệnh Phó Liên khu I làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân – Trung đoàn trưởng Trung đoàn 74 và đồng chí Long Xuyên – Trung đoàn phó Trung đoàn 28 làm Tư lệnh phó. Các đơn vị tham gia chiến dịch: Tiểu đoàn 73 (Trung đoàn 74), Tiểu đoàn 35 (Trung đoàn 308), Tiểu đoàn 426 (Trung đoàn 59), Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn Hải Ninh) và một số đại đội binh chủng, đơn bị bảo đảm. Ngày 10-6, chiến dịch bắt đầu. Phối hợp với Quân giải phóng Trung Quốc, bộ đội ta tiêu diẹt nhièu đồn bốt, mở rộng khu Điền Quế, Việt Quế và các khu căn cứ Tả Giang, Thập Vạn Đại Sơn. Ngày 5-7, Bộ Tổng tư lệnh ra chỉ thị kết thúc chiến dịch. Các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về nước. 48. Sư đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta được thành lập vào thời gian nào? Ở đâu? Biên chế tổ chức, chỉ huy của sư đoàn khi mới thành lập? Đại đoàn bộ binh 308 nay là sư đoàn 308 thành lập ngày 28-8-1949, tại thị trấn Đồn Du, huyện Đồng Hỷ (nay là Phú Lương – Thái Nguyên). Biên chế ba trung đoàn bộ binh: 88, 102, 36, Tiểu đoàn bộ binh 11 (Tiểu đoàn Phủ Thông), Tiểu đoàn Pháo binh 410 và một số đơn vị binh chủng trực thuộc. Trung đoàn 88 thành lập ngày 1-1-1949 gồm các Tiểu đoàn 23, 29, 28, 322. Trung đoàn trưởng: Nguyễn Thái Dũng, Chính ủy: Đặng Quốc Bảo. Trung đoàn 102 (Trung đoàn Thủ đô) gồm các Tiểu đoàn 18, 69, 79. Trung đoàn trưởng: Vũ Yên, Chính ủy Hoàng Thế Dũng. Trung đoàn 36 (Trung đoàn Bắc – Bắc) thành lập tháng 8-1946 gồm các Tiểu đoàn 54, 55, 56. Trung đoàn trưởng: Phạm Hồng Sơn, Chính ủy: Hoàng Xuân Tùy. Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đại đoàn: Vương Thừa Vũ. Đại đoàn 308 là đại đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta, được mang danh hiệu “Quân tiên phong”. 49. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả chiến dịch Lê Lợi? Chiến dịch Lê Lợi diễn ra từ ngày 25-11-1949 đến ngày 30-1-1950. Bộ Tổng tư lệnh sử dụng các Trung đoàn 209 (thuộc Bộ), 66 (Liên khu III), 9 (Liên khu IV), hai Trung đoàn địa phương 42, 48 (thuộc Liên khu III), Tiểu đoàn độc lập 930 (Liên khu X), một số đơn vị binh chủng và du kích tiến công địch tại chợ Bờ (Hòa Bình) nhằm phá thế uy hiếp của địch, mở rộng đường giao thông liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu III, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch. Tư lệnh chiến dịch: Hoàng Sâm; Chính ủy Lê Quang Hòa; Phó Tư lệnh: Lê Trọng Tấn. Các đơn vị đã loại ra khỏi vòng chiến hơn 600 tên địch. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 26 Tháng Mười, 2007, 05:34:33 am 50. Thời gian, địa điểm, biên chế tổ chức, huy khi mới thành lập của Sư đoàn 304?
Đại đoàn bộ binh 304 (Đại đoàn Vinh Quang) nay là Sư đoàn bộ binh 304 thành lập ngày 10-3-1949 tại đình Tam Lạc (Thọ Xuân, Thanh Hóa). Đại đoàn biên chế ba trung đoàn bộ binh: Trung đoàn 66 (nguyên chủ lực Liên khu III), Trung đoàn 9 (nguyên chủ lực Liên khu IV) và Trung đoàn 57 chủ lực tỉnh Nghệ An, một số đơn vị trợ chiến, bảo đảm. Trung đoàn trưởng: Hoàng Minh Thảo. Chính ủy: Trần Văn Quang. 51. Trận đánh nào thể hiện sự trưởng thành vượt bậc của bộ đội chủ lực Việt Nam về trình độ kỹ thuật, chiến thuật và tác chiến hiệp đồng giữa bộ binh với pháo binh trong công sự vững chắc? Đó là trận Đông Khê (ngày 25 và 26-5-1950). Đây là trận tiến công của Trung đoàn 174 (bộ đội chủ lực) có pháo binh chi viện, vào Đông Khê (phía nam thị xã Cao Bằng 45 km), cứ điểm quan trọng của quân Pháp trên đường số 4, do hai đại đội lính Marốc và một đại đội ngụy quân chiếm giữ. 19 giờ ngày 25-5. Trận đánh bắt đầu bằng hỏa lực pháo binh tập trung chi viện phá rào và sát thương quân địch, tạo điều kiện cho bộ binh xung phong đánh chiếm các vị trí trong cứ điểm. Đến 6 giờ ngày 25-6 ta àm chủ trận địa, diệt và bắt trên 300 tên địch, thu và phá hủy 6 khẩu pháo… 52. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch Bến Tre? Chiến dịch Bến Tre diễn ra từ ngày 3 đến ngày 31-7-1950 trên địa bàn huyện Lách, Mỏ Cày (Bến Tre), do Bộ Tư lệnh Khu VIII tổ chức nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá kế hoạch của địch đánh chiếm Cù Lao Minh, củng cố và mở rộng các căn cứ du kích bắc Mỏ Cày. Lực lượng gồm ba tiểu đoàn bộ đội chủ lực khu (307, 308, 310), ba đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích. Chiến dịch chia làm hai đợt. Đợt 1 (từ ngày 3 đến ngày 12-7-1950), tiến công diệt các đồn Lò Heo, Hòa Khánh, bao vây bức rút đồn Cây Da, chặn đánh các toán quân ứng cứu của địch… Đợt 2 (từ ngày 13 đến ngày 31-7-1950) tiến công đồn Giồng Keo và đánh địch rút chạy, bao vây uy hiếp các đồn bốt khác trên toàn tuyến nhằm thu hút các lực lượng ứng cứu, nhưng địch không ra, ta chuyển hướng hoạt động vào sát thị trấn Mỏ Cày, đánh địch ở Khánh Thạnh Tân, Đa Phước Hội An, An Thạch, Thành Thới… Kết thúc chiến dịch, ta tiêu diệt và chiếm bốn đồn, bức rút một số lô cốt, tháp canh, loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên địch, giải phóng một xã (Tân Bình), nhưng do không kéo được quân cơ động của địch ra nên thắng lợi bị hạn chế, không thực hiện đầy đủ mục đích nhiệm vụ chiến dịch đề ra. 53. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Đắc Lắc? Chiến dịch Đắc Lắc diễn ra từ tháng 7 đến tháng 9-1950 ở khu vực Ma Đrắc - Cheo Reo – Buôn Hồ (Đắc Lắc), do Bộ Tư lệnh liên khu V tổ, chỉ huy nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh xây dựng cơ sở và phát động chiến tranh du kích, phối hợp với các chiến trường trong lien khu và cả nước. Tham gia chiến dịch có hai trung đoàn bộ binh (803, 84) của lien khu và lực lượng vũ trang địa phương. Lực lượng địch trên địa bàn chiến dịch có chin đại đội (1/3 Âu – Phi). Chiến dịch chia làm hai đợt. Đợt 1 (ngày 7-8-1950), bộ đội chủ lực đánh mạnh trên đường 7, song tiến công cứ điểm Ma Phu và đánh viện không thành công. Đợt 2 (tháng 9-1950), tập trung đánh càn quét để bảo vệ hành lang vận chuyển của ta, tạo điều kiện cho các đội vũ trang tuyên truyền tiến sâu vào vùng địch hậu ở quanh thị xã Buôn Ma Thuột, Bản Đôn, bót (bốt) Đa Lạt gây cơ sở, phát động chiến tranh du kích. Trong chiến dịch Đắc Lắc, kết quả diệt địch không lớn (loại khỏi vòng chiến đấu 170 tên địch), nhưng đã góp phần quan trọng trong xây dựng và củng cố căn cứ du kích vùng sau lưng địch ở Đắc Lắc, tạo bàn đạp vượt qua đường số 14 tới Bản Đôn sang đông Campuchia. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 04 Tháng Mười Một, 2007, 03:04:47 am 54. Trận đánh nào được coi là một trong những trận đánh then chốt, thể hiện khả năng đánh tiêu diệt lớn của bộ đội chủ lực Việt Nam trên chiến trường rừng núi trong kháng chiến chống Pháp?
Đó là trận Cốc Xả (diễn ra từ ngày 5 đến ngày 8-10-1950). Đây là trận tiến công của ba tiểu đoàn (11, 80, 89) thuộc Đại đoàn 308 và Tiểu đoàn 154 (Trung đoàn 209) diệt Binh đoàn Lơ Pagiơ của Pháp tại vùng núi Cốc Xả (tây - nam Đông Khê khoảng 6-7 km) trong đợt hai chiến dịch Biên giới (từ ngày 16-9 đến 14-10-1950). Ý đồ chiếm một số điểm khống chế Đông Khê thất bại, Binh đoàn Lơ Pagiơ chạy về Cốc Xả tở chức phòng ngự để chờ hội quân với Binh đoàn Sáctông từ Cao Bằng rút về. Các đơn vị ta kịp thời bám sát và tổ chức bao vây tiêu diệt địch theo quyết tâm của Bộ Chỉ huy chiến dịch. 17 giờ, ngày 5-10 ta bắt đầu nổ sung, đập tan nhiều đợt phản kích của địch, khép dần vòng vây, đồng thời cho một mũi luồn sâu bất ngờ chiếm điểm cao đánh xuống làm rồi loạn đội hình địch. 6 giờ, ngày 7-10 ta làm chủ trận địa và tổ chức lục lượng truy kích, đến chiều ngày 8-10, ta diệt và bắt hầu hết quân địch, trong đó có Lơ Pagiơ; số sống sót chạy sang điểm cao 477 cũng bị tiêu diệt. 55. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Biên giới? Chiến dịch Biên giới diễn ra từ ngày 16-9 đến ngày 14-10-1950. Tháng 6-1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới. Ngày 7-7, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh về chiến dịc Biên giới Cao – Lạng (chiến dịch Lê Hồng Phong II). Mục đích: tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông nối liền với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng làm Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng chiến dịch. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng, đồng chí Trần Đăng Ninh – Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp phụ trách hậu cần chiến dịch; đồng chí Lê Liêm làm Chủ nhiệm chính trị chiến dịch. Lực lượng chiến đấu: Đại đoàn 308, hai Trung đoàn 174, 209, ba Tiểu đoàn độc lập 426, 428, 888 của Lạng Sơn và Liên khu Việt Bắc, bốn đại đội sơn pháo, năm đại đội công binh và bộ đội du kích địa phương. Hàng vạn dân công là người các dân tộc Việt Bắc mở đường vận chuyển 4.000 tấn lương thực, vũ khí, đạn phục vụ chiến dịch. Ngày 2-9, chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho bộ đội: “Chiến dịch Cao – Bắc – Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng trận này. Ngày 11 và 12-9, Người đến Sở Chỉ huy chiến dịch nghe báo cáo và kiểm tra công tác chuẩn bị. Ngày 13-9, Người ra mặt trận Đông Khê trực tiếp theo dõi và động viên bộ đội chuẩn bị đánh trận mở màn chiến dịch. Từ ngày 16 đến ngày 18-9, hai Trung đoàn 174 và 209, hai Tiểu đoàn 11, 426, ba tiểu đoàn pháo binh, tiêu diệt cứ điểm Đông Khê mở màn chiến dịch. Từ ngày 2 đến ngày 8-10, Đại đoàn 308 , Trung đoàn 209 vận động tiến công tiêu diệt Binh đoàn Lơ Pagiơ từ Thất Khê lên và Binh đoàn Sáctông từ Cao Bằng rút về, tại khu vực Cốc Xả, điểm cao 447. Từ ngày 10 đến ngày 23-10, quân địch bỏ Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng. Lạng Sơn, Đình Lập, An Châu, tháo chạy. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu trên 8.000 tên, gồm tám tiểu đoàn, trong đó có năm tiểu đoàn ứng chiến (hơn một nửa lực lượng cơ động chiến lược của Pháp ở bắc Đông Dương); phá vỡ hệ thống phòng ngự đường số 4 của địch; giải phóng 5 thị xã, 13 thị trấn với 35 vạn dân, nhiều vùng quan trọng ở vùng biên giới Việt – Trung, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, nối liền nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Đây là chiến dịch tiến công quy mô lớn, tạo ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Pháp, đánh dấu sự trưởng thành về tổ chức, chỉ huy và trình độ tác chiến của quân đội ta. 56. Nhân dịp báo Quân đội nhân dân ra số đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chỉ thị gì đối với những người làm báo trong quân đội? Ngày 20-10-1950, báo Quân đội nhân dân ra số đầu. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Nói những điều thiết thực, đúng đường lối chính trị, ít tếu, viết ngắn, giản dị, dễ hiểu, trình bày rõ rang, ít tiếp sang trang khác” (1). (1). 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.105. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 05 Tháng Mười Một, 2007, 03:42:12 am 57. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Hoàng Diệu?
Chiến dịch Hoàng Diệu diễn ra từ ngày 5-8 đến ngày 4-11-1950. Đây là chiến dịch tiến công quân Pháp ở khu vực Điện Bàn – Duy Xuyên (bắc Quảng Nam) do Bộ Tư lệnh Liên khu V tổ chức, chỉ huy nhằm tiêu diệt một phần sinh lực địch, phá âm mưu càn quét, dồn dân của chúng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, phối hợp với chiến trường Bắc Bộ. Lực lượng gồm Trung đoàn bộ binh 108 của liên khu và lực lượng vũ trang địa phương. Chiến dịch chia làm hai đợt. Đợt 1 (từ ngày 5-8 đến ngày 8-9-1950) phục kích ở Bảo An và trên đoạn Giao Thủy – Thượng Phước – Túy La, đánh giao thong trên đèo Hải Vân, chống địch càn quét cướp lúa và phát động quần chúng đấu tranh, xây dựng, củng cố vùng căn cứ. Đợt 2 (từ ngày 9-9 đến ngày 4-11-1950), tiến công cứ điểm Tú Hải không thành công chuyển sang đánh ở La Nghi, Gò Nổi; đánh bại cuộc hành quân càn quét lớn của địch ở Điện Hòa. Kết quả: ta loại khỏi vòng chiến trên 900 tên địch, làm thất bại một bước kế hoạch bình định, dồn dân, bắt lính của lính Pháp, góp phần giữ vững phong trào kháng chiến ở vùng sau lưng địch. 58. Thời gian, địa điểm, biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập của Sư đoàn 312? Đại đoàn bộ binh 312 (Đại đoàn Chiến thắng) – nay là Sư đoàn 312 thành lập ngày 27-12-1950 tại Kim Lăng (Phú Thọ). Biên chế Trung đoàn bộ binh 209 (Trung đoàn Sông Lô, chủ lực của Bộ Tổng tư lệnh), Trung đoàn bộ binh 141 (mới tổ chức từ các tiểu đoàn của “Nghĩa quân Hồng Hà” và Tiểu đoàn Phủ Thông), Trung đoàn bộ binh 165 (Trung đoàn Lao – Hà – Yên thuộc mặt trận Tây Bắc) và các đơn vị trợ chiến, bảo đảm. Đại đoàn trưởng: Lê Trọng Tấn. Chính ủy: Trần Độ. 59. Sư đoàn bộ binh 320 thành lập khi nào? Ở đâu? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Đại đoàn bộ binh 320 (Đại đoàn Đồng bằng) – nay là Sư đoàn 320, thành lập ngày 16-1-1951 tại đình Móng Lá (Nho Quan – Ninh Bình). Biên chế: Trung đoàn 64 “Quyết Thắng”, trung đoàn 48 “Thăng Long” (hai trung đoàn chủ lực Liên khu III); Trung đoàn 52 “Tây Tiến”, các cơ quan, đơn vị trợ chiến và bảo đảm. Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy: Văn Tiến Dũng. 60. Trung đoàn công binh chủ lực đầu tiên của quân đội ta mang phiên hiệu gì? Được thành lập khi nào? Ở đâu? Biên chế khi mới thành lập? Đó là Trung đoàn công binh 151, được thành lập ngày 15-1-1950 tại rừng Khánh Lân (Hợp Thành, Phú Lương, Thái Nguyên). Biên chế khi mới thành lập gồm: Tiểu đoàn 333 (thành lập năm 1949), Tiểu đoàn 444 (nguyên là Tiểu đoàn 60, Đại đoàn bộ binh 308) và các cơ quan tham mưu chính trị, cung cấp, quân y, xưởng sửa chữa quân cụ, trung đội vận tải, đại đội thông tin liên lạc và cảnh vệ. Trung đoàn trưởng: Phạm Hoàng. Chính ủy: Lê Khắc. 61. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch Hoàng Hoa Thám? Bác Hồ đã đánh giá như thế nào về chiến dịch này? Chiến dịch Hoàng Hoa Thám diễn ra từ ngày 23-3 đến ngày 7-4-1951. Bộ Tổng tư lệnh sử dụng hau đại đoàn (308, 312), hai trung đoàn (98, 174), bốn đại đội pháo binh tiến công tuyến phòng ngự đường số 18 của địch (khu vực Phả Lại đến Uông Bí).Ở trung du và đồng bằng Liên khu III, hai Đại đoàn 304 và 320 đẩy mạnh tiến công địch phối hợp với chiến dịch. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.900 tên địch, diệt và bức rút hơn 130 vị trí, tháp canh. Bộ đội ta đánh thắng nhiều trận, nhưng cũng có trận không thành công và thương vong cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Ta đã không hoàn thành nhiệm vụ đầy đủ, địch thiệt hại nhưng ta cũng bị tiêu hao” (1). (1). 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr. 112. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 05 Tháng Mười Một, 2007, 03:49:57 am 62. Đại đoàn công – pháo đầu tiên của quân đội ta thành lập khi nào? Biên chế khi mới thành lập?
Đại đoàn công – pháo 351 thành lập ngày 27-3-1951. Biên chế: Trung đoàn 151 công binh (thành lập tháng 1-1951), Trung đoàn sơn pháo 75 ly (được tổ chức trên cơ sở ba tiểu đoàn pháo binh thuộc Đại đoàn 308, Trung đoàn 174 và Trung đoàn 209), Trung đoàn 45 pháo xe kéo 105 ly (nguyên là Trung đoàn 34 “Tất thắng” thuộc Liên khu III), xưởng sửa chữa xe, pháo, khí tài và các cơ quan. Đồng chí Vũ Hiển, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng được bổ nhiệm làm Đại đoàn phó, quyền Đại đoàn trưởng. Đồng chí Phạm Ngọc Mậu - Ủy viên Liên khu Việt Bắc, Chính ủy Trung đoàn 246 (Trung đoàn bảo vệ căn cứ Bộ Tổng tư lệnh) được bổ nhiệm làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Đây là đại đoàn binh chủng (công binh – pháo binh) đầu tiên của quân đội ta. 63. Thời gian, địa điểm,biên chế tổ chức khi mới thành lập của Sư đoàn bộ binh 316? Đại đoàn bộ binh 316 (nay là sư đoàn 316) thành lập ngày 1-1-1951 tại Cốc Lùng (Thoát Lãng – Lạng Sơn). Biên chế: Trung đoàn 174 (trực thuộc Bộ), Trung đoàn 98 (thuộc mặt trận Đông Bắc), Trung đoàn 176 (tỉnh Lạng Sơn), một sô đơn vị binh chủng và cơ quan đại đoàn. Đại đoàn trưởng: Lê Quảng Ba. Chính ủy: Chu Huy Mân. 64. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả chiến dịch Quang Trung (Hà Nam Ninh)? Chiến dịch Quang Trung (Hà Nam Ninh) diễn ra từ ngày 28-5 đến ngày 20-6-1951. Bộ Tổng tư lệnh sử dụng ba đại đoàn (308, 304, 312), các đơn vị binh chủng, các tiểu đoàn và đại đội bộ đội địa phương, dân quân du kích, tiến công địch ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, phá khối Ngụy quân: Đảng ủy mặt trận gồm các đồng chí: Võ Nguyên Giáp Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy), Nguyễn Chí Thanh, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm. Các địa phương huy động 100.000 dân công và 100 tấn gạo phục vụ chiến dịch. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu 4.000 tên địch (có 40% lính Âu – Phi thuộc các đơn vị cơ động đi ứng cứu), diệt và bức rút hơn 30 vị trí, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, giải phóng một số thị xã thuộc hai huyện Yên Mỗ, Yên Khánh (Ninh Bình), xây dựng khu căn cứ Bình Lục, Lý Nhân (Hà Nam), gây ảnh hưởng chính trị trong nhân dân. Nhưng do địch phát huy hỏa lực không quân, pháo binh, việc chỉ đạo, vận dụng phương châm tác chiến và kỹ thuật, cách xử trí tình huống của ta còn hạn chế, nên đã bỏ lỡ một số thời cơ tiêu diệt địch. 65. Trận đánh nào thể hiện bước trưởng thành của bộ đội ta về đánh địch trong công sự vững chắc trên địa hình đồng bằng trong kháng chiến chống Pháp? Đó là trận Non Nước (ngày 30-5-1951). Đây là trận tiến công của Tiểu đoàn 54 (Trung đoàn 102, Đại đoàn 308) vào cứ điểm Non Nước, một vị trí quan trọng của Pháp được xây dựng trên núi Non Nước (thị xã Ninh Bình), có địa thế hiểm trở, công sự vững chắc, do hai đại đội quân Pháp và lính bảo hoàng đóng giữ. 2 giờ 15 phút ngày 30-5, được pháo binh chi viện, Tiểu đoàn 54 sử dụng hai đại đội tiến công từ hai hướng. Bằng chiến thuật tổ ba người, dung thang vượt vách đá, khắc phục vật cản, bộ đội nhanh chóng thoạc sâu chia cắt, đánh chiếm từng tầng hầm, lô cốt, ngách hang. Đến rạng sang, ta làm chủ trận địa, diệt gần 200 tên địch, bắt sống chỉ huy. Khi lui quân, 18 cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn không kịp rút đã tổ chức phòng ngự đẩy lùi nhiều đợt phản kích của địch chiếm lại Non Nước, đến 12 giờ mới rời khỏi trận địa. 66. Tại sao Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật thông tin lấy ngày 11-11 hằng năm làm ngày truyền thống? Ngày 11-11-1951, Trường Thông tin được thành lập (Quyết định số 132/QĐ của Bộ Tổng tham mưu) trên cơ sở sáp nhập Trường Thông tin Liên khu III với những lớp đào tạo cán bộ và nhân viên của Cục Thông tin lien lạc. Nhiệm vụ: đào tạo trung đội trưởng thong tin vô tuyến điện, hữu tuyến điện, cơ công sơ cấp và báo vụ. Khóa đầu khai giảng vào tháng 11-1951, tại bản Piềng, Định Hóa, Thái Nguyên, có 281 học viên. Vì thế, ngày 11-11- hằng năm trở thành ngày truyền thống của Trường Sĩ quan kỹ thuật thông tin. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 05 Tháng Mười Một, 2007, 06:00:20 am 67. Vì sao Trung đoàn 88 được tặng danh hiệu “ Trung đoàn Tu Vũ”?
Ngày 10-12-1951 đã diễn ra trận Tu Vũ – trận tiến công mở màn chiến dịch Hòa Bình (từ ngày 10-12-1951 đến ngày 25-2-1952) của Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) vào cứ điểm Tu Vũ (bắc thị xã Hòa Bình hơn 20 km) của quân Pháp do một tiểu đoàn Âu – Phi đóng giữ trong công sự vững chắc, được tăng cường xe tăng và một đại đội ngụy quân người Mường. Mặc dù bị thương vong khi chiếm lĩnh trận địa do hỏa lực của cứ điểm và của pháo binh Pháp từ Chẹ, Đá Chông bắn cản dữ dội, Trung đoàn 88 đã kịp thời khắc phục và 21 giờ ngày 10-12 bắt đầu tiến công. Sau 5 giờ chiến đấu, bộ đội ta làm chủ trận địa, diệt và bẳt hơn 170 tên địch, thu và phá hủy nhiều vuc khí trang bị. Thắng lợi của trận Tu Vũ góp phần cắt đứt đường vận tải của quân Pháp trên sông Đà, uy hiếp Hòa Bình tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch phát triển. Sau trận Tu Vũ, Trung đoàn 88 được tặng danh hiệu “Trung đoàn Tu Vũ”. 68. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch Hòa Bình? Chiến dịch Hòa Bình diễn ra từ ngày 10-12-1951 đến ngày 25-2-1952. Ngày 18-11, Tổng Quân ủy họp nhận định âm mưu địch đánh ra Hòa Bình, đề nghị Bộ Chính trị cho mở chiến dịch phá cuộc tiến công của địch. Hạ tuần tháng 11, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các lực lượng vũ trang: “Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là một cơ hội rất tốt cho ta.” Các Đại đoàn bộ binh 308, 312, 304 đánh địch ở mặt trận Hòa Bình (hướng chính). Hai Đại đoàn bộ binh 316 và 320 hoạt động ở vùng sau lưng địch. Tư lệnh chiến dịch: Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau ba đợt chiến đấu ta loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 tên địch, bức hàng bức rút hơn 1.000 đồn bốt, thu và phá hủy nhiều vũ khí phương tiện chiến tranh, mở rộng các căn cứ du kích, giải phóng hơn hai triệu dân. Nhiều đơn vị cán bộ chiến sĩ lập thành tích xuất sắc. Chiến sĩ Cù Chính Lan anh dũng diệt xe tăng địch trong chiến dịch này. Trung đoàn 88 (Đậi đoàn 308) diệt cứ điểm Tu Vũ được nhận danh hiệu “Trung đoàn Tu Vũ”. 69. Tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất, ngày 22-6-1952, Bác Hồ đã có chỉ thị gì cho cán bộ cung cấp? Ngày 22-6-1952, nói chuyện với Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất, Bác Hồ đã chỉ thị: “Bổn phận của cán bộ cung cấp là phục vụ chiến sĩ đi đánh giặc và những dân công đi giúp chiến dịch. Đối với chiến sĩ, phải săn sóc họ, làm sao cho họ đủ ăn, đủ mặc, đủ súng, đủ thuốc…Một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải phải đi thẳng đến chiến sĩ”.(1). (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 514. 70. Mục đích của Hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ tổ chức vào tháng 7-1952 là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chỉ thị gì cho Hội nghị? Tháng 7-1952, Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy tổ chức Hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ. Đại biểu các ngành quân, dân, chính, đảng các địa phương ở vùng sau lưng địch (BắcBộ, Bình Trị Thiên, Liên khu V) tham dự. Hội nghị tổng kết kinh nghiệm chống càn, khẳng định vai trò của bộ đội địa phương và dân quân du kích; giải quyết một số vấn đề cụ thể và thống nhất lãnh đạo, biên chế tổ chức công tác cung cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị cho Hội nghị: “ Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đèu phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi.”(1). (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 525. 71. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch bắc Quảng Nam? Chiến dịch tiến công quân Pháp ở bắc Quảng Nam diễn ra từ ngày 15-7 đến nagỳ 16-9-1952, do Bộ Tư lệnh Liên khu V tổ chức, chỉ huy nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá vỡ phòng tuyến vòng ngoài của địch ở Đà Nẵng, mở rộng khu du kích bắc Quảng Nam. Lực lượng gồm Trung đoàn bộ binh 803 của lien khu và lực lượng vũ trang địa phương, diễn biến qua ba đợt. Đợt 1 (từ ngày 15-7 đến ngày 17-8-1952), tiến công diệt các cứ điểm Xuân Đài, Vân Ly, khu hành chính Phú Kỳ…., đưa một đại đội luồn sâu đánh phía sau lưng địch, làm tan vỡ tuyến phòng thủ phía nam song Thu Bồn, giải phóng vùng tây Gò Nổi; sau đó đánh địch càn quét vào Gò Nổi, đồng thời phân tán chủ lực hỗ trợ phong trào du kích ở Điện Bàn, Hòa vang, Duy Xuyên, Đại Lộc. Đợt 2 (từ ngày 18-8 đến ngày 15-9-1952), tiến công tiêu diệt cứ điểm Túy Loan, khu hành chính Kỳ Lam và một số tháp canh, hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá tề, trừ gian. Đợt 3 (từ ngày 16 đến ngày 26-9-1952), tiếp tục tiến công diệt các cứ điểm Ba Du, Thượng Phước, Lệ Sơn, Dốc Nhất… Các trận đánh trên đã tạo điều kiện cho hang nghìn du kích được rèn luyện trong thực tế chiến đấu. Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.200 tên địch, giải phóng một số thị xã, mở rộng khu du kích đồng bằng nối liền với căn cứ miền núi của tỉnh. Nhờ kết hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân, giữa tiến công quân sự với phát động quần chúng phá tề và vận dụng cách đánh thích hợp, chiến dịch bắc Quảng Nam giành thắng lợi, góp phần làm chuyển thế và lực của ta trên chiến trường nam Trung Bộ. 72. Trận đánh nào là trận đánh thắng đầu tiên bằng cách đánh đặc công của lực lượng vũ trang Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp? Đó là trận Ngã Hai (ngày 18-9-1952). Đây là trận tập kích của trung đội đặc công, ,một đại đội xung kích và một trung đội bộ đội địa phương tại Bình Thuận vào đồn Ngã Hai (phía nam thị xã Phan Thiết 7km). Đây là một đồn được xây dựng kiên cố do một đại đội quân Pháp chiếm giữ, nhằm thể hiện cách đánh đặc công, diệt sinh lực địch, phá khu tập trung dân của Pháp. Đêm 18-9, trung đội đặc công hình thành bảy mũi, bí mật luồn sâu, ém sát, bất ngờ dùng bộc phá đánh sập các lô cốt, tạo điều kiện cho đại đội xung kích vào tiếp chiến diệt địch. Cùng lúc, lực lượng chặn viện diệt các tháp canh ở cầu 40 và trong khu tập trung dân. Sau 20 phút chiến đấu, ta làm chủ trận địa và bắt trên 120 quân Pháp, giải phóng nhân dân khỏi khu tập trung của địch. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 06 Tháng Mười Một, 2007, 12:43:39 am 73. Trình bày tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Tây Bắc?
Chiến dịch Tây Bắc diễn ra từ ngày 14-10 đến ngày 10-12-1952. Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị chuẩn bị chiến dịch từ tháng 4-1952. Đầu tháng 9, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng một bộ phận đất đai ở Tây Bắc. Ở hướng chính, Bộ Tổng tư lệnh sử duịng các Đại đoàn bộ binh 308, 312, 316, Đại đoàn công – pháo 351, Trung đoàn bộ binh 148 và lực lượng vũ trang địa phương đánh địch ở Tây Bắc. Hai Đại đoàn bộ binh 320, 304 hoạt động nghi binh và phối hợp ở vùng sau lưng địch. Các tỉnh từ Thanh – Nghệ - Tĩnh trở ra huy động 35.000 dân công cùng các đơn vị công binh sửa đường vận tải tiếp tế. Chỉ huy trưởng chiến dịch: Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái; Chủ nhiệm chính trị: Nguyễn Chí Thanh; Chủ nhiệm cung cấp: Nguyễn Thanh Bình. Chiến dịch diễn ra ba đợt. Trên cả hai mặt trận, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đâu 13.800 tên địch, đánh bại âm mưu củng cố “Xứ Thái”, “Xứ Mường”, “Xứ Nùng” tự trị của địch; giải phóng 28.500 km2 với 25 vạn dân thuộc các tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện phía nam tỉnh Lai Châu, hai huyện phía tây tỉnh Yên Bái, nối liền Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc. Các đơn vị tham gia chiến dịch tiến bộ rõ rệt về trình độ đánh công kiên, đánh vận động ở chiến trường rừng núi xa hậu phương. Tại Hội nghị tổng kết chiến dịch (ngày 29-1-1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương: “Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác bằng lòng với các chú, lần này chưa phải hoàn toàn, nhưng hơn mọi lần trước” (1). (1). Xem 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd. 74. Trận đánh nào đã góp phần quyết định đánh bại cuộc hành quân Loren của thực dân Pháp? Đó là trận Chân Mộng – Trạm Thản (ngày 17-11-1952). Đây là trận phục kích quân PHáp trên đường 2 tại khu vực Chân Mộng, Trạm Thản (Phú Thọ) do Trung đoàn bộ binh 36 (Đại đoàn 308) tiến hành sau đợt 1 chiến dịch Tây Bắc (từ ngày 14-10 đến ngày 10-12-1952). Sau khi phòng tuyến Nghĩa Lộ bị phá vỡ, đầu tháng 11-1952 Pháp mở cuộc hành quân Loren tiến công lên Phú Thọ nhằm đánh phá hậu phương của ta và đỡ đòn cho mặt trận Tây Bắc. Trung đoàn 36 được phái về cùng các lực lượng vũ trang tại chỗ đánh địch tại Phú Thọ. Nắm vững thời cơ địch rút khỏi Đoan Hùng, trung đoàn tổ chức trận địa phục kích ở thung lũng Chân Mộng. Sáng ngày 17-11, khi đoàn xe của Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn lê dương 2 (2/2 REI) lọt vào trận địa phục kích, trung đoàn nhanh chóng chặn đầu, rồi xung phong diệt dịch, sau 20 phút, ta phá hủy 31 xe, loại khỏi chiến đấu hàng trăm tên địch. 75. Trận then chốt góp phần phá vỡ phòng tuyến nam Sơn La của địch trong chiến dịch Tây Bắc? Đó là trận Mộc Châu (ngày 19-11-1952). Đây là trận tiến công của Trung đoàn bộ binh 174 (được tăng cường một tiểu đoàn bộ binh và một số đơn vị hỏa lực) thuộc Đại đoàn 316 vào cứ điểm của Pháp ở Mộc Châu, vị trí tiền tiêu bảo vệ vòng ngoài nam Sơn La, trong đợt 2 chiến dịch Tây Bắc (từ ngày 14-10 đến ngày10-12-1952). Cứ điểm được xây dựng trên núi đá hiểm trở, hệ thống công sự vững chắc, hỏa lực mạnh, xung quanh có hàng rào kẽm gai xen kẽ bãi mìn, do một tiểu đoàn lính Thái (sĩ quan Pháp chỉ huy) đóng giữ. 23 giờ 30 phút ngày 19-11, Trung đoàn 174 tổ chức tiến công từ ba hướng, dùng một mũi thọc sâu chiếm đỉnh núi, bất ngờ đánh từ trân xuống phối hợp với lực lượng từ dưới đánh lên. Sau ba giờ chiến đấu, ta làm chủ cứ điểm, diệt và bắt trên 300 tên địch, thu trên 500 súng các loại (có một pháo 94 ly), giải phóng hàng nghìn dân bị địch bắt giữ 76. Sư đoàn 325 ra đời trong hoàn cảnh nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Ngày 17-5-1950, Bộ Quốc phòng ra Quyết định “Chấn chỉnh tổ chức quân chính quy ở Bình Trị Thiên…củng cố các đơn vị chủ lực hiện có, tiến tới xây dựng thành đại đoàn chủ lực cơ động tác chiến dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh”. Ngày 23-6-1951, Bột Tỏng tham mưu chỉ thị cho mặt trận Bình – Trị - Thiên: “Gấp rút củng cố bộ đội địa phương, phát triển dân quân du kích, sẵn sàng thay thế lực lượng chủ lực, tiến tới xây dựng đại đoàn chủ lực ở Bình – Trị - Thiên”. Ngày 5-12-1952, Thường vụ Liên khu IV quyết nghị “Rút các trung đoàn chủ lực ra khỏi chiến trường để xây dựng thành các đại đoàn chủ lực”. Thực hiện chủ trương trên, Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Bình – Trị - Thiên đưa các Trung đoàn bộ binh 101, 18, 95 và một số phân đội binh chủng ra vùng tự do Nghệ - Tĩnh xây dựng Đại đoàn bộ binh 325. Tư lệnh kiêm Chính ủy: Trần Quý Hai. Đại đoàn bộ binh 325 mang tên truyền thống ” Đại đoàn Bình – Trị - Thiên” (nay là sư đoàn 325). 77. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch An Khê? Chiến dịch tiến công An Khê diễn ra từ ngày 13 đến ngày 29-1-1953. Lực lượng ta tham gia gồm: Hai trung đoàn chủ lực liên khu V là 108, 803 và Trung đoàn 120 bộ đội địa phương Bình Định nhằm phá vỡ bàn đạp của quân Phápở cụm cứ điểm An Khê trên đường số 19. Lực lượng địch gồm bốn đại đội đóng tại bốn điểm chính (Con Lía, Tú Thủy, Cửu An, Thượng An) và tháp canh Eo Gió, có hệ thống hỏa lực mạnh, được sự chi viện của trận địa pháo An Khê, 1 giờ sáng ngày 13-1, bộ đội ta đồng thời nổ súng tiêu diệt các cứ điểm Cửu An, Tú Thủy, Eo gió, khiến quân Pháp ở Con Lía hốt hoảng tháo chạy, để lại nguyên vẹn kho tàng. Ngày 17-1, Pháp đưa một tiểu đoàn sơn chiến, có tám xe bọc thép tới phản kích, hòng chiến lại Cửu An, bị Trung đoàn 108 phục kích tiêu diệt. Ngày 21-1, bộ đội ta bí mật bám theo quân Pháp đi mai phục trở về, nổ súng chiếm Thượng An, tiếp đó, diệt hai vị trí Bằng La, Đầu Đèo, chặn đánh ba đại đội địch tăng viện cho An Khê. Ngày 29-1, chiến dịch kết thúc, ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.600 tên địch (bắt 300), thu nhiều vũ khí trang bị (có 1 pháo 105 ly), giải phóng 18.000 dân. Đây là một thắng lợi lớn trên chiến trường nam Trung Bộ, đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng vũ trang Liên khu V. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 12 Tháng Mười Một, 2007, 03:24:16 am 78. “Thắng lợi này chứng tỏ các đồng chí đã tiến bộ về chính trị cũng như về kỹ thuật sau thời kỳ chỉnh huấn, đặc biệt là kỹ thuật đánh điểm nhỏ, viện nhỏ”
Lời khen trên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành cho ai? Tron chiến dịch nào? Câu trên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tron thư khen cán bộ, chiến sĩ Bộ Tư lệnh Liên khu V đã tham gia và giành thắng lợi lớn trong chiến dịch An Khê (từ ngày 13 đến ngày 29-1-1953). 79. Vì sao ngày 1-4 hằng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội phòng không? Ngày 1-4-1953, Trung đoàn 367 phòng không được thành lập (Quyết định số 06/QĐ của Bộ Quốc phòng – Tổng tư lệnh). Biến chế: sáu tiểu đoàn hỏa lực (381, 383, 385, 392, 394, 396), mỗi tiểu đaòn có ba đại đội pháo cao xạ 37 ly (12 khẩu): một đại đội súng máy 12,7 ly (12 khẩu); một tiểu đoàn xe kéo pháo, vận tải và sửa chữa; cơ quan trung đoàn gồm: tham mưu, chính trị, cung cấp. Trung đoàn trưởng: Lê Văn Trị. Chính trị viên: Đoàn Phụng. Trung đoàn 367 là trung đoàn phòng không đầu tiên của quân đội ta. Vì thế nagỳ thành lập trung đoàn trở thành ngày ngày truyền thống của bộ đội phòng không. 80. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Thượng Lào? Chiến dịch Thượng Lào diễn ra từ ngày 8-4 đến 3-5-1953. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và theo yêu cầu của Chính phủ kháng chiến Lào, Mặt trận Ítxala, Bộ Tổng tư lệnh điều các Đại đoàn 308, 312, 316, 304, Trung đoàn bọ binh 148, phối hợp với lực lượng vũ trang Pathét Lào mở chiến dịch tiến công địch ở Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào) nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai, xây dựng và củng cố các căn cứ du kích, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào. Tham gia Bộ Chỉ huy chiến dịch có Hoàng than Xuphanuvông, đồng chí Cayxỏn Phômvihản và đồng chí Thaoma (Bí thư tỉnh Sầm Nưa). Về phía Việt Nam có Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chỉ huy trưởng), Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm chính trị), Nguyễn Văn Nam (Chủ nhiệm cung cấp) và đồng chí Nguyễn Khang đặc trách công tác ở chiến trường nước bạn. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư (ngày 3-4) căn dặn bộ đội làm nhiệm vụ quốc tế “Giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp mình” Trước sự tiến công của liên quân Lào – Việt, quân địch bỏ chạy. Bộ đội ta chuyển sang truy kích, giải phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ (bằng 1/5 diện tích nước Lào. Căn cứ kháng chiến của cách mạng Lào được mở rộng, nối liền với vùng tự do của Việt Nam. Thắng lợi của chiến dịch góp phần củng cố tình đoàn kết chiến đấu của quân dân hai nước Việt – Lào. 81. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch tây- nam Ninh Bình? Chiến dịch tây – nam Ninh Bình diễn ra rừ ngày 15-10 đến ngày 6-11-1953. Đây là chiến dịch phản công của Đại đoàn 320 và các lực lượng vũ trang nhân dân địa phương đánh bại cuộc hành quân Hải Âu của Pháp ở khu vực Rịa – Nho Quan – Phố Cát (tây – nam Ninh Bình). Thực hiện kế hoạch Nava, với chủ trương, “Chủ động tiến công bằng những đòn đánh trước”, giữa tháng 10-1953, Pháp huy động khoảng 40.000 quân mở cuộc hành quân ra hướng tây – nam Ninh Bình nhằm tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực và phá kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 – 1954 của ta. Nhờ dự kiến trước âm mưu của địch. Đại đoàn 320 và các lực lượng vũ trang nhân dân địa phương đã chuẩn bị sẵn thế trận và kế hoạch đánh địch,. Chiến dịch chia làm ba đợt. Đợt 1 (từ ngày 15 đến ngày 17-10) tác chiến ngăn chặn địch tiến quân theo đường 59, tập kích tiêu diệt địch ở Trại Ngọc, các điểm cao 64,201. Đợt 2 (từ ngày 18-10 đến ngày 1-11), đánh địch ở Phố Cát, Trại Ngọc, điểm cao 94 và đường 59 lên Nho Quan. Đợt 3 (ngày 2-6-11), tập kích địch trú quân ban đêm ở Chợ Cầu – Văn Luận, đánh nhiều trận phục kích trên đường 59. Bị thiệt hại nặng và không đạt các mục tiêu của cuộc hành quân, chiều 5-11, quân Pháp bắt đầu rút lui. Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu trên 1.500 tên địch, bắn rơi 2 máy bay, phá hủy 11 xe tăng, thiết giáp, làm thất bại ý đồ “đánh trước” của Pháp, bảo vệ được căn cứ và lực lượng ta, tạo điều kiện cho chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954 tiến triển thuận lợi. 82. Những kết luận chủ yếu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị phổ biến kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 – 1954 do Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng triệu tập ngày 19-11-1953? Ngày 19-11-1953, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng triệu tập cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên phổ biến kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 – 1954, động viên cán bộ vượt mọi khó khăn giành thắng lợi lớn nhất trong Đông Xuân 1953 – 1954. Đại tướng Võ Nguyên Giáp kết luận: “Hướng chính là Tây Bắc, kiên quyết tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng Lai Châu và mở rộng căn cứ kháng chiến, uy hiếp Thượng Lào để phân tán địch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tác chiến sau này. Lực lượng sử dụng hai đến ba đại đoàn. Hướng phụ là Trung Lào, lực lượng sử dụng hai trung đoàn. Hướng phối hợp là đồng bằng….” 83. Trình bày tóm tắt “Phương án tác chiến mùa Xuân năm 1954” của Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị ngày 6-12-1953? Ngày 6-12-1953, Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị “ Phương án tác chiến mùa xuân năm 1954”. Phương án gồm bốn phần: 1) Tình hình địch và phương hướng chiến dịch. 2) Binh lực sử dụng và thời gian tác chiến. 3) Nhu cầu nhân lực vật lực. 4) Kế hoạch đường sá và vận chuyển. Phân tích tình hình địch và phương hướng chiến dịch, Tổng Quân ủy cho rằng, trong Đông Xuân 1953 – 1954 “phải nhằm trường hợp địch tăng cường thành tập đoàn cứ điểm mà chuẩn bị…”; “Điện Biên Phủ sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay, không kém Nà Sản và đường phố còn xa hơn. Vì vậy, sự chuẩn bị có nhiều khó khăn, cần ráo riết tập trung lực lượng mới làm kịp, nhưng nếu kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành được chiến dịch thì thắng lợi này sẽ là một thắng lợi rất lớn”. Bộ Chính trị thông qua phương án, quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 14 Tháng Mười Một, 2007, 04:58:38 am 84. Những nội dung chủ yếu trong kế hoạch quân sự năm 1954 của Tổng Quân ủy trình Bộ Chính trị ngày 20-12-1953?
Mấy nội dung chủ yếu là: 1) Mấy nét nhận định về địch và ta. 2) Chủ trương chiến lược và kế hoạch tác chiến. 3) Kế hoạch xây dựng bộ đội. 4) Vấn đề giáo dục bộ đội và cán bộ. 5) Vấn đề đường xá và cung cấp mặt trận. 6) Vấn đề miền Nam và Cao Miên. 7) Vấn đề Lào. 8 ) Vấn đề chấn chỉnh và tăng cường cơ quan chỉ đạo. Kế hoạch xác định “Phương hướng chiến lược là trước hết giải phóng Tây Bắc và Tây Nguyên, uy hiếp Nam Bộ, tạo điều kiện để giải phóng Bắc Bộ”. 85. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Lai Châu? Chiến dịch Lai Châu diễn ra từ ngày 10 đến ngày 20-12-1953, đây là chiến dịch tiến công của Đại đoàn 316 và lực lượng vũ trang địa phương, đánh quân Pháp ở Lai Châu (gồm 3 tiểu đoàn và 23 đại đội người Thái, do sĩ quan Pháp chỉ huy), nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, mở đầu chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954. Phát hiện chủ lực ta tiến quân lên Tây Bắc, ngày 7-12 Pháp bắt đầu rút quân khỏi Lai Châu, thực hiện ý đồ co cụm lực lượng về Điện Biên Phủ. Đại đoàn 316 đang hành quân, được lệnh chuyển sang truy kích địch, dùng hai trung đoàn (174, 98) cấp tốc theo đường tắt, cắt đường rút chạy của địch trên đoạn Pu San – Mường Pồn, đồng thời Tiểu đoàn 479 hành quân bằng cơ giới đánh vào thị xã và để lại một tiểu đoàn bảo vệ Tuần Giáo, phòng địch nhảy dù xuống hậu phương ta. Đêm 10-12, Tiểu đoàn 479 tấn công địch ở Pa Ham, đèo Clavô (nam Lai Châu 14 km) và ngày 12-12, giải phóng thị xã Lai Châu. Ngày 12 và 13-12, Trung đoàn 174 đón đánh, diệt địch ở Mường Pồn, đồng thời Trung đoàn 98 tổ chức chặn địch từ Điện Biên Phủ lên đón quân từ Lai Châu về ở Bản Tấu (ngày 11-12), Pu San (ngày 13-12). Chiều 13-12, ta tiếp tục truy kích trên các hướng, vây diệt và gọi hàng các toán địch còn lại. Đến ngày 20-12, chiến dịch kết thúc. Ta diệt 24 đại đội địch, giải phóng Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ), bước đầu làm thất bại âm mưu của Pháp co cụm lực lượng về Điện Biên Phủ. 86. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả chiến dịch Trung Lào? Chiến dịch Trung Lào diễn ra từ ngày 21-12-1953 đến ngày 31-1-1954, các Trung đoàn bộ binh 66 (Đại đoàn 304), 101 (Đại đoàn 325), 280 và 120 bộ đội tình nguyện và một số đơn vị binh chủng phối hợp với một số bộ phận Quân giải phóng Pathét Lào, mở chiến dịch tiến công địch ở Trung Lào, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai, phối hợp với các chiến trường. Tư lệnh: Hoàng Sâm. Chính ủy: Trần Quý Hai. Kết quả: Đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn địch; giả phóng thị xã Thà Khẹt, một phần tỉnh Savannakhét, thị xã Atôpơ và toàn bộ cao nguyên Bôlôven. Phát triển thắng lợi, Trung đoàn 101 tiến công xuống phía nam phối hợp với Quân giải phóng Ítxarắc (Campuchia) giải phóng và mở rộng căn cứ ở đông – bắc Campuchia. 87. Ngày 22-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có chỉ thị gì liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ khi trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho quân đội? Nói về ý nghĩa và nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 22-12-1953 khi trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho quân đội, Bác Hồ đã chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn dân, toàn quân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”(1). (1). 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr. 143. 88. Trình bày tóm tắt, diễn biến và kết quả chiến dịch bắc Tây Nguyên. Chiến dịch bắc Tây Nguyên diễn ra từ ngày 27-1 đến ngày 5-2-1954. Trong chiến dịch này, Bộ Tư lệnh Liên khu V sử dụng hai trung đoàn 108, 803, bộ đội địa phương và du kích mở chiến dịch tiến công địch ở bắc Tây Nguyên, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, phá cuộc hành quân Átlăng của địch ở Phú Yên. Tư lệnh kiêm Chính ủy: Nguyễn Chánh. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu 2.000 tên địch giải phóng thị xã Kon Tum, buộc địch phải bỏ dở cuộc hành quân Átlăng. 89. Trận then chốt của chiến dịch bắc Tây Nguyên trong kháng chiến chống Pháp? Đó là trận Măng Đen (ngày 27 và 28-1-1954). Đây là trận tiến công của Trung đoàn bộ binh 108 chủ lực Quân khu V vào cứ điểm Măng Đen, mở đầu chiến dịch bắc Tây Nguyên. Đây là cứ điểm kiên cố nhất của cụm phòng ngự đông – bắc Kon Tum (cách thị xã Kon Tum 30km), đồng thời cũng là cứ điểm then chốt trong tuyến phòng thủ của Pháp ở bắc Tây Nguyên; gồm hai khu cách nhau 800m: khu A (chính), có bốn lô cốt bê tông, bố trí hình sao, nối với nhau bằng hệ thống hào, hầm ngầm, do hai đại đội đóng giữ; khu B, công sự dã chiến, hình móng ngựa, thường có khoảng 100-150, lúc cao lên tới 400 lính ứng chiến. Quanh cứ điểm là hàng rào thép gai dày 30-40m. 23 giờ 30 phút ngày 27-1, Trung đoàn 108 sử dụng hai tiểu đoàn (19, 79) tiến công. Sau khi dùng hỏa lực cối và ĐKZ áp đảo, các mũi xung kích cùng lúc mở cửa bằng bộc phá liên tục. Trên hướng chính, Tiểu đoàn 19 tiến công khu A gặp khó khăn tại cửa mở. Trong khi đó ,Tiểu đoàn 79, sau 6 giờ chiến đấu làm chủ được khu B đã kịp thời phát triển sang khu A, hỗ trợ Tiểu đoàn 19 đè bẹp sự kháng cự của địch. Đến 6 giờ 45 phút ngày 28-1, cứ điểm Măng Đen bị diệt. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 19 Tháng Mười Một, 2007, 12:50:30 am 90. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Hạ Lào?
Chiến dịch Hạ Lào diễn ra từ ngày 31-1 đến ngày 4-4-1954. Đây là chiến dịch tiến công của Trung đoàn bộ binh 101 (sư đoàn 325), một đại đội Quân tình nguyện Việt Nam (Quân khu V), phối hợp với một tiểu đoàn chủ lực và lực lượng vũ trng địa phương Pathét Lào vào khu vực Hạ Lào và đông – bắc Campuchia, nhằm phối hợp với chiến trường trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954. Sau khi tham gia đợt I chiến dịch Trung Lào (từ ngày 21-12-1953 đến ngày 31-1-1954). Tiểu đoàn bộ binh 436 (Trung đoàn 101) hành quân trên 300km xuống Hạ Lào. Ngày 31-1 tiểu đoàn cùng một đại đội Quân khu V và một bộ phận lực lượng vũ trang Pathét Lào tạp kích thị xã Atôpơ tiêu diệt một tiểu đoàn địch và một loạt các vị trí khác, giải phóng cao nguyên Bôlôven và nam Saravan. Hạ tuần tháng 3, Trung đoàn 101 phối hợp với Quân giải phóng Ítxarẳc (Campuchia) đánh nhiều trận, giải phóng Vươn Sai, Xiêm Phăng, uy hiếp Stung Treng và giải phóng phần lớn tỉnh Công Pông Chàm, mở rộng vùng giải phóng Chămpaxắc, sau đó trung đoàn chuyển sang hoạt động nhỏ ở vùng đông – nam Prêt Vihia, đông – bắc Công Pông Thom: kết quả liên quân Việt – Lào- Campuchia diệt 1.000 tên địch, giải phóng khoản 20.000 km2 ở Hạ Lào và đông – bắc Campuchia, nối liền căn cứ kháng chiến vùng đông và đông - bắc Campuchia với vùng giải phóng Trung, Hạ Lào. 91. Các chiến trường phối hợp hoạt động với chiến dịch Điện Biên Phủ ra sao? Từ tháng 3 đến tháng 7-1954 các chiến trường đẩy mạnh hoạt động. phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại Nam Bộ, Tiểu đoàn 302 phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia diệt một số vị trí địch, mở rộng vùng giải phóng ở các tỉnh phía đông Campuchia. Đại đội đặc công 205 tập kích kho bom Phú Thọ Hòa (Sài Gòn), tiêu hủy gần 10.000 tấn bom và thuốc nổ, 10 triệu lít xăng dầu, diệt một đại đội lính Âu – Phi. Tiểu đoàn đoàn 303 (Thủ Biên) phối hợp với bộ đội địa phương diệt một đại đội lính Commăngđô, thu toàn bộ vũ khí. Đại đội 65 và Đại đội Lê Hồng Phong (Bến Cát) diệt một một đại đội địch tại đồn Bến Tranh. Đại đội 55 và Đại đội Nguyễn An Ninh (Lái Thiêu) diệt một trung đội địch tại đồn Cây Trắc. Đội đặc công Rừng Sác bắn chìm ba tàu chở lính Pháp trên sông Lòng Tàu (tháng 6-1954)….Tại Trung Bộ, lực lượng vũ trang Liên khu V đánh bại cuộc hành quân Átlăng 2 của địch. Trung đoàn 96 vận động phục kích diệt Binh đoàn cơ động GM 100 trên đường số 19. Tại đồng bằng Bắc Bộ, Trung đoàn 42 (Liên khu III) phục kích trên đường số 5 (Bần Yên Nhân, Hưng Yên), diệt 315 ttên thuộc Binh đoàn cơ động số 3. Các Trung đoàn 52, 48 (Đại đoàn 320) phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh hoạt động ở Nam Định, diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch. Các Tiểu đoàn 400, 353, 375 (Trung đoàn 9, Đại đoàn 304) phối hợp với bộ đội địa phương và du kích hoạt động mạnh ở Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông…. 92. Vì sao có danh hiệu “Dũng sĩ Cát Bi”? Ngày 7-3-1954 đã diễn ra trận tập của các chiến sĩ bộ đội địa phương Kiến An vào sân bay Cát Bi (Hải Phòng) nằm sâu trong hậu phương địch, được bảo vệ bằng hai tuyến phòng thủ của sáu tiểu đoàn (có bốn tiểu đoàn Âu – Phi). Với sự giúp đỡ của nhân dân Kiến Thụy, Tiên Lãng, Hải An, đêm 6-3 các chiến sĩ chia làm hai mũi (mũi một – 17 người, mũi hai – 15 người) bí mật đột nhập, ém sẵn gần đường băng, đến 1 giờ ngày 7-3 đồng loạt xông vào khu đỗ máy bay dùng bộc phá, phá hủy 59 máy bay (1) trong 15 phút và rút lui an toàn. Sân bay bốc cháy trong suốt 17 giờ. Trận Cát Bi sử dụng lực lượng nhỏ, với cách đánh táo bạo, đạt hiệu suất chiến đấu cao, góp phần phát triển chiến tranh duc kích trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, hỗ trợ đắc lực cho chiến dịch dịch Điện Biên Phủ (từ ngày 13-3 đến ngày 7-5-1954). Các chiến sĩ tham gian trận Cát Bi đượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng danh hiệu “ Dũng sĩ Cát Bi”. (1). Số máy bay địch bị ta phá hủy các tài liệu ghi không giống nhau. 93. Trận mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ? Đó là trận Him Lam (ngày 13-3-1943). Đây là trận tiến công của Đại đoàn 312 vào cụm cứ điểm Him Lam. Cụm cứ điểm Him Lam là một trong những trung tâm đề kháng ngoại vi kiên cố nhất trên hướng đông – bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, gồm ba cứ điểm do một tiểu đoàn lê dương và một đại đội lính Thái chiếm giữ. 17 giờ nagỳ 13-3, pháo binh ta bắn mãnh liệt, phá hủy nhiều hầm hào công sự và sát thương một phần sinh lực địch. 18 giờ 30 phút, từ ba hướng hướng, các mũi xung kích nhanh chóng mở cửa, thọc sâu chia cắt, diệt từng lô cốt, ụ súng ngầm, tạo điều kiện cho các đơn vị phát triển vào trung tâm, lần lượt đánh chiếm các cứ điểm. Đến 23 giời 30 phút, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, diệt và bắt sống 470 tên địch. Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng đạt hiệu suất chiến đấu cao, góp phần phá vỡ tuyến phòng thủ ngoại vi của địch, tạo thế bước đầu cho chiến dịch phát triển thuận lợi. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 19 Tháng Mười Một, 2007, 12:54:44 am 94. Trình bày tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Điện Biên Phủ?
Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra từ ngày 13-3 đến ngày 7-5-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư Đảng kiêm Tư lệnh Bộ Chỉ huy chiến dịch. Phó thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái – Phó Tổng tham mưu trưởng chiến dịch làm Tham mưu trưởng chiến dịch, đồng chí Lê Liêm là Chủ nhiệm chính trị chiến dịch. Chủ nhiệm Tổng Cục cung cấp Trần Đăng Ninh phụ trách công tác đường sá, tiếp tế chiến dịch. Lực lượng tham gia gồm các Đại đoàn bộ binh 308 (ba Trung đoàn 102, 36,88), 312 (ba Trung đoàn 141, 209, 165), 316 (hai trung đoàn 174, 98), 304 (Trung đoàn 57), 351 công – pháo (các Trung đoàn 45 lựu pháo 105 ly; 675 sơn pháo và cối, 151 công binh)(1), Trung đoàn 367 cao xạ, các đơn vị thông tin, vận tải (16 đại đội), quân y….; số quân khoảng 55.000 người với sự tham gia phục vụ với 260 nghìn dân công hỏa tuyến. Phương tiện và vật chất huy động gồm 628 ôtô, 11.800 thuyền, 20 nghìn xe đạp thồ và các loại xe thô sơ, hàng chục nghìn tấn vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh. Thời gian đầu khi địch chưa tăng cường lực lượng và hệ thống công sự, phương châm tác chiến chiến dịch là “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Ngày 26-1-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị và được Bộ Chính trị đồng ý, chuyển phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Các mặt công tác chuẩn bị chiến dịch chuyển theo phương châm tác chiến mới. Ngày 11-3, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư động viên cán bộ, chiến sĩ “Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang”. Ngày 13-3, chiến dịch bắt đầu và trải qua ba đợt. Đợt 1 (từ ngày 13-3 đến ngày 17-3), các Đại đoàn 312, 308 tiến công diệt các cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo (Phân khu bắc). Đợt hai ( từ ngày 30-3 đến 30-4), các Đại đoàn 316, 308 và 312 tiến công các cứ điểm phía đông (các ngọn đồi C1, E, D, A1), xây dựng trận địa bao vây, đánh lấn, chia cắt tập đoàn cứ điểm, khống chế và triệt chi viện đường không của địch. Riêng trận đánh đồi A1 gặp khó khăn, ta phải tổ chức đánh đến ba lần. Đợt 3 (từ ngày 1 đến ngày 7-5) các Đại đoàn 308, 312, 304,316 đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía đông, thu hẹp phạm vi chiến (chiếm) đóng của địch ở phía tây (các điểm cao 505, 505A, 511A, 311B, C2, 506, 310) và chuyển sang tổng công kích diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Từ ngày 13-3 đến ngày 7-5, trong 55 ngày đêm, trải qua ba đợt chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và bắt hơn 16.000 tên địch, bắt sống toàn bộ Bộ Chỉ huy tập đoàn cứ điểm do tướng Đờ Cátxtơri chỉ huy. Về đơn vị, diệt 21 tiểu đoàn (!7 tiểu đoàn bộ binh và dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh); bắn rơi và phá hủy 62 máy bay, bắn hỏng 4 xe tăng; thu 30 trọng pháo, 6 xe tăng, hơn 30 nghìn chiếc dù, toàn bộ vũ khí, đạn, quân trang quân dụng. Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội ta trong kháng chiến chống Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ mạnh mẽ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới. (1). Quá trình chiến dịch được tăng cường thêm một tiểu đoàn ĐKZ75 và một tiểu đoàn hỏa tiễn H6. 95. Trận đánh nào góp phần đập tan phân khu bắc tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mở đường cho bộ đội ta tiến xuống cánh đồng Mường Thanh? Đó là trận đánh đồi Độc Lập (ngày 15-3-1954). Đây là trận tiến công của 2 Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) và 165 (Đại đoàn 312) do Bộ Tư lệnh Đại đoàn 308 chỉ huy, diệt cụm cứ điểm đồi Độc Lập trong đợt 1 chiến dịch Điện Biên Phủ (từ ngày 17-3 đến ngày 17-3-1954). Đồi Độc Lập dài 700m , rộng 150m (cách) bắc trung tâm Mường Thanh 4km, được quân Pháp xây dựng đầu tháng 1-1954 do tiểu đoàn Âu – Phi và một đại đội lính Thái chiếm giữ, án ngữ đường Lai Châu – Điện Biên Phủ. Sau đợt bắn pháo chuẩn bị, 0 giờ 30 phút, bộ binh ta bắt đầu công kích: Trung đoàn 165 (hướng chủ yếu) nhanh chóng đột phá sâu vào bên trong cứ điểm đánh chiếm khu thông tin, diệt trận địa súng cối và bao vây Sở Chỉ huy địch cố thủ dưới hầm ngầm; Trung đoàn 88 (hướng thứ yếu) sau khi chỉnh lại đúng hướng cửa mở, đã tiến thẳng vào bên trong cụm cứ điểm, phối hợp với Trung đoàn 165 tiêu diệt Sở Chỉ huy địch và đánh lui cuộc phản kích của một tiểu đoàn bộ binh và 5 xe tăng địch từ Mường Thanh ra ứng cứu. 6 giờ 30 phút trận đánh kết thúc. Hơn 600 quân địch bị diệt và bị bắt. 96. Trận đánh nào góp phần quyết địch cho chiến dịch Điện Biên Phủ chuyển sang tổng công kích giành toàn thắng? Đó là trận đồi A1 (từ ngày 30-3 đến ngày 7-5-1954). Đây là trận tiến công của Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316), Trung đoàn 102 (Đại đoàn 308), đánh đồi A1, một trong những cứ điểm quan trọng nhất, được xây dựng kiên cố trong hệ thống phòng ngự phía đông của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của Pháp, do một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Marốc 4 đóng giữ. 21 giờ 30 phút ngày 30-3, Trung đoàn 174 bắt đầu nổ súng, đến 4 giờ ngày 31-3, chiếm được 2/3 cứ điểm, nhưng bị đối phương dựa vào hầm ngầm, đưa lực lượng phản kích, có pháo binh, xe tăng yểm trợ, giành lại phần lớn. Trung đoàn 102 được điều đến cùng một bộ phận của Trung đoàn 174, tiếp tục tiến công lần hai (đêm 31-3), lần ba (đêm 1-4), chiến đấu giằng co quyết liệt với địch đến ngày 4-4 vẫn không dứt điểm, phải ngừng lại củng cố. Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng công binh đào đường ngầm tới sát vị trí địch trong lòng đồi A1, đặt tại đó khoản 1.000kg thuốc nổ để phá hầm ngầm đồng thời làm hiệu lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận. 21 giờ ngày 6-5 sau khi bộc phá nổ, Trung đoàn 174 tổ chức tiến công từ ba hướng vào các vị trí còn lại của địch và đến 4 giờ 30 phút ngày 7-5 chiếm toàn bộ cứ điểm A1. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 19 Tháng Mười Một, 2007, 12:57:51 am 97. Lá cờ “ Quyết chiến quyết thắng” trong chiến dịch Điện Biên Phủ được trao cho đơn vị nào? Ở đâu?
Ngày 13-5-1954, tại lễ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ được tổ chức trọng thể tại cánh đồng Mường Thanh – trung tâm tập đoàn cứ điểm của địch vừa bị tiêu diệt. Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam., Tư lệnh trưởng chiến dịch thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ tuyên dương công trạng các đơn vị tham gia chiến dịch, các đơn vị trong toàn quân, đồng bào ở hậu phương trong cả nước đã tạo nên chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ. Đại đoàn 312 được vinh dự nhận lá cờ “Quyết chiến quyết thắng”. 98. Trận đánh kho dự trữ chiến lược lớn nhất của Pháp ở Đông Dương? Đó là trận Phú Thọ Hòa (ngày 31-5-1954). Đây là trận tập kích của 12 chiến sĩ Đội đặc công 205 Sài Gòn đánh tổng kho Phú Thọ Hòa trong cơ sở cao su Phú Hòa (đông – bắc) Chợ Lớn. Kho có diện tích khoảng 3km2 gồm 40 dãy nhà kho và hầm chứa bom, đạn, xăng dầu được bảo vệ cẩn mật bằng 12 lớp rào thép gai xen kẽ bãi mìn, hệ thống đèn pha, lô cốt, có bốn đại đội (Một đại đội Âu – Phi) thường xuyên tuần tra canh gác… Sau gần hai năm điều tra tỉ mỉ, đêm 31-5 các chiến sĩ ta bí mật đột nhập vào kho bằng đường cống ngầm, nhanh chóng đặt mìn vào các mục tiêu đã định rồi rút về căn cứ an toàn. Mìn nổ lúc quá nửa đêm, gây cháy nổ hai ngày liền, nhiều lính Âu – Phi thương vong. Trận Phú Thọ Hòa thể hiện cách đánh có hiệu quả của bộ đội đặc công Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. 99. Những kết quả chủ yếu của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương? Ngày 21-7-1954, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương kết thúc. Các nước tham gia Hội nghi cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào; quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương. “Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam” quy định lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết. Lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam ở phía bắc giới tuyến, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp ở phía nam giới tuyến. Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi như là một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ. Thời gian tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam được ấn định vào tháng 7-1956. Thực hiện các cam kết của Hiệp định Giơnevơ, vào 0 giờ ngày 22-7-1954, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh ngừng bắn trên toàn chiến trường Việt Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 21 Tháng Mười Một, 2007, 06:27:51 am II – QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975) 100. Các Đại đoàn pháo binh 675 và 349 được thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy của hai đại đoàn này khi mới thành lập? Hai Đại đoàn pháo binh 657 và 349 được thành lập ngày 16-9-1954 (Nghị định số 30 và 32/NĐA của Bộ Quốc phòng – Tổng Tư lệnh) thuộc Bộ Chỉ huy pháo binh. Đại đoàn 657 gồm hai Trung đoàn 82 và 84 pháo chống tăng, Trung đoàn 86 lựu pháo 105 ly. Đại đoàn trưởng: Doãn Tuế. Chính ủy: Đoàn Khuê. Đại đoàn 349 lựu pháo 105 ly gồm năm trung đoàn (4, 5, 6, 34, 44), nòng cốt là Trung đoàn 349 Quân khu Việt Bắc, Tiểu đoàn 460 pháo binh, một số đại đội bộ đội địa phương các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các Trung đoàn 34, 39, 52 bộ đội miền Nam tập kết. Đại đoàn trưởng: Phùng Thế Tài. Chính ủy: Lê Đình Thiệp. 101. Gặp gỡ với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 tại Đền Hùng ngày 18-9-1954, Bác Hồ đã giao nhiệm vụ và căn dặn những gì? Ngày 18-9-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp đại biểu cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 tại đền thờ các Vua Hùng (xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú), trên đường đại đoàn về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Bác giao nhiệm vụ: Tiếp quản Thủ đô phải thận trọng, chu đáo; tổ chức và kỷ luật trong công tác và sinh hoạt phải nghiêm minh; giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; chống mọi hoạt động phá hoại vì: kẻ địch còn lẩn lút, dân ta còn có những việc làm vô ý, cán bộ và chiến sĩ ta còn có những nhận thức và việc làm sơ hở thiếu sót; phải bảo vệ công thương nghiệp, kể cả công thương nghiệp của ngoại kiều. Bác căn dặn những khuyết điểm cần phải tránh: thiếu tổ chức kỷ luật như: ăn ở, đi lại, mua bán…., xa xỉ ăn diện, tự do bắt chước lối sống không tốt. Vì những lý do trên dễ sinh ra tham ô hư hỏng. Muốn tránh khuyết điểm phải có dân chủ, phải thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau, phê bình và tự phê bình, phải giữ gìn phong cách giản dị, chất phác của người cách mạng. Nhiệm vụ giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta còn rất nặng nề và quan trọng, Bác nhấn mạnh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”(1). (1). 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr.151. 102. Ngày thành lập và truyền thống đánh thắng trận đầu của Quân chủng Hải quân? Ngày 7-5-1955, thành lập Cục Phòng thủ bờ biển thuộc Bộ Quốc phòng – Tổng Tư lệnh (Nghị định số 284/NĐ của Bộ Quốc phòng – Tổng Tư lệnh. Nhiệm vụ: Giúp Tổng Tư lệnh chỉ huy bộ đội phòng thủ bờ biển, đào tạo cán bộ, nhân viên, thủy thủ và xây dựng các thủy đội phòng thủ bờ biển giao cho các liên khu. Cục trưởng: Nguyễn Bá Phát. Từ đó, ngày 7-5 hằng năm trở thành ngày thành lập Quân chủng Hải quân. Ngày 5-8-1964, Hải quân nhân dân Việt Nam cùng bộ đội phòng không, lực lượng vũ trang nhân dân Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Ninh đánh bại cuộc tiến công “Mũi tên xuyên” của không quân Mỹ, bắn rơi 8 máy bay. Ngày 5-8 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam. 103. Tháng 6-1965 có bốn sư đoàn bộ binh được thành lập, đó là những sư đoàn nào? Bốn sư đoàn bộ binh đó là: _Sư đoàn 328 và Sư đoàn 332, nòng cốt là một số trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực và bộ đội địa phương Liên khu III. _Sư đoàn 324, nòng cốt là một sô trung đoàn, tiểu đoàn , đại đội chủ lực ở chiến trường nam Trung Bộ và nam Tây Nguyên vừa tập kết ra miền Bắc (các Trung đoàn bộ binh 803, 90, 93, Trung đoàn pháo binh 14 và các tiểu đoàn binh chủng). Tư lệnh kỉêm Chính ủy: Nguyễn Đôn. Ngày 1-7, sư đoàn làm lễ thành lập tại Tĩnh Gia (Thanh Hóa). _Sư đoàn 335, nòng cốt là các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế ở Lào và Campuchia về nước. Cũng từ đây, các Đại đoàn bộ binh 308, 304, 312, 316, 320, 325 thống nhất tên gọi sư đoàn bộ binh. 104. Kể tên và nêu nhiệm vụ của các quân khu được thành lập theo Sắc lệnh số 017/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký? Theo sắc lệnh này, có sáu quân khu được thành lập vào ngày 3-6-1957, đó là Quân khu Việt Bắc, Quân khu Đông Bắc, Quân khu Tây Bắc, Quân khu Hữu Ngạn, Quân khu Tả Ngạn và Quân khu IV. Nhiệm vụ: chỉ đạo mọi công việc chuẩn bị tác chiến (gồm cả xây dựng công sự quốc phòng), huấn luyện bộ đội, duy trì trật tự an ninh ở địa phương thời bình; chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang quân khu tác chiến thời chiến. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 21 Tháng Mười Một, 2007, 06:33:53 am 105. Vì sao ngày 19-4 hằng năm được lấy làm ngày truyền thống của bộ đội hóa học?
Ngày 19-4-1958, quân đội ta thành lập Phòng Hóa học (Nghị định số 098 của Bộ Quốc phòng) trực thuộc Cục Huấn luyện chiến đấu (Tổng cục Quân huấn). Nhiệm vụ: giúp Tổng cục Quân huấn chỉ đạo phòng chống chíến tranh hóa học, nguyên tử và xây dựng một số cơ quan, đợn vị hóa học. Trưởng phòng: Đặng Quân Thụy. - Bộ Tổng tham mưu (Quyết định số 214 – BMG) thành lập Tiểu đoàn 6 phòng hóa đầu tiên của quân đội ta (sau đổi thành Tiểu đoàn 901) và hai đại đội phòng hóa thuộc hai Sư đoàn bộ binh 308, 320. Ngày 19-4 hằng năm trở thành ngtày truyền thống của bộ đội hóa học. 106. Có bao nhiêu đại biểu tập thể cá nhân về dự Đại hội liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III? Nói chuyện với Đại hội, Bác Hồ đã có chỉ thị gì? Trong hai ngày 7 và 8-7-1958 đã diễn ra Đại hội liên hoan anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III. 456 chiến sĩ thi đua và đại biểu 76 đơn vị trong cả nước dự Đại hội. Nói chuyên với Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Các anh hùng và chiến sĩ thi đua cần phải luôn luôn dắt dìu, giúp đỡ những người chung quanh mình cùng tiến bộ. Mọi người đều phải cố gắng…Như vậy, đời sống của nhân dân ta chắc chắn sẽ cải thiện hơn nữa. Như vậy, chúng ta sẽ vững bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội…” (1). (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 200-201. 107. Trung đoàn tình báo phòng không đầu tiên của quân đội tar a đời vào thời gian nào? Biên chế, tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Tháng 8-1958, Trung đoàn 4 thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không được tổ chức thành Trung đoàn phòng không 260 gồm sáu đại đội ( phiên hiệu từ 1 đến 6) trang bị ra đa P-8 và ba đại đội quan sát mắt (phiên hiệu từ 7 đến 9). Trung đoàn trưởng: Lương Sưu Sắt. Chính ủy: Lê Đình Truy. Đây là Trung đoàn tình báo phòng không đầu tiên của quân đội ta. 108. Trận đánh nào được coi là một trong những trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ? Đó là trận Dầu Tiếng (ngày 11-10-1958). Đây là trận tập kích của hai Đại đội bộ binh 80, 90 và Đại đội đặc công 60 lực lượng vũ trang miền đông Nam Bộ và hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh 3 quân ngụy Sài Gòn ở quận lỵ Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một). Rạng sáng ngày 11, ta nổ sung, sau 30 phút làm chủ quận lỵ, diệt gần 200, bắt 30 tên địch, thu hơn 200 súng các loại; tiếp đó đánh bại một tiểu đoàn đến cứu ứng. Quân địch đóng ở 20 đồn bốt xung quanh Dầu Tiếng hoảng sợ, bỏ chạy. 109. Vì sao bộ đội rađa lấy ngày 1-3 hằng năm làm ngày truyền thống? Ngày 1-3-1959, các đài rada thuộc Trung đoàn 260 bố trí ở Điện Biên (Lai Châu), Đồ Sơn (Hải Phòng), Trùng Quang (Nam Định), Quảng Xương (Thanh Hóa), Điền Lư (nam quân khu IV) chính thức phát song trên toàn mạng, cảnh giới bầu trời Tổ quốc. Ngày 1-3 hằng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội rađa. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 21 Tháng Mười Một, 2007, 06:39:54 am 110. Tại sao ngày 3-3 hằng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội biên phòng?
Ngày 3-3-1959, Công an nhân dân vũ trang được thành lập. Nghị địch sô 100/TTg cảu Thủ tướng Chính phủ ghi rõ: ‘Nay thống nhất các đơn vị bộ đội đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị công an biên phòng, cảnh sát vũ trang, thành lập một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an vũ trang”. Trực thuộc Bộ Tư lệnh có hai Trung đoàn 600 và 245, Tiểu đoàn cơ động 12, Thủy đội 14, bốn cục (Tham mưu, Trinh sát, Chính trị, Hậu cần), các trường (văn hóa, lái xe, hạ sĩ quan, huấn luyện ngựa, huấn luyện chó nghiệp vụ) và một số đơn vị chuyên môn, kỹ thuật. Tư lệnh kiêm Chính ủy: Thiếu tướng Phạm Trọng Tuệ. Vì thế, ngày 3-3 hằng năm trở thành ngày truyền thống của Công an nhân dân (nay là bộ đội biên phòng). 111. Trường Sĩ quan công binh được thành lập vào thời gian nào? Nhiệm vụ được giao khi trường mới thành lập? Ngày 30-3-1959, thành lập Trường Sĩ quan công binh (trên cơ sở phân khoa công binh của Trường Sĩ quan lục quân). Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan chỉ huy phân đội công binh (gồm các chuyên ngành công binh công trình, công binh cầu phà, xe máy công binh) cho các đơn vị công binh toàn quân (ngày 20-10-1964, chuyển thành phân khoa công binh thuộc Trường Sĩ quan lục quân). 112. Tại sao có tên gọi Đoàn 559? Chức năng, nhiệm vụ và biên chế tổ chức, chỉ huy của Đoàn trong những ngày đầu thành lập? Ngày 19-5-1959, thành lập Đoàn 559 (lấy tháng và năm thành lập làm phiên hiệu). Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng thành lập tổ chức hoạt động chi viện miền Nam, lúc đầu lấy tên là “ Đoàn công tác quân sự đặc biệt”. Nhiệm vụ: vận chuyển hàng quân sự, tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ vào miền Nam và từ Nam ra Bắc, Thượng tá Võ Bẩm – Cục phó Cục Nông trường được cử làm Đoàn trưởng kiêm Chính ủy. Ngày 1-6, Tiểu đoàn vận tải bộ 301 được thành lập trực thuộc “Đoàn công tác quân sự đặc biệt”. Tiểu đoàn biên chế 440 cán bộ, chiến sĩ. Đại úy Chu Đăng Chữ: Tiểu đoàn trưởng; Đại úy Nguyễn Danh (tức Chính): Chính trị viên. Tháng 7-1959, Bộ Quốc phòng tổ chức Tiểu đoàn vận tải biển 603 có nhiệm vụ vận chuyển vũ khí chi viện cho miền Nam. Ngày 12-9-1959, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 446/QĐ hợp thức việc thành lập “ Đoàn công tác quân sự đặc biệt” lấy tên là Đoàn 559 (tên gọi thời điểm thành lập) và quy định lại nhiệ vụ của Đoàn: - Tổ chức mở đường giao thong quân sự vào miền Nam dọc theo dãy Trường Sơn. - Vận chuyển hang hóa quân sự cho miền Nam. - Đưa đón cán bộ, bộ đội hành quân vào chiến trường… 113. Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên của quân đội ta ra đời vào thời gian nào? Biên chế của trung đoàn khi mới thành lập? Ngày 1-5-1959, thành lập Trung đoàn không quân vận tải (Nghị định số 429/NĐ của Bộ Quốc phòng) thuộc Cục Không quân, biên chế hai đại đội máy bay (gồm hai trung đội IL.14, LI.2, AN.2) và đại đội máy. Đây là trung đoàn không quân vận tải đầu tiên của quân đội ta. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 21 Tháng Mười Một, 2007, 06:45:49 am 114. Cho biết diễn biến, kết quả và ý nghĩa thắng lợi của khởi nghĩa Trà Bồng?
Ngày 28-8-1959, nhân dân các dân tộc huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đựoc đơn vị 339 của tỉnh huyện hỗ trợ nổi dậy diệt ác, phá kìm ở 16 xã, bức rút 7 đồn, diệt 161 tên, trừng trị 61 tên tề ngụy ác ôn, lập chính quyền cách mạng ở một số thôn, xã vùng rừng núi, xóa bỏ tề ở sáu xã vùng ấp. Đến ngày 1-9-1959, nhân dân làm chủ toàn huyện Trà Bồng (trừ quận lỵ). Nhân dân miền Tây Quảng Ngãi cùng nổi dậy lật đổ ngụy quyền ở thôn, xã và bao vây uy hiếp đồn bốt địch. Chỉ trong một tuần, toàn bộ vùng cao huyện Sơn Hà và hơn 20 xã thuộc các huyện Ba Tơ, Minh Long do nhân dân làm chủ. Thắng lợi của khởi nghĩa Trà Bồng và miền tây Quảng Ngãi mở đầu thời kỳ phong trào cách mạng ở khu V chuyển sang thế tiến công, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng trên toàn miền Nam. 115. Nhiệm vụ của Đoàn 559 theo Quyết định thành lập số 446/QĐ cảu Bộ Quốc phòng là gì? Ngày 12-9-1959, thành lập Đoàn 559 thuộc Bộ Quốc phòng (Quyết định số 446/NĐ của Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: làm chuyên gia về quân sự cho Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao Quân đội giải phóng nhân dân Lào, tổ chức chi viện vật chất từ Việt Nam sang Lào và trực tiếp chỉ huy các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam hoạt động trên chiến trường nước bạn. 116. Nêu kết quả và ý nghĩa của chiến thắng Giồng Thị Đam – gò Quản Cung? Ngày 26-9-1959, trận Giồng Thị Đam – gò Quản Cung diễn ra và thắng lợi. Tiểu đoàn 502 tỉnh Kiến Phong (gồm hơn 100 cán bộ, chiến sĩ) phục kích Trung đoàn 42 ngụy ở Giồng Thị Đam và gò Quản Cung (xã Tân Hội Cơ, huyện Hồng Ngự), đánh thiệt hại một tiểu đoàn, bắt 105 tên (có Ban chỉ huy), thu 48 tàu xuồng, 11 máy vô tuyến điện, 365 súng các loại và 30.000 viên đạn. Vũ khí thu được đã trang bị cho 23 đội vũ trang công tác ở các huyện Hồng Ngự, Cao Lãnh (Kiến Tường). Chiến thắng Giồng Thị Đam – gò Quản Cung có tiếng vang lớn ở Nam Bộ, cổ vũ nhân dân các địa phương “Đồng khởi”. 117. Trường Không quân Việt Nam được thành lập vào thời gian nào? Nhiệm vụ của trường khi thành lập? Ngày 30-9-1959, thành lập Trường Không quân Việt Nam, phiên hiệu Trung đoàn không quân 910 (Nghị định 429/NĐ của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng). Nhiệm vụ: đào tạo phi công, nhân viên dẫn đường thông tin và cơ giới trên không. 118. Vì sao ngày 5-10 hằng năm được lấy làm ngày truyền thống của bộ đội tăng – thiết giáp? Ngày 5-10-1959, thành lập trung đoàn xe tăng đầu tiên, phiên hiệu Trung đoàn xe tăng 202 (Nghị định 449/NĐ của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng). Biên chế: ba tiểu đoàn xe tăng chiến đấu (1, 2, 3), một đại đội sửa chữa, một đại đội công binh, một đại đội huấn luyện, một đại đội vệ binh, một đại đội thông tin và bốn cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật). Trung đoàn trưởng: Thiếu tá Đào Huy Vũ. Chính ủy: Thiếu tá Đặng Quang Long. Ngày 5-10 hằng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội tăng – thiết giáp. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 26 Tháng Mười Một, 2007, 03:08:26 am 119. Đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên ra đời trong phong trào Đồng khởi?
Ngày 19-1-1960, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên (Đại đội 264) ra đời trong phong trào Đồng khởi tại xã Bình Khánh, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Đơn vị gồm 50 cán bộ, chiến sĩ, trang bị 23 khẩu sung các loại, do đồng chí Lê Minh Đào (Ba Đào) chỉ huy. 120. Trận đánh lớn mở đầu cho thời kỳ đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang ở miền đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Đó là trận Tua Hai (ngày 26-1-1960). Đây là trận tập kích của ba đại đội bộ binh (59, 70, 80), Đại đội đặc công 60 và ba tiểu đội vũ trang Tây Ninh vào căn cứ tua Hai của Trung đoàn 32 quân ngụy Sài Gòn (nơi huấn luyện biệt kích và bàn đạp mở các cuộc hành quân tây – bắc thị xã Tây Ninh 7km). Căn cứ gồm bốn khu do ba tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn xe tăng chiếm giữ, xung quanh có 14 tháp canh và hệ thống phòng ngự cẩn mật. Đêm 25 ràng ngày 26-1 (tức 28 Tết âm lịch), dưới sự chỉ huy của Trưởng ban quân sự đông Nam Bộ, các đơn vị bí mật tiếp cận phối hợp với lực lượng nội ứng bên trong, bất ngờ tập kích đánh trúng Sở Chỉ huy, trận địa pháo binh, khu thiết giáp, nhà lính. Sau 20 phút chiến đấu, ta làm chủ hoàn toàn căn cứ, diệt 500 tên địch, bắt giáo dục, thả tại chỗ 500 tên, thu 1.500 súng các loại. Trận Tua Hai là một trong những trận đánh tiêu diệt lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam. 121. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của phong trào Đồng khởi Bến Tre? Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre diễn ra từ ngày 17-1 đến ngày 20-4-1960. Đây là cuộc nổi dậy cùng một lúc của nhân dân tỉnh Bến Tre đạp tan bộ máy kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn ở thôn, ấp, giành quyền làm chủ. Lực lượng địch ở Bến Tre có 9 đại đội bảo an, 24 tổng đoàn dân vệ, 1.380 dân vệ và hơn 300 đồn bốt, tháp canh. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1959), Xứ ủy Nam Bộ họp tháng 11-1959, chủ trương phát động phong trào Đồng khởi. Bến Tre chọ ba xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh (huyện Mỏ Cày) làm điểm, Thường vụ tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo, đội hành động làm lực lượng xung kích, kết hợp với cơ sở nội tuyến, đã nổi dậy diệt Tổng đoàn dân vệ, vây các đồn bốt, bức địch ra hang, giành quyền làm chủ. Tiếp sau, nhân dân xã Phước Hiệp (đêm 17-1) và Bình Khánh (20-1) cùng nổi dậy diệt lực lượng bảo an và ác ôn, giải tán chính quyền cơ sở địch. Thắng lợi của Đồng khởi ở ba xã cổ vũ nhân dân các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Thạnh Phúc, Ba Tri, Bình Đại đồng loạt nổi dậy. Kết quả hơn 300 tề, điệp, ác ôn, bị trừng trị, 47 đồn bốt, tháp canh bị diệt và bức rút, 22 xã được giải phóng hoàn toàn.. Ngày 22-3, chính quyền Sài Gòn sử dụng 10.000 quân đánh vào ba xã điểm. Lực lượng du kích kết hợp với hang vạn quần chúng đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng. Ngày 1-4, hang ngàn phụ nữ dung ghe, xuồng bế con, cháu tản cư ngược lên thị trấn mỏ Cày, đến nhà quận trưởng tố cáo tội ác giết hại nhân dân của quân đội Sài Gòn. Cuộc đấu tranh kéo dài 12 ngày, được hang ngàn phụ nữ ở các nơi khác đến tiếp sức, buộc chính quyền Sài Gòn phải chấm dứt cuộc càn quét (20-4). Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre là cuộc đồng khởi điển hình, rộng lớn, diễn ra trong cả một tỉnh; thể hiện thành công phương pháp cách mạng miền Nam về kết hợp ba mũi giáp công. Đội quân tóc dài ra đời từ đây. 122. Nêu những nội dung chính trong Chỉ thị của Tổng Quân ủy về thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam? Tháng 1-1961, Tổng Quân ủy ra Chỉ thị thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Đảng sang lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo…, Kế tục truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của nhân dân miền Nam anh hung, kế tục truyền thống vẻ vang phục vụ nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam, mục tiêu chiến đấu là kiên quyết thực hiện cương lĩnh, đường lối của Đảng, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam vừa là một đội quân chiến đâu, vừa là một đội quân công tác và sản xuất. Để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, Quân giải phóng miền Nam sẽ xây dựng ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Phương châm xây dựng là khẩn trương, nhưng phải phù hợp với tình hình và khả năng thực tế và có đủ điều kiện để đối phó với những tình huống đột biến, lấy việc việc xây dựng các đơn vị tập trung làm chủ yếu, đồng thời hết sức coi trọng việc xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 26 Tháng Mười Một, 2007, 03:20:49 am 123. Nêu tên các đồng chí lãnh đạo trong Trung ương Cục miền Nam khi mới thành lập cuối tháng 1-1961?
Cuối tháng 1-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập. Đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) được cử làm Bí thư Trung ương Cục. Các đồng chí Trần Lương (Trần Nam Trung), Phạm Văn Đáng (Hai Văn), Nguyễn Văn Xô (Võ Chí Công), Võ Văn Kiệt, Phạm Thái Bường (Ba Hường), Trần Văn Quang làm ủy viên. 124. Trong lần đến thăm bộ đội hải quân vào tháng 3-1961, Bác Hồ căn dặn những gì? Tháng 3-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm bộ đội hải quân. Người căn dặn “Bờ biển ta có vị trí quan trọng. Vì vậy nhiệm vụ của hải quân trước mắt cũng như lâu dài rất nặng nề nhưng rất vẻ vang… Phải biết tìm ra cách đánh phù hợp với điều kiện con người và địa hình bờ biển nước ta và vũ khí trang bị mình có. Hải quân ta phải học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại, nhưng không được quên truyền thống đánh giặc xưa kia của tổ tiên… Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó” (1) (1). 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr. 200. 125. Đoàn cán bộ quân sự tăng cường cho Ban Quân sự Miền và các quân khu ở miền Nam mang tên “Đoàn Phương Đông”, vì sao? Ngày 5-5-1961, Đoàn cán bộ quân sự tăng cường cho Ban Quân sự miền Nam và các quân khu ở miền Nam, gồm 500 người hầu hết là cán bộ cao cấp, trung cấp do Thiếu tướng Trần Văn Quang - Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Tổng tham mưu trưởng dẫn đầu, xuất phát từ Xuân Mai (Hòa Bình) theo tướng tây Trường Sơn vào chiến trường Nam Bộ và nam Trung Bộ. Đoàn lên đường vào lúc Liên Xô phóng thành công con tàu mang tên “Phương Đông” đưa anh hùng Gagarin – người đầu tiên trên thế giới bay vào vũ trụ, nên đặt tên là “Đoàn Phương Đông”. Ngày 28-7, Đoàn đến vị trí tập kết – đồi 300 (Bình Long). 126. Trận đánh nào được coi là tiền đề của sự ra đời loại hình chiến dịch tổng hợp? Đó là trận Đắc Hà (từ ngày 30-8 đến ngày 2-9- 1961). Đây là trận đánh điểm diệt viện của Tiểu đoàn bộ binh 90, Đại đội đặc công 406, Phân đội học viên Trường quân chính Quân khu V và lực lượng vũ trang địa phương vào quân ngụy Sài Gòn ở quận lỵ Đắc Hà (Tumơrông) nằm trên đường số 14 (bắc thị xã Kon Tum). Đêm 30-8, ta tập kích Đắc Hà, diệt gọn đại đội bảo an, làm chủ quận lỵ Ngày 2-9, phục kích địch tại Đắc Tô đến giải tỏa Đắc Hà, đánh thiệ hại nặng hai tiểu đoàn, bắt gần 100 quân, thu nhiều súng đạn. Chiến thắng Đắc Hà hỗ trợ nhân dân 28 ấp dọc đường liên tỉnh 5 (từ Đắc Hà qua Măng Bút, Măng Đen đến Giá Vụ) nổi dậy phá tan hàng chục ấp chiến lược và khu dinh điền của địch, giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng. 127. Hai tiểu đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta trên chiến trường Nam Bộ và cực nam Trung Bộ được thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức và tang bị ban đầu của hai tiểu đoàn đó ra sao? Ngày 2-9-1961, hai Tiểu đoàn 1 và 2 chủ lực Miền làm lễ ra mắt tại Chiến khu Dương Minh Châu (đông Nam Bộ). Tiểu đoàn 1 do đồng chí Bùi Thanh Vân (Út Liêm) làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Đặng Văn Thượng làm Chính trị viên. Tiểu đoàn 2 do đồng chí Huỳnh Leo (Bình Minh) làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Hải (Bảy Trượt) làm Chính trị viên. Mỗi tiểu đoàn biến chế trên 120 cán bộ, chiến sĩ, trang bị hơn 100 khẩu súng các loại. Đây là hai tiểu đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta trên chiến trường miền Nam Bộ và cực nam Trung Bộ. Đồng chí Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam căn dặn: “Nước ta còn nghèo, dân ta đang bị áp bức, bóc lột, nên người và vũ khí hiện chỉ có bấy nhiêu. Các đồng chí hãy lấy đó làm vốn rồi liên hệ với địa phương xin thêm người, tổ chức và huấn luyện cho tốt để gấp rút ra chiến đấu hỗ trợ phong trào”. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 26 Tháng Mười Một, 2007, 03:27:52 am 128. Trung đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của ta trên chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ra đời khi nào? Biên chế, chỉ huy khi mới thành lập của trung đoàn?
Ngày 9-2-1962, thành lập Trung đoàn bộ binh 1 (Q.761, còn gọi là C.56) chủ lực Miền tại Trảng Dài (Tây Ninh). Biên chế (tháng 2-1962) hai Tiểu đoàn bộ binh 1 và 2, một số phân đội hỗ trợ chiến đấu và ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần. Cán bộ từ trung đoàn trưởng đến tiểu đoàn trưởng đều được huấn luyện chính quy trên miền Bắc. Trung đoàn trưởng: Tăng Thiên Kim (tức Hoàng Đình Chương). Chính ủy: Lê Văn Nhỏ (tức Hai Lâm). Đây là trung đoàn chủ lực cơ động đầu tiên trên chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 129. Nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu y học quân sự khi mới thành lập ngày 23-3-1962 là gì? Ai là Viện trưởng và Chính ủy đầu tiên? Viên Nghiên cứu y học quân sự thành lập ngày 23-3-1962 (Quyết định số 80/QĐ của Bộ trưởng Quốc phòng) trên cơ sở Trường Sĩ quan quân y. Nhiệm vụ: nghiên cứu y học quân sự phục vụ quân đội huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, đào tạo và bổ túc cán bộ quân y cho toàn quân. Viện trưởng: Giáo sư Đỗ Xuân Hợp. Chính ủy: Trần Huy. 130. Nguồn gốc tên gọi “Dũng sĩ Điện Ngọc”? “Dũng sĩ Điện Ngọc” là danh hiệu tôn vinh của quân và dân ta đối với 10 chiến sĩ du kích xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam kien cường đánh trả, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của một đại đội biệt động và 10 trung đội bảo an, dân vệ quân ngụy Sài Gòn, diệt và làm bị thương gần một trăm tên địch trong ngày 26-4-1962. Về phía ta, 4 chiến sĩ anh dũng hy sinh, 1 bị thương, 5 chiến sĩ còn lại bám trận địa chiến đâu đến tối mới rút ra ngoài. Chiến công của 10 dũng sĩ Điện Ngọc có tiếng vang lớn và là một trong những điển hình chiến đấu anh dũng, mưu trí của du kích miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 131. Nêu tóm tắt diến biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Nậm Thà (Thượng Lào)? Chiến dịch Nậm Thà (Thượng Lào) diễn ra từ ngày 2-4 đến ngày 12-5-1962, lực lượng tham gia: Quân tình nguyện Việt Nam có hai Lữ đoàn 335, 316, Tiểu đoàn 3 Lữ đoàn 330 bộ binh, một tiểu đoàn sơn pháo 75 ly, một tiểu đoàn sung cói 120 ly, một tiểu đoàn sung máy phòng không 12,7 ly. Bộ đội Pathét Lào: hai Tiểu đoàn bộ binh 2 và 701. Bộ Tư lệnh chiến dịch, về phía Việt Nam có: Thiếu tướng Nguyễn Bằng Giang – Tư lệnh; Thiếu tướng: Trần Độ - Chính ủy. Sau hơn một tháng chuẩn bị, kết hợp đột phá với bao vây vu hồi, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Pathét Lào giải phóng Mường Sinh, Nậm Thà, phát triển tấn công, truy kích địch. Ngày 12-5, chiến dịch kết thúc. Được sự hỗ trợ của Quân tình nguyện Việt Nam, bộ đội Pathét Lào diệt 137 tên địch, bẳt 1.424 tên, thu 400 súng, 596 tấn đạn, 1.500 phuy xăng, mở rộng vùng giải phóng Thượng Lào (800km2,với 76.000 dân). Chiến dịch Nậm Thà đánh dấu bước trưởng thành của quân đội ta về tổ chức hành quân, xây dựng địa phòng ngự, đột phá, thọc sâu, bao vây, vu hồi, truy kích… trong chiến dịch tiến công địch ở vùng rừng núi. 132. Đại hội liên hoan Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III diễn ra vào thời gian nào? Bác Hồ đã căn dặn những gì khi đến thăm và nói chuyện với Đại hội? Từ ngày 4 đến ngày 6-5-1962 diễn ra Đại hội lien hoan Anh hung, chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III. 1.060 đại biểu gồm anh hung và chiến sĩ thi đua thuộc các ngành, các địa phương và đại diện của nhiều đơn vị tiên tiến (gồm cả các lực lượng vũ trang) đã về Thủ đo dự Đại hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và căn dặn: “Anh hùng, chiến sĩ thi đua và lao động tiên tiến phải làm đầu tàu lôi cuốn người khác cùng tiến bộ; đồng thời phải luôn khiêm tốn, luôn luôn cố gắng học hỏi thêm để tiến bộ không ngừng. Đảng viên, đoàn viên thanh niên và cán bộ công đoàn phải làm gương mẫu trong mọi công việc. Như vậy thì đội ngũ lao động to lớn của chúng ta nhất định khắc phục được khó khăn, đánh thắng sự bần cùng và lạc hậu, xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân…”(1). Đại hội đã tuyên dương phong trào thi đua “Ba nhất” trong quân đội và 45 Anh hung lao động. (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 559. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 26 Tháng Mười Một, 2007, 03:33:33 am 133. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của trận Ấp Bắc?
Trận Ấp Bắc diễn ra ngày 2-1-1963. Bọ Chỉ huy Quân khu VIII và Tỉnh đội Mỹ Tho chủ động bố trí lực lượng, kết hợp tiến công quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận, đánh bại cuộc càn lớn của tám tiểu đoàn quân chủ lực ngụy, có 35 máy bay các loại, 13 xe bọc thép M113 và 13 tàu chiến, 10 khẩu pháo 105 ly, do cố vấn Mỹ chỉ huy vào Ấp BẮc (xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho). Lực lượng vũ trang tham gia trận đánh có Đại đội 1 (Tiểu đoàn 261) chủ lực Khu VIII, Đại đội 1 (Tiểu đoàn 515), trung đội bộ đội địa phương huyện Châu Thành và trung đội du kích xã Tân Phú Trung, do đồng chí Hai Hoàng (tức Nguyễn Văn Điều) – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 261 chỉ huy. Sau một ngày chiến đấu, ta diệt và làm bị thương 450 tên địch, bắn rơi và bắn hỏng 16 máy bay, phá hủy 3 xe M113, bắn chìm 2 tàu chiến, đánh bại hai chiến thuật chủ yếu trong “chiến tranh đặc biệt” là “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của quân chủ lực cơ động ngụy do cố vấn Mỹ chỉ huy. Phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” phát triển mạnh trên khắp chiến trường miền Nam. 134. Trường Sĩ quan biên phòng được thành lập vào thời gian nào? Nhiệm vụ của trường khi mới thành lập? Trường Sĩ quan biên phòng thành lập ngày 20-1-1963. Nhiệm vụ: đào tạo sĩ quan có đủ năng lực, phẩm chất đảm đương một trong các nhiệm vụ: sĩ quan chỉ huy, đồn trưởng hoặc đồn phó biên phòng; sĩ quan chính trị, phó đồn trưởng đồn biên phòng; sĩ quan trinh sát, phó đồn biên hoặc đồn trưởng trinh sát biên phòng. 135. Trận đánh nào được coi là trận chống càn lớn nhất từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Khu V? Đó là trận Đỗ Xá (từ ngày 30-4 đến ngày 15-5-1963). Đây là trận chống càn của Trung đoàn bộ binh 2, Phân đội đặc công 409 bộ đội chủ lực, một số đơn vị bộ đội địa phương Quân khu V, dân quân và nhân dân các làng vùng Đỗ Xá, nhằm bảo vệ khu căn cứ Mang Xim (địch gọi là mật khu Đỗ Xá), vùng giáp ranh ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum – nơi đứng chân các cơ quan đầu não kháng chiến Khu V. Ta tổ chức nhiều trận địa chốt chặn ở vòng ngoài và vòng trong căn cứ, giành quyền chủ động, đẩy lùi các mũi tiến công đường bộ và đổ bộ đường không cảu 16 tiểu đoàn bộ binh ( thuộc ba Sư đoàn: 2, 22, 25), hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến cảu quân ngụy Sài Gòn; loại khỏi vòng chiến đấu gần 600 quân, bắn rơi và bắn hỏng 20 máy bay trực thăng, bảo vệ an toàn căn cứ. 136. Người đầu tiên của bộ đội chủ lực ta ở miền Nam được tuyên dương Anh hung lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước là ai? Trong trận đánh nào? Ngày 18-10-1963, Tiểu đoàn bộ binh 5 (Trung đoàn 2 chủ lực Miền) được tăng cường một đại đội đặc công diệt một đại đội bảo an địch ở đồn Cây Trường, xã Long Nguyên, huyện Bến Cát (Thủ Dầu Một). Trong trận đánh này, Tiểu đội trưởng Trừ VănThố đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai, tạo điều kiện cho đồng đội diệt đồn địch. Anh là người thứ ba trong quân đội ta (sau Trần Cừ trong trận Đông Khê ở chiến dịch Biên Giới và Phan Đình Giót ở Điện Biên Phủ) lấy thân mình lấp lỗ châu mai, nêu gương hy sinh cao cả vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Liệt sĩ Trừ Văn Thố được truy tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba và là người đầu tiên của bộ đội chủ lực ta ở miền Nam được tuyên dương Anh hung lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 137. Khi mới thành lập vào ngày 22-10-1963, Quân chủng Phòng không – Không quân gồm những binh chủng nào? Quân chủng Phòng không – Không quân thành lập ngày 22-10-1963, trên cơ sở hợp nhất Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân theo Quyết định số 50 của Bộ Quốc phòng – Tổng tư lệnh. Quân chủng Phòng không – Không quân gồm ba binh chủng; Binh chủng pháo cao xạ có 11 trung đoàn (220, 230, 260, 240, 250, 210, 280, 234, 218, 224, 228) và hai tiểu đoàn (217, 270), gồm 72 đại đội pháo cao xạ các loại (27 đại đội pháo cao xạ 100 ly, 6 đại đội pháo cao xạ 90 ly, 7 đại đội pháo cao xạ 88 ly, 5 đại đội pháo cao xạ 85 ly, 26 đại đội pháo cao xạ 57 ly, 1 đại đội pháo cao xạ 37 ly). Binh chủng ra đa có ba trung đoàn (290, 291, 292) gồm 18 đại đội rađa (26 máy) và 3 đại đội quan sát mắt. Binh chủng không quân có Trung đoàn không quân vận tải 919, Trung đoàn huấn luyện 910, Trung đoàn không quân tiêm kích 921 (gồm ba đại đội máy bay MIG 17A đang học tập ở nước ngoài). Tư lệnh Quân chủng: Phùng Thế Tài. Chính ủy: Đặng Tính. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 29 Tháng Mười Một, 2007, 04:40:27 am 138. Trận đầu bắt tù binh Mỹ của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam?
Đó là trận Trí Phải (ngày 29-10-1963). Đây là trận vận động tiến công của Tiểu đoàn bộ binh T70 và đại đội bộ đội địa phương huyện Thới Bình, đánh trả cuộc hành quân càn quét của tiểu đoàn biệt kích (trại huấn luyện đặc biệ Huyện Sử) và đại đội bảo an chi khu Thới Bình của quân ngụy Sài Gòn do sáu cố vẫn Mỹ chỉ huy tại xã Trí Phải (Cà Mau, Minh Hải). 2 giờ ngày 29-10 địch chia thành hai mũi tiến công, bị ta đánh chặn, địch chạy tán loạn, đụng nổ 40 trái gài (lựu đạn, đạp lôi), sập 37 hầm chông. Sau gần một ngày chiến đấu, địch bị diệt 80 tên (1 Mỹ), bị bắt 332 tên (3 tên Mỹ). 139. Trận đánh nào là một trong những trận mở đầu cho hang loạt trấn đánh liên tục, mạnh mẽ của lực lượng biệt động và đặc công Quân giải phóng vào các cơ quan đầu não của địch? Đó là trận Rạp Kinh Đô (ngày 16-2-1964). Đây là trận tập kích của Đội 159 biệt động Sài Gòn vào Rạp chiếu bóng Kinh Đô thuộc quận 1, thành phố Sài Gòn – nơi các quân nhân Mỹ đang xem phim, phía ngoài có quân cảnh Mỹ và cảnh sát Sài Gòn bảo vệ. 20 giờ 15 phút, khi buổi chiếu phim mới bắt đầu, ba chiến sĩ ta cải trang, dùng ôtô tiếp cận mục tiêu, diệt lính gác, đặt thuốc nổ hẹ giờ (10 kg) trong rạp rồi thoát ra ngoài an toàn. Mìn nổ làm chết và bị thương gần 150 tên Mỹ. 140. Trường Sĩ quan công binh được thành lập vào thời gian nào? Nhiệm vụ của trường khi mới thành lập? Ngày 27-4-1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 49/QĐ thành lập Trường Sĩ quan công binh. Nhiệm vụ: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trung đội, đại đội ngắn hạn, đào tạo cán bộ kỹ thuật các cơ quan nhà nước chuyển vào quân đội, đào tạo sĩ quan dự bị ngành công binh cho học sinh tốt nghiệp Trường đại học Bách khoa. 141. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa chiến dịch giải phóng Cánh Đồng Chum? Chiến dịch giải phóng Cánh Đồng Chum diễn ra từ ngày 27-4 đến ngày 8-6-1964. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: 2 Lữ đoàn quân tình nguyện (316, 335) và 14 đại đội biên phòng Việt Nam phối hợp với 7 tiểu đoàn Quân giải phóng nhân dân Lào (13, 1, 2, 15, Pachay, 701, 500) đánh vào trận địa phòng ngự GM13, GM17 quân Viêng Chăn, nhằm giành địa bàn chiến lược quan trọng Cánh Đồng Chum sau khi chính phủ ba phái (Phumi – Trung lập – Pathét Lào) được thành lập theo Hội nghị Giơnevơ 1962 về Lào bị tan vỡ. Chiến dịch chia làm ba đợt. Đợt 1 (từ ngày 27-4 đến ngày 7-5) tiến công đánh chiếm toàn bộ trận địa của GM17, diệt cụm địch ở Pa Pha, đánh trúng Sở Chỉ huy GM13 ở Phu Nong, buộc đối phương sau nhiều lần phản kích thất bại, phải rút chạy về Tha Thỏm. Đợt 2 (từ ngày 7 đến ngày 27-5), kết hợp tác chiến với binh vận, nhân Tiểu đoàn dù 6 và Tiểu đoàn dù 4 lực lượng trung lập làm binh biến, ta tiến công đánh bại các đợt phản kích của quân cứu viện, giải phóng Cánh Đồng Chum (ngày 27-5). Liên quân Lào–Việt kịp thời dừng lại ở Mường Khừng, không để Chính phủ liên hiệp hoàn toàn tan vỡ. Đợt 3 (từ ngày 27-5 đến 8-6) truy quét tàn quân địch, củng cố, ổn định tình hình ở các khu vực đã giải phóng. Kết quả: liên quân Lào-Việt đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.500 địch (696 chết), 459 sĩ quan và hạ sĩ quan làm binh biến, thu gần 3.000 súng các loại, 112 xe tăng, xe quân sự, bắn rơi 4 máy bay, phá hủy 24 xe tăng, xe thiết giáp; giải phóng 28 xã với 30.000 dân, loại trừ phái trung lập giả danh; giải phóng Cánh Đồng Chum, Xiêng Khoảng, nối liền với căn cứ địa trung tâm Sầm Nưa; Bắc – Nam Lào được khai thông, nối lại đường 7 với khu IV Viêt Nam; tạo điều kiện cho lực lượng Pathét Lào tranh thủ lực lượng trung lập yêu nước, cô lập và làm suy yếu lực lượng phái hữu. 142. Trận đánh nào được coi là trận chiến đấu đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam với hải quân hiện đại Mỹ, thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ? Đó là trận đánh tàu Mađốc (ngày 2-8-1964). Đây là trận tiến công của ba tàu phóng lôi (333, 336, 339) Phân đội 3, Đoàn 135, Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam đánh đuổi tàu khu trục Mađốc (số hiệu 731) thuộc biên đội xung kích 77, Hạm đội 7 Mỹ khiêu khích vũ trang, xâm phạm chủ quyền lãnh hải nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trưa ngày 2-8, ba tàu 333, 336, 339 tiếp cận tàu Mađốc tại vùng biển giữa đảo Hòn Mê và Lạch Trường (Thanh Hóa). Tàu Mađốc được không chi viện, phản kích. Bị thương vong một số chiến sĩ, tàu của ta vẫn bám sát mục tiêu, phóng ngư lôi, dùng vũ khí bắn thẳng vào boong tàu Mađốc, bắn rơi tại chỗ một máy bay, bắn bị thương một chiếc khác, buộc tàu Mỹ phải rút chạy. Đây là trận chiến đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 29 Tháng Mười Một, 2007, 04:44:18 am 143. Trận đầu bộ đội chủ lực Quân khu V đánh bại chiến thuật thiết xa vận của quân ngụy Sài Gòn?
Đó là trận Kỳ Sanh trong hai ngày 9 và 10-8-1964. Đây là trận tiến công của Tiểu đoàn bộ binh 90 (Trung đoàn 1, Quân khu V) vào một tiểu đoàn quân ngụy Sài Gòn ở xã Kỳ Sanh (Quảng Nam) và lực lượng ứng cứu. Ngày 9-8, ta tiến công tiêu diệt phần lớn lực lượng đóng trong xã. Ngày 10-8, ta phục kích quân ứng cứu (2 đại đội bộ binh, có 9 xe bọc thép M113, máy bay, pháo binh chi viện), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 địch, bắn cháy 7 xe M113. 144. Vì sao có tên gọi “Đoàn pháo binh Biên Hòa”? Ngày 31-10-1964, đã diễn ra trận tập kích bằng hỏa lực pháo binh của ba phân đội cối 81 ly, ĐKZ 75 ly (Đoàn 563 pháo binh trực thuộc Bộ Tư lệnh Miền) vào sân bay quân sự Biên Hòa (đông – bắc Sài Gòn 30 km). Các phân đội pháo được đơn vị bạn và nhân dân giúp đỡ, đã vượt qua nhiều vòng kiểm soát của địch vào bố trí trận địa tại hốc Bà Thức (đông – bắc sân bay 1 km), bắn hơn 130 quả đạn trong 17 phút (23 giờ 20 – 23 giờ 37 phút), phá hủy 59 máy bay (trong đó có 21 B57, 11AD6, 1 trinh sát), 2 kho đạn, 1 kho xăng, 1 đài quan sát, 18 căn nhà, loại khỏi vòng chiến đấu 293 tên địch (hầu hết là phi công và chuyên viên kỹ thuật). Là trận tập kích đầu tiên vào sân bay Biên Hòa – căn cứ không quân hiện đại, được bảo vệ nghiêm ngặt của Mỹ ở miền Nam Việt Nam; thể hiện bước phát triển mới của bộ đội pháo binh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Đoàn 563 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhất và danh hiệu “Đoàn pháo binh Biên Hòa”. 145. Lời hô “Nhằm thẳng quân thù, bắn” của Chính trị viên Nguyễn Viết Xuân xuất hiện trong trận đánh nào? Ở đâu? Ngày 18-11-1964, tại Cha Lo (miền tây Quảng Bình) Đại đội 3, Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ 37 ly (Sư đoàn bộ binh 325) do Đại đội trưởng Lê Hữu Mai và Chính trị viên Nguyễn Viết Xuân chỉ huy, bắn rơi một máy bay RF.101 và hai chiếc T.28. Lời hô “Nhằm thẳng quân thù, bắn” của Chính trị viên Nguyễn Viết Xuân trong trận đánh trở thành khẩu lệnh chiến đấu của bộ đội phòng không – không quân và các lực lượng vũ trang nhân dân miền Bắc trong suốt những năm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. 146. Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phẩm chất của quân đội ta tại lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập quân đội? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát truyền thống của quân đội ta qua câu nói của người tại lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập quân đội (22-12-1964) như sau: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(1). (1). Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tr. 11, tr 350. 147. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Bình Giã? Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ ngày 2-12-1964 đến ngày 3-1-1965. Lực lượng tham gia: hai Trung đoàn bộ binh 1 và 2, Đoàn 80 pháo binh chủ lực Miền, hai Tiểu đoàn bộ binh 500 và 800 (Quân khu VII), Tiểu đoàn bộ binh 186 (Quân khu VI) và lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn chiến dịch. Ban Chỉ huy chiến dịch có các đồng chí: Trần Đình Xu – Chỉ huy trưởng; Lê Văn Tưởng – Chính ủy; Nguyễn Hòa – Phó Chỉ huy trưởng, kiêm tham mưu trưởng, Lê Xuân Lựu – Chủ nhiệm chính trị. Trong hơn một tháng chiến đấu, các đơn vị đã đánh năm trận cấp trung đoàn, hai trận cấp tiểu đoàn, diệt hai tiểu đoàn chủ lực ngụy (có một tiểu đoàn lực lượng dự bị chiến lược), đánh bại các biện pháp chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của địch. Đây là chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực trên chiến trường Nam Bộ và cực nam Trung Bộ, một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu sự thất bại của Mỹ - ngụy trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 29 Tháng Mười Một, 2007, 04:50:05 am 148. Trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên của quân đội ta được thành lập vào thời gian nào? Phiên hiệu là gì?
Ngày 7-1-1965 thành lập Trung đoàn tên lửa phòng không 236 (Đoàn Sông Đà). Trung đoàn trưởng: Nguyễn Quang Tuyến. Chính ủy: Phạm Đăng Tỵ. Ngày 1-5, trung đoàn bước vào huấn luyện. Đây là trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên của quân đội ta. 149. Trận đánh nào đã mở đầu cho phong trào thi đua bắn rơi máy bay phản lực Mỹ bằng súng bộ binh của dân quân tự vệ miền Bắc? Đó là trận đánh ngày 15-3-1965. Dân quân xã Diễn Hùng (Diễn Châu, Nghệ An) dùng súng trường bắn rơi một m áy bay phản lực A.4 Mỹ, mở đầu phong trào thi đua bắn rơi máy bay phản lực hiện đại Mỹ bằng súng bộ binh trong dân quân tự vệ trên toàn miền Bắc. 150. Trận đánh nào thể hiện sự trưởng thành về trình độ đánh tập trung, tiêu diệt gọn của bộ đội chủ lực Quân khu V trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Đó là trận Đèo Nhông, ngày 8-2-1965. Đây là trận vận động phục kích của Trung đoàn bộ binh 2, chủ lực Quân khu V vào hai tiểu đoàn bộ binh, một chi đoàn xe thiết giáp M113 (Sư đoàn 22) quân ngụy Sài Gòn tại Đèo Nhông (Bình Định). Sau trận Dương Liễu ngày 7-2, Trung đoàn 2 cắt đường 1 (đoạn Phù Mỹ - Bồng Sơn). Ngày 8-2 địch theo đường 1 tiến ra Dương Liễu theo đội hình sâu đo, hai đại đội bộ binh đi trước lùng sục, chiếm các điểm cao khống chế hai bên đường. Trung đoàn điều lực lượng ém nơi bộ phận lùng sục của địch vừa đi qua để đón đánh lực lượng chính ở phía sau. Trận đánh diễn ra từ 13 giờ 30 phút đến 15 giờ 30 phút khi toàn bộ đội hình địch lọt vào trận địa phục kích. Ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 600 tên địch, phá hủy 10 xe M113. 151. Cuộc chiến không đôi không xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc ta vào ngày tháng năm nào? Đó là ngày 3-4-1965. Trong ngày này, biên đội MIG17 do Biên đội trưởng Phạm Ngọc Lan chỉ huy bắn rơi hai chiếc F8. Ngày 4-4, biên đội MIG17 do Biên đội trưởng Trần Hanh chỉ huy bắn rơi hai chiếc F105. Lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc ta xuất hiện cuộc chiến không đối không. Ngày 3-4 trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Không quân nhân dân Việt Nam. 152. Cho biết một vài thông tin chính về Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất? Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất diễn ra từ ngày 2 đến ngày 6-5-1965, tại Chiến khu Dương Minh Châu. 150 chiến sĩ thi đua thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích dự Đại hội. Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đọc diễn văn nêu rõ: “Đây là Đại hội của tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược của toàn quân, toàn dân ta là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang giải phóng của ta”. Đồng chí Nguyễn Thị Định –Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đọc quyết định của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam tuyên dương 23 cán bộ, chiến sĩ là Anh hùng Quân giải phóng, trong đó có hai nữ (Tạ Thị Kiều, Nguyễn Thị Út). 153. Bộ Tư lệnh phòng không Hà Nội và Bộ Tư lệnh phòng không Hải Phòng thành lập khi nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy của hai bộ tư lệnh khi mới thành lập? Ngày 19-5-1965, thành lập Bộ Tư lệnh phòng không Hà Nội (Sư đoàn phòng không 361) và Bộ Tư lệnh phòng không Hải Phòng (Sư đoàn phòng không 363 thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân. (Quyết định số 66/QĐ của Bộ Quốc phòng). Bộ Tư lệnh phòng không Hà Nội gồm năm trung đoàn pháo cao xạ: Trung đoàn 220 pháo 100ly (Đoàn sông Đuống), Trung đoàn 260 (Đoàn sông Thương), Trung đoàn 224 pháo 100ly (Đoàn Tô Vĩnh Diện), Trung đoàn 230 pháo 57ly (Đoàn Thống Nhất), Trung đoàn 218 pháo 85ly (Đoàn Hoa Lư) và các cơ quan đơn vị trực thuộc. Tư lệnh: Nguyễn Dương Hán. Chính ủy: Trần Văn Giang. Bộ Tư lệnh Phòng không Hải Phòng gồm: Tư lệnh: Nguyễn Hữu Ích; Chính ủy: Lương Tý. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 29 Tháng Mười Một, 2007, 04:58:42 am 155. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Ba Gia?
Chiến dịch Ba Gia diễn ra từ ngày 29-5 đến ngày 20-7-1965, trên địa bàn các huyện Ba Gia, Trà Bồng, Bình Sơn, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi). Lực lượng tham gia: Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 45 chủ lực Khu V, hai đại đội pháo 75ly, một đại đội phòng không và lực lượng vũ trang trên địa bàn chiến dịch. Thiếu tướng Chuy Huy Mân – Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu V trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch. Sau 51 ngày đêm chiến đấu, ta diệt và làm bị thương 2.054 tên, thu 973 súng các loại, phá hủy 15 xe quân sự, bắn rơi 1 máy bay. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, bộ đội ta đã đánh thiẹt hại nặng chiến đoàn, đơn vị ứng cứ lớn nhất của quân chủ lực ngụy, đánh bị biện pháp ứng chiến giải tỏa nhanh bằng đơn vị cấp chiến đoàn của chúng. 156. Trận tập kích đầu tiên của Mỹ bằng máy bay chiến lược B52 trên chiến trường miền Nam Việt Nam? Đó là trận Bên Cát (ngày 18-6-1965). Mỹ dùng máy bay B52 ném bom nhằm triệt phá căn cứ kháng chiến, diệt bộ đội chủ lực đông Nam Bộ, lập tuyến an ninh từ xa cho Sài Gòn, hỗ trợ các cuộc hành quân trên bộ. Ngày 18-6-1965, 30 máy bay B52 của Mỹ từ Guam đến ném bom rải thảm khu vực Trảng Lớn, Bờ Cảng (xã Long Nguyên, Bến Cát, Sông Bé), rồi thả truyền đơn huênh hoang về “sức mạnh không thể tượng nổi của pháo đài bay” và đổ quân xuống điều tra kết quả, nhưng bom Mỹ không ném trúng mục tiêu. Máy bay B52 tham chiến làm tăng thêm tính chất ác liệt của chiến tranh xâm lược và một thực tế chỉ rõ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ chính thức thay thế chiến lược chiến trạnh đặc biệt. 157. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Đồng Xoài? Chiến dịch Đồng Xoài diễn ra từ ngày 1-5 đến ngày 22-7-1965, diễn ra trên địa bàn các tỉnh Bình Long, Phước Long (hướng chính); Lâm Đồng, Bình Thuận, Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa (hướng phối hợp). Lực lượng: ba Trung đoàn bộ binh 1, 2, 3, Đoàn pháo binh 80 chủ lực Miền, Trung đoàn 4 và hai tiểu đoàn chủ lực Quân khu VII, lực lượng vũ trang địa phương trên địa phương trên địa bàn chiến dịch, các Đoàn hậu cần 81, 83 và dân công, thanh niên xung phong các địa phương. Chỉ huy chiến dịch: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tư lệnh Miền – Chỉ huy trưởng, Thiếu tướng Trần Độ, Phó Chính ủy Miền – Chính ủy; Đại tá Hoàng Cầm – Tham mưu trưởng. Sau hơn hai tháng chiến đấu, các đơn vị tham gia chiến dịch loại khỏi vòng chiến đấu 4.459 tên địch (có 73 Mỹ), bốn tiểu đoàn chủ lực ngụy, trong đó có tiểu đoàn dù thuộc lực lượng dự bị chiến lược và hàng chục đại đội bảo an bị đánh thiệt hại nặng. Ta thu 1.652 khẩu súng các loại, phá hủy 28 xe bọc thép, có 5 xe tăng, bắn rơi 34 máy bay, phá hủy 6 đầu máy và 12 toa xe lửa. Đây là chiến dịch hiệp đồng bộ binh với pháo binh và đặc công đánh địch trong công sự vững chắc giành thắng lợi lớn, đánh dấu bước trưởng thành mới về tổ chức, chỉ huy và trình độ tác chiến của bộ đội ta trên chiến trường miền Nam. 158. Trận đầu tiên bộ đội tên lửa ra quân đánh thắng? Đó là trận Suối Hai (từ ngày 24 đến ngày 27-7 năm 1965). Đây là trận phục kích của hai tiểu đoàn tên lửa (63, 64) Quân đội nhân dân Việt Nam và lực lượng pháo phòng không (57 ly và 37 ly) phối hợp với dân quân địa phương bắn máy bay Mỹ tại Suối Hai, huyện Bất Bạt, tỉnh Hà Tây. 15 giờ 30 phút ngày 24-7, hai Tiểu đoàn 63, 64 tiêu diệt một tốp máy bay Mỹ (một rơi tại chỗ), bắt một phi công. Dự đoán được âm mưu của địch, lực lượng pháo phòng không và dân quân tổ chức trận địa tên lửa giả nghi binh địch. Ngày 27-7, Mỹ huy động 48 lần chiếc máy bay “đánh trả đũa” vào trận địa tên lửa giả do ta bố trí. Ta đánh trả quyết liệt, diệt thêm 5 máy bay (có hai chiếc rơi tại chỗ), bắt sống 3 phi công. Trận Suối Hai là trận đầu tiên của bộ đội tên lửa ra quân thắng lợi. Ngày 24-7, hằng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội tên lửa phòng không Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau trận Suối Hai, hình thức phối hợp tác chiến của bộ đội tên lửa, pháo phòng không và súng bộ binh bắn máy bay xuất hiện và đạt hiệu quả ngày càng cao trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 30 Tháng Mười Một, 2007, 02:52:57 am 159. Tại Đại hội thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” Bác Hồ đã căn dặn những gì?
Đại hội thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” của các lực lượng vũ trang nhân dân trên miền Bắc họp ngày 7-8-1965 tại Hà Nội. Phát biểu tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Để cùng với nhân dân làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước, các lực lượng vũ trang của ta hãy thực hiện tốt 5 điều sau đây: - Phát huy truyền thống vẻ vang quyết chiến, quyết thắng, nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. - Luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, ra sực tiêu diệt địch và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. - Vừa chiến đấu, vừa xây dựng, đánh giặc giỏi, huấn luyện giỏi, xây dựng nhiều “đơn vị quyết thắng” hơn nữa. - Dân chủ tốt, kỷ luật nghiêm, đoàn kết nội bộ, đoàn kết nhân dân. - Quản lý bộ đội tốt, bảo đảm đời sống tinh thần, vật chất trong mọi hoàn cảnh” (1). (1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 485. 160. Trận đọ sức quyết liệt đầu tiên giữa chủ lực Quân giải phóng miền Nam Việt Nam với quân viễn chinh Mỹ, chỉ ra khả năng đánh thắng Mỹ trong chiến tranh cục bộ? Đó là trận Vạn Tường (ngày 18 và 19-8-1965). Đây là trận chống càn của Trung đoàn bộ binh 1(Sư đoàn 2, Quân khu V) phối hợp với Đại đội 21 và dân quân du kích địa phương chống lại cuộc hành quân “Ánh sáng sao” của quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn tại thôn Vạn Tường (một thôn nhỏ ven biển Bình Sơn, Quảng Ngãi, phía nam căn cứ quân sự Chu Lai 17km). Đêm 17 địch dùng pháo hạm bắn vào Vạn Tường. Sáng 18, bốn tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, hai tiểu đoàn bộ binh quân ngụy Sài Gòn, một tiểu đoàn tăng – thiết giáp, được chi viện của gần 200 máy bay, từ bốn hướng tiến công Vạn Tường nhưng đều bị bẻ gãy: hướng từ tàu chiến đổ bộ lên bãi biển An Cường bị công binh đánh chặn; hướng từ Chu Lai sang bị Đại đội 21 phục kích; hướng đổ bộ đường không xuống cánh đồng Lộc An bị súng cối bắn hỏng tám máy bay… Địch từ chủ động thành bị động. Rạng sáng ngày 19-8, ta rút khỏi Vạn Tường an toàn. Kết quả ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 900 tên địch (diệt gọn 4 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ) bắn rơi 13 máy bay trực thăng, phá hủy 22 xe tăng, xe thiết giáp. 161. Sư đoàn bộ binh 390 thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức và chỉ huy khi mới thành lập? Ngày 23-8-1965, thành lập Sư đoàn bộ binh 320B (Quyết định số 225/TMH). Biên chế: ba Trung đoàn bộ binh 3, 4, 5 và các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần. Quyền Sư đoàn trưởng: Phạm Thanh Sơn. Quyền Chính ủy: Nguyễn Duy Tường. Ngày 4-5-1979, Sư đoàn 320B đổi phiên hiệu thành Sư đoàn 390 (Quyết định số 530/CP do Trung tướng Lê Trọng Tấn ký). 162. Sư đoàn 9 thành lập khi nào? Ở đâu? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn bộ binh 9 chủ lực Miền thành lập ngày 2-9-1965 tại Suối Nhung, tỉnh Phước Thành (đông Nam Bộ). Biên chế ba trung đoàn: Trung đoàn 1 (Đoàn Bình Giã), Trung đoàn 2 (Đoàn Đồng Xoài), Trung đoàn 3 vừa được tổ chức gồm một số đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tiểu đoàn, đại đội binh chủng. Sư đoàn trưởng: Đại tá Hoàng Cầm (Năm Thạch). Chính ủy: Đại tá Lê Văn Tưởng (Lê Chân). 163. Sư đoàn 3 thành lập khi nào? Ở đâu? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn bộ binh 3 chủ lực Quân khu V thành lập ngày 2-9-1965 tại xã Ân Nghĩa, huyện Hoài Nhơn (Bình Định). Biên chế: Trung đoàn 2 chủ lực Khu V và hai Trung đoàn 12, 22 vừa từ miền Bắc hành quân vào. Sư đoàn trưởng: Giáp Văn Cương. Chính ủy: Đặng Hòa. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 30 Tháng Mười Một, 2007, 03:06:21 am 164. Trận đánh nào đã góp phần cổ vũ du kích miền Nam Việt Nam đánh Mỹ bằng mọi thứ vũ khí có trong tay?
Đó là trận An Điền (ngày 10-10-1965). Đây là trận chiến chống càn của Tiểu đội du kích xã An Điền đánh một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ ở nam Bến Cát (Thủ Dầu Một). Sử dụng mìn định hướng kết hợp với hầm chông, hố đinh, lựu đạn gài và hỏa lực bắn thẳng; dựa vào hệ thống công sự nổi liền với hệ thống địa đạo, du kích ẩn hiện đánh địch, diệt và làm bị thương 150 quân Mỹ. 165. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Plâyme? Chiến dịch Plâyme (Tây Nguyên) diễn ra từ ngày 19-10 đến ngày 26-11-1965. Lực lượng tham gia: ba trung đoàn bộ binh (33, 36, 320), Tiểu đoàn 952 đặc công, Tiểu đoàn 200 pháo binh, Tiểu đoàn 32 súng máy phòng không. Chỉ huy chiến dịch: Chu Huy Mân (Tư lệnh kiêm Chính ủy). Trong hơn một tháng chiến đấu, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.700 tên Mỹ. 1.270 tên ngụy, diệt Tiểu đoàn 1, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 (Sư đoàn kỵ binh bay Mỹ), bắn rơi 59 máy bay lên thẳng, phá hủy 89 xe quân sự và nhiều pháo, súng các loại. Sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ cơ động bằng máy bay lên thẳng (lần đầu tiên xuất hiện trong chiến tranh) bị quân đội ta đánh bại trên chiến trường. Chiến thắng Plâyme là thực tế chứng minh quân đội ta có thể tiêu diệt tiểu đoàn Mỹ, phá chiến thuật cơ động băng máy bay lên thẳng, đánh bại những đơn vị tinh nhuệ, trang bị hiện đại nhất của Mỹ trong “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. 166. Trận đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn quân Mỹ đầu tiên trên chiến trường miền đông Nam Bộ là trận đánh nào? Đó là trận Đất Cuốc (ngày 8-11-1965). Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9 chủ lực Miền) dưới sự chỉ huy của Phó trung đoàn trưởng Bùi Thanh Vân tập kích Lữ đoàn 173 không vận Mỹ ở Đất Cuốc, cách thị xã Biên Hòa 30 km về phía bắc, diệt và làm bị thương gần 300 tên, bắn rơi 4 máy bay, thu nhiều vũ khí. 167. Trận đánh nào là trận đánh ban ngày đầu tiên ở cấp sư đoàn thể hiện khả năng đánh tiêu diệt quân Mỹ của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam? Đó là trận Bàu Bàng (1) (Ngày 12-11-1965). Đây là trận tập kích của Sư đoàn bộ binh 9 (chủ lực Quân giải phóng miền Nam Việt Nam) vào Lữ đoàn bộ binh 2 (Sư đoàn bộ binh 1 Mỹ) đóng quân dã ngoại tại ấp Bàu Bàng (bắc Thủ Dầu Một 25km). Sau khi áp sát, bao vây khu vực trú quân của địch, 5 giờ 30 phút, Quân giải phóng bất ngờ tiến công Sở Chỉ huy, đài thông tin, khu thiểt giáp, làm đội hình địch rối loạn, lần lượt diệt từng cụm quân. Sau hơn hai giờ chiến đấu, Sư đoàn 9 đã đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn bộ binh, phá hủy 39 xe tăng, xe bọc thép, 6 pháo 105 ly. (1). Có tài liệu ghi là Bầu Bàng. 168. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả, ý nghĩa của chiến dịch Bàu Bàng – Dầu Tiếng? Chiến dịch Bàu Bàng – Dầu Tiếng diễn ra từ ngày 12 đến ngày 27-11-1956. Lực lượng tham gia: Sư đoàn bộ binh 9 chủ lực Miền và một tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Bình Dương. Tư lệnh chiến dịch: Lê Trọng Tấn – Tư lệnh; Hoàng Cầm – Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng. Trong 15 ngày, bộ đội ta đánh sáu trận, trong đó có hai trận đánh quy mô trung đoàn tăng cường đến sư đoàn; trận Bàu Bàng 9 (ngày 12-11) và trận Dầu Tiếng (ngày 27-11) gây thiệt hại nặng cho Lữ đoàn 3, Sư đoàn 1 Mỹ và Chiến đoàn 7 ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 4.250 tên địch, phá hủy 300 xe quân sự (có 80 xe tăng và xe M113), 10 khẩu pháo 105 ly, bắn rơi 2 máy bay. Chiến thắng Bàu Bàng – Dầu Tiếng củng cố niềm tin đánh thắng quân Mỹ, mở ra phong trào: “Tìm Mỹ mà diệt” ,”Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh” trong các lực lượng vũ trang miền Nam. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 30 Tháng Mười Một, 2007, 03:13:10 am 169. Trận đánh then chốt của chiến dịch Plâyme?
Đó là trận Iađrăng (ngày 17-11-1965). Đây là trận vận động tiến công cảu Tiểu đoàn bộ binh 8 (Trung đoàn 66) và Tiểu đoàn bộ binh 1 (Trung đoàn 33) vào Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn kỵ binh không vận 3 Mỹ ở thung lũng Iađrăng (Gia Lai), trong chiến dịch Plâyme (từ ngày 9-10 đến ngày 26-11-1965). Ta vây ép đồn Plâyme, địch điều Chiến đoàn thiếp giáp 3 và tiểu đoàn bộ binh quân đội Sài Gòn đi giải tỏa, nhưng bị đánh bại. 10 giờ ngày 14-11, địch đổ bộ Tiểu đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ xuống khu vực Chư Pông, ta diệt một số, số còn lại chạy xuống thung lũng Iađrăng co cụm. Ta vận động tấn cong liên tục trong 10 giờ, tiêu diệt gần hết tiểu đoàn kỵ binh không vận, hoàn thành thắng lợi trận then chốt của chiến dịch. Trận đánh khẳng định, mặc dù Mỹ ồ ạt đưa quân chiến đấu vào Việt Nam, ta vẫn giữ được quyền chủ động về chiến dịch, chiến thuật, ta vẫn có thể tiêu gọn từng đơn vị chiến đấu Mỹ. 170. Sư đoàn 5 thành lập khi nào? Ở đâu? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn bộ binh 5 chủ lực Miền thành lập ngày 32-11-1965 tại Bà Rịa. Biên chế lúc đầu có Trung đoàn 4 (Trung đoàn Đồng Nai) bộ đội chủ lực Quân khu VII và Trung đoàn 5 vừa được tổ chức từ một số đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh Nam Bộ. Sư đoàn trưởng: Nguyễn Hòa. Chính ủy: Lê Xuân Lựu. 171. Sư đoàn 1 thành lập khi nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn bộ binh 1 chủ lực Tây Nguyên thành lập ngày 20-12-1965. Biên chế: ba Trung đoàn 88, 66, 320 vừa từ miền Bắc hành quân vào. Sư đoàn trưởng: Hoàng Kiện. Chính ủy: Huỳnh Đắc Hương. 172. Nội dung 10 bài học đánh Mỹ rút ra tại Hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến tranh nhân dân trên địa bàn huyện Củ Chi do Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn – Gia Định tổ chức ngày 7-2-1965? 10 bài học đó là: 1. Ai cũng đánh được Mỹ. 2. Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ. 3. Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh; một người, một tổ chức cũng đánh và đều đánh thắng. 4. Ở đâu cũng đánh được Mỹ, đánh ở rừng, ở xóm, ở ấp chiến lược, ở đầm lầy. Chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch mà đánh là được. 5. Ngày cũng đánh, đêm cũng đánh được Mỹ, vì cả ngày và đêm Mỹ đều có sơ hở, nhược điểm. 6. Đánh địch phản công là cơ hội tốt để ta diệt chúng. 7. Đánh ở cả tiền tuyến, đánh cả ở hậu phương địch, đánh đều khắp, càng làm cho giặc Mỹ bối rối, bị động, ta diệt địch càng dễ dàng hơn. 8. Đánh cả trong xã, ấp chiến đấu và ngoài xã, ấp chiến đấu, chỉ cần nâng cao quyết tâm tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt. 9. Có khả năng đánh thắng các loại binh chủng Mỹ. 10. Đánh bằng võ trang, đánh bằng chính trị, đánh bằng binh vận. 173. Trận đánh nào đánh dấu bước trưởng thành của bộ đội đặc công tron chiến thuật tập kích sân bay? Đó là trận An Khê (ngày 20-2-1966). Đây là trận tập kích của bộ đội đặc công Gia Lai Quân giải phóng Tây Nguyên vào căn cứ Sư đoàn không vận sô 1 Mỹ ở An Khê, Hòn Chông. Quân Mỹ dựa vào hệ thống phòng thủ kiên cố chống cự. Quân ta đồng loạt đánh vào khu chứa máy bay, lực lượng bảo vệ căn cứ khu thông tin ở điểm cô Hòn Chông (tây – bắc An Khê 4 km)… Sau hai giờ chiến đấu, quân ta loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá hủy hàng chục máy bay, 50 xe cơ giới, đốt cháy nhiều kho tàng. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 08 Tháng Mười Hai, 2007, 10:57:35 pm 174. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả của chiến dịch tây Sơn Tịnh?
Chiến dịch tây Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) diễn ra từ ngày 20-2 đến ngày 20-4-1966. Chỉ huy: Nguyễn Năng - Tư lệnh; Nguyễn Minh Đức – Chính ủy. Lực lượng tham gia gồm Sư đoàn bộ binh 2 (thiếu) chủ lực Khu V, một tiểu đoàn đặc công (thiếu), một tiểu đoàn cối 120 ly và ĐKZ 75 ly, một tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 ly, hai tiểu đoàn (48, 83) và một số đại đội đặc công tỉnh Quảng Ngãi, sáu đại đội bộ đội địa phương huyện Sơn Tịnh và du kích trên địa bàn chiến dịch. Kết quả: đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn, 4 đại đội thủy quân lục chiến Mỹ, 12 đại đội và 22 trung đội ngụy, bắn rơi và phá hủy 102 máy bay, 27 xe cơ giới, thu và phá hủy 823 súng các loại, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. 175. Trận đánh mở ra cách đánh phối hợp đặc công – bộ binh trong từng trận thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Đó là trận La Vang (ngày 6-4-1967). Đây là trận tập kích của hai đại đội đặc công, năm trung đội bộ binh (Quân khu Trị Thiên) Quân giải phóng miền Nam Việt Nam vào căn cứ của Trung đoàn bộ binh 1 (Sư đoàn 1) quân ngụy Sài Gòn ở La Vang (nam thị xã Quảng Trị 3 km). Ta tổ chức các mũi đặc công đánh mục tiêu chủ yếu, then chốt và mở cửa trên các hướng. Trận đánh diễn ra từ 1 giờ 27 phút đến 2 giờ 30 phút. Ta diệt và làm bị thương hơn 500 tên địch, phá 3 máy bay L19, 4 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 3 kho. 176. Đoàn huấn luyện trinh sát đặc công nước được thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức của Đoàn khi mới thành lập? Ngày 3-3-1966, thành lập Đoàn huấn luyện trinh sát đặc công nước, phiên hiệu Đoàn 126. Lực lượng nòng cốt của Đoàn gồm 40 người đã qua huấn luyện ở Đoàn 8 và 74 người ở Đại đội đặc công đánh biển thuộc Cục Nghiên cứu – Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 5-1966, Bộ Tư lệnh Hải quân điều 700 cán bộ, chiến sĩ từ các đơn vị về tổ chức thành 12 đội chiến đấu. Cơ quan đoàn bộ đóng tại huyện Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thủy Nguyên (Hải Phòng). Đoàn trưởng: Hoàng Đắc Cót. Chính ủy: Phạm Điệng. 177. Sư đoàn 7 thành lập khi nào? Ở đâu? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn bọ binh 7 chủ lực Miền thành lập ngày13-6-1966 tại căn cứ tỉnh Phước Long (đông Nam Bộ). Biên chế: ba Trung đoàn bộ binh 146, 165, 52 và các đơn vị binh chủng. Sư đoàn trưởng: Nguyễn Hòa, Chính ủy: Dương Thanh (Dương Cự Tẩm). 178. Sư đoàn phòng không 367 thành lập khi nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn phòng không 367 thành lập ngày 21-6-1966 thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân. Biên chế: bốn trung đoàn pháo cao xạ (234, 230, 218, 241) và một trung đoàn tên lửa (Trung đoàn 278) làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu. Sư đoàn trưởng: Hoàng Khải Tiến. Chính ủy: Lê Đình Truy. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 08 Tháng Mười Hai, 2007, 11:03:09 pm 179. Vì sao ngày 8-8 hằng năm trở thành ngày truyền thống của Học viện Kỹ thuật quân sự?
Ngày 8-8-1966, thành lập cơ sở đào tạo cán bộ kỹ thuật trình độ đại học của quân đôi lấy tên là Phân hiệu 2 Đại học Bách khoa (Quyết định số 146/CP của Chính phủ). Vì thế, ngày 8-8 được xác định là ngày truyền thống của Học viện Kỹ thuật Quân sự. 180. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Sa Thầy? Chiến dịch Sa Thầy diễn ra từ ngày 18-10 đến ngày 6-12-1966 trên địa bàn các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum. Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tổ chức và chỉ huy chiến dịch. Lực lượng tham gia: Sư đoàn bộ binh 1 chủ lực Tây Nguyên được tăng cường ba Trung đoàn 24, 95 (thiếu), 33 (Đắc Lắc), hai tiểu đoàn độc lập, một tiểu đoàn cối 120 ly, hai tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 và lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn. Kết quả: đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn, 8 đại đội Mỹ, 5 đại đội ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu 2.410 tên (có hơn 2.000 Mỹ), bắn rơi 20 máy bay, phá hủy 25 khẩu pháo, 12 xe quân sự, thu 71 súng các loại. Thắng lợi của chiến dịch Sa Thầy đánh dấu bước trưởng thành mới của chủ lực ta về tổ chức chiến đấu và thực hành tác chiến, về việc đánh giá đúng địch, lừa địch vào thế trận của ta, đánh bại cuộc hành quân Pônrivơ 4 của Mỹ, giải phóng vùng đất rộng lớn dọc sông Sa Thầy, từ Kon Tum đến Gia Lai. 181. Nhân sự kiện gì mà Bác Hồ tặng lá cờ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” cho quân và dân Hà Nội? Ngày 14-12-1966, quân và dân Hà Nội bắn rơi tám máy bay Mỹ, trong đó có chiếc thứ 1.600 trên miền Bắc. Nhân sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi và gửi tặng quân dân Thủ đô lá cờ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược 182. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti? Chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xiti diễn ra từ 22-2 đến ngày 15-4-1967 do một bộ phận lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam tiến hành đánh vào cuộc hành quân của quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn ở Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh), nhằm bảo vệ căn cứ địa trung ương cách mạng miền Nam. Lực lượng ta có: Sư đoàn bộ binh 9, 9 đại đội bảo vệ cơ quan, 13 đại đội bộ đội địa phương, tiểu đoàn cối 120ly, 5 tiểu đoàn súng máy phòng không, 4.000 dân quân tự vệ. Lực lượng địch gồm có 45.000 quân và 1 tập đoàn, 7 phi đoàn không quân, trong đó, Mỹ có 2 sư đoàn và 3 lữ đoàn bộ binh, dù, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn xe tăng, 14 tiểu đoàn pháo binh; quân ngụy Sài Gòn có 1 chiến đoàn thủy quân lục chiến, 1 liên đoàn quân biệt đoàn. Chiến dịch chia làm hai đợt. Đợt 1 (từ ngày 22-2 đến ngày 15-3), địch tiến công từ hướng tây vào căn cứ. Ta dùng lực lượng tại chỗ đánh chặn ở Tà Dạt, Khe Đôi, Bàu Cỏ, Đồng Pan, Sóc Kỳ, Cà Tum, Suối Mây, Suối Đá, Trảng A Lâu…; lực lượng cơ động tập kích, phục kích ở Bến Ra, Lô Via, Đồng Pan… Đợt 2 (từ ngày 16-3 đến ngày ngày 15-4), địch rút các cụm chốt dọc biên giới Việt Nam – Campuchia, tập trung lực lượng tiến công từ hướng đông vào căn cứ. Lực lượng tại chỗ chặn đánh trên đường 4, Đồng Rùm, Tàu Keo…; lực lượng cơ động tập kích tại Bàu Bàng, Bàu Trí; tập trung hai trung đoàn (1, 2) tiến công Đồng Rùm, sau đó tập kích diệt một tiểu đoàn, hai đại đội Mỹ ở Trảng Ba Vũng… Kết quả: ta diệt 2 tiểu đoàn và 11 đại đội bộ binh địch, 9 chi đoàn thiết giáp, bắn rơi 160 máy bay, phá hủy 112 khẩu pháo; đánh bại cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ trên chiến trường miền Nam. 183. Chiến công “1 thắng 20” là của đơn vị nào? Ngày 28-2-1967, Tiểu đội Bùi Ngọc Đủ (Trung đoàn 84B, Sư đoàn 324) gồm 10 người đánh lui 15 đợt tiến công của 200 lính thủy đánh bộ Mỹ ở tây Quảng Trị, lập chiến công “1 thắng 20”. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 08 Tháng Mười Hai, 2007, 11:10:29 pm 184. Trận đánh then chốt, có ý nghĩa quyết định đánh bại đợt hai cuộc hành quân Gianxơn Xiti?
Đó là trận Đồng Rùm (ngày 21-3-1967). Đây là trận kích của Sư đoàn bộ binh 9 (thiếu), chủ lực Quân giải phóng miền Nam Việt Nam vào Lữ đoàn bộ binh 3 (Sư đoàn 4 Mỹ) ở Đồng Rùm (Tây Ninh). Được pháo binh chi viện, ta tiếp cận mục tiêu, đánh Sở Chỉ huy, đồng thời đánh hai cụm quân ở nam, bắc Đồng Rùm. Sau gần ba giờ chiến đấu, ta đánh thiệt hại nặng Sở Chỉ huy Lữ đoàn 3, 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn tăng – thiết giáp, 1 tiểu đoàn pháo binh, tiêu hao một tiểu đoàn bộ binh, phá hủy 84 xe tăng, xe thiết giáp, bắn rơi 12 máy bay, thu nhiều vũ khí, đạn dược. 185. Vì sao ngày 19-3 hằng năm trở thành ngày truyền thống của bộ đội đặc công? Ngày 19-3-1967, thành lập Binh chủng đặc công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ “Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh sự đặc biệt, cần phải cố gắng đặc biệt…” (1). Lực lượng trực thuộc Bộ Tư lệnh gồm: chín tiểu đoàn (phiên hiệu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 10, 20), ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và Trường bổ túc cán bộ đặc công (thành lập ngày 20-7-1967). Tư lệnh: Đại tá Nguyễn Chí Điềm. Chính ủy: Thượng tá Vũ Chí Đạo. Vì thế, ngày 19-3 trở thành ngày truyền thống của bộ đội đặc công. (1). 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr. 271. 186. Các Binh chủng rađa, tên lửa, không quân được thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy của các binh chủng đó khi mới thành lập? Ngày 24-3-1967, thành lập các Binh chủng rađa, tên lửa, không quân thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân (Quyết định số 04/ QĐ – QP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng). - Binh chủng rađa (phiên hiệu Sư đoàn 373) gồm bốn trung đoàn (37 đại đội). Quyền Tư lệnh: Lương Hữu Sắt; quyền Chính ủy: Hoàng Văn Ngữ. - Binh chủng tên lửa (phiên hiệu Sư đoàn 369) gồm 10 trung đoàn. Tư lệnh: Đoàn Huyên; Chính ủy: Trương Công Cẩn. - Binh chủng không quân (phiên hiệu Sư đoàn tiêm kích 371) gồm hai trng đoàn không quân tiêm kích, một trung đoàn không quân vận tải, phụ trách bảy sân bay (Nội Bài, Gia Lâm, Kép, Hòa Lạc, Kiến An, Thọ Xuân, Vinh). Tư lệnh: Nguyễn Văn Tiên; Chính ủy: Phan Khắc Hy. 187. Đơn vị nữ dân quân đầu tiên trên miền Bắc bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng bộ binh? Đó là trung đội nữ dân quân xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ngày 16-6-1967, chỉ bằng 27 viên đạn súng bộ binh trung đội này đã bắn rơi một máy bay phản lực Mỹ. 188. Chiếc máy bay B52 đầu tiên của Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc? Ngày 17-9-1967, tại trận địa T5 Nông trường Quyết Thắng, Tiểu đoàn 84, Trung đoàn tên lửa 238 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Phúc bắn rời chiếc B52 đầu tiên trên vùng trời Vĩnh Linh. Ngày 20-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh (số100/LCT) thưởng Huân chương Quân công hạng hai cho Tiểu đoàn 84 và gửi thư khen quân, dân Khu IV lần đầu tiên bắn rơi máy bay B52 của Mỹ trên miền Bắc. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 08 Tháng Mười Hai, 2007, 11:15:41 pm 189. Với chiến công gì mà Trung đội lão dân quân xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa được Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng huân chương và gửi thư khen?
Ngày 14-10-1967, Trung đội lão dân quân xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa dùng súng bộ binh bắn rơi chiếc máy bay thứ 2.400 của Mỹ trên miền Bắc. Ngày 17-10, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh thưởng Huân chương Quân công hạng ba cho Trung đội lão dân quân xã Hoằng Trường và gửi thư khen các cụ “Tuổi cao chí càng cao”, nêu gương sang cho đồng bào cả nước. 189. Với chiến công gì mà Trung đội lão dân quân xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa được Chủ tịch Hồ Chí Minh thưởng huân chương và gửi thư khen? Ngày 14-10-1967, Trung đội lão dân quân xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa dùng súng bộ binh bắn rơi chiếc máy bay thứ 2.400 của Mỹ trên miền Bắc. Ngày 17-10, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh thưởng Huân chương Quân công hạng ba cho Trung đội lão dân quân xã Hoằng Trường và gửi thư khen các cụ “Tuổi cao chí càng cao”, nêu gương sang cho đồng bào cả nước. 190. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Lộc Ninh? Chiến dịch Lộc Ninh diễn ra từ ngày 27-10 đến 5-12-1967. Đây là chiến dịch tiến công của Quân giải phóng miền đông Nam Bộ vào một bộ phận quân Mỹ ở Lộc Ninh – Bù Đốp (tỉnh Phước Long), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, phối hợp với chiến trường toàn miền, tạo điều kiện cho các đơn vị, các địa phương tiếp tục công tác chuẩn bị, đồng thời thực tập và rút kinh nghiệm đánh vào thành phố…Lực lượng ta gồm hai sư đoàn bộ binh (5 và 7), trung đoàn bộ binh độc lập, một bộ phận Sư đoàn pháo binh 69, Trung đoàn công binh của chủ lực Miền. Lực lượng địch: quân Mỹ có Sư đoàn bộ binh 1, hai chi đoàn thiết giáp; quân ngụy Sài Gòn có Sư đoàn bộ binh 5, một trung đoàn pháo binh, một chi đoàn tăng – thiết giáp. Ngoài hỏa lực pháo binh, địch còn được máy bay chi viện (150 lần chiếc một ngày). Trong chiến dịch, ta đánh 55 trận, trong đó có 2 trận quy mô sư đoàn, 7 trận trung đoàn, 17 trận tiểu đoàn; áp dụng nhiều hình thức chiến thuật: tập kích (14 trận), phục kích (16 trận), ,đánh công sự vững chắc (4 trận). Trận Bù Đốp là trận then chốt quyết định. Kết quả: ta đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn và 2 đại đội bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh và một đại đội cơ giới Mỹ; 3 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn và 1 đại đội pháo binh, 2 chi đội tăng – thiết giáp quân ngụy Sài Gòn; diệt 5.400 tên, bắt 617 tên, phá 103 xe quân sự, 63 khẩu pháo cối, 4 kho xăng, đạn, thu 172 súng các loại; tạo được bàn đạp tiến công ở phía bắc Sài Gòn, đánh dấu bước phát triển mới về trình độ đánh tập trung của bộ đội chủ lực Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. 191. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả chiến dịch Đắc Tô I? Chiến dịch Đắc Tô (bắc Kon Tum) diễn ra từ ngày 3 đến ngày 22-11-1967. Lực lượng tham gia: Sư đoàn bộ binh 1 (thiếu) chủ lực Tây Nguyên, các trung đoàn 24, 33, 95, Tiểu đoàn bộ binh 6 độc lập và Trung đoàn pháo binh 40 thuộc mặt trận Tây Nguyên. Sau 20 ngày đêm chiến đấu, bộ đội ta đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu 4.090 tên địch, phá hủy 32 xe quân sự và 38 máy bay các loại. 192. Trấn đánh nào được coi là trận then chốt kết thúc chiến dịch Đắc Tô I đánh dấu bước phát triển tương đối hoàn chỉnh của chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt của Quân giải phóng trong tác chiến với quân Mỹ ở rừng núi? Đó là trận đánh điểm cao 875 (ngày 19-11-1967). Đây là trận vận động tiến công kết hợp chốt của Tiểu đoàn bộ binh 2 tăng cường (Trung đoàn bộ binh 174), Quân giải phóng Tây Nguyên, đánh vào Tiểu đoàn 2 tăng cường (Lữ đoàn dù 173 Mỹ). Ta dung điểm chốt khống chế, thu hút quân địch, tạo thế trận và thời cơ cho lực lượng vận động tiến công vào bên sườn và phía sau, bao vây và tiêu diệt địch. Ngày 17 và 18, địch tiến công nhiều đợt vào trận địa chốt của Đại đội 7 (Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 174) ở cao điểm điểm cao 875 nhưng đều bị đánh lui. 14 giờ ngày 19, Tiểu đoàn 2 vận động tiến công kết hợp với tác chiến của chốt sau bốn giờ chiến đấu ta diệt gần hết Tiểu đoàn 2 của địch. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 08 Tháng Mười Hai, 2007, 11:20:35 pm 193. Trận thắng nào góp phần đánh bại chiến thuật trực thăng vận của Mỹ?
Đó là trận Phú Sơn (ngày 22 và 23-11-1967). Đây là trận phục kích quân Mỹ đổ bộ bằng máy bay trực thăng ở Phú Sơn (Bình Thuận) do hai Tiểu đoàn bộ binh 840 và 842 (Quân khu VI) tiến hành. Ngày 22-11, Mỹ đổ quân xuống khu vực Tiểu đoàn 840 và 842. Dựa vào trận địa chuẩn bị sẵn, ta từ nhiều phía đánh địch ngay khi chúng vừa tiếp đất. Sau một ngày chiến đấu, ta tiêu diệt một tiểu đoàn Mỹ, bắn rơi tám máy bay trực thăng. Ngày 23-11, Mỹ lại đổ quân vào trận địa bố trí sẵn của ta, bị diệt gọn một đại đội và bốn máy bay trực thăng 194. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả chiến dịch giải phóng Nậm Bạc (Thượng Lào)? Từ ngày 12 đến ngày 27-1-1968, liên quân Lào – Việt mở chiến dịch giải phóng Nậm Bạc (Thượng Lào). Quân tình nguyện Việt Nam có Sư đoàn bộ binh 316 (thiếu), hai Trung đoàn bộ binh 5 và 7, ba tiểu đoàn súng cao xạ, một tiểu đoàn pháo binh ĐKB, một tiểu đoàn đặc công, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn không quân, một tiểu đoàn thông tin và một số đơn vị bảo đảm, phục vụ khác. Bộ đội Pathét Lào có Tiểu đoàn bộ binh 409 và lực lượng vũ trang địa phương. Bộ Chỉ huy chiến dịch về phía Việt Nam có các đồng chí Vũ Lập – Tư lệnh; Huỳnh Đắc Hương – Chính ủy. Kết quả: bộ đội tình nguyện hỗ trợ bộ đội Pathét Lào loại khỏi vòng chiến đấu 3.189 tên, diệt 6 tiểu đoàn, đánh thiệt hại 5 tiểu đoàn khác, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, giải phóng khu vực Nậm Bạc với hơn một vạn dân. 195. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh? Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh diễn ra từ ngày 20-1 đến ngày 15-7-1968. Lực lượng tham gia trong quá trình diễn biến chiến dịch: năm sư đoàn bộ binh (304, 308, 320, 324, 325), hai trung đoàn bộ binh (Vĩnh Linh, Quảng Trị), năm trung đoàn pháo binh (84, 45 pháo phản lực ĐKB, 164, 204, 675 pháo xe kéo), một tiểu đoàn pháo phản lực BM.14, ba trung đoàn pháo phòng không (228, 208, 244), hai tiểu đoàn (thiếu) thiết giáp, một trung đoàn và một tiểu đoàn công binh, sáu tiểu đoàn vận tải và một số đơn vị đảm bảo, phục vụ khác. Trong quá trình chiến dịch, Bộ điều Sư đoàn 325 (giữa tháng 2), phần lớn Sư đoàn 324 đi chiển trường khác, điều Sư đoàn 308, Trung đoàn 246 tham gia chiến dịch. Bộ huy chiến dịch: Trần Quý Hai – Tư lệnh; Lê Quang Đạo – Chính ủy; Cao Văn Khánh – Tham mưu trưởng. Sau 170 ngày đêm tiến công, vây hãm và đánh quân địch rút chạy, ta đã tiêu diệt và làm bị thương 17.000 tên địch (có 13.000 tên Mỹ), bắn rơi và phá hủy 480 máy bay, 120 xe quân sự, 65 đại bác, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa với hơn 1 vạn dân. Ta đã thu hút và kìm giữ một lực lượng lớn quân địch ở Khe Sanh (lúc cao nhất là 32 tiểu đoàn Mỹ, tức là một phần tư lực lượng chiến đấu của Mỹ trên chiến trường) tạo điều kiện và phối hợp với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam Mậu Thân 1968. 196. Sư đoàn phòng không 375 được thành lập thời gian nào? Biên chế tổ chức của sư đoàn khi mới thành lập? Cuối tháng 1-1968, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Sư đoàn phòng không 375 ở nam sông Gianh thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu IV. Biên chế: ba Trung đoàn pháo cao xạ 214, 218, 282, Trung đoàn tên lửa 238 và Tiểu đoàn pháo cao xạ 14 Nguyễn Viết Xuân. Tư lệnh : Hoàng Văn Khánh. Chính ủy: Trần Sinh. 197. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968? Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân diễn ra từ ngày 30-1 đến ngày 31-3-1968, ở nhiều thành phố, thị xã, thị trấn miền Nam. Ở Huế, ta làm chủ thành phố 25 ngày, thành lập chính quyền cách mạng. Ở Sài Gòn – Gia Định, đặc công biệt động tiến công đồng loạt các cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy như Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Tổng thống, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha Cảnh sát, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất… Các lực lượng vũ trang trên toàn miền đông đồng loạt tiến công nhiều sở chỉ huy quân đoàn, sư đoàn, tiểu khu, chi khu quân sự ngụy, 45 sân bay, nhiều tổng kho, bến tàu, căn cứ hải quân… Nhân dân nhiều vùng nông thôn và đô thị nổi dậy diệt ác, trừ gian, giải tán dân vệ, phá vỡ hàng loạt “ấp chiến lược”, giành quyền làm chủ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giành được thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã diệt và làm tan rã 147.000 tên địch (có 43.000 tên Mỹ), phá hủy 34% vật tư dự trữ chiến tranh của Mỹ ở miền Nam, phá hủy 4.200 (trong số 5.400) “ấp chiến lược”, giải phóng thêm 1,4 triệu dân (1). Đây là đòn quyết định làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, đánh bại ý chí xâm lược của chúng, buộc Mỹ phải “xuống thang chiến tranh”, tạo ra bước ngoặt mở đầu thời kỳ đi xuống về chiến lược của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. (1). Những số liệu này các tài liệu ghi không giống nhau. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 12 Tháng Mười Hai, 2007, 04:51:14 am 198. Bộ Tư lệnh thông tin liên lạc thành lập khi nào? Nhiệm vụ được giao khi mới thành lập?
Bộ Tư lệnh thông tin liên lạc thành lập ngày 31-3-1968. Nhiệm vụ: chỉ đạo xây dựng, tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc, kỹ thuật thông tin đối với các đơn vị thông tin toàn quân và trực tiếp chỉ huy các đơn vị thông tin binh chủng. Tư lệnh: Tạ Đình Hiểu. Chính ủy: Lê Cư. 199. Trận đánh hiệp đồng binh chủng đầu tiên của bộ đội ta trên chiến trường miền Nam là trận đánh nào? Nêu diễn biến và kết quả trận đánh? Đó là trận Làng Vây. Trong hai ngày 6 và 7-2-1968. Trung đoàn bộ binh 24 (Sư đoàn 304) được tăng cường Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 101 (Sư đoàn 325), Tiểu đoàn 2 lựu pháo (Trung đoàn 675), hai Tiểu đoàn công binh (Trung đoàn 7), hai Đại đội 3 và 6 (Tiểu đoàn thiết giáp 198) và một số đơn vị binh chủng tiến công cứ điểm Làng Vây trên tuyến phòng thủ Đường 9 – Khe Sanh của Mỹ - ngụy. Lần đầu trên chiến trường miền Nam, bộ đội ta đánh hiệp đồng binh chủng (có xe tăng tham gia) diệt một tiểu đoàn địch trong công sự vững chắc. 200. Trận đánh điển hình về tiêu diệt lớn bộ binh cơ giới Mỹ? Đó là trận Mỹ Hạnh (ngày 9-5-1968). Đây là trận tập kích của Tiểu đoàn bộ binh 6 (Trung đoàn 2, Sư đoàn 9) được tăng cường một trung đội bộ đội địa phương, 5 súng máy phòng không 12,7 ly, 2 ĐKZ 75ly, 3 cối 82ly Quân giải phóng miền đông Nam Bộ vào cụm quân Mỹ ở cánh đồng xóm Giồng Lớn, xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, nhằm phá vành đai phòng ngự bảo vệ Sài Gòn, hỗ trợ cho lực lượng chủ yếu của ta tiến công bên trong. Quân Mỹ ở Giồng Lớn gồm một tiểu đoàn bộ binh cơ giới (100 xe tăng, thiết giáp), phòng ngự trên khu vực dài 350m, rộng 250m, bố trí thành từng cụm có công sự, hàng rào dây thép gai, 0 giờ 30 phút ngày 9-5 ta bắn pháo chuẩn bị 5 phút, sau đó bộ binh từ ba hướng đột phá. Địch rối loạn, khoảng 2 giờ sau ta làm chủ trận địa, phá hủy 66 xe tăng, xe thiết giáp, 12 cối 106,7ly, loại khỏi vòng chiến đấu 300 quân Mỹ, bắn rơi 7 máy bay trực thăng. 30 xe quân sự của địch chạy về Bà Quẹo (Sài Gòn) bị du kích Mỹ Hạnh và Tiểu đoàn bộ binh 5 diệt nốt. 201. Phiên họp đầu tiên của Hội nghị Pari trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Phiên họp đầu tiên giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Hoa Kỳ diễn ra tại Pari vào ngày 13-5-1968. 202. Sư đoàn phòng không 377 thành lập thời gian nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn phòng không 377 thành lập ngày 27-5-1968 (Quyết định số 53/QĐ – QP). Biên chế: ba Trung đoàn pháo cao xạ 224, 233, 256 và hai Trung đoàn tên lửa 278, 275. Tư lệnh: Nguyễn Quang Bích. Chính ủy: Lê Tư. 203. Mười nữ thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc hy sinh vào thời gian nào? Tiểu đội nữ thanh niên xung phong (10 người) do Võ Thị Tần chỉ huy anh dũng hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) trong khi làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông vào ngày 24-7-1968. 204. Trận đánh nào bộ đội ta lần đầu tiên thực hiện đánh bồi ở cấp trung đoàn trong chiến thuật phục kích giao thông ở miền đông Nam Bộ? Đó là trận đường 22 (ngày 25-8-1968). Đây là trận phục kích của Trung đoàn bộ binh 88 Quân giải phóng miền đông Nam Bộ ở đường lộ 22, đoạn Cầu Đá Hàng - ấp Vên Vên (Gò Dầu, Tay Ninh) nhằm cắt giao thông hỗ trợ hướng chủ yếu tiến công cứ điểm Chà Là, Chà Phí, trong chiến dịch Tây Ninh (từ ngày 17-8 đến ngày 28-9-1968). Được sự giúp đỡ của nhân dân và du kích địa phương 18 giờ ngày 24-8, Trung đoàn 88 (thiếu một tiểu đoàn) chia thành các bộ phận đánh chặn đầu, khóa đuôi, đánh chính diện, dự bị, bố trí lực lượng cách đường 400-500m (Đại đội 9 làm nhiệm vụ chủ yếu cách đường 1.200 – 1.500m). 10 giờ 30 phút ngày 25-8, đoàn xe thuộc Sư đoàn bộ binh cơ giới 25 Mỹ lọt vào trận địa phục kích, ta nổ súng đánh chặn đầu và xung phong đánh giáp lá cà diệt bộ binh, xe tăng địch sau đó trụ lại đánh địch giải tỏa bằng đường bộ và đổ bộ đường không. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu 400 quân, phá hủy 147 xe (33 M41 và M113), bắn cháy và rơi 8 máy bay trực thăng. Đây là trận chiến đấu đạt hiệu suất cao về diệt xe cơ giới. 205. Trận đánh lớn đầu tiên của bộ đội đặc công miền đông Nam Bộ? Đó là trận Đồng Dù (ngày 26-2-1969). Đây là trận tập kích bí mật của Tiểu đoàn đặc công 3 (trực thuộc Miền), Tiểu đoàn đặc công 28 (Sư đoàn bộ binh 7) và một tiểu đoàn pháo, cối hỗn hợp vào căn cứ Sư đoàn “Tia chớp nhiệt đới” của Mỹ ở Đồng Dù (Củ Chi, tây - bắc Sài Gòn 30km). Căn cứ có Sở Chỉ huy sư đoàn và Lữ đoàn 2 (6.100 quân), sân bay, trận địa pháo, bãi xe cơ giới, 7 lớp rào thép gai cao 5m, 320 lô cốt và ụ sung. Bên ngoài có 5 đại đội thám báo bảo vệ. 2 giờ 45 phút ta nổ sung, sau một giờ chiến đấu, đánh thiệt hại nặng Sở Chỉ huy sư đoàn và Lữ đoàn 2, diệt và làm bị thương 1.270 quân, phá hủy nhiều máy bay, 176 xe quân sự, 12 khẩu pháo, 4 kho bom đạn, xăng dầu và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 12 Tháng Mười Hai, 2007, 05:01:09 am 206. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả chiến dịch Long Khánh?
Chiến dịch Long Khánh (đông Nam Bộ) diễn ra từ ngày 5-5 đến ngày 20-6-1969. Lực lượng tham gia: Sư đoàn bộ binh 5 chủ lực Miền, Trung đoàn bộ binh 29 và Đại đội 1, Tiểu đoàn 24. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu hơn một nghìn tên địch, phá hủy 47 khẩu pháo, 216 xe quân sự (có 32 xe bọc thép), 79 máy bay, thu 113 súng các loại. 207. Tại sao quân Mỹ gọi A Bia là “đồi thịt băm”? Trong hai ngày 12 và 13 -5-1969, đã diễn ra trận tiến công của Trung đoàn bộ binh 8 chủ lực Quân khu Trị - Thiên vào một số đơn vị Sư đoàn không vận 101 Mỹ ở thung lũng A Sầu phía tây dãy điểm cao A Bia (giáp biên giới Việt – Lào, tây – nam Huế 50km). Trận đánh diễn ra suốt hai ngày (12-13-5). Ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 300 quân Mỹ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân ứng cứ. Vì thế quân Mỹ kinh hoàng, gọi A Bia là “đồi thịt băm”. 208. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Đắc Tô II? Chiến dịch Đắc Tô II diễn ra từ ngày 5-5 đến ngày 17-6-1969 do các Trung đoàn bộ binh 66, 28, 95 và các Tiểu đoàn bộ binh 5, 631; các Tiểu đoàn đặc công 37, 20; Trung đoàn pháo binh 40 của mặt trận Tây Nguyên tiến hành trên địa bàn khu vực Đắc Tô (phía bắc Kon Tum 40km) nhằm góp phần đánh bại biện pháp chiến lược “quét và giữ” của quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn ở vùng Tây Nguyên; hỗ trợ cho đồng bằng Khu V. Phán đoán ta mở đợt hoạt động, ngày 5-5-1969, địch đổ biệt kích và bộ binh xuống Ngọc Bơ Biêng, điểm cao 173 chuẩn bị mở cuộc hành quân “Dân quyền” vào tây – nam Plây Cần; bị ta chặn đánh và pháo kích diệt trên 100 quân. Địch huy động 6 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn biệt kích, 3 chi đoàn thiết giáp, 1 liên đoàn biệt động, hình thành hai cánh quân tiến về phía bắc Kon Tum. Cánh thứ nhất: Trung đoàn bộ binh thứ 42 và tiểu đoàn biệt kích tiến ra Plây Thông Biêng, dãy điểm cao 668 bị Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) vận động tập kích tiêu diệt gọn Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 42 và đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn biệt kích. Cánh thứ hai: liên đoàn biệt động, sau khi đến khu vực điểm cao 875, bị một lực lượng thuộc hai Trung đoàn 66 và 28 bao vây tiến công, diệt 2 tiểu đoàn. Trên các hướng phối hợp, đặc công thị xã Plây Cu, Đắc Lắc, bộ đội địa phương tỉnh, huyện tập kích nhiều vị trí địch. Kết quả ta diệt 4 tiểu đoàn, bắt 164 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Chiến dịch Đắc Tô II bước đầu vận dụng thành công nghệ thuật vận động, bao vây tiến công liên tục và phối hợp ba thứ quân để đánh bại chiến thuật di tản, co cụm, đóng chốt điểm cao của quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 22 Tháng Giêng, 2008, 09:54:12 pm 209. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch phản công giải phóng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng?
Từ ngày 25-10-1969 đến ngày 25-4-1970, Quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pathét Lào mở chiến dịch phản công giải phóng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng (chiến dịch 139). Lực lượng tham gia: hai Sư đoàn bộ binh 316, 312, Trung đoàn bộ binh 866 (hai tiểu đoàn), Trung đoàn pháo binh 16, một đại đội xe tăng, sáu tiểu đoàn đặc công, tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Nghệ An và 10 tiểu đoàn bộ đội Pathét Lào. Tham gia Bộ Chỉ huy chiến dịch, về phía Quân tình nguyện Việt Nam có các đồng chí Vũ Lập – Tư lệnh; Huỳnh Đắc Hương – Chính ủy. Sau ba đợt chiến đấu, liên quân Việt – Lào đánh thiệt hại nặng một bộ phận “lực lượng đặc biệt” của Vàng Pao gồm 13 tiểu đoàn (khoảng 7.800 tên), phá hỏng và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, mở rộng vùng giải phóng Lào, từ Bản Na đến Nậm Ngàn, gồm hai vạn dặm. Chiến thắng Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng đánh dấu bước tiến bộ mới về trình độ tổ chức chỉ huy chiến dịch và tác chiến trên địa hình rừng núi của chủ lực ta. 210. Sư đoàn vận tải 470 thành lập thời gian nào? Nhiệm vụ, biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn vận tải 470 thành lập ngày 24-4-1970 (Quyết định số 67/QĐTW của Quân ủy Trung ương) thuộc Đoàn 559. Nhiệm vụ: tải hang cho các chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Hạ Lào, đông – bắc Campuchia; phối hợp với các đơn vị chiến đấu, bảo vệ tuyến vận tái và giúp lực lượng cách mạng Campuchia xây dựng cơ sở chính trị, quân sự củng cố vùng giải phóng. Biên chế: năm binh trạm vận tải, một trung đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly. Sư đoàn trưởng: Thượng tá Nguyễn An. 211. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa chiến dịch đông – bắc Campuchia? Chiến dịch phản công đông – bắc Campuchia diễn ra từ ngày 29-4 đến ngày 30-6-1970. Lực lượng tham gia gồm bốn sư đoàn bộ binh (1, 5, 7, 9), hai trung đoàn bộ binh (24, 95) Trung đoàn pháo binh 211, ba tiểu đoàn đặc công Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đánh 11 tiểu đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn tăng – thiết giáp Mỹ, 71 tiểu đoàn bộ binh và 9 tiểu đoàn tăng – thiết giáp quân ngụy Sài Gòn và quân Lon Non ở vùng biên giới Việt Nam – Campuchia và các tỉnh đông – bắc Campuchia, nhằm giúp cách mạng Campuchia, đồng thời bảo vệ sườn phía tây căn cứ địa hậu phương trực tiếp của miền Nam Việt Nam. Ngày 29-4, mười vạn quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn tiến công xâm lược Campuchia trên toàn tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia. Quân đoàn 3 quân ngụy Sài Gòn và 2 sư đoàn Mỹ tiến công trên hướng chủ yếu (đường 7 và 13). Phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, Quân giả phóng miền Nam Việt Nam đã thực hành phản công và tiến công. Sư đoàn 5 và một số đơn vị Quân khu V giải phóng Stung Treng, Cratie, Mônđun Kiri. Sư đoàn 1 và một số đơn vị Quân khu IX giải phóng Tà Ni, Túc Mía, Công Pông Trách, Kép vùng nông thôn nam – bắc đường số 5, cắt đường số 4. Trung đoàn pháo binh 211 cùng đặc công đánh chặn tàu địch trên song Mê Công (đoạn Công Pông Chàm – Phnôm Pênh). Sư đoàn 9 và Quân giải phóng Campuchia giải phóng nhiều vùng nông thôn trong khu vực Svây Riêng, Prây Veng; tập kích quân địch trên các trục đường 1, 22, 15. Sư đoàn 7 và một số đơn vị khác đánh bại cuộc hành quân Sumecơ của 28 tiểu đoàn Mỹ và quân ngụy Sài Gòn ở Công Pông Chàm. Sau hai tháng chiến đấu Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt và làm tan rã 42 tiểu đoàn (2 tiểu đoàn Mỹ, 15 tiểu đoàn quân ngụy Sài Gòn, 25 tiểu đoàn Lon Non) gồm 8.300 quân, bắn rơi, phá hủy 430 máy bay, phá 280 xe quân sự, 180 pháo cối…, bảo vệ được căn cứ địa của cách mạng miền nam Việt Nam; giải phóng năm tỉnh ở đông – bắc Campuchia tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền cách mạng ra đời ở nhiều phum sóc và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia từ 10 đội du kích lên 9 tiểu đoàn, hàng chục đại đội tập trung và hàng trăm đại độ du kích. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 22 Tháng Giêng, 2008, 09:57:45 pm 212. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào?
Chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của Mỹ - ngụy diễn ra từ ngày 30-1 đến ngày 23-3-1971. Tham gia chiến dịch: năm sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324 , 2), hai trung đoàn bộ binh (27, 278), tám trung đoàn pháo binh, bat rung đoàn công binh, ba tiểu đoàn xe tăng, sáu trung đoàn phòng không, tám tiểu đoàn đặc công, các đơn vị binh chủng khác và lực lượng hậu cần, vận tải của Đoàn 559, Tổng cục Hậu cần. Số quân chiến đấu và phục vụ chiến đấu lên tới 60.000 cán bộ, chiến sĩ. Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng là đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tại mặt trận. Bộ Chỉ huy chiến dịch (mật danh là mặt trận 702) do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn – Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo – Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy. Lực lượng địch lúc cao nhất có 15 trung đoàn bộ binh ( ba sư đoàn dù, thủy quân lục chiến, bộ binh số 1), hai trung đoàn thiết giáp (460 xe), 21 tiểu đoàn pháo binh (250 khẩu), 700 máy bay (có 300 trực thăng), bốn tiểu đoàn quân ngụy Lào gồm trên 42.000 quân (có 9.000 quân Mỹ). Đây là cuộc hành quân lớn nhất, điển hình của chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh”. Sau hơn một tháng phản công, trong đó có nhiều trận đánh ác liệt giữa Binh đoàn 70 với quân chủ lực cơ động ngụy ở bắc Đường 9 (tập kích điểm cao 655, vây lấn điểm cao 500, 543…) đầu tháng 3-1971, bộ đội ta chuyển sang tiến công trên toàn mặt trận, bao vây, truy kích tập đoàn lớn quân địch ở Bản Đông, tiêu diệt quân địch ở các điểm cao 273, 660, 550….. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu trên hai vạn quân địch. Tính theo đơn vị: đánh thiệt hại nặng 6 trung đoàn, lữ đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, phá hủy 1.100 xe (có 528 xe tăng, bọc thép), hơn 100 khẩu pháo lớn, bắn rơi 550 máy bay. Ta bắt hơn 1.000 tù binh, thu trên 3.000 khẩu súng các loại và nhiều trang bị quân sự, quân ngụy Sài Gòn bị một đòn tiêu diệt nặng. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân đội ta thực hành thắng lợi một chiến dịch phản công quy mô lớn bằng các lực lượng binh chủng hợp thành, đánh tiêu diệt quân chủ lực ngụy được quân Mỹ chi viện hỏa lực và cơ động. Lực lượng tham gia chiến dịch được Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư khen (ngày 31-3-1971): “Đánh giỏi, thắng giòn giã, lập công xuất sắc”. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 02 Tháng Ba, 2008, 04:07:23 pm 213. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1.71.”?
Chiến dịch phản công của bộ đội chủ lực Miền đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1.71” của Mỹ và quân ngụy Sài Gòn ở đông – bắc Campuchia diễn ra từ ngày 4-2 đến ngày 24-6-1971. chiến dịch do Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền chỉ huy. Lực lượng tham gia gồm ba sư đoàn bộ binh (3, 7, 9) và Trung đoàn pháo binh 28 chủ lực Miền (Đoàn 301), các đơn vị bộ binh và binh chủng của quân khu và các tỉnh trên địa bàn chiến dịch. Quân ngụy huy động toàn bộ lực lượng cơ động của Quân đoàn 3 (ba sư đoàn bộ binh, một lien đoàn biệt động quân, năm thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép…) được 15 phi đoàn không quân Mỹ yểm trợ. Kết quả: ta loại khỏi vòng chiến đấu hai vạn tên địch, bắt 700 tên, đánh thiệt hại nặng một trung đoàn thiết giáp, 6 chiến đoàn bộ binh, phá hủy 1.500xe (369 xe tăng, xe bọc thép), 160 khẩu pháo, bắn rơi 200 máy bay. Quân ngụy Sài Gòn bị một đòn tiêu diệt nặng,các mục tiêu của cuộc hành quân bị thất bại. Bộ đội chủ lực miền có bước tiến rõ rệt về trình độ đánh tập trung cấp sư đoàn. 214. Trận đánh nào chứng minh khả năng tiến công ban ngày và liên tục của Quân giải phóng Tây Nguyên vào cứ điểm địch có công sự vững chắc? Đó là trận Ngọc Rinh Rua (ngày 31-3-1971). Đây là trận tiến công của Tiểu đoàn bộ binh 7(Trung đoàn 66) và Đại đội đặc công 19 cùng một bộ phận Trung đoàn Pháo binh 40 Quân giải phóng Tây Nguyên vào cứ điểm Ngọc Rinh Rua (trên dãy núi có điểm cao 1001), ở tây – nam Đắc Tô, tỉnh Kon Tum) nhằm tiêu diệt Tiểu đoàn 4 (thiếu), 1 đại đội bảo an, 1 đại đội pháo binh (thiếu) quân ngụy Sài Gòn, buộc đối phương phải đổ quân tiếp viện xuống khu vực ta phục kích trong chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Quang Trung 4 (từ ngày 27-2 đến ngày 16-4-1971). Do địch lợi thế hỏa lực máy bay, pháo binh, trận đánh phải kéo dài từ 5 giờ đến 16 giờ. Kết quả, ta làm chủ cứ điểm, diệt 72, bắt 36 quân, thu 95 súng các loại (có 4 pháo 150 ly [105 ly?]), bắn cháy 5 máy bay trực thăng. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 02 Tháng Ba, 2008, 04:26:37 pm 215. Hội nghị Quân ủy Trung ương họp tháng 6-1971 để nghiên cứu, thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị đã xác định quyết tâm chiến lược năm 1972 của ta như thế nào?
Tháng 6 -1971, Hội nghị Quân ủy Trung ương nghiên cứu, thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị về phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương đã xác định quyết tâm chiến lược năm 1972 của ta là “tập trung mọi cố gắng, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng miền Nam Việt Nam là chiến trường chính và khắp cả chiến trường Đông Dương”,,,,” phối hợp đòn chủ lực mạnh ở rừng núi, phong trào tiến công nổi dậy mạnh ở đồng bằng, phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang mạnh ở đô thị, tiến công mạnh vào ba chỗ dựa của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tạo nên một cục diện mới có lợi cho ta trong trường hợp ngừng bắn, tạo điều kiện để đưa phong trào cách mạng tiến lên một cách vững chắc trong tình hình mới” (1). (1). 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, tr 317. 216. Nội dung chính trong Nghị quyết về kế hoạch tiến công chiến lược năm 1972 do Thường vụ Quân ủy Trung ương thông qua ngày 11-3-1972? Nội dung chính trong kế hoạch đó là “Trị Thiên từ vị trí là hướng phối hợp quan trọng, nay chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu nhằm tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới”. Các chiến trường miền đông Nam Bộ, Tây Nguyên cung với khu V đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn để tạo thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam và sẵn sàng đưa một sư đoàn chủ lực xuống đồng bằng khi có thời cơ. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 02 Tháng Ba, 2008, 04:36:38 pm 217. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch bắc Tây Nguyên?
Chiến dịch bắc Tây Nguyên diễn ra từ ngày 30-3 đến ngày 5-6-1972. Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo. Chính ủy: Trương Chí Công - Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Lực lượng tham gia: hai sư đoàn (320A và 2), bốn trung đoàn bộ binh (24, 28, 95, 66), hai trung đoàn pháo binh (40, 675), Trung đoàn pháo cao xạ 234, hai tiểu đoàn xe tăng và một số đơn vị binh chủng. Từ ngày 30-3 đến ngày 24-4, bộ đội ta tiến công địch ở tây sông Pô Cô, bắc Võ Định, các điểm cao 1015 ,1049, đập vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài: tiếp đó mở đợt tiến công tiên diệt căn cứ 42, căn cứ Đắc Tô. Lần đầu tiên bộ đội ta diệt một sư đoàn (thiếu) trên tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở chiến trường bắc Tây Nguyên. Từ ngày 25-4 đến 5-6, ta tập trung lực lượng tiến công địch ở thị xã Kon Tum, cắt đường số 4, đánh địch phản kích. Do mùa mưa đã đến, việc cơ động lực lượng và chuẩn bị vật chất, binh khí kỹ thuật gặp nhiều khó khăn, ta không chiếm được thị xã Kon Tum. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 08 Tháng Ba, 2008, 07:00:44 pm 218. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch tiến công Trị - Thiên?
Chiến dịch tiến công Trị - Thiên diễn ra từ ngày 30-3 đến ngày 27-6-1972. Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn. Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo. Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 324) và hai trung đoàn độc lập, hai sư đoàn phòng không hỗn hợp (367, 377) gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, hai trung đoàn tên lửa, chín trung trung đoàn pháo mặt đất, hai trung đoàn tăng – thiết giáp, hai trung đoàn công binh và 16 tiểu đoàn đặc công, thông tin, vận tải. Từ ngày 30-3 đến ngày 5-4, ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, buộc địch phải rút khỏi tuyến phòng thủ đường số 9. Từ ngày 10-4 đến ngày 2-5, bộ đội ta tiếp tục thọc sâu, chia cắt, diệt từng tập đoàn quân địch phòng ngự ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị. Từ ngày 3-5 đến ngày 27-6, các đơn vị củng cố vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích. Sau gần ba tháng chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 27.000 tên địch, phá hủy 636 xe tăng, xe thiết giáp, 1.870 xe quân sự Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 16 Tháng Ba, 2008, 04:22:16 pm 219. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch tiến công “Nguyễn Huệ”?
Chiến dịch tiến công “Nguyễn Huệ” (đông Nam Bộ) diễn ra từ ngày 31-3-1972 đến ngày 28-1-1973. Tư lệnh: Trung tướng Trần Văn Trà. Chính ủy: Thiếu tướng Trần Độ. Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (5, 7, 9), ba trung đoàn bộ binh độc lập, một trung đoàn và hai tiểu đoàn đặc công, một trung đoàn pháo cao xạ, bat rung đoàn pháo binh (Đoàn 75 chủ lực Miền), một trung đoàn thiết giáp và lực lượng vũ trang địa phương. Sau trận đánh mở đầu diệt cứ điểm Xa Mát, Bàu Dưng trên đường số 22, ngày 25-4, Sư đoàn 5 và Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) có hai đại đội xe tăng và pháo binh chi viện đánh chiếm chi khu quân sự Lộc Ninh. Đây là trận đánh thắng lớn, tiêu diệt chiến đoàn địch phòng ngự trong công sự vững chắc, đánh dấu bước tiến mới về trình độ tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng của bộ đội chủ lực Miền. Ngày 13-4, Sư đoàn 9 có một đại đội xe tăng phối hợp tiến công thị xã Bình Long. Quân địch phản kích quyết liệt. Trong các đợt chiến đấu (từ các ngày 16-5 đến ngày 30-9 và từ ngày 1-10-1972 đến ngỳa 28-1-1973), quân ta tiếp tục bao vây thị xã Bình Long, chốt chặn trên đường số 13 và đánh địch phản kích trên các hướng, hỗ trợ các lực lượng vũ trang địa phương đánh phá “bình định”. Sau gần 10 tháng chiến đấu, ta diệt và đánh thiệt hại nặng 5 chiến đoàn, 7 trung đoàn, 16 tiểu đoàn bộ, 3 trung đoàn thiết giáp, 13 đại đội pháo binh, loại khỏi vòng chiến đấu 7.896 tên, bắn rơi và phá hủy 897 máy bay, bắn chìm 20 tàu xuồng, phá hủy và phá hỏng 1.881 xe quân sự, thu 282 xe (có 12 xe tăng), 6.637 súng các loại và nhiều phương tiện chiến tranh. Vùng giải phóng miền đông Nam Bộ được mở rộng, nối liền với vùng giải phóng đông – bắc Campuchia, Tây Nguyên và hậu phương lớn miền Bắc, tạo thế vững chắc cho bộ đội chủ lực Miền phát triển tiến công những năm sau này. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 16 Tháng Ba, 2008, 04:56:20 pm 220. Tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Lainơbếchcơ I?
Chiến dịch Lainơbếchcơ I diễn ra từ ngày 6-4 đến ngày 20-10-1972. Đây là chiến dịch đánh phá, ngăn chặn và phong tỏa của không quân và hải quân Mỹ đối với miền Bắc Việt Nam nhằm cắt đứt nguồn viện trợ quốc tế cho Việt Nam, nguồn chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, ngăn chặn cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam, đánh vào ý chí của lãnh đạo và nhân dân ta, cứu vãn sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Chiến dịch chia thành hai bước. Bước I (từ ngày 6-4 đến ngày 8-5) leo thang nhanh, đánh phá ồ ạt bằng không quân và hải quân. Bước II (từ ngày 9-5 đến ngày 22-10), phong tỏa toàn bộ các cảng, cửa sông vùng ven biển miền Bắc băng thủy lôi, bom từ trường, kết hợp với đánh phá bằng không quân, hải quân. Trong chiến dịch, Mỹ đã huy động số lượng lớn vũ khí kỹ thuật hiện đại (máy bay chiến lược B52, pháo hạm, bom lade, thủy lôi MK52… với 44.000 phi vụ, ném 137.000 tấn bom) gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất. Quân và dân miền Bắc đã đánh trả quyết liệt, bắn rơi 670 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 135 tàu chiến, phá, gỡ hàng trăm thủy lôi, bom từ trường, bảo vệ được miền Bắc, duy trì việc tiếp nhận viện trợ quốc tế, đẩy mạnh chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, phát triển thắng lợi cuộc tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam. Bị tổn thất lớn và không đạt được mục tiêu, ngày 22-10-1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn buộc phải tuyên bố ngừng nem bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấm dứt chiến dịch. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 16 Tháng Ba, 2008, 05:14:44 pm 221. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch tiến công tổng hợp bắc Bình Định?
Chiến dịch tiến công tổng hợp bắc Bình Định diễn ra từ ngày 9-4 đến ngày 2-6-1972. Tư lệnh: Thiếu tướng Chuy Huy Mân. Chính ủy: Võ Chí Công. Lực lượng tham gia: Sư đoàn bộ binh 3, hai tiểu đoàn đặc công, lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị quần chúng. Sau trận mở đầu diệt cứ điểm Gò Lôi, ngày 18-4, hai Trung đoàn 2 và 21B (Sư đoàn 3) bao vây và tiến công Trung đoàn 42 ngụy, giải phóng huyện Hoài Ân. Từ ngày 24-4 đến ngày 1-5, Sư đoàn 3 vây lấn, diệt hai căn cứ Bình Dương (huyện Phù Mỹ) và Đệ Đức (huyện Hoài Nhơn). Phối hợp với đòn tiến công quân sự, hàng vạn quần chúng ở các xã ấp đã cùng du kích bao vây, bức rút hơn 100 đồn bốt bảo an. Sau gần hai tháng chiến đấu, ta diệt và làm tan rã 13.000 tên địch (bắt 4.000 tên), giải phóng hai huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và một phần Phù Mỹ. Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi Sư đoàn 3 và lực lượng vũ trang Bình Định: “Phát huy sức mạnh tổng hợp, liên tục tiến công, đánh giỏi thắng lớn”. 222. Biên đội không quân nào đã bắn bị thương chiếc tàu khu trục Mỹ trên vùng biển miền Bắc ngày 19-4-1972? Đó là biên đội Mig-17 gồm Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy thuộc Trung đoàn không quân 923. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 17 Tháng Ba, 2008, 04:26:41 pm 223. Trận đánh nào mở ra khả năng đánh tiêu diệt lớn của Quân giải phóng Tây Nguyên?
Đó là trận Đắc Tô – Tân Cảnh (ngày 24-4-1972). Đây là trận đánh công sự vững chắc của Sư đoàn bộ binh 2 (thiếu), được tăng cường Trung đoàn bộ binh 66, Tiểu đoàn đặc công 37 và một bộ phận pháo binh, pháo phòng không, xe tăng Quân giải phóng Tây Nguyên vào căn cứ quân sự của quân ngụy Sài Gòn ở Đắc Tô – Tân Cảnh (nơi có trung tâm chỉ huy tập đoàn phòng ngự phía bắc tỉnh Kon Tum. Lực lượng địch gồm: Sở Chỉ huy nhẹ Sư đoàn 22, khu cố vấn Mỹ, các Trung đoàn 42, 47, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 41, Thiết đoàn 14 kỵ binh, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn bảo an, Tiểu đoàn dù 9… Đến 4 giờ 30 phút, trận đánh bắt đầu. Ở Tân Cảnh, sau khi pháo bắn chuẩn bị, mở cửa, bộ binh và xe tăng ta lần lượt đánh chiếm các mục tiêu bên trong, bắn chết đại tá sư đoàn trưởng và đại tá cố vấn Mỹ, bắt sống đại tá sư đoàn phó và trung tá cố vấn Mỹ, làm chủ hoàn toàn căn cứ lúc 11 giờ. Ở Đắc Tô, 8 giờ Trung đoàn 1 (Sư đoàn 2) được tăng cường 1 trung đội xe tăng và 1 xe pháo tự hành phòng không 57 ly tiến công Trung đoàn 47; địch bỏ căn cứ rút chạy, bị ta truy kích, diệt và bẳt gọn. Sau 10 giờ chiến đấu, ta tiêu diệt Sư đoàn 22 (thiếu) trong căn cứ phòng ngự mạnh của địch, bắn rơi 8 máy bay, thu 9 xe tăng, xe thiết giáp, 28 pháo 105 ly và 155 ly, 100 xe quân sự và nhiều phương tiện chiến đấu khác. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 17 Tháng Ba, 2008, 04:50:22 pm 224. Trận đánh nào thể hiện sự trưởng thành về chiến đấu hiệp đồng binh chủng của bộ đội ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước?
Đó là trận Đông Hà (ngày 27 và 28-4-1972). Đây là trận then chốt trong đợt 2 chiến dịch Trị - Thiên (từ ngày 30-3 đến ngày 27-6-1972), do Sư đoàn bộ binh 308 được tăng cường xe tăng, pháo binh, đặc công…. đảm nhiệm, nhằm tiêu diệt Trung đoàn bộ binh 57 (Sư đoàn 3), 2 liên đoàn biệt động quân (4, 5), 2 thiết đoàn (17, 20) quân ngụy Sài Gòn; giải phóng cụm cứ điểm Đông Hà – Lai Phước. Ngày 2-4 địch hoảng loạn, nhưng do lực lượng phía sau không lên kịp, ta bỏ lỡ thời cơ giải phóng Đông Hà. Từ 15 giờ ngày 8-4 đến 5 giờ ngày 9-4, ta tiến công Đông Hà lần thứ nhất nhưng không thành công vì không khác phục được chiến thuật phòng ngự cơ động và vỏ cứng bằng hàng rào xe tăng bố trí trong công sự. Từ ngày 14 đến ngày 26-4, ta tập trung hỏa lực B72, B40, B41, ĐKZ bố trí nhiều tầng áp sát Đông Hà đánh vỡ vành đai xe tăng. Ngày 27-4, pháo binh bắn 30.000 quả đạn vào các cụm quân địch ở Đông Hà, Lai Phước… Đồng thời Sư đoàn 308 đánh chiếm các điểm cao phía tây, thọc sâu vào sân bay, chi khu Đông Hà. Sáng 28-4 ở hướng nam, Trung đoàn 102 đánh ra đường 1, chiếm cầu Lai Phước, chia cắt đội hình địch; hướng tây, Trung đoàn 88 đánh chiếm Trung Chỉ, Đại Áng; hướng bắc, Trung đoàn 36 vượt song Hiếu đánh chiếm các phố trong thị trấn Đông Hà; 15 giờ ngày 28-4 ta làm chủ Đông Hà, Lai Phước. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu gần 4.000 địch, thu và phá hủy hơn 200 xe quân sự (110 xe tăng, xe bọc thép) bắn rơi 35 máy bay, giải phóng thị trấn Đông Hà, phối hợp với các hướng giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. 225. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng? Từ ngày 21-5 đến ngày 15-11-1972, Quân tình nguyện Việ Nam và bộ đội Pathét Lào tổ chức chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng. Tham gia Bộ Tư lệnh chiến dịch về phía Việt Nam có Đại tá Vũ Lập – Tư lệnh; Đại tá Lê Linh – Chính ủy. Lực lượng tham gia: Quân tình nguyện Việt Nam có Sư đoàn bộ binh 316, ba trung đoàn bộ binh 866, 335, 88 (thuộc sư đoàn 308B) và chin tiểu đoàn binh chủng (xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ, đặc công, công binh). Sau 179 ngày đêm chiến đấu, Quân tình nguyện Việt Nam đã hỗ trợ lực lượng Pathét Lào loại khỏi vòng chiến đấu 5.600 tên địch, đánh thiệt hại nặng 3 GM (22, 23, 26), ba tiểu đoàn quân Thái Lan, làm tổn thất năm GM (15, 22, 24, 30, 32), đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của quân ngụy Lào và quân Thái Lan, giữ vững địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 17 Tháng Ba, 2008, 05:10:47 pm 226. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả, ý nghĩa chiến dịch đồng bằng sông Cửu Long?
Chiến dịch đồng bằng song Cửu Long diễn ra từ ngày 10-6 đến ngày 10-9-1972. Đây là chiến dịch tiến công tổng hợp của quân và dân miền trung Nam Bộ (khu VIII), nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu bình định của địch và mở mảng, dành dân… diễn ra trên địa bàn phía nam – bắc đường số 4 gồm các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Phong, Kiến Tường, Bến Tre, Gò Công. Lực lượng địch có 2 sư đoàn bộ binh (7, 9), 1 liên đoàn biệt động quân, 1 liên đoàn đặc nhiệm hải quân, 74 khẩu pháo 155ly, 105 ly và hai trung đoàn thiết giáp cùng hệ thống lực lượng kìm kẹp từ tỉnh, quận đến xã ấp gồm 4 tiểu đoàn, 21 liên đội và 65 đại đội bảo an, 3 liên đội và 428 trung đội dân vệ, 4 đại đội và 3.600 cảnh sát cùng hàng ngàn tề điệp, ác ôn với trên 1.000 đồn bốt. Lực lượng ta gồm 2 sư đoàn bộ binh, 4 trung đoàn và 7 tiểu đoàn bộ binh độc lập, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn đặc công và 2 tiểu đoàn công binh, lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương. Chiến dịch diễn ra ba đợt: đợt 1 (từ ngày 10 đến ngày 29-6-1972), quân chủ lực ta đột phá tuyến phòng thủ biên giới Việt Nam – Campuchia, đồng thời đánh địch ở nam và bắc đường số 4, hỗ trợ nhân dân toàn vùng nổ dậy giành quyền làm chủ ở xã, ấp. Đợt 2 (từ ngày 3 đến ngày 31-7-1972), ta đánh địch phản kích nhưng chưa có trận nào thắng lớn, nhân dân trên cả địa bàn chiến dịch vẫn tiếp tục đánh phá bình định, mở mảng, mở vùng. Đợt 3 (từ ngày 6-8 đên ngày 10-9-1972), địch tổ chức phản đột kích lớn. Lực lượng chủ lực và địa phương ta bám trụ kiên cường, kiên trì đánh địch ở mọi hướng làm cho địch yếu dần, bộ máy kìm kẹp ta rã dần. Kết quả: ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 34.500 địch, đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn, 1 chiến đoàn, 1 liên đoàn, tiêu diệt 16 tiểu đoàn quân ngụy Sài Gòn, phá hủy 126 xe M113, 179 xe quân sự và 37 khẩu pháo, đánh chìm 73 tàu chiến, bắn rơi 60 máy bay, thu trên 3.000 súng, bức hàng, bức rút 356 đồn bốt, 240.000 dân ở 27 xã, 228 ấp đã giành được quyền làm chủ cùng hàng triệu quần chúng được rèn luyện trưởng thành trong đấu tranh trực diện với địch. Chiến dịch đã thể nghiệm thành công phương thức cơ bản để đánh phá bình định, giành dân, giành quyền làm chủ của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 18 Tháng Ba, 2008, 04:43:43 pm 227. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả chiến dịch phòng ngự Quảng Trị?
Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị diễn ra từ ngày 26-8-1972 đến ngày 31-1-1973. Bộ Tư lệnh chiến dịch: Thiếu tướng Trần Quý Hai – Tư lệnh; Thiếu tướng Song Hào – Chính ủy. Lực lượng tham gia: năm sư đoàn bộ binh (304, 308, 320, 325, 312), Trung đoàn 27 và Trung đoàn 6 độc lập, bat rung đoàn pháo binh (164, 45, 84), bốn trung đoàn pháo cao xạ (241, 243, 250, 280), Trung đoàn 236 tên lửa, Trung đoàn 203 thiết giáp, hai trung đoàn công binh, (229, 249), năm tiểu đoàn đặc công và lực lượng vũ trang trên địa bàn chiến dịch. Từ ngày 28-6 đến ngày 30-8, bộ đội ta tổ chức năm đợt phản kích đánh bại nhiều cuộc phản công của địch. Tuy vậy, do địch tập trung lực lượng và hỏa lực phản kích, ta bị thương vong lớn. Địch tái chiếm được thành cổ Quảng Trị. Từ ngày 1-9-1972 đến ngày 31-1-1973, ta tổ chức trận địa và tác chiến phòng ngự bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị. Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu 29.822 tên, diệt gọn 1 lữ đoàn và 12 đại đội, phá hủy 330 xe tăng, xe thiết giáp, 273 khẩu pháo, bắn rơi 169 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 20 tàu xuồng, thu 877 súng các loại. 228. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch phòng không Hà Nội – Hải Phòng? Chiến dịch phòng không Hà Nội – Hải Phòng diễn ra từ ngày 18 đến ngày 29-12-1972. Đây là chiến dịch do các lực lượng phòng không và không quân Việt Nam tiến hành đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của không quân Mỹ vào Hà Nội – Hải Phòng. Ngày 18-12, cuộc tập kích đường không của Mỹ bắt đầu. Lực lượng của ta: 6 trung đoàn tên lửa phòng không, 3 trung đoàn không quân tiêm kích, 4 trung đoàn và 8 tiểu đoàn phòng không, 356 đơn vị pháo và súng máy phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Chiến dịch bao gồm hai đợt. Đợt 1 (từ ngày 18 đến ngày 24-12), đêm 18-12 Mỹ sử dụng 129 lần chiếc máy bay B52 và trên 160 lần chiếc máy bay chiến thuật đánh phá Hà Nội, Hải Phòng. Các lực lượng phòng không, không quân ta đánh trả quyết liệt, bắn rơi 3 máy bay B52; các ngày sau bắn rơi them nhiều B52 và các loại khác. Đợt 2 (từ ngày 26 đến ngày 29-12) đến đêm 26-12 Mỹ dung 120 lần chiếc máy bay B52 đánh vào các khu đông dân cư ở Hà Nội, bị ta bắn rơi 8 chiếc. Các ngày tiếp sau còn bị bắn rơi them nhiều chiếc khác. Sau 12 ngày đêm chiến đấu, ta bắn rơi 81 máy bay (có 34 B52, 5 F111), bắt sống nhiều phi công, đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược, buộc Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại cuộc đàm phán ở Pari. Kinh nghiệm đánh thắng máy bay B52 làm phong phú them nghệ thuật chiến dịch tác chiến phòng không Việt Nam. Dư luận thế giới gọi đây là trận “ Điện Biên Phủ trên không”. 229. Ngày, tháng, năm nào Chính phủ Mỹ ra tuyên bố cam kết “chấm dứt mọi hoạt động quân sự tiến công bao gồm ném bm, bắn trọng pháo và thả mìn trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa? Đó là ngày 15-1-1973. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: daibangden trong 18 Tháng Ba, 2008, 05:02:34 pm 230. Cho biết thời gian và tên đơn vị đã bắn rơi chiếc máy bay Mỹ cuối cùng trên miền Bắc?
Ngày 17-1-1973, dân quân huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) bắn rơi một máy bay do thám. Đây là chiếc máy bay Mỹ cuối cùng bị bắn rơi trên miền Bắc. 231. Trận đánh nào được coi là trận đánh then chốt, kết thúc đợt tác chiến phòng ngự Quảng Trị? Đó là trận Cửa Việt (ngày 31-1-1973). Đây là trận phản đột kích của một số đơn vị thuộc các Sư đoàn bộ binh 304, 320, 325, và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương, Trung đoàn 126, K5 hải quân, pháo binh, xe tăng nhằm tiêu diệt lữ đoàn đặc nhiệm quân ngụy Sài gòn đột nhập lấn chiếm, khôi phục vùng giải phóng ở nam Cửa Việt, đẩy địch về vị trí được quy định trong Hiệp định Pari 1973 về Việt Nam. Bị ta chặn đánh từ ngày 28 đến ngày 30-1, địch buộc phải co lại thành bốn cụm kéo dài từ nam Cửa Việt đến Vĩnh Hòa. Sau nửa giờ bắn pháo cấp tập (6 giờ 30 phút đến 7 giờ), xe tăng và bộ binh ta đánh vào cụm quân lớn nhất của địch gần Cửa Việt. Thực hiện lối đánh gần, chia cắt địch thành từng mảng, tích cực diệt xe tăng, đến 8 giờ 30 phút hai cụm địch ở nam Cửa Việt và bắc Vĩnh Hòa bị tiêu diệt. Thừa thắng, ta tiêu diệt nốt hai cụm địch ở nam Vĩnh Hòa và bắc Thanh Hội, khôi phục toàn bộ khu vực phòng thủ cảng Cửa Việt. Sau bốn giờ chiến đấu, ta tiêu diệt lữ đoàn đặc nhiệm, loại khỏi vòng chiến đấu 2.232 tên địch, bắt 170 tên, phá hủy 113 xe tăng, xe thiết giáp, thu 13 chiếc khác, bắn rơi 5 máy bay, thu trên 300 súng các loại. Tiêu đề: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Bảy, 2009, 09:38:03 am 232. Trận đánh nào được coi là mốc quan trọng chuyển sang thế tiến công của Quân giải phóng miền Nam ở chiến trường Tây Nguyên?
Đó là trận Chư Nghé, ngày 22-9:1973. Đây là trận tiến công của Trung đoàn bộ binh 48 Sư đoàn 320 Quân giải phóng Tây Nguyên, vào căn cứ công sự vững chắc Chư Nghé (tây thị xã Plây Cu), do Tiểu đoàn biệt động quân 80 của quân ngụy Sài Gòn đóng giữ. Trận Chư Nghé được chuẩn bị chu đáo, bộ đội ta dùng mìn chống tăng phá rào đưa pháo Đ74 vào bắn ngắm trực tiếp thành công, diễn ra nhanh, gọn (từ 13 giờ đến 16 giờ 30 phút). Căn cứ Chư Nghé và toàn bộ Tiểu đoàn 80 bị diệt gọn; bắt 204 tên đích, thu 203 súng các loại. 233. Quân đoàn 1 được thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Quân đoàn 1 - Binh đoàn Quyết thắng thành lập ngày 24-10-1973 (Quyết định số 124/QĐ-QP). Biên chế: ba sư đoàn bộ binh (308, 312, 320B), Sư đoàn phòng không 367, Lữ đoàn xe tăng 202, Lữ đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299, Trung đoàn thông tin 240, các đơn vị binh chủng, phục vụ và các cơ quan. Tư lệnh. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn (Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm chức). Chính uỷ: Thiếu tướng Lê Quang Hoà (Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm chức). 234. Trận đánh nào đã góp phần đánh bại chiến thuật phòng ngự “mạng nhện co giãn” và âm mưu lấn chiếm vùng giải phóng của quân ngụy Sài Gòn? Đó là trận Com Rẫy (ngày 16 và 17 -3-1974). Đây là trận đánh công sự vững chắc của Sư đoàn bộ binh 10 (thiếu), gồm Trung đoàn 28 và Trung đoàn 24 (thiếu) Quân giải phóng Tây Nguyên vào Tiểu đoàn biệt động quân 95 ở điểm cao 800 và Tiểu đoàn biệt động quân 62 (thiếu) quân ngụy Sài Gòn ở cầu Com Rẫy. Quân ngụy Sài Gòn phòng ngự theo kiểu mạng nhện co giãn đóng phân tán nhiều điểm và thường xuyên di chuyển. Sư đoàn 10 vây ba tầng và đón lõng, dùng pháo bắn thẳng trực tiếp chi viện cho đột phá, tập trung diệt chỉ huy Tiểu đoàn 95 trước. Trận đánh bắt đầu lúc 9 giờ 30 phút ngày 16, Trung đoàn 28 được tăng cường một tiểu đoàn của Trung đoàn 24 tổ chức đột phá trận địa địch ở điểm cao 800, đồng thời dùng hai tiểu đoàn đón lõng và chặn viện, đến trưa ngày 17 đã tiêu diệt gọn Tiểu đoàn 95 (diệt 421 tên, bắt 250 tên có 2 thiếu tá chỉ huy tiểu đoàn), thu 280 súng, 25 máy thông tin vô tuyến điện. Cũng trưa ngày 17, chớp thời cơ Tiểu đoàn 62 ở Com Rẫy đang hoang mang, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 24) tiến công, sau 15 phút diệt 70 tên, bắt 25 tên, thu 51 súng, 10 máy thông tin vô tuyến điện. 235. Trận đánh nào đánh dấu bước trưởng thành về trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng của bộ đội chủ lực Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ? Đó là trận Đắc Pét (ngày 15-5-1974). Đây là trận tiến công của Trung đoàn bộ binh 66 (Sư đoàn 10), được tăng cường xe tăng, pháo binh và Trung đoàn trung đoàn bộ binh 3 (Sư đoàn 324) nhằm tiêu diệt Tiểu đoàn biệt động biên phòng 88 quân ngụy Sài Gòn được bố trí trong công sự vững chắc; giải phóng quận lỵ Đắc Pa. Sau bốn giờ đột phá chia cắt, đánh chiếm từng mục tiêu, ta diệt gọn Tiểu đoàn 88, bắt 403 tên địch (có thiếu tá tiểu đoàn trưởng cùng toàn bộ Ban Chỉ huy tiểu đoàn); giải phóng quận lỵ Đắc Pét. 236. Quân đoàn 2 thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Quân đoàn 2 - Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17-5-1974 (Quyết định số 67/QP-QĐ). Biên chế: ba sư đoàn bộ binh (304, 325, 324), Sư đoàn phòng không 673, Lữ đoàn pháo binh 164, Lữ đoàn xe tăng 203, Lữ đoàn công binh 219, Trung đoàn thông tin 463 và các cơ quan, đơn vị bảo đảm, phục vụ. Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Văn Thái. Chính uỷ: Thiếu tướng Lê Linh. Căn cứ: Chiến khu Ba Lòng (Bình - Trị - Thiên) Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Bảy, 2009, 09:39:31 am 237. Quân đoàn 4 được thành lập khi nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập?
Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long thành lập ngày 20-7-1974. Đồng chí Phạm Hùng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Cục miền Nam công bố quyết định thành lập. Biên chế: Hai Sư đoàn bộ binh 7 và 9, Trung đoàn pháo binh 24, Trung đoàn phòng không 71, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn thông tin 69 và các cơ quan, đơn vị phục vụ, bảo đảm. Tư lệnh kiêm Chính uỷ: Thiếu tướng Hoàng Cầm. Tháng 3-1975, Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện được cử làm Chính uỷ. Căn cứ: miền đông Nam Bộ. 238. Sư đoàn 303 thành lập khi nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Sư đoàn bộ binh 303 thuộc Bộ Tư lệnh Miền thành lập ngày 19-8-1974 (trên cơ sở Sư đoàn bộ binh 3). Biên chế: ba trung đoàn bộ binh (201, 271, 205). Trung đoàn pháo binh 262. Sư đoàn trưởng: Đỗ Quang Hưng. Chính ủy: Nguyễn Ngọc Doãn. 239. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức? Chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức diễn ra ngày 17-7 đến ngày 25-8-1974. Địa bàn: Nông Sơn - Trung Phước - Thượng Đức (Khu V). Lực lượng tham gia: Sư đoàn bộ binh 2 (Quân khu V), Sư đoàn bộ binh 304 và một số đơn vị binh chủng (Quân đoàn 2), bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam (bốn tiểu đoàn), Quảng Đà (năm tiểu đoàn). Bộ Tư lệnh Quân khu V chỉ huy chiến dịch. Từ ngày 17 đến ngày 19-7, Sư đoàn 2 được tăng 1 cường hỏa lực tiến công tiêu diệt căn cứ Nông Sơn - Trung Phước; tiếp đó đánh bại cuộc hành quân “Sóng thần nam” ứng cứu Nông Sơn - Trung Phước của Trung 1 đoàn 1 và 3 1 (Sư đoàn 2 ngụy). Từ ngày 19-7 đến ngày 8-8, các lực lượng của Quân đoàn 2 tiến công giải phóng toàn bộ chi khu quận lỵ Thượng Đức. Từ sau ngày 9-8 đến ngày 25-8, Trung đoàn 66 (Sư 1 đoàn 304), Trung đoàn 3 (Sư đoàn 324) và lực lượng bộ đội địa phương tổ chức trận địa phòng ngự đánh bại các cuộc phản kích của địch, đặc biệt là cuộc phản kích của Sư đoàn dù số 3. Kết quả chiến dịch: ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 10.000 tên địch, tiêu diệt 4 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 9 tiểu đoàn, thu 2.106 súng các loại, 24 xe quân sự và nhiều đạn dược, trang bị của địch. Chiến thắng Nông Sơn - Thượng Đức chứng minh trên thực tế sức mạnh chiến đấu của bộ đội chủ lực cơ động ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch. 240. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch La Sơn - Mỏ Tàu? Chiến dịch La Sơn - Mỏ Tàu diễn ra từ ngày 28-8 đến ngày 28-9-1974. Lực lượng tham gia gồm: Sư đoàn bộ binh 324 (thiếu), được tăng cường Tiểu đoàn bộ binh 2, Đại đội tên lửa A72 và bộ đội địa phương Quân khu Trị - Thiên, đánh vào Sư đoàn bộ binh 1 (Quân đoàn 1) quân ngụy Sài Gòn ở khu vực đường số 14 (tây - nam Huế 40 km) nhằm chia cắt đường giao thông chiến lược của địch, tạo bàn đạp cho các hoạt động tiếp theo, phối hợp với chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức (từ ngày 17-7 đến ngày 225-8-1974) ở khu vực này Sư đoàn 1 quân ngụy Sài Gòn phối hợp với các đơn vị bảo an chiếm giữ các 1 điểm cao, tạo thế phòng thủ hỗ trợ cho nhau. Chiến dịch mở màn lúc 5 giờ ngày 28-8, sau khi pháo binh bắn chuẩn bị, ta đánh chiếm một loạt điểm cao, địch điều Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 51) và hai tiểu đoàn của Trung đoàn 54 đến tăng cường giữ các điểm cao còn lại. Trong các ngày 3, 7 và 14-9 ta đánh hai trận cấp trung đoàn, một trận cấp sư đoàn (thiếu) và sau trận then chốt chiếm Mỏ Tàu (từ ngày 27 đến ngày 28-9), ta chủ động kết thúc chiến dịch. Kết quả: ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.500 tên địch, bắt sống 587 tên, bắn rơi 5 máy bay, thu và phá huỷ 2.734 súng các loại và nhiều phương tiện chiến tranh, phá vỡ tuyến phòng thủ mạnh của địch ở tây - nam Huế, giải phóng một khu vực rộng gần 300 km2 uy hiếp thế trận phòng thủ của Quân đoàn 1, Quân khu I quân ngụy Sài Gòn. 241. Tổng cục Kỹ thuật thành lập vào thời gian nào? Nhiệm vụ, biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Ngày 10-9-1974, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 22 liệu thành lập Tổng cục Kỹ thuật thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ: giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ đạo công tác bảo đảm và quản lý trang bị, đảm bảo kỹ thuật trong toàn quân nghiên cứu kỹ thuật quân sự và trực tiếp quản lý các xí nghiệp quốc phòng. Tổng cục Kỹ thuật có các cơ quan và đơn vị: Bộ Tham mưu, các cục: Hậu cần, Chính trị, Quản lý xe máy, Quản lý kỹ thuật, Sản xuất, Quản lý xí nghiệp, Quản lý vũ khí - khí tài - đạn dược, các phòng quản lý trang bị khí tài đặc chủng (máy bay, tên lửa, tàu hải quân), vật tư, tài vụ và văn phòng; các viện kỹ thuật quân sự, thiết kế, các trường đào tạo cán bộ trung cấp và công nhân kỹ thuật; các xí nghiệp sản xuất quốc phòng. Chủ nhiệm: Trung tướng Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm chức). Các Phó Chủ nhiệm: Trần Sâm, Trần Đại Nghĩa, Vũ Văn Đôn, Nguyễn Văn Tiên. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Bảy, 2009, 09:42:04 am 242. Trận đánh mở màn chiến dịch Phước Long?
Đó là trận Bù Đăng (ngày 14-12-1974). Đây là trận tập kích vào chi khu Bù Đăng do hai Trung đoàn bộ binh 271 và 201 (Sư đoàn 3) tiến hành. Chi khu Bù Đăng nằm trên đường số 14, được phòng thủ thành từng cụm cứ điểm, gồm: Sở Chỉ huy chi khu, căn cứ Vĩnh Thiện, khu hành chính quận, bao quanh là 12 đồn bốt dân vệ, phân chi khu, 5 chốt phòng vệ dân sự. Được pháo binh và pháo phòng không chi viện, 8 giờ ngày 14-12 Trung đoàn 201 đánh chiếm căn cứ Vĩnh Thiện. 8 giờ 40 phút Trung đoàn 271 đánh chiếm Sỏ Chỉ huy chi khu và khu hành chính quận. Lực lượng địa phương Bù Đăng đánh tan các chốt dân vệ xung quanh. Ta diệt 34, bắt 26 tên địch, thu 90 súng các loại, giải phóng gần 100 km đường số 14, tạo thế, tạo lực giải phóng Phước Long. 243. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Phước Long? Chiến dịch Phước Long diễn ra từ ngày 14-12-1974 đến ngày 6-1-1975. Đây là chiến dịch tiến công của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam vào 5 tiểu đoàn bộ binh, 1 chi đội xe M113, 10 trung đội pháo binh 2 đại đội trinh sát, 2 đại đội cảnh sát, 60 trung đội dân vệ và lực lượng viện binh Quân đoàn 3 quân ngụy Sài Gòn ở Khu vực Đồng Xoài, Bù Đăng, Phước Bình, Phước Long nhằm tiêu diệt sinh lực địch, nối thông hành lang chiến lược từ Tây Nguyên vào đông Nam Bộ, tạo bàn đạp tiến công Sài Gòn từ phía bắc. Lực lượng ta, về bộ đội chủ lực, có Quân đoàn 4 (hai sư đoàn), Sư đoàn bộ binh 3 (hai trung đoàn), Trung đoàn đặc công 429, 1 trung đoàn pháo binh (36 khẩu pháo) 3 tiểu đoàn pháo phòng không, 20 xe tăng, xe thiết giáp, 1 trung đoàn công binh; về lực lượng vũ trang nhân dân địa phương có 2 tiểu đoàn tỉnh Bình Long, bộ đội các huyện, du kích các xã trong địa bàn chiến dịch. Chiến dịch chia làm ba đợt. Đợt 1 (từ ngày 14 đến ngày 17-12-1974), ta đánh chiếm căn cứ Vĩnh Thiện, các chốt trên đường số 14 (đoạn Bù Na - Bù Đăng). Đợt 2 (từ ngày 23 đến ngày 28- 12- 1974), ta đánh chiếm Đồng Xoài, Bù Đốp, cô lập Phước Long. Đợt 3 (từ ngày 31-12-1974 đến ngày 1-1975), được tăng cường Trung đoàn bộ binh 16, 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 tiểu đoàn pháo binh 130 ly, ta đánh chiếm Phước Bình, điểm cao Bà Rá, thị xã Phước Long. Kết quả ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long (hơn 500.000 dân), diệt 1.160, bắt 2.146 tên địch, phá huỷ 15 máy bay, 3 xe bọc thép, thu 3.125 súng các loại 10.000 viên đạn pháo. Chiến thắng Phước Long có tác dụng trinh sát chiến lược, phát hiện sự bất lực của Mỹ trước sự thất bại của quân đội Sài Gòn. 244. Trận đánh nào góp phần đập tan ý đồ phản kích chiếm lại đường số 14, buộc địch phải co cụm phòng thủ, tạo thuận lợi cho Quân đoàn 4 tiến công giải phóng thị xã Phước Long? Đó là trận Đồng Xoài (ngày 26-12-1974). Đây là trận đánh công sự vững chắc của Trung đoàn bộ binh 141 và lực lượng tăng cường (Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn bộ binh 209 thuộc Sư đoàn 7, Quân đoàn 4 vào chi khu quân sự của quân ngụy Sài Gòn ở Đồng Xoài (Phước Long). Lực lượng địch gồm Ban Chỉ huy chi khu, Tiển đoàn bảo an 341, 2 trung đội pháo (hai pháo 105 ly) bố trí trong 500 ụ súng lô cốt, hầm ngầm, xung quanh có tường đất dày 3m, 11 lớp rào kẽm gai và bãi mìn bảo vệ; cùng với 19 trung đội cảnh sát dân vệ, phòng vệ dân sự đóng đồn ở ngoại vi (tổng cộng 1.300 - 1.400 quân). 5 giờ 37 phút trận đánh bắt đầu. Được pháo binh chi viện, Trung đoàn từ ba hướng tiến công vào căn cứ. Địch co cụm chống cự. Sau năm giờ chiến đấu, ta làm chủ quận lỵ, chi khu, loại khỏi vòng chiến đấu 887 tên địch (182 hàng), thu 552 súng các loại (2 pháo 105 ly, 2 pháo 155 ly), 50 máy thông tin, 30 xe quân sự, 3.000 đạn pháo 105-155 ly, 10 tấn gạo, giải phóng 4.500 dân. 245. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa chiến dịch Tây Nguyên? Chiến dịch Tây Nguyên diễn ra từ ngày 4-3 đến ngày 3-4-1975. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm năm sư đoàn (10, 320A, 316. 968, 3), bốn trung đoàn bộ binh (95A, 95B. 25, 27), hai trung đoàn pháo binh (40, 675), ba trung đoàn pháo cao xạ (232, 234, 593), Trung đoàn tăng - thiết giáp 273, Trung đoàn 198 và hai tiểu đoàn đặc công (14, 27), hai trung đoàn công binh (7, 575), Trung đoàn thông tin 29 và các đơn vị hậu cần, vận tải. Sư đoàn bộ binh 3 (Quân khu V) tác chiến phối hợp trên đường số 19. Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11-3, quân ta tiến công bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là trận then chốt quyết định của chiến dịch, một trận “điểm đúng huyệt”, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ của địch ở chiến trường Tây Nguyên mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Từ ngày 14 đến 18-3, quân ta đánh trận then chốt thứ hai, đập tan cuộc phản kích của Quân đoàn 2 ngụy, tạo thế chia cắt địch về chiến lược, đẩy quân địch ở Tây Nguyên vào thế tan vỡ. Từ ngày 17 đến ngày 24-3, quân ta đánh trận then chốt thứ ba, truy kích tiêu diệt tập đoàn quân địch rút chạy trên đường số 7; giải phóng Kom Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên. Từ đầu tháng 4, quân ta tiếp tục phát triển xuống duyên hải Trung Bộ, diệt Lừ đoàn dù 3, Trung đoàn bộ binh 40, Liên đoàn biệt động quân 24, giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà. Chiến dịch thể hiện quân đội ta có bước trưởng thành mới về trình độ tổ chức chỉ huy và thực hành chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn về nghệ thuật đánh chiếm thành phố, đánh địch phản kích lớn bằng đổ bộ đường không và truy kích tiêu diệt tập đoàn quân địch rút chạy trên địa hình rừng núi. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Bảy, 2009, 09:46:48 am 246. Trận đánh nào mở thông hướng tây - nam cho Binh đoàn Tây Nguyên đánh Buôn Ma Thuột?
Đó là trận Đức Lập (ngày 9 và 10-3-1975). Đây là trận tiến công của Sư đoàn bộ binh 10 được tăng cường 2 khẩu đội pháo l05 ly và 50 viên đạn vào cụm cứ điểm Đức Lập (tây - nam Buôn Ma Thuột 30 km), trong chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến ngày 3-4-1975). Chốt giữ căn cứ có Sở Chỉ huy hành quân Trung đoàn bộ binh 53, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 53), 1 đại đội trinh sát, 1 chi đoàn tăng (24 xe 14 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 1 tiểu đoàn và 2 đại đội bảo an, 18 trung đội dân vệ và 1 trung đội cảnh sát của quân ngụy Sài Gòn (tổng số khoảng 2.400 quân). Sáng ngày 9, sau hơn ba giờ chiến đấu ta chiếm được hai cứ điểm quan trọng (Núi Lửa và 23), nhưng không chiếm được quận lỵ Đức Lập vì nắm địch không chắc, hiệp đồng chiến đấu không chặt. Sáng ngày 10 ta tiếp tục đột phá, sau hơn hai giờ chiến đấu, ta chiếm toàn bộ cụm cứ điểm. Kết quả: ta diệt 2 tiểu đoàn, bắt trên 100 tên địch, thu 14 khẩu pháo, 20 xe tăng, xe thiết giáp, 6 xe quân sự. 247. Trận đánh nào làm tiêu tan hy vọng phản kích của dịch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột? Đó là trận Nông Trại - Chư Cúc (từ ngày 14 đến ngày 18-3-1975). Đây là trận vận động tiến công của Sư đoàn bộ binh 10 Quân giải phóng Tây Nguyên được tăng cường tiểu đoàn xe tăng, Trung đoàn bộ binh 95B, cụm pháo binh và pháo phòng không chiến dịch đánh vào Sư đoàn bộ binh 23, Liên đoàn biệt động quân 21, 3 tiểu đoàn bảo an và tàn quân của Trung đoàn bộ binh 45… quân ngụy Sài Gòn ở khu Nông Trại-Phước An-Chư Cúc, nhằm đánh bại ý đồ phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột của địch trong chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến ngày 3-4-1975). Ngày 14-3, Trung đoàn 24 và 1 đại đội xe tăng tiến công Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 45) của địch ở chân điểm cao 581. Trung đoàn 45 và liên đoàn biệt động quân dồn về Nông Trại. Ngày 15 và 16-3, Trung đoàn 24 và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 66) tiến công Nông Trại diệt gần hết Trung đoàn 45. Ngày 17-3, Sư đoàn 10 tiến công cụm địch ở Phước An, một số chạy thoát về hướng Chư Cúc. Ngày 18-3, Trung đoàn 66, Trung đoàn 28 tiến công trong hành tiến, phối hợp với Trung đoàn 25 tiêu diệt nốt lực lượng còn lại của Sư đoàn 23 ở Chư Cúc. 248. Trận đánh nào tạo thuận lợi cho ta tiến vào giải phóng thành phố Huế trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng? Đó là trận Thanh Hương (ngày 21- 3-1975). Đây là trận tiến công của bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị vào quân ngụy Sài Gòn co cụm ở Thanh Hương (trên phòng tuyến bảo vệ phía bắc thành phố Huế). Sáng 21-3 bộ binh ta được xe tăng, pháo binh, pháo phòng không chi viện từ hai mũi (mũi theo tỉnh lộ 68 và mũi theo quốc lộ 1 qua Mỹ Xuyên) đánh vào Thanh Hương.10 giờ ta làm chủ trận địa. Thừa thắng, nhân dân địa phương nổi dậy, dẫn đường cho bộ đội diệt ác ôn, giải tán chính quyền địch, giải phóng quê hương. 249. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch Huế - Đà Nẵng? Chiến dịch Huế - Đà Nẵng diễn ra từ ngày 21 đến ngày 29-3-1975. Lực lượng tham gia. Quân đoàn 2, lực lượng vũ trang Quân khu Trị - Thiên, Quân khu V, Đoàn 559. Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm Tư lệnh: Trung tướng Lê Trọng Tấn; Chính uỷ: Thượng tướng Chu Huy Mân. Chiến dịch hình thành trong quá trình phát triển của cuộc tiến công chiến lược trên cơ sở chiến dịch Xuân Hè cua Quân đoàn 2, Quân khu Trị - Thiên và Quân khu V, do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Kết quả: tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn Quân đoàn 1 và Quân khu I của địch, đập tan hệ thống phòng thủ kiên cố của chúng, giải phóng năm tỉnh liên hoàn là Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi, trong đó có hai thành phố lớn là Huế (ngày 20-3), Đà Nẵng (ngày 29-3); làm thay đổi hẳn cục diện và so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo điều kiện rất thuận lợi cho chiến dịch quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Quân đội ta tiến bộ vượt bậc về trình độ tổ chức chỉ huy chiến dịch tiến công gấp rút khi có thời cơ thuận lợi, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về nghệ thuật tổ chức, chỉ huy, tác chiến và phát triển tiến công trong chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. 250. Quân đoàn 3 thành lập khi nào? Biên chế tổ chức, chỉ huy khi mới thành lập? Quân đoàn 3 - Binh đoàn Tây Nguyên thành lập ngày 27-3-1975 (Quyết định số 54/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng). Biên chế. ba sư đoàn bộ binh (10 316, 320A), hai trung đoàn pháo binh (40, 675), ba trung đoàn phòng không (232, 234, 593), Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn xe tăng 273, hai trung đoàn công binh (7, 575), Trung đoàn thông tin 29 và các cơ quan đơn vị đảm bảo, phục vụ. Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Lăng. Chính uỷ: Đại tá Đặng Vũ Hiệp. Căn cứ: Tây Nguyên. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Bảy, 2009, 09:48:49 am 251. Trận đánh nào đã tạo đà giải phóng thành phố Nha Trang?
Đó là trận Đèo Mađrắc (từ ngày 29-3 đến ngày 1-4-1975). Đây là trận vận động tiến công của Sư đoàn bộ binh 10 Quân giải phóng Tây Nguyên vào Lữ đoàn dù 3 (thuộc lực lượng tổng dự bị chiến lược) quân ngụy Sài Gòn, nhằm mở đường xuống duyên hải miền Trung trong chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4-3 đến ngày 3-4-1975). Lữ đoàn dù 3 được tăng cường một tiểu đoàn biệt động quân, được Sư đoàn không quân 6 chi viện, đã chốt đèo Mađrắc (Phượng Hoàng) trên đường số 21. Địch vận dụng chiến thuật “mạng nhện”, phân tán từng đại đội, chốt dùng hoả lực không quân và pháo binh tối đa kết hợp với phản kích nhằm ngăn chặn các mũi truy kích của Quân giải phóng. Sư đoàn 10 có xe tăng tăng cường, được Trung đoàn pháo binh 40 chí viện, diệt pháo binh địch, làm mất chỗ dựa của quân dù, đồng thời liên tục tiến công chia cắt vây diệt từng đại đội. Trung đoàn 24 đã chiếm lĩnh đông đèo, triển khai trận địa bao vây. Sáng 29-3, sau khi chuẩn bị hoả lực, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 28) diệt hai trận địa pháo; Trung đoàn pháo binh 40 sau sáu giờ diệt được 12 khẩu pháo; Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 25) cũng diệt nhiều cụm chốt mở đường cho bộ binh, xe tăng đột phá mục tiêu chính. Sáng 30, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 28) bắt sống Ban Chỉ huy Tiểu đoàn dù 6… Bị mất hai tiểu đoàn và 1/3 lực lượng pháo binh, địch có ý định rút lui. Ta phát hiện ý định địch, sáng 31-3 bố trí Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 24) chặn ở đông đèo; sáng ngày 1-4, Trung đoàn 24 từ chốt chuyển sang tiến công, đánh thẳng vào Sở Chỉ huy Lữ đoàn dù 3, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ. Kết quả: ta diệt và bắt hoàn toàn Lừ đoàn dù 3 (khoảng 3.800 quân), thu 24 pháo (l05 và 155 ly), 84 xe quân sự, nhiều vũ khí và quân trang quân dụng. 252. Trận đánh tiêu biểu về trình độ tổ chức, chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng cấp sư đoàn trong điều kiện gấp rút? Đó là trận Tuy Hoà (ngày l-4-1975). Đây là trận tiến công của Sư đoàn bộ binh 320 (Quân đoàn 3) được tăng cường Trung đoàn pháo phòng không 593, Tiểu đoàn xe tăng 1, một đại đội lựu pháo 122 ly, Trung đoàn pháo binh 675, 7 cơ cấu phóng A72 vào 11 tiểu đoàn bảo an, biệt động cùng tàn binh Quân đoàn 2, cảnh sát từ Phú Yên rút về phòng thủ thị xã Tuy Hoà và vùng phụ cận. Trận đánh diễn ra từ 5 giờ 30 phút đến 15 giờ ngày 1-4-1975. Sư đoàn 320 phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh và nhân dân nổi dậy, bao vây chia cắt, ngăn chặn kết hợp với thọc sâu diệt mục tiêu then chốt, làm tan rã toàn bộ lực lượng chủ lực và địa phương quân ngụy Sài Gòn ở tỉnh Phú Yên làm chủ thị xã, quận Tuy Hoà 1, Tuy An và từ quận Hiến Xương đến đèo Cả; loại khỏi vòng chiến đấu 3.400 tên địch. Trận Tuy Hoà là trận tiêu biểu về trình độ tổ chức chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng cấp sư đoàn trong điều kiện gấp rút, phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực cơ động và lực lượng tại chỗ, kết hợp tiến công và nổi dậy, góp phần tạo thế cho chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến ngày 30-4-1975) 253. Bức điện lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút...” được gửi đi vào thời điểm nào? Trong chiến dịch nào của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Bức điện lịch sử có nội dung “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút…” do Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi các đơn vị ngày 7-4-1975. Bức điện ra đời trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. 254. Cho biết thời gian thành lập và danh sách các đồng chí trong Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định? Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định thành lập ngày 8-4-1975 gồm các đồng chí: Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng. Chính uỷ: Phạm Hùng. Phó Tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện. (Ngày 22-4 bổ sung Trung tướng Lê Trọng Tấn - phó Tư lệnh; Trung tướng Lê Quang Hoà - Phó Chính uỷ). Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Bảy, 2009, 09:50:37 am 255. Nêu tóm tắt lịch trình giải phóng một số đảo lớn trong quần đảo Trường Sa?
Chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh, ngay từ ngày 5-4-1975, Bộ Tư lệnh Hải quân đã chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa. Sáng ngày 14-4-1975, các lực lượng đặc công hải quân phối hợp với các đơn vị bạn đã giải phóng đảo Song Tử Tây. Sáng 25-4, giải phóng đảo Sơn Ca. Sáng 27-4, giải phóng đảo Nam Yết. Sáng 28-4, giải phóng đảo Sinh Tồn. Sáng 29-4, giải phóng đảo Trường Sa lớn. 256. Tư tưởng chỉ dạo của ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh? Tư tưởng chỉ đạo của bộ đội ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh là: Thần tốc, táo bạo, bất ngờ chắc thắng. 257. Vì sao chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định dược mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh? Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định là chiến dịch quyết chiến chiến lược, quyết đính kết thúc chiến tranh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước, hoàn thành tâm nguyện của Bác Hồ kính yêu. Trước ý nghĩa lịch sử trọng đại đó của chiến dịch; ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị đã quyết định lấy tên chiến dịch là chiến dịch Hồ Chí Minh. 258. Năm mục tiêu lớn nhất và quan trọng nhất của dịch mà ta đã xác định cần đánh chiếm trong chiến dịch Hồ Chí Minh là những mục tiêu nào? Tại sao? Năm mục tiêu đó là: Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát và sân bay Tân Sơn Nhất. Bởi vì, đây là những cơ quan đầu não, phản động nhất của địch. Chiếm được những mục tiêu này, toàn bộ chế độ ngụy sẽ sụp đổ, bảo toàn được tính mạng nhân dân và phần đông anh em binh sĩ ngụy lầm đường, tránh thiệt hại cho các công trình hạ tầng cơ sở, kinh tế và văn hoá thành phố. 259. Nêu nhiệm vụ mà Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh giao cho các quân đoàn và lực lượng vũ trang địa phương? Trong các ngày từ 20 đến 25-4-1975, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Mmh đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các quân đoàn và lực lượng vũ trang địa phương trên các hướng như sau: - Hướng tây - bắc Sài Gòn. Quân đoàn 3 do Thiếu tướng Vũ Lăng - Tư lệnh. Đại tá Đặng Vũ Hiệp - Chính uỷ chỉ huy, cùng hai Trung đoàn 1 và 2 Gia Định, các đội đặc công biệt động của Thành đội Sài Gòn dược pháo binh và lực lượng phòng không chiến dịch chi viện hoả lực đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, tiêu diệt Sư đoàn 25 ngụy chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, cùng với Quân đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy. - Hướng bắc và đông - bắc Sài Gòn: Quân đoàn 1 do Thiếu tướng Nguyễn Hoà - Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Minh Thi - Chính uỷ chỉ huy, được tăng cường Trung đoàn 95 (Sư đoàn 325, Quân đoàn 2) và một trung đoàn phòng không đánh chiếm căn cứ Phú Lộc, diệt Sư đoàn 5 ngụy, đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy và căn cứ Bộ Tư lệnh các binh chủng của địch ở Gò Vấp. - Hướng đông và đông - nam Sài Gòn: Quân đoàn 4 do Thiếu tướng Hoàng Cầm - Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện - Chính uỷ chỉ huy, được tăng cường Lữ đoàn bộ binh 52 (quân khu V) và một số tiểu đoàn binh chủng tiêu diệt Sở Chỉ huy Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 và Sư đoàn 1 ngụy ở Biên Hoà, sau đó thọc sâu vào nội thành đánh chiếm Dinh Độc lập. Quân đoàn 2 do Thiếu tướng Nguyễn Hữu An - Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Linh - Chính uỷ chỉ huy đánh chiếm Bà Ria. các căn cứ Nước Trong, Long Bình, chặn đường rút chạy của địch trên sông Lòng Tàu. sau đó tiến vào nội thành, cùng Quân đoàn 4 chiếm Dính Độc lập. - Hướng tây và tây - nam Sài Gòn: Đoàn 232 do Trung tướng Lê Đức Anh - Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Văn Tưởng - Chính uỷ chỉ huy và lực lượng vũ trang Quân khu VIII có nhiệm vụ cắt đường số 4, đánh chiếm Biệt khu Thủ đô và Tổng nha Cảnh sát ngụy. Các đơn vị đặc công biệt động và lực lượng vũ trang thành phố Sài Gòn có nhiệm vụ đánh địch, giữ các cầu vào thành phố, dẫn đường cho các binh đoàn thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phối hợp với đòn tiến công quân sự. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Bảy, 2009, 09:52:42 am 260. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả cuộc tổng công kích, giải phóng Sài Gòn - Gia Định, đồng bằng sông Cửu Long và toàn bộ vùng đất, vùng biển, các đảo của Tổ quốc trong chiến dịch Hồ Chí Minh?
Cuộc tổng công kích diễn ra từ ngày 26 đến ngày 30-4-1975. 17 giờ ngày 26, quân ta nổ súng tiến công mạnh và đồng loạt trên các hướng, tiêu diệt các sư đoàn chủ lực đích còn lại, đánh chiếm các căn cứ mục tiêu quan trọng phá vỡ các khu vực phòng thủ vòng ngoài của dịch. Ngày 28, một biên đội máy bay A37 (Phi đội Quyết thắng) của Binh chủng không quân ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, làm quân địch thêm hoảng loạn. Việc di tản bằng máy bay có cánh cố định của chúng bị ngừng trệ. Ngày 29-4, quân tạ tiêu diệt làm tan rã các Sư đoàn chủ lực 5, 7, 25, 18, 22 của quân ngụy. Các binh đoàn thọc sâu tiến vào cách trung tâm thành phố 10 đến 20 km, Đại sứ Mỹ G.Martin và các nhân viên quân sự, binh lính cuối cùng của Mỹ lên máy bay trực thăng rút khỏi Sài Gòn (sáng 30-4). 5 giờ ngày 30-4, quân ta mở đợt tiến công cuối cùng. Vào lúc 10 giờ 45 phút, xe tăng 843 do Trung uý Bùi Quang Thận Đại đội trưởng Đại đội 4 - xe tăng chỉ huy và xe tăng 390 (Lữ đoàn 203) dẫn đầu lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 đánh chiếm Dinh Độc lập. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn bộ binh 66 (Sư đoàn 304) và Lữ đoàn xe tăng 203 ( Quân đoàn 2) là những đơn vị đầu tiên cùng một số chiến sĩ biệt động đánh vào sào huyệt địch, buộc Tổng thống ngụy quyền và toàn bộ nội các địch đầu hàng. Cờ giải phóng tung bay trước toà nhà chính của Dinh Độc lập lúc 11 giờ 30 phút. Ở đồng bằng sông Cửu Long, ngay từ ngày 13-3-1975, thực hiện đợt 2 kế hoạch tác chiến chiến lược trên phạm vi toàn miền, lực lượng vũ trang Quân khu VIII và Quân khu IX đẩy mạnh tiến công địch, phối hợp với quần chúng nổi dậy mở rộng vùng giải phóng. tạo thế trận mới, phối hợp với chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng. Trong thời gian các quân đoàn chủ lực chuẩn bị và thực hành chiến dịch giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang hai quân khu áp sát các thành phố, thị xã, cắt đường số 4 và các đường giao thông quan trọng, kìm giữ Quân đoàn 4 ngụy. Trên cơ sở thắng lợi đã giành được, trong các ngày 30-4 đến ngày 2-5, bộ đội chủ lực hai quân khu và lực lượng vũ trang các tỉnh nắm bắt chính xác thời cơ ngụy quyền trung ương đầu hàng, quân ngụy tan rã đã kết hợp tiến công quân sự với phát động quần chúng nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 4, Quân khu IV và lực lượng kìm kẹp của địch, giải phóng hoàn toàn các tỉnh đông Nam Bộ, vùng biển, giải phóng Côn Đảo, Phú Quốc và các đảo ở vùng biển tây - nam của Tổ quốc. 261. Nguồn gốc tên gọi “Biên đội Quyết thắng”? “Biên đội Quyết thắng” là danh hiệu dành cho biên đội Không quân nhân dân Việt Nam đã lập chiến công xuất sắc trong trận ném bom sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28-4-1975. Biên đội gồm năm máy bay A37, cất cánh từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang), do phi công Nguyễn Thành Trung dẫn đầu, vượt qua mạng lưới rađa cảnh giới của đối phương, giội nhiều loạt bom trúng mục tiêu, diệt hàng trăm sĩ quan, binh lính và nhân viên quân ngụy Sài Gòn, phá hỏng nhiều đường băng, làm tê liệt hầu hết mọi hoạt động cất cánh ở sân bay. 262. Có bao nhiêu đơn vị và cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 theo Lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 12-9-1975? Ngày 12-9-1975, Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà công bố Lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 59 đơn vị và 6 cán bộ chiến sĩ đã lập nhiều thành tích trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 28 Tháng Bảy, 2009, 09:54:25 am III- QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 2004) 263. Trường Sĩ quan lục quân 2 được thành lập khi nào? Ai là Hiệu trưởng và Chính uỷ đầu tiên? Ngày 10- 10-1975, thành lập Trường Sĩ quan lục quân 2 (trên cơ sở Trường Lục quân tổng hợp trực thuộc Bộ Tư lệnh Miền trong kháng chiến chống Mỹ) tại Long Thành, Đồng Nai. Chính uỷ. Thiếu tướng Dương Cự Tẩm. Hiệu trưởng: Đại tá Mạnh Quân. 264. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn nằm ở đâu? Nó được khởi công và khánh thành vào thời gian nào? Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn nằm tại xã Trung Sơn huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Nghĩa trang khởi công xây dựng từ tháng 10-1975 và khánh thành ngày 10-4-1977. 265. Học viện Quốc phòng dược thành lập khi nào? Vì sao ngày 3-1 hằng năm là ngày truyền thống của học viện? Ngày 21-2-1976, Học viện Quân sự cấp cao (sau đổi thành Học viện Quốc phòng) được thành lập. Giám đốc: Trung tướng Lê Trọng Tấn. Ngày 3-1-1977, Học viện khai giảng khoá đầu tiên bổ túc cán bộ cao cấp. Ngày 3-1 trở thành ngày truyền tthốngcủa Học viện Quốc phòng ngày nay. 266. Nêu tóm tắt diễn biến và kết quả cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia? Cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam - Campuchia diễn ra từ ngày 30-4-1977 đến ngày 7-1-1979. Đây là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới tây - nam của nhân dân Việt Nam chống quân Khơme đỏ xâm lược. Trong khi Campuchia chống Mỹ, tập đoàn cầm quyền Khơme đỏ (Pôn Pốt - Iêng Xan) thực hiện chính sách hai mặt: một mặt tranh thủ và lợi dụng sự giúp đỡ của Việt Nam; mặt khác, ngấm ngầm chống Việt Nam. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Campuchia (1970-1975) thắng lợi, với tham vọng đất đai và ý đồ làm cho Việt Nam mất ổn định, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam - Campuchia, kích động hận thù dân tộc chống Việt Nam và tạo cớ để thanh trừng nội bộ, loại trừ bất cứ ai chống lại đường lối của họ, gây ra nạn diệt chủng cực kỳ tàn bạo ở Campuchia. Đối với Việt Nam, họ tiến hành các hoạt động đánh phá biên giới ngày càng tăng, từ xâm nhập, pháo kích, tiến tới lấn chiếm và cuối cùng đến ngày 30-4-1977 phát động chiến tranh xâm lược. Trước tình hình đó, những người yêu nước trong hàng ngũ Khơme đỏ (Hiêng Xomrin, Chia Xim, Sại Bu Thoong, Bu Thong, Hun Xen…) đã ly khai, cùng với một số người cách mạng (Chăn Xi, Chia Xốt…) kêu gọi chống lại tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari. Những lời kêu gọi đó có tác động mạnh trong hàng ngũ Khơme đỏ và nhân dân, dẫn đến việc thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia (ngày 2-l2-1978). Mùa khô năm 1978, tập đoàn cầm quyền Khơme đỏ đã huy động 19 sư đoàn bộ binh tiến công xâm nhập lãnh thổ Việt Nam trên đường tây - nam, tàn sát nhiều dân thường. Mặc dù hết sức kiềm chế, nhưng sau nhiều cố gắng ngoại giao không kết quả, để thực hiện quyền tự vệ chính đáng, phía Việt Nam buộc phải đánh tra, đẩy quân Khơme đỏ ra khỏi biên giới; đồng thời thể theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng lực lượng vũ trang của Mặt trận tiến hành phản công và tiến công (bắt đầu từ ngày 23-12-1978), giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh (ngày 7-l-1979), cứu cả một dân tộc thoát khỏi họa diệt chủng, tạo cho Việt Nam thế ổn định để xây dựng đất nước, mở đường cho nhân dân Campuchia hồi sinh, làm lại cuộc cách mạng, xây dựng lại đất nước. 267. Binh đoàn 12 thành lập vào thời gian nào? Biên chế tổ chức và nhiệm vụ được giao khi mới thành lập? Binh đoàn 12 - binh đoàn xây dựng kinh tế thuộc Bộ Quốc phòng thành lập ngày 11-10-1977 (Quyết định số 362-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Binh đoàn 12 gồm hai sư đoàn (470, 471), Đoàn 387 cầu đường bộ; Sư đoàn 341B cầu đường sắt, Sư đoàn 473 xây dựng cơ bản nông nghiệp, hai trung đoàn cầu (95, 509) và một số đơn vị trực thuộc, các cơ quan. Nhiệm vụ: xây dựng các công trình cầu đường. công nghiệp, lâm nghiệp, khu kinh tế mới (Tây Nguyên), kết hợp sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Bảy, 2009, 08:48:21 am 268. Cuộc phát động “Phát huy bản chất tốt đẹp nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân” do ai phát động? Thời gian, mục đích và nội dung của cuộc vận động?
Tháng 11 - 1978, Ban Bí thư Trung ương Đảng Chỉ thị mở cuộc vận động “Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân”. Thời gian thực hiện từ ngày 22-12-1978 đến ngày 22-12-1980. Mục đích không ngừng nâng cao chất lượng của lực lượng vũ trang, phát huy bản chất truyền thống cách mạng của quân đội. Cuộc vận động thực hiện ba nội dung lớn: rèn luyện, xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu; phát huy truyền thống quân với dân một ý chí, nêu gương tốt của người quân nhân cách mạng trên mọi lĩnh vực, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản. 269. Những nội dung cơ bản của vấn đề xây dựng huyện thành pháo đài quân sự được Bộ Tổng tham mưu xác định vào tháng 12-1978 là gì? Những nội dung đó là: 1. Xây dựng kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản. 2. Xây dựng hệ thống làng, xã, xí nghiệp, công, nông, lâm trường chiến đấu, cụm chiến đấu liên hoàn, hệ thống điểm tựa (chốt), cụm điểm tựa, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn huyện, thị. 3. Quân sự hoá toàn dân, vũ trang toàn dân. 4. Xây dựng lực lượng dự bị đáp ứng yêu cầu thời chiến. 5. Kết hợp kinh tế với quốc phòng. 6. Kiện toàn tổ chức lãnh đạo và chỉ huy. 270. Nêu tóm tắt diễn biến, kết quả cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía bắc của quân và dân ta? Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía bắc của quân và dân ta diễn ra từ ngày 17-2 đến ngày 18-3-1979. Ngày 17-2-1979, Chiến tranh biên giới phía bắc bùng nổ, trên 60 vạn quân xâm lược với hàng trăm xe tăng, xe bọc thép và hàng nghìn khẩu pháo, mở cuộc tiến công ồ ạt vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc từ Quảng Ninh đến Lai Châu. Qua 30 ngày đêm (từ ngày 17-2 đến 18-3) chiến đấu anh dũng, quân và dân ta đã tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng ba trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá huỷ 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe bọc thép, phá huỷ 115 khẩu pháo và súng cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí… Trước sức kháng cự mạnh mẽ của quân và dân ta, đồng thời bị dư luận tiến bộ trên thế giới kịch liệt lên án, ngày 5-3-1979, chúng buộc phải tuyên bố rút quân về nước. 271. Nêu những nội dung cơ bản trong Nghị quyết của Thường vụ Quân uỷ Trung ương ngày 29-5-1979 về tổ chức thực hiện chế độ thủ trưởng trong Quân dội nhân dân Việt Nam? Ngày 29-5-1979, Thường vụ Quân uỷ Trung ương ra Nghị quyết về tổ chức thực hiện chế độ thủ trưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, xác định những căn cứ và mục đích; cơ cấu tổ chức đảng uỷ và chế độ thủ trưởng, quan hệ giữa lãnh đạo của tập thể và quản lý, chỉ huy của thủ trưởng và những quy định để tổ chức thực hiện từng bước. Nghị quyết nêu rõ: “Chế độ thủ trưởng thực hiện trong toàn quân, từ đại đội trở lên”. “Ở mỗi cấp có các phó tư lệnh hay phó chỉ huy giúp thủ trưởng về các mặt công tác quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật... Phó quân sự có thể một hoặc hai người, trong đó có một phó kiêm tham mưu trưởng. Các phó tư lệnh hay phó chỉ huy không nhất thiết có các cấp quân hàm ngang nhau”. 272. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam thành lập khi nào? Ai là Viện trưởng đầu tiên? Ngày 28-5-1981, thành lập Viện Lịch sử quân sự Việt Nam thuộc Bộ Quốc phòng (Quyết định số 172/QĐ-QP) trên cơ sở Ban Tổng kết lịch sử (Cục Khoa học quân sự), Phân viện Lịch sử quân sự (Học viện Quân sự cấp cao) và Ban Nghiên cứu lịch sử quân đội (Tổng cục Chính trị). Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam là cơ quan trung tâm đầu ngành khoa học lịch sử quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Viện trưởng: Thiếu tướng Nguyễn Xuân Hoàng. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Bảy, 2009, 08:49:32 am 273. Tượng đài tưởng nhớ các chiến sĩ quốc tế Việt Nam tại Phnôm Pênh (Campuchia) khánh thành vào ngày, tháng, năm nào?
Tượng đài khánh thành ngày 4-1-1984. 274. Nhà nước Lào tặng Huân chương Sao vàng quốc gia cho quân đội ta vào thời gian nào? Ngày 18-12-1984, Chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào tặng Quân đội nhân dân Việt Nam Huân chương Sao vàng quốc gia (huân chương cao quý nhất của Lào). 275. Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăng Co cho quân đội ta vào thời gian nào? Ngày 19-12-1984, Nhà nước Campuchia tặng Quân đội nhân dân Việt Nam Huân chương Ăng Co (huân chương cao quý nhất của Campuchla). 276. Binh đoàn 15 dược thành lập khi nào? Chức năng, nhiệm vụ khi mới thành lập? Ngày 20-2-1985, thành lập Binh đoàn xây dựng kinh tế Tây Nguyên (Bnh đoàn 15), chuyên xây dựng kinh tế, tổ chức sản xuất kinh doanh như một liên hiệp các xí nghiệp khu vực. Nhiệm vụ: sản xuất, kinh doanh cây cao su, kết hợp với kinh doanh tổng hợp trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất lâm nghiệp trên các địa bàn; kết hợp kinh tế với quốc phòng tại Tây Nguyên. 277. Viện Chiến lược quân sự dược thành lập vào thời gian nào? Nhiệm vụ và biên chế khi mới thành lập? Ngày 11-1-1990, thành lập Viên Chiến lược quân sự thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ: nghiên cứu, đề đạt các kiến nghị và tư vấn cho Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng về những vấn đề có tính chất chiến lược; nghiên cứu tư tưởng, đường lối quân sự và chiến lược quân sự của Đảng trong thời bình và thời chiến. Ngày 16-8-1990, Bộ Tổng tham mưu ban hành biên chế của viện (theo Quyết định số 27/QĐ-TM ngày 31-l-1990). Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo được bổ nhiệm làm Viện trưởng. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Bảy, 2009, 08:50:53 am 278. Hội Cựu chiến binh Việt Nam thành lập khi nào? Ai là Chủ tích đầu tiên của hội?
Ngày 3-2-1990, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được chỉ định gồm 31 đồng chí do Thượng tướng Song Hào làm Chủ tịch. Trụ sở tại nhà số 34 Lý Nam Đế, Hà Nội. Ngày 22-4-1990, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về hoạt động của hội. Ngày 24-4-1990, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam công nhận Hội Cựu chiến binh Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 279. Đài tưởng niệm các liệt sĩ Tây Tiến đặt ở đâu? Khánh thành vào thời gian nào? Đài tưởng niệm các liệt sĩ Tây Tiến đặt tại Châu Trang (xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình). Khánh thành ngày 20- 12- 1990. 280. Phong trào “tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa” ra đời khi nào? Do ai phát động? Ngày 14-5-1992, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với Bộ Lao động-thương binh và Xã hội và Bộ Quốc phòng phát động phong trào “Tặng sổ tiết kiệm tình nghĩa” trong cả nước, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân đối với những người có công với cách mạng. 281. Cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú ở các đơn vị cơ sở” do ai phát động và phát động khi nào? Cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú ở các đơn vị cơ sở” trong toàn quân đo Tổng cục Chính trị phát động vào tháng 5-1992. 282. Khi mới thành lập, Tổng công ty xây dựng Trường Sơn có những công ty, thành viên nào? Ai là Tổng giám đốc? Ngày 22-6-1993, thành lập Tổng công ty xây dựng Trường Sơn gồm tám công ty xây dựng (470, 472, 565, 118, 344, 384, 98, 99); Công ty tư vấn và khảo sát thiết kế xây dựng; Công ty xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng; Công ty vật liệu vận tải và xây dựng 17; Công ty vật tư vận tải và xây dựng 532; Xí nghiệp khai thác than 35, Xí nghiệp khai thác than 86; Nông trường 53; các xí nghiệp xây dựng 4, 144, 145, 335; Trường trung học cầu đường và dạy nghề. Tổng giám đốc: Đỗ Xuân Diễn. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Bảy, 2009, 08:54:22 am 283. Đài kỷ niệm các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khánh thành vào thời gian nào?
Đài tưởng niệm khánh thành vào ngày 7-5-1994 (đúng vào dịp kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ). 284. Có bao nhiêu bà mẹ dược tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng theo Quyết định của Chủ tịch nước ký ngày 1y-12-1994? Ngày 17- 12- 1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký Quyết định tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự nhà nước Bà mẹ Việt Nam Anh hùng cho 19.879 bà mẹ của 53 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (có 9.672 mẹ được tặng, 10.272 mẹ được truy tặng, trong đó có 390 mẹ và vợ liệt sĩ) đã có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Cùng với việc ban hành quyết định phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước cho 60 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trước đó cả nước đã có 19.939 bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý này. 285. Phong trào “Phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và thực hiện chính sách hậu phương quân đội” trong toàn quân do ai phát động và phát động vào thời gian nào? Phong trào này do Thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương phát động ngày 20-7-1995. 286. Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự thuộc Bộ Quốc phòng dược thành lập khi nào? Nhiệm vụ được giao khi mới thành lập? Ngày 27-10-1998, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 1455/1998/QP-QĐ thành lập Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự thuộc Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ: nghiên cứu, vận dụng quan điểm của Đảng vào nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nghiên cứu những vấn đề lý luận thực tiễn về công tác chính trị trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, những vấn đề về xã hội học, quân sự văn hoá học, đạo đức học quân sự, ứng dụng tâm lý học vào hoạt động quân sự, công tác đảng - công tác chính trị trong quân đội. 287. Trung tâm khoa học - kỹ thuật và công nghệ quân sự Bộ Quốc phòng thành lập vào thời gian nào? Nhiệm vụ được giao khi mới thành lập? Trung tâm khoa học - kỹ thuật và công nghệ quân sự - Bộ Quốc phòng thành lập ngày 10-9-1999, trên cơ sở sắp xếp và tổ chức lại Viện Kỹ thuật quân sự và các viện kỹ thuật khác của Bộ Quốc phòng. Nhiệm vụ là tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến phục vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Bảy, 2009, 09:15:04 am 288. Truyền thống của ngành kỹ thuật quân sự?
Quá trình xây dựng và thực hiện nhiệm vụ, ngành kỹ thuật quân sự đã xây dựng nên những truyền thống tốt đẹp. Trung thành vớt Tô quốc, với Đảng và nhân dân; tận tụy phục vụ bộ đội xây dựng và chiến đấu thắng lợi; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tự túc tự cường, khắc phục khó khăn, đoàn hết, hoàn thành mọi nhiệm vụ. 289. Truyền thống của ngành hậu cần quân đội? Quá trình xây dựng và bảo đảm, phục vụ, ngành hậu cần đã xây dựng nên những truyền thống tốt đẹp: Trung thành vô hạn với Tổ quốc, nới Đảng và nhân dân; tận tâm phục vụ quân đội xây dựng và chiến đấu thắng lợi, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tự túc tự cường khắc phục khó khăn; nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể. 290. Kể tên một số cơ sở sản xuất quốc phòng và doanh nghiệp quân đội tiêu biểu tham gia phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đó là: Công ty 89, Công ty đóng tàu Hồng Hà, Công ty Tân cảng Sài Gòn, Công ty viễn thông quân đội, Tổng Công ty bay dịch vụ Việt Nam, Công ty xây dựng công trình hàng không, Công ty xây dựng 319, Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn (Binh đoàn 12)… 291. Nêu vài thành tích tiêu biểu của Bính đoàn 12 trong tham gia xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, dịch vụ công cộng...? Binh đoàn 12 - Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn là doanh nghiệp kinh tế - quốc phòng tự hạch toán kinh doanh, thông qua phương thức đấu thầu là chủ yếu. Tổng Công ty đã khắc phục nhiều khó khăn thi công hoàn thành bàn giao hàng ngàn công trình trên khắp mọi miền của Tổ quốc góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng của đất nước ngày càng khẳng định được vị trí, uy tín của mình, như. thuỷ điện Hoà Bình, đường dây 500 KV Bắc - Nam, đường ôtô cao tốc bắc Thăng Long - Nội Bài, đường Láng - Hoà Lạc, quốc lộ 1A, quốc lộ 5, quốc lộ 6, quốc lộ 18, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nghĩa trang liệt sĩ A1 (Điện Biên Phủ), nghĩa trang Hàng Dương (Côn Đảo), sân bay Điện Biên Phủ, sân bay Buôn Ma Thuột, sân bay Savannakhét (Lào), dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 5 (km 47 - km 62). Từ năm 1998 đến nay, nhất là từ năm 2000, Tổng Công ty đã mở rộng liên doanh, liên kết với các nhà thầu trong nước và quốc tế tham gia đấu thầu và thắng thầu thi công những công trình lớn ở trong nước và quốc tế như km30 - 47 (quốc lộ 5), quốc lộ 18 (Biểu Nghi - Bãi Cháy); Pháp Vân - Cầu Giẽ, quốc lộ lA: các HĐ 2, 3, 4 (Vinh - Đông Hà), quốc lộ lA: HĐ 2 Huế - Hải Vân. Đặc biệt đối với công trình đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1 (2000 - 2005); tham gia khảo sát thiết kế 1.192 km (trong đó thiết kế kỹ thuật 180 km, thiết kế kiên cố hoá 126 điểm); rà phá bom mìn vật nổ 310 km đảm bảo an toàn cho thi công; đảm nhận thi công 138 km đường Hồ Chí Minh (nhánh tây) từ Khe Gát - Tăng Ký. Tất ca các công trình Tổng Công ty tham gia thi công đảm bảo tiến độ, chất lượng và hiệu quả, giữ được uy tín của đơn vị quân đội xây dựng kinh tế trong đó có những công trình được tặng Huy chương Vàng chất lượng cao và Bằng chứng nhận công trình chất lượng tiêu biểu thập kỷ 90 thế kỷ XXI(1). 292. Nêu vài thành tích tiêu biểu của Quân chủng Hải quân trong tham gia phát triển kinh tế biển, đảo? Các doanh nghiệp kinh tế của Quân chủng Hải quân đã phát huy tốt vai trò nòng cốt tham gia xây dựng phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh trên các vùng biển đảo, chủ động đề xuất xây dựng các dự án đội tàu công ích, dịch vụ hậu cần nghề cá, đánh bắt xa bờ, làm nòng cốt đưa ngư dân ra khai thác hải sản ở vùng biển vịnh Bắc Bộ, DK1, quần đảo Trường Sa, vùng biển tây - nam Tổ quốc… thực hiện có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt chế biến hải sản. Hằng năm các doanh nghiệp đều hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng, sản xuất kinh doanh có lãi, một số sản phẩm dịch vụ đã có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Vỉ thế các doanh nghiệp kinh tế biển đảo được khẳng định(2). (1), (2)Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 15 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.135-l36, 136-137. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Bảy, 2009, 09:18:20 am 293. Những thành tích nổi bật của Binh chủng hoá học trong tham gia xử lý chất độc, chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển kinh tế - xã hội?
Binh chủng hoá học đã nghiên cứu công nghệ xử lý nước và các chất thải nguy hại, khắc phục sự cố về phóng xạ hoá học trong sản xuất bảo vệ môi trường sinh thá,i là đơn vị duy nhất được tặng Cúp vàng quốc gia “Vì sự nghiệp xanh Việt Nam” và Cúp vàng giải thưởng “Sáng tạo khoa học Việt Nam”. Nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đo đó các sự cố xảy ra cũng rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi phải có công nghệ xử lý khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Với ý thức trách nhiệm và quyết tâm cao, bộ đội hoá học đã trực tiếp xử lý an toàn, hiệu quả nhiều sự cố về chất độc xạ trên phạm vi toàn quốc. Tiêu biểu như: xử lý ô nhiễm do huỷ hơn 40.000.000m pháo tại Bình Đà - Hà Tây năm 1995; xử lý trên 180 tấn hoá chất độc do vỡ container tại cảng Chùa Vẽ - Hải Phòng năm 1998; xử lý ô nhiễm H2S trong khí đồng hành tại giàn khoan mỏ Bạch Hổ (1998-l999); xử lý ô nhiễm tràn dầu tại Cần Thơ (1997-1998); tuyển loại xỉ cho Nhà máy nhiệt điện Phả Lại để thu hồi hàng ngàn tấn than và sử dụng phế liệu làm phụ gia cho xi măng (1996-1999), v.v.. Phát huy thế mạnh và từ kinh nghiệm thực tế xử lý chất độc tồn lưu sau chiến tranh, bộ đội hoá học đã nghiên cứu quy trình công nghệ và chế tạo thành công lò thiêu đốt thuốc bảo vệ thực vật nhập lậu và tồn lưu do quá hạn trên phạm vi cả nước. Hiện nay, Trung tâm công nghệ xử lý môi trường Binh chủng hoá học là cơ sở hàng đầu đã và đang xử lý an toàn các loại thuốc bảo vệ thực vật, góp phần trực tiếp giải quyết vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường do thuốc bảo vệ thực vật cho các địa phương. Từ năm 1999 đến nay, bộ đội hoá học đã tiêu huỷ khoảng 30 tấn cho các tỉnh Nghệ An, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây... Binh chủng đã triển khai nghiên cứu và ứng dụng thành công quy trình công nghệ xử lý nước từ nguồn nước mặt, nước ngầm, nước bị ô nhiễm thành nước sinh hoạt phục vụ cho các đơn vị trong quân đội và nhân dân. Đã chế tạo các thiết bị lọc nước có công suất từ 5 - 200m3/ngày, lắp đặt tại nhiều đơn vị và đồn biên phòng, bộ đội Trường Sa… đặc biệt là đã nghiên cứu thành công thiết bị lọc nước CB-2 có khả năng cung cấp nước sạch từ nguồn nước ô nhiễm do lũ lụt. Năm 2002, thiết bị CB-2 được UNICEP cấp chứng chỉ vì đạt giải nhất và được Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam - Bộ Khoa học và Công nghệ trao giải Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam (VIPOTEX), được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Bằng lao động sáng tạo. BỘ đội hoá học cũng đã chế tạo lắp đặt thành công thiết bị xử lý nước y tế cho Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh chế tạo ạt liệu và phương tiện để cung cấp nước vô trùng, không khí sạch cho một số cơ sở y tế trong và ngoài quân đội(1). 294. Nêu vài thành tích nổi bật của quân đội trong tham gia xây dựng phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, xoá đói giảm nghèo? Quân đội đã thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng Nhà nước về phát triển khu kinh tế - quốc phòng phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, xoá đói giảm nghèo. Đến nay đã tổ chức được 17 đoàn kinh tế quốc phòng, nhiều đoàn đã hoạt động có hiệu quả, thu hút người lao động góp phần tích cực vào việc phân bố dân cư, làm nòng cốt cho phát triển kinh tế vùng sâu của địa phương và đất nước như: Các khu kinh tế - quốc phòng Mẫu Sơn, Bảo Lạc Quân khu I, Vị Xuyên Quân khu II, Bình Liêu - Quảng Hà - Móng Cái, Bắc Hải Sơn Quân khu III, Khe Sanh, Kỳ Sơn, Aso - A lưới Quân khu IV, Bù Gia Phúc Quân khu VII… đã tận dụng mọi nguồn vốn để đẩy nhanh tiến độ thi công các hạng mục công trình trong các khu kinh tế - quốc phòng. Binh đoàn 15, Binh đoàn 16 đã khai hoang trồng được 24.163 ha cao su (Binh đoàn 15 triển khai từ năm 1985 có 23.000 ha cây công nghiệp; trong đó đã cho sản phẩm khoảng 1/4 tổng diện tích); 3.700 ha cà phê, 3.380 ha điều cao sản, 34 ha ca cao, 31 ha hồ tiêu, 300 ha lúa nước. Lợi nhuận thu được hằng năm tại khu vực này đạt hơn 10 tỷ đồng. Khu kinh tế - quốc phòng nam Đắc Lắc - Bình Phước: Đã trồng được 1.163 ha cao su, 1.265 ha cà phê vối, 153 ha cà phê chè, 815 ha điều cao sản, 31 ha hồ tiêu(2. 295. Nêu một số hoạt động tiêu biểu của quân đội ta trong tham gia xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở địa phương, trọng tâm là vùng sâu, vùng xa, biên giới? Các đơn vị trong toàn quân đã phối hợp với cấp uỷ, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể ... tham gia củng cố, nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị cơ sở ở 10 566 lượt xã, phường (trong đó, có 4.021 lượt xã miền núi, vùng các dân tộc thiểu số, 2.295 lượt xã vùng các tôn giáo; 676 lượt xã có vụ việc phức tạp phát sinh). Riêng bộ đội biên phòng đã trực tiếp tham gia củng cố nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị ở 411 lượt xã, phường trên tuyến biên giới, góp phần giữ vừng chủ quyền an ninh tuyến biên giới. - Tổ chức kết nghĩa giữa 5.578 đầu mối đơn vị quân đội với cấp uỷ, chính quyền địa phương (trong đó cấp huyện, thị: l04; cấp thôn, xã: 2.992; trên 2.000 đầu mối là đoàn thể quần chúng, trường học , cơ quan, xí nghiệp…). - Từ năm 1990 đến năm 2000, các đơn vị đã tổ chức 7.782 lượt đại đội, 1.983 lượt tiểu đoàn, 308 lượt trung đoàn. với hơn 788.600 lượt cán bộ, chiến sĩ hành quân dã ngoại làm dân vận tại 4.962 lượt cơ sở xã, bản hướng dẫn kỹ thuật canh tác nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng trường, trạm... đạt kết quả tốt. - Đã thực hiện tốt chủ trương tăng cường cán bộ cho cơ sở địa phương khó khăn. Nhiều đồng chí sĩ quan tăng cường được nhân dân tín nhiệm đã bầu vào các chức vụ chủ chốt ở xã. bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch xã đội trưởng… Đến năm 2003, toàn quân có 1.161 cán bộ quân đội tăng cường ở 515 xã, phường(3). (1)Sđd, tr. 137-138. (2)Sđd, tr. 139. (3)Sđd, tr. 141-142. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 29 Tháng Bảy, 2009, 09:21:42 am 296. Nêu vài thành tích nổi bật của quân đội ta trong việc xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân?
Tham gia giúp dân xoá đói giảm nghèo: - Giúp nhân dân các địa phương 26 triệu ngày công lao động, mở 4.679 km đường giao thông nông thôn; tu bổ, nâng cấp 26.300 km đường giao thông vùng sâu, vùng xa; vận động và giúp 48.066 hộ dân định canh, định cư, giúp 8.300 hộ xoá đói giảm nghèo với số tiền trên 10 tỷ đồng; tạo việc làm mới cho 18. 165 người; sửa chữa 2.960 căn nhà cho nhân dân và 461 giếng nước. - Bộ đội biên phòng thực hiện gần 200 dự án phát triển kinh tế - xã hội ở tuyến biên giới, hải đảo; trị giá hàng chục tỷ đồng. Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng: - Phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với Bộ Y tế thực hiện có hiệu quả Chương trình quân dân y kết hợp (Chương trình 12). - Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, phòng chống HIV/AIDS, bệnh bướu cổ cho 1.585.000 lượt người. Từ 2001-2003, khám chữa bệnh cho 590.505 người. - Xây mới và tu sửa 735 trạm xá, cơ sở y tế; mua sắm dụng cụ y tế, giúp địa phương 2,1 tỷ đồng. - Khám chữa bệnh, phát thuốc cho 7 triệu lượt người; cử 500 đội quân y đi khảo sát, tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh và xây dựng y tế cơ sở. - Giúp địa phương đào tạo 152 tiến sĩ, phó tiến sĩ, (nay là tiến sĩ) thạc sĩ y khoa, 366 bác sĩ, 7.800 y sĩ, dược sĩ trung cấp, cán bộ y tế cơ sở; huấn luyện kỹ thuật cấp cứu ban đầu cho hơn 28.000 lượt người. Quân y viện 108 giúp đồng bào Mông ở khu vực Mường Nhé. Mường Chà, Lai Châu đào tạo 40 y tá bản. Về tổ chức giáo dục: - Tổ chức và giảng dạy xoá mù chữ cho 2.603 lớp với 71.078 học viên; phổ cập giáo dục tiểu học 788 lớp cho hơn 20.400 người, chủ yếu là cán bộ ấp, bản, đồng bào dân tộc thiểu số. - Xây mới, sửa chữa trên 2.297 phòng học; đóng bàn ghế. mua sách vở, đồ dùng học tập trị giá gần 2 tỷ đồng. Phối hợp nghiên cứu thành công 39 đề tài y khoa, kỹ thuật, công nghệ, đào tạo 129 kỹ sư dân sự. Văn hoá - thể thao: - Chiếu phim, phối hợp biểu diễn văn nghệ, giao lưu văn hoá 250.975 buổi; hoạt động thể thao cơ sở 9.728 lần. - Phối hợp và giúp đỡ địa phương xây dựng 240 công trình tháp ăng ten thông tin, truyền hình; 200 trạm phát thanh sóng ngắn cho 200 huyện, thị xã, 17 km đường dây truyền thanh xã. - Tham gia xây dựng hơn 1.276 thôn, ấp, xã văn hoá. Chính sách xã hội: - Nhận phụng dưỡng 1.372 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (mỗi tháng bình quân trợ giúp mỗi mẹ từ 150.000 - 300.000 đồng; sửa chữa và xây mới 5.250 nhà tình nghĩa; tặng 23.491 sổ tiết kiệm cho đối tượng chính sách, gia đình người có công với cách mạng (bình quân mỗi sổ từ 300.000 - 500.000 đồng). Tham gia xây dựng quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ giúp đỡ trẻ em tàn tật, người bị nhiễm chất độc màu da cam 67,9 tỷ đồng. - Quyên góp, ủng hộ nhân dân vùng bị thiên tai 30,5 tỷ đồng. 300 tấn lương thực, trên 6 vạn bộ quần áo, gần 1.000 cơ số thuốc. huy động hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ; sử dụng hơn 600 lượt tàu thuyền, gần 500 chuyến bay và hàng ngàn lượt xe quân sự tham gia cứu hộ, cứu nạn, giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả bão lũ. - Xây dựng mới hai làng (Hải Thành - Thuận An - Thừa Thiên Huế và Phương Trung - Đại Lộc - Quảng Nam) bị lũ cuốn trôi với số tiền là 4,4 tỷ đồng. - Từ năm 2001 đến 2003, hằng năm Bộ Quốc phòng đều trích từ quỹ phòng chống thiên tai hàng trăm triệu đồng giúp các địa phương khu vực miền Trung khắc phục hậu quả thiên tai. Năm 2002, Bộ Quốc phòng giúp các tỉnh Nghệ An, Hà Tỉnh khắc phục hậu quả lũ lụt và trực tiếp giúp đồng bào Hương Sơn, Hà Tĩnh xây dựng lại một làng bị lũ cuốn trôi trị giá gần 1 tỷ đồng. Thực hiện cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”. Thực hiện Chỉ thị số 231O/CT-BQP của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ngày 23-10-2000, về cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, trong ba năm (2001-2003), cán bộ và chiến sĩ toàn quân đã trích lương và phụ cấp đóng góp xây dựng quỹ “Ngày vì người nghèo”. Ban thường trực quỹ “Ngày vì người nghèo” của Bộ Quốc phòng đã sử dụng quỹ vào mục đích giúp nhân dân vùng đặc biệt khó khăn và gia đình sĩ quan xoá đói giảm nghèo. Những việc làm cụ thể: - Nộp vào quỹ “xoá đói giảm nghèo” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: 2.215.122.000 đồng. - Hỗ trợ 1.001 gia đình sĩ quan có hoàn cảnh khó khăn: 1.605.000.000 đồng. - Hỗ trợ tỉnh Sơn La xây dựng một trường dân tộc nội trú cụm xã vùng sâu, vùng xa tại xã Dêm Cang, huyện Sông Mã: 2.000.000.000 đồng. - Giúp đồng bào nghèo ở Tây Nguyên trong dịp bầu cử Quốc hội (khoá XI): 500.000.000 đồng. - Hỗ trợ bốn tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum. Quảng Nam xây dựng mỗi tỉnh 5- 10 căn nhà cho người nghèo, trị giá 500.000.000 đồng. - Hỗ trợ hai xã Tam Kim và Hoa Tham, huyện Nguyên Bình xây dựng nhà văn hoá ở khu ATK: 1.500.000.000. - Hỗ trợ hai xã Tú Nang - Sơn La và Đăkphne - Kon Tum xoá đói giảm nghèo: 140 triệu đồng. - Hỗ trợ 10 gia đình có quân nhân hy sinh trong khi làm nhiệm vụ thuộc Quân khu IV: 110.000.000 đồng. 297. Những phần thưởng cao quý Đảng, Nhà nước dã trao tặng quân đội ta? Danh hiệu cao quý (đến tháng 6-2004) Đảng, Nhà nước đã tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động cho các tập thể và cá nhân qua các thời kỳ: I - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Tổng số được tuyên dương anh hùng: Tập thể: 4.242. Cá nhân: 1.297. Gồm: 1. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp: - Tập thể: 468 lượt tập thể (8 tỉnh, 95 huyện thị xã, 352 xã, phường, thị trấn; 13 đơn vị). - Cá nhân: 177 đồng chí. 2. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và bảo vệ Tổ quốc: - Tập thể: 3.698 lượt tập thể (54 tỉnh, thành phố, 361 huyện, thị xã; 1.851 xã, phường, thị trấn; 1.432 đơn vị). - Cá nhân: 1.113 đồng chí. 3. Thời kỳ đổi mới: - Tập thể: 76 đơn vị. - Cá nhân: 7 đồng chí. II - Anh hùng lao động: - Tập thể: 14 đơn vị. - Cá nhân: 6 đồng chí. Huân chương, huy chương (đến tháng 6-2004) 1. Huân chương, huy chương Nhà nước ta trao tặng: - Huân chương Sao vàng cho 24 tập thể (quân đội 4 lần) và 4 lần cá nhân. - Huân chương Hồ Chí Minh cho 124 tập thể và 42 cá nhân. - Huân chương Quân công, Chiến công cho 37.097 tập thể và 810.167 cá nhân. - Huân, Huy chương Chiến thắng cho 604.251 cá nhân. - Huân chương Lao động cho 16 tập thể và 12 cá nhân. 2. Huân chương, huy chương do Nhà nước Lào và Nhà nước Campuchia trao tặng: - Nhà nước Lào trao tặng cho 59 tập thể và 141.251 cá nhân. - Nhà nước Campuchia trao tặng cho 143 tập thể và 162.931 cá nhân. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 06:09:05 am Phần thứ hai CÁC ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, QUÂN ĐỘI TA NÓI VỀ BẢN CHẤT, TRUYỀN THỐNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 298. Trong bài nói tại buổi chiêu đãi mừng quân đội ta 20 tuổi, Bác Hồ đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? Quân đội ta là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng. Mới ra đời, với gậy tầy, súng kíp đã cùng toàn dân đánh Pháp, đánh Nhật, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công. Lên mười tuổi thì cùng toàn dân giành được thắng lợi lớn Điện Biên Phủ, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp được Mỹ giúp sức. Quân đội ta anh dũng trong kháng chiến mà cũng anh dũng trong hoà bình. Đã làm tốt nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc. đập tan mọi hành động khiêu khích phá hoại của đế quốc Mỹ và tay sai. Đã giáng trả lại đế quốc Mỹ những đòn đích đáng như ngày 5-8-1964 vừa qua. Quân đội ta cũng đã góp phần tích cực xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, làm tròn trách nhiệm của một quân đội cách mạng. Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. quân và dân như cá với nước, đoàn kết một lòng, học hỏi giúp đỡ lẫn nhau. Quân đội ta có tinh thần yêu nước chân chính, lại có tinh thần quốc tế vô sản cao cả, luôn luôn đoàn kết với nhân dân và quân đội các nước xã hội chủ nghĩa anh em, với nhân dân các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục . 299. Trong lời khai mạc tại buổi lễ trọng thể kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? …Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời, chiến đấu chiến thắng trưởng thành và lớn mạnh trong phong trào cách mạng của nhân dân ta, đấu tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bốn mươi năm qua, lớp lớp thanh niên nam nữ các dân tộc trên đất nước ta đã kế tiếp nhau cầm súng chiến đấu, cùng toàn dân đánh thắng hai đế quốc to và chủ nghĩa bá quyền, bành trướng giành lại độc lập, thống nhất và bảo vệ vừng chắc bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc, góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân hai nước Lào và Campuchia anh em. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-lênin bách thắng, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh được nhân dân hết lòng thương yêu đùm bọc, được các nước anh em trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa trước hết là Liên Xô đồng tình, giúp đỡ, được nhân dân yêu chuộng hoà bình, công lý trên thế giới ủng hộ, cổ vũ, Quân đội nhân dân cùng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên, nâng chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam lên tầm vóc cao mới, xây dựng nền nghệ thuật quân sự Việt Nam ưu tú, viết lên những trang sử huy hoàng của nhân dân ta trong thời đại mới. Đảng ta, Nhà nước ta, nhân dân ta hết sức vui mừng và tự hào về những chiến công rực rỡ và sự lớn mạnh không ngừng của quân đội ta(2). (1)Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr.349-350. (2)Báo Quân đội nhân dân, ngày 22-12-1984. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 06:11:32 am 300. Bản chất, truyền thống của quân đội ta được thể hiện qua phát biểu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại lễ kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam?
… Hai mươi lăm năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch kính mến, được nhân dân cả nước thương yêu, đùm bọc, quân đội ta đã phát triển từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, liên tục đánh thắng phát xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, luôn luôn làm tròn nghĩa vụ đối với dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Sinh ra và lớn lên trong cuộc đấu tranh cách mạng vĩ đại của toàn dân, được Đảng và Bác Hồ trực tiếp tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, quân đội ta đã xây dựng nên truyền thống cách mạng vẻ vang: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn vào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Quân đội ta rất xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, của nhân dân, xứng đáng là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng…(1) 301. Trong lời tuyên dương công trạng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập quân đội, đồng chí Trường Chinh đã nói gì về bản chất, thuyền thống của quân đội ta? Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sinh ra từ trong cao trào cách mạng của quần chúng nhân dân nước ta, được Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí sinh tổ chức, lãnh đạo và giáo dục. Trải qua 30 năm xây dựng và liên tục chiến đấu, các lực lượng vũ trang nhân dân ta lớn mạnh không ngừng, chiến thắng vẻ vang, cùng toàn dân viết nên những trang sử oanh liệt nhất, huy hoàng nhất của dân tộc. Từ ngày mới thành lập, các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã cùng toàn dân đánh đổ ách thống trị của phát xít Nhật, làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Qua chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, các lực lượng vũ trang nhân dân ta đánh bại quân đội Pháp xâm lược, cùng toàn dân đưa cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn một nửa nước ta. Trải qua 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các lực lượng vũ trang nhân dân hai miền Nam, Bắc đã đánh bại quân đội Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, cùng toàn dân giành thắng lợi vĩ đại năm 1972, buộc địch phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam, chấm dứt ách chiếm đóng của quân đội nước ngoài từ hơn một thế kỷ nay trên đất nước ta, giáng một đòn nặng nề vào chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ và cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của nhân dân thế giới. Các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã cùng toàn dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng ruộng đất, góp phần tích cực vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Các lực lượng vũ trang nhân dân ta luôn làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng đối với Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Ngày nay, các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam hùng mạnh đang cùng toàn dân ra sức bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh. Dưới ngọn cờ trăm trận trăm thắng của Đảng và Hồ Chủ tịch, 30 năm qua, lớp lớp cán bộ và chiến sĩ kế tiếp nhau đánh giặc, cứu nước, góp phần xây dựng nước nhà, nêu những tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Từ nhân dân mà ra, với bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân mang trong mình dòng máu anh hùng của dân tộc Việt Nam, các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn luôn nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, anh dũng tuyệt vời, mưu trí, sáng tạo, đoàn kết, kỷ luật, cần kiệm, ham học, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó…(2) (1)Báo Quân đội nhân dân, ngày 22-12-1969. (2)Báo Quân đội nhân dân, ngày 22-12-1974. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 06:16:27 am 302. Trong diễn văn khai mạc tại cuộc mít tinh kỷ niệm lần thử 30 ngày thành lập quân đội, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta?
… Suốt 30 năm qua, các đồng chí đã vượt muôn vàn khó khăn gian khổ, đã chiến đấu liên tiếp và đã chiến thắng vẻ vang, góp phần rất to lớn vào thắng lợi huy hoàng của dân tộc. Hôm nay là ngày vinh quang của các đồng chí cũng và ngày vinh quang của nhân dân Việt Nam. Các đồng chí hãy phát huy cao hơn nữa truyền thống tốt đẹp của quân đội và của dân tộc, kiên trì rèn luyện để trở thành hùng mạnh hơn nữa, một lòng phấn đấu để thực hiện lời dạy thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, góp phần to lớn hơn nữa vào sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc trong giai đoạn mới: giữ vững và củng cố hoà bình lâu dài; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành độc lập và dân chủ ở miền Nam, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc thân yêu của chúng ta, góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới…(1) 303. Bản chất, truyền thống của quân đội ta được thể hiện trong diễn văn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân kỷ niệm lần thứ 28 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam? … Chúng ta luôn luôn ghi lòng tạc dạ rằng: Toàn bộ sự nghiệp của dân tộc ta, của các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong thời đại ngày nay, đều bắt nguồn từ đường lối chính trị, quân sự bách chiến bách thắng, từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, Đảng Lao động Việt Nam quang vinh. Sự trưởng thành và mọi chiến công của quân đội đều gắn liền với công lao nuôi dưỡng của nhân dân ta, người mẹ hiền muôn vàn yêu quý và rất anh hùng. Trong những ngày lịch sử vẻ vang này, tất cả chúng ta thành tâm tưởng nhớ Bác Hồ kính yêu, vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và của dân tộc, nhà chiến lược thiên tài, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Bác Hồ là người đã vạch đường chỉ lối cho toàn Đảng, toàn dân ta tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, đã sáng lập ra quân đội ta, theo dõi từng bước đi của quân đội từ buổi mới ra đời cho đến ngày khôn lớn, dìu dắt quân đội ta trở thành một quân đội “Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Trong sự nghiệp của chúng ta, Hồ Chí Minh đời đời sống mãi…(2) 304. Trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng nhân dịp kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Võ Chí Công đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? Ra đời từ những đơn vị tự vệ đỏ, du kích Ba Tơ du kích Bắc Sơn, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tích Hồ Chí Minh lãnh đạo, giáo dục, được nhân dân thương yêu chăm sóc, giúp đỡ Quân đội nhân dân Việt Nam đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh và chiến thắng vẻ vang. Trải qua ba cuộc kháng chiến anh dũng đầy gian khổ và hy sinh, buổi ban đầu chỉ có vũ khí thô sơ như gậy tầm vông, mã tấu… quân đội ta đã sát cánh cùng toàn dân đánh thắng một kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh…(3) 305. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị quân chính toàn quân ngày 27-12-1990, đồng chí Nguyễn Văn Linh dã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? Trải qua tất cả các thời kỳ lịch sử của cách mạng nước ta, quân đội ta luôn luôn xứng đáng là quân đội anh hùng, rất tin cậy của Đảng và nhân dân ta. Trước mắt chúng ta có nhiều khó khăn phức tạp, nhưng cũng có nhiều khả năng và thuận lợi. Trong bất cứ tình huống nào, nhân dân và quân đội ta vẫn vững vàng tiến lên phía trước, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Dù trời yên biển lặng hay cuồng phong, bão táp, quân đội ta cũng làm theo lời Bác Hồ dạy: “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(4). (1)Báo Quân đội nhân dân, ngày 23-2-1974. (2)Báo Quân đội nhân dân, ngày 22-12-1972 (3)Báo Quân đội nhân dân, ngày 21-12-1989 (4)Nguyễn Văn Linh: Đổi mới để tiến lên, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 06:20:07 am 306. Trong bài diễn văn dọc tại lễ kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Đỗ Mười đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta?
… Sinh ra và lớn lên trong phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc do Đảng ta lãnh đạo, Quân đội nhân dân Việt Nam đã từng bước phát triển trưởng thành và ngày nay là một quân đội nhân dân vững mạnh đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lịch sử 45 năm chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta gắn liền với lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng, Bác Hồ kính yêu tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện và đã từng là những đội tự vệ đỏ trong cao trào Xôviết Nghệ - Tĩnht, Đội du kích Bắc Sơn, Đội du kích Nam Kỳ, các đội vũ trang Cao Bằng, Cứu quốc quân, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân Đội du kích Ba Tơ, và đội du kích tự vệ các chiến khu khác… mà trưởng thành. Ngày 22-12-1944, thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên. theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được lấy là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày truyền thống của các lực lượng vũ trang nhân dân ta đồng thời là ngày hội của toàn dân. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân, vì dân và mãi là như vậy. Từ khi ra đời đến nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đã gắn bó máu thịt với nhân dân luôn luôn được nhân dân thương yêu đùm bọc. Quân đội ta đã phát huy được bản chất cách mạng của giai cấp công nhân và truyền thống quật cường của dân tộc...(1) 307. Trong bài “Mãi mãi xứng đáng với danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ”, với lòng tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân” đồng chí Lê Đức Anh đãnói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? Được Đảng, Bác Hồ sáng lập và lãnh đạo, được nhân dân các dân tộc Việt Nam hết lòng cưu mang, giúp đỡ được rèn luyện trong phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng cùng với toàn dân, quân đội ta mấy chục năm ròng từ chân đất, bao gạo, tầm vông, súng trường đã lớn lên thành những binh đoàn hùng mạnh, chiến đấu cực kỳ anh dũng, vượt qua mọi gian khổ. hy sinh. đánh thắng những kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần, lập nên những chiến công oanh hệt, từ trận đầu Phai Khắt - Nà Ngần đến trận Điện Biên Phủ rồi đến chiến dịch Hồ Chí Minh, làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của quân đội, cùng với toàn dân viết nên bản anh hùng ca kỳ diệu của chiến tranh Việt Nam(2). 308. Trong bài phát biểu tại Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII, đồng chí Lê Khả Phiêu đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? … Quân đội ta từ ngày thành lập đến nay, luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối về mọi mặt của Đảng. Sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với quân đội ta là nhân tố quyết định đảm bảo quân đội làm tròn sứ mệnh trước Tổ quốc và nhân dân… Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ nhân dân mà ra, được sự đùm bọc, nuôi dưỡng, cổ vũ tận tình không sao kể xiết, quân đội và Đảng bộ quân đội đã thực hiện lời Bác Hồ dạy: “Trung với Đảng hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Quân đội ta đã rèn luyện bản chất giai cấp công nhân, vì nhân dân, vì giai cấp, trở thành một đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân sản xuất, vừa làm tròn nhiệm vụ chính trị, vừa làm tròn nghĩa vụ dân tộc, vừa làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Trong lịch sử dân tộc ta, hình ảnh người chiến sĩ yêu nước thương dân nhất là hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong lịch sử thế giới, một trong những hình ảnh người chiến sĩ vũ trang cách mạng đẹp đẽ và cao cả nhất, kính yêu tôn trọng nhân dân bạn cũng như nhân dân mình là hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”(3). 309. Trong bài phát biểu tại Hội nghị quân chính toàn quân ngày 2-12-2003, đồng chí Nông Đức Mạnh dã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? Trải qua 60 năm xây dựng và chiến đấu, trưởng thành, quân đội đã xây dựng nên truyền thống và phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ “Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Sự hùng mạnh của quân đội ta là niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong giai đoạn mới của cách mạng, quân đội cần tiếp tục giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống vẻ vang, nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ đồng thời ra sức tranh thủ thời cơ, tận dụng thời gian xây dựng về mọi mặt theo hướng cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tạo sự chuyển biến tiến bộ mạnh mẽ và vững chắc hơn nữa để đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước(4). (1)Báo Quân đội nhân dân, ngày 22-12-2004. (2)Báo Quân đội nhân dân, ngày 21-12-1994. (3)Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 1-2001, tr. 4. (4)Báo Quân đội nhân dân, ngày 3-1-2003. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 06:29:05 am 310. Trong bài “Quân đội nhân dân phấn đấu để mãi mãi xứng đáng với lòng tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân” đồng chí Trần Đức Lương dã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta?
… 55 năm qua, dướỉ sự lãnh đạo, giáo dục của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo của Nhà nước, sự đùm bọc nuôi dưỡng của nhân dân Quân đội nhân dân Việt Nam đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh cùng toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống và phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi vĩ đại của quân và dân ta trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc sẽ mãi mãi là trang sử chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ Việt Nam, trong đó cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn chói sáng như những người con trung hiếu của dân tộc. Không chỉ trong kháng chiến, chống ngoại xâm mà trong hoà bình, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của quân đội, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong công tác và lao động sản xuất, các lực lượng vũ trang nhân dân cũng lập công xuất sắc. Các đơn vị quân đội đã và đang là một lực lượng quan trọng, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng đời sống văn hoá mới thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở nhiều vùng của đất nước, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo…(1) 311. Trong bài diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Phan Văn Khải đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? …. Cách đây 55 năm, ngày 22-12-1944, theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân trực tiếp và đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập, đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam và các lực lượng vũ trang cách mạng trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc của nhân dân. Người được Đảng, Bác Hồ giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân chính là người sau này làm Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống Pháp và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của nước Việt Nam ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ - đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Hơn nửa thế kỷ qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng toàn dân giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, lập liên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Khi đế quốc Mỹ thay chân Pháp vào xâm lược nước ta, các lực lượng vũ trang nhân dân một lần nữa lại cùng toàn dân thực hiện cuộc chiến tranh giải phóng chống lại tên đế quốc hùng mạnh nhất thời đại, càng đánh càng mạnh, càng thắng, cho đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Mình lịch sử, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những năm qua, trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, quân đội ta luôn phát huy bản chất cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Quân đội nhân dân cùng các lực lượng vũ trang khác thực sự là nòng cốt cùng toàn dân đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu. thủ đoạn của các thế lực thù địch bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững hoà bình và ổn định cho sự phát triển của đất nước, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo…(2) 312. Trong diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? … Sinh ra và lớn lên trong phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân lao động do Đảng ta lãnh đạo, ngày nay quân đội ta đã trở thành một quân đội hùng mạnh nhất trong lịch sử của dân tộc. Đoàn kết thành một khối thống nhất chung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn kính mến, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, tiếp tục phát huy bản chất cách mạng của giai cấp công nhân và truyền thống vẻ vang của mình, các lực lượng vũ trang nhân dân ta đang góp phần tích cực vào những thắng lợi chung của cách mạng cả nước…(3) 313. Trong bài “Quân đội ta mãi mãi là quân đội của nhân dân, vì nhân dân chiến đấu” đồng chí Đoàn Khuê dã viết gì về bản chất truyền thống của quân đội ta? Quân đội nhân dân do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, được Nhà nước tập trung xây dựng, được nhân dân nuôi dưỡng sát cánh cùng chiến đấu, đã trải qua nửa thế kỷ chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, lớn mạnh không ngừng càng đánh càng mạnh, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược và trở thành một quân đội có đầy đủ sức mạnh bảo vệ vừng chắc Tổ quốc thân yêu của mình…(4) 314. Trong bài “Xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”, đồng chí Phạm Văn Trà đã nói gì về bản chất, truyền thống của quân đội ta? … Chúng ta vô cùng tự hào nhìn lại hơn nửa thế kỷ qua, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, được Nhà nước tập trung xây dựng và nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng và sát cánh cùng chiến đấu, quân đội ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, anh dũng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do cửa Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, đánh thắng một kẻ thù xâm lược hoàn thành xuất sắc công tác vận động quần chúng và lao động sản xuất, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…(5) (1)Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12-1999. (2)Báo Quân đội nhân dân, ngày 22-12-1999. (3)Báo Quân đội nhân dân, ngày 23-12-1984. (4)Tạp chí Quốc phòng toàn dân. số 12-1994, tr. 9. (5)Tạp chí Quốc phòng toàn dân. số 12-2000. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 06:31:48 am Phụ lục BẠN NÊN BIẾT 315. Đơn vị Nam tiến đầu tiên? Vào những ngày tháng chiến sự lan rộng ở Nam Bộ và nam Trung Bộ, khắp nơi trên miền Bắc đã dấy lên phong trào ủng hộ, chi viện đồng bào miền Nam kháng chiến. Các “phòng Nam Bộ” được thành lập ở hầu hết các địa phương. Đâu đâu cũng vang lên lời ca: Tiếng súng vang sông núi miền Nam. Ta muốn băng mình tới phương Nam giết hết quân tham tàn... Sôi nổi nhất, rầm rộ nhất là phong trào tình nguyện vào Nam chiến đấu. Sau ba ngày thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, đêm 26-9-194,5 Đại đội Bắc Sơn, Đại đội Bắc Kạn và Đại đội Hà Nội hợp thành một chi đội do đồng chí Hoàng Thơ chỉ huy đã đáp tàu rời Hà Nội vào Nam chiến đấu. Tàu đến Vinh thì quân số của Chi đội đã tăng lên gấp đôi: Thanh Hoá bổ sung một đại đội, Nghệ An bổ sung hai đại đội. Chiều 6-10, Chi đội vào đến Biên Hoà. Từ đây Chi đội phối hợp với các đơn vị địa phương, bắt đầu những trận chiến đấu khốc liệt nhưng vô cùng anh dũng. Sự có mặt của cán bộ, chiến sĩ trong Chi đội đã kịp thời cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của đồng bào miền Nam. Đây là đơn vị Nam tiến đầu tiên của miền Bắc - khởi đầu cho hàng ngàn đoàn quân Nam tiến từ Bắc vào Nam cho đến ngày đất nước giành thắng lợi hoàn toàn. Đoàn quân Nam tiến đã trở thành niềm tự hào của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến. 316. Nguồn gốc dạn “Thiên lôi”'? Đây là loại đạn bắn máy bay bằng súng cối 60 ly, tên gọi là “không lôii” nhưng cánh lính trẻ gọi khác đi, đã có địa lôi thì phải có thiên lôi. Thực ra “không lôi” chỉ là một quả đạn súng cối thông thường, chỉ khác ở bộ phận gây nổ, đầu viên đạn có mũi tròn dẹp bằng đồng xu hễ lên hết độ cao thì phát nổ. Hồi đó súng cối Việt Nam có bộ phận cò, ấn chốt thì kim hoả tụt xuống, đạn bỏ vào trong nòng súng nằm chờ khi ta kéo cò kim hoả bật lên, đạn phóng lên hết độ cao thì phát nổ. “Thiên lôi” chỉ mang tính uy hiếp, ít có khả năng bắn rơi máy bay nhưng cũng đã góp phần cổ vũ đồng bào, bộ đội một thời. Năm 1947, Đại đội Hoàng Văn Thụ mở hội “thể vận” tại cánh đồng thuộc bắc Ân Thi (Hưng Yên). Bảo vệ thao trường là một tổ cảnh giới gõ kẻng báo động, hai tổ trung liên và tổ súng cối. Buổi sáng tình hình yên tĩnh. Sang nửa buổi chiều kẻng báo động vang lên cả đại đội tản ra khắp cánh đồng. Hai máy bay địch xuất hiện. Hoả lực phòng không hướng về phía máy bay. “Bắn!”. Xen những tràng đạn liên thanh, “thiên lôi” vụt lên trời nổ “oàng” trên cao tạo thành đám khói trắng bằng cái thúng giữa bầu trời. Máy bay địch vòng lại, hoả lực ta xoay hướng đón đánh. Quả “thiên lôi” thứ hai bay lên, một đám khói nữa lơ lửng giữa bầu trời. Hai máy bay địch chỉ bắn được hai loạt rồi chuồn thẳng về hướng Gia Lâm. Nhân dân quanh vùng, kể cả bộ đội mắt thấy tai nghe “thiên lôi” đánh đuổi máy bay đều phấn khởi reo hò. 317. Lịch sử “cây chông” miền tây Nam Bộ? Trước năm 1945, miền tây Nam Bộ chưa có cách đánh giặc bằng hầm chông. Trong kháng chiến chống Pháp lần thứ hai vào tháng 3-1946, sau khi chiếm xong các thị xã, giặc Pháp bắt đầu đánh chiếm vùng nông thôn miền tây Nam Bộ. Nhân dân và du kích ở đây vẫn bám trụ đánh giặc. Giặc Pháp càn vào các vùng quê phải trèo qua các cầu khỉ, nhiều tên té xuống kênh ướt như chuột lột. Bà con thấy vậy khoái lắm, mới nảy ra mẹo cưa mớm (cưa gần đứt) các cây cầu khỉ để lính Pháp đi qua té xuống kênh cho đã tức. Một lần giặc càn vào Gò Quao (Rạch Giá) bà con ta đang phát cỏ ngoài ruộng rồi chạy về bám vườn đánh giặc. Qua cầu khỉ bà con phải quẳng cây phảng xuống dưới kênh để giấu. Lính Pháp chạy qua cầu té xuống kênh đạp phải lưỡi phảng đứt chân. Từ đó, du kích và nhân dân các xã Thuỷ Liễu, Vĩnh Bình (Gò Quao) mới nảy ra sáng kiến vót những que tre mảnh nhọn, đào hố cắm cương để bẫy giặc. Miền tây Nam Bộ sử dụng cách đánh giặc bằng cây chông từ đó. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 06:32:36 am 318. Chiếc xe “quốc tế”?
Chắc ít người biết rằng, cách đây 57 năm (năm 1947) quân đội ta đã “tự sản xuất” được một chiếc ôtô. Theo các nhà lãnh đạo ngành kỹ thuật hồi đó thì sau chiến dịch Thu Đông 1947, một tổ thợ dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Vũ Văn Đôn lên Bắc Kạn để thu gom, tháo dỡ phụ tùng xe hỏng của Pháp trong chiến dịch. Chỉ trong một thời gian ngắn, vượt qua khó khăn, gian khổ thiếu thốn, nguy hiểm… bằng tinh thần sáng tạo và ý chí kiên cường, lòng nhiệt tình hăng hái, tổ chức thu gom, bảo dưỡng, sửa chữa, lắp ráp... tổ thợ đã “lắp ghép” hoàn chỉnh một chiếc xe vận tải. Chiếc xe được anh em đặt tên là: “quốc tế” vì “trong nó là cả thế giới” máy của Hãng Ford (Mỹ), sát xi của Hãng Renault (Pháp), buồng lái của Hãng Studebarker (Đức)... Ngay sau khi ra đời, xe đã tham gia vận chuyển hàng từ đèo Tài Hồ Gìn đến Bắc Kạn dài gần 100 km. Xe còn vinh dự một số lần được đưa Bác Hồ và một số khách quốc tế đi công tác ở Chiến khu Việt Bắc, trong đó có đồng chí Lêô Phighe - Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. trong dịp đồng chí đến thăm căn cứ địa cách mạng của ta. 319. Người nữ Anh hùng đầu tiên của quân đội ta là ai? Trong Đại hội liên hoan Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất (ngày 19-5-1952) có năm người được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phong tặng danh hiệu Anh hùng quân đội. Một trong năm người đó là nữ Anh hùng Nguyễn Thị Chiên. Nguyễn Thị Chiêu sinh năm 1930, dân tộc Kinh, quê ở xã Tán Thuật, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Khi được tuyên dương Anh hùng, chị và Trung đội trưởng Trung đội nữ du kích xã, đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Trung đội nữ du kích xã Tán Thuật do chị Chiên chỉ huy nổi danh trong kháng chiến chống Pháp với những trận đánh phục kích chống địch đi càn quét và đánh đồn bốt địch. Tháng 12-1951, Trung đội nữ du kích do chị chỉ huy phối hợp với bộ đội phục kích đánh địch đi càn quét. Lợi dụng lúc đích chủ quan, không đề phòng, chị và đồng đội đã bất ngờ xông ra bắt sống bốn tên, trong đó có tên quan hai chỉ huy. Khi đích tiến công vào làng chiến đấu của ta, chị và đồng đội đã dũng cảm, mưu trí đánh thắng địch. Riêng trận này, chị Chiều đã bắn chết ba tên bắt sống một tên và giật được một súng giặc. Tháng 1-1952 , Trung đội nữ du kích Tán Thuật phối hợp với bộ đội đánh bốt An Bồi, chị Chiên đã cùng đồng đội dũng cảm bò vào cắt rào kẽm gai, ném lựu đạn và xông vào bốt bắt sống sáu tên giặc ngoan cố, trong đó có tên đồn trưởng. Trong trận này, chị Chiên còn cõng được thương binh ra ngoài an toàn. Nữ du kích Thái Bình nổi tiếng đánh giặc giỏi trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là tài “tay không bắt giặc”. Trong chiến công chung ấy có sự đóng góp tích cực của người nữ Anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiên. 320. Một số trận đánh tàu giặc đầu tiên ở Quân khu IX? Quân khu IX không có đường xe lửa, quân Pháp lợi dụng mạng lưới sông, kênh chằng chịt để vận chuyển. Bộ đội ta đánh tàu địch hồi kháng chiến bằng những thuỷ lôi tự tạo, dùng thuốc nổ trong bom, đạn lép của địch, nhồi lẫn với than trấu. Trận thuỷ lôi đầu tiên, quân ta đánh một chiếc sà lan trên sông Bảy Háp, ấp Giáng Ngựa (thuộc xã Tân Hưng Đông, tỉnh Bạc Liêu cũ) ngày 11-1-1946. Mũi sà lan bị thủng một lỗ nhỏ hai tên Pháp văng xuống sông chết. Kết quả không đáng kể, nhưng tiếng vang lớn. Nhân dân phấn khởi đi tìm kiếm, bom đạn, và cả thuỷ lôi của quân đội Nhật trước đó thả để phong toả bờ biển, trao cho bộ đội. Một trận khác đã diễn ra ở Mương Điều (thuộc tỉnh Bạc Liêu cũ) ngày 18-5-1947, lập công mừng ngày sinh Bác Hồ. Lần này thắng to. Tàu Lêtôngnăngtơ (L'E'tonnante) của Pháp bị đánh chìm. Nhân dân kéo ra đắp đập ngăn quãng sông, dùng gàu tát cạn, thu được hơn 200 súng, có cả đại liên và hàng chục tấn đạn. Trận Ở Vàm Đinh, xã Hưng Mỹ, huyện Cái Nước tỉnh Cà Mau, bộ đội ta đánh chìm tàu Hăngri Mariét, thu hơn 100 súng và 10 tấn đạn, ngày 7-11-1947. Một trận nữa, cũng vào tháng 11-1947, trên sông Gánh Hào (thuộc tỉnh Cà Mau). Thuỷ lôi của quân ta lúc này đã có nhiều cải tiến, sức công phá mạnh, nên đã nhấn chìm một tàu chiến loại lớn của Pháp là tàu La Terơ (Nỗi kinh hoàng) cùng với hai đại đội lính lê dương. Chỉ có một tên, bị văng lên bờ, thoát chết. Nhiều người lặn giỏi đã đến vớt vũ khí giúp bộ đội, trong đó có công lớn nhất là ông Nguyễn Văn Tiên. Ông lặn nhiều chuyến trong hai ngày liền, vớt được 1 đại liên, 250 tiêu liên và súng trường. Lần lặn cuối cùng, ông bị kiệt sức và đã hy sinh. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 06:33:51 am 321. Người lính Nga trong Tiểu đoàn 307 Nam Bộ?
Tên của anh là Sơcren Vadinxki. Quê Ở Ucraina. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, S. Vadinxki bị phát xít Đức bắt làm tù binh và đưa sang Pháp. Khi Đức đầu hàng Đồng minh, thực dân Pháp đã sung anh vào đội quân lê dương sang đánh Việt Nam. Năm 1946, anh bí thực dân Pháp đưa vào chiến trường Nam Bộ. Tới Sài Gòn được ba tháng, người lính Nga này lại bị điều về Bến Tre và chỉ sau đó ít lâu, Sơcren Vadinxki đã bỏ hàng ngũ Quân đội viễn chinh Pháp chạy sang hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam và được bổ sung vào Tiểu đoàn 307. S.Vadinxki được mang tên Việt Nam: Dương Văn Thành. Từ năm 1946, trên nhiều chiến trường Nam Bộ, Dương Văn Thành chiến đấu ngoan cường, dũng cảm bên các bạn Việt Nam thân yêu của anh, đồng cam cộng khổ, vui buồn có nhau. Anh đã làm đến chức trung đội trưởng, chỉ huy nhiều trận đánh ác hệt và được tặng thưởng Huân chương Chiến công. Anh đã được kết nạp Đảng Lao động Việt Nam. Những năm tháng chiến đấu trên mảnh đất Nam Bộ thân yêu của Việt Nam, Dương Văn Thành đã làm bạn với một cô gái Việt Nam quê ở Bến Tre. Hai anh chị sinh ra được một cháu gái đặt tên là Irina. Sau tám năm kháng chiến, đến ngày hoà bình lập lại (1954), S.Vadinxki làm phiên dịch cho việc chuyển quân tập kết ra miền Bắc của quân và dân Nam Bộ. Cuối năm 1955, Dương Văn Thành được hồi hương cùng con gái Irina, lúc đó vừa tròn sáu tuổi. Cô gái Bến Tre, người bạn đời của S.Vadinxki, ở lại quê nhà. Ở Liên Xô, Dương Văn Thành tức S.Vadinxki làm việc tại Khoa Tiếng Việt, Trường Đào tạo cán bộ Trung ương các Công đoàn Liên Xô. 322. Chiếc võng bộ đội có từ bao giờ? Rừng U Minh là rừng ngập nước, do lá tràm ken dày, mọi hoạt động của bộ đội ta được che giấu khá kín đáo, máy bay do thám và các phương tiện trinh sát khác của địch khó lòng phát hiện. Đài phát thanh “Tiếng nói Nam Bộ kháng chiến” được phát đi từ đây. Nhưng nơi đây cũng nổi tiếng là vùng “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh”, làm cho việc sinh hoạt, nhất là ngủ, nghỉ của bộ đội ta rất khó khăn. Để chống muỗi, chiến sĩ ta đã đan các túi bằng cói chụp lên đầu và mỗi khi ngủ thì buộc miệng túi lại. Nhưng ngủ ở đâu thì chủ yếu vẫn phải dựa vào các vị trí đóng quân đã chuẩn bị trước. Như vậy cũng chưa ổn. Năm 1947, đồng chí Vũ có sáng kiến đan các sợi bao bố thành cái võng. Tuy còn đơn giản nhưng chiếc võng đã tỏ ra rất tiện lợi, giải quyết khá tốt việc ngủ, nghỉ của bộ đội ở bất cứ vị trí nào, góp phần làm cho cán bộ, chiến sĩ có đủ sức khoẻ để chiến đấu. Từ đấy, chiếc võng bao bố đã nhanh chóng được sử dụng phổ biến ở cả miền đông Nam Bộ và trở thành tiền thân của chiếc võng bằng bạt hoặc bằng vải - một trang bị không thể thiếu của cán bộ, chiến sĩ ta trong hành quân, trú quân và chiến đấu sau này. 323. Tại sao “Trung đoàn sông Lô” và “pháo binh sông Lô” được in hình trên tờ giấy bạc? Sau chiến thắng sông Lô, do lập được chiến công xuất sắc, Trung đoàn 112 và Pháo binh Khu IX được vinh dự mang tên: “Trung đoàn sông Lô” và “Pháo binh sông Lô”. Ngày 19-1-1948, trong cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Sắc lệnh phong quân hàm cấp tướng và cấp đại tá cho một số cán bộ chỉ huy cao cấp trong bộ đội Vệ quốc quân. Cũng tại phiên họp này, từng đồng chí bộ trưởng báo cáo kế hoạch khen thưởng chiến công của bộ đội và dân quân, tự vệ. Đến lượt mình, đồng chí Bộ trưởng Bộ Tài chính đề nghị: - Đơn vị bộ đội dân quân, tự vệ nào lập công to nhất, đề nghị được nêu tên và ảnh trên tờ giấy bạc mới sắp phát hành trên toàn quốc. Chủ tịch Hồ Chí Mình nghe xong cười rất vui và nói: - Phải công nhận là cách khen thưởng của Bộ Tài chính rất có tính chất tài chính. Không mất gì mà lại có ý nghĩa to. Sau này, theo đề nghị của Bộ Tổng chỉ huy Trung đoàn sông Lô và Pháo binh sông Lô được nêu tên và ảnh trên tờ bạc “Tài chính” phát hành năm 1948. 324. Tại sao có tên gọi “Pháo lục tỉnh”? Tháng 2-1947, bộ đội ta thu được một khẩu sơn pháo 75 ly của giặc Pháp nhưng đã bị hỏng nặng và thiếu nhiều bộ phận. Quyết tâm làm sống lại “pháo”. cán bộ và chiến sĩ của Xưởng sửa chừa pháo Đoan Hùng đã lặn lội khắp địa bàn sáu tỉnh Bắc Bộ tìm kiếm vật tư, phụ tùng thay thế. Sau ba tháng vật lộn tìm kiếm và sửa chữa vất vả, khẩu pháo đã được “cải tử hoàn sinh”. Ngày 24-10-1947, tại Đoàn Hùng (tỉnh Phú Thọ), khẩu pháo này đã cùng đơn vị pháo binh bạn bắn chìm bốn tàu chiến của Pháp trên sông Lô. Ngày 10-11-1947, vẫn chính khẩu pháo đó đã bắn chìm hai tàu LCM của Pháp trên cửa sông Gâm góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Thu Đông 1947. Bộ đội pháo binh Khu X âu yếm gọi khẩu pháo đó là “Pháo lục tỉnh”. 325. “Pháo nối nòng” ra đời như thế nào? Trong trận Bản Pê (tháng 11-1949), khi pháo ta đang bắn cấp tập chi viện cho bộ binh chiến đấu thì bất ngờ khẩu sơn pháo 75 ly của Đại đội 301 bị một viên đạn xuống cấp nổ ngay ở đầu nòng, làm đầu nòng pháo bị toác ra như ống muống. Trong giai đoạn này vũ khí của ta, nhất là vũ khí hạng nặng còn rất thiếu thốn. Xưởng sửa chữa pháo Lũng Phầy đã quyết định cưa một đoạn đầu nòng pháo cùng loại (bị hỏng trong trận Ngòi Mác) nối vào nòng khẩu pháo này, ghép thành một nòng pháo hoàn chỉnh. Nòng được ghép bằng ren, có vòng ốp ngoài để tăng độ bền chắc. Cái khó nhất trong quá trình làm là nối ghép làm sao để hai đoạn nòng pháo trùng khớp các rãnh xoắn. Với trí thông minh, tinh thần say mê sáng tạo, cán bộ chiến sĩ của xưởng đã hoàn thành việc nối nòng đúng với yêu cầu kỹ thuật đặt ra. Khẩu pháo nối nòng được trang bị cho Tiểu đoàn pháo binh 40. Trong chiến dịch Lê Hồng Phong I (tháng 2-1950), khẩu pháo này đã lập công xuất sắc, bắn chính xác chi viện cho bộ binh kịp thời, hiệu quả cao. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 05:34:32 pm 326. Hội nghị nào được ví như “Hội nghị Diên Hồng II”?
Thế kỷ XIII, đất nước ta đứng trước nguy cơ xâm lược lần thứ hai của giặc Mông - Nguyên, triều đình nhà Trần mời bô lão cả nước về Diên Hồng họp bàn cách đánh giặc. Hội nghị Diên Hồng đi vào lịch sử đánh giặc, giữ nước của dân tộc với sự đồng tâm quyết đánh quân xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia của nhan dân cả nước. Năm thế kỷ sau, khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai vào hồi kết thúc, trên đất nước ta, thời cơ lật đổ ách thống trị tàn bạo của đế quốc, phong kiến đang đến, Đảng ta tổ chức Quốc dân Đại hội mời đại biểu nhân dân cả nước về Tân Trào thông qua Nghị quyết tổng khởi nghĩa. Đây được coi là “Hội nghị Diên Hồng II” của dân tộc ta. Dưới sự chủ toạ của Hồ Chí Minh, 60 đại biểu thay mặt cho các đoàn thể, đảng phái dân tộc, tôn giáo cả nước và đại biểu Việt kiều ở Thái Lan, Lào đã về dự. Quốc dân Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, tranh thủ thời cơ thuận lợi goành chính quyền từ tay Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; thông qua Lệnh tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Mình, quy định Quốc kỳ, Quốc ca, cử Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) do Hồ Chí Minh (tức Nguyễn Ái Quốc) làm Chủ tịch. Đại hội biểu thị sự nhất trí của toàn dân trong thời điểm quyết định vận mệnh của dân tộc. 327. Tại sao có biệt danh “Binh đoàn Trần Chọt”? Tại Hội nghị chiến sĩ thi đua Quân khu Tả Ngạn năm 1952, người xã đội trưởng du kích mưu trí, sáng tạo, táo bạo, dũng cảm của xã Chí Minh, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương là Trần Chọt đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất về thành tích đánh giặc, bảo vệ quê hương. Vinh dự hơn ông còn được Bác Hồ tặng tám chữ vàng: “Tặng chú Trần Chọt cán bộ gương mẫu”. Trần Chọt, người hội viên Hội Nông dân cứu quốc xã tham gia du kích từ năm 1949, khi giặc Pháp mở rộng vùng chiếm đóng đến huyện Tứ Kỳ, quê hương ông. Với khẩu súng trường và một bộ đồ đơm đó trong tay, ông nổi tiếng là một du kích đánh giặc giỏi. Khi thì Trần Chọt mon men đơm đó bên những ruộng lúa ven đồn địch để quan sát, lúc ông lại ngồi bán tôm cá ngoài chợ nhằm thu lượm tin tức nghe ngóng tình hình… để lập mưu đánh giặc. Bộ đội ta đánh càn ở xã Chí Minh, địch rút chạy sang làng Nhân Lý. Do thông thạo địa hình, Trần Chọt đón lõng bắt được ba tên, thu hai súng tiểu liên. Địch tức tối càn làng Nhân Lý, ông đã dùng tiểu liên, lựu đạn tập kích địch, một mình diệt 10 tên, thu toàn bộ vũ khí. Thời kỳ bộ đội và du kích bao vây, uy hiếp bốt An Nhân. do Trần Chọt nắm vững “chân tơ, kẽ tóc” trong bốt nên mỗi khi tiếng loa địch vận vang lên, cả quan lẫn lính địch đều run như cầy sấy. Không thể chịu nổi tình trạng giam mình mãi trong bốt, địch phải tháo chạy. Trong những năm Tứ Kỳ bị địch chiếm đóng, du kích xã do ông chỉ huy đã phối hợp với bộ đội địa phương của huyện thường xuyên quấy rối, đánh tập kích, phục kích địch, khiến chúng ‘ăn không ngon, ngủ không yên”. Hầu như ngày nào bọn địch cũng ít nhất một lần, kinh hoàng trước mũi súng của Trần Chọt và đồng đội của ông. Nhân dân địa phương tự hào “phong” cho du kích xã mình biệt danh “Binh đoàn Trần Chọt”. 328. “Kinh nhật tụng” là gì? Do ai biên soạn? Thoạt nghe, mọi người đều nghĩ dây là một cuốn kinh Thánh hay kinh nhà Phật…, nhưng hoàn toàn không phải vậy. “Kinh nhật tụng” là một cuốn “Kinh” của Vệ quốc đoàn, tác giả là Chủ tịch Hồ Chí Minh - người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Năm 1945 cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Việt Nam Giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn. Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Vệ quốc đoàn vững mạnh toàn diện về chính trị tư tưởng, tổ chức và kỷ luật, kỹ thuật, chiến thuật… xứng đáng là quân đội của một nước độc lập, có chủ quyền. Tháng 11- 1945, Bác Hồ đã biên soạn tài liệu trên cho bộ đội học tập. “Kinh nhật tụng” đề cập đến nhiệm vụ, tác phong kỷ luật của người chiến sĩ cách mạng như: Tư cách quân nhân khi ở đơn vị, khi đi ra ngoài đường, ngoài chiến trường, mối quan hệ đối với nhau, đối với dân đối với quân thù…, được biên soạn theo thể văn vần, lời văn giản dị, dễ hiểu, dễ thuộc, để bộ đội theo đó mà làm. “Kinh nhật tụng” của Vệ quốc đoàn còn có tên là “Bài ca chiến sĩ”. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 05:35:57 pm 329. Lời dạy của Bác Hồ “Tàn nhưng không phế” ra dời trong hoàn cảnh nào?
Ngày 27-7-1947 tại Đại Từ, Thái Nguyên đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể để ủng hộ các chiến sĩ bị thương, mang tên “Ngày 27-7 - ngày Thương binh toàn quốc”, Chủ tịch Hồ Chí Mình đã gửi thư và tặng quà cho Thường trực Ban Tổ chức cuộc mít tinh. Trong thư Bác nhấn mạnh: Ngày 27-7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh. Bác còn căn dặn anh em thương binh khắc phục bệnh tật, phấn đấu vươn lên “tàn nhưng không phế”… Còn quà của Bác là một chiếc áo lụa, một tháng lương, góp một bửa ăn cùng các nhân viên trong cơ quan, với số tiền là 1.127 đồng để giúp đỡ thương binh. Thế là từ đó lời dạy của Người “Tàn nhưng không phế” đã cổ vũ ý chí của anh em thương binh, bệnh binh phát huy truyền thống của dân tộc, đem hết sức lực và trách nhiệm của mình tham gia phát triển kinh tế - ã hội ở địa phương. Trong thời kỳ đổi mới đất nước đã xuất hiện nhiều tấm gương thương binh làm kinh tế giỏi, sản xuất kinh doanh tốt, đứng vững trong cơ chế thị trường, luôn phát huy được bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” nhiều người trở thành “triệu phú” từ kinh tế VAC, kinh tế trang trại: có người trở thành giám đốc công ty, là chủ của những cơ sở kinh tế làm ăn có hiệu quả cao, góp phần tạo công ăn việc làm cho không ít người lao động… 330. Vị tướng, Bác Hồ “cấm không được chết” là ai? Tháng 12-1990, trong một cuộc phỏng vấn Giáo sư Trần Đại Nghĩa, phóng viên nước ngoài đã hỏi vui: “Tôi nghe nói trong kháng chiến chống Pháp, Cụ Hồ đã cấm ông không được chết, có phải thế không?”. Giáo sư Trần Đại Nghĩa trả lời: “Vâng, Cụ Hồ không cho tôi ra mặt trận”. Cụ nói: “Chúng tôi cần chất xám của chứ”. Từ Pháp theo Bác về nước, trước nguy cơ gây chiến của thực dân Pháp, sau bảy ngày nghỉ, Trần Đại Nghĩa phải lên ngay Thái Nguyên nghiên cứu chế tạo súng chống xe tăng. Dựa theo mẫu súng Bazôka của Mỹ và hai viên đạn dự trữ do Giáo sư Tạ Quang Bửu cung cấp, anh và đồng sự đã chế tạo thành công súng Bazôka và những viên đạn đầu tiên trong điều kiện kháng chiến gian khổ của năm 1946. Để chống lại sức công phá của đạn Bazôka của ta, thực dân Pháp cho xây dựng lô cốt bê tông dày 1 mét. Do đó đạn Bazôka của ta phá không nổi nữa. Trần Đại Nghĩa và các cộng sự của ông lại nghiên cứu chế tạo súng ĐKZ (súng không giật) với đầu đạn lõm, có sức xuyên rất mạnh và các loại súng cối để tiến công đồn giặc. Thực dân Pháp bị thua đau, chúng rất hận, âm mưu bằng mọi cách ám sát Kỹ sư Trần Đại Nghĩa. Bác Hồ đã chỉ thị phải bảo vệ anh một cách nghiêm mật. Có lần anh đi công tác từ Chiến khu Việt Bắc vào Khu IV, cả đơn vị vũ trang của đồng chí Vương Thừa Vũ được huy động đê bảo vệ an toàn cho anh. Giáo sư Trần Đại Nghĩa là một trong những cán bộ quân đội có vinh dự được Bác Hồ ký Sắc lệnh phong tướng đợt đầu tiên (1948). 331. Tên bộ phím tài liệu đầu tiên của quân đội ta là gì? Ai là biên tập và chủ nhiệm bộ phím này? Đó là phim “Dưới cờ quyết thắng” do đạo diễn điện ảnh quân đội, Nghệ sĩ nhân dân Trần Việt (Trần Văn Thanh, Trần Vũ, Vũ Tiến Quân) làm biên tập và chủ nhiệm. 332. Người được tôn vinh “Vua mìn” của quân đội ta là ai? Đó là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Chuông, quê Cát Lại, Bình Lục, Nam Hà. Trong kháng chiến chống Pháp (1948-1954) Trần Văn Chuông đánh địch trên 200 trận, giết 392 tên địch, làm bị thương 99 và bắt sống 19 tên, phá huỷ 57 xe quân sự (có 4 xe tăng). Trần Văn Chuông có nhiều sáng kiến đánh địch bằng bom, mìn, được đồng đội tôn vinh là “Vua mìn” . Ngoài ra, Trần Văn Chuông còn huấn luyện 193 cán bộ, chiến sĩ sử dụng bom mìn đánh hàng trăm trận, gây cho địch nhiều tổn thất lớn. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 05:38:01 pm 333. Ai là chiến sĩ văn nghệ đầu tiên ngã xuống trên chiến trường?
Đó là nhà văn quân đội Trần Đăng (Đặng Trần Thi), sinh năm 1921, quê Tây Tựu, Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông là sinh viên luật, sau cách mạng, làm việc trong Ban Liên kiểm Việt - Pháp năm 1946 làm việc ở Văn phòng Bộ Quốc phòng, sau đó làm phóng viên báo Vệ quốc quân - tiền thân của báo Quân đội nhân dân. Trần Đăng đã có mặt ở nhiều nơi nóng bỏng của chiến trường Bắc Bộ, viết hàng loạt bài báo truyện ngắn, bút ký về anh Bộ đội Cụ Hồ. Tác phẩm tiêu biểu: Một lần tới Thủ đô (1948, tác phẩm đầu tiên về đề tài “Bộ đội Cụ Hồ”), Trận Phố Ràng (1949), Một cuộc chuẩn bị (1949). Năm 1954, những truyện ngắn và ký của Trần Đăng được xuất bản thành tập truyện và ký sự. Ngày 26-12-1949, ông hy sinh tại vùng biên giới Việt - Trung và được ghi nhận là chiến sĩ văn nghệ đầu tiên ngã xuống trên chiến trường. Ông đã được Nhà nước thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhất Huân chương Chiến thắng hạng ba… 334. Lịch sử ra đời ngày thương binh, liệt sĩ? Ngày thương binh liệt sĩ (27-7) là ngày nhân dân Việt Nam trong cả nước tiến hành các hoạt động trên nhiều lĩnh vực để tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn đối với công lao của hệt sĩ, thương binh theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ l947. Hằng năm đến ngày này, nhân dân và chiến sĩ cả nước, chính quyền và đoàn thể các cấp tổ chức thăm hỏi và tặng quà thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, viếng liệt sĩ, tu sửa nghĩa trang liệt sĩ, kiểm điểm việc thực hiện và bổ sung chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ... Ngày thương binh liệt sĩ đầu tiên (27-7-1947) được tổ chức bằng cuộc mít tinh của hơn 2.000 người tại Đại Từ, Thái Nguyên, có đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban tổ chức ngày thương binh toàn quốc. Ngày thương binh liệt sĩ thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của nhân dân Việt Nam. 335. Lịch sử ra đời cờ “Quyết chiến quyết thắng”? Đơn vị dầu tiên được nhận lá cờ này trong chiến dịch Điện Biên Phủ là đơn vị nào? Cờ “Quyết chiến quyết thắng”, cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho các đại đoàn, liên khu và mặt trận Điện Biên Phủ để làm giải thưởng luân lưu cho các đơn vị thuộc quyền lập chiến công xuất sắc. Đặt ra nhân kỷ niệm chín năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (ngày 22- 12-1955). Cờ thưởng đã góp phần cổ vũ, động viên quân dân cả nước giành thắng lợi trên khắp các chiến trường trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ (từ ngày 13-3 đến ngày 7-5-1954). Trong chiến dịch này, đơn vị đầu tiên được nhận cờ là Đại đoàn 351 (ngày 18-3-1954), sau đó là Đại đoàn 312 (ngày 24-4-1954). Ngày 13-5-1954, tại buổi lễ mừng chiến thắng, Đại đoàn 312 đã được vinh dự giữ cờ “Quyết chiến quyết thắng” do Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trao. 336. Lịch sử ra đời tên gọi “Đại đội Ký Con”? Nêu tóm tắt chiến công của đơn vị này? Đại đội Ký Con - đại đội nổi tiếng của Liên khu III, mang bí danh của Đoàn Trần Nghiệp (1910 -1930, người tham gia lãnh đạo khởi nghĩa Yên Bái (từ ngày 9 đến ngày 18-2-1930), một trong những đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của Chiến khu Trần Hưng Đạo. Tổ chức tiền thân: Tiểu đội Ký Con, thành lập ngày 1-7-1945 (sau chiến thắng Bí Chợ - bắt sống cả đại đội địch, thu hơn 100 súng), rồi Trung đội Ký Con (đơn vị chủ lực trong trận đánh chiếm tỉnh lỵ tỉnh Quảng Yên ngày 20-7-1945 và tham gia giành chính quyền ở Hải Phòng ngày 23-8-1945). Cuối tháng 8-1945 phát triển thành Đại đội Ký Con với nhiệm vụ bao vệ chính quyền cách mạng ở Hải Phòng và khu mỏ Hòn Gai (1945 - 1946). Trong thời gian này, Đại đội Ký Con đã lập nhiều chiến công xuất sắc, tiêu biểu là đánh chiếm hai tàu chiến Pháp Crayxắc (ngày 7-9-1945) và Ôđaxiơ (ngày 11-9-1945), đánh quân phản động Việt Cách (tháng 9-1945) tại Hòn Gai cùng các đơn vị khác đánh lui hàng chục đợt tiến công của quân Pháp tại Hải Phòng (tháng 11-1946). Sau đó phát triển thành Tiểu đoàn rồi Trung đoàn Ký Con (Trung đoàn 66). Đại đội trưởng (trước đó là trung đội trưởng, tiểu đội trưởng) đầu tiên: Lê Phú. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 05:41:14 pm 337. Nguồn gốc tên gọi “Bộ đội Cụ Hồ”?
“Bộ đội Cụ Hồ” là tên gọi trìu mến của nhân dân Việt Nam với Quân đội nhân dân Việt Nam, được dùng rộng rãi trong kháng chiến chống Pháp và tiếp tục lưu truyền đến ngày nay. Tên gọi Bộ đội Cụ Hồ biểu hiện tập trung những truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, nói lên niềm tin yêu sâu sắc của nhân dân đối với quân đội, một quân đội “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức và tác phong cách mạng của Người. 338. Nguồn gốc bài hát Vì nhân dân quên mình? Vì nhân dân quên mình là hành khúc của Doãn Quang Khải (học viên khoá 6, Trường Lục quân Việt Nam) sáng tác tháng 5-1951, nói lên nguồn gốc “từ nhân dân mà ra”, mục đích “vì nhân dân mà chiến đấu” của Quân đội nhân dân Việt Nam, ca ngợi quan hệ gắn bó giữa quân đội với nhân dân, sự tin yêu của nhân dân với quân đội. Được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam (1952-1953). Một trong những bài hát truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, được sử dụng làm nhạc hiệu của Chương trình phát thanh quân đội và Chương trình truyền hình quân đội. 339. Nguồn gốc tên gọi “Trung đoàn Tất thắng”? “Trung đoàn Tất thắng” - trung đoàn nổi tiếng của Liên khu III, thành lập ngày 22-8-1945 tại Nam Định với phiên hiệu Trung đoàn 19 (do Hà Kế Tấn làm Trung đoàn trưởng kiêm Chính trị uỷ viên), sau đổi thành Trung đoàn 33. Trung đoàn 33 lập nhiều chiến công trong đợt bao vây, tiến công quân Pháp, tiêu biểu là trận đánh thắng khoảng một trung đoàn Pháp đến giải vây cho Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 6 tại thành phố Nam Định (đầu 1947), được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng danh hiện “Trung đoàn Tất thắng”. Từ tháng 5-1947 đổi thành Trung đoàn 34. Đến tháng 3-1951, thuộc biên chế Đại đoàn 351, được xây dựng thành trung đoàn pháo binh cơ giới đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và đổi thành Trung đoàn 45. Tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ (từ ngày 13-3 đến ngày 7-5-1954). Sau này Lữ đoàn 364, Lữ đoàn 45 kế tục truyền thống của Trung đoàn Tất thắng. 340. Tại sao có tên gọi “Bếp Hoàng Cầm”? “Bếp Hoàng Cầm” - bếp dã chiến đào dưới đất, đun bằng củi không bị lộ lửa, tránh địch phát hiện, do Tiểu đội trưởng nuôi quân Hoàng Cầm thuộc Đội điều trị Sư đoàn 308 sáng tạo ra. Bếp gồm: hố đặt nồi (chảo), hố ngồi nấu, hệ thống đường dẫn khói và tản khói; rãnh thoát nước và mái che. Bếp Hoàng Cầm được sử dụng tử trong chiến dịch Hoà Bình (1951-1952) và nhanh chóng phổ biến trong toàn quân. Được cải tiến, hoàn thiện và sử dụng rộng rãi trong kháng chiến chống Mỹ. 341. Thành tích chiến đấu tổng hợp của quân và dân ta trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (từ ngày 23-9-1945 dấn ngày 20-7-1954)? Trong 9 năm kháng chiến, quân và dân ta đã tiêu diệt và bắt sống 561.900 tên địch (có 142.900 lính Âu - Phi). Bắn rơi và phá huỷ: 435 máy bay Bắn cháy, bắn chìm: 603 tàu chiến, canô. Phá huỷ: 344 khẩu pháo, 9.283 xe quân sự, 377 đầu máy xe lửa. Thu: 255 khẩu pháo, 504 xe quân sự 130.415 súng các loại. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 05:43:12 pm 342. Lịch sử ra đời bài hát Hành quân xa của Nhạc sĩ Đỗ Nhuận?
Dạo ấy là chiến dịch Đông Xuân 19â3-1954, trước đòi hỏi của bộ đội, Nhạc sĩ Đỗ Nhuận từ lâu đã ấp ủ ý định sáng tác một bài hát theo thể hành khúc, nhưng vẫn chưa viết được. Cuối năm 1953, Đại đoàn 308 đang dừng chân ở Thái Nguyên, được lệnh hành quân lên Điện Biên Phủ làm nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường và ghìm chân địch ở đó Lúc này, Nhạc sĩ Đỗ Nhuận cũng có mặt trong đội hình hành quân của đại đoàn. Do phải tuyệt đối bảo đảm bí mật nên các cán bộ đại đội, tiểu đoàn cũng không được phổ biến tình hình gì hơn chiến sĩ. Họ vừa hành quân vừa bàn tán, phán đoán ý đồ của cấp trên. Bỗng đồng chí Đỗ Đình Sửu, Chính trị viên Đại đội 267 lên tiếng: “Địch đang theo dõi chúng ta đấy. Không bàn tán đường này, hướng nọ. Ta đi đâu là theo mệnh lệnh của cấp trên. Đời chúng ta là chiến đấu. Đâu có giặc là ta cứ đi”. Lập tức, câu nói đó đã trở thành tứ thơ để Nhạc sĩ Đỗ Nhuận phát triển thành bài hát Hành quân xa, và ông đã hoàn thành bài hát này chỉ trong vòng hơn một tiếng đồng hồ. Mắt ta sáng, chí ta bền, bảo vệ đồng quê ta tiến bước Đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi. Hành khúc trầm hùng đó đã lan truyền trong toàn đại đoàn và nhanh chóng trở thành một trong những bài hành khúc tiêu biểu của bộ đội Việt Nam. Chủ đề tư tưởng của bài hát đã góp phần giáo dục, động viên tinh thần của bộ đội trong các cuộc chiến tranh giải phóng trước đây và cả trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thân yêu của chúng ta hôm nay. 343. Nguồn gốc “xe tăng ông Phát” Thời kháng chiến chống Pháp, đồn Kom Plông (tỉnh Kon Tum) nằm trên đồi cao. Chung quanh là đường xe chạy. Hơn chục lớp rào thép gai và chông, hào chung quanh đồn. Tên quan ba đồn trưởng Đuysê ngạo mạn nói. “Khi nào rừng Kom Plông hết cây thì Việt Minh mới đánh được đồn này”. Bộ đội chủ lực Liên khu V nhận nhiệm vụ tiêu diệt đồn Kom Plông. Hoả lực mạnh nhất của đơn vị là súng SKZ. cỡ đạn 120 ly, nhưng chỉ bắn thẳng tầm gần. Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát (sau là Thiếu tướng, Tư lệnh Hải quân) nghĩ cách chế tạo “SKZ tự hành”. Anh em dùng xe hai bánh, vỏ bọc bằng tôn thép hai lớp, giữa đổ đất lèn chặt. trên xếp thêm bao cát. Súng và pháo thủ ở trong. Chế tạo sẵn từng bộ phận ở hậu phương, mang lên chiến trường, lắp ráp gần đồn địch. Đêm 7-8-1951, “ISKZ tự hành” tiến sát đồn địch, bất chấp đạn súng bắn ra như mưa, đã nã đạn thẳng vào phá sập các lô cốt bảo vệ. Đến trưa, ta tiêu diệt đồn, diệt hơn 300 tên địch có cả quan ba Đuysê. Khẩu “SKZ tự hành” đó được anh em trìu mến đặt tên là “Xe tăng ông Phát”. 344. Sư đoàn bộ binh đầu tiên của Mỹ đầu Việt Nam? Đó là Sư đoàn bộ binh số 1, còn gọi là “Sư đoàn Anh cả Đỏ”. Sư đoàn này sang Việt Nam tháng 10-1965 và rút về Mỹ tháng 4-1970. Thương vong của sư đoàn này trong chiến tranh Việt Nam là 20.770 người. 345. Những lính Mỹ nào được ghi tên đầu tiên trong danh sách dài tưởng niệm lính Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam đặt ở Thủ đô Oasinhtơn? Đó là hai tên Đalơ Bơvít và Chextơ Mốtman. Hai tên này bị chết trong trận Nhà Xanh (diễn ra ngày 7-7-1969). Đây là trận đầu tiên quân ta diệt cố vấn Mỹ, bằng phương pháp tập kích bí mật vào câu lạc bộ sĩ quan Mỹ ở Nhà Xanh (Biên Hoà). Được sự hỗ trợ của cơ sở quần chúng, tổ biệt động Đại đội 60 Biên Hoà tiến công nhanh, gọn diệt và làm bị thương một số cố vấn Mỹ, trong đó có hai chết là Đalơ Bơvít và Chextơ Mốtman. 346. Ai là “Ngô Thị Tuyển của Tây Nguyên”? Đó là Ilen. Trong những năm đầu đánh Mỹ, công tác vận chuyển ở Tây Nguyên chủ yếu là gùi. Bộ đội pháo binh nêu khẩu hiệu rèn luyện “Chân đồng, vai sắt” còn lính vận tải thì “Vai ngàn cân, chân ngàn dặm”. Số cán bộ chiến sĩ mang được một lượng hàng hoá nặng bằng và hơn hai lần trọng lượng bản thân thì ở Tây Nguyên không kể sao cho hết. Có một người con gái mảnh dẻ thuộc dân tộc Stiêng ở huyện 40, Kon Tum ngay từ hồi Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua B3 lần thứ nhất (tháng 2-1967) đã được một người trìu mến gọi là “Ngô Thị Tuyển của Tây Nguyên”. Không hoàn toàn giống Ngô Thị Tuyển ở Hàm Rồng, Ilen không đạt được kỷ lục cao ngay từ buổi ban đầu. Hôm đầu tiên Ilen chỉ mang được 37 kg. Nặng quá, mệt hết thở, hôm thứ hai tụt xuống 35 kg. Nhưng Ilen lại nghĩ: anh em người Kinh chân không quen leo cái dốc, vai không quen gùi nặng mà còn mang được 40 kg; mình phải học tập anh em mới được. Đến giữa năm 1964, Ilen được kết nạp vào Đảng và làm tiểu đội trưởng, dẫn 15 chị em đi công tác xa. Hai ngày ăn măng thay cơm. Ilen vẫn gùi 42 kg hàng, mang 1 khẩu AK và còn động víên, chỉ huy chị em nữa. Ilen đã nâng dần thành tích lên gùi thường xuyên 65-67 kg. Không đợt cao điểm nào mà Ilen vắng mặt và Ilen đã lập kỷ lục gùi 104 kg, trở thành con chim đầu đàn của ngành vận tải Tây Nguyên. Học tập tinh thần kiên trì rèn luyện của Ilen, chị em trong đơn vị đều đạt được thành tích cao. Nhờ liên tục rèn luyện phấn đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao người con gái dân tộc Stiêng ấy sau ngày quê hương giải phóng đã trở thành Chủ nhiệm chính trị của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 05:44:34 pm 347. Vụ thảm sát nào là tội ác dã man của Mỹ đối với nhân dân ta, bỉ loài người và dư luận Mỹ lên án?
Đó là vụ thảm sát Sơn Mỹ (ngày 16-3-1968). Đây là vụ giết người hàng loạt tại xã Tịnh Khê (huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi), do Lữ đoàn 11, Sư đoàn 23 quân Mỹ gây ra trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sáng 16-3, sau hơn 30 phút dùng hoả lực pháo binh và máy bay trực thăng vũ trang bất ngờ bắn phá liên tục vào các thôn Tư Cung, Trường Định, Cổ Luỹ, Mỹ Lai, Lữ đoàn 11 đổ bộ bằng máy bay trực thăng ập đến bao vây, chặn kín các ngõ xóm. Thực hiện chính sách đốt sạch, giết sạch, phá sạch, trong vòng 8 giờ, quân Mỹ sát hại hơn 500 người (có 60 cụ già, 182 phụ nữ, 173 trẻ em), thiêu huỷ 247 ngôi nhà của hai xóm Thuận Yên (thôn Tư Cung) và Mỹ Hội (thôn Cổ Luỹ). 348. Ai có “Một trận đánh trở thành dũng sĩ 5 nhất”? Đó là Vương Văn Chài. Vào chiến trường, Vương Văn Chài được bổ sung về Đại đội 2 anh hùng - đại đội chủ công của tiểu đoàn anh hùng làm anh nuôi. Chài đã nhiều lần băng qua lửa đạn đem cơm lên chốt và độc lập đánh nhiều trận, diệt nhiều địch, bắt một tù binh. Có trận đưa cơm xong, Chài theo anh em truy kích địch, một mình thu về cho đơn vị 4 máy PRC25, 3 đại liên 5 AR 15 và 2 chăn dù. Anh em khen ngợi, Chài chỉ nói: - Quê mình Việt Bắc hết giặc rồi, được chiến đấu giải phóng cho đồng bào Tây Nguyên kết nghĩa mình phấn khởi lắm. Do có năng lực, Chài đã được đưa lên làm Tiểu đội trưởng. Trong trận đánh công sự vững chắc của địch ở Ngọc Rinh Rua (ngày 31-1-1971), Vương Văn C hài lập nên kỷ lục chiến đấu chưa từng có ở chiến trường: “Một trận đánh trở thành dũng sĩ 5 nhất”. Phá tung cửa mở trước nhất, Chiếm được lô cốt đầu cầu trước nhất: Bắt tù binh sớm nhất;, Bắn rơi máy bay trước nhất; Đánh chiếm được sở chỉ huy địch trước nhất. Góp phần đặc biệt quan trọng cùng đơn vị dứt điểm cứ điểm Ngọc Rinh Rua, mở màn cho thời kỳ đánh tiêu diệt hàng loạt căn cứ phòng thủ vững chắc của giặc ở Tây Nguyên. 349. Nguồn gốc lựu dạn “cọc rào”? Trong kháng chiến chống Mỹ, ở Khu V yêu cầu trang bị các loại mìn, lựu đạn cho bộ đội để làm vỏ lựu đạn ngày càng khó khăn do các cơ sở đúc gang bì đánh phá. Xưởng quân giới 37 của quân khu nghiên cứu dùng cọc rào ấp chiến lược để làm vỏ lựu đạn. Cọc rào của Mỹ bằng thép non được duỗi thẳng, cắt thành miếng 120x80, dày 31y dùng đục khía rãnh, đàn mí để hàn thành ống hình trụ, đáy lót tôn có đặt mảnh trên miệng lắp chày gỗ. Lựu đạn được lắp ngòi nổ và nhồi 45 gam thuốc TNT. Qua nhiều lần thử nghiệm Xưởng 37 sản xuất thành công, từ tháng 5-1947 xưởng sản xuất hàng loạt loạl lựu đạn này. Lựu đạn gọn nhẹ và sử dụng chiến đấu tốt được bộ đội ưa thích. Cọc rào ấp chiến lược là nguồn nguyên liệu dồi dào có ở khắp nơi, lựu đạn cọc rào trở thành loại vũ khí sản xuất phổ biến của quân giới Khu V cho đến năm 1975. 350. Ai được mệnh danh là “Võ Tòng” của Tây Nguyên? Một lần chiến sĩ quân y Lê Đình Đơ ở mặt trận Tây Nguyên dậy rất sớm, đi công tác. Đến một cây gạo giữa bãi lau anh vừa kịp phát hiện có một con hổ lớn đang rình mình, thì ngay lập tức con hổ đã xông vào vồ. Đơ bình tĩnh giương súng bắn. Đạn không nổ, anh đành dùng lê đánh nhau với hổ xung quanh gốc cây. Khi con hổ làm gãy súng của anh thì cũng là lúc anh bồi cho hổ nhát lê thứ 37, nhát lê cuối cùng, khiến cho “chúa sơn lâm” đổ qụy. Sau chiến công này. anh Lê Đình Đơ được quân khu biểu dương. khen thưởng là “Võ Tòng” của Tây Nguyên. 351. Nguồn gốc địa danh Chu Lai? Ngày 8-3-1965, Lữ đoàn 9 lính thuỷ đánh bộ Mỹ từ Ôkinaoa (Nhật Bản) bắt đầu đổ bộ lên vùng bờ biển cách Đà Nẵng 75 dặm về phía nam trên danh nghĩa là làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ không quân Đà Nẵng nhưng chủ yếu là để đầu áp cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam. Chỉ huy lực lượng này là tướng Víchto Harôn Krulắc, người trong thời gian từ năm 1961 đến năm 1964 đã nhiều lần được cử tới Sài Gòn với tư cách là “chuyên viên đặc biệt về chống nổi dậy của Lầu Năm góc” và được đánh giá là “một trong những nhân vật ưu tú nhất và thông minh nhất nước Mỹ”. Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cho biết, bãi biển gần Đà Nẵng mà Klrulắc dẫn quân đổ bộ đã được Mỹ đặt tên là bãi Klrulắc nhưng do “trục trặc về kỹ thuật”, danh từ Krulắc đã bị một nhân viên Văn phòng Bộ Tổng tham mưu ngụy đánh máy nhầm là Trulai, tới mức báo chí Mỹ sau đó cũng gọi là Chulai, thậm chí những văn bản của Mỹ sau đó cũng gọi là Chulai mà quên mất cái tên Krulắc. Suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Chu Lai trở thành địa danh nổi tiếng trên thế giới vì tiếp theo Lữ đoàn 9 còn nhiều tiểu đoàn, thậm chí cả sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ cũng dồn dập đổ bộ lên bãi biển này. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 09:25:32 pm 352. Nguồn gốc vũ khí “đồ hộp”.
Những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, đơn vị D65 A bộ đội Tây Ninh đã sáng tạo ra một loại mìn đánh bộ binh mang tên “mìn lon”. Vỏ mìn là lon đồ hộp, dùng dây sắt quấn chặt xung quanh lon nhằm tạo áp lực nổ và tạo mảnh. Thuốc được lấy từ bom đạn lép, ngòi lấy từ lựu đạn Mỹ đã dùng, cải tạo lại. Thuốc được nhồi chặt trong vỏ lon nên nổ với công suất lớn, “mìn lon” phát huy hiệu quả trong các trận chống càn, đánh địch tuần tra. Phát hiện thấy vỏ hộp “cá mòi” của lính Mỹ có thể tích vừa phải và thành vỏ dày nên Công binh xưởng Vàm Cỏ đã sản xuất lựu đạn vỏ hộp cá mòi theo nguyên tắc lựu đạn giật nụ xoè. Lựu đạn “cá mòi” nổ rất mạnh, có năng lực sát thương lớn; nên mỗi khi thấy các loại vỏ đồ hộp, lính địch đều sợ hãi tránh xa. 353. Nguồn gốc “mìn lắc”? Trong kháng chiến chống Mỹ, Binh công xưởng Bà Rịa đóng ở Bàu Ngứa do đồng chí Ngạc phụ trách đã chế ra được nhiều vũ khí tự tạo có giá trị, một trong những loại vũ khí đó là “mìn lắc”. Đây là loại mìn có gàn ngòi lắc bên trong có tác dụng đánh lừa địch. Ngòi lắc cấu tạo đơn giản, khi đặt mìn và lắp ngòi thì ngòi ở thế cân bằng, hai cực điện hở; khi chuyển dịch thế cân bằng mất, điện nối mạch, và thế là mìn nổ. Bọn lính úc thường phục kích kết hợp gài mìn clâymo, du kích bí mật gài ngòi mìn lắc vào mìn clâymo. Khi chúng thu hồi thì mìn clâymo nổ. Chúng không hiểu tạo sao mìn clâymo nổ? Sau mỗi trận đánh, ta thường bỏ lại mấy quả đạn B40 hoặc đạn cối có ngòi lắc, địch hý hửng nhặt “vũ khí chiến lợi phẩm của Việt cộng”. Chúng không hiểu tại sao những quả đạn đó lại phát nổ? Có lần, công binh ngụy Sài Gòn đem “mìn lắc” lên xe Jeep đưa về xưởng nghiên cứu. Xe chạy, gặp ổ gà xóc mạnh, mìn nổ, bọn lính ngồi trên xe đền mạng! Đến nay, cũng chưa ai tìm ra tác giả của “mìn lắc”. Theo anh em Binh công xưởng Bà Rịa, có thể tập thể Binh công xưởng huyện Châu Đức là những người đầu tiên chế tạo “mìn lắc”. 354. Nguồn gốc “chiến thuật ruồi bâu”? Thời kỳ đầu chiến dịch “139” ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (1969), Trung đoàn trưởng Trung đoàn 165 Nguyễn Chuông rất coi trọng chiến thuật. Từ những bài học xương máu, ông rút ra kinh nghiệm bằng những tử nghe rất ngộ nhưng lại rất gây ấn tượng và dễ nhớ như: chiến thuật “ruồi bâu”, chiến thuật “khỉ ngửi mắm tôm”, chiến thuật: “gà mẹ, gà con”... Xuất xứ của chiến thuật “ruồi bâu” là: sau một loạt trận đánh ở thị xã Xiêng Khoảng và Phu Choong Voong kéo dài, đội hình chiến đấu không phát triển được, mặc dù địch phản ứng không mạnh lắm, đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm, Trung đoàn trưởng nói: “Cái hại của các ông là trinh sát địch không tỉ mỉ, đứng xa chĩa ống nhòm vào. Mục tiêu phản công không rõ ràng. Huấn luyện bổ sung chung chung. Trên sa bàn chỉ trỏ đại khái, khi tiếp cận địch thì không chắc đúng hướng. Thấy địch nổ súng chỗ nào thì bu lại chỗ đó, bỏ cả mục tiêu chính, có khi một tên địch cũng ba bốn lần tiêu diệt bằng cả B.40, lựu đạn; 1 ngách hầm choen hoẻn mà lẳng vào 2, 3 quả thủ pháo. Đánh thế là đánh theo kiểu “ruồi bâu”, và tốn máu lắm. 355. “Vua chiến trường” bị bắt sống như thế nào? Đó chính là loại pháo tự hành 1751y, rất hiện đại của Mỹ, trang bị cho quân ngụy Sài Gòn từ tháng 10-1965. Pháo binh ngụy muốn diễu võ giương oai nên đã phủ thêm hàng chữ sơn trắng lên nòng pháo: “Vua chiến trường - sấm sét”. Loại pháo này nòng dài 11,28m, tầm bắn xa 32km, tốc độ bắn 1,5 phát/phút, cỡ đạn 175 ly, mỗi quả nặng 68kg, có thể là đạn nổ hoặc là đạn hạt nhân. Kíp pháo thủ có năm người. Pháo được đặt trên bánh xe xích, có khả năng vượt chướng ngại vật (dốc, hào tường) với tốc độ di chuyển là 54km/giờ, bán kính hoạt động là l.000km. Kích thước xe: dài 11,2m, rộng 3,1m, cao 2,7m. Trọng lượng hành quân gồm cả đạn là 28,86 tấn. Khi tác chiến tự nạp đạn, khi hành quân có thể tháo rời giữa pháo và xe để cơ động bằng máy bay. Dù tính năng hiện đại, song trước tài năng và lòng dũng cảm của Quân giải phóng, “vua chiến trường” chẳng những không phát huy được tác dụng mà còn bị khuất phục. Trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972, ta đã thu được cả “vua chiến trường” còn “sống” - vẫn hoạt động được. Sau đó, “vua chiến trường” được chuyển ra Hà Nội - một kỳ công trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Khẩu pháo đó ngày nay còn được lưu giữ ở Viện bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam). Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 09:26:35 pm 356. Lịch sử ra đời và vai trò của “đội quân tóc dài”?
Đội quân tóc dài, đội quân tay không gồm phụ nữ ở các lứa tuổi, bộ phận xung kích của đội quân chính trị và lực lượng đấu tranh tại chỗ rất quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Đội quân tóc dài đấu tranh trực diện một cách có lý, có tình để ngăn chặn quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn càn quét, bắn phá, cào nhà, dồn dân… hoặc xông ra cản xe tăng, bịt nòng đại bác của địch. Đội quân tóc dài xuất hiện trong phong trào Đồng khởi ở miền Nam Việt Nam, có những hình thức đấu tranh rất linh hoạt sáng tạo, đặc biệt là phối hợp với lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam trong thực hiện ba mũi giáp công. 357. Tại sao Tiểu đoàn tăng 195 được mệnh danh là “những vị thần có cánh”? Đó là biệt danh mà quân Mỹ và quân ngụy Vàng Pao dùng để gọi Tiểu đoàn tăng 195 sau “sự kiện Sảm Thông - Long Chẹng” ngày 11-3-1972. Chuyện bắt đầu khi Quân tình nguyện Việt Nam gồm Trung đoàn 141 thuộc Sư đoàn 312 hiệp đồng với Tiểu đoàn tăng 195 tiến công trên hướng chủ yếu của sư đoàn giải phóng căn cứ Sảm Thông - sào huyệt của quân ngụy Vàng Pao trên chiến trường Lào. Để tiến đánh cứ điểm này bộ binh và xe tăng ta phải vượt qua nhiều điểm cao ở vòng ngoài, trong đó có điểm cao 1.800 mét, với độ dốc tử 26-31 độ. Chiều cao và độ dốc đó với bộ binh thì bình thường, nhưng với tăng T.34 của ta khó lòng vượt qua nổi. Chỉ huy Trung đoàn 141 và Tiểu đoàn tăng 195 đã tổ chức cuộc họp dân chủ bàn bạc xây dựng quyết tâm và tìm ra hướng khắc phục cho xe tăng vượt qua điểm cao. Các chiến sĩ xe tăng đã nêu một sáng kiến kỳ diệu: nếu dùng những chiếc cọc gỗ có đường kính 5-7 cm, độ dài khoảng 40-50 cm, đóng xuống lòng đường vào làn bánh xích tạo độ bám, tăng T.34 sẽ bò được qua điểm cao. Sáng kiến đó được chỉ huy các cấp chấp nhận; và chỉ trong một thời gian ngắn, các đơn vị bộ binh xe tăng đã chặt hàng nghìn cọc đóng xuống lòng đường cho xe tăng vượt qua điểm cao. 17 giờ ngày 11-3-1972, những chiếc tăng T.34 cùng bộ binh ta đột ngột xuất hiện ở Sảm Thông trước sự kinh ngạc của kẻ địch. Bọn chúng phải thốt lên: “Họ là những vị thần có cánh”. 358. Tên phi công Mỹ dầu tiên bị bắt làm tù bính trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam tên là gì ? Hắn lái chiếc máy bay nào? Ngày 5-8-1964, chiếc máy bay “Chim ưng nhà trời” (A. Skyhawh) - loại máy bay cường kích hạng nhẹ kiểu A4 của hải quân Mỹ, do Trung uý Anvarét lái bị quân và dân ta bắn rơi ở Hòn Gai (Quảng Ninh). Đây là tên phi công Mỹ đầu tiên bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Còn chiếc máy bay hắn lái cũng là chiếc “Chim ưng nhà trời” đầu tiên của Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc Việt Nam. 359. Hòn đảo nào hai lần được phong tặng danh hiệu anh hùng? Đó là đảo Cồn Cỏ thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Trong kháng chiến chống Mỹ Cồn Cỏ là một trong những mục tiêu đánh phá ác hệt của không quân và hải quân Mỹ. Đảo đã hai lần được phong tặng danh hiệu anh hùng vào các năm 1967 và 1970. 360. Đơn vị bắn rơi chiếc B52 dầu tiên (chiếc đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ ở Việt Nam) trong chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng cuối tháng 12-1972? Đó là Trung đoàn 261, trung đoàn tên lửa phòng không của Quân đội nhân dân Việt Nam, đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, được mang đanh hiệu “Đoàn tên lửa Thành Loa”. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 09:27:57 pm 361. Lịch sử ra đời cờ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Đơn vị đầu tiên dược nhận lá cờ này là đơn vị nào?
Cờ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, cờ thưởng luân lưu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng quân, dân các quân khu lập chiến công bắn rơi máy bay. bắn chìm tàu biệt kích Mỹ trong chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam, kể từ ngày 5-8-1964. Các tỉnh và khu (trong quân khu) lập chiến công được thêu tên và thành tích lên cờ và được gửi cờ cho đến khi có đơn vị khác lập được chiến công mới. Ngày 3-5-1965. Quân khu IV và Quân khu Tả Ngạn được nhận cờ đầu tiên, mở đầu cho phong trào thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” được phát động trong toàn quân. 362. Máy bay F111 được sử dụng lần đầu tiên trong chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam vào năm nào? Chiếc đầu tiên bị bắn rơi ở đâu? Khi nào? Máy bay F111 là loại máy bay tiêm kích, ném bom có hình dạng cánh thay đổi (cụp, xoè) đầu tiên trên thế giới do Mỹ chế tạo. Năm 1968 lần đầu tiên không quân Mỹ sử dụng máy bay F111 trong chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam và chiếc đầu tiên bị bắn rơi tại Hà Tĩnh ngày 28-3-1968. Theo thú nhận của Mỹ, từ năm 1968 đến năm 1973 có 10 chiếc F111 bị bắn rơi trên miền Bắc. 363. Ai là phi công dầu tiên của Việt Nam bắn rơi máy bay không người lái? Đó là phi công Nguyễn Hồng Nhị, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Hồng Nhị lái máy bay Mig21 đã bắn rơi tám máy bay Mỹ (3F4, 3F105, 1F8, một không người lái) và chỉ huy biên đội bắn rơi hai chiếc khác. 364. Ai là phi công Việt Nam bắn rơi nhiều máy bay Mỹ nhất? Đó là phi công Nguyễn Văn Cốc, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Văn Cốc lái máy bay Mig21 bắn rơi chín máy bay Mỹ, yểm hộ đồng đội và chỉ huy biên đội bắn rơi chín chiếc khác. 465. Loại máy bay nào được Mỹ sử dụng phổ biến nhất trong chiến tranh phá hoại miền Bắc? Chiếc đầu tiên của loại máy bay này bị bắn rơi khi nào? Ở đâu? Đó là loại máy bay tiêm kích ném bom Fl05 “Thần Sấm”. Trong thời gian 1965-1973, không quân Mỹ đã sử dụng 137.391 lần chiếc loại máy bay này đi đánh phá miền Bắc Việt Nam. Chiếc “Thần Sấm” bị bắn rơi đầu tiên ngày 2-3-1965 tại Quảng Bình. Theo tài liệu của Mỹ, có 334 chiếc “Thần Sấm” bị bắn rơi ở Việt Nam. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 09:30:48 pm 366. Tại sao chiếc máy bay Mig21 mang số hiệu 4324 có 14 ngôi sao đỏ?
Vào thăm Bảo tàng Quân đội, nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, khách tham quan thường dừng lại khá lâu trước một chiếc máy bay Mig21 còn nguyên vẹn, mang số hiệu 4324. Họ hiểu đó là một hiện vật lịch sử, một biểu tượng cho tinh thần quyết chiến quyết thắng của Không quân nhân dân Việt Nam anh hùng. Nhưng không phải ai cũng hiểu được vì sao lại có 14 ngôi sao đỏ in lấp lánh trên mình của chiếc máy bay này? Ngày 30-4-1967, Lê Trọng Huyên được lệnh cất cánh trên chiếc máy bay này, anh đã bình tĩnh, dũng cảm bắn rơi 1 chiếc F105 của địch. Ngôi sao đầu tiên được in trên mình của chiếc máy bay được ra đời từ đó. Sang tháng 5, để lập thành tích mừng thọ Bác Hồ kính yêu các chiến sĩ lái chiếc máy bay 4324 liên tiếp hai lần lập công và hai ngôi sao đỏ nữa xuất hiện. Cứ như thế, mỗi lần một máy bay địch bị diệt, lại hiện trên mình chiếc máy bay 4324 một ngôi sao đỏ mới. Đặc biệt, ngày 17-2, đồng chí Vũ Ngọc Đỉnh đã góp thêm vào chiếc máy bay thân yêu của mình hai ngôi sao đỏ nữa, nhờ lối đánh mưu trí. dũng cảm, diệt tại chỗ hai chiếc F105 của địch. Rồi ngày 19-12, máy bay 4324 do đồng chí Nguyễn Đăng Kính điều khiển đã hạ một chiếc F4 của địch trên bầu trời Tam Đảo, mang về ngôi sao chiến công thứ 14. Vậy là với 69 lần xuất kích, 22 lần gặp địch, 16 lần nổ súng, chiếc máy bay Mig21 mang số hiệu 4324 do chín chiến sĩ ta thay nhau lái (trong đó có sáu người được tuyên dương anh hùng) đã bắn rơi 14 máy bay gồm bốn kiểu loại của địch. Sau này, lực lượng không quân tiêm kích có thêm nhiều chiếc máy bay lấp lánh trên mình hàng chục ngôi sao đỏ. Song chiếc Mig21 số hiệu 4324 vẫn là con chim đầu đàn, là niềm tự hào của các chiến sĩ lái máy bay, chiến sĩ thợ máy, sân đường Đoàn sao đỏ, bộ đội Không quân nhân dân Việt Nam anh hùng. 367. Ở đâu bộ đội và thanh niên xung phong đã biến dòng suối thành đường cơ giới? Đó là đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh những năm đánh Mỹ. Do vị trí đặc biệt quan trọng của đường Hồ Chí Minh đối với cuộc chiến tranh trên toàn Đông Dương nên đế quốc Mỹ tìm mọi thủ đoạn để cắt đứt tuyến chi viện chiến lược này. Chúng thường xuyên sử dụng các loại máy bay trinh sát, các thiết bị dò la dấu vết của con đường, kể cả việc chụp ảnh bằng vệ tinh. Để ngụy trang đường, giữ bí mật và an toàn cho những đoàn xe vận tải, bộ đội và thanh niên xung phong Trường Sơn đã làm phẳng lòng suối, tạo thành con đường cho xe chạy, lợi dụng dòng nước để xoá đi dấu vết của các đoàn xe. 368. Người bắt sống phi công Mỹ đầu tiên? Chiến công đầu đánh thắng không quân Mỹ (ngày 5-8-1964) làm nức lòng nhân dân cả nước, củng cố niềm tin cho bạn bè khắp năm châu. Niềm vui được nhân lên gấp bội khi ta công bố bắt sống được tên giặc lái Ivơrít Anvarét (Evereet N. Alvarez). Nhưng ai là người bắt được tên phi công Mỹ đầu tiên này và quá trình tổ chức vây bắt diễn ra như thế nào thì do yêu cầu “bí mật quân sự” nên báo đài chỉ công bố. do cha con một ông lão dân chài bắt. Ngày 15-8-1964, báo Quân Bạch Đằng của Quân khu Đông Bắc tường thuật trận đánh, có tiết lộ hai chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam bắt sống Alvarét. Ngày 22-8- 1964. Chính uỷ quân khu ký bằng khen, nhưng không công bố rộng. Bẵng đi một thời gian, năm 1986 Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ thị: Việc bắt sống phi công Mỹ đầu tiên Anvarét đã đi vào lịch sử, phải tìm ra nhân chứng… 30 năm sau (1994), đồng chí Trần Minh Thái, nguyên là Thượng uý, cán bộ tác chiến của Quân khu Đông Bắc nêu lại vấn đề trên báo Quân khu Ba. Ngày 22-6-1996 nhà báo Trương Thiếu Huyền cũng viết một bài trên báo Quảng Ninh, song vẫn bặt vô âm tín. Tháng 7-1997, nhờ đọc bài Người bắt sống phi công Mỹ đầu tiên ngày 5-1964 ở Quảng Ninh hiện ở đâu? đăng trên báo Cựu chiến binh số 144, ngày 26-6-1997, trong một lần sinh hoạt của Hội Cựu chiến binh phường Cẩm Phú, thì đồng chí Nguyễn Kim Bảo mới nhận mình là người bắt Anvarét. Nguyễn Kim Bảo quê Ở Hưng Hà, Thái Bình nhập ngũ năm 1952, về hưu năm 1973 với quân hàm Thượng uý. Năm nay, ông đã 68 tuổi, trú tại phường Cẩm Phú, Cẩm Phả, Quảng Ninh. Đồng chí Nguyễn Xuân Trọng, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường Cẩm Phú đã viết bài đăng và có ảnh kèm theo trên báo Cựu chiến binh khẳng định: Đã tìm được người bắt sống phi công Mỹ đầu tiên. Sau đó, các báo Cựu chiến binh, Văn nghệ Quảng Ninh cung cấp thêm nhiều chi tiết cụ thể như người bắt sống phi công Mỹ đầu tiên là nhân viên cơ yếu, chụp lại ảnh bằng khen ghi rõ: Nguyễn Kim Bảo, Thượng sĩ đảo Cô Tô, ngày 5-8 máy bay địch oanh tạc đã bình tĩnh chỉ huy bắt được tên phi công Mỹ; khẳng định thêm hai chiến sĩ cùng tham gia bắt Anvarét là bác Lộc quê Đại Bình, Quảng Hà và bác Giang quê Phú Hải, Quảng Hà. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 09:31:52 pm 369. Chiếc bao gùi đầu tiên trên đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh?
Khi mới thành lập, tuyến vận tải chiến lược mang tên Hồ Chí Minh, phương thức vận chuyển chủ yếu là gùi bộ để chuyển hàng vào chiến trường. Có một chiếc bao giờ bằng vải bạt dài 0,7 mét, rộng 0,4 mét đã cũ do đồng chí Thái thuộc Đại đội 3 sử dụng vận chuyển hàng. Đến năm 1963, chiếc bao đó được chuyển qua đồng chí Hồ Mược ở Đại đội 9B chuyển hàng từ bắc đường số 9 vào chiến trường. Đến tháng l-1964, chiếc bao đó được chuyển sang cho đồng chí Đào Triệu gùi hàng qua đèo l.800m, qua đường số 71. Đến tháng 7-1965, chiếc bao lịch sử ấy được chuyển qua Trạm giao liên T.73 (đơn vị anh hùng). Tính đến ngày 15-3-1970, khi đó đã nằm trong nhà truyền thống, tính ra chiếc bao đó đã cùng nhiều chủ chuyển hơn 50 tấn hàng, 915kg công văn thư từ đến chiến trường. Chiếc gùi đã bị rách nhiều lỗ nhỏ, có năm chỗ rách được vá lại nhiều lần. 370. Chiếc xe đạp gùi thồ đầu tiên vàn Trường Sơn. Đó là chiếc xe đạp Favôrít có số khung 20.220 được đưa vào đường Hồ Chí Minh từ năm 1961. Từ năm 1963 đến năm 1965, Đại đội 9 (Đoàn 70) đã dùng chiếc xe này thồ hàng từ đường số 9 qua Sêbănghlêng vào tới sát vùng giáp ranh, chiếc xe này đã từng chở được 1,800 tấn hàng vào chiến trường. Năm 1966, chiếc Favôrít trên được đưa về Trạm 34, do đồng chí Hồng Tiểu đội trưởng sử dụng thồ hàng vào và cho thương binh ra. Đường hẹp, nhiều dốc cao, vực thẳm, nhiều tháng mưa lầy lội nhưng đồng chí Hồng luôn bảo đam an toàn cho thương binh. Có ngày đồng chí đưa hai chuyến thương binh qua chặng đường khó khăn đảm bảo an toàn. Tử năm 1969 đến tháng 4-1970, chiếc xe này đã chở được 50 thương binh nặng, 450 ba lô, l.000kg rau, gạo và thực phẩm. Dùng xe đạp chở thương binh đã tiết kiệm được hơn 500 công cáng bộ. 371. Những chiến sĩ “3C”? Các chiến sĩ cơ yếu trên đường vào Nam luôn luôn được coi là “khách đặc biệt” của các trạm giao liên. Họ dược cấp giấy chứng minh Trường Sơn đóng dấu đỏ ba chữ C (CCC). Đây là ký hiệu chỉ các cán bộ có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Nhưng vì trên đường hành quân lính cơ yếu luôn phải chạy (chạy máy bay, chạy biệt kích, chạy địch càn, thậm chí gặp địch cũng không được đánh) để về tới đích an toàn. Do đó họ thường phiên biệt hiệu “3C” của mình là “co cẳng chạy”. 372. Tiểu đội nữ dân quân “bắn chẻ đầu” máy bay Mỹ? Năm 1967, chín cô gái xã Kỳ Phương (Kỳ Anh) được trang bị ba khẩu súng thượng liên trực chiến đấu bắn máy bay Mỹ Qua thực tế chiến đấu, các cô đã xây dựng quyết tâm, “Phải bắn chẻ đầu máy bay Mỹ” chờ cho địch nhào xuống thấp nhất, gần nhất, nhằm thật trúng để những viên đạn bắn lên găm thẳng vào máy bay Mỹ. Bằng cách đánh ấy, trận địa của tiểu đội xây dựng trên cồn cát ven biên ở những chỗ bất ngờ nhất. Trong 27 ngày (từ ngày 26-7 đến ngày 21- 8 tiểu đội đã độc lập bắn rơi ba máy bay Mỹ và phối hợp với các đơn vị bạn bắn rơi bốn chiếc khác. Tiểu đội trưởng Tưởng Thị Diên được thay mặt chị em đi gặp Bác Hồ, được Người gửi tặng mỗi cô một huy hiệu. Năm 1971 tiểu đội chín cô gái Kỳ Phương đã được tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. 473. Ai là “Dũng sĩ phá bom nổ chậm” ở Ngã ba Đồng Lộc? Đố là Vương Đình Nhỏ. Trong chiến tranh phá hoại, giặc Mỹ ném xuống Ngã ba Đồng Lộc đủ mọi thứ bom chồng chất lên nhau, hòng tạo ra một “điểm tắc” chặt đứt con đường ra tiền tuyến. Hằng ngày, Tiểu đội trưởng phá bom Vương Đình Nhỏ cùng đồng đội đánh vật với các loại bom nổ chậm của địch để thông đường thông xe. Từ trong cuộc chiến đấu ác hệt đó. Anh đã sáng tạo ra cách phá bom “làm cho nó câm, không cho nó nổ” bằng cách tính toán sử dụng một lượng thuốc nổ vừa phải và đặt ở một hướng hợp lý để tách đầu nổ ra khỏi quả bom, hoặc có lúc bom nổ chậm nằm trên đường, anh dùng lượng bộc phá đủ để hất quả bom ra xa đường hoặc cho nó nổ trên không, không cho nổ dưới đất phá hỏng đường. Trong những ngày địch đánh ác liệt ở Ngã ba Đồng Lộc, anh đã cùng đồng đội phá hơn 500 quả bom nổ chậm, riêng anh phá 150 quả, xứng đáng danh hiệu “Dũng sĩ phá bom nổ chậm”. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 09:33:45 pm 374. Ngày hội Quốc phòng toàn dân là gì?
Ngày hội Quốc phòng toàn dân là ngày nhân dân Việt Nam trong cả nước tiến hành các hoạt động tập trung vào chủ đề quốc phòng và quân đội với các hình thức phong phú: mít tinh, hội thảo, hội nghị quân - dân, hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, dạ hội, hội thảo…, nhằm khơi dậy trong toàn dân, nhất là trong thanh niên lòng tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, động viên mọi công dân chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Từ năm 1989, theo chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng và quyết định của Chính phủ, ngày hội Quốc phòng toàn dân được tổ chức vào ngày 22-12 hằng năm, đồng thời với ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. 375. Số phận tàu Mađốc? Tàu khu trục Mỹ Mađốc (DD 731) , con tàu gây ra “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” ngày 5-8-1964 trải qua số phận khá long đong. Tàu mang tên Đại uý Uyliam Mađốc, một anh hùng của lực lượng lính thuỷ đánh bộ Mỹ trong chiến tranh biên giới giữa Mỹ và Mêhicô. Tàu Mađốc do xưởng Bath Iron Works Corp đóng và hạ thuỷ ngày 19-3-1944, đưa vào sử dụng ngày 2-6-1944. Tàu dài 114,8m, rộng 12,4m, mớm nước 5,8m; lượng giãn nước 2.200 tấn tiêu chuẩn và 3.320 tấn chở đầy, vũ khí của tàu gồm 3 bệ pháo hai nòng 127 ly, hai bệ pháo 2 nòng 761y. Vũ khí chống tàu ngầm gồm hai ống phóng bom chìm cố định, hai giàn ngư lôi, mỗi giàn ba ống. Tàu có tốc độ cao nhất 64 hải lý/giờ. Biên chế trên tàu gồm có 274 người, 14 sĩ quan, 260 thuỷ thủ, khi có chiến tranh có thể tới 2.345 người. Ngày 6-7-1972, tàu Mađốc bị bán cho hải quân Đài Loan. Cái tên Mađốc cũng bị xoá sổ từ đó vì hải quân Đài Loan gọi là là Po Yang. Tàu cũng được trang bị lại hiện đại hơn. Tuy nhiên, thân phận con tàu này cũng không được lâu bền. Năm 1989 nó bị loại khỏi biên chế hải quân Đài Loan. 376. Ai là người đầu tiên dùng cụm từ “Quốc phòng toàn dân”? Đến thời điểm này thì cụm từ “Quốc phòng toàn dân” đã đi vào Từ điển Bách khoa quân sự và được sử dụng phổ biến, thống nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng. Lần lại lịch sử trước năm 1964, sách báo vẫn viết “Quốc phòng nhân dân”. Chỉ đến khi đồng chí Trường Chinh đọc bài báo “Quán biệt quan điểm Quốc phòng nhân dân” của đồng chí Hoàng Văn Thái đăng trên Tạp chí Quân đội nhân dân số tháng 8-1964, thì cụm từ này được thay đổi. Nhân buổi làm việc với Ban biên tập Tạp chí, đồng chí Trường Chinh góp ý từ nay nên dùng cụm từ “Quốc phòng toàn dân” thay cho “Quốc phòng nhân dân” cho nó chính xác khoa học và nghe cũng hay hơn. Từ đó cụm từ “Quốc phòng toàn dân” được chính thức dùng trên Tạp chí Quân đội nhân dân và phổ biến đến nay. 377. Chuyện “con rắn vuông” ở nước Mỹ? Ngày 25-3-1968, Tổng thống Giônxơn cùng các cộng sự thân cận nghe thuyết trình về tình hình miền Nam Việt Nam trong cuộc tấn công Tết. Sau khi nghe bài thuyết trình của Trung tướng U.Đơpuy, phụ tá Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, ông Gônbéc, Đại sứ Mỹ tại Liên hợp quốc hội Đơpuy: “Bài thuyết trình của ông cho biết là địch bị giết 80.000 người trong cuộc tấn công Tết. Vậy tỷ lệ thông thường giữa số bị thương và bị giết là bao nhiêu?”. “Mười trên một” - Gôn béc nói tiếp: “Đó là một con số lớn, liệu có thể coi là tỷ lệ ba trên một như là con số vừa phải không?”. “Được” - Đơpuy quả quyết. Gôn béc: “Theo ông thì họ có bao nhiêu quân chiến đấu thực sự có hiệu lực đang hoạt động trên chiến trường?”. Đơpuy: “Khoảng 230.000 người”. Gônbéc sửng sốt. “Vậy thưa Trung tướng, tôi không phải là nhà toán học giỏi, nhưng với con số 80.000 bị giết và với tỷ lệ giữa số bị thương và bị giết là ba trên một, hoặc là 240.000 bị thương vong so với tổng số là 230.000, như thế thì chúng ta đang đánh nhau với cái ma quỷ gì đây?”. Hoá ra ở Mỹ cũng có chuyện con rắn vuông! Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 09:39:45 pm 378. Số lượng tàu chiến, xe tăng, pháo của Mỹ - ngụy bị tiêu diệt?
Số lượng tàu, xuồng chiến đấu của Mỹ - ngụy bị quân và dân ở miền Nam thu và phá huỷ (từ năm 1961 đến năm 1975): 7.492 chiếc; Số lượng tàu địch và pháo binh và loại vũ khí của đích ta bắn cháy, bắn chìm (từ năm 1964 đến năm 1973): 296 chiếc; Số lượng xe tăng, xe bọc thép Mỹ - ngụy bị thu và phá ở miền Nam (từ năm 1961 đến năm l975): 38.835 chiếc; Số lượng pháo (đại bác) Mỹ - nguy bị thu và phá ở miền Nam (từ năm 1961 đến năm 1975): 13.153 khẩu(1). 379. Số lượng bom đạn Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam? “Về quân sự: Trong 21 năm (…) với ba tập đoàn không quân chiến thuật và một tập đoàn không quân chiến lược tham gia vào cuộc chiến tranh với mức độ sử dụng lúc cao nhất là 6.431 máy bay chiến thuật và trực thăng (1969) và 197 máy bay chiến lược B52 (46% tổng số B52 của Mỹ và đã ném xuống đất nước Việt Nam: 7.850.000 tấn bom các loại”(2). 380. Số lượng chất đọc hoá học Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam? Trong 10 năm (1962-1972), Mỹ đã rải trên 19 triệu galông hoá chất xuống chiến trường miền Nam Việt Nam (l galông = 4,51ít)(3). 381. Số lượng máy bay Mỹ đã sử dụng và bị bắn rơi tại Việt Nam? Số lượng máy bay Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam: Về quân sự: Trong 21 năm với ba tập đoàn không quân chiến thuật và một tập đoàn không quân chiến lược tham gia vào cuộc chiến tranh với mức độ sử dụng lúc cao nhất là 6.431 máy bay chiến thuật và trực thăng (1969) và 197 máy bay chiến lược B52 (46% tổng số B52 của Mỹ)(4). Số lượng máy bay Mỹ bị bắn rơi và thu tại Việt Nam: Số lượng máy bay Mỹ bị thu và phá huỷ ở miền Nam (1961-1975): 33.068 chiếc Số lượng máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc (từ ngày 5-8-1964 đến ngày 17-l-1973): 4.181 chiếc. 382. Thành tích tổng hợp bắn rơi máy bay Mỹ của các tỉnh, thành phố trên miền Bắc tính từ ngày 5- 8-1964 đến ngày 17-1-1973? Từ ngày 5-8-1964 đến ngày 17-1-1973, số máy bay Mỹ bị rơi trên vùng trời các tỉnh, thành phố như sau: Quảng Bình: 704 (có 3 B52 , 3 F11) Ninh Bình: 90 Nghệ An : 553 (có 12 B52, 1 F 111) Lạng Sơn. 85 Thanh Hoá: 376 (có 3 B52) Hải Hưng cũ: 85 Hà Nội: 338 (có 23 B52, 2 F111) Hà Tây: 83 (có 1 B52, 2 F111) Hải Phòng 31 (có 5 B52, 1 F111) Bắc Thái cũ: 69 (có 2B52) Vĩnh Linh: 283 (có 15 B52) Sơn La: 68 Hà Tĩnh: 267 (có 1 B52, 1 F111) Hoà Bình: 47 (có 1 B52) Quảng Ninh: 199 Thái Bình: 44 Hà Bắc cũ 162 (có 1 F111) Tuyên Quang: 21 Nam Hà: 120 Nghĩa Lộ: 16 Vĩnh Phú cũ: 120 (có 2 B52, 1 F111) Lai Châu: 14 Yên Bái: 98 (có 1 F111) Lào Cai: 2 Tổng số máy bay bị bắn rơi: 4.181 chiếc (có 68 chiếc B52 và 13 chiếc F111. (1)Theo Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.563-567. (2)Theo Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, 1991, tr. 344-345. (3)Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 15 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân 1944-2004, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 150. (4)Theo Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 60 nam ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 15 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân 1944, Sđd, tr. 148-149. Tiêu đề: Re: 60 Năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (hỏi và đáp) Gửi bởi: macbupda trong 31 Tháng Bảy, 2009, 09:43:49 pm TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách 1. Tổng cục Chính trị: Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 15 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân (1944-2004), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004. 2. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, l999. 3. Sổ tay tuyên truyền chống Mỹ cửu nước, t. 2, Phụ san Thời sự phổ thông. 4. Sức mạnh Việt Nam: Một số tư liệu về thắng lợi vĩ đại của dân tộc và tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội trong giai đoạn mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976. 5. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001. 6. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch lớn trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000. 7. Trần Ngọc Ninh (Chủ biên): Tổng kết cách đánh của lực lượng dân quân du kích - tự vệ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000. 8. Trung tâm từ điển bách khoa quân sự - Bộ Quốc phòng: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996. 9. Việt Nam: Những sự kiện (1954-1986), Viện khoa học - xã hội – Viện sử học, Hội khoa học xã hội, Hà Nội, 1990. 10. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Việt Nam thế kỷ XX; Những sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 2001. II. Báo, tạp chí 1. Báo Quân đội nhân dân. 2. Sự kiện và nhân chứng. 3. Tạp chí Lịch sử quân sự. 4. Tạp chí Quốc phòng toàn dân, |