Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:15:53 am



Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:15:53 am
- Tên sách: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
- Năm xuất bản: 2022
- Người số hóa: macbupda, saoden
 

* Chỉ đạo nội dung:

   ĐẢNG ỦY, CHỈ HUY VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ


* Ban Biên soạn:

   - Đại tá, ThS NGUYỄN KHẮC BÌNH - Chủ biên

   - Đại tá, CN LÊ TRÙNG DƯƠNG - Thư ký

   - Đại tá, ThS NGUYỄN HỒNG HẢI - Thành viên

   - Thượng tá, ThS NGUYỄN HỮU TRUNG - Thành viên

   - Thượng tá, ThS NGÔ QUỐC TUẤN - Thành viên


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:16:28 am
LỜI NÓI ĐẦU


FULRO là cụm từ viết tắt từ tiếng Pháp: Front Unifié de Lutte des Races Opprimées (Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức), đây là tổ chức chính trị, quân sự của các phần tử thân Pháp, Mỹ trong các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam (chủ yếu ở Tây Nguyên) và Campuchia, nhằm âm mưu chia để trị, kích động hận thù dân tộc chống lại cách mạng Việt Nam. Tổ chức này có quá trình hình thành, tồn tại và hoạt động cùng với quá trình xâm lược và thiết lập bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam. FULRO đã tồn tại trên 30 năm, từ khi "Phong trào BAJARACA" - tiền thân của FULRO xuất hiện vào cuối thập niên 50 của thế kỷ XX, đến thời điểm bộ phận cuối cùng của chúng ở Campuchia ra hàng UNTAC (1992). Với khẩu hiệu đấu tranh đòi quyền lợi dân tộc hẹp hòi, đòi tự trị, ly khai thành lập quốc gia riêng; FULRO đã tạo được ảnh hưởng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, phụ cận và duyên hải miền Trung. Trước năm 1975, được sự chỉ đạo của Pháp, Mỹ và các thế lực thù địch, FULRO đã gây cho ta những tổn thất nhất định, cản trở sự phút triển của phong trào cách mạng ở địa bàn chiến lược (thuộc Khu 5, Khu 6 cũ). Từ sau năm 1975, FULRO tập hợp lực lượng, phát triển tổ chức, hoạt động vũ trang chống phá quyết liệt, gây ra tình hình hết sức phức tạp, căng thẳng về an ninh, trật tự ở các địa phương trên địa bàn nói trên.


Xác định đấu tranh giải quyết FULRO là nhiệm vụ trọng tâm, gay go và quyết liệt, nên ngay sau ngày miền Nam được giải phóng, Đảng, Nhà nước đã dừng lực lượng vũ trang tiến công các căn cứ, các toán, cụm chỉ huy cầm đầu, các đơn vị vũ trang FULRO. Kết quả đã làm cho tổ chức, lực lượng FULRO bị thiệt hại nặng nề, đẩy lùi mưu đồ vũ trang lật đổ chính quyền cách mạng, đẩy chúng vào thế bị động, lúng túng. Tuy nhiên, công tác đấu tranh giải quyết FULRO vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cho nhân dân các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận sau giải phóng. Ngày 2 tháng 2 năm 1977, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 04/CT-TW "Về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ". Chỉ thị xác định rõ vấn đề FULRO không phải đơn thuần là vấn đề quân sự mà chủ yếu là vấn đề chính trị, phải được giải quyết một cách cơ bản lâu dài. Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, chúng ta đã huy động nhiều lực lượng, sử dụng tổng hợp các biện pháp để đấu tranh giải quyết FULRO. Vận dụng phương pháp đấu tranh kết hợp chặt chẽ giữa vận động quần chúng, đấu tranh truy quét với thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo nhằm phát triển toàn diện vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Trong đó, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho nhân dân gắn với chăm lo phát triển kinh tế - xã hội là then chốt. Nhờ có biện pháp đúng, phương pháp đấu tranh phù hợp đã làm cho FULRO tan rã hoàn toàn về tổ chức, lực lượng và tuyên bố chấm dứt hoạt động vào cuối năm 1992.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO của lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên, vùng duyên hải miền Trung và đồng bào dân tộc Chăm từ năm 1975 đến năm 1992 diễn ra phong phú, sinh động trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng đầy khó khăn, gian khổ và hy sinh, từng bước giành được những thắng lợi to lớn, góp phần làm thất bại âm mưu chia cắt đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân rộc, gây mất ổn định an ninh trật tự của FULRO và các thế lực thù địch trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đấu tranh giải quyết FULRO. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về hoạt động đấu tranh này. Do vậy, việc nghiên cứu để hiểu đúng bản chất FULRO, nguyên nhân, điều kiện hình thành, phát triển và tồn tại, âm mứu, thủ đoạn hoạt động của chúng, cũng như làm rõ các hoạt động đấu tranh của ta, để từ đó đúc rút những bài học kinh nghiệm trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nguyên và vùng phụ cận là việc làm hết sức cần thiết, góp phần bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn trong xây dựng, củng cố cơ sở chính trị, xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên địa bàn Tây Nguyên.


Hiện nay, FULRO đã tan rã về tổ chức và lực lượng chấm dứt hình thức công khai hoạt động chính trị và hoạt động vũ trang trong nội địa, nhưng chúng vẫn còn cơ sở xã hội, tư tưởng, tâm lý nhất định. Ở bên ngoài vẫn còn hàng trăm đối tượng FULRO lưu vong được các thế lực nuôi dưỡng. Với những điều kiện đó, các thế lực thù địch vẫn còn khả năng khai thác, lợi dụng vấn đề FULRO để tiếp tục hoạt động, khống chế, kích động, lừa bịp, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số nhẹ dạ cả tin đi theo, dựng nên cái gọi là "Nhà nước Đề Ga" độc lập, mưu toan chia cắt đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng Việt Nam.


Từ yêu cầu đó, Viện Lịch sử quân sự tổ chức nghiên cứu, biên soạn cuốn sách "Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992)" được thể hiện qua 3 phần, tập trung vào những yếu tố tác động đến hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO, diễn biến hoạt động đấu tranh, đánh giá những ưu, khuyết điểm và đúc rút những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh giải quyết FULRO.


Quá trình nghiên cứu, mặc dù Ban Biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng do năng lực nghiên cứu của nhóm tác giả còn ở mức độ nhất định và nhiều tài liệu chưa được khai thác nên cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc.


Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, Viện Lịch sử quân sự chân thành cảm ơn các nhà khoa học đã đóng góp nhiều ý kiến xây dựng; cảm ơn các cơ quan, đơn vị và Nhà xuất bản Quân đội nhan dân đã cộng tác, giúp đỡ để cuốn sách ra mắt bạn đọc.

VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:18:08 am
Phần thứ nhất
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG
ĐẤU TRANH GIẢI QUYẾT FULRO
(1975 -1992)


I. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG CỦA FULRO

1. Đặc điểm tự nhiên

Tây Nguyên là vùng đất nằm ở phía tây Nam Trung Bộ, có diện tích trên 54.400km2 (chiếm 16,3% diện tích cả nước) nằm trải dài theo phía nam của dãy Trường Sơn. Tây Nguyên hiện nay gồm 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng; phía đông giáp các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung (Quảng Ngãi, Bình Đinh, Phú Yên, Khánh Hòa); phía tây giáp Bình Phước và 2 nước Lào, Campuchia; phía nam tiếp giáp các tỉnh miền Đông Nam Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng Nai); phía bắc giáp với tỉnh Quảng Nam. Đặc biệt, Tây Nguyên có biên giới với 2 nước Lào và Campuchia dài hơn 580km, do vậy khu vực này càng có ý nghĩa to lớn về quốc phòng - an ninh.


Địa hình Tây Nguyên đa dạng gồm nhiều cao nguyên xếp xen kẽ núi cao, sông suối và thung lũng, độ cao trung bình từ 400 đến 800m so với mặt nước biển, có nhiều dãy núi cao trên dưới 2.500m và nhiều cao nguyên có độ cao khác nhau từ 300 đến 1.000m. Đặc điểm này đã dẫn đến sự phân bố dân cư thưa thớt, điều kiện cho FULRO hoạt động, ẩn náu, nhất là vùng Lâm Đồng, FULRO ẩn náu trong các hang sâu, rừng rậm, gây khó khăn cho ta trong việc phát hiện và truy quét.


Về giao thông, từ Tây Nguyên có thể tỏa đi các hướng ra Bắc vào Nam, xuống đồng bằng ven biển và sang 2 nước Lào, Campuchia, với nhiều quốc lộ, tỉnh lộ nối liền các huyện, các tỉnh với nhau. Từ cực Đông sang cực Tây của Tây Nguyên có nơi đến gần 200km đường giao thông, do đó việc di chuyển, bao vây, chia cắt FULRO cũng bị ảnh hưởng.


Tây Nguyên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa Tây Nam với 2 mùa rõ rệt. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, đất se cứng, sông suối khô cạn trời quang mây, thuận lợi cho việc giao thông, điều kiện để FULRO lợi dụng hoạt động chống phá. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Những tháng mưa nhiều thường gây ra lũ lụt làm cho việc cơ động lực lượng, di chuyển gặp nhiều khó khăn, nhưng đối với FULRO chúng rất thông thuộc địa hình, nên việc cơ động, luồn lách, di chuyển của chúng làm ta rất khó phát hiện.


Hệ thống sông hồ Tây Nguyên nhiều, hẹp, lắm thác ghềnh, tốc độ dòng chảy lớn, có nhiều hồ nước lớn tự nhiên, hình thành bởi những túi trũng chứa nước từ các dãy núi. Do đó, ít có giá trị giao thông, song lại rất cơ động trong việc di chuyển, ẩn náu. Thảm thực vật ở Tây Nguyên rất phong phú về chủng loại, giàu có về khối lượng, độ che phủ rừng còn rất lớn, bao gồm rừng nguyên sinh, rừng thưa, thảm cỏ, rừng cây công nghiệp.


Với đặc điểm địa lý tự nhiên như vậy, Tây Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh, quốc phòng và được mệnh danh là "mái nhà của Đông Dương". Các nhà quân sự Pháp, Mỹ từng đánh giá: "Ai làm chủ được Tây Nguyên sẽ làm chủ Đông Dương", "Nắm được Tây Nguyên sẽ khống chế được toàn bộ vùng duyên hải miền Trung, cũng như cửa ngõ Sài Gòn, vùng Đông Nam Bộ; khống chế khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia"1 (Bộ Quân lực - Bộ Tư lệnh Quân lực (1965), Kế hoạch đối phó, triệt phá các căn cứ mật Khu V ở Trung Nguyên Trung phần, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu: PTTg 15234).


Gắn với Tây Nguyên còn có các khu vực phụ cận gồm miền núi các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và vùng dân tộc Chăm ở duyên hải miền Trung, với địa bàn tập trung chủ yếu của FULRO là Ninh Thuận và Bình Thuận (Thuận Hải cũ). Địa hình vùng phụ cận và duyên hải miền Trung vừa có đồi núi cao, hiểm trở, vừa có đồng bằng nhỏ và cồn cát, hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bờ biển sâu với nhiều đoạn khúc khuỷu, có đồng bằng nhỏ và cồn cát, đất nhiễm mặn ven biển. Vùng phụ cận có vị trí địa lý tự nhiên quan trọng bởi sự kết nối với cao nguyên, biên giới ở phía Tây, có hàng trăm kilômét bờ biển và án ngữ trên trục đường giao thông chính từ Bắc vào Nam.


Nhìn chung, những yếu tố của đặc điểm địa lý tự nhiên các tỉnh Tây Nguyên, phụ cận và duyên hải miền Trung, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, khí hậu 2 mùa khác biệt... là điều kiện thuận lợi cho FULRO ẩn náu, di chuyển và hoạt động bám sâu vào quần chúng. Do đó, cuộc đấu tranh giải quyết FULRO của ta kéo dài và phức tạp hơn.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:19:08 am
2. Đặc điểm dân cư, dân tộc và tôn giáo

Trong lịch sử, Tây Nguyên chỉ có các nhóm tộc người thiểu số cư trú, họ được coi là những người cư dân bản địa, có quá trình phát triển lâu đời ở vùng đất này. Cộng đồng cư dân Tây Nguyên cơ bản định hình, bao gồm những nhóm tộc người thuộc hệ Nam Á (Ba Na, Hrê, Xê Đăng, Cơ Ho, M’nông, Mạ, Giẻ Triêng, Brâu, Rơ Măm) và những nhóm người thuộc hệ ngữ Nam Đảo (Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Raglai). Lãnh thổ của từng tộc người bản địa cũng khá rõ rệt. Bắc Kon Tum là nơi quần tụ của người dân tộc Xê Đăng, Hrê, Giẻ Triêng; khu vực Kon Tum, Pleiku là nơi cư trú của người Ba Na, Gia Rai; Đắk Lắk là quê hương của người Ê Đê, M’nông và Lâm Đồng có những điểm khá quần tụ của dân tộc Co' Ho, Mạ, Chu Ru.


Tây Nguyên ngày nay có hầu hết các thành phần dân tộc của cả nước, sống rải rác ở 5 tỉnh. Trong đó, nhóm dân cư tại chỗ chiếm 14% dân tộc thiểu số cả nước và khoảng 24% dân số Tây Nguyên (2004). Một số dân tộc có mối quan hệ thân tộc, tôn giáo với cư dân ở quốc gia láng giềng và một số đồng tộc đã chuyển cư ra nước ngoài sinh sống. Bên cạnh bộ phận dân cư tại chỗ, nhóm dân cư mới đến sau năm 1975 trở lại đây gồm người Kinh (Việt) và người dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung chiếm khoảng 76% dân số (2004), trong đó tộc người Kinh (Việt) chiếm khoảng 67% dân số, là thành phần tộc người đa số của toàn vùng Tây Nguyên. Hiện nay, xu hướng cư trú đan xen giữa các dân tộc thiểu số với nhau và dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh (Việt) ngày càng tăng.


Việc di cư dân từ nơi khác đến Tây Nguyên đã làm cho không gian cuộc sống của người dân tại chỗ bị thu hẹp, đất đai - tư liệu sản xuất chính của họ ngày càng khan hiếm, dẫn đến thiếu đất sản xuất và đất ở. Đây là điều kiện để FULRO và phần tử xấu lợi dụng kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly khai, tự trị.


Dân tộc Chăm (còn có tên gọi khác là Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...) theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009 có 161.729 người, tập trung ở Ninh Thuận và Bình Thuận (khoảng 70%) và một bộ phận ở Châu Đốc - An Giang, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh1 (Bộ Công an, Tổng kết lịch sử cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.9). Đây là dân tộc cùng ngữ hệ Nam Đảo (Malayo - Polynéxia) với một số tộc người ở Trung Tây Nguyên như Ê Đê, Gia Rai, Chu Ru. Trong lịch sử, người Chăm đã từng có vương quốc riêng - Vương quốc Chăm Pa, nằm dọc theo khu vực Trung và Nam Trung Bộ ngày nay. Nhưng trải qua hàng trăm năm biến thiên của lịch sử, hiện nay người dân tộc Chăm là 1 trong 54 dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, cư trú chủ yếu ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Ninh Thuận, Bình Thuận. Lịch sử đó đã để lại trong người Chăm ý thức mặc cảm về dân tộc, dễ bùng lên khi bị xúc phạm hoặc bị các thế lực thù địch, phản động kích động.


Về tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên trước đây chủ yếu theo tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh. Tập tục cúng Yàng (trời), cúng thần đến nay vẫn còn bị ảnh hưởng, chi phối nhất định trong đời sống tâm linh của họ, là yếu tố củng cố sự cố kết cộng đồng, duy trì đạo đức truyền thông và trật tự trong các buôn làng. Tuy nhiên, với sự phát triên mạnh mẽ của các tôn giáo, xu hướng từ bỏ tín ngưỡng truyền thống để theo tôn giáo độc thần ngày một gia tăng.


Cùng với quá trình xâm lược, thống trị Tây Nguyên, bọn thực dân, đế quốc sớm đưa Kitô giáo vào vùng này. Ngay từ giữa thế kỷ XVIII, một số nhà truyền đạo người Pháp đã đến truyền bá đạo Thiên Chúa trong vùng đồng bào dân tộc Ba Na, Xê Đăng ở khu vực Kon Tum, vùng dân tộc Ê Đê ở Buôn Ma Thuột. Chúng xây dựng trung tâm truyền giáo, lập "Hội truyền giáo", lôi kéo nhiều người theo đạo và đào tạo một số tu sĩ cốt cán người Thượng.


Từ năm 1930, các giáo sĩ nước ngoài thuộc Hội truyền giáo (CMA)1 (Tên tiếng Anh của tổ chức này là: The Christian and Missionnary Alliance, dịch sang tiếng Việt là: Hiệp hội Cơ đốc và Truyền giáo, hay còn gọi là Hiệp hội Phúc âm và Truyền giáo hoặc Hội truyền giáo CMA) bắt đầu tổ chức những hoạt động truyền giáo, phát triển đạo Tin Lành ở Tây Nguyên, nhất là vùng đồng bào dân tộc Cơ Ho, Gia Rai, Ê Đê... Mặc dù du nhập vào Tây Nguyên muộn hơn so với Công giáo, nhưng đạo Tin Lành lại phát triển khá nhanh, thu hút được tín đồ người dân tộc thiểu số xây đựng nhà thờ, các cơ sở kinh tế - xã hội và lập ra tổ chức giáo hội riêng cho người Thượng: "Hạt Thượng du" thành lập năm 1959 và sau đó tách ra thành 2 trung tâm truyền đạo là "Trung Thượng Hạt" đặt trụ sở tại Buôn Ma Thuột và "Nam Thượng Hạt" ở Đà Lạt.


Người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bàlamôn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là Chăm Bàni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo). Đó là những tôn giáo hòa quyện với dân tộc từ rất lâu. Lễ nghi, sinh hoạt tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong cuộc sống mọi mặt của người dân. Các chức sắc và thánh đường, đền tháp được người dân kính trọng và sùng bái.


Quan hệ xã hội, gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành 2 thị tộc Cau và Dừa. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Độ cổ đại, họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: Không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...


Nhìn chung, tình hình tôn giáo ở các tỉnh Tây Nguyên, phụ cận và duyên hải miền Trung khá phức tạp. Trong số các tôn giáo chính ngày nay, các tín đồ đạo Cao Đài, Đạo Phật, Đạo Hồi và Bàlamôn chấp hành khá tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đạo Tin Lành và Công giáo là 2 tôn giáo có đông tín đồ người dân tộc thiểu số, có lịch sử phát triển gắn liền với quá trình xâm lược của thực dân, đế quốc và đã từng phục vụ đắc lực cho cuộc chiến tranh xâm lược và thống trị của chúng trên địa bàn Tây Nguyên. Vì vậy, nó để lại những dấu ấn và nhiều vấn đề lịch sử phức tạp, ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội nới đây. Đó cũng là điều kiện thuận lợi để FULRO lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:19:42 am
3. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của người Chăm và các dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung còn thấp và không đều. Kinh tế nông nghiệp là chủ đạo, kết hợp với thu nhặt lâm thổ sản; sản xuất phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên và vẫn mang tính tự cung tự cấp là chủ yếu; kinh tế hàng hóa chưa phát triển. Do đó, đời sống của họ còn bấp bênh, thiếu thốn, đói nghèo.


Sau ngày miền Nam được giải phóng, đặc biệt từ năm 1986, khi Đảng, Nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ở đây ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, xu hướng chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống, phân hóa giàu nghèo giữa đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ với các cư dân nơi khác đến, nhất là người Kinh lại càng gia tăng. Đó là những vấn đề mà FULRO lợi dụng để chia rẽ, tuyên truyền, kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống phá cách mạng trên địa bàn Tây Nguyên và phụ cận.


Về giáo dục - đào tạo, trước ngày giải phóng, do ảnh hưởng nặng nề của chính sách chia để tri và chính sách ngu dân của Pháp và Mỹ mà nền giáo dục cả Tây Nguyên và vùng phụ cận nói chung rất thấp. Đó là nền giáo dục vừa mất cân đối về nhiều mặt, vừa phản động về nội dung. Sau giải phóng, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách phát triển giáo dục đào tạo như: Chương trình xóa mù chữ, chương trình phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, mở nhiều trường dân tộc nội trú và có nhiều chế độ ưu đãi với con em người dân tộc thiểu số nhằm năng cao dân trí cho đồng bào dân tộc. Tuy nhiên, nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở đó vẫn chưa quan tâm nhiều đến việc học hành của con em họ. Do đó, so với các vùng khác, tỷ lệ thất học và tái mù chữ còn rất cao.


Về hôn nhân, gia đình, ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ vẫn còn phổ biến ở nhiều dân tộc. Ở đó, người phụ nữ có vai trò, vị trí quan trọng trong gia đình cũng như xã hội. Quan hệ láng giềng, gia đình gắn bó sâu sắc. Đặc biệt, mọi cá nhân đều gắn với buôn làng cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Trong tổ chức làng truyền thống, có những người đứng đầu như chủ đất, chủ bến nước, thống lĩnh quân sự, người xét xử theo tòa án phong tục... Đó là những người được dân làng tín nhiệm cử ra, do đó họ có kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu, am hiểu phong tục tập quán dân tộc. Họ hầu như không có đặc quyền, đặc lợi, nhưng có thể chi phối đến đời sống sinh hoạt của cộng đồng.


Về mặt văn hóa, tâm lý dân tộc, lịch sử đã để lại cho đồng bào Chăm và dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên một nền văn hóa lâu đời và ý thức cấu kết cộng đồng dân tộc - "ý thức cộng đồng buôn làng" rất sâu sắc. Đây vừa là rào chắn ngăn chặn FULRO xâm nhập hiệu quả nhưng cũng là hàng rào bảo vệ vững chắc cho FULRO ăn sâu bám rễ trong dân khi mà đồng bào tin theo FULRO.


Như vậy, với yếu tố nội tại của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và phụ cận, trình độ dân trí thấp, tôn giáo phức tạp lại bị ảnh hưởng sâu đậm về tư tưởng do chế độ cai trị lâu dài của thực dân đế quốc để lại mà khi FULRO lợi dụng, lôi kéo đã có đông đồng bào tin và theo FULRO chống phá cách mạng.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:21:42 am
II. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ TỒN TẠI; ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG CỦA FULRO

1. Quá trình hình thành, phát triển và tồn tại của FLJLRO trước tháng 3 năm 1975

Từ cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã từng xâm nhập và thiết lập bộ máy cai trị trên đất Tây Nguyên. Đến năm 1955, sau khi Ngô Đình Diệm lên làm cái gọi là Tổng thống chính quyền Sài Gòn, thay đổi hàng loạt chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên: Bãi bỏ quy chế "Hoàng triều cương thổ" của vua Bảo Đại; bỏ Tòa án phong tục, không dạy tiếng Thượng trong trường phổ thông; đưa người di cư ồ ạt lên định cư ở các tỉnh Tây Nguyên, làm cho số lượng người Kinh có mặt tại đây tăng vọt1 (Trước năm 1954, người Kinh ở Tây Nguyên có khoảng 30.000 người, chiếm 10% dân số, đến năm 1975 đã chiếm khoảng 70%). Những thay đổi về chính sách này cũng đồng nghĩa với việc bãi bỏ quy chế nâng đỡ ưu ái dành cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trước đó, gây nên làn sóng chống đối mạnh mẽ trong các dân tộc tại chỗ đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, nhất là trong đội ngũ trí thức, công chức, binh sĩ người bản địa. Năm 1958, "Phong trào BAJARAKA"2 (Lấy âm tiết đầu trong tộc danh của 4 dân tộc lớn ở Tây Nguyên là: Ba Na, Gia Rai, Rahđê và Kaho) do Y Bhăm Ênuol cầm đầu chính thức được thành lập.


Mục đích của phong trào được xác định là đấu tranh duy trì bản sắc dân tộc, bảo vệ quyền lợi các dân tộc thiểu số, đòi Tây Nguyên tự trị. Nhưng khi dó, chính quyền Ngô Đình Diệm không công nhận phong trào này, đã thẳng tay đàn áp, bắt giữ hầu hết các lãnh tụ cầm đầu. Đến đầu năm 1959, phong trào BAJARAKA bị dập tắt. Có thể nói, phong trào BAJARAKA là tiền thân của tổ chức FULRO (sau gọi là FULRO 1).


Cùng thời gian những năm đầu của thập kỷ 60 thế kỷ XX, ở Campuchia xuất hiện các tổ chức mang tính chất dân tộc hẹp hòi, biệt lập, kỳ thị với dân tộc khác, như: "Mặt trận giải phóng Miên hạ" (Front de Liberation du Kampuchia Krom - FLKK) do Châu Đa Ra cầm đầu, "Mặt trận giải phóng xứ Chàm" (Front de Liberation du Champa - FLC) do Les Kossem làm lãnh tụ. Các tổ chức này hoạt động móc nối, tác động vào Việt Nam gây cơ sở, tuyên truyền kích động tư tưởng ly khai dân tộc.


Sau ngày Ngô Đình Diệm bị đảo chính (1.11.1963), dưới sức ép của Mỹ, chính quyền Sài Gòn đã thả hết các thủ lĩnh FULRO 1 trở về Tây Nguyên. Từ đó, những người này tích cực hoạt động trở lại, tuyên truyền gây ảnh hưởng và tập hdp lực lượng lập ra tổ chức với tên gọi mới là "Mặt trận giải phóng dân tộc Cao nguyên" (Front de Liberation des Haut Plateaux Montagnard - FLHPM). Ngày 25 tháng 6 năm 1965, được sự ủng hộ của chính quyền Vương quốc Campuchia, tại Phnôm Pênh diễn ra "Hội nghị các dân tộc Đông Dương", gồm đại diện của 3 mặt trận tham dự. Sau hội nghị 3 mặt trận nói trên chính thức sáp nhập, lập ra "Mặt trận đoàn kết đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức" (Front Unifié de Lutte des Races Opprimées - FULRO) do Y Bhăm Ênuol làm Chủ tịch và các phó chủ tịch là Châu Đa Ra, Kpă Kới. FULRO lấy ngày 20 tháng 9 hằng năm làm ngày "Quốc khánh", danh xưng FULRO chính thức ra đời từ sự kiện này. Đây còn gọi là thời kỳ FULRO 2.


Trước khi Hiệp định Pari được ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973, nhận thấy khả năng bị thất bại trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Mỹ tìm cách nắm lại lực lượng FULRO để sẵn sàng lực lượng tham gia khi có giải pháp chính trị cho miền Nam Việt Nam - kế hoạch hậu chiến của Mỹ. Do đó, ngay từ cuối năm 1972, Mỹ tích cực trang bị vũ khí, phương tiện cho FULRO lập căn cứ, củng cố tổ chức. Tháng 12 năm 1974, cái gọi là "Chính phủ nước cộng hòa Đề Ga" tự xưng của FULRO được thành lập. FULRO bố trí lực lượng theo 4 vùng chiến thuật do chúng đặt ra1 (Vùng 1 là miền Tây Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên; Vùng 2 là Gia Lai, Kon Tum; Vùng 3 là Đắk Lắk và Vùng 4 là Lâm Đồng) với bộ máy hành chính từ trung ương đến cơ sở. Từ đó gọi là FULRO 3, hoạt động dưới danh xưng là "Mặt trận giải phóng Cao nguyên người Thượng" với mục tiêu "Giải phóng lãnh thổ miền núi Nam Đông Dương".


Trong suốt thời gian hoạt động, FULRO đã gây ra nhiều thiệt hại to lớn về nhân lực, vật lực, để lại sự kinh hoàng trong nhân dân và "vết thương" trong lòng dân tộc. Dưới thời chế độ Sài Gòn, vụ bạo loạn đêm 19 tháng 9 năm 1964, có 2 trung đội "dân sự chiến đấu" chiếm quận lỵ Tuyên Đức, giết hại 15 sĩ quan, binh sĩ người Kinh cùng gia quyến của họ. Ngày 23 tháng 9 năm 1964, có 40.000 binh sĩ người Thượng đóng ở Đắk Lắk, Pleiku nổi dậy, trong đó có binh sĩ trại huấn luyện biệt kích Pleiku M’nông. Giữa năm 1965, có 200 FULRO từ Campuchia về biên giới tổ chức cướp trại buôn B’riêng. Ở Phú Bổn, ngày 18 tháng 12 năm 1965, FULRO nổi dậy chiếm quận lỵ Phú Thiện, giết 15 binh lính Sài Gòn...


Ở vùng Chăm, trong 2 năm 1972 - 1973, Huỳnh Ngọc Sắng và đồng bọn lén lút trở về Ninh Thuận bí mật hoạt động xây dựng cơ sở, móc nối lôi kéo số ngụy quân, ngụy quyền người dân tộc để phát triển thành lực lượng chính trị và vũ trang của FULRO Chăm.


Ở Đà Lạt - Lâm Đồng, năm 1972, xuất hiện lực lượng "áo xanh miền núi" thành phần tham gia là học sinh, sinh viên, công chức, FULRO cũ, được sự cố vấn giúp đỡ của Newman - Mục sư Tin Lành người Mỹ. Trong khi đó, Y Bhăm Ênuol ở Campuchia bí mật chỉ đạo nhóm Kpă Kới vốn là Chủ tịch phong trào đoàn kết tỉnh bộ Đắk Lắk khôi phục lại phong trào FULRO trong nước. Tình báo Mỹ ra sức ủng hộ FULRO giành "độc lập, tự trị"1 (Quân khu 5, Sơ lược về nguồn gốc tổ chức của bọn phản động FULRO trên địa bàn Tây Nguyên, 1983, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút quân về nước. Theo chủ trương của Mỹ, tháng 9 năm 1973, nhóm Kpă Kới chạy vào rừng hoạt động. Ngày 20 tháng 9 năm 1973, từ Campuchia, Y Bhăm Ênuol ký một loạt nghị định, quyết định, chỉ thị về chấn chỉnh tổ chức, hoạt động của FULRO.


Những tháng đầu năm 1974, nhóm Kpă Kới bắt đầu hoạt động mạnh ở Đắk Lắk và gây ảnh hưởng sang các tỉnh Tuyên Đức, Pleiku. Ngày 20 tháng 9 năm 1974, FULRO gửi thư cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc, kêu gọi quốc tế can thiệp để chính quyền Sài Gòn thừa nhận FULRO là đại biểu duy nhất có thẩm quyền của nhân dân miền núi Nam Đông Dương.


Như vậy, sự ra đời của B AJARAKA là hệ quả tất yếu của phong trào đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Tuy nhiên, phong trào đã bị các thế lực quốc tế và tay sai lợi dụng, lái phong trào đi theo quỹ đạo của những âm mưu, ý đồ do chúng đặt ra. Quá trình hình thành và hoạt động của FULRO là do mâu thuẫn và sự hậu thuẫn của Pháp, Mỹ, chính quyền Sài Gòn, chính quyền Campuchia. Xét về bản chất, chúng đều chống lại cách mạng, sự tồn tại của chúng là dựa vào các thế lực quốc tế và sự ủng hộ của một bộ phận người dân tộc thiểu số bằng các thủ đoạn khống chế, lừa bịp và các chiêu bài mị dân. Đặc biệt, từ FULRO 3 trở đi, sự hậu thuẫn của Mỹ ngày càng rõ ràng.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:22:52 am
2. Âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của FULRO (3.1975-1992)

Thực hiện kế hoạch hậu chiến của Mỹ, nhằm xây dựng FULRO thành "lực lượng chính trị thứ 3" tham gia "giải pháp chính trị" theo tinh thần Hiệp định Pari. Do đó, ngay từ giữa tháng 3 năm 1975, lợi dụng lực lượng của ta tiếp quản vùng mới giải phóng còn mỏng, FULRO nổi lên hoạt động mạnh nhiều nơi. Trước nguy cơ tan rã và bị tiêu diệt hoàn toàn, chúng chủ trương giữ gìn lực lượng còn lại, chờ thời cơ bằng cách lợi dụng chính sách khoan hồng của ta, cho đại bộ phận binh lính trá hàng, tạm thời chịu sự cải tạo của ta để tránh bị tiêu diệt, cài cắm người vào hàng ngũ cách mạng, nhất là ở cơ sở để bảo toàn lực lượng; khống chế quần chúng hoặc dùng áp lực buộc người của ta phải làm việc cho chúng. Rải truyền đơn, xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; kích động lôi kéo quần chúng, đẩy mạnh hoạt động vũ trang, đồng loạt tiến công vào các đơn vị bộ đội, tổ công tác, một số thị trấn, thị xã. Với thủ đoạn tác chiến du kích nhỏ lẻ, FULRO tổ chức hàng trăm vụ tập kích đốt buôn làng, phục kích trên các trục đường giao thông, khủng bố, bắt cóc cán bộ ở cơ sở nhằm mục đích vừa phá hoại, vừa tạo thanh thế, gây cho ta một số thiệt hại đáng kể. Cùng với lợi dụng, kích động vấn đề dân tộc, bọn cầm đầu FULRO liên kết chặt chẽ với số cầm đầu đạo Tin Lành ở Tây Nguyên, lợi dụng tôn giáo lôi kéo, khống chế đồng bào dân tộc. Hầu hết số mục sư Tin Lành người dân tộc thiểu số đều trở thành chỉ huy FULRO.


Thời kỳ Pôn Pốt tiến hành chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam nước ta, gây ra tình hình phức tạp, các đối tượng phản cách mạng, nhất là người chế độ cũ, ồ ạt nhen nhóm lập các tổ chức phản cách mạng, tập hợp lực lượng để hoạt động chống phá, âm mưu lật đổ chính quyền, cầm đầu FULRO cho đây là thời cơ hoạt động, chúng tăng cường xây dựng lực lượng FULRO bên trong và trang bị vũ khí, đánh phá hạ tầng cơ sở của ta, lấn từng bước ở cơ sở. Hoạt động vũ trang của FULRO không giảm so với những năm 1975 - 1976.


Trong chiến lược của Mỹ và các thế lực thù địch, âm mưu cơ bản và lâu dài của chúng là làm chảy máu, suy yếu 3 nước Đông Dương, thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Các thế lực lưu vong phản động cũng được cổ súy "trong nổi dậy, ngoài đánh vào, gây bạo loạn", điển hình là các chiến dịch Đông Tiến I, II, III. Được sự hỗ trợ của các thế lực quốc tế, FULRO nhanh chóng đề ra kế hoạch "Hiện đại hóa 5 năm (1981 - 1985)". Theo đó, lấy nông thôn bao vây thành thị, nắm chắc nông thôn bám sát thành thị. Xây dựng chính quyền thôn xã tiến lên huyện tỉnh, tránh bị truy quét bảo tồn lực lượng, đẩy mạnh phá hoại làm tiêu hao ta.


Từ năm 1988, ở Campuchia, tình hình diễn biến phức tạp. Sau khi Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước (1989), bọn phản động Khmer Đỏ ngoan cố chống phá, các phe phái nổi lên tranh giành quyền lực, ảnh hưởng. Liên hợp quốc đã can thiệp, đưa lực lượng quốc tế vào thực hiện giải pháp chính trị (UNTAC), do đó FULRO hầu như không còn chỗ dựa. Đến tháng 12 năm 1992, ở Campuchia, FULRO đầu hàng UNTAC, giao nộp vũ khí; đồng thời, chấm dứt hoạt động chống phá công khai ở nội địa.


Về âm mưu chung: Với bản chất phản cách mạng, một số phần tử tầng lớp trên trong đồng bào dân tộc ít người đứng ra cầm đầu tổ chức FULRO, ngày càng bộc lộ rõ âm mưu câu kết với đế quốc và phản động quốc tế để chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dưới chiêu bài đánh đuổi người Kinh, giải phóng Tây Nguyên, lập nước Đề Ga tự trị, tách Tây Nguyên ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.


Âm mưu cụ thể: FULRO tăng cường hoạt động chiến tranh tâm lý, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách của cách mạng, kích động quần chúng nghi ngờ cách mạng; lừa bịp và khống chế để lôi kéo quần chúng xây dựng cơ sở trong dân, lũng đoạn khống chế cán bộ cơ sở, hình thành bộ máy chính quyền ngầm và lực lượng vũ trang bí mật ở buôn làng; chờ thời cơ nổi dậy cướp chính quyền, phát triển lực lượng ngoài rừng, đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở một số nơi nhằm giết cán bộ là người dân tộc; uy hiếp cán bộ, nhân dân, đồng thời tổ chức lực lượng móc nối với bọn phản động nước ngoài để lấy nguồn tài trợ. Tìm diệt những người dân tộc làm việc cho cách mạng và tiêu diệt những cán bộ dân tộc mà chúng cho là đi làm "xấu dân tộc, dân ghét". FULRO xác định "người Kinh là kẻ thù số 1 của người dân tộc".


Nhìn chung, FULRO là một tổ chức phản động có vũ trang, do Pháp gây dựng, được Mỹ và các thế lực thù địch trong nước và nước ngoài ủng hộ để chống phá cách mạng Việt Nam. Địa bàn hoạt động của FULRO rộng, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, phong tục tập quán lạc hậu dễ bị lợi dụng kích động lôi kéo chống phá cách mạng. Số cầm đầu FULRO vốn đã từng làm tay sai cho thực dân, đế quốc nên bản chất rất ngoan cố, phản động, thủ đoạn thâm độc và xảo quyệt. FULRO có hệ thống tổ chức từ trên xuống, điều kiện để khống chế đồng bọn đi theo chúng, đã cài cắm được tổ chức hợp pháp trong dân. Sau mỗi lần bị ta bao vây, truy quét, FULRO nhanh chóng thay đổi phương thức hoạt động, củng cố tổ chức, câu kết, móc nối với các thế lực phản động trong và ngoài nước để tồn tại lâu dài. Do đó, cuộc đấu tranh giải quyếl vấn đề FULRO của ta diễn ra quyết liệt, khó khăn và phức tạp.


Tuy nhiên, FULRO mang trong mình tư tưởng ly khai, dân tộc hẹp hòi, gây cảnh đổ máu bất ổn định ở Tây Nguyên và khu vực phụ cận; nội bộ thường xuyên mâu thuẫn, sát hại lẫn nhau để tranh giành quyền lực địa vị. Do vậy, FULRO không có chỗ đứng trong lòng đồng bào dân tộc thiểu số. Hơn nữa, số cầm đầu FULRO hoàn toàn thuộc tầng lớp trên nên quyền lợi gắn chặt với thực dân, đế quốc, động cơ chính trị phản động và sống lưu vong nên hoàn toàn xa lạ với đại bộ phận đồng bào; ngọn cờ ly khai "dân tộc tự trị" hoàn toàn đi ngược lại nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, nên không có chỗ dựa, không được đồng bào tiếp nhận đi theo; khi bị bao vây, cô lập, truy quét, FULRO nhanh chóng sụp đổ về tinh thần, tan vỡ về tổ chức. Đây là những điểm yếu cơ bản của FULRO mà ta cần khai thác triệt để trong cuộc đấu tranh này.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:25:06 am
III. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN CỦA TA TRONG ĐẤU TRANH GIẢI QUYẾT FULRO

1. Chủ trương của Đảng về đấu tranh giải quyết FULRO

Đúc kết kinh nghiệm đấu tranh chống FULRO trước năm 1975, ngay từ khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, trong báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III cuối tháng 9 năm 1975 "Về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới" đã đề ra nhiệm vụ trong những năm trước mắt, đó là: "Đẩy mạnh công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế của cả nước theo một kế hoạch thống nhất, đi đôi với phân bố lại lao động trong cả nước... cải thiện một bước đời sống nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh..., sẵn sàng đập tan mọi mưu đồ xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và tay sai. Tăng cường công tác bảo vệ trật tự, an ninh, làm tốt công tác trấn áp phản cách mạng, cải tạo ngụy quân và nhân viên ngụy quyền cũ ở miền Nam"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 293 - 294, 321 - 322).


Về công tác dân tộc, Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy Đảng và chính quyền ở những địa phương có nhiều dân tộc thiểu số phải đề ra ngay những chủ trương, biện pháp tích cực hiệu quả, nhằm cải thiện đời sống vật chất và văn hóa các dân tộc thiểu số. Phải thực hiện triệt để quyền bình đẳng dân tộc, giúp đỡ phát trển kinh tế và văn hóa, đưa các dân tộc tiến lên trong tập thể quốc gia thống nhất, chống mọi khuynh hướng biệt phái chia rẽ, cần ra sức tuyên truyền giác ngộ tranh thủ các lãnh tụ dân tộc thiểu số. Làm cho dân tộc thiểu số hiểu rõ mối quan hệ giữa dân tộc và xã hội chủ nghĩa, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng thực sự dân tộc, đem lại ấm no, hạnh phúc, thực hiện quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 293 - 294, 321 - 322).


Đối với số phản cách mạng, Bộ Chính trị chỉ đạo "việc trấn áp phản cách mạng phải được tiến hành một cách kiên quyết triệt để". Đồng thời, phải "tách bọn phản động, cô lập chúng khỏi quần chúng, phân hóa chúng đến mức cao nhất. Phải làm triệt để nhưng làm tốt, làm đúng, không để xảy ra chồng chềnh, tạo kẽ hở cho các thế lực đen tối quốc tế lợi dụng", "Phải làm kiên quyết đúng chính sách và sách lược, không để xảy ra lệch lạc hữu hoặc tả"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Sđd, tr. 306, 359).


Tuy nhiên, công tác dân tộc là vấn đề phức tạp, nhất là ở Tây Nguyên, nhiều nơi đã mắc sai sót để FULRO lợi dụng kích động lôi kéo quần chúng. Dự báo trước tình hình, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV năm 1976, Đảng ta chỉ rõ: "Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam". Để thực hiện điều đó thì: "Trong Đảng cũng như nhân dân phải tiếp tục phê phán, khắc phục tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tâm lý kỳ thị dân tộc"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 164-165, 164, 164-166).


Trong công tác dân tộc, Đảng ta chỉ rõ: "Thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau tiến bộ"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 164-165, 164, 164-166).    Đồng thời, Đảng cũng nhắc nhở: "Phải thấu đáo điều kiện sinh hoạt, tâm lý, tình cảm các dân tộc, tôn trọng phong tục tập quán, giữ gìn phát huy truyền thống văn hóa tiến bộ của các dân tộc ít người... Đối với những phong tục tập quán lạc hậu, trái khoa học... phải tiến hành dần bằng cách tuyên truyền thuyết phục quần chúng, kiên nhẫn chờ đợi quần chúng, tuyệt đối không dùng biện pháp mệnh lệnh thô bạo"4 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 164-165, 164, 164-166).


Đối với công tác an ninh, trật tự, Trung ương đề ra chủ trương: "Phải tiếp tục trấn áp bọn phản cách mạng hiện hành đập tan những mưu đồ ngóc đầu dậy của bọn phản động. Không ngừng tăng cường lực lượng công an nhân dân vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ có trình độ...". Đồng thời phải "kết hợp lực lượng chuyên trách chính quy với quần chúng nhân dân đông đảo; luôn giáo dục và nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho quần chúng, kiên trì phát động quần chúng tích cực tham gia công tác giữ gìn an ninh, chính trị và trật tự xã hội"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đáng lại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật. Sđd, 1977, tr. 144).


Như vậy, ngay từ khi mới giải phóng, bằng sự nhạy bén của mình, Đảng đã dự đoán và đưa ra biện pháp kịp thời để giải quyết lực lượng chống đối phản động ở miền Nam, nhất là khu vực Tây Nguyên. Mặc dù, chưa có một chủ trương cụ thể nào về chống FULRO nhưng các chủ trương chung về trấn áp lực lượng chống đối phản cách mạng, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị, thực hiện chính sách dân tộc... được xem là đường lối chung của Đảng về đấu tranh chống FULRO. Nhìn tổng thể, biện pháp chủ yếu giai đoạn này là truy quét, quân sự vũ trang để giải quyết lực lượng chống đối phản động, trong đó có FULRO.


Do quá trình tiến hành giải quyếl FULRO chưa được triệt để, thường xuyên liên tục. Nhiều nơi vẫn khoán trắng cho quân đội và công an. Các khó khăn bức xúc đời sống kinh tế - xã hội, tranh chấp đất đai trong nhân dân chưa được quan tâm giải quyết đúng mức. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo vùng dân tộc cũng có nhiều vướng mắc chưa được giải quyết. Đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu kém. Do đó, FULRO vẫn còn điều kiện để tuyên truyền lừa bịp, lôi kéo một bộ phận quần chúng, khống chế nhiều buôn làng, thậm chí cả vùng căn cứ của ta trong kháng chiến.


Để giúp nhân dân và lực lượng vũ trang nhận thức sâu sắc về âm mưu thủ đoạn chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, ngày 2 tháng 12 năm 1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 31-NQ/TW "Về nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn mới". Trong Nghị quyết này, Trung ương nêu rõ nhiệm vụ của lực lượng vũ trang là đẩy mạnh công tác đấu tranh chống gián điệp, chống phản động, kiên quyết trấn áp bọn phá hoại hiện hành. Đối tượng cần tập trung đấu tranh và trừng trị kịp thời là gián điệp Mỹ và đồng minh của chúng, bọn phản động lợi dụng dân tộc ít người, nhất là FULRO1 (Viện Khoa học công an, Những văn kiện về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác công an (1975 -1980), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1993, tr. 604).


Lợi dụng những khó khăn của cuộc khủng hoảng thời bao cấp và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch mà tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là vấn đề FULRO vẫn chưa vãn hồi kết thúc. Tại Đại hội lần thứ V (3.1982), Đảng ra nghị quyết nhận định đất nước đang trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực phản động quốc tế. Theo đó, đảm bảo trật tự an toàn xã hội là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng.


Đại hội đề ra 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quoc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều này đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: Phải thường xuyên cảnh giác đối với âm mưu và hành động chiến tranh của bọn phản động... và các thế lực đế quốc hiếu chiến... kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, kịp thời đập tan những âm mưu ngóc đầu dậy của các loại phản động, ngăn ngừa và trừng trị hoạt động phá hoại của địch trên mọi lĩnh vực, tăng cường pháp luật và kỷ luật, bảo vệ trật tự xã hội và sự an toàn của nhân dân... Thi hành tốt chính sách đoàn kết và bình đẳng dân tộc, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 49, 50, 52).


Đứng trước tình hình các thế lực thù địch đẩy mạnh câu kết chống phá cách mạng, ngày 25 tháng 10 năm 1982, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 03-NQ/TW lãnh đạo "Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết đập tan kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt... Nghị quyết phân tích âm mưu, tính chất của chiến tranh phá hoại nhiều mặt, từ đó Bộ Chính trị yêu cầu phải thường xuyên cảnh giác, ra sức xây dựng kinh tế, phá triển sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng chính quyền, các lực lượng vũ trang, các đoàn thể quần chúng thực sự trong sạch vững mạnh...2 (Viện Khoa học công an, Những văn kiện về sự lãnh đạo của Đáng đối với công tác công an (1981 - 1986), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1993, tr. 262). Sau khi có Nghị quyết số 03 của Bộ Chính trị, các tỉnh Tây Nguyên đã cho sáp nhập Ban 04 với Ban 03 thành Ban 03 để trực tiếp chỉ đạo đấu tranh chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 25 Tháng Năm, 2023, 08:26:00 am
Ngày 26 tháng 11 năm 1984, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 21-NQ/TW "Về công tác an ninh". Theo đó, trong thời bình công tác nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thì công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội phải đứng hàng đầu. Nhiệm vụ và phướng hướng chiến lược của công tác an ninh là đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn phá hoại, bạo loạn và lật đổ của địch từ bên trong nội bộ, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trên tinh thần chủ động tiến công kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự và tiến công thành một chiến lược để đánh địch1 (Nguyễn Trọng Phúc, Tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam qua các đợi hội và hội nghị Trung ương (1930 - 2002), Nxb Lao động, Hà Nội, 2003, tr. 963). Từ sau Nghị quyết này, cuộc đấu tranh giải quyết FULRO cơ bản được xác định là vấn đề an ninh.


Tại Đại hội VI của Đảng (1986), tổng kết đánh giá tình hình an ninh, quốc phòng cho thấy: Chúng ta đã làm thất bại một bước chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lớn bọn phản động FULRO ở vùng Tây Nguyên. Song, Đảng cũng chỉ rõ: Công cuộc bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội cần được tiến hành bằng sức mạnh của mọi lực lượng vũ trang và không vũ trang và bằng mọi phương tiện cần thiết. Cuộc đấu tranh này cần được tổ chức chặt chẽ và thường xuyên trong từng địa bàn ở tất cả mọi đơn vị trong cả nước dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của các cấp ủy Đảng2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật. Hà Nội, 1987, tr. 15, 39). Đây là lần đầu tiên trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc xác định tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự xã hội.


Từ sau Đại hội VI, đường lối, chủ trương của Đảng dần đi vào thực tiễn. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ chống phá cách mạng Việt Nam. Để chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của tình hình an ninh chính trị, ngày 30 tháng 12 năm 1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07-NQ/TW "Về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới". Đây là nghị quyết quan trọng của Đảng về công tác an ninh chính trị, đặc biệt khi vấn đề FULRO không đơn thuần là vấn đề quân sự. Nghị quyết phân tích âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch khi triển khai "Kế hoạch hậu chiến" ở Đông Dương mà mục tiêu quan trọng là đẩy mạnh chiến tranh tâm lý. Do đó, cuộc đấu tranh của nhân dân ta còn lâu dài, gian khổ và phức tạp. Trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác an ninh chính trị, Nghị quyết Bộ Chính trị đề ra phương châm chung là "đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch và mọi hoạt động tình báo gián điệp của chúng, ổn định tình hình kinh tế, xã hội, ổn định tình hình an ninh trật tự". Đối với vùng dân tộc thiểu số, địa bàn Tây Nguyên, miền núi: Một mặt lấy việc xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, thực hiện đúng đắn đầy đủ chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, củng cố sự đoàn kết trong các dân tộc; mặt khác đề phòng, ngăn chặn các nhân tố chống đối làm mất ổn định chính trị, xã hội và hoạt động xâm nhập, ẩn nấp của địch trong các vùng dân tộc. Kiên quyết chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của bọn đế quốc và phản động. Từ đó, Bộ Chính trị đề ra 5 nhiệm vụ cụ thể sau:

1. Phát hiện và đánh trúng những âm mưu và hành động phá hoại nhiều mặt của địch, những tổ chức và lực lượng gián điệp tình báo phản động của địch đã xâm nhập vào nước ta.

2. Xây dựng, củng cố tuyến an ninh nhân dân ở biên giới, chống địch xâm nhập, chống âm mứu chia rõ dân tộc.

3. Bảo vệ cơ quan Đảng, Nhà nước, chống địch lũng đoạn nội bộ, ám hại cán bộ.

4. Xây dựng củng cố phong trào nhân dân trong phòng gian, bảo vệ an ninh Tổ quốc có chất lượng ở mọi ngành, mọi cấp, ở phường xã.

5. Coi trọng chất lượng, xây dựng đội ngũ vững vàng về chính trị, tinh thông nghiệp vụ, đạo đức phẩm chất tốt, có đối sách và phương thức hoạt động phù hợp, bảo đảm công tác an ninh giành thế chủ động với địch.


Trong Nghị quyết này, Đảng định rõ hơn nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp mọi mặt đối với công tác an ninh. Ngoài ra, Nghị quyết cũng chỉ rõ cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh chính trị có quy mô rộng khắp, phức tạp, khó lường, do đó phải "nắm vững quan điểm chiến lược tiến công và chủ động phòng ngừa..., đảm bảo đánh thắng địch về mặt chiến lược cũng như từng vụ án". Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ rõ: Ba nước Đông Dương phải là một chiến trường, gắn bó với nhau về địa bàn, về tuyến xâm nhập, về âm mưu chống phá của kẻ thù. Vậy nên, cần thiết hợp tác và phối hợp với Lào Campuchia để bảo đảm an ninh vững chắc từng nước và của cả 3 nước. Đến đây, công tác đấu tranh chống âm mưu phá hoại nhiều mặt của địch thực sự có lý luận hoàn chỉnh, đó là chủ động phòng ngừa, nắm địch từ xa, khoanh vùng trọng điểm, xây dựng an ninh quốc gia trong thế trận tác động qua lại 3 nước Đông Dương.


Nhằm phát triển toàn diện miền núi (trong đó có Tây Nguyên) về mọi mặt, ngày 21 tháng 11 năm 1989, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 22-NQ/TW "Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi". Nghị quyết chỉ rõ: "Phải phát triển miền núi toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội gắn với thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng. Quan tâm đúng mức đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49 (1988 - 1989). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 846). Bộ Chính trị đề xuất các giải pháp để thực hiện chủ trương, đó là: Phải có chính sách và tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân tộc; tôn trọng phát huy những phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:02:53 am
2. Những thuận lợi, khó khăn của ta trong đấu tranh giải quyết FULRO

a) Thuận lợi

Có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh giải quyết FULRO. Trong suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước luôn coi Tây Nguyên là địa bàn chiến lược. Từ sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, lực lượng FULRO trở lại hoạt động chống phá quyết liệt, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm lãnh đạo và chỉ đạo cuộc đấu tranh giải quyết FULRO như: Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 của Ban Bí thư "Về tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ"; Chỉ thị số 268/CP ngày 20 tháng 8 năm 1980 của Hội đồng Chính phủ1 (Hiến pháp năm 1980, có hiệu lực từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 gọi là Hội đồng Bộ trưởng) "Về tiếp tục đẩy mạnh công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, giải quyết vấn đề FULRO ở Tây Nguyên"; Chỉ thị số 117/CT-TW ngày 29 tháng 9 năm 1981 của Ban Bí thư "Về công tác đối với đồng bào Khơme"; Chỉ thị số 121/CT-TW ngày 26 tháng 10 năm 1981 của Ban Bí thư "Về công tác đối với đồng bào Chăm"; Thông tri số 20/TT-TW ngày 10 tháng 12 năm 1982 của Ban Bí thư "Về tiếp tục công tác giải quyết vấn đề FULRO"; Chỉ thị số 68/CT-TW ngày 18 tháng 4 năm 1991 của Ban Bí thư "Về công tác ở vùng đồng bào Khơme"... Trong đó, đặc biệt quan trọng là Chỉ thị số 04/CT-TW của Ban Bí thư và Chỉ thị số 268/CP của Hội đồng Chính phủ. Các văn bản trên đã thể hiện rõ quan điểm, tư tưởng của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề FULRO. Qua đó, phản ánh sự chủ động sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO.


Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đặc biệt là từ khi có Chỉ thị số 04/CT-TW của Ban Bí thư, tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên và phụ cận từng bước phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn dần được ổn định, góp phần thắng lợi trong đấu tranh giải quyết FULRO. Thực hiện chủ trương của Đảng, cùng với giải quyết vấn đề FULRO, các địa phương đẩy mạnh sản xuất theo hướng định canh, định cư, cải thiện và ổn định đời sống đồng bào dân tộc, khắc phục có hiệu quả nạn đói kéo dài nhiều năm trong nhân dân chưa được giải quyết..., khắc phục được tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan còn tồn dai dẳng trong đồng bào; cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp từng bước quan tâm công tác xây dựng thực lực chính trị và vũ trang cơ sở, số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở cơ sở ngày càng tốt hơn, lực lượng vũ trang cơ sở tin cậy về chính trị, đánh được địch bảo vệ buôn làng. Từ sau năm 1975, các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận từng bước phát triển, làm cho một bộ phận đồng bào mơ hồ, lầm đường đã thực sự quay về với dòng chảy lịch sử dân tộc, từ bỏ con đường "Tây Nguyên độc lập".


Lực lượng vũ trang ta được rèn luyện qua thực tiễn chiến tranh cách mạng đã trưởng thành về mọi mặt, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, đủ khả năng trấn áp, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động. Trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động sau ngày đất nước thống nhất, để bảo vệ thành quả cách mạng, Đảng, Nhà nước chủ trương điều chỉnh thế bố trí chiến lược, cơ động một số đơn vị chủ lực đứng chân trên các địa bàn trọng yếu, xây dựng các tiểu đoàn bộ đội địa phương cơ động ở các trọng điểm Tây Nguyên và phụ cận, tham gia đấu tranh giải quyết FULRO và tàn quân ngụy. Quá trình đấu tranh, các đơn vị vũ trang phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng, vượt qua khó khăn, hy sinh, gian khổ, vận dụng linh hoạt sáng tạo các hình thức, phương pháp đấu tranh thích hợp; phối hợp, hiệp đồng chặt chõ cùng các tổ chức, lực lượng quần chúng đập tan âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, tổ chức phản động trong và ngoài nước, góp phần ổn định và phát triển toàn diện các tỉnh Tây Nguyên và vùng phụ cận.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:03:27 am
b) Khó khăn

Sau ngày miền Nam giải phóng, nước ta lại phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Do vậy, Đảng và Nhà nước chưa có một chiến lược hoạch định tổng thể để phát triển toàn diện Tây Nguyên và vùng dân tộc Chăm, đời sống nhân dân các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận còn khó khăn nhiều mặt. Công tác xây dựng thực lực chính trị cơ sở, nhất là cấp huyện, xã, buôn, làng chưa kịp đổi mới; số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa đáp ứng yêu cầu... Chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng đối với đồng bào dân tộc chưa được giải quyết... Tất cả tạo sơ hở cho địch xuyên tạc và làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, gây cho ta không ít khó khăn trong cuộc đấu tranh này.


Nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, nên dễ bị địch tuyên truyền kích động, lôi kéo. Do điều kiện cuộc sống lâu năm dưới ách thống trị của thực dân, đế quốc với những chính sách kìm kẹp, mị dân, tuyên truyền chống cộng, kích động hận thù dân tộc, dùng chính sách "chia để trị" đã kìm hãm sự giác ngộ, nhận thức về chính trị của đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho hiểu biết về cách mạng của đồng bào rất hạn chế. Mặt khác, do đời sống tinh thần nghèo nàn, lạc hậu, văn hóa thấp, cùng với tập tục lạc hậu, tư tưởng tự ti và hẹp hòi dân tộc ràng buộc, chi phối trong nhiều thế hệ. Nó trở thành yếu tố mà bọn phản động FULRO triệt để khai thác, lợi dụng lôi kéo, kích động người dân chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của FULRO và các thế lực phản động hết sức thâm độc, xảo quyệt. FULRO là một tổ chức chính trị phản động, là sản phẩm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan với âm mưu của các thế lực thù địch nhằm xây dựng một nhà nước độc lập ở Tây Nguyên, chia tách lãnh thổ, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước, đi ngược lại nguyên vọng của đồng bào thiểu số các dân tộc Tây Nguyên. Khi Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng, FULRO lợi dụng tình hình khó khăn của cách mạng, cộng với kế hoạch hậu chiến của Mỹ có sẵn, chúng đã kích động, tập hợp được một lực lượng đông đảo với hệ thống tổ chức bài bản được chỉ đạo, viện trợ từ nước ngoài, nhằm chống lại chính quyền cách mạng, vũ trang bạo động, khoét sâu những thiếu sót của ta tạo nên mơ hồ về cách mạng trong đồng bào, làm tê liệt, vô hiệu hóa chính quyền, biến chất cán bộ, đảng viên, đã gây những thiệt hại to lớn cả về vật chất, tinh thần lẫn con người đối với chính quyền và nhân dân các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận, làm cho cuộc đấu tranh giải quyết FULRO của ta gặp khó khăn, kéo dài, phức tạp.


Các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận, nơi sinh sống của đông đảo các dân tộc thiểu số của Việt Nam, có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại. Đồng thời, cũng là nơi còn không ít khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tôn giáo do lịch sử để lại. Những đặc điểm này đã tác động đến sự ra đời, tồn tại và hoạt động của tổ chức FULRO.


FULRO hình thành bắt nguồn từ chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế lực phản động trong nước và nước ngoài. Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo những khó khăn về tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên và đồng bào Chăm, các thế lực thù địch lôi kéo, gây dựng, hà hơi tiếp sức cho FULRO, với mưu đồ tách Tây Nguyên thành một "quốc gia tự trị", thành lập nhà nước, chính phủ và quân đội riêng để chống phá cách mạng theo sự chỉ đạo của chúng.


Từ những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, điều kiện phát sinh, tồn tại hoạt động của tổ chức FULRO, khả năng của ta, nên cuộc đấu tranh giải quyết FULRO diễn ra quyết liệt, kéo dài và phức tạp. Để giải quyết vấn đề FULRO đòi hỏi Đảng, Nhà nước kịp thời đề các chủ trương lãnh đạo, biện pháp đấu tranh thích hợp, sát với tình hình thực tiễn, giành thắng lợi, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề FULRO để chống phá cách mạng, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, xã hội bền vững vùng Tây Nguyên và phụ cận.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:05:02 am
Phần thứ hai
DIỄN BIẾN HOẠT ĐỘNG ĐẤU TRANH GIẢI QUYẾT FULRO
(1975 - 1992)


I. ĐẤU TRANH TRUY QUÉT FULRO, BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG MỚI GIÀNH ĐƯỢC (3.1975 -1.1977)

1. Tổ chức, hoạt động của FULRO

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 giải phóng miền Nam, thống nhấl đất nước của quân và dân ta là một bất ngờ đối với Mỹ - ngụy, phá vỡ kế hoạch của FULRO và các thế lực chi phối, chỉ đạo, ủng hộ chúng. Mỹ không kịp triển khai cụ thể ý đồ sử dụng FULRO trong kế hoạch hậu chiến và chưa chỉ đạo được gì cho FULRO hành động khi quân ngụy tan rã rút chạy khỏi địa bàn. Năm 1975 cũng là thời điểm Campuchia thoát khỏi sự thống trị, kìm kẹp của Mỹ và tay sai, nhưng đất nước này lại trở thành nạn nhân của chế độ diệt chủng. Lúc đó, một số tên cầm đầu FULRO ở Campuchia bị Pôn Pốt thủ tiêu1 (Theo nhà báo Nate Thayer (trong bài "Một đội quân bị lãng quên ", Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, 1992) và lời khai của Ya Duck: Năm 1975, Y Bhăm Ênuol cùng 5 lãnh tụ cầm đầu FULRO bị Khmer Đò giết tại Phnôm Pênh). Sự chỉ đạo của bộ phận đầu não ở Campuchia về trong nước cũng như quan hệ của FULRO với các thế lực bên ngoài bị gián đoạn. Tuy vậy, lợi dụng chính quyền cách mạng mới tiếp quản còn non yếu, FULRO nổi lên hoạt động mạnh ở nhiều nơi, thu nhặt vũ khí quân trang, quân dụng của quân ngụy Sài Gòn để lại, tiếp tục phát triển tổ chức, lực lượng, bao gồm cả hệ thống quân sự và hành chính.


Về quân sự, FULRO có Bộ Chỉ huy Mặt trận do Kpă Kới làm Phó Chủ tịch, Phó Tổng Tư lệnh. Bên dưới Bộ Chỉ huy Mặt trận có Bộ Tổng Tham mưu do Y Bach Eban (Y Hiel Eban) làm Tổng Tham mưu trưởng. FULRO hình thành 4 vùng chiến thuật, tương ứng với các địa bàn chủ yếu sau: Vùng 1 là miền Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên do Sư đoàn Đam Dan đảm nhiệm, có 4 trung đoàn (thực tế chưa tổ chức được); Vùng 2 là Kon Tum, Gia Lai, Phú Bổn do Sư đoàn Nay Dy đảm nhiệm; lực lượng khoảng 2.000 đến 3.000 tên; gồm 5 ban chỉ huy trung đoàn, 9 đến 11 tiểu đoàn; Vùng 3 là các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông do Sư đoàn Đam Dy đảm nhiệm, lực lượng khoảng 6.500 đến 7.000 tên, gồm 1 bộ tư lệnh sư đoàn, 6 ban chỉ huy trung đoàn, 32 tiểu đoàn; Vùng 4 gồm các tỉnh Đà Lạt (Lang Biang), Brayan (B’Lao), Đồng Xoài, do Sư đoàn Bi Dúp đảm nhiệm, lực lượng khoảng 6.000 đến 7.000 tên, gồm 5 ban chỉ huy trung đoàn, 14 tiểu đoàn.


Ngoài ra, lực lượng FULRO Chàm ở Thuận Hải tổ chức khung Trung đoàn Pô Than, gồm 3 tiểu đoàn, lực lượng khoảng hơn 400 tên. Ở Cam Ranh, chúng tổ chức khung Tiểu đoàn Chăm Pa, ta phát hiện tiêu diệt và bắt gần hết1 (Thực tế, đến tháng 9 năm 1976, FULRO mới tổ chức được 2 khung sư đoàn kiêm vùng chiến thuật 3 và 4 ở Đắk Lắk, Lâm Đồng. Mỗi sư đoàn có 4 trung đoàn, trung đoàn có 4 tiểu đoàn, tiểu đoàn có 4 đại đội. Khung trung đoàn có từ 5 đến 10 tên, tiểu đoàn có 25 đến 40 tên, đại đội có từ 7 đến 15 tên. Dưới cấp đại đội có từng toán vũ trang gồm 5 đến 10 tên là lực lượng bám buôn, xã theo chủ trương của bọn cầm đầu FULRO, là tổ chức hoạt động chủ yếu nhất, với tên gọi "Đoàn vũ trang tình báo đặc biệt" hoặc "Lực lượng Trung ương số 3". Đến cuối năm 1976, trừ số bị diệt, bị bắt, lực lượng FULRO còn khoảng 6.000 - 7.000 tên (khoảng 70% số này sống hợp pháp trong dân, 30% thoát ly ngoài rừng)), về bố trí lực lượng FULRO thành 3 tuyến: Tuyến trong dân là bọn đầu sỏ và lực lượng cơ sở hợp pháp trong buôn, nhà thờ, đồn điền. Tuyến ven chủ yếu là các toán vũ trang xã, cơ quan tiểu đoàn kiêm quận và các cơ quan nhẹ cấp trung đoàn, sư đoàn; các đoàn công tác trung ương bám quận, xã vùng ven để tiếp tế, móc nối cơ sở. Tuyến sâu là cơ quan trung đoàn, sư đoàn và trung ương, ở không xa khu dân cư quá 10km.


Về khung tổ chức hành chính: FULRO hình thành các bộ và cơ quan đại diện chính phủ tại các vùng chiến thuật, "Chính phủ cách mạng lâm thời Cao nguyên" được thành lập với 11 bộ như: Tư pháp, Kinh tế, Tài chính, Ngoại giao, Quốc phòng, An ninh... Dưới cơ quan trung ương là các tỉnh kiêm tiểu khu, quận kiêm chi khu, xã buôn kiêm yếu khu FULRO.


Trong 2 năm 1975 - 1976, FULRO nổi lên hoạt động mạnh ở nhiều nơi, khống chế nhiều buôn làng ở khu vực Nam Tây Nguyên. Ở Đắk Lắk, ngày 12 tháng 4 năm 1975, FULRO nổ súng vào đoàn thuyền đánh cá trên sông Krông Nô, mở đầu cuộc bạo loạn vũ trang chống phá cách mạng ở Tây Nguyên. Ngày 18 tháng 7 năm 1975, FULRO tiến hành đánh phá đường giao thông ở thị xã Buôn Ma Thuột, huyện Lắk và liên tiếp đến cuối năm 1976, tổ chức hàng loạt vụ tập kích vào các đội công tác, ủy ban nhân dân xã, các đơn vị kinh tế và đánh phá hầu hết các đường giao thông... gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng (có 777 vụ, làm chết 251 người), ở trong các buôn làng, FULRO tuyến trong tổ chức họp dân để tuyên truyền về FULRO, kêu gọi và kích động quần chúng "đấu tranh giành tự trị" thành lập "đất nước Đề Ga"1 (Tỉnh ủy Đắk Lắk, Báo cáo tổng kết 12 năm đấu tranh giải quyết FULRO ở Đắk Lắk, năm 1987, Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lăk), ở Lâm Đồng, FULRO tổ chức 4 vụ tập kích vào Huyện đội Bảo Lộc, ấp Đạ Chay, Tiền phương Tỉnh đội Tuyên Đức ở Tiêng Liêng và 1 trung đội bộ đội địa phương của ta ở Đầm Ròn. Ở Gia Lai, tháng 5 năm 1975, FULRO gài mìn trong lễ mít tinh chào mừng Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, làm chết và bị thương 10 cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn 408. Tháng 8 năm 1975, chúng gài mìn giết đồng chí Kpa Klơng - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Phó Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Gia Lai tại dốc Me Cút (Hàm Rồng). Theo thống kê, chỉ riêng trên địa bàn tỉnh Gia Lai, từ ngày 20 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1975, FULRO đã gây ra 30 vụ, trong đó có 15 vụ tập kích, 9 vụ phục kích, 9 vụ phá hoại cắt dây điện thoại, giết hại 5 cán bộ bộ đội, dự định gây bạo loạn trong ngày 2 tháng 9 năm 1975, nhưng bị ta phát hiện ngăn chặn. Còn tính toàn bộ Tây Nguyên, trong 2 năm 1975 - 1976, FULRO tiến hành hàng loạt các vụ ám sát, phục kích, giết hại 245 người, gồm cả cán bộ, bộ đội và dân thường; cướp một số súng đạn, hàng hóa, khống chế 877/1.343 buôn, 210/350 xã, gây cho ta nhiều khó khăn trong xây dựng, củng cố chế độ mới ở vùng đồng bào dân tộc. Riêng trong năm 1976, FULRO gây ra 457 vụ tập kích, phục kích, đột nhập vào buôn lấy lương thực, bắt thanh niên, khống chế chính quyền cơ sở của ta, phần lớn xảy ra ở Đắk Lắk và Lâm Đồng, bắt và đưa ra rừng 1.592 thanh niên để bổ sung lực lượng, thu và cướp trên 10 tấn lương thực1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), năm 2012, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Thủ đoạn hoạt động của FULRO là kết hợp cả quân sự và chính trị, cả lực lượng hợp pháp trong dân và lực lượng ngoài rừng cùng phối hợp hoạt động. Kết hợp cả 3 tuyến (trong dân, vùng ven và ngoài rừng). Tổ chức hoạt động vũ trang nhỏ lẻ thành từng toán từ 10 đến 15 tên, nhiều nhất là đội từ 40 đến 50 tên, hoạt động trên diện rộng nhưng có trọng điểm, tập trang vào những ngày lễ lớn của ta hoặc của ngụy trước đây để gây thanh thế, khống chế hoặc thủ tiêu cán bộ của ta ở cơ sở, bắt nhân dân tiếp tế, che giấu và liên lạc cho chúng. Tiến hành hoạt động chính trị tung tin, xuyên tạc, lừa phỉnh và lợi dụng mê tín, tập tục của người dân địa phương để lôi kéo những người có uy tín, trí thức, tầng lớp trên bằng nhiều thủ đoạn.


Ở vùng dân tộc Chăm, tháng 4 năm 1975, khi ta tiến công giải phóng Ninh Thuận, bọn cầm đầu FULRO tự xưng là "lực lượng thứ 3" cho người gặp cán bộ ta đòi được đứng ra tiếp quản vùng Chăm, đòi sáp nhập lực lượng vũ trang FULRO với lực lượng vũ trang của ta. Khi yêu sách của chúng bị ta bác bỏ, chúng phát động "Chiến dịch Chế Bồng Nga" tập trung tuyên truyền, kích động, tổ chức lôi kéo, ép buộc thanh nicn Chăm vào rừng theo FULRO. Đến cuối năm 1976, chúng đã phát triển lực lượng vũ trang khoảng 230 tên và khoảng 800 cơ sở ngầm. Tháng 1 năm 1977, FULRO tổ chức cuộc mít tinh ra mắt "Mặt trận giải phóng Chăm Pa" nhằm khuếch trương thanh thế, nhưng ta đã kịp thời ngăn chặn.


Nhìn chung, sau ngày giải phóng miền Nam, ở Tây Nguyên và vùng dân tộc Chăm, hoạt động chống phá của FULRO rất quyết liệt và nguy hiểm, gây ra tình hình căng thẳng, mất ổn định về an ninh trật tự ở nhiều địa phương. Chúng không chỉ gây tổn thất, thiệt hại cho ta về người và tài sản, mà còn tạo thanh thế, ảnh hưởng để khống chế lôi kéo quần chúng và cán bộ cốt cán người dân tộc. Hoạt động của FULRO cùng với hoạt động chống phá của tàn quân ngụy lúc đó trực tiếp đe dọa sự tồn tại của chính quyền cách mạng mới được củng cố, nhất là ở cơ sở.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:06:12 am
2. Chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đấu tranh giải quyết FULRO

Trước tình hình FULRO hoạt động ngày càng tăng cường, trung tuần tháng 6 năm 1975, Khu ủy Khu 6 (Tháng 5 năm 1976, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định sáp nhập Quân khu 6 vào Quân khu 5) họp, nhận định: "FULRO là một tổ chức chính trị phản động, được Pháp nặn ra, Mỹ chỉ đạo, nuôi dưỡng, nó hoạt động có tổ chức, có ý thức cả về quân sự và chiến tranh tâm lý". Từ nhận định đó, Khu ủy đề ra chủ trương chỉ đạo: "Ta muốn giải quyết được FULRO phải phát động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng, trước hết là phải giáo dục làm cho quần chúng thấy rõ âm mưu của FULRO là phản động để quần chúng ra khỏi FULRO; muốn làm như vậy phải cứu đau, cứu đói, vận động nhân dân sản xuất để giải quyết đời sống nhân dân, đây là vấn đề cơ bản"1 (Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng truy quét FULRO của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Ngày 22 tháng 7 năm 1975, Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ thị số 01 /TF về việc truy quét, trấn áp FULRO (phạm vi Tây Nguyên và Quân khu 6) xác định: "Các lực lượng vũ trang đứng trên địa bàn Tây Nguyên và Quân khu 6 có nhiệm vạ phối hợp chặt chẽ thành kế hoạch hoạt động thống nhất để truy lùng và trấn áp lực lượng FULRO, phát động quần chúng xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng, nhất là lực lượng vũ trang, ổn định tình hình, củng cố (một cách cơ bản) căn cứ ở địa hình rừng núi của ta"2 (Bộ Tư lệnh Quán khu 5, Bộ Tham mưu (2012), Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phàn động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 -1992), Tlđd).


Theo chỉ thị này, Bộ Tổng Tham mưu xác định rõ phương châm đấu tranh là: Trên cơ sở nắm vững âm muu thâm độc của địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo về nguồn gốc của FULRO, quán triệt chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng; nắm vững và kiên trì kháu phát động quần chúng, củng cố chính quyền cơ sở, xây dựng các tổ chức quần chúng và lực lượng vũ trang địa phương, điều tra nắm vững thực lực chính trị, tổ chức chỉ huy và cơ quan đầu não, quy luật và thủ đoạn hoạt động của địch nhằm đánh đúng đối tượng đầu sỏ FULRO và phản động tôn giáo; tập trung và thống nhất chỉ đạo, chỉ huy kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị, quân sự, ba thứ quân, đánh địch toàn diện, rộng khắp, có trọng tâm, trọng điểm nhằm vào lực lượng vũ trang của FULRO ở vùng rừng núi và lực lượng chính trị FULRO ở các thị xã, thị trấn (chủ yếu trong các vùng đồng bào Thiên Chúa giáo) cắt mối liên lạc của chúng với bên ngoài.


Để kịp thời chỉ đạo đấu tranh chống các thế lực phản động tháng 4 năm 1976, trong Chỉ thị số 13/CT-1976 của Ban đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ ở miền Nam đã đề ra chủ trương: "Trong năm 1976 tiến hành nhiều đợt tổng hợp chung toàn miền Nam, phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang, an ninh và các tổ chức quần chúng, dưới sự lãnh đạo thống nhất của các cấp ủy Đảng, phát động quần chúng, tiến hành truy quét địch, thu hồi triệt để và quản lý chặt chẽ các trang bị vũ khí, củng cố xây dựng chính quyền, các ngành, các giới, các lực lượng vũ trang địa phương, an ninh, du kích, tự vệ ở cơ sở, loại trừ địch và những phần tử xấu ra khỏi các tổ chức của ta, bảo đảm tính trong sạch của chính quyền ta, củng cố các tổ chức đảng và quần chúng"1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 -1992), Tlđd).


Trước tình hình FULRO diễn biến phức tạp, để kịp thời giải quyết các vấn đề liên quan đến dân tộc, ngày 3 tháng 6 năm 1976, Ban Bí thư ra Thông báo số 13-TB/TW "Về công tác dân tộc". Thông báo đã chỉ ra những khuyết điểm như: Công tác định canh, định cư làm chưa tốt, đời sống kinh tế của đồng bào còn thấp, số mù chữ còn nhiều, phong tục tập quán lạc hậu có hại chưa được xóa bỏ. Thiếu chính sách cụ thể, áp dụng máy móc, kinh nghiệm phương pháp làm ở đồng bằng lên miền núi... Từ đó, Ban Bí thư đưa ra một số giải pháp như: "Khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc", "phải sớm có những chủ trương chính sách, đi đôi với những biện pháp tích cực để chăm sóc sức khỏe, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào", "cần có kế hoạch nâng cao trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật của đồng bào miền núi, phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục, các hình thức trường học thích hợp với miền núi"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 38. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 110-113).


Thực hiện chỉ đạo của Ban đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 ban hành Chỉ thị số 204/CT ngày 23 tháng 9 năm 1976, xác định quyết tâm giải quyết vấn đề FULRO là: Kiên quyết chỉ đạo, kiên trì bám sát, ra sức giáo dục phát động quần chúng trong dân tộc thiểu số, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, phân biệt rõ đâu là FULRO, đâu là cách mạng, đứng hẳn về phía cách mạng, kiên quyết chống lại FULRO, đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống để sớm xóa bỏ tình trạng lạc hậu nahèo nàn trong đồng bào các dân tộc, thực hiện đúng chính sách đoàn kết bình đẳng dân tộc của Đảng. Đi đôi với phát động quần chúng, cùng lực lượng quân sự hỗ trợ, bao vây chia cắt địch, tập trung có trọng điểm tiêu diệt bằng được lực lượng đầu sỏ có nhiều tội ác và ngoan cố trong lực lượng FULRO, đảng phái phản động, lực lượng CIA, phản động đội lốt tôn giáo, phá võ’ tổ chức vũ trang, chính trị của địch, tranh thủ giác ngộ lôi kéo quần chúng lầm lạc thoát khỏi sự lừa bịp, khống chế của địch. Trên cơ sở phát động quần chúng đánh địch, củng cố xây dựng chính quyền đoàn thể quần chúng dân quân tự vệ thôn xã, xây dựng kinh tế, văn hóa, làm cho nhân dân các dân tộc có đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được cải thiện.


Trong chỉ thị này, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 xác định phương châm, phương thức hoạt động là kiên quyết bám cơ sở, kiên trì đi sâu phát động quần chúng, lấy giáo dục phát động quần chúng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần chúng, đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống là khâu cơ bản quyết định nhất, kết hợp dùng quân sự truy quét hỗ trợ là rất quan trọng và cần thiết. Tập trung có trọng điểm, đánh trúng và diệt đúng bọn đầu sỏ, phân hóa, giáo dục lôi kéo những người lâm lạc, tách quần chúng khỏi sự lừa bịp, khống chế của địch, chú trọng công tác địch vận, giác ngộ người bị mua chuộc, đầu độc, cưõng bức làm việc cho địch, tố giác tổ chức và hành động của địch. Nắm địch trên cả 3 tuyến, chú trọng đánh địch trà trộn trong dân bằng phương thức đội công tác bám sát phát động quần chúng tố giác, đánh địch gắn liền với xây dựng thực lực cơ sở cách mạng.


Bộ Tư lệnh Quân khu 5 cũng yêu cầu cơ bản là phải phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị, vũ trang và an ninh, dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy Đảng trên từng tỉnh và từng khu vực, tiến hành phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị truy quét FULRO và các lực lượng phản động khác, rộng khắp toàn diện và triệt để. Tiêu diệt cơ bản số đầu sỏ và lực lượng vũ trang gây bạo loạn, bắt cho được đầu sỏ đang khống chế buôn làng, đang ở ngoài rừng hoặc ẩn náu trong các nhà thờ để hoạt động chống lại cách mạng. Xây dựng cơ sở đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng, xây dựng lực lượng an ninh, lực lượng vũ trang, giáo dục phát động quần chúng chống FULRO, làm cho không còn buôn làng nào bị FULRO khống chế, buôn làng nào cũng có chính quyền cách mạng, có cán bộ cốt cán tại chỗ. Lập lại và củng cố an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong các tỉnh, đồng thời bảo đảm an toàn cho các cơ sở kinh tế quan trọng, các trục giao thông đường sắt, đường bộ, các thị xã, thị trấn, khu vực biên giới, ven biển. Đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống của đồng bào các dân tộc, kết hợp chặt chẽ xây dựng các vùng kinh tế mới với việc chăm lo sản xuất cải thiện đời sống của nhân dân địa phương1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 -1992), Tlđd).


Như vậy, ngay từ khi mới giải phóng, bằng sự nhạy bén của mình, Đảng, Nhà nước đã dự đoán và đưa ra những biện pháp kịp thời để giải quyết lực lượng chống đối phản động ở miền Nam, trong đó có khu vực Tây Nguyên. Các đường lối chung về trấn áp lực lượng chống đối phản cách mạng, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị, thực hiện chính sách dân tộc được xem là đường lối chung của Đảng về đấu tranh giải quyết FULRO. Nhìn tổng thể biện pháp chủ yếu của giai đoạn này là truy quét, quân sự vũ trang để giải quyết phản động cách mạng, trong đó có FULRO.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:07:39 am
3. Hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO

a) Đấu tranh truy quét FULRO

Chấp hành chủ trương giải quyết vấn đề FULRO lưc lượng vũ trang Quân khu 5, Quân khu 6 cùng các cấp ủy Đảng - chính quyền, lực lượng vũ trang các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận đẩy mạnh hoạt động truy quét, trấn áp, tiêu diệt FULRO trên địa bàn Quân khu 5 và Quân khu 6, nhất là khu vực Tây Nguyên. Lực lượng được huy động từ bộ đội chủ lực của Bộ, quân khu đến lực lượng vũ trang địa phương (các sư đoàn 10, 968, 320, Trung đoàn 812 của Quân khu 6 và lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh). Các địa phương tăng cường hàng trăm cán bộ quân đội, công an và các ngành xuống cơ sở vận động quần chúng, thiết lập, củng cố chính quyền cách mạng, giải quyết những vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội, giải tán các tổ chức địch (ngụy cũ), đăng ký trình diện, cứu đói và ngăn chặn dịch bệnh cho nhân dân.


Với phương châm, phương thức nêu trên, được sự chỉ đạo của Tiền phương Bộ Quốc phòng, Quân khu 5 tổ chức Sở Chỉ huy Tiền phương Quân khu tại Buôn Ma Thuột trực tiếp chỉ huy các đơn vị chủ lực của Quân khu là Sư đoàn 968, một bộ phận của Sư đoàn 3 và các lực lượng vũ trang địa phương cùng với công an nhân dân. Phương pháp tác chiến là sử dụng lực lượng cấp tiểu đoàn, trung đoàn, có pháo binh, máy bay chi viện, tập trung vào các khu vực trọng điểm, thực hiện đánh tan quân địch ở ngoài rừng và các buôn làng địch còn vũ trang chống đối để nhanh chóng ổn định an ninh, trật tự ở địa phương, tiến hành xây dựng tổ chức chính quyền nhân dân ở cơ sở.


Bộ Tư lệnh Quân khu 5 sử dụng lực lượng chủ lực đứng chân trên địa bàn Tây Nguyên và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương của các tỉnh, kết hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành để phát động quần chúng đánh địch, có kết hợp với lực lượng của Quân khu 6 trong các đợt truy lùng. Quy mô sử dụng lực lượng đến cấp trung đoàn, tập trung vào từng khu vực và mục tiêu trọng điểm kể cả sử dụng các binh chủng trực thuộc và Đoàn 773 nhằm: Quét diệt, bắt, gọi hàng về trình diện. Trước hết, nhằm vào các căn cứ xuất phát, cơ sở nuôi dưỡng, tiếp tế (trong dân, nhà thờ, bệnh viện, các hội từ thiện của tôn giáo là trung tâm chỉ huy, chỉ đạo FULRO và các tổ chức phản động khác). Triệt mọi cơ sở FULRO có thể dựa vào đó để hoạt động, tạo điều kiện cho quần chúng lao động thực sự làm chủ địa phương, từng bước cải thiện nâng cao đời sống nhân dân. Cấp tỉnh, huyện tổ chức phát động quần chúng truy và bóc gỡ trong dân, bóc gỡ đến đâu củng cố đến đó, xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường phương tiện và cung cấp hậu cần phục vụ truy quét.


Thực hiện kế hoạch này, Quân khu 5 xác định tổ chức truy quét FULRO trong thời gian 3 tháng (mỗi tháng 1 đợt), trọng điểm truy quét chủ yếu là địa bàn tỉnh Đắk Lắk, tập trung ở các khu vực trọng điểm, ở Quân khu 6 là Lạc Thiện và Chư Cúc, tiếp theo là các khu vực Buôn Hồ - Cheo Reo, Đức Lập, Bản Đôn. Ở Gia Lai tập trung giải quyết khu vực tiếp giáp giữa Kon Tum và tây Phú Nhơn, ở Kon Tum, tập trung giải quyết khu vực phía nam thị xã Kon Tum đến giáp với Chư Păh và thị xã Pleiku.


Đến tháng 12 năm 1975, ta mở chiến dịch truy quét liên tục, kéo dài, tổng số quân địch bị bắt, trình diện, bị tiêu diệt là 10.000 tên. Cao điểm của các đợt truy quét là từ tháng 8 năm 1975, ta bao vây, đánh vào các mục tiêu trọng điểm, các toán chỉ huy cầm đầu, tiến công các đơn vị vũ trang của chúng.


Ở Gia Lai - Kon Tum, sau khi Tỉnh đội Gia Lai tổ chức Chiến dịch Z10 (kết hợp truy quét tàn quân và bọn phản động vào tháng 5 năm 1975) thắng lợi. Kết quả, ta diệt 256 tên FULRO, làm phá sản kế hoạch hoạt động ban đầu vào tháng 6 năm 1975 của chúng, đẩy lực lượng này vào khó khăn, cơ sở bị lộ, căn cứ mất an toàn, quân số không huy động được đủ theo kế hoạch, lương thực thiếu, tư tưởng hoang mang, ra hàng trình diện ngày càng nhiều. Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1975, lực lượng tham gia truy quét có 3 tiểu đoàn tập trung của tỉnh, lực lượng tại chỗ của các huyện, lực lượng công an, các ban, ngành, đoàn thể địa phương. Đến tháng 10 năm 1975, sau khi sáp nhập thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum, được cấp trên tăng cường lực lượng gồm Tiểu đoàn 559, Trung đoàn 95 và Trung đoàn 742 tập trung cho các trọng điểm là Huyện 6 (nam Đường 19) khu vực thị xã Pleiku, vùng phía bắc Huyện 3 (bắc Đường 19, nay là huyện Mang Yang), địa bàn phối hợp là Huyện 4 (nay là huyện Đắk Đoa và Mang Yang), Huyện 8 (nay là huyện An Khê), Huyện 11 (nay là huyện Phú Thiện, Ayunpa). Kết quả tổ chức truy quét 6 tháng cuối năm 1975, diệt 48 tên, bắt 1.635 tên, gợi hàng 625 tên, ra trình diện 1.124 tên, thu 539 súng các loại; cơ bản làm tan rã 8/15 tiểu đoàn FULRO thuộc 3 trung đoàn1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tldd).


Ở Đắk Lắk, trong giai đoạn này, ta sử dụng các trung đoàn chủ lực của Quân khu 5 và các liểu đoàn địa phương tỉnh cùng lực lượng công an mở các đợt tiến công tiêu diệt các cụm FULRO ngoài rừng, tăng cường lực lượng quân đội, công an cắm chốt ở các địa bàn trọng điểm, chặn đường hoạt động vũ trang gây bạo loạn của FULRO, bảo vệ thành quả cách mạng, đồng thời củng cố ủy ban quân quản các cấp. Từ tháng 7, ta liên tục mở các đợt truy quét, bao vây đánh vào các căn cứ, trung tâm đầu não của chúng, phong tỏa liên lạc số FULRO ngoài rừng, ngăn chặn được âm mưu bạo loạn của chúng. Điển hình là trận đánh ngày 19 tháng 9 năm 1976 của Đại đội 9 (Tiểu đoàn 3) cùng du kích địa phương, đánh trúng cơ quan Trung đoàn 63 và cơ quan quận của FULRO, diệt tại chỗ 2 tên, bắt 1 tên, thu 2 súng. Tiếp tục truy theo dấu vết chúng bỏ chạy, đến 14 giờ cùng ngày, ta diệt thêm 1 tên, thu 1 súng, chúng tháo chạy tan tác, ta tiếp tục truy kích đến ngày 24 bắt được 1 nữ hoạt động trong cơ quan FULRO. Khai thác tù binh kết hợp với phát động quần chúng trong 2 buôn trọng điểm, ta truy bắt được 14 tên cơ sở FULRO cài cắm trong 2 buôn, ở Krông Pách, ta tập trung lực lượng phát động quần chúng trong các buôn trọng điểm (buôn Pếk, buôn Ê Nhai, buôn A Riêng xã Đăm Yêch) truy bắt 70 tên, trong đó có 18 tên cấp úy phụ trách 3 khung đại đội FULRO nằm trong buôn; điều tra bắt gọn nhóm tổ chức giết hại đồng chí bí thư xã vào tháng 8. Cùng thời gian này, ta phát động quần chúng bắt 38 tên (có 1 thiếu tá, 2 đại úy) FULRO cài cắm trong các buôn ở xã Ea Túk.


Đến cuối năm 1975, tỉnh Đắk Lắk đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng của FULRO, diệt 200 tên, bắt 6.905 tên, ra hàng và trình diện 4.064 tên, trong đó có 4 cấp tướng, 64 cấp tá, 17 tên cầm đầu trung ương FULRO. Tính chung 2 năm 1975 - 1976, trên địa bàn tỉnh, số FULRO bị diệt là 402 tên, bắt 7.902 tên, ra hàng 4.129, lực lượng bị tiêu hao sa sút đáng kể. Nhìn chung, sau các hoạt động truy quét của ta, tình hình hoạt động của FULRO có giảm, ta đã chủ động ở từng buôn xã1 (Tỉnh ủy Đắk Lắk, Báo cáo tổng kết 12 năm đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO ở Đắk Lắk, năm 1987, Tlđd).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:08:49 am
Ở Lâm Đồng, Khu ủy Khu 6 đã thành lập Ban Chỉ đạo giải quyết FULRO do Thường vụ Khu ủy phụ trách, các tỉnh, huyện cũng thành lập Ban Chỉ đạo đấu tranh chống FULRO với phương thức đấu tranh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ giữa quân sự với chính trị, địch vận, kết hợp tiến công truy quét với xây dựng đời sống nhân dân. Công tác truy quét diễn ra khẩn trương, cuối năm 1975 ta đã giải quyết tương đối tốt lực lượng vũ trang FULRO từ 3.000 quân xuống còn 300 quân, nhiều số tên FULRO đầu sỏ ra hàng, trong đó có Tư lệnh trưởng FULRO Vùng 4. Âm mưu cướp chính quyền của FULRO bị thất bại hoàn toàn, tình hình an ninh chính trị được giữ vững.


Ngày 1 tháng 9 năm 1975, FULRO tập kích Tiểu đoàn 840 của ta ở Đầm Ròn, ta kịp thời phát hiện tổ chức lực lượng truy đánh, diệt một số tên, bắt bên ngoài 224 tên, trong đó có 1 khung sư đoàn do 2 tên thiếu tá chỉ huy và một số bộ máy chính quyền quận, xã. Ngày 1 tháng 10 năm 1975, tên Chuẩn tướng Trang Ghi Năm - Tư lệnh Vùng 4 và 10 tên trong Bộ Tham mưu ra hàng tại Đầm Ròn. Cùng thời gian này, ta bắt tên Ha Zuni (Trung tá, cố vấn chính trị Vùng 4 Đà Lạt), bắt tên Toup Prông Skap - Trung tá, Tham mưu trưởng Vùng 4.


Sang quý I năm 1976, được Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường các đơn vị Sư đoàn 324, Sư đoàn 304 và phi đội trực thăng phục vụ truy quét, ta sử dụng chủ lực phối hợp với địa phương tập trung đánh địch ở các khu vực trọng điểm như nam, bắc huyện Di Linh, Quốc lộ 27 (huyện Đức Trọng), Tiểu khu B Ra Yăng, căn cứ F5 FULRO, căn cứ "Tiểu đoàn Đồng Khởi". Sang quý II năm 1976, để đảm bảo cho bầu cử, ta huy động lực lượng mạnh gồm cả chủ lực và địa phương đánh trúng hậu cứ FULRO ở Lạc Dương. Điển hình là chiến dịch truy quét và phát động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO phía tây nam Đà Lạt dọc theo trục đường 20 của Trung đoàn bộ binh 66 (Sư đoàn bộ binh 320) từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1976. Trung đoàn tổ chức thành 3 đợt, mỗi đợt 1 tháng (tháng 2, 3 và 4, trong đó tháng 2 và tháng 4 là trọng tâm); đối tượng là các tổ chức, lực lượng FULRO, bọn tàn binh ngoan cố, những đảng phái phản động và bọn lưu manh côn đồ làm rối loạn trị an; mục tiêu truy quét là thôn ấp, bìa rừng; khu vực truy quét là Tân Dân, Bảo Thuận, Gung Gié, đông nam Đinh Trang Hòa; hướng truy quét chủ yếu là Bảo Thuận, Gung Gié, nam Di Linh, Tân Dân và các xã vùng Bảo Lộc. Đến cuối tháng 6 năm 1976, lực lương vũ trang ta đã đánh trúng nhiều căn cứ của FULRO, kiểm soát được dòng thánh Châu Sơn trên địa bàn tỉnh, xóa được đầu mối tiếp tế của FULRO. Tháng 9 năm 1976, ta đánh trúng căn cứ của Vùng 4 FULRO, Sư đoàn Pi Dúp, phá hậu cứ của Tiểu đoàn Ha De (phía bắc núi Bà), phục kích đánh trúng trung ương FULRO của Ya Duck ở phía nam Đơn Dương, chặn đứng âm mưu bạo loạn vũ trang của FULRO. Tính chung năm 1976, lực lượng vũ trang tỉnh tiếp tục truy quét, diệt tại chỗ 34 tên, gọi hàng 132 tên, bắt 624 tên, trong đó có 217 tên tại buôn ấp, cải tạo tại chỗ hàng nghìn tên. Bên cạnh đó, ta cũng đã phá 10 tổ chức phản động Thượng du miền Bắc di cư và số chống phá của chế độ cũ lợi dụng tôn giáo liên kết với FULRO, phát hiện một số nhà thờ, nhà giảng đạo Thiên Chúa, Tin Lành đã tiếp tế và tham gia chỉ đạo FULRO, thu 170 súng các loại, trên 2.000 viên đạn, 2.1 15kg gạo và hàng tấn lương thực khác, bóc gỡ 2.246 cơ sở FULRO trong buôn ấp. Đặc biệt, ta đã thu được một số tài liệu quan trọng giúp cho công tác nghiên cứu, đánh địch của ta được tốt hơn1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 7 - Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng, Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Lâm Đồng (1945 - 2010), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2012, tr. 526).


Ở Phú Khánh, ta tổ chức 2 trận đánh vào các ngày 16 và 19 tháng 10 năm 1976. Phục kích 1 tiểu đoàn FULRO Chăm ở phía tây Trại Láng, Đa Dù, Suối Hành thuộc 2 xã Cam Thịnh và Cam Phước, huyện Cam Ranh. Lực lượng tham gia có bộ đội, dân quân tự vệ và công an. Kết quả, ta bắt 8 tên FULRO người dân tộc Raglai; thu 90 súng, 6.000 viên đạn, 2 lá cờ và 1 con dấu của FULRO Chăm...; gọi trình diện 221 tên, trong đó có 22 tên vũ trang người dân tộc Raglai (có 1   đại úy, tiểu đoàn trưởng và 1 đại úy, tiểu đoàn phó)1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tlđd).


Ở Thuận Hải, trong 2 năm 1975 - 1976, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh tổ chức truy quét kết hợp với vận động quần chúng, xác định Ninh Thuận là trọng điểm, mà tập trung là huyện An Phước. Lợi dụng tình hình an ninh chính trị sau ngày mới giải phóng chưa được ổn định. FULRO Chăm nổi lên hoạt động mạnh. Đại đội 1 địa phương huyện An Phước được giao nhiệm vụ tổ chức truy quét kết hợp vận động quần chúng giải quyết FULRO trên địa bàn huyện, với phương án đánh mạnh nhằm tiêu diệt địch bên ngoài kết hợp với phát động nhân dân tham gia công tác binh vận, tạo thuận lợi cho đánh thắng địch được nhanh gọn hơn. Thực hiện nhiệm vụ được giao, sau 10 ngày đơn vị hành quân truy tìm địch vất vả nhưng không gặp địch, nguyên nhân do ta thiếu cảnh giác, hành quân ban ngày để lộ bí mật, các phần tử xấu trong dân đã thông báo cho địch lẩn trốn. Rút kinh nghiệm, đơn vị tổ chức giữ bí mật, bất ngờ, trưa ngày 11 tháng 6 năm 1976, Đại đội phát hiện địch ở khu vực Gia Nú, lực lượng khoảng 70 tên, quân ta lập tức nổ súng, địch bỏ chạy; ta truy kích đến 18 giờ 30 phút, tiêu diệt tại chỗ 2 tên, bắt 1 tên, thu 30 ba lô, 15 súng các loại và nhiều tài liệu quan trọng khác.


Sau trận đánh, địch dao động về đầu hàng 40 tên, Đại đội 1 mở hội nghị quân nhân rút kinh nghiệm và rút ra kết luận: Nhờ có dân thông báo nên địch mới biết hành động của ta và được dân cung cấp nên mới tồn tại hoạt động ngoài rừng. Từ đó, Đại đội phát động phong trào thi đua "Toàn đơn vị làm công tác dân vận giỏi" và về đóng quân ở thôn Y (thôn này hoàn toàn là người Chăm). Nhờ khéo vận động quần chúng, lúc 18 giờ 30 phút ngày 18 tháng 7 năm 1976 được 2 cô gái người Chăm thông báo có 2 tên FULRO là bạn cũ về thôn, Đại đội 1 nhanh chóng tổ chức lực lượng tìm kiếm và vây bắt 2 tên này ngay trong đêm. Qua khai thác, ta biết được một số cơ sở và vị trí của địch. Đại đội báo cáo với Ban Chỉ huy Quân sự huyện và tổ chức lực lượng đánh địch. Sau 5 ngày hành quân, đến 8 giờ ngày 21 tháng 8 năm 1976, đồng chí Đàm Năng Sẻng - dân quân xã Phước Thái gặp địch và báo cáo có toán địch đang lẩn trốn ở vườn xoài, Đại đội triển khai lùng sục, đến 11 giờ, ta phát hiện địch và nổ súng, diệt 3 tên, bắt sống 1 tên1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trẽn địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tlđd).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:09:19 am
Trưa ngày 12 tháng 12 năm 1976, Đại đội 1 Phước An đánh gặp địch ở Gộp Bàng, Đại đội nổ súng diệt 5 tên, bắn bị thương 5 tên, thu 50 viên đạn M79 và 600 viên đạn các loại. Nhờ vận dụng tốt phương pháp đánh địch bên ngoài với phát động quần chúng bên trong, thực hiện phương châm đánh ngoài, vận động quần chúng bên trong và từ trong phát động xây dựng quân báo nhân dân rộng khắp đã có tác dụng lớn đến các gia đình có con em theo FULRO, đơn vị đã chủ động gặp gỡ vận động để họ đưa con em ra trình diện cách mạng và về với gia đình. Đến tháng 6 năm 1977, thôn Y có 23 FULRO đều về trình diện. Trong hơn 1 năm, Đại đội 1 An Phước đã phối hợp với lực lượng vũ trang huyện đánh 10 trận, diệt 18 tên, bắt 21 tên, trình diện đầu hàng 427 tên, thu 132 súng, làm thất bại kế hoạch hoạt động của FULRO trên địa bàn.


Lợi dụng sơ hở của ta, tháng 1 năm 1977, Huỳnh Ngọc Sắng tập hợp lực lượng cho ra mắt "Mặt trận giải phóng Chăm Pa" và hợp thức hóa các trung đoàn, tiểu đoàn FULRO. Phát hiện kịp thời, ta chủ động liên tiếp đánh tiêu diệt lực lượng địch ở núi Kà Ròn và rẫy Mỹ Nghiệp, làm phá sản ý đồ của chúng. Qua kinh nghiệm hoạt động của các đơn vị vũ trang, Tỉnh ủy Thuận Hải xác định thêm phương hướng đấu tranh để giải quyết FULRO. Theo đó, các lực lượng vũ trang bộ đội, công an, dân quân tự vệ bám sát buôn làng, đi sâu vận động từng gia đình người Chăm ở các vùng trọng điểm, phức tạp, tuyên truyền thuyết phục bà con người Chăm, giúp họ phân biệt được nguyện vọng của người dân với bản chất lừa mị của FULRO.


Chấp hành Chỉ thị số 13/CT-76 của Trung ương Đảng, trong năm 1976, ngoài các đợt truy quét các tháng đầu năm do từng tỉnh tổ chức, Quân khu 5 mở liên tiếp 4 đợt truy quét tổng hợp trên phạm vi toàn Quân khu, thời gian mỗi đợt từ 40 đến 60 ngày. Đợt 1, từ ngày 19 tháng 3 đến ngày 5 tháng 5; đợi 2, từ ngày 1 tháng 6 đến ngày 10 tháng 7, đợt 3, từ ngày 5 tháng 8 đến ngày 5 tháng 10; đợt 4, từ ngày 5 tháng 11 đến ngày 25 tháng 12. Trọng điểm truy quét là 2 tỉnh Đắk Lắk và Lâm Đồng. Đối tượng truy quét FULRO Thượng là chủ yếu, kết hợp đánh đàng phái phản động đội lốt tôn giáo. Ở bắc Thuận Hải, nam Phú Khánh chủ yếu diệt FULRO Chăm, kết hợp thanh toán các nhóm tàn quân có vũ trang chống đối, CIA, đảng phái phản động đội lốt tôn giáo. Sử dụng lực lượng chủ yếu là bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân tự vệ được chọn lọc, phối hợp với công an vũ trang, các ngành, đoàn thể. Trong đợt 1, có sử dụng một bộ phận lực lượng của Sư đoàn 3, Sư đoàn 968 tham gia phối hợp với địa phương ở hướng Phú Khánh, bắc Thuận Hải. Đợt 2, có một bộ phận của Sư đoàn 968 tham gia phối hợp hoạt động truy quét. Một bộ phận lực lượng Vùng 3 Hải quân tham gia truy quét ở ven hiển và các đảo. Một bộ phận Quân đoàn 3 tham gia hoạt động quanh các khu vực đóng quân ở Lâm Đồng, Đắk Lắk, Phú Khánh, Thuận Hải.


Trong 4 đợt truy quét, ta diệt, bắt, buộc hàng 2.221 FULRO, có 17 tên đầu sỏ là chỉ huy cấp quận, tiểu đoàn trở lên; thu 1.630 khẩu súng các loại; bắt, diệt gần hết khung Tiểu đoàn 5 FULRO Chăm, phá âm mưu bạo loạn ở thị trấn Phú Quý và 18 ấp người Chăm ở phía tây huyện An Phước, Thuận Hải; bắt toàn bộ Tiểu đoàn Chăm Pa gồm 32 tên chỉ huy từ trung đội trưởng lên đến tỉnh trưởng và 92 lính FULRO; phá 31 sào huyệt, căn cứ của FULRO; ngăn chặn không cho FULRO phát triển xuống miền tây Nghĩa Bình, bắc Phú Khánh. Tiến hành giáo dục phát động quần chúng, củng cố tổ chức của ta ở 30 xã, 21 khu phố, trong đó có 24 xã có FULRO và phản động đội lốt tôn giáo hoạt động; giáo dục phát động được 35.400 lượt quần chúng ở miền núi.


Kết quả trong 2 năm 1975 - 1976, ta đã gọi hàng, tiêu diệt và bắt 8.405 FULRO ở rừng, bóc gỡ 12.140 cơ sở của chúng trong buôn ấp, thu hàng nghìn khẩu súng các loại, trong đó có 20 tên đầu sỏ thuộc trung ương FULRO và chỉ huy các vùng chiến thuật, ở Kon Tum, ta đánh tan toàn bộ 3/7 tiểu đoàn; ở Đắk Lắk đánh tan 4/7 trung đoàn FULRO, các đơn vị còn lại đều bị đánh thiệt hại từ 40 đến 70%, cơ quan cấp sư đoàn cũng bị đánh thiệt hại. Hệ thống tổ chức lực lượng của FULRO bị đánh buộc phải phân tán tản mát, không còn chỉ huy liên lạc chặt chẽ như trước, hậu cần tiếp tế khó khăn1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tlđd).


Có thể thấy, đấu tranh truy quét FULRO trong giai đoạn này ta chủ yêu dùng lực lượng quân sự gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương mở các chiến dịch truy quét, đẩy lùi một bước mưu đồ vũ trang lật đổ chính quyền của bọn cầm đầu FULRO, đẩy chúng vào thế bị động, lúng túng; bảo vệ được chính quyền cách mạng, tạo được chỗ dựa cho cán bộ cốt cán hoạt động ở các vùng dân tộc; bước đầu giải tỏa được sự không chế, uy hiếp của FULRO đối với các trung tâm các tỉnh, huyện, các trục đường giao thông chính, làm giảm uy thế của chúng đối với đồng bào dân tộc.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:10:30 am
b) Xây dựng thực lực chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh Tây Nguyên

Về xây dựng thực lực chính trị, từ giữa tháng 3 năm 1975, các cơ quan lần lượt vào tiếp quản vùng mới giải phóng, ủy ban quân quản được thành lập ở khắp nơi từ tỉnh đến huyện xã, các ban chấp hành các đoàn thể như: Thanh thiếu niên, Phụ nữ, Nông dân, Công đoàn được thành lập, thanh loại các phần tử xấu ra khỏi tổ chức. Trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương, các tỉnh Tây Nguyên nhanh chóng xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh bao gồm tất cả các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, về xây dựng lực lượng vũ trang, chính trị cơ sở, ta đã phát triển trên 3.000 dân quân chiến đấu và củng cố 34/54 xã, 182/187 thôn, khóm, làm được một số nhiệm vụ trong việc giữ gìn an ninh.


Về kinh tế - xã hội, đến cuối năm 1975, tình hình an ninh chính trị - xã hội tương đối ổn định, các cấp, các ngành và nhân dân tập trung mở rộng sản xuất, khôi phục các nhà máy, nông trường, công sở cũ, ổn định đời sống nhân dân, vượt qua khó khăn bước đầu, dần dần giải quyết được lương thực, một phần thực phẩm, giải quyết được nạn đói kinh niên trong nhân dân, đã cứu đói khẩn cấp được 136 tấn lương thực, 17 tấn muối, 4 tấn quần áo, chăn màn1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tlđd, tr.16). Công cuộc cải tạo xây dựng xã hội có bước phát triển trên cả ba mặt: Chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng văn hóa; đổi mới cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số, đẩy mạnh phong trào sản xuất, khai hoang, thủy lợi, định canh, định cư ở các làng đồng bào dân tộc. Đây là cơ sở thuận lợi để giải quyết vấn đề FULRO.


Ở Gia Lai - Kon Tum, tháng 10 năm 1975, tỉnh đã củng cố 139 ủy ban nhân dân cách mạng xã, phường, tập hợp trên 70.000 quần chúng vào tổ chức, thanh loại nhiều phần tử xấu ra khỏi tổ chức. Ngày 24 tháng 5 năm 1976, có 98% cử tri tỉnh đi bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, trong đó bầu ra 2/5 đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số. Đầu năm 1977, cử tri trong tỉnh cũng đã bầu 95 đại biểu vào Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh cũng được thành lập do Anh hùng Đinh Núp làm Chủ tịch. Đây được xem là thắng lợi lớn về chính trị, thể hiện quyết tâm làm chủ của nhân dân.


Về phát triển kinh tế, trong năm 1975, tỉnh Gia Lai - Kon Tum đã phát động phong trào khai hoang tăng gia sản xuất, diện tích định canh là 17.000ha, diện tích gieo trồng là 72.000ha. Từ đó sản xuất lương thực hằng năm cũng tăng lên, năm 1975 là 80.000 tấn, năm 1976 tăng lên 151.000 tấn. Chăn nuôi cũng phát triển, năm 1975, đàn trâu bò là 4,3 vạn con, heo 6,4 vạn con, gia cầm 17 vạn con.


Về thủy lợi, khôi phục và phát triển 539 đập nước, nạo vét 2.200km kênh mương và 174 hồ ao. Thi công 34 công trình vừa và nhỏ, huy động trên 2 triệu công. Nhờ đó, năm 1975 tưới được 650ha, tiếp nhận lao động mới 58.000 người từ các tỉnh khác đến, định cư 200.000 đồng bào các dân tộc (chiếm 60%)1 (Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum, Báo cáo tình hình dân tộc, năm 1979, Trung tâm Lưu trữ Tỉnh ủy Gia Lai).


Ở Đắk Lắk, nhận thức đúng đắn về vai trò của các cơ quan Nhà nước trong hệ thống chính trị, thực hiện chỉ đạo của Trung ương, tỉnh đã tập trung chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp vào tháng 1, tháng 2 năm 1976. Đến tháng 4 năm 1976, tỉnh có 3/5 đại biểu là người dân tộc thiểu số được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa IV.


Sau giải phóng, toàn tỉnh chỉ có 1.252 dân quân, chủ yếu là ở vùng căn cứ cách mạng, 53.000 hộ nông dân các dân tôc được chia đất. Trên mặt trận cải tạo khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội đã có nhiều cố gắng vượt qua những khó khăn bước đầu, đưa lại một số kết quả, tạo đà tiến lên. Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Đông Xuân 1975 - 1976, toàn tỉnh đã gieo trồng được 48.656ha cây trồng các loại, đạt 91% kế hoạch. Chính quyền cũng đã tiếp quản và duy trì hoạt động sản xuất tại 499 cơ sở đồn điền cũ, củng cố lại một số công trình thủy lợi đủ tưới cho trên 2.000ha cay trồng, khai hoang hàng nghìn hécta đất. Nạn đói được khắc phục một bước trên 53.000 hộ nông dân các dân tộc được chia đất canh tác. Cả tỉnh khai hoang phục hóa được 1,263ha, trong đó có 390ha ruộng nước. Hàng chục khu dân cư mới bắt đầu hình thành mở ra nhiều tuyến đường liên huyện, liên xã, thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân. Năm 1976, tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh đạt 100.000ha, tăng gấp đôi so với năm 19751 (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (1975 - 2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.12 - 13, 16).


Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, cấp ủy Đảng các cấp chủ trương đẩy mạnh công tác đấủ tranh giải quyết đạo Tin Lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tiến hành tập trung cải tạo số mục sư, thầy giảng có tội trong thời gian trước giải phóng và một số mục sư, thầy giảng, truyền đạo tham gia FULRO. Hệ thống tổ chức Tin Lành tan rã không hoạt động được, làm mất chỗ dựa của FULRO bên trong và bên ngoài rừng. Một vấn đề cấp bách được tiến hành đồng thời với triển khai các biện pháp giải quyết FULRO là các cấp ủy Đảng đã tăng cường công tác cán bộ cho các ngành Y tế, Thương nghiệp, Lương thực... khẩn trương giải quyết tình trạng dịch bệnh, nạn đói gạo, thiếu muối ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, vùng căn cứ cách mạng, dập tắt dịch bệnh và nạn đói.


Trong 2 năm 1975 - 1976, tỉnh Đắk Lắk đã huy động được 80% số người mù chữ đến lớp, lập 9 trường bổ túc văn hóa, xóa mù chữ cho hơn 15.000 người, trong đó có 9.000 người dân tộc thiểu số. Trước thực trạng đội ngũ cán bộ trong bộ máy quản lý chính quyền các cấp còn yếu và thiếu, tỉnh đã chú trọng tổ chức bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ chính quyền các cấp, nhất là cán bộ chính quyền cấp xã. Năm 1976, đã mở lớp đào tạo được 5 khóa, với số lượng 263 cán bộ xã, trong đó cán bộ người dân tộc thiểu số chiếm hơn 50%1 (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, Lịch sử Đảng bộ tinh Đắk Lắk (1975-2005), Sđd, tr.13). Sự triển khai đồng bộ các biện pháp quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... đã giúp cho ta giành được thế chủ động giải quyết FULRO trong toàn tỉnh Đắk Lắk2 (Tỉnh ủy Đắk Lắk, Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng truy quét FULRO và các bọn phân động từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 12 năm 1981, năm 1982, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Ở Lâm Đồng, Tỉnh ủy đã chỉ đạo tăng cường hàng trăm cán bộ quân đội, công an cùng các ngành xuống cơ sở vận động quần chúng đứng lên bảo vệ buôn làng mới giải phóng; thành lập các đội tuyên truyền vũ trang, mở nhiều đợt phát động quần chúng với nội dung tuyên truyền chiến thắng và chính sách của Đảng, Nhà nước, kêu gọi FULRO ra đầu hàng, đầu thú. Trong năm 1976, Tỉnh ủy đã chỉ đạo phát động quần chúng trong 32 xã vùng dân tộc thiểu số, 10 xã vùng tôn giáo có phản động người Kinh liên hệ với FULRO. Để hỗ trợ phát động quần chúng đấu tranh chống FULRO, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tiến hành công tác cứu đói, ngăn chặn dịch bệnh, nhất là các xã vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến; đã cứu trợ gần 500 tấn lương thực, 27 tấn muối, 33.000m vải, hàng trăm bộ quần áo, đưa 100 cán bộ y tế cùng dụng cụ, thuốc men xuống cơ sở, do đó đã hạn chế được dịch bệnh và ngăn chặn được nạn đói.


Nhìn chung, trong giai đoạn từ tháng 3 năm 1975 đến tháng 1 năm 1977, FULRO đã triệt để lợi dụng sự sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn, lợi dụng tình hình chưa ổn định của ta sau ngày giải phóng để tập hợp lực lượng, thu nhặt vũ khí, phương tiện, mưu đồ chiếm giữ vùng Tây Nguyên, đòi chia sẻ quyền lực với cách mạng. Chúng nhanh chóng đồng loạt nổi lên chống phá ta cả ở các tỉnh Tây Nguyên, vùng dân tộc Chăm, trong đó trọng điểm là Đắk Lắk, Lâm Đồng và Thuận Hải.


Đấu tranh giải quyết FULRO trong giai đoạn này, với sự lãnh đạo của Đảng qua các chủ trương chung về an ninh, quốc phòng, chính sách dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị..., sự chỉ đạo của Nhà nước được cụ thể hóa qua công tác quân sự và xây dựng hệ thống chính trị mới ở Tây Nguyên và vùng phụ cận, qua đó đã góp phần làm giảm áp lực của FULRO đối với buôn làng, tiêu diệt một phần số FULRO cầm đầu cốt cán, làm phân hóa tan rã hàng ngũ trung ương FULRO.


Tuy nhiên, bên cạnh kết quả to lớn đạt được, việc giải quyết FULRO trong giai đoạn này còn nhiều khuyết điểm, thiếu sót, nặng về vũ trang truy quét, chưa kết hợp được giữa hoạt động quân sự với giải pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, chính sách dân tộc tôn giáo nên hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO còn thấp, chưa tách được quần chúng ra khỏi ảnh hưởng của FULRO, chúng vẫn tiếp tục khống chế nhân dân và cán bộ cơ sở trên diện rộng, còn lực lượng lớn FULRO lẩn trốn ở ngoài rừng cùng với một bộ phận chỉ huy đầu sỏ chưa bị tiêu diệt. Trước thực trạng trên, Trung ương Đảng ta kịp thời nhìn nhận, đánh giá đúng tình hình, chỉ đạo các lực lượng, địa phương có phương pháp đấu tranh thích hợp.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:12:05 am
II. TIẾN HÀNH ĐỒNG BỘ CÁC BIỆN PHÁP, TIẾN CÔNG TOÀN DIỆN, GIÀNH THẮNG LƠI CƠ BẢN TRONG ĐẤU TRANH GIẢI QUYẾT FULRO (2.1977 - 1987)

1. Tổ chức, hoạt động của FULRO

Giai đoạn 1977 - 1987, lợi dụng những khó khăn ở vùng dân tộc Tây Nguyên, vùng dân tộc Chăm, việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước còn có những hạn chế; mặt khác, việc ta đưa dân lên Tây Nguyên xây dựng kinh tế trong điều kiện chưa được chuẩn bị tốt về mọi mặt cũng làm nảy sinh những mâu thuẫn phức tạp trong quan hệ dân tộc, FULRO lợi dụng tình hình đó để tăng cường hoạt động chống phá.


Trên địa bàn Tây Nguyên, tháng 7 năm 1977, Y Dyao Nie tuyên bố thành lập nội các mới. Lúc này, FULRO Tây Nguyên vẫn duy trì, củng cố hệ thống tổ chức bao gồm hệ thống hành chính và quân sự từ trung ương đến các tỉnh, quận, xã và bố trí lực lượng hoạt động cả trong buôn và ngoài rừng. Trong buôn, ấp là mạng lưới cơ sở ngầm với nhiều bộ phận như: Hành chính, kinh tế, an ninh tình báo, giao thông liên lạc và các khung quân sự dự bị. Bên ngoài là các toán yếu khu, quận bám buôn làng để hoạt động, duy trì quan hệ trong và ngoài buôn của FULRO. Các cơ quan chỉ huy từ tỉnh đến vùng chiến thuật và bộ phận của trung ương FULRO thường đóng ở vùng núi sâu, vẫn tiếp tục tìm kiếm sự hậu thuẫn, câu kết với các thế lực phản động trong nước và nước ngoài, chủ trương quan hệ với bất cứ quốc gia nào, không kể thể chế chính trị, miễn là ủng hộ giúp đỡ cho FULRO. Y Dyao Niê đã chuẩn bị một số "công hàm" gửi các nước Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc và Liên hợp quốc kêu gọi giúp đỡ, viện trợ cho FULRO. Ở bên trong, FULRO tăng cường quan hệ móc nối, câu kết với các tổ chức phản động của chế độ cũ, phản động là người dân tộc thiểu số ở miền Bắc di cư và những phần từ trong tôn giáo, nhất là đạo Tin Lành.


Trong 2 năm 1977 - 1978, trên địa bàn Tây Nguyên, FULRO đã gây ra hàng trăm vụ tập kích, phục kích làm chết 190 người, bị thương 318 người, cướp hàng trăm khẩu súng, phá hủy, đốt phá nhiều xe ô tô, kho tàng, trụ sở chính quyền xã. Cuối năm 1977, hoạt động của FULRO bắt đầu mạnh trở lại. Điển hình như ở Gia Lai, tháng 10 năm 1977, tại xã Chư Drăng (Krông Pa), nửa đêm 3 dân quân (do FULRO cài cắm) giết chết đồng chí đại đội trưởng và 2 dân quân, lôi kéo 200 người dân ra rừng. Đến tháng 10 năm 1977, FULRO Vùng 2 âm mưu gây bạo loạn ở xã Đắk Đoa, ta kịp thời phát hiện ngăn chặn, bắn chết tên toán trưởng Y Chan, ở Đắk Lắk, năm 1977, FULRO gây ra 150 vụ tập kích, làm chết 125 người, bị thương 149 người, kéo ra rừng 876 thanh niên, cướp 7 tạ lương thực, bắn cháy 2 xe ô tô. Nhiều vụ gây thiệt hại nghiêm trọng, như vụ tập kích vào xã Loan (Đơn Dương, Lâm Đồng), bắn chết 7 cán bộ, chiến sĩ, cướp 13 khẩu súng và toàn bộ tài sản của ủy ban nhân dân xã. Vụ tập kích vào trụ sở xã Chư A Thai (Ayunpa, Gia Lai - Kon Turn) làm chết 10 cán bộ xã và đội công tác, cướp toàn bộ tài sản, đốt trụ sở1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 ( 1975 - 1992), Tlđd).


Đến cuối năm 1978, FULRO đã có bước khôi phục đáng kể với hơn 8.000 quân (hơn 2.000 ở ngoài rừng, số còn lại ở trong dân) với 6 khung sư đoàn (10 trung đoàn, 44 tiểu đoàn), sư đoàn kiêm quân khu, trung đoàn kiêm khung tỉnh, tiểu đoàn kiêm khung quận. Lợi dụng chiến tranh biên giới phía Bắc, khi quân và dân ta phải căng mình trên 2 mặt trận biên giới, FULRO liên lạc với Pôn Pốt (ở Campuchia), Vàng Pao (ở Lào) tham gia thành lập "Liên bang Đông Dương" cùng chống Việt Nam, Liên Xô, tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc.


Do nội bộ mâu thuẫn và tranh giành lẫn nhau, ngày 12 tháng 10 năm 1978, Y Ghơk Niê Kriêng (phụ tá an ninh FULRO) và Nay Guh làm đảo chính, giết chết Y Dyao Niê. Y Ghơk Niê Kriêng lên làm "Thủ tướng Chính phủ" kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và thành lập nội các mới đặt tại vùng núi Hòn Nga, Đầm Ròn (Lâm Đồng) và cử đại diện FULRO đi móc nối với Pôn Pốt, lập Đoàn 909 FULRO liên lạc trực tiếp với Sư đoàn 920 ở Mondulkiri (Campuchia). Âm mưu của FULRO lúc này là đẩy mạnh hoạt động du kích, tập trung đánh vào cơ sở của ta để gây tiếng vang, tránh đụng độ lớn để bảo toàn lực lượng, củng cố nội bộ. Ngày 21 tháng 1 năm 1979, Thứ trưởng Quốc phòng FULRO Y Ghơk Nie Kriêng đã triệu tập các sĩ quan FULRO họp tại Đam Rông (Lạc Dương) bầu ra Hội đồng tư vấn cho chính phủ bao gồm đại diện các sắc tộc lớn ở Tây Nguyên. Đồng thời, chúng sắp xếp lại cơ cấu chính phủ; theo đó, bộ máy trung ương có 2 thủ tướng và 2 phó thủ tướng (đặc trách về an ninh quốc phòng và nội vụ ngoại giao), dưới chính phủ có 12 bộ, lãnh thổ được chia làm 5 quân khu, chúng lập 2 vùng bắc và nam Biệt khu Thủ đô (vùng Bắc gồm các quân khu 1, 2, 3, vùng Nam gồm quân khu 4, 5)1 (Bộ Nội vụ, Công an tỉnh Lâm Đồng, Báo cáo tổng kết đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO ở Lâm Đồng từ năm 1977 đến 1987, năm 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5). Tháng 4 năm 1979, Bộ Quốc phòng FULRO quyết định đổi tên gọi các "Bộ Chỉ huy Quân sự" thành "Bộ Chỉ huy Du kích chiến". Đồng thời, trung ương FULRO ban hành đạo luật khẳng định vị trí của tổ chức FULRO, các văn bản ấn định quyền hành và trách nhiệm các cấp trong bộ máy của chúng.


Ngoài ra, FULRO mở rộng lực lượng, kết nối hành lang "Đông - Tây", từ Tây Nguyên sang Campuchia tới tận Thái Lan. Âm mưu của FULRO lúc này là đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố bảo toàn lực lượng. Từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1979, bộ ba FULRO - Pôn Pốt - Vàng Pao ký thỏa thuận giữa các bên, chủ trương thành lập nhà nước "Đề Ga tự trị" do Chủ tịch Y Bhăm Ênuol đứng đầu, liên kết chống Việt Nam, theo đó: về kinh tế, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa (làm cho dân giàu, chính phủ đầu tư máy móc). Về quân sự, hoạt động lâu dài chống Việt Nam để giải phóng nước "Đề Ga tự trị" do Trung Quốc và Pôn Pốt viện trợ. Về tổ chức lực lượng, chia Tây Nguyên thành 12 tỉnh và miền dân tộc Chăm thành 4 tỉnh1 (12 tỉnh Tây Nguyên: An Khê, Quàng Ngãi, Krông Klúi (Tây Sơn), Kon Tum, Cheo Reo, Buôn Hồ, M’Đrắk, Đắk Nông, Đà Lạt (Lang Biang), B'Lao (Braỵan); 4 tỉnh dân tộc Chăm: Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Phan Rí). Nước Đề Ga, chúng chia làm 2 liên khu trung ương, 2 bộ tư lệnh (Liên khu Bắc và Nam Thủ đô Buôn Ma Thuột). Về hành chính, FULRO chia nước Đề Ga thành 5 vùng: Vùng 1: An Khê, Quảng Ngãi, Krông Klúi; Vùng 2: Kon Tum, Cheo Reo; Vùng 3: Buôn Hồ, M’Đrắk, Đắk Lắk, Đắk Nông; Vùng 4: Đà Lạt, B’Lao, Đồng Xoài; Vùng 5 (Quân khu Duyên Hải) gồm: Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Phan Rí.


Về tên gọi danh hiệu và hệ thống hành chính có thay đổi. Cấp quân khu, FULRO gọi là ban chỉ huy du kích chiến, hoặc bộ tư lệnh quân khu (sư đoàn trưởng kiêm tư lệnh trưởng). Cấp tiểu khu là ban chỉ huy du kích chiến tỉnh hoặc ban chỉ huy tiểu khu (trưởng ban kiêm chỉ huy trưởng và 2 chỉ huy phó). Cấp chi khu là ban chỉ huy du kích chiến quận hoặc ban chỉ huy chi khu (chi khu trưởng kiêm chỉ huy trưởng ban chỉ huy du kích chiến quận). Yếu khu là ban chỉ huy du kích chiến xã hoặc ban chỉ huy yếu khu (yếu khu trưởng kiêm chỉ huy trưởng ban chỉ huy du kích chiến xã). Một số khung sư đoàn cũng có sự thay đổi. Sư đoàn Ykhinh Yú ở Lâm Đồng tổ chức thành 3 khung trung đoàn (71, 72 và 73) gồm 16 tiểu đoàn kiêm quận; Sư đoàn Yyen Ajun ở Đắk Lắk gồm 4 trung đoàn (VR54, VR18, VS63 và VS71), có 12 tiểu đoàn kiêm quận; Sư đoàn Đam Thinh ở Gia Lai - Kon Tum có 3 trung đoàn (51, 52 và 53), gồm 9 tiểu đoàn kiêm quận. Phạm vi hoạt động có mở rộng hơn so với năm 1978, như Gia Lai - Kon Tum mở rộng ra 3 huyện Đắk Glei, Kon Plong, An Khê và 2 huyện mới thành lập là Krông Pa, Sa Thầy.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 05 Tháng Sáu, 2023, 07:13:06 am
Từ năm 1980 đến năm 1981, FULRO câu kết với bọn phản động quốc tế tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt, trong đó hình thức chiến tranh du kích được chú trọng hơn. Trong năm 1980, FULRO chủ trương đưa 6.000 đến 8.000 thanh niên ra rừng và sang Thái Lan huấn luyện, đào tạo trở thành lực lượng kế tiếp lâu dài, lấy Quân khu 4 làm nòng cốt, đặc biệt chú trọng đến tỉnh Lâm Đồng. Thực hiện kế hoạch này, FULRO tổ chức "Chiến dịch Đồng Khởi" tuyên truyền lừa mị, kêu gọi tình nguyện, đã lôi kéo được 1.105 người ra rừng và tổ chức đưa sang Campuchia. Ta phát hiện và tổ chức đón đánh vào tháng 4 năm 1980, chúng chỉ đón được khoảng 750 người đến đất Campuchia, nhưng một số bị chết do bệnh tật và khí hậu1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tlđd, tr.18, 19).


Ở Đắk Lắk, địa bàn giáp biên giới tỉnh Mondulkiri (Campuchia), từ tháng 2 năm 1980, FULRO tiếp nhận vũ khí, trang bị của Trung Quốc thông qua tàn quân Khmer Đỏ và phối hợp tiến hành các hoạt động vũ trang rất nghiêm trọng. Trong năm 1980. FULRO đã gây ra 452 vụ (tập kích, phục kích, đánh xe, ám sát...), làm chết 159 người, bị thương 266 người, lôi kéo 50 thanh niên ra rừng, cướp 63 súng các loại, phá hỏng 14 xe ô tô.


Tháng 6 năm 1981, phỉ Vàng Pao, Pôn Pốt và FULRO tổ chức cuộc họp, thành lập "Bộ Chỉ huy liên quân thống nhất", chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh. Năm 1981, FULRO tổ chức 19 toán vũ trang (gồm 175 tên) đứng chân trên đất Campuchia xâm nhập về địa bàn Gia Lai - Kon Tum thực hiện chiến dịch "tổng động viên", lôi kéo 150 thanh niên ra rừng đưa đi huấn luyện ở Campuchia. Tuy bị ta ngăn chặn nhưng chúng vẫn lôi kéo được một số người, nâng tổng số FULRO ngoài rừng tăng lên đáng kể.


Trong những năm từ 1981 đến 1983, do bị ta tiến công liên tục, với đời sống ở rừng ngày càng khó khăn, nội bộ FULRO tiếp tục phân hóa, nảy sinh mâu thuẫn giữa các sắc tộc, dẫn đến nghi kỵ lẫn nhau, số về đầu hàng ngày càng nhiều, số ly khai (FULRO người M’nông), số chết bệnh ở rừng, lực lượng FULRO tiếp tục suy giảm. Để cứu vãn nguy cơ tan rã, FULRO tích cực tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo thanh niên ra rừng, với luận điệu đưa đi Thái Lan, Mỹ huấn luyện để trở về giải phóng Tầy Nguyên, đã lôi kéo được nhiều thanh niên ra rừng. Riêng ở Lâm Đồng do ta mất cảnh giác, chúng đã lôi kéo được 1.200 thanh niên.


Từ năm 1982 đến năm 1985, được Mỹ và các thế lực thù địch bên ngoài hà hơi tiếp sức, FULRO củng cố được căn cứ ở Mondulkiri (Campuchia), lập được hành lang từ căn cứ đến ngã ba biên giới giữa Canipuchia - Lào - Thái Lan. Trong khi đó, địa bàn của FULRO ở nội địa liên tục bị thu hẹp và suy yếu.


Năm 1984, FULRO lần lượt đưa các "Toán đặc biệt", "Toán nghiên cứu chiến lược" (FE, EHE, AAC1 (Toán FE có 50 tên do Trung tá Y Drem Eeban chỉ huy, có nhiệm vụ mở đường, chọn căn cứ dọc biên giới Việt Nam - Campuchia về đến vùng ngã ba biên giới (Bến Hét), hoạt động từ giữa năm 1984 đến tháng 2 năm 1985. Toán EHE có 55 tên do Thiếu tá Ybya Mlo làm Toán trưởng, có nhiệm vụ liên lạc với nhóm FE, dẫn Bộ Quốc phòng về nội địa xây dựng lực lượng, phát triển hành lang. Toán AAC, 1 tổ gồm 12 tên tách khỏi EHE hoạt động độc lập ở Plei Krông (Kon Tum), tìm khu xây dựng kinh tế đón toán EHE)) về vùng ngã ba biên giới giữa Việt Nam - Lào - Campuchia để lập "mật cứ" đón bọn gián điệp biệt kích, phản động lưu vong trở về, đồng thời bắt liên lạc với bọn phản động ở Lào để tìm đường đưa lực lượng ra nước ngoài. Do ta phát hiện sớm và phối hợp với lực lượng bạn Lào truy quét, tiêu diệt và bắt sống gần hết, nên âm mưu của chúng bị thất bại. Trước tình hình đó, tình báo Thái Lan đã đưa bộ phận cầm đầu chỉ huy FULRO gồm 208 tên đến căn cứ Pét Úm trên đất Thái Lan (gần ngã ba biên giới Campuchia - Thái Lan - Lào). Sau đó số này được đưa sang Mỹ. Các đối tượng còn lại thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Chỉ huy Quân khu 2, Quân khu 3 cùng khoảng 230 lính FULRO do Paul Yưh cầm đầu tiếp tục đứng chân tại căn cứ Mondulkiri. Năm 1985, chúng cử toán "Tổng Nha nghiên cứu chiến lược" về vùng Đlei Ya và các toán khác của Bộ Tổng Tham mưu xâm nhập về Gia Lai - Kon Turn, Đắk Lắk để gây dựng và củng cố tổ chức. Đến đây, FULRO bỏ hệ thống tổ chức hành chính và quân sự, lập các đơn vị "du kích chiến" (GR)1 (GR20 (Quân khu 1 trước đây) gồm ZG11 và ZG12, bên dưới là các toán du kích chiến hoạt động ở địa bàn Kon Tum. GR17 (Quân khu 2 trước đây) gồm các ZG23 đến 27, hoạt động ở vùng Đắk Tô - Đắk Uy, ngày 28 tháng 2 ta chặn đánh lại phía đông thị xã Pleiku 14km, diệt tên chỉ huy Thiếu úy Yhmê làm tan rã lực lượng. GR09 (Quân khu 3) gồm các ZG31 đến ZG37 ở vùng Đắk Lắk. GR64 (Quân khu 4) gồm các ZG47 đến ZG50 ở Lâm Đồng).


Trong năm 1986, trên địa bàn Gia Lai, FULRO gây ra 96 vụ, trong đó có 54 vụ đột nhập buôn làng lấy tiếp tế, 42 vụ bị ta phát hiện, làm ta chết 3 người (có 2 công an), 5 người bị thương.

Ngày 28 tháng 5 năm 1986, tên Paul Yưh - Tổng Tư lệnh Mặt trận FULRO kết luận: Với tình hình hiện nay, ở nội địa chỉ cho phép FULRO đưa lực lượng nhỏ vào giải quyết công việc. Biện pháp duy nhất hiện nay là phân tán, ẩn náu ngay ở đất Campuchia, nội bộ chỉ huy vùng đóng vai trò tích cực đưa lực lượng bám sát chỉ đạo các toán hoạt động ở nội địa. Đến tháng 4 năm 1986, một bộ phận FULRO chạy sang Thái Lan được đưa đi định cư tại Mỹ.


Như vậy, đến năm 1986, mặc dù đã móc nối được với Mỹ, Thái Lan, tàn quân Pôn Pốt và các thế lực thù địch khác, FULRO ở Tây Nguyên vẫn tiếp tục hoạt động nhưng ở vào thế suy yếu bị động do lực lượng bị tiêu hao và phân tán, không còn được tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ như trước.


Ở vùng đồng bào dân tộc Chăm, đầu năm 1977,FULLRO tiếp tục tuyên truyền, kích động gây chia rẽ, hận thù dân tộc, tiến hành một số vụ tập kích vũ trang, đe dọa, khống chế chính quyền và quần chúng ở Thuận Hải, số đối tượng cầm đầu vùng dân tộc Chăm ở Châu Đốc (An Giang) móc nối với FULRO Thượng lập ra "Đoàn thanh niên Chăm Pa" lôi kéo được 158 người tham gia. Giữa năm 1977, khi ta bắt được Huỳnh Ngọc Sắng, giải tỏa được sự khống chế của đầu sỏ với quần chúng và số tay chân bên dưới thì lực lượng FULRO Chăm trong nội địa cơ bản được giải quyết, chỉ còn một số tên lén lút hoạt động.


Trong giai đoạn từ 1983 đến 1985, số ít FULRO còn lại ở Thuận Hải vẫn ngoan cố hoạt động. Chúng móc nối, lôi kéo được 12 thanh niên ra rừng, xây dựng trên 30 cơ sở trong thôn ấp, có cả cán bộ, đảng viên của ta ở cơ sở bị chúng móc nối, khống chế. Lúc này, chính quyền tập trung lực lượng vừa tuyên truyền vận động về hàng, đầu thú, vừa bao vây truy quét, đập tan ý đồ thành lập "Vùng 5 duyên hải" của FULRO. Đây là sự kiện đánh dấu sự tan rã của tổ chức FULRO Chăm.


Có thể nói, đến năm 1986, FULRO cơ bản đã tan rã về lực lượng, không còn sức ép đe dọa trực tiếp miền núi Tây Nguyên điều kiện để Đảng, Nhà nước đề ra chính sách phát triển miền núi, trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số với thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Đây là lần đầu tiên Đảng, Nhà nước đề ra đường lối, chính sách cụ thể, toàn diện chỉ đạo phát triển Tây Nguyên.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 06:56:36 am
2. Chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đấu tranh giải quyết FULRO

Trên cơ sở những chủ trương chung của Đảng, căn cứ vào tình hình thực tế tại Tây Nguyên và vùng phụ cận mà Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 04 (2.2.1977) về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu 5 cũ. Đây chính là "cẩm nang" cho việc giải quyết FULRO.


Đánh giá nhìn nhận về tổ chức này, Ban Bí thư cho rằng: "FULRO là một tổ chức phản động do đế quốc Pháp và Mỹ thành lập, nuôi dưỡng và trang bị, nhằm thực hiện âm mưu lâu dài và thâm độc của chúng là lợi dụng bộ phận trong dân tộc ít người, chia rẽ các dân tộc ít người với nhau và với người Kinh để duy trì ảnh hưởng của chúng ở vùng Tây Nguyên và thực hiện kế hoạch phá hoại cách mạng Việt Nam"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 38, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 23).


Để giải quyết tốt vấn đề FULRO, Ban Bí thư chỉ đạo: Trước mắt các tỉnh Tây Nguyên phải tích cực giáo dục quần chúng, kiên trì phát động quần chúng làm cho đồng bào nhận rõ âm mưu thủ đoạn, tội ác của bọn cầm đầu FULRO, phân biệt được địch ta, đoàn kết chặt chẽ với nhau, về chính quyền, các tỉnh Tây Nguycn phải thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của các dân tộc, tích cực xây dựng cơ sở đảng, đoàn thể và chính quyền, về phương pháp, trên cơ sở vận động, tranh thủ quần chúng mà đánh tiêu diệt địch, làm tan rã, gọi hàng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, chăm lo đẩy mạnh sản xuất, trước hết là ăn, mặc, chữa bệnh, trường học, xóa bỏ tận gốc mọi chỗ dựa của chúng.


Quán triệt chủ trương của Đảng về chống FULRO, lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, ban cán sự đảng các ngành và cấp ủy các đơn vị, địa phương đã nhanh chóng triển khai nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về bảo vệ an ninh chính trị, phát động quần chúng đấu tranh truy quét FULRO, xây dựng thực lực cách mạng tại địa bàn chiến lược.


Ngày 10 tháng 2 năm 1977, Đảng ủy Quân khu 5 ra Nghị quyết số 01/NQ về tình hình FULRO. Nghị quyết chỉ rõ: Trung ương FULRO hình thành 2 bộ chỉ huy ở Đắk Lắk và Lâm Đồng và Bộ Chỉ huy FULRO Chàm ở Thuận Hải, chúng đẩy mạnh hoạt động trên địa bàn các tỉnh làm cho tình hình an ninh chính trị nhiều buôn làng trở nên phức tạp. Trong đó, phát động quần chúng đấu tranh triệt phá giải quyết FULRO với 3 yêu cầu: Tiến công làm tan rã lực lượng vũ trang FULRO ngoài rừng, bóc gỡ triệt để cơ sở nằm vùng của chúng trong buôn làng, thu hẹp, làm mất chỗ dựa về chính trị, kinh tế của bọn FULRO; xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở, xây dựng điểm ở dân cư; đẩy mạnh công tác định canh, định cư, vận động quần chúng làm ăn tập thể, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc.


Về phương châm hoạt động, đánh địch toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng đánh đúng đối tượng, đúng thời cơ, đánh địch đều khắp trên các tuyến và thực hiện tốt chính sách dân tộc; lấy phát động quần chúng xây dựng thực lực chính trị làm cơ sở cho việc truy quét đánh địch, kết hợp chặt chẽ vừa phát động quần chúng để đánh địch và trên cơ sở đánh địch để xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang ngày càng vững mạnh.


Về phương thức hoạt động, sử dụng bộ đội chủ lực cấp trung đoàn, tiểu đoàn đứng chân trên từng khu vực, cụ thể trên 1 đến 2 huyện, thị; bộ đội địa phương lấy cấp đại đội, trung đội đứng chân trên từng khu vực xã, buôn trọng điểm kết hợp chặt chẽ với đội công tác vừa phát động quần chúng, xây dựng cơ sở đánh địch bằng các phương thức:

- Có lực lượng và được tăng cường phương tiện trinh sát nắm địch, phát huy mọi phương tiện trinh sát quân báo nhân dân, quân báo mật, trinh sát kỹ thuật, kết hợp với tình báo để năm địch, phát hiện đầu sỏ, căn cứ đầu não, chỉ huy.

- Dùng lực lượng gọn nhẹ, có thông tin, trinh sát được huấn luyện cách đánh thích hợp, cơ động nhanh, luồn lách giỏi, bí mật đột kích, tập kích, khi đã nắm chắc mục tiêu, bao vây tiêu diệt kết hợp binh vận gọi hàng, truy quét đến cùng để vừa diệt vừa bắt gọn, gọi hàng toàn bộ.

- Chủ lực và lực lượng của tỉnh chủ yếu đánh địch ở vòng ngoài, lực lượng quân sự huyện, dân quân và an ninh chủ yếu đánh địch ở tuyến ven và trong buôn ấp, đồng thời bám địch ở ngoài để diệt hay bao vây kiềm chế địch, tạo điều kiện cho chủ lực cơ động vây diệt địch, các lực lượng phải liên lạc và phối hợp chặt chẽ với nhau.

- Chú trọng cắt tiếp tế, cô lập căn cứ và chỉ huy địch, tích cực thu súng không để địch sử dụng, vận động khuyên khích nhân dân thu và nộp súng.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tiến hành đồng thời phát động quần chúng xây dựng cơ sở truy quét đánh địch trên cả 3 tuyến, lấy tuyến trong dân và tuyến ven là chủ yếu; thực hiện triệt để vây cắt, ém phục, tăng cường nghi binh, đánh nơi này, phục nơi khác, giữ bí mật tạo bất ngờ, tạo điều kiện lập thế cho ta tập trung lực lượng đánh vào trọng điểm tiêu diệt, bắt gọn địch; kết hợp nhiều biện pháp tuyên truyền địch vận gọi hàng, khai thác địch để đánh địch.

- Kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng (chính trị, quân sự, kinh tế, chủ lực, địa phướng, an ninh); kết hợp nhiều biện pháp (lùng quét, kiểm soát an ninh hộ khẩu, phát động quần chúng); kết hợp đánh địch và tiến hành binh vận, khai thác địch, truy kích địch đến cùng1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tlđd).


Để việc chấp hành Chỉ thị số 04 được các cấp thực hiện nghiêm túc từ trên xuống cơ sở, hàng loạt chỉ đạo của Đảng, Nhà nước được triển khai, nhiều văn bản được ban hành. Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 5 năm 1977, tại Nha Trang, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 tổ chức Hội nghị sơ kết phát động quần chúng truy quét FULRO do Thiếu tướng Nguyễn Chánh chủ trì. Hội nghị đánh giá nhận định về địch, khả năng của ta; thống nhất rút ra một số vấn đề làm cơ sở vận dụng và xác định phương hướng cho cao điểm truy quét tiếp theo. Ngày 8 tháng 7 năm 1977, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng Bộ trưởng đã mở hội nghị đánh giá việc triển khai Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư.


Tiếp đó, ngày 27 tháng 10 năm 1978, Bộ Nội vụ ra Chỉ thị số 64-CT/BNV "Về việc tăng cường các mặt công tác đấu tranh chống phản cách mạng, tích cực phòng ngừa gây phỉ, gây bạo loạn, góp phần bào vệ an ninh chính trị trong mọi tình huống. Theo đó, lực lượng công an ở những nơi có đối tượng phản cách mạng hoạt động vũ trang tăng cường phát hiện tình hình, báo cáo cấp ủy quản lý giáo dục các đối tượng nguy hiểm, đồng thời củng cố tổ chức đảng, chính quyền, công an và nhân dân ở cơ sở. Tháng 11 năm 1978, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 cũng tổ chức hội nghị tại Nha Trang, đánh giá về việc giải quyết FULRO và đề ra Kế hoạch số 144/L21 (17.11.1978) "Về hoạt động truy quét FULRO".


Tiếp tục chỉ đạo đấu tranh truy quét FULRO, ngày 5 tháng 6 năm 1979, tại Nha Trang, Bộ Quốc phòng đã chủ trì hội nghị bàn kế hoạch truy quét FULRO. Trong hội nghị, Thượng tướng Chu Huy Mân - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay mặt Ban Bí thư đã chỉ thị những nội dung công tác giải quyết vấn đề FULRO, theo đó, xác định Tây Nguyên là địa bàn chiến lược của toàn quốc và của cả 3 nước Đông Dương. Xây dựng Tây Nguyên toàn diện là yêu cầu lâu dài, nhưng giải quyết FULRO là yêu cầu cấp bách trước mắt. Đến hết mùa khô (4.1980) truy quét hết FULRO ngoài rừng, diệt đầu sỏ, truy gỡ hết cơ sở trong buôn ấp. Đến hết năm 1980, xây dựng được chi bộ Đảng, xây dựng được cơ sở chính trị của ta ở vùng dân tộc và là người dân tộc.


Ngày 8 tháng 5 năm 1980, Liên bộ Quốc phòng - Nội vụ cũng ra Chỉ thị số 01 "Về nâng cao trách nhiệm, tăng cường đoàn kết và hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng quân đội và công an nhân dân". Theo đó, 2 bộ tiếp tục khẳng định truyền thống đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu giữa quân đội và công an trong đấu tranh chống các thế lực phản động, giữ vững an ninh chính trị.


Ngày 20 tháng 8 năm 1980, để cụ thể chủ trương của Trung ương Đảng, Hội đồng Chính phủ ra Chỉ thị số 268/CP "Về tiếp tục đẩy mạnh công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, giải quyết vấn đề FULRO ở Tây Nguyên". Trong Chỉ thị này, Hội đồng Chính phủ yêu cầu ủy ban nhân dân các tỉnh và các ngành có liên quan tiếp tục phát động quần chúng, đồng thời truy quét tiêu diệt đầu sỏ ở trong rừng, trấn áp số FULRO trong các buôn làng, trong công tác truy quét lấy vận động chính trị làm gốc, kết hợp với đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc, đồng thời đẩy mạnh trinh sát vũ trang. Ra sức đào tạo bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số địa phương, kết hợp truy quét với bóc gỡ cơ sở trong dân. Các bộ ngành cử cán bộ có kinh nghiệm tăng cường cho các tỉnh Tây Nguyên. Các tỉnh có FULRO hoạt động dự trù kế hoạch và ngân sách riêng trình Chính phủ duyệt. Cuối cùng, Chỉ thị nêu rõ: "Giải quyết vấn đề FULRO trong tình hình hiện nay là một công tác cấp bách để củng cố an ninh chính trị, củng cố quốc phòng, góp phần tăng cường vị trí chiến lược của 3 nước Đông Dương"1 (Phủ Thủ tướng, Chỉ thị của Hội đồng Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị giải quyết cơ bản vấn đề FULRO ở các tỉnh Tây Nguyên, năm 1980, Văn phòng Thành ủy Kon Tum).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 06:59:02 am
Tiếp theo, Chỉ thị số 79/HĐBT ngày 31 tháng 3 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng cũng nhấn mạnh yêu cầu đẩy mạnh công tác truy quét, triệt phá, đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, làm tan rã lực lượng ở rừng, cắt đứt quan hệ của FULRO với bên ngoài và quan hệ giữa lực lượng trong nội địa với số cầm đầu ở Campuchia; củng cố, chấn chỉnh tổ chức lực lượng của ta (kiện toàn Ban Chỉ đạo 04, kết hợp chặt chẽ giữa quân đội và công an, kể cả lực lượng quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia và Lào); xác định vấn đề lâu dài là kinh tế, xã hội, đảm bảo thực hiện đúng chính sách của Đảng, củng cố lòng tin của đồng bào các dân tộc thiểu số.


Sau Hội nghị Ban Bí thư ngày 2 tháng 6 năm 1981, ngày 27 tháng 6 năm 1981, Ban Bí thư ra Thông báo số 25/TB-TW "Về tiếp tục giải quyết vấn đề FULRO kết hợp với phát triển kinh tế - văn hóa ở Tây Nguyên". Đánh giá sau 4 năm thực hiện Chỉ thị số 04, Ban Bí thư chỉ ra những hạn chế như: Do nặng về trấn áp truy quét mà chưa coi trọng vận động, giáo dục dẫn đến một số sai lầm. Thành tích về các mặt còn thấp so với thời gian và khả năng hoạt động của ta, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra ban đầu theo Chỉ thị số 04. FULRO vẫn duy trì được hệ thống tổ chức (tuy xộc xệch), vẫn lợi dụng được tình cảm dân tộc, lừa bịp, khống chế một bộ phận quan trọng quần chúng các dân tộc làm bình phong giải quyết lương thực, bổ sung lực lượng... Đặc biệt, từ cuối năm 1980, FULRO câu kết với tàn quân Pôn Pốt, căn cứ ở Đông Bắc Campuchia, lập hành lang Đông - Tây, nối Tây Nguyên - Campuchia - Thái Lan, các thế lực thù địch nắm FULRO để chống phá ta và phá hoại công cuộc xây dựng Tây Nguyên. Ban Bí thư kết luận: "Tình hình an ninh chính trị ở Tây Nguyên chưa thật ổn định. Kinh tế, văn hóa phát triển chậm, đời sống của đồng bào các dân tộc còn nhiều khó khăn, tuy được cải thiện hơn trước. Thực lực cách mạng tại chỗ còn yếu, cơ sở chính trị chưa thật vững mạnh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 255 - 256). Từ đó, Ban Bí thư chỉ rõ: vấn đề cơ bản và lâu dài ở Tây Nguyên là xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất, tổ chức đời sống đồng bào các dân tộc, từng bước làm thay đổi bộ mặt ở Tây Nguyên, làm cho đồng bào thấy được tính ưu việt của cách mạng, từ đó tranh thủ được tình cảm, củng cố được lòng tin của đồng bào các dân tộc, cô lập được FULRO. Đồng thời, tuyên truyền, phát động, giáo dục giác ngộ đồng bào phân biệt rõ địch ta, đào tạo đội ngũ đông đảo cán bộ người dân tộc nhằm xây dựng, củng cố các tổ chức đảng, chính quyền ở cơ sở đảm bảo thực hiện các chính sách của Đảng, của Nhà nước, nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc. Ban hành chính sách phù hợp với đặc điểm của vùng dân tộc ở Tây Nguyên và sử dụng lực lượng tiếp tục truy quét FULRO, diệt lực lượng vũ trang tập trung của FULRO, diệt bọn đầu sỏ FULRO để giải quyết nhanh chóng vấn đề FULRO ở Tây Nguyên.


Các hội nghị tiếp theo tại Pleiku (3 - 5.5.1983); hội nghị Đà Lạt (25 - 26.7.1983), hội nghị do Ban Bí thư Trung ương triệu tập tại Gia Lai - Kon Tum (5.1985), các hội nghị công an toàn quốc, hội nghị các tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Lâm Đồng, Đắk Lắk và Thuận Hải đều thể hiện quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng đối với công tác truy quét, triệt phá, đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO.


Sau hội nghị giải quyết vấn đề FULRO của 3 tỉnh Tây Nguyên (5.1985) tại Pleiku, các tỉnh đều tiến hành hội nghị chuyên đề về chống FULRO, để đánh giá tình hình, kiểm điểm quá trình thực hiện, rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tiếp theo, trong đó tập trung vào 5 khâu chính là: Phát động quần chúng bóc gỡ cơ sở FULRO trong dân; diệt, rã chủ yếu làm tan rã lực lượng FULRO ngoài rừng; đẩy mạnh sản xuất theo hướng định canh, định cư, cải thiện đời sống nhân dân; xây dựng dân quân tin cậy về chính trị và đánh được địch bảo vệ buôn, làng; đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người dân tộc ở cơ sở số lượng đủ, chất lượng tốt, hoàn thành mọi nhiệm vụ.


Để tăng cường giải quyết dứt điểm vấn đề FULRO ở Tây Nguyên, ngày 10 tháng 5 năm 1985, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 ra Chỉ thị "Về việc phát động quần chúng truy quét FULRO, xây dựng tuyến phòng thủ Tây Nguyên". Chỉ thị nêu rõ 3 vấn đề: Thứ nhất, phải nhận thức rõ vị trí chiến lược của địa bàn Tây Nguyên và nhận thức sâu sắc âm mưu trước mắt và âm mưu lâu dài của địch. Thứ hai, nắm chắc nhiệm vụ, ý định của Tư lệnh Quân khu về phát động quần chúng giải quyết vấn đề FULRO. Thứ ba, phải hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ cơ bản, từng bước củng cố xây dựng kế hoạch phòng thủ tỉnh, huyện và cơ sở; củng cố cơ quan quân sự các cấp và nâng cao sức chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương tỉnh, huyện và cơ sở1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Biên niên sự kiện lực lượng vũ trang Quân khu 5 (1975 - 2000), năm 2008, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5, tr. 150).


Tiếp theo, ngày 12 tháng 5 năm 1986, Thường vụ Đảng ủy Quân khu 5 ra Nghị quyết số 11/NQ-TV "Về phương hướng giải quyết FULRO trong 2 năm 1986 - 1987". Nghị quyết nêu yêu cầu phát động quần chúng giải quyết 90% cơ sở trong dân và 75% FULRO ngoài rừng, phương pháp chủ yếu là gọi hàng về với nhân dân làm ăn lương thiện.


Như vậy, từ Chỉ thị số 04 năm 1977 đến các chỉ thị, thông báo, nghị quyết, hội nghị... sau này, các quan điểm, chỉ đạo cơ bản được nêu ngày càng được cụ thể hóa, bổ sung sát đúng và phù hợp với diễn biến tình hình mới, làm cơ sở cho các đơn vị vũ trang, ngành, địa phương Tây Nguyên và phụ cận củng cố lực lượng, vận động, giáo dục, nâng cao nhận thức, giác ngộ chính trị cho quần chúng các dân tộc thiểu số; đồng thời có các hình thức, phương pháp thích hợp để tổ chức vận động quần chúng đấu tranh truy quét FULRO, kết hợp với việc giải quyết những vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội, xây dựng thực lực chính trị cơ sở.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:12:48 am
3. Hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO

a) Công tác phát động quần chúng

Xác định đây là khâu then chốt quyết định trong đấu tranh giải quyết FULRO, nên sau khi có Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư, các địa phương, đơn vị vũ trang thành lập các đội công tác đưa xuống bám các buôn làng, kiên trì làm nhiệm vụ phát động quần chúng xây dựng cơ sở đánh địch trên cả 3 tuyến, nhất là tuyến trong dân.


Về chỉ đạo - chỉ huy, ở từng địa phương có ban chỉ đạo tỉnh, huyện, xã thống nhất chỉ đạo về phát động quần chúng, truy quét địch. Riêng ở Thuận Hải, Gia Lai - Kon Tum, Phú Khánh tổ chức tiền phương tỉnh phụ trách khu vực trọng điểm. Quân khu 5, trong thời gian cao điểm tổ chức Sở Chỉ huy tiên phương Quân khu tại Đắk Lắk để hiệp đồng giữa chủ lực và địa phương ở các trọng điểm trên toàn địa bàn Quân khu.


Về tổ chức, các đội công tác có đủ thành phần chính trị, quân sự, an ninh, dân vận... tiến hành công tác vận động quần chúng; biên chế, trang bị đủ mạnh, có thể tiến công địch để hỗ trợ cho công tác phát động quần chúng và bám trụ, công tác lâu dài ở buôn làng. Tích cực, kiên trì bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán và xem đây là công tác then chốt quyết định, không những trước mắt mà cả lâu dài, chú trọng chọn người địa phương, người dân tộc thiểu số, đồng thời mạnh dạn sử dụng cán bộ từ các nguồn có chất lượng, có quyết tâm, đã quen thuộc địa bàn, kể cả cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang. Kết hợp phái động quần chúng đánh FULRO với xây dựng đẩy mạnh sản xuất nâng cao đời sống nhân dân.


Hình thức vận động quần chúng cũng hết sức phong phú, đa dạng. Các địa phương đã có những khẩu hiệu, phương châm sát thực tế như: "Người về, vũ khí về, tư tưởng về", "Người đi gọi có công, kẻ về miễn tội", quần chúng tự đề ra khẩu hiệu 3 sạch (sạch trong buôn, ngoài rừng, sạch nội bộ, không còn FULRO lén lút hoạt động). Tổ chức nhiều đợt phát động tập trung, họp dân theo các cụm dân cư. Đồng thời, đặc biệt chú trọng phát động cá biệt, tuyên truyền tác động tới từng gia đình, từng người có người thân theo FULRO, chịu ảnh hưởng của FULRO hoặc có hành vi tiếp tế, che giấu cho FULRO. Bên cạnh đó đã tranh thù sử dụng già làng, trí thức, những người có uy tín trong dân tộc để họ tuyên truyền vận động quần chúng và tác động đến các đối tượng. Sử dụng chính số cầm đầu, chỉ huy FULRO đã bị ta bắt, về hàng để tự vạch trần bộ mặt phản động chống lại cách mạng, chống lại dân tộc của FULRO, nói lên những sai lầm, tội lỗi của mình và đồng bọn trong các cuộc họp dân ở nhiều địa phương. Hình thức truyền đơn, thư kêu gọi kèm giấy bảo lãnh được sử dụng cũng đem lại kết quả đáng kể trong quá trình truy quét, triệt phá, đấu tranh giải quyết FULRO. Ngoài ra, còn sử dụng băng thu thanh của số cốt cán FULRO đã giác ngộ phát trên loa truyền thanh hay trong các buổi chiếu phim, có tác dụng tốt trong công tác phát động quần chúng.


Tại Lâm Đồng, dưới sự chỉ đạo kiên quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong công tác đấu tranh giải quyết FULRO, các cơ quan, ban, ngành đều hăng hái hưởng ứng và cử cán bộ đến dự huấn luyện, bồi dưỡng về công tác vận động quần chúng. Các cán bộ được cử đi đều rất hăng say học tập và tự nguyện về buôn làng vận động đồng bào thực hiện nhiệm vụ của Đảng giao. Sau Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư đến hết năm 1978, tỉnh đã huy động 320 cán bộ quân đội, công an, các ban ngành và thành lập 20 đội công tác vận động quần chúng xuống 17 xã trọng điểm để phát động quần chúng ở 45/53 xã, gồm 214 buôn và 22 khóm ở thành phố Đà Lạt, tuyên truyền nội dung, mục đích, ý nghĩa của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng và Nhà nước, về hình thức, tỉnh tổ chức 12 cuộc tọa đàm với tầng lớp trên trong đồng bào dân tộc thiểu số và tôn giáo, có 1.073 người tham dự. Bên cạnh đó, tỉnh còn tổ chức nhiều cuộc mít tinh của quần chúng, có cuộc mít tinh lên đến hàng nghìn người tham dự, như cuộc mít tinh ở xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh1 (Bộ Tư lệnh Quán khu 7 - Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng, Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Lâm Đồng (1945 - 2010), Sđd, tr.528).


Tại Đắk Lắk, diện phát động được mở rộng trong các buôn ấp và trong các công, nông, lâm trường, xí nghiệp, nội dung và hình thức phát động có những điểm mới. Các địa phương đã biết kết hợp phát động chung với phát động riêng, đi sâu vào những người có mối liên quan, liên hệ với FULRO. Nhiều địa phương đã biên soạn thành tài liệu học tập theo kiểu vấn đáp để quần chúng dễ học, dễ nhớ, dễ hiểu. Tỉnh đã tổ chức được 74 cuộc tọa đàm gồm 1.257 người là già làng, là lớp trên trong dân tộc nhằm tranh thủ động viên, phát huy tác dụng tích cực của họ trong việc giải thích cho quần chúng tố giác FULRO và kêu gọi chồng con theo FULRO về hàng cách mạng. Qua học tập, phát động, các dân tộc đã nhận thức được FULRO là phản cách mạng, kêu gọi được 226 người là con em của họ về hàng, báo cáo cho chính quyền bóc gỡ 5.430 cơ sở của FULRO ẩn nấp trong buôn ấp; giải tán 14 khung tiểu đoàn, 36 khung đại đội ngầm, xóa 29 khung tề xã, 88 khung tề ấp.


Thông qua vận động quần chúng, nhiều địa phương trong tỉnh đã có sáng kiến kết hợp phát động quần chúng hạn chế, thu hẹp vấn đề tôn giáo, chủ yếu là đạo Tin Lành trong đồng bào Thượng. Qua đó, quần chúng, tín đồ nhận thức được đạo Tin Lành là của Mỹ, của CIA và bọn phản động cầm đầu tôn giáo là tay sai của chúng, đồng thời kiến nghị chính quyền sử dụng 45 cơ sở của Tin Lành, 16 cơ sở của Thiên Chúa giáo phục vụ cho lợi ích công cộng1 (Tỉnh ủy Đắk Lắk (1980), Kiểm điểm việc giải quyết vấn đề FULROvà yêu cầu nhiệm vụ, biện pháp giải quyết vấn đề này trong thời gian tới, Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk).


Tại Gia Lai - Kon Tum, thực hiện Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư, trong 3 năm 1977 - 1980, tỉnh đã huy động nhiều đội công tác xuống cơ sở vận động quần chúng kết hợp với biện pháp trấn áp FULRO. Ngoài tổ chức cho đồng bào học tập đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, tỉnh còn làm tốt công tác tranh thủ già làng, người có uy tín, nhân sĩ, trí thức dân tộc để giáo dục quần chúng và kêu gọi FULRO ngoài rừng trở về làm ăn sinh sống hòa nhập cộng đồng. Đến năm 1981, tỉnh Gia Lai - Kon Tum có 826 cán bộ tham gia các đợt phát động theo cụm ở 50 xã thuộc 8 huyện, thị có FULRO hoạt động. Địa phương cũng tổ chức 175 cuộc phát động với trên 20 vạn lượt người tham gia (khoảng 90% dân số trên địa bàn). Đến tháng 6 năm 1985, toàn tỉnh tổ chức học tập chính sách dân tộc cho 101.500 lượt quần chúng, qua đó phát hiện 11.300 người liên hệ với FULRO, phá 150 khung chính quyền, phát hiện 200 cán bộ cốt cán và 44 đảng viên bị FULRO khống chế2 (Ban Dân tộc Trung ương, Tình hình hoạt động FULRO ở Đắk Lắk, Gia Lai - Kon Tum năm 1985, Phông số 9, Hồ sơ 115, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng).


Tại Thuận Hải, ngoài việc tổ chức cho quần chúng học tập, chính quyền địa phương lần lượt mở các hội nghị với nhiều đối tượng khác nhau, như hội nghị dân tộc, họp các gia đình có người thân đi theo FULRO, tọa đàm với nhân sĩ, trí thức, đạo giáo, với tầng lớp trên trong thôn ấp người Chăm bàn bạc chính sách của Nhà nước, vạch trần âm mưu tội áccủa địch, khêu gợi phát huy truyền thống đấu tranh của dân tộc mình, địa phương mình, giải quyết những hiểu lầm thắc măc và bàn cách cùng nhau vận động người thân theo FULRO về với gia đình, với cách mạng cùng nhau xây dựng cuộc sống mới. Qua đó đã có tác dụng tốt, không ít nơi đã có nhiều mẹ, vợ, những nhà sư trong buôn làng tổ chức thành từng đoàn ra rừng kêu gọi người thân theo FULRO trở về.


Như vậy, sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư, lực lượng quân đội, công an, các ban, ngành, đoàn thể đã lập ra 950 đội công tác, huy động 51.937 lượt cán bộ, chiến sĩ xuống địa bàn cơ sở, bám dân phát động quần chúng. Tổ chức tuyên truyền cho 1.319.763 lượt quần chúng tham gia các phong trào ở địa phương, củng cố bộ máy chính quyền và hệ thống chính trị cơ sở ở 840 lượt xã trọng điểm1 (Bộ Công an, Công an nhân dân Việt Nam - Lịch sử biên niên (1987 - 1996) Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 55), giác ngộ được quần chúng phân biệt rõ địch ta, hiểu rõ nhiệm vụ, nhân dân các dân tộc tích cực tham gia phát hiện bóc gỡ 61.301 cơ sở của FULRO nằm trong vùng2 (Quân khu 5, Tổng kết công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở truy quét FULRO từ sau ngày giải phóng đến nay (3.1975 - 3.1982), năm 1982 Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5). Tuy vậy, công tác phát động quần chúng chưa thực sự được sâu rộng, mặc dù nhận thức được FULRO là phản cách mạng, nhưng quần chúng lo ngại trước sự hăm dọa của chúng; số FULRO về hàng, đầu thú còn băn khoăn lo lắng về đời sống, chính sách của cách mạng đối với họ.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:14:06 am
b) Xây dựng thực lực chính trị

Ngay sau khi có Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư, các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận đã xây dựng kế hoạch phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng ban, ngành, đoàn thể các cấp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp toàn diện của Đảng. Lực lượng vũ trang tổ chức các đội công tác xuống địa bàn trọng điểm phát động quần chúng tham gia đấu tranh giải quyết FULRO, bóc gỡ vô hiệu hóa cơ sở ngầm của FULRO trong buôn làng, đồng thời xây dựng thực lực chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố chính quyền, trấn an dân cư, trấn áp các hoạt động chống phá của FULRO.


Tại Đắk Lắk, sau hội nghị các cấp chuyên đề về giải quyết FULRO, ban chỉ đạo chung được hình thành và củng cố. Đến năm 1980, thông qua phát động quần chúng, các địa phương đã củng cố được đội ngũ cán bộ chủ chốt và kiện toàn được lực lượng công an và dân quân ở 117/326 xã và 310/2.390 thôn; xét duyệt và thanh lọc được 20 xã, phường và củng cố 15 xã, phường; xét duyệt 33/88 ban chỉ huy quân sự xã, phường, đội; thanh lọc 550/3.400 dân quân tự vệ không đủ tiêu chuẩn chính trị và theo FULRO (đạt 16%), nhiều xã tỷ lệ thanh lọc cao hơn, có xã giải tán hoàn toàn dân quân do bị địch khống chế1 (Tỉnh ủy Đắk Lắk, Kiểm điểm việc giải quyết vấn đề FULRO và yêu cầu nghiệp vụ, biện pháp giải quyết vấn đề này trong thời gian tới, năm 1980, Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo tỉnh Đắk Lắk).


Đến cuối năm 1981, toàn tỉnh có 26.667 dân quân tự vệ, trong đó có 10.730 dân quân tự vệ ở nông thôn, thị xã có 7.318 người, 2.226 nữ, 1.945 đảng viên, 528 đoàn viên, 455 là bộ đội phục viên, góp phần củng cố dân quân tự vệ của 85/102 xã, phường, về tổ chức cơ sở đảng, đến cuối tháng 12 năm 1981, Đắk Lắk có 100 chi bộ và đảng bộ cơ sở xã, phường gồm 1.375 đảng viên, tăng 41 đảng viên so với năm 1980, trong đó có 560 đảng viên người dân tộc thiểu số. Tổng số cán bộ xã với 5 chức danh (bí thư, chủ tịch, xã đội trưởng, trưởng công an, bí thư đoàn thanh niên, chủ nhiệm hợp tác xã) có 604 người, trong đó 2/3 là người địa phương. Trong 12 năm (1975 - 1987) đào tạo bồi dưỡng trên 3.000 cán bộ là người dân tộc thiểu số lãnh đạo ở các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Đào tạo trên 5.000 cán bộ cơ sở và cán bộ quân sự, công an, dân quân tự vệ1 (Tỉnh ủy Đăk Lắk, Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng truy quét FULRO và các bọn phản động khác từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 12 năm 1981, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Tại Lâm Đồng, công tác phát triển đàng viên trong vùng đồng bào dân tộc đưực đẩy mạnh nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trên địa bàn. Đến năm 1987 không còn cơ sở "trắng", có 55/55 xã có tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 20 xã "thuần dân tộc"; năm 1986, số bí thư đảng ủy, bí thư chi bộ là người dân tộc thiểu số có 17 đồng chí và trong tống số chức danh chủ chốt ở xã, số cán bộ người dân tộc chiếm 26,2%. Số cán bộ đảng là người dân thiểu số có 3 người là tỉnh ủy viên, 39 người là huyện ủy viên, 55 người là cấp ủy viên đảng bộ xã. Cán bộ người dân tộc thiểu số cấp xã có 885 đại biểu hội đồng nhân dân, 28 người làm chủ tịch, 52 người là phó chủ tịch. Cấp huyện có 74 đại biểu hội đồng nhân dân, 1 chủ tịch, 8 phó chủ tịch là người dân tộc thiểu số. Cấp tỉnh có 19 đại biểu hội đồng nhân dân, 1 phó chủ tịch. Đại biểu Quốc hội khóa VITI có 2/4 đại biểu là người dân tộc thiểu số.


Tại Gia Lai - Kon Tum, đến năm 1983, toàn tỉnh có 564 tổ chức cơ sở đảng, với 13.199 đảng viên (trong đó có 5.144 là người dân tộc), về dân quân tự vệ, tính đến tháng 6 năm 1985, tỷ lệ dân quân tự vệ đạt 4,7% so với dân số toàn tỉnh (dân quân chiến đấu cơ động 23%, chiến đấu tại chỗ 75,4%). Về chất lượng lãnh đạo, đảng viên 7,1%, đoàn viên 18%, bộ đội phục viên 4%, nữ chiếm 8,6% tổng số dân quân tự vệ.


Giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, nhất là việc chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số trong giai đoạn này được Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh, đạt được những kết quả làm thay đổi các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận, góp phần quan trọng vào thành công trong đấu tranh giải quyết FULRO của các địa phương.


Tại Lâm Đồng, trong 2 năm 1977 đến 1978, tỉnh đã đưa hàng trăm tấn giống cây trồng, hơn 2.000 dụng cụ lao động cầm tay giúp đồng bào phát triên kinh tế. Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng được tỉnh quan tâm, trường học, trạm xá, giao thông được đẩy mạnh xây dựng. Tính đến cuối năm 1977, đã xóa xong nạn mù chữ cho 16.300 con em người dân tộc; tăng cường đào tạo đội ngũ giáo viên, nhất là đào tạo đội ngũ giáo viên người dân tộc thiểu số. Cuối năm 1985, có khoảng 900 học sinh dân tộc thiểu số tốt nghiệp cấp 2 và 500 học sinh tôt nghiệp cấp 3.


Về định canh định cư là vấn đề có tính cấp thiết, không chỉ là vấn đề chính trị mà còn là vấn đề kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng. Tính đến năm 1981, đã định canh, định cư được 8.878 hộ gồm 48.336 khẩu, có 7/51 hợp tác xã trong toàn tỉnh hoàn toàn là người dân tộc thiểu số do cán bộ người dân tộc thiểu số làm chủ nhiệm; khai hoang được 6.900ha, có 314 hộ gồm 1.700 nhân khẩu làm cây công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.


Về thủy lợi, tính chung đến năm 1981, tỉnh đã xây dựng được 16 công trình thủy lợi, 10,7km kênh mương, tưới cho 1.116ha, làm mới 197,7km đường giao thông, 24 trường học, 17 trạm y tế xã, khai hoang 4.512ha đất canh tác. Ngoài ra, Nhà nước còn trợ cấp 500 tân lương thực, 330.000m vải, 12 tấn giống hoa màu, 124 con trâu bò, 22.000 dụng cụ lao động. Qua đó góp phần ổn định đời sống định canh, định cư đồng bào, nhất là dân tộc thiểu số.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:15:18 am
Tại Đắk Lắk, quán triệt Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư, tỉnh đã triển khai mạnh mẽ các biện pháp giải quyết FULRO cả về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội làm chuyển biến khá rõ nét về các mặt ở vùng nông thôn dân tộc. Tổ chức các đội xóa nạn mù chữ, đến cuối năm 1977, đã giải quyết cơ bản vấn đề mù chữ trong vùng đồng bào dân tộc và xây dựng trường học ở hầu hết các xã trong toàn tỉnh, đưa con em đồng bào đến tuổi vào học ở các trường học cơ sở. Bước đầu đã triển khai mạng lưới y tế ở các xã trọng điểm, xây dựng bệnh xá xã và tăng cường cán bộ y tế.


Về định canh, định cư, tỉnh đã đẩy mạnh việc đưa cư dân các dân tộc tại chỗ vào các nông, lâm trường quốc doanh, trở thành công nhân nông, lâm nghiệp. Năm 1980, toàn tỉnh mới tuyển được 3 buôn với 334 hộ, 2.360 khẩu, 643 lao động vào nông - lâm trường, đến năm 1983 tăng lên 9 buôn với 652 hộ. Tính đến năm 1987, đã vận động định canh, định cư 29.102 hộ với 158.762 khẩu và 48.832 lao động (đạt tỷ lệ 75% số hộ trong toàn tỉnh) ở 70/95 xã1 (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (1975 - 2005), Sđd, tr. 60).


Về văn hóa - xã hội, có bước phát triển mạnh, số học sinh năm 1975 - 1976 là 50.000 em, năm 1981 - 1982 tăng lên 53.300 em, trong đó có 41.000 em dân tộc thiểu số; giáo viên phổ thông các cấp từ 1.990 thầy cô giáo lên 6.200, trong đó có gần 1.000 giáo viên người dân tộc thiểu số; hệ thống y tế được phát triển nhanh chóng. Năm 1981, cơ sở khám chữa bệnh tăng lên gấp đôi so với năm 1976, số giường bệnh viện, bệnh xá từ 930 giường năm 1976 lên 2.200 giường; y tá đào tạo tại địa phương tăng lên nhanh chóng, góp phần thay đổi từng bước bộ mặt văn hóa xã hội là một phần thắng lợi quan trọng.


Về kinh tế, tỉnh đã dần tự giải quyết được lương thực, một phần thực phẩm, giải quyết được nạn đói kinh niên trong nhân dân, bình quân đầu người 200kg quy thóc năm 1975 lên 300kg năm 1981. Từ chỗ Nhà nước phải cứu đói năm 1975 là 10.000 tấn gạo, đến năm 1981 nhân dân làm nghĩa vụ cho Nhà nước được 26.000 tấn quy thóc. Chăn nuôi phát triển mạnh, tăng gấp 2 lần so với năm 1975, tỉnh đã sản xuất được mặt hàng nông, lâm sản xuất khẩu, tăng thu nhập cho đồng bào. Trong 2 năm 1985 và 1986, phát triển kinh tế vườn trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trở thành phong trào tương đối sôi nổi và rộng khắp. Từ năm 1986 trở đi, với quyết tâm cao của Tỉnh ủy, phong trào phát triển kinh tế vườn trong vùng đồng bào dân tộc ở Đắk Lắk có những biến đổi về chất1 (Tỉnh ủy Đắk Lắk, Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng truy quét FULRO và các bọn phản động khác từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 12 năm 1981, Tldd).


Tỉnh Gia Lai - Kon Tum, đã tự giải quyết được lương thực tại chỗ, từ 257kg/người năm 1976 lên 334kg/người năm 1983; tổng sản lượng lương thực năm 1982 đạt 225.000 tấn, bình quân đầu người đạt 312kg, tăng 0,9% so với năm 1979. Giá trị nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng 38%. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng 178%2 (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945 - 2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 617). Định canh, định cư trên 20 vạn đồng bào dân tộc ít người, tiếp nhận 20 vạn đồng bào kinh tế mới. Về thủy lợi, khôi phục và phát triển 359 đập nước, nạo vét 2.200km kênh mương và 174 hồ ao. Thi công 34 công trình vừa và nhỏ, huy động trên 2 triệu công lao động. Nhờ đó, năm 1975 đủ nước tưới cho 650ha, năm 1980 lên 8.000ha. Về giáo dục, sau giải phóng, tỉnh đã tập trung phát động phong trào học chữ, đến năm 1983, căn bản đã xóa xong nạn mù chữ trong lứa tuổi học sinh. Đội ngũ giáo viên ngày mộl tăng, năm 1979 có 391 giáo viên mẫu giáo và 2.531 giáo viên hệ phổ thông. Năm học 1978 - 1979, cấp tiểu học có 132 trường, 2.442 lớp, 83.005 học sinh, về văn hóa, đã có 92 xã, phường trong 158 xã phường có đội văn nghệ phục vụ nhân dân. Qua 3 năm từ 1976 đến 1979 đã đào tạo cán bộ làm công tác văn hóa thông tin được 332 cán bộ người dân tộc thiểu số. Về y tế, trạm y tế xã đã hình thành ở 154/158 xã phường.


Sau 10 năm (1977 - 1987) xây dựng thực lực chính trị phát triển kinh tế - xã hội, toàn Tây Nguyên đã có 100% xã đồng bào dân tộc có chi bộ Đảng, kết nạp mới được 3.833 đảng viên người dân tộc thiểu số, đào tạo được 7.717 cán bộ cốt cán người dân tộc, trong đó có 5.361 cán bộ dân tộc tại chỗ tham gia quản lý chính quyền các cấp, có 973/2.353 buôn, thôn (gần 40%) có đảng viên người dân tộc thiểu số. Cấp ủy và chính quyền các cấp đã quan tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang, toàn Tây Nguyên có 109.000 dân quân tự vệ là người dân tộc tại chỗ, hầu hết đảm đương được nhiệm vụ đánh địch bảo vệ buôn làng1 (Ban Dân tộc tôn giáo, Tổng kết công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO và xây dựng toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông số 319/pg). Tuy nhiên, xây dựng thực lực cách mạng cơ sở ở Tây Nguyên còn chậm, số đang viên là người dân tộc ít, đến năm 1982, ở Gia Lai - Kon Tum 133 người dân tộc Gia Rai, Ba Na mới có 1 đảng viên ở Lâm Đồng 902 người dân tộc Cờ Ho, người Mạ mới có 1 đảng viên. Số cán bộ chủ trì là người dân tộc còn ít (ở Lâm Đồng có 45 xã dân tộc nhưng mổi có 14 bí thư, 26 chủ tịch, phó chủ tịch và 22 xã có đảng viên là người dân tộc; Đắk Lăk có 55 xã đồng bào dân tộc thiểu số, chỉ có 24 xã có bí thư là người dân tộc...). Công tác quản lý, bảo vệ cán bộ ở cơ sở chưa được coi trọng, thiếu biện pháp cụ thể, tạo sơ hở để FULRO giết hại, khống chế làm mất tác dụng hoặc lôi kéo làm việc cho chúng. Từ cuối năm 1975 đến năm 1982, FULRO giết hại trên 300 và lôi kéo gần 4.000 cán bộ thôn, xã, trong đó có 81 đảng viên, 23 cán bộ cơ sở quận, huyện. Lực lượng vũ trang ở cơ sở chưa bảo đảm trong sạch hoàn toàn, vẫn còn dân quân tự vệ chạy ra rừng, hoặc lén lút làm việc cho FULRO1 (Quân khu 5, Tổng kết công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở, truy quét FULRO từ sau ngày giải phóng đến nay (3.1975 - 3.1982), Tlđd).


Về kinh tế - xã hội, toàn Tây Nguyên có 9 huyện, 210 xã vùng dân tộc hoàn thành công tác định canh, định cư, làm kinh tế vườn; khai phá hàng nghìn hécta đất canh tác; xây dựng được 251 công trình thủy lợi lớn nhỏ; thành lập trên 100 hợp tác xã nông nghiệp và 1.000 tập đoàn sản xuất. Bà con đồng bào dân tộc bước đầu biết tiếp cận khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, hạn chế được nạn phá rừng làm rẫy, có 76.275/127.291 hộ dân có vườn (chiếm 60%). Kết quả sản xuất của 3 tỉnh đạt 21 triệu đô la/năm. Đặc biệt chủ trương giao đất cho các hộ dân tộc để phát triển kinh tế vườn đã thực sự mang lại hiệu quả cao. Về giáo dục, đã hình thành mạng lưới từ tỉnh đến xã với 415 trường phổ thông cơ sở và phổ thông trung học; một số phiên hiệu đại học ở Đà Lạt, Buôn Ma Thuột và nhiều trường chuyên nghiệp khác được thành lập đã thu hút trên 40% con em đồng bào dân tộc thiểu số vào các trường học, 3.782 cán bộ đi học bổ túc văn hóa. Về y tế, đã có 146 trạm y tế và bệnh xá khu vực với 748 bác sĩ, y sĩ, y tá người dân tộc2 (Bộ Công an, Tổng kết lịch sử cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Sđd, tr. 47).


Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần ổn định tình hình vùng đồng bào dân tộc, làm cho FULRO không có điều kiện thâm nhập cũng như trà trộn vào dân; đánh tan luận điệu xuyên tạc người Kinh chiếm đất, cô lập FULRO; đồng thời, củng cố lòng tin của đồng bào vào chính sách của Đảng, Nhà nước.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:16:40 am
c) Đấu tranh truy quét FULRO

Trên cơ sở phát động quần chúng, xây dựng thực lực chính trị và phát triển kinh tế - xã hội, trong năm 1977 ta tổ chức nhiều đợi cao điểm truy quét FULRO, với lực lượng tổng hợp gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, an ninh và cán bộ các đội công tác, bố trí thành thế trận gồm: Lực lượng phát động quần chúng đánh địch trong dân (đội công tác, lực lượng an ninh, dân quân tự vệ), lực lượng đánh địch ở vùng ven (các trung đội, đại đội bộ đội địa phương huyện đứng điểm ở các khu dân cư), lực lượng đánh địch ở vùng sâu (bộ đội chủ lực của Bộ, Quân khu 5).


Sử dụng lực lượng, Quân đoàn 3 sử dụng Sư đoàn 10 hoạt động ở Lâm Đồng, Sư đoàn 320 hoạt động ở Đắk Lắk; chủ lực Quân khu 5 sử dụng Trung đoàn 29 hoạt động ở Gia Lai - Kon Tum; tiểu đoàn cơ động các tỉnh hình thành nhiều điểm truy quét địch liên tục (các tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai - Kon Tum, Thuận Hải, Phú Khánh huy động 2/3 quân số trực tiếp truy quét; Quảng Nam - Đà Năng, Nghĩa Bình huy động 1/3 quân số trực tiếp truy quét); lực lượng xây dựng kinh tế (Đoàn 335 Quân khu 5) tổ chức mỗi trung đoàn 1 đại đội chuyên trách truy quét FULRO trên địa bàn trọng điểm.


Phương pháp hoạt động, kết hợp chặt chẽ giữa công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị với mở các đợt cao điêm truy quét, đánh đúng đôi tượng đầu sỏ, căn cứ vũ trang trong rừng sâu, phân hóa hàng ngũ FULRO, làm đúng chính sách dân tộc, tôn giáo, kiên quyết tiến công địch đến cùng.


Địa bàn truy quét trọng điểm, ở Đắk Lắk, tập trung ở trung tâm và vùng ven thị xã Buôn Ma Thuột, Krông Búk, Krông Pắk; Gia Lai - Kon Tum là Ayunpa, nam Phú Nhơn; Thuận Hải, tập trung ở Ninh Sơn, Ninh Hải; Phú Khánh, tập trung ở phía tây và tây nam tỉnh (chủ yếu là Cam Ranh); tỉnh Nghĩa Bình, tập trung ở Sơn Hà, Ba Tơ; Quảng Nam - Đà Nằng ở Trà My; ở Đồng Nai là Định Quán, Kiệm Tân, Xuân Lộc, Vĩnh Cửu.


Kế hoạch truy quét, tổ chức thành 2 cao điểm: Cao điểm 1 (3.3 - 25.4.1977); cao điểm 2 (25.4 - 25.7.1977). Trước ngày 3 tháng 3 năm 1977 (khoảng 15 đến 25 ngày), các trung đội, đại đội vùng ven, tiểu đoàn cơ động, chủ lực và địa phương triển khai lực lượng tại các khu vực trọng điểm để giữ thế chủ động và trực tiếp hỗ trợ cho các đội công tác xuống đứng chân tại các điểm dân cơ (chủ yếu ở Đắk Lắk).


Cao điểm 1, được triển khai thành 2 bưổc: Bước 1 (3 - 25.3), lực lượng ta trên các tuyến phối hợp với nhau tương đối chặt chẽ, đồng loạt truy quét trên phạm vi rộng, tập trung vào các trọng điểm. Quy mô sử dụng lực lượng trên mỗi trọng điểm từ 2 đến 3 tiểu đoàn truy quét, kết hợp với các đội công tác, trung đội vùng ven ém phục, quản lý dân, cắt tiếp tế. Trong bước này, ta đã đánh trúng một số căn cứ đầu não chỉ huy của FULRO. Điển hình như trận đánh CK9 từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 3; trận Chư Bil từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 3' trận tây Ea Tiêu (phía nam thị xã Buôn Ma Thuột) từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 3 năm 1977. Bước 2 của đợt truy quét diễn ra từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 25 tháng 4 năm 1977, ta chuyển hướng đấu tranh, sử dụng từng tiểu đoàn, gồm cả lực lượng địa phương và chủ lực trên từng địa bàn kết hợp với các trung đội, đại đội bộ đội địa phương huyện đứng chân ở vùng ven tổ chức truy quét liên tục, đánh vào lực lượng huyện và lực lượng trung đoàn kiêm tỉnh của FULRO bám ở các vùng ven móc nối cơ sở để lấy tiếp tế, nhiều trận đánh đạt kết quả tốt. Điển hình như: Trận đánh ở Epốt từ ngày 28 đến ngày 30 tháng 3 của Tiểu đoàn 32; trận đánh ở Thành Mỹ của Trung đoàn 28 (Sư đoàn 10). Đặc biệt có những trận ta sử dụng lực lượng quy mô cấp trung đoàn như trận truy quét vào căn cứ của Trung đoàn 62 và Trung đoàn 64 FULRO ở Đắk Gềnh (Đắk Mil), Ea Đắh (Krông Năng), tỉnh Đắk Lắk. Vận dụng cách đánh trong bước này đã có những phát triển mới, các trận đánh có sự kết hợp cả bên trong và bên ngoài cùng đánh (kết hợp giữa bắt và khai thác những tên ở ngoài rừng để đánh bọn ở trong buôn làng, với bắt và khai thác những tên trong buôn làng để đánh bọn ở ngoài rừng) đã tạo nên thế dây chuyền chặt chẽ truy quét dứt điểm FULRO ở các khu vực Chư A Thai (Phú Thiện, Gia Lai - Kon Tum), Cư Jút (Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk), xóm Bằng xã Cát Hải, tỉnh Thuận Hải. Có trận ta dùng cơ sở mật để bắt bọn đầu sỏ như bắt Huỳnh Ngọc Sắng - Chỉ huy trung ương FULRO Chàm, diệt bọn cầm đầu họp ở thôn Hà Rai.


Kết quả, trong cao điểm 1 ta đã phá được một số căn cứ của FULRO ở CK19, Ea Đắh, Đá Gềnli, Tà In, xóa phiên hiệu Trung đoàn Pô Than (FULRO Chàm) ở Thuận Hải (1 khung trung đoàn, 4 khung tiểu đoàn); giải quyết cơ bản một số khu vực có nhiều FULRO ở trong buôn và ngoài rừng (ở Chư A Thai, bắt, diệt và gọi hàng 162/164 tên, thôn U xã Cư Jút 48/50 tên, xóm Bằng xã Cát Hải 174/180 tên). Bắt và tiêu diệt một số tên đầu sỏ quan trọng (bắt Huỳnh Ngọc sắng - Chỉ huy FULRO Chàm, Siêu Nhớt - mục sư Tin Lành, cầm đầu nhóm FULRO ở Chư A Thai, Y Huê - Chủ tịch FULRO Quảng Đức, cầm đầu nhóm FULRO ở Chư Jút, Hán Bông - Trung đoàn trưởng Trung đoàn Pô Than, Măng Non, Măng Khá - Chỉ huy nhóm FULRO CK19...)1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quăn khu 5 (1975 - 1992), Tlđd).


FULRO bị đánh, ra hàng và trình diện ngày càng nhiều, tổ chức của chúng có nơi bị tan rã, bị thiệt hại nặng, có đơn vị bị xóa phiên hiệu. Để tránh bị tan rã, FULRO chủ trương củng cố lại lực lượng, thành lập đơn vị mới ở một số nơi. Ở Đắk Lắk, chúng đổi tên Sư đoàn Đam Di thành Sư đoàn Amatranga, thành lập Sư đoàn nhẹ H’bir Bao phụ trách vùng ven, củng cố Trung đoàn 61 và các quận 4, 5, 6, 9. Ở Lâm Đồng, FULRO đổi tên Sư đoàn Bi Đúp thành Sư đoàn Amatranglơn, tổ chức sư đoàn kiêm vùng (Quân khu 4), trung đoàn kiêm tỉnh, tiểu đoàn kiêm quận, đại đội kiêm xã, sáp nhập Trung đoàn 74 vào Trung đoàn 71 kiêm tỉnh Lang Biang (khu vực Đà Lạt), Trung đoàn 72 kiêm tỉnh Đồng Nai (gồm Di Linh và Bảo Lộc), thành lập Tiểu đoàn Đồng Khởi người Kinh di cư và Đặc khu Krông Pa thuộc Quân khu 4. Ở Thuận Hải, FULRO thành lập thêm tiểu đoàn dự bị tại khu vực Lam Sơn (Ninh Sơn) trực thuộc lực lượng ở Hà Giáo. Ở Gia Lai - Kon Tum, Sư đoàn Nay Dy đổi phiên hiệu thành Sư đoàn Đam Pông (kiêm Vùng 2), do tên Siu Klút làm Sư đoàn trưởng thay tến Nay Ful, thành lập sư đoàn nhẹ phụ trách tỉnh Cheo Reo, củng cố Trung đoàn 52 kiêm tỉnh Pleiku.


Thủ đoạn hoạt động của FULRO là tiếp tục phân tán, di chuyển, né tránh, bám buôn làng để lấy tiếp tế, trá hàng, chạy sang Campuchia chuẩn bị chống phá lâu dài; đồng thời, đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở một số nơi, đột nhập vào ven thị xã Buôn Ma Thuột, liên tục phục đánh xe trên Đường 21 (đèo Khánh Dương, đèo Phượng Hoàng), bắn, giết cán bộ đồn công an, tập kích doanh trại bộ đội nhằm gây thanh thế và củng cố tinh thần binh lính; tìm cách chui vào các thành phố, thị xã, khu đông dân cư, xâm nhập vào nội bộ ta. Hoạt động của FULRO Chàm bên ngoài thì lắng xuống, nhưng bên trong trá hàng móc nối xây dựng lực lượng ngầm.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:17:43 am
Cao điểm 2, diễn ra từ ngày 25 tháng 4 đến ngày 25 tháng 7 năm 1977, được triển khai thành 2 bước.

Bước 1, nắm chắc sự thay đổi về thủ đoạn của địch, rút kinh nghiệm từ đợt 1, nhiều đơn vị đã kịp thời điều chỉnh về cách đánh, thay đổi về phương thức tác chiến, chuyển sang hoạt động chủ yếu về ban đêm, dùng các phân đội nhỏ tổ chức ém phục kết hợp với tin báo của cơ sở mật và khai thác địch để đánh địch.


Tại Đắk Lắk, dựa vào cơ sở mật cung cấp, từ ngày 6 đến ngày 14 tháng 5, Đại đội 303 đã đánh trúng bộ phận chỉ huy Sư đoàn nhẹ H’bir Bao và Trung đoàn 61 FULRO ở tây buôn Kna (phía bắc thị xã Buôn Ma Thuột). Ngày 5 tháng 5, tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 52) và Tiểu đoàn 32 phối hợp cùng đại đội địa phương huyện Krông Pách, đánh trúng bọn đầu sỏ FULRO đang họp ở buôn Chư Gang Ré. Ngày 25 tháng 5 năm 1977, Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 52) đánh vào bộ phận thanh tra trung ương FULRO ở khu vực xã Ea Ktút. Nhận được tin báo của nhân dân về địa điểm hoạt động của nhóm FULRO, Tiểu đoàn nhanh chóng tổ chức cơ động lực lượng, tập kích tiêu diệt gọn, bắt sống tên Đại tá Y Găm khét tiếng gian ác. Thắng lợi của trận đánh đã làm cho nhân dân tin tưởng vào bộ đội, tố giác hàng chục tên FULRO còn ẩn náu trong xã, vận động hàng chục thanh niên theo FULRO mang vũ khí ra trình diện chính quyền và trở về với nhân dân.


Tại Lâm Đồng, vận dụng cách đánh dây chuyền trong ngoài cùng đánh, sau khai thác công vụ của tên Đại tá Hà Sáu A - Cố vấn trung ương FULRO, ta tổ chức lực lượng đánh vào cơ quan tiền phương Quân khu 4 FULRO ở phía bắc Đà Lạt, diệt tên Hà Sáu A cùng 2 đại úy và 1 trung úy FULRO. Sau đó, tổ chức cho nhân dân đưa xác tên Hà Sáu A về tố giác tội ác của hắn, đồng thời tiếp tục phát động quần chúng truy quét. Kết quả, 98 đối tượng trong dân đã ra trình diện chính quyền và thừa nhận đã làm việc cho FULRO.


Bước 2 của đợt truy quét, nắm chắc thời cơ, các lực lượng của ta tiếp tục đẩy mạnh truy quét, kết hợp với binh vận làm cho FULRO thêm nhiều tan rã.

Tại Đắk Lắk, rút kinh nghiệm của xã Chư Jút, tỉnh tập trung chỉ đạo đẩy mạnh công tác binh vận ở một số xã chưa vận động được FULRO ra hàng và trình diện bằng nhiều biện pháp kết hợp với tiến công truy quét ngoài rừng, tổ chức cơ sở mật bắt bọn khống chế trong buôn làng, tổ chức học tập riêng cho các gia đình có con em theo FULRO, tổ chức ngày toàn dân ra rừng kêu gọi FULRO về hàng, động viên quần chúng tố giác FULRO trong buôn. Kết quả, ở buôn Kna, 100 người theo FULRO đã có 71 người trở về- xã Ea Hleo 22 người ra rừng theo FULRO, có 14 người trở về và 120 người có quan hệ với FULRO ra trình diện; xã Quảng Tín có 61 FULRO ngoài rừng thì 56 trở về... số FULRO ra hàng và trình diện ngày càng nhiều, số trá hàng được tỉnh tổ chức các đội công tác xuống giáo dục cải tạo thí điểm ở các xã Chư Jút, Quảng Phú, kết quả bước đầu có 6 đối tượng tự nhận trá hàng, tự giác mang súng về giao nộp chính quyền. Kinh nghiệm này đã được triển khai áp dụng rộng rãi xuống các xã trên địa bàn.


Tại Lâm Đồng, áp dụng biện pháp đấu tranh thích hợp, số FULRO ra đầu hàng, trình diện tăng nhiều. Từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 16 tháng 7 năm 1977, ở các khu vực Đăng Gia, Đinh Văn, Đức Tùng Nghĩa của huyện Đơn Dương có 400 FULRO sống hợp pháp trong dân ra hàng và trình diện chính quyền.


Tại Thuận Hải, thông qua việc phát động quần chúng đấu tranh truy quét FULRO, ta đã kêu gọi ra trình diện được trên 100 tên thuộc bộ phận lực lượng mật của Tiểu đoàn dự bị Hà Giáo ở Ninh Sơn.

Đi đôi với đẩy mạnh truy quét, la tăng cường kiểm soát và bảo vệ giao thông, kiểm tra hộ khẩu, hạn chế hành động phá hoại giao thông của địch. Thông qua kiểm tra hộ khẩu, đêm 13 tháng 6 năm 1977, ta bắt tên Tư là mục sư Tin Lành ở phường Thống Nhất, thị xã Bụôn Ma Thuột và một số tên ở Đà Lạt sang cư trú trái phép, thu được tài liệu hiệu triệu tuyên truyền kích động quần chúng nổi dậy chống chính quyền cách mạng, ta bắt toàn bộ Ban Trị sự Tin Lành ở đây.


Bước 2 của đợt truy quét, ta đã gắn việc truy quét FULRO với việc triển khai bảo vệ biên giới trên tuyến Gia Lai - Kon Tum và Đắk Lắk. Các đơn vị bảo vệ biên giới tăng cường tuần tra, kiểm tra chống xâm nhập. Ngày 13 tháng 6 năm 1977, ta bắt 3 tên Khmer Đỏ xâm nhập vào Bản Đôn; ngày 17 tháng 6, bộ đội và dân quân huyện Chư Prông đã phát hiện và bắt gọn 10 tên có âm mưu gây bạo loạn ở xã Bình Giáo; ngày 5 tháng 7, bộ đội phối hợp cùng công an bắt 2 tên FULRO ở thôn Knú vượt biên sang Campuchia từ ngày 12 tháng 6 trở lại nằm vùng móc nối cơ sở đưa người vượt biên sang Campuchia.


Kết quả đợt 2 của cao điểm truy quét, ta đã thanh loại 3.504 tên (diệt 103 tên, bắt trong buôn 938 tên, bắt ngoài rừng 138 tên, gọi hàng 728 tên, trình diện 1.597 tên). Phân loại 2.992 tên FULRO, 247 tàn quân ngụy, 210 tên đảng phái phản động, 38 tên phản động tôn giáo, 17 tên lưu manh chuyên nghiệp. Trong các số này có 15 tên chỉ huy (gồm: 3 đại tá, 6   trung tá, 11 thiếu tá, 17 đại úy, cấp chỉ huy đại đội là 60 tên), thu 320 súng các loại1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu. Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên cỉịo bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tlđd). FULRO bị ta truy quét đánh thiệt hại nặng, một số đơn vị buộc phải thay đổi phiên hiệu, dồn ghép củng cố lại biên chế, câu kết chặt chẽ với các lực lượng phản động nội địa, giữa FULRO với Khmer Đỏ. Thủ đoạn hoạt động của FULRO là lợi dụng sơ hở của ta để chống phá gây thanh thế, giữ vững tinh thần cho binh lính, hoạt động phân tán, tránh né để bảo toàn lực lượng.


Cùng với các đơn vị chủ lực của Quân khu 5 và lực lượng vũ trang địa phương, Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3) đứng chân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tổ chức đợt phát động quần chúng truy quét FULRO từ ngày 3 tháng 3 đến ngày 15 tháng 4 năm 1977. Đợt phát động chia làm 2 bước. Lực lượng tham gia gồm 2 trung đoàn 52 và 64 của Sư đoàn 320. Địa bàn hoạt động gồm các huyện Krông Búk, Krông Pách và thị xã Buôn Ma Thuột. Nhiệm vụ đưực giao là lực lượng chủ lực cơ động tiêu diệt và làm tan rã cơ quan chỉ huy đầu não, các đơn vị vũ trang tập trung của FULRO ở tuyến sâu là chủ yếu; tiêu diệt các toán vũ trang địch ở vùng ven, hỗ trợ đắc lực cho địa phương phát động quần chúng xây dựng chính quyền cơ sở ở buôn xã, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đóng quân.


Thực hiện kế hoạch tác chiến, Sư đoàn 320 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 52, cơ động lực lượng từ Dục Mỹ lên đứng chân ở Đắk Lắk, đảm nhiệm hoạt động ở phía nam Buôn Ma Thuột. Trung đoàn 64 (thiếu) đứng chân ở Krông Pách, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 64) đứng chân ở Buôn Hồ. Đến cuối tháng 1 năm 1977, các đơn vị cơ bản đã đứng chân trên các địa bàn trọng điểm của địa phương.


Từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 2 năm 1977, Sư đoàn tiến hành trinh sát thực địa, xây dựng phương án tác chiến, tổ chức hiệp đồng với địa phương; thành phần tham gia gồm cán bộ chỉ huy từ trung đội trở lên. Ngày 8 tháng 2, Sư đoàn giao nhiệm vụ chính thức và hiệp đồng chiến đấu, đồng thời phổ biến kinh nghiệm chiến đấu, kinh nghiệm tổ chức đội công tác phát động quần chúng cho chỉ huy các đơn vị.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:19:29 am
Trước khi tổ chức đợt truy quét, tỉnh Đắk Lắk chủ trương phối hợp với bộ đội chủ lực đứng chân trên địa bàn mở đợt hoạt động đệm từ ngày 9 đến ngày 15 tháng 2 nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để tình huống xấu xảy ra trong dịp Tết Nguyên đán. Mặt khác, sử dụng lực lượng vũ trang hoạt động đánh địch ở một số vùng trọng điểm để đưa đội công tác của địa phương xuống cơ sở nắm tình hình địch, tình hình nhân dân, chuẩn bị cơ sở cho hoạt động chính thức. Trong đợt hoạt động đệm, ngày 7 tháng 2, trinh sát của Sư đoàn và một bộ phận của Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 52) đã tiêu diệt toán FULRO ở xã Chư Sê, diệt tại chỗ 2 tên. Tuy số lượng địch bị diệt ít, nhưng trận đánh đã có tác dụng tốt trong công tác tổ chức chỉ huy và hành động truy quét của bộ đội, bước đầu xây dựng được lòng tin ở cơ sở để thực hiện nhiệm vụ tiếp theo.


Thực hiện nhiệm vụ bước 1 của đợt phát động truy quét FULRO, trên hướng chủ yếu phía đông nam thị xã Buôn Ma Thuột gồm các xã Ea Tiêu, Ea Ktul, Ea Knuech, Ea Bhok, từ ngày 3 đến ngày 15 tháng 3 năm 1977, Trung đoàn 52 (thiếu) tập trung lực lượng khống chế các trọng điểm, chia cắt giữa tuyến 1 và tuyến 3 của địch để hỗ trợ địa phương phát động quần chúng đánh địch bên trong; đồng thời, đưa các đội trinh sát đột nhập vào vùng sâu nắm địch ở các mục tiêu từ R1 đến R4. Nắm chắc thời cơ, từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 3, Trung đoàn 52 tập trung lực lượng đánh vào Sở Chỉ huy Trung đoàn 61 và Trung tâm huấn luyện của FULRO, nơi ẩn náu của tên Y Dao ở dãy Chư Bil (cách phía nam thị xã Buôn Ma Thuột 13km), bằng chiến thuật vận động bao vây tiến công liên tục, Trung đoàn 52 đã đánh trúng căn cứ FULRO, gây cho chúng thiệt hại nặng, buộc phải di chuyển né tránh. Kết quả trận đánh, ta loại khỏi vòng chiến đấu 36 tên (diệt 31 tên, bắt 5 tên), diệt gọn 1 đại đội, xóa căn cứ cơ quan trung ương FULRO.


Trên hướng phối hợp, Trung đoàn 64 sử dụng Tiểu đoàn 7 hoạt động ở Buôn Hồ gồm các xã Ea Đê, Ea Túk, Ea Đrông, từ ngày 3 đến ngày 8 tháng 3, Tiểu đoàn đưa Đại đội 1 lên Gia Cầm đánh địch theo yêu cầu của huyện Krông Buk, nhưng không gặp địch. Tiểu đoàn 9 tập trung hoạt động trọng điểm ở các xã Ea Knuech và Ea Túk, liên tục truy quét, loại khỏi vòng chiến đấu 33 tên (diệt 1 tên, bắt 30 tên).


Nổi lên trong bước này của đợt truy quét là bộ đội ta đã khắc phục được khó khăn, chấp hành nghiêm túc mệnh lệnh, tập trung lực lượng trên hướng trọng điểm của địa phương, hoạt động đánh địch ở vùng ven và vùng sâu có kết quả, đã hỗ trợ trực tiếp cho các đội công tác của địa phương đứng vững để phát động quần chúng đánh địch trong buôn. Tổ chức được một số trận đánh có ý nghĩa then chốt ở vùng sâu đạt kết quả (như trận đánh của Trung đoàn 52 ở dãy Chư Bil), làm cho địch hoang mang, dao động, buộc phải cơ động né tránh, thay đổi thủ đoạn hoạt động (từ chủ động hoạt động vũ trang phá hoại chuyển sang bị động đối phó). Đồng thời, thắng lợi của các trận đánh trong bước này có tác dụng lớn đối với ta trong việc rèn luyện khả năng tác chiến của bộ đội và xây dựng đơn vị.


Bước 2 của đợt truy quét diễn ra từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 15 tháng 4 năm 1977. Trên hướng chủ yếu, Đại đội 4 (Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 52) tổ chức đánh địch ở vùng ven phía bắc thị xã Buôn Ma Thuột (khu vực Chư Sê), thực hành vận động bao vây tiến công liên tục, truy quét triệt để, đã diệt gọn 1 toán FULRO 13 tên, trong đó có tên Trung tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 61, thu 4 súng. Từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 3, Đại đội 3 của Tiểu đoàn 4 cùng 1 đại đội đánh thiệt hại nặng địch ở tây bắc Chư Sê, tiêu diệt chỉ huy, quân lính hoang mang tháo chạy. Phía nam thị xã, Đại đội 11 (Tiểu đoàn 6) đánh địch ở phía nam Ea Tiêu và Trung Hòa đồng thời tổ chức lùng quét ở dãy Chư Bil, ta chia cắt được tuyến sâu với tuyến buôn làng của FULRO, đánh trúng căn cứ của chúng, diệt 10 tên, bắt 1 tên, thu 4 súng, tạo điều kiện cho phát động quần chúng đánh địch.


Trên hướng phối hợp, được trinh sát của Quân khu 5 cung cấp tình hình địch ở Ea Đa (phía bắc Chư Sê 13km), Trung đoàn 64 (thiếu Tiểu đoàn 8), triển khai lực lượng bao vây tiến công tiêu diệt địch, nhưng do tổ chức nắm địch không chắc (báo cáo của trinh sát Quân khu 5, lực lượng FULRO có khoảng 150 tên, nhưng thực tế chỉ có 7 đến 10 tên), công tác tổ chức hiệp đồng và bảo đảm thông tin liên lạc không tốt nên trận đánh không thành công. Ở Buôn Hồ, Tiểu đoàn 7 tổ chức đánh địch ở vùng ven, lúc đầu kết quả rất hạn chế, nhưng do kịp thời rút kinh nghiệm và tổ chức chỉ đạo chặt chẽ nên các bộ phận lùng sục của Tiểu đoàn đã tiêu diệt và bắt được địch, thu vũ khí và tài liệu quan trọng của chúng.


Từ ngày 8 đến ngày 15 tháng 4 năm 1977, Trung đoàn 64 tổ chức cho một bộ phận của cơ quan Trung đoàn, Đại đội 9 của Tiểu đoàn 9 và 1 đại đội của Tiểu đoàn 6 cơ động chuẩn bị bàn đạp tiến công cụm quân địch ở phía bắc Đức Lập, nhưng khi các đớn vị cơ động đến nơi, địch đã rời khỏi trước đó 1 tuần (do công tác hiệp đồng không tốt, ngày 3 tháng 4, bộ đội địa phương huyện Đắk Mil nổ súng đánh địch nên bị lộ).


Kết quả của đợt truy quét năm 1977, ta tổ chức 73 lượt hành quân truy quét, có 3 trận đánh cấp trung đoàn thiếu, 7 trận đánh cấp tiểu đoàn, 44 trận cấp đại đội, 18 trận cấp trung đội, 33 lần gặp địch và nổ súng đánh địch; loại khỏi vòng chiến đấu 297 tên, bắt sống 223 tên (có 1 Thiếu tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 61, 1 đại úy, 3 thiếu úy); đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn, diệt gọn 1 đại đội, xóa Trung tâm huấn luyện cán bộ quốc gia FULRO; thu 24 súng bộ binh và nhiều tài liệu quan trọng, hỗ trợ địa phương bắt hàng trăm tên trong buôn, xã1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), Tlđd).


Sang năm 1978, từ tháng 1 đến tháng 5, Tiền phương Quân khu 5 phối hợp với các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên mở đợt phát động truy quét FULRO, tiến hành củng cố lại các đội công tác, xây dựng thực lực cách mạng cơ sở, xác định rõ trách nhiệm cho lực lượng vũ trang địa phương đảm nhiệm hoàn toàn nhiệm vụ truy quét FULRO, thay đổi phương thức hoạt động tác chiến, dân quân tự vệ và các đội công tác hoạt động ở tuyến trong và tuyến ven, bộ đội địa phương hoạt động ở tuyến ven và vùng căn cứ FULRO. Ở Đắk Lắk, sau khi bổ sung kế hoạch phát động quần chúng, công tác truy quét FULRO có những chuyển biến tích cực, các đội công tác và dân quân xã hầu hết đảm nhiệm được nhiệm vụ truy quét đánh địch ở tuyến trong và tuyến ven. 40 dân quân xã Krông Pông vào rừng hoạt động 3 ngày, phát hiện 1 căn cứ FULRO, bắt 1 tên; trung đội bộ đội địa phương huyện M'Đrắk đánh vào căn cứ M’Đrắk 2 và 3 của FULRO, tiêu diệt tên Y Tiêu - Quận trưởng; bộ đội địa phương huyện Krông Pách đánh trúng đường dây của bọn trung ương FULRO thường qua lại từ Buôn Ma Thuột đến Giang Ré - Đầm Ròn, diệt tên Ksođê - trung ương FULRO, phụ trách Bộ nội vụ. Ở Lâm Đồng, ta đánh trúng căn cứ Vùng 4 FULRO, diệt 5 tên, thu 15 súng, 50 ba lô và nhiều tài liệu quan trọng. Ở Gia Lai - Kon Tum, được cơ sở mật cung cấp tình hình, ta tổ chức tiêu diệt một số tên đầu sỏ FULRO ở đông bắc Kon Tum và đánh vào căn cứ Sư đoàn Đam Pông ở tây nam Phú Nhơn, thúc đẩy tình hình phát triển thuận lợi.


Kết quả của đợt truy quét, các lực lượng vũ trang (chủ yếu là dân quân và bộ đội địa phương huyện) cùng với các đội công tác liên tục phát động quần chúng đấu tranh truy quét FULRO, tổ chức đánh 60 trận, diệt 75 tên, bắt 75 tên ra hàng 70 tên, ra trình diện 447 tên (trong đó có một số tên đầu sỏ quan trọng), thu 90 súng các loại; phá một số căn cứ của FULRO ở bắc Đắk Gềnh, Ea Đa, Chư Giăng Ré, phía bắc Đà Lạt (căn cứ Vùng 5 của FULRO), đẩy chúng vào thế khó khăn bị động, tiếp tục di chuyển lực lượng để né tránh, ra hàng và trình diện1 (Bộ Tư lệnh Đoàn 335, tài liệu số 24/121, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:20:06 am
Tiếp tục thực hiện kế hoạch truy quét FULRO, từ cuối năm 1978 đến đầu năm 1979, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 xác định phương án tác chiến là: Sử dụng lực lượng mỗi tỉnh 1 tiểu đoàn tập trung, từ 1/2 đến 2/3 bộ đội địa phương huyện, đại bộ phận dân quân tự vệ phối hợp với công an, đội công tác, cán bộ các ban, ngành, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chỉ huy quân sự thống nhất để tiến hành truy quét. Các đơn vị kinh tế sử dụng một bộ phận lực lượng phối hợp truy quct xung quanh khu vực đóng quân, tăng cường tuần tra, lùng sục và tích cực phục kích các hành lang. Dân quân và tự vệ các công, nông, lâm trường tích cực lùng sục trên các địa bàn được địa phương phân công, phối hựp truy quét theo yêu cầu của địa phương. Các đơn vị và các đồn công an ở biên giới, phối hợp lùng sục bọn biệt kích, tích cực phục trên các hành lang FULRO và các lực lượng khác trong nội địa liên lạc với bọn phản động ở Campuchia1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Đợi hoạt động truy quét từ ngày 22 tháng 12 năm 1978 đến 22 tháng 1 năm 1979, tài liệu số 144/L21, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Kế hoạch truy quét được chia làm 3 bước: Bước truy quét vòng ngoài kết hợp với bao vây phục chặn (22 - 30.12.1978); bước truy quét bên trong (1 - 12.1.1979); bước truy quét mạnh ở cơ sở (13-22.1.1979).


Thực hiện kế hoạch truy quét, ở Đắk Lắk, sử dụng các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với tiểu đoàn công an vũ trang của Bộ Nội vụ tổ chức truy quét, đánh trúng căn cứ trung ương FULRO ở Krông Ana; các địa điểm căn cứ của chỉ huy "Biệt khu Thủ đô Buôn Ma Thuột" ở Cư Ea Buk và hầu hết chỉ huy quận, toán FULRO, diệt 357 tên, bắt 105 tên, vận động gọi hàng 197 tên và 1.954 tên ra đầu thú. Kết quả này đã tạo điều kiện để ta tăng cường 2.000 cán bộ các ngành xuống cơ sở, lập 97 đội công tác ở các địa bàn trọng điểm. Tại Phú Khánh, được sự chỉ đạo của Quân khu 5, sự phối hợp của tỉnh bạn, ngày 4 tháng 10 năm 1978, lực lượng vũ trang và dân quân tự vệ tỉnh đã phối hợp với công an tổ chức trận đánh vào căn cứ Gia Xít Xích Mé của FULRO, diệt 2 tên, bị thương 2 lên, thu 1 súng, một số lương thực, thực phẩm và quân trang, đưa một số dân bị chúng ép theo trở về buôn làng.


Từ năm 1979, do yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu ở biên giới Tây Nam, lực lượng chủ lực của Bộ Quốc phòng, Quân khu 5 và một bộ phận bộ đội địa phương tỉnh chuyển sang làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới và giúp cách mạng Campuchia, lực lượng còn lại truy quét FULRO và hỗ trợ phát động quần chúng đấu tranh chủ yếu là bộ đội địa phương huyện và dân quân tự vệ, phối hợp với lực lượng an ninh tiến hành truy quét FULRO, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở các địa phương. Trên địa bàn tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh tổ chức bố trí lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ, công an cùng các ban, ngành, đoàn thể liên tục mở các chiến dịch truy quét có quy mô, trọng điểm và thu được kết quả. Từ năm 1980 đến năm 1982, ta đánh 246 trận, diệt 161 tên FULRO, bắt 504 tên, ra hàng 38 tên, bóc gỡ 100 cơ sở ngầm, giải tán 12 khung chính quyền ngầm, phá 2 căn cứ của 2 sư đoàn, 2 trung đoàn, đánh thiệt hại Tiểu đoàn Đăm Dan và Trung đoàn 51, tiêu diệt gần hết 4 khung đơn vị cấp tiểu đoàn. Từ năm 1983 đến năm 1985, ta đánh 177 trận, diệt 95 tên (có 2 trung tá, trong đó có tên Phó Tư lệnh Quân khu 2, 5 thiếu tá, 10 đại úy, 1 quận trưởng và 18 sĩ quan cấp trung úy, thiếu úy), bắt 124 tên, ra hàng 110 tên, diệt và bắt gọn 8 toán nhỏ, thu 149 súng các loại và nhiều tài liệu quan trọng, phá 4 căn cứ FULRO, bóc gỡ 1.170 cơ sở ngầm trong dân, làm tan rã 82 khung chính quyền ngầm trong xã, thôn (trong đó có 120 cán bộ, dân quân của ta), ra trình diện 2.861 đối tượng có liên quan đến FULRO. Tại Đắk Lắk, từ năm 1979 đến năm 1981, cấp ủy Đảng các cấp chủ trương triển khai đồng bộ các biện pháp cấp bách nhằm giải quyết FULRO trong thời gian ngắn nhất. Giai đoạn này, tỉnh triển khai đồng bộ các biện pháp giải quyết FULRO cả về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội làm chuyển biến rõ nét các mặt ở vùng nông thôn đồng bào dân tộc, phát động quần chúng bóc gỡ FULRO bên trong làm trong sạch địa bàn. Đánh giá đúng tình hình địch, Tỉnh ủy và Bộ Nội vụ chỉ đạo lực lượng an ninh thực hiện kế hoạch phân hóa sâu sắc nội bộ bọn cầm đầu FULRO người M’nông và Ê Đê, trên cơ sở đó đã kéo về được 54 tên FULRO người M’nông do tên Y Tài - Trung tá FULRO cầm đầu. Qua đó đã giải quyết cơ bản lực lượng FULRO M’nông trên địa bàn các huyện Đắk Mil, Đắk Nông và Đắk R’lắp, tạo ra các điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết FULRO trôn địa bàn tỉnh. Lực lượng vũ trang trong giai đoạn này đã thực hiện tốt chủ trương của cấp ủy là truy quét tiêu diệt căn cứ cầm đầu ở nội địa và ngoại biên, nhất là bọn "chỉ huy mặt trận FULRO" trên đất Campuchia, chia cắt lực lượng địch, tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác phát động quần chúng giải quyết FULRO bên trong. Tại Lâm Đồng, các trận đánh của lực lượng vũ trang địa phương và công an cũng đạt kết quả tốt, điển hình như: Từ ngày 20 đến ngày 24 tháng 11 năm 1980, dân quân xã Lộc Nam liên tiếp đánh 2 trận tập kích và truy kích một toán FULRO, diệt 6 tên, bắn bị thương 2 tên, thu 6 súng; ngày 1 tháng 5 năm 1981, dân quân xã N’thôn Hạ diệt 1 đại úy FULRO, bắn bị thương 3 tên, bắt 2 tên, thu 3 súng và một số tài liệu quan trọng; ngày 17 tháng 10 năm 1982, dân quân xã Killaglo Hạ (Nay là xã Đạ Sa, huyện Lạc Dương) đánh vào căn cứ Quân khu 5 FULRO, bắt 11 tên, thu toàn bộ vũ khí. Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Công an tỉnh Lâm Đồng lập Chuyên án F. 101. Với các kế hoạch câu nhử (từ kế hoạch X1 - X7) lực lượng an ninh đã bắt gọn 69 sĩ quan chỉ huy Quân khu 4 và bọn Trung ương FULRO ở Lâm Đồng, trong đó có Đại tá Ya Duck - Đệ nhất Phó Thủ tướng, góp phần làm tê liệt tổ chức, hoạt động của FULRO ở nam Tây Nguyên và là bước quan trọng quyết định dẫn tới làm tan rã hoàn toàn tổ chức FULRO ở Tây Nguyên. Tại Phú Khánh, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với công an thực hiện một số trận đánh có hiệu quả. Ngày 1 tháng 3 năm 1980, bộ đội địa phương và dân quân truy quét FULRO ở vùng tây bắc Hòn Giao thuộc huyện Vĩnh Khánh, diệt 5 tên, thu 3 súng. Trong tháng 5 năm 1980, bộ đội và dân quân huyện Tây Sơn truy quét ở vùng núi Chu Su, diệt 1 tên, bị thương 1 tên. Trong các ngày 14, 15, 16 và 19 tháng 6 năm 1984, bộ đội địa phương phối hợp với dân quân tự vệ, công an xã Phú Mỹ, huyện Đồng Xuân, đánh toán FULRO Chăm do tên Nay Loan chỉ huy, bắn bị thương 3 tên, bắt 5 tên; thu 2 súng, một số trang bị và tài liệu quan trọng, Nay Loan và số quân còn lại bỏ chạy vào rừng.


Kết quả, đến tháng 3 năm 1982, ta đã loại 72.022 tên FULRO (gồm: Diệt 5.227 tên, bắt sống 23.301 tên, ra hàng và trình diện 43.494 tên, trong đó có 27 tên cấp trung ương, 5 cấp tưổng, 20 đại tá; 779 thiếu tá, 144 cấp tỉnh, 506 cấp huyện, 765 cấp xã, 17 tên đội lốt linh mục, 2.074 tên cấp úy); xóa 1 cơ quan trung ương, 2 khung sư đoàn, 28 khung trung đoàn, 122 khung tiểu đoàn, 92 khung xã, 314 khung buôn, thôn; thu 12.473 súng các loại1 (Theo: Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở truy quét FULRO từ sau ngày giải phóng đến nay (tháng 3 năm 1975 đến tháng 3 năm 1982 của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5), Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:21:05 am
Mùa khô năm 1984 - 1985, FULRO bị thất bại nặng nề, căn cứ của chúng trên biên giới Campuchia - Thái Lan bị ta tiến công đánh chiếm, hành lang bị cắt đứt, lực lượng FULRO ngoài rừng trên địa bàn Tây Nguyên bị truy quét hao hụt nhiều, nội bộ trung ương FULRO mâu thuẫn lục đục.


Sau hội nghị của Ban Bí thư Trung ương bàn về vấn đề giải quyết FULRO tại Pleiku (5.1985), Quân khu 5 và các tỉnh đẩy mạnh công tác phát động quần chúng, tăng cường chỉ đạo truy quét, tập trung trọng điểm là Gia Lai - Kon Tum.


Trên địa bàn Gia Lai - Kon Tum, chấp hành chỉ lệnh Chiến dịch A4 của Tư lệnh Quân khu 5, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ Tỉnh ủy, tỉnh Gia Lai - Kon Tum mở Chiến dịch Z85 nhằm tiêu diệt, đánh bại hoàn toàn âm mưu, thủ đoạn mới của FULRO trên địa bàn, xóa sổ các toán FULRO; trọng điểm là các huyện Mang Yang, Chư Sê, Chư Prông, Chư Păh và một số làng phụ cận của xã Chư Zô và Chư Á của thị xã Pleiku. Kế hoạch của chiến dịch được chia làm 3 đợt:


Đợt 1, từ ngày 20 tháng 11 đến ngày 30 tháng 12 năm 1984, ta sử dụng lực lượng gồm: 2 tiểu đoàn bộ binh, 335 dân quân xã biên giới, 885 dân quân nội địa, phối hợp cùng lực lượng công an, lực lượng 031 (Sau khi có Nghị quyết số 03/TW ngày 25 tháng 12 năm 1982 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 128 của Hội đồng Bộ trưởng về đấy mạnh đấu tranh giải quyết FULRO trong vài năm tới, sáp nhập Ban Chỉ đạo 04 và Ban Chỉ đạo 03 thành Ban Chỉ đạo 03) và các đội công tác, có chỉ định bộ phận chỉ đạo trực tiếp.


Hướng trọng điểm 1 (Mang Yang), sử dụng Tiểu đoàn bộ binh 1 có 110 đồng chí, phân đội trinh sát tỉnh 14 đồng chí; dân quân tự vệ huyện Mang Yang sử dụng trên các hướng Đắk Đoa, Hà Bầu, Kon Gang, Gla, Ia Pết có trên 100 đồng chí, phối hợp cùng công an, lực lượng 03, các đội phát động quần chúng.


Hướng trọng điểm 2 (xã Hà Bầu, huyện Chư Prông), sử dụng Tiểu đoàn bộ binh 8 có 100 đồng chí, tiểu đội trinh sát tỉnh và gần 100 dân quân, phối hợp cùng công an, lực lượng 03 và các đội công tác.

Đợt 2, từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 30 tháng 3 năm 1985, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 và Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum chỉ đạo chuyển hướng hoạt động lên phía tây bắc địa bàn Chư Mô Rai, Bến Hét - Ngã ba Đông Dương. Sử dụng lực lượng gồm: Tiểu đoàn bộ binh 1, 83 đồng chí; Tiểu đoàn bộ binh 8, 96 đồng chí; Tiểu đoàn bộ binh 186, 200 đồng chí (tỉnh Lâm Đồng tăng cường); Đại đội 1 biên phòng có 30 đồng chí và lực lượng các đồn biên phòng 625 đến 641, bộ phận tiền phương 77 đồng chí; các phân đội binh chủng bố trí lại Đồn biên phòng 673, do đồng chí Nguyễn Chí Thành - Tham mưu trưởng và đồng chí Nguyễn Thảo Sinh - Tham mưu phó Tỉnh đội chỉ huy. Sử dụng đại đội dân quân cơ động thị xã Kon Tum truy quét trên hướng Ia Chiêm; đại đội dân quân thị xã Pleiku cùng 20 đồng chí của Tiểu đoàn bộ binh 1 truy quét phía tây nam Đồn biên phòng 653; dân quân huyện Chư Prông hoạt động ở ngoại biên.


Kết quả đợt 1 và đợt 2, ta phát hiện địch 14 lần, nổ súng đánh địch 12 lần; bộ đội đánh 4 trận, dân quân đánh 8 trận, có 2 trận phối hợp cùng công an; tiêu diệt tại chỗ 9 tên, bị thương 5 tên, bắt 4 tên, thu 6 súng các loại cùng nhiều tài liệu quan trọng.


Tiến công truy quét sào huyệt của địch, từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 1 năm 1985, bộ đội chủ lực Quân khu 5 phối hợp với lực lượng vũ trang nước bạn mở đợt tiến công "Mật danh K1" vào căn cứ hỗn hợp của 2 sư đoàn 801, 920 Pôn Pốt với trang ương FULRO và phỉ Lào ở khu vực ngã ba biên giới Lào - Thái Lan - Campuchia, chính diện từ 14 đến 16km, chiều sâu từ 10 đến 12km. Kết quả, ta đã làm chủ căn cứ, diệt 869 tên, bắt 238 tên, thu 4.406 súng các loại1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Biên niên sự kiện lực lượng vũ trang Quân khu 5 (1975 - 2000), năm 2008, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5, tr. 144).


Đợt 3, từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 30 tháng 6 năm 1985, sử dụng Tiểu đoàn bộ binh 186 truy quét trên địa bàn huyện Sa Thầy; Tiểu đoàn bộ binh 1 đảm nhiệm khu vực các xã Đắk Đoa, Kon Gang đến Hà Đông (phía nam Kon Tum); Tiểu đội trinh sát tỉnh hoạt động ở các xã Gla, Ia Pết, Ayun; Tiểu đoàn bộ binh 8 chuyển sang hoạt động trên địa bàn các huyện Chư Sê, Ayunpa, 1 đại đội bộ binh cùng dân quân huyện Chư Prông hoạt động ở hướng Ia Lâu (Chư Prông).


Rút kinh nghiệm đợt 1 và đợt 2, sang đợt 3 các đơn vị bộ đội tập trung của tỉnh phối hợp với bộ đội biên phòng, công an, lực lượng 03, các đội công tác và dân quân truy quét các tổ, toán FE, EHE của Quân khu 1, Quân khu 2 FURO, nhất là bọn cầm đầu ZG, GR. Kết quả, ta đánh 105 trận, loại 168 tên (tiêu diệt 40 tên, bức hàng 18 tên, về hàng 61 tên, bắt 49 tên), trong đó có 34 sĩ quan, thu 63 súng các loại; xóa sổ cơ quan chỉ huy tiền phương Quân khu 2 FULRO ở Mang Yang, diệt tên Trung tá Ama Hoàng - Phó Tư lệnh Quân khu, đánh thiệt hại các toán ZG24, ZG27 ở An Khê, ZG23 ở Pleiku, ZG25 ở Chư Sê, Chư Prông. Hướng Kon Tum, ta đánh ZG12, ZG16 và cơ quan chỉ huy Vùng 1, bắt tên Ybhiu Bu Ýa - Thiếu tá, Tư lệnh Vùng 1 cùng 7 tên đầu sỏ khác, tiêu diệt nhiều tên trong các nhóm FE, EHE. Ngày 27 tháng 7 năm 1985, ta đánh vào căn cứ Vùng 2 FULRO (phía nam núi Chư Prông), diệt 4 tên, thu 2 súng, cắt đứt sự chỉ đạo của chúng từ ngoài biên giới vào nội địa. Ngày 9 tháng 8, ta đánh toán AC, tiêu diệt tên Y Xite Ban - Trung tá, Toán trưởng. Ngày 10 tháng 9, ta tiến công toán FE, triệt phá căn cứ đứng chân của chúng, chặn đứng kế hoạch khai thông hành lang phía đông Gia Lai - Kon Tum từ An Khê đến Kon Plong xuống phía tây các tỉnh đồng bằng.


Tại Đắk Lắk, từ năm 1982 đến năm 1987, thực hiện sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, các lực lượng vũ trang đã chuyển hướng hoạt động nhỏ, lẻ và tinh gọn, hoạt động cả ở nội địa và ngoại biên, đánh trúng căn cứ "Tổng nha chiến lược" do Y Bluăt Ayun - Đại tá chỉ huy, diệt 3 tên, bắt 1 thiếu tá và diệt các tên Y Blim - Trưởng ZG37, Y Long - Trưởng ZG36... Lực lượng FULRO vũ trang từ 5.000 quân trước đó đến năm 1987 ở Đắk Lắk chỉ còn 28 tên hoạt động, vấn đề FULRO ở Đắk Lắk cơ bản được giải quyết xong1 (Tỉnh ủy Đắk Lắk (19B7), Báo cáo tổng kết 12 năm đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO ở Đắk Lắk, năm 1987, Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 12 Tháng Sáu, 2023, 07:23:21 am
Tại Lâm Đồng, tháng 8 năm 1985, được cơ sờ mật cung cấp tin tức, lực lượng vũ trang địa phương tổ chức một số trận đánh đạt kết quả. Ngày 17 tháng 8 năm 1985, tại xã Đạ Sa, huyện Đơn Dương, phát hiện lực lượng FULRO về làng, được cơ sở mật báo cáo, bí thư xã tổ chức lực lượng bao vây, vận động, ép hàng được 5 tên, trong đó có tên Thiếu tá Lômuos Tim - Tỉnh trưởng Nha Trang, thu 2 súng; ngày 22 tháng 8, tại xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà, được cơ sở mật báo cáo phát hiện toán FULRO ở Campchia về móc nối với gia đình, bí thư xã tổ chức già làng, công an, dân quân và gia đình tiến hành vận động gọi hàng 2 tên, sau đó sử dụng 2 tên này cùng với lực lượng của ta phục kích ép hàng thêm 2 tên, trong đó có tên Trung úy Bie Rla - Trưởng ban đường dây F34 (Quân khu 4 FULRO). Tiếp đến ngày 31 tháng 8 năm 1985, được cơ sở mật cung cấp tình hình và dân quân báo cáo có FULRO di chuyển qua Đường 27, Đại đội 810 hoạt động ở đông bắc Hòn Nga nổ súng đánh địch, diệt 3 tên. Phát huy kết quả thắng lợi của lực lượng vũ trang, ngày 29 tháng 8 năm 1985, nhân dân xã Đầm Ròn, huyện Lạc Dương gọi hàng được 5 tên, trong đó có 2 đại úy.


Trong năm 1986 đến cuối tháng 3 năm 1987, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, ta tổ chức truy quét mạnh, lực lượng FULRO bị loại 70 tên, trong đó các tỉnh bạn là Đắk Lắk, Gia Lai - Kon Tum, Đồng Nai phối hợp truy quét, diệt 10 tên. Ngày 17 tháng 7 năm 1986, dân quân xã Đạ Sa phối hợp với bộ đội địa phương huyện Đơn Dương truy quét, bắt 17 tên, gọi hàng 35 tên, thu một số vũ khí. Lực lượng FULRO nằm vùng, ta đã bóc gỡ 2 khung xã, 10 khung thôn, ấp, vô hiệu hóa 116 tên, xóa phiên hiệu ZG647. Đánh trúng và làm thiệt hại nặng lực lượng Quân khu 4, diệt chỉ huy đầu sỏ, giải quyết cơ bản xong toán chỉ huy "Bộ Quốc phòng" FULRO. Lực lượng FULRO ngoài rừng tiếp tục bị tiêu hao gần 60% quân số. Đến giữa năm 1986, FULRO ngoài rừng bị tê liệt, né tránh, sợ đụng độ với ta, đói rách, bệnh tật không còn khả năng hoạt động, ta có điều kiện tiếp tục bóc gỡ triệt để FULRO trong buôn, ấp.


Tại Thuận Hải, ngày 16 tháng 3 năm 1984, lực lượng vũ trang huyện Bắc Bình và huyện Ninh Phước phối hợp vây bắt toán FULRO, diệt tại chỗ 18 tên, trong đó có tên Bộ trưởng An ninh và tên Từ Thị Nhung - Chánh văn phòng "Chính phủ FULRO Chàm", thu 9 súng. Cùng thời gian này, bộ đội địa phương tỉnh phối hợp cùng dân quân truy quét đánh trúng căn cứ FULRO Chàm ở phía tây nam Phan Rang 18km, diệt 25 tên, buộc hàng 21 tên.


Tại Nghĩa Bình, trong 2 đợt truy quét FULRO, ta đều đặt công tác phát động quần chúng lên hàng đầu, kêu gọi được 55 tên và 200 cơ sở theo FULRO ra đầu thú. Ở huyện Hoài Sơn, ngày 10 tháng 3 năm 1980, khi đợt truy quét sắp kết thúc, còn tên ngoan cố trước đây là "Phó Ty sắc tộc ngụy" trốn trại cải tạo về Sơn Hà thành lập tổ chức FULRO, nhưng trước sự tiến công mạnh mẽ của phong trào quần chúng, hắn đã phải nhờ người thân trong gia đình đưa đến gặp chính quyền xin đầu hàng và nộp vũ khí. Ngày 25 tháng 8 năm 1984, huyện Vân Canh tổ chức cho 19 gia đình có 20 người thân theo FULRO gặp mặt tên Đoàn Văn Trực theo FULRO lên Gia Lai - Kon Tum bị ta bắt đưa về kiểm điểm trước dân, qua đó làm cho quần chúng nhân dân, gia đình có người thân theo FULRO và cơ sở ngầm hiểu rõ âm mưu thâm độc, nham hiểm cũng như tổ chức lừa mị của FULRO. Cuối tháng 12 năm 1985, quần chúng phát hiện và cung cấp về toán FULRO gồm 12 tên từ Gia Lai - Kon Tum xuống, lực lượng vũ trang phối hợp với quần chúng tiến công, vận động, kìm giữ và báo cáo cho chính quyền, công an tổ chức bao vây những tên ẩn nấp trong làng, trong rừng, buộc chúng phải ra đầu thú 7 tên, bắt gọn 5 tên ngoan cố.


Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương, các ban ngành đoàn thể, Bộ Nội vụ chỉ đạo công an các địa phương, sử dụng mạng lưới bí mật, tiến hành nhiều chuyên án, phát hiện chính xác các đối tượng cầm đầu, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tan rã của FULRO. Chuyên án T.107 - đấu tranh với bọn cầm đầu Quân khu 1 FULRO; T.108 - đấu tranh với bọn chỉ huy Quân khu 2; Y.384 - đấu tranh với toán đặc biệt của Bộ Quốc phòng FULRO; F.485 - đấu tranh với số chỉ huy Quân khu 4 và một bộ phận của Bộ Tổng Tham mưu FULRO do tên Đại tá Ênuôl M’Bôt và Trung tá Kra Jăn Ha Xuyên cầm đầu...


Công tác đấu tranh giải quyết FULRO từ năm 1977 đến năm 1987 đã thu được những thắng lợi rất quan trọng. Trong giai đoạn này, ta đã sớm giải quyết FULRO Chăm (từ giữa năm 1977). Trong quá trình phát động quần chúng truy quét, triệt phá, đấu tranh giải quyết FULRO ở vùng dân tộc Chăm, ta đã diệt, bắt và gọi hàng 577 đối tượng, làm tan rã 1.061 cơ sở, giải tán 1 tỉnh bộ, 4 quận, 12 xã, 24 ấp, chặn đứng âm mưu lập "Vùng chiến thuật 5" của FULRO Chăm. Ở Tây Nguyên, ta cơ bản đánh tan lực lượng vũ trang của FULRO Thượng ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, phá rã hệ thống tổ chức của chúng, ngăn chặn và hạn chế sự móc nối của FULRO với bên ngoài; xây dựng được cốt cán, chính quyền cơ sở trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đủ sức đối phó với các thủ đoạn chống phá của FULRO.


Có thể nhận thấy, công tác đấu tranh giải quyết FULRO trong giai đoạn này đã tạo được những chuyển biến cơ bản có ý nghĩa quyết định thắng lợi của toàn bộ cuộc phát động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO. Trước hết, thể hiện trong việc nhận thức và thi hành Chỉ thị số 04/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng trong các ngành, các cấp ngày càng thống nhất về quan điểm cũng như các chủ trương chính sách cụ thể. Việc phối kết hợp giữa công tác vận động chính trị trong xây dựng thực lực chính trị, phát triển kinh tế, xã hội trong vùng dân thiểu số với đấu tranh truy quét, triệt phá FULRO ngày càng đồng bộ, chặt chẽ. Biết kết hợp đúng đắn giữa công tác vận động quần chúng tiến công chính trị với tiến hành biện pháp trấn áp phù hợp, phát huy được sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự tan rã của FULRO. Biện pháp huy động cán bộ cùng các lực lượng thành lập các đội công tác, đứng chân ở các huyện, xã trọng điểm được tiến hành có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho quần chúng tiến công chính trị, vũ trang làm tan rã FULRO. Cùng với các mặt công tác đấu tranh truy quét, việc xây dựng thực lực chính trị, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, nhất là việc chăm lo đời của nhân dân đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm đẩy mạnh, đạt được những thành tựu rất quan trọng. Tuy nhiên, sau các đợt truy quét, một số tên đầu sỏ trong trung ương và Bộ Quốc phòng FULRO chạy sang Campuchia, một số đã di chuyển sang nước thứ ba (chủ yếu là Mỹ, Thái Lan, Philippin), chúng còn có căn cứ trên đất Thái Lan, Campuchia và lực lượng bên trong nội địa. Tuy không còn xảy ra hoạt động vũ trang, nhưng chúng vẫn có sự chỉ đạo và liên hệ với số đầu sỏ lưu vong ở nước ngoài kích động tư tưởng đòi ly khai, tự trị trong vùng dân tộc thiểu số. Mặt khác, điều kiện kinh tế, xã hội và thực lực chính trị của ta ở vùng Tây Nguyên còn nhiều mặt hạn chế, là chỗ để FULRO và các thế lực phản động lợi dụng chống phá. Vì vậy, đặt ra yêu cầu mới cho cuộc đấu tranh giải quyết FULRO là phải nỗ lực rất cao trong củng cố xây dựng thực lực chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, làm cho nhân dân vùng dân tộc thiểu số tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, từ đó FULRO không còn chỗ dựa trong dân, không còn những điều kiện để tồn tại hoạt động chống phá, làm tan rã hoàn toàn FULRO cả về tổ chức và lực lượng.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:02:54 am
III. PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN TÂY NGUYÊN, ĐẤU TRANH LÀM TAN RÃ HOÀN TOÀN FULRO (1988 - 1992)

1. Tổ chức, hoạt động của FULRO

Năm 1987 - 1988, ngoài bộ phận đã đi Mỹ, FULRO vẫn còn lực lượng ở Campuchia, chủ yếu là Bộ Quốc phòng và Bộ Chỉ huy Quân khu 2 và Quân khu 3, do tên Thiếu tướng Paul Yưh cầm đầu, với tổng số quân khoảng 165 tên, chia làm 2 cụm đóng ở Mondulkiri và Ratanakiri (Campuchia). FULRO trong nội địa tiếp tục bị đánh tan rã, lực lượng chỉ còn 109 tên với bộ khung của Quân khu 1 và 5 toán ZG, tổ chức phân tán thành 14 toán, trong đó Lâm Đồng 1 toán có 7 tên, Thuận Hải 1 toán có 3 đến 5 tên, Đắk Lắk 4 toán gồm 20 tên, Gia Lai - Kon Tum 8 toán gồm 77 tên1 (Tổng kết công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULR0 và xây dựng toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, tháng 3 năm 1988, Phông số 391/pg, Văn phòng Chính phủ). Những toán này thường hoạt động di chuyển lấy tiếp tế ở một số xã thuộc các huyện Di Linh, Đức Trọng của Lâm Đồng; Ninh Sơn của Thuận Hải; Krông Búk, Krông Pách tỉnh Đắk Lắk; Mang Yang, Chư Sê của Gia Lai - Kon Tum. Đến năm 1989, trước diễn biến mới của tình hình Campuchia, Bộ Quốc phòng FULRO chủ trương đưa lực lượng về nước khi có giải pháp chính trị ở Campuchia. Do đó, chúng đã đưa một số toán về địa bàn các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai - Kon Tum (khoảng 65 tên) để khảo sát tìm địa bàn lập mật cứ.


Từ năm 1986 đến năm 1991, FULRO đã gây ra gần 100 vụ, làm chết và bị thương 15 người (trong đó có 2 bộ đội, 3 dân quân), các vụ đều mang tính chất nhỏ lẻ. Các tỉnh trên địa bàn đã chỉ đạo toàn bộ hệ thống chính trị, nòng cốt là lực lượng vũ trang, bám sát địa bàn trọng điểm để tuyên truyền giáo dục, phát động quần chúng tổ chức bóc gỡ các cơ sở FULRO ngầm.


Trong thời gian này, FULRO chủ trương đẩy mạnh hoạt động trên 3 lĩnh vực: Tình báo chiến, du kích chiến và tâm lý chiến. Chúng tiếp tục tuyên truyền FULRO được Mỹ, Thái Lan và Vàng Pao ủng hộ, giúp đỡ; FULRO liên minh với các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài. Chúng lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta trong thực hành chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo để kích động, lôi kéo quần chúng, chia rẽ đồng bào dân tộc với người Kinh, Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang. FULRO vẫn phân tán thành những toán nhỏ từ 3 đến 5 tên, hết sức tránh đụng độ với ta để bảo toàn lực lượng và tăng cường bám dân, đột nhập vào buôn ấp để tuyên truyền gây thanh thế, xây dựng cơ sở ngầm, khống chế cán bộ cơ sở, lấy tiếp tế, chặn dân cướp lương thực.


Từ năm 1990, FULRO tiếp tục bị suy yếu, liên lạc bị cắt đứt. Trong nội địa chỉ còn vài chục tên hoạt động nhỏ lẻ ở Đắk Lắk, Gia Lai. Sau thắng lợi của Chuyên án F.990, số chỉ huy, cầm đầu bị ta bắt gọn, số còn lại phải chạy sang ẩn náu ở Campuchia.


Năm 1991 - 1992, những cố gắng cuối cùng của FULRO để liên lạc móc nối, phối hợp trong ngoài bị thất bại, tổ chức, lực lượng bị tan rã, số cầm đầu FULRO và tay chân cùng thân nhân, gia đình khoảng vài trăm người ẩn náu tại Mondulkiri (Campuchia), không được tổ chức quốc tế, quốc gia nào hỗ trợ, lâm vào cảnh đường cùng, thiếu đói, bệnh tật bế tắc, đã liên lạc với Chính phủ Campuchia và lực lượng UNTAC để được đi nước thứ ba. Với sự chấp thuận của Mỹ và UNTAC, đến tháng 12 năm 1992, toàn bộ số FULRO còn lại (gồm 107 người cả phụ nữ và trẻ em) do Đại tá Y Pênh A Yun cầm đầu đã ra hàng UNTAC, tuyên bố chấm dứt hoạt động chính trị và vũ trang, nộp vũ khí và được đi Mỹ định cư.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:03:43 am
2. Chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đấu tranh giải quyết FULRO

Tháng 3 năm 1988, tại Đà Lạt, Hội đồng Bộ trưởng tổ chức Hội nghị tổng kết 12 năm đấu tranh giải quyết FULRO và 10 năm thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TW của Bộ Chính trị nhằm đánh giá kết quả đạt được trên các mặt và vạch ra phương hướng tiếp tục đi đến giải quyết dứt điểm vấn đề FULRO ở Tây Nguyên. Hội nghị khẳng định: "Kết quả đạt được cho đến nay ta đã giành được thắng lợi rất to lớn trong việc giải quyết vấn đề FULRO, cùng với kết quả to lớn trong xây dựng phát triển các mặt kinh tế, văn hóa - xã hội, xây dựng lực lượng..., ta đã tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng vũ trang của chúng, loại trừ các hoạt động vũ trang và gây rối của FULRO, ổn định cơ bản tình hình an ninh chính trị ở Tây Nguyên"1 (Tổng kết công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO và xây dựng toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, Tlđd). Thời gian này, cùng với triển khai thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 72-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng; Chỉ thị số 121-CT/TW "Về công tác đối với đồng bào Chăm"...; Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo nghiên cứu, khảo sát đánh giá toàn diện vùng Tây Nguyên để hoạch định chiến lược phát triển khu vực này bằng các chương trình Tây Nguyên để hoạch do Chính phủ chủ trì.


Thực hiện các chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang đã tham mưu cho cấp ủy Đàng, chính quyền địa phương chỉ đạo và trực tiếp tham gia cùng các ban, ngành, lực lượng khác tiếp tục đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên. Trong 2 ngày 9 và 10 tháng 12 năm 1988, tại Binh đoàn 15, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 tổ chức Hội nghị chuyên đề về giải quyết FULRO, tham dự hội nghị có bí thư tỉnh ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, giám đốc công an, chỉ huy trưởng và phó chỉ huy về chính trị bộ chỉ huy quân sự tỉnh, trưởng ban tác chiến, trưởng ban dân quân tự vệ các tỉnh Tây Nguyên, một số chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự các huyện, các đơn vị làm kinh tế trên địa bàn, Binh đoàn 15, Quân đoàn 3 Bộ Quốc phòng và chỉ huy trưởng bộ chỉ huy quân sự các tỉnh đồng bằng (Quảng Nam - Đà Nang, Nghĩa Bình, Phú Yên, Khánh Hòa, Thuận Hải). Hội nghị bàn sâu về biện pháp phát động quần chúng để nắm bắt và kịp thời phát hiện hoạt động của FULRO, làm công tác dân vận và xây dựng lực lượng dân quân tại chỗ mạnh.


Nhằm cụ thể hóa việc đấu tranh giải quyết FULRO một cách triệt để, trong các ngày 26 và 27 tháng 6 năm 1992, tại Đắk Lắk, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 tổ chức hội nghị chuyên đề về xây dựng dân quân tự vệ mạnh ở các công, nông, lâm trường, xí nghiệp ở Tây Nguyên. Đại biểu tham dự gồm giám đốc các nông trường cà phê công ty cao su, các đoàn kinh tế quân đội. Hội nghị xác định rõ vi trí chiến lược của Tây Nguyên và vai trò của dân quân tự vệ của các công, nông, lâm trường, xí nghiệp trên địa bàn tham gia công tác chính sách dân tộc của Đảng.


Lực lượng vũ trang đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo và trực tiếp tham gia cùng các ban ngành, lực lượng khác thực hiện các chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, quá trình tiến hành chưa được thường xuyên liên tục. Nhiều nơi vẫn còn tình trạng khoán trắng cho quân đội và công an. Những khó khăn bức xúc về đời sống kinh tế, y tế, giáo dục chưa được quan tâm đầu tư giải quyết đúng mức. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở vùng dân tộc còn nhiều vướng mắc chưa được giải quyết. Đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu kém... Do đó, FULRO vẫn có điều kiện để tuyên truyền lừa bịp, lôi kéo một bộ phận quần chúng.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:04:38 am
3. Hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO

Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, công tác phát động quần chúng đấu tranh truy quét, triệt phá, giải quyết FULRO tiếp tục được đẩy mạnh ở các địa phương. Đến cuối năm 1987, Tây Nguyên đã có 6.361 cán bộ là người dân tộc tại chỗ tham gia quản lý chính quyền các cấp, trong đó có 2.552 người giữ cương vị chủ chốt là bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch. Đặc biệt, qua bồi dưỡng, thử thách, ta đã kết nạp được 3.833 trong số tổng 8.743 đảng viên là người dân tộc; xây dựng được 109.000 dân quân tự vệ là người dân tộc tại chỗ; hầu hết lực lượng vũ trang các xã đã từng bước tự đảm nhiệm đánh địch bảo vệ buôn làng, điển hình là các xã: Cuôr Đăng, Ea Đrông, Cư Yút, Ea Kar... ở Đắk Lắk; Pô Kô, Sa Bình, Át Ra, Ia Le... ở Gia Lai - Kon Tum; Đam Rông, Đạ Sar, K’Đo, Đinh Văn... ở Lâm Đồng. Ta cũng giải quyết cơ bản lực lượng vũ trang ngoài rừng của FULRO, nhất là ở Lâm Đồng.


Đến tháng 3 năm 1988, các địa phương đã huy động được 51.973 lượt cán bộ quân đội, công an thành lập 90 đội công tác, tiến hành phát động quần chúng, củng cố xây dựng thực lực chính trị ở 840 lượt xã trọng điểm, bóc gỡ 61.301 cơ sở của FULRO nằm vùng, làm sạch nội bộ, củng cố tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở 803 xã trọng điểm.


Phong trào định canh, định cư của toàn Tây Nguyên đã có 9 huyện, 210 xã hoàn thành, với 865.981 khẩu và 90.887 hộ, chiếm 71%; khai hoang được 102.996ha đất canh tác, trong đó có 25.496ha ruộng nước, xây 251 công trình thủy lợi, tưới cho 8.960ha ruộng 2 vụ, xây dựng 100 hợp tác xã nông nghiệp và 1.000 tập đoàn sản xuất trong vùng dân tộc. Đặc biệt, có sự đóng góp của các nông, lâm trường đã góp phần ổn định đời sống đồng bào dân tộc, qua đó nhân dân các dân tộc ngày càng hiểu rõ chính sách dân tộc của Đảng, ra sức xây dựng cuộc sống mới, làm cho FULRO mất chỗ dựa trong dân.


Theo báo cáo tổng kết của ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum, tính đến năm 1988, tỉnh đã bóc gõ 26.804 cơ sở ngầm, có 1.568 tên cầm đầu FULRO các toán, xóa 45 khung chính quyền mật của chúng ở các xã, 288 khung cấp thôn 7 khung tiểu đoàn nằm trong các làng, phá 4 hầm bí mật ngoài rừng. Ta đã củng cố hệ thống chính trị ở 196 xã trong các huyện, thị, đưa ra khỏi bộ máy các đối tượng có dính líu đến FULRO. Lực lượng vũ trang tỉnh đã đánh 459 trận, làm tan rã 983 tên, diệt 421 tên, bắt 673 tên (có nhiều tên cầm đầu), gọi hàng 369 tên; thu 1.039 súng các loại, 27.170 viên đạn, 440 quả mìn và lựu đạn, 7 súng cối, 2.160 quả đạn M79, 16 hộp thuốc nổ, 1 máy thông tin và nhiều tài liệu.


Trong các năm từ 1988 đến 1992, cùng với lực lượng quân đội, lực lượng công an tiếp tục đẩy mạnh các công tác, biện pháp nghiệp vụ đấu tranh bóc gõ FULRO. Chuyên án T.108 đấu tranh với tổ chức và hoạt động của Quân khu 2 FULRO kết thúc thắng lợi. Sau một thời gian đấu tranh gian khổ, đến năm 1990, ta đánh rã hệ thống tổ chức của FULRO ở vùng này, đánh bật bọn chỉ huy ra khỏi địa bàn, không cho chúng thực hiện âm mưu biến Gia Lai thành địa bàn chiến lược lập căn cứ trong nội địa và tạo cơ sở trong dân để chống phá cách mạng lâu dài; cắt đứt đường liên lạc chỉ đạo của trung ương FULRO và Bộ Chỉ huy Quân khu 2 FULRO với các ZG và các toán trong nội địa. Đồng thời, ta bóc gỡ gần 1.000 cơ sở FULRO trong dân với 18 khung chính quyền ngầm cấp xã, hàng trăm khung chính quyền cấp thôn; đẩy mạnh phong trào quần chúng ở 50 xã trọng điểm thuộc 7 huyện.


Theo chỉ đạo của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Cụm II - cụm phản gián Tây Nguyên đã phối hợp với lực lượng an ninh các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai - Kon Tum, xác lập đấu tranh Chuyên án F.990. Với tinh thần mưu tri, dũng cảm, bằng các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, ta đã bắt gọn toàn bộ toán chỉ huy Quân khu 1 và Quân khu 2 còn lại của FULRO trong nội địa gồm 14 tên, trong đó có tên tham mưu trưởng quân khu, cùng 6 đối tượng khác là trưởng, phó các ZG. Sau thất bại này, toàn bộ FULRO ngoài rừng còn lại buộc phải chạy sang Campuchia. Đến cuối năm 1992, những cố gắng cuối cùng của FULRO để liên lạc, móc nối, phối hợp trong ngoài bị thất bại, tổ chức, lực lượng bị tan rã.


Sau 17 năm (1975 - 1992) đấu tranh dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước với tinh thần quyết tâm và kiên trì đấu tranh, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận đã làm tan rã hoàn toàn tổ chức, lực lượng FULRO cũng như âm mưu lợi dụng vấn đề FULRO của các thế lực thù địch để chống phá chính quyền cách mạng, chia rẽ đoàn kết dân tộc.


Trong 2 năm 1975 - 1976, lợi dụng sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn và tình hình chưa ổn định sau ngày giải phóng, FULRO đồng loạt nổi lên vũ trang chống phá ta ở cả Tây Nguyên và vùng dân tộc Chăm. Trước tình hình đó ta chủ trương dùng lực lượng quân sự gồm cả bộ đội chủ lực của Bộ, các quân khu 5, 6 và lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh, huyện mở các chiến dịch truy quét FULRO. Quy mô sử dụng lực lượng cấp tiểu đoàn đến trung đoan tiến công vào các khu vực, mục tiêu trọng điểm, như tại Sở Trà 12 của Khu 6 (6.1975), Chiến dịch Z10 của Tỉnh đội Gia Lai, các đợt truy quét của Quân khu 5 (1976)... Các chiến dịch, đợt truy quét trong giai đoạn này đã đạt được kết quả, đẩy lùi một bước vũ trang chống phá của FULRO. Tuy nhiên, biện pháp quân sự đơn thuần hiệu quả giải quyết FULRO thấp, tình hình tiếp tục diễn biến phức tạp, gây cho ta nhiều khó khăn.


Giai đoạn 1977 - 1992, sau khi có Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư (2.1977) "Về tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ", phương pháp đấu tranh giải quyết FULRO được xác định phù hợp với tình hình, kết hợp đánh địch với phát động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng, lấy phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị làm chính, đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống đồng bào dân tộc. Theo đó, các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận tổ chức ra hàng trăm tổ, đội công tác xuống địa bàn đứng chân tại các điểm dân cư làm nhiệm vụ phát động quần chúng, xây dựng thực lực chính trị cơ sở; các đơn vị bộ đội chủ lực của Quân khu 5, Bộ Quốc phòng đứng chân trên địa bàn (Sư đoàn 320, Sư đoàn 10, Trung đoàn 29...) làm nhiệm vụ truy quét cũng tổ chức ra nhiều tổ công tác bám sát điểm dân cư, phát động quần chúng. Phương thức tác chiến trong giai đoạn này có phát triển mới là sử dụng lực lượng ít, tinh gọn, lót phục, bí mật phục kích, tập kích, khi phát hiện địch thỉ dùng lực lượng lớn, đủ bao vây tiêu diệt kết hợp gọi hàng, truy quét diệt và bắt gọn; mục tiêu truy quét chủ yếu là bọn đầu sỏ và lực lượng vũ trang FULRO tập trung. Xác định phương pháp, mục tiêu đúng, hoạt động truy quét của lực lượng vũ trang trong giai đoạn này dã có những đóng góp lớn trong việc làm tan rã lực lượng vũ trang FULRO ngoài rừng, hỗ trợ cho phát động quần chúng bóc gỡ cơ sở FULRO trong dân, xây dựng thực lực cách mạng cơ sở, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc.


Trong cuộc đấu tranh này ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên FULRO, bóc gỡ hàng trăm khung chính quyền ngầm, hàng vạn cơ sở của FULRO trong các buôn ấp; thu hàng nghìn vũ khí, trang bị các loại. FULRO được giải quyết bằng cuộc cách mạng toàn diện, triệt để trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... chúng không còn tồn tại với tư cách một tổ chức, một lực lượng chính trị phản động, đe dọa trực tiếp tới an ninh quốc gia ở địa bàn chiến lược Tây Nguyên và vùng dân tộc Chăm.


Thắng lợi này đã nâng cao chất lượng cuộc sống đồng bào, xây dựng cơ sở chính trí ổn định vững mạnh, tạo điều kiện để phát triển toàn diện Tây Nguyên và vùng phụ cận. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn, củng cố lòng tin của nhân dân các dân tộc với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, khối đại đoàn kết dân tộc được tăng lên.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:47:20 am
Phần thứ ba
ƯU ĐIỂM, KHUYẾT ĐIỂM,
NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM


I. ƯU ĐIỂM, KHUYẾT ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN

1. Ưu điểm và nguyên nhân

a) Ưu điểm

* Đảng đã nhạy bén đề ra chủ trương và từng bước bổ sung phát triển chủ trương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh giải quyết FULRO

Sau ngày miền Nam giải phóng, FULRO tập hợp lực lượng chống lại chính quyền cách mạng, tiến hành vũ trang bạo động ở nhiều nơi. Các cấp ủy, chính quyền ở miền Nam đã nhanh chóng xác định đối tượng của cách mạng, sử dụng lực lượng vũ trang tiến hành trấn áp, triệt phá FULRO. Tuy nhiên, 2 năm đầu (1975 - 1977), kết quả không như mong muốn, FULRO khoét sâu sự mơ hồ về cách mạng trong đồng bào, chính quyền nhiều nơi bị tê liệt và vô hiệu hóa, nhiều cán bộ, đảng viên làm việc hai mặt cho địch, nhiều vùng căn cứ cách mạng ở Tây Nguyên và phụ cận đã trở thành căn cứ của FULRO.


Bằng bản lĩnh, trí tuệ của mình, Đảng đã nhanh chóng đề ra chủ trương đường lối đấu tranh giải quyết FULRO, lãnh đạo toàn hệ thống chính trị Tây Nguyên và vùng phụ cận bằng Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư (2.2.1977) "Về tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ". Từ đây, hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO chuyển sang một trang mới, từ vấn đề quân sự sang vấn đề chính trị, mang lại hiệu quả quyết định. Sau Chỉ thị số 04, hàng loạt các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, nhiều văn bản về đấu tranh truy quét, triệt phá, giải quyết FULRO, phát triển kinh tế, xã hội vùng Tây Nguyên và phụ cận được ban hành, từng bước hoàn chỉnh, cụ thể hóa, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đấu tranh giải quyết FULRO.


Quán triệt chủ trương của Đảng, quân và dân các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận đã mưu trí, dũng cảm, kiên trì đấu tranh bằng sức mạnh tổng hợp đã làm thay da đổi thịt đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương, đồng thời vấn đề FULRO được giải quyết ổn thỏa. Có thể thấy, sau 17 năm (1975 - 1992), với những chủ trương, biện pháp linh hoạt, sáng tạo, kiên quyết của Đảng, Nhà nước, vấn đề FULRO ở Tây Nguyên và vùng phụ cận đã được giải quyết, đưa lại những kết quả hết sức quan trọng cho địa bàn chiến lược này và cho cả nước. Như vậy, trước âm mưu thủ đoạn chống phá của FULRO và các thế lực phản động, cùng với tình hình trong nước và khu vực có những thay đổi, Đảng ta đã nhanh nhạy đề ra quyết sách kịp thời để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đi đến thắng lợi, làm tan rã tổ chức của chúng, đồng thời làm thay đổi căn bản, toàn diện khu vực Tây Nguyên.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:48:05 am
* Đánh giá, nhận định đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn hoạt động của FULRO, cơ sở để có biện pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả.

FULRO là một tổ chức phản động có vũ trang, hình thành từ chính sách "chia để trị" của thực dân Pháp; sau khi đế quốc Mỹ nhảy vào thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta, chúng tiếp tục lợi dụng vấn đề dân tộc ít người hậu thuẫn cho FULRO để gây sức ép, điều khiển chính quyền tay sai Sài Gòn. Sau khi Hiệp định Pari được ký kết (27.1.1973), âm mưu của Mỹ càng bộc lộ rõ, chúng gây dựng FULRO thành một tổ chức phản động có "chính phủ" và "quân đội" riêng để chống phá lâu dài cách mạng Việt Nam. Thực hiện kế hoạch hậu chiến của Mỹ và được các thế lực phản động quốc tế nuôi dưỡng, kích động, sau khi ta giải phóng miền Nam (30.4.1975), FULRO nổi lên chống phá quyết liệt chính quyền cách mạng trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, vùng đồng bào Chăm ở các tỉnh phụ cận. Mục tiêu của chúng là lợi dụng vấn đề dân tộc, kích động tư tưởng "ly khai", "tự trị", đòi lập "quốc gia riêng" của người dân tộc thiểu số, phá khối đại đoàn kết các dân tộc, làm suy yếu phong trào cách mạng Việt Nam.


Trước những hoạt động hết sức nguy hiểm của FULRO, Đảng và Nhà nước đã kịp thời đánh giá, nhận định đúng sự tiếp tay của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động, những kẻ cầm đầu FULRO đã "lợi dụng chiêu bài dân tộc, lừa gạt được một số đồng bào dân tộc ít người và đã lợi dụng tôn giáo, thần quyền mê hoặc, khống chế quần chúng, gây bạo loạn, phá rối an ninh chính trị, chống lại cách mạng"1 (Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 của Ban Bí thư Trung ương Đàng "Về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ"). Trên cơ sở nhận định đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn hoạt động của FULRO, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương cùng các lực lượng vũ trang trong đấu tranh, truy quét FULRO phải gắn liền với việc tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, gắn liền với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên; trong đó, phải tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, phù hợp với đặc điểm từng vùng dân tộc và tiến hành một cách cấp bách, cơ bản, lâu dài, vững chắc, lấy biện pháp đấu tranh chính trị là chủ yếu.


Dưới sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương, từ năm 1977 trở đi, các địa phương đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải quyết FULRO một cách toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa chính trị với quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, khôn khéo trong đấu tranh chống các tổ chức phản động, kiên trì tuyên truyền, giáo dục, cải tạo số FULRO bị bắt, ra hàng, làm phân hóa hàng ngũ địch, đồng thời kiên quyết tiêu diệt các đối tượng đầu sỏ ngoan cố có vũ trang. Mặt khác, cấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở tăng cường giúp dân đẩy mạnh sản xuất, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền bình đẳng, xây dựng tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, điều đó đã góp phần tạo ra những chuyển biến căn bản, từng bước nâng cao hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Nhờ có chủ trương đúng và kiên trì tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh, nên đến năm 1988, về cơ bản ta đã tạo được lòng tin của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước, đời sống đồng bào được nâng lên, các mặt kinh tế, văn hóa - xã hội có sự thay đổi đáng kể, tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững, phong trào định canh, định cư, phát triển kinh tế vườn của từng hộ gia đình đạt được những kết quả đáng khích lệ; những kết quả trên đã thu hẹp ảnh hưởng của FULRO, tách FULRO ra khỏi đời sống chính trị của đồng bào dân tộc ít người, cô lập từng nhóm FULRO, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang đấu tranh làm tan rã phần lớn lực lượng vũ trang FULRO, đưa cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đạt được những kết quả vững chắc.


Thông qua tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh giải quyết FULRO, các địa phương và các lực lượng vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp trinh sát, nắm chắc tình hình các đối tượng FULRO tại địa phương; chú trọng thu thập, sàng lọc tin tức do quần chúng cung cấp, kết hợp chặt chẽ với các biện pháp trinh sát nghiệp vụ của lực lượng công an, quân đội và quản lý hành chính của địa phương.


Việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp trinh sát nắm địch phù hợp với đặc điểm vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã giúp ta nắm tình hình hoạt động của FULRO ngày càng rõ hơn, từ đó chỉ đạo các lực lượng vận dụng phù hợp biện pháp đấu tranh với từng đối tượng FULRO, kiên trì cảm hóa, thuyết phục, gọi hàng, đồng thời kiên quyết sử dụng lực lượng vũ trang phù hợp để trấn áp, tiêu diệt những phần tử ngoan cố, có nhiều tội ác với quần chúng nhân dân, làm cho đồng bào các dân tộc càng thêm tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như vậy, việc đánh giá, nhận định đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn hoạt động của FULRO là cơ sở để sử dụng biện pháp đấu tranh giải quyết FULRO phù hợp, hiệu quả.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:48:55 am
* Kết hợp chặt chẽ biện pháp đấu tranh chính trị với biện pháp quần sự, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu

Nhận rõ bản chất của FULRO chủ yếu là vấn đề chính trị, nên trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, Đảng và Nhà nước ta xác định: "Vấn đề FULRO không phải đơn thuần là vấn đề quân sự mà chủ yếu là vấn đề chính trị"1 (Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 của Ban Bí thư Trung ương Đàng "Về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trí, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ"), do đó phải tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa tiến công chính trị với tiến công quân sự, lấy tiến công chính trị là chủ yếu. Thực tiễn cuộc đấu tranh giải quyết FULRO cho thấy, biện pháp đấu tranh quân sự của ta đã đánh tan lực lượng quân sự của FULRO, nhưng chưa đủ để giải quyết mặt chủ yếu là vấn đề chính trị, chúng vẫn dựa được vào đồng bào các dân tộc thiểu số để khôi phục lực lượng và hoạt động; điều này chỉ có thể giải quyết được cơ bản thông qua đấu tranh chính trị. Với các hình thức đấu tranh chính trị phong phú, quân và dân trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, vùng đồng bào Chăm đã vạch trần bản chất phản động, làm tay sai cho các thế lực phản cách mạng và tách được quần chúng khỏi ảnh hưởng và sự ràng buộc của FULRO. Đồng thời, qua đó tác động mạnh tới nội bộ, tạo sự phân hóa hàng ngũ, cô lập bọn đầu sỏ, chỉ huy FULRO ngoan cố, góp phần thúc đẩy sự đầu hàng, đầu thú của chúng, tạo điều kiện để ta thực hiện tốt chính sách khoan hồng, làm cho đồng bào thấy rõ tính nhân đạo và tính ưu việt của chế độ mới, xây dựng lòng tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước. Đi đôi với các biện pháp đấu tranh chính trị, để giải tỏa sự khống chế quần chúng của FULRO, ta đã sử dụng lực lượng vũ trang có quy mô phù hợp, kịp thời trấn áp đúng lúc, đúng đối tượng gây tội ác, vô hiệu hóa hoạt động vũ trang của FULRO, hỗ trợ và phát huy hiệu quả biện pháp đấu tranh chính trị. Như vậy, biện pháp đấu tranh vũ trang là một nội dung của biện pháp đấu tranh chính trị và thực sự có hiệu quả khi phục vụ mục đích chính trị, tác động cùng chiều, hỗ trợ tích cực cho biện pháp đấu tranh chính trị. Chính vì vậy, việc kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, lấy tiến công chính trị là chủ yếu, làm cho nhân dân các dân tộc thay đổi nhận thức, nâng cao giác ngộ chính trị, phân biệt rõ địch, ta, gắn liền với việc giải quyết thỏa đáng những nhu cầu chính đáng, nguyện vọng của đồng bào, từng bước cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số là một nội dung quan trọng đóng góp vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


* Kiên trì và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, phát động toàn dân tham gia xây dựng cơ sở chính trị ngày càng vững mạnh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO

Đấu tranh giải quyết FULRO ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm (1975 - 1992) thực chất là một cuộc đấu tranh giành dân giữa ta và địch. Nhìn nhận rõ vấn đề mấu chốt trên, Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các lực lượng quân đội, công an, các ban, ngành, đoàn thể ở cả Trung ương và địa phương tham gia cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, phát động toàn dân đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, củng cố hệ thống chính quyền ngày càng vững mạnh nhằm từng bước đưa cuộc đấu tranh tới thắng lợi cuối cùng. Trong suốt quá trình tiến hành công tác vận động quần chúng, ta đã từng bước làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu và tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực trong lao động sản xuất, cải thiện đời sống, đẩy lùi đói nghèo, dịch bệnh; quyền làm chủ và bình đẳng giữa các dân tộc, nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào được tôn trọng; văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục được chăm lo và có sự phát triển phong phú. Đồng thời qua công tác vận động quần chúng, ta đã vạch trần bộ mặt phản động, thủ đoạn chống phá cách mạng của FULRO, do vậy đã tách được chúng ra khỏi các buôn làng, cô lập và từng bước làm suy yếu, thúc đẩy sự tan rã của tổ chức FULRO.


Nhờ có sự kiên trì trong công tác vận động quần chúng, ta đã kịp thời nắm bắt được tâm lý xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng ở từng vùng đồng bào dân tộc, phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc của FULRO; qua đó điều chỉnh chính sách phù hợp với thực tiễn đồng bào dân tộc, góp phần tăng cường, củng cố hệ thống chính trị cơ sở ngày càng vững chắc, nâng cao hiệu quả toàn diện của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


* Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), đời sống vật chất, chính trị tinh thần, văn hóa - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn Tây Nguyên, vùng Chăm so với các vùng khác còn thấp, tình trạng thiếu ăn, thiếu mặc, đói rách, mù chữ, dịch bệnh, mê tín dị đoan xảy ra triền miên, kéo dài, FULRO đã lợi dụng những hạn chế, yếu kém trên để lừa bịp, mê hoặc, khống chế, ép buộc đồng bào các dân tộc đòi "ly khai", "tự trị", chống phá cách mạng. Chính vì vậy, việc chăm lo đẩy mạnh sản xuất nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc vừa là công việc cấp bách, vừa là trách nhiệm của cách mạng và là một công tác cơ bản, lâu dài, khó khăn, phức tạp, nhằm đảm bảo đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển, góp phần xóa bỏ tư tưởng mặc cảm, tự ti, tạo điều kiện phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên. Trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, cùng với các biện pháp đấu tranh chính trị quân sự, ta đã gắn liền với việc chăm lo phát triển nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh sản xuất theo hướng định canh, định cư, phát triển kinh tế vườn, kinh tế hộ gia đình kết hợp chặt chẽ với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, góp phần tăng thu nhập cho đồng bào các dân tộc cải thiện đời sống nhân dân.


Thông qua việc kiên trì chăm lo nâng cao đời sống vật chất, chính trị tinh thần cho đồng bào, các mặt kinh tế, văn hóa - xã hội được cải thiện, quyền bình đẳng giữa các dân tộc được phát huy, đã tạo ra sự ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội đưực giữ vững, quần chúng nhân dân tin tưởng vào chế độ mới, tích cực tham gia đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc của FULRO, nhiều gia đình tự giác đi tìm người thân, vận động con em mình trở về với buôn làng xây dựng cuộc sống mới. Nhờ thực hiện tốt chính sách xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào các dân tộc thiểu số, nên trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO ta đã tranh thủ được tiếng nói của những người có uy tín và số FULRO đã ra hàng cùng tham gia công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, giác ngộ chính trị cho quần chúng, làm cho quần chúng hiểu rõ chính sách dân tộc của Đảng, họ đã tự giác, tích cực tham gia vào các phong trào cách mạng, củng cố thực lực chính trị cơ sở tại địa phương, từng bước phát huy được sức mạnh tổng hợp, tạo điều kiện cần thiết để chính đồng bào các dân tộc thiểu số trực tiếp quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:49:24 am
* Thực hiện tốt chính sách khoan hồng gắn liền với biện pháp trấn áp phản cách mạng và phát động phong trào quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO

Thực hiện chính sách khoan hồng cho các đối tượng lầm đường lạc lối tham gia tổ chức FULRO là sự tiếp nối truyền thống nhân đạo của dân tộc và của Đảng ta, thể hiện tính chính nghĩa, bản chất tốt đẹp của chế độ mới. Trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền các địa phương, lực lượng quân đội, công an cùng các lực lượng khác đã quán triệt và thực hiện tốt chính sách khoan hồng của Đảng, trực tiếp thuyết phục, cảm hóa, giáo dục, quản lý và tạo điều kiện cho các đối tượng FULRO bị bắt gọi hàng quay về với cách mạng, với buôn làng, giúp đd họ xây dựng cuộc sống mới; qua đó làm phân hóa hàng ngũ các đối tượng đầu sỏ, chỉ huy, làm rối loạn nội bộ tổ chức FULRO; đồng thời, thông qua việc khoan hồng ta đã động viên các đối tượng FULRO bị bắt, đầu hàng, đầu thú cùng tham gia công tác vận động quần chúng, họ trực tiếp nói lên sự thật, vạch trần bản chất phản động và những tội ác của FULRO, làm cho quần chúng nhân dân thấy rõ bộ mặt thật và những thủ đoạn phá hoại của FULRO. Thực hiện chính sách khoan hồng của Đảng đã trở thành một nội dung quan trọng, một vũ khí sắc bén trong đấu tranh giải quyết FULRO.


Với việc thực hiện chính sách khoan hồng rộng rãi, ta đã chứng minh bản chất tốt đẹp của chế độ mới, làm cho đồng bào thấy rõ tính ưu việt cả trên lời nói và việc làm cụ thể, xóa bỏ tư tưởng kỳ thị, hận thù dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kếl giữa các dân tộc; do vậy, thực hiện chính sách khoan hồng là một nội dung quan trọng, hướng tiến công hiệu quả của biện pháp đấu tranh chính trị, làm suy yếu cả về tư tưởng, tổ chức và lực lượng, thúc đẩy nhanh sự tan rã toàn diện của tổ chức FULRO. Từ thực hiện chính sách khoan hồng, đối xử nhân đạo với các đối tượng FULRO và cả với thân nhân, gia đình, những người liên quan đến hoạt động của FULRO, ta đã đạt được mục đích làm cho quần chúng đồng bào dân tộc thiểu số hiểu rõ, tin tưởng vào Đảng, nâng cao giác ngộ chính trị, nhận rõ những thủ đoạn lừa bịp của FULRO. Như vậy, thực hiện chính sách khoan hồng là một phương thức đấu tranh hiệu quả, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc thiểu số để kích động "ly khai", "tự trị" của FULRO.


Trong quá trình ta thực hiện chính sách khoan hồng, FULRO luôn bám sát và dùng vũ lực để đe dọa những thành viên trong tổ chức và người thân, gia đình có người ra hàng, ra đầu thú để được hưởng lượng khoan hồng, hành động của chúng rất tàn bạo, nên đi đôi với thực hiện chính sách khoan hồng, ta đã gắn liền với biện pháp vũ trang, kiên quyết trấn áp, trừng trị kịp thời những đối lượng FULRO hành động thủ ác, giải tỏa sự khống chế của chúng đối với người thân, gia đình và chính những người được hưởng lượng khoan hồng. Thông qua việc kết hợp chặt chẽ các hoạt động đấu tranh vũ trang và thực hiện chính sách khoan hồng, ta vừa bảo vệ được quần chúng nhân dân và những đối tượng FULRO ra hàng, ra đầu thú, vừa tạo được lòng tin của đồng bào dân tộc đối với chủ trương, chính sách của Đảng, vừa làm thất bại âm mưu, thủ đoạn khống chế, ép buộc quần chúng của FULRO. Như vậy, việc kiên trì thực hiện chính sách khoan hồng gắn liền với quá trình trấn áp bằng vũ trang của ta đã thể hiện tính nhân đạo trong trấn áp phản cách mạng, đồng thời góp phần xóa bỏ hận thù, xây dựng tình đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc, làm cho FULRO mất chỗ dựa trong dân, thúc đẩy nhanh sự tan rã của tổ chức FULRO.


* Phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi quyết định trong đấu tranh giải quyết FULRO

Đấu tranh giải quyết FULRO là một vấn đề chính trị phức tạp, vừa cấp bách, vừa lâu dài, Đảng, Nhà nước ta đã huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc; Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Ban Dân vận Trung ương ngay từ những ngày đầu đã nhanh chóng đưa lực lượng và lập Bộ Chỉ huy tiền phương vào trực tiếp chi viện chỉ đạo, chỉ huy quân và dân các tỉnh Tây Nguyên cùng các tỉnh phụ cận, kiên quyết trấn áp, truy quét FULRO, đánh bật chúng ra khỏi các buôn làng, giải tỏa sự uy hiếp, khống chế của chúng, bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được. Đồng thời, ta đã từng bước rút kinh nghiệm trong phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, sử dụng lực lượng vũ trang có quy mô ngày càng phù hợp, không trấn áp tràn lan, tránh được tâm lý lo sợ của quần chúng nhân dân và làm cho tình hình không phức tạp thêm. Từ việc xác định đúng âm mưu, thủ đoạn, địa bàn hoạt động của FULRO, các đơn vị bộ đội chủ lực thường tổ chức quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn hoạt động dài ngày, vừa tổ chức truy quét, vừa cắt hành lang, cắt tiếp tế, vừa thực hiện các biện pháp đấu tranh chính trị, phát động quần chúng, tách chúng ra khỏi quần chúng nhân dân, làm cho lực lượng FULRO mất chỗ dựa, ngày càng rơi vào tình trạng khó khăn, địa bàn hoạt động ngày càng thu hẹp, lừng bước làm thất bại âm mưu và những hoạt động của tổ chức FULRO. Lực lượng công an của Bộ cùng với công an các địa phương tập trung nắm chắc tình hình, giữ vững trật tự an ninh nội địa và tiến hành tổng hợp các biện pháp đấu tranh, giải quyết tốt các chuyên án, phối hợp, hiệp đồng cùng lực lượng quân đội, dân quân tự vệ và hệ thống chính quyền cơ sở ngăn chặn, phá tan âm mưu xâm nhập từ bên ngoài của FULRO và các tổ chức phản động khác. Bên cạnh đó, lực lượng quân đội và công an đã hiệp đồng chặt chẽ với các địa phương, kiên trì tổ chức vận động quần chúng, giúp dân phát triển sản xuất, nâng cao mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục, góp phần đẩy lùi các hủ tục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.


Nhờ sự kiên trì, bám sát cơ sở, sử dụng lực lượng vũ trang phù hợp, tiến hành tổng hợp các biện pháp đấu tranh nên ta đã từng bước loại trừ vững chắc sự ảnh hưởng, khống chế quần chúng của FULRO, nâng cao hiệu quả biện pháp đấu tranh của các lực lượng khác, đưa cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đến thắng lợi cuối cùng. Có thể khẳng định, việc sử dụng quy mô lực lượng vũ trang phù hợp, phối hớp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng khác là một nội dung hết sức quan trọng, nòng cốt trong phát huy sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi quyết định của đấu tranh giải quyết FULRO ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm và các tỉnh phụ cận.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:50:38 am
b) Nguyên nhân ưu điểm

* Có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, toàn diện, tập trung, thống nhất, sáng tạo, kịp thời của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh giải quyết FULRO

Với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, sau đó là 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành lại hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Thực tế đó đã chứng minh: "Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992), sự lãnh đạo đúng đắn, toàn diện, tập trung, thống nhất, sáng tạo kịp thời của Đảng là nhân tố quyết định, điều kiện tiên quyết để đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong quá trình đó, Đảng ta đã kịp thời nắm bắt tình hình thực tiễn, phân tích sâu sắc, khách quan, trên cơ sở phương pháp luận đúng đắn, chỉ rõ bản chất FULRO không phải là vấn đề quân sự mà chủ yếu là vấn đề chính trị; do đó, Đảng ta đã khẳng định: Phải có kế hoạch giải quyết một cách toàn diện, kết hợp chính trị với quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; nắm vữn2 các chính sách của Đảng, nhất là chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, kiên trì phát động quần chúng; vận dụng chính sách đấu tranh chống phản cách mạng trong vùng dân tộc một cách kiên quyết và thận trọng, có sách lược khôn khéo nhằm tiêu diệt bọn đầu sỏ phản động và bọn ngoan cố chống lại cách mạng, đồng thời tích cực phân hóa hàng ngũ địch, kiên trì giáo dục, cải tạo số quần chúng bị lừa gạt, bị cưỡng ép đi theo FULRO1 (Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 của Ban Bí thư Trung ương Đàng "Về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ").


Được sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Trung ương Đảng, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cùng các lực lượng tham gia cuộc đấu tranh đã quán triệt sâu sắc, kiên trì tổ chức thực hiện, làm chuyển biến căn bản tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, đồng thời tích cực giúp dân thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, quyền làm chủ của đồng bào được tôn trọng và phát huy, thực lực chính trị của vùng đồng bào dân tộc thiểu số dần vững mạnh, đáp ứng yêu cầu cuộc đấu tranh; mặt khác, ta kiên quyết trấn áp, trừng trị những kẻ gây tội ác với đồng bào, chống phá cách mạng, làm tan rã lực lượng vũ trang FULRO. Những điều kiện căn bản cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được củng cố và giữ vững đã đẩy lực lượng FULRO vào thế bị cô lập, tan rã dần; đến năm 1992, chúng phải tự tuyên bố tan rã, chấm dứt hoạt động; ta giành được thắng lợi toàn diện, triệt để trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Như vậy, thông qua cuộc đấu tranh kéo dài 17 năm (1975 - 1992), có thể khẳng định: Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, toàn diện, tập trung, thống nhất, sáng tạo, kịp thời của Đảng, Nhà nước ta là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992).


* Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị, quân sự với đẩy mạnh xây dựng, phát triển toàn diện vùng đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên vùng dân tộc Chăm và các tỉnh phụ cận

Trong đấu tranh giải quyết FULRO, các cấp ủy Đảng hệ thống chính quyền các địa phương, lực lượng vũ trang các ban, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương cùng quần chúng nhân dân đã kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp đấu tranh chính trị, quân sự với đẩy mạnh xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, nâng cao đời sống vật chất, chính trị, tinh thần của đồng bào dân tộc, làm chuyển biến nhận thức của đồng bào đối với chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Điều này được ta thường xuyên bám sát, chỉ đạo, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện cho phù hợp với đặc điểm từng dân tộc thiểu số, do vậy các biện pháp đấu tranh ngày càng đạt kết quả tốt hơn. Đây là vấn đề chuyển đổi cả về phương châm, phương pháp đấu tranh hết sức phức tạp, gắn liền với những đặc điểm về tâm lý, tiếng nói, chữ viết, tín ngưỡng, phong tục tập quán sinh hoạt của từng dân tộc; do vậy, ta đã kiên trì bám sát cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những nhu cầu chính đáng của đồng bào, từng bước tuyên truyền, giáo dục bằng những hành động, việc làm cụ thể để đồng bào nhận rõ sự quan tâm chăm lo của Đảng đối với đời sống đồng bào các dân tộc, nhất là đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, góp phần xây dựng lòng tin của đồng bào với Đảng, tách FULRO ra khỏi các buôn làng, làm chúng mất chỗ dựa trong quần chúng nhân dân.


Nhận rõ tầm quan trọng của các nội dung công tác trên, lực lượng quân đội và công an được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng đã phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể địa phương kịp thời điều chỉnh phương châm, phương pháp đấu tranh từ trấn áp bằng biện pháp quân sự chuyển sang đấu tranh bằng biện pháp chính trị là chủ yếu, kết hợp chặt chẽ với giúp đồng bào đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống, thoát khỏi cảnh đói nghèo, dịch bệnh; đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ nhận thức, văn hóa, xã hội, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc, góp phần xóa bỏ tư tưởng tự ti, kỳ thị dân tộc, tạo sự bình đẳng giữa các dân tộc trên địa bàn. Thông qua đấu tranh chính trị và giúp dân phát triển sản xuất, lực lượng vũ trang còn tích cực đấu tranh với nạn mê tín dị đoan, giúp đồng bào bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống, làm thất bại mọi thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để lừa bịp, mê hoặc quần chúng của FULRO. Nhờ có sự kiên trì kết hợp chặt chỗ giữa đấu tranh chính trị với quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội nên ta đã từng bước nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần tích cực giành thắng lợi trong đấu tranh giải quyết FULRO trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, vùng Chăm và các tỉnh phụ cận sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.


* Công tác vận động quần chúng được quan tâm, góp phần tích cực củng cố hệ thống chính trị, chính quyền cơ sở vững mạnh, một nội dung quan trọng trong đấu tranh giải quyết FULRO

Quần chúng nhân dân các dân tộc thiểu số là mục tiêu, đối tượng chủ yếu mà FULRO lôi kéo, lừa bịp, ép buộc, khống chế và là chỗ dựa để FULRO tồn tại, hoạt động chống phá cách mạng. Chính vì vậy, để đưa cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đến thắng lợi, ta đã làm tốt công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sờ chính trị, hệ thống chính quyền địa phương vững mạnh; qua đó, từng bước giúp đồng bào các dân tộc thiểu số thoát khỏi sự lừa bịp, khống chế, ảnh hưởng của FULRO. Nhận rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang các cấp, chính quyền, đoàn thể địa phương phải lấy công tác vận động quần chúng làm gốc để nắm chắc quần chúng, nắm chắc từng buôn làng. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, từ năm 1977 trở đi, ta đã kiên trì đẩy mạnh công tác vận động quần chúng xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, hệ thống chính quyền địa phương ngày càng vững mạnh để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, bằng nhiều hình thức, phương pháp tiến hành phù hợp với đặc điểm tâm lý xã hội, trình độ nhận thức, phong tục, tập quán của đồng bào thiểu số, công tác vận động quần chúng đã từng bước làm cho đồng bào thấy rõ bản chất phản động của FULRO, ngày càng tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo và chính sách trấn áp phản cách mạng của Đảng, đồng thời tranh thủ được tiếng nói của những người có uy tín trong đồng bào các dân tộc, do vậy đã từng bước cô lập FULRO và nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Có thể khẳng định, nhờ kiên trì tiến hành công tác vận động quần chúng mà ta đã từng bước củng cố vững chắc cơ sở chính trị và hệ thống chính quyền địa phương, góp phần đưa cuộc đấu tranh giải quyết FULRO tới thắng lợi cuối cùng.


* Công tác bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ được chú trọng, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc đấu tranh giải quyết FULRO

Công tác xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở và sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại địa phương luôn là vấn đề hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Trong suốt quá trình tiến hành các biện pháp đấu tranh, ta đã kết hợp chặt chẽ với quá trình bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số tại chỗ ở địa phương; điều này đã trực tiếp giúp cho chính quyền cơ sở nắm chắc quần chúng và phát huy vai trò của quần chúng trong đấu tranh, quản lý, giáo dục, cải tạo các thành viên FULRO quay trở về với buôn làng; thông qua việc bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ tại chỗ đã góp phần củng cố cơ sở chính trị và hệ thống chính quyền địa phương vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại địa phương là những người am hiểu tình hình địa phương mình nhất, họ vừa là người trực tiếp đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn đời sống đồng bào, vừa trực tiếp hướng dẫn và tập hợp, tổ chức quần chúng đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, cải thiện cuộc sống; đồng thời, cán bộ là chỗ dựa cho quần chúng nhân dân đấu tranh chống các tổ chức phản cách mạng.


Quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 04/CT-TW của Trung ương Đảng, trong đấu tranh giải quyết FULRO, cấp ủy Đảng và chính quyền các địa phương đã tăng cường phát hiện, bồi dưõng, sử dụng đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc tại chỗ, xây dựng tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ngày càng vững mạnh, tăng cường thực lực chính trị cơ sở, góp phần tích cực làm trong sạch địa bàn, tách FULRO ra khỏi quần chúng nhân dân. Đến năm 1987, việc xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở đã có bước phát triển quan trọng, trong đó đã có 6.361 cán bộ là người dân tộc tại chỗ tham gia quản lý chính quyền các cấp, 2.552 người giữ cương vị chủ chốt là bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch, trưởng công an xã, xã đội trưởng. Đặc biệt qua bồi dưỡng, thử thách, ta đã kết nạp được 3.833 trong số 8.743 đảng viên là người dân tộc; xây dựng được 109.000 dân quân tự vệ là người dân tộc tại chỗ; hầu hết lực lượng vũ trang các xã đã từng bước tự đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ buôn làng, phá vỡ hệ thống cơ sở ngầm của FULRO trong các buôn làng. Có thể khẳng định, công tác bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số tại các địa phương đã trực tiếp nâng cao hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO ngay tại địa phương, đây là một nội dung công tác quan trọng làm nên thắng lợi toàn diện của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:51:45 am
2. Khuyết điểm và nguyên nhân

a) Khuyết điểm

* Nhận thức của một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở về quan điểm lấy dân làm gốc trong tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước chưa sâu sắc, còn để hạn chế, thiếu sót kéo dài


Trong đấu tranh giải quyết FULRO, một số cấp ủy Đảng và hệ thống chính quyền cơ sở của ta ở các địa phương chưa quán triệt sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triên toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số, coi nhẹ công lác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng nên không tranh thủ được lòng dân, không phân hóa hàng ngũ và không tách được FULRO ra khỏi quần chúng, gây hiểu lầm trong nhân dân, tạo những kẽ hở đê FULRO lợi dụng xuyên tạc, kích động đồng bào. Tinh trạng trên còn kéo dài, nhiều lúc tình hình trở nên hết sức căng thẳng, ta phải mất nhiều thời gian, công sức để khắc phục, sửa chữa (Lâm Đồng, Đắk Lắk). Chính sách chăm lo đời sống, phát triển sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số chưa được cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm từng vùng dân tộc, chậm triển khai thực hiện. Nhiều nơi tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo chưa tốt, áp đặt, cứng nhắc làm ảnh hưởng tới chính sách đại đoàn kết các dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, nên vừa không tạo được niềm tin của quần chúng, vừa không thu phục, tuyên truyền, giáo dục được sô" lầm đường lạc lối, việc đấu tranh giải quyết FULRO không đạt được kết quả theo yêu cầu.


Mặt khác, tổ chức phản động FULRO có quá trình hình thành, hoạt động từ trước năm 1975 và gắn liền với sự hậu thuẫn của nước ngoài, nhưng trong thời gian đầu do cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở tại các địa phương chưa quán triệt sâu sắc, nên sau một số thắng lợi bước đầu (1975 - 1976), khi lực lượng vũ trang của ta tập trung làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam thì bên trong nội địa các địa phương chưa chú ý đúng mức, thiếu sự chỉ đạo liên tục, không chủ động tích cực đấu tranh, nên FULRO có điều kiện hồi phục, câu kết với bọn phản động bên ngoài chống phá quyết liệt cách mạng, làm cho tình hình an ninh chính trị trên địa bàn Tây Nguyên căng thẳng, ta phải mất nhiều thời gian, sức lực của cả hệ thống chính trị để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm. Như vậy, khuyết điểm về nhận thức, quán triệt chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của các cấp ủy Đảng chính quyền cơ sở là một hạn chế, thiếu sót lớn nhất, ảnh hưởng xấu, kéo dài, tác động mạnh đến kết quả cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


* Thời gian đầu của đấu tranh giải quyết FULRO, ta còn nặng về biện pháp quân sự, trấn áp tràn lan, gây ra sự hiểu lầm và không tách được FULRO ra khỏi quần chúng, đồng thời tạo ra những sơ hở để FULRO lợi dụng xuyên tạc, kích động, lôi kéo, khống chế đồng bào dân tộc thiểu số

Trong những năm đầu, chúng ta nôn nóng, tưởng rằng có thể giải quyết FULRO nhanh chóng bằng biện pháp vũ trang, truy quét, trấn áp trên diện rộng, nhưng khi FULRO bị đánh mạnh, chúng chuyển sang hoạt động phân tán, nhỏ lẻ, tăng cường bám vào các buôn làng khống chế quần chúng, nên khi lực lượng vũ trang ta càng đánh thì tình hình càng trở nên căng thẳng, phức tạp hơn. Đồng thời, trong quá trình truy quét, trấn áp vũ trang, do thiên về biện pháp vũ trang, quân sự đơn thuần nên còn có những hành động bắt giữ, giam cầm, dùng biện pháp mạnh với các đối tượng, nhiều nơi còn xem gia đình, người thân của đối tượng theo FULRO như đối tượng phải bắt giữ, tùy tiện khám xét nhà cửa, tịch thu tài sản, không chia ruộng đất..., gây ra sự bất bình trong quần chúng và tạo kẽ hở để chúng kích động đồng bào, ta không nắm được dân. Mặt khác, nhiều địa phương khi truy quét FULRO chưa gắn liền với tổ chức các đội công tác ở cơ sở để bảo vệ cán bộ cốt cán và xây dựng cơ sở chính trị; do vậy, sau khi lực lượng vũ trang rút, FULRO quay trở lại chống phá quyết liệt, khống chế quần chúng, giết hại cán bộ cơ sở, uy hiếp chính quyền, đoàn thể cách mạng, bắt dân phải tiếp tế, làm cho tình hình an ninh chính trị địa phương hết sức phức tạp. Trong điều kiện đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và dân tộc Chăm nhận thức còn thấp, sự hiểu biết của quần chúng rất hạn chế, lại chịu sự kìm kẹp, đầu độc tư tưởng "chống cộng" nhiều năm, thì việc sử dụng biện pháp vũ trang, truy quét tràn lan và cả những hành động quân sự không đúng đã gây hoang mang, đẩy quần chúng rời xa cách mạng và quay sang theo FULRO.


Như vậy, việc chủ quan dùng biện pháp quân sự đơn thuần, truy quét, trấn áp tràn lan FULRO không những không giải quyết nhanh được FULRO mà còn để lại những hậu quả kéo dài, không tách được FULRO ra khỏi quần chúng đồng bào các dân tộc thiểu số, FULRO còn chỗ dựa để tồn tại và hoạt động chống phá cách mạng cơ sở. Đây là một trong những khuyết điểm lớn của ta trong đấu tranh giải quyết FULRO, phải mất một thời gian dài sau đó, ta kiên trì tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh, kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp chính trị với quân sự ở quy mô phù hợp, đúng lúc, đúng đối tượng, cùng với đó là chăm lo thúc đẩy sản xuất, phái triển toàn diện kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc thiểu số, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, tạo điều kiện để đồng bào thực sự làm chủ cuộc sống, làm chủ xã hội, lúc đó ta mới đưa cuộc đấu tranh giải quyết FULRO tới thắng lợi hoàn toàn.


* Công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị địa phương chưa thường xuyên, chưa gắn với công tác xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, bóc gỡ tổ chức FULRO bên trong các buôn làng chưa thường xuyên gắn với việc sử dụng lực lượng vũ trang truy quét, tiêu diệt và làm tan rã các toán vũ trang FULRO. Các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở ở các địa phương nhận thức không đồng đều, cách tổ chức phát động quần chúng khác nhau, nhiều thời điểm chưa tập trung chỉ đạo, chưa nắm được tình hình, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, do vậy việc kết hợp đấu tranh giải quyết FULRO với chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào chưa đạt được yêu cầu đề ra. Mặt khác, ở nhiều địa phương, lực lượng tiến hành vận động quần chúng còn thiếu kiên trì tuyên truyền, giáo dục, giải thích chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, còn nặng về biện pháp hành chính nên còn nhiều kẽ hở để FULRO lợi dụng xuyên tạc, lôi kéo, khống chế quần chúng, ép buộc quần chúng tiếp tế hoặc phải đi theo FULRO ra rừng bổ sung lực lượng cho chúng. Đáng chú ý là sự chủ quan, thỏa mãn dừng lại của một số cấp ủy, chính quyền địa phương, sau khi đời sống đồng bào khá lên một bước thì lại thiếu quan tâm đúng mức đến đời sống văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, việc xử trí chưa được tính toán kỹ lưỡng, chưa chú ý việc giáo dục, giác ngộ để quần chúng hiểu rõ chính sách của Đảng, nặng về hành chính, áp đặt, ngăn cấm; do đó, bọn phản động đội lốt Kitô giáo, Tin Lành có điều kiện lôi kéo, khống chế, ép buộc quần chúng hoạt động chống phá cách mạng.


Bên cạnh đó, một số địa phương thiếu quan tâm bồi dưỡng, xây dựng các đội công tác có chất lượng và tranh thủ tiếng nói của những người có uy tín để đưa về các địa bàn trọng điểm hoạt động, thiếu kiên trì trong phát hiện, bồi dưỡng đội công tác, do vậy công tác phát động, vận động quần chúng tiến hành không thường xuyên, liên tục, mang tính chất làm theo phong trào, không nắm rõ tình hình cơ sở, không nắm được dân, các đối tượng FULRO trong dân chưa được phát hiện và bóc gỡ triệt để. Có địa phương, quần chúng nhân dân còn có biểu hiện sợ FULRO trả thù, chưa thật tin vào sự bảo vệ của chính quyền cách mạng, chưa ủng hộ chính quyền cơ sở trong đấu tranh giải quyết FULRO.


Tóm lại, công tác phát động, vận động quần chúng ở nhiều nơi còn chưa kết hợp chặt chẽ với xây dựng, củng cố thực lực chính trị, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, do vậy chất lượng công tác bảo vệ an ninh chính trị, phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở một số địa phương chưa đáp ứng kịp yêu cầu của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 23 Tháng Sáu, 2023, 07:52:25 am
* Công tác xây dựng chính quyền cơ sở, phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số còn một số hạn chế

Trong những năm đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thực lực hệ thống chính trị, chính quyền cơ sở tại các địa phương Tây Nguyên và các tỉnh phụ cận còn non trẻ, chưa được củng cố, nhất là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ hầu hết đều thiếu và yếu, chưa quản lý được hết tình hình địa phương. Do vậy, cấp huyện và tỉnh đều phải tăng cường cán bộ đưa xuống cấp xã, buôn làng để xây dựng, củng cố các tổ chức đảng, chính quyền cơ sở; trong quá trình đó, một số địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo công tác phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số tại địa phương, nhất là trong những năm 1975 - 1977. Lợi dụng vấn đề thiếu cán bộ, trong một thời gian dài, các phần tử FULRO lẩn khuất hợp pháp trong dân đã luồn vào giữ một số chức vụ trong các đoàn thể, chính quyền, lực lượng dân quân tự vệ tại địa phương, gây rối loạn, khống chế, lũng đoạn chính quyền cơ sở của ta, đồng thời phục vụ mưu đồ xây dựng chính quyền ngầm của chúng để chống phá và duy trì ảnh hưởng của FULRO trong các buôn làng, gây khó khăn cho công tác đấu tranh giải quyết FULRO của ta.


Từ việc chưa chú ý chăm lo xây dựng, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số tại địa phương nên công tác nắm dân, vận động, tổ chức quần chúng người dân tộc thiểu số tham gia đấu tranh, phòng ngừa, tố giác những hoạt động chống phá của FULRO và các tổ chức phản động khác hiệu quả thấp, hệ thống chính trị cơ sở tại buôn làng, xã, ấp hoạt động hiệu quả không cao, chưa thực sự là chỗ dựa và tạo được sự tin tưởng của quần chúng. Lực lượng vũ trang cơ sở ở một số địa phương chưa bảo đảm được trong sạch, vẫn còn dân quân tự vệ chạy ra rừng hoặc lén lút làm việc cho FULRO; công tác củng cố lực lượng dân quân tự vệ tại các buôn làng vùng sâu, vùng xa chậm phát triển và chưa vững chắc nên lực lượng tại chỗ nhiều nơi còn phụ thuộc vào lực lượng cấp trên tăng cường để tiến hành đấu tranh giải quyết FULRO. Ngoài ra, công tác quản lý, bảo vệ cán bộ cơ sở ở nhiều địa phương chưa được coi trọng, thiếu biện pháp bảo vệ cán bộ, còn nhiều sơ hở trong tuyển chọn, sử dụng, bồi dưỡng, đào tạo họ trở thành cán bộ cốt cán tại địa phương, do vậy còn để FULRO giết hại, khống chế hoặc lôi kéo buộc phải làm việc cho lực lượng FULRO. Đây là một tổn thất lớn, không những ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đấu tranh giải quyết FULRO mà còn ảnh hưởng lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng tại địa phương.


* Thực hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ở một số địa phương thiếu chặt chẽ, không đủ sức thuyết phục, làm ảnh hưởng tới hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO

Việc nhận thức và thực hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta đối với các đối tượng FULRO bị bắt ra hàng, ra đầu thú ở nhiều địa phương thiếu chặt chẽ còn có những hạn chế, thiếu sót nhất định. Chính sách khoan hồng không được coi trọng ngay từ đầu nên xảy ra tình trạng ở nhiều nơi, nhiều lúc, do tư tưởng nóng vội và do nhận thức về FULRO chưa đầy đủ, đúng đắn, thiên về sử dụng lực lượng vũ trang truy quét, tiêu diệt, chưa chú trọng mở đường cho các đối tượng FULRO quay trở về với cộng đồng, trở về với cách mạng. Thậm chí có nơi, có lúc còn cho rằng nhấn mạnh khoan hồng là hữu khuynh, là mất cảnh giác... nên sinh ra trấn áp tràn lan, giam giữ, dùng biện pháp mạnh không đúng đối tượng, vi phạm chính sách dân tộc, tôn giáo, tạo sơ hở cho chúng kích động quần chúng chống lại cách mạng.


Mặt khác, công tác tuyên truyền, giải thích chính sách khoan hồng, chính sách nhân đạo của cách mạng chưa thường xuyên, chưa được chú trọng đúng mức nên quần chúng không hiểu, chưa tin vào chính sách khoan hồng của Đảng, họ chưa tự nguyện tham gia vận động người thân, con em mình lầm đường lạc lối theo FULRO ra đầu hàng, đầu thú. Thực tế ở các địa phương, ở từng nơi, từng lúc vẫn còn có sự phân biệt đối xử với số người đã từng tham gia hoặc liên quan đến FULRO, làm cho quần chúng hoang mang, hoài nghi chính sách khoan hồng. Lực lượng FULRO đã lợi dụng tâm lý đó để kích động, lôi kéo được nhiều thanh niên chạy vào rừng bổ sung lực lượng cho FULRO. Việc kết hợp quản lý, giáo dục với biện pháp hành chính thiếu chặt chẽ, chưa tốt, chưa phù hợp với từng đối tượng, nên tính thuyết phục, cảm hóa quần chúng và các đối tượng FULRO qua thực hiện chính sách khoan hồng chưa đạt kết quả đề ra. Có thể khẳng định, những hạn chế, thiếu sót của việc tổ chức thực hiện chính sách khoan hồng của Đảng ở các địa phương, lực lượng tham gia đấu tranh giải quyết FULRO đều còn tồn tại theo những mức độ khác nhau, điều đó đã gây ảnh hưởng tới hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO ở từng địa phương.


* Việc chăm lo xây dựng, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa, xã hội cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở một số địa phương chưa được chú trọng, quan tâm đúng mức

Trải qua 30 năm trường kỳ kháng chiến, đất nước ta bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đời sống của nhân dân ta gặp rất nhiều khó khăn, nhất là quần chúng nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng dân tộc Chăm mới được giải phóng, chủ yếu sống du canh, du cư, trình độ sản xuất lạc hậu, văn hóa thấp kém, bị đầu độc tư tưởng "chống cộng" của chế độ cũ và sự không chế của bọn phản động FULRO. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương "đẩy mạnh sản xuất, hết lòng hết sức chăm lo cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số; thực hiện đúng chính sách đoàn kết, tôn trọng, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị số 04/CT-TV/, ngày 2 tháng 2 năm 1977), kết hợp chặt chẽ với các biện pháp khác trong đấu tranh giải quyết FULRO.


Trong quá trình thực hiện chủ trương, chỉ đạo của Đảng, nhìn chung các địa phương đều có sự cố gắng, nỗ lực cao trong xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, góp phần từng bước cải thiện, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở các địa phương chưa thực sự thường xuyên chăm lo giúp đồng bào đẩy mạnh sản xuất theo hướng định canh, định cư, ổn định và nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân, còn nhiều biểu hiện đầu tư không đến nơi, mang lại hiệu quả thấp, tạo kẽ hở để FULRO lợi dụng xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy, trong một thời gian dài sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đời sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, nhất là vùng sâu, vùng xa còn gặp rất nhiều khó khăn, quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy, tình trạng thiếu ăn, thiếu mặc, dịch bệnh thường xuyên xảy ra; mặt khác, sự đầu tư của một số địa phương đảm bảo điện, đường, trường, trạm đến vùng đồng bào dân tộc còn chậm, hiệu quả thấp, quần chúng nhân dân chưa được thụ hưởng, làm hạn chế kết quả thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh những hạn chế, thiếu sót về chăm lo cải thiện đời sống vật chất, sinh hoạt cho đồng bào, một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến nhu cầu chính đáng về văn hóa, tín ngưỡng của một bộ phận đồng bào, còn nặng về các biện pháp hành chính nên tình trạng tái mù chữ, mê tín dị đoan, tin vào những hủ tục vẫn tồn tại trên diện rộng. Những hạn chế, thiếu sót về chăm lo xây dựng, phát triên kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa, xã hội cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số, khiến cho ta phải mất nhiều thời gian, công sức khắc phục, làm hạn chế kết quả cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 06:59:43 am
b) Nguyên nhân khuyết điểm

* Một số cấp ủy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang còn chủ quan trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của FULRO và các thế lực thù địch

Trong những năm đầu của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, nhận thức của các cấp ủy Đảng, của lực lượng vũ trang chưa nhận thức sâu sắc âm mưu, thủ đoạn và phương thức hoạt động của FULRO nằm trong chiến lược chiến tranh phá hoại nhiều mặt, diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, do đó tư tưởng còn chủ quan, mất cảnh giác, không kiên quyết bám đánh địch. Tại Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư đã thẳng thắn chỉ rõ: Sở dĩ có tình trạng ấy là do các cấp ủy địa phương thiếu tinh thần cảnh giác cách mạng... chưa thấy đúng mức thực chất vấn đề FULRO... và lơi lỏng trong việc nắm tình hình cụ thể để chỉ đạo tiếp tục truy quét FULRO. Từ năm 1975 đến tháng 2 năm 1977, chúng ta chưa nhận thức rõ bản chất của tổ chức FULRO, có phần lúng túng trước hoạt động vũ trang chống phá quyết liệt của chúng, nên trong đấu tranh giải quyết FULRO lúc này ta nặng về trấn áp, làm cho dân sợ, xa lánh cán bộ, chính quyền mới.


* Sau giải phóng, các địa phương còn gặp rất nhiều khó khăn nên chưa tập trung xây dựng cơ sở chính trị, phát triền kinh tế, chăm lo đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số

Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong những năm đầu đất nước ta phải đối đầu với 2 cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc, do vậy, Đảng và Nhà nước ta chưa có một chiến lược hoạch định tổng thể để phát triển toàn diện Tây Nguyên, nhất là phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, nhiều buôn làng còn đói ăn, thiếu mặc. Công tác xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở, nhất là củng cố cấp huyện, xã, buôn làng chậm đổi mới; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa sâu sát cơ sở, không nắm được quần chúng; cán bộ cơ sở quan liêu, xa rời dân, có biểu hiện cửa quyền... Đây là những nguyên nhân chính để các thế lực thù địch lợi dụng khai thác, khoét sâu kích động, xuyên tạc lôi kéo nhân dân theo FULRO hoạt động chống phá cách mạng. Những hạn chế của các cấp ủy Đảng trong việc chăm lo đời sống nhân dân ở Tây Nguyên ảnh hưởng lớn đến cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO.


Mặt khác, tình trạng vi phạm chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng ở các địa phương, các cấp, trong các tổ chức chính trị, xã hội, và các ban, ngành vẫn còn xảy ra, nhiều vụ việc chưa được giải quyết, để kéo dài, nhất là tranh chấp đất đai, nơi thờ tự, vấn đề tự do tín ngưõng... tất cả tạo ra nhiều sơ hở để cho kẻ thù lợi dụng xuyên tạc, chống phá và làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.


Công tác phát động quần chúng, bóc gỡ tổ chức FULRO trong dân với việc tiêu diệt và làm tan rã các toán vũ trang bám buôn, làng có ý nghĩa hết sức quan trọng nhưng chưa được các cấp tập trung chỉ đạo, chưa đầu tư cán bộ và xây dựng các đội công tác có chất lượng đưa về các địa bàn trọng điểm tiến hành một cách toàn diện, liên tục, triệt để, mà nhiều nơi làm còn có tính thời vụ, thiếu kiên trì.


* Chính quyền cơ sở xã, buôn làng, ấp còn yếu trong một thời gian dài, ảnh hưởng lớn đến đấu tranh giải quyết FULRO

Thực tế cho thấy, sau ngày giải phóng miền Nam, hệ thống chính trị ở vùng dân tộc có FULRO hoạt động còn non trẻ chưa được củng cố vững chắc, số cán bộ người dân tộc tại chỗ và cán bộ tăng cường vừa thiếu vừa yếu. Nhiều cán bộ chưa được đào tạo về chuyên môn, do đó còn lúng túng trước những công việc thuộc về quản lý xã hội, quản lý kinh tế. Vì vậy, dân thiếu chỗ dựa và thiếu tin tưởng vào chế độ, chính quyền mới. Ngược lại, FULRO lợi dụng những yếu kém của hệ thống chính quyền cơ sở, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền nói xấu cách mạng, tổ chức móc nối, lôi kéo, khống chế cán bộ dân tộc tại chỗ. Trong những năm đầu của cuộc đấu tranh chống FULRO, ở nhiều xã, buôn, FULRO lũng đoạn từ nội bộ Đảng, chính quyền đến toàn thể cơ sở, làm tê liệt hệ thống chính trị của ta ở một số nơi, đồng thời xây dựng, phát triển hệ thống chính quyền ngầm của chúng nhằm khống chế quần chúng, duy trì ảnh hưởng của FULRO trong dân.


Mặt khác, một số địa phương chưa thật sự quan tâm chỉ đạo đúng mức vấn đề xây dựng, phát triển thực lực chính trị và lực lượng vũ trang cơ sở, nhất là công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán, cán bộ người dân tộc nên còn mỏng yếu (được 0,8% so với dân số). Đời sống của đồng bào nhiều nơi còn khó khăn, quyền làm chủ chưa được phát huy nên phong trào tham gia đấu tranh chống FULRO còn phát triển chậm và chưa vững chắc.


Đội ngũ cán bộ người dân tộc ở cơ sở phát triển còn chậm cả về số lượng và chất lượng, còn nhiều xã cán bộ chủ trì Đảng, chính quyền chưa phải là người dân tộc tại chỗ. Việc bồi dưỡng thường xuyên về trình độ, năng lực giúp cán bộ dân tộc có đủ sức hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách còn bị coi nhẹ. Đây là một tồn tại lớn, có ảnh hưởng nhiều đến việc tạo chỗ dựa vững chắc cho đồng bào dân tộc tự đứng lên giải quyết vấn đề FULRO.


* Trong đấu tranh giải quyết FULRO, một số địa phương chưa thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, chưa tôn trọng quyền làm chủ, lấy dân làm gốc trong xây dựng, phát triển địa phương

Thực tế trong đấu tranh với FULRO, ở một số địa phương, việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng không thể hiện đúng quan điểm lấy dân làm gốc, quyền làm chủ tập thể của đồng bào chưa được tôn trọng đầy đủ; có nơi, có lúc ta chưa nắm chắc tình hình địa bàn, nắm được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, chưa tin tưởng vào quần chúng nhân dân. Chính vì vậy đã lác động lớn đến tư tưởng của đồng bào các dân tộc, ảnh hưởng đến tinh thần của quần chúng khi tham gia trên các mặt trận đấu tranh chống FULRO, do đó không phát huy hết sức mạnh của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


* FULRO và các thế lực thù địch lợi dụng lịch sử vấn đề dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, dân tộc Chăm để chống phá cách mạng

Tây Nguyên có điều kiện tự nhiên, các yếu tố về kinh tế, văn hóa, xã hội có điểm xuất phát thấp; vì vậy, muốn giải quyết căn bản, toàn diện, Đảng ta cần phải có chiến lược hoạch định tổng thể, có chính sách đầu tư phù hợp cả ngắn hạn và dài hạn để xây dựng, phát triển toàn diện Tây Nguyên theo kịp các vùng, miền của đất nước. Mặt khác, Tây Nguyên có vị trí chiến lược nên các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng những vấn đề lịch sử, dân tộc, tôn giáo, nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số và những hạn chế của chính quyền cách mạng để lợi dụng, chống phá thông qua tổ chức phản động FULRO. Do vậy, đây là một trong những nguyên nhân khách quan gây khó khăn cho chính quyền cách mạng, đặc biệt là gây khó khăn cho cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên và các tỉnh phụ cận sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:01:38 am
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Bài học 1: Thường xuyên quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở trong đấu tranh giải quyết FULRO


Tổ chức FULRO là một tổ chức chính trị phản động có vũ trang. Được sự hậu thuẫn của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động nước ngoài, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30.4.1975) chúng nổi lên hoạt động mạnh, chống phá quyết liệt công cuộc xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền cách mạng, thống nhất đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định và phát triển sản xuất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm và vùng phụ cận thuộc các tỉnh Nam Trung Bộ nước ta. Tổ chức này có quá trình hình thành, tồn tại và hoạt động từ trước khi ta giải phóng miền Nam; thủ đoạn cơ bản của FULRO là chúng lợi dụng chiêu bài dân tộc, tôn giáo để kích động, lừa bịp, lôi kéo đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, người Chăm, đòi "ly khai", "tự trị", với âm mưu hòng "lập quốc gia riêng" của đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi Nam Đông Dưđng, tạo lực lượng đối lập để chống phá lâu dài cách mạng nước ta. Trong quá trình đó, chúng đã dựng lên một hệ thống "chính quyền tự phong" và lực lượng vũ trang có quy mô tương đối lớn, tạo được tầm ảnh hưởng khá sâu rộng trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.


Trong khi đó, hệ thống tổ chức đảng, chính quyền cơ sở của ta chưa hoàn thiện, nhiều công việc cấp bách cần giải quyết nên ta chưa quan tâm đúng mức, chỉ xem tổ chức này như bọn phỉ, tàn quân chế độ cũ, thời gian đầu ta cho rằng chỉ cần sử dụng lực lượng vũ trang truy quét, phá âm mưu gây bạo động của chúng là có thể giải quyết được; nhưng sau mỗi đợt truy quét, ta tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang và đánh bật chúng ra khỏi các vùng trọng điểm, lực lượng vũ trang của ta giảm cường độ truy quét, chuyển sang thực hiện các nhiệm vụ khác, FULRO lại lôi kéo, ép buộc quần chúng đồng bào dân tộc thiểu số đi theo, khôi phục lực lượng, quay trở lại hoạt động mạnh, uy hiếp một số thị xã, thị trấn, các trục đường giao thông huyết mạch và một số kho tàng, đơn vị vũ trang đóng quân nhỏ lẻ của ta, làm cho tình hình an ninh chính trị Tây Nguyên trở nên hết sức nghiêm trọng, nhất là ở Đắk Lắk, Lâm Đồng, Thuận Hải, Gia Lai - Kon Tum, nhiều nơi chính quyền cơ sở không quản lý được tình hình, làm cho an ninh chính trị, trật tự xã hội trở nên hết sức phức tạp.


Đứng trước thực tế đó, qua nghiên cứu, đánh giá cụ thể mọi mặt vùng chiến lược Tây Nguyên, Đảng ta nhận thấy: Các cấp ủy Đảng địa phương thiếu tinh thần cảnh giác cách mạng, chưa thấy rõ thực chất của vấn đề FULRO, âm mưu, thủ đoạn thâm độc và lâu dài của chúng, nên có phần chủ quan trước kết quả công tác năm 1975, lơi lỏng trong việc nắm tình hình cụ thể để chỉ đạo truy quét FULRO; vấn đề FULRO chưa được đặt trong toàn bộ kế hoạch xây dựng và củng cố vùng chiến lược Tây Nguyên. Một số cấp ủy Đảng cơ quan, chính quyền và lực lượng vũ trang khi tiến hành truy quét FULRO chưa thật sự quán triệt sâu sắc đường lối nhiệm vụ, phương châm, phương pháp đấu tranh chống bọn phản cách mạng lợi dụng các dân tộc ít người, nhất là chưa nắm vững chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, chưa kiên trì phát động quần chúng để tách quần chúng khỏi ảnh hường của bọn phản cách mạng, tranh thủ quần chúng các dân tôc đứng về phía ta, chưa kiên trì xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng chính quyền ở các buôn làng; chưa coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bảo vệ đội ngũ cán bộ người dân tộc. Có nơi còn nặng về dùng lực lượng vũ trang trấn áp, có trường hợp làm sai chính sách trong việc giam giữ, xử lý đối với những đối tượng FULRO ra đầu hàng, đầu thú, làm sai chính sách đối với tầng lớp trên trong các dân tộc. Do đó, làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu lầm cách mạng, tạo sơ hở cho FULRO lợi dụng, kích động, lôi kéo quần chúng1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị số 04/CT-TW "Về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ", ngày 2 tháng 2 năm 1977, Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 1, 2). Mặt khác, đồng bào mỗi dân tộc thiểu số thường có đặc điểm sinh sống riêng, với những tập tục truyền thống đặc thù, số đông quần chúng nhân dân có trình độ nhận thức thấp, thường nghe và làm theo những quy định khắt khe riêng của từng dân tộc do già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo đặt ra; bọn đầu sỏ, chỉ huy FULRO đều là những người thuộc tầng lớp trên của các dân tộc thiểu số, nên chúng dễ dàng tiếp cận, lôi kéo đồng bào và gây ảnh hưởng sâu rộng trong đồng bào dân tộc thiểu số.


Hơn nữa, một số mâu thuẫn, hận thù giữa các dân tộc do lịch sử để lại (sự diệt vong của Vương quốc Chăm Pa, xung đột về tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa, lấn chiếm đất đai...), đặc biệt là những sai lầm mang tính cưỡng bức, đồng hóa dân tộc của chính quyền Sài Gòn từ trước khi miền Nam được giải phóng, đã làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thiểu số với người Kinh càng trở nên gay gắt, FULRO có điều kiện để kích động, lừa bịp, lôi kéo đồng bào đi theo chúng, làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số lầm tưởng FULRO là đại diện của họ. Từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên, trong đó sự chủ quan của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở trong tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo là nguyên nhân chủ yếu. Đây là những sơ hở nghiêm trọng mà tổ chức FULRO đã lợi dụng lôi kéo quần chúng, khôi phục lực lượng; mặc dù bị ta truy quét nhiều đợt, bị thiệt hại nặng nề, nhưng do vẫn còn chỗ dựa trong dân, nên khi ta giảm cường độ hoạt động, FULRO lại khôi phục lực lượng và hoạt động chống phá cách mạng quyết liệt hơn.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:02:15 am
Nhận rõ nguyên nhân của những thiếu sót, khuyết điểm, nhất là nguyên nhân chủ quan trong đấu tranh giải quyết FULRO, ngày 2 tháng 2 năm 1977, Ban Bí thư Trung ưdng Đảng đã kịp thời ra Chỉ thị số 04/CT-TW nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc phát động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên. Trong đó, Ban Bí thư chỉ rõ "vấn đề FULRO không phải đơn thuần là vấn đề quân sự, mà chủ yếu là vấn đề chính trị, phải được giải quyết một cách cơ bản, lâu dài. Việc truy quét FULRO phải gắn liền với việc thực hiện chính sách của Đảng đối với dân tộc, tôn giáo, gắn liền với các nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên"1 (Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng "Về việc liếp lục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ", tr. 1). Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương, các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở và các lực lượng tham gia cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đã tổ chức quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 04/CT-TW, đồng thời xây dựng kế hoạch cụ thể, vạch ra bước đi, phương pháp tiến hành công tác vận động quần chúng, kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh, lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu; từ đó trở đi, cuộc đấu tranh giải quyết FULRO từng bước đạt được những kết quả thiết thực, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện, trình độ nhận thức được nâng cao, phân biệt rõ địch - ta và hiểu rõ sự chăm lo cho đồng bào các dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước thông qua chính sách dân tộc, tôn giáo. Từng bước đồng bào đã không còn tin vào những luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của FULRO, ta đã tách được FULRO ra khỏi đời sống chính trị của đồng bào các dân tộc thiểu số. Cùng với đó, việc sử dụng lực lượng vũ trang truy quét FULRO ngoài rừng, kết hợp chặt chẽ với gọi hàng và thực hiện tốt chính sách khoan hồng đối với các đối tượng FULRO ra hàng, ra đầu thú đã góp phần làm phân hóa nội bộ số cầm đầu FULRO, hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO đạt được những kết quả tích cực, tiến bộ vững chắc. Ngay trong năm 1978, ta đã giải quyết cơ bản tổ chức FULRO Chàm; đến năm 1987, đại bộ phận lực lượng vũ trang FULRO ngoài rừng ở các tỉnh Tây Nguyên bị tiêu diệt va tan rã từng mảng lớn; giữa năm 1992, trong nội địa Tây Nguyên chỉ còn vài chục tên, hoạt động nhỏ lẻ ở Lâm Đông, Đak Lắk, Gia Lai - Kon Tum và liên tục phải di chuyển, né tránh, không dám hoạt động vũ trang, chúng hoàn toàn bị cô lập, tách khỏi quần chúng trong các buôn làng; đến tháng 12 năm 1992, số còn lại buộc phải chạy sang Campuchia ra hàng UNTAC và tuyên bố chấm dứt hoạt động.


Như vậy, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Trung ương Đảng, đến hết năm 1992, sau 17 năm kiên trì đấu tranh, lần đầu tiên quân và dân ta đã giải quyết thắng lợi tổ chức phản động FULRO ở Tây Nguyên và vùng phụ cận. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị to lớn, góp phần đập tan âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc thiểu số để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực phản động trong và ngoài nước, tạo điều kiện để ta tập trung xây dựng, phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đã chứng minh chính sách dân tộc, tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta. Chính sách đó đã đáp ứng nhu cầu, sự mong mỏi của đại bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số, quyền làm chủ của quần chúng nhân dân được phát huy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số được tôn trọng, từ đó tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, xây dựng được "thế trận lòng dân" và phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam trong công cuộc củng cố, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào thiểu số trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Có thể khẳng định, những nội dung, biện pháp, hình thức tổ chức quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng; tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở, là bài học kinh nghiệm quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định thắng lợi tới hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO. Trong cuộc đấu tranh này, ta đã thực hiện tốt những nội dung lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, tổ chức thực hiện của hệ thống chính quyền cơ sở, thể hiện trên mây vấn đề chủ yếu sau:

1. Thường xuyên quán triệt sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Trung ương Đảng về chính sách dân tộc, tôn giáo là điều kiện tiên quyết tạo ra chuyển biến căn bản, từng bước giành thắng lợi trong đấu tranh giải quyết FULRO


Trong suốt tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do, thống nhất đất nước, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Tuy nhiên, để giành được thắng lợi phải trải qua một quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài, trong đó có cả những giai đoạn khó khăn, lúng túng, phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm, nhưng Đảng ta đã dám nhìn thẳng vào sự thật để sửa chữa, khắc phục triệt để những sai lầm, khuyết điểm đó, đưa cách mạng nước ta tới thắng lợi cuối cùng. Phát huy truyền thống và kế thừa những kinh nghiệm lãnh đạo toàn dân kháng chiến, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương lãnh đạo và tổ chức thực hiện đúng chính sách dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số gắn liền với cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các tổ chức phản cách mạng ở vùng dân tộc thiểu số. Trong 2 năm đầu (1975 - 1976), ta đã sử dụng lớn lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương (cấp trung đoàn, sư đoàn) có pháo binh, không quân chi viện để tiến công, truy quét, đánh tan một bộ phận quan trọng lực lượng vũ trang FULRO ở ngoài rừng, đẩy lùi và làm suy yếu hoạt động vũ trang của chúng; tuy vậy, biện pháp quân sự không giải quyết được gốc rễ của FULRO, chúng vẫn còn cơ sở và nắm được quần chúng trong các buôn làng. Sau khi bị tổn thất lực lượng, chúng lại mở rộng địa bàn hoạt động ở Tây Nguyên, vùng Chăm (Thuận Hải) và các tỉnh phụ cận, tình hình càng trở nên phức tạp. Hơn nữa, trong quá trình truy quét FULRO, nhiều nơi ta còn phạm những sai lầm về trấn áp phản cách mạng, truy quét tràn lan, vi phạm chính sách dân tộc, tôn giáo; phân biệt đối xử với thân nhân, gia đình quần chúng có người theo FULRO; những sai lầm, khuyết điểm đó còn kéo dài, làm giảm sức thuyết phục, gây hoài nghi về chính sách dân tộc trong quần chúng nhân dân; đồng thời, những sai phạm đó là những kẽ hở để FULRO lợi dụng xuyên tạc, kích động đồng bào dân tộc thiểu số. Mặt khác, những sai phạm về thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo trong đấu tranh, truy quét FULRO, còn làm cho nội bộ FULRO không bị phân hóa, đầu hàng, đầu thú giảm, không phân loại được lực lượng vũ trang FULRO với quần chúng trong các buôn làng, hiệu quả của biện pháp đấu tranh chính trị không phát huy được, nên ta càng đánh mạnh thì tình hình càng trở nên phức tạp hơn.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:03:05 am
Trước tình hình đó, ngày 2 tháng 2 năm 1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 04/CT-TW xác định rõ: "Vấn đề FULRO không phải đơn thuần là vấn đề quân sự, mà chủ yếu là vấn đề chính trị, phải được giải quyết một cách cơ bản, lâu dài". Đây là vấn đề phức tạp, nhạy cảm về xác định đối tượng, phương châm, phương pháp đấu tranh. Xuất phát từ tình hình thực tiễn, ta đã chuyển biện pháp đấu tranh quân sự sang biện pháp đấu tranh chính trị làm chính, lấy công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh làm nòng cốt, biện pháp vũ trang chỉ đóng vai trò hỗ trợ, phục vụ cho đấu tranh chính trị. Như vậy, với Chỉ thị số 04/CT-TW, Trung ương Đảng đã nghiên cứu cụ thể, đánh giá đúng tình hình thực tiễn Tây Nguyên, đề ra những nội dung, phương pháp, hình thức đấu tranh đúng đắn, có tính thuyết phục cao, đáp ứng yêu cầu cấp bách của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Trên cơ sở chỉ rõ bàn chất của FULRO, Đảng ta đã khẳng định quan điểm giải quyết FULRO phải lấy tiến công chính trị làm chính, lấy vận động quần chúng làm gốc, nắm chắc quần chúng trong các buôn làng, tách FULRO ra khỏi quần chúng, tạo ra một sự thay đổi căn bản, toàn diện về chính trị - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời, đẩy mạnh công tác địch vận, làm phân hóa nội bộ hàng ngũ FULRO, khuyên khích các đối tượng FULRO ra đầu hàng, đầu thú để được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước. Điều này thể hiện sự sáng suốt của Trung ương Đảng trong việc phân tích tình hình, kế thừa chính sách nhân đạo, bản chất của cách mạng và vận dụng sáng tạo, linh hoạt bài học kinh nghiệm về chính sách dân tộc, tôn giáo giải quyết các vụ bạo loạn, gây phỉ, xưng vua ở vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Điều đó cũng thể hiện sự nhạy bén trước tình hình thực tiễn, nắm bắt kịp thời các vấn đề mới thông qua diễn biến kết quả đấu tranh giải quyết FULRO trong 2 năm 1975 - 1976 ở các địa phương nhằm đưa cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đi tới thắng lợi cuối cùng.


Có thể khẳng định, với chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn, toàn diện, cả về nội đung, hình thức và phương pháp đấu tranh, kết hợp chặt chẽ với tổ chức thực hiện đúng chính sách dân tộc, tôn giáo, Đảng ta đã kịp thời chấn chỉnh, rút kinh nghiệm, chuyển hướng đấu tranh phù hợp với thực tiễn hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm và các tỉnh phụ cận. Căn cứ vào đó, các địa phương, lực lượng tham gia truy quét FULRO đã tập trung quán triệt sâu sắc chính sách dân tộc, tôn giáo, kết hợp chặt chẽ với công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực cơ sở chính trị địa phương vững mạnh theo tinh thần Chỉ thị số 04/CT-TW của Trung ương Đảng, qua đó đã từng bước đáp ứng những yêu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Quán triệt Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư, các cấp ủy Đảng địa phương đã tổ chức thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện chỉ thị của Trung ương (gọi tắt là Ban Chỉ đạo 04) ở các cấp tỉnh, huyện, xã. Ban chỉ đạo do 1 đồng chí trong cấp ủy cùng cấp (thường là đồng chí phó bí thư thường trực tỉnh ủy, huyện ủy) làm trưởng ban, các thành viên khác gồm chỉ huy, lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương và các đơn vị quân đội, công an đứng chân trên địa bàn. Với phương thức tổ chức ban chỉ đạo như thế, đã giúp cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền các cấp trực tiếp lãnh đạo toàn diện và có điều kiện để nắm chắc tình hình cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở địa phương mình và tạo điều kiện để ban chỉ đạo 04 của các địa phương có đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo, trực tiếp điều hành các lực lượng tham gia cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Đồng thời, Ban chỉ đạo có đủ lực lượng để thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng, kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức và thực hiện chính sách dân tộc, bảo đảm hoàn thành được các kế hoạch, nhiệm vụ công tác đã xác định theo từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt, ban chỉ đạo 04 ở từng cấp đã phát huy cao độ lực lượng của các tổ, đội công tác bám cơ sở, vừa tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, vừa giúp đỡ quần chúng xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống đồng bào và vận động quần chúng cùng tham gia cuộc đấu tranh giải quyết FULRO; qua đó, đã trực tiếp nâng cao hiệu quả công tác ở từng địa phương.


Bên cạnh việc đề ra chủ trương, đường lối, nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh đúng, Trung ương Đảng còn rất quan tâm, dành nhiều thời gian chỉ đạo và phân công các đồng chí lãnh đạo có uy tín, am hiểu tình hình Tây Nguyên trực tiếp đi xuống cơ sở để chỉ đạo triển khai thực hiện Chỉ thị số 04 (các đồng chí Phạm Hùng, Võ Chí Công) và nhiều lần mở các hội nghị1 (Các hội nghị ở Nha Trang (1981), Buôn Ma Thuột (1982), Đà Lạt (1983), Pleiku (1985), Thành phố Hồ Chí Minh (1980, 1987) và nhiều hội nghị rút kinh nghiệm ở các tỉnh) kiểm điểm, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải quyết FULRO. Qua các hội nghị, các địa phương đã quán triệt sâu sắc thêm sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, tổ chức thực hiện nhiệm vụ tương đối đồng đều; các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở được củng cố, có quyết tâm cao, huy động được sức mạnh tổng hựp trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Đặc biệt, trong quá trình triển khai thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Ban Bí thư đã có Thông báo số 25/TB-TW ngày 27 tháng 6 năm 1981, Thông tri số 20/TT-TW ngày 10 tháng 12 năm 1982, kịp thời chấn chỉnh và cụ thể hóa, hướng dân thực hiện những nội dung, biện pháp đấu tranh nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh giải quyết FULRO trong thời gian sớm nhất; Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã liên tiếp có nhiều công văn, công điện2 (Chỉ thị số 268/CP ngày 20 tháng 8 năm 1980, Chỉ thị số 79/TT ngày 31 tháng 3 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)), vừa đôn đốc, vừa cụ thể hóa chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, đưa vào thực tiễn phù hợp với đặc điểm tình hình từng địa phương do đó đã tạo được sự chuyển biến tích cực về an ninh chính trị, trật tự xã hội, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân địa phương. Để đảm bảo thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng, Ban Bí thư còn chỉ đạo các ban, ngành ở Trung ương tập trung lực lượng hỗ trợ cho các địa phương (Ban Dân tộc Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Quân khu 5), các lực lượng này đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng tại chỗ của địa phương, tiến hành đồng bộ các mặt công tác (quân sự, chính trị, binh vận, văn hóa - xã hội, giúp dân phát triển sản xuất) và làm công tác vận động quần chúng, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh giải quyết FULRO với củng cố, xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở, kết hợp giữa trấn áp phản cách mạng với thực hiện tốt chính sách khoan hồng, ta đã xây dựng được khối đại đoàn kết các dân tộc, đồng bào hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất, ổn định cuộc sống mới, phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn dân trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Thực tế đó đã chứng minh sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương xuống tới các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở ở các địa phương là nhân tố cơ bản, nâng cao nhận thức và hành động, tạo sự chuyển biến tích cực, vững chắc, quyết định tới thắng lợi cuối cùng của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.


Như vậy, với việc xác định đúng đường lối, chủ trương, biện pháp tiến hành cuộc đấu tranh giải quyết FULRO của Ban Bí thư Trung ương Đảng, đồng thời thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở ở các địa phướng một cách trực tiếp, toàn diện, thống nhất, ta đã từng bước xây dựng và củng cố được lòng tin của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh làm tan rã tổ chức FULRO. Đây là bài học kinh nghiệm quan trọng nhất, quyết định tới thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO sau ngày miền Nam hoàn toàn giài phóng.


Sau năm 1992, mặc dù tổ chức FULRO đã tan rã nhưng một số phần tử FULRO lưu vong ở nước ngoài vẫn tiếp tục âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng nước la ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Chúng núp dưới danh nghĩa "Hội người Thượng Đề Ga" (MAD), "Hội bảo vệ nhân quyền" (MHRO), dùng thủ đoạn truyền đạo "Tin Lành Đề Ga"... để tập hợp lực lượng, kích động cái gọi là "Nhà nước Đề Ga độc lập" ở Tây Nguyên và tự phong "Tổng thống"; điển hình là những vụ gây rối, bạo loạn tháng 2 năm 2001, tháng 4 năm 2004. Nhưng nhờ có sự cảnh giác cao độ, cấp ủy Đảng và hệ thống chính quyền cơ sở các địa phương, các tổ, đội công tác của lực lượng quân đội, công an đứng chân trên địa bàn tăng cường bám sát, theo dõi chặt chẽ tình hình, giúp cho Đảng, Nhà nước, cấp ủy Đảng các địa phương kịp thời phân tích, đánh giá chính xác âm mưu, thủ đoạn của FULRO, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát, đúng nên đã kịp thời và kiên quyết đấu tranh làm thất bại ý đồ gây rối, bạo loạn của chúng trong nhiều năm sau đó, giữ vững được sự ổn định chính trị, giúp dân xây dựng cuộc sống mới và củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân các dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước.
   Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc tăng cường quán triệt chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, cần tập trung nâng cao sức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; đây là một nguyên tắc, một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược, nhằm không ngừng củng cố lòng tin của đồng bào các dân tộc thiểu số, trực tiếp góp phần xóa bỏ tư tưởng kỳ thị, hận thù dân tộc ra khỏi đời sống nhân dân. Đặc biệt là cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở cần quan tâm đến nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo trong các dân tộc thiểu số (trong đó có Tin Lành), giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa những người theo đạo Tin Lành và những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn đảm nhiệm. Đây là công tác rất quan trọng, phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, đảm bảo chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước đề ra được đi vào thực tiễn đời sống chính trị tinh thần, phù hợp với đặc điểm văn hóa, đời sống "tâm linh" của đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần ngăn ngừa, loại trừ tư tưởng "ly khai", "tự trị" theo kiểu FULRO của các thế lực thù địch.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:04:08 am
2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở trong tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số

Cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở là hạt nhân lãnh đạo và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trên từng địa bàn, địa phương, có vai trò rất quan trọng, quyết định tới mọi thắng lợi hay thất bại, phù hợp hay không phù hợp của đường lối, chủ trương, chính sách đó với thực tiễn đời sống, văn hóa, xã hội ở từng địa phương. Trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, vai trò lãnh đạo và tổ chức thực hiện của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở càng có vai trò quan trọng, quyết định hơn; bởi vì, cuộc đấu tranh giải quyết FULRO diễn ra trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc đều có phong tục, tập quán sinh hoạt, văn hóa khác nhau, để đưa được chủ trương, chính sách của Đảng vào đời sống đồng bào dân tộc, tách được FULRO ra khỏi quần chúng, không ai khác ngoài cấp ủy Đảng và hệ thống chính quyền địa phưđng ở cơ sở. Mặt khác, cuộc đấu tranh giải quyết FULRO luôn gắn liền với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm, do đó phải giải quyết toàn diện các nội dung, nhiệm vụ chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội một cách cơ bản và đạt được độ vững chắc cần thiết. Để giải quyết được toàn điện những vấn đề trên, cân phải tăng cường và nâng cao sức lãnh đạo của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở, nhằm kết hợp chặt chẽ việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của tất cả các ngành, các cấp, các đoàn thể quần chúng với nhiệm vụ đấu ranh giải quyết FULRO tại các địa phương. Thông qua đó, phát động và vận động quần chúng tích cực tham gia xây dựng thực lực chính trị cơ sở, làm trong sạch bộ máy, từng bước giải quyết căn bản tổ chức FULRO. Ngược lại, có giải quyết được FULRO mới có điều kiện để xây dựng các tổ chức, các ngành, các đoàn thể quần chúng và thực lực chính trị cơ sở địa phương vững mạnh, tăng cường sức mạnh tổng hợp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tại các địa phương, cần phải hết sức chú trọng kiện loàn bộ máy, tập trung nâng cao tính chiến đấu của cấp ủy Đảng, khả năng quản lý xã hội của hệ thống chính quyền cơ sở, thực hiện đồng bộ, thống nhất các biện pháp đấu tranh, truy quét FULRO, huy động được sức mạnh tổng hợp của địa phương để đạt được những yêu cầu cơ bản của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đề ra.


Thực tiễn cuộc đấu tranh giải quyết FULRO kéo dài 17 năm liên tục (1975 - 1992), ta đã từng bước nâng cao và phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở, trước hết là ở cấp buôn làng, xã ở những khu vực trọng điểm, xây dựng được đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc vững mạnh, kết hợp chặt chẽ và phát huy vai trò các tổ, đội công tác của các lực lượng, các ngành, các cấp, trực tiếp đi tìm hiểu, động viên và phát động quần chúng đấu tranh truy quét FULRO, xây dựng cơ sở chính trị địa phương ngày càng vững mạnh, do đó đã thu hẹp dần phạm vi hoạt động và tách FULRO ra khỏi các buôn làng, nhiều xã ở Tây Nguyên chuyển biến mạnh, từ xã yếu kém đã trở thành xã khá. Sau những thắng lợi bước đầu, từ năm 1982 trở đi, ta rút kinh nghiệm và nhân rộng điển hình về xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, đồng thời cấp huyện, tỉnh đã tăng cường cán bộ có trình độ, chất lượng công tác tốt xuống trực tiếp phụ trách xã để giúp địa phương bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc tại chỗ hoặc trực tiếp làm tổ trưởng, đội trưởng đội công tác của các ngành, các cấp bám sát địa bàn, kiên trì phát động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO. Mặt khác, từ thực tiễn các đội công tác ở địa phương, cấp ủy Đảng đã trực tiếp bồi dưỡng năng lực toàn diện cho các thành viên đội công tác, nhất là về tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo của từng dân tộc thiểu số trên địa bàn, qua đó đã đẩy mạnh phong trào đấu tranh giải quyết FULRO, đảm bảo cho chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng đi vào đời sống xã hội, hiệu quả xây dựng cơ sở chính trị địa phương được nâng cao. Hệ thống chính quyền cơ sở chăm lo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng tại địa phương mình, từ đó quần chúng nhân dân yên tâm sản xuất, ổn định cuộc sống mới, đồng thời tích cực vận động gia đình, người thân nhận rõ bản chất và không nghe, không tin vào những luận điệu xuyên tạc của FULRO. Hơn nữa, từ thực tiễn các địa phương, cấp ủy cấp huyện (huyện ủy) và chính quyền huyện đã tăng cường phân công lãnh đạo, chỉ huy các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện đi trực tiếp cơ sở, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo ở từng địa phương trong địa bàn đảm nhiệm, vai trò của cấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở được nâng cao. Qua đó, quần chúng nhân dân thêm tin tưởng vào cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở, tin tưởng vào chế độ mới, tích cực lao động sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở ngay địa phương mình, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Từ cách làm đúng trên, cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở ở địa phương được củng cố, tạo được lòng tin của quần chúng, phong trào đấu tranh giải quyết FULRO từng bước phát triển toàn diện, cán bộ tại chỗ từng bước trưởng thành, tự đảm đương được nhiệm vụ tại địa phương, tạo điều kiện để rút dần các tổ, đội công tác chuyển sang địa bàn khác. Tuy nhiên, phương pháp tổ chức, cách làm ở từng địa phương chưa đồng đều, nhiều nơi tổ chức còn chưa chặt chẽ, hoạt động chưa thường xuyên liên tục, hiệu quả công tác chưa có chuyển biến mạnh; các tổ, đội công tác của tỉnh, huyện và của các lực lượng khi xuống cơ sở còn có tình trạng làm thay cán bộ tại chỗ, do vậy vai trò của câp ủy Đang, chính quyền địa phương chưa được đề cao và chưa được củng cố vững chắc, thời gian để khắc phục hạn chế trên kéo dài. Từ thực tiễn đó, ban chỉ đạo 04 cấp tỉnh, cấp huyện đã tham mưu cho các tỉnh ủy, huyện ủy tăng cường công tác lãnh đạo chỉ đạo, bám sát tình hình, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh cấp ủy cấp dưới và hệ thống chính quyền cơ sở trong việc tổ chức thực hiện những chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng tại địa phương mình; qua đó công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở đã từng bước khắc phục được những hạn chế, khuyết điểm, vị trí, vai trò của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở được nâng cao, tạo sự chuyển biến tương đối đồng đều trên toàn địa bàn Tây Nguyên.


Có thể khẳng định, với việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở trong tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng ở vùng đồng bào thiểu số có ý nghĩa rất quan trọng, giữ vai trò then chốt, quyết định tới thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là một công tác rất quan trọng, cần phải tiến hành thường xuyên liên tục, sáng tạo, vận dụng linh hoạt, phù hợp với đặc điểm tình hình nhiệm vụ, đặc điểm văn hóa, phong tục, tập quán tín ngưỡng của từng dân tộc thiểu số, trọng tâm là xây dựng, củng cố và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tại chỗ ở các địa phương vững mạnh, làm nòng cốt trong tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng vào địa phương đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, cần kết hợp chặt chẽ giữa "xây và chống", tuyệt đối tránh việc dập khuôn máy móc những cách làm hay, biện pháp tốt ở địa phương khác vào địa phương mình mà không phù hợp; đồng thời, không được chủ quan, lơ là hình thức hoặc sinh ra bệnh "quan liêu", xa rời thực tiễn làm mất lòng tin của quần chúng đối với cán bộ cơ sở, làm giảm hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO.


Trong thời kỳ mới, thực chất cuộc đấu tranh giải quyết FULRO vẫn chính là cuộc vận động chính trị sâu rộng phải thường xuyên đề cao cảnh giác cách mạng, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các tổ chức và đông đảo quần chúng nhân dân đồng bào các dân tộc thiểu số tại địa phương; tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh, lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu, đồng thời cần tiến hành một cách thường xuyên, cơ bản, lâu dài, có sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng tại chỗ và lực lượng được tăng cường, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, đồng bộ của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở tại địa phương, đây là vấn đề mấu chốt để ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn đòi "ly khai", "tự trị" ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số của các thế lực thù địch trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 29 Tháng Sáu, 2023, 07:04:58 am
3. Thường xuyên phát huy vai trò của các lực lượng, các ban, ngành, đoàn thể địa phương; đồng thời, định kỳ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn, chấn chỉnh kịp thời trong đấu tranh, giải quyết FULRO

Trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp đấu tranh trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội. Trong từng giai đoạn của cuộc đấu tranh kéo dài 17 năm, cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở các địa phương đã sử dụng tổng hợp các lực lượng và tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp đấu tranh một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm từng dân tộc, từng bước đáp ứng nhu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh trên các địa bàn trọng điểm; tiêu diệt, gọi hàng các đối tượng cầm đầu, bọn chỉ huy FULRO ngoan cố, xóa bỏ các căn cứ trong rừng kết hợp chẽ với đấu tranh, bóc gỡ cơ sở ngầm của FULRO trong các buôn làng; chia cắt sự liên lạc giữa các nhóm FULRO, phân hóa nội bộ và làm mất chỗ dựa của FULRO trong quần chúng nhân dân; đồng thời phát huy hiệu quả các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ của lực lượng công an, làm trong sạch địa bàn, tiến hành thắng lợi các chuyên án, từng bước giải quyết triệt để các đối tượng cầm đầu FULRO.


Truy quét, triệt phá tổ chức FULRO là cuộc đấu tranh quyết liệt, phức tạp, với nhiều vấn đề khó khăn về phong tục, tập quán, tiếng nói, chữ viết của từng dân tộc thiểu số, các địa phương đã tổ chức lực lượng tổng hợp, trong đó có phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng lực lượng, đồng thời thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trên cả 3 tuyến: Tuyến trong dân, tuyến ven buôn làng và tuyến căn cứ của địch trong rừng sâu; thực hiện đồng thời 3 cắt: cắt quan hệ giữa FULRO với dân, cắt hành lang, cắt tiếp tế. Đối với các đơn vị bộ đội địa phương huyện, tỉnh cùng với dân quân cơ động xã, phải đồng thời triển khai hoạt động truy quét, làm tan rã các toán FULRO bám buôn làng, các căn cứ chỉ huy của chúng nằm sâu trong rừng; vừa đánh địch, vừa gọi hàng, thực hiện diệt FULRO 1, gọi hàng 10. Đối với các đội phát động quần chúng (gồm các cán bộ Đảng, chính quyền, quân đội, công an, các đoàn thể quần chúng) xuống tận các buôn làng, bám dân, bám địch, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, làm cho họ thấy rõ bộ mặt phản động và thủ đoạn lừa bịp thâm độc của FULRO; từ đó, từng gia đình đã từng bước kêu gọi người thân, con em mình đi theo FULRO trở về với buôn làng xây dựng cuộc sống mới. Qua đó, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương phối hợp với lực lượng quân đội, công an tổ chức thực hiện tốt chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước đôi với những người lầm đường lạc lối theo FULRO quay trở về với cách mạng.


Để giải quyết triệt để FULRO, Đảng ta xác định lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu, nhưng đối với các đối tượng có vũ trang, gây bạo loạn, khống chê quần chúng, đe dọa, hãm hại cán bộ cơ sở thì phải kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng của lực lượng vũ trang để trấn áp bạo lực phản cách mạng do lực lượng FULRO gây ra. Chính vì vậy, biện pháp sử dụng sức mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng là rất quan trọng và cần thiết; đồng thời, lực lượng vũ trang còn trực tiếp hỗ trợ cho quần chúng và các lực lượng khác tiến công chính trị ở những địa bàn trọng điểm. Trong 2 năm đầu (1975 - 1976), ta chủ yếu sử dụng lực lượng quân đội để truy quét, tiêu diệt từng nhóm vũ trang FULRO, do đó đã bảo vệ được thành quả cách mạng, giải tỏa sự khống chế, uy hiếp của FULRO trên các địa bàn trọng điểm, tạo chỗ dựa cho các lực lượng giúp đồng bào dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống mới. Suốt quá trình đấu tranh đó, lực lượng quân đội đã tổ chức nhiều trận đánh vào các căn cứ của FULRO trong rừng sâu, chủ động ngăn chặn các vụ xâm nhập từ bên ngoài hoặc tổ chức lực lượng nhỏ phục kích, đánh các toán FULRO đột nhập vào các buôn làng cướp phá. Từ năm 1977 đến năm 1988, lực lượng quân đội đã đánh 2.025 trận, diệt 2.435 tên, bắt sống 2.938 tên, thu 2.712 súng và nhiều vũ khí trang bị khác, triệt phá nhiều căn cứ, lán trại của FULRO, kịp thời ngăn chặn nhiều vụ vũ trang gây bạo loạn của tổ chức FULRO1 (Ban Dân tộc tồn giáo, Tổng kết công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO và xây dựng toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, Phông số 391/Pg của HĐBT, tháng 3 năm 1988, tr. 5 - 6).


Tuy nhiên, do tính chất phức tạp về nguồn gốc và thủ đoạn lừa bịp quần chúng của tổ chức FULRO, nhiều vấn đề cụ thể về đặc điểm tâm lý xã hội, tập quán sản xuất, sinh hoạt của từng dân tộc, ta phải vừa tìm hiểu, vừa đấu tranh, vừa điều chỉnh cho phù hợp; chính vì vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, ta phải thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm uốn nắn những lệch lạc, đưa chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng vào thực tiễn, phù hợp với điều kiện cụ thể từng dân tộc, tránh những kẽ hở để FULRO có thể lợi dụng xuyên tạc.


Theo dõi chặt chẽ kết quả đấu tranh giải quyết FULRO, Trung ương Đảng đã nhiều lần mở hội nghị rút kinh nghiệm, định kỳ sơ kết và chỉ đạo các cấp ủy Đảng các địa phương, các lực lượng kịp thời chấn chỉnh những sơ hở, sai phạm về thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; chính qua các hội nghị sơ kết, tổng kết đã khẳng định rõ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, tầm quan trọng của việc kết hợp công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương với biện pháp vũ trang truy quét FULRO. Nhờ kịp thời sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm thực tiễn nên ngay trong năm 1977, ta đã cơ bản giải quyết, làm tan rã tổ chức FULRO Chàm ở Thuận Hải; năm 1980, rút kinh nghiệm về công tác trinh sát kết hợp với vận động quần chúng, ta đã bắt gọn bọn chỉ huy, cầm đầu "Quân khu 4" FULRO; năm 1981, qua hội nghị sơ kết ở Nha Trang, ta đã khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng vội, kịp thời điều chỉnh nhận thức, giải quyết triệt để FULRO rừng bước cơ bản, lâu dài, cắt đứt sự liên hệ giữa FULRO với các thế lực bên ngoài; năm 1984, bọn FULRO lưu vong ở nước ngoài đưa từng toán về nội địa lập mật cứ ở vùng Sa Thầy, ta đã kịp thời mở các chuyên án kết hợp với sử dụng lực lượng quân đội, công an, dân quân tự vệ phù hợp, đánh trúng, tiêu diệt từng toán, cắt đứt sự liên lạc giữa bên ngoài với bên trong, bóc gỡ cơ sở ngầm FULRO trong các buôn làng, thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của FULRO. Từ năm 1985 trở đi, phát huy kết quả đấu tranh đã giành được, ta vừa kịp thời đẩy mạnh xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất, ổn định đời sống đồng bào, vừa dùng lực lượng nhỏ bám sát những trọng điểm, cô lập và làm phân hóa nội bộ, làm tan rã nhiều nhóm vũ trang FULRO trong nội địa, kết hợp chặt chẽ với lực lượng bảo vệ biên giới Tây Nam ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại nhiều nhóm FULRO từ bên ngoài xâm nhập nội địa. Do vậy, đến năm 1992, cơ bản lực lượng FULRO trong nội địa không còn khả năng hoạt động, phải chạy ra nước ngoài và tuyên bố chấm dứt hoạt động. Có thể khẳng định, với việc thường xuyên theo dõi, bám sát tình hình và kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm, định kỳ sơ kết, tổng kết có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở trong đấu tranh giải quyết FULRO.


Trải qua 17 năm (1975 - 1992) kiên trì, liên tục đấu tranh, kết hợp chặt chẽ các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm và các tỉnh phụ cận, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở, các lực lượng quân đội, công an, các ban, ngành, đoàn thể cả ở Trung ương và địa phương, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, qua đó đã giành được một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Qua cuộc đấu tranh này càng cho ta thấy rõ vai trò lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi cách mạng nước ta. Với đường lối, chủ trương, phương châm, phương pháp đấu tranh đúng đắn, Đảng ta đã lãnh đạo trực tiếp, toàn diện suốt quá trình cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, không ngừng tăng cường vai trò quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp, xây dựng niềm tin của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng, giữ vững an ninh chính trị, ổn định xã hội, giúp cho đồng bào đẩy mạnh công cuộc xây dựng, phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên.


Ngày nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn không ngừng câu kết chống phá quyết liệt cách mạng nước ta, đặc biệt là chúng lợi dụng những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, kích động đồng bào dân tộc thiểu số gây rối, bạo loạn, đòi "ly khai", "tự trị" theo kiểu FULRO, điển hình là các vụ gây rối, bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001, năm 2004. Đây là một âm mưu, thủ đoạn chống phá hết sức nguy hiểm, gây chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, phá hoại và đi ngược lại lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số, làm nguy hại tới sự ổn định chính trị, an ninh, an toàn và trật tự xã hội, cản trở quá trình xây dựng, phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên. Để tiếp tục đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm này, trước hết cần tập trung chăm lo xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở tại các địa phương, xác định rõ trách nhiệm từng cấp trong lãnh đạo nắm tình hình, thường xuyên củng cố thực lực chính trị cơ sở vững mạnh gắn liền với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt là xây dựng "thế trận lòng dân" ngày càng vững chắc. Thường xuyên rà soát, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng ở vùng dân tộc thiểu số, giải quyết dứt điểm những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của đồng bào, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, phù hợp với luật pháp và đặc điểm tâm lý, văn hóa của đồng bào, hạn chế thấp nhất kẽ hở địch có thể lợi dụng xuyên tạc. Đồng thời, cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở cần tập trung bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc, nắm chắc và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của đồng bào, quản lý và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động truyền đạo Tin Lành theo đúng pháp luật Việt Nam, tạo niềm tin cho quần chúng và các chức sắc tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội để xây dựng và phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 06:53:46 am
Bài học 2: Không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn hậu thuẫn FULRO của các thế lực thù địch; kiên trì thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng là điều kiện cơ bản loại trừ tư tưởng "ly khai", "tự trị" ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên

Nghiên cứu lịch sử quá trình phát sinh, phát triển, sự tồn tại và hoạt động của tổ chức phản động FULRO cả trước và sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), chúng ta thấy rõ tổ chức này là một sản phẩm của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và các thế lực thù địch nước ngoài, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc thiểu số để hòng chống phá lâu dài cách mạng nước ta. Mặc dù trong mỗi giai đoạn, sự chống phá và hoạt động của chúng tồn tại dưới nhiều hình thức, thủ đoạn khác nhau, nhưng bản chất chính trị không thay đổi của FULRO là lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, kích động tư tưởng hẹp hòi, kỳ thị, gây hận thù dân tộc, đòi "ly khai", "tự trị", hình thành tổ chức phản động đối lập, nhen nhóm và tiến hành các hoạt động vũ trang, bạo loạn, làm mất ổn định từ bên trong, phá hoại chính sách đại đoàn kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam của Đảng, Nhà nước ta. Trong suốt một thời gian dài (1975 - 1992), tổ chức phản động FULRO hoạt động chống phá cách mạng đều mang màu sắc của vấn đề dân tộc, tôn giáo trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và các tỉnh phụ cận; những hoạt động đó của FULRO đã để lại nhiều ảnh hưởng, tác động tiêu cực kéo dài, gây nhiều khó khăn, tổn thất, hy sinh, cản trở đến việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tổ chức sản xuất, ổn định cuộc sống mới cho đồng bào các dân tộc thiểu số, làm chậm quá trình xây dựng và phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên của Đảng, Nhà nước ta.


Sau khi FULRO tuyên bố chấm dứt hoạt động (1992) đến nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nước ngoài không những chưa từ bỏ âm mưu kích động tư tưởng "ly khai", "tự trị" mà chúng còn tăng cường các thủ đoạn, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số khác trên khắp cả nước, đặc biệt là ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, hòng nhen nhóm các tổ chức phản động, dùng chiêu bài dân tộc, tôn giáo nhằm tạo các nhân tố đối lập, gây rối, làm mất ổn định chính trị, tiếp tục chống phá quyết liệt cách mạng nước ta. Chính vì vậy, chúng ta phải thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình mọi mặt, nhất là âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, kiên trì tổ chức thực hiện đúng chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, không để những kẽ hở mà chúng có thể lợi dụng, đó là biện pháp cơ bản, thiết thực, phù hợp nhất để thực hiện thắng lợi mục tiêu loại trừ nguyên nhân, điều kiện phục hồi FULRO và là biện pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa nảy sinh tư tưởng "ly khai", "tự trị" ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.


Bài học kinh nghiệm này có ý nghĩa thiết thực, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đồng thời giúp Đảng, Nhà nước nắm chắc tình hình, đề ra các giải pháp sát thực tiễn đối với từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tổ chức các hoạt động chính sách phù hợp, xử trí khôn khéo, linh hoạt các tình huống nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong tình hình mới. Để bài học kinh nghiệm này được vận dụng vào thực tiễn, cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

1. Không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, nhất là âm mưu, thủ đoạn hậu thuẫn FULRO của các thế lực thù địch

Trong quá trình xâm chiếm, áp đặt chế độ cai trị đất nước ta, chủ nghĩa thực dân, đế quốc và các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, thực hiện âm mưu "chia để trị" nhằm gây chia rẽ, làm suy yếu khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Chúng dùng mọi hình thức, thủ đoạn tuyên truyền, kích động sự kỳ thị, hận thù giữa các dân tộc, đòi ly khai, tự trị; tạo dựng lực lượng người dân tộc thiểu số chống đối, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc, phục vụ cho chiến lược phản cách mạng của chúng. Ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, thực dân Pháp đã lợi dụng vấn đề dân tộc để lập ra các "xứ tự trị" Thái, Mường Nùng...; mua chuộc, sử dụng tầng lớp trên và đào tạo đội ngũ tay sai người dân tộc thiểu số làm công cụ để thống trị và đàn áp phong trào cách mạng của các dân tộc thiểu số. Ở vùng Chăm, chúng kích động hận thù, gây dựng tư tưởng phục hồi "Vương quốc Chăm Pa"; lôi kéo, mua chuộc, tạo ra đội ngũ tay sai trong tâng lớp trí thức, sinh viên, học sinh người Chăm; đồng thời, thực dân Pháp lập ra "Trung tâm văn hóa Chăm" do linh mục Moussay cầm đầu; Mỹ cho mở trường Pôklong dành riêng cho con em người Chăm nhằm chi phối, điều khiển các tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc phục vụ ý đồ của chúng. Đối với Tây Nguyên, thực dân Pháp lập ra "xứ Tây kỳ tự trị", ép Bảo Đại ban hành quy chế "Hoàng triều cương thổ" nhằm độc quyền nắm giữ, khai thác Tây Nguyên.


Sau năm 1954, đế quốc Mỹ không trực tiếp cai trị Tây Nguyên như thực dân Pháp, nhưng thông qua việc tạo dựng thế lực đối lập với chính quyền tay sai, trên cơ sở tổ chức FLHPM (Mặt trận giải phóng dân tộc Cao nguyên), Mỹ ngầm ủng hộ và khuyến khích phong trào đấu tranh đòi "ly khai", "tự trị" của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên như một quân bài để gây sức ép đối với chính quyền Sài Gòn, đồng thời âm mưu duy trì ảnh hưởng và quyền chỉ đạo tổ chức FULRO. Sau khi ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975), Mỹ và các thế lực phản động sử dụng tổ chức FULRO làm lực lượng xung kích ở trong nội địa để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Như vậy, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chính là những kẻ khơi dậy vấn đề "ly khai", "tự trị", lập quốc gia riêng ở Tây Nguyên, kích động tư tưởng "phục quốc" của người Chăm và tạo ra tầng lớp những kẻ cầm đầu, những người vừa có quyền lợi gắn bó với chúng, vừa được coi là tổ chức đại diện cho các dân tộc, sử dụng FULRO làm "ngọn cờ" tập hợp lực lượng và biến tổ chức FULRO thành công cụ thực hiện âm mưu "chia để trị" của chúng, nhằm chống phá lâu dài cách mạng nước ta.


Mặt khác, những mâu thuẫn, hận thù giữa dân tộc thiểu số với người Kinh mà tổ chức FULRO lợi dụng một phần còn do lịch sử để lại; trong đó, sự diệt vong của "Vương quốc Chăm Pa" đã để lại tư tưởng mặc cảm đối với người Chăm, từ đó nảy sinh tư tưởng phục quốc của một bộ phận người Chăm. Đối với người Thượng, những xung đột xuất phát từ vấn đề văn hóa, đất đai, đặc biệt là tác động của các chính sách mang tính cưỡng bức, đồng hóa dân tộc của chính quyền Diệm sau năm 1954, làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thiểu số với người Kinh ngày càng trở nên gay gắt. Từ sự phản ứng của tầng lớp trí thức, công chức người "Thượng", nhanh chóng lan rộng trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, trở thành phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, phát triển thành phong trào đối lập với vai trò ngọn cờ tập hợp lực lượng trong các dân tộc thiểu số. Mặt khác, chính sự kích động, hậu thuẫn của các thế lực bên ngoài (lúc đầu chủ yếu là Pháp) đối với những phần tủ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Tây Nguyên và dân tộc Chăm là một yếu tố khoét sâu, làm phức tạp Ihêm những mâu thuẫn của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đối với người Kinh, do vậy, tư tưởng "ly khai", "tự trị" có điều kiện phục hồi và được các thế lực phản động lợi dụng, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam.


Như vậy, sự hình thành và phát triển của tổ chức FULRO bắt nguồn từ âm mưu, thủ đoạn "chia để trị" của thực dân, đế quốc, được chúng lợi dụng và gắn với những mâu thuẫn nội tại, sự kỳ thị, hận thù giữa các dân tộc; biến những mâu thuẫn giữa các dân tộc thiểu số với người Kinh thành vấn đề "ly khai", "tự trị", làm suy yếu khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản của sự hình thành và tồn tại của tổ chức FULRO nên trong quá trình xây dựng, phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, chung ta cần phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, nắm chắc mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; đây là một trong những nội dung, biện pháp hết sức quan trọng để phòng ngừa và đấu tranh làm thât bại âm mưu nhen nhóm tư tưởng "ly khai", "tự trị" trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số của các thế lực thù địch, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 06:55:54 am
Thực tiễn cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992) đã chứng minh, ngay từ đầu ta đã phát hiện và đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và các thế lực thù địch; do vậy, Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ đạo lực lượng vũ trang các địa phương phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bộ đội chủ lực đứng chân trên địa bàn, bên cạnh nhiệm vụ giải giáp, cải tạo các đối tượng chế độ cũ, phải thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động của các tổ chức phản động, trong đó đặc biệt chú ý và tiến hành truy quét, triệt phá tổ chức FULRO, nhằm giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được.


Tuy nhiên, trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO, sau mỗi đợt truy quét thắng lợi, ta còn có biểu hiện chủ quan, thỏa mãn dừng lại, thiếu tập trung chỉ đạo, bộc lộ những sơ hở trong nắm địch và thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng do vậy, FULRO có điều kiện phục hồi, chống phá ngày càng quyết liệt hơn. Đến tháng 2 năm 1977, hoạt động vũ trang của FULRO lại lan rộng ra trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên và một số vùng Nam Khu 5 cũ; chúng trắng trợn giết hại một số cán bộ cơ sở, khống chế nhiều buôn làng, bắt dân tiếp tế, bắt thanh niên đi theo FULRO, tập kích vào cơ quan xã, cướp đường, uy hiếp một số thị trấn, thị xã, trục đường giao thông, phá hoại công việc sản xuất và đời sống của nhân dân1 (Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng, xây dựng cơ sở, truy quét FULRO từ sau giải phóng đến tháng 3 năm 1982 của Quân khu 5, số 08/BC-QK ngày 15 tháng 5 năm 1982, tr. 6). Trước tình hình đó, Trung ương Đảng chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng trên là do "các cấp ủy địa phương thiếu tinh thần cảnh giác cách mạng, không nắm vững những hành động phản cách mạng của địch, nhất là ở cơ sở chưa thấy rõ, chưa thấy đúng mức thực chất của vấn đề FULRO, âm mưu, thủ đoạn thâm độc và lâu dài của chúng, cho nên có phần chủ quan trước kết quả công tác năm 1975 và lơi lỏng trong việc nắm tình hình cụ thể để chỉ đạo tiếp tục truy quét FULRO"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977, tr. 1). Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, sau khi quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị 04/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, mặc dù cùng lúc vừa phải triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam, vừa phải xây dựng, củng cố chính quyền mới, trấn áp các tổ chức phản động trong nước, giải giáp tàn quân chế độ cũ, ổn định đời sống nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng các lực lượng vũ trang và chính quyền các địa phương đã nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm và đề cao cảnh giác cách mạng, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động chống phá cách mạng nước ta. Trong đó, đối với nhiệm vụ đấu tranh giải quyết FULRO, ta đã xác định rõ "giải quyết vấn đề FULRO là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài"; do vậy, ta đã huy động hàng nghìn cán bộ, tổ chức nhiều đội công tác đưa xuống các trọng điểm, phối hợp chặt chẽ với hoạt động của lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phát động quần chúng xây dựng thực lực chính trị cơ sở địa phương ngày càng vững mạnh, hiệu quả truy quét ngày càng được nâng cao.


Đến tháng 3 năm 1982, ta đã loại 37.711 tên (diệt 3.078; bắt 7.427; ra hàng 27.206), trong đó có hơn 2.000 tên đầu sỏ (trung ương FULRO 23; 1 cấp tướng, 18 đại tá, 395 thiếu tá, trung tá; 126 cấp tỉnh; 461 cấp quận), xóa 1 cơ quan trung ương FULRO và làm tan rã lực lượng vũ trang FULRO Chàm; 2 khung sư đoàn, 20 khung trung đoàn, 101 khung tiểu đoàn và yếu khu xã, buôn FULRO Thượng, thu 3.366 súng các loại1 (Ban Dân tộc tôn giáo, Tổng kết công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO và xây dựng toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, Tlđd, tr. 5). Phát huy kết quả đạt được, trên cơ sở hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của địch, ta đã thường xuyên nêu cao cảnh giác, tiến hành đồng bộ các giải pháp chính trị, quân sự, phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, nhận rõ bộ mặt phản động của FULRO; đồng thời, tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, không để những sơ hở cho chúng lợi dụng, nên FULRO ngày càng mất chỗ dựa để tồn tại. Đến tháng 3 năm 1988, cùng với kết quả đạt được trong xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, xây dựng thực lực cách mạng, ta đã tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng vũ trang FULRO, số còn lại có chiều hướng tan rã, loại trừ các hoạt động gây rối của chúng, tình hình an ninh chính trị ở Tây Nguyên cơ bản ổn định2 (Ban Dân tộc tôn giáo, Tổng kết công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO và xây dựng toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, Tlđd, tr. 5). Đến năm 1992, do ta thực hiện đồng bộ các biện pháp đấu tranh, phát triển vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và bị ta truy quét mạnh nên FULRO bị tách ra khỏi quần chúng, không còn chỗ dựa trong dân, những cố gắng móc nối với bên ngoài bị thất bại, số ít cầm đầu FULRO còn lại trong rừng liên hệ với bọn ẩn náu trong các căn cứ ở Mondulkiri (Campuchia), chính thức ra hàng UNTAC, nộp vũ khí và tuyên bố chấm dứt hoạt động; sau đó, bọn này cùng với thân nhân được UNTAC đưa đi định cư ở nước thứ ba. Ta đã chính thức giành được một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Như vậy, trong suốt quá trình 17 năm (1975 - 1992) đấu tranh giải quyết FULRO, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước, quân và dân ta trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và vùng phụ cận đã không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch nước ngoài, sử dụng tổ chức FULRO làm lực lượng xung kích hòng chống phá lâu dài cách mạng nước ta. Trung ương Đảng đã kịp thời đề ra nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng tình hình thực tiễn, cấp ủy và chính quyền các địa phương cùng lực lượng vũ trang kiên trì đấu tranh, có nhiều biện pháp phù hợp, từng bước giải quyết triệt để những mâu thuẫn phát sinh, không để chúng lợi dụng vấn đề "ly khai", "tự tri" trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Đây là một nội dung, biện pháp cơ bản, quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO sau năm 1975 của quân và dân ta.


Sau năm 1992, mặc dù tổ chức FULRO đã bị tan rã nhưng những tàn dư tư tưởng và sự ảnh hưởng của nó đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại, đặc biệt là một số phần tử FULRO lưu vong ở nước ngoài vẫn chưa từ bỏ âm mưu đòi "ly khai", "tự trị", tiếp tục chống phá cách mạng nước ta. Chính vì vậy, chúng ta phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, tổ chức thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng về chính sách dân tộc, tôn giáo, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm, không để những sơ hở chúng có thể lợi dụng, xuyên tạc, đó là một trong những yếu tố cần thiết nhằm giữ vững sự ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc thiểu số ổn định đời sống, đẩy mạnh công cuộc xây dựng và phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 06:57:34 am
2. Kiên trì tổ chức thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, tránh những sơ hở kẻ thù có thể lợi dụng, xuyên tạc, đó là biện pháp hữu hiệu loại trừ tư tưởng "ly khai", "tự trị" ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên


FULRO hoạt động ở vùng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng đồng bào Chăm, trước hết là do âm mưu "chia để trị" của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Sau khi ta giải phóng hoàn toàn miền Nam (1975), FULRO nổi lên chống phá quyết liệt cách mạng nước ta, chúng dùng chiêu bài dân tộc, tôn giáo, lừa bịp và kích động đồng bào các dân tộc thiểu số đòi "ly khai", "tự trị", tiến tới thành lập "Nhà nước Đề Ga" ở vùng đồng bào Thượng và "nước Chăm Pa" của người Chăm theo mưu đồ, kế hoạch hậu chiến. Đồng thời, xuất phát từ tình hình thực lực chính trị cơ sở trước khi ta giải phóng miền Nam, vùng căn cứ của ta trên địa bàn Tây Nguyên số lượng rất ít: Lâm Đồng có 6/70 xã, với 8.000/402.832 dân (1,9%); Đắk Lắk có 25/100 xã, với 9.473/541.385 dân (1,7%); Gia Lai - Kon Tum có 86/180 xã, với 165.970/639.488 dân (25%), phần đông nhân dân bị địch kìm kẹp lâu năm, trình độ hiểu biết còn hạn chế, chưa phân biệt rõ địch - ta nên dễ bị FULRO lừa bịp, khống chế nhiều buôn làng1 (Đến đầu năm 1977, FULRO vẫn còn lũng đoạn ở Đắk Lắk 322/678 buôn (50%), Lâm Đồng 129/289 buôn (40%), Gia Lai - Kon Tum 250/880 buôn làng (30%). Dẫn theo: Báo cáo tổng kết công lác phái động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO từ sau giải phóng đến tháng 3 năm 1982 của Quân khu V, số 08/BC-QK ngày 15 tháng 5 năm 1982). Chính vì vậy, quá trình đấu tranh giải quyết FULRO, đi đôi với việc ngăn chặn âm mưu của kẻ địch từ bên ngoài, ta phải kiên trì tuyên truyền, giáo dục, làm cho đồng bào hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, phân biệt và nhận rõ bộ mặt phản động của FULRO; đồng thời, tổ chức thực hiện tốt những chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm giũ vững và tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, tạo điều kiện cho đồng bào ổn định cuộc sống mới, xây dựng và phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên; trên cơ sở đó, tập trung giải quyết tốt những vấn đề trong nước, đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ, kích động, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của kẻ thù.


Trong 2 năm đầu (1975 - 1976), xuất phát từ tình hình thực tiễn cơ sở cách mạng trên địa bàn còn yếu, ta còn đang tập trung giải quyết nhiều công việc nên đã huy động lớn lực lượng vũ trang, cả bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, tiến hành truy quét quy mô lớn, chưa chú ý tới công tác tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo. Do vậy, sau những thắng lợi ban đầu, ta chủ quan đánh giá "FULRO đã căn bản được giải quyết, xem chúng như bọn phỉ, tàn quân", giảm dần mức độ phát động quần chúng đấu tranh bóc gổ cơ sở của chúng trong dân, nên FULRO có điều kiện phục hồi và hoạt động mạnh trở lại. Trước thực trạng đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 "Về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ". Trong đó Trung ương chỉ rõ, "vấn đề FULRO không phải đơn thuần là vấn đề quân sự, mà chủ yếu là vấn đề chính trị, phải được giải quyết một cách cơ bản và lâu dài. Việc truy quét FULRO phải gắn liền với việc thực hiện chính sách của Đảng đối với dân tộc, tôn giáo, gắn liền với các nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị số 04-CT/TW ngày 2 tháng 2 năm 1977, tr. 1). Quán triệt Chỉ thị số 04 của Trung ương Đảng, trong năm 1977, ta đã huy động hàng nghìn cán bộ các ngành, các cấp, các lực lượng quân đội, công an tổ chức thành các tổ, đội công tác đưa về cơ sở, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, kết hợp chặt chẽ với phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, từ đó hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO có sự chuyển biến mạnh và giành được những kết quả quan trọng, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được củng cố".


Phát huy kết quả đạt được, trong suốt 11 năm sau đó (1977 - 1988), ta kiên trì bám sát cơ sở, tổ chức thực hiện đúng các chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, xây dựng và củng cố thực lực cách mạng ở cơ sở, giúp đồng bào dân tộc thiểu số đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, gắn liền với quá trình đấu tranh giải quyết FULRO. Trong quá trình đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng thường xuyên theo dõi sát và phân công những đồng chí lãnh đạo có uy tín, am hiểu tình hình Tây Nguyên (Phạm Hùng, Võ Chí Công) vào trực tiếp chỉ đạo, mở nhiều hội nghị ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Lạt, Pleiku để kiểm điểm, rút kinh nghiệm, chấn chỉnh kịp thời những lệch lạc và bổ sung nội dung, biện pháp trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước.


Nhờ có sự chỉ đạo sát đúng tình hình nên các địa phương đã tổ chức được 51.973 lượt cán bộ, lập 950 đội công tác trực tiếp xuống cơ sở tiến hành phát động quần chúng xây dựng thực lực chính trị ở 840 xã trọng điểm; qua đó, đồng bào các dân tộc đã nâng cao nhận thức, giác ngộ chính trị, ý thức làm chủ tập thể, xây dựng khôi đại đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống. Đại đa số quần chúng nhân dân đã hiểu rõ đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo, sự chăm lo cho đồng bào của Đảng, Nhà nước ta; do vậy, đã tích cực tham gia các phong trào xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương, chính quần chúng nhân dân đã phát hiện và bóc gỡ 61.301 cơ sở của FULRO nằm vùng trong các buôn làng. Trên cơ sở đó, ta đã xây dựng, củng cố các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở 803 xã, đào tạo, bồi dưỡng được 5.361 cán bộ người dân tộc thiểu số, có 2.552 người giữ các cương vị chủ chốt (bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch) tại các địa phương, kết nạp được 8.743 đảng viên người dân tộc thiểu số; các tỉnh Tây Nguyên đã phát triển được 109.000 dân quân tự vệ là người dân tộc, từng bước tự đảm đương nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn trật tự, an ninh tại địa phương; điển hình là các xã Cuôr Đăng, Ea Đrông, Cư Yút, Ea Kar... của tỉnh Đắk Lắk; Pô Kô, Sa Bình, Át Ra, la Le... của tinh Gia Lai - Kon Tum; Đam Rông, Đạ Sar, K’Đo, Đinh Văn của tỉnh Lâm Đồng. Phong trào định canh, định cư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được phát triển mạnh, với 865.981 nhân khẩu, 90.987 hộ gia đình ở 210 xã của 9 huyện đã hoàn thành định canh, định cư; qua đó, quy hoạch được 102.996ha đất canh tác (có 25.496ha làm lúa nước), xây dựng 251 công trình thủy lợi, đảm bảo tưới tiêu cho 8.960ha; xây dựng được 100 hợp tác xã nông nghiệp, hơn 1.000 tập đoàn sản xuất trong vùng đồng bào dân tộc. Đặc biệt, ta đã xây dựng các nông, lâm trường Ea Kao, Ea Kar, Krông Pắk, cao su Chư Sê, Mang Yang, chè, cà phê Di Linh, Bảo Lộc, thu hút và tạo công việc làm ổn định cho hàng vạn đồng bào các dân tộc thiểu số, qua đó đồng bào các dân tộc càng hiểu rõ chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và tham gia ngày càng tích cực vào cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Về giáo dục, đã hình thành hệ thống trường học từ cấp tỉnh xuống đến cấp xã, với 415 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông, hơn 106.800 học sinh là con em đồng bào các dân tộc được đến trường, sau đó các tỉnh còn xây dựng bổ sung thêm một số trường nội trú, trường bổ túc văn hóa, đảm bảo cho học sinh dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa đều được tới trường, góp phân xóa nạn mù chữ ở Tây Nguyên. Cùng với chương trình giáo dục phổ thông, được sự đầu tư của Trung ương và chỉ đạo của Bộ Giáo dục, một số phân hiệu đại học ở Đà Lạt, Buôn Ma Thuột và nhiều trường chuyên nghiệp, ngành nghề khác được thành lập, góp phần đào tạo con em người dân tộc thiểu số trở thành một tầng lớp trí thức mới, phục vụ chính đồng bào các dân tộc. Ngoài ra, ta còn tổ chức thực hiện tốt Quyết định số 53/CP của Hội đồng Bộ trưởng, bên cạnh chương trình dạy chữ quốc ngữ, các tỉnh đều đã đưa chương tình dạy chữ các dân tộc Gia Rai, Cơ Ho, Chăm..., vào trong các trường trang học cơ sở ở vùng đồng bào thiểu số, thể hiện chính sách tôn trọng văn hóa, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc, việc này đã tạo được sự đồng thuận và tin tưởng của các tầng lớp già làng, trí thức, chức sắc tôn giáo đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần làm thất bại các luận điệu xuyên tạc của FULRO. Về y tế, toàn Tây Nguyên đã xây dựng được 146 trạm xá, bệnh xá khu vực, với 748 bác sĩ, y sĩ, y tá, hộ lý, điều dưỡng là người dân tộc trực tiếp chăm lo sức khỏe, chữa bệnh cho nhân dân vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Những thành tựu, kết quả đạt được của sự kiên trì tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng Nhà nước ta ở các địa phương, đã trực tiếp giúp đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu rõ bản chất tốt đẹp của chế độ mới, phân biệt rõ sự lừa bịp của FULRO, qua đó đã tách FULRO ra khỏi quần chúng nhân dân, góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 07:00:15 am
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện và giám sát các địa phương tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào các dân tộc chấp hành đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước còn có những hạn chế, khuyết điểm nhất định; sự quan tâm xây dựng, phát triển toàn diện các vùng dân tộc thiểu số chưa đồng đều, có thời điểm còn chưa đạt hiệu quả thiết thực, tạo kẽ hở để FULRO lợi dụng xuyên tạc. Những thiếu sót đó đã ảnh hưởng tới mục tiêu cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, ta phải mất nhiều thời gian kiểm điểm và tìm biện pháp khắc phục. Những kết quả to lớn đạt được cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, đặc biệt là đời sống vật chất, tinh thần, quyền làm chủ và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số được tôn trọng, cải thiện đáng kể, đó là những minh chứng thiết thực, bao trùm toàn diện, tạo ra những thay đổi có lợi cho cuộc đấu tranh giải quyết FULRO của ta ở Tây Nguyên. Tựu trung lại, những kết quả đạt được trong việc kiên trì tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số là hết sức quan trọng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, giúp đồng bào hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đây là biện pháp cơ bản, quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.


Với những kết quả to lớn đạt được, từ năm 1988 trở đi, ta tiếp tục chỉ đạo các tỉnh trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và vùng phụ cận kiên trì thực hiện chính sách dàn tộc, tôn giáo, vận dụng sáng tạo, phù hợp với đặc điểm từng địa phương theo đường lối "Đổi mới" Đảng ta đề ra; do vậy, giai đoạn 1988 - 1992, kết quả xây dựng, phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên có bước tiến bộ vững chắc, đời sống của đại đa số đồng bào các dân tộc được cải thiện rõ rệt, nhân dân yên tâm, phấn khởi đẩy mạnh phát triển sản xuất, làm kinh tế; đặc biệt, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đã chủ động phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dan cùng với sự giúp đỡ, đầu tư của Trung ương, của các ngành kinh tế, tập trung chăm lo xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng giao thông, mạng lưới điện, hệ thống trường học, bệnh viện trạm y tế, các thiết chế văn hóa cộng đồng nhằm phát triển nền văn hóa đặc sắc các dân tộc Tây Nguyên, nên đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, tạo được lòng tin của nhân dân, làm cho FULRO mất chỗ dựa, bị suy yếu và tan rã dần, cuối cùng chúng buộc phải tuyên bố chấm dứt hoạt động (1992).


Như vậy, kinh nghiệm kiên trì tổ chức thực hiện đúng đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên trong những năm 1975 - 1992 là một kinh nghiệm có ý nghĩa quan trọng, góp phần quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO sau ngày miền Nam giải phóng (1975). Sau khi tổ chức FULRO tuyên bố chấm dứt hoạt động năm 1992, số cầm đầu FULRO lưu vong ở nước ngoài được các thế lực phản động hậu thuẫn vẫn tiếp tục âm mưu đòi "ly khai", "tự tri", chống phá cách mạng nước ta lâu dài. Với chủ trương "phục hồi tổ chức FULRO", phát triển đạo "Tin Lành Đề Ga" ở trong nước để tập hợp lực lượng dân tộc thiểu số, hòng lập "Nhà nước Đề Ga độc lập" trên địa bàn Tây Nguyên. Dưới chiêu bài trên, chúng đã lôi kéo được hàng nghìn người dân tộc thiểu số chạy sang Campuchia, làm cho tình hình an ninh chính trị nhiều thời điểm trở nên hết sức căng thẳng; điển hình là chúng gây ra các vụ biểu tình, bạo loạn ngày 2 tháng 2 năm 2001 và các ngày 10, 11 tháng 4 năm 2004 ở Tây Nguyên, để lại những hậu quả hết sức nặng nề cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa bàn Tây Nguyên. Từ đó đến nay, bọn phản động FULRO lưu vong vẫn không ngừng gia tăng các hoạt động chống phá cách mạng nước ta; thông qua tổ chức "Tin Lành Đề Ga", chúng lừa bịp nhân dân, tuyên truyền "Nhà nước Đề Ga" đã được quốc tế công nhận, lực lượng bên ngoài đã lớn mạnh, do đó chúng kích động quần chúng biểu tình, bạo loạn vào những thời điểm nhạy cảm. Mặc dù những âm mưu, thủ đoạn trên đã được ta đấu tranh làm vô hiệu hóa, nhưng tư tưởng "ly khai", "tự trị" vẫn còn tồn tại trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Chính vì vậy, bôn cạnh việc thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, quân sự, xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở, phát động quần chúng đấu tranh..., cần tiếp tục kiên trì tổ chức thực hiện tốt chủ trương, chính sách dân tộc tôn giáo của Đảng, Nhà nước, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số, chăm lo phát triển toàn diện vùng đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, hạn chế thấp nhất những sơ hở mà chúng có thể lợi dụng chống phá, đó là những việc làm thiết thực, hiệu quả nhất để phòng ngừa, phát sinh tư tưởng "ly khai", "tự trị" ở vùng dân tộc thiểu số.


Trong tình hình mới hiện nay, các cấp ủy Đảng và bộ máy chính quyền, các tổ, đội công tác của các ngành, các cấp, các lực lượng vũ trang cần thường xuyên đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bám sát cơ sở, tìm hiểu và nắm chắc tâm tư, nguyện vọng, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đồng thời, đẩy mạnh việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, tập trung đầu tư mọi nguồn lực để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, chăm lo giải quyết những nhu cầu bức thiết về ăn, ở, đi lại, học hành, y tế... của người dân, làm đến đâu phải mang lại hiệu quả thiết thực đến đó, không để tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm mất lòng tin của nhân dân. Bên cạnh đó, cần quan tâm và tôn trọng đời sống tâm linh, tín ngưõng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số; công nhận và cho phép đăng ký hoạt động đối với các nhóm, chi hội Tin Lành, tạo điều kiện quản lý, đấu tranh, tiến tới xóa bỏ tổ chức "Tin Lành Đề Ga", giúp cho đồng bào hiểu rõ và ủng hộ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, thấy rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO, đó là những công tác thiết thực nhằm giữ vững ồn định để phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Có thể khẳng định, bài học kinh nghiệm về "Không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn hậu thuẫn FULRO của các thế lực thù địch; kiên trì thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng là những điều kiện cơ bản loại trừ "ly khai", "tự trị" ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên" vẫn vẹn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Chúng ta cần tiếp tục quán triệt, nghiên cứu, vận dụng phù hợp với đặc điểm địa lý, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội từng địa phương và phong tục, tập quán sinh sống của từng dân tộc thiểu số, đảm bảo phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên. Đây là những vấn đề cơ bản rất quan trọng, đảm bảo ngăn chặn tư tưởng "ly khai", "tự trị" và sự phục hồi của tổ chức FULRO, góp phần giữ vững ổn định chính trí, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện xây dựng và phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên trong thời kỳ nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 07:03:47 am
Bài học 3: Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, giữa trấn áp với khoan hồng, trong đó lấy tiến công chính trị là chủ yếu, tập trung làm tan rã về tư tưởng và tổ chức của FULRO

FULRO là một tổ chức phản động có vũ trang, sau Đại thắng mùa Xuân 1975, chúng nổi lên hoạt động chống phá cách mạng quyết liệt, gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và vùng đồng bào dân tộc Chăm ở các tỉnh phụ cận. Tính chất hoạt động vũ trang của tổ chức FULRO khác hẳn với hoạt động vũ trang của những đội quân xâm lược, chúng dựng lên một hệ thống chính quyền từ trung ương xuống tới cơ sở, lực lượng vũ trang kiêm nhiệm hành chính, được tổ chức từ cấp đại đội đến sư đoàn (đại đội phụ trách xã, tiểu đoàn phụ trách quận, trung đoàn phụ trách tỉnh, sư đoàn phụ trách quân khu, vùng); ở cấp buôn làng và cấp xã, lực lượng vũ trang thường nằm ven buôn làng (khoảng từ 30 đến 60 tên nằm ngoài rừng) và lực lượng nằm trong dân để khống chế, cưỡng ép đồng bào dân tộc làm việc cho chúng. Lực lượng FULRO nằm trong các buôn làng thường lớn hơn lực lượng ngoài rừng và là cơ sở để chúng hoạt động lâu dài. Các phân tử trong dân thường tìm cách luồn vào các tổ chức chính quyền, đoàn thể, dân quân tự vệ, du kích, tổ chức thành các xã bộ, ấp bộ, hoạt động cả hợp pháp và bán hợp pháp; ngoài ra chúng còn tổ chức một bộ phận bí mật để không chê lực lượng hợp pháp trong dân. Trước tháng 2 năm 1977, nhiều nơi FULRO lũng đoạn chính quyền ở buôn làng, luôn vào ban chỉ huy xã đội, lực lượng an ninh, khống chế, thủ tiêu, bắt cóc cán bộ; lừa bịp, ép buộc thanh niên đi vào rừng để gia nhập lực lượng FULRO; đồng thời, chúng tăng cường kích động quần chúng nhân dân chống lại chính quyền cách mạng. Thủ đoạn hoạt động của FULRO được núp dưới chiêu bài đòi "tự trị", bài xích người Kinh, thành lập "Nhà nước Đề Ga" của người Thượng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên và "nước Chăm Pa" của người Chăm1 (Báo cáo tống kết công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở, truy quét FULRO từ sau ngày giải phóng đến tháng 3 năm 1982 của Quân khu 5 (trong Hội nghị tổng kết kinh nghiệm đấu tranh, giải quyết vấn đề FULRO tại Buôn Ma Thuột), số 08/BC-QK ngày 15 tháng 5 năm 1982) ở các tỉnh phụ cận, tách ra khỏi cộng đồng các dân tộc Việt Nam.


Bọn đầu sỏ, chỉ huy trung ương FULRO hầu hết là nhân sĩ, trí thức thuộc tầng lớp trên trong các dân tộc thiểu số, một số lớn là công chức, sĩ quan chế độ cũ, được đào tạo bài bản, có quyền lợi gắn bó với đế quốc, thực dân, nhưng mang nặng tư tưởng hẹp hòi dân tộc, nên chúng rất ngoan cố; nhiều tên có thâm thù với cách mạng, gây nhiều tội ác với nhân dân, số này tuy không lớn nhưng lại có kinh nghiệm kích động, lôi kéo, lừa bịp, cưỡng ép quần chúng chống phá cách mạng. Số đông người dân tộc thiểu số tham gia FULRO là con em quần chúng nhân dân lao động, do nhận thức lạc hậu, đời sống khó khăn, bị lừa bịp, lôi kéo, khống chế, ép buộc nên đứng vào hàng ngũ FULRO. Vì vậy, tổ chức FULRO nguy hiểm hơn hẳn các tổ chức phản động khác, vì chúng có quá trình nhiều năm chống lại chính quyền Sài Gòn với phong trào đấu tranh đòi quyền lợi cho người dân tộc thiểu số, làm cho quần chúng nhân dân dễ ngộ nhận và cho rằng FULRO là tổ chức đấu tranh vì lợi ích, quyền lợi và là đại diện của người dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, tính chất phức tạp nguy hiểm của tổ chức FULRO khác hẳn với tính chất của các đội quân xâm lược nước ngoài và lực lượng phỉ ở các tỉnh miền núi phía Bắc sau năm 1954. Tổ chức FULRO vừa mang tính chất của một tổ chức phản động có vũ trang có mối liên hệ với thực dân, đế quốc, vừa mang tính chất của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đòi ly khai, tự trị. Những kẻ cầm đầu FULRO thường có địa vị cao trong các dân tộc thiểu số, có uy tín trong quần chúng, đồng thời số cầm đầu FULRO có nhiều thủ đoạn lừa bịp, cưỡng bức, lôi kéo quần chúng nhân dân đứng vào hàng ngũ của tổ chức FULRO để hoạt động chống phá cách mạng.


Mặt khác, đặc điểm văn hóa, tập tục, giáo lý, mối quan hệ của người dân tộc thiểu số trong các buôn làng (phum, sóc, bon, rẫy, ấp...) trên địa bàn Tây Nguyên và vùng dân tộc Chăm, nên quần chúng người dân tộc thiểu số thường tuân thủ nghiêm ngặt các quy định, tập tục do người đứng đầu (già làng, trưởng bản) đặt ra; hơn nữa, do đời sống còn nhiều khó khăn, cùng với các hủ tục nên họ dễ bị lôi kéo, ép buộc làm việc cho FULRO. Đặc biệt, các đối tượng đầu sỏ FULRO rất phản động, ngoan cố, có mưu đồ lớn. Vì vậy, trong quá trình đấu tranh, truy quét, giải quyết FULRO, chúng ta phải kiên quyết, kịp thời trân áp mọi hoạt động vũ trang chống phá cách mạng của bọn phản động, tiêu diệt bọn đầu sỏ, làm tan rã các toán vũ trang của FULRO; nhưng quan trọng hơn là vạch rõ các thủ đoạn lừa bịp, khống chế, cưỡng ép quần chúng nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ tính chất phản động, hại dân của FULRO. Muốn thực hiện thắng lợi những mục tiêu trên, cần phải tiến hành đồng bộ các biệp pháp: Chính trị, quân sự, kinh tế, chăm lo đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần và thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong đó, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, lấy biện pháp đấu tranh chính trị là chủ yếu. Đồng thời, phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa biện pháp quân sự với chính sách khoan hồng đối với những người lầm đường lạc lối quay trở về với cách mạng, với buôn làng nhằm phân hóa hàng ngũ FULRO, làm tan rã từng bộ phận, tạo điều kiện để kiên quyết trấn áp những tên đầu sỏ ngoan cố, hạ uy thếFULRO. Đây là bài học kinh nghiệm rất quan trọng, có tính nguyên tắc trong hoạt động đấu tranh giải quyết triệt để FULRO trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và vùng phụ cận những năm sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 07:07:16 am
1. Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự, truy quét FULRO với tiến công chính trị, trong đó lấy tiến công chính trị là chủ yếu

Xuất phát từ tính chất phản động, dùng bạo lực phản cách mạng để chống phá cách mạng nước ta của tổ chức FULRO, nên quá trình đấu tranh phải sử dụng biện pháp vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để trấn áp bạo lực phản cách mạng; đồng thời phải kếl hợp chặt chẽ với biện pháp chính trị, nhằm mục đích giúp cho quần chúng nhân dân hiểu rõ bản chất phản động của FULRO, tách FULRO ra khỏi đời sống chính trị - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tiến công quân sự là điều kiện cần thiết để trấn áp, tiêu diệt những tên đầu sỏ, ngoan cố, làm tan rã từng toán vũ trang và lực lượng quân sự của FULRO, bảo vệ nhân dân và thành quả cách mạng giành được. Nhưng nếu chỉ tiến công bằng quân sự đơn thuần thì không thể giải quyết được gốc rễ của tổ chức FULRO, chưa đủ điều kiện để xóa bỏ tư tưởng dân tộc hẹp hòi và sự ngộ nhận, cho rằng FULRO là đại diện bảo vệ lợi ích của các dân tộc thiểu số trong quần chúng nhân dân. Điều đó chỉ có thể giải quyết được thông qua tiến công chính trị, yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Ngược lại, nếu chỉ tiến công chính trị mà không đấu tranh bằng biện pháp quân sự thì không trấn áp và tiêu diệt được bọn đầu sỏ, không làm tan rã được những toán vũ trang FULRO, không thúc đẩy được sự đầu thú, ra hàng của những kẻ cầm đầu và số đông người lầm đường lạc lối, đi theo FULRO. Đồng thời, tiến công quân sự còn là biện pháp chủ yếu, trực tiếp hỗ trợ, bảo vệ, giúp cho biện pháp chính trị tiến hành các nội dung tuyên truyền, giáo dục, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, đảm bảo cho biện pháp chính trị đạt được hiệu quả thiết thực, làm thất bại sự lừa bịp về chính trị của FULRO, tách quần chúng nhân dân ra khỏi sự ràng buộc, khống chê cả về vũ lực và tư tưởng, làm thất bại âm mưu gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của FULRO. Vì vậy, quá trình đấu tranh giải quyết FULRO, sự kết hợp đấu tranh bằng biện pháp quân sự với biện pháp chính trị giữ vị trí, vai trò hết sức quan trọng, mang tính chất quyết định tới thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở miền Nam nước ta sau ngày giải phóng.


Mục tiêu của tiến công chính trị là vạch trần bản chất phản động, làm tay sai cho đế quốc, thực dân của FULRO; tách quần chúng nhân dân khỏi sự ảnh hưởng và ràng buộc của chúng; đồng thời làm phân hóa nội bộ, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, thúc đẩy sự tan rã về tổ chức và khuyến khích sự đầu hàng, đầu thú của các đối tượng cầm đầu trong hàng ngũ FULRO. Muốn đạt được những mục tiêu trên, đi đôi với biện pháp tuyên truyền, cần tập trung nâng cao hiệu quả hành động thực tế, làm cho đồng bào tin tưởng và ủng hộ đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Điều đó chỉ thực hiện được thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng, vận động già làng, trưởng bản, tầng lớp nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo và những người có uy tín trong các dân tộc; tổ chức các lớp giáo dục, cải tạo FULRO, vận động người thân, gia đình, kêu gọi chồng, con, anh, em, họ hàng trở về với buôn làng; sử dụng số FULRO bị bắt, đầu thú, ra hàng, trực tiếp phê phán, tố cáo tội ác của FULRO, kêu gọi số còn lẩn trốn trong rừng quay trở về với cách mạng. Đi đôi với các nội dung tuyên truyền đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, cần tập trung vào phương thức tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào sản xuất, chăm lo đời sống, khám chữa bệnh, xây dựng trường học và giúp đồng bào dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống mới, làm cho quần chúng nhân dân ngày càng hiểu rõ và tin tưởng hơn vào chế độ mới, đó là những nội dung thiết thực, có sức thuyết phục, làm vô hiệu hóa các luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của các thế lực phản động và sự lôi kéo quần chúng của FULRO.


Tuy nhiên, nếu ta chỉ đơn thuần sử dụng biện pháp chính trị thì không thể làm tan rã tổ chức, lực lượng vũ trang FULRO bởi vì bọn đầu sỏ, chỉ huy FULRO rất ngoan cố, chúng luôn tìm mọi cách để khống chế, đe dọa đồng bọn, sử dụng vũ lực để khủng bố, giết hại, trả thù đối với những người từ bỏ FULRO quay Irở về với cách mạng. Đồng thời, chúng còn tìm mọi thủ đoạn đe dọa, khống chế gia đình các đối tượng FULRO và buộc họ phải hoạt động cho chúng. Để giải tỏa sự khống chế đó, ta phải dùng biện pháp quân sự để bảo vệ quần chúng, trấn áp, truy quét, tiêu diệt những kẻ cầm đầu ác ôn, hỗ trợ và tạo điều kiện cho mũi tiến công chính trị đạt hiệu quả theo mục đích đề ra. Do vậy, đấu tranh giải quyết FULRO cần kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, tiến công quân sự là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Thực tiễn, sau khi ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975), tổ chức phản động FULRO ra sức củng cố, phát triển lực lượng ở địa bàn chiến lược 3 tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai - Kon Tum) và 5 tỉnh phụ cận (Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải, Đồng Nai, Sông Bé), chúng câu kết với các thế lực phản động nước ngoài, chống phá cách mạng Việt Nam quyết liệt, về hành chính, FULRO chia Tây Nguyên thành 9 tỉnh, 46 quận; về lực lượng, lúc đầu chúng có khoảng từ 3.000 đến 5.000 tên, thành lập 4 khung sư đoàn kiêm 4 vùng chiến thuật, 18 khung tiểu đoàn; đến cuối năm 1975, lực lượng FULRO đã phát triển lên đến trên 30.000 tên. Có lực lượng vũ trang, FULRO đẩy mạnh các hoạt động đánh phá, phục kích, tập kích vào các đơn vị nhỏ lẻ, trụ sở ủy ban hành chính, kho tàng, bắt cóc, giết hại cán bộ của ta ở nhiều nơi, gây nhiều tổn thất cả về người và của, làm cho tình hình an ninh chính trị trở nên hết sức căng thẳng. Cuối năm 1976, FULRO khống chế 871/1.847 buôn, 210/350 xã trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên; trọng điểm hoạt động của FULRO ở vùng ngoại ô thị xã Buôn Ma Thuột, các huyện Krông Búk, Krông Pắk, Krông Nô, Buôn Hồ... của tỉnh Đắk Lắk; Đức Trọng, Đơn Dương, Di Linh, Bảo Lộc của tỉnh Lâm Đồng; Chư Prông, Ajunpa, Sa Thầy của tỉnh Gia Lai - Kon Tum1 (Ban Dân tộc tôn giáo, Tổng kết công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO và xây dựng toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, Tlđd). Lợi dụng chính quyền cơ sở của ta chưa ổn định và còn nhiều sơ hở, FULRO tiến hành hàng trăm vụ tiến công vũ trang vào các buôn làng ở Đắk Lắk, Lâm Đồng, Thuận Hải; nổi bật là 4 vụ tập kích vào Huyện đội Bảo Lộc, ấp Đạ Chay, tiền phương Tỉnh đội Tuyên Đức ở Tiêng Liêng và tập kích vào 1 trung đội thuộc Tiểu đoàn 810 ở Đầm Ròn, tỉnh Lâm Đồng; ở Đắk Lắk, chúng tiến hành 5 vụ tập kích quy mô cấp tiểu đoàn, đánh vào Lạc Thiện, Gung Gié, Buôn Hre, Buôn Hồ, Buôn Triết; ở Gia Lai - Kon Tum, FULRO chưa có hoạt động vũ trang nào đáng kể, nhưng chúng tập hợp lực lượng đội lốt tôn giáo tại nhà thờ Kon Tum, hòng gây bạo loạn dịp lễ mồng 2 tháng 9 năm 1975. Những hoạt động vũ trang của FULRO đã gây thiệt hại, tổn thất cho một số đơn vị bộ đội và chính quyền cơ sở của ta, làm cho tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn Tây nguyên hết sức căng thẳng, nhiều nơi bị đe dọa nghiêm trọng.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 07:08:11 am
Trước những hoạt động vũ trang nguy hiểm của FULRO, trên cơ sở lực lượng vũ trang địa phương và các đơn vị bộ đội chủ lực đứng chân trên địa bàn, trong giai đoạn đầu, ta chủ yếu sử dụng biện pháp quân sự, truy quét, tiến công tiêu diệt bọn đầu sỏ, những kẻ ác ôn, làm tan rã từng bộ phận, từng toán vũ trang của FULRO. Từ tháng 5 năm 1975, lực lượng vũ trang các địa phương cùng lực lượng chủ lực của Quân đoàn 2 (2 sư đoàn thiếu), Quân đoàn 3 (2 sư đoàn thiếu), Quân khu 5 (2 sư đoàn thiếu và Đoàn 335), không quân của Sư đoàn 370 và một số lực lượng khác đứng chân trên địa bàn, tiến hành một số đợt cao điểm truy quét, tiến công vào các căn cứ FULRO. Trong quá trình đó, ta sử dụng lực lượng cấp tiểu đoàn, trung đoàn, được pháo binh, không quân chi viện, tiến công tiêu diệt bọn đầu sỏ, phá hơn 30 căn cứ của FULRO trong rừng sâu và làm tan rã nhiều toán vũ trang ở vùng ven; đến cuối năm 1976, FULRO bị tan rã gân 2/3 lực lượng, chỉ còn lại khoảng gân 10.000 tên (3.500 tên ngoài rừng, hơn 6.000 tên trong dân), chúng buộc phải co cụm củng cố, gom lực lượng lại thành 2 khung sư đoàn kiêm quân khu (Sư đoàn Đam Dy ở Đắk Lắk, Sư đoàn Bi Đúp ở Lâm Đồng), Trung đoàn Pô Than Chàm ở Thuận Hải. Lực lượng trong dân bị bóc gỡ, bị đánh bật ra khỏi nhiều buôn làng. Nội bộ số cầm đầu FULRO bị phân hóa, mâu thuẫn, thanh trừng, giết hại lẫn nhau. Nhờ đó mà ta đã giữ vững được an ninh chính trị, trật tự xã hội ở vùng mới giải phóng, bảo vệ thành quả cách mạng mới giành được.


Tuy nhiên, trong thời gian này ta sử dụng biện pháp quân sự truy quét FULRO tiến hành không liên tục, sau mỗi thắng lợi ta lại sinh ra chủ quan, lơi lỏng, FULRO có điều kiện phục hồi. Mặt khác, do sử dụng lực lượng tiến công, truy quét như tổ chức những trận đánh địch trong chiến tranh giải phóng, hỏa lực không quân, pháo binh lớn, có trận còn gây thương vong đối với cả quần chúng nhân dân nên đã gây ra những mặc cảm và sự hiểu lầm của quần chúng nhân dân đối với cách mạng, tạo kẽ hở cho FULRO lợi dụng xuyên tạc, kích động, lôi kéo quần chúng nhân dân.


Trước tình hình đó, đầu năm 1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 "Về việc tiêp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ". Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đáng và Nhà nước, lực lượng vũ trang các địa phương phối hợp chặt chẽ với lực lượng chủ lực đứng chân trên các địa bàn, tiến hành 2 đợt cao điểm truy quét FULRO (3.7.1977), tiêu diệt và loại 5.260/10.000 tên, xóa phiên hiệu một số đơn vị vũ trang1 (Tiểu đoàn Pô Than Chàm ở Thuận Hải, Tiểu đoàn Lê Lợi ở Lâm Đồng, Ban Thanh tra FULRO ờ Đắk Lắk, Tiểu đoàn Chàm Hoa, căn cứ Đu Long ở Phú Khánh và nhiều toán vũ trang ở vùng ven), bắt nhiều tên đầu sỏ, phá một số căn cứ chỉ huy của FULRO, buộc chúng phải tiếp tục dồn ghép thu gọn đầu mối, thay đổi phiên hiệu, di chuyển tránh né để bảo tồn lực lượng. Như vậy, trong thời gian đầu sử dụng biện pháp quân sự, lực lượng vũ trang của ta đã đẩy lùi, ngăn chặn và làm tan rã một bộ phận quan trọng, bước đầu làm thất bại âm mưu gây bạo loạn và chống phá của FULRO.


Từ tháng 7 năm 1977 đến hết năm 1978, khi các đơn vị bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang của ta tập trung lên hướng biên giới Tây Nam để chống chiến tranh xâm lược của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari, tần suất các đợt truy quét của ta giảm xuống, lực lượng vũ trang FULRO lại khôi phục, chúng luồn người vào trong các tổ chức hợp pháp trong dân và chính quyền cơ sở, tìm cách móc nối với các tổ chức phản động khác. Đến cuối năm 1978, lực lượng vũ trang FULRO phát triển lên tới hơn 8.000 tên (có hơn 2.100 tên ngoài rừng, hơn 6.500 trong dân), chúng tổ chức thành 6 khung sư đoàn, 10 trung đoàn, 44 tiểu đoàn, lập thêm Quân khu 5 và tổ chức hành lang tiến xuống các tỉnh duyên hải miền Trung. FULRO thay đổi thủ đoạn hoạt động, chúng ra sức phát triển lực lượng hợp pháp trong các tổ chức, lực lượng vũ trang cơ sở, đưa đại bộ phận lực lượng vào bám các buôn làng và phân tán trung ương FULRO thành nhiều bộ phận; đồng thời, chúng đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở vùng ven các thị xã, uy hiếp các trục đường giao thông, đánh vào các khu kinh tế mới, cướp bóc tài sản, giết hại, thủ tiêu cán bộ cơ sở, khống chế, ép buộc quần chúng làm việc cho chúng, gây nên tình hình căng thẳng, lo lắng trong nhân dân, một số cán bộ thôn xã không dám bám cơ sở; một số đoạn trên các trục giao thông chiến lược, một số thị xã bị uy hiếp. Ngoài ra, FULRO còn tìm cách móc nối với các tổ chức phản động nước ngoài, lập căn cứ ở trên đất Campuchia để lôi kéo, cưỡng ép, bắt thanh niên người dân tộc đưa sang huấn luyện, sau đó lại luồn trở lại nội địa hoạt động chống phá cách mạng. Đồng thời, FULRO lợi dụng tình hình, kêu gọi viện trợ, gửi thư tới Liên hợp quốc đòi yêu sách theo chỉ đạo của nước ngoài.


Trước tình hình đó, cùng với công tác phát động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, cuối năm 1978 đến đầu năm 1979, lực lượng vũ trang các địa phương phối hợp với các đơn vị bộ đội chủ lực, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công tiêu diệt, đánh bật quân Pôn Pốt ra khỏi những khu vực dọc tuyến biên giới Tây Nam với truy quét FULRO, nên ta đã tiêu diệt và bắt sống một số lớn lực lượng vũ trang FULRO ngoài rừng, khiến cho nội bộ bọn chỉ huy, đầu sỏ FULRO càng thêm mâu thuẫn, chúng thủ tiêu lẫn nhau, hoạt động vũ trang của chúng giảm hẳn. Nhưng từ đầu năm 1980 đến giữa năm 1981, do ta tập trung giúp cách mạng Campuchia, nên FULRO lại khôi phục lực lượng và đưa bọn cầm đầu sang Thái Lan, lập căn cứ ở Pét Úm để huấn luyện và nhận viện trợ của nước ngoài, sau đó đưa lực lượng quay trở về hoạt động rộ lên, chúng đã đưa được một số lớn thanh niên người dân tộc thiểu số sang các căn cứ ở Campuchia và Thái Lan để huấn luyện vũ trang. Nhận rõ vấn đề FULRO, ta chỉ đạo các địa phương tăng cường công tác vận động quần chúng, chăm lo ổn định đời sống cho đồng bào các dân tộc, làm cho đồng bào hiểu rõ chính sách của Đảng, Nhà nước và tính chất phản động của FULRO; đồng thời, các địa phương đã kết hợp chặt chẽ với biện pháp quân sự, sử dụng lực lượng vũ trang (Sư đoàn 10, Sư đoàn 320, Sư đoàn 968 cùng lực lượng vũ trang địa phương kết hợp với công an các tỉnh) mở liên tiếp một số đợt cao điểm tiến công tiêu diệt các nhóm vũ trang của FULRO. Từ năm 1981 đến hết năm 1982, trong các đợt truy quét, ta đã kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp quân sự với củng cố, xây dựng chính quyền cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, vì vậy đã làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng vũ trang FULRO ngoài rừng và kêu gọi được nhiều đối tượng lầm đường quay trở về với buôn làng, tham gia tích cực các hoạt động binh vận, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 07:09:44 am
Quá trình truy quét FULRO từ năm 1975 đến năm 1982, có hiện tượng lặp đi lặp lại gần như thành quy luật, trong các đợt cao điểm truy quét, lực lượng FULRO thường phân tán tránh né, tìm cách chui vào trú ẩn hợp pháp trong dân; hết cao điểm, ta giãn ra thì chúng lại khôi phục lực lượng và tăng cường hoạt động1 (Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở, truy quét FULRO từ sau giải phóng đến tháng 3 năm 1982 của Quân khu 5, Tlđd). Nguyên nhân của hiện tượng trên là do ta nắm địch không chắc, kết hợp giữa tiến công quân sự với phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị và làm công tác binh vận thiếu chặt chẽ, không liên tục, vì vậy, nhiều trận đánh của lực lượng vũ trang không diệt được bọn đầu sỏ và cơ quan đầu não FULRO. Nhận rõ nguyên nhân của những khuyết điểm, hạn chế, thiếu sót, sau đó ta đã kết hợp chặt chẽ giữa phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị với đấu tranh bằng biện pháp vũ trang, phân loại rõ từng đối tượng và bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, đề ra phương châm, phương thức hoạt động vũ trang, cách đánh phù hợp với từng đối tượng, từng tuyến FULRO.


Đối với tuyến trong dân, ta tập trung phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, tăng cường các đội công tác, kết hợp chặt chẽ biện pháp hành chính với phát động phong trào toàn dân làm công tác binh vận, bóc gỡ phần tử FULRO hợp pháp trong dân và kêu gọi những người theo FULRO trở về, phá chỗ dựa của FULRO trong các buôn làng. Đối với tuyến ven, do lực lượng dân quân tự vệ, công an, cơ sở mật, bộ đội địa phương và các tổ chức quần chúng tại địa phương có nhiệm vụ phát hiện chính xác các toán vũ trang bám buôn của FULRO; thường xuyên, liên tục tiến hành công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, gọi hàng, kết hợp chặt chẽ với vận dụng cách đánh tập kích, phục kích, lừa dụ địch để tiêu diệt hoặc bắt sống làm tan rã từng toán vũ trang của FULRO. Đối với tuyến trong rừng sâu, xác định đây là tuyến ngoan cố nhất, bao gồm bọn đầu sỏ, chỉ huy và cơ quan đầu não FULRO nên cần sử dụng lực lượng vũ trang (cả chủ lực và địa phương) tiến công kiên quyết, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và bọn đầu sỏ FULRO, phá hành lang, căn cứ của chúng; quá trình đấu tranh phải chú trọng công tác trinh sát, nắm địch, phát hiện đúng đối tượng, chủ động truy quét, đánh trúng bọn chỉ huy, đầu sỏ, kiên trì theo dõi, mật phục, cắt đứt sự liên lạc và tiếp tế giữa các tuyến, cô lập lực lượng FULRO trong các căn cứ; khi tiến công, ta đã sử dụng lực lượng quy mô phù hợp, bám sát các hoạt động của chúng, phát hiện chính xác đối tượng và tổ chức chỉ huy, hiệp đồng chặt chẽ, kiên quyết tiêu diệt và bắt sống lực lượng FULRO trong các căn cứ.


Nhờ có chủ trương đúng và chỉ đạo kịp thời cả về nắm địch, xác định rõ từng đối tượng FULRO và phương châm hoạt động, cách đánh phù hợp; trong đó, quy mô các trận đánh được tổ chức chủ yếu ở cấp đại đội, tiểu đoàn và kiên trì mai phục, liên tục bám sát buôn làng, vì vậy đã nâng cao hiệu quả biện pháp quân sự Irong truy quét các toán vũ trang FULRO. Đến tháng 2 năm 1982, ta đã loại hơn 72.000 tên, trong đó có 27 tên trung ương FULRO, 5 cấp tướng, 20 đại tá, 779 thiếu tá, trung tá, 2.074 tên cấp úy; 114 cấp tỉnh, 506 cấp quận, 765 cấp xã; xóa 1 cơ quan trung ương FULRO, 2 khung sư đoàn, 28 khung trung đoàn, 112 khung tiểu đoàn, 92 khung xã, 314 khung buôn làng, thu 12.473 súng các loại1 (Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở, truy quét FULRO từ sau giải phóng đến tháng 3 năm 1982 của Quân khu 5). Trong quá trình đó ta đã kết hợp chặt chẽ giữa truy quét FULRO với truy quét tàn quân chế độ cũ và các nhóm phản động khác, bảo đảm trật tự, an ninh chính trị trên địa bàn đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho mũi tiến công chính trị đạt hiệu quả cao hơn. Qua thực tiễn hoạt động truy quét FULRO và kịp thời rút kinh nghiệm, từ năm 1983 trở đi, hoạt động vũ trang truy quét FULRO của ta thường xuyên được gắn liền với quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng; đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, tạo điều kiện cho nhân dân phát triển sản xuất, ổn định đời sống; trong đó, đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa tiến công bằng biện pháp quân sự với sử dụng số FULRO quay trở về, cùng già làng, trưởng bản và những người có uy tín trong các dân tộc thiểu số, tích cực kêu gọi số còn đang lẩn trốn trong rừng ra đầu thú, làm phân hóa hàng ngũ, bóc gỡ lực lượng FULRO ẩn náu trong dân, thúc đẩy việc cô lập, chia cắt sự liên lạc giữa các nhóm FULRO. Trong quá trình sau đó, ta không còn sử dụng lực lượng vũ trang quy mô lớn để truy quét tràn lan mà tổ chức lực lượng trinh sát bám sát địa bàn, xác định chính xác từng nhóm, từng đối tượng và sử dụng lực lượng vũ trang phù hợp hơn, đánh đúng đối tượng, nên đã tạo được lòng tin và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, biện pháp quân sự đạt hiệu quả và hỗ trợ đắc lực cho biện pháp chính trị. Đặc biệt, trong những năm từ 1984 đến 1987, ta đã phát hiện chính xác và kịp thời đánh tan nhiều toán vũ trang (ZT, ZG, HE, AAC) từ bên ngoài xâm nhập vào vùng ngã ba biên giới, làm thất bại mưu đồ xây dựng mật cứ chống phá cách mạng lâu dài của FULRO ở vùng Sa Thầy, tỉnh Gia Lai - Kon Tum.


Phát huy kết quả đạt được, ta đã kiên trì kết hợp chặt chẽ biện pháp quân sự với biện pháp chính trị, lấy tiến công chính trị là chủ yếu, làm phân hóa nội bộ FULRO. Cùng vđi đó, lực lượng vũ trang kiên trì bám sát, đánh mạnh, đánh đúng đối tượng, vì vậy số ở rừng về đầu hàng ngày càng nhiều, lực lượng FULRO ngày càng bị suy giảm. Đến đầu năm 1988, trong nội địa các tỉnh Tây Nguyên, FULRO chỉ còn lại khoảng hơn 100 tên, chia thành 14 toán1 (Lâm Đồng: 1 toán (7 tên); Thuận Hải: 1 toán (3 - 5 tên); Đắk Lắk: 4 toán (20 tên); Gia Lai - Kon Tum: 8 toán (77 tên)); những toán này thường di chuyển, tránh né, không còn dám công khai hoạt động vũ trang như trước. Từ năm 1988 đến năm 1992, cùng với việc phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, tăng cường chăm lo phát triển sản xuất, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, ta đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ chính trị cho toàn dân, kết hợp với biện pháp đấu tranh vũ trang, sử dụng bạo lực cách mạng trấn áp đúng lúc, đúng đối tượng, nên lực lượng còn lại của FULRO hầu như bị tan rã, số đông phải chạy sang Campuchia, trong nội địa không còn khả năng để hoạt động. Có thể khẳng định, với việc kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp quân sự với biện pháp chính trị, lấy tiến công chính trị là chủ yếu, là một giải pháp quan trọng, quyết định tới thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở địa bàn chiến lược Tây Nguyên sau ngày miền Nam nước ta được giải phóng.


Tuy nhiên, trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO một thời gian dài (1975 - 1979) ta còn nôn nóng, tưởng rằng có thể giải quyết nhanh chóng, nên chủ yếu sử dụng biện pháp quân sự, truy quét tràn lan, dùng lực lượng vũ trang đánh tập trung như đánh địch trong chiến tranh giải phóng, vừa không hiệu quả trong truy quét, vừa không nắm được dân, không tách được chúng ra khỏi nhân dân và tạo kẽ hở cho FULRO lợi dụng khống chế và lôi kéo quần chúng. Quá trình truy quét cũng không liên tục, chưa gắn với hoạt động của các tổ, đội công tác, nên không phát động được quần chúng, không bảo vệ được cán bộ cốt cán ở cơ sở, có nơi còn xem gia đình, người thân FULRO như phần tử địch, thậm chí có nơi còn thực hiện sai chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, nên đã gây hoang mang và tâm lý hận thù, xa lánh của đồng bào các dân tộc với cách mạng, đẩy họ theo FULRO; hơn nữa, cấp ủy, chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương, nhiều nơi còn biểu hiện chủ quan, chưa tập trung đúng mức, có lúc còn bị động trong đấu tranh, truy quét, nên hiệu quả các biện pháp đấu tranh thấp, không tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của quần chúng. Tất cả những hạn chế, thiếu sót trên đã tác động mạnh, khiến cho quá trình đấu tranh giải quyết FULRO của ta phải kéo dài, chịu tổn thất và phải mất nhiều thời gian, công sức mới giải quyết được.


Như vậy, kinh nghiệm về kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, truy quét FULRO với đấu tranh chính trị, lấy tiến công chính trị là biện pháp chủ yếu, giữ vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992). Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, rút kinh nghiệm cả những mặt tích cực và những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ truy quét FULRO trước kia; từ đó, vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở từng địa phương, đơn vị, đặc điểm từng vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đảm bảo đạt hiệu quả thiết thực trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tăng cường xây dựng, phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 07:10:31 am
2. Thực hiện biện pháp quân sự đúng mức, đúng lúc, kết hợp chặt chẽ giữa trấn áp và khoan hồng, một nội dung quan trọng và thiết thực, nhằm nâng cao hiệu quả biện pháp chính trị trong đấu tranh giải quyết FULRO

Trong đấu tranh giải quyết FULRO sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các ban ngành, lực lượng vũ trang đã kết hợp chặt chẽ giữa truy quét bằng biện pháp quân sự với tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về chính sách dân tộc, tôn giáo, xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong đó, biện pháp quân sự của lực lượng vũ trang nhằm trấn áp những nhóm vũ trang, đối tượng đầu sỏ, ác ôn, phân hóa hàng ngũ chỉ huy, giải tỏa sự khống chế của chúng, đây là biện pháp cần thiết, rất quan trọng, có ý nghĩa thúc đẩy nhanh sự tan rã tổ chức FULRO. Hình thức, phương pháp tổ chức, thời điểm sử dụng lực lượng vũ trang để trấn áp, truy quét có tính chất quyết định đến hiệu quả và mục đích của biện pháp quân sự trong đấu tranh giải quyết FULRO. Đồng thời, dùng vũ trang trấn áp đúng lúc còn mở ra thời cơ để thực hiện chính sách khoan hồng đối với các đối tượng FULRO ra đầu thú, đầu hàng, tạo điều kiện để lôi kéo các đối tượng FULRO quay trở về với cách mạng; qua đó, thể hiện tính chính nghĩa và bản chất tốt đẹp của chế độ mới và đó cũng là một cách thức, nội dung phát huy truyền thống nhân đạo của dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đối với những kẻ đi lầm đường, lạc lối, đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan hồng, lấy lời khôn lẽ phải mà bày cho họ, nói lẽ phải chắc họ sẽ nghe"1 (Hồ Chí Minh, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 32). Do vậy, thực hiện trấn áp bằng biện pháp quân sự đúng mức, đúng lúc, đồng thời kết hợp chặt chẽ với khoan hồng rộng rãi với các đối tượng FULRO ra đầu thú, đầu hàng có ý nghĩa rất quan trọng, tác động mạnh tới hiệu quả của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Đặc điểm đối tượng cầm đầu FULRO rất ngoan cố, chúng chủ yếu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lừa bịp, ép buộc, khống chế, bắt ép thanh niên và quần chúng nhân dân người dân tộc thiểu số làm việc cho chúng, phải cầm súng chống lại chính dân tộc mình, gây tội ác với cả người thân của mình ở trong các buôn làng. Chính vì vậy, việc trấn áp không chỉ dừng lại ở mức xử lý, làm vô hiệu hóa khả năng hoạt động của chúng, mà quan trọng hơn là trấn áp để giải tỏa sự khống chế bằng vũ lực và sự lừa bịp của FULRO đối với quần chúng nhân dân. Để đạt được các mục tiêu trên, trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO, ta đã nhiều lần tổ chức rút kinh nghiệm, từng bước khắc phục những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm trong đấu tranh, truy quét bằng biện pháp vũ trang, càng về sau việc tổ chức trinh sát, bám nắm đối tượng và sử dụng lực lượng càng phù hợp hơn, kết hợp tốt hơn giữa công tác vận động quần chúng với kiên quyết trấn áp những đối tượng đầu sỏ, không làm ảnh hưởng tới đời sống nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đối tượng cần phải trấn áp vũ trang được ta xác định rõ là bọn đầu sỏ, chỉ huy những toán vũ trang ngoan cố chống phá cách mạng, có tội ác với nhân dân, do vậy, hiệu quả của biện pháp vũ trang mang lại hiệu quả thiết thực.


Thực tế hoạt động các nhóm vũ trang FULRO thường ở quy mô nhỏ, luồn lách, né tránh và luôn cơ động, chúng thông thạo địa hình, ta khó bám sát và tổ chức trấn áp khi chúng còn đang gây tội ác. Những năm đầu, ta dùng lực lượng vũ trang quy mô lớn truy quét không hiệu quả, có đợt truy quét tràn lan, nhầm đối tượng, tạo kẽ hở cho FULRO lợi dụng, xuyên tạc và gây tâm lý tiêu cực trong đồng bào các dân tộc. Nhận rõ những hạn chế, khuyết điểm và kịp thời rút kinh nghiệm, về sau ta dùng lực lượng nhỏ, luồn sâu, liên tục bám sát đối tượng, tổ chức tiến công kiên quyết, tiêu diệt từng toán vũ trang khi chúng đang hành động, do đó vừa có tác dụng trấn áp, vừa làm cơ sở để tuyên truyền, hỗ trợ cho biện pháp đấu tranh chính trị đạt hiệu quả hơn. Tiểu đoàn bộ binh 20 tỉnh Nghĩa Bình cuối năm 1985 được phân công hoạt động ở tây nam núi Chư Prông (huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai - Kon Tum) tổ chức lực lượng thành từng đơn vị nhỏ, liên tục bám sát toán ZG25, đánh 5 trận diệt 9 tên, bắt sống 8 tên, số còn lại chạy về làng Phung (xã Nhơn Hòa, huyện Chư Sê), liên tục bị bám đánh, đã ra hàng 10 tên. Tiểu đoàn bộ binh 1 của tỉnh Gia Lai - Kon Tum hoạt động ở khu vực Sa Thầy, kiên trì bám địch gần 20 ngày liền (17.11 - 4.12.1985), luồn vào trong căn cứ, tiêu diệt 7/11 tên toán FE, trong đó có tên toán trưởng (Trung tá Y Drôn) là Trưởng phòng 3 Bộ Quốc phòng FULRO. Thực tiễn đó đã chứng minh, việc sử dụng biện pháp quân sự đúng mức, đúng lúc, kết hợp chặt chẽ giữa trấn áp vũ trang và thực hiện chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước đã được phát huy rộng rãi, càng về cuối hiệu quả đấu tranh càng được nâng cao, đóng góp tích cực và thúc đẩy mạnh mẽ mũi tiến công chính trị phát triển.


Song song với việc tổ chức trấn áp vũ trang, ta đã thực hiện khoan hồng rộng rãi đối với các đối tượng FULRO, góp phân thúc đẩy sự đầu hàng, làm phân hóa nội bộ và sự tan rã của tổ chức FULRO. Thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, các địa phương đã quán triệt, nâng cao nhận thức về việc trấn áp kết hợp với khoan hồng, được quần chúng đồng tình ủng hộ, làm cho đồng bào thấy rõ chính sách nhân đạo của cách mạng và chính quyền mới. Đồng thời, thông qua việc thực hiện chính sách khoan hồng, quần chúng nhân dân thấy rõ chính sách của Đảng không phải như FULRO tuyên truyền. Từ thực tiễn đó, làm cho dân hiểu, dân tin vào Đảng, tin vào chế độ mới. Mặt khác, quần chúng nhân dân nhận biết được sự lừa bịp của FULRO và nhận thức rõ FULRO không phải là đại diện, không mang lại lợi ích cho đồng bào dân tộc thiểu số. Việc thực hiện chính sách khoan hồng là một biện pháp hữu hiệu thúc đẩy sự đầu hàng, đầu thú của các đối tượng FULRO, có tác dụng hỗ trợ trực tiếp cho biện pháp chính trị, nhằm xóa bỏ tư tưởng kỳ thị, hận thù giữa các dân tộc thiểu số với người Kinh, xây dựng lòng tin của quần chúng nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng, qua đó xây dựng "thế trận lòng dân" ngày càng vững chắc ở cơ sở.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 06 Tháng Bảy, 2023, 07:11:00 am
Về tổ chức thực hiện chính sách khoan hồng cũng rất linh hoạt, sáng tạo, các địa phương đã tranh thủ số FULRO bị bắt, ra hàng, trực tiếp đứng lên tham gia công tác tuyên truyền, tố cáo tội ác và những hành động hãm hại, trả thù lẫn nhau của các đối tượng cầm đầu, chỉ huy FULRO, vạch trần bản chất phản động của tổ chức FULRO; phương thức này đã mang lại hiệu quả thiết thực, vừa nâng cao nhận thức chính trị cho quần chúng, vừa tác động mạnh mẽ đến số FULRO còn lẩn trốn trong rừng trở về với buôn làng. Đồng thời, ta còn tích cực sử dụng những đối tượng cầm đầu, chỉ huy và những đối tượng FULRO có ảnh hưởng sâu rộng trong đồng bào các dân tộc đã và đang được hưởng chính sách khoan hồng, đi vào tận hang ổ FULRO để thuyết phục, lôi kéo đồng bọn về với cách mạng, tích cực tham gia bảo vệ buôn làng, không để FULRO xâm nhập. Ở Đắk Lắk, ta đã sử dụng tên Y Nay Ghũ (Chuẩn tướng), Y Rin Niê (Trung tá) - Tổng Thanh tra, Y Sũ Niê (Trung tá) - cán bộ cđ quan Bộ Quốc phòng, tiến hành vận động, gọi hàng được 348 tên trong rừng và 2.447 tên trong buôn ra đầu thú. Ở Thuận Hải, Đặng Thị Trào - một nữ sinh người Chăm bị FULRO lừa phỉnh vào rừng, đến khi lâm bệnh thì bị chúng bỏ rơi, ta đã tận tình đưa về cứu chữa khỏi bệnh, giúp đối tượng quay trở lại xây dựng cuộc sống mới; từ đó, chị trực tiếp ca ngợi chính sách khoan hồng của Đảng, nhiệt tình vận động các đối tượng FULRO Chăm ra đầu thú. Trương Thanh Duyên - Chính trị viên Trung đoàn Pothungirai bị ta bắn gãy 2 chân, nhưng được ta chăm sóc, cứu chữa, khi bình phục đã xúc động nói: "Cách mạng đã cứu sống tôi". Những việc làm thực tế đó đã chứng minh tính hiệu quả của các hoạt động nhân đạo, chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước, có tác động mạnh mẽ, mang tính thuyết phục rất cao đối với mọi đối tượng FULRO. Có thể khẳng định, chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước ta là một trong những động lực thúc đẩy họ quay trở về với quần chúng nhân dân xây dựng cuộc sống mới.


Tại Lâm Đồng, sau khi phát động quần chúng đấu tranh với bọn cầm đầu FULRO Vùng 4 giành thắng lợi, xuất phát từ tâm tư tình cảm, nguyện vọng của đồng bào các dân tộc, ta đã thực hiện chính sách khoan hồng đối với 16 đối tượng là những nhân sĩ, trí thức, sĩ quan cao cấp của FULRO, được cảm hóa, nên họ đã lập công chuộc tội, kêu gọi được nhiều đối tượng FULRO về hàng. Tiêu biểu là Ya Duck - nguyên Đại tá, Phó Thủ tướng FULRO được cử làm Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Lâm Đồng, ông là người có uy tín, ảnh hưởng khá lớn đối với đồng bào dân tộc thiểu số và số đã từng tham gia FULRO; sau khi được hưởng lượng khoan hồng, ông đã tích cực vận động quần chúng, kêu gọi FULRO trở về, hòa giải nhiều vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai và các vụ việc mâu thuẫn lợi ích khác trong vùng đồng bào các dân tộc, trở thành hạt nhân chủ chốt xây dựng mối đoàn kết giữa các dân tộc trong tỉnh. Với những đối tượng là sĩ quan, binh lính FULRO (50 người), ta cho học tập, cải tạo, thực hiện chính sách chăm sóc sức khỏe, tổ chức khám chữa bệnh cho họ, sau đó phân loại, giao cho gia đình quản lý, giáo dục, chính quyền địa phương bảo vệ và bảo đảm cho họ quay trở lại cộng đồng; đối với quần chúng là cơ sở của FULRO trong các buôn làng (trên 800 người), ta giao cho chính quyền cơ sở mở lớp tuyên truyền, giáo dục ngay tại buôn làng và giúp họ cam kết không giúp đỡ, tiếp tế cho FULRO.


Như vậy, việc khoan hồng rộng rãi đối với các đối tượng FULRO, chúng ta đã chứng minh sự đúng đắn về chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, cả trong lời nói và việc làm cụ thể, làm cho đồng bào thấy rõ tính ưu việt của chế độ mới; đồng thời giúp cho quần chúng nhân dân nhận rõ bản chất phản động, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy đồng bào các dân tộc thiểu số làm tấm bình phong để che đậy âm mưu nham hiểm của tổ chức FULRO. Với ý nghĩa đó, khoan hồng trở thành một nội dung, biện pháp thiết thực phục vụ cho biện pháp đấu tranh chính trị, góp phần quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.


Trong thời kỳ mới, các thế lực phản động, thù địch nước ngoài vẫn tiếp tục âm mưu tạo dựng ngọn cờ, tập hợp lực lượng, chúng thường lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hòng tạo dựng tổ chức phản động, lực lượng đối lập, gây mất ổn định chính trị ở trong nước, nhằm chống phá lâu dài cách mạng nước ta. Trong quá trình đó, tư tưởng kỳ thị dân tộc và một số phần tử đi theo FULRO trước kia vẫn đang còn tồn tại trong các buôn làng ở Tây Nguyên, đặc biệt là những phần tử FULRO lưu vong ở nước ngoài, được các thế lực phản động hậu thuẫn, chúng chưa từ bỏ âm mưu đòi "ly khai", "tự trị" ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, để xây dựng và phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, chúng ta phải thường xuyên cảnh giác, quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm về "kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh, truy quét FULRO, lấy biện pháp đấu tranh chính trị là chủ yếu", làm cho quần chúng nhân dân nhận rõ tính chất ưu việt, chính nghĩa của chế độ mới, từ đó tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc của các phần tử phản động. Đồng thời, trong thực hiện chính sách nhân đạo, cần tìm hiểu kỹ lưỡng, hạn chế thấp nhất những thiếu sót, không để kẽ hở mà chúng có thể lợi dụng, đó là biện pháp hữu hiệu để loại trừ tư tưởng "ly khai", "tự trị" trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Đối với lực lượng vũ trang địa phương, các đơn vị bộ đội chủ lực và các lực lượng khác đứng chân trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên và vùng phụ cận, bên cạnh việc tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng theo kế hoạch được giao, cần phối hợp chặt chẽ với cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương, thường xuyên chăm lo đời sống, tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc đẩy mạnh sản xuất, nâng cao mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa - xã hội, xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam trong tình hình mới. Đồng thời, các đơn vị quân đội cần tổ chức thực hiện tốt chức năng "Đội quân công tác" trong quá trình xây dựng và phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; muốn thực hiện tốt, trước hết cần quán triệt, tuyên truyền rộng rãi và tổ chức thực hiện đúng những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; hết sức tỉnh táo, lắng nghe, tôn trọng ý kiến và tạo điều kiện đầy đủ cho đồng bào các dân tộc làm chủ cuộc sống của mình; thường xuyên bám sát cơ sở, phát hiện kịp thời và kiên quyết, kiên trì đấu tranh, giải quyết triệt để những vấn đề còn tồn tại, hạn chế thấp nhất những vấn đề mới nảy sinh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc, lừa bịp, lôi kéo quần chúng của các thế lực thù địch, không để chúng lợi dụng và tạo kẽ hở có thể phát sinh tư tưởng "ly khai", "tự trị" trong đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để xây dựng và phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:21:38 am
Bài học 4: Tổ chức thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh gắn liền với quá trình bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên

Công tác vận động quần chúng là một nội dung hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, công tác này trực tiếp góp phần xây dựng và củng cố mối quan hệ "máu thịt" giữa Đảng với nhân dân, xây dựng "thế trận lòng dân". Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên trì, nhất quán quan điểm "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", nên đã thường xuyên chăm lo, dày công xây đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tổ chức toàn dân đánh giặc, coi đó là một nhiệm vụ chiến lược của sự nghiệp cách mạng; nhiệm vụ đó chỉ thực hiện thắng lợi thông qua công tác vận động quần chúng, được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Chính vì vậy, trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại, kiên trì quyết tâm và trường kỳ kháng chiến, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước.


Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, tổ chức phản động FULRO nổi lên chống phá quyết liệt cách mạng nước ta ở Tây Nguyên và vùng phụ cận; chúng lợi dụng trình độ nhận thức của đồng bào các dân tộc còn thấp, không đồng đều và có sự khác biệt, sử dụng chiêu bài "dân tộc, tôn giáo" để lừa gạt, kích động, lôi kco, dùng biện pháp vũ trang để ép buộc, khống chế quần chúng, dựa vào quần chúng đồng bào các dân tộc thiểu số để hoạt động. Trong quá trình hoạt động, FULRO không từ một thủ đoạn nào để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, tạo kẽ hở để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là chia rẽ giữa đồng bào dân tộc thiểu số với người Kinh. Đồng thời, chúng ráo riết móc nối, củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng ngầm trong dân, lừa bịp nhân dân để khuếch trương thanh thế và dùng lực lượng này khống chế, ép buộc quần chúng cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men, bổ sung quân số cho lực lượng vũ trang trong các căn cứ FULRO ngoài rừng, làm lũng đoạn chính quyền cách mạng ở cơ sở, uy hiếp các trục đường giao thông huyết mạch trên địa bàn. Như vậy, FULRO cũng nhận biết và rất coi trọng vai trò của quần chúng đồng bào dân tộc thiểu số đối với sự tồn tại và hoạt động của tổ chức này, chúng cho rằng "điều kiện căn bản để giành thắng lợi cũng không còn là binh hùng tướng mạnh, vũ khí tối tân, mà là cuộc chạy đua, tranh thủ lòng dân"1 (Bộ Công an, Tổng kết lịch sử cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Sđd, tr. 94). Trước âm mưu nham hiểm của FULRO và đặc điểm tình hình các dân tộc thiểu số, nhận rõ những thủ đoạn lừa bịp, khống chế quần chúng của FULRO, Đảng ta đã kịp thời ra Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 "Về việc phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ"; trong đó xác định "FULRO không phải đơn thuần là vấn đề quân sự mà chủ yếu là vấn đề chính trị, phải được giải quyết một cách cơ bản, lâu dài. Việc truy quét FULRO phải gắn liền với việc thực hiện chính sách của Đảng đối với dân tộc, đối với tôn giáo, gắn liền với các nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 "Về việc phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ", Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 1). Trên cơ sở Chí thị số 04/CT-TW của Trung ương Đảng, các cấp ủy Đảng cùng hệ thống chính quyền địa phương đã chủ động chuyển hướng đấu tranh, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị tại địa phương minh, từng bước đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giải quyết tổ chức phản động FULRO.


Thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TW của Ban Bí thư, điều mấu chốt là phải làm cho đồng bào các dân tộc nâng cao nhận thức, giác ngộ chính trị, phân biệt rõ địch - ta; điều đó chỉ thực hiện được thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục bền bỉ, kết hợp chặt chẽ với những việc làm thiết thực, mang lại lợi ích, ấm no cho đồng bào; bởi vì, đối với đồng bào dân tộc thiểu số không gì có sức thuyết phục hơn bằng những kết quả việc làm cụ thể, người thực việc thực, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng, tâm lý và phù hợp với phong tục truyền thống của từng dân tộc, từng đối tượng quần chúng. Trong quá trình tiến hành công tác vận động quần chúng, cần đặc biệt tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của già làng, tầng lớp trí thức, số FULRO đã quay trở về buôn làng để cùng tiến hành công tác vận động quần chúng. Những nội dung công tác trên, muốn tổ chức thực hiện đạt được mục tiêu đề ra, trước hết phải xây dựng được hệ thống chính quyền cơ sở vững mạnh, dám nghĩ, dám làm, là tấm gương để quần chúng noi theo và cùng thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng. Đồng thời, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh có ý nghĩa tạo niềm tin cho quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng, tích cực hơn trong lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Thông qua hệ thống cơ sở chính trị địa phương, cán bộ cơ sở tổ chức tuyên truyền, giáo dục, làm cho quần chúng nhận rõ âm mưu thâm độc, sự phản động của FULRO, từ đó quần chúng nhân dân trực tiếp tham gia phòng ngừa, đấu tranh giải quyết FULRO ngay trong tùng gia đình minh, đó là cách chủ động, tích cực nhất, là cách tốt nhất quyết định tới thắng lợi cuối cùng của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Như vậy, hệ thống chính quyền cơ sở vững mạnh có vai trò rất quan trọng trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở, họ vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại địa phương, vừa trực tiếp sinh sống cùng với đồng bào các dân tộc, nên họ là người hiểu rõ nhất tâm tư, nguyện vọng của đồng bào và tổ chức các hoạt động, công việc cụ thể tại địa phương phù hợp với điều kiện thực tiễn; do vậy, quá trình xây dựng hệ thống chính quyền cơ sở phải gắn liền với xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, đây là điều cốt lõi để tập hợp, tổ chức quần chúng đẩy mạnh thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.


Thực tiễn cuộc đấu tranh giải quyết FULRO những năm đầu, thực hiện chủ trương dùng biện pháp quân sự truy quét, tiêu diệt từng nhóm vũ trang FULRO ngoài rừng, ta thiên về sử dụng lực lượng vũ trang trấn áp, trong đó có cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, dùng cả không quân, pháo binh chi viện cho những trận đánh, ta tưởng rằng sẽ nhanh chóng giải quyết được tổ chức FULRO. Nhưng cứ hết đợt truy quét, lực lượng vũ trang của ta rút thì FULRO quay trở lại hoạt động mạnh, vấn đề càng trở nên phức tạp hơn; hiện tượng này cứ lặp đi, lặp lại nhiều lần, làm cho cuộc đấu tranh giải quyết FULRO kéo dài, thiếu hiệu quả. Trước tình hình đó, qua nghiên cứu bản chất, nguồn gốc tổ chức FULRO, ta thấy rõ vấn đề chính là chúng còn chỗ dựa cơ bản trong đồng bào các dân tộc thiểu số; bởi vì, thành viên FULRO đều là con em của bà con nhân dân, bị bọn chỉ huy, cầm đầu FULRO dụ dỗ, lừa gạt, khống chế, buộc phải đi theo chúng, vì vậy FULRO vẫn được đồng bào thiểu số tiếp tế, cung cấp người và của, che giấu lực lượng. Nhận rõ vấn đề cơ bản trên, Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 nhằm phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần, chăm sóc sức khỏe, nắm bắt nguyện vọng của đồng bào và giúp đồng bào các dân tộc thiểu số đẩy mạnh sản xuất, ổn định cuộc sống mới, qua đó giúp đồng bào hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, tích cực tham gia vận động con em mình không theo FULRO và động viên những người còn lầm đường lạc lối quay trở về với cách mạng, cùng toàn dân xây dựng cuộc sống mới ở buôn làng.



Từ khi có Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư, các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền và các lực lượng tham gia cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đã tập trung lãnh đạo, có nhiều biện pháp tổ chức vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị địa phương ngày càng vững mạnh, tạo được chuyển biến một cách cơ bản, tướng đối đồng đều trên khắp địa bàn Tây Nguyên; đồng bào thấy được bản chất phản động của FULRO, từ đó kết quả đấu tranh giải quyết FULRO có sự chuyển biến vững chắc. Thông qua việc xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương vững mạnh, đã nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền ở địa phướng, tăng cường môi quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân, khuyên khích, động viên nhân dân tham gia đấu tranh giải quyết FULRO, bảo vệ chính quyền nhân dân của địa phương mình; qua đó lại giúp cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương phát hiện, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng được đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số, làm cho chính quyền cơ sở càng vững chắc, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy trong thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng ở từng địa phương. Hệ thống chính trị tại các ấp, buôn làng và đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc lại là chỗ dựa của quần chúng và tổ chức quần chúng đồng bào các dân tộc thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:23:12 am
Như vậy, công tác vận động quần chúng và phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp thiết trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và vùng phụ cận. Có tiến hành vận động được quần chúng mới xóa được cơ sở của FULRO trong dân, làm mất chỗ dựa của chúng trong đồng bào dân tộc thiểu số, đó chính là điều kiện cơ bản nhất để loại trừ sự tồn tại và hoạt động của tổ chức FULRO. Đồng thời, khi đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu rõ bản chất của FULRO, tin tưởng chính sách dân tộc của Đảng, sẽ tạo được thế trận rộng khắp, huy động được lực lượng đông đảo nhất để tiến hành biện pháp đấu tranh chính trị và hỗ trợ cho biện pháp đấu tranh khác hiệu quả hơn. Tóm lại, bài học kinh nghiệm về công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh phải gắn liền với xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số ở từng địa phương trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn.


1. Công tác vận động quần chúng trước hết phải tạo được lòng tin của quần chúng, tập trung vào mục tiêu cơ bản là làm cho đồng bào các dân tộc thấy rõ tính ưu việt của chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, phân biệt rõ địch - ta và bản chất phản động, lừa bịp của FULRO

Trước năm 1975, đại bộ phận quần chúng nhân dân các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và vùng phụ cận bị chế độ cũ kìm kẹp, bị đầu độc tư tưởng "chống cộng" nhiều năm, cùng với đó là trình độ nhận thức chung của đồng bào dân tộc thiểu số còn rất hạn chế, chưa phân biệt rõ địch - ta, có sự mặc cảm và xa lánh cách mạng. Mặt khác, từ khi tổ chức FULRO giương khẩu hiệu đấu tranh chống lại chính quyền Sài Gòn, đòi quyền lợi cho các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, bảo vệ người Chăm, đã làm cho số đông quần chúng ngộ nhận FULRO cũng là cách mạng, là người đại diện cho các dân tộc. Đồng thời, do các tập tục truyền thống, tập quán sinh sống của đồng bào các dân tộc thường bị chi phối bởi sự chỉ dẫn của tầng lớp già làng, nhân sĩ, trí thức. Mặt khác, cơ sở cách mạng của ta trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số mỏng, nhiều nơi "trắng", không có cơ sở trong dân; vùng căn cứ kháng chiến thường ở vùng sâu, vùng xa, ít có ảnh hưởng tới đời sống xã hội, nên tình hình cách mạng Tây Nguyên sau giải phóng (1975) rất phức tạp, chính quyền cơ sở chưa quản lý được hết tình hình địa phương mình. Nắm được những yếu kém trên, lực lượng FULRO lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lừa bịp, lôi kéo, khống chế, ép buộc quần chúng nhân dân đi theo chúng chống phá cách mạng. Trước thực trạng đó, nhiệm vụ của công tác vận động quần chúng càng phải được coi trọng; để đạt được vị trí, vai trò chiến lược quan trọng, thì mục tiêu cơ bản là phải làm cho đồng bào tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, phân biệt rõ địch - ta và bản chất phản động, hại dân của FULRO, đây là khâu then chốt trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên và vùng phụ cận.


Muốn vận động được quần chúng, trước hết phải tạo được lòng tin của quần chúng bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, khám chữa bệnh cho đồng bào, giúp đồng bào đẩy mạnh sản xuất, xóa bỏ đói nghèo, dịch bệnh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Đi đôi với chăm lo đời sống vật chất, cần đặc biệt quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần, tôn trọng và giải quyết nhu cầu chính đáng của đồng bào dân tộc về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, coi trọng việc bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, bảo đảm quyền bình đẳng, đoàn kết, hỗ trự lẫn nhau giữa các dân tộc, đây là những nội dung công việc hết sức quan trọng nhằm tạo lòng tin của quần chúng với chính quyền mới.


Thực tiễn đã chứng minh tầm quan trọng, vị trí, vai trò chiến lược của công tác vận động quần chúng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta nói chung và cuộc đấu tranh giải quyết FULRO sau năm 1975 nói riêng. Trong 2 năm đầu (1975 - 1976), ta thiên về sử dụng biện pháp vũ trang truy quét, trấn áp lực lượng vũ trang FULRO, chưa chú ý đến công tác vận động quần chúng; do vậy, FULRO có điều kiện dựa vào quần chúng đồng bào các dân tộc, phục hồi nhanh sau mỗi đợt truy quét của ta. Đầu năm 1977, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 04/CT-TW, trong đó chỉ rõ những yếu kém của các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương và các lực lượng tham gia đấu tranh giải quyết FULRO; đồng thời, vạch ra phương châm, tư tưởng chỉ đạo "phải lấy công tác vận động quần chúng làm gốc để nắm chắc quần chúng, nắm chắc từng buôn làng"1 (Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 "Về việc phái động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ", Văn phòng Trung ương Đảng), tạo lòng tin của quần chúng đồng bào các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Được sự định hướng, chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, từ tháng 3 năm 1977 trở đi, các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương, các ban, ngành, đoàn thể trên khắp địa bàn Tây Nguyên quán triệt, triển khai thực hiện công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở, hướng dẫn và trực tiếp giúp dân đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống, phát triển văn hóa - xã hội gắn liền với cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:23:42 am
Trong 10 năm (1977 - 1987) các địa phương cùng lực lượng quân đội, công an, các ngành kinh tế đã huy động 51.973 lượt cán bộ, lập 950 tổ, đội công tác trực tiếp đi xuống 840 xã trọng điểm trên khắp địa bàn Tây Nguyên và vùng Chăm để tiến hành công tác vận động quần chúng. Trong quá trình đó, các tổ, đội công tác đã tập trung vào việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, giác ngộ chính trị cho quần chúng nhân dân, làm cho quần chúng hiểu rõ chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng; từ đó, nâng cao ý thức của quần chúng nhân dân về làm chủ tập thể, tinh thần đoàn kết, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, cải thiện đời sống đồng bào. Từ thực tiễn công tác vận động quần chúng, các tổ, đội công tác phát hiện, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán, góp phần hình thành đội ngũ cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số tại địa phương; đội ngũ cán bộ này lại trực tiếp vận động, tổ chức nhân dân tham gia các phong trào xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương. Qua đó, phong trào định canh, định cư ở vùng đồng hào dân tộc thiểu số được cải thiện; đến tháng 3 năm 1988, đã có 9 huyện, 210 xã, 90.987 hộ gia đình với hơn 865.900 khẩu (71% dân số) hoàn thành kế hoạch định canh, định cư, mở được 102.996ha đất canh tác, 25.496ha lúa nước, xây dựng 251 công trình thủy lợi đáp ứng nhu cầu tưới tiêu cho 8.960ha lúa nước 2 vụ. Đồng thời, ta còn xây dựng được hdn 100 hợp tác xã nông nghiệp, hơn 1.000 tổ, đội sản xuất trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đặc biệt, các nông, lâm trường Ea Kao, Ea Kar, Krông Pắk, cao su Chư Sê, Mang Yang, cà phê Di Linh, Bảo Lộc... trên địa bàn Tây Nguyên đã có đóng góp tích cực, tạo công ăn việc làm ổn định cho bà con đồng bào các dân tộc thiểu số, tạo điều kiện cho họ tiếp cận với phương pháp canh tác mới, hạn chế phá rừng, ngăn chặn hiệu quả sự móc nối của FULRO.


Song song với công tác giúp nhân dân đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, ta quan tâm hơn tới phát triển mạng lưới thương nghiệp, đưa hàng hóa thiết yếu (muối, vải, thuốc chữa bệnh, đồ dùng sinh hoạt...) tới vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phục vụ nhân dân. về giáo dục phổ thông, ta đã xây dựng 415 trường cơ sở và trung học phổ thông, đảm bảo cho hơn 106.800 con em vùng đồng bào dân tộc đến trường học tập. Những năm sau, ta còn tổ chức một số trường dân tộc nội trú, trường quân chính, trường công an, cùng với hệ thống các trường dạy nghề, trường trung cấp, đặc biệt là đã đưa phân hiệu của Trường Đại học Sư phạm, Đại học Y dược, Đại học Lâm nghiệp về Buôn Ma Thuật, Đà Lạt nhằm đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số, đảm bảo cho họ quay trở lại phục vụ đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, về y tế, ta đã xây dựng được 146 trạm y tế khu vực, với 748 cán bộ y tế (bác sĩ, y sĩ, hộ lý, y tá) là người dân tộc thiểu số trực tiếp chăm lo sức khỏe cho nhân dân, góp phần đẩy lùi các dịch bệnh sốt rét, tiêu chảy... ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Như vậy, với sự cố gắng của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền, các ngành kinh tế, các đơn vị quân đội, công an trên địa bàn, ta đã đẩy mạnh việc tuyên truyền, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số, bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, mắt thấy, tai nghe, cải thiện đời sống đồng bào, qua đó đã tạo được lòng tin của nhân dân đối với chính quyền mới, từng bước làm chuyển biến căn bản nhận thức của đồng bào các dân tộc, đồng bào không còn tin vào những thủ đoạn xuyên tạc, lừa bịp của FULRO, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên và vùng phụ cận những năm sau giải phóng miền Nam.


Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện công tác vận động quần chúng gắn với xây dựne, phát triển kinh lế - xã hội ở các tỉnh Tây Nguyên, chúng ta tiến hành còn chưa thường xuyên, chưa đồng đều, còn bộc lộ một số sơ hở chúng có thể lợi dụng xuyên tạc; quyền làm chủ tập thể của nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ, còn nặng về biện pháp hành chính, gò ép nên còn chưa tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân; chưa phân hóa triệt để và tách được FULRO ra khỏi các buôn làng; đồng bào dân tộc thiểu số chưa thật sự yên tâm lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Những hạn chế, yếu kém trên là những kẽ hở, điều kiện để FULRO lợi dụng xuyên tạc, quay trở lại hoạt động chống phá cách mạng, một số thời điểm tác động mạnh đến tình hình chính trị, xã hội Tây Nguyên (1981, 1984, 1985); đồng thời, những yếu kém, khuyết điểm trên đã tác động mạnh tới tâm lý chung của đồng bào dân tộc thiểu số đối với cách mạng, ta phải mất nhiều thời gian, công sức, sử dụng nhiều biện pháp hành chính để chấn chỉnh, rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, cuộc đấu tranh giải quyết FULRO phải kéo dài.


Trong thời kỳ mới, mặc dù tổ chức FULRO đã tuyên bố chấm dứt hoạt động, nhưng nhiều đối tượng FULRO lưu vong ở nước ngoài được các thế lực phản động hậu thuẫn vẫn tiếp tục âm mưu chống phá cách mạng nước ta, đặc biệt là chúng luôn lợi dụng những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, "dân chủ", "nhân quyền", phát triển "Tin Lành Đề Ga", kích động đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên gây rối, biểu tình bạo loạn (như các năm 2001, 2004). Do vậy, cấp ủy Đảng hệ thống chính quyền các cấp, các đơn vị quân đội, công an các ngành kinh tế trên địa bàn Tây Nguyên phải hết sức cảnh giác, thường xuyên làm tốt công tác vận động quần chúng kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhạn thức của đồng bào dân tộc thiểu số với tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Phương thức tốt nhất là phải thường xuyên chăm lo, giúp đõ nhân dân đẩy mạnh sản xuất, cải thiện và nâng cao đời sống bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả, mang lại lợi ích cho đồng bào; đồng thời phải thực sự quan tâm, giải quyết đúng đắn những nhu câu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào thiểu số, xây dựng và củng cố lòng tin của đồng bào, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên các địa bàn chiến lược, đó là phương thức hiệu quả nhất loại trừ tư tưởng "ly khai", "tự trị" trong đồng bào các dân tộc thiểu số.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:24:37 am
2. Hình thức, nội dung, phương pháp tiến hành công tóc vận động quần chúng phải phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm phong tục tập quán của từng dân tộc, tranh thủ tiếng nói của tầng lớp những người có uy tín trong đồng bào các dân tộc

Xuất phát từ đặc điểm văn hóa, trình độ nhận thức, phong tục, tập quán sinh hoạt, sản xuất của từng dân tộc thiểu số khác nhau, do vậy, nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác vận động quần chúng phải phù hợp, không dập khuôn máy móc trong thực hiện nhiệm vụ ở các vùng dân tộc thiểu số khác nhau. Nội dung tuyên truyền, vận động quần chúng phải từ thấp đến cao, dùng người thực, việc thực, lời nói phải đi đôi với việc làm, chăm lo đến nhu cầu chính đáng để thuyết phục đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt, trong quá trình làm công tác vận động quần chúng cần hết sức tranh thủ tiếng nói, tầm ảnh hưởng và sử dụng những người có uy tín trong các dân tộc (già làng, nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo) cùng tham gia công tác vận động quần chúng. Chính từ những đặc điểm, sự khác biệt cả về nhận thức, văn hóa, truyền thống dân tộc, nên khi tiến hành công tác vận động quần chúng, ta phải nghiên cứu, nắm bắt những đặc điểm tâm lý xã hội, tư tưởng, phong tục tập quán của các nhóm cộng đồng, các đối tượng quần chúng, thành phần xã hội ở vùng dân tộc (như tâm lý, ý thức bảo tồn dân tộc, sự câu kết theo cộng đồng buôn làng, dòng họ, thân tộc), đặc biệt là cần tranh thủ tối đa những người có uy tín, ảnh hưởng trong các dân tộc, chức sắc tôn giáo để vận dụng hình thức, phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng phù hợp.


Hình thức vận động quần chúng cũng hết sức phong phú, đa dạng như: Tổ chức các đợt phát động tập trung, họp dân theo cụm dân cư; phát động tuyên truyền giác ngộ tới từng gia đình, từng người có người thân theo FULRO hoặc có hành vi tiếp tế, che giấu FULRO; tranh thủ tiếng nói của các già làng, tầng lớp trí thức, những người có uy tín trong dân tộc, nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, cần có biện pháp cảm hóa sử dụng số cầm đầu, chỉ huy FULRO bị bắt, về hàng cùng tham gia vạch trần bộ mặt phản động, chống lại chính dân tộc mình của FULRO, chính họ nói rõ những sai lầm tội lỗi của mình và đồng bọn trước đông đảo quần chúng là cách tuyên truyền hữu hiệu nhất ở địa phương. Trong đấu tranh gọi hàng, cần vận dụng linh hoạt, kết hợp khôn khéo giữa động viên, gọi hàng với hình thức gửi thư kèm theo giấy bảo lãnh của những đối tượng đã được hưởng chính sách khoan hồng, giúp họ thấy rõ những tấm gương về chính sách khoan hồng của Nhà nước ta, nhằm tạo sự tin tường, phân hóa hàng ngũ và tiếp thêm động lực để các đối tượng FULRO quay trở về với cách mạng.


Công tác vận động quần chúng trong vùng dân tộc thiểu số phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và đồng bộ, thống nhất với mục đích xây dựng, phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Nội dung, phương pháp và hình thức vận động phải phù hợp với từng buôn làng, đặc điểm phong tục tập quán từng dân tộc, từng dòng họ và từng đối tượng. Vận động quần chúng phải có trọng tâm, trọng điểm, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm và nhân rộng điển hình, xây dựng thành phong trào trên từng địa phương. Kết hợp chặt chẽ giữa phát động quần chúng rộng rãi với vận động quần chúng cá biệt, xây dựng nòng cốt của phong trào; kết hợp giữa tổ chức quần chúng học tập nâng cao nhận thức cách mạng với sử dụng những người có tiếng nói, uy tín cao trong vùng đồng bào các dân tộc cùng tham gia công tác vận động quần chúng, vừa đảm bảo tính hiệu quả, vừa trực tiếp duy trì và hướng dẫn đông đảo quần chúng thực hiện các phong trào cách mạng ở địa phương.


Thực tế tiến hành công tác vận động quần chúng ở từng địa phương, từng vùng dân tộc khác nhau, ta đã vận dụng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, từ đó nâng cao hiệu quả đấu tranh giải quyết FULRO. Tại Lâm Đồng và Đắk Lắk, các đội công tác vận động quần chúng tuyên truyền nội dung, mục đích, ý nghĩa của phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đưa phương tiện kỹ thuật xuống vùng dân tộc giúp đồng bào phát triển kinh tế, xây dựng trường học, trạm y tế, mở thêm đường giao thông, xóa mù chữ. Tăng cường cán bộ, đảng viên của tỉnh và huyện xuống để thành lập các chi bộ Đảng, trực tiếp nắm và chỉ đạo phong trào tại chỗ. Về hình thức, tỉnh tổ chức 86 cuộc tọa đàm với tầng lớp trên trong đồng bào dân tộc thiểu số, có 2.330 người là các già làng, tầng lớp trên trong dân tộc, tranh thủ động viên, phát huy tác dụng tích cực của họ trong việc giải thích cho quần chúng tố giác FULRO và kêu gọi chồng con theo FULRO về hàng. Qua học tập, phát động các dân tộc đã nhận thức được FULRO là phản cách mạng, kêu gọi được 226 người là con em của họ về hàng, báo cáo cho chính quyền bóc gỡ 5.430 cơ sở của FULRO ẩn náu trong các buôn, ấp; giải tán 14 khung tiểu đoàn, 36 khung đại đội ngầm, xóa 29 khung tề xã, 88 khung tề ấp. Tại Gia Lai - Kon Tum, sau khi có Chỉ thị số 04/CT-TW chỉ riêng ở Gia Lai, ta đã tập trung 2.778 lượt cán bộ, lập các đội công tác tham gia phát động quần chúng ở 62 địa bàn trọng điểm. Từ năm 1977 đến năm 1981, có 826 cán bộ tham gia các đợt phát động theo cụm ở 50 xã thuộc 8 huyện, thị có FULRO hoạt động. Địa phương cũng tổ chức 175 cuộc phát động với trên 20 vạn lượt người tham gia (khoảng 90% dân số trên địa bàn). Đến tháng 6 năm 1985, toàn tỉnh tổ chức học tập chính sách dân tộc cho 101.500 lượt quần chúng qua đó phát hiện 11.300 người có liên hệ với FULRO phá 150 khung chính quyền, phát hiện 200 cán bộ cốt cán và 44 đảng viên bị FULRO khống chế1 (Ban Dân tộc Trung ương, Tình hình hoạt động FULRO ở Đắk Lắk, Gia Lai - Kon Tum năm 1985, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông số 9, Hồ sơ 115). Qua kinh nghiệm đấu tranh ở các địa phương, ta đã giáo dục, cảm hóa và tranh thủ tiếng nói, sự đồng tình ủng hộ và tham gia tích cực của hàng trăm người thuộc tầng lớp trên trong các dân tộc thiểu số (già làng, trưởng bản, nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo) và cả một số sĩ quan FULRO ra hàng, thu hút họ vào công tác vận động quần chúng. Hình thức vận động thông qua các già làng, số sĩ quan FULRO ra hàng, các chức sắc tôn giáo, nói rõ chính sách khoan hồng của Đảng đối với cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, làm cho nhân dân các dân tộc thiểu số hiểu rõ và đạt được hiệu quả cao nhất.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:25:01 am
Trải qua hơn 17 năm tiến hành công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, ta đã hết sức coi trọng vai trò của tầng lớp những người có tiếng nói, uy tín trong đồng bào các dân tộc, tiến hành hiệu quả việc cảm hóa các đối tượng FULRO họ là những người am hiểu phong tục, tập quán, nắm được tâm tư nguyện vọng của quần chúng trong đồng bào dân tộc thiểu số; họ trực tiếp thuyết phục, hòa giải những vụ việc trong cộng đồng, như: Mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn giữa người Kinh với người Thượng, mâu thuẫn trong sinh hoạt tôn giáo, không để xảy ra các điểm nóng, góp phần giữ bình yên buôn làng. Đặc biệt, tranh thủ người có uy tín trên địa bàn tham gia vào các hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO, đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng, đồng bào đã thực hiện tốt đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và vận động được nhiều đối tượng FULRO quay trở về đầu hàng chính quyền cách mạng. Có được kết quả trên là do các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã phối hợp chặt chõ với lực lượng quân đội, công an, các ngành kinh tế, xây dựng kế hoạch tuyên truyền, vận động và phát huy tốt vai trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số tham gia công tác vận động quần chúng. Tranh thủ tiếng nói của những người có uy tín còn giúp ta phát hiện ra những sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần tăng cường, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số trong đấu tranh giải quyết FULRO.


Tuy nhiên, trong quá trình vận động quần chúng, ta còn mắc một số hạn chế, khuyết điểm, tạo điều kiện để FULRO ra sức lợi dụng, kích động, chia rẽ khối đoàn kết và lôi kéo đồng bào dân tộc tham gia hoạt động chống phá cách mạng. Ví dụ, nhân viên thương nghiệp mua rẻ hàng nông sản của dân, bán nâng giá hàng tiêu dùng cho đồng bào dân tộc thiểu số, FULRO đã lợi dụng, nói xấu, kích động, làm cho nhân dân suy diễn cán bộ Nhà nước bóc lột nông dân. Một nhân viên thuế tịch thu một gùi hàng lâm sản của đồng bào dân tộc mới thu nhặt ở trong rừng, đã được FULRO kích động, cho rằng người Kinh chèn ép người Thượng. Ngoài ra, FULRO còn triệt để lợi dụng những hiện tượng tiêu cực trong một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên có lối sống thực dụng, suy thoái về chính trị, kích động, phá hoại công cuộc xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương. Những hạn chế, khuyết điểm trên trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở chính trị đã gây ảnh hưởng xấu tới quá trình làm công tác vận động quần chúng của ta; do vậy, việc lựa chọn hình thức, phương pháp tiến hành công tác vận động quần chúng phải thận trọng, không để chúng có thể lợi dụng, xuyên tạc, đó là biện pháp hữu hiệu nhất vạch trần bộ mặt phản động của FULRO.


Sau năm 1992, mặc dù tổ chức FULRO đã tuyên bố chấm dứt hoạt động nhưng nhiều phần tử FULRO lưu vong vẫn tiếp tục tập hợp lực lượng, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số trong nước gây rối, biểu tình (điển hình là những vụ gây bạo loạn năm 2001, 2004 ở Tây Nguyên). Do vậy, kinh nghiệm về vận dụng linh hoạt nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác vận động quần chúng giữ vai trò hết sức quan trọng, đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị nhằm xây dựng "thế trận lòng dân", phát hiện sớm, có biện pháp đấu tranh phù hợp, làm thất bại mọi thủ đoạn tuyên truyền, kích động tư tưởng ly khai, tự trị, của các thế lực thù địch. Đồng thời, phải thường xuyên rà soát đối tượng kết hợp chặt chẽ với việc giám sát, kiểm tra thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, kịp thời giải quyết những khó khăn, bức xúc ở cơ sở, giữ vững ổn định chính trị để phát triển.


Trong tình hình mới, công tác vận động quần chúng phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, trực tiếp, toàn diện của cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền các cấp, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, cơ quan, ban, ngành chức năng, trong đó nòng cốt là lực lượng quân đội, công an. Hình thức vận động quần chúng phải linh hoạt, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của từng ngành, từng lực lượng; có nhiều hình thức tổ chức phát động phong phú, thích hợp với từng nơi, từng đối tượng, hết sức coi trọng vận động các già làng, trưởng bản, tầng lớp trí thức, chức sắc tôn giáo, những người có uy tín cao trong các buôn làng cùng tiến hành công tác vận động quần chúng. Đây là nhân tố rất quan trọng, hình thức cơ bản, lâu dài; bởi vì, những người có uy tín thường được quần chúng tín nhiệm, tôn sùng, tự nguyện nghe theo; họ có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, hiểu rõ tâm tư, tình cảm của quần chúng; với uy tín, vai trò của mình, họ có thế đứng ra giải quyết một cách êm thấm mọi vấn đề phát sinh trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của đồng bào các dân tộc. Chính họ là những người trực tiếp vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch có thể lợi dụng, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời, họ là những người sâu sát nhất, trực tiếp tuyên truyền, vận động đồng bào nêu cao tinh thần cảnh giác, chống lại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, không nghe và không làm theo lời xúi giục, lôi kéo, móc nối của các loại tội phạm; mặt khác, họ là những người cung cấp thông tin có giá trị, góp phần sớm phát hiện và có biện pháp phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại các hoạt động gây rối bạo loạn của các thế lực thù địch.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:26:01 am
3. Kết hợp chặt chẽ giữa công lác vận động quần chúng với phát hiện, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định: Công tác cán bộ là nội dung quan trọng hàng đầu, có tầm quan trọng bậc nhất sau khi Đảng có đường lối đúng, là khâu then chốt giải quyết những vấn đề then chốt của cách mạng; Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh "cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do đội ngũ cán bộ tốt hay kém". Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số là nhân tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyct định đến hiệu quả của công tác vận động quần chúng, phát huy vai trò của quần chúng trong phòng ngừa, đấu tranh, quản lý, giáo dục, cải tạo cảm hóa các đối tượng FULRO. Đồng thời, hệ thống chính trị cơ sở (xã, ấp, buôn làng) và đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc lại là chỗ dựa của quần chúng, tổ chức cho quần chúng thực hiện đúng các chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở vùng dân tộc thiểu số. Nhận thức sâu sắc vai trò của công tác cán bộ, ngay trong Chỉ thị số 04/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ: "Ra sức lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bảo vệ đội ngũ cán bộ người dân tộc; quý trọng và đánh giá đúng năng lực của cán bộ người dân tộc, triệt để phát huy khả năng của cán bộ người dân tộc, nhất là trong công tác vận động quần chúng ở địa phương"1 (Chỉ thị số 04/CT-TYV ngày 2 tháng 2 năm 1977 "Về việc phái động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, báo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ", Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng). Như vậy, việc kết hợp chặt chẽ giữa công tác vận động quần chúng với phát hiện, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh có vai trò hết sức quan trọng, quyết định tới thắng lợi hay thất bại trong cả sự nghiệp xây dựng, phát triển toàn diện vùng đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên nói chung, quá trình đấu tranh giải quyết FULRO nói riêng.


Thực tế cuộc đấu tranh giải quyết FULRO cho thấy, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, hệ thống chính quyền non trẻ của ta ở Tây Nguyên nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng còn chưa hoàn thiện, số cán bộ tăng cường về cơ sở và cán bộ người dân tộc thiểu số còn thiếu và yếu, chưa được đào tạo, bồi dưỡng, kinh nghiệm còn rất hạn chế, nhất là tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số. Do vậy, thời gian đầu chính quyền non trẻ của ta còn rất hỡ ngõ lúng túng trước nhiệm vụ quản lý xã hội, quản lý kinh tế chưa thuyết phục và tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân. Trong khi đó, tổ chức FULRO đẩy mạnh hoạt động móc nối, lôi kéo đồng bào, khống chế cán bộ cơ sở người dân tộc; nhiều nơi ở buôn, xã, FULRO lũng đoạn chính quyền; đồng thời, chúng đã nhen nhóm hệ thống chính quyền ngầm, khống chế quần chúng, duy trì mức độ ảnh hưởng, chi phối hoạt động của quần chúng đồng bào thiểu số. Nhận rõ vấn đề chủ yếu này, Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977, từ đó các địa phương đều tập trung xây dựng cơ sở chính trị, phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc tại chỗ, chú trọng công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức để họ thấy đúng bản chất phản động của FULRO; trên cơ sở đó, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, phát hiện, bóc gỡ các cơ sở FULRO trong các buôn làng, làm trong sạch nội bộ, xây dựng tổ chức đảng, chính quyền cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Trong suốt quá trình công tác vận động quần chúng, ta đã kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, bảo vệ đội ngũ cán bộ cốt cán và cơ sở chính trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trên cơ sở đó, ta đã bóc gỡ được 61.301 cơ sở FULRO nằm vùng, ẩn náu trong dân; xây dựng và củng cố được tổ chức đảng, hệ thống chính quyền, các đoàn thể địa phương ở 803 xã trọng điểm. Qua nhiều đợt làm công tác vận động quần chúng, ta đã phát hiện, bồi dưỡng, phát triển được hơn 5.360 cán bộ cốt cán người dân tộc tại chỗ của các địa phương, trong đó có 2.552 người giữ các cương vị chủ chốt (bí thư, phó bí thư, chủ tịch) ở cấp xã, huyện; đồng thời, qua bồi dưỡng, thử thách từ các phong trào ở địa phương, ta đã kết nạp, phát triển được 3.833 đảng viên mới người dân tộc thiểu số. Thông qua công tác vận động quần chúng gắn với phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán, xây dựng cơ sở chính trị tại các địa phương, cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền các cấp, nhất là ở buôn, ấp, xã, được củng cố vững chắc; lực lượng dân quân tự vệ người dân tộc thiểu số tại địa phương được phát triển (hơn 109.000 người), hầu hết lực lượng vũ trang các xã đã từng bước tự bảo vệ được buôn làng; điển hình là các xã Cuôr Đăng, Ea Đrông, Cư Yút, Ea Kar... ở Đắk Lắk; Pô Kô, Sa Bình, Át Ra, Ia Le... ở Gia Lai - Kon Tum; Đam Rông, Đạ Sar, K’Đo, Đinh Văn... ở Lâm Đồng. Có thể khẳng định, việc gắn liền giữa công tác vận động quần chúng với phát hiện, bồi dưõng, phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc tại chỗ, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh là một nhân tố cơ bản, quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Như vậy, đấu tranh giải quyết FULRO là vấn đề cơ bản, toàn diện trên nhiều mặt, trong quá trình đó, phải kết hợp chặt chẽ giữa công tác vận động quần chúng với củng cố, phát triển đội ngũ cán bộ cốt cán người dân tộc thiểu số xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, giữ vai trò vị trí hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương xây dựng, phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ mới. Đây là biện pháp cơ bản, hữu hiệu nhất để phòng ngừa, ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn kích động tư tưởng "ly khai", "tự trị" trong đồng bào các dân tộc thiểu số của FULRO.


Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", tìm mọi cách thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" hòng chuyển hóa hệ tư tưởng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang cách mạng. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong lực lượng vũ trang là vấn đề rất quan trọng, là việc làm cấp thiết, thường xuyên. Hơn nữa, do có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, trong quá trình xây dựng và phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, phải luôn kết hợp chặt chẽ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với bảo đảm quốc phòng - an ninh; động viên được sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, kiên quyết loại trừ tư tưởng "ly khai", "tự trị" theo kiểu FULRO ra khỏi đời sống chính trị ở Tây Nguyên. Trước hết, cần tập trang nâng cao nhận thức và phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở đối với công tác vận động quần chúng, đặc biệt chú trọng vai trò của tầng lớp trí thức, tầng lớp trên trong đồng bào các dân tộc (già làng, trưởng bản, các chức sắc tôn giáo), những người có uy tín trong tiến hành công tác vận động quần chúng. Bên cạnh đó, cần thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa, giáo dục, y tế, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Tập trung giải quyết tốt các vấn đề về kinh tế - xã hội, xử trí thỏa đáng những vấn đề bức xúc về đất đai, nhà ở, điện thắp sáng, nước sạch nông thôn và giải quyết kịp thời những thắc mắc, khiếu kiện của nhân dân, tránh áp đặt bằng các biện pháp hành chính, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:27:18 am
Bài học 5: Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, lấy quân đội và công an làm nòng cốt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo đồng bộ các biện pháp trong đấu tranh giải quyết FULRO

FULRO là tổ chức phản động do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ gây dựng, nuôi dưỡng và chỉ đạo hoạt động; trong quá trình tồn tại và phát triển trước năm 1975, tổ chức này đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, khiến cho đồng bào ngộ nhận tổ chức này là đại diện của mình để đấu tranh bảo vệ lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số. Sau khi ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, được các thế lực phản động quốc tế hậu thuẫn, nuôi dưỡng, khuyên khích hòng thực hiện kế hoạch hậu chiến với âm mưu chống phá lâu dài cách mạng Việt Nam. Thời gian đầu, chúng đã liên tiếp gây ra các vụ tập kích, phục kích vũ trang, bắt, giết hại, thủ tiêu cán bộ cơ sở, khống chế buôn làng, uy hiếp các trung tâm huyện, tỉnh và các trục đường giao thông, chống lại chính quyền cách mạng cơ sở trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, vùng Chăm và các tỉnh phụ cận. Thủ đoạn hoạt động co" bản của chúng là lợi dụng chiêu bài dân tộc, tôn giáo để lừa gạt đồng bào các dân tộc ít người, lôi kéo, khống chế, ép buộc quần chúng theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, đòi "ly khai", "tự trị", gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.


FULRO dựng lên hệ thống tổ chức chính quyền từ trung ương xuống cơ sở, với lực lượng vũ trang kiêm quản lý hành chính, các nhóm vũ trang FULRO liên kết với nhau chống lại người Kinh, mục đích của chúng là thành lập "nhà nước tự trị" ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng dân tộc Chăm và các tỉnh phụ cận. Đối tượng tham gia tổ chức FULRO bao gồm nhiều thành phần xã hội phức tạp, nên tổ chức FULRO mang tính chất ô hợp, nhưng chúng hoạt động chống phá cách mạng rất quyết liệt. Chính vì vậy, để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn gây dựng lực lượng và lập tổ chức phản động đối lập để chống phá cách mạng, chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các ban, ngành, đoàn thể Trung ương và địa phương, kết hợp chặt chẽ với sự chung tay, góp sức của các ngành kinh tế, sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân, trong đó lấy quân đội và công an làm lực lượng nòng cốt; đồng thời, trong đấu tranh cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa trấn áp và khoan hồng, giải quyết hài hòa lợi ích của đồng bào dân tộc thiểu số gắn với cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Trên cơ sở quy luật phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đấu tranh cách mạng và từ thực tiễn 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta đã xác định: Giải quyết FULRO là cuộc đấu tranh quyết liệt, phức tạp, lâu dài và toàn diện, trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các cấp ủy Đảng, bộ máy chính quyền cơ sở các địa phương, các lực lượng vũ trang, tổ chức quần chúng, các ban, ngành, đoàn thể, dưới sự lãnh đạo thống nhất, trực tiếp của Đảng. Đồng thời, phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ các biện pháp của các lực lượng tham gia đấu tranh giải quyết FULRO, đó chính là những hoạt động cần thiết và cụ thể trong thực tiễn, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, của cả hệ thống chính trị, của các lực lượng vũ trang, các tổ chức quần chúng trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải quyết FULRO. Phát huy sức mạnh tổng hợp và vận đụng linh hoạt, sáng tạo các biện pháp là những điều kiện quan trọng để giành thắng lợi trong đấu tranh giải quyết triệt để FULRO trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, vùng phụ cận và vùng đồng bào Chăm.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:28:05 am
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đấu tranh giải quyết FULRO, chúng ta đã lấy quân đội, công an làm lực lượng nòng cốt, tạo chỗ dựa cho các lực lượng khác cùng toàn dân đấu tranh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho quần chúng nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc phối hợp chặt chẽ giữa quân đội, công an với các lực lượng khác trong đấu tranh giải quyết FULRO là một tất yếu khách quan; bởi vì, quân đội và công an là công cụ bạo lực cách mạng của Đảng, Nhà nước và của nhân dân, nhiệm vụ chủ yếu của 2 lực lượng này là dùng bạo lực cách mạng để trấn áp bạo lực phản cách mạng, bảo vệ nhân dân và các lực lượng khác trong đấu tranh giải quyết FULRO; đồng thời, lực lượng quân đội và công an còn trực tiếp thực hiện chức năng "đội quân công tác" và giúp đỡ chính quyền cơ sở tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách khoan hồng của Dảng và Nhà nước, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở tại địa phương. Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992) trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, vùng đồng bào Chăm, ta đã tổ chức thực hiện ngày càng tốt những nội dung chủ yếu về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, trong đó vai trò quan trọng, nòng cốt của lực lượng quân đội và công an được phát huy, đóng góp trực tiếp, quyết định thắng lợi quá trình đấu tranh giải quyết FULRO sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.


1. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đó lấy quân đội và công an làm nòng cốt đấu tranh giải quyết FULRO

Cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992) ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm và vùng phụ cận sau ngày miền Nam nước ta được hoàn toàn giải phóng là một cuộc đấu tranh toàn diện, cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, vì vậy phải phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng, các ngành, các cấp dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng. Trước sự chống phá quyết liệt của FULRO, ngay từ đầu, Trung ương Đảng ta đã tập trung chỉ đạo lực lượng quân đội, công an, các ban, ngành đoàn thể ở Trung ương tăng cường lực lượng vào Tây Nguyên và các tỉnh phụ cận để vừa trấn áp, vừa nắm chắc tình hình, tham mưu giúp Ban Bí thư Trung ương Đảng kịp thời ban hành Chỉ thị số 04/CT-TW nhằm tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các địa phương tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh và tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, gắn liền với cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, các lực lượng quân đội (gồm có cả chủ lực của Bộ, Quân khu 5 và bộ đội địa phương các tỉnh) đã kịp thời trấn áp, truy quét, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn lực lượng vũ trang FULRO, đánh bại các vụ tiến công của FULRO trên địa bàn, bảo vệ an toàn các mục tiêu và giữ vững an ninh chính trị vùng mới giải phóng. Qua hoạt động đấu tranh, truy quét năm 1975, lực lượng quân đội đã kịp thời nắm chắc tình hình, tham mưu giúp Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương ra nghị quyết chuyên đề về công tác quân sự, truy quét FULRO và các tổ chức phản cách mạng khác1 (Kết luận của đồng chí Hoàng Văn Thái - đại diện Quân ủy Trung ương tại Hội nghị bàn về nhiệm vụ truy quét, trấn áp lực lượng FULRO và các tổ chức phản cách mạng khác, các ngày 9, 10, 11 tháng 1 năm 1977, tr. 1). Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã tăng cường cho Tây Nguyên 1 tiểu đoàn cảnh sát cơ động và hàng chục cán bộ có kinh nghiệm của Cục Chống phản động, phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an các địa phương giải quyết hiệu quả công tác trinh sát nắm tình hình FULRO, tham mưu kịp thời cho cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương và phản ánh về Trung ương, đề xuất chủ trương, biện pháp và những đặc điểm cụ thể của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO; do đó, đã trực tiếp góp phần nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo cho quần chúng nhân dân, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tiến hành các biện pháp nghiệp vụ công an gắn với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, cải thiện đời sống và phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên.


Ở các địa phương, thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TVV của Trung ương Đảng, các cấp ủy Đảng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Thuận Hải và các tỉnh phụ cận đều tổ chức thành lập Ban Chỉ đạo 04 (còn gọi là Ban 04) ở cấp tỉnh và các huyện trọng điểm. Ban chỉ đạo do 1 đồng chí lãnh đạo cấp ủy (thường là đồng chí phó bí thư thường trực tỉnh ủy, huyện ủy) làm trưởng ban; các thành viên khác là lãnh đạo chỉ huy lực lượng quân đội, công an, các ban, ngành, đoàn the tại địa phương; trong đó, đại diện chỉ huy của quân đội công an giữ vai trò nòng cốt trong công tác tham mưu ban chỉ đạo tổ chức thực hiện đúng đắn, đồng bộ các biện pháp đấu tranh phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng và thường xuyên giúp ban chỉ đạo 04 các cấp kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh những lệch lạc trong nhận thức và thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng; đồng thời, quân đội và công an còn trực tiếp tổ chức, đưa lực lượng của mình xuống cơ sở, hình thành các tổ, đội công tác bám cơ sở, vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO và trực tiếp giải quyết những vấn đề bức xúc của đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu chính đáng của quần chúng nhân dân. Như vậy, với cách thức tổ chức ban chỉ đạo 04 đúng đắn, vai trò nòng cốt của lực lượng quân đội, công an đối với công tác tham mưu ban chỉ đạo 04 ở các địa phương được phát huy; qua đó đã tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự kiểm tra, giám sát, điều hành của bộ máy chính quyền các cấp trong tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, kết hợp chặt chẽ với nâng cao hiệu quả các biện pháp đấu tranh giải quyết FULRO.


Trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO, lực lượng quân đội và công an vừa đẩy mạnh công tác vận động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, vừa tuyên truyền chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng hiểu rõ bản chất phản động của FULRO. Qua đó, đại bộ phận gia đình đồng bào các dân tộc thiểu số đã chủ động thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, ổn định cuộc sống mới, góp phần quan trọng để cô lập, tách FULRO ra khỏi đời sống nhân dân. Thực tế đã chứng minh, sự tham mưu của quân đội và công an trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO là một nhân tố rất quan trọng để phát huy và tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, mang lại lợi ích thiết thực cho đồng bào các dân tộc, xây dựng niềm tin của quần chúng đối với chế độ mới. Bên cạnh đó, sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa quân đội với công an còn mang ý nghĩa quan trọng, vừa trực tiếp giúp cấp ủy, chính quyền các địa phương phát huy cao độ trách nhiệm các tổ chức, ban, ngành, đoàn thể địa phương trong thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; vừa làm nòng cốt phát động quần chúng bóc gỡ cơ sở FULRO trong dân, vừa bám sát các toán vũ trang FULRO ngoài rừng để vận động, gọi hàng, tiêu diệt những kẻ ngoan cố, vừa đấu tranh vừa xây dựng, phát triển thực lực chính trị ở buôn làng, củng cố chính quyền xã, huyện, nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:28:35 am
Trong đấu tranh quân sự, chúng ta sử dụng cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ cùng lực lượng an ninh phối hợp hoạt động. Đối với bộ đội chủ lực, các địa phương sử dụng cấp trung đoàn, tiểu đoàn, tổ chức đứng chân trên từng khu vực (trên địa bàn từ 1 đến 2 huyện); bộ đội địa phương lấy cấp đại đội, trung đội bố trí đứng chân trên từng khu vực xã, buôn làng trọng điểm, phối hợp chặt chẽ với các đội công tác, kết hợp với phát động quần chúng tham gia đấu tranh giải quyết FULRO. Các đơn vị bộ đội chủ lực được bố trí ở những khu vực trọng điểm, luôn sẵn sàng chiến đấu, truy quét FULRO và hỗ trợ địa phương phát động quần chúng. Trong quá trình đó, bộ đội chủ lực là lực lượng nòng cốt truy quét các đối tượng FULRO có vũ trang, tiêu diệt bọn chỉ huy FULRO ngoan cố, làm tan rã các căn cứ của FULRO trong rừng sâu. Ngoài ra, các đơn vị bộ đội chủ lực còn tích cực làm công tác dân vận, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, giúp dân phát triển sản xuất, xây dựng trường học, trạm y tế, làm đường giao thông, hướng dẫn đồng bào vệ sinh phòng chống dịch bệnh... Đồng thời, lực lượng quân đội là tấm gương về chấp hành chính sách dân tộc, tôn giáo, giũ nghiêm kỷ luật quân đội khi quan hệ với nhân dân. Về phân chia nhiệm vụ cho các lực lượng quân đội, ta sử dụng các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương các tỉnh hoạt động truy quét FULRO ở vòng ngoài; lực lượng bộ đội huyện và dân quân tự vệ, du kích, lực lượng an ninh chủ yếu làm nhiệm vụ ở tuyến ven và trong các buôn làng, ngăn chặn, bao vây, tạo điều kiện cho lực lượng cơ động tiêu diệt địch. Trong các trận đánh, các lực lưựng quân đội, công an đã phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với nhau, chú trọng cắt tiếp tế, cô lập từng nhóm và các căn cứ chỉ huy của FULRO, tạo thế trận để tiêu diệt gọn các nhóm vũ trang FULRO.


Cùng với quân đội, công an là một trong hai lực lượng nòng cốt có nhiệm vụ giữ trật tự xã hội, an ninh nội địa, sử dụng tống hợp các biện pháp nghiệp vụ để nắm tình hình, theo dõi phát hiện chính xác bọn đầu sỏ, chỉ huy ngoan cố, góp phần khắc phục tình trạng trấn áp tràn lan, gây ảnh hưởng tâm lý trong đồng bào dân tộc. Trong quá trình đấu tranh, công an các huyện, xã tiến hành rà soát, phân loại từng đối tượng trong các buôn làng, kịp thời tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở sử dụng đồng bộ các biện pháp, xây dựng thực lực chính trị, làm trong sạch nội bộ và vận động quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Hoạt động của lực lượng công an đã đóng góp to lớn, hiệu quả vào quá trình ngăn chặn, thu hẹp phạm vi ảnh hưởng và làm mất chỗ dựa của FULRO; đồng thời, các biện pháp nghiệp vụ công an được sử dụng phù hợp với đặc điểm từng dân tộc đã phá nhiều chuyên án, góp phần đẩy nhanh thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Ngoài ra, trong đấu tranh, truy quét lực lượng FULRO ở ngoài rừng, công an các tỉnh, các huyện đã phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng quân đội và dân quân tự vệ ở các xã, các nông, lâm trường, nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn, phát hiện chính xác và làm tan rã các toán vũ trang FULRO bám buôn làng, phá tan âm mưu xây dựng cơ sở của tổ chức FULRO trong dân. Trong các chuyên án, lực lượng công an các tỉnh đã bàn bạc, hiệp đồng chặt chẽ, thống nhất kế hoạch trinh sát với lực lượng quân đội, bám sát các toán FULRO từ bên ngoài xâm nhập vào trong nội địa, tổ chức phối hợp sử dụng lực lượng quân đội và công an, dùng lực lượng nhỏ đánh phủ đầu, lừa chúng lọt vào khu vực đã chuẩn bị để tiêu diệt hoặc bắt sống toàn bộ từng toán vũ trang FULRO xâm nhập nội địa.


Trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO, công an sử dụng rất nhiều lực lượng nghiệp vụ của Bộ Công an (Cục Chống phản động, Cục Kỹ thuật nghiệp vụ II...) và chỉ đạo công an các tỉnh, các huyện (Phòng Chống phản động, Phòng Kỹ thuật nghiệp vụ II, Phòng Điều tra xét hỏi, Phòng Cảnh sát bảo vệ, trại tạm giam, Phòng Cảnh sát quản lý hành chính, Đội an ninh...), mỗi lực lượng đều được phân chia nhiệm vụ khác nhau theo chức năng, nhiệm vụ của mình, tạo nên sức mạnh tổng hợp cùng các lực lượng khác đấu tranh, bóc gô các đối tượng FULRO. Việc truy quét bọn cầm đầu, các toán vũ trang FULRO xâm nhập vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số hết sức phức tạp, trước tiên là phải phát hiện chính xác, ngăn chặn cắt đứt sự liên lạc, chỉ huy của bọn FULRO ở trong nội địa và giữa nội địa với bên ngoài; công tác này thường do lực lượng quân đội và công an phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ từ trinh sát nắm tình hình đến vạch ra phương án tác chiến, thống nhât chỉ huy, sử dụng lực lượng quân đội và công an làm nòng cốt, phát động quần chúng đấu tranh, giành thắng lợi trong từng chuyên án, trận đánh. Thông qua sự phối hợp, hiệp đồng giữa lực lượng quân đội và công an trong các chuyên án, đã mở ra những điều kiện cho biện pháp tiến công chính trị, làm phân hóa nội bộ FULRO, thúc đẩy gọi hàng, góp phần quan trọng vào quá trình thực hiện công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở.


Như vậy, với chức năng, nhiệm vụ của mình, lực lượng quân đội và công an thực sự là lực lượng nòng cốt, chủ yếu để tiến hành thắng lợi các biện pháp đấu tranh giải quyết FULRO, tạo điều kiện để các ban, ngành, đoàn thể quần chúng ở cả Trung ương và địa phướng cùng đông đảo quần chúng nhân dân tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh mang lại hiệu quả thiết thực trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa lực lượng quân đội và công an đã phát huy sức mạnh tổng hợp trong tiến hành các hoạt động truy quét, đấu tranh chính trị, vận động FULRO ra đầu hàng, đầu thú; đồng thời là một nội dung biện pháp giúp đồng bào các dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống mới, đẩy mạnh sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững trật tự an ninh trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là một trong những nhân tố chủ yếu, quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết triệt để tổ chức FULRO (1975 - 1992).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:29:22 am
2. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ các biện pháp trong đấu tranh giải quyết FULRO

Cuộc đấu tranh giải quyết FULRO là một cuộc đấu tranh toàn diện trên nhiều mặt, quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, nhằm mục đích giúp đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu rõ bản chất phản động, hại dân của FULRO; đồng thời, qua đó đồng bào thấy rõ tính đúng đắn của đường lối, chủ trương, chính sách chăm lo cho đồng bào các dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, xây dựng niềm tin của đồng bào các dân tộc với Đảng, Nhà nước và chế độ mới. Do vậy, để thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh giải quyết FULRO dưới sự lãnh đạo của Đảng, ta phải tiến hành đấu tranh toàn diện, vận dụng sáng tạo, linh hoạt, đồng bộ các biện pháp, giải pháp trong đấu tranh, quan trọng nhất là tổ chức thực hiện đúng mọi chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, vận dụng vào thực tiễn phù hợp với đặc điểm từng dân tộc thiểu số, làm cho đồng bào tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đứng về phía cách mạng, phát huy được sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Trên cơ sở quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng, các cấp ủy Đảng địa phương đã tích cực, chủ động tổ chức lực lượng, tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh toàn diện, kết hợp truy quét FULRO với phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, đẩy mạnh sản xuất, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang được sử dụng với quy mô phù hợp để trấn áp bọn cầm đầu, chỉ huy FULRO ngoan cố ở những địa bàn trọng điểm, trên cả 3 tuyến, tập trung giải quyết và làm chuyển biến vững chắc ở tuyến ven và tuyến bên trong các buôn làng, triệt để chia cắt sự liên lạc giữa các toán vũ trang và tiếp tế của FULRO. Kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, đoàn thể quần chúng ở cả Trung ương và các địa phương, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, làm cho quần chúng hiếu rõ chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện để phân hóa hàng ngũ cầm đầu, từng bước cô lập các nhóm FULRO ngoài rừng, làm suy yếu lực lượng FULRO. Đồng thời, ta đã hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của những người có uy tín, tầng lớp trí thức, già làng, các chức sắc tôn giáo tham gia vào cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Cùng với các biện pháp trên, các địa phương đã tổ chức tốt các lớp tuyên truyền, giáo dục, cải tạo các đối tượng FULRO bị bắt, ra hàng, ra đầu thú, động viên họ chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng để được hưởng khoan hồng, nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới. Nhờ vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ các biện pháp đấu tranh, nên nhiều địa phương đã tạo được những chuyển biến căn bản trong đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là về nhận thức và trình độ sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống cho quần chúng nhân dân ở những địa bàn trọng điểm, qua đó đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Thực tiễn cuộc đấu tranh giải quyết FULRO đã chứng minh tính đúng đắn trong chỉ đạo vận dụng đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp các biện pháp của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ; nơi nào quán triệt và vận dụng phù hợp, sáng tạo thì kết quả đấu tranh có sự chuyển biến rõ nét, nơi nào vận dụng máy móc, áp đặt hành chính thì hiệu quả đấu tranh hạn chế, thậm chí làm cho tình hình càng trở nên phức tạp (như ở Đăk Lắk, Gia Lai - Kon Tum). Nhận rõ những vấn đề chủ yếu, cốt lõi trong đấu tranh giải quyết FULRO là phải nắm được dân, làm cho đồng bào dân tộc thực sự tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng, quần chúng "không tin, không theo, không sợ FULRO"; các địa phương và lực lượng tham gia đấu tranh giải quyết FULRO đã kịp thời rút kinh nghiệm, chấn chỉnh những biện pháp không phù hợp, chú trọng kết hợp chặt chẽ giữa công tác vận động quần chúng, tiến công chính trị với sử dụng lực lượng vũ trang kiên quyết trấn áp đúng thời điểm, đúng đối tượng, đặc biệt là đối với những đối tượng cầm đầu, chỉ huy FULRO ngoan cố, làm giảm uy thế của chúng, cô lập, phân hóa, thúc đẩy nhanh sự ra hàng, đầu thú của các đôi tượng FULRO, giải tỏa sự khống chế của chúng đối với quần chúng nhân dân. Trong quá trình đó, lực lượng vũ trang của ta đã làm tốt công tác bám nắm địa bàn, trinh sát phát hiện chính xác các đối tượng chủ yếu, tổ chức nhiều trận đánh, làm tan rã nhiều căn cứ FULRO ngoài rừng ngăn chặn và làm thất bại các toán vũ trang FULRO từ ben ngoai xâm nhập vào nội địa, hỗ trợ đắc lực cho công tác phát động quần chúng xây dựng thực lực chính trị ở những địa bàn trọng điểm. Đồng thời, qua hoạt động thực tiễn tại địa bàn, lực lượng vũ trang còn hiểu biết sâu hơn về đặc điểm tâm lý xã hội từng vùng dân tộc, từ đó điều chỉnh các nội dung công tác phù hợp với từng dân tộc thiểu số, tuyên truyền, vận động quần chúng gắn liền với những việc làm cụ thể, mang lại lợi ích thiết thực cho đồng bào, làm cho đồng bào thấy rõ sự quan tâm, chăm lo đến đời sống và những nhu cầu cấp thiết, lợi ích của mình được đáp ứng, do vậy từng bước đồng bào đã thực hiện tốt chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng. Khi đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được nâng cao thì chính quần chúng nhân dân là người trực tiếp đóng góp tiếng nói và hành động thực tiễn, quyết định tới thắng lợi của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 10 Tháng Bảy, 2023, 07:29:55 am
Nhờ có sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt, đồng bộ các biện pháp đấu tranh, từ năm 1977 đến năm 1992 (sau khi có Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư), ta kiên trì chăm lo xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, kết hợp chặt chẽ với thực hiện chính sách khoan hồng, xây dựng thực lực chính trị cơ sở các địa phương trên toàn địa bàn chiến lược Tây Nguyên, vùng dân tộc Chăm và các tỉnh phụ cận nên ta đã cơ bản loại trừ những hoạt động vũ trang, gây rối, phá hoại của FULRO, giữ vững sự ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, tạo điều kiện để đồng bào yên tâm sản xuất, cải thiện đời sống. Trong cuộc đấu tranh này, tỉnh Thuận Hải là tỉnh sớm nhất giải quyết cơ bản, làm tan rã tổ chức FULRO Chàm (1978); tỉnh Lâm Đồng, trong điều kiện tình hình rất phức tạp, nhưng trong một thời gian ngắn đầu năm 1988, đã vận động được 68 tên cầm đầu, chỉ huy FULRO ra đầu thú, trong đó có 1 tên là phó thủ tướng, 11 tên trong trung ương FULRO, 12 tên cấp tá, 14 tên cấp quân khu, 5 tên cấp tỉnh, 21 tên cấp huyện, góp phần làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình chính trị địa phương và cơ bản làm tan rã các nhóm vũ trang FULRO trên địa bàn. Tỉnh Đắk Lắk dùng nghiệp vụ trinh sát công an kết hợp với phát động quần chúng đấu tranh, đã gọi hàng được 44 tên (người M’nông) thuộc Sư đoàn 384 của FULRO quay trở về với buôn làng. Tỉnh Gia Lai - Kon Tum đã kết hợp chặt chõ giữa công tác vận động quần chúng với nghiệp vụ công an, đấu tranh làm tan rã ZG27 (một đơn vị cấp tỉnh của FULRO), phá tan âm mưu mở rộng mật cứ và chuyển hướng hoạt động xuống vùng Vân Canh (tỉnh Nghĩa Bình), Đồng Xuân (tỉnh Phú Khánh), giữ vững ổn định an ninh chính trị trên địa bàn. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện đồng bộ các biện pháp đấu tranh, ta đã thực sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số, kịp thời phát hiện và ngăn chặn thắng lợi hoạt động tiếp tay cho FULRO của Hội Thánh Tin Lành Nam Thượng Hạt (Đà Lạt) gồm 11 thành viên, do mục sư Ha Brông cầm đầu, định biến trụ sở Hội thành sào huyệt Vùng 4 của FULRO; ở Đắk Lắk, ta đã ngăn chặn linh mục Tòng cung cấp vũ khí, lương thực cho FULRO; ở Gia Lai - Kon Tum, ta cũng phá âm mưu của linh mục Hoàng lập đường dây cung cấp thuốc chữa bệnh cho căn cứ FULRO ngoài rừng. Với việc tiến hành đồng bộ các biện pháp đấu tranh và vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm từng vùng dân tộc đã đóng góp quan trọng vào kết quả chung của cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên và các tỉnh phụ cận. Đây là một kinh nghiệm quan trọng, làm phong phú thêm các nội dung, biện pháp đấu tranh giải quyết FULRO sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.


Sau năm 1992, mặc dù tổ chức FULRO đã tuyên bố châm dứt hoạt động, nhưng một số tên cầm đầu FULRO lưu vong ở nước ngoài, được các thế lực phản động hậu thuẫn, nuôi dưỡng, vẫn chưa từ bỏ âm mứu đòi "ly khai", "tự trị" ở vùng dân tộc thiểu số, chúng lập ra một số hội, nhóm, nhằm tập hợp lực lượng người dân tộc thiểu số Tây Nguyên, người Chăm để tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam (Hội người Thượng Đề Ga, Hội những người miền núi, Hội Muslim Chăm Pa, Liên minh người Chăm Pa tị nạn...). Thủ đoạn của chúng là phát tán tài liệu xuyên tạc chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, vu cáo ta vi phạm nhân quyền, đàn áp người dân tộc thiểu số, không cho tự do tôn giáo..., kích động người dân tộc thiểu số gây rối, biểu tình, đòi phục hồi "Vướng quốc Chăm Pa". Ở trong nước, hàng vạn đối tượng FULRO đã về hàng, bị bắt trước đây được hưởng chính sách khoan hồng, đa số đều yên tâm lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới, nhưng trước tác động từ bên ngoài, một bộ phận không nhỏ đã ngấm ngầm liên kết với nhau tìm cơ hội chống phá cách mạng; nhiều đối tượng FULRO cũ làm mục sư, linh mục, lợi dụng vấn đề lự do lôn giáo đã ráo riết tụ tập quần chúng truyền đạo, đòi phát triển đạo Tin Lành, kích động tư tưởng đồng bào các dân tộc, làm gia tăng những vấn đề phức tạp về tín ngưỡng, tôn giáo ở vùng Chăm và vùng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.


Trước âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các hội, nhóm, tổ chức phản động, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở tăng cường lãnh đạo, tôn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc, chăm lo xây dựng, phát triển toàn diện vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân và đã đạt được những kết quả quan trọng. Quyền làm chủ của đồng bào dân tộc thiểu số được phát huy, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển, trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân được nâng cao, tiếng nói, chữ viết của từng dân tộc thiểu số được tôn trọng, tín ngưỡng, tôn giáo được phát huy, làm phong phú giá trị truyền thống các dân tộc; mạng lưới y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được đầu tư phát triển, đáp ứng tốt nhu cầu của đồng bào các dân tộc; đặc biệt là sự đầu tư xây dựng hệ thống điện, đường, trường, trạm, đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc tại các địa phương đã làm cho điều kiện sống của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng cao, thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ mới; đại bộ phận quần chúng nhân dân đều nhận thức rõ về quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước dân tộc. Chính vì vậy, quần chúng nhân dân đồng bào các dân tộc là người quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh chống tư tưởng "ly khai", "tự trị", làm thất bại các vụ biểu tình, gây rối, bạo loạn năm 2001 và năm 2004 ở Tây Nguyên.


Trong tình hình mới hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu gây dựng tổ chức phản động đối lập để tiếp tục chống phá cách mạng Việt Nam (trong đó có FULRO), chúng ra sức xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, kích động đồng bào các dân tộc thiểu số đòi "ly khai", "tự trị", hòng phá vỡ khối đại đoàn kết cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm và các tỉnh phụ cận. Trước tình hình đó, việc kế thừa và phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết các dân tộc, vận dụng linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ, phù hợp các biện pháp đấu tranh giải quyết FULRO vào thực tiễn có ý nghĩa quan trọng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân có vai trò quyết định thắng lợi công cuộc xây dựng, phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 07:56:54 am
Bài học 6: Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong thời kỳ mới

Cuộc đấu tranh giải quyết FULRO diễn ra chủ yếu trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên, vùng Chăm và khu vực miền núi phía tây các tỉnh Nam Trung Bộ; nơi đây có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống, tập quán sinh hoạt đa số theo kiểu công xã thị tộc, mang tính cộng đồng cao, mọi hoạt động của đồng bào đều dưới sự điều khiển của "Già làng"; vấn đề lớn nhất của đồng bào các dân tộc thiểu số là lối sản xuất du canh, du cư, trình độ văn hóa còn thấp, những hủ tục tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc ảnh hưởng sâu rộng tới quần chúng nhân dân. Hơn nữa, trải qua nhiều năm chịu sự kìm kẹp, bóc lột, dưới bộ máy cai trị của thực dân, đế quốc đồng bào các dân tộc thiểu số bị mất quyền làm chủ, đời sống còn rất khó khăn, thiếu thốn mọi mặt, tình trạng người dân không đủ ăn, dịch bệnh, mù chữ... trở nên phổ biến trong các buôn làng. Mặt khác, tổ chức FULRO có quá trình hình thành và phát triển từ trước khi ta giải phóng miền Nam; tổ chức này đã từng là đại diện cho đồng bào các dân tộc thiểu số đứng lên đấu tranh bảo vệ lợi ích của người miền núi "Nam Đông Dương" và đã từng có vị trí trong chính quyền (Bộ Phát triển sắc tộc) của chế độ cũ; chính vì vậy, sau khi ta giải phóng miền Nam, chúng đã được các thế lực bên ngoài hậu thuẫn, nổi lên chống phá quyết liệt cách mạng nước ta và đã gây ảnh hưởng sâu rộng tư tưởng "ly khai", "tự trị" trong đồng bào các dân tộc thiểu số. Do vậy, để tách quần chúng khỏi sự ảnh hưởng của FULRO, làm cho FULRO không còn chỗ dựa trong các buôn làng, ta phải thường xuyên chăm lo và hướng dẫn đồng bào các dân tộc thiểu số đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, gắn liền với sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng chính đáng của đồng bào, xây dựng lòng tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước. Có thể thấy, cuộc đấu tranh giải quyết FULRO thực chất là cuộc đấu tranh chủ yếu về chính trị, nhằm nâng cao nhận thức mọi mặt cho đồng bào các dân tộc thiểu số, đảm bảo đồng bào có đầy đủ điều kiện để đẩy mạnh sản xuất, chống đói nghèo, lạc hậu và xây dựng quyền làm chủ thực sự của đồng bào cả về chính trị, quân sự, kinh tế, đời sống văn hóa - xã hội, đưa vị trí, vai trò các dân tộc thiểu số lên ngang hàng với các dân tộc khác, phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên.


Để thực hiện được mục đích trên, ngay sau ngày giải phóng miền Nam, Đảng, Nhà nước ta đã sớm nhận rõ vấn đề, triển khai đồng bộ các giải pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, nhằm nhanh chóng xây dựng củng cố chính quyền mới, giúp dân đẩy mạnh sản xuất, cải thiện một bước đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số. Một trong những giải pháp quan trọng được thực hiện thống nhất từ Trung ương tới cơ sở là tập trung chăm lo phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng cuộc sống mới ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên gắn liền với cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, thời gian đầu ta chưa kết hợp chặt chẽ với các biện pháp quân sự, chính trị, vận động quần chúng nên ta chưa nắm chắc quần chúng, hiệu quả thực thi chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng chưa đạt yêu cầu đề ra, chủ yếu còn nặng về biện pháp quân sự, truy quét những nhóm vũ trang FULRO; do đó, FULRO có điều kiện kích động đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho đồng bào hiểu lầm chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.


Nhận rõ những yếu kém cần khắc phục, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã kịp thời ra Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977, yêu cầu các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền địa phương "ra sức đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân các dân tộc, trước hết là về ăn, mặc, chữa bệnh và học tập, xây dựng buôn làng vững mạnh, xóa bỏ tận gốc mọi chỗ dựa của địch"1 (Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 của Ban Bí thư Trung ương Đảng "Về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ", tr. 2). Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, các cấp ủy và bộ máy chính quyền cơ sở cùng các lực lượng quân đội, công an, các ban, ngành, đoàn thể tham gia cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên đã tăng cường triển khai đồng bộ các biện pháp thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo mọi mặt đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số. Từ đó trở đi, đời sống nhân dân các dân tộc thiểu số dần được cải thiện, quần chúng nhân dân từng bước nhận rõ bản chất FULRO, tin tưởng vào chế độ mới, tích cực lao động sản xuất, ổn định đời sống; đồng thời, quần chúng nhân dân còn tích cực tham gia vận động người thân, con em đồng bào các dân tộc quay trở về với buôn làng, xây dựng cuộc sống mới. Có thể khẳng định, bài học kinh nghiệm về "chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội gắn với tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân" là một kinh nghiệm rât quan trọng, bổ sung đồng bộ các biện pháp, trực tiếp góp phần quyết định thắng lợi cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 07:57:29 am
1. Thường xuyên chăm lo phát triển sản xuất, kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số, kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên

Đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, dân tộc Chăm có tập quán sinh sống cộng đồng, sản xuất chủ yếu theo lối tự cung, tự cấp, du canh, du cư lâu đời; do vậy, đời sống vật chất, kinh tế, văn hóa - xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn rất khó khăn, tình trạng thiếu ăn, thiếu mặc, dịch bệnh, mù chữ... trở nên phổ biến và kéo dài nhiều năm. Hơn nữa, các dân lộc thiểu số thường có sự cố kết cộng đồng dòng tộc, dòng họ, buôn làng, từng thành viên trong cộng đồng thường có lòng tin và hành động theo sự chỉ dẫn của các bậc già làng, tầng lớp trí thức, thầy mo, thầy cúng..., nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của đồng bào về sự hiểu biết thế giới tâm linh, cầu xin các vị thần, các lực lượng siêu nhiên giúp đỡ để tồn tại, chống lại sự áp bức, đe dọa, chèn ép của các dân tộc lớn hơn và sự xâm lược từ bên ngoài; tâm lý chung của đồng bào các dân tộc thiểu số thường có sự mặc cảm, kỳ thị dân tộc, không tin vào người ngoại tộc; trong quá trình áp đặt ách thống trị, các thế lực thực dân, đế quốc lợi dụng triệt để những đặc điểm tâm lý từng dân tộc thiểu số nhằm chia rẽ, "chia để trị", phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc; các thành viên lực lượng FULRO đều là người trong các dân tộc thiểu số, chúng triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc để tồn tại, hoạt động chống phá cách mạng. Những đặc điểm trên làm cho điều kiện sống của đồng bào các dân tộc thiểu số đã lạc hậu, chậm phát triển càng trở nên lạc hậu hơn. Do vậy, để tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao nhận thức xã hội, phân biệt rõ địch - ta, trước hết phải chăm lo, giúp đỡ đồng bào phát triển sản xuất bằng những chính sách, công việc cụ thể, nói đi đôi với làm, mang lại lợi ích thiết thực cho đồng bào, làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số thấy rõ tính ưu việt đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời, nhận biết bản chất của FULRO và những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để lừa bịp, ép buộc, khống chế, kích động quần chúng trong các dân tộc thiểu số chống lại chính quyền cách mạng, qua đó tiếp tục phải cung cấp, tiếp tế cho số FULRO ngoài rừng, gây dựng cơ sở ngầm của FULRO trong các buôn làng, khiến cho đồng bào các dân tộc thiểu số không yên tâm sản xuất, lo lắng cho tương lai của dân tộc mình. Chính vì vậy, điều mấu chốt trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO là phải thường xuyên chăm lo, giúp đồng bào phát triển sản xuất, cải thiện và nâng cao mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa, xã hội, tạo lòng tin của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước.


Thực hiện chủ trương trên, ngay từ đầu và trong suốt quá trình đấu tranh giải quyết FULRO, Đảng, Nhà nước ta luôn kiên định, kiên trì, nhất quán quan điểm tổ chức thực hiện đúng chính sách dân tộc, tôn giáo đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; tôn trọng quyền làm chủ của đồng bào, đưa vị trí, vai trò các dân tộc thiểu số lên ngang hàng các dân tộc khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách chăm lo phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chưa thực sự quán triệt đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức, cải thiện đời sống quần chúng nhân dân, còn nặng về sử dụng biện pháp vũ trang truy quét đơn thuần, nên chưa tập trung chỉ đạo toàn diện, cụ thể, đồng bộ các giải pháp, nên còn nhiều sơ hở để FULRO có thể lợi dụng xuyên tạc, chưa tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân, chưa tách được FULRO khỏi các buôn làng, khiến ta phải mất nhiều công sức khắc phục khuyết điểm, thời gian cuộc đấu tranh giải quyết FULRO kéo dài. Sau nhiều hội nghị sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc tổ chức thực hiện Chi thị số 04/CT-TW của Trung ương, trong đó cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ đồng bào phát triển sản xuất, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa - xã hội, góp phần xây dựng, phát triển toàn diện ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số gắn liền với cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Nhờ có sự kiên trì tập trung chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở, nhiều hình thức, cách làm khác nhau được triển khai cùng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp chăm lo đời sống đồng bào, phù hợp với đặc điểm từng địa phương, từng dân tộc, sau 10 năm thực hiện Chỉ thị so 04/CT-TW, phong trào định canh, định cư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển tương đối đồng đều và đạt hiệu quả thiết thực, đời sống nhân dân được cải thiện một bước, đại bộ phận đồng bào đều thấy rõ sự chăm lo của Đảng, Nhà nước đoi với đồng bào các dân tộc, đồng thời nhận biết bộ mặt phản động, phá hoại sự bình yên, xây dựng cuộc sống mới ở buôn làng của FULRO. Đến tháng 3 năm 1988, trên toàn địa bàn Tây Nguyên đã có 9 huyện, 210 xã, với 90.987 hộ gia đình 865.981 nhân khẩu (71%) hoàn thành định canh, định cư; mở được 102.996ha đất canh tác, hình thành 100 hợp tác xã nông nghiệp, hơn 1.000 tổ sản xuất trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng 251 công trình thủy lợi, đảm bảo tưới tiêu cho 8.960ha ruộng lúa nước 2 vụ. Đặc biệt, với sự hình thành các nông trường, lâm trường sản xuất, khai thác lâm sản trên từng địa bàn phù hợp với chất đất, điều kiện khí hậu, thời tiết và đặc điểm, tập quán sản xuất của đồng bào các dân tộc thiểu số, đã thu hút lao động, tạo việc làm cho đông đảo quần chúng nhân dân; qua đó, quần chúng nhân dân được tiếp cận với trình độ khoa học kỹ thuật mới, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông, lâm nghiệp, tăng thu nhập cho đồng bào. Nhiều địa phương hình thành các vùng sản xuất lúa nước 2 vụ, mở rộng kinh tế vườn, trồng cà phê, hồ tiêu, cao su đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao đã giúp đồng bào dân tộc ổn định đời sống, hạn chế nạn phá rừng và thoát khỏi lối canh tác du canh, du cư; nhiều điển hình tiên tiến trong sản xuất ở các tỉnh Tây Nguyên được nhân rộng, như ở Đơn Dương, Lạc Dương Đức Trọng, Di Linh (Lâm Đồng); Krông Buk, Cư M’gar Krông Pắk (Đắk Lắk); Đắk Tô, Sa Thầy, Chư Sê, Mang Yang (Gia Lai - Kon Tum); qua đó, thu nhập của đồng bào các dân tộc thiểu số được nâng lên, góp phần cải thiện cuộc sống, đồng bào ngày càng hiểu rõ hơn chính sách chăm lo xây dựng, phát triển kinh tế cho vùng dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước ta.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 07:57:50 am
Song song với việc đẩy mạnh phong trào định canh, định cư, giúp dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, Đảng, Nhà nước ta đã chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương tăng cường đưa mạng lưới thương nghiệp, lưu thông phân phối các mặt hàng thiết yếu về tới các vùng sâu, vùng xa, nơi đồng bào dân tộc thiểu số tập trung sinh sống; nhiều hợp tác xã mua bán hình thành ở các buôn làng, đã kịp thời cung cấp muối, vải, đồ dùng gia đình, thuốc chữa bệnh... đáp ứng nhu cầu của đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với việc cung ứng các mặt hàng thiết yếu, các địa phương đã quan tâm xây dựng hệ thống các bệnh viện, trạm y tế, phát động phong trào vệ sinh phòng bệnh trong các buôn làng, góp phần đẩy lùi một số dịch bệnh (sốt rét, tiêu chảy), tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người dân tộc thiểu số. Đồng thời, việc củng cố cơ sở hạ tầng xã hội trên toàn Tây Nguyên, nhất là hệ thống điện, đường, trường học ở vùng đồng bào dân tộc được các cấp chính quyền quan tâm đầu tư xây dựng, góp phần đẩy mạnh sản xuất, phát triển văn hóa, xã hội Tây Nguyên, vùng dân tộc Chăm, từng bước giải quyết nạn đói, nạn mù chữ ở vùng dân tộc thiểu số; qua đó, đồng bào các dân tộc ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, xây dựng buôn làng ngày càng tươi đẹp và có đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh giải quyết FULRO. Nhờ thường xuyên quan tâm, kiên trì chăm lo xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội vùng đồng bào các dân tộc, sự vào cuộc của tất cả các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương tới chính quyền cơ sở, nên đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của đồng bào ngày càng được cải thiện và nâng cao; đến cuối năm 1992, số FULRO còn lại ngoài rừng bị mất hoàn toàn chỗ dựa trong dân, chúng buộc phải di chuyển sang Campuchia, ra hàng lực lượng UNTAC và tuyên bố chấm dứt hoạt động.


Như vậy, trải qua 17 năm kiên trì chăm lo xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ta đã từng bước nâng cao đời sống quần chúng nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; các xã ở vùng dân tộc thiểu số đều có đường ô tô vào tới trung tâm, điện lưới quốc gia đã đến hầu hết các buôn làng, hệ thống truyền thanh, truyền hình đã phủ sóng khắp các vùng đồng bào thiểu số sinh sống; đặc biệt là sự hình thành và hoạt động sản xuất, kinh doanh của các nông, lâm trường, hợp tác xã..đã mở ra nhiều ngành nghề, thu hút lao động, tạo nhiều việc làm và nâng cao thu nhập cho đồng bào các dân tộc thiểu số; từ đó, đồng bào ngày càng hiểu rõ chính sách chăm lo cho đồng bào các dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, quần chúng nhân dân không còn nghe và làm theo sự kích động của FULRO. Có thể khẳng định, sự chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số là một nội dung rất quan trọng, gắn liền với hiệu quả và quyết định thắng lợi cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992). Sau năm 1992, cùng với công cuộc "Đổi mới" toàn diện của đất nước, các tỉnh Tây Nguyên và vùng dân tộc Chăm ở các tỉnh phụ cận tiếp tục được Đảng, Nhà nước, hệ thống chính quyền cơ sờ thường xuyên chăm lo xây dựng, phát triển toàn diện, nhiều thành phần kinh tế được đầu tư, đã mở ra một thời kỳ phát triển mới, nâng cao đời sống mọi mặt cho đồng bào các dân tộc thiểu số; nhiều chương trình (132, 134, 135...) của Chính phủ được triển khai thực hiện, đã phát huy hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa tiếp tục được cải thiện đáng kể, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội địa bàn chiến lược Tây Nguyên nói chung và đóng góp tích cực vào quá trình đấu tranh, ngăn ngừa tư tưởng "ly khai", "tự trị" theo kiểu FULRO ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống nói riêng.


Trong thời kỳ mới, các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO lưu vong vẫn tiếp tục âm mưu chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều hình thức, thủ đoạn mới, chúng triệt để lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo", để xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Đặc biệt, chúng tập trung đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", kích động đồng bào thiểu số gây rối, bạo loạn, đòi thành lập "Nhà nước Đề Ga" tự trị trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Sau các vụ gây rối, tập trung đông người bạo loạn ở Tây Nguyên (năm 2001 và năm 2004), bọn phan động lưu vong ở nước ngoài tiếp tục tìm cách kích động tư tưởng "ly khai", "tự trị" ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, lôi kéo quan chúng vượt biên sang Campuchia, hoạt động của các nhóm "Tin Lành Đề Ga" diễn biến phức tạp; do vậy, để giải quyết cơ bản những vấn đề chúng có thể lợi dụng, xuyên tạc, một trong những nội dung cần thiết là tăng cường xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho quần chúng nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, mang lại lợi ích thiết thực cho đồng bào, không để hiện tượng tiêu cực, lãng phí, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân. Đây là một biện pháp hữu hiệu khẳng định tính đúng đắn của chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, đưa vị trí, vai trò của các dân tộc thiểu số ngang hàng với các dân tộc khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp phân giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển toàn diện địa bàn chiến lược Tây Nguyên.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 07:58:35 am
2. Nhất quán quan điểm tôn trọng và chăm lo nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc thiểu số, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn chiến lược Tầy Nguyên

Đi đôi với việc thường xuyên chăm lo phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất cho đồng bào các dân tộc thiểu số, giúp đồng bào thoát cảnh đói nghèo, dịch bệnh, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và chăm lo nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh của một bộ phận đồng bào các dân tộc. Đây vừa là vấn đề tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào, vừa bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc và cổ ý nghĩa quan trọng tăng cường khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, dân tộc Chăm thường có đặc điểm tín ngưỡng riêng, dựa vào niềm tin tôn giáo đổ tồn tại, cầu xin những vị thần, các thế lực siêu nhiên giúp đỡ trong cuộc sống, lao động sản xuất; niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo đã trở thành những tập tục truyền thống, mang bản sắc riêng, chi phối đến đời sống văn hóa, tinh thần của mỗi dân tộc thiểu số. Trong quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của tổ chức FULRO, chúng đều lợi dụng vấn đề tôn giáo để lôi kéo, kích động, lừa bịp đông bào các dân tộc đi theo chúng; do vậy, trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO cần phải hết sức chú ý đến đặc điểm tâm lý tôn sùng tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc, đặc biệt là cần tranh thủ sự đồng tình và ý kiến của những người có uy tín trong cộng đồng (như: Thầy cúng, mục sư, chức sắc tôn giáo khác) để có phương pháp tiếp cận đồng bào phù hợp, đồng thời cần tìm cách vận độna họ tích cực tham gia tuyên truyền, quán triệt chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng đối với quần chúng, nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh giải quyết FULRO.


Thực tiễn cuộc đấu tranh giải quyết FULRO (1975 - 1992) đã chứng minh việc tôn trọng, chăm lo đến nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số có tác động mạnh tới tâm lý xã hội, tách FULRO ra khỏi quần chúng, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh. Trong 2 năm đầu (1975 - 1976), do ta còn nặng về sử dụng lực lượng vũ trang để trấn áp, truy quét FULRO, chưa kết hợp chặt chẽ với các biện pháp khác, nhất là chưa chú ý đến đặc điểm dân tộc, tôn giáo của đồng bào, nên mặc dù đã đẩy lùi và làm thất bại âm mưu dùng vũ trang chiếm giữ vùng dân tộc thiểu số, uy hiếp các trung tâm huyện, tỉnh, các trục đường giao thông của bọn cầm đầu FULRO, làm giảm uy thế của chúng; nhưng sau mỗi đợt truy quét, FULRO lại lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để xuyên tạc, kích động, lôi kéo quần chúng, làm cho đồng bào dân tộc thiểu số hiểu sai chính sách của ta, chúng có điều kiện để khôi phục lực lượng và hoạt động mạnh trở lại.


Trước tình hình đó, đầu năm 1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số04/CT-TW, nêu rõ: "Tất cả các cán bộ chính trị, quân sự, kinh tế, các chiến sĩ quân đội, an ninh tham gia công tác này đều phải được huấn luyện, bồi dưỡng kỹ về chính sách dân tộc, tôn giáo và chính sách trấn áp phản cách mạng"1 (Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 2 tháng 2 năm 1977 của Ban Bí thư Trung ương "Về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO, bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu V cũ", tr.4); quán triệt chỉ thị của Trung ương, từ năm 1977 trở đi, trong đấu tranh giải quyết FULRO, ta đã tiến hành đồng bộ các biện pháp: Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị địa phương, kết hợp giữa trấn áp và khoan hồng..., trong đó đã tìm hiểu kỹ phong tục, tập quán, nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo của đại bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số và những thủ đoạn FULRO lợi dụng vấn đề này, nên từng bước đã nâng cao hiệu quả đấu tranh, quần chúng nhân dân ngày càng hiểu rõ chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và bộ mặt thật của FULRO, tách được FULRO ra khỏi quần chúng, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân vào công cuộc xây dựng, phát triển toàn diện vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng Chăm. Đến cuối năm 1988, ta đã tạo được những chuyển biến cơ bản có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi cuộc đấu tranh giải quyết FULRO, đời sống của đồng bào được cải thiện một bước, thực lực chính trị ờ cơ sở được củng cố, lực lượng vũ trang FULRO phần lớn bị tiêu diệt, số còn lại bị cô lập trong rừng sâu và chạy ra nước ngoài, tầm ảnh hưởng của chúng đối với đồng bào bị thu hẹp đáng kể, tạo điều kiện để ta giải quyết triệt để FULRO.


Trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, cần phải tôn trọng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh của đồng bào, ta đã kịp thời rút kinh nghiệm, các cấp chính quyền và các lực lượng điều chỉnh biện pháp quản lý, hình thức tiến hành phù hợp, thực sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, đồng thời hạn chế được những sơ hở FULRO có thể lợi dụng xuyên tạc, nên mặc dù đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, song về cơ bản đại bộ phận đồng bào thiểu số đều hiểu rõ tính ưu việt của chế độ mới, các dân tộc đã đoàn kết, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Nhờ đó, từ năm 1990 đến năm 1992, bọn phản động FULRO tiếp tục bị chia cắt, suy yếu, trong nội địa chỉ còn lại vài chục tên hoạt động nhỏ lẻ ở Đắk Lắk, Gia Lai và không còn chi phối, khống chế các buôn làng ở Tây Nguyên. Có thể khẳng định, quan điểm thường xuyên tôn trọng và chăm lo nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo cho đồng bào các dân tộc thiểu số là một chủ trương, biện pháp đảm bảo quyền tự do tôn giáo của nhân dân, đóng góp tích cực trong thực hiện đồng bộ các biện pháp đấu tranh giải quyết FULRO, góp phần xây dựng và phát triển đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Đây là một kinh nghiệm quan trọng, có đóng góp thiết thực vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp khối đại đoàn kết các dân tộc, giữ vững sự ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Trong thời kỳ mới, mặc dù tổ chức FULRO đã tan rã từ năm 1992, nhưng tàn dư của FULRO vẫn còn tồn tại trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; một số phần tử FULRO đã về hàng được hưởng chính sách khoan hồng không chịu khó lao động sản xuất, lén lút móc nối với nhau và tìm cách liên lạc với số cầm đầu FULRO lưu vong ở nước ngoài, hòng tiếp tục âm mưu đòi "ly khai", "tự trị", tuyên truyền cái gọi là "Nhà nước Đề Ga" độc lập ở Tây Nguyên; chúng kích động quần chúng tập trung đông người gây rối, bạo loạn, làm mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo cớ để kêu gọi các thế lực phản động quốc tế và chủ nghĩa đế quốc can thiệp điển hình là các vụ gây rối năm 2001, năm 2004 trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Thủ đoạn cơ bản của chúng là lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, truyền đạo "Tin Lành Đề Ga" gây ảnh hưởng trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, sau đó khống chế, kích động thanh niên người dân tộc biểu tình, gây bạo loạn hoặc trốn ra nước ngoài tham gia lực lượng chống phá cách mạng nước ta. Trước âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta, Đang, Nhà nước đã kịp thời chỉ đạo các địa phương Tây Nguyên tăng cường lãnh đạo thực hiện tốt những chủ trương chính sách của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về quản lý hoạt động của đạo "Tin Lành Đề Ga" gắn với tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần ngăn ngừa, đấu tranh xóa bỏ sự phục hồi của tổ chức phản động FULRO. Qua đó đã khẳng định tính nhất quán, sự chăm lo của Đảng, Nhà nước ta đối với đời sống tâm linh, nhu cầu chính đáng về tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số; làm cho các chức sắc, tín đồ tôn giáo tin tưởng hơn vào chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Nhiều chức sắc, tín đồ đã phối hợp tốt với các cấp chính quyền cơ sở trong đấu tranh loại trừ FULRO, Tin Lành Đề Ga, ngăn chặn biểu tình, vượt biên, góp phần tích cực trong phòng ngừa, đấu tranh đối ngoại và ngăn chặn sự lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch.


Để tiếp tục đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo của chúng, trước hết các cấp ùy Đảng, chính quyền cơ sở cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc, tôn giáo nói chung và "Tin Lành" nói riêng; bên cạnh việc quyết tâm đấu tranh xóa bỏ tổ chức "Tin Lành Đề Ga", cần quan tâm đến đời sống tâm linh của một bộ phận quần chúng có tín ngưỡng, tôn giáo, công nhận và cho đăng ký hoạt động đối với các chi hội, điểm nhóm "Tin Lành miền Nam", vừa giải quyết nhu cầu tín ngưỡng của đồng bào có đạo, vừa hạn chế khả năng lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Các cấp ủy Đảng, hệ thống chính quyền cơ sở, cán bộ, đảng viên cần quan tâm giải quyết những nhu cầu chính đáng của quần chúng có tín ngưõng, tôn giáo, phân hóa những vấn đề bất lợi nảy sinh trong quá trình ta xây dựng, phát triển toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, tạo điều kiện để đẩy mạnh phát triển sản xuất, nâng cao đời sống mọi mặt cho đồng bào các dân tộc thiểu số; củng cố vững chắc niềm tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự an toàn xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam trong thời kỳ nước ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 08:00:06 am
KẾT LUẬN


FULRO là một tổ chức phản động, sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc kết hợp với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi theo hướng tự trị, ly khai, do Mỹ tổ chức, nuôi dưỡng và trang bị, hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX. FULRO có hệ thống tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống cơ sở, theo cơ cấu hành chính kết hợp với quân sự; có lực lượng vũ trang quy mô tương đối lớn, phạm vi hoạt động trên một địa bàn rộng. Đặc biệt, FULRO lợi dụng được phong tục tập quán lạc hậu, trình độ nhận thức chính trị còn thấp trong nhân dân vùng dân tộc thiểu số, cùng với những sơ hở, khó khăn của ta sau chiến tranh để xuyên tạc, kích động, khống chế quần chúng và câu kết với các thế lực thù địch bên ngoài chống phá cách mạng Việt Nam.


Lịch sử phát sinh, phát triển và tồn tại của FULRO ở Tây Nguyên, phụ cận và vùng dân tộc Chăm là quá trình phức tạp, kéo dài. Trước năm 1975, dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn, người dân nơi đây bị đối xử bất bình đẳng, kỳ thị, chết chóc bởi bom đạn... Những điều đó đã gây nên sự phản kháng dẫn đến sự ra đời của các hình thức mặt trận chống đế quốc và tay sai. Tuy nhiên, Mỹ và các thế lực thù địch đã "nhào nặn", "lèo lái" quần chúng đi theo quỹ đạo nhằm phục vụ cho lợi ích của chúng, gây phức tạp trong quan hệ dân tộc và quốc tế. Từ sau năm 1975, FULRO vẫn mang danh nghĩa là Mặt trận giải phóng các sắc tộc Tây Nguyên, câu kết với các thế lực thù địch quốc tế, trở thành một bộ phận trong kế hoạch hậu chiến của Mỹ, chống phá cách mạng, đi ngược lại dòng chảy lịch sử, gây ra nhiều thiệt hại cho nhân dân, để lại vết thương tình đoàn kết trong lòng dân tộc Việt Nam.


Nhiệm vụ đấu tranh giải quyết FULRO từ năm 1975 đến năm 1992 của ta được tiến hành trên nhiều mặt, kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp chính trị, vận động quần chúng với biện pháp vũ trang truy quét; kết hợp giữa chống FULRO với thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo nhằm phát triển vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vùng dân tộc Chăm về mọi mặt.


Trong 2 năm 1975 - 1976, trước những hoạt động chống phá phức tạp, nguy hiểm của FULRO ở Tây Nguyên và vùng phụ cận, ta chủ yếu dùng biện pháp vũ trang với sức mạnh quân sự nhằm nhanh chóng dập tắt các hoạt động chống phá gây bạo loạn của FULRO. Sử dụng lực lượng quân sự gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương mở các chiến dịch truy quét với quy mô lớn, làm tan rã 8.405 tên FULRO ở rừng, bóc gỡ 12.140 cơ sở của chúng trong buôn, ấp, thu hàng nghìn khẩu súng các loại, trong đó có 20 tên cầm đầu thuộc trung ương FULRO và chỉ huy các vùng chiến thuật, đẩy lùi một bước mưu đồ vũ trang lật đổ chính quyền của bọn cầm đầu FULRO, đẩy chúng vào thế bị động, lúng túng; bảo vệ được chính quyền cách mạng, tạo được chỗ dựa cho cán bộ cốt cán hoạt động ở vùng dân tộc; bước đầu giải tỏa được khống chế uy hiếp của FULRO đối với các trung tâm hành chính tỉnh huyện, các trục đường giao thông chính, làm giảm uy tín của chúng đối với đồng bào dân tộc.


Từ năm 1977 đến năm 1987 là giai đoạn ta đã tạo được những chuyển biến cơ bản có ý nghĩa quyết định thắng lợi toàn bộ cuộc đấu tranh giải quyết FULRO trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận. Nhận thức về Chỉ thị số04 của Ban Bí thư, các ngành, các cấp ngày càng thống nhất về quan điểm cũng như các chủ trương, chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước, phương pháp đấu tranh phối hợp giữa tiến công chính trị và vũ trang truy quét ngày càng chặt chẽ và đồng bộ. Biện pháp kết hợp đúng đắn giữa vận động quần chúng tiến công chính trị với thực hiện chính sách trấn áp phù hợp, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, thúc đẩy sự tan rã của FULRO. Biện pháp thành lập các tổ công tác đứng chân ở các huyện, xã trọng điểm được tiến hành có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho công tác vận động quần chúng tiến công chính trị, vũ trang làm tan rã tổ chức FULRO. Ở vùng dân tộc Chăm, ta đã tiêu diệt, bắt, gọi hàng hơn 500 tên FULRO ở rừng, bóc gỡ trên 1.000 cơ sở của chúng ở buôn, ấp. Ở Tây Nguyên, các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk cơ bản đánh tan lực lượng vũ trang của FULRO, phá rã hệ thống tổ chức của chúng. Đặc biệt, đã hạn chế được sự móc nối, quan hệ của FULRO với bên ngoài và ý đồ đưa lực lượng ra nước ngoài huấn luyện để trở về nước chống phá; đã xây dựng được cốt cán, chính quyền cơ sở trong vùng dân tộc thiểu số đủ sức đối phó với FULRO tại chỗ. Việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, nhất là chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số và xây dựng thực lực chính trị ở cơ sở được quan tâm đẩy mạnh, đạt được những thành tựu quan trọng. Đầu năm 1987, đã có 9 huyện, 210 xã vùng dân tộc Tây Nguyên hoàn thành công tác định canh, định cư, thành lập hơn 100 hợp tác xã nông nghiệp và 1.000 tập đoàn sản xuất; hệ thống giáo dục đã hình thành mạng lưới từ tỉnh đến xã; xây dựng thực lực chính trị được 100% xã dân tộc có chi bộ Đảng, phát triển được 109.000 dân quân tự vệ ở các buôn làng. Những thắng lợi trên đã mở ra triển vọng giải quyết triệt để vấn đề FULRO.


Trong những năm 1988 - 1992, dưới sự chủ trì, chỉ đạo của Trung ương, các ngành, các địa phương nhiều lần tổ chức các hoạt động sơ kết, tổng kết công tác đấu tranh giải quyết FULRO, thực hiện Chỉ thị số 04 và tiếp tục chỉ đạo công tác vận động quần chúng, củng cố cơ sở chính trị, cắt đứt quan hệ giữa chỉ huy FULRO ở Campuchia và những nhóm còn lại trong nội địa, cắt đứt quan hệ của FULRO với quần chúng nhân dân, làm cho chúng mất chỗ dựa và cuối cùng phải ra trình diện chính quyền, tuyên bố chấm dứt hoạt động chính trị, vũ trang, nộp vũ khí và đưa đi định cư tại Mỹ theo sự chấp thuận của Mỹ và UNTAC.


Thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải quyết FULRO có ý nghĩa to lớn, toàn diện, góp phần đập tan âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc đổ chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch trong nước và nước ngoài, góp phần ổn định phát triển kinh tế, chính trị, xã hội an ninh, quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên và khu vực phụ cận. Thắng lợi đó chứng minh chính sách đúng đắn của Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân các dân tộc nơi đây vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, củng cố khối đoàn kết, gắn bó cộng đồng các dân tộc trên địa bàn. Phương châm đấu tranh đã nhận thức đúng, chuyển từ quân sự sang chính trị, đấu tranh giải quyết FULRO là vấn đề chính trị, tư tưởng "người về vũ khí về". Tuy nhiên, trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt là sự lơ là, mất cảnh giác, nặng về quân sự, có nơi còn khoán trắng cho quân đội và công an, xây dựng cơ sở còn chưa theo kịp tình hình.


Trong quá trình đấu tranh giải quyết FULRO đã để lại một số bài học kinh nghiệm có giá trị về lý luận và thực tiễn. Đó là quán triệt sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng quản lý của Nhà nước về chính sách dân tộc, tôn giáo trong đồng bào dân tộc thiểu số. Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc địa bàn, kịp thời loại trừ khả năng phục hồi của FULRO và phòng ngừa nảy sinh các tổ chức phản động ở vùng dân tộc thiểu số. Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công chính trị với biện pháp quân sự, lấy tiến công chính trị làm chính. Thực hiện tốt công tác, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh gắn với đào tạo bồi dưỡng phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các biện phap đấu tranh giải quyết FULRO. Thường xuyên chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, gắn với thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết giữa các dân tộc trên địa bàn.


Nhìn lại hoạt động đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên và vùng dân tộc Chăm từ năm 1975 đến năm 1992, có thể thấy nổi lên mấy đặc điểm sau: Đấu tranh giải quyết FULRO diễn ra trong bối cảnh nước ta vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lấn biên giới của thế lực bành trướng. Chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách thực hiện mưu đồ chống phá thành quả cách mạng nước ta. Do đó, cuộc đấu tranh giải quyết FULRO diễn ra liên tục, quyết liệt, vừa cấp bách, vừa lâu dài, diễn ra trên địa bàn rộng lớn cả Tây Nguyên xuống miền núi, duyên hải các tỉnh phụ cận và biên giới nước bạn. Phương pháp đấu tranh giải quyết FULRO ở Tây Nguyên và vùng phụ cận có sự chuyển hướng từ đấu tranh quân sự vũ trang truy quét sang giải quyết bằng chính trị. Một đặc điểm nữa là trong hoạt động đấu tranh luôn có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng, giữa nhân dân 3 nước Đông Dương đã góp phần thắng lợi trong đấu tranh giải quyết FULRO.


Đấu tranh giải quyết FULRO của Đảng, chính quyền, quân dân các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận từ sau năm 1975 đến nay chưa phải đã xong xuôi hoàn toàn, vẫn còn nhiều việc phải làm, song có thể nói căn bản ta đã giành được thắng lợi, tổ chức FULRO đã bị xóa bỏ trên thực tế. Những hoạt động truy quét bọn phản động, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội gian nan và anh dũng của quân dân các tỉnh Tây Nguyên và phụ cận với sự đồng lòng của cả nước đã đưa đến thắng lợi quyết định đó. Suy nghĩ về những thành công và hạn chế, đúc kết vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm đấu tranh giai quyèt FULRO là việc cần thiết đối với công cuộc xây dựng và phát triển địa bàn chiến lược Tây Nguyên trong tình hình hiện nay.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 08:01:28 am
PHỤ LỤC
MỘT SỐ TÀI LIỆU VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA FULRO


Phụ lục 1
MỘT SỐ MỐC LỊCH SỬ CHÍNH TRỊ, HÀNH CHÍNH
CỦA TÂY NGUYÊN ĐẾN NĂM 1954


Giữa thế kỷ XIX, một số nhà nghiên cứu người Pháp và các giáo sĩ thuộc "Hội Thừa sai Pari" (MEP) đã xâm nhập lên Tây Nguyên để thám hiểm, khảo sát, truyên đạo.


Năm 1888, Mayréna (người Pháp) đến vùng Bắc Tây Nguyên lôi kéo các tù trưởng dân tộc, tuyên bố thành lập "Vương quốc Xê Đăng" nhưng không thành. Mayréna bị chính quyền Pháp bắt.


Ngày 3 tháng 10 năm 1893, Pháp ký hiệp ước với Thái Lan sáp nhập khu vực từ Kon Tum đến Đắk Lắk vào Lào (Ai Lao).


Ngày 22 tháng 11 năm 1904, phần đất thuộc tỉnh Quảng Đức, Đắk Lắk (lúc đó) được trả lại cho Việt Nam.


Ngày 4 tháng 7 năm 1905, phần đất thuộc tỉnh Kon Tum (lúc đó) được trả lại cho Việt Nam.


Lập tỉnh Đồng Nai Thượng 1898, đến năm 1903 sáp nhập vào Bình Thuận, năm 1920 được tái lập và sáp nhập vào Tây Nguyên.


Năm 1907, lập tỉnh Kon Tum (bao gồm cả Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk ngày nay).


Năm 1923, lập tỉnh Đắk Lắk do Sabatier làm công sứ đầu tiên và ban hành lệnh câm người Kinh lên Cao nguyên (đến năm 1930 lệnh này mới được bãi bỏ).


Năm 1929, lập tỉnh Pleiku.


Ngày 17 tháng 9 năm 1929, thiết lập chế độ "Tòa án phong tục" (Thượng) tại Đắk Lắk, Kon Tum.


Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công.


Pháp trở lại Tây Nguyên và ra sắc lệnh thành lập "Liên bang phụ trách các dân tộc sơn cước miền Nam Đông Dương" (27.5.1946) - PMSI. Lập Tòa ủy viên phụ trách liên bang, đặt trụ sở tại Buôn Ma Thuột - Đắk Lắk, có quyền hạn độc lập với tổ chức hành chính miền Nam. Tháng 12 năm 1948, Pháp lập các đơn vị ngụy quân người Thượng để bảo vệ PMSI (đến ngày 8.3.1949 mới bãi bỏ liên bang này).


Ngày 25 tháng 7 năm 1950, Quốc trưởng Bảo Đại ra sắc lệnh tổ chức các tỉnh Kon Tum, Đắk Lắk, Pleiku, Đồng Nai Thượng thành "Hoàng triều cương thổ". Tiếp đó, Đạo dụ số 6 ban hành "Quy chế riêng biệt của người Thượng" ở khu vực này.


Năm 1954, Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, ép Bảo Đại hủy bỏ chế độ "Hoàng triều cương thổ", sáp nhập vùng cao nguyên vào lãnh thổ Việt Nam, đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn.


(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2000)



Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 08:03:12 am
Phụ lục 2
NHỮNG DIỄN BIẾN, SỰ KIỆN CỦA TỔ CHỨC FULRO (1955-1992)


1. Từ năm 1955 đến năm 1959

Tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống chính quyền Sài Gòn - lập chính quyền tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Từ năm 1955 đến năm 1956, chính quyền Diệm ban hành và thực thi một số chính sách mang tính chất cưỡng bức, đồng hóa dân tộc ở Tây Nguyên. Trong khi Pháp cố duy trì ảnh hưởng của mình thì Mỹ từng bước xâm nhập, nắm giữ khu vực này nhằm chống phá cách mạng.


Lúc đó, một số công chức, nhân sĩ, trí thức người Thượng đã họp bàn, bày tỏ bất bình với chính sách của Diệm.

Năm 1957, hình thành nhóm tuyên truyền, chống lại chính sách của Diệm, tập trung ở Pleiku và Buôn Ma Thuột. Nhiều nhân sĩ, trí thức, công chức, sĩ quan người Thượng tham gia (Y Bhăm Ênuol, Y Ju Êban, Sui Sip, Nay Luet...) - Số này có quan hệ với một số chức sắc tôn giáo nước ngoài tại Tây Nguyên và nhân viên Tòa Đại sứ Pháp, Mỹ ở Sài Gòn.


Năm 1958, hợp nhất các nhóm, lập "Ủy ban Trung ương" do Y Bhăm Ênuol làm Chủ tịch. Ngày 1 tháng 5 năm 1958, "Phong trào BAJARAKA" chính thức ra đời, lấy Pleiku làm trung tâm hoạt động. Ban lãnh đạo gồm 11 người.


Sau đó, phong trào soạn thảo một số thư, tài liệu phát tán tại Tây Nguyên, gửi cho chính quyền Diệm và các phái đoàn ngoại giao Anh, Pháp, Mỹ... tại Sài Gòn. Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1958, phong trào tổ chức các cuộc biểu tình đòi yêu sách (trong đó có cuộc biểu tình lớn ở Buôn Ma Thuột ngày 9.9.1958).


Chính quyền Diệm không chấp nhận các yêu sách, kiến nghị của BAJARAKA, thẳng tay đàn áp, bắt tất cả các lãnh tụ cầm đầu phong trào.

Đầu năm 1959, phong trào BAJARAKA bị dập tắt.


2. Từ năm 1960 đến năm 1969

Năm 1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời và sau đó (19.5.1961) "Phong trào tự trị Tây Nguyên" thuộc Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập do ông Y Bih Aleo làm Chủ tịch.


Tháng 11 năm 1963, Diệm - Nhu bị lật đổ, Dương Văn Minh lên thay và tiếp đó là Nguyễn Khánh.

Đến tháng 3 năm 1964, do sức ép của Mỹ, ngụy quyền thả các lãnh tụ BAJARAKA bị bắt và bổ nhiệm giữ các chức vụ trong bộ máy hành chính tại Tây Nguyên. Sau khi được thả số này đã nhen nhóm gây dựng lại phong trào với tên gọi mới "Mặt trận giải phóng dân tộc Cao nguyên - FLHPM" và liên hệ với cố vấn Mỹ, với Les Kossem (ở Campuchia).


Ngày 20 tháng 9 năm 1964, Mặt trận giải phóng dân tộc Cao nguyên gây ra cuộc bạo động của binh lính Thượng thuộc lực lượng đặc biệt, dân sự chiến đấu, địa phương quân tại Đức Lập - Quảng Đức và Buôn Ma Thuột. Bị ngụy quyền Sài Gòn trấn áp, lực lượng bạo động rút chạy qua Campuchia, mang theo Y Bhăm Ênuol và tôn lên làm Chủ tịch "Mặt trận giải phóng dân tộc Cao nguyên" - FLHPM (10.1964).


Từ năm 1963 đến năm 1964, một số thanh niên dân tộc Chăm đã chạy sang Campuchia, tham gia "Mặt trận giải phóng Chăm Pa" - FLC của Les Kossem (Kiều Thiên Thi, Bá Trung Di, Hoàng Minh Mộ...).


Tháng 6 năm 1965, FLHPM, FLC và "Mặt trận giải phóng Miên hạ" FLKK là 3 tổ chức do chính quyền Campuchia đỡ đầu cử phái đoàn đại diện tham gia dự "Hội nghị nhân dân Đông Dương lần thứ nhất" khai mạc ngày 25 tháng 6 năm 1965, tại Phnôm Pênh.


Sau Hội nghị, 3 tổ chức FLHPM, FLC, FLKK tuyên bố sáp nhập thành một tổ chức thống nhất lấy tến là "Mặt trận thống nhất đấu tranh của các sắc tộc bị áp bức" - FULRO (viết tắt tiếng Pháp). Trên thực tế, bộ phận FULRO người Thượng, người Chăm vẫn sử dụng tên chung đó.


Năm 1965, Mỹ - ngụy kéo FULRO về hợp tác để tập trung lực lượng chống cách mạng. Nội bộ FULRO bị phân hóa, một số về hợp tác với ngụy, một số chống lại chủ trương này và gây bạo động lần thứ hai tại Phú Thiện, Phú Bổn đêm 17 tháng 12 năm 1965 và bị ngụy quyền trân áp, bắt số đối tượng cầm đầu.


Năm 1966, ngụy quyền ra các sắc lệnh số 28/66 và số 30/66 cho phép số FULRO về "hợp tác" được ra ứng cử vào Quốc hội lập hiến. Ngày 6 tháng 6 năm 1966, trên 500 sĩ quan, binh lính và thân nhân FULRO về hợp tác, được ngụy quyền tổ chức đón tiếp tại Buôn Ma Thuột.


Năm 1967, ngụy quyền ban hành sắc luật số 033/67 về Quy chế riêng biệt cho đồng bào thiểu số và sắc luật số 034/67 công nhận quyền sở hữu đất đai của đồng bào Thượng.

Năm 1968, ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 làm lung lay chế độ Mỹ, ngụy. Chúng tăng cường lôi kéo FULRO trở về để trung lập lực lượng đối phó cách mạng.

Ngày 1 tháng 2 năm 1969, hầu hết FULRO ở Campuchia, gồm 2.257 sĩ quan, binh lính và 3.214 thân nhân về hợp tác với ngụy quyền. Một bộ phận FULRO và Y Bhăm Ênuol vẫn ở Campuchia.

Năm 1969, do bị chính quyền ngụy Sài Gòn đàn áp mạnh, số cầm đầu FULRO ở vùng dân tộc Chăm (hoạt động từ 1965 - 1966) phải chạy sang Campuchia (Huỳnh Ngọc Sắng, Quảng Đại Đủ, Kiều Ngọc Quyên...).


3. Từ năm 1970 đến năm 1975

Từ năm 1969 đến năm 1970, "Phong trào đoàn kết sắc tộc thiểu số Cao nguyên miền Nam Việt Nam" ra đời và hoạt động. Chủ tịch Y Blinh Buôn Krông Pang; Phó Chủ tịch là Ya Duck, Y DHắt Nie Kđăm. Thực chất đây là một tổ chức thay thế FULRO đã về hợp tác với ngụy quyền để tập hợp lực lượng chính trị trong các dân tộc Tây Nguyên.


Năm 1972, hình thành lực lượng "áo xanh miền núi" ở Đà Lạt - Lâm Đồng, thành phần tham gia là học sinh, sinh viên, công chức FULRO cũ, được sự cố vấn, giúp đỡ của Newman - mục sư Tin Lành người Mỹ.


Y Bhăm Ênuol ở Campuchia bí mật chỉ đạo nhóm Kpă Kới ở Đắk Lắk khôi phục lại phong trào FULRO trong nước.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước. Tháng 9 năm 1973, nhóm Kpă Kới chạy vào rừng hoạt động. Ngày 20 tháng 10 năm 1973, Y Bhăm Ênuol ký quyết định chỉ định Kpă Kới làm Phó Chủ tịch FULRO, phụ trách mọi hoạt động trong nước.


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 08:04:51 am
4. Từ năm 1975 đến năm 1992

Đầu năm 1975, ta mở cuộc tổng tiến công giải phóng các tỉnh Tây Nguyên và toàn miền Nam. FULRO nổi lên chống phá chính quyền, chế độ mới, phát triển lực lượng ở bên trong. Y Bhăm Ênuol và một số cầm đầu FULRO ở Campuchia bị Khmer Đỏ thủ tiêu.


Ta tập trung lực lượng truy quét, tiêu hao phần lớn lực lượng FULRO, đập lan âm mưu bạo loạn cướp chính quyền của chúng.

Đầu năm 1976, Kpă Kới bị mất tích, Y Djao Niê tự xưng là Thiếu tướng, Thủ tướng Chính phủ, thành lập nội các mới, củng cố tổ chức, lực lượng.

Năm 1977, ở Tây Nguyên, FULRO có khoảng 3.000 tên, thành lập 4 khung sư đoàn kiêm 4 vùng chiến thuật, 18 khung tiểu đoàn, về hành chính, chúng chia Tây Nguyên làm 9 tỉnh.

Bộ máy tổ chức gồm:

- Y Djao Niê - Thiếu tướng, Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

- Nay Guh - Đại tá, Tổng Tham mưu trưởng.

- Y Hin Niê - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

- Y Si Niê - Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

- Cil Bè - Bộ trưởng Bộ Giáo dục.

- Ya Duck - Đổng lý Văn phòng Phủ Thủ tướng, v.v...

Ở vùng dân tộc Chăm có khoảng 230 tên và 800 cơ sở ngầm. Sau khi một số tên đầu sỏ như Huỳnh Ngọc Sắng, Hán Bồng... bị ta bắt hoặc tiêu diệt, giữa năm 1977, FULRO Chăm cơ bản tan rã.


Năm 1978, Y Ghơk Niê Kriêng - phụ tá an ninh FULRO giết Y Djao Niê, tự phong làm Thủ tướng FULRO lập nội các mới gồm:

- Nay Rông - Phó Thủ tướng.

- Ya Duck - Phó Thủ tướng (vẫn hoạt động ở địa bàn Lâm Đồng và bị ta bắt sống).

- Paul Yưh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

- Thô R’Ban - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

- Cil Bè - Bộ trưởng Bộ Giáo dục.

- Y Ni Ayun - Bộ trưởng Bộ An ninh.

- Y Pên Ayun - Tham mưu trưởng, v.v...

Chúng vẫn để 4 vùng chiến thuật, 10 tỉnh, 35 quận; lập 6 khung sư đoàn, 8 khung trung đoàn; quân sô thông kê khoảng 2.280 tên.


Năm 1979, FULRO liên lạc được với Khmer Đỏ ở Campuchia (Sư đoàn 920) nhờ Pôn Pốt giúp đỡ liên lạc với bên ngoài và lập hành lang từ biên giới Thái Lan về Tây Nguyên. Chúng đưa khoảng 200 tên sang lập căn cứ tại Okiêng.


Lực lượng của chúng lúc này khoảng 2.000 tên, hình thành 5 vùng chiến thuật (thêm "vùng 4 duyên hải" với 9 tỉnh, 22 quận; có 7 khung sư đoàn và 35 khung tiểu đoàn).


Năm 1980, FULRO lập 2 biệt khu cánh Bắc và Nam Cao nguyên, duy trì quân khu kiêm vùng chiến thuật gồm 18 tỉnh (Tây Nguyên: 13 tỉnh, vùng Duyên hải: 5 tỉnh). Chúng có 5 khung sư đoàn, 18 khung trung đoàn, 41 khung tiểu đoàn, lực lượng khoảng 1.487 tên.


Năm 1981, kết thúc kế hoạch hoạt động truy quét, ta bắt toàn bộ chỉ huy FULRO Quân khu 4 (Lâm Đồng).


Từ năm 1981 đến năm 1983, số cầm đầu trung ương FULRO ở Campuchia lập được căn cứ ở vùng biên giới Lào - Campuchia - Thái Lan, có liên hệ và được sự giúp đỡ, ủng hộ trực tiếp, gián tiếp của Pôn Pốt, Trung Quốc, của tình báo lục quân Thái Lan, Mỹ. Trong nước, chúng còn duy trì 4 quân khu và lập các ZG (tương đương cấp tỉnh trước đây).


Năm 1984, lực lượng FULRO còn hơn 800 tên, chúng duy trì bộ phận trung ương lưu vong ở Thái Lan, Campuchia. Tháng 9 năm 1984, hầu hết số chỉ huy cầm đầu (khoảng 200 tên) đi Mỹ. Bên trong có 4 quân khu, 18 ZG. Chúng lập các "Toán đặc biệt" ZT, EHE, AAC trở về địa bàn Gia Lai - Kon Tum để lập mật cứ.


Từ năm 1985 đến năm 1986, FULRO tiếp tục suy yếu. Trên đất Campuchia còn một số tên cầm đầu Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Quân khu 2, Quân khu 3. Trong nội địa còn một bộ phận của Quân khu 1, Quân khu 4, 11 ZG. FULRO lập các đơn vị du kích chiến thay thế cho hệ thống hành chính - quân sự tại các quân khu.

Số FULRO ở căn cứ Thái Lan khoảng 200 tên được đưa sang Mỹ (qua Philippin).


Năm 1987, ngoài số FULRO lưu vong ở Mỹ, số ở Campuchia do Thiếu tướng Paul Yưh cầm đầu có khoảng 175 tên đóng căn cứ tại Mondulkiri. Trong nội địa chỉ còn 8 ZG gồm 111 tên, chia làm 14 toán cụm.


Từ năm 1988 đến năm 1989, tổng số FULRO ở Campuchia còn khoảng 137 tên, do Đại tá Y Pên Ayun - Bộ trưởng Quốc phòng kiêm Tư lệnh "Bộ Chỉ huy Du kích chiến" (CCF) cầm đầu. Trong nội địa chỉ còn vài toán hoạt động ở vùng biên giới Campuchia với Gia Lai.


Tháng 3 năm 1988, ta tổ chức Hội nghị tổng kết 12 năm đấu tranh giải quyết FULRO tại Đà Lạt - Lâm Đồng.


Từ năm 1990 đến năm 1992, sau thắng lợi của các kế hoạch truy quét Quân khu 1, Quân khu 2 FULRO ở nội địa, toàn bộ số FULRO còn lại ở Tây Nguyên buộc phải rút chạy sang Campuchia.


Năm 1991, thực hiện giải pháp chính trí ở Campuchia, Liên hợp quốc triển khai lực lượng UNTAC.


Tháng 12 năm 1992, FULRO ở Campuchia do Y Pên Ayun cầm đầu (số này khoảng 400 người, kể cả nhân thân FULRO) ra hàng UNTAC, nộp vũ khí, tuyên bố chấm dứt hoạt động và xin đi định cư tại Mỹ.


(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 08:07:42 am
Phụ lục 3
QUY CHẾ CỦA MẶT TRẬN GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CAO NGUYÊN (FLHPM/FULRO)

(Trích)


1. Định nghĩa

Mặt trận giải phóng dân tộc Cao nguyên (FLHPM/ FULRO: Front de Liberation des Haut Plateaux Montagnard) là một tổ chức đấu tranh của nhân dân miền núi nam Đông Dương cách mạng.


2. Vai trò và đặc điểm của FLHPM/FULRO

FLHPM/FULRO là đại diện chính thức của toàn nhân dân dân tộc miền núi Nam Đông Dương. Đó là điều khẳng định, không thể thay thế, không thể cải biến (non modifiable; hay không thể thay đổi (Unchangable).


3. Giới hạn lãnh thổ giải phóng

FLHPM/FULRO chiếm tất cả lãnh thổ của ông cha tổ tiên của nhân dân miền núi Nam Đông Dương. Các lãnh thổ phải giải phóng này có giới hạn hợp pháp sau đây:

- Phía bắc là vĩ tuyến 17. Phía đông là các đỉnh của dãy Trường Sơn. Phía nam là các điểm tận cùng phía nam của các nước miền núi cũ Nam Đông Dương. Phía tây là biên giới hiện tại với Miên và Lào.

- FLHPM/FULRO thay thế đồng thời "Mặt trận giải phóng Cao nguyên Chămpa" (Front de liberation des Haurs Plateaux Champa: FLHPC/FULRO) và "Mặt trận giải phóng Bắc Campuchia" (Front de liberation du Kambuia - Nord: FLKN/FULRO) đã được thành lập năm 1964 trên lãnh thổ cao nguyên.


4. Mục tiêu đấu tranh của FLHPM/FULRO

FLHPM/FULRO đấu tranh bảo vệ sự sống còn của các chủng tộc miền núi, do chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của nhân dân miền núi.

Mục tiêu đấu tranh trước mắt là giải phóng bằng mọi cách lãnh thổ của tổ tiên nhân dân miền núi Nam Đông Dương khôi sự đô hộ của nhân dân Nam Việt Nam.

Mục tiêu lâu dài là làm cho Cao nguyên Nam Đông Dương thành một nước tự trị thật sự, thống nhất, tự do, hòa bình, và phồn vinh. Toàn thể nhân dân miền núi sẽ đấu tranh cho đến khi Chính phủ Sài Gòn, bất kỳ ai cầm quyền phải thừa nhận những người miền núi là chủ nhân thật sự của đất nước họ, rút khỏi cao nguyên mọi nhân viên dân sự và quân sự, mọi quân đội vũ trang, mọi phương tiện chiến tranh. Họ không được tuyển thanh niên miền núi làm việc cho họ, trả lụi tất cả các công thự dân sự và quân sự với tất cả tiện nghi.


Tóm lại, nhân dân Nam Việt Nam phải thừa nhận nhân dân miền núi là chủ nhân thật sự lãnh thổ của chính tổ tiên họ, trả lại cho nhân dân mọi thẩm quyền dân sự và quân sự hiện có trên lãnh thổ tổ tiên họ để lại.


5. Đường lối đối nội của FLHPM/FULRO

Là đại diện chính thức của toàn thể nhân dân miền núi, FLHPM/FULRO bao trùm các tầng lớp xã hội của nhân dân này không phân biệt nam nữ, tuổi tác, dòng giống, hướng chính trị, phong tục, tập quán, cách sống...


Đảng chính trị duy nhất gọi là "Phong trào thống nhất quốc gia giành độc lập (M.U.N.I), dự kiến là đảng của nhân dân miền núi.

Giữ màu cờ của "Mặt trận giải phóng Cao nguyên Chămpa" cũ (FLHPC/FULRO) vì lý do màu cờ đó là do tôi (Y Bhăm Ênuol) đã sáng kiến ra.

Ngôn ngữ làm việc là tiếng Rhadé, là tiếng thông dụng hiện nay ở Cao nguyên Nam Đông Dương.

Đứng trong "Mặt trận thống nhất đấu tranh các chủng tộc bị áp bức" (Front Unifie de Lutte des Races Opprimées: FLJLRO) và luôn giữ mối quan hệ tốt, phối hợp tốt, hợp tác tốt với "Mặt trận giải phóng Chămpa" (Front de libération du Chămpa) và "Mặt trận đấu tranh Campuchia Crôm" (Front de lutte Kampuchea - Krom) cũng thuộc FULRO, đồng thời giữ những nét riêng của nền tự trị bên trong của mình, có nghĩa là nó đấu tranh chung cho mặt trận giải phóng bên kia nữa nhưng đồng thời đấu tranh cho tổ chức bên trong của mình và đòi hỏi riêng biệt của mình.


FLHPM/FULRO luôn luôn theo đường lối của thế giới tự do vì là đại diện chính thức của một nhân dân theo chủ nghĩa quốc gia của một nước trong thế giới tự do.


6. Đường lối đối ngoại của FLHPM/FULRO

FLHPM/FULRO luôn duy trì và không ngừng tìm cách mở rộng quan hệ anh em hoặc hữu nghị giữa các dân tộc độc lập bạn, nhất là nhân dân Mỹ và các đồng minh của Mỹ, với nhân dân miền núi đang đấu tranh.


Nó trông cậy tuyệt đối vào các dân tộc độc lập, giàu có và hùng mạnh này ủng hộ giúp nó thật sự và đến cùng trong cuộc đấu tranh giải phóng hiện tại. Vì các dân tộc bạn này đã hiểu rõ vấn đề người miền núi là mục tiêu rất đúng đắn, họ có ảnh hưởng ít nhiều ở Nam Việt Nam và cùng yêu chuộng hòa bình và công lý.


Về phần mình, FLHPM/FULRO hoàn toàn biết ơn các dân tộc bạn.


7. Tổ chức bên trong Mặt trận

Để có thể điều khiển có hiệu quả cuộc đấu tranh giải phóng, FLHPM/FULRO lập ra một ủy ban lãnh đạo gọi là ủy ban trung ương FLHPM/FULRO gồm 12 tiểu ban, phụ trách công việc thông thường của mặt trận.


Tổ chức ủy ban trung ương FLHPM/FULRO như sau:

- Chủ tịch Mặt trận là Chủ tịch ủy ban trung ương.

- Phó Chủ tịch Mặt trận là Phó Chủ tịch ủy ban trang ương.

- Tổng Thư ký của ủy ban trung ương.

- Phó Tổng Thư ký của ủy ban trung ương.

- Tổng Thủ quỹ của ủy ban trung ương.

- Phó Tổng Thủ quỹ của ủy ban Trung ương.

- Các cố vấn các ngành và các cơ quan Mặt trận.


Các tiểu ban trực thuộc:

a. Tiểu ban phụ trách các vấn đề chính trị.

b. Tiểu ban phụ trách các vấn đề đối nội.

c. Tiểu ban phụ trách các vấn đề đối ngoại.

d. Tiểu ban phụ trách các vấn đề quân sự.

e. Tiểu ban phụ trách các vấn đề tài chính, kinh tế, thương mại và công nghiệp.

g. Tiểu ban phụ trách trồng trọt, chăn nuôi, thủy lâm.

h. Tiểu ban phụ trách bảo vệ, an ninh, cảnh sát, liên lạc, phối hợp quan hệ tình báo.

i. Tiểu ban phụ trách tư pháp.

j. Tiểu ban phụ trách y tế, vệ sinh, hoạt động xã hội.

k. Tiểu ban phụ trách giáo dục quốc gia và hoạt động văn hóa.

l. Tiểu ban phụ trách thanh niên, thể thao và các vấn đề bán vũ trang.

m. Tiểu ban phụ trách thông tin, tuyên truyền và báo chí.


8. Phong trào đoàn kết quốc gia đòi độc lập (M.U.N.I)

Là những người cách mạng, chúng ta, đồng bào Cao nguyên đang đấu tranh, chúng ta không bao giờ chỉ tự coi mình là Sédang, Bahnar, Djarai, Rhadé, Koho, M’nông, H’Drung, Hroi, vì trong cuộc cách mạng, chúng ta cần lực lượng. Chúng ta phải đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng.


Như trường hợp người Do Thái đã mất nước hàng vạn thế kỷ, nhưng khi có thời cơ, họ thức tỉnh và tập hợp nhau lại đổ tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng tổ quốc và sau khi giành được độc lập họ không tự gọi người Do Thái nữa mà tự gọi là Israel trong một quốc gia Israel trước đó chưa có, chưa ai biết trên thế giới. Đối với chúng ta, tôi xin tự cho phép sơ bộ nghĩ rằng, sau khi giành độc lập, chúng ta có thể tự đặt tên là "Hinterlandais" và nước chúng ta sẽ gọi là "Hinterlande". Nhưng trái lại, nếu chúng ta thích sự chia rẽ, chúng ta chắc chắn gặp sự yếu hèn không tránh khỏi. Chúng ta sẽ sa vào bẫy của người Việt Nam đang tìm cách chia để trị chúng ta.


9. Đường lối tổng quát của FLHPM/FULRO

Vì lý do cuộc đấu tranh hiện tại là một cuộc đấu tranh toàn thể nhân dân miền núi mong muôn, mọi quyền đều của nhân dân.

Ủy ban trung ương FLHPM/FULRO đã dự kiến cho nhân dân này một đảng chính trị phù hợp với ý muốn của họ.

Mọi công dân miền núi được tự do biểu thị, đòi hỏi thảo luận, công kích, hội họp để giải quyết các vấn đề của mình, được hợp tác với nhau để thực hiện công trình nào đó có ích cho cách mạng và cho nhân dân miền núi. Họ được tự do bình luận và công bố tác phẩm của mình miễn là công việc đó không vi phạm đường lối mặt trận, quyền lợi tối cao của nhân dân.


Mọi công dân đều có thể làm việc ở công sở nếu họ có đủ khả năng làm tròn việc.

FLHPM/FULRO bảo vệ tính mạng và quyền lợi của người miền núi, trừ phi các công dân này phạm tội ác chống lại Mặt trận và nhân dân. Ai phạm sai lầm nghiêm trọng chống lại cách mạng quốc gia (phản bội) thì sẽ bị các tòa án mặt trận xét xử.


FLHPM/FULRO bảo vệ tính mạng của mọi ngoại kiều trên lãnh thổ Cao nguyên và tôn trọng đúng đắn quyền lợi của họ với điều kiện họ không làm rối loạn trật tự công cộnơ.

Đạo Thiên Chúa và Tin Lành không những được tự do mà còn được khuyến khích ở Cao nguyên Nam Đông Dương để thay thế dần từng bước một phần mê tín của nhân dân miền núi chưa được mở mang và thực tế không có tôn giáo dân tộc.


Cuối cùng, Ủy ban trung Ương FLHPM/FULRO phải dạy cho đồng bào làm thợ dệt, thợ mộc, thợ rèn, thợ cưa, thợ nung gạch, thợ làm nhà, nông dân có kinh nghiệm, bác sĩ mổ xẻ, thợ khác...

Trong tương lai, Ủy ban trung ương FLHPM/FULRO này sẽ đào tạo đồng bào mình trở thành kỹ sư, bác sĩ giáo sư, trạng sư, diễn giả...


Làm tại trụ sở FULRO ngày 2 tháng 9 năm 1974
Đại tướng (Général de Corps d’armés)
Y Bhăm Ênuol - Chủ tịch FULRO và FLHPM
(Ký tên và đóng dấu)

Nơi gửi:
Phó Chủ tịch Mặt trận: 01
Lưu : 01
Sao y bản chính:
Sở Chỉ huy FULRO ngày 22 tháng 11 năm 1974
Phó Chủ tịch, Thiếu tướng Kpa Kới
(Ký tên và đóng dấu)


(Nguồn: Quân khu 5, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 -1992), tài liệu lưu Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 18 Tháng Bảy, 2023, 08:09:10 am
Phụ lục 4
MẶT TRẬN DÂN TỘC TÂY NGUYÊN ĐỀ GA (FLHPM/FULRO)
Số 06B/TCT/79


Chủ tịch Tây Nguyên Đề Ga

Giấy thiết quân luật lính

Nhằm Điều 6, Chương 4 trong đường lối đã họp khai mạc ngày 31 tháng 10 năm 1979.

Nhằm đảm bảo sự thống nhất trong giải phóng Đề Ga FULRO tại mặt trận, muốn cho dưới phải tuân theo.

Nhằm cho Mặt trận giải phóng Đề Ga/FULRO đi theo con đường một lòng một sức và đoàn kết chặt chẽ bảo đảm thống nhất toàn ban toàn ngành.


Điều 1: Đồng bào (quần chúng) binh lính Mặt trận Đề Ga/FULRO đoàn kết một lòng đế đánh giặc

Điều 2: Quần chúng nhân dân và binh lính Mặt trận Đề Ga/FULRO sẵn sàng và hy sinh vì đất nước tổ quốc nhân dân Đề Ga.

Điều 3: Quần chúng và ban lãnh đạo trực tiếp binh lính Mặt trận Đề Ga/FULRO không chấp nhận cao nguyên bị trị trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Điều 4: Quần chúng và binh lính Mặt trận Đề Ga/FULRO cấm không được tiếp xúc với bọn Cộng sản Việt Nam và mặt trận khác, cũng như mặt trận các nước khác khi chưa có lệnh của cấp trên.

Điều 6: Cấm tuyệt đối không cho Cộng sản phát hiện ta.

Điều 7: Cấm không phản bội xưng khai về đường lối chung của Mặt trận Đề Ga/FULRO.

Điều 8: Cấm không được tiết lộ bí mật từ mặt trận đưa ra.

Điều 9: Tuyệt đối không trốn tránh nhiệm vụ được giao.

Điều 10: Khi giao nhiệm vụ và giải quyết tất cả những vấn đề gì thắc mắc sẽ được giải quyết sau.

Điều 11: Lính Mặt trận Đề Ga/FULRO không được trốn tránh ẩn nấp và bỏ trốn về nhà.

Điều 12: Bất cứ nhiệm vụ gì giao phải hoàn thành trước khi về đơn vị.

Điều 13: Tất cả giấy tờ quan trọng cần thiết không nhờ nhân dân tiếp tế phải tự lập.

Điều 14: Cấm tuyệt đối không được dùng riêng tất cả chiến lợi phẩm thu trong chiến đấu: Tiền bạc, đong ho, radio, thuốc men, súng đạn...

Điều 15: Cấm không được gây gổ, chửi bới cấp trên và quần chúng.

Điều 16: Tất cả giấy tờ riêng không được xâm phạm đến, tò mò.

Điều 17: Cán bộ không được lỏng lẻo, thả lính tự do.

Điều 18: Cấm không được làm suy yếu, ghét hằn thù cá nhân để lòng riêng cho mình.

Điều 19: Cấm không được phá cuộc đời (gia đình...), chia rẽ dân tộc anh em trong gia đình mình...

Anh nào xâm phạm đường lối chính sách đã ban trên sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn theo trước bản thân và cấp trên.

Giấy quân luật dùng tạm để bảo đảm cuộc xây dựng nổi dậy trong mặt trận.


Mặt trận giải phóng Đề Ga ngày 09 - 4 - 1979
Thiếu tướng I Ghơk Niê Kriêng
Ban Trung ương Chính phủ kiêm Mặt trận Tổ quốc dưới sự chỉ đạo của Mặt trận thống nhất
(Ký tên và đóng dấu)


(Nguồn: Quân khu 5, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975.1992) tài liệu lưu Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:11:25 am
Phụ lục 5
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC, ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG, QUAN HỆ
CỦA BAJARAKA (1957 -1958)


(https://i.imgur.com/lP0tEfi.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:13:13 am
Phụ lục 6
SƠ ĐỔ TỔ CHỨC, ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG, QUAN HỆ CỦA FULRO II
(1964 - 1969)


(https://i.imgur.com/wsrxglb.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:15:16 am
Phụ lục 7
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC, ĐỊA BÀN HOẠT ĐỘNG, QUAN HỆ
CỦA FULRO III (1973 - 1974)


(https://i.imgur.com/GrOdUh2.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000)


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:16:42 am
Phụ lục 8
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CÁC PHÒNG, BỘ
TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG FULRO (6.1977)


(https://i.imgur.com/N4jYuEm.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000)


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:19:08 am
Phụ lục 9
SƠ ĐỒ KHUNG HỆ THỐNG TỔ CHỨC QUÂN SỰ
CỦA FULRO TẠI CAO NGUYÊN (6.1977)


(https://i.imgur.com/RrBHXCj.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULR0, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000)


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:20:39 am
Phụ lục 10
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH FULRO TẠI ĐẮK LẮK (1977)


(https://i.imgur.com/p9R2Jis.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000)


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:22:33 am
Phụ lục 11
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC VÙNG IV CHIẾN THUẬT (1978)


(https://i.imgur.com/ZcyQIGP.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:26:35 am
Phụ lục 12
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC FULRO (6.1982)


(https://i.imgur.com/eICoRI1.jpg)


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:27:46 am
Phụ lục 13
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC FULRO (6.1982)


(https://i.imgur.com/tIfx4Li.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000)



Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 31 Tháng Bảy, 2023, 10:31:01 am
Phụ lục 14
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC FULRO TẠI GIA LAI (1979 - 1982)


(https://i.imgur.com/56FFerS.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000).


Tiêu đề: Re: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 07:55:12 am
Phụ lục 15
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC FULRO TẠI GIA LAI (1982 -1985)


(https://i.imgur.com/8q5e6jV.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 07:57:37 am
Phụ lục 16
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC FULRO (1986)


(https://i.imgur.com/S9XIesS.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000)


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 08:02:36 am
Phụ lục 17
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC FULRO (1986)


(https://i.imgur.com/vUIS7hY.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 08:04:31 am
Phụ lục 18
SƠ ĐỒ KHUNG TỔ CHỨC, QUAN HỆ CỦA FULRO (1990)


(https://i.imgur.com/9YcOFvy.jpg)

(Nguồn: Bộ Công an, Tổng kết lịch sử đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000).


Tiêu đề: Tổng kết hoạt động đấu tranh giải quyết Fulro 1975-1992
Gửi bởi: saoden trong 22 Tháng Tám, 2023, 08:11:13 am
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (1975 - 2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Báo cáo việc tổng kết Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư Trung ương Đảng từ năm 1977 đến ngày 31 tháng 3 năm 1980, Trung tâm lưu trữ Tỉnh ủy Gia Lai.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, 1983, tài liệu lưu Văn phòng Tỉnh ủy Gia Lai.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, 1986, tài liệu lưu Văn phòng Tỉnh ủy Gia Lai.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945 - 2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Kon Tum, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum, tập II, (1975 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (1975 - 2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

8. Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

9. Ban Dân tộc Trung ương, Công tác vận động phong trào cách mạng và xây dựng căn cứ địa miền núi Tây Nguyên, 1966, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai, ký hiệu TL - TV, số 466, tập 14.

10. Ban Dân tộc Trung ương (1968), Báo cáo sơ bộ về tình hình đặc điểm cơ bản vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên, tài liệu lưu Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai, ký hiệu TL - TV, số 07, tập 1.

11. Ban Dân tộc Trung ương (1977), Tuyên cáo của FULRO (tài liệu nghiên cứu nội bộ), tài liệu lưu Thư viện Đắk Lắk.

12. Ban Dân tộc Trung ương, Thông báo số 120/DT ngày 11 tháng 6 năm 1981, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Phông số 29, Hồ sơ 101.

13. Ban Dân tộc Trung ương (1981), Báo cáo của Ban Dân tộc về tình hình hoạt động của FULRO, công tác dân tộc trong giải quyết vấn đề FULRO; một số gợi ý về cấp phát nhu cần thiết yếu cho cán bộ giải quyết vấn đề FULRO (1976 - 198ỉ); một số gợi ý về việc đào tạo cán bộ cốt cán, tạo cơ sở thực hiện một số chế độ cụ thể đối với cán bộ hoạt động khu vực Tây Nguyên, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Phông số 29, Hồ sơ 101.

14. Ban Dân tộc Trung ương (1982), Phát biểu của đồng chí Hoàng Trường Minh, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc hội với số FULRO chiều ngày 23 tháng 2 năm 1982, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Phông 29, Hồ sơ 114.

15. Ban Dân tộc Trung ương (1983), Báo cáo việc tham gia cảm hóa giáo dục một số cầm đầu FULRO và sử dụng trong công tác phát động quần chúng giải quyết vấn đề FULRO, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Phông số 29, Hồ sơ 115.

16. Ban Dân tộc Trung ương, Tình hình hoạt động của FULRO ở Đắk Lắk, Gia Lai - Kon Tum năm 1985, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Phông số 9, hồ sơ 115.

17. Ban Dân tộc Trung ương (1977), Báo cáo kết quả thi hành Chỉ thị số 04/CT-TW từ ngày 3 tháng 3 năm 7977 đến ngày 25 tháng 7 năm 1977, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Phông số 29, hồ sơ 129.

18. Ban Dân tộc Trung ương (1987), Đề cương báo cáo thực hiện chính sách dân tộc trong công tác đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Phông số 29, Hồ sd 115.

19. Ban Dân tộc Trung ương, Ban Dân tộc Tỉnh ủy Đắk Lắk, Tình hình đảng viên ở Đắk Lắk tính đến tháng 6 năm 1984, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Phông số 29, Hồ sơ 129.

20. Ban Dân tộc Trung ương, Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum, Báo cáo công tác dân tộc và báo cáo chuyên đề, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng Phông số 29, Hồ sơ 129.

21. Ban Dân tộc Trung ương, Vụ IV (1968), Báo cáo sơ bộ về tình hình đặc điểm cơ bản vùng dân tộc thiều số Tây Nguyên, Trung tâm Lưu trữ Tỉnh ủy Gia Lai.

22. Ban Dân tộc Trung ương, Vụ m (1981), Báo cáo công tác dân tộc trong giải quyết vấn đề FULRO Tây Nguyên năm 1981, Cục Lưu trữ Trang ương Đảng, Phông số 29, Hồ sơ 115.

23. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đắk Lắk, Báo cáo tình hình phát động quần chúng giải quyết FULRO từ tháng 3 năm 1986 đến tháng 3 năm 1987 theo phương hướng nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Quân khu đề ra trong năm 1986 - 1987 và chủ trương biện pháp của tỉnh năm 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

24. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đắk Lắk, Kế hoạch tiếp tục phát động quần chúng truy quét giải quyết cơ bản FULRO trong năm 1986, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

25. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đắk Lắk, Kế hoạch tiếp tục phát động quần chúng truy quét giải quyết cơ bản FULRO trong năm 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

26. Bộ Chỉ huy Quân sự tĩnh Đắk Lắk, Lịch sử Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đắk Lắk, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đắk Lắk ấn hành năm 2003.

27. Bộ Chỉ huy Quân sự tình Đắk Lắk, Tổ chức FULRO và chủ trương biện pháp của tỉnh Đắk Lắk giải quyết FULRO trong năm 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

28. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Gia Lai - Kon Turn (1986), Báo cáo tình hình bọn phân động FULRO và hoạt động tổng hợp của ta, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

29. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Gia Lai - Kon Tum (1987), Kế hoạch giải quyết cơ bân vấn đề FULRO và tiêu diệt các toán xâm nhập năm 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

30. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Gia Lai, Lịch sử lực lượng vũ trang tỉnh Gia Lai (J945 - 2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2012.

31. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng, Báo cáo kết quả giải quyết vấn đề FULRO từ tháng 5 năm 1985 đến tháng 3 năm 1986 và phương hướng giải quyết FULRO của tỉnh Lâm Đồng, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

32. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng, Báo cáo kết quả hoạt động truy quét FULRO năm 1985 tại tỉnh Lâm Đồng, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

33. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng, Báo cáo tổng kết đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO ở Lâm Đổng từ sau giải phóng đến tháng 6 năm 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

34. Bộ Chỉ huy Quân sự tình Lâm Đồng, Phụ lục kết quả số liệu của lực lượng vũ trang Lâm Đồng trong giải quyết vấn đề FULRO từ năm 1975 đến 6 tháng đầu năm 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

35. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng, Thông báo một số kinh nghiệm bước đầu truy quét FULRO trên địa bàn Lạc Dương tháng 9, 10 năm 1982, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

36. Bộ Công an, Công an nhân dân Việt Nam - Lịch sử biên niên (1975 - 1986), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.

37. Bộ Công an, Công an nhân dân Việt Nam - Lịch sử biên niên (1987 - 1966), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.

38. Bộ Công an, Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Tổng kết lịch sử chuyên án đấu tranh với tổ chức phản động FULRO ở Lâm Đồng, Nxb Công an nhân dân.

39. Bộ Công an, Tổng kết lịch sử cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.

40. Bộ Nội vụ, Những văn kiện về sự chỉ đạo của Đảng đối với công tác công an (1975 - 1980), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1993.

41. Bộ Nội vụ, Ban Dân tộc tôn giáo, Tổng kết công tác vận động quần chúng đấu tranh giải quyết FULRO và xây dựng toàn diện vùng chiến lược Tây Nguyên, tháng 3 năm 1988, Phồng số 391/Pg, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

42. Bộ Nội vụ, Công an tỉnh Lâm Đồng, Báo cáo tổng kết đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO ở Lâm Đồng từ /977 đến 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

43. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Tây Nguyên, tập 1, Từ khởi thủy đến năm 1954, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2020.

44. Bộ Tham mưu Quân khu 5, Phòng Khoa học quân sự (2016), Báo cáo của Tư lệnh Quân khu trong Hội nghị giải quyết FULRO của Ban Bí thư Trung ương Đảng tại tỉnh Gia Lai - Kon Tum (Ngày 29 tháng 4 năm 1975), Ký hiệu: QK.004272, Viện Lịch sử quân sự.

45. Bộ Tham mưu Quân khu 5, Phòng Khoa học quân sự (2016), Một số tài liệu về FULRO, Ký hiệu: QK.004336, tài liệu lưu Viện Lịch sử quân sự.

46. Bộ Tổng Tham mưu, Địa lý quân sự Tây Nguyên và duyên hải miền Trung - Nam Trung Bộ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

47. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, Sư đoàn 304, Lịch sử Sư đoàn 304, Tập II (1975 - 2010), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011.

48. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Lịch sử Bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên, Quân đoàn 5, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

49. Bộ Tư lệnh Quân khu 4, Đảng ủy - Chỉ huy Sư đoàn 968, Sư đoàn bộ binh 968 (1968 - 2003), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

50. Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ Tham mưu, Tổng kết hoạt động truy quét, triệt phá tổ chức phản động FULRO trên địa bàn Quân khu 5 (1975 - 1992), 2012, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

51. Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Đoàn 335, Sơ kết phát động quần chúng truy quét FULRO Đợt 1 - 1977 (3.3 - 25.7.1977), số 39/L21, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

52. Công an tỉnh Gia Lai - Kon Tum (1984), Báo cáo tình hình âm mưu và diễn biến của bọn FULRO hiện nay và đề xuất đấu tranh đối phó âm mưu của địch, Trung tâm lưu trữ Thành ủy Pleiku.

53. Công an tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Lịch sử Công an nhân dân Gia Lai (1975 -1995), Tập III, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000.

54. Công an tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Ban Chỉ huy An ninh nhân dân, Báo cáo tình hình công tác đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO từ năm 1975 đến tháng 3/1982, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

55. Công an tỉnh Gia Lai - Kon Turn, Ban Chỉ huy An ninh nhân dân, Kế hoạch đấu tranh giải quyết FULRO từ nay đến cuối năm 1981 và các tháng mùa khô 1981 -1982 của Lực lượng An ninh tỉnh, số 226/ PA-16, Pleiku, ngày 5 tháng 11 năm 1981, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

56. Công an tỉnh Lâm Đồng (1987), Báo cáo tổng kết 12 năm (1975 - 1987) liên tục đấu tranh giải quyết FULRO ở Làm Đồng, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

57. Công an tỉnh Lâm Đồng (1987), Báo cáo tổng kết 2 năm thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác đấu tranh giải quyết FULRO ở Lâm Đồng, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

58. Trương Cường, Bài học về kinh nghiệm phát huy tư tưởng cách mạng tiến công, xây dựng lực lượng đặc tình trong hàng ngũ địch truy quét FULRO sau năm 1975 trên địa bàn Khu V, Thông tin khoa học quân sự số 63 - 2013.

59. Bế Viết Đẳng, Chu Thái Sơn, Vũ Thị Hồng, Vũ Đình Lợi, Đại cương về các dân tộc Ê Đê, M'nông ở Đắk Lắk, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982.

60. Trần Trắc Dĩ, Tìm hiểu phong trào tranh đấu FULRO (1958 - 1969), Bộ Phát triển sắc tộc ấn hành, Sài Gòn, 1968.

61. Trần Trắc Dĩ, Nhật ký các phong trào đấu tranh của đồng bào Thượng (1958 - 1969), Nguyệt san Thượng vụ số 17, 2 - 3/1969.

62. Trần Trắc Dĩ, Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam (nguồn gốc và phong tục), Bộ Phát triển sắc tộc ấn hành, Sài Gòn, 1971.

63. Trương Minh Dục, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

64. Trương Minh Dục, Thực trạng kinh tế - xã hội Tây Nguyên và những vấn đề đặt ra hiện nay y Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số tháng 4 năm 2016, tr. 3 - 18.

65. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lằn thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977.

66. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị của Dan Bí thư về việc tiếp tục phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, truy quét FULRO bảo vệ an ninh chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Khu 5 cũ, số 04/CT-TW, ngày 2 tháng 2 năm 1977, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

67. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Thông báo của Ban Bí thư ngày 27 thúng 6 năm 1981 về việc tiếp tục giải quyết vấn đề FULRO kết hợp với phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, số 25/TB-TW, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

68. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác đối với đồng bào Khơme, số 117/CT-TW ngày 29 tháng 9 năm 1981, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

69. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác đối với đồng bào Chăm, số 121/CT-TW ngày 26 tháng 10 năm 1981, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

70. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Thông tri của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác giải quyết FULRO, số 20/TT-TW ngày 10 tháng 12 năm 1982, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

71. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chẫp hành Trung ương, Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác ờ vùng đỏng bào Khơme, số 68/CT-TW ngày 18 tháng 4 năm 1991, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

72. Đảng Cộng sân Việt Nam, Tinh ủy Đắk Lắk, Báo cáo tổng kết công tác phát động quần chúng truy quét FULRO và bọn phản động khác từ tháng 5/1975 đến tháng 12/1981, số 80/BC-TU ngày 5 tháng 5 năm 1982, Phòng Khoa học quân sự Quàn khu 5.

73. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987.

74. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

75. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

76. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

77. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

78. Đảng Lao động Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III), Trung tâm lưu trữ Tỉnh ủy Gia Lai.

79. Mạc Đường, vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng, Sở Văn hóa - Thông tin Lâm Đồng, 1983.

80. Henri Maitre, Rừng người Thượng (Bản dịch tiếng Việt), Nxb Tri thức, Hà Nội, 2009.

81. Lịch sử Trung đoàn 64 quyết thắng, Sư đoàn 320 (1946 - 2006), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

82. Lịch sử Trung đoàn 66 "Đoàn Plây Me", Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997.

83. Nguyễn Thị Ngọc Hải, Trở lại xứ Ka Đổ, Nxb Công an nhân dân.

84. Ngô Minh Hiệp, Lực lượng vũ trang tham gia giải quyết vấn đề FULRO ở Tây Nguyên (1975 - 1988), Tạp chí Lịch sử quân sự, số 10-2016.

85. Kết luận của đồng chí Hoàng Văn Thái, Đại diện Quân ủy Trung ương trong Hội nghị bàn về truy quét, trấn áp lực lượng FULRO và bọn phản cách mạng do Quân khu 5 chủ trì, tháng 1 năm 1977, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

86. Nguyễn Hùng Lĩnh, Về cái gọi là "Nhà nước Đề Ga tự trị" và âm mưu trở lại Tây Nguyên của bọn cầm đầu FULRO lưu vong ở Mỹ, Tạp chí Công an nhân dân, số tháng 3-2021.

87. Po Dharma, Từ mặt trận gỉảỉ phóng dân tộc Thượng đến phong trào FULRO: Cuộc đấu tranh của dân tộc thiểu số miền Nam Đông Dương (1955 - 1975), Viễn Đông học viện Pháp, Nxb Les Indes Savantes, Pháp, 2006.

88. Phòng Quân báo Quân khu 5 (1983), Báo cáo sơ kết công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở, giải quyết vấn đề FULRO từ tháng 6/1981 đến tháng 6/1983 và phương hướng nhiệm vụ từ nay đến năm 1985, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

89. Phòng Quân báo Quân khu 5 (1986), Báo cáo địch (tài liệu phục vụ Hội nghị 3 tỉnh Tây Nguyên, từ 30 tháng 3 đến 1 tháng 4 năm 1986), Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

90. Phòng Quân báo Quân khu 5 (1992), Báo cáo tình hình FULRO và dân tộc năm 1992, Kho Lưu trữ Quân khu 5.

91. Phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên (1966), Những văn kiện của Đại hội phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên lần thứ II - họp từ 16 đến 21 tháng 10 năm 1966, Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk.

92. Phủ Tổng ủy đinh điền, Công vân số 47/DĐ/DD1 gửi Đại biểu Chính phủ Trung nguyên Trung phần tại Huế ngày 12 tháng 2 năm 1958 V/v vận động và di chuyển đồng bào các tỉnh Trung nguyên Trung phần đi lập nghiệp ở Cao nguyên Trung phần Đắk Lắk và Pleiku, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Ký hiệu: SC 03 - HS. 5. 102.

93. Phủ Thủ tướng, Chỉ thị của Hội đồng chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, giải quyết cơ bản vấn đề FULRO ở các tỉnh Tây Nguyên số 268-CP ngày 20 tháng 8 năm 1980, Văn phòng Thành ủy Kon Tum.

94. Phủ Thủ tướng, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc kiên quyết tiếp tục giải quyết vấn đề FULRO, số 79/TTg ngày 31 tháng 3 năm 1998, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

95. Piere Dourisboure, Dân làng Hồ (Bản dịch tiếng Việt), Nxb Đà Nẵng, 2008.

96. Siu Pơi, Về công tác giáo dục ở vùng dân tộc ít người tỉnh Gia Lai - Kon Tum, một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986.

97. Quá trình phát sinh, phát triển của tổ chức phản động FULRO, Thư viện Quân đội, Ký hiệu: 9491, Hà Nội, 2001.

98. Quân đoàn 3, Lịch sử Sư đoàn 10, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002.

99. Quân đoàn 3, Sư đoàn 320, Trung đoàn 52, Báo cáo diễn biến chiến đấu tiêu diệt hậu cứ trung ương FULRO tại Chư Pin ngày 4 tháng 4 năm 1977 đến 4 tháng 5 năm 1977, ngày 4 tháng 5 năm 1977, Phòng Khoa học quân sự Quân đoàn 3.

100. Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân khu 5, Báo cáo tình hình xây dựng dân quân tự vệ trong phát động quần chúng truy quét FULRO của Quân khu, ngày 1 tháng 7 năm 1977, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

101. Quân khu 5 (1980), Tổng kết phát động quần chúng xây dựng thực lực cách mạng ở cơ sở trong giải quyết FULRO trên địa bàn Tây Nguyên Quân khu 5 từ tháng 3/75 đến 8/80, Kho Lưu trữ Quân khu 5.

102. Quân khu 5 (1982), Tổng kết công tác phát động quần chúng xây dựng cơ sở, truy quét FULRO từ sau ngày giải phóng đến nay (3/75 đến 3/82), Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

103. Quân khu 5 (1982), Báo cáo thực trạng tình hình FULRO từ tháng I năm 1987 đến tháng 11 năm 1988 và phương hướng biện pháp giải quyết trong thời gian tới, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

104. Quân khu 5 (1983), Sơ lược về nguồn gốc, tổ chức của bọn phản động FULRO trên địa bàn Tây Nguyên, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

105. Quân khu 5 (1985), Báo cáo tình hình cơ sở và xây dựng dân quân tự vệ Tây Nguyên hiện nay (trọng điểm là Gia Lai - Kon Turn), Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

106. Quân khu 5 (1986), Dự thảo tổng kết hoạt động chống FULRO năm 1985 và phương hướng giải quyết FULRO trong 2 năm 1986 - 1987 (Báo cáo của Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5), Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

107. T22, Báo cáo tình hình hoạt động của FULRO, tiếp theo điện số 1 ngày 26 tháng 8 năm 1975, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

108. Thường vụ Đảng ùy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Lịch sử Khu 6 (cực Nam Trung Bộ Nam Tây Nguyên) kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

109. Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Turn, Kế hoạch phát động quần chúng truy quét FULRO, số 175/VP ngày 11 tháng 12 năm 1976, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

110.   Nguyễn Văn Tiệp, Mấy nhận xét về chính sách dân tộc của chính quyền đệ nhị Cộng hòa đổi với các dân tộc thiểu số Tây Nguyên (1964 - 1975), Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 16 (X3-2013), tr. 79 -95.

111. Nguyễn Văn Tiệp, Chính sách văn hóa của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với các dân tộc thiểu số Tây Nguyên (1954 - 1975) Tạp chí Phát triển Khoa hục và Công nghệ, tập 18 (XI - 2015), tr. 5 -15.

112. Thành Tín, Đập nát công cụ hậu chiến CIA: FULRO, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1983.

113. Tỉnh Đảng hộ Đắk Lắk, Báo cáo kiểm điểm tình hình từ sau ngày giải phóng đến nay (4/75 -10/75), 1975, Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk.

114. Tỉnh Đảng bộ Gia Lai - Kon Tum, Tồng kết hội nghị bàn về giải quyết FULRO năm 1975 - 1977, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Phông số 11, Hồ sơ 6.

115.   Tỉnh Đoàn Lâm Đồng (1987), Báo cáo phong trào tuổi trẻ tham gia công tác giải quyết FULRO từ 1975 đến 1987, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng.

116. Tỉnh ủy Đắk Lắk (1980), Kiểm điểm việc giải quyết vấn đề FULRO và yêu cầu nhiệm vụ, biện pháp giải quyết văn đề này trong thời gian tới, Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắk Lắk.

117. Tỉnh ủy Đắk Lắk (1987), Báo cáo 12 năm đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO ở Đắk Lắk, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

118. Tỉnh ủy Đồng Nai, Sơ kết tình hình hoạt động của FULRO, số 04/BC-DV/TM ngày 27 tháng 10 năm 1978, Trung tâm Lưu trữ Tỉnh ủy Đồng Nai.

119. Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum, Báo cáo của sở ban ngành tỉnh Gia Lai - Kon Tum tháng 11 năm 1975, Trung tâm Lưu trữ Tỉnh ủy Gia Lai.

120. Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum (1981), Chỉ thị khẩn cấp chống âm mưu rút thanh niên tăng cường cho bọn FULRO, Văn phòng Thành ủy Kon Tum.

121.   Tỉnh ủy Lâm Đồng (1966), Báo cáo tình hình phong trào Nam Tây Nguyên 1963 - 1966, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng, số 834 VS22.

122. Tỉnh ủy Lâm Đồng (1985), Báo cáo tổng kết công tác định canh, định cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số kết hợp giải quyết FULRO ở Lâm Đồng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ùy Lâm Đồng.

123. Tỉnh ủy Lâm Đồng (1987), Báo cáo tổng kết xây dựng toàn diện vùng dân tộc thiểu số Lâm Đồng, thực hiện nhiệm vụ giải quyết FULROy Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng.

124. Tỉnh ủy Nghĩa Bình, Báo cáo kết quả thực hiện chính sách dân tộc trong công tác đấu tranh giải quyết vấn đề FULRO 11 năm ở Nghĩa Bình, số 01/BC - DT ngày 14 tháng 8 năm 1987, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

125. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum (1991), Tổng kết 5 nấm vận động định canh, định cư, xây dựng vùng kinh tế mới (1976-1980), ngày 17 tháng 3 năm 1981, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai, Ký hiệu: TL - TV, số 260 - T8.