Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Văn học chiến tranh => Tác giả chủ đề:: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2023, 03:26:08 pm



Tiêu đề: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2023, 03:26:08 pm

- Tên sách: Chuyện tình của lính
- Tác giả: Nguyễn Ngọc Chiến
- Nhà xuất bản: Hà Nội
- Năm xuất bản: 2012
- Số hóa: giangtvx, ptlinh, chuongxedap





BỘ CỜ NGÀ VOI


Đây là lần thứ hai Xáng gặp ông Lãm, được đấu trí với ông trên bàn cờ. Chỉ có khác là lần này cuộc chơi không diễn ra ở nơi hội hè đông đúc như lần trước mà diễn ra ở ngay tại ngôi nhà hai tầng của ông Lãm, trên một chiếc chiếu hoa Trung Quốc được trải ngay ngắn giữa nhà, trên một nền gạch hoa cũng của Trung Quốc nhẵn bóng. Cuộc chơi chỉ có hai người nên không ồn ào, mất trật tự như trận thi đấu trước. Gã còn nhớ, ở cái lần đầu tiên gặp ông Lãm ấy, gã là một trong những tay cờ được ban tổ chức chọn vào trận chung kết sau khi gã đã thắng liên tiếp các tay cờ khác ở vòng loại. Gã trở thành đối thủ của ông Lãm và gã không ngờ bị ông hạ “nốc ao” luôn cả ba ván, đành chấp nhận đoạt giải nhì, xếp sau ông ta. Gã thua nhưng lòng gã vẫn cảm thấy lâng lâng. Bởi hôm ấy gã một mực cho rằng gã không thua ông Lãm, tay cờ của gã không thể thấp hơn ông Lãm. Sở dĩ gã phải xếp ở vị trí thứ hai là do hôm ấy tinh thần gã không ổn định khiến gã không thể dồn hết tâm trí cho cuộc chơi. Thứ nữa, ở một nơi đông vui, nhộn nhịp như hội cờ cũng có lắm yếu tố tác động đến tâm lý thi đấu của gã làm gã mất bình tĩnh nên mới bị bại trận. Trước đó gã chưa từng thua cờ ai. Ở bất cứ trận đấu nào, gặp bất cứ đối thủ nào, gã luôn luôn là người chiến thắng. Gã nhất quyết nếu tỷ thí chỉ có hai ngươi, gã sẽ chiến thắng, thế là gã quyết tìm cho được nhà ông Lãm, quyết thi đấu một trận để chứng minh hắn không thua bất kể ai.

Trước khi phóng xe vượt chặng đường gần ba mươi cây số đến nhà ông Lãm, Xáng đã tìm hiểu sơ qua về con người này. Gã nghe người ta nói rằng, ông Lãm không chỉ là một tay cờ cự phách, mà dòng dõi ông ta từ hai ba đời nay đều là những tay cờ khét tiếng. Nghe đâu, ngoài chơi cờ giỏi, ông Lãm còn là chủ nhân của một bộ cờ tướng có một không hai. Đó là bộ cờ mà tất cả các quân cờ đều được làm bằng ngà voi. Thế nên, ngoài việc chứng minh cho ông Lãm thấy tài chơi cờ thật sự của mình, gã còn rất muốn được chiêm ngưỡng bộ cờ quý giá ấy. Và nếu có thể, gã sẽ xin ông Lãm mang bộ cờ ấy ra chơi với gã. Gã rất muốn được một lần sờ tay lên các quân cờ đó, muốn biết cái cảm giác được chơi bộ cờ làm bằng ngà voi nó lạ lùng, sung sướng ra sao. Nào ngờ khi đến nơi, ông Lãm chỉ chấp nhận đáp ứng một trong hai nguyện vọng của gã. Đó là chơi cờ. Còn nguyện vọng kia thì ông từ chối. Nghĩa là gã không những không được chơi cờ ngà voi, mà ngay cả việc được nhìn thấy nó, gã cũng không thực hiện được. Tuy vậy, gã vẫn tỏ ra vui vẻ. Vì gã cho rằng bất cứ ai trong trường hợp này, kể cả gã, cũng đều xử sự như thế.

Trước khi bước vào cuộc chơi, gã cũng kịp đảo mắt nhìn ngắm qua quýt đồ nội thất trong nhà. Quả là giàu có và sang trọng, mà đến cả nằm mơ gã cũng không bao giờ có được. “Chắc hẳn ông Lãm là một người giàu, rất giàu là đằng khác. Thì cứ nhìn vào ông ta, từ cách ăn mặc chải chuốt, cho đến cái da mặt đỏ như thịt gà chọi cũng đủ biết ông ta đang sống một cuộc sống giàu sang, sung sướng đến thế nào. Nhưng thôi, kệ ông ta, mình phải tập trung vào chơi cờ, phải hạ gục ông ta trong lần gặp này” - Xáng thầm nghĩ và bắt đầu ngồi xuống nhìn chăm chăm vào bàn cờ trước mặt. Cái bàn cờ gỗ cũ kỹ, những quân cờ gỗ cũng cũ kỹ, xem ra nó đã được ông Lãm sử dụng từ rất lâu. Dẫu sao được chơi cờ trên cái bàn cờ gỗ cũ kỹ này gã vẫn thấy thú hơn nhiều so với chơi trên bàn cờ giấy hoặc bàn cờ nhựa ở nhà hắn. Chơi trên bàn cờ gỗ, gá khoái nhất là lúc bắt quân, được cầm quân cờ của mình mà đập đến “chát” một cái lên quân cờ của đối phương, nếu là các quân chủ lực như xe, pháo thì cái cảm giác khoan khoái càng tăng lên bội phần.

Nửa giờ trôi qua. Rồi một giờ trôi qua. Nắng thu vàng óng đã bắt đầu rót những tia nắng xuống hiên nhà. Những tia nắng chênh chếch xuyên qua giàn thiên lý trước sân, đậu trên ngưỡng cửa, rồi nhích dần, nhích dần về tấm chiếu hoa nơi ông Lãm và Xáng đang ngồi. Cuộc tỷ thí giữa hai kỳ thủ đã kết thúc ván thứ nhất! Đánh thêm một ván Xáng thôi không đánh nữa. Bởi đã ván thứ hai rồi mà gã vẫn thua, mà lại thua nhanh chóng hơn ván trước. Nếu tiếp tục đánh ván thứ ba chắc chắn gã sẽ lại thua nốt. Rút cục, cả hai lần gập ông Lãm gã đã không thắng nổi ông ta một ván nào. Đến lúc này thì gã phải thừa nhận là gã thua, chứ không thể đổ lỗi cho bất kỳ lý do nào được nữa. Đúng là lời đồn về tài chơi cờ của ông Lãm quả không sai tý nào. Ông ta thật cao cờ, thật mưu lược tựa như một vị tướng cầm quân tài ba, xuất trận là bách chiến bách thắng. Những nước đi của ông ta như làm chủ thế trận, như nhìn thấy ruột gan, óc não của đối phương. Từ xuất xe, vào pháo, nhảy mã, giục tốt, lên tượng... rồi các đường tiến, hồi, qua phải, qua trái, cắm, chọc, nhử, vây, kẹp, chặn, bắt... của ông ta thật là thiên biến vạn hoá không sao mà lường được. Ông ta có cách chơi dồn đối phương vào thế bí, chặn cứng các ngả, khiến quân cờ của gã tiến không xong mà thoái cũng chẳng được. Cờ của ông ta thì tung hoành ngang dọc, quân này giữ quân kia, bắt được một quân của ông ta phải đổi vài ba “mạng”. Cứ thế ông ta bao vây tứ phía, hạ dần xe, pháo của gã để rồi cuối cùng đánh tan sĩ, tượng, giáng một đòn chí mạng khiến gã phải bó tay. Ở ván thứ nhất, vài ba nước đầu gã còn có vẻ tự tin một chút, hy vọng một chút, nhưng đến những nước sau thì càng đánh gã càng lâm vào thế bí. Mồ hôi gã bắt đầu túa ra nhỏ tong tong xuống bàn cờ. Gã vò đầu bứt tai tìm đủ cách chống đỡ nhưng vẫn không sao đảo ngược được tình thế. Đến ván thứ hai thì ở ngay nước đi thứ mười bốn, gã đã hoàn toàn không làm chủ được thế cờ nên gần như phó mặc cho ông Lãm chi phối. Càng đánh, Xáng càng khám phá ra những nước cờ mà gã cho là vừa độc đáo vừa độc địa của ông Lãm. Đó là những nước cờ chớp nhoáng, xuất quỷ nhập thần, đầy ma lực, đầy sức mạnh. Những nước cờ như đánh vào tâm trí gã, buộc gã phải suy nghĩ đến đau cả óc để tìm cách gỡ rối. Những nước cờ như kim châm vào huyết mạch gã khiến gã phải tối tăm cả mặt mày, mụ mị cả đầu óc, để rồi cuối cùng không còn biết xoay sở ra làm sao. Trong khi đó thì ông Lãm cứ tỉnh bơ, coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Cũng như các quân cờ đầy khí thế chiến thắng của ông, trông ông thật ung dung, đĩnh đạc. Một sự ung dung, đĩnh đạc của người chiến thắng. Sau mỗi nước đi, thấy đối phương gãi đầu gãi tai, nhấc lên đặt xuống quân cờ trong tay mà chưa biết phải đặt vào vị trí nào thì ông khẽ nhếch mép một cái rồi lấy chai rượu “Ông già chống gậy” đặt sẵn bên cạnh, rót ra ly tự thưởng cho mình một hớp. Xong, ông “khà” một tiếng, vuốt vội một cái lên mép rồi mới lại chăm chú nhìn xuống bàn cờ. Ông Lãm cũng rót cho Xáng một ly, những lúc gỡ được thế bí, gã cũng nâng ly rượu lên, hớp một hớp. Nhưng sao gã thấy rượu hôm nay đắng ngăn ngắt, dù gã biết rằng rượu của ông Lãm không phải là rượu xoàng.

Xong ván thứ hai, thấy gã cứ ngồi đực mặt ra không chịu xếp cờ, ông Lãm phải lên tiếng:

- Thôi à?
- Vâng, thôi!
- Tay cờ của cậu còn non lắm làm sao bì được với tôi.
- Vâng!

Sau tiếng “vâng”, gã chào ông Lãm rồi lầm lũi dắt xe ra về. Ra khỏi cổng nhà ông Lãm, gã phóng xe trên con đường đất bụi mù mịt. Lòng gã uất ức, tắc nghẹn, về đến nhà, gã nằm dài ra giường, thở dốc lên. Chưa bao giờ gã thấy nhục nhã như hôm nay, bực bội như hôm nay. Gã căm giận gã, căm giận ông Lãm, căm giận tất cả. Tại sao chứ? Tại sao gã lại có thể thua cờ ông Lãm, một người không có máu mặt trong chốn cờ bạc như gã? (câu này hơi tối nghĩa, lẽ ra phải là “Một người có máu mặt trong chốn cờ bạc như gã tại sao lại có thể thua cờ ông Lãm?”-cxđ) Đã bao giờ gã thua ai mà lại thua một cách đau đớn như thua ông Lãm. Không! Gã chưa bao giờ thua ai cả, chưa bao giờ thua ai lấy một ván, một trận lại càng không! Trong vùng, từ những tay chơi cờ có tiếng cho đến những người mới võ vẽ tập chơi cờ, ai ai cũng nể phục tài cờ của gã. Người ta coi gã như một con ma cờ, nể trọng gã như bậc đàn anh đàn chị. Thế mà nay gã phải thua ông Lãm tới hai trận, hai trận mà không gỡ lấy được một ván. Ừ! Ở trận đầu, trong hội cờ, gã còn đổ cho lý do này lý do kia, chứ trận này gã đã dốc toàn tâm toàn ý, có bao nhiêu mưu ma chước quỷ gã đều đã tung cả ra mà cái ông Lãm ấy vẫn dễ dàng dồn gã đến chân tường, hạ gục gã. Cứ nghĩ đến cái lúc ông ta nhếch mép nâng ly rượu lên hóp một hớp rồi “khà” một cái là gã lại thấy sôi cả ruột lên. Đúng là cái cử chỉ ngạo mạn, ta đây, coi người khác không ra gì. Thôi, thế là từ nay cái danh hiệu “vô địch cờ” đã không còn là của gã nữa! Cái danh hiệu ấy đã bị ông Lãm cướp mất rồi.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2023, 03:27:29 pm

Sau hôm ở nhà ông Lãm về gã đau đớn đến mất ăn mất ngủ, người gã gầy rộc đi. Vợ con gã hoảng hồn phải thay nhau động viên gã mới hồi phục trở lại. Nhưng nỗi ám ảnh về trận cờ thua ông Lãm thì cứ đeo bám gã. Rồi gã tính đến chuyện phục thù. Gã phải gặp ông Lãm một lần nữa và quyết đấu với ông ta một trận nữa. Gã phải giành lại cho bằng được niềm vinh quang của gã. Gã phải chứng minh cho ông Lãm biết rằng, ở cái đất cờ này, thằng Xáng này chưa bao giờ chịu thua cờ ai. Suy nghĩ tới sự phục thù và gã lại sực nhớ tới bộ cờ ngà voi của ông Lãm. Bộ cờ đã từng mang đến niềm tự hào tột đỉnh cho gia đình ông ta. Giá mà ở lần chạm trán thứ ba này, ông Lãm chịu chơi với gã bằng bộ cờ ngà voi ấy!

Thế là gã đi, quyết ra đi một lần nữa dù trời rét buốt đến thấu xương gã vẫn phóng xe đến tìm ông Lãm. Lòng gã đầy tự tin, đầy kiêu hãnh. Gã lôi ra một chai rượu mà gã phải bỏ ra hơn một trăm ngàn đồng để mua rồi xin phép ông Lãm tự tay xuống bếp nổi lửa làm gà. Bếp lửa đỏ rực xua đi cái lạnh buốt giá làm ấm cả gian bếp. Hai người trải chiếu ngay bên cạnh bếp lửa vừa nhâm nhi vừa trò chuyện. Ông Lãm lên tiếng:

- Chà! Rượu ngon quá! Lại còn có cả gà nữa! Cậu bày vẽ ra làm gì cho tốn kém. Loại này tôi dùng thường xuyên ấy mà!

Gã nhã nhặn đáp lại:

- Có gì đâu chú! Chú cháu mình lâu ngày gặp nhau, cháu muốn mời chú uống với cháu một chén. Tiện thể hôm nay đến đây, cháu muốn hầu chú vài ván may ra học được ở chú ít nước...

- Chơi thì chơi cho vui thôi, chứ cậu có học cả đời cũng làm sao theo được cờ tôi. Mà dẫu có học được cậu cũng làm sao địch nổi tôi!

- Dạ! Chú là người cao cờ, vô địch thiên hạ, cháu nào dám!

Xáng làm bộ khúm núm nhưng trong lòng gã thì như đang có một ngọn lửa bùng lên. Gã không ngờ ông Lãm cũng là một người hiếu thắng, coi chiến thắng là trên hết, chẳng khác gì gã. Ông khoe với gã rằng ông đã biết chơi cờ hơn bốn mươi năm nay. Kể từ ngày ấy, với hàng ngàn cuộc so tài, ông luôn luôn là người chiến thắng. Ông còn nói thêm rằng, từ bây giờ trở đi ông vẫn sẽ là người chiến thắng, không một địch thủ nào có thể đè bẹp được ý chí ấy ở ông. Cho nên ông Lãm đã nói thẳng vào mặt Xáng: “Cậu đừng bao giờ nuôi ảo tưởng là có thể đến đây học được gì ở tôi!”

Khi chai rượu đã lưng lưng, Xáng mới đả động đến bộ cờ ngà voi và một mực nài nỉ ông Lãm cho được tận mắt nhìn thấy nó. Gã nói rất tha thiết rằng gã rất yêu cờ, mê cờ, rằng gã có thể đánh đổi tất cả những gì đang có để được suốt đời sống chết với cờ. Vì yêu cờ, coi cờ là sự nghiệp của bản thân nên gã rất muốn được thưởng thức những bộ cờ độc đáo. Và nếu như một lần, chỉ một lần thôi được hầu cờ với chủ nhân của bộ cờ ngà voi ấy gã sẽ xem đó như một vinh hạnh của cuộc đời. Gã nói và bỗng dưng nước mắt gã ứa ra. Ông Lãm hình như cũng động lòng trước những giọt nước mắt và những lời lẽ chân thành như mật rót vào tai ấy của gã nên ông đã đồng ý. Nhưng ông không vội đưa ngay bộ cờ ấy ra, mà cứ thủng thẳng, túc tắc kể cho gã nghe về nguồn gốc, xuất xứ của nó trước đã. Đây là việc ông vẫn thường làm đối với bất cứ ai trước khi người đó được sờ tay vào bộ cờ ngà voi của ông. Và ông rất lấy làm kiêu hãnh về điều này.

Ông Lãm kể rằng, bộ cờ ngà voi của ông đã có từ cách đây hơn một trăm hai chục năm. Nó nguyên là của một vị vua triều Nguyễn nổi tiếng tài cao, đức rộng, đam mê cờ tướng. Ông nội của ông Lãm xưa kia là một người chuyên đi làm thuê kiếm sống từ bé. Nhưng ông là một người thông minh, ham học. Nhờ nghe lỏm bài giảng của người gia sư dạy học cho con chủ nhà mà ông trở nên hiểu rộng biết nhiều, lại được chủ nhà thương yêu nên đã nhận làm con nuôi, cho ăn học tử tế. Và cũng nhờ tư chất thông minh mà ông học một biết mười, mỗi năm hai lớp. Rồi khi đi thi ông đỗ Trạng nguyên, được vua giữ lại trong cung dạy học cho con vua và các quan đại thần. Ông còn là một người chơi cờ tướng rất giỏi, không ai địch nổi. Nhân một lần nhà vua tổ chức thi đấu cờ, ông đã hạ gục tất cả các đối thủ, giành ngôi vô địch. Mến mộ đức tài của ông, vua đã ban tặng ông bộ cờ bằng ngà voi của ngài. Bộ cờ ấy sau này được ông truyền lại cho con ông, tức cha ông Lãm. Cha ông nối nghiệp ông nội ông được cả đức lẫn tài và cũng là một tay cờ nức danh, cả tổng cả huyện không ai là không biết. Rồi khi cha ông mất, bộ cờ bằng ngà voi ấy cùng với bí quyết chơi cờ “trăm trận trăm thắng” của tổ tiên được ông thừa hưởng và kế nghiệp. Ông không làm quan to nhưng tay cờ của ông thì càng ngày càng cao, càng ngày càng lan xa toả rộng.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Tư, 2023, 03:28:21 pm

Ông Lãm cất giữ bộ cờ ngà voi ấy rất kỹ, coi như báu vật. Chẳng mấy khi ông chơi cờ bằng bộ cờ đặc biệt ấy. Rủi khi có khách tới chơi nhà ngỏ ý muốn hầu ông đôi ván, ông cũng chỉ đem ra những bộ cờ thông thường. Trong nhà ông có tới hai mươi bộ cờ khác nhau. Mỗi bộ cờ là một sự tích oanh liệt trong đời cờ của ông. Tùy mặt khách mà ông chọn bộ cờ nào để chơi. Những người có may mắn được ông cho chơi cờ ngà voi phải là những người ông đặc biệt mến mộ hoặc nể trọng, nhưng con số cũng không nhiều lắm. Và trước khi chơi, một việc đầu tiên ông phải làm đó là mở tủ sắt lấy bộ cờ ấy ra trân trọng đặt lên bàn thờ thắp hương vái cầu xin tổ tiên trước đã. Đối với Xáng, ông nói sở dĩ ông cho gã được hưởng đặc ân này không phải ông mến mộ hay nể trọng gì gã mà là vì ông thương tình gã.

Ông Lãm nói đến đâu Xáng dạ dạ, vâng vâng đến đó. Lúc này đây ruột gan gã như đang có lửa đốt và gã chỉ mong sao ông Lãm mang ngay cái bộ cờ ấy ra. Gã nhìn xoáy vào mặt ông Lãm nhủ thầm: rồi ông sẽ thấy hôm nay bằng bộ cờ ngà voi của ông tôi sẽ chơi với ông thế nào; tôi sẽ cho ông biết nỗi đau thua cờ nó xót xa, nhục nhã thế nào...

Trong lúc gã đang mải nghĩ thì ông Lãm đã đi vào nhà. Chắc ông đang làm cái việc trang trọng ấy trước tổ tiên ông như ông vẫn từng làm. Một lúc ông đi ra mang theo một chiếc hộp gỗ và một cái bàn cờ gỗ. Ông đặt chúng trước mặt Xáng rồi ông ngồi xuống từ tốn mở cái hộp ra, thong thả nhặt ra từng quân cờ. Đôi mắt Xáng như bị hút vào đó. Gã gần như nhảy cẫng lên, hét lên vì sung sướng và cả vì ước muốn của gã đã toại nguyện. Quả là một bộ cờ đẹp đến mê hồn. Gã nhặt lên từng quân, lật bên này, lật bên kia ngắm nghía như để thỏa nỗi thèm khát. Gã không kìm nén được cảm xúc mà thốt lên: Đúng là những quân cờ được làm bằng ngà voi thật rồi! Trông chúng thật nõn nà, tròn trịa và trắng muốt như những viên đá hoa cương. Mỗi quân cờ đều được chế tác, cắt gọt, trau chuốt hết sức công phu. Trên mặt cờ, mọi họa tiết từ màu sắc, đường tròn, các chữ tên của quân cờ... đều được chạm khắc tinh xảo, sắc nét. Cái bàn cờ cũng không chê vào đâu được. Nó được làm bằng gỗ mun, mặt đen bóng, phản chiếu như pha lê, có thể soi mình vào trong đó. Quả đúng là bộ cờ độc đáo, hoàn hảo và tuyệt mỹ như một tác phẩm nghệ thuật.

“Thế nào, đã bắt đầu chưa? - Ông Lãm lên tiếng và nói thêm: - Thắng thua chỉ một ván thôi đấy, không có ván thứ hai đâu!”. Xáng “Vâng” một tiếng rồi lanh lẹ xếp cờ. Gã bên cờ chữ xanh. Ông Lãm bên cờ chữ đỏ. Nhìn bàn tay phủ đầy lông của Xáng cứ thoăn thoắt, thoăn thoắt trên từng quân cờ, tim ông Lãm như thắt lại. Ông xót xa kêu lên:

- Ấy... ấy, cậu hãy từ từ và nhẹ tay cho một tý. Cờ này không thể vội vàng và hấp tấp thế được! Nhân đây tôi cũng cần nhắc cậu một điều, ấy là khi chơi, cờ này tuyệt đối không được “bốp, chát” như cờ thường đâu đấy nhé! Phải nhẹ nhàng, thật nhẹ nhàng! Thế này này... Thật nhẹ nhàng!

- Vâng!

Xáng trả lời cụt lủn “Vâng!”. Mặt Xáng tươi như bình minh vừa hé rạng. Lúc xếp xong cờ, bỗng gã ngẩng lên nhìn ông Lãm, đổi cách xưng hô, không “chú chú, cháu cháu” nữa, mà “ông ông, tôi tôi” và dõng dạc tuyên bố:

- Hôm nay, bằng bộ cờ ngà voi này tôi sẽ thắng ông!

Ông Lãm trố mắt nhìn Xáng như nhìn một con vật lạ.

Rồi ông bỗng cười khẩy và cũng đổi cách xưng hô:

- Chú mày mà thắng được ta, ta xin từ bỏ cờ không bao giờ chơi nữa. Nào, ta nhường chú mày đi trước!

Mặt Xáng vênh lên:

- Hãy khoan, hôm nay chơi với ông tôi còn muốn chấp ông một con xe và một con pháo.

Trong lúc ông Lãm chưa có phản ứng gì thì gã đã đưa tay nhón luôn hai quân cờ bên phần cờ của gã. Nhưng gã không đặt hai quân cờ đó xuống bên bàn cờ mà cứ nắm nó khư khư trong tay như không bao giờ chịu buông ra. Vẻ mặt ông Lãm đang dương dương tự đắc bỗng ỉu xìu, biến sắc khi ông nhìn vào tay Xáng. Bàn tay gã trông mới gồ ghề, gân guốc làm sao! Ông có cảm tưởng như bàn tay dữ dằn, gớm ghiếc đang nắm chặt kia của gã có thể sẽ làm sây sát hoặc cũng có thể vung lên, giáng một cái xuống nền nhà, đập nát hai quân cờ của ông. Chao ôi, nếu đúng như thế thật thì bộ cờ ngà voi của ông sẽ không còn nguyên vẹn nữa. Nó sẽ trở nên què quặt, sẽ không còn có ý nghĩa, giá trị gì nữa. Rồi ông biết ăn nói thế nào với tổ tiên, dòng họ mỗi khi đứng trước bàn thờ thắp hương? Mới chỉ nghĩ thế thôi ông Lãm đã thấy héo hắt cả ruột gan. Ông vội vàng nói với Xáng:

- Thôi thôi, hôm nay chú mày thắng ta, nhất định thắng ta. Chú mày cứ bỏ hai quân cờ đó xuống, ta chơi đều cờ, thắng thua không thành vấn đề. Mà ngộ nhỡ chú mày có thua ta thì ngày mai ta cũng sẽ tuyên bố khắp thiên hạ là ta thua chú mày... ta thua chú mày, được chưa?

Mặt Xáng vẫn trơ lỳ như đá và tay gã vẫn bóp chặt hai quân cờ. Ông Lãm lại cố nói:

- Hay là chú mày cần cái cơ ngơi nhà cửa này của ta, ta cũng cho chú mày tất. Chỉ cần chú mày bỏ hai quân cờ đó xuống. Nào! Cậu Xáng, nghe tôi, bỏ hai quân cờ đó xuống rồi chơi!

- Không! Tôi không cần gì cả, tôi chỉ cần đánh bại ông!

Tiếng Xáng rít lên và tay gã dang ra liệng thẳng cả hai quân cờ vào bếp lửa. Mọi việc diễn ra chỉ trong nháy mắt. Ồng Lãm hét lên một tiếng thất thanh rồi nhảy bổ tới bê chậu nước hắt vào bếp. Nhưng muộn quá rồi! Không còn kịp nữa rồi! Khi ngọn lửa được dập tắt, ông Lãm vục tay vào bếp mò mẫm một lúc mới moi được hai quân cờ nhưng cả hai quân đã bị biến dạng. Mặt ông bê bết tro than, mắt ông đờ đẫn nhìn hai quân cờ, rồi bằng một cử chỉ trân trọng, ông nâng hai quân cờ méo mó trên hai bàn tay mình. Cả người ông run lẩy bẩy, nước mắt trào ra trên hai khóe mắt. Rồi ông bỗng ngửng lên nhìn về phía Xáng. Hai con mắt già nua của ông long lên sòng sọc và vằn lên những tia máu như muốn ăn tươi nuốt sống ngay kẻ đã phá hại cổ vật. Như một con hổ vổ mồi, ông chồm tới, một tay túm tóc Xáng, một tay vớ thanh củi vung lên... Nhưng nghĩ sao, ông buông Xáng ra, lùi lại, hầm hầm chỉ tay vào mặt Xáng quát to:

- Đồ súc sinh, đồ tiểu nhân bỉ ổi! Tao sẽ tính chuyện này sau, còn bây giờ... bây giờ... tao... tao phải chơi với mày… chơi với mày để mày biết ai là người chiến… thắng…

Thấy ồn ào người trong xóm đổ xô tới vây lấy hai người. Và cuộc cờ bắt đầu diễn ra. Dù có lợi thế hơn hẳn Xáng hai quân cờ chủ lực là xe và pháo, nhưng ở ván cờ này do quá đau xót về bộ cờ ngà voi đã vĩnh viễn mất đi hai quân, ông Lãm đã không còn đủ minh mẫn để làm chủ được thế trận. Và ông đã thua Xáng. Đó là trận thua đầu tiên trong đời của ông. Với Xáng đó cũng là “trận thắng oanh liệt nhất” trong đời của gã.

Ôi một trận cờ! Một trận cờ mà lần đầu tiên Xáng được thỏa thích chiêm ngưỡng, thỏa thích sờ mó những quân cờ độc nhất vô nhị. Một trận cờ mà gã cho là bg đời cờ của mình, gã chưa bao giờ được tận hưởng niềm chiến thắng ngọt ngào, hân hoan đến thế. Mặc dù chỉ ngay sau khi kết thúc cuộc đấu. gã đã phải trả giá bằng một trận đòn nhừ tử từ những người nhà ông Lãm và phải cắp đít bỏ chạy đến bán sống bán chết. Còn ông Lãm, người mà trước trận đấu hãy còn là một tay cờ uy danh, tiếng tăm lừng lẫy, giờ phải bó gối ngồi đó, ủ rũ bên bàn cờ. Rồi cả cái phong thái ung dung, đĩnh đạc vốn có ở con người ông trong những lần ông “điều binh khiển tướng” trước đây cũng như biến mất để thay vào đó là một vẻ mặt âu sầu và một tinh thần rệu rã. Hẳn ông Lãm đang rất khổ tâm, không biết do mắc lừa Xáng để đến nỗi thất bại thảm hại trước tay cờ của gã hay vì bộ cờ ngà voi, kỷ vật tổ tiên để lại mà ông coi như báu vật nay không còn nguyên vẹn nữa? Cũng có thể do ông nghĩ cao xa hơn, rằng ông đã làm tổn thương đến gia phong, nề nếp, đến truyền thống tốt đẹp vốn có của gia đình, dòng họ ông? Càng nghĩ, ông càng thấy xót xa, ân hận. Giá mà ông biết kìm nén lòng huênh hoang, không tự kiêu, tự đại, biết nhường nhịn kẻ yếu, biết xem thường chuyện hơn thua trong các cuộc chơi... thì mọi chuyện chắc đã rất khác... rất khác.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2023, 08:40:10 am

BỐ CHỒNG TÔI

Quê tôi ở một tỉnh trung du phía Bắc, nơi có những rừng cọ, đồi chè, từng một thời đi vào thơ ca nhạc họa. Để đến bây giờ sau mấy chục năm “cất bước theo chồng về xứ lạ”, chỉ cần nghe ai đó nhắc đến câu thơ về rừng cọ, đồi chè thôi là trong lòng tôi đã lại trào dâng một nỗi nhớ thương da diết về mảnh đất nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Thời con gái, tôi yêu anh Mừng là bộ đội xe tăng đóng quân ở làng tôi. Anh Mừng năm ấy gần ba mươi tuổi và đã là một sĩ quan trưởng xe. Tuy hơn tôi gần chục tuổi, nhưng trông anh vẫn rất trẻ. Anh lại có một thân thể khỏe mạnh và cường tráng, đúng với mẫu đàn ông mà tôi hằng ao ước về người bạn đời của mình. Đám cưới của hai chúng tôi do gia đình tôi và đơn vị anh đứng ra tổ chức. Nhà trai do điều kiện thời chiến, lại xa xôi, nên không ai có mặt. Tuy vậy đám cưới vẫn rất vui. Đặc biệt là tôi và anh Mừng sau thời gian yêu nhau nay thành vợ chồng, chúng tôi sống với nhau rất hạnh phúc. Sau đám cưới, trong một đêm nằm bên nhau, chồng tôi có bàn với tôi là sau này sẽ đưa tôi về sống cùng với gia đình anh ở một tỉnh của miền Trung. Tôi chưa một lần đến quê anh, nhưng nghe anh kể thì tôi biết quê anh cũng là vùng nông thôn nghèo khó như quê tôi vậy. Chỉ có điều quê anh ở miền biển, miền gió Lào cát trắng. Thuyền theo lái, gái theo chồng, tôi nghĩ vậy nên đồng ý ngay. Tuy nhiên đó mới chỉ là lời bàn, còn đi hay không và bao giờ đi thì chúng tôi vẫn chưa ấn định được thời gian cụ thể. Thế rồi chỉ sau đó không lâu, đơn vị chồng tôi có lệnh hành quân gấp vào chiến trường. Lệnh đến từ chiều hôm trước thì đến tối hôm sau đã phải lên đường. Dù bất ngờ, nhưng anh cũng kịp sắp xếp để đưa tôi cùng về quê với anh. Vậy là tranh thủ luôn được chuyến xe của đơn vị. Thủ trưởng đơn vị cũng đồng ý cho tôi cùng đi, vì đằng nào khi vào chiến trường xe cũng ngang qua đấy. Vì dẫn vợ về ra mắt nên chồng tôi còn được đơn vị cho nghỉ thêm hai ngày để đưa tôi về tận quê. Về quê chồng dù thời gian của anh gấp gáp, nhưng chúng tôi vẫn có những giây phút mặn mà bên nhau. Và anh, điều may mắn hơn cả là được gặp lại quê hương, người thân trước khi vào chiến trường ác liệt.

Hai chúng tôi vừa về đến nhà đã thấy mấy người đứng ở cửa. Anh dắt tay tôi đến trước mặt một người và nói: “Đây là bố, em chào bố đi!”. Tôi lễ phép cúi đầu: “Con chào bố ạ!”. Bố chồng tôi nhìn tôi rất trìu mến. Nhưng bố chưa kịp nói gì thì chồng tôi đã nhanh nhảu nói: “Thưa bố, đây là Lan vợ con. Con đưa vợ con về đây sống cùng bố và em”. Một thoáng ngỡ ngàng trên khuôn mặt già nua khắc khổ của bố. Rồi như chợt hiểu ra, bố lại nhìn tôi: “Ừ, bố rất vui! Các con vào nhà đi! Vào đi! Nào con, - bố nói với tôi - con đưa túi đây bố xách cho”. Hai tay bố đỡ lấy chiếc túi xách từ tay tôi và dẫn chúng tôi vào nhà. Trước đây khi mới yêu nhau, tôi cũng đã được chồng tôi cho biết là gia đình anh ở quê chỉ có bố anh và cô em gái. Mẹ anh mất cách đây đã lâu. Nhà anh chỉ có hai anh em. Hồi anh đi bộ đội thì Vui, em gái anh đang học cấp ba. Nay chúng tôi về, Vui đã là một thiếu nữ xinh xắn vừa tròn tuổi hai mươi. Trong bữa cơm thân mật vừa để giới thiệu tôi với họ hàng, vừa để chia tay chồng tôi vào chiến trường, bố tôi ngậm ngùi nói: “Nghe đài, bố biết tình hình trong ấy bây giờ đang có những chuyển biến lớn, có lợi cho ta. Quân địch ngày càng lâm vào thế bị động và bị ta tấn công khắp nơi. - Bố tôi nhìn chồng tôi: - Con cứ an tâm mà ra đi, không phải lo nghĩ gì, mọi việc ở nhà đã có bố lo liệu. - Rồi nhìn sang tôi, bố nói: - Đầu năm nghe các con tổ chức lễ cưới, bố mừng lắm mà không biết làm sao để có mặt trong ngày vui của các con được. Bố thật có lỗi với con và ông bà ngoài ấy quá! Bây giờ thì bố rất vui vì con đã về đây sống cùng bố. Tuy nhiên, bố cũng rất hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của con hiện tại... Nhưng rồi chiến tranh sẽ kết thúc, chồng con sẽ trở về, vợ chồng lại đoàn tụ cùng nhau con ạ! Con hãy cố gắng lên! Còn bây giờ thì hãy sống vui vẻ cùng bố và em. Từ nay cha con ta sẽ dựa vào nhau...”.

Đêm ấy, nằm với chồng tôi trong buồng, tôi thấy bố cứ thỉnh thoảng lại ngồi dậy mở cửa đi ra ngoài sân. Một lúc lại thấy bố đi vào ngồi lặng lẽ một mình trong đêm tối. Rồi lại thấy bố đi đến bên bàn thờ nơi đặt di ảnh của mẹ chồng tôi. Tôi thấy bố thắp hương thì thầm khấn vái rất lâu. Tôi đoán chắc là bố đang rất buồn vì chỉ sáng mai thôi là chồng tôi sẽ lên đường về đơn vị. Bố muốn nói gì đó với mẹ về chồng tôi, về tôi, và cả những gì đang âm thầm day dứt trong lòng bố. Hai năm xa cách nay bố con anh mới gặp lại nhau, lại chỉ có hai ngày để rồi phải xa nhau. Tôi để ý từ hôm qua đến nay, hầu như lúc nào bố cũng ở cạnh anh, khi ngoài bờ ao, lúc bên bàn nước, hai cha con luôn nhỏ to trò chuyện. Tôi hỏi thì chồng tôi bảo là bố chỉ dặn dò, động viên anh. Nhưng anh cũng bày tỏ là bố rất buồn và rất lo khi anh phải ra trước đường tên mũi đạn. Bố sợ nếu chẳng may anh có mệnh hệ gì thì làm sao bố sống được. Rồi còn cả tôi nữa, tôi sẽ sống ra sao, nếu vắng anh? Bố lo nghĩ, khi chồng tôi vào chiến trường, tôi có vui vẻ, có an tâm mà sống ở đây cùng bố không? Bởi theo bố, bây giờ dẫu sao cũng còn có em Vui ở nhà, tôi sẽ có chị có em, mọi chuyện vui buồn chị em có thể thủ thỉ tâm sự cùng nhau, nhưng chỉ nay mai, Vui cũng sẽ đi, bố biết xoay sở thế nào. Không phải là bố ngại khó ngại khổ. Vì tôi, bố có thể làm bất cứ điều gì để tôi được sống vui vẻ. Nhưng còn nhiều điều tế nhị khác. Thà ở vị trí bố là một người mẹ chồng, mọi việc sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Bố rất vui khi biết tôi đã mang thai. Bố an ủi chồng tôi sẽ chăm sóc tôi, lo cho tôi được mẹ tròn con vuông.

Đêm ấy, vợ chồng tôi cũng không ai ngủ được. Chỉ còn một đêm ở bên nhau, sáng sớm mai anh lên đường, mà chưa biết bao giờ gặp lại. Có thể nơi chồng tôi đến sẽ là mặt trận nóng bỏng và ác liệt nhất. Có thể một mai chiến tranh sẽ vĩnh viễn cướp đi người chồng thân yêu của tôi... Suốt đêm tôi cứ trằn trọc, thao thức bởi những suy nghĩ vớ vẩn ấy. Càng nghĩ, tôi càng thấy thương anh và lo cho hạnh phúc của mình. Tôi thực sự hoang mang lo lắng bởi mới làm vợ anh, đang có thai lại sống ở một nơi xa lạ với quê hương tôi. Tôi nằm bên anh, vùi đầu vào ngực anh. Anh cũng quàng tay ôm chặt lấy tôi, thủ thỉ tâm sự cùng tôi rất nhiều chuyện. Anh thương tôi về đây vất vả, mà anh thì lại không được ở bên cạnh để chăm sóc, giúp đỡ tôi hàng ngày. Đã thế, vắng anh, mọi việc ở nhà chỉ còn biết trông cậy cả vào tôi lo liệu. Anh nhờ tôi chăm sóc bố thay anh, và cả chờ anh ngày chiến thắng trở về. Nước mắt tôi thấm đẫm trên vai anh, trên ngực anh, còn anh cũng nghẹn ngào rơi lệ. Sáng hôm sau, chồng tôi ra đi rất sớm. Cả nhà tôi tiễn anh ra tận con đường đầu làng. Trước lúc bước lên chiếc xe quân sự, anh nắm tay tôi, ấp cả hai bàn tay tôi lên ngực anh. Rồi như không ngăn được cảm xúc của mình, anh ôm chặt lấy tôi, nhìn âu yếm vào mắt tôi. Giọng anh nghẹn ngào: “Lan hãy chờ anh! Nhất định anh sẽ trở về!”. Tôi không nói được câu nào, chỉ khẽ áp mặt vào ngực anh. Tiếng xe nổ như thúc giục, anh vội vã hôn một cái lên môi tôi rồi từ từ buông tay tôi ra. Tôi đứng lặng nhìn theo đoàn xe cho đến khi khuất hẳn mới trở về nhà. Nằm một mình trong buồng tôi nhớ anh da diết. Tự dưng nước mắt tôi lại trào ra.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2023, 08:46:06 am

Tôi về nhà chồng được khoảng ba tháng thì Vui - em chồng tôi - có giấy báo đi thanh niên xung phong. Thực ra em không nằm trong diện phải đi trong đợt này, nhưng thấy bạn bè hết lượt này đến lượt khác nô nức lên đường ra tiền tuyến, nên Vui cũng đâm đơn xin đi cho kỳ được. Từ hôm em Vui vào chiến trường nhà cửa trở nên quạnh quẽ, vắng lặng. Đã thế nhà tôi lại ở một mình thoi loi giữa đồng, ít người lui tới nên càng thêm trống trải. Bố tôi bảo, xưa kia nhà tôi ở trong xóm, nhưng từ hơn chục năm nay do đam mê với nghề nuôi cá nên bố đã xin chuyển hẳn ra ở ngoài này cho tiện việc nuôi giữ. Vậy nên, cùng một làng một xã mà nhà tôi như tách hẳn ra thành một cõi riêng biệt. Tuy vắng vẻ, nhưng ở đây quanh năm lúc nào cũng mát mẻ, nhất là về mùa hè, gió cứ lồng lộng suốt từ sáng đến tối. Lại được cái, ngay từ hồi mới ra ở, bố tôi đã trồng rất nhiều các loại cây lưu niên quanh nhà nên giờ nhìn bốn phía nơi nào cũng rợp bóng cây xanh, trông rất hiền hòa và thơ mộng. Ở ngoài này bố tôi vừa tham gia tổ cày của đội sản xuất, vừa nuôi cá, rồi còn kiêm luôn cả việc làm nhân viên bảo vệ cho hợp tác xã. Lúc nào tôi cũng thấy bố luôn chân luôn tay, chả mấy khi được nghỉ ngơi. Từ sáng sớm tinh mơ cho đến khi hoàng hôn buông xuống lúc nào bố cũng cùi cụi ngoài đồng. Từ hôm em chồng tôi đi thanh niên xung phong, mọi việc đều dồn cả lên vai bố. Tôi thỉnh thoảng vẫn giúp bố việc nhà nhưng bố đều gạt đi. Bố bảo, “con cứ tạm thời nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, khi nào sinh nở xong rồi hẵng làm gì thì làm, chứ bây giờ con làm thế, nhỡ ra có chuyện gì, sau này bố biết ăn nói thế nào với chồng con”. Bố rất lo cho sức khỏe của tôi nên không để tôi phải nhúng tay vào bất cứ việc gì. Tôi để ý từ khi bước chân về nhà chồng, không gặp bố thì thôi, chứ đã gặp bao giờ tôi cũng thấy bố cười, một nụ cười vừa ấm áp vừa trìu mến, khiến tôi quên dần đi những lo toan, bỡ ngỡ ban đầu. Trong những bữa cơm, bố thường tự tay gắp thức ăn bỏ vào bát tôi. Bố bảo, “con hãy ăn nhiều, thật nhiều để giữ gìn sức khỏe!”. Thái độ của bố đối với tôi thật ân cần, tựa như người mẹ chăm chút cho con cái.

Chồng tôi vào chiến trường đã hơn nửa năm mà không một chút tin tức gửi về. Cả em chồng tôi cũng vậy. Trong khi đó thì đài báo ngày ngày vẫn đưa tin về chiến sự ở miền Nam. Chiều nào tôi cũng lững thững một mình ra đứng trước nhà nhìn về phương Nam mà lòng đầy thấp thỏm lo âu. Con đường phía bên kia cánh đồng, cách nhà tôi không xa lắm, ngày ngày vẫn tấp nập, hối hả những đoàn người, đoàn xe hướng ra tiền tuyến. Những đám bụi mù mịt bốc cao. Tiếng xe gầm rú, tiếng hò hát của bộ đội, của thanh niên xung phong nghe rộn rã cả một quãng đường. Những lúc ấy tôi cảm thấy mình vui hẳn lên. Tôi chỉ muốn chạy đuổi theo đoàn quân ấy, níu áo các anh các chị, gửi lời thăm hỏi chồng tôi. Và đã một lần tôi định đuổi theo đoàn quân. Tôi đem chuyện ấy kể với bố tôi. Nghe xong, bố tôi cười bảo, “con làm cứ như ai ra mặt trận cũng đều được gặp nhau không bằng. Chiến trường rộng lớn lắm, làm sao người ta lại có thể gặp được thằng Mừng mà con gửi lời hỏi thăm nó được”. Thấy tôi buồn, bố lại an ủi, động viên tôi, “nhưng mà Lan à, biết đâu sẽ có người vào trong ấy rồi gặp được chồng con cũng nên. Quả đất xoay tròn mà. Để hôm nào bố ra ngoài ấy gặp các anh bộ đội chuyển lời của con cho nó”. Tôi để ý thấy bố nói chuyện với tôi thì có vẻ rất vô tư, vui vẻ, nhưng trong lòng bố thế nào tôi biết cả. Hơn cả tôi, bố cũng mong tin chồng tôi và em chồng tôi từng ngày một. Mỗi buổi chiều đi làm về, tôi thường thấy bố ra đứng ở bờ ao với vẻ mặt đầy tư lự. Hoặc trong những bữa cơm, tự dưng bố buông đũa rồi ngồi ngẩn ra. Lại có những đêm bố liên tục ngồi dậy vấn thuốc hút. Rồi cả những tiếng thở dài mà tôi vốn quen thấy ở bố từ ngày chồng và em chồng tôi vào chiến trường. Dù chưa một lần bố than thở với tôi điều gì, nhưng tôi cũng hiểu được những âu lo quặn xé trong lòng bố. Bằng cảm giác của một người vợ có chồng ra trận, tôi hiểu bố đang lo nghĩ rất nhiều cho các con mình. Trong khi đó, thì chỉ riêng ở một cái làng quê nhỏ bé này thôi, thỉnh thoảng lại có giấy báo tử từ chiến trường gửi về. Những vòng khăn tang lại trắng xóa trên những mái đầu của biết bao người vợ, người mẹ, người con... Vừa mất đi người thân của mình. Và trên con đường được gọi là “con đường chiến lược” cách nhà tôi không xa ấy, lẫn trong những đoàn xe ra trận vẫn có những chiếc xe chạy ngược chiều. Đó là những chiếc xe chở những người lính bị thương, những người không còn khả năng chiến đấu trở về hậu phương.

Tôi tính từng ngày một và biết rằng mình đã mang thai đến tháng thứ tám, không mấy nữa là tôi ở cữ. Tôi đi đứng nặng nề, chậm chạp, lạch bà lạch bạch chẳng khác gì chú vịt xiêm. Bố mua về một ít vải, loại vải màu trắng đục mỏng như màn, mà nghe đâu phải khéo nói lắm người ta mới bán cho, bảo tôi cắt may lấy ít tã lót. Còn bố, bố cũng chặt tre đan sẵn một cái nôi thật đẹp để đấy. Biết tôi gần đến ngày sinh nở bố chăm lắm! Bố lo cho tôi từ bữa ăn giấc ngủ, căn dặn tôi từng ly từng tý một. Tôi không ngờ bố là một người đàn ông mà lại biết nhiều việc mà người phụ nữ trước khi sinh nở phải làm. Bố không chỉ lo trước, tính sau chuẩn bị cho tôi sinh nở mà còn làm giúp tôi cả việc giặt giũ. Có một lần, áo quần tôi thay ra ngâm ở chậu chưa kịp giặt đã thấy bố giặt và phơi ở dây rồi. Tôi ái ngại quá, nói với bố thì bố bảo cái thềm giếng rất trơn, bố sợ tôi ra đó rồi ngã. Bố dặn tôi, khi nào cần tắm táp hay giặt giũ gì thì đừng có ra ngoài giếng nữa mà hãy vào hẳn trong nhà tắm. Từ hôm đó, chiều nào bố cũng múc nước để sẵn trong nhà tắm cho tôi. Rồi bố còn dặn tôi, khi nào con thấy trong người có hiện tượng gì khác thì hãy nói ngay cho bố biết để bố còn kịp gọi nhân viên y tế. Thời gian này bố ít đi làm xa. Có đi đâu bố cũng chỉ nhoáng một lát rồi nhanh nhanh về cùng tôi. Bố đứng ngoài cửa buồng nhìn vào và khi đã chắc chắn tôi vẫn bình thường bố mới lại ra vườn quẩn quanh làm gì đấy. Những lúc như thế tôi vừa thấy buồn cười vừa thương bố vô cùng.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2023, 08:47:08 am

Mùa đông năm ấy đến sớm hơn thường lệ. Mới chỉ tháng mười ta mà đã có những đợt rét đậm đầu mùa, trời lại suốt ngày mưa. Mưa dầm dề, tê tái. Mưa dai dẳng kéo từ ngày này qua ngày khác tưởng như không bao giờ dứt. Cây sầu đông trước cửa nhà tôi mới ngày nào đó còn sum suê cành lá mà nay đã trơ trụi dần. Tôi nhẩm tính ngón tay và biết rằng ngày sinh nở của tôi đã rất gần. Chắc cũng chỉ còn trên dưới nửa tháng nữa. Người ta bảo, người mẹ mang thai đủ chín tháng mười ngày mới sinh, nhưng tôi để ý trong thực tế mấy ai được đúng rắp như thế. Có người còn đẻ non cả tháng trời nữa cơ mà! Tôi mang thai con so nên chả có tý chút kinh nghiệm gì về bản thân. Thôi thì cứ phó thác cả cho tạo hóa.

Một đêm đã rất khuya, có lẽ phải quá nửa đêm, trời lại đang giữa lúc gió mưa tầm tã, tự nhiên tôi thấy đau râm rẩm ở bụng. Tôi nghĩ chắc là đau bụng do gió máy như mọi khi nên vội ngồi dậy xoa tý dầu cao vào bụng. Không ngờ cơn đau cứ càng lúc càng tăng rồi đau dữ dội. Tôi chưa từng đau như thế bao giờ. Người tôi mồ hôi vã ra. Tôi rên lên và bấu chặt vào tấm chăn. Đến lúc này thì tôi biết chắc chắn là tôi đã trở dạ. Nhưng sao lại có thể sớm hơn những chục ngày so với thời gian mà tôi đã tính toán từ trước. Đúng ra phải là gần cuối tháng này mới đến ngày tôi sinh nở. Vậy là tôi thiếu ngày, chính xác là thiếu tới hơn một chục ngày! Bây giờ phải làm sao đây giữa đêm hôm khuya khoắt, gió mưa này? Chẳng có nhà ai ở quanh, chỉ có cánh đồng và mưa gió. Đã thế, trạm xá xã lại ở tít tận trong xóm. Liệu bố tôi có kịp đi gọi người làng đến đưa tôi ra trạm không? Từ gian ngoài nghe tiếng tôi kêu rên, bố tôi lật đật chạy vào. Bố vặn to ngọn đèn rồi ngồi xuống cạnh tôi, hai tay bố cứ lóng nga lóng ngóng mà không biết phải làm gì. Phải một lúc sau bố mới thốt được nên lời: “Chắc là con chuyển dạ rồi đấy con ạ!”. Lúc ấy tôi chỉ biết kêu: “Bố ơi, con đau lắm! Đau không thể chịu nổi! Con chết mất bố ơi! - Tôi cắn chặt mép chăn cố nói với bố: - Bố... bố đi gọi bà đỡ cho con đi bố...”. “Không kịp nữa đâu... Từ đây ra trạm xá gần nửa cây số... không kịp đâu... Để... để bố đưa con đi...”. Bố nói rồi chạy ra gian ngoài mang vào một tấm nilon. Bố đỡ tôi ngồi dậy, quàng nilon lên người tôi. Bố còn cẩn thận khoác thêm một lấm nilon khác ra bên ngoài cho thật kín rồi mới nói với tôi: “Bây giờ con chịu khó để bố đưa con ra ngoài trạm xá. Nào, nhanh đi con!”. Vừa nói bố vừa bế bổng tôi lên. Một tay bố đỡ hai chân, tay kia bố đỡ lấy lưng tôi. Bố bảo tôi quàng tay ôm lấy cổ bố. Rồi cứ thế bố lao ra giữa trời mưa. Dọc đường bố vừa đi vừa chạy. Mưa vẫn ràn rạt quất vào nilon lộp bộp, lộp bộp từng hồi không dứt. Rồi gió rít. Gió quất lên từng hồi như muốn xô đổ hai bố con tôi. Lúc ấy tuy rất đau, nhưng tôi vẫn mường tượng được điều gì đang diễn ra. Tôi biết bố đang rất mệt khi phải gắng gượng làm một việc quá sức. Có lúc tôi thấy bố loạng choạng khi bước những bước nặng nhọc trên con đường đất lầy lội trơn như đổ mỡ. Lại có lúc tôi thấy cả người bố chao đảo như không thể bước được nữa. Trong khi đó thì trời lại tối đen như mực và gió mưa vẫn từng hồi trút xuống. Cả người bố từ đầu đến chân chắc đã ướt sũng. Bởi nhà chỉ có hai tấm nilon mà bố đã quàng cả cho tôi. Tôi có cảm tưởng bố như đang run lên trong gió mưa giá lạnh. Và có thể bố sẽ cạn kiệt sức lực mà ngã khuỵu xuống bất cứ lúc nào. Nhưng không! Bố vẫn cứ đi. Hình như có một sức lực nào đó tiếp thêm cho bố, giúp bố kịp đưa tôi ra đến nơi. Tôi đã sinh ngay khi vừa đến trạm xá. Một bé trai kháu khỉnh, bụ bẫm, khuôn mặt giống chồng tôi như đúc.

Hôm từ trạm xá về nhà, mặc dù đang bị cảm lạnh chưa khỏi hẳn, bố vẫn ra tận đầu ngõ đón mẹ con chúng tôi. Có một cái gì đó bất chợt dâng lên trong lòng ngực khiến tôi nghẹn ngào khi vừa nhìn thấy bố. Tôi phải cố nén để nước mắt đừng trào ra. Nhưng đến khi vào nhà trao cháu nội cho ông bế, tôi không thể kiềm chế được nữa, tôi quàng tay ôm lấy bố, ôm lấy con, rồi gục đầu vào vai bố òa khóc nức nở.

Mùa đông đi qua. Rồi mùa xuân đến. Cho đến khi con trai tôi chập chững biết đi, rồi bập bẹ tập nói, tôi vẫn không nhận được một tý ty tin tức gì về chồng tôi. Riêng cô em chồng thì mới đây nhờ có người làng về phép, chúng tôi mới biết là Vui vẫn khỏe và hiện đang cùng đơn vị bám trụ ở một cung đường Trường Sơn đâu đó trong Quảng Bình. Bố tôi vẫn ngày hai buổi làm hợp tác, vẫn thức khuya dậy sớm với ao cá của mình. Tôi thì ngày ngày vừa trông con vừa đỡ đần bố việc nhà. Đến khi cháu đủ tuổi vào mẫu giáo tôi mới rảnh rỗi thời gian để tham gia việc hợp tác xã cùng bố. Trong căn nhà heo hút giữa cánh đồng giờ cũng đã bớt vắng lặng, không còn buồn tẻ như trước. Có thêm cu Sơn, con trai tôi, không khí trong nhà như thay đổi hẳn. Hằng ngày chỉ cần nghe tiếng cháu bi bô thôi là bố con tôi đã thấy vui, nhà cửa cũng thêm ấm cúng. Rồi mỗi khi cháu khóc, cháu cười, được nựng cháu, dỗ cháu, đó là niềm vui, hạnh phúc lớn của bố con tôi. Tuy nhiên, mỗi lần ngắm nhìn khuôn mặt con, tôi lại nghĩ đến chồng tôi. Những lúc ấy ruột gan tôi lại cồn cào nhớ anh. Có những đêm nằm ôm con ngủ, đầu óc tôi chỉ toàn nghĩ về anh. Tôi nhớ như in cái ngày cách đây gần bốn năm về trước khi lần đầu tôi gặp anh. Đó là một buổi chiều mùa hè giữa rừng cọ quê tôi. Tôi không thể quên được ánh mắt của anh đã nhìn tôi trong cái buổi chiều rất nên thơ ấy. Để rồi sau này, trong những ngày tiếp theo, ánh mắt ấy của anh cùng với những lời yêu thương luôn hiện hữu trong tôi. Hình như cái duyên cái số của tôi và anh “ông trời” đã sắp sẵn ngay từ lần đầu gặp gỡ ấy. Chả thế mà khi anh ngỏ lời yêu, tôi đã bằng lòng ngay mà không một chút đắn đo, suy tính. Rồi khi tình yêu đã sâu sắc hơn, mỗi lần bên nhau, anh vẫn thường nói với tôi, lấy chồng bộ đội thời chiến là rất khổ, có khi vợ chồng chỉ ở bên nhau được vài ngày rồi biền hiệt xa nhau hàng năm, thậm chí hàng chục năm trời. Nhưng đó chưa phải là tất cả, có rất nhiều trường hợp mà người vợ còn phải gánh chịu sự mất mát, thương đau gấp cả trăm vạn lần sự xa cách kia. Hồi ấy anh có nói gì tôi cũng chỉ để ngoài tai. Tôi chỉ biết là mình yêu anh và chấp nhận tất cả. Bây giờ đây cũng vậy. Dù mong ngóng chồng từng phút từng giây, tình yêu tôi cũng không hề đổi thay hay vơi cạn. Có chăng đó chỉ là sự nhớ thương anh ngày một khắc khoải.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2023, 08:47:59 am

Bố tôi rất chiều chuộng cu Sơn nên lúc nào cũng xem cháu như cục cưng. Nó cũng yêu quý ông chẳng kém. Hàng ngày ông đưa cháu đến lớp, rồi đón cháu về. Chiều chiều ông lại đưa cháu ra bờ ao hóng mát. Ở đó bố tôi dựng lên một túp lều nhỏ, bên trong có đặt sẵn một chiếc chõng tre. Mỗi lần nghe ông bảo ra ngoài lều chơi là cu Sơn thích lắm! Dù đang ở bên tôi, nó cũng bỏ mẹ mà chạy theo ông ngay. Sau này tôi mới biết sở dĩ nó thích vậy là vì ra ngoài ấy ông thường kể chuyện cho nó nghe. Thằng bé tuy ít tuổi nhưng rất thông minh và hóm hỉnh. Có lần nó hỏi tôi về bố nó, vì nó bảo ở lớp bạn nào cũng có bố. Bố hay chở các bạn đến lớp bằng xe đạp. Tại sao nó lại không có bố, không được bố cho đi xe đạp? Tôi nhìn con mỉm cười và cố giấu đi nỗi nhớ mong chồng mà giải thích là bố con đi bộ đội đánh Mỹ, mai kia thống nhất bố sẽ về, bố sẽ chở cu Sơn bằng xe đạp như các bạn. Từ đó ngày nào nó cũng hỏi tôi, bao giờ thì bố nó về. Và ngày nào cũng như ngày nào, mỗi lần nghe nó hỏi, tôi lại phải nói dối nó, rằng chỉ nay mai thôi là bố con sẽ về. Cho đến một ngày nó cũng hỏi tôi như vậy, nhưng tôi đã không còn nói dối con được nữa. Bởi, chồng tôi đã không bao giờ về nữa! Bố của con trai tôi đã không bao giờ về nữa!

Tin chồng tôi hy sinh ban đầu chỉ là lời đồn nên cả tôi và bố không ai tin. Vì trước nay trong làng ngoài xã vẫn thường có những tin đồn thất thiệt như thế. Có gia đình đã phải mất ăn mất ngủ, khóc sưng cả mắt chỉ vì những tin đồn vô căn cứ đó. Nhưng dẫu sao, khi phải nghe những tin dữ như vậy cả tôi và bố đều hết sức lo lắng. Đã thế, gần đây đêm nào tôi cũng chiêm bao thấy chồng tôi. Những cơn mơ cứ lặp đi lặp lại, thực thực, hư hư, nhưng cũng có khi rất rõ ràng, cụ thể. Có đêm, tôi thấy chồng tôi y như giữa đời thực. Anh nói gì, làm gì, khi tỉnh dậy tôi vẫn nhớ như in. Nhưng cũng có khi mơ thấy anh, sáng ra tôi không nhớ gì nữa. Sau mỗi lần như thế, khi thức dậy, người tôi bàng hoàng, mồ hôi vã ra như tắm. Tôi cảm nhận có một cái gì đó rất khác thường trong con người tôi mà tôi không sao cắt nghĩa được. Tôi cũng không hiểu những mộng mị mà tôi thường gặp ấy là điềm lành hay dữ? Liệu đó có phải là điều không hay đang xảy ra với gia đình tôi không? Và những giấc chiêm bao đêm đêm đến với tôi có phải là dự báo trước về điều chẳng lành ấy?

Và rồi cái gì đến cũng đã đến. Một ngày cuối năm, chỉ cách tin đồn đó không lâu, tôi nhận được tin chồng tôi hy sinh. Tôi đã bàng hoàng suýt ngã gục xuống khi cầm tờ giấy báo tử do đơn vị anh chuyển về tận nhà cùng một số tư trang còn lại của anh. Còn bố như chết lặng người, giọt nước mắt khẽ lăn trên khóe mắt, bố lầm lũi đi về cái lều bên cạnh ao. Cả xóm kéo đến chia sẻ nỗi buồn với gia đình tôi. Tôi bỏ ăn nằm bệt một chỗ liền mấy ngày. Tôi đã khóc không biết bao nhiêu là nước mắt. Bấy lâu chờ đợi, nhớ mong, nước mắt tôi hình như đã cô lại, đặc quánh nằm sâu trong tâm khảm thì nay như được dịp tan chảy ra, vỡ òa xối xả. Tôi khóc ngày, khóc đêm. Khóc cả khi đang ngủ. Khóc cả trong giấc mơ. Sự hy sinh của chồng tôi quả là một mất mát quá lớn với gia đình tôi, nước mắt chỉ có thể vơi đi phần nào, còn nỗi đau vẫn hằn rõ trên khuôn mặt cha con tôi.

Một tháng trôi qua mà tôi vẫn suy sụp không sao gượng dậy được. Đôi khi tôi cố làm ra vẻ cứng rắn để động viên bố, nhưng những hình ảnh, kỷ niệm về chồng tôi ùa tới làm tôi ngã gục. Chính những lúc như thế, bố lại là người nâng đỡ tôi, động viên tôi. Tôi biết bố không khóc, không kêu trời gọi đất như tôi khi được tin con trai hy sinh, nhưng ẩn sau vẻ mặt già nua, khắc khổ ấy là cả một nỗi đau chẳng dễ gì phôi phai được. Có thể bố không khóc, nhưng mỗi sợi tóc trên đầu bố qua một đêm lại bạc trắng thêm ra. Cái dáng dấp nhanh nhẹn như cũng không ở lại cùng bố nữa. Và cả nụ cười trìu mến ngày ngày tôi gặp cũng như lụi tàn đi nhanh chóng để nhường chỗ cho một vẻ mặt đăm chiêu, sầu muộn. Có những lần tôi thấy bố ngồi ủ rũ một mình ngoài bờ ao hàng giờ đồng hồ. Tôi đến sát bên, bố vẫn không hay biết. Rồi khi tôi gọi, phải lần thứ mấy bố mới giật mình nhận ra. Tôi thấy bố gầy hẳn đi, trông xác xơ, tiều tụy. Đã thế bố chẳng mấy khi chăm chút cho mình. Ngay cả việc cạo râu là việc bố rất siêng, nhưng giờ bố cũng để mặc. Cả tóc bố cũng vậy, chẳng mấy khi bố chải cho ngay ngắn như trước đây khi có việc phải ra khỏi nhà. Đau thương đã làm bố già đi rất nhiều. Tôi thương bố, thường âm thầm giấu đi những giọt nước mắt không để bố biết. Nhưng khi ở cạnh bố, chỉ cần thấy bố không còn vui cười như trước, hay trong các bữa ăn, mỗi khi bố buông đũa đứng dậy là tim tôi lại nhói đau. Tôi không biết phải làm gì để động viên chính mình, càng không biết phải làm gì để động viên bố nên đành cứ để mặc cho nỗi đau trôi theo thời gian.

Những lúc buồn tôi thỉnh thoảng lại lục giở tư trang của chồng tôi mà đồng đội anh mang từ chiến trường về. Từ chiếc ba lô cũ kỹ, đến đôi giày vải, rồi chiếc mũ tai bèo... tất thảy mọi thứ đều làm tôi rưng rưng khi được nâng niu chúng trong tay. Cuốn sổ nhật ký của anh tôi đọc đi đọc lại đến thuộc lòng. Trong gần hai trăm trang anh ghi lại những sự kiện đáng nhớ kể từ ngày nhập ngũ cho đến lúc anh hy sinh thì có tới mấy trăm lần anh nhắc đến tên tôi. Anh dành rất nhiều trang nhật ký để viết về tình yêu của chúng tôi kể từ buổi đầu gặp gỡ. Rồi những ngày ở chiến trường. Hầu như không lúc nào là anh không nghĩ đến tôi. Anh dành trọn vẹn niềm thương nỗi nhớ cho tôi. Anh khao khát sớm được trở về cùng tôi. Trong trang nhật ký đề ngày 17 tháng 3 năm 1968, chỉ hai ngày trước khi hy sinh, anh đã viết cho tôi như một bức thư: “Lan ơi! Chỉ còn ít ngày nữa thôi đơn vị anh sẽ bước vào cuộc chiến đấu mới, sẽ tấn công lên cao điểm Làng Vây - Khe Sanh. Đây là trận đánh hợp đồng binh chủng lớn nhất từ trước đến nay mà anh được tham gia. Đêm nay, bên bờ sông Xêpôn nằm đợi giờ xuất kích, trong cái không khí lành lạnh của sương đêm, trong cái âm u, tĩnh mịch của núi rừng Trường Sơn… anh bỗng thấy nhớ em vô bờ vô bến. Giờ này em còn thức hay là em đã ngủ? Em có biết rằng lúc này đây, trước khi vào trận đánh, anh đang nghĩ gì không? Vậy là vừa tròn ba năm vợ chồng mình xa nhau rồi Lan nhỉ? Chắc em đã sinh con? Con của chúng ta là gái hay trai hả em? Anh hỏi em thế thôi, chứ gái hay trai anh đều vui. Anh ước mình có được đôi cánh thần tiên để ngay từ bây giờ bay về với em và con. Anh chỉ cần được ở bên em và con một lát, một lát thôi, như thế cũng mãn nguyện lắm rồi. Lan ơi, anh yêu em và nhớ em nhiều lắm! Có những lúc anh nhớ em mà cảm thấy ruột gan cồn cào, đau đớn. Anh tự trách mình đã không làm gì để em được hạnh phúc. Thôi thì mai này nước nhà thống nhất, anh sẽ trở về bù đắp lại tất cả cho em, em nhé! Còn bây giờ anh xin dừng lại đây. Anh hon em và con!”


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2023, 08:49:36 am

Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ngày càng mở rộng ra miền Bắc. Con đường cạnh nhà tôi vốn yên ả, thanh bình nay cũng trở thành mục tiêu đánh phá của các loại máy bay Mỹ. Thì ra kẻ địch đã đánh hơi được vị trí chiến lược của con đường này. Ban đầu chúng chỉ ném bom vào các vị trí cầu cống hoặc đánh vào các mục tiêu mà chúng phát hiện ra. Sau mật độ đánh phá ngày một dày đặc hơn. Chúng đánh ngày, đánh đêm, đánh vào bất cứ thời tiết nào. Bầu trời lúc nào cũng u u tiếng tàu bay và ầm ầm tiếng nổ của các loại bom đạn mà kẻ địch trút xuống. Làng tôi ở cạnh con đường ấy nên cũng nằm trong tầm đạn bom của địch. Thế là cả làng lại phải đào hầm trú ẩn. Lực lượng thanh niên, phụ nữ được biên chế vào các đơn vị dân quân trực chiến bắn máy bay Mỹ. Một đơn vị bộ đội pháo cao xạ cũng được điều về đây để bảo vệ con đường. Tôi xin bố gia nhập lực lượng dân quân. Bố tôi đưa cu Sơn, năm ấy đang học lớp vỡ lòng sơ tán đến một xã khác cùng với người già và trẻ em trong làng. Mỗi tuần bố và tôi lại thay nhau lên thăm bé Sơn một lần. Ở dưới này tôi vừa tham gia sản xuất vừa trực chiến cùng bộ đội và dân quân. Tôi khuyên bố lên ở với cháu nhưng bố không nghe. Bố bảo bố đã già cả gì cho lắm mà phải đi sơ tán. Ở huyện bên còn có cả một trung đội dân quân là các cụ phụ lão vẫn ngày ngày bám trụ chiến hào bắn cháy máy bay Mỹ thì sao?

Đã gần bốn năm kể từ ngày chồng tôi hy sinh, tôi thấy bố chưa một lần than vãn điều gì. Bố chỉ buồn và nỗi buồn cũng chỉ âm thầm, lặng lẽ trong lòng, chứ chưa một lần bố thốt ra thành lời. Nhiều lần tôi để ý thấy bố như muốn nói với tôi một điều gì đó nhưng rồi lại thôi. Tôi nghĩ chắc là bố chưa tiện nói ra. Mãi gần đây, trong một lần khi hai bố con đang ở nhà, tự nhiên bố gọi tôi lại và bảo: “Lan à, con đã về đây sống với bố được mấy năm nay. Ngọt bùi chưa thấy đâu mà đắng cay thì đã muôn phần con chịu. Tình cảm bố dành cho con thế nào con cũng biết. Nay, chồng con vì đất nước mà hy sinh, để con phải dang dở giữa chừng. Nếu con vẫn thuận lòng ở lại đây cùng bố thì từ nay bố xin được xem con như là con gái của bố. Con có điều gì cần chia sẻ thì cũng đừng ngại cứ giãi bày với bố nghe con. - Tôi chưa kịp trả lời thì bố lại nói: - Nhưng bố cũng không muốn con phải phí hoài tuổi xuân của mình chỉ vì những chuyện đã qua. Bởi, tất cả những chuyện đó đã vĩnh viễn mất đi, không bao giờ còn lấy lại được nữa rồi. Con còn trẻ, tương lai của con còn rất dài. Con hãy dành cho mình cái quyền được làm lại hạnh phúc từ đầu. Bố sẵn sàng ủng hộ con và lúc nào bố cũng mong con hạnh phúc…”. Tôi hiểu được trong câu nói của bố là cả một tấm lòng của người cha dành cho con gái. Có lẽ là vì bố thương tôi, không muốn tôi phải chịu cảnh góa bụa, không muốn tôi phải giam hãm đời mình trong cảnh đơn côi. Bố muốn tôi đi bước nữa. Bố muốn tôi tìm cho mình một người đàn ông khác để trao thân gửi phận, xây đắp hạnh phúc mới. Chắc hẳn bố phải cân nhắc kỹ lắm, suy đi nghĩ lại nhiều lắm, bố mới có thể nói với tôi như vậy.

Chồng tôi hy sinh đã mấy năm, dù nỗi đau đã phần nào nguôi ngoai, nhưng chưa bao giờ tôi có ý nghĩ là tôi sẽ tìm cho mình một người đàn ông khác. Tôi biết tôi vẫn trẻ. Và theo như đánh giá của cánh đàn ông mà tôi tình cờ nghe được, thì về mặt hình thức tôi vẫn còn mặn mà, duyên dáng lắm! Có người còn cho tôi là trẻ đẹp không thua kém gì các cô gái mười tám, đôi mươi. Chả thế mà có không ít người đàn ông đã theo đuổi, tán tỉnh tôi. Trong số những người theo đuổi tôi, người mà có tình cảm tha thiết và chân thành hơn cả là anh Lường, sĩ quan đơn vị pháo cao xạ.

Anh Lường gặp và làm quen tôi trong những lần tôi cùng dân quân đi tham gia trực chiến với đơn vị anh. Anh Lường rất đẹp trai, tính tình lại vui vẻ, nên lần đầu khi gặp anh, mới chỉ tiếp xúc sơ sơ, không những tôi, mà các chị, các cô ai cũng mến. Ban đầu tôi cũng chỉ nghĩ đơn giản tôi và anh quen nhau cùng lắm thì cũng chỉ là tình anh em, tình quân dân, chứ có gì mà phải giữ kẽ. Không ngờ anh đã tìm hiểu về tôi khá kỹ từ hồi nào. Càng về sau tôi càng để ý thấy anh muốn tìm cách gần gũi để được trò chuyện với tôi. Biết anh là người đàng hoàng, vui tính, nên tôi cũng hết sức cởi mở, có lúc tôi còn tỏ ra quý mến anh hơn hẳn những người khác trong đơn vị. Thế rồi trong một lần tiễn tôi về nhà, anh đã bất ngờ tỏ tình. Tôi một hai từ chối anh, không có ý lưu luyến. Nhưng anh đã không tỏ ra giận dỗi hay thất vọng mà trái lại mọi cử chỉ, lời nói của anh càng hết sức từ tốn. Anh nói vì quá thương tôi, yêu tôi, nên anh mạnh dạn tỏ tình với tôi. Lời tỏ tình của anh có hơi bất ngờ với tôi, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có phần suồng sã, nhưng với anh thì anh không thể không nói ra nỗi lòng mình. Anh sợ từ nay về sau sẽ không có một cơ hội nào tốt hơn nữa để anh tỏ bày tình cảm với tôi. Anh cũng biết là khi nói ra điều hệ trọng này chắc chắn tôi sẽ từ chối. Nhưng anh mong tôi hãy tha thứ và đừng giận anh về sự tỏ tình đường đột này. Dù sau này tôi có bằng lòng hay không bằng lòng yêu anh thì anh cũng không bao giờ trách cứ hay giận dỗi gì tôi cả. Sau lần ấy anh Lường còn chủ động gặp tôi mấy lần nữa. Những lần sau này tôi không thẳng băng từ chối như lần trước, nhưng cũng không hẳn đã nhận lời anh. Trước tình cảm chân thành của anh tôi thấy tôi như một kẻ đang đứng trước ngã ba đường.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Tư, 2023, 08:50:40 am

Chuyện giữa tôi và anh mới chỉ đến đó mà đã có nhiều người biết, có người bàn ra tính vào. Mấy chị cùng làng khuyên tôi là nên đến với anh Lường ngay đi, đừng để tuột mất cơ hội... ngàn vàng này. Qua cách nhìn nhận, đánh giá của các chị thì anh Lường đúng là mẫu đàn ông lý tưởng mà không phải người phụ nữ nào cũng có cơ may với được. Có chị còn bướm ong hoa lá rằng, mày dại lắm Lan ơi, ôm khư khư gì nỗi đau quá khứ cho thiệt thân, hãy tỉnh ngộ lại đi mà đón chào một ngày mới tươi đẹp với rất nhiều hoa thơm và nắng hồng ở phía trước! Mỗi người một cách nhưng xem ra ai cũng góp ý chân thành. Tôi biết trái tim tôi chưa đến nỗi lạnh băng nên không phải không rung động trước những tình cảm tốt đẹp mà anh Lường đã dành cho tôi. Từ nơi sâu thẳm của lòng mình, tôi biết tôi đã dành một góc nho nhỏ cho riêng anh. Mỗi lần nghĩ đến anh thì chính từ nơi sâu thẳm của trái tim, nơi đã phải chịu đựng sự mất mát ấy lại dấy lên một tình cảm vừa âm thầm vừa mãnh liệt. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn chưa đủ tự tin để cởi mở lòng mình. Có lẽ qua người này người kia bố tôi cũng đã ít nhiều biết được chuyện tình cảm của tôi với anh Lường. Tôi cứ lo sợ bố biết sẽ buồn, nhưng bố không những biết mà còn rất quan tâm và ủng hộ. Tôi nghe anh Lường kể là đã có lần bố tôi ra tận trận địa pháo để gặp anh. Bố gọi anh ra một góc hỏi han anh đủ thứ. Rồi bố nói với anh đại để, “con Lan nó là con dâu tôi nhưng cũng là con gái tôi, vì thế tôi cần phải biết anh là người thế nào”. Sau, bố đổi cách xưng hô, nhẹ nhàng nói với anh, “nếu cháu thực lòng thương yêu con Lan nhà bác và sau này nhất định mang lại hạnh phúc cho nó thì bác sẽ hết lòng vun vén cho hai đứa. Có lẽ bây giờ nó còn ngập ngừng chưa dứt khoát với cháu, lý do gì chắc cháu cũng hiểu... Nhưng rồi bác tin là nó sẽ đồng ý. Cháu hãy kiên trì và chờ đợi”. Nghe anh kể lại, tôi thấy lòng thật bâng khuâng, bộn bề, bố thực sự lo lắng cho hạnh phúc của tôi, có lần bố nói với tôi rất vui vẻ:

- Chuyện giữa con với anh bộ đội bố đã nghe qua, bố rất mừng. Thôi thì con hãy bằng lòng với người ta đi. Cái anh bộ đội tên Lường ấy bố thấy được lắm! Bố nhìn người bố biết. Anh ấy thực lòng thương yêu con đấy, con hãy cho anh ấy một cơ hội. Với lại con cũng đừng quá nặng lòng với chồng con nữa. Hãy vui lên mà đón lấy hạnh phúc đang đến với con. Chồng con dưới suối vàng chắc cũng mong con như vậy. Nếu như nó biết nó sẽ hy sinh thì bố tin lời trăng trối cuối cùng của nó dành cho con là thấy con được hạnh phúc chứ không phải thấy con sống mãi như thế trong khổ đau…

Tôi rơm rớm nước mắt nói với bố:

- Nhưng con không muốn xa bố. Bố đã mất nhà con rồi, bây giờ lại mất thêm con nữa, bố sẽ sống ra sao. Con chỉ muốn cả đời này được ở cạnh bố, được đói no bố con bên nhau thôi.

Bố gạt đi:

- Đi lấy chồng chứ mất cái gì mà mất! Thôi, nghe lời bố đi! Chiều nay thằng Lường nó sẽ đến chơi, liều liệu mà tiếp nó, đừng để nó ra về mặt mày ủ rà ủ rủ bố thấy tội lắm!

Một năm sau tôi và anh Lường tổ chức lễ thành hôn. Nói thì to tát thế chứ lễ cưới của chúng tôi chỉ gọn ghẽ có mấy mâm cơm, còn chủ yếu là bánh kẹo, cau trầu... cốt để chúng tôi chính danh nghĩa vợ chồng và gặp gỡ đôi bên gia đình cô dâu chú rể. Thật buồn cười khi anh chính trị viên đơn vị giới thiệu sự hiện diện của hai gia đình. Tưởng có ai lại hóa ra chỉ có bố tôi, vợ chồng em Vui là đại diện cho nhà gái và mấy anh bộ đội thay mặt đơn vị đại diện cho nhà trai. Khách đến dự chỉ toàn bộ đội và dân quân. Do điều kiện chiến tranh, nên trước đó cả tôi và anh Lường cùng bàn với nhau là không nên mời bố mẹ đẻ hay bất kỳ ai ruột thịt ở ngoài Bắc vào dự lễ cưới. Sau này mọi việc xong xuôi sẽ chỉ báo tin vui. Anh Lường cũng nhất trí với tôi là chỉ tổ chức đơn giản vì điều kiện đang chiến tranh, và với anh chỉ cần chúng tôi vui và hạnh phúc là trên hết.

Sau lễ cưới không lâu thì Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Anh Lường theo đơn vị hành quân vào phía trong. Rồi cứ thế, anh đi một mạch cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng mới trở về. Lúc ấy bé gái của chúng tôi đã gần hai tuổi, cu Sơn đã bước vào lớp bốn. Anh Lường chuyển về công tác ở bộ tư lệnh quân khu với quân hàm trung tá. Hàng tuần cứ vào ngày chủ nhật anh lại về nhà. Anh nói với bố là sau này khi nghỉ hưu anh cũng sẽ ở lại đây. Anh sẽ coi noi đây là quê hương thứ hai của anh. Mấy năm sau nữa, theo nguyện vọng của bố, vợ chồng tôi vào chiến trường Quảng Trị, tìm và cất bốc hài cốt anh Mừng đưa về quê nhà.

Bố tôi năm ấy tròn tám mươi tuổi nhưng vẫn còn khỏe và minh mẫn lắm! Mấy năm nay bố chỉ quẩn quanh ở nhà trông cháu, hoặc đến chơi với mấy ông bạn già trong xóm. Những khi nhớ việc, buồn bã chân tay, bố thường ra bờ ao cho cá ăn. Hoặc cũng có khi bố ra tận ngoài đồng xem lúa má một lúc rồi về. Năm ấy, anh Lường được nghỉ phép, vợ chồng tôi xin phép bố đưa các cháu về thăm quê một chuyến. Nhưng vừa ra đến quê chưa được mấy ngày thì tôi nhận được tin bố tôi đang ốm rất nặng, khả năng không qua khỏi. Chúng tôi vội vã ra bến xe bắt xe để về gấp. Và mãi hơn một ngày sau chúng tôi mới về đến nhà thì lúc đó bố đã trong tình trạng hôn mê. Tôi lao vào ôm lấy bố lay gọi. Thật kỳ lạ, đã mấy ngày bất tỉnh, vậy mà khi tôi cất tiếng gọi thì bố tôi từ từ mở mắt ra nhìn tôi. Lúc ấy ai cũng bảo là bố chỉ chờ tôi về, gặp cho được tôi rồi bố mới đi. Bàn tay bố lần nắm tay tôi. Đôi môi bố mấp máy như còn muốn dặn dò tôi điều gì. Tôi không biết bố nói gì nhưng cũng cứ gật đầu lia lịa với bố như là mình đã nghe rõ. Tôi thấy trên mắt bố hai giọt lệ lăn ra. Rồi chỉ lát sau bố tắt thở. Tôi choàng tay ôm lấy bố, gục đầu trên ngực bố, cả người tôi rung lên theo những tiếng nức nở...


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 02:13:23 pm

MỘT THỜI NÔNG NỔI


Tôi vốn là đứa trẻ ham chơi, nghịch ngợm nhất làng. “Chọc trời khuấy nước mặc dầu. Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Nói như ai đó thì hai câu thơ trên nếu đem ví với tôi thì có tới chín phần tôi lãnh đủ. Học dốt, lại lười học, nên lẹt đẹt mãi tôi mới có được tấm bằng tốt nghiệp phổ thông. Thấy người ta thi đại học, tôi cũng thi. Nhưng kết quả thì đến cái xét tuyển nguyện vọng đợt ba tôi cũng bị loại. Bố tôi - một cựu binh Trường Sơn - thấy thế liền bàn với mẹ tôi cho tôi được đăng ký nghĩa vụ quân sự. Bởi theo như phân tích của bố tôi thì chỉ có môi trường quân đội, dù chỉ hai năm nghĩa vụ, nhưng với kỷ luật thép, may ra mới có thể thuần hóa được những người cứng đầu cứng cổ như tôi. Và thế là tôi nhập ngũ.

Kết thúc khóa huấn luyện, tôi được bổ sung về đơn vị mới. Đó là một đơn vị cơ động đóng quân ngay trong thị xã. Thú thật là tôi đã suýt nhảy cỡn lên khi nghe anh sĩ quan quân lực đọc đến tên tôi được biên chế về đơn vị này. Là người lính mới nhập ngũ, không phải lên rừng xuống biển, được đóng quân ngay ở thành phố, thị xã, thật không có gì vui sướng cho bằng. Cái thị xã tỉnh lỵ này nằm ngay ngã ba sông, quy mô nhỏ nhưng rất đẹp và thơ mộng. Ở đây còn có cả Quốc lộ 1A chạy ngang qua và một trục đường lớn nối thị xã với một thị trấn ở biên giới. Từ đây muốn qua Lào, Thái Lan và mấy nước nữa ven sông Mêkông cũng đi theo con đường này. Còn dòng sông thì quanh năm nước trong xanh thăm thẳm, đứng từ trên một ngôi nhà cao tầng nhìn xuống sẽ thấy dòng sông uốn lượn bao quanh thị xã tựa như một dải lụa hững hờ vắt qua. Thị xã tuy nhỏ, nhưng nhờ mấy năm nay liên tục được nâng cấp, xây mới, nên giờ cũng đã khá sầm uất. Thị xã nhỏ với những đường phố ngang dọc, xe cộ suốt ngày ngược xuôi; những dãy nhà cao tầng, công viên, khách sạn, rạp hát; những đêm đèn điện rực sáng; những buổi chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật; những cuộc ăn chơi, nhậu nhẹt, hát karaoke, cửa hàng internet... Rồi cả những chàng trai, cô gái thị thành ăn mặc sành điệu, má phấn, môi son... Tất cả luôn là sự hấp dẫn đối với tôi một chàng trai nhà quê lần đầu được biết đến phố phường phồn hoa đô hội.

Thời gian đầu khi mới về đơn vị, tôi chấp hành điều lệnh khá nghiêm túc. Đi đâu cũng thể hiện đúng lễ tiết tác phong của một người quân nhân. Mọi công tác của tiểu đội, trung đội giao tôi đều hoàn thành xuất sắc. Trong đơn vị, từ anh cán bộ đến người chiến sĩ chẳng ai chê trách được tôi điều gì. Qua mỗi dịp tổng kết tôi luôn luôn là người được biểu dương, khen ngợi. Ấy vậy mà chỉ sau đó không lâu, cái thị xã nhỏ ấy đã bắt đầu cuốn hút tôi. Ban đầu, tôi chỉ ra phố vào những ngày nghỉ, những lúc có việc thật cần thiết. Hay những lúc mà tiểu đội, trung đội phân công đi làm một việc gì đó. Sau, do quen dần với không khí vui nhộn bên ngoài, nên không cần chờ đến ngày nghỉ, không cần chờ đến đơn vị phân công, tôi vẫn cứ ra phố. Cứ thế rồi thành quen lệ khi nào tôi không hay. Nếu như cái tốt đến với con người chậm, thì thói xấu lại tiêm nhiễm vào con người rất nhanh, với tôi thật quả không sai. Vì quen mà thành nếp khó bỏ, nên mỗi tuần không được dạo qua phố một lượt là tôi lại thấy nhơ nhớ thế nào ấy. Có cảm giác như không được lang thang trên các vỉa hè hay sà vào một cái quán nào đó là tôi cảm thấy bứt rứt trong người, thấy ăn không ngon, ngủ không yên. Trước đây khi ra khỏi doanh trại tôi còn báo cáo, xin phép hẳn hoi và chỉ huy có đồng ý tôi mới dám đi. Còn bây giờ, nhiều lần thấy có cơ hội là tôi lẩn đi. Nhìn trước ngó sau, lấm la lấm lét như thằng ăn trộm, thoắt một cái, tôi đã có mặt ngoài phố rồi. Những chuyện đó tôi chẳng để một ai biết, Bởi tôi thường trốn đơn vị vào những lúc mà không ai để ý, ví như vào buổi trưa, lúc mọi người đang ngủ, hoặc vào buổi tối, khi mà anh em vừa sinh hoạt xong đang túm tụm lại chơi bài “tiến lên”. Thói xấu ăn sâu vào tôi tới mức, tôi nghĩ nếu ai đó biết tôi cũng không sợ, cùng lắm thì chỉ một lời nhắc nhở, chứ ai hơi đâu mà để ý tới những chuyện vặt vãnh ấy. Tôi nghĩ thế và lấy làm an tâm lắm.

Anh Hàn, trung đội trưởng trung đội tôi, một thiếu úy hơn tôi độ chục tuổi, là người quê ở Bắc Ninh, có giọng hát quan họ rất hay. Anh em trong đơn vị đã từng ngất ngây khi nghe anh hát bài “Người ơi người ở đừng về”. Một lần, anh hát xong, cả trung đội vỗ tay rào rào tán thưởng. Riêng tôi, đợi ngớt tiếng vỗ tay thì đứng phắt lên reo to: “Hoan hô trung đội trưởng! Trung đội trưởng hát hay quá! Giá em là con gái, em sẽ yêu trung đội trưởng ngay. Hôm nào trung đội trưởng hát karaoke với em một bài có được không ạ?”. Tôi vừa dứt lời thì cả trung đội cười ồ, làm tôi ngượng chín mặt. Có người còn cho tôi là bất nhã, thiếu lịch thiệp với cấp trên. Còn trung đội trưởng chẳng có ý kiến gì anh chỉ hơi mỉm cười. Mãi hôm sau, nhân tình cờ gặp tôi anh mới gọi tôi vào phòng, nhẹ nhàng bảo: “Này Huy, anh để ý thấy em dạo này có phần sa sút đấy! Tối qua, khi nghe em nói hát karaoke, anh bỗng nhớ ra một việc cần phải nói với em, có phải dạo này em thường ra thị xã hát karaoke đúng không?”. Tôi không một chút gượng gạo mà trả lời luôn: “Dạ, trung đội trưởng nói đúng đấy, em thỉnh thoảng có đi hát karaoke... Nhưng anh Hàn này, hát karaoke thì có hại gì mà anh bảo là sa sút ạ? Bên ngoài người ta công khai làm dịch vụ này cơ mà! Nếu có hại chắc đã cấm từ lâu rồi”. Trung đội trưởng cười rồi nói với tôi rất nhiều điều rằng, không ai bảo hát karaoke là có hại, là sa sút về đạo đức, tác phong. Nhưng hát karaoke trong một chừng mực nào đó cũng ảnh hưởng đến việc học tập, công tác. Vì mình là bộ đội, không phải lúc nào cũng dư dả thời gian để lãng phí vào những việc đó. Hát karaoke rất dễ tạo cho con người một thói quen khó bỏ. Có khi do say mê quá mà quên đi những việc khác. Và sau cùng hát karaoke ít nhiều cũng tốn kém về mặt tiền bạc. Người lính mới nhập ngũ phụ cấp mỗi tháng không được bao nhiêu. Đó là số tiền phải được sử dụng vào những việc thiết thực. Không thể cứ vài ba bữa đã ném sạch vào những trò chơi vô bổ đó để rồi lại ngửa tay xin tiền của bố mẹ. Trung đội trưởng góp ý với tôi là nên hạn chế để rồi dần dần bỏ hẳn thói quen vô bổ ấy. “Mình là quân nhân không nên la cà quán xá làm mất đi vẻ đẹp của người chiến sĩ”. Anh nhẹ nhàng nhắc nhở tôi và anh còn gợi ý nếu như tôi thực sự có khiếu văn nghệ, thì nay mai khi trung đoàn thành lập đội tuyên truyền xung kích, anh sẽ giới thiệu tôi về đó. Cuối cùng, trung đội trưởng chỉ ra những sa sút gần đây của tôi. Đó là những biểu hiện lơ là trong công tác, trong chấp hành điều lệnh, điều lệ quân đội. Anh dẫn ra những bằng chứng cụ thể, như đi chơi không báo cáo, lễ tiết tác phong thiếu nghiêm túc, ăn mặc lôi thôi, tóc tai bù xù... Và đặc biệt gần đây thỉnh thoảng tôi còn tụm năm tụm ba, kể cả với người ngoài đơn vị để rượu chè, nhậu nhẹt. Trung đội trưởng khuyên tôi nên sớm khắc phục những khuyết điểm kể trên khi chưa muộn.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 02:14:03 pm

Thì ra bấy lâu nay tôi làm những gì, đi những đâu, anh đều biết cả. Cảm thấy xấu hổ trước những đánh giá thẳng thắn, chính xác của trung đội trưởng, tôi chỉ còn biết im lặng ngồi nghe mà không thể chối cãi được một lời. Hai thái dương tôi giật giật, mồ hôi rịn ra trên mặt rồi nhỏ giọt lăn dài xuống cổ. Ấy vậy mà ngay sau khi vừa bước chân ra khỏi phòng trung đội trưởng, tôi đã lại hai tay đút túi quần, vừa đi vừa huýt sáo mồm một cách vô tư, bình thản như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Có cảm giác như mọi phê bình, góp ý của trung đội trưởng chẳng đọng lại được tý gì trong tôi. Chả thế mà vừa thoáng thấy cậu Cần, thằng bạn thân nhất của tôi, vác cuốc đi ngang qua, tôi đã “e hèm” một tiếng thật to, rồi ngoắt cậu ta đến gần, đứng chống nạnh mà rằng:

- Chà chà, người anh em tích cực quá nhỉ! Bộ phấn đấu giành cái danh hiệu “chiến sĩ ihi đua” hay sao mà giờ này còn tăng gia hả? - Cần chưa kịp nói gì thì tôi đã “bồi” thêm: - Này, tớ nói cho cậu biết, cậu cũng “tướng một sao” như tớ! Đừng có mà ra vẻ ta đây chơi trội đấy!

Cần chống cuốc đứng nhìn tôi như nhìn một vật lạ, đoạn nheo mắt trả lời:

- Cậu ăn nói gì lạ thế? Sao lại chơi trội? Mình tranh thủ tăng gia cải thiện chứ làm gì mà chơi trội...

Không đợi Cần nói hết câu, tôi đã cắt ngang:

- Ôi dào, cậu thì lúc nào cũng lo bò trắng răng. Thôi, dẹp mẹ nó đi, lại gần đây tớ nói nhỏ chuyện này. - Tôi hạ thấp giọng: - Tối nay thằng bạn ở quán “Thiên Hương” nhắn tớ và cậu ra quán nó làm một chầu “cầy tơ bảy món” với rượu nếp chính hãng. Xong, nó còn đãi chúng mình một chương trình phim truyện đặc sắc của nước ngoài. Cậu biết phim gì không? - Tôi nói gần như thì thầm: - Phim “tình tang” đấy! Đây là cơ hội ngàn năm có một. Không được thưởng thức tiếc lắm! Thế nào, cậu đi cùng tớ chứ?

Cần vác cuốc lên vai, vừa đi vừa trả lời tôi:

- Thế cậu không nhớ tối nay sinh hoạt tiểu đội sao? Mà đi chỉ vì những chuyện nhố nhăng ấy mình không thể đi được. Cậu thích thì cứ việc đi một mình. - Nghĩ sao Cần dừng bước quay lại phía tôi: - Theo mình cậu không nên đi. Mình là bộ đội cần sống cho đàng hoàng. Mà mình cũng nói thật, dạo này cậu khác lắm rồi đấy Huy ạ! Cậu không còn là cậu nữa rồi đấy! Coi chừng hối không kịp đâu!

Tôi ném theo Cần một cái lườm rồi xẵng giọng:

- Thôi, cậu đừng có dạy đời tôi!

Tôi bỏ ngoài tai tất cả mọi lời khuyên ngăn, cảnh báo của Cần. Vậy nên, tối đó tuy vẫn tham gia sinh hoạt tiểu đội, nhưng đầu óc tôi lại để đẩu đâu. Phải ngồi học tập, sinh hoạt, tôi xem như một sự bắt buộc, không được vắng mặt. Chứ nội dung, họp để làm gì, tôi nào có quan tâm. Ai thảo luận, ai tham gia góp ý tôi không cần biết. Cuộc họp càng kéo dài người tôi càng cảm thấy bứt rứt khó chịu. Chốc chốc tôi lại ngước nhìn cái đồng hồ treo trên tường. Tôi chỉ mong sao cho buổi sinh hoạt sớm kết thúc. Thấy anh em thay nhau phát biểu ý kiến, kéo dài thời gian, tôi nhìn chòng chọc vào mặt họ tỏ vẻ bực bội. Trong khi đang mơ mơ, màng màng về những cảnh huống trong bộ phim mà tôi tưởng tượng ra, tôi bỗng giật nảy người khi nghe tiểu đội trưởng nói: “… Tôi xin tổng kết những tồn đọng của tiểu đội ta qua ý kiến phát biểu của các đồng chí. Đó là ý thức chấp hành kỷ luật của một số đồng chí còn yếu. Cụ thể là còn nói tục, đi chơi về khuya, áo bỏ ngoài quần trong giờ hành chính, cá biệt có đồng chí còn uống rượu say, đọc và xem các loại văn hóa phẩm đồi trụy. Các đồng chí cũng đã liên hệ bản thân. Riêng đồng chí Huy, ý kiến của đồng chí thế nào, mời đồng chí phát biểu!”. Tôi đứng dậy ấp a ấp úng: “Vâng, tôi... tôi hoàn toàn nhất trí với... Với ý kiến của tất cả các đồng chí. Riêng phần... liên hệ... bản thân, tôi thấy tôi cũng... cũng ít nhiều mắc phải những... những khuyết điểm như đã nêu trên. Tôi... tôi xin hứa sẽ khắc phục dần!”.

Cuộc họp kéo dài hơn so với dự kiến. Nhìn đồng hồ tôi thấy đã quá muộn. Cho đến lúc tiếng kẻng vang lên báo giờ đi ngủ thì tôi biết là không còn nước non gì nữa. Nằm trong màn tôi cứ tiếc ngơ tiếc ngẩn, cứ hậm hà hậm hực mãi vì đã lỡ để mất một dịp may. Nhưng nhẩm tính tôi thấy vẫn còn cơ hội. Bất quá, buổi sinh hoạt mới chỉ để mất buổi nhậu, mà ăn uống không quan trọng, thời gian xem phim vẫn còn kịp, mà giờ này càng đảm bảo “bí mật”, càng không ai hay biết gì. Nghĩ thế, tôi ngồi dậy, tung chăn ra rồi cuộn tròn lại để thật thẳng thớm vào chính giữa giường. Xong, tôi chui ra khỏi màn, xỏ chân vào đôi giày “cao cổ”, buộc dây thật cẩn thận. Nhìn vào trong màn, qua ánh trăng hắt vào từ cửa sổ, tấm chăn cuộn tròn trông giống như một người đang nằm ngủ. Xung quanh tôi, những tiếng ngáy khe khẽ, đều đều của mọi người đang ngon giấc. Ngó trước ngó sau, tôi nhẹ nhàng đi ra cửa. Rồi đi qua sân. Rồi đi tắt qua mảnh vườn tăng gia của đơn vị. Rồi sau cùng, tôi đu người nhảy tót qua hàng rào kẽm gai. Chỉ mười phút sau tôi đã có mặt tại quán “Thanh Hương”. Đường phố vẫn chan hòa ánh điện. Ô tô, xe máy vẫn tấp nập ngược xuôi. Trai thanh gái lịch vẫn từng đôi, từng đôi, khoác tay nhau dạo phố. Chừng hơn một tiếng sau tôi đã lại có mặt tại đơn vị. Nằm trên giường, tôi khoan khoái rít từng hơi thuốc dài. Tưởng tượng lại những cảnh yêu đương lâm ly, những cảnh làm tình đủ trò, đủ kiểu, những cảnh ghen tuông, chém giết... trong bộ phim vừa xem, tôi như mê muội đi, cảm thấy tự bằng lòng với mình. Tôi tự thấy mình thật chẳng khác gì một hiệp sĩ! Thoắt một cái đã có mặt ngoài phố. Thoắt một cái đã lại có mặt ở nhà. Rồi tôi ngủ thiếp đi. Sáng ra, khi đang hua chân múa tay tập thể dục thì Cần đến bên tôi thì thào. Tôi nghe mà bàng hoàng cả người. Thì ra, đêm qua khi gác xong phiên của mình, Cần vào gọi tôi gác tiếp. Vì sau cậu ta là tôi. Nhưng khi Cần vào chỉ thấy có cài giường không. Biết là tôi đã “vù”, Cần định báo tiểu đội trưởng, nhung nghĩ sao lại thôi, đành gác luôn phiên gác của tôi. Thật hú vía! Cần buồn rầu nói với tôi: “Mình làm thế là bao che việc làm sai trái của đồng đội, tức là khuyết điểm của mình còn nặng hơn cả cậu. – Rồi Cần nói với tôi như van lơn: - Huy ai, từ nay cậu đừng làm thế nữa! Nếu không, cậu sẽ tự mình làm hỏng cuộc đời cậu đấy. Bố mẹ cậu mà biết cậu như thế chắc sẽ buồn lắm!”. Trước những gì Cần vừa nói, tôi chỉ khẻ gật đầu tỏ ra biết lỗi.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 02:15:17 pm

Giá biết nghe lời đồng đội, biết dừng lại đúng lúc thì đã không có chuyện gì xẩy ra với tôi. Và đời lính tráng của tôi, chắc cũng sẽ trôi đi một cách êm đẹp như bao bạn bè, đồng đội khác. Nhưng như ngựa quen đường cũ, tôi vẫn chứng nào tật ấy. Tính vô tổ chức kỷ luật chưa bỏ được. Sau cái đêm bỏ gác trốn đi xem phim, được Cần thương tình giấu đi cho, tôi vẫn thỉnh thoảng trốn đơn vị ra phố chơi. Khi thì lang thang từ phố này qua phố khác, khi thì sà vào một quán karaoke nào đó. Khi thì tôi ngồi nhâm nhi ly cà phê bên góc đường… Tiền phụ cấp hàng tháng của tôi, tiền của mẹ tôi gửi cho được ném cả vào đấy. Có thời gian không một xu dính túi, tôi buộc phải mang quân tư trang của mình ra hiệu cầm đồ. Hết đồ mới thì tôi bán đồ cũ. Vì bán vội bán vàng nên giá rất rẻ. Cuối cùng, vì vừa bán vừa cầm mà tôi suýt nữa không còn có áo quần để thay đổi. Có lần cả hai bộ duy nhất còn lại đều bị ướt, tôi phải mượn áo quần của Cần để mặc tạm. Cần người cao to, mà tôi thì nhỏ bé nên khi mặc áo quần của Cần, nó cứ rộng thùng thình trông rất buồn cười. Những lúc ấy mấy cậu trong tiểu đội lại nhìn tôi thì thào với nhau: “Trông như người trong tranh hài của họa sĩ Nguyễn Nghiêm ấy chúng mày nhỉ!”. Họp tiểu đội, trung đội, tên tôi luôn được nhắc đến. Đặc biệt gần đây, do những sai phạm liên tục trong thời gian vừa qua, trung đội đã dành hẳn một buổi để phê bình, kiểm điểm tôi. Buổi họp có cả cán bộ đại đội xuống dự. Anh cán bộ đại đội người Nghệ An, tính nóng như lửa, cứ một mực đòi đưa tôi ra kỷ luật trước đại đội để làm gương, nhưng nhờ anh Hàn trung đội trưởng nói đỡ cho nên tôi bị kỷ luật với hình thức khiển trách trước trung đội. Tuy vậy, anh cán bộ đại đội vẫn hậm hực mãi. Hình như anh thấy mức kỷ luật dành cho tôi vẫn còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Anh phát biểu, giọng nặng trịch. Tôi có cảm tưởng như mỗi lời anh nói ra là một hòn đá nện xuống đầu tôi. Tôi ngồi im không nhúc nhích, nghe rõ cả tiếng tim mình đập thình thịch. Cuối cùng, anh hạ bớt giọng, nhưng nghe vẫn rất nặng: Chiến sĩ mới mô mà vô tổ chức kỷ luật, muốn răng mần rứa. Không trị đến nơi đến chốn coi chừng hư hỏng. Nhưng hôm ni cứ tạm dừng lại đây. Nếu đồng chí Huy không ăn năn sửa chữa, đơn vị sẽ có biện pháp kỷ luật nặng hơn...”. Tưởng rằng sau những lời phê bình, kỷ luật tôi sẽ thay đổi, nhưng mà tôi đâu có chừa, vẫn chứng nào tật ấy để rồi chuốc vạ vào thân. Sự việc này xảy ra chỉ sau cuộc họp kiểm điểm tôi có vài ngày. Và tôi cũng không ngờ hậu quả của việc tôi làm lại nghiêm trọng đến thế! Chuyện là thế này...

Buổi chiều hôm ấy, tại quán “Thanh Hương” khi tôi đang ngồi uống cà phê thì một chiếc xe tải từ hướng biên giới chạy đến đỗ lại trước cửa quán. Từ trên xe có hai người đàn ông bước xuống. Họ vào quán tìm một góc yên tĩnh rồi gọi chủ quán dọn đồ nhậu. Vừa uống hai người vừa đá mắt sang phía tôi, thì thầm gì đó. Rồi một người đứng dậy đến gần tôi vừa cười vừa nói: “Chào chú em! Nếu quả thật chú em không vội, mời chú em sang bên này với bọn anh cho vui”. Ban đầu tôi kiên quyết từ chối, nhưng anh ta cứ mời mãi, mời mãi, đến nỗi chủ quán quen tôi sốt ruột quá cũng phải nói xen vào. Thấy không thể từ chối được, tôi đành miễn cưỡng sang ngồi. Tôi cũng định bụng là sẽ uống với anh ta một ly rồi đứng dậy ra về. Không ngờ càng uống càng bốc, càng uống càng không thể dứt ra được. Hai người thay nhau vừa rót bia, vừa gắp thức ăn cho tôi, vừa luôn miệng mời mọc có vẻ rất thân tình: “Dùng đi chú em, dùng đi, đừng có ngại. Hồi trước tụi anh cũng từng khoác áo lính như em bây giờ. Em cứ dùng thật thoải mái, hết bọn anh lại gọi”. Thấy thái độ của hai người có vẻ ân cần, vui vẻ, nên tôi rất tự nhiên. Và cũng bởi tự nhiên nên tôi ăn uống không chút e dè, khách sáo. Trong bữa ăn hai người hỏi tôi đủ chuyện. Tôi cũng trả lời họ một cách thẳng thắn, thật thà. Biết tôi là người sống ở thôn quê, bố mẹ làm nông, gia đình khó khăn, hai người có vẻ rất thông cảm. Khi đã ăn uống no nê và nhìn ra bên ngoài thấy trời đã trưa, tôi mới giật mình đứng dậy, vờ thò tay vào túi. Một người thấy vậy bèn vỗ vỗ vào lưng tôi cất giọng khề khà: “Bộ... bộ... em định trả tiền đấy à? Bọn anh có thiếu đâu mà cần tới đồng phụ cấp ít ỏi của em. Mà chú em sao vội về thế? Hôm nay chủ nhật chả lẽ không được nghỉ sao?”. Anh ta ôm tôi, ấn tôi ngồi xuống ghế, tiếp tục rót bia. “Dùng nữa đi chú em, bia ấy mà, nhạt như nước ốc, say sưa gì mà lo!”. Thế là tôi lại tiếp tục uống, tiếp tục ăn. Một người ghé vào tai tôi thì thào: “Lính binh nhì, binh nhất như chú em khổ lắm! Phụ cấp có là bao, mà gia đình, bố mẹ ở xa, lại nghèo, làm sao em có thể thích nghi được với cuộc sống giữa cái cơ chế thị trường khắt khe và bề bộn này. Khi điếu thuốc, khi ly cà phê, biết lấy đâu ra. Rồi thỉnh thoảng cũng phải... tý chút cho đỡ... thèm chứ! Mình cũng là người không lẽ cứ đứng nhìn người ta hưởng thụ sao? Phụ cấp của em thế đáp ứng sao nổi! - Rồi anh ta ghé vào tai tôi nói nhỏ: - Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, thực tình thấy tình cảnh của em, bọn anh cũng thương, định giúp em ít tiền và nhờ em chút việc. Việc này chẳng khó khăn, nguy hiểm gì, chú em chắc làm được. - Anh ta ngửng đầu nhìn quanh rồi lại cúi xuống ghé tai tôi nói tiếp: - Từ đây ra Quốc lộ 1A chỉ còn hơn cây số, mà ở cái ngã ba đằng kia lại có cái trạm kiểm soát liên ngành. Xe nào đi qua đấy cũng đều phải ghé trạm để họ kiểm tra. Nói thật với em, trên xe anh chỉ chở ít củi với mấy thứ hàng lăng nhăng kiếm thêm chút lời nuôi vợ con, chứ chẳng hàng lậu hay hàng cấm gì đâu, nhưng mà họ biết họ bắt đóng thuế cũng hết lời. Anh nhờ em là nhờ thế này, em ăn mặc đàng hoàng, quân hàm quân hiệu chỉnh tề, rồi chỉ việc đứng ở cửa xe anh. Khi qua trạm kiểm soát, nếu họ ra hiệu cho xe dừng lại kiểm tra thì em nói với họ xe chở củi cho đơn vị em. Như thế họ sẽ nể bộ đội mà cho xe đi qua, không cẩn kiểm tra. Xong việc, bọn anh sẽ biếu em vài triệu để em mua gì thì mua”. Tôi nghĩ, “ừ, việc thì đơn giản mà họ cũng đã nói rồi, trên xe họ không có gì, mình giúp họ một tý thôi cũng chả sao. Mà mình cũng đang cần tiền để chuộc lại mấy bộ áo quần. Mình giúp họ, cũng coi như là họ giúp mình, chứ có phải mua chuộc, hối lộ gì mà sợ”. Lúc ấy tôi chỉ biết nghĩ đơn giản như thế, nên vui vẻ nhận lời. Một lát sau, xe nổ máy chuyển bánh. Tôi ra đứng bên cửa xe phóng mắt nhìn về phía trước, nửa lo lắng, nửa hồi hộp. Thế rồi xe đến trạm kiểm soát. Tôi thấy một, rồi hai anh hải quan từ trong vọng gác đi ra. Họ ra hiệu cho xe dừng lại. Nhớ lời dặn của chủ xe, tôi tươi cười, đưa cao tay lên vẫy vẫy. Vừa vẫy, tôi vừa chỉ tay về phía doanh trại quân đội, nơi đơn vị tôi đóng quân. Khi xe tới gần, tôi nói to: “Các đồng chí ơi, đây là xe chở củi cho bộ đội, không có gì đâu!”. Nhưng hai cán bộ hải quan vẫn nghiêm nét mặt, tiếp tục ra hiệu cho xe dừng lại. Nhìn vào trong xe, tôi thấy hai người đàn ông chủ xe mặt biến sắc. Tiếp đó, tôi thấy mấy chiến sĩ kiểm soát quân sự xuất hiện. Nhìn họ, ai cũng đội mũ kêpi, súng ngắn và đeo băng đỏ ở tay. Tôi run lên không hiểu chuyện gì xảy ra. Xe dừng lại. Một anh hải quan bước đến nói với người lái xe: “Tôi biết xe anh thế nào cũng qua đây mà, chứ chả lẽ lại bay qua sông được sao?”. Người lái xe mặt tái xanh tái xám như không còn giọt máu. Anh ta ấp úng nói gì đó với người hải quan tôi nghe không rõ.

Những bó củi trên xe được dỡ xuống. Tôi giật mình khi thấy dưới những bó củi ấy là những kiện thuốc lá ngoại và rất nhiều những đầu vedio, máy tính xách tay, điện thoại di động... do nước ngoài sản xuất được đựng trong những thùng gỗ. Đây là hàng nhập lậu trốn thuế. Chủ xe và tôi cùng được mời vào trạm kiểm soát để lập biên bản. Riêng tôi còn bị kiểm soát quân sự lập thêm một bản riêng. Toàn bộ số hàng nói trên được tịch thu chờ xử lý. Sau đó kiểm soát quân sự đưa tôi về cơ quan thị đội. Đến đây tôi mới vỡ lẽ ra rằng, chiếc ô tô này là của một xí nghiệp nhà nước đã bị lợi dụng nhiều lần vận chuyển hàng lậu từ biên giới về nội địa tiêu thụ. Lần này nhờ được quần chúng cung cấp tin tức nên cả chủ và hàng đã sa lưới pháp luật. Tôi vô tình là người đã thông đồng, tiếp tay cho kẻ buôn lậu, tội ấy cũng không phải là nhẹ. Cơ quan thị đội điện về cho trung đoàn tôi và chỉ sau đó không lâu đã thấy hai vệ binh của trung đoàn có mặt. Họ kỳ giấy nhận người rồi điệu cổ tôi về đơn vị. Tôi tạm thời bị đình chỉ công tác. Quân pháp sư đoàn làm việc với tôi ngay trong chiều hôm đó. Trước cơ quan pháp luật quân đội, tôi có sao nói thế, không giấu giếm một điều gì. Tôi tự dằn vặt đau khổ, thôi thế là hết, lần này thì không ai cứu tôi được nữa rồi. Tôi đã phạm một tội tày đình. Không vào trại kỷ luật thì cũng tước quân tịch đuổi về địa phương… Nhưng mà số tôi cũng còn may. Qua nghiên cứu hồ sơ của hải quan về chủ xe, đối chiếu với lời khai thành khẩn của tôi, xét thấy hành vi của tôi chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, quân pháp sư đoàn giao tôi cho ban chỉ huy trung đoàn xét kỷ luật nội bộ. Nhân dịp này, những sai phạm của tôi từ trước đến nay đều bị phanh phui, kể cả những việc tưởng không ai biết. Trung đoàn đã ký giấy kỷ luật tôi với hình thức cảnh cáo toàn trung đoàn, ghi lý lịch quân nhân, đồng thời thông báo cho địa phương và gia đình cùng biết. Bị tạm giữ ở trung đoàn, chờ đơn vị lên nhận về, tôi suốt ngày ngồi bó gối một chỗ, cơm chẳng muốn ăn, nước chẳng muốn uống. Tôi buồn rầu, ân hận, tôi suy nghĩ về những gì mình đã làm từ trước tới giờ, nước mắt tôi bỗng ứa ra...

Giá mà ngày ấy, sau mỗi lần vấp ngã, được đồng đội nhắc nhở, tôi có nhận thức sâu sắc lỗi của mình, biết khắc phục sửa chữa thì hậu quả này đâu đến nỗi. Nhưng tôi đã lừa dối mọi người, đã phụ lòng tin của anh em. Và hậu quả đến với tôi như vậy là tất yếu. Đó là kỷ niệm đau thương của một thời nông nổi mà suốt đời tôi không bao giờ quên được. Để bây giờ khi đã có trên mười lăm năm trong quân ngũ, và đã là một đại đội trưởng huấn luyện tân binh, những chuyện đã qua không mấy vui ấy, thỉnh thoảng lại ùa về trong tôi. Tôi vẫn thường kể cho các chiến sĩ nghe về câu chuyện nông nổi của một người lính trẻ để lấy đó làm bài học. Nhìn những khuôn mặt thơ ngây, ướt đẫm mồ hôi, sạm màu nắng gió thao trường, tự nhiên tôi có lòng tin rằng các em sẽ không bao giờ có những giây phút nông nổi như tôi ngày nào...


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 02:17:13 pm

TRĂNG LÀNG CÁT


Sau lễ khánh thành cầu Cửa Tùng, Trần Tam không theo đoàn ra Hà Nội ngay mà xin phép được ở lại thêm một thời gian nữa. Nhưng ông không nghỉ tại khách sạn bên bờ bắc mà lững thững một mình xách hành lý đi bộ qua cầu, sang bờ nam, tìm một phòng trọ bình dân ở một làng chài ven biển xin nghỉ lại. Có vẻ như ông rất thông thạo với cái làng chài có tên là làng Cát nằm ở cửa sông này.

Chủ phòng trọ là một cặp vợ chồng người làng Cát, cả hai có lẽ đã suýt soát tuổi bốn mươi. Họ rời làng ra làm dịch vụ nhà nghỉ ở đây khi cầu Cửa Tùng và tuyến đường nối hai huyện ven biển chỉ mới bắt đầu được khởi công xây dựng. Phòng trọ nằm ngay ven đường, tuy chưa lấy gì làm khang trang nhưng rộng rãi, thoáng mát. Đặc biệt ở đây còn có những bãi cát thoai thoải, rợp bóng cây xanh, vừa yên tĩnh vừa trong lành rất hợp với những người tuổi tác như ông. Trần Tam vẫn có thói quen mỗi lần đi công tác, hay đi du lịch, nghỉ mát cùng gia đình, bè bạn, ông thường tìm những phòng trọ bình dân để nghỉ. Với ông, đây không phải là vấn đề tiền bạc mà cái chính là ông không muốn phải giam mình trong bốn bức tường ở những khách sạn cao tầng, rồi lại phải leo lên trèo xuống cầu thang mỗi khi có việc. Đó là chưa kể đến bao nhiêu phiền toái khác mà ông từng được nếm trải. Một phòng trọ bình dân, tất nhiên đừng tồi tàn quá, nhưng đáp ứng được nhu cầu nghỉ ngơi trong một ngày, thậm chí vài ba ngày, một tuần, đối với ông là lý tưởng hơn cả. Ở đó mọi cái đều hài hoà, gần gũi, nó khiến ông luôn luôn được tự do, thoải mái. Ở đó ông còn cảm nhận được mình lúc nào cũng gần gũi với thiên nhiên, trời mây, non nước, tha hồ mà đắm mình trong suy tư và tưởng tượng. Cũng còn một lý do nữa để ông tìm đến phòng trọ bình dân nơi làng Cát này!

Hôm qua, với tư cách là chuyên viên cao cấp ngành cầu đường, được tháp tùng Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải vào công tác, ông đã có một buổi chiều “chơi hết mình” chia vui với đồng bào địa phương khi cây cầu được chính thức đưa vào sử dụng nối đôi bờ nam - bắc dòng sông một thời chia cắt đất nước. Vốn tính trầm lặng, ít bia rượu, vậy mà chiều ấy, Trần Tam đã phải ngà ngà say. Say nhưng tỉnh và vui. Ông ra đứng một mình ở bãi tắm, mặc cho sóng gió vờn trên da thịt để được thư giãn với đất trời và thưởng ngoạn cho hết tất cả những gì mà thiên nhiên đã ưu đãi ban tặng cho miền đất này. Trong ráng chiều, biển Cửa Tùng thật đẹp!

Trên cương vị công tác của mình, Trần Tam đã từng đi nhiều nơi, đã từng đến nhiều bãi biển đẹp của đất nước, nhưng ông đặc biệt yêu thích vẻ đẹp hoang sơ ở đây. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời, biển cả, không cần lắm sự bài trí, sắp đặt của con người. Một vẻ đẹp thuần khiết, trắng trong, tựa như vẻ đẹp của người con gái vừa bước vào độ tuổi trăng tròn. Cảm thấy chưa hài lòng trước những gì mình muốn, Trần Tam đã mấy lần qua lại hai bên bờ sông để được ngắm nhìn cây cầu từ nhiều góc độ khác nhau. Quả là một cây cầu tuyệt vời tọa lạc ngay bên cửa biển. Có lẽ, trên đất nước này, ở mọi con sông, chưa từng có một cây cầu nào lại gần với biển, sát với biển như cây cầu này. Với con mắt của một kỹ sư có thâm niên hàng chục năm lăn lộn trong ngành cầu đường, ông nhận ra cầu Cửa Tùng là một cây cầu vừa vững chắc vừa duyên dáng bởi những đường nét cấu trúc hết sức đặc biệt. Trong ánh bình minh khi mặt trời vừa ló rạng, cây cầu hiện ra cong cong như một nét vẽ trên vành mi thiếu nữ. Cũng có lúc Trần Tam lại thấy cây cầu nghiêng nghiêng như một mảnh trăng bên cửa biển. Ấy là lúc hoàng hôn mới chỉ kịp buông xuống, mặt biển còn trong cảnh tranh tối tranh sáng, trăng còn trốn đâu đó trong những đám mây chưa vội ló ra.

Ngắm nhìn cây cầu, nghĩ về vầng trăng, ông lại nhớ đến Nguyệt, cô du kích làng Cát năm xưa. Ừ, mới đó mà đã mấy chục năm trôi qua. Thời gian thật quả như người ta nói, chẳng chờ đợi ai bao giờ. Không biết bây giờ Nguyệt có còn ở làng Cát không? Cô ấy sẽ vui mừng đến mức nào khi mơ ước của cô ngày xưa bây giờ đã trở thành hiện thực. Một cây cầu hiện đại, đẹp như một công trình nghệ thuật đã vắt mình sang sông, đã sừng sững tọa lạc ngay chính tại quê hương làng Cát của cô. Trần Tam còn nhớ trong một lần bị thương, phải rời làng Cát sang bờ bắc, khi chèo thuyền đưa ông qua quãng sông này, Nguyệt đã từng mơ ước: “Anh Tam ơi, sau này nước nhà thống nhất em mong sẽ có một cây cầu thật to, thật đẹp bắc qua cửa sông này. Ngày ấy, khi vào thăm quê em, các anh sẽ chẳng phải qua sông khổ cực như bây giờ nữa đâu và em sẽ gặp lại anh”. Hôm đó ông đã trả lời Nguyệt rằng, chẳng phải đợi đến ngày nước nhà thống nhất đâu, mà chỉ một thời gian rất ngắn thôi, khi lành vết thương, ông sẽ trở lại làng Cát, sẽ gặp lại Nguyệt. Nào ngờ từ ngày ấy đến nay coi như biền biệt.

Đêm ở làng Cát thật yên tĩnh. Một sự yên tĩnh không phải dễ dàng tìm thấy ở nơi cửa biển được xem là vùng đất đang trỗi dậy thay da đổi thịt từng ngày với cơ man nào là nhà hàng, khách sạn, dịch vụ du lịch giải trí; rồi bến cảng, âu thuyền, khu chế biến thuỷ hải sản... đang đua nhau mọc lên như nấm. Ở đây, ven ngôi làng nhỏ này chỉ có tiếng sóng biển là lúc nào cũng ầm ào, lúc nào cũng trầm trầm, bổng bổng không một phút giây ngơi nghỉ. Càng về khuya tiếng sóng càng dạt dào, sâu thẳm. Rồi gió. Gió mênh mang, phóng túng. Gió tạo nên những bản nhạc thiên nhiên réo rắt, vi vu trên những ngọn cây khắp đồi cát ven biển. Ánh trăng ở đây cũng như sáng hơn, trong hơn. Mặt cát phẳng lỳ nhấp nhánh ánh trăng lan toả. Biển cũng sáng, sáng như đang được thêu dệt bởi hàng triệu triệu chuỗi đăng-ten trên mặt sóng và kéo dài cho đến hết tầm mắt. Đất trời, non nước, trăng sao như được hoà làm một, lẫn vào nhau, tạo nên một thiên nhiên làng Cát đầy quyến rũ.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 02:17:46 pm

Trần Tam rời phòng trọ lững thững thả bộ ra bãi cát ven biển. Cát lạo xạo, mát lạnh dưới chân. Ông dừng lại và ngồi xuống cạnh một gốc dương liễu. Rồi, như một thói quen vốn có từ những ngày trai trẻ, khi còn làm lính đặc công ém quân chờ lệnh nổ súng, ông đưa mắt nhìn quanh như đang quan sát trận địa. Trong đêm trăng, nơi làng chài ven biển này, dù vạn vật đã thay đổi, dù thời gian đã trôi qua, dù tất cả đang chỉ là mờ mờ, ảo ảo trong ánh trăng thanh, Trần Tam vẫn dễ dàng nhận ra tất cả. Phía nào là làng Thuỷ Bạn, Nhĩ Hạ, Lâm Xuân, Mai Xá... phía nào là sông Hiếu và cảng Cửa Việt. Rồi nơi nào là chỗ trú quân ở Cang Dán trong một đêm mưa tầm tã hành quân chặn địch lấn chiếm vùng giải phóng. Cái cồn cát như quả núi đang bồng bềnh trong trăng kia chính là nơi lần đầu ông gặp Nguyệt, cô du kích làng Cát được ban chỉ huy xã đội giao nhiệm vụ làm giao liên dẫn đường cho bộ đội.

Nguyệt hai hai tuổi, người mảnh mai, duyên dáng. Con gái làng biển mười cô như chục không một cô nào có được nước da mịn màng, trắng trẻo, thứ nước da mà tạo hoá vốn ưu ái chỉ dành riêng cho các cô gái. Hình như ngay từ thuở mới lọt lòng mẹ, người con gái vùng biển ai ai cũng hít thở vị mặn của muối, mùi đắng chát, lam lũ, nhọc nhằn của mồ hôi cha, của nước mắt mẹ nên nước da cô nào cũng đầm đậm, ngăm ngăm, thứ nước da khoẻ khoắn, dãi gió dầm mưa, thứ nước da như lúc nào cũng sẵn sàng lấn át mọi ốm đau, bệnh tật. Nguyệt cũng có một nước da như thế trên một khuôn mặt hình trái xoan. Nhưng mặt Nguyệt lại đẹp ở đôi mắt, một đôi mắt đen lay láy; đẹp ở cặp môi, một cặp môi ươn ướt; đẹp ở mái tóc, một mái tóc rất dày. Trên khuôn mặt ấy còn đẹp ở hàm răng trắng đều, ở nụ cười như lúc nào cũng muốn san sẻ hết niềm vui cho tất cả mọi người. Như bất cứ cô du kích nào ở mặt trận, Nguyệt cũng dép cao su chéo quai sau gót, cũng mũ tai bèo màu xanh, thêm một tấm vải dù màu xanh - chiến lợi phẩm thu được của địch - khoác trên người. Rồi cũng áo bà ba màu đen, quần lụa đen, lúc nào cũng xắn ngang gối. Ra trận thì chỉ thích được mang cạcbin vừa nhẹ vừa gọn. Sau này có AK thì cô nào cũng tranh cho bằng được khẩu báng xếp. Khi gặp con trai, nhất là các chàng lính trẻ vừa từ Bắc vô thì rủ nhau tụm năm tụm ba lại làm bộ bắt nạt, tán tỉnh, rồi thì nghịch ngợm gán ghép, trêu chọc, cấu véo nhau chí choé.

Nhà Nguyệt ở ngay đầu làng Cát, một căn nhà chỉ như cái lán nhỏ vừa dựng lên sau ngày bọn giặc ở đây bị ta đánh cho tơi tả buộc phải tháo chạy về bên kia Dốc Miếu. Nghe đâu hồi ấy Nguyệt suốt ngày chỉ làm mỗi một việc: chèo đò. Bến đò ấy nằm ngay ở cửa biển, là một trong ba cái bến đò trên quãng sông này hoạt động suốt ngày đêm có nhiệm vụ đưa đón bộ đội, thương binh, tử sĩ... qua lại đôi bờ dòng sông này. Hôm Trần Tam gặp Nguyệt thì cô không còn chèo đò nữa mà đã chuyển sang một công tác khác. Cánh lính nhà ta khi có dịp qua đây không ai là không được nghe một vài mẩu chuyện về cô du kích chèo đò có tên là Nguyệt. Trần Tam cũng được nghe và cứ thấp thỏm mong được gặp Nguyệt, được tận mắt nhìn thấy cô du kích chèo đò dũng cảm năm xưa. Nghe đâu Nguyệt đã có cả thảy gần bảy trăm ngày đêm với trên bảy mươi nghìn chuyến đò đưa đón bộ đội, du kích qua lại nơi đây trong tiếng gầm rú bắn phá dữ dội của các loại máy bay, tàu chiến địch. Nguyệt đã phải hơn mười lần bị thương trong khi làm nhiệm vụ chèo đò.

Trần Tam đứng lên đi về phía cồn cát. Trăng đã lên ngang đỉnh đầu. Ánh trăng như nước vỡ bờ tràn trề, lênh láng khắp nơi. Cái cồn cát bỗng chốc sáng bừng lên như ban ngày. Những hạt cát ly ty thấm đẫm ánh trăng cũng óng ánh như kim tuyến, thuỷ ngân. Đây rồi, đúng chỗ này... Đêm ấy trăng cũng sáng như đêm nay. Chỉ có khác trăng đêm nay là một đêm trăng thanh bình, yên ả, một đêm trăng ngọt ngào, tinh khiết, còn trăng đêm ấy lại là một đêm trăng lẫn trong khói súng, khói bom, lẫn trong vô vàn tiếng nổ, lẫn trong nhì nhoằng tia chớp dọc ngang như muốn xé rách bầu trời của bom đạn. Ánh trăng đêm ấy như cũng chao đảo, rung rinh tưởng có thể rơi rụng không tồn tại nữa. Khẩu đội DKZ do Trần Tam chỉ huy vừa vượt sông Bến Hải vào đây chưa kịp nghỉ ngơi đã được lệnh ém sẵn bên cồn cát này ngay từ chập tối. Lúc ấy trăng mới chỉ lấp ló trên ngọn cây, ánh trăng mới chỉ quét một vệt sáng nhờ nhờ trên mặt cát. Nhiệm vụ của ông và đồng đội lần này là phải bằng mọi giá tiêu diệt cho được chiếc tàu chở dầu của địch từ Đông Hà ra Cửa Việt. Đây là mệnh lệnh từ chính Tư lệnh bộ chỉ huy mặt trận. Đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua. Nhìn ông trăng tròn vành vạnh càng lúc càng thấp dần về phía tây mà ai cũng hồi hộp, nom nớp, đứng ngồi không yên. Ai cũng tự hỏi sao giờ này rồi mà giao liên chưa có mặt? Rồi có những ý kiến cho rằng đánh tàu địch sao không đánh vào những đêm không trăng mà lại nhằm ngay vào đêm nay, một đêm trăng rất sáng, sáng như ban ngày? Cuối cùng thì người giao liên cũng xuất hiện. Người đó không ai khác là Nguyệt, cô du kích chèo đò một thời tiếng tăm lừng lẫy, người mà cả khẩu đội ai ai cũng khát khao muốn gặp, muốn được bắt chuyện làm quen và nếu có thể còn muốn được... trêu chọc, tán tỉnh nữa. Nhưng tất cả đã diễn ra ngoài dự kiến. Bằng một thái độ dửng dưng, có vẻ hơi lạnh lùng, Nguyệt giới thiệu qua về mình, trình bày tóm tắt phương án tác chiến rồi nhanh chóng ra hiệu cho cả khẩu đội đi theo mình sau khi đã hỏi một câu, giọng lạnh tanh: “Có ai có ý kiến gì nữa không?”. Đó là lần đầu tiên Trần Tam gặp Nguyệt. Gặp mà không được nhìn ngắm, không được chuyện trò. Nhiệm vụ diễn ra quá cấp bách, thời gian phải tính từng phút từng giây. Vả lại, cô du kích làng Cát coi nhỏ con vậy thôi, hiền hiền vậy thôi chứ nghiêm khắc, kỹ tính và rắn lắm! Cả khẩu đội lúc ấy chỉ còn biết làm mỗi một việc là răm rắp nghe theo. Là con nhà lính, lại là lính “đặc biệt tinh nhuệ”, Trần Tam rất hiểu cái khái niệm “chấp hành mệnh lệnh” nó có ý nghĩa thế nào với người lính, nhất là người lính ở chiến trường. Mệnh lệnh của người giao liên lúc này quan trọng không kém mệnh lệnh của người chỉ huy. Mà trong một chừng mực nào đó nó còn quan trọng hơn cả lệnh của chỉ huy. Cả khẩu đội bốn người bước thấp bước cao, lầm lũi theo Nguyệt. Không một tiếng chuyện trò, xuýt xoa. Không một tiếng thở dài. Không một cái đập muỗi... Tất cả cứ thế mà đi. Đi theo cái bóng nhỏ nhỏ, thương thương của cô du kích làng Cát.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Tư, 2023, 02:18:39 pm

Trần Tam quay trở lại nhà trọ. Không biết lúc này nước biển đang xuống hay đang lên nhưng trăng thì đã chếch hẳn về phía tây. Đôi bờ cầu Cửa Tùng ánh điện vẫn như sao sa, rực rỡ một góc trời. Tiếng sóng biển nghe có vẻ như trầm lắng hơn, xa ngái hơn. Vợ chồng người chủ phòng trọ vẫn mải miết làm gì đó bên cái giếng khoan. Trần Tam ngả người xuống tấm đệm muốn ngủ một giấc nhưng không tài nào chợp mắt được. Có lẽ ở một người tuổi tác như ông phải khó khăn lắm mới dỗ được giấc ngủ. Huống hồ đây lại là đêm xa nhà, hơn thế, lại là đêm đầu tiên trở lại với cảnh cũ với bao kỷ niệm thời chiến. Ông lại nhớ tới cô du kích làng Cát năm xưa, nhớ lại cái trận đánh tàu địch trên sông Cửa Việt. Trận ấy ông và đồng đội đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, bởi không chỉ chiếc tàu chở dầu bị bắn cháy mà cùng với nó còn có một chiếc tàu khác bị bắn hạ. Hai cột lửa bốc cao giữa lòng sông trong một đêm trăng vằng vặc, tất cả những người trong đội Trần Tam sung sướng không sao tả được! Sau này khi có dịp ngồi kiểm điểm lại trận đánh, Trần Tam mới vỡ lẽ ra rằng chính Nguyệt là người đã có sáng kiến đề xuất với bộ chỉ huy mặt trận cho tập kích tàu địch vào đúng cái đêm trăng ấy. Bởi theo cô đó là thời điểm mà bọn địch sơ hở nhất, ít ngờ tới nhất. Trận đánh thắng lợi, kẻ địch tổn thất nặng nề nhưng ta cũng phải trả một cái giá không nhỏ, một người hy sinh và một người bị thương. Người bị thương không ai khác mà chính là Trần Tam. Vết thương không nặng lắm nhưng oắi oăm thay nó lại trúng ngay vào bắp chân nên thật khó có thể một mình đi lại được. Còn lại ba người lành lặn với một tử sĩ, một thương binh, một khẩu DKZ và mấy khẩu tiểu liên. Đi vào đã khó, bây giờ đi ra lại càng khó hơn. Phải làm sao rút ra an toàn trước lúc trời sáng. Đây là địa bàn đang nằm trong thế cài răng lược giữa ta và địch nên không thể chủ quan, sơ suất. Mang vác, đi đứng thế nào đây? Bàn bạc một lúc rồi mọi người cũng tìm được cách khắc phục. Hai người khoẻ có nhiệm vụ cáng tử sĩ. Cho thêm vào cáng khẩu DKZ. Có nặng một tý nhưng vẫn cáng tốt. Trần Tam bị thương chịu khó khoác thêm vào người khẩu tiểu liên sẽ được Nguyệt dìu đi, thế là ổn. Nói thì dễ, nhưng khi đi mới thấy khó khăn làm sao! Dù đã được băng bó kỹ càng, nhưng vết thương vẫn rỉ máu. Mỗi bước đi là đau nhức không sao chịu nổi. Trần Tam vẫn bám vào Nguyệt, nghiến răng lại mà bước. Nguyệt cũng chẳng thảnh thơi gì, trên người đã lỉnh kỉnh đủ thứ lại phải dìu, phải đỡ Trần Tam nên mệt rã người. Đi được chừng vài cây số thì Trần Tam không sao bước nổi nữa. Cả vành băng quanh bắp chân máu đã thấm ra ướt đẫm. Hai người cáng tử sĩ đã vượt lên phía trước rất xa. Nguyệt phải băng lại vết thương cho Trần Tam rồi mới tiếp tục lên đường. Nhưng Trần Tam đã không sao bước được nữa. Phải làm thế nào đây? Không lẽ bỏ Trần Tam ở lại một mình để Nguyệt băng lên phía trước tìm sự chi viện? Như thế sẽ không kịp, sẽ nguy hiểm cho Trần Tam. Cuối cùng, không còn cách nào hơn Nguyệt đành đưa ra phương án là Trần Tam phải chấp nhận để Nguyệt cõng. Sau một lúc chần chừ, miễn cưỡng, Trần Tam cũng phải đồng ý để cho Nguyệt cõng mình. Cô du kích coi nhỏ bé, gầy gò vậy mà thật khoẻ. Cõng thương binh đã đủ mệt, thế mà còn phải mang theo bao nhiêu thứ trên người.

Không biết làm cách nào mà Nguyệt lại có thể đi được, lại có thể bước được những bước nặng nề như vậy trên mặt cát. Có lẽ Nguyệt đã phải cố gắng lắm và trong cô còn có một sức mạnh vô hình nào đó mới cáng đáng nổi! Cùng với sự nỗ lực và ý chí, ròng rã mấy giờ liền, Nguyệt đã cõng Trần Tam trên lưng mình. Bóng hai người nghiêng ngả đổ dài trên cát.

Vợ chồng người chủ phòng trọ vẫn mải miết làm gì đó bên cái giếng khoan. Có vẻ như họ rất bận bịu với công việc của mình. Từ lúc đến đây Trần Tam để ý thấy họ chẳng lúc nào ngơi tay. Cặp vợ chồng này trông cũng khá đẹp đôi, chỉ tội cái nước da hơi đen. Và cả vợ lẫn chồng ai cũng nhanh nhẹn, tháo vát, mồm miệng xởi lởi. Đã mấy lần ông định gặp họ hỏi han đôi điều nhưng xem ra cả hai chẳng lúc nào rảnh rỗi. Bây giờ không ngủ được Trần Tam lại muốn tìm đến chuyện trò với họ. Thì ra cặp vợ chồng này đang tranh thủ làm mắm. “Tụi con tranh thủ làm thêm. Dân miền biển mà không tận dụng lúc cá được mùa giá rẻ làm vài chum mắm để đấy là sai sách chú à!” - người vợ nhanh nhẩu nói với Trần Tam vậy. Đắn đo một lúc rồi Trần Tam cũng hỏi họ về Nguyệt. Họ nói rằng ở làng Cát này có tới ba người phụ nữ cùng tên Nguyệt, cả ba đều sàn sàn tuổi nhau và trước đây ai cũng từng là du kích chiến đấu rất dũng cảm.

- Chú muốn hỏi về cô Nguyệt một thời chèo đò và làm giao liên?...

Cả hai bỗng dừng tay nhìn ông:

- Chú quen cô Nguyệt đó à?

- Ừ, hồi chiến tranh chú đóng quân ở đây nên chú quen cô ấy.

- Và bây giờ chú muốn tìm thăm lại cô ấy?

- Ừ! Các cháu có biết cô ấy không?

Cô vợ nhìn chồng tủm tỉm cười rồi quay lại phía Trần Tam nói với ông có vẻ rất phấn khởi:

- Không những biết mà cô Nguyệt đó còn là người thân của vợ chồng cháu, vì... Vì cô ấy là mẹ cháu mà chú!

- Mẹ của cháu? - Trần Tam sửng sốt.

- Dạ!

Trần Tam gần như reo lên:

- Trời, sao lại có sự trùng hợp này? Thế từ ấy đến nay mẹ cháu làm gì và giờ thế nào?

- Dạ, sau giải phóng, mẹ cháu làm việc ở xã, rồi được điều lên huyện, lên tỉnh công tác ở hội phụ nữ. Cách đây mấy năm mẹ cháu nghỉ hưu... - Cô gái nói đến đó thì dừng lại không nói nữa, vẻ mặt trở nên buồn rầu, trầm lặng.

- Mẹ cháu có khoẻ không? - Trần Tam sốt sắng hỏi.

Phải một lúc sau cô gái mới trả lời, giọng run run:

- Mẹ cháu ốm nặng và mất được nửa năm nay rồi chú ạ!

- Trời! - Trần Tam kêu lên. - Vậy mà chú cứ đinh ninh rằng lần này chú sẽ gặp lại mẹ cháu!

- Dạ! Giá mà mẹ cháu còn sống chắc mẹ cháu sẽ mừng lắm khi có chú vào thăm. Nay, mẹ cháu không còn nữa chú sẽ là khách quý của vợ chồng cháu. Tên cháu là Hằng Nga!

Bấy giờ Trần Tam mới nhìn kỹ khuôn mặt cô gái. Ừ, Hằng Nga cũng có khuôn mặt hao hao giống Nguyệt. Nhất là ở đôi mắt, một đôi mắt đen lay láy không thể lẫn với ai. Nhìn Hằng Nga ông có cảm giác như thấy Nguyệt đang đứng trước mặt mình. Và cả cái tên của con gái Nguyệt nữa. Hằng Nga! Tên ấy cũng có nghĩa là vầng trăng.

Trần Tam quay trở lại phòng ngủ. Ông nằm xuống nhưng chỉ một lát lại ngồi dậy. Ông biết chắc chắn rằng đêm nay ông sẽ không ngủ được, không thể nào ngủ được. Đêm ở làng Cát có quá nhiều những tình cảm buồn vui lẫn lộn đang dập dồn ùa đến làm rung động, xao xuyến cõi lòng ông lúc này. Thôi thì hãy thức trọn một đêm nay với làng Cát. Hãy thức trọn với những ký ức của quá khứ và của cả những gì đang đến. Trần Tam mở cửa bước ra bên ngoài. Trên đầu ông là cả một trời đầy sao. Và trăng. Lạ chưa! Trăng đã chếch hẳn về hướng tây mà ánh trăng vẫn lung linh tỏa sáng, vẫn bát ngát, mênh mông...


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2023, 08:14:36 am

ĐÊM – MIỀN BIÊN ẢI


Tiệc rượu kéo dài tới mười một giờ khuya vẫn chưa kết thúc. Năm Tuấn ngồi ở mũi thuyền ngắm nhìn những khuôn mặt xung quanh qua ánh sáng nhợt nhạt hắt ra từ một ngọn nến lớn. Sông Hậu về đêm, nơi tiếp giáp với đất bạn Campuchia phong cảnh thật thanh bình, yên ả. Có lẽ, chỉ có tiếng gió lao xao trên ngọn cây ven bờ và tiếng sóng dập dìu, eo óc dưới mạn thuyền lúc này là những thứ âm thanh nghe rõ hơn tất cả. Một phần vì phải ngồi ô tô trên một chặng đường ngót nghét cả nghìn cây số để vào đây, một phần vì chất men đã bắt đầu ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng nên Năm Tuấn đã cảm thấy rất mệt. Nhưng chả nhẽ chỉ vì thế mà đánh bài chuồn, bỏ dở một cuộc vui mà người ta tổ chức ra chỉ để mừng cho mình, một cựu chiến binh vào thăm lại chiến trường xưa. Thôi thì hãy cố gắng ngồi lại một lúc nữa với những con người tốt bụng để vừa nhâm nhi vừa trò chuyện. Năm Tuấn tự đặt ra cho mình một điều kiện là phải uống vừa phải, nói vừa phải, để luôn luôn giữ cho mình một tâm trí tỉnh táo, một phong độ chững chạc.

Một người nữa vừa bước xuống thuyền. Đó là một người đàn ông trạc độ năm lăm tuổi. Ông ta chào chung tất cả mọi người một câu rồi ngồi xuống khoang thuyền, hai chân xếp bằng lại, mặt hướng về Năm Tuấn. Thái độ của ông ta có vẻ rất tự tin. Sau khi đã uống cạn ly rượu từ tay chủ nhà trao, ông ta mới nhìn chằm chằm vào mặt Năm Tuấn lên tiếng: “Hồi chiều tui có nghe nói anh vừa ở quê vô nhưng vì bận công việc giờ mới tới thăm anh được. Chà, trông anh chẳng khác xưa là mấy. Ta uống với nhau một ly mừng cho cuộc gặp gỡ này nhé!”. Nói rồi người đàn ông nâng ly rượu lên hướng về phía Năm Tuấn. Anh cũng không ngần ngại nâng ly rượu lên hướng về phía ông ta. Mọi cặp mắt đổ dồn về phía anh. Hai người chạm ly. Chạm xong, người đàn ông ngửa cổ uống ực một cái. Còn Năm Tuấn, anh vẫn giữ nguyên ly rượu trong tay. Sở dĩ anh chưa uống vì anh chưa nhớ ra người đàn ông này là ai? Thật lạ! Trong số những người có mặt hôm nay, dù thời gian đã lùi lại phía sau khá xa; dù tuổi tác, nét mặt của mỗi người đã thay đổi đi ít nhiều, ấy thế mà khi gặp lại họ, anh đều nhận ra tất cả. Còn riêng với người này sao nghĩ mãi Năm Tuấn vẫn không thể nhớ ra. Hay ông ta đã nhầm anh với một người nào đó? - “Tui là Đỏm, Hai Đỏm đây! - Người đàn ông lại lên tiếng. - Còn anh, anh là Năm Tuấn đúng không? Anh còn nhớ cách đây mấy mươi năm trước tại bờ sông Bình Di…”. Người đàn ông nói đến đó thì dừng lại không nói nữa. Còn Năm Tuấn, chỉ trong một tích tắc, sau khi người đàn ông tự giới thiệu tên mình, anh cũng đã nhớ ra ông ta là ai và đã gặp ông ta trong hoàn cảnh nào. “Anh thấy nơi này giờ khác xưa nhiều không?”. Người có tên là Đỏm lại lên tiếng. Năm Tuấn không trả lời anh ta mà chỉ khẻ gật đầu. Cái gật đầu như muốn nói rằng, tất cả đã thay đổi, cả anh cũng thay đổi, cả tôi cũng thay đổi. Thay đổi rất nhiều so với ngày ấy.

Tiệc rượu càng về khuya càng trở nên rôm rả. Đã lâu lắm rồi Năm Tuấn mới được sống lại cái không khí ồn ào, náo nhiệt nơi vùng biên cương sông nước này cùng cái tư chất phóng khoáng, chơi hết mình của người dân Nam Bộ mà anh từng một thời nếm trải. Chỉ có khác là hồi đó những người có mặt hôm nay, từ anh Năm Bủng, đến Hai Đỏm… và cả anh nữa đều còn đang rất trẻ. Nay, ai cũng lù xù, đầu ahi thứ tóc. Mặt mũi thì chân chim, chân gà chồng chéo ngang dọc. Chả trách cả chủ lẫn khách gặp nhau mà chả nhận ra nhau. Được cái tửu lượng thì ai cũng dồi dào, hăng hái còn hơn cả thời trai trẻ. Hết ly này tới ly khác, hết chai này tới chai khác mà cuộc vui vẫn chưa chịu tàn. Năm Tuấn đã thực sự thấm mệt nên cũng chỉ nâng lên hạ xuống cái ly cho phải phép. Anh nhâm nhi lát xoài tươi vằm nhỏ dằm nước mắm ngồi nghe Năm Bủng ca vọng cổ, đợi giải tán, rồi lăn ra khoang thuyền ngủ lúc nào không hay. Tỉnh lại mới biết là mọi người đã ra về từ lúc nào. Chỉ còn lại anh và gia đình người chủ thuyền. Họ móc mùng, lót gối, đắp mền cho anh lúc nào anh cũng chả biết. Thế mới biết ngấm rượu là ngủ say như chết, ngủ như không còn biết trời đất là gì. Nhưng tỉnh rượu mới là điều lạ lùng. Tỉnh vô cùng, tỉnh không thể nào ngủ lại được nữa. Chả biết người khác có vậy không, chớ Năm Tuấn là thế. Cả lúc này cũng vậy, dù đầu óc vẫn quay cuồng, nôn nao, dù con thuyền đang tròng trành, lắc lư êm ái, anh vẫn không sao ngủ lại được nữa. Thiệt giống hệt cái đêm cách đây mấy mươi năm trước. Năm Tuấn bỗng nhớ tới Hai Đỏm và câu nói nửa chừng của anh ta. Anh biết Hai Đỏm nhắc tên con sông ấy không phải chỉ để Năm Tuấn nhận ra anh ta mà cái chính là muốn Năm Tuấn nhớ tới một chuyện xảy ra đã lâu. Mà chuyện ấy thì có lẽ cả anh và Hai Đỏm không ai là không nhớ.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2023, 08:15:10 am

... Những ngày gần cuối năm bảy lăm, lúc miền Nam vừa mới giải phóng và biên giới Việt Nam - Campuchia đang thực sự trở nên nóng bỏng bởi cuộc chiến tranh do bè lũ Pônpốt gây ra. Trong một đêm giữa cái lán dã chiến nơi vùng biên ải, sau một ngày cùng đồng đội chống trả quyết liệt với các đợt tấn công của địch, đã rất khuya mà Năm Tuấn vẫn không sao ngủ được. Anh cứ trằn trọc, thao thức, hết trở mình bên này lại lật mình sang bên kia bởi một câu hỏi cứ lặp đi lặp lại trong đầu. Vì sao những quả đạn pháo của bọn Pônpốt từ tít tận bên kia biên giới bắn sang lại rơi rất chính xác vào trận địa chốt của bộ đội ta? Bọn này dù có tài đến mấy cũng không thể bắn trúng mục tiêu một cách tuyệt đối như vậy được. Phải chăng có ai đó sống trong khu vực biên phòng này đã làm gián điệp điều chỉnh pháo cho chúng? Sau một hồi suy nghĩ, Năm Tuấn cho rằng đây không còn là một câu hỏi, hay đơn thuần chỉ là một mối nghi ngờ nữa mà đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng cần nghiêm túc điều tra làm rõ. Chắc chắn có ai đó đã làm việc này! Năm Tuấn khẳng định lại một lần nữa. Nhưng kẻ đó là ai, ở đâu, thì tất cả vẫn chỉ là bóng đêm bao phủ trước mắt anh. Năm Tuấn cố vắt óc ra để suy nghĩ, tìm tòi. Vậy rồi anh nghĩ tới một người. Đó là người đàn ông vừa vượt biên từ Campuchia trở về Việt Nam cách đây không lâu. Các chiến sĩ biên phòng đã bắt được anh ta trong một đêm tuần tra biên giới. Anh ta trạc độ ba mươi tuổi. Lúc bị bắt mặt mày anh ta phờ phạc, hốc hác; áo quần thì rách nát, bẩn thỉu. Người đàn ông tự khai là Cang, Việt kiều ở Campuchia. Anh ta nói rằng, anh ta theo gia đình sang bên ấy sinh sống từ trước năm một chín bảy lăm. Nay, ở Campuchia bọn Pônpốt đang thi hành chính sách diệt chủng, tàn sát đẫm máu đồng bào Khơme và Việt kiều ta. Anh ta sợ quá nên tìm cách trốn về nước. Năm Tuấn tự hỏi, liệu Cang trở về Việt Nam có đúng như anh ta khai không hay nhằm mục đích gì khác? Có thể những điều anh ta nói chỉ là dối trá để nhằm che đậy con người thật của anh ta chăng? Cả đêm ấy Năm Tuấn đã gần như thức trắng cho đến sáng. Lúc nào trước mắt anh cũng hiện lên hình bóng Cang với khuôn mặt phờ phạc và bộ quần áo rách nát.

“Ai chớ Tư Cang thì tụi tui có lạ chi! Anh muốn biết về ảnh hả? Được thôi!”. Năm Bủng, một người dân cùng ấp với Cang nói với Năm Tuấn rồi kể về Cang cho anh nghe. Tư Cang tên thật là Xixănđon. Cha anh ta là người Khơme, mẹ là người Việt Nam. Hồi chế độ cũ, Tư Cang rất nổi tiếng với nghề đâm thuê chém mướn kiếm tiền. Cha Cang trong một lần rượu chè quá chén đã lỡ tay đánh chết vợ. Cang thù cha rồi từ mặt cha, cắt đứt tình máu mủ. Anh ta thương mẹ nên đặt tên mình theo tiếng Việt và lấy họ mẹ. Trước năm một chín bảy lăm không lâu, anh ta rời Việt Nam sang Campuchia sinh sống. Trong kháng chiến, kiều bào ta đã đoàn kết với nhân dân Campuchia chống lại kẻ thù chung, thì Cang, trái lại có cảm tình với địch. Cứ dăm bữa, nửa tháng anh ta lại đi Phnôm Pênh, Xoài Riêng, Xiêm Riệp hay Côngpôngxưpư... một chuyến. Mục đích của những chuyến đi không ai rõ, chỉ biết rằng, sau mỗi lần trở về, Cang lại sống rất xa hoa, tiêu xài xả láng, có vẻ như rất sẵn tiền. Thường xuyên lui tới nhà Cang là những người xa lạ, chẳng ai biết ở đâu, làm gì. Tình cảm giữa kiều bào ta với Cang phai nhạt dần, không còn qua lại đùm bọc, giúp đỡ nhau như trước nữa. Năm một chín bảy lăm, quân Pônpốt lên cầm quyền, thẳng tay tàn sát đồng bào Campuchia, đàn áp, xua đuổi Việt kiều ta về nước và gây ra cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước. Riêng Cang bị chúng bắt đưa đi đâu một thời gian rồi thả về. Năm Tuấn tự hỏi, phải chăng Cang đã bị bọn phản động dụ dỗ, mua chuộc và bây giờ chúng cho Cang về nước để thực hiện những âm mưu đen tối của chúng?

Con thuyền bỗng lắc mạnh một cái rồi nghiêng về một bên như có ai vừa bước lên. Năm Tuấn ngồi bật dậy nhìn ra. Đúng thế thật, có một người đang đi trên tấm ván gác từ bờ ra thuyền. Qua ánh sáng nhờn nhạt anh nhận ra người đang đi xuống là Hai Đỏm. Tại sao Hai Đỏm lại đến đây vào giờ này? Năm Tuấn đang phân vân nghĩ ngợi thì Hai Đỏm đã nhảy phóc lên thuyền, đứng sừng sững trước mặt anh. Tay Hai Đỏm cầm một con dao dài sáng loáng. Như có linh tính mách bảo điều chẳng lành, Năm Tuấn lùi lại phía sau. Tim anh đập rộn lên như muốn vỡ tung lồng ngực. Anh loay hoay tìm một cái gì đó nhưng có và cũng không kịp nữa rồi. Bỗng có tiếng cười xòa: “Tìm chi vậy anh hai?”. Hai Đỏm hỏi rồi ngồi xuống khoang thuyền, gác con dao lên hai đầu gối. Năm Tuấn nhìn Hai Đỏm ậm ự trong cổ không biết trả lời sao. Hai Đỏm lại nói tiếp: “Bộ lạ nhà không ngủ được hay sao hả anh Năm? Tui đi coi đìa, ngang qua nhòm vô, thấy anh cứ trở mình trở mẩy hoài nên ghé lại định rủ anh qua nhà lai rai vài xị cho đỡ buồn”. Thật hú vía! Thế mà ngỡ thằng cha này đêm hôm mò xuống đây để trả thù chuyện năm xưa. Hai Đỏm nói tiếp: “Đã mất công từ ngoài ấy vô thì cũng nên đi đây đi đó một lát cho vui…”. Năm Tuấn vui vẻ đáp lại: “Nhất định tôi sẽ ghé thăm anh chị và các cháu. Ta đợi đến sáng đi anh!”. “Vậy cũng được! Thôi, anh cố ngủ đi một lúc, tui đi đây!”. - Hai Đỏm chào Năm Tuấn rồi bước về phía mui thuyền. Nhoáng một cái bóng anh ta đã mất hút trong màn đêm.

Càng về khuya gió trên sông Hậu càng lồng lộng, con thuyền càng lắc lư mạnh hơn. Năm Tuấn không tài nào ngủ lại được nữa. Anh cố làm mọi cách vẫn không sao ngủ lại được. Kể từ lúc gặp Hai Đỏm, tâm trí anh như lúc nào cũng dồn hết về anh ta. Rồi cả hình bóng Tư Cang, một con người đầy mưu mô quỷ quyệt của mấy mươi năm trước cứ lởn vởn trong tâm trí anh. Năm Tuấn nhớ tới ngày ấy, ngày mà anh cùng đồng đội quyết ra tay để vạch trần cho bằng được con người thật của Tư Cang và đồng bọn, trong đó có Hai Đỏm, một tay chân đắc lực của hắn.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2023, 08:15:55 am

Hôm ấy là một ngày bình lặng, không gian im ắng tưởng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Không có tiếng súng. Không có cảnh chết chóc. Không có những trận tấn công hay nã pháo của cả hai bên. Tất cả im ắng đến đáng sợ. Đó đây trên bầu trời trong xanh đã lại thấy thấp thoáng những cánh chim bay lượn. Sang đến ngày thứ hai, thứ ba cũng vậy. Thế rồi bước sang ngày thứ tư, mới sáng sớm tinh mơ, từ bên kia biên giới bỗng rộ lên một loạt tiếng nổ đầu nòng. Sau đó là tiếng gió rít như xé vải trên đầu và một loạt tiếng nổ của các loại pháo, cối. Mặt đất ầm ầm rung chuyển. Tiếng nổ càng lúc càng dày đặc, càng lúc càng dập dồn. Cả một vùng biên cương chìm ngập trong khói lửa.

Đang trên đường làm nhiệm vụ thì Năm Tuấn gặp pháo của địch, tiếng nổ như vây lấy anh. Năm Tuấn phải tạm lánh vào căn hầm bên đường. Chợt nghĩ sao anh nhảy ra khỏi nơi ẩn nấp rồi cứ thế lao mình băng băng trên đường. Khói lửa trùm lấy anh. Những mảnh đạn bay vèo vèo quanh anh. Mặc! Năm Tuấn như không còn hay biết gì nữa, không còn lo sợ gì nữa. Điều anh nghĩ đến lúc này là phải bằng mọi giá đến được nhà Tư Cang. Phải đến ngay bây giờ. Phải đến ngay trong lúc pháo, cối của địch chưa kịp dừng lại. Nghĩ thế và anh vẫn băng băng trên đường. Một quả pháo nổ gần làm anh bị thương nhẹ ở tay. Năm Tuấn giữ chặt lấy vết thương và bước chân vẫn không dừng lại. Nhưng khi anh đến được nhà Tư Cang thì pháo địch đã thôi bắn. Ngôi nhà vắng vẻ, cửa đóng kín. Phải một lúc Năm Tuấn mới thấy Tư Cang từ đâu đó chạy về. Mặt mũi anh ta mồ hôi mồ kê nhễ nhại, áo quần lấm bê bết bùn đất. Nhìn điệu bộ của Tư Cang, Năm Tuấn thấy anh ta có vẻ rất lúng túng. Để tránh sự ngờ vực, Năm Tuấn vội lên tiếng nói với Tư Cang rằng mình đang trên đường đi công tác thì trúng mảnh pháo phải vào đây xin mảnh vải để băng vết thương. Một phút chần chừ rồi Tư Cang cũng nhanh bước vào nhà lấy bông băng ra băng vết thương cho Năm Tuấn. Trong lúc Tư Cang lúi húi băng vết thương, Năm Tuấn đã tình cờ nhìn thấy ở túi quần sau của anh ta có dắt một khẩu súng ngắn loại col45 của Mỹ.

Vậy là rõ. Từ những thu thập về nhân thân kết hợp với những gì vừa thấy, Năm Tuấn đã có đủ cơ sở để khẳng định về con người thật của Tư Cang. Hắn chính là một tên gián điệp đã được tung về nước để hoạt động chống phá ta. Việc bắt giữ hắn có thể được tiến hành bất cứ lúc nào bởi lúc này hắn đã như con cá trong chậu. Điều quan trọng là cần tiếp tục điều tra để biết xem ngoài hắn ra còn có bọn tay chân nào nữa không? Và ngoài hoạt động điều chỉnh pháo bọn chúng còn làm những gì? Năm Tuấn báo cáo tình hình lên cấp trên và một chuyên án được thành lập. Chẳng bao lâu chân tướng phản dân hại nước của Cang đã dần dần lộ ra. Một lũ đàn em thân tín do Cang dụ dỗ, mua chuộc đi theo hắn cũng dần dần lộ ra.

Tư Cang được bọn quan thầy của chế độ Pônpốt và ngụy quyền Sài Gòn sống lưu vong cho trở về Việt Nam với hai mục đích là làm chỉ điểm điểu chỉnh pháo và chắp nối với bọn phản cách mạng trong vùng. Cả hai việc được Cang song song thực hiện. Hắn đã trực tiếp nhiều lần dùng bộ đàm gọi pháo cối bắn vào các điểm chốt của bộ đội ta. Đồng thời hắn cũng đã dò la, móc nối được với một số phần tử xấu để sai khiến. Bọn này chủ yếu là các sĩ quan, binh lính của chế độ cũ hiện đang sinh sống tại các xã dọc biên giới. Do mặc cảm với quá khứ, lại chưa hòa nhập với cuộc sống hiện tại, nên khi được Cang ngon ngọt dụ dỗ chúng đã tỏ ra rất hăng hái. Trong số này phải kể đến Bảy Hàm và Hai Đỏm. Hàm và Đỏm trước đây từng là thủy quân lục chiến trong quân đội Sài Gòn. Từng nhiều năm theo đơn vị đóng quân ở khu vực biên giới nên rất thông thạo tình hình ở đây. Cả hai được Cang giao nhiệm vụ lôi kéo những thanh niên chậm tiến, những kẻ chán đời gia nhập tổ chức Tuổi Xanh đợi dịp sẽ nổi đậy chống phá cách mạng và gây rối trật tự trị an. Hàm và Đỏm đã tỏ ra khá tích cực trong công việc được giao. Chúng được Cang tin cậy nên chi tiền cho ăn uống, chơi bời thả cửa. “Các anh phải hết sức cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ. Tôi sẽ có trách nhiệm theo dõi báo cáo lên cấp trên. Các ổng đã hứa là không tiếc bất cứ phần thưởng nào đối với chúng ta, nếu chúng ta hoàn thành nhiệm vụ...”. Trong một bữa rượu Tư Cang đã nói với Hàm và Đỏm như vậy. Bảy Hàm mừng rỡ khoe với Cang là hắn vừa rủ thêm được hai người gia nhập tổ chức Tuổi Xanh. Và hắn cũng không quên nhắc đến một người thứ ba mà hắn cho rằng người này cho đến nay vẫn đang lưỡng lự, chần chừ, chưa chịu nhận lời. Tư Cang nghe vậy thì gầm lên chửi rủa, quát tháo một lúc, rồi ngay đêm ấy hắn ra lệnh cho Hàm và Đỏm đi theo hắn.

Đêm ấy, trong một ngôi nhà sàn nhỏ nằm ven thị trấn biên giới, gia đình Út Tam đã hoàn toàn yên tĩnh trong một buổi tối êm đềm hạnh phúc. Chị vợ vừa mới chợp mắt, anh chồng thì còn đang thao thức bởi một điều khiến anh phải trằn trọc suy nghĩ. Mấy ngày nay anh chẳng còn tâm trí đâu mà làm việc. Không nghĩ đến thì thôi, chứ nghĩ đến anh lại thấy lo lắng, bất an mà không biết phải giãi bày cùng ai. Trong đầu anh mông lung với những suy nghĩ, “thì ra Tư Cang sau bao năm lang bạt xứ người, nay trở về nước với mưu đồ đen tối. Tụi thằng Hàm, thằng Đỏm đã theo Cang, sa chân vào con đường tội lỗi, nhúng tay vào việc xấu. Chúng nó trước đây từng là đồng ngũ với mình, rồi khi giải phóng, cùng đi học tập cải tạo, cùng được tha bổng cho trở về làm ăn lương thiện. Sao chúng nỡ lòng quay ngoắt một trăm tám mươi độ, tiếp tục dấn thân trở lại con đường xấu xa một thời ấy. Chúng lại còn rủ mình đi theo chúng với những hứa hẹn viển vông nữa chớ! Mình không những không đồng ý mà còn phản đối quyết liệt. Nhất định chúng sẽ không để mình yên. Bằng cách này hay cách khác, chúng sẽ gây khó dễ, thậm chí trả thù mình. Mình phải làm gì đây? Không lẽ biết mà đành làm ngơ để tụi nó lọng hành, tiếp tục gây tội ác. Thôi, không suy nghĩ gì nữa. Ngay ngày mai phải tìm gặp các anh bộ đội biên phòng nói ra sự thật này”. Nghĩ tới đó Út Tam ngủ thiếp đi.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 22 Tháng Tư, 2023, 08:16:29 am

Bỗng có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ dập dồn, gấp gáp. Cả hai vợ chồng Út Tam cùng giật mình thức dậy. Chị vợ thì thầm vào tai chồng: “Đêm hôm khuya khoắt ai đến đây làm chi vậy? Anh ra coi thử!”. Nghe lời vợ, Út Tam lồm cồm ngồi dậy, chui ra khỏi mùng rồi đi về phía cửa. Bên ngoài trăng sáng như ban ngày. Anh nghe có tiếng gọi tên anh. Út Tam nhận ra người gọi mình là Bảy Hàm nên bực bội nói: “Tui đã trả lời anh mấy lần rồi, sao anh không để tui yên mà quấy rầy chi hoài vậy? Anh về đi, khuya rồi, để tui ngủ!”. Bên ngoài vẫn tiếng Hàm van nài: “Thì tui đến đây đâu chỉ vì chuyện ấy…”. Tuy chần chừ, nhưng cuối cùng Út Tam cũng mở cửa, thong thả bước xuống cầu thang. Như chỉ chờ có thế. Bên cạnh cửa, Tư Cang nép sẵn vung dao giáng xuống. Út Tam chỉ kịp đưa hai tay lên đầu chới với một lúc rồi ngã gục xuống, lăn từ trên cầu thang xuống đất, không kêu được một tiếng. Trong nhà chị vợ hỏi to: “Anh Tam, anh làm đổ cái gì vậy?”. Như có linh tính chuyện chẳng lành, chị vùng dậy chạy xuống. Qua ánh trăng vằng vặc chị thấy có mấy người vừa từ nhà chị bỏ chạy về phía biên giới. Và ở dưới đất chồng chị đang nằm im lìm bất động. Chị ôm lấy chồng lay gọi. Nhưng Út Tam đã chết!

Vụ giết người ngay trong đêm đó được cơ sở phát hiện báo ngay cho Năm Tuấn. Nắm chắc tình hình không ai khác ngoài Tư Cang và đồng bọn gây nên vụ án, Năm Tuấn trình bày ý kiến gấp với cấp trên và xin chỉ thị hành động. Kế hoạch được triển khai nhanh chóng và bí mật. Chỉ sau đó vài chục phút, Bảy Hàm đã bị bắt ngay tại nhà hắn khi hắn vừa lững thững cầm con dao dính máu trở về. Cùng lúc ấy Hai Đỏm có việc đến nhà Hàm. Đỏm vừa đến đầu ngõ thì hoảng hốt bỏ chạy khi nắm được sự việc xẩy ra. Hắn ba chân bốn cẳng phóng một mạch đến nhà Tư Cang. Cang nghe Đỏm trình bày thì bực bội gầm gừ: “Vậy là lộ hết rồi! Thôi, nhanh nhanh thu xếp tẩu thoát!”. Đỏm run rẩy: “Tôi... tôi có đi không?”. “Chú mày muốn chết thì ở lại!”. “Nhưng tôi không giết người”. “Không giết người... - Cang cười gằn - Chỉ riêng việc chú mày tham gia vào tổ chức Tuổi Xanh cũng đủ để người ta treo cổ chú mày rồi”. Thế là Hai Đỏm đành phải xin đi theo. Tư Cang lên đạn khẩu súng ngắn rồi cùng Hai Đỏm chạy đến một cái cầu sắt. Cang chui xuống gầm cầu, lục trong đám cỏ khô lôi ra một cái máy PRC25 giao cho Đỏm. “Chú mày mang dùm tôi!”. Nói xong, Cang hùng hổ đi trước. Đỏm mặt mày ủ rũ theo sau. Cả hai hướng về phía biên giới. Khi đến bờ sông Bình Di, con sông ranh giới giữa hai nước, cả hai chuẩn bị lội xuống thì từ ba phía ánh đèn pin lóe sáng. Nhiều họng súng chĩa thẳng vào người chúng. Tiếp đó là một giọng hô dõng dạc: “Tất cả đứng im! Các anh đã bị bắt!”. Tư Cang ngoan cố chụp lấy súng ở thắt lưng chĩa về phía trước. Nhưng hắn đã không kịp bóp cò. Cạnh đó, Năm Tuấn đã lao tới, giáng một cú đá vào người hắn. Tư Cang ngã sấp xuống làm khẩu súng trong tay văng về một bên. Riêng Hai Đỏm thì sợ quá khóc rống lên. Đêm ấy, ta lần lượt quét sạch băng nhóm phản cách mạng do Tư Cang cầm đầu. Cái gọi là tổ chức Tuổi Xanh đã hoàn toàn bị xóa sổ...

Lại một đêm nữa trôi qua nơi vùng sông nước miền Tây. Cũng như đêm đầu tiên khi mới đến đây, Năm Tuấn vẫn không sao dỗ được giấc ngủ. Anh cứ trằn trọc, thao thức hoài. Chắc hẳn sau mấy mươi năm xa cách, giờ trở lại nơi vùng biên cương, gặp lại cảnh cũ người xưa, với bao buồn vui, kỷ niệm, trong lòng anh có quá nhiều những bồi hồi, cảm xúc. Hơn hai mươi năm đã trôi qua, đất và người nơi miền biên ải này đã hoàn toàn đổi khác. Chẳng còn gì là dấu tích của một thời chiến tranh. Cuộc sống đang từng ngày đổi thay. Cảnh vật cũng trở nên tươi đẹp, đáng yêu biết nhường nào. Anh mừng cho tất cả đồng đội và bạn bè cũ của anh. Mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng tất cả đều làm ăn phát đạt. Có người còn trở nên giàu có nhờ chí thú làm ăn. Anh mừng cả cho Hai Đỏm, người một thời lầm đường lạc lối, đứng ở bên kia chiến tuyến nay đã là người lao động chân chính, có kinh tế khấm khá. Thật đúng là quả đất quay tròn! Không hẹn mà Năm Tuấn đã gặp lại Hai Đỏm. Suốt cả sáng nay anh đã dành trọn vẹn thời gian để đến thăm nhà Hai Đỏm. Trong cuộc hội ngộ đầy bất ngờ này cả hai đã gượng gạo ôn lại những kỷ niệm của một thời. Câu chuyện có lúc trở nên rời rạc, buồn tẻ, nhưng ai cũng muốn trút hết nỗi lòng mình. Năm Tuấn nhớ mãi câu nói của Hai Đỏm khi chia tay ra về: “Sau vụ ấy, Tư Cang phải chịu án tử hình. Tôi và những người khác thì chịu mức án từ năm năm cho tới hai mươi năm. Tôi đã sáng mắt ra rất nhiều sau lần vấp ngã ấy. Có lẽ hồi ấy do tuổi mình còn trẻ, nên nông nổi, không kịp nghĩ suy. Và bây giờ thì tôi đã có thể nói rằng, chỉ có ai ngốc nghếch, ngu si thì mới đi ngược lại con đường mà dân tộc đang đi...”. Năm Tuấn đã rất ngạc nhiên và vui mừng khi được biết Hai Đỏm bây giờ đã là một triệu phú nuôi cá tra, cá basa trên sông Hậu. Anh có tới hai bè nuôi cá mỗi vụ cho thu nhập hàng trăm triệu đồng từ hai loại cá có giá trị xuất khẩu này. Anh lại càng ngạc nhiên hơn khi nghe Hai Đỏm nói về Ba Đảm: “Anh ấy ra tù sau tôi ba năm, nhưng nhờ chịu khó làm ăn, nên bây giờ cũng có một vườn cây ăn quả vài trăm gốc cho thu nhập khá cao hàng năm. Anh ấy còn sắm cả máy cày, máy gặt đập liên hoàn làm dịch vụ cho bà con trong vùng khi mùa màng, thời vụ đến. Đặc biệt, Ba Đảm có hai con, một gái một trai, học rất giỏi, năm rồi cả hai đứa đều là thủ khoa của hai trường đại học trong kỳ thi tốt nghiệp ra trường…”.

Càng về khuya gió trên sông Hậu càng trở nên lồng lộng hơn, phóng túng hơn. Con thuyền dập dềnh, lắc lư nhè nhẹ như một cánh võng. Mảnh trăng cuối tháng giờ mới chịu ló mình ra khỏi đám mây. Bầu trời đang nhờ nhờ bỗng vụt sáng. Những con sóng lăn tăn chấp chới, long lanh vô vàn những ánh sao khuya. Đêm biên cương vùng sông nước miền Tây thật mênh mông, sâu thẳm.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 11:55:23 am

CÁNH ĐỒNG CHIỀU CỦA MẸ


Tôi mới về quê ngoại trưa nay. Tháng năm, mới chỉ hơn mười giờ đã thấy nắng chang chang bỏng rát, lại thêm ngọn gió Lào hầm hập nên cái nắng nóng càng thêm gay gắt, khó chịu. Trên con đường làng ngồn ngộn những chiếc xe trâu, xe công nông chất đầy lúa. Người người ngược xuôi đi lại. Trông ai cũng hối hả, vội vàng như muốn làm cho thật nhanh công việc để mau mau về đến nhà như thể chạy trốn cái nắng nóng. Từ căn bếp nhà cậu tôi thấy thoảng thơm mùi cơm gạo mới, mùi tiêu hành phi trên mỡ và cả mùi hến nấu canh rau, một món ăn dân dã mà tôi không bao giờ quên được.

Tôi không nhớ chính xác là mình đã về thăm làng Mai quê ngoại cả thảy bao nhiêu lần nhưng cứ mỗi lần trở về tôi lại được thưởng thức món ẩm thực quen thuộc, đậm đà hương vị quê kiểng ấy. Từ ngày về lần đầu đến nay cũng đã thấm thoắt mấy chục năm trôi qua rồi! Dù sống xa quê ngoại, nhưng tâm tưởng tôi vẫn luôn luôn hướng về. Quê ngoại! Đó là tất cả những gì yêu thương đằm thắm nhất, nhớ nhung da diết nhất. Nơi ấy là hình bóng ông bà ngoại, các dì, các cậu tôi sinh sống. Nơi ấy, mỗi nhành cây ngọn cỏ, mỗi bến bãi dòng sông... đều đã bồi đắp nên tâm hồn tôi, làm nên máu thịt trong con người tôi. Chính vì những tình cảm thân thương, sâu nặng ấy mà hình bóng về quê hương chưa một giây phút nào vơi cạn trong tôi. Để đến bây giờ, dẫu đã là một phụ nữ luống tuổi, mái đầu đã lưa thưa điểm bạc, lại bận bịu với biết bao công việc giữa cuộc sống hàng ngày, tôi vẫn vài năm một lần không quên sắp xếp thời gian để về thăm quê ngoại của mình.

Thuở ấu thơ, lúc mới chỉ lên chín, lên mười, tôi đã lơ mơ biết về quê ngoại qua lời kể của ba mẹ tôi. Tuy bé, nhưng mỗi câu chuyện về quê ngoại, tôi đều nhớ rất rõ. Tôi nhớ cả những địa danh như Cửa Tùng, Cửa Việt, Cồn Tiên, Dốc Miếu... Đặc biệt hai tiếng “làng Mai” tôi thuộc lòng ngay từ tấm bé. Và cứ mỗi lần nhắc đến hai tiếng ấy tôi lại thấy ngân rung lên trong sâu thẳm lòng mình. Có cảm tưởng như mỗi tên đất, tên làng mà tôi chưa một lần được đặt chân đến ấy cũng gần gũi, thân quen, nặng tình nặng nghĩa như chính nơi tôi đang sống. Không những thế, mà những tên đất, tên làng ấy còn có cái gì đó cứ khiến tôi nghèn nghẹn, rưng rưng cảm xúc mỗi khi nhắc đến. Tôi ao ước được một lần về thăm quê ngoại. Được tận mắt nhìn thấy cây cầu Hiền Lương và dòng sông có làn nước xanh trong, hiền hoà, bốn mùa lặng chảy. Và cũng được tung tăng chạy nhảy trên con đường làng và thích nhất là được ra sông cào hến, được vốc những vốc hến trong lòng bàn tay, để rồi mỗi buổi sáng mai lên, được cùng với đám trẻ trong làng dựng lò nhóm lửa, chơi trò “nấu canh hến” gánh đi bán rong, cùng với lời rao cất lên lanh lảnh: “Canh hến đây! Ai mua canh hến nào!” như mẹ tôi và bạn bè mẹ từng chơi với nhau từ thuở nhỏ! Có một lần, mẹ tôi chỉ tay vào tấm bản đồ tôi đang học bùi ngùi nói với tôi: “Quê ngoại của con ở ngay bên kia sông Bến Hải, nhưng để qua được con sông này thì mẹ con mình còn phải đợi đến ngày thống nhất đất nước con ạ!”. Từ đấy tôi mới hiểu rằng quê ngoại của tôi đang bị giặc Mỹ chiếm đóng. Và phải đợi đến khi thống nhất đất nước, tôi mới có thể qua được bên kia sông để về thăm quê ngoại. Trong tôi bỗng nhói đau. Có một cái gì đó trở nên hững hụt khiến tôi buồn bã, thất vọng. Nhưng tuổi thơ mọi chuyện vui buồn thường chỉ ở lại chốc lát rồi qua đi rất nhanh. Nhưng hình bóng về làng Mai, về quê ngoại cùng với mong ước được một lần về thăm thì cứ đeo đẳng bên tôi mãi.

Hồi ấy ba tôi là bộ đội đang chiến đấu ở chiến trường miền Nam, còn mẹ tôi là một cô giáo, một nữ du kích làng Mai. Ba mẹ quen nhau rồi cưới nhưng chỉ được một tuần, ba lại tiếp tục vào chiến trường, rồi mẹ theo ba tập kết ra Bắc. Về quê được một thời gian ngắn thì ba tôi lại đi chiến đấu. Mẹ ở lại quê bố. Hai người xa nhau biền biệt, không thư từ, tin tức. Mãi gần mười năm sau ba tôi mới trở ra Bắc. Tôi nhớ dạo đó hình như là sau Tết Mậu Thân, ta vừa đánh lớn ở miền Nam. Năm đó tôi vừa tròn mười tuổi. Ba về rất nhanh rồi cũng ra đi rất nhanh. Có vẻ như ba rất vội vã, có lẽ do tình hình chiến sự không cho phép ba được ở lại lâu thêm. Rồi sáu, bảy năm sau đó cho tới lúc miền Nam hoàn toàn giải phóng, ba tôi cũng chỉ về lại một lần nữa, đâu như hồi Hiệp định Pari được ký kết.

Thường những lần ba tôi trở về, dù thời gian rất ngắn, có khi chỉ vỏn vẹn một, hai ngày, nhưng như thế cũng đủ để cái gia đình nhỏ bé của tôi được quây quần bên nhau, được ngập tràn trong niềm vui, hạnh phúc. Tôi được ba hết sức cưng chiều. Mỗi một lần gia đình đoàn tụ, ba thường có thói quen bế bổng tôi lên, hôn chùn chụt lên má rồi đặt tôi ngồi gọn lỏn trong lòng. Ba vuốt tóc tôi, vỗ về tôi. Còn tôi thì quàng tay ôm lấy cổ ba, bàn tay nhỏ bé của tôi thoa nhè nhẹ lên cái cằm lởm chởm râu của ba. Mẹ ngồi đối diện mỉm cười hạnh phúc nhìn hai cha con. Mặt mẹ lộ rõ niềm vui và cả niềm xúc động. Nhìn mẹ, tôi biết mẹ đã hạnh phúc biết nhường nào trong những lần ba trở về. Nghe chuyện ba mẹ nói với nhau, tôi biết thêm nhiều điều, trong đó có cả những chuyện mà lẽ ra trẻ con như tôi không cần phải quan tâm đến. Nhưng không hiểu sao mỗi câu chuyện ba kể với mẹ tôi đều để ý lắng nghe và nhớ rất kỹ. Như tình hình chiến sự ở miền Nam, ta đánh những đâu, thắng những đâu. Rồi cả những gian khổ, hy sinh mà ta đang phải chịu đựng.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 11:57:09 am

Cũng qua những câu chuyện của ba kể với mẹ, tôi còn được biết thêm một điều rất thú vị. Đó là ba đã cùng đơn vị tham gia nhiều trận đánh trên chiến trường Quảng Trị. Ba đã có mặt trong đoàn quân đánh chiếm quân cảng Cửa Việt, phá tan hàng rào điện tử McNamara ở Cồn Tiên, Dốc Miếu. Và đã có lần ba ghé về làng Mai, gặp được ông bà ngoại. Mẹ nghe ba kể thì vui lắm! Mắt mẹ rớm lệ mà vẫn lấp lánh nụ cười. Rồi mẹ bùi ngùi hỏi ba: “Anh ơi, chiến tranh tàn khốc như thế chắc làng ta giờ đã tiêu điều, xơ xác hết. Cả nghề cào hến của làng ta chắc cũng không còn nữa phải không anh?”. Ba cười rất tươi nói với mẹ rằng, “làng Mai tuy bom đạn cày xới tan hoang nhưng lúa khoai vẫn xanh rờn trên từng thửa ruộng. Bà con mình trong đó một lúc làm hai việc, vừa đánh giặc, vừa sản xuất hăng hái lắm! Không những cần cù với nghề nông làm ra lúa gạo nuôi quân đánh giặc mà còn giữ được nghề truyền thống từ bao đời nay”. Rồi ba còn khoe rằng khi ghé về thăm làng, ba đã được ông bà ngoại cho ăn cơm với canh rau nấu hến. Ba nói, “đã lâu rồi ăn lại bát canh hến từ tay bố mẹ vợ nấu, ba cảm thấy mát tận ruột gan”. Mẹ ngồi nghe mà như nuốt lấy từng lời ba kể. Đôi môi mẹ mấp máy, mấp máy, và cổ mẹ khe khẽ chuyển động, tôi ngỡ như mẹ cũng đang ăn một cái gì đó rất ngon. Buổi tối cuối cùng để ngày mai lên đường, ba nói với mẹ: “Quê hương mình giải phóng rồi, anh cũng định đưa em và con về thăm, nhưng anh nghĩ cả miền Nam rồi cũng giải phóng trong nay mai. Em chịu khó đợi đến ngày đất nước toàn thắng rồi cả nhà ta sẽ cùng về thăm quê. Chắc cũng không còn bao lâu nữa đâu...”. Rồi ba trở về đơn vị chiến đấu. Hai năm sau, ba cùng đơn vị thần tốc tiến vào giải phóng Sài Gòn. Đúng vào giữa những ngày chiến thắng đang đến gần thì mẹ con tôi nhận được tin ba hy sinh. Vậy là lời hứa sẽ cùng mẹ và tôi vào thăm quê ngoại đã theo ba vĩnh viễn ra đi.

Lần đầu tiên tôi về thăm làng Mai quê ngoại là vào một ngày hè sau giải phóng miền Nam không lâu. Năm ấy tôi đã là một thiếu nữ mười tám tuổi. Chuyến đi chỉ có hai mẹ con. Chúng tôi đi tàu hoả vào Vinh rồi từ đó đi ô tô. Chỉ một chặng đường không quá xa mà chúng tôi phải mất tới mấy ngày. Tuy vất vả nhưng vui. Tôi thì lần đầu tiên về thăm quê nên tỏ ra rất háo hức. Còn mẹ, tôi đọc được trên gương mặt của mẹ một nỗi buồn vui, xúc động tuôn trào. Dẫu sao thì cũng đã hai mươi năm rồi, kể từ ngày theo ba tập kết ra Bắc, hôm nay mẹ mới lại được trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình! Hai mươi năm đằng đẵng mòn mỏi, đợi chờ. Hai mươi năm phải chịu bao uất ức, khổ đau của chiến tranh và hy vọng hòa bình. Cảm xúc trong mẹ bỗng vỡ oà khi mẹ đặt chân lên con đường làng. Vẫn là con đường làng thuở xưa len lỏi giữa những rặng tre. Và xa kia là dòng sông đang lững lờ trôi. Những nóc nhà tranh hình bánh ích, một gian hai chái quen thuộc. Chẳng có gì đổi khác ngoài phong cảnh, làng mạc trụi trơ và rất nhiều những hố bom, hố pháo.

Đang thoăn thoắt bước, bỗng mẹ đi chậm lại đưa mắt nhìn quanh rồi mẹ dắt tay tôi dừng lại dưới một gốc cây cổ thụ. Mẹ chỉ tay vào gốc cây reo lên khe khẽ: “Trời ơi, nó vẫn còn đây này! Bom đạn mù trời như thế mà nó vẫn hiên ngang sống cho tới bây giờ!”. Tôi nhận ra cây cổ thụ đó là một cây xà cừ. Loại cây này có nhiều ở quê nội nên nhìn thoáng qua tôi đã biết ngay. Thân nó xù xì, loang lổ những vết bằm ngang chém dọc trông như những con mắt hướng về bốn phía. Đúng là một cây cổ thụ còn sót lại sau chiến tranh. Nó không những già nua, khắc khổ vì thời gian, mà trên thân thể nó còn có rất nhiều vết tích của đạn bom. Cây xà cừ chỉ còn lại một cành duy nhất nhưng tán lá vẫn sum suê, dâm mát, che kín một khoảng trời.

Ông bà ngoại tối năm ấy đều xấp xỉ tuổi tám mươi. Gặp lại mẹ con tôi, ông bà vui mừng khôn xiết. Niềm vui gặp lại nhau, mẹ tôi và ông bà ngoại tuôn trào nước mắt. Nước mắt rơi cho ngày chiến thắng và cả cho ngày đoàn tụ. Bà ngoại tôi lưng còng như miếng cau khô, đi lại lom khom, vậy mà bà vẫn suốt ngày luôn chân luôn tay với những việc vặt trong nhà. Mái tóc bà bạc trắng như cước nhưng vẫn còn rất dài. Bà thường búi tóc thành một búi quanh đầu. Thỉnh thoảng lại thấy bà ăn trầu. Bà nhai bỏm bẻm, nhai cả những lúc đang nói chuyện với ai đó. Tuy răng đã rụng móm mém cả, nhưng chưa một lần tôi thấy bà sử dụng ống xáy để nghiền cau như các bà cụ ngoài Bắc, mà chỉ thấy bà ngâm miếng cau khô vào nước, đợi cho thật mềm rồi mới lấy ra cho vào miệng nhai. Mỗi động tác của bà thật ung dung, thư thái, khiến cho lòng người cảm thấy yên tĩnh lại.

Mẹ tôi đã có lần nói với tôi, hồi còn trẻ bà đẹp nổi tiếng khắp vùng, nên từng được mệnh danh là “hoa hậu” làng. Cánh trai làng thời ấy say mê sắc đẹp của bà như bướm say hoa nhưng bà chẳng ưng ai. Lại nghe nói có viên quan tri phủ trẻ huyện bên nhà giàu nứt đố đổ vách theo đuổi bà mấy năm liền cũng bị bà từ chối vì tính hống hách, kiêu ngạo. Tưởng bà lấy ai, lại hoá ra lấy anh hàng xóm nghèo rớt mồng tơi, nhà tranh vách đất, quanh năm cào hến ngoài sông. Vợ chồng anh cào hến đẻ liền năm người con, hai gái ba trai, suốt ngày đội mưa đội nắng vậy mà người vợ vẫn trẻ trung, cứ trắng đẹp... Bây giờ ngắm nhìn “vợ anh cào hến” năm xưa, tôi thấy những nét đẹp thuở thanh xuân vẫn như còn phảng phất đọng lại trên khuôn mặt nhăn nheo của bà. Mấy năm nay bà yếu đi, lưng còng hẳn, nên đi đứng chậm chạp hơn. Khác với bà, ông ngoại tôi quả là một cụ ông tráng kiện. Tóc ông tuy cũng bạc trắng như bà, nhưng lưng ông vẫn thẳng, răng ông vẫn chắc và dáng dấp thì vẫn rất hoạt bát. Ông là cựu du kích làng Mai. Từ chống Pháp cho đến chống Mỹ, cả gia đình nhà ngoại tôi đều có thành tích, công lao với cách mạng.

Ông bà ngoại tôi ngay từ ngày mới kết tóc xe duyên đã cùng gái trai trong làng tự đứng ra thành lập chi hội nghĩa quân, cắt máu ăn thề, nguyện đánh Pháp đến cùng. Khi công khai giữa trận mạc thì họ là những du kích dũng cảm. Khi phải lui vào hoạt động bí mật thì họ lại không quản hiểm nguy, đào hầm nuôi giấu cán bộ, tổ chức rải truyền đơn vạch mặt kẻ thù, kêu gọi nhân dân đánh giặc. Các cậu, các dì tôi sau này lớn lên, theo gương ông bà ngoại cũng lần lượt vào bộ đội, du kích. Cậu Nghĩa, dì Hiệp hy sinh thời chống Pháp. Đến thời chống Mỹ, cậu Hào ngã xuống ở chiến trường Nam Quảng Trị. Ông bà ngoại tôi theo cách mạng từ lúc còn trẻ cho đến khi tuổi già xế bóng. Chiến tranh đã làm ly tán và cướp đi biết bao người thân trong mỗi gia đình. Gia đình nhà ngoại tôi là một trong những gia đình như thế.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 11:57:44 am

Buổi chiều, bà ngoại tôi lom khom chống gậy cùng tôi dạo bước trên con đường làng. Đến gốc cây xà cừ bà bảo tôi dừng lại nghỉ. Chợt nhớ tới hình ảnh mẹ khi thấy cây xà cừ, tôi liền hỏi bà: “Bà ơi, cây xà cừ này có ở đây lâu chưa ạ?”. Bà lim dim mắt, hai bàn tay xương xẩu chầm chậm rờ rẫm lên thân cây. Bà nói:

- Có lẽ phải hàng trăm năm nay rồi cháu ạ! Bởi từ ngày còn bé bà đã thấy nó sừng sững ở đây rồi. - Bà đứng dậy, đi vòng quanh gốc cây, vừa đi bà vừa nói: - Nó chỉ là thân cây vô tri vô giác nhưng là nhân chứng cho mọi thăng trầm, biến cố của làng ta đấy cháu ạ!

- Thật thế vậy bà?

- Ừ, thật thế đấy!

Rồi bà rỉ rả kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện về làng Mai. Mỗi câu chuyện bà kể đều ít nhiều liên quan đến cây xà cừ. Và mỗi câu chuyện đều đem đến niềm tự hào với người dân quê ngoại tôi. Từ những cuộc họp của người dân làng Mai bàn việc đánh Tây, đến treo cờ nhân ngày Quốc tế Lao động mồng một tháng năm. Rồi những buổi diễn thuyết, mít tinh do Việt Minh tổ chức... tất cả đều diễn ra bên gốc xà cừ này. Bà tôi cười bảo: “Thằng Luận, cái Thương (tên bố mẹ tôi) hồi còn hoạt động ở làng, chưa tập kết ra Bắc, tối nào mà chúng chẳng rủ nhau ra gốc xà cừ tình tự...”.

Tôi tung tăng chạy ra bờ sông. Trời về chiều nắng vàng thẫm trên mặt cát. Một đám đông đang ngụp lặn trên mặt nước trắng bạc ở xa xa. Họ kéo theo những chiếc thuyền nan mỏng manh. Tôi nhận ra họ là những người dân của làng Mai đang làm nghề cào hến. Tôi liền men theo mép nước đi dần về phía họ. Ở đó có một đám trẻ vừa chăn trâu vừa thả diều ngay cạnh bờ sông. Chúng chạy nhảy, nô đùa, hát hò rất vui vẻ. Một đứa con trai bỗng hét toáng lên: “Tao đố chúng mày! Tao đố chúng mày!” rồi nó cất giọng ngân nga: “Con chi mà nhỏ nhỏ dưới sông. Để đàn bà đi bán, đàn ông đi cào?”. Nó vừa dứt lời thì cả tốp bạn nó đã đồng thanh đáp lại: “Chắt chắt một đọi hai hào. Cơm nguội trong chạn mua vào mà chan!”. Rồi chúng lại đuổi nhau, cười nói inh ỏi cả quãng sông.

Làng tôi gọi con hến là chắt chắt có lẽ là vì nó có kích cỡ nhỏ nhất trong các loài hến. Khi chế biến, người ta phải rửa sạch rồi luộc đến khi nước sôi, con chắt chắt há miệng ra rồi trơi, rồi phải đãi, phải chắt để vỏ và nhân tách ra hai phần riêng biệt. Ngay trong mùa đông tháng giá loài hến đã sinh sôi nẩy nở. Chúng giấu mình trong cát rồi lớn dần lên cho tới khi mùa hè đến. Đó cũng là lúc người làng tôi rủ nhau đi cào hến. Đàn ông, phụ nữ, người lớn, trẻ con, ai cũng có thể làm được nghề này. Chỗ nào cạn thì người ta dùng rổ, chỗ nào sâu thì người ta dùng cào. Nhưng dùng cào vẫn phổ biến hơn cả. Món ăn được chế biến từ hến cũng đa dạng lắm. Có thể nấu cháo, nấu canh, hay xào xáo túy thích. Khoan khoái làm sao khi giữa những ngày hè oi bức, sau một ngày làm việc vất vả, được trải manh chiếu ra bờ tre đón ngọn gió nồm lồng lộng, cả nhà quây quần bên nồi canh hến, cạnh đấy là mấy đĩa hến xào rau lá lốt và xấp bánh tráng nướng giòn tan… Chao ôi, mới nghĩ đến thôi mà tôi đã thấy ứa nước miếng ra rồi.

Chia tay bọn trẻ tôi đã định quay về nhưng nghĩ sao tôi lại đi tiếp. Sau lưng tôi ánh mặt trời đã tắt hẳn phía chân núi. Còn trước mắt không gian đã chuyển sang màu sẫm. Mặt sông lặng phắc không một gợn sóng. Dưới sông, những người cào hến vẫn đua nhau ngụp lặn như chẳng ai chú ý đến thời gian. Bỗng nhiên trời mây u ám hẳn mặt sông đổi màu và một cơn gió ùa đến. Tôi thấy người bàng hoàng, chới với và như nhìn thấy một người đàn ông bận đồ đen đang hớt hải chạy về phía trước. Mấy lần anh vấp ngã rồi lại lồm cồm ngồi dậy để chạy tiếp. Thoáng qua trước mặt tôi là một khuôn mặt còn rất trẻ, dáng cao cao, gầy gầy. Một khuôn mặt rất quen, rất thân thiết như là tôi đã gặp ở đâu rồi. Khi đến bờ sông anh dừng lại ngó quanh một lúc rồi rẽ nước lao ra giữa dòng. Chẳng mấy chốc bóng anh hoà lẫn vào bóng người đang cào hến trên sông. Cùng lúc ấy tôi nghe có tiếng súng nổ, tiếng quát tháo và một tốp người hùng hổ chạy đến. Trong tốp người có cả lính Tây lẫn lính ta. Mặt mũi tên nào trông cũng hung hăng, dữ tợn. Chúng lăm lăm súng trong tay, miệng quát to: “Việt Minh! Việt Minh! Phải bắt sống cho bằng được tên Việt Minh!”. Rồi chúng đổ xô về phía những người đang cào hến. Những họng súng đen ngòm chĩa thẳng về phía họ. “Ai là Việt Minh hãy bước ra. Nếu không ta nổ súng!”. Một tên Việt gian quát hỏi. Tức thì, từ trong đám đông, có một giọng con gái trả lời: “Không có ai là Việt Minh ở đây cả. Chúng tôi toàn là dân làng Mai làm nghề cào hến. Các ông không tin thì lội xuống đây mà kiểm tra”. Tốp lính đứng chần chừ một lúc rồi lằng lặng bỏ đi. Cơn gió mạnh làm tôi bừng tỉnh như vừa trải qua một cơn mơ, nhìn trước ngó sau nhưng không thấy gì cả. Thì ra đó là do tôi hồi tưởng lại câu chuyện xảy ra cách nay đã hai mươi mấy năm mà mẹ từng kể đi kể lại cho tôi nghe. Để đến hôm nay khi đang đứng trước dòng sông quê nhà, trong một chiều chạng vạng, tôi đã tưởng tượng lại tất cả. Có cảm giác như câu chuyện xa xưa ấy như chỉ vừa mới xảy ra đâu đây. Tôi nhớ mỗi lần kể xong câu chuyện mẹ lại nói với tôi, đó là lần đầu tiên mẹ với ba gặp nhau. Chính mẹ và những người dân làng Mai đã cứu ba thoát khỏi hiểm nguy trong một trận vây bắt của kẻ thù. Để rồi sau này qua một thời gian, mẹ đã đem lòng yêu thương chàng trai xứ Bắc, người lính Vệ quốc đoàn ấy... Tôi ngồi xuống vệ cỏ, vốc nước lên hai lòng bàn tay phả lên mặt. Những giọt nước mát lạnh, len lỏi vào từng tế bào trên cơ thể tôi. Một cảm giác vừa bồi hồi, vừa lưu luyến cứ rạo rực trong tôi trên từng bước chân trở về nhà.

Những đêm mùa hè ở quê ngoại sau giải phóng không gian yên tĩnh lạ lùng. Tôi rất ít ngủ và thường khi đi ngủ phải rất khuya. Trên chiếc giường tre đặt bên cửa sổ, nằm bên bà ngoại và mẹ, tôi cứ trằn trọc không sao ngủ được. Dù ban ngày tôi đã dành hết thời gian cho việc đi thăm hỏi nhà này nhà kia. Tôi nằm yên ngắm nhìn vầng trăng qua ô cửa sổ, nghe rất rõ mọi âm thanh ở xung quanh. Tiếng gió vi vu, xào xạc, tiếng sương rơi, tiếng côn trùng rỉ rả, cả tiếng cá đớp mồi dưới con lạch cạnh nhà. Hương lúa từ cánh đồng làng thoảng về, có cả mùi bùn hăng hăng, mùi phân trâu ngai ngái. Nhưng đậm nét trong tôi hơn cả vẫn là mùi khói súng, khói bom như vẫn còn phảng phất đâu đây, dù tôi biết chiến tranh đã không còn trên mảnh đất này nữa. Không ngủ được, tôi nhẹ nhàng ngồi dậy mở cửa đi ra ngoài sân. Trăng đầu tháng nhợt nhạt nhưng cũng đủ để tôi nhìn thấy một vệt sáng cong cong hình lưỡi liềm trước mặt. Dòng sông về đêm trông vừa yên tĩnh, vừa huyền bí. Gió từ mặt nước thổi thốc lên, mang theo vị mặn của muối, vị ngọt của phù sa và cả vị nồng nồng, chua chua rất đặc trưng của làng quê sông nước này. Một bàn tay đặt nhẹ lên vai tôi: “Không ngủ được hả con?”. Tôi quay lại “vâng” một tiếng rồi ôm lấy mẹ. Mẹ tôi cũng không ngủ được. Đã mấy đêm rồi mẹ rất ít ngủ. Tôi biết mẹ đang nhớ đến ba, nhớ về những kỷ niệm một thời, nhớ tất cả... Những giọt nước mắt nóng hổi của mẹ rơi đầy trên vai tôi, ướt trên má tôi. Tôi biết mẹ đang rất xúc động bởi đây là nơi chôn nhau cắt rốn của mẹ, là nơi ba mẹ lần đầu gặp nhau. Cuộc sống thì dài mà đời người lại quá ngắn ngủi. Rồi thời gian, tuổi tác và cả những bất thường có thể xảy ra... liệu mẹ còn được mấy lần cùng tôi về thăm lại quê nhà?

Những năm gần đây, tôi đều dành thời gian về thăm quê ngoại. Tôi thường về vào những ngày lễ, ngày tết, hay khi cưới hỏi con cháu, giỗ chạp ông bà ngoại tôi. Làng Mai giờ đã thay đổi hơn rất nhiều so với trước đây. Dấu tích của một thời đạn bom cũng đã lùi vào quá khứ. Những người tôi gặp ngày nào, giờ cũng đã già đi và những đứa trẻ được sinh ra cũng trưởng thành theo thời gian. Dẫu làng quê có đổi thay nhiều thì nét mộc mạc, chân quê trên mỗi gương mặt người dân quê tôi có lẽ ngàn đời sau vẫn vậy. Mẹ không thể về cùng tôi được nữa, bởi giờ đây mẹ đã già. Dù lúc nào mẹ cũng ước ao được trở về quê hương, nguồn cội. Tuổi già sức yếu, mẹ chỉ còn biết trông cậy, phó thác cả cho tôi.

Hơn ba mươi năm kể từ ngày cùng mẹ về thăm quê lần đầu, nay quê ngoại của tôi có nhiều thay đổi. Hồi ấy, tôi chỉ là một cô con gái mười tám tuổi, ngây thơ, trong sáng, chưa chút vướng bận gì. Nay tôi đã ngoài năm mươi tuổi, đã lên chức bà nội bà ngoại, con cháu đề huề, công thành danh toại. Dù sống nơi phố phường phồn hoa đô hội, nhưng chưa một phút giây nào tôi nguôi ngoai nỗi nhớ về quê ngoại nghèo khó của mình. Tôi mong muốn được làm một cái gì đó dù nhỏ thôi cho quê ngoại tôi. Đó cũng là niềm mong ước mà suốt cả một đời ba mẹ tôi hằng khát khao nhưng chưa làm được. Mỗi lần về quê ngoại đứng trước bàn thờ gia tiên, bên mộ ông bà, hay ở từ đường nhà thờ họ, bao giờ tôi cũng thành tâm khấn vái cầu mong điều tốt đẹp. Nhưng đôi khi tôi bỗng thấy hoang mang lo lắng giống như nỗi lo của mẹ ngày nào. Đó là rồi đây, cũng như mẹ, tôi sẽ già đi, sẽ không còn được về thăm làng Mai quê ngoại nữa...


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:00:48 pm

MAI VÀNG RỰC RỠ


Ông Đoàn hết trở mình bên này lại lật mình sang bên kia. Đêm nay đã là đêm thứ hai, rất khuya rồi ông vẫn không sao ngủ được. Chiếc đồng hồ đặt trên nóc tủ cứ lách cách, lách cách... đều đặn, tiếng nó không to, nhưng âm thanh phát ra vào những lúc khuya khoắt này khiến người đang thao thức càng không sao chợp mắt được. Ông cũng đã cố quên đi mọi chuyện, cố quên đi... người đàn bà ấy, quên đi tất cả. Khuya lắm rồi, mệt mỏi lắm rồi, ông muốn ngủ một giấc thật ngon để ngày mai làm việc. Chuyện đâu còn có đó, ngày rộng tháng dài lo gì không giải quyết được nhưng ông vẫn không sao ngủ được! Hình ảnh người đàn bà vẫn cứ hiện ra mồn một trước mắt ông.

Hơn năm năm làm cục trưởng ở đây, với một núi công việc liên quan đến ngành hải quan do ông “đứng mũi chịu sào”, chưa bao giờ ông gặp một trường hợp nào khó xử như trường hợp này. Phòng bên, mấy đứa con ông đều đã ngủ say. Ngoài kia, phố xá cũng đã im lìm, lắng lại, nhường chỗ cho một không gian yên tĩnh, trong lành. Chỉ mình ông trong đêm khuya thức một mình, trăn trở một mình. Phải giải quyết việc này như thế nào đây? Câu hỏi như một mũi dao vô hình ngoáy sâu vào từng tế bào trên cơ thể ông, khơi dậy trong ông biết bao nỗi niềm thầm kín.

Là một cán bộ hải quan có thâm niên trên ba mươi năm trong ngành, dù ở cương vị nào, được phân công làm việc gì; khó khăn, vất vả đến đâu, ông cũng là người luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ. Rồi hơn mười năm làm phó cục trưởng, hơn năm năm làm cục trưởng, ông đã thể hiện được mình là một cán bộ xốc vác, năng nổ, có uy tín, được trên trọng dưới kính. Từ trước đến nay, mọi công việc xảy ra trên địa bàn, dù to nhỏ, nặng nhẹ gì, khi được cán bộ cấp dưới đề xuất ý kiến, với chức trách, quyền hạn của mình ông đều chỉ thị giải quyết một cách chóng vánh, thấu tình đạt lý. Lần này vẫn là việc ông làm hàng ngày vậy mà ông đã phải suy nghĩ đến đau cả óc suốt từ hôm qua đến nay vẫn không sao tìm được cách giải quyết thỏa đáng. Lúc thì ông quyết định thế này, lúc lại thế kia. Rồi suy đi nghĩ lại, ông thấy cả hai cách giải quyết, cách nào cũng không ổn. Trong tình trạng bế tắc, lòng dạ ông càng thêm rối bời, lo lắng. Không ngủ được, ông ngồi dậy, nhẹ nhàng đẩy cửa đi ra ngoài hiên và ngồi lại ở đó nhìn ra xa, rất xa... Ừ, mới đó mà đã hơn ba mươi năm rồi! Thời gian như ngọn gió trôi qua thật nhanh, chả trách mái tóc ông ngày một thêm nhiều sợi bạc. Còn người ấy, người đàn bà khiến ông phải trăn trở đêm nay, chắc cũng không còn trẻ nữa. Hơn ba mươi năm trôi qua, tưởng đâu mọi chuyện đã khép vào quá khứ, chẳng ai còn nhớ đến ai nữa. Thế mà nay bỗng từ đâu tất cả lại lần lượt ùa về. Có một cái gì đó không bình thường, không vui trong chuyện này ư? Không, chẳng có gì là không bình thường cả, mà trái lại rất đáng mừng. Ông phải cảm ơn số phận, cảm ơn cuộc đời đã cho ông niềm vui vì được biết tin về người ấy...

Sáng ra, ông Đoàn ăn uống qua quýt rồi đến cơ quan thật sớm. Ông ngồi vào bàn làm việc, mở tập tài liệu đọc lướt qua một lượt rồi đặt bút ký. Xong, ông để tất cả về một bên, chỉ cần để vào đúng vị trí ấy, cô văn thư không cần hỏi cũng biết chắc chắn số tài liệu ấy đã được ông ký duyệt rồi. Tính ông vốn vậy, việc gì cũng phải ngăn nắp, đâu ra đấy. Bỗng có tiếng chuông điện thoại, ông vội vàng cầm lấy ống nghe. Từ đầu dây bên kia có tiếng cậu Tuấn, đội trưởng đội chống buôn lậu trên biên giới:

- Em gọi về xin ý kiến anh nên xử lý thế nào về số hàng lậu bắt giữ chiều hôm trước ạ?

Ông trả lời gần như quát:

- Còn thế nào nữa, cứ đúng pháp luật mà làm. Đã là hàng lậu, hàng cấm thì cứ tùy theo mức độ mà xử lý.

- Nhưng thưa anh... đây là lô hàng của...

- Của ai?

- Dạ... của chị Mai Thùy ạ!

Có một cái gì đó chợt nhói đau trong lòng ông khi ông nghe người cán bộ cấp dưới nhắc đến tên người ấy với một thái độ có vẻ hơi nể nang, rụt rè. Có lẽ hầu hết các nhân viên của ông đã phần nào hiểu được mối quan hệ giữa ông với người đàn bà có tên là Thùy ấy nên mới tỏ ra lúng túng như thế. Họ hiểu nỗi trăn trở của ông khi đứng trước một sự việc mà giải quyết cách nào cũng không dễ. Một lát trôi qua, ông nói:

- Của ai cũng thế thôi, các cậu cứ cho lập biên bản rồi cho hàng vào kho không nể nang ai hết. Hôm trước tôi cũng đã chỉ thị như vậy rồi.

Sau câu nói ông ngồi lặng đi một lúc. Có vẻ như ông rất miễn cưỡng khi phải thốt ra những lời lẽ mà ông hoàn toàn không muốn. Ông thấy mình quá khắt khe nếu không muốn nói là tàn nhẫn khi quyết định như thế. Rồi ông lục tìm xem lại lá thư của người ấy.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:02:14 pm

Sáng hôm kia trong lúc ông đang làm việc thì cô văn thư mang đến cho ông một bức thư. “Thưa chú, có một người phụ nữ nói quen chú gửi lại cho chú lá thư này. Cô ấy đưa cho cháu, cháu chưa kịp hỏi gì cô ấy đã đi ngay rồi ạ!”. Cô văn thư còn tả tỉ mỉ rằng người phụ nữ ấy năm nay khoảng ngoài năm mươi tuổi, dáng người mập mạp, cách ăn mặc có vẻ người thành phố, nói năng rất lịch thiệp. Cầm trong tay chiếc phong bì, ông Đoàn vô cùng ngạc nhiên. Ông có quen ai mà phải gửi thư cho ông bao giờ đâu. Xưa nay mọi mối quan hệ, dù thân hay sơ, dù trao đổi bàn bạc công việc hay chỉ là tình cảm, xã giao... thì thường là người đó trực tiếp gặp ông, nếu không thì chủ yếu liên lạc qua điện thoại, chứ mấy khi gửi thư bao giờ. Mà đây lại là thư của một người phụ nữ mới lại càng ngạc nhiên hơn. Ai thế nhỉ? Ông mân mê chiếc phong bì một lúc rồi mới đọc qua đòng chữ viết rất nắn nót ở bên ngoài: “Đặng Thị Mai Thùy. Kính gửi anh: Trần Minh Đoàn - Cục trưởng cục Hải quan tỉnh...”. Trống ngực ông đập rộn lên một hồi khi mắt ông vừa chạm ngay những dòng chữ đầu tiên. Rồi ông thốt lên như đang nói một mình: “Mai Thùy ư? Trời ơi, có lẽ nào lại là cô ấy ư?”. Ông lật qua lật lại chiếc phong bì, đọc kỹ lại một lần nữa như sợ mình có nhầm lẫn gì không! Không! Không nhầm lẫn! Đúng là cô ấy rồi! Đúng là Mai Thùy thật rồi! Đúng là người mà ông hằng nhắc nhở, gọi thầm tên trong từng ấy năm biền biệt, không tin tức. Thì ra cô ấy vẫn còn sống chứ không phải đã hy sinh như ông lầm tưởng. Vậy từ ấy đến nay cô ấy ở đâu, cuộc sống thế nào? Mà tại sao đến bây giờ Mai Thùy mới liên lạc với ông? Và tại sao lại bỏ đi không gặp ông chỉ để lại bức thư này?

Ông Đoàn tay run run mở lá thư đọc liền một mạch: “Anh Minh Đoàn thân mến! Có lẽ khi nhận được lá thư này anh sẽ rất ngạc nhiên. Nhưng em tin khi đọc xong anh sẽ hiểu tất cả. Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ ngày ấy. Đất nước, quê hương đã có những thay đổi thật lớn lao. Anh và em, hai người hai hoàn cảnh khác nhau nhưng ở mỗi người đều có những đổi thay nhất định. Từ ngày ấy đến nay, qua bạn bè, người thân em vẫn biết rất rõ về anh và luôn luôn dõi theo từng bước trưởng thành của anh trên mọi chặng đường công tác. Và em đã thực sự phấn khởi khi thấy anh “công thành danh toại”, xứng đáng với gia đình, quê hương; xứng đáng với lòng mong mỏi của biết bao đồng đội, bạn bè, trong đó có em, những người đã cùng anh chiến đấu, hy sinh trong những năm tháng chiến tranh vô cùng gian khổ, ác liệt trước đây. Còn em, sau lần chia tay với anh cũng không còn ở lại nơi ấy mà theo đà thắng lợi của chiến dịch tiếp tục đi sâu vào tuyến trong. Em chỉ có thể trở lại nơi miền quê có nhiều hoa mai ấy khi nước nhà đã hoàn toàn độc lập và sinh sống ở đấy cho đến tận bây giờ. Mấy chục năm qua, em đã bao lần định tìm đến anh để được tâm sự với anh cho thoả nỗi nhớ mong... Nhưng em đã không làm vậy khi biết anh đã có một tổ ấm gia đình đang tràn trề hạnh phúc. Mấy năm trước em được tin chị nhà mất trong một vụ tai nạn giao thông, để lại anh và các cháu côi cút trên đời. Thú thật với anh lúc đó em đã định tìm đến với anh ngay. Bằng tính nhạy cảm của người phụ nữ và bằng những quá khứ ngọt ngào, yêu thương mà chúng mình từng dành cho nhau, em tin, nếu em đến chắc chắn anh sẽ dang rộng vòng tay đón em. Nhưng, một lần nữa em đã gạt mọi ý nghĩ đó sang một bên. Em không muốn làm phiền anh, không muốn chen ngang vào cuộc sống của gia đình anh khi các con anh không còn mẹ nữa mà cha của chúng lại phải san sẻ tình cảm cho một người đàn bà khác là em. Vả lại, em cũng có một gia đình - tạm gọi là gia đình - và cũng đang sống một cuộc sống như tất cả những người đàn bà khác từng đi qua chiến tranh. Rồi sau này anh sẽ hiểu tất cả về em.

Anh Đoàn thân mến! Bây giờ có một việc em cần nhờ đến anh giúp đỡ. Em biết việc này chỉ có anh mới có thể giúp được cho em mà thôi... ”
.

Phần cuối của bức thư bà Mai Thùy nói với ông Đoàn rằng, bà có một đứa con gái và đó cũng là đứa con duy nhất của bà, hiện nó đã có chồng có con đang sinh sống cùng bà. Nó là một đứa con ngoan, xinh xắn, hiếu thảo với mẹ, yêu chồng thương con, chăm chỉ làm ăn. Nhưng rồi không biết do trời xui đất khiến thế nào mà cách đây chừng một tuần, nghe bạn bè rủ rê, nó dồn tất cả vốn liếng tích cóp được, lại còn vay hết số tiền mà bà đã dành dụm được để qua biên giới buôn bán làm ăn. Ngay từ chuyến đi đầu tiên nó đã bị lực lượng hải quan ở cửa khẩu biên giới bắt giữ tất cả hàng hoá. Xót của, thương con, bà đã trực tiếp đến đó cầu xin họ tha, nhưng không một ai nhất trí giải quyết. Sực nhớ đến ông, bà liền viết lá thư này...

Ông Đoàn đọc xong bức thư thì thở dài, lộ rõ niềm xúc động. Đã hai ngày trôi qua mà đầu óc ông không một phút thảnh thơi. Hai đêm ông trằn trọc, thao thức, không ngủ được. Hôm nay đã là ngày thứ ba ông đến cơ quan trong một trạng thái như thế. Lúc rảnh việc, ông ngả người ra ghế như muốn dành cho mình một khoảng thời gian yên tĩnh để nhớ về một thời đã qua.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:03:16 pm

Ngày ấy... Không còn tiếng nổ ác liệt, nhưng khói lửa thì vẫn rần rật cháy. Những đám cháy lan từ công sự địch, nơi ngổn ngang xác người tử trận của cả hai bên. Cả trận địa như một chảo lửa khổng lồ, hung hãn. Trần Minh Đoàn cố lết ra khỏi những đám lửa vây quanh, lăn xuống một hố bom và ngất đi không còn biết gì nữa. Lúc tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm trong một căn hầm. Không biết nơi này là ở đâu và ai đã đưa anh về đây? Anh chỉ biết là mình đang rất đau, đau khắp người. Sờ vào nơi nào anh cũng thấy tê dại, nhức buốt. Anh cố cử động, nhúc nhích để thử xem mình bị thương ở những đâu. Rồi anh mường tượng lại tất cả những gì đã xảy ra với anh trước đó. Anh nhớ rất rõ anh đã thoát được ra khỏi cái chảo lửa ấy như thế nào. Rồi sau đó, trong cơn đau, lúc tỉnh lúc mê, anh vẫn biết có một người con gái luôn luôn ở cạnh anh, chăm sóc cho anh. Chính người con gái ấy đã một mình khó nhọc đưa anh từ cõi chết trở về. Bàn tay người con gái ấy thật mềm mại, mát mẻ. Anh có cảm tưởng sự sống trở lại trong anh, vết thương lành lặn trên cơ thể anh chính là từ sự mềm mại, ân cần của đôi bàn tay ấy ngày ngày truyền sang cho anh.

Phải gần một tháng sau những vết thương trên người anh mới lành hẳn. Sức khoẻ anh trở lại bình thường. Trong căn hầm giữa rừng sâu, bốn phía là giặc, vẫn chỉ có hai người, một trai một gái sống bên nhau. “Tên em là Mai Thùy, vì quê em là vùng biên cương nên khi sinh em, ba mẹ em đã đặt tên con gái mình là Biên Thùy. Sau này em thấy tên ấy có vẻ hơi con trai nên em sửa lại thành Mai Thùy. Vả lại tên ấy cũng rất có ý nghĩa với em. Vì quê em có rất nhiều hoa mai. Không biết ai đã trồng chúng ở đây và từ lúc nào. Chỉ biết khi lớn lên em đã thấy cả một rừng hoa mai bạt ngàn nơi vùng biên cương này. Bây giờ đang là mùa thu anh chưa biết đấy thôi, chứ chỉ vài tháng nữa khi mùa xuân đến, ở đây suốt cả tháng ròng, lúc nào cũng vàng rực một màu hoa mai trông đẹp lắm anh ạ! Anh có thích màu vàng của hoa mai không? Người ta bảo màu vàng là màu của cách biệt, chia ly, nhưng màu vàng cũng là màu của hy vọng và chờ đợi. Em rất yêu màu vàng, màu vàng của hoa mai em lại càng yêu hơn”. Một lần khi nghe anh hỏi tên, người con gái ấy đã trả lời anh bằng chính vẻ đẹp của quê hương mình như thế!

Mai Thùy là chiến sĩ giao liên của trạm A12 nằm trong rừng sâu, nơi có những con đường bí mật luồn lách đi các ngả mà chỉ người giao liên mới có thể biết. Trạm của cô có bốn người nhưng ba người đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Còn lại một mình, Mai Thùy vẫn kiên quyết bám trạm và một lần “băng rừng vượt suối” chuyển công văn cô đã thấy Minh Đoàn bị thương đang nằm dưới một hố bom.

Mặc dù đã bình phục sức khỏe, nhưng chưa thể trở lại đơn vị, anh đành ở lại với Mai Thùy và tạm thời trở thành chiến sĩ giao liên. Mai Thùy là một cô gái khoẻ mạnh, rắn rỏi, nước da bánh mật, thứ nước da chỉ con gái vùng biên mới có. Nhưng Mai Thùy lại có duyên và có sức hấp dẫn đến lạ lùng ở đôi mắt. Một đôi mắt đen thăm thẳm. Một đôi mắt mà bất cứ người con trai nào khi nhìn vào cũng phải mê muội, đắm đuối. Minh Đoàn đã thực sự bị chinh phục bởi đôi mắt ấy của Mai Thùy. Cô giao liên cũng không thể từ chối mãi những câu nói, những cử chỉ ngập tràn yêu thương của anh chiến sĩ giải phóng. Và họ đã yêu nhau bằng tất cả tình cảm khát khao ở mỗi người. Họ yêu tha thiết, yêu đến cuồng si, yêu đến lay rừng chuyển núi. Họ bất chấp tất cả, chỉ biết có tình yêu. “Anh sẽ yêu em và đợi em cho đến lúc nào nước nhà độc lập, thống nhất anh sẽ cưới em. Chúng mình cùng ở lại vùng biên cương này và sẽ sống bên nhau trọn đời!”. “Em cũng sẽ mãi mãi yêu anh, cho dù sau này cuộc chiến có còn kéo dài và anh có xa em đi đâu đi chăng nữa thì em vẫn không thay lòng đổi dạ mà vẫn ở vậy chờ anh!”. Tiếng hai người lẫn trong tiếng gió rừng lao xao và như chìm đi trong tình cảm yêu thương nồng cháy mà cả hai cùng tự nguyện trao gửi cho nhau. Hôm hai người chia tay, Mai Thùy đã cắn vào vai người yêu đến rớm máu như muốn ghi dấu ấn trên cơ thể anh và gửi gắm tất cả tình yêu thương, hy vọng của mình. Minh Đoàn trở lại đơn vị, tiếp tục hành quân chiến đấu. Từ đó anh không còn nhận được một chút tin tức nào về Mai Thùy nữa. Bao tháng ngày đi qua, bao trận đánh đi qua, đời lính trận nay đây mai đó, nhưng trong lòng anh không một giây phút nào vắng bóng người yêu. Sau giải phóng anh mới có dịp quay trở lại vùng biên, nơi có những rừng mai để tìm Mai Thùy, nhưng nghe nói cô đã theo chân các chiến sĩ giao liên ra đi vào dạo ấy và đã hy sinh, nên anh đành lặng lẽ quay về...

Ông Đoàn vẫn ngả người trên ghế, tay mân mê bức thư của Mai Thùy. Chợt ông giật mình khi nghĩ tới một điều gì đó. Ông vội mở bức thư đọc lại một lần nữa. Trán ông hằn thêm những nếp nhăn. Bây giờ điều day dứt trong ông không còn đơn giản như ông nghĩ là nên hay không nên bắt lô hàng lậu nữa, mà đó còn là tình cảm riêng tư cách đây mấy chục năm giữa ông với Mai Thùy. Trong bức thư này đâu là tình cảm chân thành, đâu là uẩn khúc mà Mai Thùy còn giấu kín trong lòng chưa muốn thổ lộ với ông? Lại có tiếng chuông điện thoại. Nhưng lần này người đầu dây bên kia là Phó cục trưởng Thành:

- Tôi đang ở trạm cửa khẩu chỉ đạo giải quyết những tồn động ở đây. Thưa anh, tôi thực sự lúng túng không biết nên xử lý thế nào với lô hàng của con gái chị Mai Thùy...

Ông cắt ngang với một thái độ giận dữ:

- Không phải sáng nay tôi đã chỉ thị cho cậu Tuấn rồi sao! Anh là lãnh đạo mà cũng chần chừ vậy ư?

- Nhưng thưa anh đây là một trường hợp đặc biệt. Bà Mai Thùy là người thân của anh. Chúng ta nên...

- Chúng ta nên tha cho họ chứ gì? Anh có biết làm vậy là sai pháp luật, là tiếp tay cho buôn lậu không? Một lần nữa tôi đề nghị các anh không thể vì cá nhân tôi mà dung thứ cho bất cứ ai.

- Nhưng hôm qua chúng tôi đã thống nhất và đi đến quyết định...

- Tôi chân thành cảm ơn các anh, nhưng tôi hoàn toàn không nhất trí cách giải quyết đó được.

Tiếng ông nghe thì có vẻ mạnh mẽ, cương quyết vậy nhưng trong lòng ông thì như đang có cả trăm mối tơ vò. Không biết ông làm vậy có tàn nhẫn với ân nhân của ông, tàn nhẫn với người một thời đã gửi trọn tình yêu thương cho ông không?


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:03:54 pm

Hai ngày nghỉ cuối tuần, ông Đoàn một mình trở lại vùng biên nơi từng để lại trong ông những kỷ niệm đẹp. Lâu lắm rồi ông mới có dịp thăm lại nơi này. Những ngày sau tết Nguyên đán phong cảnh ở đây vẫn như còn nguyên vẹn hương sắc của mùa xuân. Nhưng đẹp hơn cả, xao xuyến lòng ông hơn cả vẫn là những rừng mai. Ngày ấy ông chưa được nhìn thấy mùa mai nở rộ. Bây giờ trước mặt ông là cả một rừng mai nở muộn. Màu vàng của triệu triệu cánh hoa như một tấm lụa trải dài vắt mình bên những sườn đồi đẹp đến ngơ ngẩn lòng người. Người ta chỉ cho ông một ngôi nhà mới xây ngay giữa thị trấn, phía trước trồng rất nhiều hoa mai người ta nói với ông đó là nhà của bà Mai Thùy.

Chần chừ một lát rồi thì ông Đoàn cũng mạnh dạn bước vào ngôi nhà ấy. Ông gặp ngay bà Mai Thùy khi bà vừa từ trong nhà đi ra. Tim ông đập rộn lên, đã lâu lắm rồi ông mới gặp lại cảm giác trẻ trung ấy ở mình. Một phút sững sờ trôi qua, cả hai cứ đứng lặng nhìn nhau mà không nói được một lời. Có vẻ như ai cũng rất xúc động, bồi hồi khi gặp lại nhau. Nếu có thể họ đã lao vào ôm lấy nhau như những ngày cả hai còn ở trong rừng sâu. Nhưng hình như cả hai đã cố nén cảm xúc thực của mình, cố giữ cho nhau một khoảng cách.

Cuộc hội ngộ vừa bất ngờ vừa như được báo trước này diễn ra đúng cái nơi họ từng gặp nhau lần đầu. Đó là ngày cả hai hãy còn rất trẻ, phơi phới sức xuân. Ba mươi năm trôi qua, giờ thì tóc của cả hai cũng đã lưa thưa sợi bạc. Gặp nhau họ như quên đi mọi chuyện vừa xảy ra. Họ tránh không đả động gì đến chuyện công tác, làm ăn của nhau. Ký ức về một thời bên nhau cứ thế ùa về. Nó lấn át tất cả mọi mặc cảm, giận hờn, trách móc. Cảm xúc bộn bề làm cho câu chuyện chốc chốc trở nên rời rạc, đứt quãng. Rồi như không biết phải nói gì, hai người lại đưa mắt nhìn nhau. Một chút ngập ngừng, e thẹn ở cả hai và hình như trên khoé mắt bà Mai Thùy có mấy giọt lệ lăn ra chỉ đủ để ươn ướt nơi vành mi. Ba mươi năm trôi qua nhưng đôi mắt bà không khác xưa là mấy. Đôi mắt ấy vẫn đen thăm thẳm, vẫn lay động lòng người. Ông Đoàn đã nhìn rất lâu vào đôi mắt ấy, đôi mắt một thời từng làm ông mê mẩn. Đôi mắt mà trong suốt hàng bao nhiêu năm qua không lúc nào ông nguôi ngoai nỗi nhớ. Và bây giờ khi lại được nhìn vào đôi mắt ấy thì trong ông tất cả quá khứ lại lần lượt hiện về.

Trong lúc ông Đoàn đang mơ màng nhớ về một thời đã qua thì bà Thùy lại đột ngột nhớ tới một chuyện khác. Đó là cách đây mấy ngày, Mai Hương, con gái bà phát hiện trong tài khoản cá nhân của nó có ai đó vừa gửi vào hai trăm triệu đồng. Nghe con gái khoe, ban đầu bà hơi ngạc nhiên nhưng rồi bà cũng đoán ra ai là người đã gửi số tiền đó. Mãi lúc ông Đoàn đứng dậy ra về, bà Mai Thùy mới rơm rớm nước mắt nói với ông. Rằng bà đã làm phiền ông một việc khiến ông khó xử. Nhưng tại sao ông phải làm vậy? Tại sao ông lại phải mang tiền riêng của ông ra chuyển vào tài khoản của Mai Hương con gái bà? Những hai trăm triệu đồng! Đó là một số tiền lớn cả đời ông dành dụm mới có được. Rằng ông không thể tha cho con gái bà để khỏi mang tiếng dung túng cho kẻ buôn lậu, nên ông muốn dùng số tiền đó bù đắp cho con gái của bà ư? Hay là ông muốn đền ơn trả nghĩa bà vì trước đây bà đã từng chăm sóc, cứu sống ông? Giọng bà nửa thương cảm, nửa giận hờn, trách móc. Thì ra mọi việc ông làm bà Thùy đã biết cả.

Đúng là tuần trước ông đã hỏi trạm hải quan cửa khẩu số tài khoản cá nhân của con gái bà đang được giữ ở đó để chuyển số tiền ấy. Bây giờ nghe bà Thùy nói vậy ông không biết phải trả lời bà thế nào. Bất chợt bà Thùy nhìn thẳng vào mặt ông Đoàn và nói:

- Nhưng nếu chỉ vì vậy thôi thì em xin được hoàn trả lại cho anh số tiền đó. Đồng tiền rất quý nhưng không phải ai cũng có thể nhận và nhất lại là vì những lý do như thế. Một người như em thì lại càng không bao giờ cho phép mình được làm như thế.

- Anh chỉ muốn giúp em. - Ông Đoàn ngậm ngùi nói.

- Từng đó đã ăn thua gì, đã thấm tháp vào đâu so với những gì...

Bà Thùy cắt ngang:

- Em đã nói rồi... nếu chỉ vì thế em sẽ trả lại anh!

- Tại sao?

- Anh không cảm nhận được gì ư? - Tiếng bà Thùy trở nên hổn hển. - Anh vô tâm đến thế ư? Anh không biết gì cả sao, anh không nhớ chút gì sao? Trời ơi, em biết nói gì đây để anh hiểu! Bao nhiêu năm trôi qua, em đã phải một mình cực nhọc, vất vả nuôi con, một mình chịu đủ điều tiếng, khổ sở trăm đường... Anh khờ khạo đến thế sao?...

Những câu sau cùng phải cố gắng lắm bà Thùy mới thốt ra được. Tiếng bà nghẹn lại như không thể nói thêm được nữa. Nước mắt bà chảy tràn trên má. Rồi bà loạng choang ngã vật xuống đất. Ông Đoàn bước đến choàng tay ôm lấy bà. Cả người bà như lọt thỏm vào vòng tay ông. Vừa dìu bà ngồi xuống ghế, ông vừa hỏi, giọng lạc đi:

- Em vừa nói gì? Em... em nói lại cho anh nghe đi!

Bà Thùy nhìn ông nói trong nước mắt nghẹn ngào:

- Nó đấy! Nó là Mai Hương, là cái con đi buôn lậu bị bắt, là cái con mà anh đã bỏ tiền túi ra cho nó. Nó… nó là con gái của anh đó!

- Con của tôi ư? - Ông Đoàn xúc động kêu lên. - Trời ơi, vậy mà bao nhiêu năm nay mà em không hề cho anh hay biết. Nó đâu rồi? Mai Hương đâu rồi? Con của chúng ta đâu rồi? Em gọi nó về đây cho anh!

Sau những giây phút xúc động, bàng hoàng ông từ từ bình tâm lại nhìn ra bên ngoài. Ở đó, ngay trước mắt ông là những gốc mai, là những rừng mai bạt ngàn, mênh mông một màu vàng rực rỡ.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:06:22 pm

CHUYỆN TÌNH CỦA LÍNH


Tốt nghiệp ra trường, Thường về nhận công tác tại một đơn vị quân đội, đóng quân ở một thành phố miền Trung. Theo dư luận, thì Thường thuộc vào hàng sĩ quan có tuổi đời trẻ nhất, được đào tạo bài bản, chính quy nhất, ngoài ra anh còn có thêm đôi chút “râu ria” đi kèm là khỏe mạnh, thông minh và khá bảnh trai. Con đường phía trước của anh - cũng theo dư luận - còn rất dài và có nhiều triển vọng tốt cho tương lai. Nghĩa là ở anh đã quy tụ được tương đối đầy đủ những phẩm chất cần thiết cho một sĩ quan quân đội.

Thường không mấy quan tâm đến những tán tụng, bình phẩm có ý “thêm thắt” theo kiểu lính của anh em trong đơn vị. Anh chỉ thấy mình là người may mắn. Và cuộc đời, dẫu không thiên vị, cũng luôn mang đến cho anh những niềm vui bất ngờ. Thường vốn sinh ra và lớn lên trong một gia đình mà cả bố lẫn mẹ trước đây cũng đều theo binh nghiệp và lại là lính chiến hẳn hoi. Bố Thường hồi còn công tác đã đeo quân hàm thượng tá, làm đến chức chủ nhiệm hậu cần sư đoàn. Đồng đội ông hồi đó phần lớn lăn lộn, trưởng thành trong chiến đấu, có người đang tại ngũ, trở thành những tướng lĩnh nắm giữ những chức vụ quan trọng trong các quân, binh chủng. Ngay lớp chiến sĩ của bố Thường ngày ấy giờ có người đã là chính ủy, trung đoàn trưởng, thậm chí có người đã là chỉ huy trưởng bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Ngay từ khi đang học phổ thông, Thường đã có ước mơ sau này được trở thành sĩ quan phục vụ lâu dài trong quân đội. Vì thế anh miệt mài học tập và đã thi đỗ vào một trường đào tạo sĩ quan. Rồi khi ra trường, Thường lại được điều động về công tác ngay chính tại đơn vị ngày trước của bố anh. Và người chỉ huy trực tiếp của anh bây giờ, không ai khác, mà là một trung tá còn rất trẻ, từng là chiến sĩ của bố anh trước đây.

Hồi còn ở nhà, Thường cũng đã yêu. Nhưng tình yêu hồi ấy, nói như văn thơ sách vở, thì đó chỉ là thứ tình yêu tuổi học trò. Nghĩa là chỉ yêu theo cảm tính, yêu mà chưa xác định một tý ty gì cho tương lai. Mẹ anh động viên: “Con hãy học hành cho đến nơi đến chốn, chuyện yêu đương hẵng tính sau. Con trai bây giờ phải phấn đấu ổn định công việc rồi yêu đương, xây dựng gia đình vẫn chưa muộn”. Còn bố Thường thì bao giờ cũng khề khà cười bảo: “Tao với mẹ mày ngày trước ở chiến trường đâu có nghĩ gì đến tuổi tác. Lúc mười tám đôi mươi thì bám trụ ở chiến hào, đạn dưới bom trên, cái sống cái chết không có phân định, ranh giới. Chiến trận ác liệt là vậy nhưng được cái lúc nào cũng lạc quan yêu đời, coi thường cái chết và xem đó là sự hy sinh vì mục đích và lý tưởng của cuộc đời. Đến khi tình hình có vẻ yên tĩnh, được lui về tuyến sau nghỉ ngơi, ui dào, nói là nghỉ ngơi, chứ nào có được nghỉ ngơi gì đâu, chỉ khác với tuyến trong một chút là đỡ ác liệt hơn, chứ cũng phải ngày ngày đối mặt với đạn bom. Rồi đến khi mẹ mày và tao gặp nhau thì cả hai đã ngoài ba mươi. Đấy là tao mới chỉ nói là gặp và yêu nhau thôi, chứ để thành vợ thành chồng có được anh em chúng mày thì phải đợi đến khi miền Nam giải phóng. Nghĩa là lúc ấy mẹ mày và tao cũng đã băm mấy tuổi rồi”. Theo như bố mẹ kể lại thì tình yêu của hai người hồi ấy tuy điều kiện chiến tranh, bom đạn nhưng cũng lãng mạn và đẹp lắm! Mẹ là chiến sĩ lái xe Trường Sơn, đã gặp và yêu bố trong những lần vận chuyển lương thực vào chiến trường. Tình yêu của hai người bền chặt năm này qua năm khác chủ yếu qua những lá thư viết vội gửi cho nhau. Còn gặp nhau thì mỗi năm họa hoằn lắm mới có một lần. Có lần để gặp được mẹ, bố đã phải băng rừng vượt suối, đi bộ gần nửa ngày đường trong điều kiện máy bay địch oanh tạc dữ dội mới đến được chỗ mẹ giao hàng. Nửa ngày cho một chuyến đi, nhưng chỉ được ở cạnh người yêu có vài tiếng đồng hồ để rồi phải chia tay trở về đơn vị ngay trong đêm cho kịp ngày mai làm nhiệm vụ. Kỷ luật chiến trường hồi ấy rất nghiêm khắc và cũng không ai dám trái lệnh chỉ huy. Lại có thời kỳ do tin đồn thất thiệt, rằng người này hy sinh, người kia hy sinh nhưng bố mẹ anh vẫn vững dạ chờ nhau cho đến ngày đất nước thống nhất. Tình yêu thời chiến tranh dẫu có phải xa cách, phải gian nan khó khăn nhưng có thể nói nó đẹp vô cùng. Thú vị và đẹp nhất vẫn là những chuyện tình của lính. Nghĩ thế. Thường lại nhớ đến Hiền. Giờ này ở nơi xa Hiền đang làm gì nhỉ? Cô có biết rằng lúc này đây anh đang nhớ đến cô không?

Thường gặp và yêu Hiền trong một trường hợp hết sức tình cờ. Ngày mới ra trường về đơn vị công tác được ít lâu Thường được ban chỉ huy “linh động” giải quyết cho nghỉ mấy ngày phép về thăm nhà. Hôm trở lại đơn vị, trên chuyến tàu tốc hành, khi đang ngồi gần cửa sổ ngắm nhìn phong cảnh bên ngoài thì có tiếng ai đó gọi anh: “Anh bộ đội ơi, cho em cùng ngồi đây với!”. Thường nhìn lên và nhận ra đó là một cô gái trẻ. Anh nhanh nhẹn ngồi sát vào thành tàu. Cô gái đặt chiếc túi xách xuống khoảng trống rồi ngồi xuống cạnh anh. Thường chưa kịp nói gì thì cô đã lại nói tiếp như muốn phân bua: “Anh biết không, đằng kia có một tốp thanh niên vừa uống rượu vừa nói năng rất tục tĩu. Em sợ quá nên phải chạy đến đây đấy! - Rồi cô hỏi.- Anh xuống ga nào?”.

- Tôi xuống ga... ! - Thường đáp và hỏi lại. - Còn cô?

Đáp lại người sĩ quan trẻ là một nụ cười rạng rỡ. Rồi cô gái nói to gần như reo lên:

- Vậy ư? Em cũng xuống ga ấy. Chắc tàu vào đến nơi cũng tối rồi anh nhỉ? Nhưng mà có anh cùng xuống là em yên tâm rồi. Nghe nói ga ấy bây giờ cũng lộn xộn lắm! Thế xuống ga ấy rồi anh còn đi đâu? Thế ư? Anh ở đơn vị ấy à? Ba em cũng là bộ đội.

Tàu băng qua một cây cầu đài. Tiếng cô gái chìm đi trong tiếng lăn ầm ầm của bánh sắt nghiến trên đường ray khiến cho câu chuyện thỉnh thoảng bị đứt quãng. Thường không biết đây là sông gì, nhưng cảnh vật ở đây xem ra cũng rất đẹp bởi đất đai trù phú, màu mỡ.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:07:14 pm

Câu chuyện chuyển sang một hướng khác. Vừa trò chuyện Thường vừa thận trọng ngắm nhìn cô gái. Quả là một cô gái đẹp, rất đẹp nữa là đằng khác. Mặt trái xoan, nước da trắng, mịn màng. Tóc rất đen và dày. Miệng thì lúc nào cũng chúm chím cười trông rất dễ thương. Giọng cô dịu dàng nghe như trộn lẫn giữa hai thứ giọng của người miền Bắc và miền Trung. Khi câu chuyện đã trở nên cởi mở, cô tự giới thiệu với Thường tên cô là Hiền, đang sống cùng gia đình ở một thành phố miền Trung. Cô vừa tốt nghiệp đại học, đang chuẩn bị theo học thêm hai năm nữa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vì thời gian này rảnh rỗi cô tranh thủ ra Bắc thăm bà ngoại và bây giờ đang trên đường về nhà. Thường cũng giới thiệu tên mình và kể qua về bản thân cho Hiền nghe. Câu chuyện của hai người trở nên thân mật từ khi nào chẳng biết. Họ kể cho nhau nghe đủ chuyện về quê hương, gia đình... cứ như họ đã là bạn bè thân thiết của nhau từ lâu rồi. Thường để ý thấy Hiền mấy lần nhắc đến ba mình, nhưng cứ lấp lửng, lấp lửng, thành ra anh chỉ hiểu mang máng là ba Hiền đang bận công tác gì đó ở xa. Câu chuyện càng lúc càng say, tàu đã qua mấy ga mà cả hai dường như không hề hay biết. Bóng chiều bắt đầu buông xuống. Cảnh vật hai bên chuyển dần sang màu vàng nhạt. Rồi vàng thẫm. Để rồi cuối cùng đen đặc lại không còn nhìn thấy gì nữa. Cả Thường và Hiền dường như không ai nhận ra điều đó. Họ không để ý đến thời gian và cũng không biết là họ đã nói với nhau, kể với nhau những chuyện gì. Tiếng Hiền nhẹ nhàng, êm ái. Và cả hương thơm ngọt ngào từ mái tóc Hiền tỏa ra càng khiến cho Thường cảm thấy nôn nao trong một tình cảm rất khó tả. Để rồi sau đó, có một cái gì như xui khiến, làm bừng dậy trong anh một nỗi khát khao và một tia hy vọng, dù còn rất mong manh. Trong ký ức Thường ngay từ khi chập chững vào đời đã luôn khát khao về một tình yêu đích thực cho cuộc đời mình. Cả sau này cũng vậy, lúc nào anh cũng ngóng trông, chờ đợi. Anh hình dung tình yêu như là một thứ gì đó rất cụ thể, rất rạch ròi và công bằng, sẽ lần lượt ban phát cho tất cả mọi người. Có ai đó đã từng nói với anh rằng, nếu cuộc sống là một bông hoa thì tình yêu chính là mật, là hương của bông hoa đó. Con người ai cũng có tình yêu. Và tình yêu có thể đến nhanh với người này, nhưng lại đến chậm với người kia. Nó được nảy nở, hình thành trong bất cứ hoàn cảnh nào giữa người con trai và người con gái. Một cuộc gặp gỡ tình cờ trong một lần dạo phố. Một buổi tối đi xem phim. Một chuyến xe cùng hành trình... Với hoàn cảnh hiện tại giữa Thường và Hiền lúc đó chưa có gì để gọi là tình yêu sét đánh. Nhưng không hiểu sao cả hai người tự nhiên cùng cảm thấy thân thiết, gần gũi nhau lạ lùng. Phải chăng trong mỗi con người, ở cả Thường và Hiền, lúc này đây như đang cùng có chung nhịp đập của một con tim? Dù không nói ra, nhưng hai người đều cảm thấy như vậy và họ thầm mong sao cho con đường phía trước hãy dài thêm ra, thời gian hãy ngừng trôi. Họ như cùng sợ cái giây phút phải chia tay, phải xa nhau. Qua ánh mắt họ như cùng nhận ra điều đó trên gương mặt của mỗi người.

Rồi thì tàu cũng đến ga. Thường xách thêm cái túi của Hiền và chìa tay đỡ cô khi bước xuống bậc cửa tàu. Bàn tay mềm mại, ấm nóng của Hiền, chỉ một lát, một lát thôi trong tay Thường, nhưng làm anh bối rối. Anh ước giá mà được nắm bàn tay ấy thật lâu, thật lâu hơn nữa... Thường đưa Hiền ra tận xe taxi ngoài cổng ga, còn cẩn thận nói thêm: “Nếu em cảm thấy chưa an tâm anh sẽ đưa em về tận nhà”.

- Thế này được rồi anh ạ! - Hiền ngượng ngùng trả lời.

- Anh tranh thủ về đơn vị kẻo muộn. Nhớ địa chỉ của em chưa? Đúng ngày ấy em sẽ chẳng đi đâu mà chỉ ở nhà đợi anh thôi đấy! Anh không đến là em giận anh cho mà xem!

Thường trìu mến nhìn Hiền, nghiêm trang đáp:

- Hiền yên tâm, đúng ngày ấy anh sẽ đến, chắc chắn anh sẽ đến.

Thường đứng lặng nhìn theo cho đến khi chiếc xe taxi khuất hẳn vào bóng đêm. Những ngày sau đó, lúc nào Thường cũng nghĩ đến Hiền. Anh cảm thấy nhớ và mong sao sớm được gặp lại cô.

Đến hẹn và cũng trùng vào ngày nghỉ cuối tuần, Thường một mình tìm đến nhà Hiền. Đúng số nhà, anh đứng một lúc ngoài cổng nhìn vào. Quả là một ngôi nhà đồ sộ, được thiết kế cầu kỳ, đẹp đẽ, lại nằm ngay trung tâm thành phố. Xung quanh nhà là những khoảnh đất trống được trồng đủ các loại cây ăn quả. Cái cổng đá được xây theo kiểu hình vòm và trồng hai cây tùng rất cân đối ở hai bên. Thường bấm chuông và thấy trống ngực mình bắt đầu đập loạn lên. Một người đàn bà trạc gần sáu mươi tuổi, da dẻ hồng hào từ trong nhà đi ra. Thấy Thường bà nở một nụ cười rất tươi:

- Kìa! Chào chú bộ đội!

- Dạ! Cháu chào bác! Thưa bác... đây có phải là nhà của Hiền không ạ?

Thường vừa dứt lời thì người đàn bà đã đon đả:

- Đúng! Đúng rồi! Cháu là bạn của Hiền hả? Còn bác, bác là mẹ của Hiền. Em nó cũng vừa nói với bác hôm nay nó có khách, có anh bộ đội đến chơi. Nhưng nó lại mới chạy ù ra phố có tý việc. Nó vừa đi thì cháu đến đấy! Chà, quý hóa quá! Cháu vào nhà đi, vào đi, có bác trai đang ở trong nhà ấy. Hai bác cháu nói chuyện với nhau một lát, em nó về bây giờ đấy!

Thấy bà mẹ Hiền vui vẻ mời chào, Thường bớt hồi hộp và có phần tự nhiên hơn. Anh dắt xe máy vào sân rồi đi thẳng vào nhà. Thường bước lên mấy bậc tam cấp rồi đi về phía cửa chính đang rộng mở. Nhưng... Thường bỗng đứng khựng lại như trời trồng. Mặt anh biến sắc. Một luồng điện vừa chạy dọc sống lưng anh. Tim anh đập rộn lên như trống khải hoàn. Mồ hôi cũng túa ra đầy mặt. Trước mặt anh, phía bên phải, ngay sát với cửa sổ chính, cách anh chừng mấy bước, một người đàn ông có tuổi đang cắm cúi ghi chép gì đó vào một cuốn sổ. Mặt ông hồng hào, phương phi, trông rất nghiêm nghị. Và Thường kịp nhận ra ông chính là trung tướng tư lệnh quân khu mới đến thăm và nói chuyện với đơn vị anh cách đây không lâu.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:09:23 pm

Thường đứng như chôn chân ở ngưỡng cửa, không bước thêm được bước nào. Hàm anh cứng lại không thể điều khiển được. Quả thật lúc ấy người anh như mụ đi, run lên, cả vì ngại ngùng lẫn sợ hãi. Trong khi ấy người đàn ông trong nhà thoáng thấy có người đi vào liền dừng bút, gỡ kính, nhìn ra. Cái động tác khoan thai của ông càng làm cho Thường thêm mất bình tĩnh. Không chần chừ gì nữa, anh quay gót một trăm tám mươi độ, bước thẳng ra sân.

Thấy khách quay bước, bà mẹ chạy vội ra níu tay anh lại: “Kìa cháu, sao cháu lại về? Đợi một lát là em nó về ngay bây giờ ấy mà. Bác trai đang ở trong nhà... Ông ơi, nhà ta có khách này…”.

- Thưa bác, cháu xin lỗi... cháu nhầm nhà! - Thường lúng túng đáp rồi cứ thế dắt xe đi vội ra cổng.

Bà mẹ vẫn lẽo đẽo chạy theo níu kéo:

- Sao lại nhầm nhà? Đúng là nhà Hiền đây mà...

Thường như không nghe thấy gì nữa. Anh vội vã cho xe nổ máy phóng đi mặc cho bà chủ nhà đứng gọi theo mà không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cũng lúc ấy Hiền trở về nhà, biết Thường đến rồi lẳng lặng bỏ về, cô đã tức tưởi khóc và... bắt đền bố mẹ. Cha cô là người rất thương con, chiều con. Nhất là với Hiền, cô con gái út ít của ông thì ông lại càng cưng chiều nhất mực. Ông vuốt tóc con gái: “Thì ba đã gặp khách của con đâu, sao con lại cho là tại ba? - Rồi như hiểu hết lòng con, ông hỏi con gái. - Thế bạn con tên gì, ở đơn vị nào? Hai đứa quan hệ thế nào với nhau? Con có thể cho ba biết rõ hơn được không? Nào, con nói đi rồi ba sẽ đền cho con...”.

Một tuần trôi qua nhanh chóng. Nhưng đối với Thường thì quãng thời gian ấy thật nặng nề. Anh đinh ninh thế là mọi chuyện giữa anh và Hiền đã khép lại. Mặc dù trong lòng anh không lúc nào là không nghĩ đến cô. Anh quên sao được ánh mắt và nét mặt rạng rỡ của cô cùng với lời hẹn sẽ gặp lại giữa hai người. Quên sao được bàn tay mềm mại, nóng ấm của Hiền trong tay anh. Rồi Thường tự trách mình sao còn quá trẻ con. Lẽ ra hôm ấy anh không nên bỏ về, anh phải vào nhà chào hỏi ba Hiền đàng hoàng. Anh phải tự hào về người cha của cô. Mà cũng tại Hiền một phần. Cô đã giấu anh, không cho anh biết trước. Thành ra gặp ông đột ngột quá cũng khiến anh phải e ngại. Phải chi ông ở một địa vị khác, đằng này ông lại là vị tư lệnh quân khu tiếng tăm lừng lẫy một thời. Ở địa vị một sĩ quan cấp úy như anh gặp một vị tướng vì công việc đã cảm thấy thiếu tự tin, huống hồ đây lại là việc riêng. Nhưng thôi, mọi chuyện cũng đã qua. Nếu có trách thì phải trách mình trước. Thường định sẽ bằng cách nào đó gặp cho được Hiền để thanh minh với cô về sự “ngớ ngẩn” của mình. Và quan trọng hơn, đấy còn là tình bạn giữa hai người. Một tình bạn tuy mới chỉ thoáng qua nhưng đã để lại trong anh một dấu ấn khó quên.

“Anh Thường, anh lên ngay ban chỉ huy có việc gấp!”. - Một chiều chủ nhật khi Thường đang nằm dài đọc sách thì sĩ quan trực ban chạy ào vào nói bằng giọng gấp gáp. Thường ăn mặc chỉnh tề rồi đi ngay. Đến nơi, vừa bước vào cửa, anh đã thấy trung tướng tư lệnh quân khu đang ngồi một mình ở đấy. Tại sao ba Hiền lại đến đây vào ngày nghỉ? Chuyện này có liên quan gì đến mình không? Mà tại sao lại chỉ có một mình ông?

Thường cảm thấy lo lo khi vừa nhìn thấy trung tướng. Không biết điềm lành hay dữ đây? Anh cố giữ bình tĩnh, đứng nghiêm và dõng dạc: “Báo cáo đồng chí tư lệnh, tôi thiếu úy Trần Văn Thường, có mặt theo lệnh của đồng chí!”. Vị tư lệnh nhìn Thường mỉm cười, chỉ vào chiếc ghế đối diện. “Cậu ngồi đi, ta nói chuyện một lát”. Thường để ý thấy hôm nay trung tướng không mặc quân phục, không đeo quân hàm như mọi bữa. Nếu có một chút hơi hướng nhà binh thì đó chỉ là chiếc mũ mềm có gắn ngôi sao ông đang đội trên đầu. “Nào, ta nói chuyện nhé! - Tư lệnh vui vẻ nói: - Đồng chí là Thường, đúng Thường chứ? - Rồi ông đổi cách xưng hô nói với anh như tâm sự. - Thế nào, bố mẹ cháu ở nhà có khỏe không? Bác với bố cháu hồi trước là bạn chiến đấu cùng đơn vị đấy! Chắc cháu chưa biết? Hồi bố mẹ cháu làm đám cưới, chính bác là người cắt chim bồ câu trang trí đấy. Hai người cưới nhau ở chiến trường, vào sống ra chết nên nhiều kỷ niệm lắm! Chuyện này rồi cháu hỏi lại bố mẹ sau. Bây giờ ta nói qua chuyện khác vui hơn. Lúc nãy bác đã nghe các đồng chí trong ban chỉ huy trung đoàn nói về cháu. Bác rất vui khi thấy cháu rất tích cực trong công tác, năm nay được bầu là chiến sĩ thi đua của đơn vị. Như thế là rất tốt! Nhưng cần phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Đừng thấy mọi người khen mà thỏa mãn là không được đâu! - Tư lệnh dừng lại một lát rồi nhìn thẳng vào mặt Thường, giọng trở nên thân tình hơn: - Mà tại sao hôm trước vừa đến nhà bác cháu lại bỏ về? Này, cháu có biết là con gái bác bắt đền bác không. Nó bảo, bạn con đến chơi, tại ba nên bạn con bỏ về. - Rồi trung tướng cười thành tiếng sảng khoái: - Tôi đến chịu với các cô các cậu bây giờ... Chẳng còn hiểu ra làm sao nữa”. Nghe ông nói Thường ngượng đỏ cả mặt. Rất may là không có ai chứ nếu có chắc anh đến chui xuống lỗ mất. Nhưng Thường lại rất cảm động, phấn khởi trước những gì ông vừa nói. Anh không ngờ trung tướng lại cùng đơn vị với bố anh trước đây. Và anh càng không ngờ một vị tướng giữa trăm công nghìn việc như ông, lại dành thời gian quan tâm đến những việc rất nhỏ nhặt, rất riêng tư của con gái mình. Thường không biết phải nói gì, chỉ im lặng ngồi nghe. Tự nhiên, anh thấy trung tướng gần gũi, thân thiết chả khác gì bố mẹ anh. Một sự gần gũi, thân thiết xóa nhòa đi cái khoảng cách mà chỉ mới hôm nào còn đè nặng trong lòng anh.

Không phải đợi lâu, ngay ngày hôm sau, Thường quyết định đến nhà Hiền. Để rồi sau cuộc gặp gỡ ấy, tình cảm giữa hai người đã bước sang trang mới. Họ đã yêu nhau. Một tình yêu say đắm và vô tư. Rồi Hiền có giấy báo nhập học. Thường xin nghỉ hẳn một ngày để ở bên người yêu và tiễn cô lên tàu vào Nam. Cũng con tàu hôm nào hai người lần đầu gặp nhau, quen nhau nhưng sao hôm nay cả hai cùng cảm thấy có một cái gì đó cứ dâng lên nghèn nghẹn trong lồng ngực. Họ đứng lặng bên nhau trong ánh nắng vàng rực rỡ của mùa thu, trong lớp lớp những sắc màu của thiên nhiên và đất trời hòa quyện. Tiếng còi tàu đổ hồi vọng trong tít tắp không gian nghe thực thực, hư hư, khiến cho lòng người càng thêm bồi hồi, xao xuyến. Một tình yêu đẹp sẽ làm cho tâm hồn người ta đẹp thêm lên. Với Thường thì tình yêu của anh cũng vậy. Tình yêu sẽ nâng bước chân anh, sẽ tiếp thêm sức mạnh cho anh trên chặng đường binh nghiệp đầy khó khăn và thử thách.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:19:11 pm

NỬA NGÀY LÀM VỢ



Truyện được hư cấu từ một câu chuyện có thật,
xin dâng tặng cho người con trai, con gái trong chuyện
bằng cả tấm lòng yêu thương và ngưỡng mộ!

Nấm mộ đã đắp xong đâu ra đó, mọi người cũng lũ lượt kéo nhau ra về, Cường vẫn ngồi lại một mình ở nghĩa địa. Anh đốt thêm một nắm hương cắm lên trước tấm bia đá có ảnh của Mai Lan rồi từ từ quỳ xuống phủ phục trước mộ vợ. Bộ quân phục trên người anh ướt đẫm nước mưa và bê bết bùn đất. Khuôn mặt anh bơ phờ, hốc hác, râu ria lổm nhổm. Mưa đã dần ngớt nhưng chưa tạnh hẳn. Gió vẫn gầm rú và những làn nước chênh chếch như những ngọn roi vô hình vẫn đều đặn quất xuống. Nắm hương Cường vừa cắm được dịp cháy bùng lên rồi tắt lịm. Cường phải loay hoay một lúc mới đốt lại được nắm hương khác. Anh nhoài người về phía trước gần như ôm gọn cả tấm bia đá vào lòng để che chắn bớt ngọn gió và làn nước quái ác. Ảnh người quá cố lồng trong bia thật trẻ trung, thật xinh đẹp. Nụ cười của cô vừa hồn nhiên vừa tươi trẻ. Chiếc răng khểnh bên khoé miệng làm duyên dáng thêm cho khuôn mặt trái xoan. Mái tóc chẻ ngôi buông loà xoà tự nhiên trước trán. Bên má là cái lúm đồng tiền không thể lẫn với ai. Cường nhìn ảnh vợ mà thắt ruột thắt gan. Trái tim anh như nát ra từng mảnh. Đã mấy ngày trôi qua, kể từ lúc Mai Lan trút hơi thở cuối cùng, cho đến hôm nay, khi vợ anh đã mồ yên mả đẹp, Cường vẫn chưa hết bàng hoàng, chưa hết xót xa. Anh đã lăn lộn, gào khóc như một đứa trẻ. Anh đã kêu trời gọi đất đến khản cổ. Nước mắt anh đã khô cạn. Và lúc này đây có lẽ đã được vắt kiệt để tưới lên mộ Mai Lan.

... “Anh Cường ơi, chiều nay sang nhà em học bài rồi cùng em làm bánh. Hôm qua em xin mẹ cân bột để chúng mình làm bánh ăn. Sang anh nhé! Không sang là em giận luôn đó!”. Với Cường, Mai Lan bao giờ cũng tha thiết có phần hơi nũng nịu như thế. Cường cũng tỏ ra rất hiểu tấm lòng của cô bạn gái cùng lớp dành cho anh và anh cũng quý mến Mai Lan. Còn bạn bè thì ai mà chả biết Cường và Mai Lan là đôi bạn chơi thân với nhau ngay từ những ngày còn là học sinh học cấp một, cấp hai. Nói là chơi thân cho nó tự nhiên thế thôi, chứ thật ra không ai là không biết họ đang thầm yêu nhau. Bạn bè trong lớp xì xào hai đứa “lúc nào cũng kè kè bên nhau như hình với bóng. Không gặp nhau thì thôi, chứ đã gặp thì y như rằng mặt mũi đứa nào cũng tươi như hoa. Đã thế lại còn anh anh, em em với nhau ngọt xớt. Thử hỏi, trong đám bạn bè cùng lớp đã có đứa con trai, con gái nào xưng hô với nhau như thế bao giờ? Ừ, chúng nó yêu nhau như thế kể cũng hơi sớm, không chừng còn ảnh hưởng đến việc học hành. Nhưng mà trông chúng thật đẹp đôi, thật đáng yêu và cũng... ngang sức ngang tài. Cả hai đứa, đứa nào cũng học giỏi, năm nào cũng đứng đầu lớp. Rồi đứa nào cũng vui vẻ, hoà đồng, được thầy cô tin cậy, bạn bè yêu mến. Thằng Cường là con trai không nói làm gì chứ cái con Lan càng lớn nó càng đẹp. Con gái nhà quê gì mà nước da cứ như trứng gà bóc, mịn màng, trắng trẻo còn hơn cả bôi phấn bôi son. Khuôn mặt nó xinh xắn, dễ thương đã đủ để hút hồn bao thằng con trai, thế mà tạo hoá còn ban thêm cho nó chiếc răng khểnh và cái lúm đổng tiền nữa nên càng thêm duyên dáng, mặn mà. Chả trách thằng Cường say nó cứ gọi là say ngả say nghiêng”.

Nhà hai đứa cùng một làng. Cường ở xóm trên, Mai Lan ở xóm dưới, chỉ cách nhau một quãng đường ngắn. Cả hai học cùng lớp. Lý do để hai đứa chơi thân với nhau kể cũng... bình thường. Đi học, Cường phải ngang qua xóm dưới, lại sát ngõ nhà Mai Lan, thế là gặp nhau rồi cùng đi. Vài ba bận thành quen nếp, hết năm học này sang năm học khác, ngày nào hai đứa cũng đợi nhau để cùng đi.

Tuổi học trò họ vô tư, hồn nhiên bên nhau rồi trở nên thân thiết. Khi phân chia học nhóm thì Cường, Mai Lan và một cậu nữa hợp thành một tổ. Sau, cậu kia theo gia đình chuyển đi nơi khác sinh sống, thế là chỉ còn lại hai đứa. Mai Lan rủ thêm hai cô bạn cùng lớp, nhưng chẳng đứa nào đồng ý. Lý do chúng nó đưa ra chỉ tếu táo: “Chúng tao không học chung cũng là muốn mày với thằng Cường được độc lập, tự do”. Câu nói nửa đùa nửa thật của các bạn làm Lan và Cường ngượng ngùng khựng lại nhưng không giận vì là bạn bè cùng lớp lại sống thật lòng với nhau nên lúc nào cũng hồn nhiên, vui vẻ. Thế là tổ học nhóm lại chỉ còn Cường và Mai Lan luân phiên đến nhà nhau học bài. Cứ một tuần là đổi chỗ. Ngày nào phải học vào ban đêm hay những hôm mưa gió, thì nhất nhất không cần dặn Cường cũng đến nhà Mai Lan.

Những năm học phổ thông rồi cũng trôi qua một cách lẹ làng. Cường và Mai Lan cùng bước vào kỳ thi đại học. Từ một nơi xa, đang làm thợ phụ hồ chờ kết quả thi, Cường nhận được điện thoại của Mai Lan: “Anh Cường ơi, em vừa lên mạng xem kết quả thi. Em đỗ vào đại học nông - lâm rồi! Còn anh, anh cũng đỗ vào học viện chính trị rồi! Anh về ngay nhé!”. Nghe Mai Lan báo tin, lòng ngực Cường đập rộn lên, anh vui mừng thực sự, thế là mong ước của anh đã thành hiện thực. Và Mai Lan, cô bạn gái thân thương của anh cũng toại nguyện. Niềm vui khiến anh dâng trào cảm xúc. Không một phút chần chừ, Cường đón xe về quê luôn.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:19:55 pm

Đêm chia tay để ngày mai lên trường nhập học, bên bờ sông, Cường và Mai Lan đã ngồi cạnh nhau rất lâu. Có lẽ chưa bao giờ họ được ngồi cạnh nhau riêng tư như lúc này. Trăng trên đầu họ vằng vặc, chan hoà và dưới kia là mặt nước cũng long lanh, sóng sánh ánh trăng. Gió chỉ nhè nhẹ thoảng thơm mùi rơm rạ, đồng đất quê nhà. Câu chuyện của đôi trai gái tưởng như kéo dài... bất tận. Họ nói với nhau về những ngày đã qua, về một thời đi học rồi những buồn vui, thầy cô, bè bạn. Biết bao là kỷ niệm ăm ắp yêu thương. Tất cả như trỗi dậy, ùa về. Rồi họ băn khoăn, lo lắng về chặng đường trước mắt với nỗi cách xa, nhớ nhung, mong đợi; những gian nan, vất vả của bốn năm đèn sách giảng đường sắp tới. Gương mặt Cường và Mai Lan kề cận bên nhau, ngời sáng trong trăng. Và trong đêm chia tay ấy, Cường đã tỏ tình với Lan. Một lời tỏ tình chân thành, tự nhiên. Còn đối với Mai Lan thì đó là lời tỏ tình không hề làm cô bất ngờ. Bao năm qua, bạn bè đã gán ghép bàn tán về tình cảm của hai người. Đã có lúc hai đứa tỏ ra cự nự lại những lời bạn bè, nhưng cả hai đều biết họ đã thầm yêu nhau ngay từ những ngày ấy. Một tình yêu chưa từng có lời tỏ tình, nhưng không hề đơn phương. Chính những rung động của tuổi học trò ấy mà cả hai đã giữ được cho nhau một khoảng cách đẹp đẽ, trong sáng. Đó là tình bạn, cao hơn tình bạn là tình yêu ấp ủ trong lòng. Để bây giờ, sau bao tháng ngày ấp ủ, tình yêu ấy không thể giấu kín được nữa. Như ngọn lửa gặp gió, nó bùng lên. Mai Lan đã đón nhận, không, nói đúng hơn là Mai Lan đã chờ đợi và đón nhận lời tỏ tình này của Cường từ lâu. Như chỉ chờ có thế, họ đã tay trong tay và cùng trao nhau những nụ hôn đầu đời. Những nụ hôn kéo dài, mê say, đắm đuối... tưởng như cả đất trời cũng đang rung nhịp.

Rồi cả hai cùng vào đại học. Cường ở miền Bắc, Mai Lan ở miền Nam. Hai ngôi trường ở hai đầu đất nước. Những bức thư, những dòng tin nhắn, những cuộc gọi điện thoại... đều đặn đến với nhau từ hai phía. Họ đã gói ghém tất cả mọi nỗi nhớ thương để gửi cho nhau. Tình yêu quả là một thứ tình cảm lạ lùng, nó làm con tim khát khao mong đợi. Từ sau cái đêm chia tay, khi mà lời tỏ tình và nụ hôn được trao gửi thì tình cảm ấy lớn mạnh, nồng cháy hơn, không còn ranh giới, như dòng nước ào ào tuôn chảy, nó trở nên sục sôi, mãnh liệt. Và khi đã yêu nhau mà phải cách xa, không được ở cạnh nhau, cả hai mới thấm thía sự hụt hẫng, trống vắng. Những ngày mới yêu lại phải xa nhau nên Cường mong mỏi được gặp nhau, được ôm trọn Mai Lan vào lòng đến thế! Còn Mai Lan cũng vậy, cô mong chờ từng ngày để được về quê, để được sà vào lòng người yêu để nũng nịu. Nỗi nhớ cứ âm ỉ, dai dẳng, giày vò, tưởng như không thể nào còn chịu nổi nữa. Tưởng như chỉ cần một dòng tin nhắn hay một cuộc gọi điện hẹn hò ở đâu đó là cả hai sẽ vứt bỏ tất cả để đến với nhau. Nhưng rồi việc học hành đã cuốn hút cả hai, không cho họ còn có nhiều thời gian để mà suy nghĩ vẩn vơ. Từ phương bắc, Cường gửi thư cho Mai Lan một bức thư chứa chan tình cảm. Trong thư, Cường nói rằng, Cường không thích gọi điện nữa mà chỉ thích viết thư, vì viết thư tình cảm hơn, nói được nhiều điều hơn. Cường khoe với Mai Lan là anh đã học gần xong phần thứ nhất môn chính trị. Giờ là thời gian dành cho việc tập luyện ở thao trường. Những ngày ở thao trường, đối với người lính là ngững ngày đầy gian nan, vất vả. Môi trường quân đội đã rèn giũa anh từng bước trưởng thành. Cường thấy mình phải học tập tốt để không phụ công gia đình, bè bạn đã gửi gắm, tin trao. “Em biết không, có những ngày nắng nóng khủng khiếp, luyện tập vô cùng vất vả, giờ giấc hết sức nghiêm ngặt, nhưng lúc nào anh cũng vui vẻ, lạc quan, yên tâm học tập, công tác. Mai Lan có biết vì sao không? Đó là một phần vì anh có em, vì tình yêu của chúng mình. Dù xa em nhưng lúc nào anh cũng cảm thấy như em đang ở cạnh anh, động viên anh...”.

Mai Lan cũng gửi thư cho Cường. Mở đầu, Mai Lan viết: “Anh bộ đội thân yêu của em!”. Đó là câu mà Mai Lan vẫn thường đùa yêu như thế. Qua vài dòng tếu táo, Mai Lan mới kể với Cường việc học tập của bản thân. Rằng Mai Lan vừa qua đợt kiểm tra học kỳ, bài làm của cô nói về sự đa dạng của nông nghiệp nước ta trong quá trình chuyển đổi sản xuất, bài đã được xếp nhất lớp. Rằng Mai Lan chuẩn bị đi thực tập ở một vùng chuyên canh lúa và nếu có điều kiện thì sẽ xin phép về thăm gia đình. Mai Lan nhận thấy cô ngày càng say mê với ngành học mà mình đã chọn. Cô cũng bày tỏ sau này khi ra trường công tác, Mai Lan sẽ là một kỹ sư nông nghiệp tháng ngày gắn bó với những xóm làng bình dị, những người nông dân “một nắng hai sương”, hiền lành, mộc mạc, dung dị như đất làng, như hạt lúa, củ khoai... từ bao đời nay. Cuối thư, Mai Lan viết: “Chúc anh bộ đội của em chân cứng đá mềm, hoàn thành nhiệm vụ học tập, luôn nhớ về em. Nhớ em để học tập tốt hơn, phấn đấu tốt hơn anh nhé!”.

Bốn năm học tập miệt mài, ngày ra trường, Cường được phong quân hàm Thiếu uý và được điều về công tác ở một đơn vị đóng quân trong tỉnh. Mai Lan không được thuận lợi như Cường, nhưng rồi sau một thời gian bươn bả chạy vạy cô cũng được nhận về công tác tại phòng nông nghiệp huyện. Thế là chấm dứt những ngày cả hai phải đằng đẵng xa cách nhau. Được công tác cùng một tỉnh, cả hai càng có điều kiện gặp gỡ, vun đắp cho tình yêu. Nếu như trước đây, trong những năm đi học, Cường và Mai Lan chỉ mỗi năm được gặp nhau một lần ngắn ngủi vào dịp nghỉ hè, thì nay, đôi khi chỉ mươi ngày, một tuần, họ đã có thể gặp nhau. Và mỗi lần gặp cả hai lại đắm đuối bên nhau. Sau những nụ hôn cháy bỏng, ngọt ngào là những lời bàn định cho tương lai. Cường và Mai Lan cũng chính thức thưa chuyện với gia đình để bố mẹ hai bên làm lễ bỏ trầu cho hai đứa. Thấy các con yêu nhau đã lâu, nay cả hai đã ổn định công tác, hai gia đình bằng lòng tính đến tổ chức lễ thành hôn trong dịp mùa thu tới. Từ ngày ăn hỏi đến ngày cưới cũng ngót nghét hai tháng nữa. Đó là quãng thời gian đủ để cho đôi trai gái bàn bạc, chuẩn bị sắm sửa những gì cần thiết cho ngày vui của mình.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:20:50 pm

Một đêm bên triền sông, cũng nơi ấy, trăng ấy, nước ấy; rồi cũng hương vị rơm rạ, đồng đất ấy... tất cả giống như cái đêm cách đây hơn bốn năm về trước; cái đêm trước ngày nhập học cả hai đã thổ lộ tình yêu, cùng thề non hẹn biển với nhau, Cường và Mai Lan đã ngồi bên nhau gần như trọn đêm. Cả hai dường như không biết đến thời gian trôi, trăng đã dần khuất để thay vào đó là một màn sương dày đặc đang giăng kín cả mặt sông. Sương ướt đẫm trên vai, trên mặt hai người. Sương đọng thành giọt trên áo khoác của Cường và long lanh trên tóc Mai Lan. Cường vòng tay ôm lấy Mai Lan và khoác cho người yêu tấm áo của mình. Họ đã nói với nhau rất nhiều về chặng đường công tác. Rồi cả hai lại tưởng tượng về tương lai của cuộc sống vợ chồng sau khi tổ chức lễ cưới. Câu chuyện rời rạc, không đầu không cuối. Họ cùng bày tỏ niềm đam mê trong công việc, tình yêu, trách nhiệm với gia đình, họ chỉ biết có một điều là họ đang rất hạnh phúc. Có lẽ trên đời này họ là nhữmg người hạnh phúc nhất. Cường xiết chặt Mai Lan vào lòng mình, rồi anh nói nhỏ bên tai người yêu: “Sau này, dù được phân công đi đâu, lên rừng hay xuống biển, và có xa cách bao nhiêu, anh cũng sẽ luôn luôn là người chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ và là người chồng tốt của em. Em có bằng lòng không?”. Mai Lan mỉm cười, khẽ thủ thỉ: “Còn em, em nguyện suốt đời về với nông thôn, lội ruộng với nông dân. Em chỉ mong muốn là mình sẽ làm được một cái gì đó để đóng góp một phần nhỏ, rất nhỏ cho bà con cô bác quê mình. Và em sẽ làm tròn bổn phận của một người vợ, người mẹ, yêu chồng, thương con. Được không anh?”.

Sương càng lúc càng nặng hạt, khiến cho không khí về khuya có vẻ lành lạnh. Mai Lan ngả đầu vào ngực Cường như muốn tìm hơi ấm từ cơ thể anh.

- Khuya rồi, chúng mình về thôi anh! - Mai Lan thì thào.

- Không, anh muốn ngồi với em một lúc nữa!

Cường nói và lần tay vào ngực Mai Lan. Bàn tay tham lam của Cường mải miết trên bầu ngực cô. Rồi như không kìm nén được tình cảm, Cường cúi xuống áp cả khuôn mặt mình vào ngực người yêu. Mai Lan cũng không làm chủ được cảm xúc của mình, cô ôm chặt người yêu, Cường muốn đi xa hơn, nhưng Mai Lan cũng kịp ngăn cảm xúc, cô nắm lấy tay Cường, miệng ghé vào tai anh: “Không được! Đừng... đừng anh. Chúng mình phải để dành cho nhau đến ngày cưới. Nào, nghe em, đứng dậy đi về đi anh”. Từ phía làng bỗng rộ lên tiếng gà gáy. Và dưới sông cùng lúc nghe có tiếng dập dìu, lao xao của mái chèo khua nước từ những chiếc thuyền đánh cá. Đêm đã dần sáng.

Tin Mai Lan ốm nặng phải vào cấp cứu ở bệnh viện đến với Cường trong lúc anh đang công tác ở một huyện miền núi. Nói đúng hơn là chỉ sau cái đêm hai người gặp nhau lần vừa rồi chỉ vỏn vẹn có mấy ngày. Nhận được điện, Cường thẫn thờ một lúc như người mất hồn. Anh băn khoăn, lo lắng, tự hỏi, sao mà nhanh vậy, mới ngày nào Mai Lan còn khoẻ mạnh thế cơ mà! Cường đứng ngồi không yên nhưng chưa dám báo cáo với chỉ huy vì đợt công tác theo lịch trình phải đến chiều tối mai mới kết thúc. Một số công việc chưa hoàn thành, trong đó có cả phần việc của anh. Vả lại, từ đây về dưới ấy rất xa. Phương tiện đi lại, ngoài xe của đơn vị thì khó có thể tìm được một loại phương tiện nào khác để đi vào lúc này. Thế là đành phải đợi đến năm giờ chiều ngày hôm sau, khi công việc hoàn tất, anh mới báo cáo chỉ huy và cùng trở về thành phố. Mấy tiếng ngồi trên xe, ruột gan Cường như có lửa đốt. Anh chỉ mong mình có phép thần để đến được với Mai Lan ngay lúc này. Chắc giờ này Mai Lan cũng đang mong ngóng anh từng phút, từng giây. Ô tô về đến đơn vị thì trời đã chập choạng tối, chẳng kịp nghỉ, Cường đã nháo nhào chạy ra nhà để xe, dắt chiếc xe máy 78, chiếc xe cũ mà Mai Lan đã dành dụm tiền cả mấy tháng lương ít ỏi của mình để mua cho Cường. “Chắc anh phải đi nhiều, em mua để anh đi công tác, rồi còn có nó để mà thỉnh thoảng về thăm nhà. Em làm trong huyện, đi đâu thì đã có các anh, các chị cùng cơ quan đèo đi, còn không thì xe đạp cũng được”. Cường hiểu tấm lòng của người yêu. Vả lại, anh nghĩ, anh và Mai Lan đã như người một nhà, của ai thì cũng coi như là của chung, nên anh không nỡ từ chối. Nhưng Cường vẫn nghĩ mà thương Lan, chưa gì đã giành phần thiệt thòi về mình.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:21:24 pm

Nửa giờ sau Cường có mặt ở bệnh viện. Và Cường choáng váng như nghe tiếng sét bên tai khi biết Mai Lan bị bệnh máu trắng. Anh có cảm tưởng đất trời đang sụp đổ dưới chân anh. Cả người anh run rẩy, mồ hôi đột ngột túa ra như gặp phải ác mộng. Cố gắng lắm Cường mới có thể đứng vững được. Rồi khi đã bình tĩnh lại, biết đó là sự thật, Cường vẫn không hết ngỡ ngàng. Anh không tin một người con gái khoẻ mạnh, thông minh và xinh đẹp như Mai Lan lại có thể mang trong mình căn bệnh quái ác này. “Không! Không thể như thế được! Mai Lan của anh còn quá trẻ, còn tràn trề sức sống và còn biết bao là ước vọng tốt đẹp ở phía trước. Ông trời không thể thiếu công bằng như thế được. Không thể lấy đi hoài bão ước mơ, sự sống của một cô gái trẻ”. Đầu óc anh quay cuồng bởi những ý nghĩ lộn xộn. Cường đau đớn như có ai cầm dao cứa vào cơ thể anh, róc dần da thịt anh. Ngồi bên Mai Lan mà anh ngỡ như đang ngồi ở đâu đâu. Anh không còn biết mình phải làm gì, nói gì trong lúc này. Mai Lan vẫn nằm đó, ngay trước mặt anh. Cả người cô trắng toát một màu trắng của bệnh viện. Cô đã ngủ thiếp đi, trên khuôn mặt hơi nhợt nhạt nhưng bình thản, vô tư không mảy may một chút âu lo, phiền muộn. Cường nhìn người yêu ngủ mà héo hắt ruột gan. Mai Lan ơi, giá em hiểu được điều gì đang xảy ra với em. Tại sao? Tại sao không phải là anh, là người khác, mà là em phải chịu nỗi khổ này? Nắm tay Mai Lan, vuốt nhè nhẹ lên những ngón tay thon thả, Cường âu yếm nhìn Mai Lan ngủ. Khuôn mặt này, từ cặp mắt, đôi môi, chiếc răng khểnh, rồi cái lúm đồng tiền như cái dấu phẩy bên má... anh đã quen thuộc từ tấm bé. Có lẽ nào đến một ngày nào đó anh sẽ không còn được nhìn ngắm khuôn mặt yêu thương này nữa ư? Cường chợt nhớ tới lời bác sĩ nói với anh: “Đây là căn bệnh cho đến nay không những ở trong nước mà ngay ở ngoài nước, kể cả những nước có nền y học tiên tiến nhất cũng phải chịu bó tay”. Vậy là không một chút hy vọng nào nữa ư? Vậy là Mai Lan không thể sống nổi nữa ư? Mới chỉ nghĩ thế thôi, Cường đã thấy thắt ruột thắt gan. Nước mắt anh tự nhiên ứa ra lăn dài trên má. Mai Lan bất chợt tỉnh giấc bắt gặp những giọt nước mắt ấy của Cường, cô ngỡ ngàng hỏi:

- Tại sao anh khóc?

- Tại vì anh thương em! Anh thương em nhiều lắm Mai Lan ạ!

Mai Lan nở một nụ cười yếu ớt trên đôi môi khô ráp:

- Rồi em sẽ khoẻ, sẽ lại đi làm. Ốm đau, bệnh tật chỉ là tạm thời thôi mà anh...

Nghe người yêu nói thế Cường lại càng thấy đau đớn, anh không kìm chế được cảm xúc, nước mắt Cường lại trào ra.

Bệnh tình của Mai Lan ngày một tiến triển theo chiều hướng xấu. Các bác sĩ đã làm tất cả những gì có thể làm được đối với bệnh nhân nhưng xem ra kết quả chẳng được là bao. Thời gian đầu khi Mai Lan mới nhập viện, Cường vẫn ngày hai lượt đến với người yêu. Nhiều bữa anh chẳng kịp ăn uống gì mà có ăn thì cũng không sao nuốt nổi. Ngày ngày, anh chỉ mong thời gian trôi qua thật nhanh để cuối giờ anh đến với Mai Lan. Sau rồi ban chỉ huy đơn vị thấy anh đi lại quá vất vả, nên quyết định cho anh nghỉ phép để anh có điều kiện chăm sóc cho vợ chưa cưới. Thế là anh đến bệnh viện ở hẳn cùng Mai Lan. Kể từ ngày yêu nhau, đây là quãng thời gian Cường và Mai Lan luôn ở cạnh nhau. Nghĩ mà buồn, mà thương, khi cả hai còn khoẻ mạnh thì phải học tập, công tác, phải cách xa nhau, nay, một trong hai người sự sống đang phải lắt lay như ngọn đèn trước gió, họ mới được ở cạnh nhau. Cường không một phút rời xa Mai Lan, anh chăm sóc cho người yêu từng ly từng tý như quên cả bản thân mình. Còn Mai Lan, sau một thời gian nằm viện, thấy bệnh tình không hề thuyên giảm, nhất là nhìn vẻ mặt mỗi người, từ bố mẹ, anh chị em, đến các cô dì, chú bác, rồi cả Cường nữa, thấy ai cũng rầu rĩ như đang cố nén một điều gì đó, Mai Lan cũng phần nào đoán định được bệnh tình của mình nhưng không dám hỏi ai. Cô đoán mình đang mang một căn bệnh nan y gì đó! Có điều cô không biết đó là bệnh gì và nguy hiểm đến đâu. Và khi cô biết mình bị bệnh máu trắng, một căn bệnh mà cho đến nay không thầy, không thuốc nào có thể chữa được thì Mai Lan chỉ còn biết ôm mặt khóc và trách Cường: “Mọi người giấu em đã đành. Còn anh, tại sao anh lại nỡ giấu em? Có phải anh lo em không chịu đựng nổi phải không?”. Nói rồi Mai Lan khóc nức nở và ngủ thiếp đi. Lúc tỉnh dậy, Mai Lan không khóc nữa. Sau hôm đó và những ngày sau Cường không hề thấy Mai Lan khóc một lần nào nữa. Với một vẻ mặt thản nhiên, gần như dửng dưng, gần như chưa từng có chuyện gì xảy ra với mình, chiều chiều, từ gác hai của phòng bệnh, Mai Lan bảo Cường cùng đến bên cửa sổ và cùng ngồi lại nhìn ra bên ngoài. Ở đó, ngay trước mặt hai người là cánh đồng lúa. Xa ra nữa là dòng sông, là xóm làng ẩn hiện sau những luỹ tre. Rồi những con đường, những hàng cây, những bóng người thấp thoáng. Và tít tắp kia mới là chân trời mờ xanh. Như một thói quen, một sự động viên, dẫu biết rằng mọi sự động viên đối với Mai Lan lúc này đều trở nên vô nghĩa, nhưng ngày nào Cường và Mai Lan cũng ngồi với nhau bên cửa sổ nhìn ra xa như thế.

Một buổi chiều, bên cửa sổ, Mai Lan đã hỏi Cường:

- Liệu em có sống được không? Và nếu sống được sẽ kéo dài bao lâu hả anh?

Cường đã trả lời Mai Lan rất tự tin, rằng anh vẫn hy vọng Mai Lan sẽ lành bệnh, sẽ khỏe mạnh trở lại như ngày nào. Rằng nhất định anh sẽ đưa Mai Lan đến những bệnh viện lớn nhất, tốt nhất để chữa trị cho cô. Nói vậy nhưng thâm tâm Cường hoàn toàn không tin vào những gì anh nói. Anh biết rất rõ những điều anh nói với Mai Lan chỉ là lời nói dối, chỉ là động viên. Một người thông minh như Mai Lan chắc cũng hiểu điều đó. Nhưng nếu đến được những bệnh viện lớn, ở đấy có đầy đủ các phương tiện điều trị hiện đại, có các giáo sư, bác sĩ giỏi, có nhiều loại thuốc tốt, anh tin bệnh tình của Mai Lan dù không có hy vọng chữa khỏi, nhưng sẽ có cơ may tiến triển chậm lại, sự sống của Mai Lan sẽ được kéo dài hơn. Nhiều người khuyên anh, kể cả các bác sĩ cũng góp ý với anh như vậy.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:22:24 pm

Cường đã đưa Mai Lan đi ròng rã gần một tháng trời, hết ra Bắc lại vào Nam, hết bệnh viện này sang bệnh viện khác, nơi nào được người ta giới thiệu hay chỉ là mách miệng, Cường đều đưa Mai Lan đến. Tiền bạc vơi dần mà bệnh tình của Mai Lan không hề thuyên giảm. Những cơn đau đến với Mai Lan ngày một dày hơn. Chứng khó thở, tụt huyết áp, chảy máu cam… cũng thường xuyên xuất hiện. Có ngày Mai Lan gần như không ăn gì, Cường cố ép lắm cũng chỉ nuốt được thìa cháo hay thìa nước vắt từ trái cây. Người Mai Lan gầy rộc đi, nhưng Mai Lan vẫn tỉnh táo, chưa một lần hôn mê, vẫn hỏi chuyện người này người kia và thỉnh thoảng Mai Lan vẫn cười. Nụ cười tuy héo hắt không còn tươi vui như xưa nhưng chưa hết duyên dáng. Những lúc ấy trông Mai Lan thật xiết bao tội nghiệp. Cường đã bao lần phải cố nén để những giọt nước mắt không trào ra khi anh nhìn thấy nụ cười ấy ở Mai Lan. Hơn ai hết, anh hiểu rất rõ mức độ tiến triển của bệnh tật và sức khoẻ của Mai Lan. Các giáo sư, bác sĩ cũng đã làm hết khả năng của họ. Mai Lan dường như cũng hiểu được điều đó nên một mực đòi về, không nằm viện nữa. Cường xin bố mẹ hai bên cho anh được đưa Mai Lan về nhà mình. Anh nói rằng, dù anh và Mai Lan chưa tổ chức lễ cưới, nhưng anh đã xem Mai Lan như là vợ của anh. Anh không thể rời xa vợ chưa cưới khi cô đang phải cận kề với cái chết. Thời gian này anh cần ở cạnh cô, chăm sóc cô. Đơn vị hiểu được tình cảm sâu nặng của đôi trai gái nên cũng đồng ý cho Cường được kéo dài thời hạn nghỉ phép thêm một thời gian nữa.

Trước đây, khi Mai Lan còn khoẻ mạnh, mỗi lần gặp nhau là Cường và Mai Lan lại say sưa nói về tình yêu, bàn định đến ngày cưới. Và họ đã chờ đợi ngày cưới của họ bằng cả tấm lòng ngóng trông khắc khoải. Hơn một tháng qua, kể từ ngày Mai Lan vào viện thì cả hai dường như không một ai nhắc tới chuyện cưới xin, cuộc sống vợ chồng sau này. Bây giờ được ở cạnh nhau, chăm sóc cho nhau trong cùng một nhà như đôi vợ chồng mới cưới, tình yêu ấy bỗng sống lại trong lòng mỗi người. Nhưng họ cũng chỉ nhắc tới mọi chuyện một cách dè dặt và tránh không đả động gì đến ngày cưới. Cả hai gần như quên hẳn chuyện cưới xin. Họ không nhớ, mà cũng không muốn nhớ đến ngày cưới để làm gì. Nhớ đến e chỉ thêm sầu thêm khổ mà thôi. Nhưng rồi có một lần, trong lúc Mai Lan đang nằm và Cường đang ngồi cạnh, rất ngẫu nhiên, cả hai cùng một lúc nhìn lên tờ lịch treo trên vách. Hôm đó là ngày mười tám tháng tám âm lịch. Thế là cả hai nhìn nhau và cùng nhớ tới ngày ấy. Đó là ngày hai mươi tám tháng tám, ngày mà cách đây gần hai tháng trước gia đình Cường và Mai Lan đã chọn làm ngày tổ chức lễ thành hôn cho hai người. “Vậy là không bao giờ em còn được làm vợ anh nữa rồi!”. Mai Lan nói rồi quay mặt đi không nhìn vào tờ lịch nữa. Cường thấy đôi vai gầy của Lan run lên khe khẽ. Anh muốn an ủi người yêu nhưng không biết phải làm gì. Những gì có thể làm được, dù nhỏ thôi để động viên được Mai Lan, Cường đều đã làm tất cả rồi. Giờ đây, anh không thể để cho Mai Lan hết hy vọng. Anh không thể để cho bất cứ một sức mạnh nào chia lìa tình yêu của anh và Mai Lan. Giá có thể thay thế được cho Mai Lan để gánh lấy nỗi đau cùng cực mà cô đang phải chịu đựng anh cũng sẵn sàng. “Mai Lan ơi, chỉ còn đúng mười ngày nữa là đến ngày cưới của chúng mình rồi. Em hãy vui lên đi”. - Vừa lau nước mắt cho Mai Lan, Cường vừa nói.

Mai Lan nhìn Cường, giọng yếu ớt:

- Nhưng mà còn có ý nghĩa gì nữa đâu, nhắc đến chỉ thêm đau lòng thôi anh ạ!

Hai tay Cường nắm chặt tay Mai Lan, tiếng anh trở nên tha thiết, khẩn khoản:

- Không! Anh vẫn cưới em. Anh sẽ đăng ký kết hôn và đúng ngày ấy chúng mình vẫn tổ chức lễ cưới. Tổ chức đơn giản thôi cũng được. Miễn sao chúng mình phải chính thức là vợ chồng của nhau, chung sống bên nhau. Nào, vui lên đi em!

Mắt Mai Lan nhoà lệ:

- Em ốm đau, bệnh tật, có sống được bao lâu nữa đâu mà anh cưới em! Có được anh bên cạnh, chăm sóc, động viên em thế này là em hạnh phúc lắm rồi!

- Không, em sẽ sống, sống trăm tuổi. - Cường nói và nước mắt trào ra: - Anh sẽ xin với bố mẹ hai bên tổ chức lễ cưới cho chúng mình. Chắc bố mẹ và mọi người sẽ mừng lắm! Đến ngày ấy em sẽ trang điểm thật lộng lẫy. Em sẽ mặc áo dài này, thắt nơ này, đeo nhẫn cưới này... Rồi còn có cả phấn, son cho em nữa. Em sẽ là cô dâu đẹp nhất, đẹp như ngày nào em hằng ao ước. Em có đồng ý không?

Trên đôi môi khô héo của Mai Lan bỗng nở một nụ cười lộ ra chiếc răng khểnh xinh xinh bên khoé miệng và cái lúm đồng tiền như vết son bên má. Cường đắm đuối nhìn Mai Lan rồi cúi xuống áp môi mình lên môi người yêu. Từ hôm ấy, sáng nào Cường cũng tự tay bóc lịch.

Mỗi tờ lịch được bóc đi là một ngày trôi qua và một ngày mới đến. Cường có cảm giác như trong mỗi tờ lịch mỏng manh kia là cả một gánh nặng thời gian và chất chứa tất cả mọi nỗi niềm của anh trong đó. Một nửa anh mong thời gian hãy chầm chậm lại và một nửa anh mong thời gian hãy vùn vụt trôi. Và như thể chút sức khoẻ ít ỏi cuối cùng của Mai Lan lại đồng hành tỷ lệ thuận với khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại. Mai Lan ngày một yếu đi, có ngày bệnh tình đột ngột trở nên nguy kịch. Chứng khó thở sau một thời gian tạm lắng nay xuất hiện trở lại. Mai Lan phải gồng người lên để thở mà vẫn không thở được. Mặt mũi cô xám ngoét lại, có lúc tưởng như lịm đi không trở dậy được nữa. Những lúc ấy Cường phải làm hô hấp nhân tạo bằng cách thổi hơi mình vào miệng Mai Lan. Có ngày anh phải làm hô hấp tới mấy lần Mai Lan mới thở được. Những cơn đau khiến cô quằn quại, vật vã. Cường phải đỡ Mai Lan ngồi dậy dựa vào người mình. Anh có thể ngồi như thế với cô cả buổi mà không cần ai thay thế. Đêm đêm, lúc Mai Lan đã thiêm thiếp ngủ, Cường vẫn ngồi bên cạnh đánh đàn cho Mai Lan nghe. Vừa đánh đàn Cường vừa nhìn Mai Lan ngủ. Những lúc ấy Cường lại rơm rớm nước mắt lặng lẽ khóc một mình.


Tiêu đề: Re: Chuyện tình của lính
Gửi bởi: chuongxedap trong 24 Tháng Tư, 2023, 12:23:32 pm

Bước sang ngày hai mươi tám là ngày đã được ấn định cho lễ thành hôn của hai người, bệnh tình của Mai Lan vẫn trong tình trạng nguy kịch. Mai Lan vẫn khó thở và Cường vẫn phải liên tục làm hô hấp nhân tạo. Xen giữa những cơn đau là thời gian Mai Lan tỉnh táo trở lại và Cường vẫn không một phút rời xa người yêu. Bên ngoài mọi công việc cho lễ thành hôn vẫn đang được tiến hành. Hai gia đình, họ hàng nội ngoại và một số bạn bè thân thiết của hai người cũng đã có mặt. Tuy thế chẳng còn ai dám nghĩ đến chuyện trang điểm cho cô dâu, chú rể như hai người ao ước nữa. Một vài thủ tục cũng phải giảm bớt đi so với dự định ban đầu. Trong nhà, Cường và Mai Lan ngồi cạnh nhau cùng hướng ra bên ngoài. Đúng mười một giờ trưa, bố Cường thắp hương lên bàn thờ gia tiên và có đôi lời với những người có mặt. Tiếng ông nhỏ nhẹ, chậm rãi: “Thay mặt hai gia đình, tôi xin cảm ơn tất cả mọi người đã có mặt hôm nay. Cường và Mai Lan là con của chúng tôi. Hai cháu là bạn học của nhau từ bé và sau này lớn lên các cháu đã yêu nhau, hứa hẹn với nhau sẽ nên vợ nên chồng. Hai gia đình chúng tôi cũng đã làm lễ ăn hỏi và cùng nhất trí chọn ngày hôm nay làm ngày tổ chức lễ thành hôn cho hai cháu. Nhưng từ hơn một tháng nay, cháu Mai Lan bị bệnh nặng, cho đến giờ này vẫn chưa khỏi. Mặc dầu vậy, các cháu vẫn ở bên nhau, chăm sóc cho nhau, quyết tâm kết duyên chồng vợ bất chấp mọi trở ngại bệnh tật. Cảm phục và quý trọng tình yêu son sắt thuỷ chung của hai cháu và để đáp ứng nguyện vọng của hai cháu, chúng tôi tổ chức lễ báo hỷ này, cũng coi như là một lễ cưới nhỏ, để Cường và Mai Lan chính thức nên duyên vợ chồng và là dâu rể của hai gia đình chúng tôi...”. Tiếng bố Cường bỗng chìm đi trong tiếng nấc nghẹn ngào của ai đó. Cường đỡ Mai Lan nằm xuống vuốt những sợi tóc loà xoà trên trán:

- Em có nghe bố nói gì không? Bố vừa nói về chúng mình đấy. Bố bảo chúng mình đã là vợ chồng của nhau rồi đấy.

Tiếng Mai Lan chỉ còn nghe như gió thoảng:

- Có, em có nghe! Em rất mừng và thấy mình thực sự hạnh phúc.

Có mấy người từ phòng ngoài chạy ùa vào tặng hoa cho cô dâu chú rể. Đó là những người bạn cùng cơ quan của Cường và Mai Lan. Cường đón lấy những bó hoa ôm vào lòng mình và đặt vào lòng Mai Lan. Những bó hoa tươi thắm, thoang thoảng hương thơm như vây lấy đôi vợ chồng trẻ trong ngập tràn cả khổ đau và hạnh phúc. Mai Lan ngửng lên lờ đờ đôi mắt nhìn khắp lượt bạn bè và những người có mặt. Cô cố gượng cười như muốn thay cho một lời cảm ơn và thiếp đi. Lúc tỉnh lại, Mai Lan đột nhiên vươn người lên choàng tay ôm lấy cổ Cường, kéo đầu Cường xuống sát mặt mình, rồi thều thào: - Anh ơi, được thế này... là em mãn nguyện... lắm rồi! Em mệt lắm... em đi đây...

Sau câu đó Mai Lan lịm dần, lịm dần không còn biết gì nữa. Cường có hỏi gì cô cũng chỉ lặng im. “Mai Lan ơi, em đừng chết, đừng bỏ anh mà đi. Em đã hứa với anh là em sẽ mãi mãi làm cô kỹ sư tháng ngày lội ruộng với bà con nông dân, mãi mãi làm một người vợ yêu chồng, một người mẹ thương con cơ mà...”. Cường kêu lên rồi đỡ Mai Lan ngồi dậy dựa vào ngực mình, vòng tay ôm lấy vợ. Anh đã ngồi như thế với Mai Lan cho đến tận lúc vợ anh trút hơi thở cuối cùng. Lúc ấy là mười một giờ khuya. Cường vuốt mắt cho Mai Lan và nức nở khóc. Nước mắt lúc này có thể phần nào giúp anh vơi đi nỗi đau đang vò xé trái tim anh.

... Bóng chiều đã sụp xuống, Cường vẫn ngồi lại một mình bên mộ vợ. Mưa đã dần ngớt nhưng chưa tạnh hẳn.

Gió vẫn gầm rú và những làn nước chênh chếch như những ngọn roi vô hình vẫn đều đặn quất xuống.





Hết!