Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 12:58:02 pm



Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 12:58:02 pm
- Tên sách: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật
- Năm xuất bản: 2016
- Người số hóa: macbupda, vnmilitaryhistory


Chỉ đạo nội dung
   ĐẢNG ỦY - BỘ TƯ LỆNH QUÂN KHU 7

Tổ chức thực hiện
   BỘ THAM MƯU QUÂN KHU 7

Biên soạn
   Đại tá, PGS.TS. HỒ SƠN ĐÀI
   TS. HỒ SƠN DIỆP


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 12:58:31 pm
LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta đã thắng lợi vẻ vang. Đó là cuộc đối đầu giữa dân tộc ta và một lực lượng quân sự cực kỳ hùng mạnh, quân đội của một nước đế quốc đầu sỏ với âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa của chủ nghĩa thực dân mới ở Đông Nam Á. Trong cuộc chiến đấu ấy, miền Nam là chiến trường chính, trong đó địa bàn Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên (bao gồm thành phố Sài Gòn, gọi tắt là B2) là nơi đối đầu khốc liệt nhất giữa ý chí giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của quân và dân ta với những chiến lược chiến tranh tân kỳ nhất của Mỹ. Các lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường B2 (thường gọi là Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 - một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam) đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, xứng đáng với lòng tin của nhân dân cả nước, lòng tin của Đảng và Bác Hồ vĩ đại, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cả dân tộc, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Nhằm tái hiện lại lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ trên địa bàn B2, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đã giao cho các nhà sử học, khoa học quân sự tiến hành biên soạn nhiều công trình khoa học tổng kết chiến tranh và lịch sử của các đơn vị, khu vực trên địa bàn. Trong đó, công trình Lịch sử Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 (1961-1976) do Đại tá, PGS.TS. Hồ Sơn Đài và TS. Hồ Sơn Diệp biên soạn đã cố gắng đi sâu tái hiện có hệ thống và toàn diện quá trình hình thành, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là một công trình khoa học có giá trị trong việc góp phần tổng kết lịch sử kháng chiến của miền Nam nói chung và của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 nói riêng. Với mong muốn cung cấp cho bạn đọc, các nhà nghiên cứu một nguồn sử liệu quý, góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn Lịch sử Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 (1961-1976).


Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình biên soạn và xuất bản, song nội dung cuốn sách khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau nội dung cuốn sách được hoàn chỉnh hơn.

Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.


Tháng 9 năm 2016
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 12:59:03 pm
LỜI NÓI ĐẦU

Vấn để xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang luôn luôn là một nội dung then chốt trong tiến hành chiến tranh cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, quán triệt những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chấp hành sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam và các cấp ủy Đảng trên chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ đã lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ba thứ quân, phát động quần chúng xây dựng lực lượng chính trị, tiến lên xây dựng lực lượng vũ trang đi đôi với vũ trang cho quần chúng rộng rãi. Trên cơ sở đó, Quân giải phóng ra đời.


Để tiến hành kháng chiến, trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ địa bàn Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên, trong đó có thành phố Sài Gòn, được tổ chức thành một chiến trường gọi tắt là B2. Tên của cơ quan chỉ huy các lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường B2 lúc bấy giờ là Bộ Chỉ huy (từ năm 1971 gọi là Bộ Tư lệnh) các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam, thường gọi tăt là Bộ Chỉ huy Miền hoặc Bộ Tư lệnh Miền. Tên của các lực lượng vũ trang cách mạng trên chiến trường B2 lúc đó cũng gọi là Lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam, thường gọi là Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2.


Kể từ ngày thành lập (năm 1961) đến ngày kết thúc nhiệm vụ (năm 1976), Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Quân đội giao phó, vừa chiến đấu, công tác, vừa xây dựng, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ - ngụy trên chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.


Với nguồn tư liệu có được, chúng tôi mong muốn dựng lại một cách hệ thống và toàn diện quá trình hình thành xây dựng, chiến đấu và công tác của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Nội dung cuốn sách có thể còn những sự kiện đánh giá cần được tiếp tục hiệu đính. Chúng tôi mong đợi sự thể tất và góp ý của quý bạn đọc.


Tháng 8-2016
PGS, TS. HỒ SƠN ĐÀI - TS. HỒ SƠN DIỆP


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 01:00:22 pm
Mở đầu
CHIẾN TRƯỜNG B2 VÀ NHỮNG ĐƠN VỊ VŨ TRANG TIỀN THÂN


I. CHIẾN TRƯỜNG B2

1. Địa lý quân sự

B21 (Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, chiến trường miền Nam (từ nam vĩ truyến 17 trở vào, gọi là chiến trường B) được tổ chức thành 4 khu vực với các mật danh B1, B2, B3, B4. B1 gồm khu vực duyên hải Trung Trung Bộ (các tỉnh từ Đà Nẵng vào đến Khánh Hòa). B2 gồm khu vực Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (các tỉnh từ Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng vào đến Cà Mau). B3 gồm khu vực Tây Nguyên (các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk). B4 gồm khu vực nam vĩ tuyến 17 đến bắc đèo Hải Vân (các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huê)) là mật danh tổ chức quân sự trên chiến trường các tỉnh Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (theo quy ước trong kế hoạch chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam Việt Nam, được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua năm 1961). Tổ chức quân sự trên chiến trường B2 bao gồm Quân khu 6 (cực Nam Trung Bộ), Quân khu 7 (Đông Nam Bộ), Quân khu 8 (Trung Nam Bộ), Quân khu 9 (Tây Nam Bộ) và Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Cơ quan chỉ huy chiến trường là Ban Quân sự, sau đổi thành Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam (gọi tắt là Bộ Chỉ huy Miền, từ năm 1971 là Bộ Tư lệnh Miền). Theo đó, lực lượng vũ trang tập trung trên chiến trường B2 gọi là bộ đội chủ lực Miền và bộ đội các quân khu thuộc Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, gọi chung là Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.


Địa bàn Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ thuộc phần đất cuối cùng phía Nam của Tổ quốc, có vùng rừng núi chạy dọc với dãy Trường Sơn, có thành phố thủ phủ của các chế độ ngụy quyền Sài Gòn, có đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, có bờ biển dài với nhiều cửa sông và đường biên giới giáp với Vương quốc Campuchia. Tựu trung, chiến trường B2 có ba vùng chiến lược hoàn chỉnh: rừng núi, đồng bằng và đô thị.


Vùng rừng núi kéo dài từ miền Đông Nam Bộ đến các tỉnh cực Nam Trung Bộ nối liền với Nam Tây Nguyên và Đông Bắc Campuchia. Núi cao, rừng rậm và nhiều khu vực tương đối bằng phẳng, vùng rừng núi có đặc điểm thuận lợi cho việc cơ động và trú đóng quân, xây dựng lực lượng và dự trữ cơ sở vật chất, hình thành căn cứ địa và hậu phương chiến lược tại cho rộng lớn của cả miền Nam Đông Dương. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nơi đây trở thành căn cứ địa của các cơ quan đầu não kháng chiến, nơi xây dựng các đơn vị chủ lực mạnh, nơi tập kết đứng chân và phát triển tiến công của các binh đoàn chủ lực về giải phóng Sài Gòn trên các hướng bắc và đông bắc.


Vùng đồng bằng bao gồm rẻo duyên hải mạn thấp các tỉnh miền Đông Nam Bộ, vùng ven thành phố Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình bằng phẳng, sông rạch dọc ngang chằng chịt, khuất khúc bất ngờ, những cánh rừng tràm, rừng đước, dừa nước bạt ngàn, dân cư đông đúc, kinh tế trù phú, vùng nông thôn đồng bằng có đặc điểm thuận lợi cho việc phát triển chiến tranh du kích rộng khắp, phát triển phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng và cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến.


Vùng đô thị bao gồm Sài Gòn và các thành phố, thị xa lớn khác như Phan Thiết, Biên Hòa, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ... Các đô thị thường nằm ở những địa bàn xung yếu, trấn giữ các đầu mối hoặc trục đường giao thông chiến lược cả về đường bộ, đường sông, đường biển và đường không; nơi tập trung nhiều cơ sở kinh tế công nghiệp có mối quan hệ giao lưu mật thiết và nhanh chóng với vùng nông thôn đồng bằng bao quanh. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các đô thị, đặc biệt là thành phố Sài Gòn, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và hệ thống căn cứ quân sự của địch; nơi đặt bản doanh chỉ đạo, chỉ huy toàn bộ cuộc chiến tranh hoặc từng vùng chiến trường của thế lực xâm lược và bè lũ tay sai. Với ta, nơi đây là trung tâm của các phong trào đấu tranh chính trị và địch ngụy vận, nơi hàng vạn nhân sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên, nhân viên kỹ thuật rời đô thành ra đi kháng chiến.


Cư dân ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ có nhiều dân tộc khác nhau (Việt, Xtiêng, Chơro, Châu Mạ, Chăm, Hoa, Khmer...) với nhiều tôn giáo lớn (Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo...). Chiếm tuyệt đại bộ phận trong số họ là nông dân. Công cuộc khẩn hoang, làm chủ thiên nhiên và đấu tranh chống áp bức, bóc lột, chống giặc ngoại xâm trên vùng đất mới đã cố kết họ thành một khối đoàn kết gắn bó, hun đúc nơi họ ý chí khảng khái, bất khuất trước mọi cản trở của hoàn cảnh, tinh thần tự lực, tự cường và sự năng động, sáng tạo cả trong làm ăn và đánh giặc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra liên tục và đều khắp với những cao trào mang dấu ấn sâu sắc trong lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Quân và dân nơi đây bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với hành trang kinh nghiệm rất phong phú về đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, đấu tranh địch ngụy vận cả ở vùng tự do, vùng tranh chấp và vùng tạm bị chiếm, cả ở vùng nông thôn - rừng núi, nông thôn - đồng bằng và đô thị.


Chiến trường B2 là địa bàn chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đối với địch, đây là nơi thực hiện tập trung nhất chủ nghĩa thực dân kiểu mới và các chiến lược chiến tranh; nơi chúng thực hiện thí điểm các biện pháp chiến lược, chiến thuật như “ấp chiến lược”, “thiết xa vận”, “trực thăng vận” (trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”); “tìm diệt”, “bình định”, “quét và giữ” (trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”); “bình định thí điểm”, “bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt” (trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”); là địa bàn cố thủ trong nỗ lực chia cắt đất nước, duy trì ách thống trị của đế quốc Mỹ và chế độ ngụy quyền tay sai.


Đối với ta, B2 là chiến trường trọng điểm của toàn miền Nam, nơi Trung ương Đảng tập trung chỉ đạo giải quyết những vấn đề chiến lược chủ yếu nhất tại chiến trường nhằm phát triển cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Phong trào Đồng khởi năm 1960, phong trào phá ấp chiến lược năm 1963, những trận đánh Mỹ đầu tiên và những chiến dịch tiêu diệt lớn những năm 1965 - 1967, cuộc Tổng công kích Xuân Mậu Thân năm 1968, phong trào đấu tranh đô thị, đòn phản công trên tuyến biên giới và phát triển tiến công mở rộng vùng giải phóng sang Campuchia năm 1970, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và trận quyết chiến chiến lược cuối cùng mùa Xuân năm 1975 trên chiến trường B2 là chuỗi biến cố lịch sử mà ý nghĩa của nó có tác dụng làm chuyển biến toàn bộ tiến trình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Có thể nói rằng, Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ là địa bàn có khả năng thể hiện sự vận dụng đầy đủ đường lối quân sự, đường lối chính trị của Đảng ta về tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện; địa bàn có điều kiện thể hiện một cách trực tiếp truyền thống đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt Nam - Campuchia; nơi mở đầu và kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược của nhân dân ta trong 30 năm qua.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 01:02:26 pm
2. Tổ chức chiến trường

Trong quá trình xâm lược Việt Nam, tại chiến trường Nam Bộ, Mỹ - ngụy tổ chức thành các vùng chiến thuật, tiểu khu, chi khu và tổ chức này không ngừng thay đổi qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

Năm 1961, chính quyền Ngô Đình Diệm giải tán các tổ chức quân khu được thiết lập từ trước đó, chia lãnh thổ miền Nam thành ba vùng chiến thuật 1, 2, 31 (Vùng 1 chiến thuật gồm các tỉnh từ Quảng Ngãi trở ra vĩ tuyến 17. Vùng 2 chiến thuật gồm các tỉnh Cao nguyên và cực Nam Trung Bộ. Dưới vùng chiến thuật là khu chiến thuật, tiểu khu (tỉnh) và chi khu (quận). Mỗi vùng chiến thuật có một quân đoàn (gồm từ 2 đến 4 sư đoàn) phụ trách. Bộ Tư lệnh Quân đoàn đồng thời là Bộ Tư lệnh Vùng chiến thuật). Các tỉnh Nam Bộ thuộc vùng 3 chiến thuật do Quân đoàn 3 phụ trách. Địa bàn của vùng 3 chiến thuật gồm tổng cộng 26 đơn vị hành chính. Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức thành quân khu đặc biệt.


Năm 1963, ngụy quyền Sài Gòn tách các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ra khỏi vùng 3 chiến thuật để thành lập vùng 4 chiến thuật và đồng thời với nó là thành lập Quân đoàn 4. Theo đó, toàn miền Nam có 4 vùng chiến thuật và riêng ở Nam Bộ có vùng 3 chiến thuật, vùng 4 chiến thuật. Vùng 3 chiến thuật - Quân đoàn 3 gồm các tỉnh Phước Long, Bình Dương, Biên Hòa, Bình Long, Long Khánh, Phước Tuy, Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An. Trực thuộc vùng 3 chiến thuật có khu chiến thuật 31 (gồm các tiểu khu Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An), khu chiến thuật 32 (gồm các tiểu khu Bình Dương, Bình Long, Phước Long), khu chiến thuật 33 (gồm các tiểu khu Biên Hòa, Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy) và Biệt khu thủ đô (Sài Gòn - Gia Định). Vùng 4 chiến thuật - Quân đoàn 4 gồm các tỉnh Gò Công, Kiến Tường, Định Tường, Kiến Hòa, Kiến Phong, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Châu Đốc, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, Chương Thiện, Bạc Liêu và An Xuyên. Trực thuộc vùng 4 chiến thuật có khu chiến thuật 41 (gồm các tiểu khu Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình), khu chiến thuật 42 (gồm các tiểu khu Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên), khu chiến thuật 43 (gồm các tiểu khu Định Tường, Kiến Tường, Kiên Hòa, Gò Công). Ngoài ra còn có khu chiến thuật đặc biệt bán tự trị 44 làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh khu vực tây bắc đồng bằng sông Cửu Long dọc biên giới Việt Nam - Campuchia (giải thể năm 1973).


Năm 1969, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần quân chiến đấu về nước. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cải tổ lại tổ chức lãnh thổ và bộ máy lãnh đạo chính trị - quân sự từ trung ương đến địa phương theo hướng tập trung quyền lực và thống nhất chỉ huy trên toàn miền Nam. Theo đó, tại Nam Bộ vẫn tồn tại hai quân khu (vùng chiến thuật), một loại tổ chức quân sự - hành chính làm nhiệm vụ bảo đảm an ninh lãnh thổ và bình định, xây dựng tại chỗ. Dưới quân khu là khu trách nhiệm chiến thuật (khu chiến thuật cũ), tiểu khu (tỉnh), rồi chi khu (quận). Người đứng đầu mỗi cấp vừa giữ quyền lãnh đạo hành chính vừa giữ quyền chỉ huy quân đội (quân khu, quân đoàn, tiểu khu, chi khu). Tư lệnh quân khu - quân đoàn làm đại biểu chính phủ tại lãnh thổ quân khu (vùng chiến thuật cũ); tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng, quận trưởng kiêm chi khu trưởng. Tổ chức này tồn tại cho đến ngày 30-4-1975.


Dựa trên cơ sở tổ chức đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã có sẵn và kế thừa kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tại Nam Bộ, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam (gọi tắt là Bộ Chỉ huy Miền) dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam đã không ngừng điều chỉnh, củng cố lại tổ chức chiến trường phù hợp với nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng cụ thể.


Năm 1961, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chuyển sang thời kỳ chiến tranh cách mạng mới, lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp được thành lập lại. Chiến trường B2 được tổ chức thành các quân khu hình thức tổ chức quân sự theo lãnh thổ (mật danh quân sự là T). Theo đó:

- T1 (Quân khu 7 - Đông Nam Bộ) gồm 8 tỉnh: Bà Rịa (gồm cả thị xã Vũng Tàu), Biên Hòa, Long Khánh, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long và Phước Thành (gồm huyện Tân Uyên của tỉnh Biên Hòa và huyện Phước Vĩnh của tỉnh Bình Dương).

- T2 (Quân khu 8 - Trung Nam Bộ) gồm 8 tỉnh: Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, Bến Tre và Kiến Phong (gồm Cao Lãnh của tỉnh Sa Đéc và Mộc Hóa của Tân An).

- T3 (Quân khu 9 - Tây Nam Bộ) gồm 7 tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng (gồm cả Côn Đảo), Rạch Giá, Cà Mau, Hà Tiên. Tỉnh Bạc Liêu chia đôi, một nửa nhập về tỉnh Sóc Trăng, một nửa nhập về tỉnh Cà Mau.

- T4 (Quân khu Sài Gòn - Gia Định) gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và các huyện ngoại thành: Bình Tân, Tân Bình, Bình Chánh, Nhà Bè, Thủ Đức, Dĩ An, Gò Vấp, Hóc Môn và Củ Chi.

- T6 (Quân khu 6 - cực Nam Trung Bộ) gồm 7 tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Đắk Lắk và Quảng Đức.

Trực thuộc các quân khu là tỉnh đội, huyện đội, xã đội.

Từ năm 1962 đến năm 1966, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức lại chiến trường. Năm 1962, Quân khu 10 (T10) được thành lập gồm các tỉnh Bình Long, Phước Long (thuộc Quân khu 7) và các tỉnh Quảng Đức, Lâm Đồng (thuộc Quân khu 6). Năm 1963, Quân khu 10 giải thể (tỉnh Bình Long trở về Quân khu 7, các tỉnh còn lại trở về Quân Ịriiu 6); hai tỉnh Khánh Hòa, Đắk Lắk nhập về Quân khu 5; đồng thời 2 tỉnh Bà Rịa, Long Khánh sáp nhập lại thành tỉnh Bà Rịa - Long Khánh. Năm 1966, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh sáp nhập với tỉnh Biên Hòa thành tỉnh Long - Bà - Biên; tỉnh Phước Thành giải thể; Quân khu 10 tái thành lập gồm các tỉnh Bình Long, Phước Long và Quảng Đức.


Năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, chiến trường Nam Bộ có sự biến động lớn về tổ chức. Các quân khu miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn - Gia Định được giải thể để thành lập khu trọng điểm gồm các phân khu, hình thành 5 cánh trên 5 hướng tiến công vào thành phố Sài Gòn, tỉnh Long An thuộc Quân khu 8 cũng được tổ chức vào các phân khu.


Từ sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đến hết năm 1971 là giai đoạn lực lượng kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn. Tổ chức chiến trường Nam Bộ, chủ yếu là Đông Nam Bộ, liên tục được điều chỉnh. Tháng 3-1968, Quân khu 7 được thành lập lại, bao gồm địa bàn Phân khu 4 và tỉnh Bà Rịa. Tháng 5-1970, Phân khu 2 và Phân khu 3 sáp nhập lại thành Phân khu Long An. Năm 1971 lại giải thể Quân khu 10 một lần nữa để thành lập Phân khu Bình Phưổc, gồm 2 tỉnh Bình Long và Phước Long (tỉnh Quảng Đức chia nhập về các tỉnh Đăk Lăk và Lâm Đồng); Quân khu 7 giải thể, thành lập Phân khu Bà Rịa bao gồm tỉnh Bà Rịa và Phân khu 4 cũ.


Từ mùa xuân năm 1972, tổ chức các phân khu không còn phù hợp nữa, các lực lượng kháng chiến mở cuộc tấn công nhằm giành quyền chủ động chiến lược trên toàn chiến trường. Tại Đông Nam Bộ, Bộ Chỉ huy Miền giải thể các tổ chức phân khu để khôi phục lại Quân khu 7, gồm các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh. Quân khu Sài Gòn - Gia Định gồm khu vực nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn và các quận, huyện vùng ven: Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Tân Bình, Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè. Các tỉnh Long An, Kiến Tường sáp nhập trở lại Quân khu 8. Tại Tây Nam Bộ, thị xã Cần Thơ tách riêng thành thành phố trực thuộc Quân khu 9. Tại cực Nam Trung Bộ, Quân khu 6 chỉ còn các tỉnh Ninh Thuận, Bình Tuy, Tuyên Đức, Lâm Đồng.


Sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn tạo thế, tạo lực để tiến lên tổng tiến công và nổi dậy. Tại Đông Nam Bộ, các huyện Tân Uyên, Phú Giáo, Độc Lập (Biên Hòa) tách ra thành lập tỉnh Tân Phú. Các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh tách khỏi Quân khu 7, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chỉ huy Miền. Quân khu Sài Gòn - Gia Định đổi tên thành Thành đội Sài Gòn - Gia Định. Tại Trung Nam Bộ, các tỉnh An Giang, Kiến Phong được điều chỉnh lại, đổi tên là tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Châu Tiền. Tại Tây Nam Bộ, tỉnh Bạc Liêu được khôi phục lại, tỉnh Châu Hà sáp nhập thêm vùng nam sông Hậu của Long Xuyên và đổi tên thành tỉnh Long Châu Hà. Tại cực Nam Trung Bộ, tỉnh Quảng Đức được tái lập và nhập về Quân khu 6. Và tổ chức nói trên tồn tại cho đến ngày Nam Bộ hoàn toàn giải phóng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 01:04:22 pm
II. QUÁ TRÌNH TÁI LẬP LỰC LƯỢNG VŨ TRANG GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2

1. Bối cảnh lịch sử và sự ra đời các tổ chức vũ trang để bảo vệ lực lượng cách mạng

Từ sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cách mạng nước ta bước sang một giai đoạn mới. Chiến tranh chấm dứt. Nhân dân miền Bắc hồ hởi bước vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhân dân miền Nam còn dưới ách thống trị của đế quốc tay sai tiếp tục đấu tranh đòi thực hiện Hiệp định Giơnevơ, củng cố hòa bình, thực hiện các quyền tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nước trên cơ sở dân chủ và độc lập.


Tại Nam Bộ, thực hiện nội dung của Hiệp định, lực lượng vũ trang tập trung về Xuyên Mộc (Bà Rịa), Hàm Tân (Bình Thuận), Cao Lãnh (Đồng Tháp) và Cà Mau để tập kết ra miền Bắc. Sau khi bố trí người ở lại, các cơ quan phân liên khu, đặc khu, các tiểu đoàn chủ lực của Phân liên khu, tiểu đoàn tập trung của tỉnh, đại đội độc lập huyện, các đơn vị binh chủng chuyên môn như công binh, pháo binh, vận tải, trinh sát, đặc công và các đại đội công an xung phong, bộ đội Việt kiều... tổ chức thành các trung đoàn hành quân về vị trí tập kết. Quân số toàn Nam Bộ cộng chung có 27.962 cán bộ, chiến sĩ, trong đó Phân liên khu miền Đông và Độc khu Sài Gòn có 14.635 người, Phân liên khu miền Tây có 13.327 người1 (Cục Tổ chức Tống cục Chính trị: Báo cáo tình hình cán bộ Phân liên khu miền Đông Nam Bộ ngày 29-10-1954, lưu trữ Bộ Quốc phòng Phòng Nam Bộ, tờ 158).


Sau 300 ngày kể từ Hiệp định Giờnevơ có hiệu lực, về cơ bản, lực lượng vũ trang tập trung ở Phân liên khu miền Đông và Phân liên khu miền Tây (cũng như trên toàn lãnh thổ Việt Nam phía nam vĩ tuyến 17) đã tập kết hết ra miền Bắc. Tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ họp hội nghị để ra nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, trong đó nhấn mạnh: song song với việc chuẩn bị lực lượng chính trị để tiến hành đấu tranh chính trị với địch, cần chuẩn bị những điều kiện tối thiểu để khi cần thiết thì xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang. Thực hiện chủ trương trên, các tỉnh tại Nam Bộ bố trí trở lại tổng cộng 25.000 du kích và hàng trăm cán bộ quân sự với khoảng 10.000 khẩu súng các loại (chôn cất bí mật trên 300 điểm)2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, 2-1979, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7 TK 17 tr.2 K4). Số cán bộ quân sự và du kích này sau khi được học tập chính trị, quán triệt tình hình nhiệm vụ và phương châm đấu tranh trong tình hình mới đã trở lại sống chan hòa trong nhân dân, tham gia vào các phong trào đấu tranh chính trị công khai. Như thế, từ giữa năm 1955, về tổ chức, không còn lực lượng vũ trang cách mạng tại miền Đông Nam Bộ.


Ngụy biện rằng không bị ràng buộc bởi Hiệp định Giơnevơ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, hất cẳng Pháp và lực lượng thân Pháp, dựng lên chính quyền bù nhìn tay sai Ngô Đình Diệm, áp đặt chính sách thực dân kiểu mới. Sử dụng bạo lực phản cách mạng, Mỹ - Diệm ra sức đàn áp phong trào cách mạng miền Nam, đặt lực lượng kháng chiến cũ và những người yêu nước ra ngoài vòng pháp luật. Tình hình ấy làm cho những người lãnh đạo cách mạng ở Nam Bộ thấy được rõ ràng hơn bản chất của kẻ thù và đi đến khẳng định: không có con đường nào khác là phải sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai. Về hình thức đấu tranh, không thể chỉ đơn thuần bằng chính trị mà phải chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc đấu tranh vũ trang chắc chắn không thể tránh khỏi.


Ngay trong năm 1956, quan điểm trên đây chưa được quán triệt có hệ thống và sâu rộng trong quần chúng. Tuy nhiên, nó là cơ sở rất quan trọng về nhận thức tư tưởng để các cấp bộ Đảng ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ kịp thời có biện pháp chỉ đạo đấu tranh thích hợp trong thực tiễn. Bắt đầu từ giữa năm 1956, các đơn vị vũ trang lần lượt ra đời dưới nhiều hình thức khác nhau.


- Tự vệ công khai: Tại Sài Gòn - Gia Định và các vùng nông thôn Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, từ trong phong trào chống Diệm đuổi nhà, cướp đất, khủng bố những người kháng chiến và yêu nước, các đội tự vệ ra đời với danh nghĩa “phòng cháy chữa cháy”, “đội chống trộm cướp”... Thành phần của các đội này là thanh niên yêu nước, những tự vệ du kích kháng chiến cũ. Trung bình mỗi phường, xã có từ một đến hai, ba đội tự vệ.


- Đơn vị vũ trang tự phát: Trước hành động khủng bố dã man của địch, những cán bộ kháng chiến, du kích cũ bị mất liên lạc, không thể tiếp tục sống và đấu tranh trong vùng địch tạm chiếm buộc phải chạy ra căn cứ cũ. Họ tập hợp lại thành từng đơn vị, tự vũ trang, dựa vào chiến khu quen thuộc củ để vừa sản xuất tự túc vừa tránh sự truy lùng của Mỹ - Diệm, xây dựng lực lượng chờ đợi thời cơ.


- Đơn vị vũ trang bảo vệ các cơ quan Đảng. Để bảo vệ an toàn cho các cơ quan tỉnh ủy, huyện ủy, nhiều địa phương đã tổ chức những đơn vị vũ trang bí mật, trang bị bằng vũ khí chôn giấu từ trưỏc. Tỉnh ủy các tỉnh Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, mỗi tỉnh tổ chức một số đơn vị vũ trang tự vệ, quân số mỗi đơn vị trên dưới một trung đội. Nhiều đơn vị lấy danh nghĩa là bộ đội Bình Xuyên hoặc các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo để che mắt địch. Các trung đội này lập ra những trại sản xuất trồng tỉa, khai thác lâm sản ở vùng căn cứ kháng chiến cũ để duy trì lực lượng và hoạt động. Cuối năm 1956, Đảng bộ Nha tù Tân Hiệp (Biên Hòa) đã tổ chức cho tù nhân vượt ngục, 462 cán bộ, đảng viên vượt ngục thoát về đến Chiến khu Đ an toàn. Phần lớn trong số này được bổ sung vào các đơn vị vũ trang tại miền Đông Nam Bộ.

- Đơn vị vũ trang Bình Xuyên và các giáo phái: Sau khi trực tiếp nhảy vào miền Nam, đi đôi với việc gạt lực lượng quân sự Pháp, đế quốc Mỹ tìm cách thanh toán tiêu diệt các thế lực thân Pháp nhằm xóa bỏ mọi ảnh hưởng của Pháp, xây dựng cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội hoàn toàn lệ thuộc Mỹ. Lần lượt trong ba tháng 4-5-6 năm 1956, chúng mở các cuộc hành quân tiễu trừ lực lượng quân sự Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, làm tan rã hoặc tê liệt trên 6.000 quân của ba lực lượng nói trên1 (Việt Hồng: “Vài nét về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang ở Nam Bộ trước cuộc Đồng khởi 1959-1960”, Tạp chí Nghiên cửu lịch sử, số 155, 3-4/1974, tr.42). Bị đẩy vào thế đối lập, một số bộ phận vũ trang của Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo chạy ra vùng chiến khu cũ dựa vào sự giúp đỡ của những người kháng chiến để chống lại Diệm. Tại Đông Nam Bộ, Tiểu đoàn 3 Bình Xuyên gồm 350 người do Trung tá Võ Văn Môn và Thiếu tá Nguyễn Văn Luông chỉ huy chạy về Xuyên Mộc, rồi lên Chiến khu Đ. Đơn vị quân đội Cao Đài do Thiếu tá Huỳnh Thanh Mừng và Thiếu tá Lê Hoàng chỉ huy chạy vào Chiến khu Dương Minh Châu. Nhiều cán bộ, đảng viên cốt cán được cử vào các đơn vị nói trên, cùng với họ chấn chỉnh lại tổ chức, giáo dục chính trị và huấn luyện bộ đội, từng bước chuyển hóa họ thành lực lượng vũ trang cách mạng.


Vậy là, tại Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đã hình thành một lực lượng vũ trang chống chế độ độc tài, phát xít, tay sai của chủ nghĩa thực dân kiểu mới Mỹ, bao gồm các đơn vị tự vệ công khai ở vùng tạm bị chiến và đơn vị vũ trang tập trung ở vùng kháng chiến cũ. Đó chính là cơ sở đầu tiên cho quá trình khôi phục và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng về sau.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 01:05:32 pm
2. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời

Từ cuối năm 1956, vấn đề khôi phục và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam được đặt ra như một tất yếu khách quan. Trong thư gửi Xứ ủy Nam Bộ ngày 18-8-1956, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ rõ: “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang, nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng hình thức tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định... Cần củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có, xây dựng căn cứ làm chỗ dựa, đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển các đơn vị lực lượng vũ trang”1 (Nghị quyết 64-N của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 19-6-1956, lưu trữ Phòng Khoa học Quân sự Quân khu 7). Cũng trong tháng 8-1956, trong Đề cương cách mạng miền Nam, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ Lê Duẩn khẳng định: con đường đưa cách mạng miền Nam tiến lên là bạo lực cách mạng. Tháng 12-1956, Xứ ủy Nam Bộ họp hội nghị, chủ trương đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đồng thời từng bước tổ chức đấu tranh vũ trang tự vệ để hỗ trợ. Hội nghị thông qua nghị quyết về tổ chức và phương thức hoạt động của lực lượng vũ trang tự vệ. Đó là các đội vũ trang tuyên truyền làm nhiệm vụ “vạch mặt địch, phát động căm thù, xây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng, khống chế ác ôn, tình báo địch, tranh thủ sự đồng tình của binh lính, vận động binh lính và nhân viên ngụy quyền ủng hộ các cuộc đấu tranh của quần chúng, hạn chế đánh địch làm bộc lộ lực lượng”1 (Nghị quyết Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 12-1956, lưu trữ Phòng Khoa học Quân sự Quân khu 7).


Quán triệt nghị quyết của Xứ ủy, song song với việc chỉ đạo đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng liên tỉnh ủy, các tỉnh ủy địa phương ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đã chú trọng công tác xây dựng căn cứ địa, xây dựng hệ thống tổ chức chỉ huy quân sự các cấp, xây dựng lực lượng tự vệ vũ trang. Từ năm 1957, hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang diễn ra rộng khắp. Các đơn vị vũ trang Bình Xuyên Cao Đài, Hòa Hảo được chia tỏa và củng cố lại, bổ sung thêm nhiều cán bộ, chiến sĩ nòng cốt của địa phương, tổ chức thành đơn vị để khuếch trương thanh thế, gọi là “đại đội” hoặc “tiểu đoàn”. Trên cơ sở một số đơn vị vũ trang tập trung liên tỉnh, đơn vị giáo phái, bổ sung thêm nhiều phân đội từ các tỉnh miền Đông, miền Trung, miền Tây Nam Bộ, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo xây dựng thành các “đại đội” 60, 50, 70 80 200, 300, rồi đơn vị bảo vệ C1.000, các đơn vị đặc công
C90A, C80B2 (Xem Hồ Sơn Đài (chủ biên): Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2010) Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.11)...


Nhằm hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, lấy vũ khí của địch trang bị cho lực lượng vũ trang của ta, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương tổ chức một số trận đánh. Liên tiếp từ giữa năm 1957 đến cuối năm 1959, các đơn vị vũ trang tập trung - lấy danh nghĩa là lực lượng vũ trang Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo - đã thực hiện nhiều trận đánh có tiếng vang lớn và hiệu suất cao. Ngày 3-4-1957, tập kích sở cao su Bến Củi (Tây Ninh), thu một triệu đồng, hai xe vận tải, một số súng, gạo, vải, thuốc chữa bệnh. Ngày 10-8-1957, tập kích căn cứ thị trấn Minh Thạnh (Thủ Dầu Một), đánh rã 2 trung đội bảo an, dân vệ, thu 2 triệu đồng, nhiều vũ khí, đạn dược. Ngày 18-9-1957, tập kích cơ sở khai thác gỗ của Trần Lệ Xuân ở Trại Be (Biên Hòa), thu 30 súng và nhiều xe cơ giới. Tháng 12-1957, phục kích địch càn quét tại khu vực Lò Than (Biên Hòa), diệt và làm bị thương 1 đại đội. Ngày 10-10-1958, tập kích trung tâm quận lỵ và chi khu quân sự Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một), thu 100 súng, 2 triệu đồng, diệt và làm bị thương gần 200 tên địch. Ngày 7-7-1959, tập kích trụ sở phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) tại Nhà Xanh (Biên Hòa), diệt 2 cố vấn Mỹ và làm bị thương nhiều tên khác... Ngoài ý nghĩa chính trị, quân sự, thắng lợi của những trận đánh nêu trên đã góp phần “cung cấp” một khối lượng đáng kể vũ khí, tiền bạc, lương thực, vải vóc, thuốc men cho các đơn vị vũ trang đang trong giai đoạn khôi phục, chưa có sự chi viện của Trung ương.


Tính đến cuối năm 1959, lực lượng vũ trang tập trung của Bộ Tư lệnh miền Đông và của các tỉnh miền Đông Nam Bộ có tổng cộng trên dưới 20 đại đội với hơn 1.000 cán bộ, chiến sĩ, trong đó khoảng hai phần ba lực lượng được trang bị súng các loại.


Tháng 1-1959, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là "giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.81) bằng phương pháp sử dụng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Nghị quyết 15 đã giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam trong tình thế thực sự chín muồi, tạo điều kiện để lực lượng vũ trang chuẩn bị và tiến lên làm nòng cốt trong phong trào Đồng khởi toàn Miền trong năm 1960. Từ trong phong trào Đồng khởi của quần chúng, lực lượng vũ trang cách mạng phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Số lượng người và vũ khí, trang bị tăng lên theo cấp số nhân. Hệ thống chỉ đạo, chỉ huy quân sự được hình thành và tổ chức chặt chẽ. Đến đầu năm 1961, tính chung lực lượng vũ trang cách mạng trên toàn chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ có 61.980 cán bộ, chiến sĩ, trong đó2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, 2-1979, Tlđd):

- Bộ đội chủ lực: 7.473 cán bộ, chiến sĩ (bộ đội chủ lực Miền có 1 trung đoàn và 6 đại đội bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn đặc công; bộ đội chủ lực khu có 6 tiểu đoàn và 1 đại đội bộ binh).

- Bộ đội địa phương: 8.222 cán bộ, chiến sĩ (bộ đội tỉnh có 20 đại đội và 10 trung đội; bộ đội huyện có 109 trung đội và 25 tiểu đội).

- Dân quân du kích: 46.285 cán bộ, chiến sĩ.

Chính sự trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ nói riêng, toàn miền Nam nói chung sau Đồng khởi là cơ sở để ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam thành Quân giải phóng trên chiến trường B2, tên tuyên truyền công khai và quan hệ đối ngoại là Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, vào ngày 15-2-1961.


Từ sau cao trào Đồng khởi, cách mạng miền Nam chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng. Đòn tiến công quân sự được nâng lên ngang hàng với đấu tranh chính trị. Lực lượng vũ trang bao gồm các đơn vị chiến đấu tập trung và lực lượng chiến đấu tại chỗ phát triển sâu rộng. Vấn đề thành lập hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang và cơ quan chỉ huy thống nhất nhằm chỉ đạo lực lượng vũ trang các cấp xây dựng, chiến đấu và công tác trở thành một nhu cầu khách quan, cấp bách.


Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ngày 31-1-1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị, ra nghị quyết về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam, trong đó nhấn mạnh “Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng ta về cả hai mặt chính trị và quân sự” và kiện toàn cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, thành lập Trung ương Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ1 (Trung ương Cục gồm: Nguyễn Văn Linh (Bí thư); Phan Văn Đáng và Võ Chí Công (Phó Bí thư); Phạm Văn Xô, Phạm Thái Bường, Võ Văn Kiệt, Trần Lương, Nguyễn Đôn và Trương Chí Cương (ủy viên)). Cùng ngày, Tổng Quân ủy Quân đội nhân dân Việt Nam trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang tự vệ xuất hiện ở miền Nam Việt Nam từ sau Hiệp định Giơnevơ, đồng thời tổ chức các khung cán bộ từ cấp Miền đến cấp tiểu đoàn hành quân vào chiến trường để xây dựng lực lượng Quân giải phóng.


Triển khai nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Tổng Quân ủy, tháng 2-1961, tại Chiến khu Đ, Xứ ủy Nam Bộ họp hội nghị quyết định thống nhất tất cả lực lượng vũ trang thành Quân giải phóng miền Nam - một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 10-1961, tại Chiến khu Đ, Trung ương Cục miền Nam họp hội nghị mở rộng lần thứ nhất, ra nghị quyết chuyên đề về đấu tranh quân sự và xây dựng các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Hội nghị đã quyết định thành lập hệ thống tổ chức quân sự trên toàn Miền. Theo đó, lực lượng vũ trang có bộ đội chủ lực Miền (tổ chức cao nhất là trung đoàn, mật danh Q); bộ đội chủ lực các quân khu; bộ đội địa phương các tỉnh, huyện; dân quân du kích xã, ấp; tổ đội biệt động, vũ trang bí mật ở các đô thị... về tổ chức chỉ huy quân sự các cấp, xã thành lập ban quân sự xã (xã đội, mật danh Y), huyện thành lập ban quân sự huyện (huyện đội, mật danh V), tỉnh thành lập ban quân sự tỉnh (tỉnh đội, mật danh U), quân khu thành lập bộ tư lệnh quân khu (mật danh ban quân sự T). Cơ quan chỉ huy quân sự cao nhất là Ban Quân sự Miền (mật danh Ban Quân sự R). Ban Quân sự Miền trực thuộc Trung ương Cục miền Nam, do Phạm Thái Bường sau đó là Trần Lương (Trần Nam Trung) làm Trưởng ban, có nhiệm vụ theo dõi tình hình, làm tham mưu cho Trung ương Cục ban hành chỉ thị, nghị quyết về quân sự, trực tiếp chỉ đạo chỉ huy lực lượng vũ trang và các tổ chức chiến trường ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên. Tên tuyên truyền công khai và quan hệ đối ngoại của Ban là Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam.


Chiến trường B2 (Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên) có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng là địa bàn có các cơ quan đầu não của chế độ ngụy quyền Sài Gòn và đại bản doanh của quân xâm lược Mỹ; địa bàn có khả năng vận dụng đầy đủ đường lối quân sự, đường lối chính trị của Đảng Lao động Việt Nam về tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện; nơi mở đầu và kết thúc cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trước hành động bạo lực phản cách mạng của kẻ thù, từ trong phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, hình thức đấu tranh vũ trang tái xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam. Và đó là tiền đề dẫn đến sự ra đời của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam!


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 01:07:02 pm
Chương một
QUÂN GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
TRONG GIAI ĐOẠN CHỐNG CHIẾN LƯỢC
“CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA MỸ
(1961 - 1965)


I. BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG GIẢI PHÓNG VÀ HỆ THỐNG TỔ CHỨC CHỈ HUY QUÂN SỰ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2

1. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trên chiến trường B2

Phong trào Đồng khởi năm 1960 của nhản dân miền Nam đã góp phần làm sụp đổ hoàn toàn “cuộc chiến tranh không tuyên bố” của Mỹ, buộc giới cầm quyền Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự nhằm “ngăn chặn sự lớn mạnh của Cộng sản”. Đoàn cố vấn Mỹ do nhà kinh tế học Eugene Staley thuộc Viện nghiên cứu Stanford và tướng Maxwell D. Taylor lập tức được phái sang miền Nam Việt Nam nghiên cứu tình hình nhằm soạn thảo kế hoạch chống lại cuộc chiến tranh cách mạng đang được hình thành và có xu hướng phát triển mạnh mẽ ở miền Nam Việt Nam.


Tháng 5-1961, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được công bố, thực chất đó là bản “Kế hoạch Staley - Taylor” với nội dung sử dụng quân đội Việt Nam Cộng hòa cùng với cố vấn Mỹ, vũ khí Mỹ, viện trợ Mỹ, sử dụng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, mở các cuộc càn quét “bủa lưới, phóng lao”... nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tái chiếm lại các vùng nông thôn đã mất trong phong trào Đồng khởi; kết hợp với quốc sách “ấp chiến lược” (được coi là “xương sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”) với mục tiêu “bình định” miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng...


Thực thi bản Kế hoạch Staley - Taylor, Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam khoảng 3 vạn cố vấn quân sự, 1.177,9 triệu USD1 (Năm 1961-1962, Mỹ viện trợ 750 triệu USD, năm 1963 là 211,5 triệu USD, năm 1964 là 216,4 triệu USD) và nhiều loại vũ khí, trang bị chiến tranh hiện đại khác. Quân đội Việt Nam Cộng hòa cũng được tăng cường từ 20 vạn năm 1960 lên 30 vạn năm 1961 và 50 vạn năm 1964. Lực lượng bình định nông thôn, dân vệ, bảo an... được thành lập, củng cố huấn luyện bài bản để đủ sức thực hiện nhiệm vụ “diện địa” (giữ đất), góp phần “chống nổi loạn” và tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị quân lực chính quy đẩy mạnh các cuộc hành quân càn quét, đánh phá vùng căn cứ, vùng giải phóng...


Để bảo đảm cho kế hoạch bình định miền Nam Việt Nam thành công trong vòng 18 tháng, chính quyền Sài Gòn đề ra các biện pháp lớn:

- Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang mạnh, tinh nhuệ, có khả năng đối phó được cuộc chiến tranh du kích của đối phương; coi trọng lực lượng địa phương quân và tăng cường lực lượng chuyên gia quân sự về chống chiến tranh du kích.

- Tập trung xây dựng “ấp chiến lược”, kiềm tỏa dân chúng, cắt đứt mọi liên lạc giữa dân chúng với cộng sản; phong tỏa đường giao thông trên bộ, trên biển, sử dụng biệt kích, không quân, hải quân, cắt đứt hết thảy sự chi viện của Bắc Việt cho miền Nam Việt Nam.

- Xây dựng hệ thống chính quyền các cấp đủ sức tiến hành chiến tranh dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Mỹ.

- Triển khai nhanh lực lượng cố vấn quân sự, không quân, hải quân, pháo binh, thiết giáp, hậu cần, kỹ thuật... phục vụ cho công cuộc bình định.


Ngày 21-4-1961, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam: “đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.22, tr.158, 159). “Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng của ta cả về hai mặt chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận Dân tộc giải phóng, phát động một phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn; tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam’’2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.22, tr.158, 159).


Về vấn đề xây dựng lực lượng chính trị và phát động quần chúng đấu tranh, Chỉ thị xác định: “công tác quan trọng và khẩn cấp bậc nhất là phải ra sức xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tiếp tục đẩy mạnh mọi hình thức đấu tranh để lấn địch từng bước và tiến lên đánh đổ hoàn toàn địch"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr. 159-160)... Như vậy, công tác xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh hoạt động đấu tranh vũ trang trở thành nhiệm vụ, là yêu cầu khách quan mang tính cấp thiết, theo đúng quy luật phát triển của cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 01:09:49 pm
2. Xây dựng lực lượng vũ trang giải phóng và tổ chức chỉ huy quân sự

Tháng 1-1961, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) quyết định giải thể Xứ ủy, thành lập Trung ương Cục miền Nam, đồng thời giao nhiệm vụ cho Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu, lập đề án xây dựng lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.


Như đã nói ở trên, ngày 15-2-1961, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Xứ ủy Nam Bộ đã tiến hành tổ chức hội nghị tại Chiến khu Đ, quyết định thống nhất lực lượng vũ trang trên chiến trường B2, thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.


Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu trên chiến trường B2 (Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên), bao gồm bộ đội chủ lực Miền, bộ đội chủ lực các quân khu, bộ đội địa phương các tỉnh, bộ đội địa phương các huyện (cơ quan chỉ huy là Ban Quân sự huyện, gọi tắt là Huyện đội).


Ngay trong hội nghị ngày 15-2-1961, Ban cán sự Ban Quân sự Miền được Xứ ủy bổ nhiệm, bao gồm: Phạm Thái Bường2 (Năm 1962, Phạm Thái Bường được điều về Khu 9, Trần Lương làm Trưởng ban) (Trưởng ban), Phạm Văn Xô (phụ trách hậu cần), Trần Văn Quang (phụ trách quân sự), Trần Lương (Trần Nam Trung1 (Trần Lương lúc bấy giờ là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, ủy viên quân sự trong ủy ban Trung ương Mật trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam) phụ trách chính trị). Ban có nhiệm vụ theo dõi tình hình, tham mưu cho Xứ ủy ban hành chỉ thị, nghị quyết về quân sự, đồng thời trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang trên chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên.


Ngày 25-2-1961, Bộ Chính trị thông qua bản kế hoạch quân sự (1961-1962) do Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chuẩn bị. Bản kế hoạch nêu rõ: “Xây dựng ở miền Nam một lực lượng vũ trang tập trung đủ mạnh, được bảo đảm tốt về trang bị kỹ thuật, cung cấp vật chất và chỉ đạo tác chiến. Bộ đội địa phương huyện tổ chức đến trung đội, đại đội. Bộ đội tập trung tỉnh tổ chức đến đại đội, tiểu đoàn. Xây dựng từ 10 đến 15 trung đoàn mạnh về xung lực, hỏa lực và một sốđơn vị pháo hỗn hợp có khả năng phá công sự, diệt xe tăng, bắn máy bay của địch đến một mức độ nhất định"2 (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quan đội nhân dân, Hà Nội, 1988, t.2, quyển 1, tr. 131).


Đầu năm 1961, trên cơ sở Sư đoàn 3383 (Sư đoàn 338 được thành lập từ năm 1956) (thành phần chủ yếu là những chiến sĩ miền Nam tập kết và đông đảo cán bộ, chiến sĩ miền Bắc tình nguyện), Bộ Quốc phòng lập thành “Đoàn Phương Đông” với gần 600 người4 (Ban liên lạc Đoàn Phương Đông, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7: Đoàn Phương Đông, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.100), tiếp theo là “Đoàn Dân Tiến” nhằm tăng cường lực lượng cho chiến trường B2. Trong “Đoàn Phương Đông” và “Đoàn Dân Tiến”, Bộ Quốc phòng đã thành lập sẵn khung 1 trung đoàn Quân giải phóng bao gồm cả 2 khung tiểu đoàn trực thuộc nhằm chi viện cho Ban Chỉ huy Quân sự Miền và khung các cơ quan, đơn vị, binh chủng... để chi viện cho các quân khu, các tỉnh, các huyện phục vụ cho việc thành lập bộ đội giải phóng. Ngày 5-5-1961, Đoàn Phương Đông bắt đầu hành quân; tiếp đó, ngày 1-6-1961, Đoàn Dân Tiến lên đường tiến vào chiến trường Nam Bộ. Đến tháng 7-1961, đoàn quân chi viện có mặt tại Chiến khu Đ (tỉnh Biên Hòa).


Tháng 8-1961, trên cơ sở lực lượng vũ trang tuyển chọn từ các quân khu và số cán bộ quân sự được Trung ương chi viện1 (Theo kế hoạch thành lập Quân giải phóng miền Việt Nam, bên cạnh việc tuyển chọn lực lượng tại chỗ, Trung ương sẽ chi viện cho các chiến trường miền Nam khoảng 40.000 cán bộ, chiến sĩ, ưu tiên những người quen thuộc chiến trường miền Nam (số cán bộ, chiến sĩ tập kết). Tháng 5-1961, Đoàn cán bộ Phương Đông gần 600 người, do Thiếu tướng Trần Văn Quang (Bảy Tiến), Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm Trưởng đoàn hành quân vào Nam. Tháng 7-1961, Đoàn cán bộ Phương Đồng đến Mã Đà, Chiến khu Đ (theo Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền 1961-1976, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.94, 95)), Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập hai tiểu đoàn chủ lực đầu tiên (Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2). Buổi lễ ra mắt diễn ra tại Chiến khu bắc Tây Ninh và Chiến khu Đ. Tiểu đoàn 1 do Bùi Thanh Vân (Út Liêm) làm Tiểu đoàn trưởng, Đặng Văn Thượng làm Chính trị viên. Tiểu đoàn 2 do Huỳnh Leo (Bình Minh) làm Tiểu đoàn trưởng, Bảy Trợt (Hải) làm Chính trị viên. Mỗi tiểu đoàn được trang bị khoảng 100 khẩu súng, phần lớn là súng bộ binh do các nước tư bản chế tạo2 (Xem Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4: Lịch sủ Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), 1974-2004, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.26).


Tại buổi lễ thành lập hai tiểu đoàn chủ lực đầu tiên trên chiến trường B2, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Đoàn Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã đến dự và căn dặn: “Nước ta còn nghèo. Dân ta đang bị áp bức bóc lột, nên người và vũ khí hiện chỉ có bấy nhiêu. Các đồng chí hãy lấy đó làm vốn rồi liên hệ với địa phương xin thêm người, tổ chức và huấn luyện cho tốt để gấp rút ra chiến đấu hỗ trợ phong trào”1 (Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4: Lịch sử Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), 1974-2004, Sđd, tr.26).


Tháng 10-1961, tại Chiến khu Đ (nay thuộc xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai), Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng được tổ chức2 (Nhiều nhà quân sự, nhà sử học cho rằng đây là Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Cục miền Nam) với nội dung quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về tình hình miền Nam; tuyên bố giải thể Xứ ủy Nam Bộ, thành lập Trung ương Cục; hoạch định tổ chức, bố trí nhân sự, phân công công tác cho những cán bộ chủ chốt nhằm thực hiện thống nhất lãnh đạo; đồng thời bàn phương hướng công tác chung cho toàn Miền3 (Ngày 27-3-1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng điện cho Xử ủy Nam Bộ về quyết định nhân sự của Trung ương Cục miền Nam, bao gồm: Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) - Ủy viên Trung ương Đảng, làm Bí thư; Phan Văn Đáng - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư; Võ Chí Công (Toàn) - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư; Phạm Văn Xô, Phạm Thái Bường, Võ Văn Kiệt, Trần Lương, Nguyễn Đôn - Ủy viên. Để tiến tới tổ chức hội nghị thành lập Trung ương Cục miền Nam, ngày 11-7-1961, Xứ ủy Nam Bộ điện (số 104/NB) xin ý kiến của Ban Bí thư về nội dung của hội nghị. Ngày 10-8-1961, Ban Bí thư đã điện mật (số 168) trả lời Xứ ủy Nam Bộ. Nội dung bức điện chỉ rõ mục đích của hội nghị: nhằm làm cho Trung ương Cục nắm được tình hình chung của toàn miền Nam, quán triệt những nghị quyết, chỉ thị của Trung ương đối với tình hình miền Nam, đặt phương hướng công tác chung cho toàn miền Nam và tổ chức, phân công trong Trung ương Cục, định ra việc tổ chức các cơ quan của Trung ương Cục, phân định các chiến trường và bố trí công tác cho những cán bộ chủ chốt, thực hiện thống nhất lãnh đạo... (theo Lịch sử Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam 1954-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.163))...


Trong Hội nghị, Trung ương Cục miền Nam chính thức được thành lập Ban Quân sự Miền.

“Ban Quân sự trực thuộc Trung ương Cục miền Nam, là cơ quan giúp Trung ương Cục chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang ở chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Thiếu tướng Trần Lương, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam được cử làm Trưởng ban”1 (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, Sđd, t.2, quyển 1, tr. 147). Ngoài ra, Trung ương Cục còn thành lập các cơ quan trực thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự Miền như “Phòng Tham mưu do Trần Đình Xu (Ba Đình) làm Trưởng phòng; Phòng Chính trị do Lê Văn Tưởng (Lê Chân) làm Trưởng phòng, Phòng Hậu cần do Võ Văn Lân (Mười Thiện) phụ trách, sau là Nguyễn Văn Dung (Tư Thắng) làm Trưởng phòng”2 (Bộ Quốc phòng, Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sdd, tr.94, 95).


Cùng với những sự kiện diễn ra trên chiến trường B2, tại Xuân Mai (Hà Tây), ngày 22-12-1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trung đoàn 2 bộ binh nhằm chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Trung đoàn 2 được biên chế thành 3 tiểu đoàn: Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5, khung Tiểu đoàn 6 và các đơn vị trợ chiến như đặc công, công binh, pháo binh... Ngay sau khi thành lập, ngày 23-12-1961, Trung đoàn 2 bộ binh lên đường vào Nam.


Ngày 9-2-1962, tại Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh), Ban Quân sự Miền tuyên bố thành lập Trung đoàn 1 bộ binh - trung đoàn Quân giải phóng đầu tiên trên chiến trường B2 với mật danh EQ.761, còn gọi là C56, do Tăng Thiên Kim (Hoàng Đình Chương) được cử làm Trung đoàn trưởng, Lê Văn Nhỏ (Hai Lâm) được cử làm Chính ủy3 (Sau đó, đồng chí Nguyễn Thế Truyện được cử làm Trung đoàn trưởng, Chính ủy là Lê Văn Nhỏ). Trung đoàn có hai tiểu đoàn (Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 đã thành lập trươc đó) và các cơ quan chuyên môn, phân đội binh chủng trực thuộc... Đến tháng 3-1963, Miền được tăng cường một số cán bộ từ miền Bắc vào và số tân binh tăng cường từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long lên. Trung đoàn 1 thành lập thêm Tiểu đoàn 3. Lúc này, Trung đoàn do Nguyễn Thế Truyện làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Văn Tòng làm Chính ủy.


Sau sự kiện thành lập Trung đoàn 1 bộ binh Quân giải phóng, ngày 18-3-1962, khung Trung đoàn 2 bộ binh và khung Tiểu đoàn 6 từ Hà Nội hành quân vào đến Mã Đà, Chiến khu Đ. Tháng 6-1962, Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 5 bộ binh cùng các phân đội binh chủng đi sau đều có mặt. Trên cơ sở tân binh được tuyển chọn từ đồng bằng sông Cửu Long và được sự chấp thuận của Trung ương Đảng, Trung ương Cục quyết định công bố thành lập Trung đoàn 2 bộ binh mang phiên hiệu là EQ.762, còn được gọi là C.58. Ban Chỉ huy Trung đoàn được bổ nhiệm gồm Lê Thành Cộng làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Đăng Mai làm Chính ủy, Tạ Minh Khâm làm Trung đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng trung đoàn1 (Giữa năm 1963, Nguyễn Văn Cộng và Nguyễn Đăng Bảy được điều về Miền, Tạ Minh Khâm làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Văn Quảng (Năm Phòng) làm Chính ủy, Nguyễn Thới Bưng (Út Thới) làm Tham mưu trưởng (Theo Lịch sử Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long (1974-2004), Sđd, tr.28)).


Tháng 10-1963, Trung ương Cục quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Quân sự Miền thay cho Ban Chỉ huy Quân sự Miền. Bộ Chỉ huy Quân sự Miền gồm: Nguyễn Văn Linh (Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy), Trần Văn Trà (Phó Tổng tham mưu trưởng, quyền Tư lệnh), Trần Văn Quang và Nguyễn Hữu Xuyến (Tư lệnh phó). Phụ trách các cơ quan gồm: Trần Đình Xu (Tham mưu trưởng), Lê Văn Tưởng (Chủ nhiệm chính trị), Nguyễn Văn Dung (Chủ nhiệm hậu cần).


Tháng 12-1963, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) được tổ chức. Tiếp đó, ngày 18-3-1964, Trung ương Cục ban hành Chỉ thị “dốc toàn lực giành thắng lợi quyết định”.

Tháng 6-1964, trên cơ sở lực lượng tăng cường của Quân khu 9, Bộ Chỉ huy Quân sự Miền quyết định thành lập Trung đoàn 3 bộ đội chủ lực Miền. Trung đoàn 3 do Lê Thanh làm Chính ủy, Võ Minh Như làm Trung đoàn trưởng.


Cũng trong thời gian này, cán bộ chỉ huy Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2 có sự thay đổi. Tại Trung đoàn 1, Nguyễn Thế Truyện được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, Lê Văn Nhỏ được bổ nhiệm làm Chính ủy. Tại Trung đoàn 2, Tạ Minh Khâm được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Văn Quảng được bổ nhiệm làm Chính ủy.


Như vậy, tính đến tháng 6-1964, trên chiến trường B2, bộ đội chủ lực Miền gồm có 3 trung đoàn bộ binh, mỗi trung đoàn gồm 3 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn biên chế khoảng 130 cán bộ, chiến sĩ và các đơn vị trợ chiến trực thuộc bao gồm trinh sát, công binh, pháo binh, hậu cần, chính trị... Riêng lực lượng pháo binh Miền còn có đơn vị pháo mang vác hỗn hợp, được gọi là Đoàn 563 pháo binh Miền.


Trên chiến trường B2, Quân giải phóng cấp quân khu được hình thành từ đầu năm 1961 (khi bộ đội giải phóng được thành lập). Tuy nhiên đến tháng 5-1961, các quân khu mới có quyết định thành lập, bao gồm: Quân khu Sài Gòn - Gia Định, Quân khu 6, Quân khu 7, Quân khu 8, Quân khu 9, Quân khu 101 (Đến đầu năm 1962, Quân khu 10 được thành lập, gồm các tỉnh Bình Long, Phước Long và Lâm Đồng. Quân khu 10 do Lâm Quốc Đăng (Nguyên Thược) làm Trưởng ban quân sự, Bùi San - Bí thư Khu ủy làm Chính ủy, đến cuối năm 1963 thì Quân khu 10 giải thể).


Bộ đội trên địa bàn các quân khu bao gồm bộ đội chủ lực của các quân khu và bộ đội địa phương của các tỉnh, huyện trên địa bàn do quân khu quản lý.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 26 Tháng Giêng, 2023, 01:11:42 pm
Quân khu Sài Gòn - Gia Định

Quân khu Sài Gòn - Gia Định (còn gọi là T4), Bộ chỉ huy gồm: Trần Hải Phụng (Quyền Chỉ huy trưởng kiêm Tham mưu trưởng), Nguyễn Hồng Đào (Nguyễn Hồng Tư, Chính ủy), Huỳnh Văn Cường (Bảy Nam, Tham mưu phó). Quân khu Sài Gòn - Gia Định bao gồm địa bàn rộng: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Củ Chi (tỉnh Hậu Nghĩa) và Phú Hòa, Dĩ An (tỉnh Bình Dương)1 (Xem Quân khu 7 - Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh (1945-2013), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2014, tr.239).


Địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn vốn là đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng hòa nên việc xây dựng, phát triển Quân giải phóng được đặt ra với nhiều yêu cầu khắt khe, đặc biệt là đối với lực lượng vũ trang hoạt động nội tuyến.


Tháng 8-1961, Quân khu Sài Gòn - Gia Định được chi viện một trung đội chủ lực từ Đoàn Phương Đông, một trung đội chủ lực Miền và một trung đội vũ trang địa phương huyện Nhà Bè... Trên cơ sở đó, Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định tiến hành thành lập Đại đội bộ binh 13 (C13) với 160 cán bộ, chiến sĩ, 1 khung đại đội đặc công, 1 khung Trường Quân chính và phân công cán bộ chuyên trách xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang nội đô.


Đại đội bộ binh 13 biên chế thành 5 trung đội, do Mười Phước làm Đại đội trưởng, Hai Hiền làm Chính trị viên. Đến đầu năm 1962 Đại đội bộ binh 13 được bổ sung thêm các đội trinh sát, công binh, quân y và đổi tên thành K17. Ban chỉ huy K17 cũng được thay đổi: Ba Hồng làm Chỉ huy trưởng, Năm Bê làm Chỉ huy phó và Ba Nhương làm Chính trị viên.


Đầu năm 1963, Bộ Chỉ huy Quân khu quyết định thành lập thêm hai đại đội (Đại đội 22, Đại đội 23) và một trung đội trợ chiến, nâng tổng biên chế K17 lên 300 cán bộ, chiến sĩ và đổi tên thành Đoàn Quyết Thắng.


Đến giữa năm 1964, trên cơ sở lực lượng bộ đội địa phương và thanh niên yêu nước ra chiến khu ngày càng nhiều, Bộ Chỉ huy Quân khu quyết định tuyển dụng nâng quân số lên 456 cán bộ, chiến sĩ và đổi tên Đoàn Quyết Thắng thành Tiểu đoàn Quyết Thắng. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn gồm có Nguyễn Thành Nâu (Sáu Tiên) là Tiểu đoàn trưởng, Hai Bắc là Tiểu đoàn phó, Năm Bình Lâm là Chính trị viên, Nguyễn Phi Công (Hai Công) là Chính trị viên phó, Sáu Cương là Tham mưu trưởng. Các đại đội trực thuộc được đổi phiên hiệu thành Đại đội 217, Đại đội 221, Đại đội 222. Mỗi đại đội biên chế thành 3 trung đội, ngoài ra còn có một trung đội cối.


Tháng 12-1964, Tiểu đoàn Quyết Thắng được Quân khu tăng cường thêm hai đại đội, một trung đội cối mới, nâng tổng số tiểu đoàn lên 5 đại đội với khoảng 600 cán bộ, chiến sĩ và hai trung đội CỐI 60 ly. Ngày mùng 1 Tết âm lịch năm Ất Tỵ (tháng 1-1965), Tiểu đoàn Quyết Thắng chính thức làm lễ ra mắt tại Xóm Chùa, xã An Nhơn Tây.


Cũng tháng 12-1964, Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định cơ cấu lại nhân sự, Trần Đình Xu được bổ nhiệm làm Tư lệnh, Đặng Quang Long làm Chủ nhiệm chính trị, Trần Sơn Tiêu làm Tham mưu phó. Tiếp đó, đầu năm 1965, Trần Hải Phụng được bổ nhiệm làm Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng, phụ trách công tác đô thị và lực lượng vũ trang đô thị.


Trong thời gian này, để tăng cường sức chiến đấu cho bộ đội giải phóng, Quân khu Sài Gòn - Gia Định thành lập thêm Tiểu đoàn 8 pháo binh và các đơn vị trinh sát (K15), tuyển binh (K16), đặc công (K18), huấn luyện (K19), pháo cối (K20), vận tải (K23) và đơn vị biệt động (F21) trực thuộc Ban quân báo Phòng Tham mưu Quân khu. F21 là đơn vị biệt động đặc biệt tinh nhuệ, có khả năng thực hiện những trận đánh lớn, hiệu suất cao. Đến giữa năm 1964, Ban Quân báo Quân khu có 300 cán bộ, chiến sĩ và hàng trăm cơ sở, hình thành nên mạng lưối quân báo rộng khắp trên cả 8 quận nội thành Sài Gòn.


Bên cạnh lực lượng quân báo, Bộ Quốc phòng còn tăng cường cho Quân khu Sài Gòn - Gia Định một đại đội đặc công được huấn luyện bài bản và được trang bị các loại vũ khí chuyên nghiệp, biên chế thành ba trung đội.


Trung đội 1 (B1) là đặc công bộ chuyên đánh kho tàng, được bố trí ở khu vực Gò Vấp (vùng sông Rạch Tra), do Hai Cương chỉ huy.

Trung đội 2 (B2) là đặc công biệt động, được bố trí trên hướng Bình Tân, mục tiêu hướng về Phú Lâm và sân bay Tân Sơn Nhất do Nguyễn Văn Kịp (Đồng Đen) và Năm Hát chỉ huy.

Trung đội 3 (B3) là đặc công nước, được bố trí ở hướng Thủ Đức (vùng sông ông Kèo - Rừng Sác) mục tiêu hướng về kho xăng Nhà Bè và các căn cứ hải quân ngụy cặp sông Sài Gòn, do Hai Thanh chỉ huy1 (Xem Quân khu 7 - Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh (1945- 2013), Sđd, tr.282).


Song song với lực lượng bộ đội giải phóng công khai thành lập ở chiến khu, vùng giải phóng, lực lượng bộ đội giải phóng hoạt động bí mật trong nội đô được Quân khu quán triệt xây dựng từ sau Hội nghị Khu ủy tháng 1-1961. Lúc bấy giờ, Quân khu chia vùng ven xung quanh đô thành Sài Gòn thành 5 vùng, gọi là 5 cánh, bao gồm cánh 154 (quận 2, quận 4); cánh 156 (quận 7, quận 8 ); cánh 157 (quận 6 và các xã Bình Tri, An Lạc, Phú Định, Phú Thọ Hòa); cánh 158 (quận 4, quận 5); cánh 159 (quận 1 và các xã Thạnh Mỹ Tây, Bình Hòa, Phú Nhuận, Tân Hòa). Ngoài việc xây dựng lực lượng vũ trang cho mỗi cánh, Quân khu còn kết hợp với cấp ủy cánh thành lập các đội biệt động.


Tính đến năm 1964, Quân khu cùng cấp ủy các cánh thành lập được 4 đội biệt động, bao gồm:

Đội biệt động 159 (thành lập năm 1962), có 136 chiến sĩ, được tổ chức thành 3 phân đội.

Đội biệt động 65 (thành lập năm 1962), có 121 chiến sĩ, được tổ chức thành 6 phân đội.

Đội biệt động 67 (thành lập năm 1963)1 (Đội biệt động 67 do Đỗ Tấn Phong làm Chỉ huy trưởng, Chín Quốc làm Chính trị viên và Tư Giờ làm Đội phó), có 176 chiến sĩ, được tổ chức thành 4 phân đội.

Đội biệt động 350 (thành lập tháng 4-1964), có 18 chiến sĩ, tổ chức thành một phân đội2 (Xem Quân khu 7 - Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh (1945- 2013), Sđd, tr.257).


Đến đầu năm 1965, cùng với 4 đội biệt động trên, trên địa bàn quân khu còn có các đội biệt động của các cánh. Điển hình như Đội biệt động 68, Đội biệt động 69 và các đội biệt động của Thành đoàn, của Công vận, của Hoa vận...


Các đội biệt động là lực lượng tinh nhuệ, bao gồm những chiến sĩ trung kiên, xuất sắc được chọn lựa từ nhiều thành phần, tầng lớp, giai cấp, tổ chức, nghề nghiệp trong bộ máy công quyền hay trong các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội... Sau khi được tuyển chọn, họ được đưa ra chiến khu học tập, huấn luyện quân sự, nắm vững các kỹ năng, kỹ thuật, cách đánh, cách xử lý tình huống... trong nội đô và trong những trường hợp đặc biệt hiểm nghèo. Dù được bố trí hoạt động bí mật trong nội đô hay ở ngoại thành, được ngụy trang bằng những nghề nghiệp hợp pháp hay bất hợp pháp, nhưng họ đều là những chiến sĩ Quân giải phóng trực thuộc biên chế một đơn vị vũ trang nhất định và hoạt động theo nguyên tắc đơn tuyên.


Như vậy, tính đến năm 1965, ngoài lực lượng biệt động, quân báo, đặc công và các đơn vị, cơ quan chuyên môn trực thuộc như chính trị, tham mưu, hậu cần..., Quân khu Sài Gòn - Gia Định được biên chế 2 tiểu đoàn Quân giải phóng. Đó là Tiểu đoàn Quyết Thắng và Tiểu đoàn 8 pháo binh.


Trên địa bàn Quân khu Sài Gòn - Gia Định, trong Đồng khởi năm 1960, sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và sự ra đời của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tác động tích cực đến phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Rất nhiều thanh niên trai tráng từ nội, ngoại thành tình nguyện ra chiến khu tham gia Quân giải phóng. Chỉ tính riêng Củ Chi, năm 1961 đã có tới hơn 1.000 thanh niên xin nhập ngũ. Trên cơ sở đó, lực lượng vũ trang địa phương ở Sài Gòn - Gia Định có điều kiện phát triển mạnh mẽ.


Cuối năm 1961, hầu hết các huyện ở Sài Gòn - Gia Định, lực lượng Quân giải phóng địa phương đã hình thành cấp trung đội mạnh như ở Thủ Đức, Dĩ An, Nhà Bè, Hóc Môn, Củ Chi... Đặc biệt, ở huyện Củ Chi, nơi Khu ủy và Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định chọn làm nơi đứng chân (khu vực Hố Bò - Phú Mỹ Hưng). Do được giao nhiệm vụ bảo vệ căn cứ nên lực lượng bộ đội huyện Củ Chi phát triển nhanh chóng, đến cuối năm 1961, thành lập đại đội và đến năm 1963 thành lập tiểu đoàn mang phiên hiệu Tiểu đoàn 7 Củ Chi.


Năm 1962, sau khi Quân khu Sài Gòn - Gia Định phân chia vùng ven đô Sài Gòn thành 5 cánh, lực lượng vũ trang phụ trách mỗi cánh chủ yếu do lực lượng bộ đội địa phương nắm giữ. Do vậy, Bộ Chỉ huy Quân khu đã tích cực hỗ trợ các địa phương xây dựng, phát triển hệ thống cơ quan quân sự và lực lượng vũ trang địa phương.


Đến năm 1964, hầu hết các huyện đều thành lập được ban chỉ huy huyện đội và có một đại đội địa phương. Huyện đội và lực lượng vũ trang địa phương các huyện đều xây dựng được căn cứ, các lõm đứng chân để hoạt động. Nếu tính cả lực lượng du kích xã, quân số lực lượng vũ trang địa phương năm 1964 lên tới gần 2.000 người.


Đầu năm 1965, thực hiện kế hoạch phát triển lực lượng vũ trang địa phương, xây dựng các tiểu đoàn mũi nhọn áp sát xung quanh Sài Gòn, các huyện Hóc Môn, Gò Vấp, Dĩ An, Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Tân tiến hành tuyển quân. Được sự giúp đỡ của Bộ Chỉ huy Quân sự Miền, của Quân khu Sài Gòn - Gia Định trong việc tuyển quân, huấn luyện, trang bị vũ khí, trang thiết bị quân sự..., 5 tiểu đoàn bộ đội địa phương gấp rút được thành lập, lấy phiên hiệu từ 2 đến 6 và được bố trí ở 5 hướng ven đô, sẵn sàng tham chiến khi có thời cơ. Trong đó, Tiểu đoàn 2 đứng chân ở vùng Hóc Môn - Gò Vấp (gọi tắt là vùng Gò Môn), Tiểu đoàn 3 đứng chân ở vùng Dĩ An, Tiểu đoàn 4 đứng chân ở vùng Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 đứng chân ở vùng Nhà Bè, Tiểu đoàn 6 đứng chân ở vùng Bình Tân. Riêng Tiểu đoàn 7 Củ Chi vẫn được bố trí trên địa bàn Củ Chi nhằm bảo vệ căn cứ của Khu ủy và Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định.


Tính đến năm 1965, trên địa bàn do Quân khu Sài Gòn - Gia Định quản lý có tất cả 8 tiểu đoàn Quân giải phóng, trong đó có 2 tiểu đoàn chủ lực và 6 tiểu đoàn địa phương. Nếu tính cả khoảng hơn 3.000 dân quân du kích, tự vệ thì lực lượng vũ trang trên toàn Quân khu có hơn 9.000 người.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Giêng, 2023, 07:53:52 am
Quân khu 6

Trên địa bàn cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên, tháng 7-1961, Trung ương Đảng quyết định thành lập Quân khu 6 (T6), bao gồm Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy, Đắk Lắk, Quảng Đức, Tuyên Đức (bao gồm cả thành phố Đà Lạt).


Quân khu 6 thuộc chiến trường B2, đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam. Bộ Tư lệnh Quân khu do Bùi Định (Tư Khiêm), Phó Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy; Y Blôc Êban giữ quyền Tư lệnh. Cuối năm 1963, Trung ương quyết định giải thể Quân khu 10, tỉnh Khánh Hòa và phần lớn địa bàn tỉnh Đắk Lắk được bàn giao cho Quân khu 5. Lúc bấy giờ, Quân khu 6 được giao phụ trách thêm địa bàn Phước Long, Lâm Đồng và bổ nhiệm Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà) làm Tư lệnh.


Sau khi thành lập, Quân khu được Trung ương chi viện 1 khung trung đoàn, 2 khung tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn thực binh, 4 khung đại đội. Trên cơ sở cán bộ chi viện, Bộ Tư lệnh Quân khu đã bổ sung cho các tỉnh làm nòng cốt để xây dựng bộ đội địa phương. Số còn lại cùng với lực lượng tân binh tuyển từ Nam Bộ do Ban Quân sự Miền chi viện. Quân khu đã thành lập 2 tiểu đoàn quân chủ lực của Khu, bao gồm Tiểu đoàn 840 và Tiểu đoàn 186.


Năm 1963, Quân khu 6 có 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 khung tiểu đoàn trợ chiến (quân chủ lực cấp Khu) với 1.218 cán bộ, chiến sĩ (tính cả cơ quan Khu bộ); 9 đại đội (bộ đội địa phương cấp tỉnh), 19 trung đội (bộ đội địa phương cấp huyện) với 2.459 cán bộ, chiến sĩ (tính cả cơ quan tỉnh đội, huyện đội). Ngoài ra Quân khu 6 còn có 610 bộ đội hành lang, 4.475 dân quân du kích, trong đó có 2.575 dân quân, 180 du kích mật, 1.260 du kích thôn và 360 du kích xã.


Cuối năm 1965, trên cơ sở 2.033 tân binh từ miền Bắc được Trung ương chi viện và 2.700 tân binh do Quân khu tuyển chọn từ các địa phương, Quân khu 6 đã thành lập được 1 trung đoàn quân chủ lực (E346), 2 tiểu đoàn bộ đội cấp tỉnh, 6 đại đội và 23 trung đội bộ đội cấp huyện. Tổng số bộ đội giải phóng là 8.241 người, trong đó bộ đội khu là 3.525 người, bộ đội tỉnh, huyện là 4.716 người. Ngoài ra còn có 9.932 dân quân, du kích.


Quân khu 7

Trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, đầu năm 1961, Quân khu 7 (Quân khu miền Đông, Quân khu 1, T1) được thành lập. Địa bàn Quân khu gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa, Phước Long. Bộ Chỉ huy Quân khu do Nguyễn Hữu Xuyến làm Tư lệnh, Mai Chí Thọ làm Chính ủy, Nguyễn Văn Bứa (Hồng Lâm) và Nguyễn Văn Thược (Lâm Quốc Đăng) làm Phó Tư lệnh.


Tháng 2-1961, tại Suối Linh (Chiến khu Đ), Quân khu 7 quyết định thành lập tiểu đoàn Quân giải phóng đầu tiên của Quân khu, lấy phiên hiệu là D500. Tiểu đoàn 500 có biên chế lên tới 600 cán bộ, chiến sĩ, do Đặng Ngọc Sĩ làm Tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Trọng Tâm (Bảy BK) làm Chính trị viên. Cuối năm 1962, Tiểu đoàn 500 được đổi tên thành Tiểu đoàn 800, đồng thời Quân khu 7 thành lập thêm Tiểu đoàn 700 bộ binh và Tiểu đoàn 900 trợ chiến.


Tháng 10-1963, Nguyễn Văn Bứa (Nguyễn Hồng Lâm) được đề bạt làm Tư lệnh Quân khu 7 thay Nguyễn Hữu Xuyến, Lâm Quốc Đăng làm Phó Tư lệnh. Đến ngày 2-3-1965, trung đoàn đầu tiên của Quân khu chính thức được thành lập, mang phiên hiệu Trung đoàn 4 (còn gọi là Trung đoàn Đồng Nai), do Trần Minh Tâm làm Trung đoàn trưởng, Đặng Kỷ làm Chính ủy.


Tại các tỉnh Tây Ninh, Thủ Biên, Bình Long, Long Khánh, Bà Rịa, Phước Long, bộ đội giải phóng được thành lập từ đầu năm 1961, mỗi tỉnh có một đại đội. Tháng 7-1961, tỉnh Thủ Biên tách thành ba tỉnh: Thủ Dầu Một, Phước Thành, Biên Hòa. Đại đội 380 của tỉnh được chia đều, làm nòng cốt để xây dựng thành 3 đại đội tập trung của 3 tỉnh tương ứng.


Trên cơ sở các đại đội bộ đội tập trung, được sự chi viện của Bộ Quốc phòng cùng với lực lượng thanh niên địa phương tình nguyện tham gia, bộ đội giải phóng các tỉnh phát triển nhanh chóng. Tiểu đoàn 14, Tiểu đoàn 24 Tây Ninh, Tiểu đoàn Phú Lợi (Thủ Dầu Một), Tiểu đoàn 445 Bà Rịa... lần lượt được thành lập với đầy đủ các bộ phận bộ binh, công binh, trinh sát, đặc công, thông tin. Ngoài ra, ở Bình Long, Phước Long còn có các đoàn 85, 86 đứng chân...


Ở cấp huyện, mỗi huyện đều xây dựng được từ một đến hai trung đội du kích tập trung, đặc biệt ở Tây Ninh, các huyện còn xây dựng được đại đội, các xã giải phóng đều có từ một tiểu đội đến một trung đội du kích.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Giêng, 2023, 07:55:19 am
Quân khu 8

Trên địa bàn miền Trung Nam Bộ, đầu năm 1961, Quân khu 8 (còn được gọi là Quân khu 2 - T2) được thành lập. Địa bàn Quân khu gồm các tỉnh Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Tường, Kiến Phong.

Tháng 2-1961, trên cơ sở lực lượng vũ trang của các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Quân khu 8 thành lập Tiểu đoàn 261 và bổ nhiệm Lê Văn Khuyên (Tám Dần) làm Tiểu đoàn trưởng, Lê Minh Đào làm Tiểu đoàn phó, Lê Pha làm Chính trị viên. Là tiểu đoàn Quân giải phóng đầu tiên của Quân khu với 2 đại đội bộ binh, nhưng các chiến sĩ của Tiểu đoàn 261 đều là những chiến sĩ đã có kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường Đồng Tháp Mười.


Tháng 4-1961, Hội nghị Khu ủy Khu 8 mở rộng được tổ chức. Bộ Chỉ huy Quân khu 8 chính thức thành lập, gồm Lê Quốc Sản (Tám Phương, Tư lệnh), Nguyễn Văn Mùi (Sáu Đường, Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy), Đồ Giọng (Tư lệnh phó kiêm Tham mưu trưởng), Nguyễn Văn Phôi (Ba Bốn, Ủy viên Thường vụ Khu ủy kiêm Phó Chính ủy). Trong hội nghị các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Quân khu cũng được thành lập nhằm giúp việc Bộ Chỉ huy Quân khu chỉ huy Quân giải phóng trên chiến trường Trung Nam Bộ.


Tháng 9-1961, đoàn cán bộ quân sự từ miền Bắc vào bổ sung một số cán bộ lãnh đạo cho Quân khu, trong đó chủ yếu là những cán bộ tập kết trở về Nam nên rất thông hiểu chiến trường Trung Nam Bộ. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 261 được củng cố. Đại úy Nguyễn Văn Điều (Hai Hoàng) được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng, Thượng úy Trần Văn Nhiên (Sáu Phú) được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn phó. Đặc biệt, các đại đội, trung đội bộ binh, trinh sát, trợ chiến cũng được tăng cường một số cán bộ quân sự dày dạn kinh nghiệm như Bùi Quang Huệ, Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Long...


Cuối năm 1963, trên cơ sở khung cán bộ tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội được chi viện từ miền Bắc, cùng với lớp tân binh mới tuyển và cán bộ, chiến sĩ lấy lấy từ tuyến tỉnh, Quân khu chỉ đạo thành lập Tiểu đoàn 263 bộ binh với các bộ phận trợ chiến khác. Tiểu đoàn do Lê Văn Phái làm Tiểu đoàn trưởng, Lê Minh Đào làm Chính trị viên và Nguyễn Đại Đức làm Tiểu đoàn phó.


Như vậy, tính đến cuối năm 1963, Quân khu 8 có 2 tiểu đoàn chủ lực, trong đó Tiểu đoàn 261 bộ binh được bố trí đứng chân trên địa bàn trọng điểm Mỹ Tho, Tiểu đoàn 263 được bố trí đứng chân trên địa bàn xã Thạnh Phong - Thạnh Phú - Bến Tre.


Tháng 9-1964, Bộ Chỉ huy Quân khu tuyên bố thành lập Trung đoàn 1 gồm các tiểu đoàn 261A, 261B và 263, do Lê Văn Nhỏ (Hai Lâm) làm Trung đoàn trưởng, Lê Phải làm Chính ủy, Vũ Mạnh và Châu Văn Cứ làm Trung đoàn phó. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định thành lập Tiểu đoàn 267 và Tiểu đoàn 269, chuẩn bị lực lượng để thành lập trung đoàn Quân giải phóng thứ hai của Quân khu.


Ở các địa phương, với phương châm “tiếp tục phát triển thế tấn công và nổi dậy cả chính trị và vũ trang theo phương châm chủ động, sáng tạo, giữ thế hợp pháp của quần chúng để giành thắng lợi to lớn ở tất cả các tỉnh, không để địch phục hồi...”1 (Xem Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998 tr.404, 412), sau khi cung cấp lực lượng góp phần xây dựng quân chủ lực Khu, các tỉnh đã gấp rút tiến hành tập hợp lực lượng, thành lập các đại đội bộ đội địa phương.


Đến cuối năm 1961, các tỉnh đều thành lập được từ 1 đến 2 đại đội. Riêng các tỉnh Long An, Kiến Tường, Mỹ Tho, mỗi tỉnh thành lập được từ 2 đến 3 đại đội, quân số tương đương 1 tiểu đoàn, trong đó có cả bộ binh, đặc công, đại liên, ĐKZ, công binh, thông tin...


Ở cấp huyện trực thuộc, mỗi huyện đều thành lập được ít nhất là một trung đội vũ trang. Tuy nhiên, hội nghị tổng kết, đánh giá công tác quân sự của các tỉnh trên chiến trường Quân khu 8 (12-1961) đều kết luận: công tác phát triển lực lượng vũ trang còn chậm, chưa xứng với phong trào chính trị của quần chúng. Do vậy, nhiệm vụ đề ra là “phát triển lực lượng vũ trang, xây dụng bộ đội tập trung, đẩy mạnh hơn nữa phong trào chiến tranh du kích, bảo đảm yêu cầu phát triển ngày càng cao của cuộc chiến tranh cách mạng”2 (Xem Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998 tr.404, 412).


Trên cơ sở đó, tỉnh Mỹ Tho tiến hành thành lập Tiểu đoàn 514 là tiểu đoàn Quân giải phóng địa phương đầu tiên trên chiến trường Quân khu 8. Tiểu đoàn 514 được trang bị khá tốt, có cả ĐKZ 75, ĐKZ 57, súng trường bá đỏ Nga (K44)... nên khả năng chiến rất đấu cao.


Lực lượng vũ trang cấp huyện được kiện toàn, mỗi huyện đều thành lập được ít nhất là một trung đội. Đến cuối năm 1961, ở một sốhuyện, trên cơ sở thanh niên địa phương xin gia nhập Quân giải phóng, các trung đội vũ trang được nâng lên thành đại đội. Điển hình như Trung đội địa phương huyện Đức Hòa phát triển thành đại đội, lấy tên là Đại đội Võ Văn Tần.


Trong những năm 1962, 1963, do cấp trên không cho phép cấp tỉnh thành lập thêm lực lượng Quân giải phóng cấp tiểu đoàn, Bộ Chỉ huy Quân khu chỉ đạo các tỉnh thành lập thêm các đại đội hoặc các trung đội độc lập. Mỗi đại đội thường được biên chế 4 trung đội, mỗi trung đội có 4 tiểu đội, mỗi tiểu đội từ 12 đến 14 chiến sĩ. Ngoài ra, Quân khu còn chỉ đạo thành lập đại đội đặc công, đại đội ĐKZ75, đại đội cối 12,7 ly. Quân số mỗi đại đội dao động từ 100 đến 120 chiến sĩ. Các đại đội đều được trang bị đầy đủ các loại vũ khí để tăng cường sức mạnh chiến đấu.


Đến cuối năm 1964, Quân khu 8 có 1 trung đoàn chủ lực và 1 khung trung đoàn thứ hai (chuẩn bị thành lập). Ở cấp tỉnh có 8 tiểu đoàn mạnh: Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 Long An; Tiểu đoàn 502 Đồng Tháp; Tiểu đoàn 209 Kiên Phong; Tiểu đoàn 504 Kiến Tường; Tiểu đoàn 514 Mỹ Tho; Tiểu đoàn 261, Tiểu đoàn 516 Bến Tre. Ở cấp huyện, mỗi huyện đều thành lập được từ 1 đến 2 đại đội với biên chế đầy đủ các phân đội bộ binh, trinh sát, đặc công, biệt động, thông tin...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Giêng, 2023, 08:10:33 am
Quân khu 9

Quân khu 9 (miền Tây Nam Bộ - T3) gồm các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Rạch Giá, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau.

Đầu năm 1961, Liên Tỉnh ủy miền Tây tổ chức hội nghị mở rộng tại ấp Bình Minh xã Vĩnh Bình huyện Vĩnh Thuận bàn về việc thành lập lực lượng Quân giải phóng. Hội nghị có sự tham dự của Nguyễn Đệ (Ba Trung) - Trưởng đoàn cán bộ quân sự đầu tiên từ miền Bắc vào tăng cường cho miền Tây Nam Bộ. Trong hội nghị, Ban Quân sự Liên tỉnh miền Tây Nam Bộ được thành lập, gồm Nguyễn Thành Thơ (Mười Khẩn) - Bí thư Liên tỉnh ủy làm Trưởng ban, Nguyễn Đệ làm Phó trưởng ban kiêm Tham mưu trưởng, Nguyễn Văn Bé (Tám Tùng) làm Phó trưởng ban phụ trách chính trị, Lê Văn Sậm (Ba Sao) là Ủy viên phụ trách quân lực, Năm Cúc là Ủy viên phụ trách hậu cần, Hoàng Hà (Ba Quân) là ủy viên phụ trách quân báo1 (Xem Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.302, 303).


Đầu tháng 3-1961, Ban Quân sự Liên tỉnh miền Tây tổ chức Hội nghị quân sự tại Ngã Năm Bình Minh (huyện Vĩnh Thuận) nhằm thảo luận việc thành lập Ban Quân sự khu 9 và lực lượng vũ trang Quân khu 9. Hội nghị do Nguyễn Đệ chủ trì với sự tham dự của khoảng 30 cán bộ lãnh đạo quân sự của các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, Rạch Giá, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau.


Sau hội nghị, hai tiểu đoàn chủ lực Quân khu 9 được thành lập. Tiểu đoàn 306 do Tư Hiển làm Tiểu đoàn trưởng, Năm Tân làm Chính trị viên. Tiểu đoàn 96 do Lê Quang Nguyễn làm Tiểu đoàn trưởng, Phan Văn Nhò làm Chính trị viên. Lực lượng hai tiểu đoàn chủ lực Quân khu được điều động từ lực lượng bộ đội địa phương.


Cùng với việc thành lập các tiểu đoàn chủ lực, Ban Quân sự Khu 9 còn thành lập trường Đặc công, trường Quân chính, trường Quân y, Công binh xưởng. Trường Đặc công do Phi Sơn làm Hiệu trưởng, Ba Tiến làm Chính trị viên. Trường Quân chính do Tư Độ làm Giám đốc, sau đó là Võ Thành Tôn (Ba Tôn), tiếp theo là Tư Phước. Trường Quân y do Sáu Phát làm Hiệu trưởng. Công binh xưởng do Sáu Phi làm Giám đốc (đến năm 1964), sau đó Nguyễn Trung Thành (Ba Lò Rèn).


Cuối năm 1961, Đoàn cán bộ quân sự gồm 50 người từ miền Bắc được Bộ Quốc phòng tăng cường cho miền Tây Nam Bộ. Trên cơ sở đó, Ban Quân sự Quân khu sắp xếp lại nhân sự, Nguyễn Thành Thơ (Mười Khẩn) - Bí thư Khu ủy giữ chức Trưởng ban1 (Về sau Nguyễn Hoài Pho làm Trưởng ban, Nguyễn Thành Thơ làm Chính ủy), Nguyễn Hoài Pho giữ chức Phó trưởng ban kiêm Tham mưu trưởng thay Nguyễn Đệ, Trần Văn Long (Mười Dài) giữ chức Phó chính ủy. Chỉ huy Tiểu đoàn quân chủ lực Quân khu cũng được sắp xếp lại, Trần Tứ Phương (Kiên Cường) làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3062 (Người nổi danh được gọi là Triệu Tử Long trong trận Tầm Vu - Rạch Giá. Sau đó, Tiểu đoàn 306 chuyển về Đầm Dơi (Cà Mau), Tiểu đoàn 96 chuyển vế khu vực Vĩnh Thuận vừa chiến đấu vừa xây dựng), Lê Hoàng Lâu làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 96. Ngày 2-9-1962, Bộ Tư lệnh Khu 9 quyết định thành lập thêm 1 tiểu đoàn chủ lực, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 29.


Năm 1963, Bộ Quốc phòng tăng cường khung cán bộ quân sự cấp trung đoàn cho Khu 9. Tháng 6-1963, Bộ Chỉ huy Quân khu được kiện toàn, gồm: Đồng Văn Cống (Tư lệnh), Phạm Thái Bường (Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy), Nguyễn Hoài Pho (Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng). Tháng 10-1963, các tiểu đoàn được đổi tên và thay đổi ban chỉ huy. Theo đó, Tiểu đoàn 96 đổi tên thành Tiểu đoàn 80 do Nguyễn Tấn Phước làm Tiểu đoàn trưởng, Nguyễn Văn Hên làm Chính trị viên; Tiểu đoàn 29 đổi tên thành Tiểu đoàn 70 do Nguyễn Văn Chứ (Năm Lôi) làm Tiểu đoàn trưởng, Sáu Danh làm Chính trị viên.


Tháng 9-1963, trên cơ sở Tiểu đoàn 80 và Tiểu đoàn 306, Bộ Chỉ huy Quân khu quyết định thành lập Trung đoàn 1 và bổ nhiệm Chín Hiền làm Trung đoàn trưởng1 (Đến tháng 12-1963, Trung đoàn 1 do Nguyễn An làm Trung đoàn trưởng, Ba Hùng làm Chính trị viên).


Tháng 11-1963, trên cơ sở Tiểu đoàn 70, Tiểu đoàn 309 (Tiểu đoàn 309 chính là Tiểu đoàn U Minh 1 tỉnh Cà Mau được lệnh rút về Quân khu, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn 309), Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định thành lập Trung đoàn 2 và bổ nhiệm Ba Kính làm Trung đoàn trưởng, Trần Minh Đức làm Chính trị viên, Nguyễn Đệ làm Trung đoàn phó.


Cùng thời gian này, Bộ Chỉ huy Quân khu quyết định thành lập trung đoàn pháo, lấy phiên hiệu Trung đoàn 4, do Vũ Sinh làm Trung đoàn trưởng, Hai Nghiêm làm Chính trị viên. Trung đoàn 4 được biên chế 1 tiểu đoàn DKZ75, một tiểu đoàn xe pháo 75 ly, một tiểu đoàn cao xạ (36 khẩu 12,7 ly, 12,8 ly) và một đại đội súng cối 80 ly.


Tháng 6-1964, chấp hành lệnh của Bộ Chỉ huy Quân sự Miền, Quân khu 9 điều Trung đoàn 1 lên miền Đông để thành lập Trung đoàn 3 Quân giải phóng Miền. Để thay thế lực lượng vừa chuyển đi, Bộ Chỉ huy Quân khu thành lập một trung đoàn mới, cũng lấy tên là Trung đoàn 1. Trung đoàn do Bùi Kính làm Trung đoàn trưởng; Trần Minh Đức làm Chính ủy; Nguyễn Đệ, Hai Sĩ làm Trung đoàn phó. Trung đoàn 1 cũng được biên chế thành 2 tiểu đoàn và vẫn lấy phiên hiệu Tiểu đoàn 70 và Tiểu đoàn 80.


Ở các tỉnh, trên cơ sở lực lượng vũ trang có từ phong trào Đồng khởi năm 1960, các tỉnh tiến hành kiện toàn lực lượng thành lập bộ đội giải phóng địa phương. Tỉnh Cà Mau thành lập 1 tiểu đoàn, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn U Minh 1. Tỉnh Rạch Giá thành lập 1 tiểu đoàn, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn U Minh 10. Biên chế quân số mỗi tiểu đoàn lên tới trên 1.000 chiến sĩ.


Năm 1961, để tăng cường công tác lãnh đạo bộ đội giải phóng địa phương, Bộ Chỉ huy Quân khu 9 quyết định tăng cường cho các tỉnh một số cán bộ quân sự có kinh nghiệm chả huy chiến trường. Theo đó, Nguyễn Đệ được Quân khu điều động về phụ trách lực lượng vũ trang tỉnh Cà Mau, An (Sáu Hà) về phụ trách lực lượng vũ trang tỉnh Sóc Trăng, Bảy Nguyễn về phụ trách lực lượng vũ trang tỉnh Vĩnh Long, Bảy Viễn về phụ trách lực lượng vũ trang tỉnh Cần Thơ.


Đầu năm 1962, hầu như các tỉnh trên địa bàn Quân khu 9 đều có lực lượng Quân giải phóng địa phương từ cấp đại đội mạnh đến cấp tiểu đoàn. Đến năm 1963, hầu như các tỉnh đều thành lập ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội thay thê cho ban quân sự các cấp. Điển hình như:


Cuối năm 1963, tại Cà Mau, sau khi tăng cường Tiểu đoàn U Minh 1 cho Quân khu, Tỉnh đội thành lập tiểu đoàn mới, lấy phiên hiệu là Tiểu đoàn U Minh 2. Tiểu đoàn do Hai Hùng làm Tiểu đoàn trưởng, Đoàn Quang Vũ làm Chính trị viên. Tại Sóc Trăng, thành lập Tiểu đoàn Phú Lợi và chính thức ra mắt vào ngày 7-1-1964 tại Gia Hòa, Hòa Tú (huyện Mỹ Xuyên). Tiểu đoàn do Tư Lê làm Tiểu đoàn trưởng với trên 500 chiến sĩ và được biên chế thành 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội trợ chiến. Tại Cần Thơ, Tiểu đoàn Tây Đô được thành lập do Bùi Quang Đơ làm Tiểu đoàn trưởng, Trần Văn Đường làm Chính trị viên. Ngày 24-6-1964, Tiểu đoàn Tây Đô chính thức ra mắt tại xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, với quân số lên tới trên 500 cán bộ, chiến sĩ, được biên chế thành 4 đại đội bộ binh, 2 đại đội trợ chiến, 1 đại đội đặc công...


Quân khu 10 (T10) được thành lập vào tháng 2-1962, gồm địa bàn các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tuyên Đức, Lâm Đồng. Ban Chỉ huy quân sự Quân khu do Lâm Quốc Đăng (Nguyễn Thược) làm Trưởng ban quân sự, Bùi San, Bí thư Khu ủy làm Chính ủy. Nhiệm vụ chủ yếu của Quân khu 10 là củng cố mở rộng căn cứ, thiết lập hành lang chiến lược nối kết nam Trường Sơn với Nam Bộ. Quân khu 10 chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, cuối năm 1963 thì giải thể.


Đến cuối năm 1964, lực lượng Miền đã có cấp sư đoàn1 (Lực lượng tập trung, lực lượng chủ lực ở đây là lực lượng tập trung của Khu, tỉnh mà chưa phải là lực lượng của Miền. Do đó, đến cuối năm 1964 chủ lực của Miền mới có 4 trung đoàn (1 trung đoàn pháo). Trung đoàn Q761 thành lập năm 1961, Trung đoàn Q762 và trung đoàn pháo (U80) thành lập năm 1962 và trung đoàn 763 từ miền Tây đưa lên thành lập tháng 6-1964. Về chủ lực Khu, đến năm 1964, Quân khu 9 có 3 trung đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn trợ chiến; Quân khu 8 có 1 trung đoàn bộ binh, 5 đại đội trợ chiến; Quân khu 6 có 2 tiểu đoàn). Các quân khu đều tổ chức được nhiều tiểu đoàn, có quân khu đã có cấp trung đoàn; tỉnh có cấp tiểu đoàn, thậm chí có tỉnh đã xây dựng được cấp trung đoàn; huyện có từ 2 tiểu đoàn trở lên, có huyện đã có cả cấp đại đội. Ngoài ra, trên địa bàn B2, lực lượng dân quân du kích, dân quân tự vệ tăng nhanh chóng, từ khoảng 22.000 (năm 1961) lên 140.000 người (năm 1964)2 (Báo cáo tổng kết công tác cán bộ quân sự Bộ Quốc phòng năm 1974. Tài liệu BC/74-114, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Giêng, 2023, 08:13:02 am
3. Xây dựng căn cứ địa, hành lang vận tải, bảo đảm hậu cần - kỹ thuật

Từ năm 1961, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 phát triển nhanh chóng. Việc xây dựng căn cứ đứng chân, tạo hành lang vận tải chiến lược, chuẩn bị tài lực, vật lực phục vụ đấu tranh vũ trang là những nhiệm vụ mang tính cấp thiết được đặt ra. Trên cơ sở hệ thống chiến khu cách mạng có từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp, Xứ ủy đã quyết định củng cố, phát triển thành một hệ thống chiến khu liên hoàn kéo dài từ cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên vào đến các tỉnh miền Tây Nam Bộ.


Địa bàn Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên là địa bàn có con đường Trường Sơn đi qua, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường Nam Bộ, là cửa ngõ hướng đông và đông bắc tiến vào Sài Gòn. Do vậy, hệ thống căn cứ như Hàm Tân, Ra Din, Ra Pú, Gia Le, Sông Qua, Lê Hồng Phong, Bác Ái, Anh Dũng, CK7, CK19, CK22, CK25, CK35... có từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp được củng cố, mở rộng. Hệ thống căn cứ này không chỉ là địa bàn đứng chân của bộ đội giải phóng Liên tỉnh 3, Khu 6 mà còn là hành lang giao thông Bắc - Nam, hình thành tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam.


Trên địa bàn Đông Nam Bộ, hệ thống chiến khu trong kháng chiến chống Pháp được Trung ương Cục chia thành các Khu A, B, c, E.

Khu A là Chiến khu Đ được mở rộng lên vùng rừng núi Bình Long, Phước Long, Quảng Đức... nối liền vùng Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên với Chiến khu Đ, là nơi đứng chân của Bộ Chỉ huy Quân giải phóng của Quân khu miền Đông.


Khu B là căn cứ Dương Minh Châu được mở rộng lên vùng Tân Biên thuộc phía đông bắc tỉnh Tây Ninh, giáp biên giới Việt Nam - Campuchia. Đây là nơi hội đủ các yếu tố cho việc xây dựng, phát triển thành một căn cứ địa cách mạng điển hình, thuận lợi cho việc công, thủ; tiếp cận với con đường tiếp tế vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men... theo tuyến biên giới từ hậu phương lớn miền Bắc và có thể liên lạc với Campuchia. Do vậy, để thuận lợi cho công tác lãnh đạo bộ đội giải phóng, từ cuối năm 1961, Ban Quân sự Miền theo Trung ương Cục chuyển từ Khu A (Mã Đà - Chiến khu Đ) về Khu B (Chiến khu Bắc Tây Ninh). Những lõm như Bời Lời, Trảng Chiên, Núi Bà, Xa Mát, Lò Gò, Chàng Riệc... về đến vùng Trảng Bàng, Hố Bò - Củ Chi đều được tổ chức xây dựng thành căn cứ đứng chân của Quân giải phóng Miền (Trung đoàn 1 - Q.761), Bộ Chỉ huy Quân khu Sài Gòn - Gia Định và bộ đội địa phương tỉnh Tây Ninh, tỉnh Gia Định... vừa bảo vệ Khu B, vừa hoạt động đánh địch trên địa bàn Tây Ninh, Gia Định.


Khu C chính là căn cứ Long Nguyên - Bến Cát được mở rộng ra các phía Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng..., là nơi đứng chân của Trung đoàn 2 Quân giải phóng Miền (Q.762) và bộ đội địa phương các tỉnh Biên Hòa, Bình Dương, Phước Thành, Gia Định... thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tuyến hành lang chiến lược nối từ căn cứ hậu cần tại Khu A và hoạt động trên các tỉnh đông bắc Sài Gòn, nhiều khi lấn sang cả sang tận vùng đất Dương Minh Châu thuộc Khu B.


Khu E thuộc địa bàn Bà Rịa trên cơ sở mở rộng căn cứ Minh Đạm nối liền Hắc Dịch, Rừng Sác, Long Khánh, Châu Thành, Xuyên Mộc... theo sông Ray ra tận cửa biển Lộc An, là địa bàn đứng chân của các đơn vị Quân giải phóng Quân khu miền Đông và bộ đội đia phương Long Khánh, Bà Rịa...


Trên địa bàn Trung Nam Bộ, căn cứ Đồng Tháp Mười được củng cố, đặc biệt là hệ thống lõm theo tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia, kết nối chiến trường miền Đông với các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Mỹ Tho, Bến Tre...


Trên địa bàn Tây Nam Bộ, Chiến khu U Minh bao gồm những khu rừng nổi tiếng - rừng tràm ven vịnh Thái Lan và rừng đước, vùng nông thôn của tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, kết nối với vùng nông thôn các tỉnh Rạch Giá, Trà Vinh, Sóc Trăng Cần Thơ với hơn 8.000km2. Tây Nam Bộ với hơn 700.000 dân đất đai phì nhiêu, mỗi năm thu được 140.000 tấn lúa nên Chiến khu U Minh không chỉ là địa bàn đứng chân của bộ đội Quân giải phóng Khu 9 mà còn là nơi cung cấp lương thực - thực phẩm cho bộ đội Quân giải phóng trên toàn bộ chiến trường B21 (Trong những năm 1961-1962, địch tổ chức các cuộc càn quét, thọc sâu, chia cắt giữa U Minh Thượng và U Minh Hạ. Trước tình hình đó, cơ quan Liên tỉnh ủy và lực lượng Quân giải phóng tiến hành phát triển căn cứ xuống nam Cà Mau, củng cố căn cứ Đầm Dơi, Phụng Hiệp, Gò Quao, theo dọc kênh Xẻo Rô, vươn ra tới vùng biển Rạch Giá...).


Đến cuối năm 1961, hệ thống chiến khu cách mạng bước đầu hình thành rộng khắp trên chiến trường B2. Bộ đội Quân giải phóng phát triển nhanh chóng, yêu cầu về lương thực, trang thiết bị quân sự, vũ khí... trở thành nhu cầu mang tính bức thiết. Do vậy, các đơn vị hậu cần thuộc Ban Quân sự Miền, của các quân khu, các tỉnh trên chiến trường B2 đến cuối năm 1961 đều lần lượt được xây dựng, thành lập.


Ban Quân sự Miền thành lập được 2 căn cứ hậu cần, một là căn cứ A (U.50)2 (Tháng 9-1961, trên cơ sở đơn vị C.150 với quân số 500 cán bộ, chiến sĩ do Quân khu miền Đông thành lập và Đoàn cán bộ quân sự chi viện từ miền Bắc, Ban Quân sự Miền thành lập Đoàn Hậu cần mang phiên hiệu mới là U.50) đóng tại Chiến khu Đ; hai là căn cứ B (U.60) đóng tại Chiến khu Dương Minh Châu. Đến đầu năm 1962, các đoàn 81, 82, 83, 84 (tương đương cấp tiểu đoàn) được thành lập, mỗi đoàn phụ trách một khu vực tương ứng với các khu A, B, C, E.


Quân khu Sài Gòn - Gia Định thành lập được 2 căn cứ hậu cần: một căn cứ đóng tại An Nhơn Tây và một căn cứ đóng tại Hố Bò - Củ Chi.

Quân khu 7 thành lập được 2 căn cứ hậu cần dọc theo bò sông Đồng Nai và tại Suối Linh, Chiến khu Đ.

Quân khu 8 thành lập được 5 “trụ” (căn cứ) hậu cần: căn cứ thứ nhất đóng tại Đồng Tháp Mười, căn cứ thứ hai đóng tại vùng 4 Kiến Tường, căn cứ thứ ba đóng tại nam bắc đường số 4 tỉnh Mỹ Tho (vùng 20-7), căn cứ thứ tư đóng tại vùng Long An, căn cứ thứ năm đóng tại vùng Chợ Gạo.


Quân khu 9 thành lập được 3 căn cứ hậu cần: căn cứ A đóng ở U Minh Hạ; căn cứ B đóng ở Dầm Dơi, Năm Căn; căn cứ C đóng ở U Minh Thượng.

Tháng 9-1962, Trung ương Cục quyết định thành lập Đoàn Hậu cần 962, giao cho Ban Quân sự hai quân khu 8 và 9 trực tiếp quản lý.

Các đoàn hậu cần vừa có nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ căn cứ vừa tham gia sản xuất, thu mua, tích giữ lương thực và tiếp nhận tài lực, vật lực quân sự chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc được vận chuyển vào bằng đường bộ theo tuyến đường Trường Sơn đến căn cứ trung chuyển Bù Gia Mập (Phước Long) hay từ đường biển thông qua cửa Lộc An (Bà Rịa) và 3 cụm bến ở Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre. Ngoài ra, Trung ương Cục còn bí mật thành lập Ban Tài chính để nhận tiền từ miền Bắc gửi vào chiến trường B2 thông qua ngân hàng nước ngoài rồi chuyển vào kho quỹ căn cứ. Phương thức này cho phép miền Bắc chuyển tiền vào chiến trường B2 một cách hợp pháp với số lượng lớn trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng ác liệt.


Ở hậu phương miền Bắc, từ sau Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III), Trung ương chủ trương chi viện sức người, sức của cho chiến trường B2. Do vậy, từ năm 1961, cùng với các đoàn Phương Đông, Dân Tiến, các loại vũ khí, đạn dược, thuốc men... lần lượt được Đoàn 5591 (Đoàn 559 được thành lập ngày 19-5-1959 là Đoàn công tác quân sự đặc biệt, thực hiện nhiệm vụ mở đường Trường Sơn, tổ chức chi viện cho chiến trường miền Nam, thiết lập tuyến hành lang, nối thông liên lạc, vận chuyển gấp một số hàng quân sự thiết yếu theo yêu cầu của chiến trường) vận chuyển vào chiến trường B2 theo tuyến đường Trường Sơn.


Từ năm 1961, Đoàn 559 đẩy mạnh hoạt động lên một quy mô mới2 (Đầu tháng 6-1959, Đoàn 559 tổ chức đội khảo sát mở tuyến vào Nam, bắt đầu từ Khe Hó, phát triển về hướng tây nam, điểm đặt trạm cuối cùng là Pa Lin, kế cận trạm tiếp nhận của Liên khu 5. Khẩu hiệu có tính chất mệnh lệnh lúc này là: “Ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng". Sau khi được hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào chấp thuận, Đoàn 559 khẩn trương “lật cánh” sang Tây Trường Sơn, mở tuyến chi viện qua đất bạn Lào. Cuối tháng 6-1961, đường mối mở nối liền Đường 12 ở Lằng Khằng tới Pác Nha Năng. Đến tháng 12-1961, đường đã thông tới Đường số 9 ở Mường Phin tỉnh Savẳnnakhệt. Đây là một bước phát triển quan trọng của tuyến chiến lược 559 - Đường Hồ Chí Minh. Từ thế độc tuyến Đông Trường Sơn, Đoàn 559 mở thêm đường dọc theo biên giới Việt - Lào và đặc biệt quan trọng là đường Tây Trường Sơn. Từ đường gùi thồ, Đoàn đã tiến tới mở thêm ở Tây Trường Sơn gần 200km đường cho xe cơ giới). Hàng chục tấn hàng, trong đó có súng ĐKZ 57, ĐKZ 75, cối 82, cối 120, máy thông tin vô tuyến điện... được xe đạp thồ, voi, lừa, gùi bộ từ nam đường số 9 vào đến A Túc (Quân khu 5). Từ đây, lực lượng vận tải tiếp tục chuyển tiếp vào đến Tăng Non (Quảng Nam), Đắc Lan (Kon Tum), Bù Gia Mập (Phước Long).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Giêng, 2023, 08:14:43 am
Tháng 2-1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các tỉnh ven biển Nam Bộ đưa tàu, thuyền ra miền Bắc nhận vũ khí và giao nhiệm vụ cho Cục Hải quân nghiên cứu đường vận tải chiến lược trên biển để sử dụng lâu dài. Ngày 23-10-1961, Đoàn vận tải quân sự 759 được thành lập. Đoàn Hồng Phước được cử làm Đoàn trưởng và Võ Huy Phúc làm Chính ủy.


Cuối năm 1961, các tỉnh Bà Rịa, Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre điều động 6 tàu gỗ gắn máy vượt biển ra miền Bắc và đến đầu năm 1962 đến nơi an toàn. Ngày 8-4-1962, tàu trinh sát mở tuyến đường vận tải chiến lược trên biển do Bông Văn Dĩa chỉ huy vào đến bến Ghềnh Hào (Cà Mau). Ngày 11-10-1962, Lê Văn Một và Bông Văn Dĩa chỉ huy chiếc tàu gỗ gắn máy vận chuyển chuyến vũ khí đầu tiên cặp bến Vàm Lũng (Cà Mau), khai thông tuyến đường vận tải chiến lược Bắc - Nam trên biển.


Từ cuối năm 1962 đến cuối năm 1963, Đoàn vận tải quân sự 759 sử dụng các loại tàu nhỏ giống tàu đánh cá của dân, đã dũng cảm, bí mật vận chuyển 25 chuyến hàng hóa quân sự, bao gồm 1.430 tấn vũ khí vào đến các cụm bến ở Bà Rịa, Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre1 (Xem Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988, t.2, quyển 1, tr.205). Trong đó, năm 1962 vận chuyển 4 chuyến, chuyên chở được 112 tấn hàng hóa quân sự; năm 1963 vận chuyển 23 chuyến, có 21 chuyến tới đích an toàn, chuyên chở được 1.318 tấn hàng hóa quân sự2 (Xem Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988, t.2, quyển 1, tr.205).


Từ năm 1963, địch tăng cường bố phòng trên biển, bến Lộc An (Bà Rịa) trở nên không an toàn, gây khó khăn tàu cập bến. Do vậy, hàng hóa vận chuyển bằng đường biển chủ yếu cập bến ở miền Tây. Trước tình hình đó, Ban Quân sự Miền chỉ đạo Đoàn 962 ngoài việc chuyển bằng đường bộ theo đường giao bưu từ Cà Mau lên miền Đông còn tổ chức các đội thuyền chuyển hàng hóa từ bến Trà Vinh chuyển lên bến Bến Tre và từ bên Bến Tre chuyển tiếp lên miền Đông Nam Bộ qua cửa Cần Giờ đến sông Thị Vải...


Tháng 3-1964, Bộ Chỉ huy Miền quyết định thành lập Đoàn K.10 chuyên trách tiếp nhận hàng chiến lược chi viện của Trung ương được vận chuyển từ các tỉnh miền Tây lên miền Đông Nam Bộ. Tháng 7-1964, Bộ Chỉ huy Miền quyết định thành lập thêm Ban quân nhu Khu E nhằm bảo đảm quân nhu cho các đơn vị, cơ quan trực thuộc Miền hoạt động ở khu vực Bà Rịa - Biên Hòa - Long Khánh. Nhờ sự giúp đỡ của Khu ủy, Tỉnh ủy, Tỉnh đội Bà Rịa, các đoàn hậu cần 81 82, 83, Ban quân nhu Khu E đã triển khai thu mua, vận chuyển và dự trữ được 750 tấn lương thực, thực phẩm, trong đó 500 tấn khai thác tại chỗ, 250 tấn từ Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long...


Tại các chiến khu, Quân giải phóng bắt đầu thành lập nên nền “thương nghiệp căn cứ địa”, đổi ngoại tệ, thu mua lương thực, thực phẩm, thu nhận hàng hóa, trang thiết bị quân sự, vũ khí từ nội thành, nội thị thuộc các tỉnh trên chiến trường B2, từ hậu phương miền Bắc, hay mở tuyến vận tải đường bộ, đường biển, mua bán, trao đổi hàng hóa, vũ khí... thông qua cảng Sihanoukville, đường biên giới Việt Nam - Campuchia. Hệ thống các căn cứ liên hoàn vững chắc như “mạch máu” nuôi dưỡng lực lượng vũ trang miền Nam. Hàng viện trợ miền Bắc khi vào miền Nam ở Bù Gia Mập được lực lượng tại chỗ ở căn cứ địa tiếp nhận và chuyển dần xuống các căn cứ địa miền Nam, nuôi dưỡng quân và dân cách mạng miền Nam từ Khu 6 đến Khu 9.


Trong 3 năm (1961-1964), lực lượng hậu cần trên chiến trường B2 đã tiếp nhận từ Đoàn 559 chuyển vào gồm 165.600 khẩu súng các loại, trong đó có một số pháo, cối, súng máy cao xạ và hàng trăm tấn khí tài quân sự khác; tiếp nhận 205 chuyến hàng từ Đoàn 759 chuyển vào và kịp thời phân phôi chuyển giao 4.196 tấn vũ khí cho các chiến trường B2. Riêng hậu cần trên chiến trường cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên, từ năm 1961 - 1964, khối lượng vật chất do nhân dần đóng góp và cơ quan hậu cần thu mua được là 22.180 tấn, bằng 72,4% khối lượng vật chất bảo đảm cho các lực lượng vũ trang thuộc Miền.


Từ cuối năm 1961, Nghị quyết Trung ương Cục đã chỉ rõ “con đường phát triển có lợi nhất của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là dùng dấu tranh chính trị và vũ trang song song kết hợp coi đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều là cơ bản để tạo điều kiện và tranh thủ thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.673). Do vậy, cùng với công tác xây dựng, phát triển lực lượng Quân giải phóng, xây dựng căn cứ đứng chân, tạo lập hành lang vận tải chiến lược, chuẩn bị tài lực, vật lực phục vụ đấu tranh vũ trang thì công tác huấn luyện, quân giới, quân y, tuyên truyền, động viên trong lực lượng vũ trang, tổ chức đoàn văn công, nhiếp ảnh, điện ảnh, phát hành tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng, báo Quân giải phóng... được chú trọng.


Tại chiến khu, trên khắp chiến trường B2, từ Bộ Chỉ huy Quân sự Miền đến các quân khu đều tổ chức trường quân chính trường đặc công, trường huấn luyện quân sự, trường quân y, công binh xưởng... mở các lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ lý luận, chính trị, quân sự... cho bộ đội giải phóng đặc biệt là các kỹ thuật cơ bản và chiến thuật phục kích, tập kích, chống càn quét, vận động tấn công, công đồn - diệt viện và kỹ thuật tác chiến.


Ngày 20-9-1961, Ban Chỉ huy Quân sự Quân khu tổ chức hội nghị quân sự toàn quân khu tìm biện pháp đấu tranh vũ trang.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển của bộ đội chủ lực1 (“Trong một số đơn vị chủ lực Miền, khu, tỉnh cán bộ cấp dưới phụ trách chức vụ trên cấp mình còn khá phổ biến, một số phụ trách trên 2 chức...” (Báo cáo Cục Chính trị Miền năm 1965)) tăng nhanh về chất, từ Miền, Quân khu đến các tỉnh, công tác phát triển đảng được chú trong. Tháng 8-1961, tổ chức chính trị các cấp trong lực lượng Quân giải phóng hình thành và “dần dần được tổ chức đều khắp”2 (Trích báo cáo công tác chính trị năm 1964, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, TL. 1.217).


Để đáp ứng nhu cầu chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang giải phóng trên chiến trường B2, tháng 10-1963, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền. Theo đó, Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Cục làm Bí thư Quân ủy Miền; Trung tướng Trần Văn Trà, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam làm Tư lệnh Miền; Đại tá Lê Đức Anh làm Tham mưu trưởng Miền.


Từ đây, Ban Chỉ huy Quân sự Miền đổi tên là Bộ Chỉ huy Quân sự Miền, là cơ quan tiến phương của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam tại chiến trường trọng điểm B2. Bộ Chỉ huy Miền chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục miền Nam; trực tiếp chỉ đạo hoạt động quân sự cũng như lực lượng vũ trang các quân khu 6, 7, 8, 9 và Sài Gòn - Gia Định.


Tháng 11-1963, Hội nghị toàn Miền được tổ chức và phát động cuộc vận động phát triển đảng, xây dựng, kiện toàn chi bộ. Do vậy, từ năm 1963, hầu hết các tỉnh, quận đều có tổ chức Ban cán sự Đảng, đặc biệt là ở T2 và T4. Đến năm 1965, các tỉnh, quận đều có tổ chức Ban cán sự Đảng. Cơ quan chính trị Miền có những bước nhảy vọt về số lượng, năm 1961 chỉ có 3 người, đến năm 1965 đã có 478 người. Cơ quan chính trị các địa phương, đơn vị cũng từng bước được tăng cường. Công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng Quân giải phóng đánh dấu bằng những bước phát triển về trình độ tác chiến, phương thức tác chiến và cách đánh của bộ đội chủ lực các cấp trên chiến trường B2.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Giêng, 2023, 08:19:16 am
II. HOẠT ĐỘNG TÁC CHIẾN, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT’ CỦA MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2

1. Phối hợp tiến công địch trên nhiều phương diện góp phần đánh bại kế hoạch Staley - Taylor của Mỹ

Bước vào năm 1961, thực hiện chiến lược chiến tranh đặc biệt, chính quyền Sài Gòn mồi tướng Thompson - một chuyên gia quân sự về chống chiến tranh du kích người Anh đến Sài Gòn làm cố vấn, đồng thời cử sĩ quan đi nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm chống chiến tranh du kích của các nước Malaixia, Philíppin. Trên toàn miền Nam, chính quyền Sài Gòn chia thành 3 vùng chiến thuật, trong đó vùng 1 chiến thuật từ tỉnh Quảng Ngãi ra đến vĩ tuyến 17, do Quân đoàn 1 (3 sư đoàn) trấn giữ; vùng 2 chiến thuật bao gồm các tỉnh Cao nguyên và các tỉnh cực Nam Trung Bộ, do Quân đoàn 2 (3 sư đoàn) trấn giữ; vùng 3 chiến thuật là các tỉnh thuộc Nam Bộ, do Quân đoàn 3 (3 sư đoàn) trấn giữ.


Tháng 7-1961, mô hình lập “ấp chiến lược” được thực hiện thí điểm tại tỉnh Vĩnh Long (Nam Bộ) và tỉnh Quảng Ngãi (Trung Bộ). Tháng 8-1961, chính quyền Sài Gòn ra lệnh mở chiến dịch xây dựng ấp chiến lược trên toàn miền Nam Việt Nam.


Đứng trước âm mưu mối của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, từ đầu năm 1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định đường lối cách mạng miền Nam là "... đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.158, 159), “tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.158, 159).


Trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, đầu năm 1961, Quân khu 9 phát động phong trào “Đồng khởi” đợt 4 nhằm tiến công vào công cuộc bình định của ngụy quyền Sài Gòn tại Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, đặc biệt là các chi khu quân sự của ngụy quyền Sài Gòn mới xây dựng.


Cuộc “Đồng khởi đợt 4” diễn ra chủ yếu do bộ đội giải phóng cấp địa phương tỉnh, huyện thực hiện, kết hợp với phong trào quần chúng đã tạo được một khí thế sôi nổi, rầm rộ ở khắp các địa phương. Tiểu đoàn U Minh 10 (Rạch Giá) phục kích đánh thiệt hại nặng đại đội bảo an thuộc chi khu Vĩnh Thuận (ngày 15-2-1961). Bộ đội huyện kết hợp với du kích, nhân dân xã Vĩnh Bình bao vây, bức rút đồn Cái Nứa, buộc binh lính Sài Gòn phải bỏ chạy (ngày 20-2-1961). Vĩnh Bình trở thành xã đầu tiên của Rạch Giá được giải phóng bằng phương thức ba mũi giáp công.


Từ thắng lợi trên, phong trào ba mũi giáp công lan rộng và phát triển mạnh mẽ ra toàn Quân khu 9. Bộ đội tỉnh Cà Mau kết hợp với Quân giải phóng huyện Giồng Riềng bao vây bức rút đồn Chợ Mới, giải phóng xã Hòa Thuận, Ngọc Hòa, Vĩnh Hòa Hưng (5-3-1961). Tiểu đoàn U Minh 10 tiến công đồn Kim Quy (huyện An Biên); trung đội Quân giải phóng huyện đảo Phú Quốc “hóa trang kỳ tập” diệt gọn đồn Hàm Ninh (2-3-1961), phục kích diệt gọn 2 tiểu đội lính ngụy đi lùng sục ở bãi biên Hàm Ninh (29-5- 1961). Tiểu đoàn Quân giải phóng tỉnh Cà Mau tiến công diệt đồn Xá Thịnh (15-5-1961). Quân giải phóng tỉnh Sóc Trăng cùng du kích các xã Phong Thạnh, Gia Hòa, Hòa Tú, Vĩnh Hưng... phục kích đánh bại cuộc hành quân của Sư đoàn 21 (tháng 3-1961), phối hợp du kích Vĩnh Châu diệt đồn Tà Văn, cắt đứt lộ 38 từ Vĩnh Châu đi Bạc Liêu (tháng 5-1961). Quân giải phóng tỉnh Cần Thơ phối hợp với du kích xã Hòa Lựu (Long Mỹ) đánh chiếm khu Vàm Xáng (ngày 25-4-1961).


Vĩnh Long vốn là địa bàn được chính quyền Sài Gòn lựa chọn xây dựng ấp chiến lược thí điểm, do vậy ngụy quyền tổ chức nhiều cuộc càn quét, canh phòng rất cẩn mật. Tuy nhiên, bằng chiến thuật phòng thủ, phục kích, tiến công vây ráp, “lực lượng vũ trang của tỉnh đã đánh 253 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên, trong đó có những trận ta diệt cả đại đội bảo an địch, như trận Rạch Rô (Trung Hiệp) ngày 11-5-1961; trận phục kích ở Lồ Ô, xã Hiệp Mỹ (Cầu Ngang)”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.309, 310)...


Sau khi sơ kết đợt 4 “Đồng khởi”, ngày 7-7-1961, Khu ủy khu 9 quyết định mở đợt 5 “Đồng khởi” đánh vào thị xã Cần Thơ. Tuy nhiên, do địch đã tăng cường phòng thủ nên Khu ủy quyết định chuyển hướng tiến công tiêu diệt hệ thống đồn bót dọc sông Nước Trong, sông Nước Đục trên tuyến Nam Vị Thanh - Long Mỹ, tiếp đó là tuyến Mỹ Tú - Ngã Năm.


Thực hiện kế hoạch, Quân giải phóng Quân khu 9, bộ đội tỉnh Cần Thơ bố trí thành từng trung đội kết hợp với lực lượng đặc công đồng loạt tiến đánh 25 đồn bót địch1 (Phá hủy 10 đồn, 15 đồn còn lại bị đánh thiệt hại nặng. Đặc biệt, trong điều kiện thiếu vũ khí, bộ đội giải phóng đã dùng chiến thuật “rơm con cúi”, lấy rơm rạ bện thành cuộn, tẩm xăng, dầu đốt rồi lăn vào đồn địch, hoặc un khói có chất cay xông vào đồn. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang địa phương còn rèn chông, chế tạo súng “ngựa trời”, súng trường, súng Thompson để đánh địch...), phá hủy chi khu Long Mỹ, Phước Long... Tính đến cuối năm 1961, toàn Khu đã bức hàng, bức rút trên 10 đồn bót, giải phóng 2.513 ấp, chiếm trên 1 phần 3 số thôn, ấp có trên địa bàn quân khu với hơn một triệu dân2 (Xem Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.311). Vùng giải phóng được mở rộng, “Bộ đội tóc dài” hình thành và phát triển mạnh, thanh niên nô nức tòng quân vào bộ đội, đi thanh niên xung phong...


Trên địa bàn miền Trung Nam Bộ, Đại đội 209 tỉnh Kiến Phong phối hợp với lực lượng địa phương phá thế kìm kẹp, mở rộng vùng giải phóng dọc theo tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia (tháng 3-1961); bao vây, tập kích đồn Sa Rài (20-3-1961). Quân giải phóng huyện Mỹ An bao vây, bức rút đồn Đốc Binh. Đại đội 1 Tiểu đoàn 514 phục kích đại đội lính bảo an tại Hòa Đồng (tháng 8-1961); bao vây bức rút đồn Đồng Sơn, đồn Chợ Dinh, đồn Bình Long, đồn Bình Tân, đồn Yên Luông (15-7-1961).


Tại Kiến Tường, Đại đội 1 cơ động, 1 tiểu đội trinh sát của tỉnh và 2 trung đội du kích xã Hậu Thạnh, Nhơn Hòa Lập phục kích tiến đánh đại đội biệt động “Hắc Hổ” tại xã Nhơn Hòa Lập, quận Kiến Bình (20-4-1961). Trận phục kích giành thắng lợi lớn, làm lung lay tinh thần binh lính Sài Gòn.


Tháng 9-1961, tại Bến Tre, quân ngụy mở cuộc hành quân “Bình định chiêu an” trên địa bàn huyện Mỏ Cày nhằm truy bắt lực lượng giải phóng. Đại đội 261 của tỉnh, kết hợp với đại đội vũ trang của huyện phục kích tại ngã tư rân Trung, ngã tư Cái Quao bẻ gãy cuộc càn. Đặc biệt, đại đội vũ trang huyện Mỏ Cày đã táo bạo, bất ngờ tập kích đại đội bảo an “Sông Mao” trực thuộc chi khu Hương Mỹ, tiêu diệt 2 trung đội lính cộng hòa tại An Định.


Chỉ tính những tháng cuối năm 1961, bằng “ba mũi giáp công”, lực lượng vũ trang và nhân dân Kiến Tường, Long An đã bao vây, bức rút, bức hàng được khoảng gần 100 đồn, bót địch tại Tân Hòa, Tân Lập, Thái Kỳ, Tân Trụ, Đức Lập, Bàu Trai, nam lộ 4, Cần Giuộc, Cần Đước...; trong đó Kiến Tường gõ 51 đồn, Long An gỡ 43 đồn và thu được trên 500 khẩu súng các loại.


Trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Tiểu đoàn 800 Quân giải phóng Quân khu miền Đông kết hợp với Đại đội 260. Trung đội đặc công, 3 khẩu đội ĐKZ của Quân giải phóng Miền tập kích lực lượng biệt động quân, bảo an, cảnh sát ngụy tại tỉnh lỵ Phước Thành (17-9-1961)1 (Kết quả phá rã 1 đại đội bảo an, 1 tiểu đoàn biệt động quân, 1 chi đội thiết giáp, 1 đại đội pháo và 1 đại đội cảnh sát thuộc tiểu khu Phước Thành. Diệt và bắt hơn 200 lính, thu 600 súng các loại, phá hủy 6 xe quân sự trong đó có 3 xe thiết giáp, phá hỏng 3 pháo 150mm. Tiểu khu Phước Thành bị phá banh, Quân giải phóng giải cứu 300 cán bộ, chiến sĩ cách mạng và đồng bào đang bị địch giam giữ. 5 chiến sĩ Quân giải phóng hy sinh, 22 chiến sĩ bị thương). Thắng lợi của trận đánh đã gây chấn động lớn cả Nam Bộ, làm chao đảo tinh thần binh lính ngụy do Phước Thành là trận đánh đầu tiên của Quân giải phóng tiến công và làm chủ tiểu khu (tỉnh lỵ) của quân đội địch ở miền Đông Nam Bộ.


Trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, lực lượng của Quân khu Sài Gòn - Gia Định (C13) phối hợp với lực lượng Miền (C80) tấn công đồn Trung Hòa (xã Trung Lập)1 (Diệt 100 tên bảo an, dân vệ, thu nhiều vũ khí); phối hợp với bộ đội các huyện Nhà Bè, Bình Tân, Dĩ An, Thủ Đức phá kìm bao vây, bức rút hệ thống đồn bót trên địa bàn các huyện vùng ven... (cuối năm 1961).


Trên địa bàn cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên Quân giải phóng tỉnh Bình Thuận (Đơn vị 2-9) phục kích Đại đội bảo an 442 tại khu 1, Bình Lâm, xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận (2-3-1961)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Giêng, 2023, 08:30:53 am
Ngày 3-2-1962, chính quyền Sài Gòn cho lập “Ủy ban liên bộ”, phụ trách trực tiếp việc xây dựng “ấp chiến lược”. Theo kế hoạch, Ủy ban liên bộ sẽ phụ trách xây dựng 17.000 ấp chiến lược trên toàn miền Nam.


Trên địa bàn B2, việc lập “ấp chiến lược” sẽ ưu tiên xây dựng tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Biên Hòa, Phước Tuy, Tây Ninh, Bình Dương, Phước Thành, Long An... Ngày 8-2-1962, Chính phủ Mỹ thành lập Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (viết tắt là MACV) và cử tướng 4 sao Harkin phụ trách. MACV thực chất là Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đặt tại Nam Việt Nam nhằm hoạch định kế hoạch mang tính chiến lược, chỉ huy lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam, đồng thời tham mưu cho Việt Nam Cộng hòa thực hiện kế hoạch bình định, chống cộng sản.


Trên cơ sở kết quả thử nghiệm đạt được từ chương trình lập “ấp chiến lược” thí điểm thực hiện từ ngày 12-8-1961 đến ngày 14-2-1962, trong phiên họp của Ủy ban đặc trách “ấp chiến lược” ngày 17-4-1962, Cố vấn Ngô Đình Nhu ban hành quyết định lấy ngày 17-4 hằng năm làm “ngày Quốc lễ”, gọi là ngày “Đệ nhất chu niên Quốc sách ấp chiến lược”, nâng ấp chiến lược lên tầm Quốc sách, “quan trọng ngang hàng với ngày Quốc khánh 26-10”1 (Việt Nam Cộng hòa, trích biên bản số 45, phiên họp của Ủy ban liên bộ đặc trách ấp chiến lược tại dinh Gia Long, cuối tháng 3-1963, tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, tr.17)...


Dưới sự tham mưu của cố vấn Mỹ, chính quyền Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân với mục đích tìm diệt lực lượng vũ trang cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bình định nông thôn, trong đó có cuộc hành quân Lam Sơn (năm 1961) thực hiện trên địa bàn 4 tỉnh Bình Tuy, Bình Dương, Tây Ninh, Long An; cuộc hành quân “Đồng Tiến" (năm 1962), thực hiện ở các tỉnh Long An, Kiến Phong, Kiến Tường, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ...


Đứng trước diễn biến phức tạp đó, ngày 26, 27-2-1962, Bộ Chính trị họp ra nghị quyết về công tác cách mạng miền Nam: “phá ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp của địch”, “Đây là một nhiệm vụ có tính chất cấp bách đồng thời là một nhiệm vụ lâu dài"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.23, tr.151). Quân ủy Trung ương đề ra kế hoạch quân sự “Phá cho được chương trình bình định 18 tháng của địch giữ vững và phát triển cách mạng miền Nam lên một bước mới”.


Căn cứ nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục chỉ đạo: chống phá kế hoạch ấp chiến lược là một vấn đề quyết định, là cuộc đấu tranh trung tâm hàng đầu (tháng 4-1962)3 (Theo Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.315);... là nhiệm vụ cơ bản của đấu tranh quân sự,... phá kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược (tháng 5-1962);... Công tác “đánh phá ấp chiến lược” là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài, giằng co ác liệt; là một cuộc đấu tranh toàn diện, phải kết hợp chặt chẽ các hình thức đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa; kết hợp giữa hợp pháp và bất hợp pháp, công khai và bí mật (tháng 8-1962)... Sự nhất quán về chỉ đạo chiến lược của Trung ương Cục đã tạo nên quyết tâm lớn cho Quân giải phóng trên chiến trường B2.


Trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, ở Cà Mau, Tiểu đoàn U Minh 1 tiến đánh yếu khu sông Ông Đốc (ngày 16-1-1962)- đánh chìm 10 chiến thuyền của lính cộng hòa tại Rạch Lùm bằng súng SAAT do công binh xưởng chế tạo (21-1-1962)- kết hợp với bộ đội huyện Trần Văn Thời tiến công khu dinh điền Khánh Lâm (22-2-1962); diệt đồn Lộ Tẻ, chặn đánh trung đội bảo an tại chi khu Tắc Vân; hỗ trợ địa phương phá ấp chiến lược Tân Thành - ấp chiến lược kiểu mẫu của An Xuyên (tháng 5-1962). Đặc biệt, Nguyễn Việt Khái ở Tân Hưng Tây đã dùng súng cạcbin bắn rơi 2 trực thăng CH47 và bắn hỏng 2 chiếc trực thăng CH47 khác (8-12-1962). Sau sự kiện đó, Khu ủy khu 9 phát động phong trào dùng súng trường bắn máy bay địch trong toàn Khu.


Ở Cần Thơ, Tiểu đoàn Tây Đô bẻ gãy cuộc càn bằng “trực thăng vận” tại kinh Chệt Thợ, xã Trường Long, huyện Châu Thành (3-1962).

Ở Rạch Giá, Tiểu đoàn U Minh 10 phục kích diệt đại đội bảo an trực thuộc tiểu khu Rạch Giá tại kinh Tám, xã Nam Thái Sơn (8-3-1962); tấn công đồn kinh 12 xã Hòa Hưng, đồn Cái Bần, đồn Thúy Liễu (tháng 5-1962); đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 31 ngụy tại Kè Một; đánh tan sự ứng cứu bằng chiến thuật “trực thăng vận” của 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 31 khi đến giải cứu Kè Một (24-5-1962)1 (Tiểu đoàn U Minh 10 diệt trên 300 tên, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng). Bộ đội huyện Châu Thành và du kích địa phương bao vây bức rút đồn Hòn Sóc, đồn Hòn Đất, đồn Kinh Mười Thập (tháng 3-1962)...


Ở Sóc Trăng, Quân giải phóng tỉnh phối hợp với Tiểu đoàn 96 Quân khu và Quân giải phóng huyện Thạnh Trị tiến công vào ấp chiến lược Trà Sét - một trong những ấp chiến lược lớn ở miền Tây Nam Bộ (5-1962).


Trên địa bàn Đông Nam Bộ, Tiểu đoàn 800, Đại đội 404 chủ lực Quân khu 7 và du kích xã Bình Mỹ phục kích Đại đội 5, Tiểu đoàn 31 bảo an của tiểu khu Phước Thành tại ấp Mỹ Đức, xã Bình Mỹ, huyện Tân Uyên (14-2-1962)1 (Diệt 62 lính, bắt 23 lính, phá hủy 11 xe cơ giới (có 2 xe thiết giáp, 1 xe thám thính, 6 xe vận tải, 2 xe Jeep), thu 42 súng các loại (trong đó có 4 súng đại liên, 4 súng trung liên, 24 súng Cạcbin, 6 súng Tômxông, 4 súng ngắn)).


Trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, Quân giải phóng chặn đánh cánh quân của Sư đoàn 7 quân đội Sài Gòn tại cầu Xáng2 (Diệt 25 lính ngụy, thu 20 súng); phục kích trung đội dân vệ tại ấp chiến lược Tân Thạnh tây; tiến công lính gác ở cầu Ông Cộ (tháng 4-1962); phối hợp với du kích xã bao vây thị tứ Phú Hòa Đông (tháng 5-1962); tấn công trung đội bình định nông thôn tại suôi Cụt, xã Phước Hiệp (7-7-1962)... Trong nội thành Sài Gòn, lực lượng biệt động tấn công sĩ quan và binh lính Mỹ tại khách sạn gần rạp hát Nguyễn Văn Hảo (15-5-1962), tại nhà hàng Interbia, quận 1 (24-5-1962)3 (Diệt 8 cố vấn Mỹ) và tại cuộc triển lãm vũ khí tổ chức ở Tòa đô chánh Sài Gòn (26-10-1962)...


Chỉ tính 9 tháng đầu năm 1962, lực lượng biệt động Sài Gòn đã thực hiện 86 vụ tấn công sĩ quan và binh lính Mỹ trong nội thành. Riêng ở Bình Tân, Gò Môn trong năm 1962 đầu năm 1963, Quân giải phóng và du kích địa phương đã đánh 79 trận, diệt 252 binh sĩ cộng hòa, trong đó có 3 sĩ quan Mỹ, làm bị thương 336 binh sĩ, bắt sống 8 binh sĩ, phá hủy 1 xe Jeep, bắn rơi 1 máy bay4 (Xem Quân khu 7 - Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh (1945-2013), Sđd, tr.255).


Dù vấp phải sự phản kháng quyết liệt của nhân dân miền Nam, đặc biệt là hoạt động vũ trang của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, nhưng trong năm 1962, chính quyền Sài Gòn đã xây dựng được gần 4.000 ấp chiến lược. Tuy nhiên, kết quả đó không đáp ứng được kỳ vọng của Mỹ. Do vậy, bước sang năm 1963, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV) quyết định thay chương trình “bình định 18 tháng” bằng chương trình “tấn công toàn diện” với kế hoạch mang bí số N.16, “dùng quả đấm thép nhằm giành thắng lợi quyết định trước cộng sản” trong năm 1963. Để thực hiện kế hoạch trên, Mỹ đưa vào miền Nam thêm 11.000 nhân viên quân sự Mỹ, 165 máy bay, 257 xe thiết giáp và các phương tiện quân sự hiện đại khác. Lực lượng quân đội Sài Gòn cũng được gấp rút bổ sung, nâng lên 200.000 quân chủ lực, gồm 10 sư đoàn quân và 211.000 lính bảo an, dân vệ.


Các vùng chiến thuật trên toàn miền Nam Việt Nam được bố trí, sắp xếp lại. Theo đó, 4 vùng chiến thuật được thiết lập:

Vùng 1 chiến thuật do Quân đoàn 1 phụ trách (Sở chỉ huy đóng tại Đà Nẵng), gồm: Khu chiến thuật 11 (tiểu khu Quảng Trị và Thừa Thiên), Khu chiến thuật 12 (tiểu khu Quảng Ngãi, Quảng Tín và Biệt khu Quảng Nam - Đà Nẵng).


Vùng 2 chiến thuật do Quân đoàn 2 phụ trách, gồm: Khu chiến thuật 22 (tiểu khu Bình Định, Phú Yên, Phú Bổn), Khu chiến thuật 23 (tiểu khu Đắc Lắc, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận)1 (Tháng 7-1966, ngụy quyền Sài Gòn thành lập thêm Biệt khu 24 là vùng chiến thuật đặc biệt bán tự trị, bao gồm toàn bộ khu vực biên giới giáp Lào, do Trung đoàn độc lập 24 đảm nhiệm, đến tháng 4-1970 thì giải thể).


Vùng 3 chiến thuật do Quân đoàn 3 phụ trách, gồm: Khu chiến thuật 31 (tiểu khu Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An), Khu chiến thuật 32 (Bình Long, Phước Long, Bình Dương), Khu chiến thuật 33 (Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hòa và Biệt khu thủ đô Sài Gòn - Gia Định).


Vùng 4 chiến thuật do Quân đoàn 4 phụ trách, gồm: Khu chiến thuật 41 (Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình), Khu chiến thuật 42 (Kiến Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên), Khu chiến thuật Tiền Giang (Định Tường, Kiến Tường, Kiến Hòa, Gò Công)1 (Vùng 4 chiến thuật còn có Vùng chiến thuật đặc biệt bán tự trị 44 có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho khu vực phía tây bắc đồng bằng sông Cửu Long, dọc biên giới Việt Nam - Campuchia, hoạt động đến năm 1973 thì giải thể).


Chính quyền Sài Gòn chủ trương huy động tối đa lực lượng quân đội, cảnh sát, bộ máy dân sự các cấp cho công cuộc bình định. Ngày 7-1-1963, “Ủy ban liên bộ” đặc trách chương trình ấp chiến lược của chính quyền Sài Gòn chỉ thị “trong năm 1963 phải hoàn tất kế hoạch lập 11.287 ấp trên toàn miền Nam”. Các cuộc hành quân quy mô lớn được tổ chức, các loại phương tiện chiến tranh hiện đại được sử dụng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 31 Tháng Giêng, 2023, 08:35:51 am
Đối với Quân giải phóng, cuối năm 1962, Hội nghị tổng kết chiến tranh du kích toàn miền Nam được tổ chức. Các quân khu, các tỉnh họp mặt trao đổi kinh nghiệm, chiến thuật chiến đấu, phương thức vận hành cuộc chiến tranh du kích... Tất cả đều quyết tâm đánh bại “chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận” của Mỹ với phương châm: "... Địch kìm kẹp, ta phá kìm kẹp; địch càn quét, ta chống càn quét; địch lập ấp chiến lược, ta phá ấp chiến lược...”2 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.329).


Trên địa bàn miền Trung Nam Bộ, ngày 2-1-1963, lực lượng vũ trang Quân khu 8 và du kích địa phương bẻ gãy cuộc hành quân của quân đội Sài Gòn tại Ấp Bắc. Đó là cuộc hành quân mà địch đã huy động đến gần 2.000 quân, gồm Sư đoàn 7 chủ lực, chiến đoàn bảo an tiểu khu Định Tường (8 tiểu đoàn) 35 máy bay các loại, 13 xe thiết giáp. 13 tàu chiến, 10 khẩu pháo 105mm... và triệt để sử dụng chiến thuật “trực thăng vận" “thiết xa vận” đặt dưới sự giám sát, chỉ huy của cố vấn Mỹ1 (Bộ đội Khu 8 và du kích địa phương đã bắn rơi và làm hỏng nặng 16 máy bay, bắn cháy 3 xe thiết giáp, tiêu diệt và làm bị thương gần 500 lính, trong đó có cố vấn Mỹ).


Chiến thắng Ấp Bắc không những khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân miền Nam mà còn khẳng định Quân giải phóng và nhân dân miền Nam có thể đánh bại chiến thuật “trực thàng vận”, “thiết xa vận”, có thể đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt". Chính đối phương cũng phải thừa nhận: “trận Ấp Bắc báo hiệu khả năng đánh thắng những chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng và xe bọc thép; đồng thời nêu bật sức mạnh của lực lượng đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang của cộng sản”2 (Theo Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.332). Sau chiến thắng Ấp Bắc, Ban Quân sự Miền phát động phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” trên toàn chiến trường B2.


Ở Bến Tre3 (Ngày 7-1-1964, địch mở cuộc càn 1 mang tên "Phượng Hoàng TG1" đánh vào Thanh Phong 1 (Thạnh Phú, Bến Tre). Tướng Lê Văn Kim - Tổng tham mưu trưởng ngụy, Lâm Văn Phát - Tư lệnh khu chiến thuật Tiền Giang trực tiếp chỉ huy. Cuộc hành quân gồm 4 chiến đoàn thủy quân lục chiến (14 tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 7 và 6 đại đội biệt kích, 60 máy bay (phần lớn là HU1A), 14 tàu chiến, 19 giang thuyền, 26 xe M113,2 khẩu đội pháo (105 và 155 ly) dưới sự giám sát của cố vấn Mỹ, đại tá không quân Hoàng gia Anh), Tiểu đoàn 263 cùng Quân giải phóng huyện, lực lượng bảo vệ bờ biển và du kích xã, ấp suốt 20 ngày đêm liên tục chiến đấu ngoan cường đã bẻ gãy cuộc hành quân mang tên “Phượng Hoàng TG1” của quân đội Sài Gòn, bảo vệ an toàn trên 300 tấn vũ khí từ hậu phương miền Bắc chuyển vào và hệ thống trường quân y, trường huấn luyện, trường quân chính... tại căn cứ Thạnh Phong, Thạnh Phú.


Ở An Giang, bộ đội tỉnh chiến đấu suốt 4 tháng với Sư đoàn 21 tại vùng Bảy Núi; chống càn ở núi Phú Cường, núi Dài; hỗ trợ nhân dân phá banh ấp chiến lược Ba Chúc, Lương Phi...

Ở Mỹ Tho, Tiểu đoàn 261 phục kích đại đội bảo an, bắn cháy 2 xe M113 tại Tân Hiệp xã Tân Hội (24-3-1963). Tiểu đoàn 514 đột nhập ấp chiến lược Long Định tấn công tiểu đội dân vệ; hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá banh ấp chiến lược Long Định (tháng 3-1963), ấp chiến lược trên trục lộ Vĩnh Kim - Đồng Hòa; phá ấp chiến lược từ Kim Sơn đến Song Thuận; phục kích diệt trung đội dân vệ tại cầu Thầy Tùng (Long Hưng), giải phóng vùng ven nối liền 5 xã thuộc huyện Châu Thành (tháng 4-1963)...; phục kích diệt Tổng Kỉnh, phá ấp chiến lược Bình Phan (Chợ Gạo), ấp chiến lược Thạnh Trị (Hòa Đông), ấp chiến lược An Hoa (Gò Công); bao vây bức hàng đồn Cẩm Sơn, đồn ông Đề, đồn cầu Ván; giải phóng xã Cẩm Sơn, xã Long Tiên (tháng 5-1963)1 (Phục kích đánh tan 2 đại đội bảo an của chi khu Cái Bè đến giải vây cho đồn Cẩm Sơn tại lộ Thầy Thanh, thu trên 80 súng, bắt 30 tù binh. Cuối cùng 20 binh lính trong đồn Cẩm Sơn đầu hàng, ta thu 20 súng)... Lực lượng vũ trang tỉnh bao vây, bức hàng, bức rút 2 chi khu quân sự, 160 đồn bót, giải phóng 52 xã.


Ở Kiến Phong, bộ đội huyện Hồng Ngự bao vây bức rút đồn Ụ Cờ Đen, Bình Phú, Cả Sơ, Sâm Sai..., giải phóng xã Bình Thành (tháng 6-1963).

Ở Kiến Tường, Quân giải phóng tỉnh, huyện phục kích bẻ gãy cuộc càn của quân ngụy tại nam Mộc Hóa (tháng 3-1963), cuộc càn tại kinh Năm Ngàn (tháng 6-1963). Đại đội 1 chủ lực tỉnh kết hợp với đại đội đặc công tỉnh đột kích căn cứ huấn luyện biệt kích Hiệp Hòa, Đức Hòa, tỉnh Kiến Tường (24-11-1963)1 (Diệt hàng chục lính, bắt hơn 100 lính, thu hơn 500 súng các loại).


Ở Long An, Đại đội 315 Quân giải phóng huyện Cần Đước cùng du kích xã Mỹ Lệ phục kích tiêu diệt trung đội bảo an xã Mỹ Lệ. Trận đánh gây thối động lớn, làm cho lính bảo an, dân vệ ở các đồn không dám hung hăng đàn áp đồng bào như trước (15-2-1963)2 (Diệt 24 lính, bắt 11 lính, thu 28 súng các loại (có 3 trung liên), 2 máy vô tuyến điện PRC25). Lực lượng vũ trang toàn tỉnh mở mảng tấn công đồn bót, hỗ trợ quần chúng phá banh 20 ấp chiến lược3 (Là những ấp chiến lược bị phá đầu tiên ở Long An), giải tán 2.800 thanh niên chiến đấu, thu 280 súng và 1.200 lựu đạn (tháng 10-1963).


Đến cuối tháng 9-1963, Quân khu 8 tổ chức hội nghị sơ kết 2 đợt hoạt động vũ trang (từ tháng 5 đến tháng 7 và từ tháng 7 đến tháng 9). Toàn Khu đã phá được 135 ấp chiến lược, bức rút 207 đồn bót, thuyết phục được hơn 6.000 lính cộng hòa bỏ ngũ, giải phóng được 44 vạn dân4 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.471). “Vùng giải phóng được mở rộng (Long An 57 xã, 1 huyện, Mỹ Tho 51 xã, Bến Tre 57 xã); Quân giải phóng làm chủ đến tận các thị xã, thị trấn và các trục đường giao thông quan trọng”5 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.471).


Trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, Tiểu đoàn 306 Quân khu 9, phối hợp với Tiểu đoàn U Minh 1, Tiểu đoàn pháo cao xạ, Quân giải phóng huyện Cái Nước, huyện Ngọc Hiển và du kích các xã tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Chà Là (tháng 1-1963)6 (Chà Là là một trận đánh lớn của lực lượng chủ lực miền Tây Nam Bộ, vừa diệt cứ điểm vừa đánh quân viện bằng trực thăng, nhảy dù. Kết quả, lực lượng chủ lực miền Tây Nam Bộ diệt binh lính tại cứ điểm, quân cứu viện gần 600 tên. Bắn rơi 19 máy bay, thu hàng trăm súng và 500 chiếc dù); bẻ gãy cuộc hành quân mang tên “Sóng tình thương” của quân ngụy tại rừng Năm Căn - căn cứ của Khu ủy và Tỉnh ủy Cà Mau (tháng 3-1963)1 (Thực hiện cuộc hành quân “Sóng tình thương” đánh vào căn cứ Năm Căn, chính quyền Sài Gòn sử dụng Sư đoàn 21 bộ binh, Lữ đoàn thủy quân lục chiến, Liên đoàn biệt động quân, 200 tàu chiến, 10 pháo...). Tiểu đoàn 306 và Quân giải phóng huyện Trần Văn Thời tiến công cụm cứ điểm sông Cái Tàu (5-3-1963)2 (Diệt và bắt sống gần 300 tên địch, số còn lại bỏ chạy về đồn Cây Khô). Quân giải phóng Quân khu đồng loạt tấn công chi khu Cái Nước, Đầm Dơi... (tháng 9-1963).


Ở Vĩnh Long, Quân giải phóng tỉnh tiến công diệt đồn Cây Dương (xã Ngãi Tứ), yếu khu Cái Ngang, phá banh các ấp chiến lược Ấp Nhứt, Ngãi Tứ, Bình Minh, Loan Mỹ, Mỹ Long, Hiệp Mỹ, Ngũ Lạc (huyện cầu Ngang); phục kích chống càn tại xã Nhị Long (tháng 3-1963).


Ở Rạch Giá, Tiểu đoàn U Minh 10 kết hợp với Tiểu đoàn 306 phục kích diệt trung đội biệt kích thuộc chi khu Kiến Hưng; hỗ trợ nhân dân Gò Quao nổi dậy phá banh ấp chiến lược Vĩnh Tuy, Vĩnh Phước, Thúy Liễu, Vĩnh Hòa Hưng (tháng 4-1963); đánh thiệt hại nặng đồn Cái Đuốc Lớn, Ngọc Chúc, Giồng Riềng (tháng 10-1963).


Ở Sóc Trăng, đơn vị pháo binh tỉnh tập kích vào sân bay Sóc Trăng, phá hủy gần 50 máy bay (10-9-1963). Tiểu đoàn 80 (Tiểu đoàn 96) cùng dân quân xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Lộc tiến công tiêu diệt lực lượng bảo an ở Ngang Dừa - Bến Luông (18-10-1963).


Ở Cần Thơ, Tiểu đoàn Tây Đô phục kích lực lượng bảo an tại kinh Xáng Mới (15-2-1963); phá ấp chiến lược Cái Nai, Cái Da, Rạch Cau; bức rút đồn Ngã Tư Cây Dương - Phụng Hiệp, tiến công đồn Cây Mo, xã Trường Thành - Ô Môn, đồn Phú Hữu; chống càn ở Vĩnh Thuận Đông - Long Mỹ (tháng 5-1963), tiến công diệt đại đội bảo an ở Vàm Xáng, Hòa Lựu (tháng 10-1963). Lực lượng biệt động tiến công lính Mỹ tại khách sạn Trung Châu đốt cháy Phòng thông tin Mỹ tại đường Phan Đình Phùng...


Chỉ trong 7 ngày đầu tháng 10-1963, Quân giải phóng Cần Thơ đã bức rút khoảng 30 đồn bót, phá ấp chiến lược ở Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ...

Trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Đại đội 51 huyện Xuyên Mộc kết hợp với du kích xã Phước Bửu tập kích lực lượng bảo an tại ấp Xóm Rẫy, xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc (2-5-1963). Đại đội 445 Quân giải phóng tỉnh kết hợp với Đại đội 25 Quân giải phóng huyện Long Đất và du kích xã Phước Hải tập kích trụ sở hội đồng xã Phước Hải; tấn công lực lượng biệt động quân, lính bảo an tại ấp chiến lược Phước Hải, Long Đất (1-12-1963).


Lực lượng Miền mở đợt hoạt động ở vùng Bến Súc, Cỏ Trách, Thanh An; tấn công diệt đồn Cây Trường - Bến Cát (31-12-1963), bẻ gãy cuộc hành quân Đại Phong, tấn công Tiểu đoàn biệt động Cọp đen tại số 32 Đường Long...


Trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, Đoàn Quyết thắng phối hợp với Quân giải phóng Miền tiến công đơn vị lính dù được mệnh danh là lực lượng sừng sỏ nhất của quân lực Sài Gòn tại xã An Nhơn Tây (tháng 6-1963)1 (Tại Củ Chi, chỉ riêng 3 tháng đầu năm 1963, lực lượng vũ trang huyện đã đánh 103 trận, diệt 89 tên, làm bị thương 139 tên, trừng trị 2 tên ác ôn trong ấp chiến lược, san bằng 1 bót, bắn sập và làm hư hỏng 2 tua gác. Riêng về chống càn, lực lượng vũ trang vùng ven đã đánh 99 trận, làm chết 90 tên địch (có 3 tên Mỹ), làm bị thương 143 tên, bắn hỏng 1 xe M113, 1 GMC, 1 xe Jeep).


Lực lượng biệt động tấn công Bộ Tư lệnh Mỹ tại Nam Việt Nam (MACV) (28-6-1963), rạp chiếu bóng Kinh Đô, nơi dành riêng cho sĩ quan và lính Mỹ (21-9-1963)2 (Kết quả 32 lính Mỹ chết, một số bị thương). Kết thúc năm 1963, bằng trận vận động phục kích tại cầu Xáng, C13 đã tiêu diệt 1 đại đội chủ lực của Sư đoàn 7 ngụy.


Dù thế, đến cuối năm 1963, chính quyền Sài Gòn cũng thu được một số thắng lợi: hơn 5.000 ấp chiến lược được thiết lập và gom được 6 triệu dân. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam ngày một lan rộng, đặc biệt là phong trào đấu tranh của Phật giáo1 (Ngày 8-5-1963, chính quyền Sài Gòn ở Huế cấm Phật giáo treo cờ đã gây nên sự bất bình trong giới phật tử. Hơn hai vạn tăng ni, phật tử thành phố Huế đã rầm rộ xuống đường biểu tình phản đối chính quyền Sài Gòn. Ngô Đình Diệm đã ra lệnh đàn áp, hàng chục phật tử chết và bị thương. Làn sóng đấu tranh ủng hộ Phật giáo lan rộng và kéo dài suốt 3 tháng làm ngừng trệ một phần những nỗ lực chiến tranh của Mỹ), đã góp phần làm bùng phát mâu thuẫn nội bộ von đã âm ỉ ngay trong nội bộ chính quyền Sài Gòn.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Hai, 2023, 02:48:59 pm
2. Tiến công góp phần đánh bại kế hoạch Mc. Namara của Mỹ trên chiến trường B2

Ngày 1-11-1963, được Mỹ ủng hộ, Dương Văn Minh cầm đầu nhóm đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, nền đệ nhất cộng hòa sụp đổ. Tại nước Mỹ, Tổng thống Kennedy cũng bị ám sát. Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ đang đi vào ngõ cụt.


Để cứu vãn tình hình, hai mươi ngày sau khi lên làm Tổng thống, Johnson cử ngay một phái đoàn quân sự gồm 15 thành viên do Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc. Namara dẫn đầu sang miền Nam Việt Nam nghiên cứu tình hình và đề ra “kế hoạch Johnson - Mc. Namara”, chuyển trọng tâm chiến lược từ “tìm diệt và bình định”, lập ấp chiến lược ồ ạt trên toàn miền Nam sang “quét, giữ và bình định”, lập ấp tân sinh “có trọng điểm”.


Thực thi quyết sách mới, Mỹ tăng cường viện trợ cho chính quyền Sài Gòn năm 1964 lên 216,4 triệu USD và nâng số cố vấn quân sự Mỹ lên 30.000 người1 (Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.492, 500). Đối với quân đội Sài Gòn, năm 1964, lực lượng cũng tăng lên 500.000 tên (trong đó có 250.000 quân chính quy), 700 máy bay các loại2 (Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.492, 500).


Với tiềm lực quân sự hùng hậu đó, quân đội Sài Gòn đẩy mạnh các chiến dịch “quét, giữ và bình định”, bí mật tung biệt kích ra miền Bắc Việt Nam và Lào..., tạo nên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam... nhằm “tiêu diệt tận gốc lực lượng cộng sản Bắc Việt”, cắt đứt nguồn tiếp tế lớn về người, của và vũ khí cho miền Nam.


Trước sự leo thang chiến tranh của Mỹ, tháng 12-1963, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) xác định phát huy hơn nữa nội lực của cả dân tộc để thực hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống xâm lược. Nghị quyết hội nghị nêu rõ: phải kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang một cách linh hoạt tùy theo từng vùng, từng địa phương để đạt hiệu quả cao nhất, trong đó đấu tranh vũ trang đóng vai trò trực tiếp.


Tháng 3-1964, Trung ương Cục tổ chức hội nghị lần thứ hai, khẳng định: “Chúng ta có khả năng không những đánh bại kế hoạch Mắc Namara như đã đánh bại kế hoạch Xtalây - Taylo mà còn có thể tranh thủ thời cơ phát triển phong trào và thực lực tương đối nhanh chóng để làm chuyến biến so sánh lực lượng giữa ta và địch”3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.25, tr.715-716). Quán triệt tinh thần đó, Quân giải phóng trên chiến trường B2 quyết định đẩy mạnh hoạt động vũ trang, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị đang dâng cao trong nhân dân toàn miền Nam.


Trên địa bàn Trung Nam Bộ, tại Mỹ Tho, Quân giải phóng tỉnh mở mảng Ba Tri, Bình Đại..., hỗ trợ quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược.


Tại Bến Tre, lực lượng vũ trang tỉnh tiến công ấp chiến lược Giồng Trôm, An Thạnh...; tiêu diệt đồn bảo an tại ngã ba Cây Điệp; bức hàng, bức rút hệ thống đồn bót tại các xã Phước Mỹ Trung, Hưng Khánh Trung, Nhuận Phú Tân, Thành An, An Định, Tân Trung, Cẩm Sơn, Ngãi Đăng, An Thới,... giải phóng một vùng rộng lớn nôl liền từ nam đến bắc Mỏ Cày (tháng 2-1964).


Tại Long An, bộ đội tỉnh phục kích bẻ gãy cuộc càn của Tiểu đoàn 30 biệt động - một trong những đơn vị hiện đại, tinh nhuệ bậc nhất của quân lực Việt Nam Cộng hòa - tại đồng Mương Trám, huyện Bến Lức (27-4-1964)1 (Đánh thiệt hại nặng 2 đại đội biệt động quân, thu 200 súng các loại, 40 thùng đạn; bắn hỏng 4 máy bay trực thăng, 2 ca nô chở quân. Trận đánh thể hiện sự phát triển mới về trình độ tổ chức chỉ huy và khả náng chiến đấu của Quân giải phóng). Tiểu đoàn 263 kết hợp với du kích huyện Đức Huệ tiến công lực lượng bảo an, thanh niên chiến đấu tại Mỹ Quý Tây (Đức Huệ); phá banh và giải phóng hơn 3.000 dân khỏi Khu trù mật Quéo Ba, mồ thông tuyến hành lang biên giới từ Tây Ninh về Đồng Tháp Mười (18-10-1964); tiêu diệt đồn Phú Khánh, An Quy, An Nhơn, bức rút hơn 40 đồn bót trên địa bàn huyện Thạnh Phú, giải phóng nhiều khu vực rộng lớn ở Ba Tri, Mỏ Cày với trên 16.000 dân. Đặc biệt trong các đợt “mở mảng”, “mở để" trong năm 1964, Quân giải phóng Long An đã tổ chức được trên 16.000 trận đánh lớn nhỏ; bẻ gãy nhiều cuộc càn lớn của Sư đoàn 25 - một sư đoàn thiện chiến của quân ngụy; làm chủ cơ bản 50 xã, trong đó giải phóng hoàn toàn huyện Đức Huệ.


Trên địa bàn miền Tây Nam Bộ: tại Rạch Giá, Tiểu đoàn 309 Quân khu 9 tiến công chi khu Vĩnh Thuận; phục kích đánh tan lực lượng biệt kích, bảo an, lính dù chi viện từ Huyện Sử tại Công Đá1 (Đoạn giữa Vĩnh Thuận và Huyện Sử). Quân giải phóng huyện Phụng Hiệp phá banh hệ thống ấp chiến lược ở vùng giáp ranh 3 huyện Châu Thành, Phụng Hiệp, Kế Sách (tháng 4-1964). Bộ đội Quân khu 9 cùng với bộ đội địa phương tỉnh tổ chức tiến công chi khu Gò Quao, Sóc Ven, bức rút các đồn Cầu Đúc, Bà Lớn, Xáng Cụt, giải phóng hoàn toàn xã Vĩnh Hòa Hưng, khai thông tuyến hành lang từ U Minh Thượng lên Giồng Riềng (tháng 7-1964). Tiểu đoàn 207 (tức Tiểu đoàn U Minh 10) tiến công đồn Kinh Mười xã Thạnh Đông A, huyện Tân Hiệp; bao vây bức rút đồn Cây Dừa, sông Cái Bé (16-7-1964)...


Tại Cà Mau, Quân giải phóng huyện Tân Hiệp phối hợp với Tiểu đoàn tỉnh An Giang (Quân khu 8) diệt gọn chi khu Kiên Lương (tháng 10-1964). Quân giải phóng huyện An Biên bao vây đánh lấn chi khu Hiếu Lễ (tháng 11-1964), bức rút các đồn trên kinh xáng Xẻo Rô, giải phóng 5 xã, nối liền với các xã giải phóng của huyện Vĩnh Thuận và vùng U Minh Hạ, tạo thành một vùng căn cứ rộng lớn ở miền Tây Nam Bộ.


Tại Sóc Trăng, Tiểu đoàn Phú Lợi bám đánh địch trên tuyến Tân Lập - Mỹ Hòa, phá ấp chiến lược Giồng Chùa (xã An Ninh), Ngang Hồ, Giếng Nước (xã Vĩnh Thanh), Tà sốt (huyện Vĩnh Châu); hỗ trợ quần chúng phá ấp chiến lược Trà sết. Tiểu đoàn 309, Tiểu đoàn 70 và đại đội địa phương huyện Thối Bình kỳ tập Trung tâm huấn luyện biệt kích Huyện Sử (19-5-1964)1 (Quân giải phóng đào chiến hào lấn dần vào căn cứ, bất ngờ tiến công diêt 150 tên, làm bị thương và bắt sống 100 tên, thu toàn bộ vũ khí. Từ đó, chiến thuật “bao vây đánh lấn” của Tư Đức được phổ biến áp dụng rộng rãi trong toàn Khu). Lực lượng vũ trang huyện Châu Thành tiến đánh đồn bót địch trên tuyến Tân Lập - Mỹ Hòa, phá ấp chiến lược Giồng Chùa, mở rộng vùng giải phóng đến sát thị xã; phá banh các ấp chiến lược Giếng Nước (Vĩnh Trạch), ấp chiến lược Ngang Rồ. Đến cuối năm, Sóc Trăng phá dứt điểm 93 ấp chiến lược, phá banh 91 ấp, giải phóng 12 xã với 136.000 dân (tháng 10-1964).


Tại Cần Thơ, Tiểu đoàn Tây Đô tiến công diệt đồn Ba cửa (Thốt Nốt), giải tán toàn bộ lực lượng dân vệ (29-6-1964).

Tại Vĩnh Long, huyện Tam Bình giải phóng xã Ngãi Tứ, Bình Minh, Mỹ Lộc, Hậu Lộc, Song Phú; huyện Châu Thành A phá lỏng khu vực “vành đai trắng”, phá tan ấp chiến lược Phước Ngươn B - mô hình kiểu mẫu của ngụy, ở Bình Minh, An Khánh, Phú Long, Mỹ Thuận B, Tân Thuận Đông và toàn huyện Tiểu cần... hệ thống ấp chiến lược đều bị phá banh.


Cao trào phá ấp chiến lược ở Vĩnh Long, Trà Vinh phát triển mạnh. Quân giải phóng làm chủ nhiều vùng rộng lớn liên hoàn từ vùng ven sông Tiền, sông Hậu, sông Măng Thít, mở rộng hành lang từ Hậu Giang qua Tiền Giang.


Đến giữa năm 1965, ở miền Tây Nam Bộ, trung bình mỗi tỉnh chỉ còn lại khoảng 20 ấp chiến lược so với khoảng 200 ấp chiến lược tại thời điểm năm 1963. Bộ đội đã giải phóng được 200 xã 2.200 ấp với 2 triệu dân, tạo nên vùng giải phóng rộng lớn nối thông từ Cần Thơ qua Cà Mau đến Rạch Giá.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Hai, 2023, 02:51:00 pm
Trên địa bàn cực Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên, Đại đội 460 Hàm Tân phục kích tiểu đội biệt kích tại Cốt Long, xã Văn Mỹ (16-4-1963); Đại đội 486 bộ đội tỉnh phục kích lực lượng Biệt động quân tại khu vực Cây Cày, đoạn Tánh Linh - Suôi Kiết (12-7-1963); Đại đội 481, 489 kết hợp với lực lượng công binh tỉnh Bình Thuận phục kích lực lượng bảo vệ đoàn xe lửa tại khu vực giữa ga Sông Phan - Suối Vận thuộc xã Tân Lập, huyện Hàm Thuận Nam (30-10-1963); Đại đội 486 kết hợp với 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 186 của Quân khu 6 phục kích Đại đội bảo an số 397, Đại đội bảo an số 310 và lực lượng biệt kích tại Dốc Sỏi, tỉnh lộ 23 (11-11-1964)1 (Đánh thiệt hại nặng Đại đội bảo an số 387, 1 trung đội bảo an công vụ, 1 trung đội biệt động quân, 1 trung đội của Đại đội bảo an số 310 và 2 tên cố vấn Mỹ; bắn cháy 3 xe thiết giáp, 1 xe Jeep, 6 xe GMC, thu 47 súng các loại (có 2 đại liên, 1 súng cối 60 ly, 2 trung liên), thu hàng ngàn viên đạn, phá hủy 4 khẩu đại liên và nhiều phương tiện chiến tranh của địch); Đại đội 460 Hàm Tân tập kích lực lượng dân vệ tại ấp Hiệp An, xã Tân Hải (24-11-1964); Đại đội 480 tập kích lực lượng cảnh sát dã chiến tại cổng chữ Y, phường Lạc Đạo, thị xã Phan Thiết (25-12-1964)2 (Đây là trận đánh đầu tiên của Đại đội 480 vận dụng chiến thuật đặc công giành thắng lợi lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh trận mở màn trong đợt hoạt động mùa khô năm 1965 của tỉnh Bình Thuận)...


Trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, Đội biệt động 159 tập kích bọn quan chức cao cấp Mỹ và ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn tại rạp hát Kinh Đô (16-2-1964)3 (Rạp hát bị hư hại nặng. Lực lượng công binh ngụy tới giải quyết hậu quả của trận đánh suốt từ 19 giờ tôi hôm trước đến 10 giờ sáng hôm sau mới xong. Trận tập kích rạp Kinh Đô gây tiếng vang lớn khắp thành phố Sài Gòn và toàn Miền. Đơn vị được tặng thưởng Huân chương Quân công Giải phóng hạng Ba. Ba chiến sĩ tham gia đều được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất và được phong cấp. Đặc biệt, đơn vị vinh dự được Đại tướng Nguyễn Chí Thanh viết thư động viên, chúc mừng thắng lợi. Sau trận đánh, lực lượng biệt động thành phố có thêm một cách đánh mới, đó là chiến thuật cường tập kết hợp trái nổ chậm với giật nụ xòe tấn công tiêu diệt địch ở những mục tiêu quan trọng, diệt nhiều địch); Đội biệt động 65 đánh chìm tàu US CARD (Mỹ) tại cảng Sài Gòn, làm hư hỏng và chìm theo 21 máy bay lên thẳng HU1A, 2 máy bay trinh sát L.19, 1 máy bay AD6 (2-5-1964)1 (Với chiến công đánh tàu US CARD, Đội biệt động 65 được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng Nhì. Đồng chí Lâm Sơn Náo được tặng thưởng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba. Đồng chí Nguyễn Phú Hùng và đồng chí Sáu Cường (người vận chuyển thuốc nổ vào thành pho) được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Bạ). Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng, Trung đội bộ đội huyện Củ Chi và du kích xã An Nhơn Tây vây ép đồn An Nhơn Tây kết hợp với Trung đoàn 1 chủ lực Miền, phục kích Trung đoàn 7 Sư đoàn 5 ngụy tại xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi2 (Sau 10 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt và bắt 170 tên đích, bắn hỏng và bắn cháy 11 xe tăng, xe thiết giáp, 2 máy bay, thu 1 xe M113, 2 súng 12mm) (từ ngày 1 đến ngày 10-7-1964). Ban Quân báo biệt động Sài Gòn - Gia Định tập kích bọn quan chức, nhân viên kỹ thuật Mỹ - ngụy và chư hầu tại khách sạn Caravelle (24-10-1964)3 (Theo báo cáo của cơ sở nội thành, mìn nổ làm sập và hư hỏng 43 phòng địch bị thương vong nhiều tên, trong đó chêt 1 tên, bị thương nặng 1 tên Thiếu tá - đại diện Văn phòng Úc và 3 nhân viên. Ta an toàn. Trận đánh khách sạn Caravelle là trận đánh lớn và đầu tiên của Ban Quân báo trinh sát (tiến thân của Đội 5 biệt động anh hùng) đã tạo tiếng vang về chính trị, nhất là khi ngụy quyền Sài Gòn trên đà sụp đổ. Trận đánh giành thắng lợi do ta chuẩn bị tốt từ khâu chọn mục tiêu, phương án chiến đấu công tác điều nghiên, trình độ thực hành kỹ thuật đánh bằng mìn (khối thuốc nổ) hẹn giờ. Mặc dù “sự cố mìn không nổ, phải kéo dài sang ngày thứ hai, nhưng tổ chiến đấu đã khắc phục mọi khó khăn, linh hoạt xử trí tình huống, không sợ hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ). Đội 5 biệt động tập kích cư xá Brink (24-12-1964)4 (Phá hủy 39 xe ô tô và một đài phát sóng vô tuyến của địch. Ta tiêu thụ 200kg thuốc nổ, tự hủy 1 xe ô tô. Toàn đội chiến dấu trở về căn cứ an toàn. Với chiến công tập kích cư xá Brink, Đội 5 được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng Nhì. Nguyễn Thanh Xuân được tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 05 Tháng Hai, 2023, 02:56:16 pm
Trên địa bàn miền Đông Nam Bộ: tại Tây Ninh, Tiểu đoàn 20 bộ đội chủ lực Miền vận động tiến công lực lượng biệt kích ngụy tại Bàu Cối, xã Lộc Ninh, huyện Dương Minh Châu (19-6-1964)1 (Tiêu diệt 70 tên địch, bắt 3 tên, thu 45 súng các loại (trong đó có 1 súng đại liên, 2 trung liên, 1 súng M79 và 41 súng AR15) và 2 máy vô tuyến điện PRC25 cùng nhiều trang bị của địch. Ta hy sinh và bị thương 5 đồng chí. Trận đánh thắng lợi góp phần cổ vũ phong trào cách mạng ở Tây Ninh, đặc biệt ta tiêu diệt gọn 1 đại đội biệt kích sừng sỏ của địch, làm cho địch hoang mang, dao động trước khả năng chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của Quân giải phóng).


Tại Phước Thành, Tiểu đoàn 800 chủ lực miền Đông Nam Bộ sử dụng lối đánh cường tập tấn công Đại đội 324 biệt động quân ngụy tại ấp Bình Cơ, xã Phước Lộc, huyện Tân Uyên (13-5-1964)2 (Tiêu diệt 34 tên địch, bắt 3 tên, thu 12 súng, 85 lựu đạn, 5.200 viên đạn và 3 máy điện thoại. Tiêu hao tổn thất của ta: hy sinh 3 đồng chí, bị thương 6 đồng chí, tiêu thụ 10 đạn cối 82mm, 22 đạn cối 60mm, 15 đạn ĐKZ, hơn 500 đạn nhọn. Trận đánh có sự hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, thống nhất giữa đặc công, bộ binh và hỏa lực nên phát huy sức mạnh chiến đấu, tạo thế áp đảo quân địch để ta thực hiện ý định đánh nhanh, diệt gọn địch, ta thương vong, tổn thất thấp. Trận đánh cho thấy trình độ tổ chức, chỉ huy hiệp đồng chiến đấu của lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ có những bước phát triển trưởng thành mới. Từ trận đánh, lực lượng vũ trang Đông Nam Bộ có thêm kinh nghiệm về tổ chức chiến đấu và cách đánh dùng đặc công bí mật mở cửa mở, bộ binh thực hành đột kích đánh chiếm mục tiêu).


Tại Biên Hòa, Tiểu đoàn 800 chủ lực Quân khu Đông Nam Bộ phối hợp với bộ đội huyện Vĩnh Cửu tập kích lực lượng bảo an, cảnh sát dã chiến tại thị trấn Hiếu Liêm, huyện Vĩnh Cửu (12-8-1964)3 (Ta diệt 1 đại đội bảo an, 2 tiểu đội cảnh sát dã chiến, 3 đội dân vệ; bắt 43 tên địch, thu 120 súng các loại (có 1 cối 81mm) và 2 máy thông tin PRC25. Ta hy sinh 5, bị thương 13 đồng chí. Trận tiến công chi khu quân sự Hiếu Liêm giành thắng lợi lớn. Ta tiêu diệt gọn, bắt nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, trang bị của địch, giải phóng 7.000 dân khỏi ấp chiến lược, thực hiện tốt nhiệm vụ mở rộng tuyến hành lang đông nam Chiến khu Đ). Đại đội 270 bộ đội địa phương huyện Vĩnh Cửu phối hợp với du kích xã Bình Long tập kích lực lượng dân vệ tại đồn Bình Long, xã Bình Long, huyện Vĩnh Cửu (12-9-1964). Lực lượng vũ trang huyện Định Quán tập kích lực lượng bảo an tại ấp chiến lược Đồng Hiệp (15-7-1964). Đoàn pháo binh U80 chủ lực Miền kết hợp với Đại đội pháo mang vác Quân khu miền Đông tập kích sân bay Biên Hòa, bắn cháy và làm hỏng 59 máy bay các loại, trong đó có cả máy bay B57, làm nô 2 kho bom, phá sập nhiều trại lính (31-10-1964)1 (Trận pháo kích sân bay Biên Hòa là trận đánh Mỹ đầu tiên của lực lượng pháo binh Miền (B2) đạt hiệu suất chiến đấu rất cao. Chỉ với 176 viên đạn cối, ĐKZ, lựu pháo, ta đã phá hủy rất nhiều phương tiện chiến tranh, tiêu diệt nhiều địch, gây chấn động dư luận trong nước và ở nước Mỹ).


Tại Thủ Dầu Một, Tiểu đoàn Phú Lợi phối hợp với Đại đội 61, Đại đội 81 bộ đội huyện Bến Cát tập kích Tiểu đoàn biệt kích “Lôi Hổ” tại ấp Đồng Sổ, xã Lai Uyên, huyện Bến Cát (28-12-1964)...

Đặc biệt, đợt hoạt động mùa khô 1964-1965 trên mặt trận miền Đông Nam Bộ, Quân giải phóng Miền kết hợp với Quân giải phóng Quân khu miền Đông mở Chiến dịch Bình Giã2 (Trong hơn một tháng thực hiện chiến dịch tiến công tổng hợp, từ ngày 2-12-1964 đến ngày 3-1-1965, hai trung đoàn chủ lực Miền là lực lượng chủ yếu tham gia chiến dịch đã đánh 5 trận cấp trung đoàn, 2 trận cấp tiểu đoàn, tiêu diệt gọn 2 tiểu đoàn chủ lực ngụy, có 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến thuộc lực lượng dự bị chiến lược của ngụy, một chi đoàn xe bọc thép M113 cùng lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương, diệt và bắt nhiều sinh lực địch, phá hủy 45 xe quân sự (chủ yếu là M113), bắn rơi 56 máy bay các loại (chủ yếu là trực thăng). Chiến dịch thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra), ở hướng thứ yếu, Quân giải phóng Quân khu 6 mở chiến dịch tấn công đồn bót của quân ngụy ở Hoài Đức, Tánh Linh...


Thực hiện chiến dịch, Quân giải phóng tấn công ấp chiến lược Bình Giã, chi khu quân sự Đức Thạnh (2-12-1964), chi khu quân sự Đất Đỏ, chi khu Xuyên Mộc, căn cứ huấn luyện biệt kích Vạn Kiếp (7-12-1964). Đó là những căn cứ quân sự quan trọng ở Bà Rịa được chính quyền Sài Gòn bố trí ở mỗi chi khu từ một đại đội đến một tiểu đoàn bảo an và vòng ngoài là hệ thống đồn bót của lực lượng dân vệ, phòng vệ dân sự. Ngoài ra, chính quyền Sài Gòn còn bố trí Tiểu đoàn 36 biệt động quân tại Phú Mỹ; ở Phước Lễ một chi đội xe cơ giới, hai trung đội pháo 105 ly và các tiểu đoàn 30, 35, 33 biệt động, Tiểu đoàn 3 thủy quân lục chiến, một lữ đoàn dù, một trung đoàn xe M113 thuộc Quân đoàn 3 ngụy... tạo nên tuyến phòng ngự vững chắc kết nối Bà Rịa với Long Khánh với đường số 1. Có thể nói, đây là tuyến phòng ngự có tầm chiến lược quân sự quan trọng đối với thủ phủ Sài Gòn.


Để thực hiện Chiến dịch Bình Giã, Bộ Chỉ huy Miền huy động khoảng 7.000 quân, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích1 (Gồm 2 trung đoàn bộ binh chính quy 1 và 2 (Q761, Q762), Đoàn 80 pháo binh (bốn tiểu đoàn), 2 tiểu đoàn chủ lực Quân khu miền Đông (Tiểu đoàn 500, Tiểu đoàn 800), 1 tiểu đoàn Quân khu 6 (Tiểu đoàn 186) cùng với lực lượng bộ đội địa phương tỉnh (Đại đội 445 của Bà Rịa), huyện và du kích các xã). Sau khi ấp chiến lược Bình Giã bị Quân giải phóng đánh chiếm, chính quyền Sài Gòn đã sử dụng Tiểu đoàn 38 biệt động, Chi đoàn 3 thiết giáp, trực thăng chiến đấu... đổ quân xuống tây nam Đức Thạnh, tái chiếm ấp chiến lược Bình Giã; mở cuộc hành quân Bình Tuy 33 càn quét giải tỏa dọc lộ số 2, đoạn từ Bình Giã đến Đức Thạnh...


Ngày 27-12-1964, Quân giải phóng tiếp tục mở Chiến dịch Bình Giã đợt 2. Để đối phó, chính quyền Sài Gòn phải huy động 24 máy bay lên thẳng vũ trang, 50 máy bay lên thẳng chở Tiểu đoàn 33 biệt động quân từ Biên Hòa đổ xuống đông bắc ấp Bình Giã. Tiếp đó, chính quyền Sài Gòn tổ chức cuộc hành quân Hùng Vương 2 với 2.000 quân, bao gồm lính dù, thủy quân lục chiến, thiết giáp, máy bay lên thẳng... đổ xuống Bình Giã với hy vọng đẩy lùi Quân giải phóng (1-1-1965)...


Ngày 3-1-1965, Chiến dịch Bình Giã kết thúc. Quân lực Việt Nam Cộng hòa thiệt hại nặng: Tiểu đoàn 33 biệt động quân, Tiểu đoàn 4 thủy quân lục chiến, Chi đoàn 3 M113 thuộc Thiêt đoàn 1, hai đoàn xe cơ giới, ba tiểu đoàn biệt động quân (30, 35, 38 ), 7 đại đội bảo an, các đội dân vệ... bị đánh bại và hầu như tê liệt hoàn toàn. Gần 1.755 binh sĩ chết và bị thương, 193 binh sĩ bị bắt, 45 xe quân sự bị phá hỏng, 56 máy bay các loại bị bắn cháy...1 (Xem Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Sử học: Việt Nam - Những sự kiện lịch sử (1945-1975), Nxb. Giáo dục Hà Nội 2006, tr.264, 265).


Trong cuốn Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn có nhận xét: “Kể từ trận Ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được, đến trận Bình Giã, thì Mỹ thấy sẽ thua ta trong chiến tranh đặc biệt”2 (Lê Duẩn: về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993, tr.185).


Robert S. Mc. Namara - Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phải thú nhận: “Mối thất vọng của Oasinhtơn đối với tình hình quân sự càng tăng lên khi quân đội Sài Gòn bị một cú thất bại trông thấy trong trận đánh ác liệt ở Bình Giã.... Mọi bằng chứng chỉ rõ tình hình sụp đổ cuối cùng của Chính phủ Việt Nam là có thể xảy ra và rõ ràng là có khả năng Việt cộng củng cố một cách thắng lợi quyền lực của họ”3 (Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, t.2, Việt Nam Thông tấn xã phát hành tháng 8-1971, tr.25). “Chúng tôi đã sai lầm sai lầm khủng khiếp. Chúng tôi đã mắc nợ các thế hệ tương lai trong việc giải thích tại sao lại sai lầm như vậy”. “Chúng tôi cũng hoàn toàn đánh giá thấp khía cạnh dân tộc chủ nghĩa trong phong trào Hồ Chí Minh”4 (Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.12 45).


Cuối năm 1964 đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đang trên đà phá sản. Trung ương Cục tiến hành hoạch định kế hoạch “đón thời cơ” tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Kế hoạch đón thời cơ ra đời mang mật danh “X”, địa bàn trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định. Tiếp đó, Trung ương Cục chỉ đạo Quân giải phóng trên chiến trường B2 triển khai đợt hoạt động vũ trang mùa mưa năm 1965, trọng điểm là địa bàn miền Đông Nam Bộ nhằm đánh quỵ hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.


Chiến dịch Sông Bé - Phước Long1 (Sau gọi là Chiến dịch Đồng Xoài) được hoạch định trên một địa bàn rộng lớn gần 1.000km2, gồm hai hướng tấn công chủ yếu đó là hai tỉnh Phước Long, Bình Long2 (Phước Long, Bình Long là khu vực quan trọng, có đường biên giới giáp Campuchia dài 100km nối liền với Nam Tây Nguyên, bao gồm nhiều đường giao thông chiến lược quan trọng). Ngoài ra, Chiến dịch Sông Bé - Phước Long còn mở hướng phối hợp bao gồm các tỉnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa.


Ban Chỉ huy chiến dịch được thành lập do Lê Trọng Tấn - Phó Tư lệnh Miền làm Chỉ huy trưởng, Trần Độ (Chín Vinh) - Phó Chính ủy Miền làm Chính ủy, Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà) - Tư lệnh Khu 6 làm Chỉ huy phó, Lê Văn Tưởng (Lê Chân) - Chủ nhiệm chính trị Miền làm Phó Chính ủy, Lê Xuân Lựu làm Chủ nhiệm chính trị chiến dịch.


Lực lượng phục vụ chiến dịch gồm 3 trung đoàn chủ lực, 1 trung đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn đặc công của Miền, 1 tiểu đoàn chủ lực của Quân khu 6 và lực lượng Quân giải phóng, lực lượng dân quân, du kích trên địa bàn các tỉnh thực hiện chiến dịch. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng quân ngụy gồm 9 tiểu đoàn chủ lực, 3 tiểu đoàn biệt động, 2 tiểu đoàn bảo an, 7 đại đội bảo an, 21 đại đội biệt kích và lực lượng tổng trù bị.


Sau 64 ngày đêm (từ ngày 11-5-1965 đến ngày 20-7-1965), Quân giải phóng đã mở 3 đợt hoạt động, gồm 16 trận đánh lớn, 4 trận tiến công công sự. Tuyến phòng thủ vòng ngoài của quân lực Việt Nam Cộng hòa phía bắc Sài Gòn bị xuyên thủng. Quân giải phóng đã chiếm và bám trụ nhiều ngày tại chi khu quân sự Đồng Xoài - một trong những cứ điểm trọng yếu của khu tứ giác Đồng Xoài - Phước Long - Chơn Thành - Bình Long1 (Kết quả thực hiện chiến dịch, Quân giải phóng đánh quỵ hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn chủ lực số 5, Tiểu đoàn dù số 7, một tiểu đoàn thiết giáp, 24 đại đội bộ binh, 6 chi đội thiết giáp, 4 phân đội kỹ thuật của quân lực Việt Nam Cộng hòa).


Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Nghị quyết của Trung ương Cục về nhiệm vụ cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới, Quân giải phóng miền Nam vừa xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang tập trung trong hệ thống vũ trang ba thứ quân, vừa khôi phục hệ thống tổ chức quân sự từ Miền xuống đến các quân khu, tỉnh, huyện, thiết lập hệ thống chỉ huy quân sự thông suốt trên toàn chiến trường B2, xây dựng căn cứ địa và hệ thống bảo đảm hậu cần - kỹ thuật. Trong giai đoạn này, Quân giải phóng đã xây dựng thành công các đơn vị chủ lực đến cấp trung đoàn, vận động hàng nghìn thanh niên lên miền Đông xây dựng các trung đoàn chủ lực của Miền, xây dựng các tiểu đoàn mũi nhọn đứng chân ở vùng ven, các đơn vị biệt động hoạt động ngay trong lòng các đô thị, nhất là ở thành phố Sài Gòn.


Vừa xây dựng, Quân giải phóng B2 vừa chủ động tổ chức những trận đánh lớn xuất sắc (trận pháo kích sân bay Biên Hòa, các trận đánh trong Chiến dịch Bình Giã, trận tiêu diệt cứ điểm chi khu Đồng Xoài); huấn luyện bộ đội thực hành thông thạo các chiến thuật tập kích, vận động phục kích, đánh công kiên và sử dụng pháo binh đánh độc lập, góp phần đánh bại các chiến thuật “trực thăng vận” (“Phượng hoàng bay”), “thiết xa vận” của địch. Từ sau cao trào Đồng khởi, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện không ngừng lớn mạnh và ngày càng giữ vai trò quan trọng trong phong trào chiến tranh du kích phát triển khắp các địa phương, hỗ trợ cho nhân dân phá rã, phá banh ấp chiến lược của địch, giải phóng nhiều dân và đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long. Từ phục kích, tiến công nhỏ lẻ hồ trợ phong trào đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng đến những trận đánh vận động tập kích, tiến công với quy mô cấp tiểu đoàn, trung đoàn, những chiến dịch cấp liên trung đoàn, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã góp phần không nhỏ vào nỗ lực chung đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy. Chiến thắng Ấp Bắc, chiến thắng Bình Giã, chiến thắng Đồng Xoài... không chỉ là những sự kiện đánh dấu bước trưởng thành của Quân giải phóng trên chiến trường B2 mà còn mở ra khả năng Quân giải phóng có khả năng đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch tạo ra thế chiến lược mới cho các hoạt động chính trị, quân sự những năm tiếp theo.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:22:08 am
Chương hai
QUÂN GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
TRONG GIAI ĐOẠN CHỐNG CHIẾN LƯỢC
“CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA MỸ
(1965 - 1968)


I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2

1. Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chủ trương của Đảng trên chiến trường B2

Thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” minh chứng rằng, Quân giải phóng trên chiến trường B2 phát triển nhanh chóng, đã góp phần “làm khuynh đảo 1/2 Nam Việt Nam”. Tình hình trở nên “nghiêm trọng và sẽ nghiêm trọng hơn nữa, quân đội Việt Nam Cộng hòa không đủ sức đương đầu với Việt cộng, tương quan lực lượng ở mức báo động, quyền chủ động đã về tay cộng sản”1 (Xem: Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Phòng tổng kết địch thuộc Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1984, tr.131). Tại nước Mỹ, phong trào chống chiến tranh xuất hiện, nội bộ chính quyền Mỹ phân hóa sâu sắc vì cuộc chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi trúng cử Tổng thông Mỹ, trong Thông điệp liên bang đầu năm 1965, Johnson vẫn tuyên bố: “Mỹ phải có mặt ở Nam Việt Nam vì nước bạn yêu cầu, vì phải giữ cam kết mười năm trước đây, vì an ninh của bản thân nước Mỹ và hòa bình ở châu Á”1 (Xem: Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Phòng tổng kết địch thuộc Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1984, tr.133).


Ngày 1-4-1965, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ quyết định triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam. Ngày 13-6-1965, tướng Westmoreland đề nghị tăng cường lực lượng quân đội và đòi được quyền tự do điều động quân đội Mỹ sang tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam2 (Lúc bấy giờ, giới cầm quyền Mỹ hình thành 3 phái: Phái đòi mở rộng chiến tranh gồm các tướng lĩnh Mỹ, tiêu biểu Westmoreland...; Phái dao động lừng chừng như Mc. Namara, Taylo, Bandy...; Phái chống mở rộng chiến tranh, đại diện là Goorge Ball, Aloxis Johnson...). Trên cơ sở đề xuất của tướng Westmoreland, ngày 17-7-1965, Tổng thống Johnson chính thức cho phép áp dụng chiến lược “chiến tranh cục bộ” trên chiến trường miền Nam Việt Nam với bản kế hoạch quân sự “tìm diệt”, “tìm diệt và bình định” “ba giai đoạn”3 (Giai đoạn 1 (từ tháng 7 đến tháng 12-1965): đưa nhanh lực lượng quân Mỹ, quân chư hầu vào miền Nam Việt Nam để ngăn chặn chiều hướng thua; gấp rút triển khai lực lượng, chuẩn bị tiến hành phản công chiến lược. Giai đoạn 2 (từ tháng 1-1966 đến tháng 6-1966): hành quân “tìm diệt” Quân giải phóng, phá chiến tranh du kích, giành quyền chủ động trên chiến trường, hỗ trợ cho chương trình “bình định”. Giai đoạn 3 (từ tháng 7-1966 đến cuối 1967): Tiến công tiêu diệt những đơn vị Quân giải phóng và những căn cứ du kích còn lại, tiêu diệt cơ quan lãnh đạo cuộc kháng chiến ở miền Nam, hoàn tất chương trình “bình định”).


Để thực hiện bản kế hoạch trên, Mỹ lần lượt điều động quân đội sang miền Nam Việt Nam, đưa tổng số quân Mỹ từ 184.314 (năm 1965), lên 410.000 (năm 1966), 485.600 (năm 1967)...; bao gồm: Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3, Sư đoàn bộ binh số 1 (Anh cả đỏ), Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Sư đoàn bộ binh số 4, Sư đoàn bộ binh số 25 (Tia chớp nhiệt đới), Sư đoàn dù 101 (Thiên thần mũ đỏ), Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp số 11. Ngoài ra, Mỹ còn huy động 72.600 quân của các nước Đồng minh phụ thuộc Mỹ, bao gồm 2 sư đoàn + 1 lữ đoàn lính Nam Triều Tiên; 1 sư đoàn + 1 trung đoàn lính Thái Lan; 1 tiểu đoàn công binh + 2 đội cố vấn chiến tranh tâm lý Philíppin; 1 trung đoàn + 1 tàu khu trục và 1 phi đội máy bay Úc; 2 đại đội bộ binh + 1 đại đội pháo binh Niu Dilan. Tính đến năm 1968, trên toàn miền Nam có 767.000 quân viễn chinh Mỹ và Đồng minh cùng với 818.000 quân ngụy1 (Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 (đến Việt Nam tháng 3-1965); Sư đoàn bộ binh số 25 (Sư đoàn Tia chớp nhiệt đới đến Việt Nam tháng 4-1966); Sư đoàn kỵ binh bay số 1 (đến Việt Nam tháng 9-1965); Sư đoàn bộ binh số 1 (Sư đoàn Anh cả đỏ đến Việt Nam tháng 10-1965); Sư đoàn dù số 101 (đến Việt Nam tháng 11-1967, riêng Lũ đoàn dù số 1 đến từ năm 1965); Sư đoàn bộ binh số 9 (đến Việt Nam tháng 12-1966); Sư đoàn bộ binh số 4 (đến Việt Nam tháng 9-1966); Sư đoàn bộ binh số 23 (đến Việt Nam tháng 9-1967). Đối với quân Đồng minh: 2 sư đoàn + 1 lữ đoàn lính Nam Triều Tiên (sang Việt Nam từ tháng 9-1964); 1 sư đoàn + 1 trung đoàn lính Thái Lan (sang Việt Nam từ tháng 7-1966); 1 trung đoàn + 1 tàu khu trục và 1 phi đội máy bay Úc (sang Việt Nam từ tháng 9-1964); 1 tiểu đoàn công binh + 2 đội cố vấn chiến tranh tâm lý Philíppin (sang Việt Nam từ tháng 4-1965); 2 đại đội bộ binh + 1 đại đội pháo binh Niu Dilân (sang Việt Nam từ tháng 7-1965)).


Mỹ vẫn coi chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ là chiến trường chính (trong đó miền Đông Nam Bộ là chiến trường trọng điểm) để thực hiện chiến lược “tìm diệt Quân giải phóng; Tây Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ là chiến trường bổ trợ, công tác bình định là trung tâm. Do vậy, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, Mỹ tập trung một số lượng lớn quân tinh nhuệ, mở các cuộc hành quân tìm diệt nhằm tạo vành đai an ninh xung quanh Sài Gòn. Ở đồng bằng sông Cửu Long và cực Nam Trung Bộ, Mỹ chủ yếu sử dụng lực lượng quân ngụy mở các cuộc càn quét, bình định, vơ vét tài lực, vật lực cung cấp cho cuộc chiến tranh.


Để bảo đảm sự thành công của chiến lược “chiến tranh cục bộ” trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Mỹ gấp rút củng cố hệ thống căn cứ quân sự trên cả 4 vùng chiến thuật vốn đã được chính quyền Sài Gòn phân chia trước đó. Đặc biệt là việc xây dựng, củng cố hệ thống căn cứ quân sự trên các địa bàn chiến lược như Sài Gòn, Biên Hòa, Phan Rang, Chu Lai, Cam Ranh, Đà Nẵng...


Tính đến cuối năm 1965, hầu hết ở các tỉnh trên toàn miền Nam Việt Nam (đặc biệt là chiến trường B2), Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã xây dựng được hệ thống căn cứ quân sự, đồn bót, sân bay dã chiến để phục vụ cho việc trinh thám, vận tải, đổ quân...


Trước sự leo thang chiến tranh của Mỹ, tháng 3-1965, Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị lần thứ 11 (từ ngày 25 đến ngày 27-3-1965) nhận định tình hình và bàn thảo phương hướng, chiến lược, sách lược chuẩn bị sẵn sàng đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.


Ngày 2-8-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.14, tr.577). Ngày 3-8-1965, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố": "Thà chết chứ không chịu làm nô lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc...”2 (Trích theo Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.374).


Ngày 27-12-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị lần thứ 12, đề ra quyết tâm “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thảnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Vản kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.634)...


Trên chiến trường B2, bước vào năm 1965, lực lượng vũ trang ba thứ quân có mặt trên cả ba vùng chiến lược, thế trận chiến tranh nhân dân hình thành rộng khắp. Tuy nhiên, từ những bài học kinh nghiệm rút ra được từ Chiến dịch Bình Giã, Chiến dịch Đồng Xoài..., Bộ Chính trị nhận ra rằng, Quân giải phóng cấp Miền, cấp Quân khu trên chiến trường miền Nam, trên chiến trường B2 số lượng còn ít, chất lượng thấp, chưa có những đơn vị chủ lực đủ sức để tạo nên những “quả đấm thép” nhằm giành ưu thế quân sự trên chiến trường. Quân giải phóng địa phương cấp tỉnh, huyện còn mỏng, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, tác chiến trong chiến đấu còn yếu, khả năng giành chiến thắng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày càng cao của cuộc chiến tranh cách mạng. Công tác hậu cần luôn luôn bị động, đặc biệt là việc cung cấp vũ khí, đạn dược và lương thực, thực phẩm. Công tác chính trị, công tác đảng trong quân đội còn nhiều bất cập... Tất cả những yếu tố đó đang tác động xấu đến tình hình chiến đấu của Quân giải phóng khi phải đương đầu với quân đội Mỹ vừa thiện chiến, vừa được trang bị vũ khí và thiết bị chiến tranh vượt trội.


Trước tình hình đó, ngày 12-7-1965, Bộ Chính trị gửi điện văn cho Trung ương Cục miền Nam, chỉ đạo kiện toàn tổ chức nhân sự Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền, đồng thời chỉ đạo xây dựng, phát triển lực lượng Quân giải phóng trên chiến trường B2. Theo đó, Quân ủy Miền được kiện toàn gồm: Nguyễn Chí Thanh (Xuân, Sáu Di, Trường Sơn) - Ủy viên Bộ Chính trị làm Bí thư; Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) làm Phó Bí thư; Phạm Văn Xô, Trần Văn Trà, Trần Độ, Chu Huy Mân Nguyễn Đôn là Ủy viên. Bộ Chỉ huy Miền do Phạm Hùng làm Chính ủy kiêm Tư lệnh; Trần Văn Trà, Trần Độ, Phạm Văn Xô, Nguyễn Thị Định, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hữu Xuyến, Đồng Văn Cống, Nguyễn Đôn, Chu Huy Mân, Nguyễn Văn Mùi (Nguyễn Minh Đường) làm Phó Tư lệnh; Lê Đức Anh làm Tham mưu trưởng1 (Đến khi chuẩn bị Tổng công kích - tổng khởi nghĩa năm 1968 Phó Thủ tướng Phạm Hùng mới vào chiến trường B2. Được sự đồng ý của Bộ Chính trị (theo đề nghị của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh), trong khi Phạm Hùng chưa tới chiến trường, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh với cương vị là Phái viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư Quân ủy giữ chức vụ Chính ủy Miền và Trần Văn Trà giữ chức vụ Tư lệnh Miền. Chu Huy Mân, Nguyễn Đôn vẫn tiếp tục công tác ở chiến trường Quân khu 5. Nguyễn Thị Định đựợc phân công phụ trách công tác dân quân. Phạm Văn Xô phụ trách Hội đồng cung cấp. Nguyễn Văn Mùi, Ủy viên Trung ương Cục kiêm Bí thư Khu ủy Khu 8. Đồng Văn Cống kiêm Tư lệnh Quân khu 9).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:25:04 am
2. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1965-1968

Sau Hội nghị tổng kết Chiến dịch Đồng Xoài (tháng 9-1965), thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, Trung ương Cục chỉ đạo Bộ Chỉ huy Miền thành lập các sư đoàn quân chủ lực.

Ngày 2-9-1965 tại Chiến khu Đ, Sư đoàn 9 chính thức được thành lập, gồm Trung đoàn 1 (Trung đoàn Bình Giã), Trung đoàn 2 (Trung đoàn Đồng Xoài) và Trung đoàn 4 vừa được tổ chức từ Quân giải phóng địa phương của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tăng cường. Sư đoàn 9 do Hoàng Cầm làm Sư đoàn trưởng, Lê Văn Tưởng làm Chính ủy.


Tháng 9-1965, Bộ Chỉ huy Miền thành lập các đoàn hậu cần 85, 86, 87 và một số tiểu đoàn bộ binh, trinh sát (D47), cơ giới (D711), các đại đội đặc công, hóa học và 8 trường huấn luyện quân sự, bệnh viện K77B, K97...


Ngày 15-10-1965, Đoàn 80 pháo binh được bổ sung lực lượng, trang bị thêm vũ khí, phát triển thành một đơn vị tương đương cấp sư đoàn mang phiên hiệu Đoàn 69 pháo binh, còn gọi là Đoàn pháo binh Biên Hòa.


Ngày 23-11-1965, tại căn cứ tỉnh Bà Rịa, Sư đoàn 5 chính thức ra mắt, gồm Trung đoàn 4 (Trung đoàn Đồng Nai) và Trung đoàn 51 (Tháng 5-1965, tại Chiến khu Dương Minh Châu, trên cơ sở chi viện của các tỉnh miền Tây, Trung đoàn 5 Miền được thành lập do Nguyễn Thới Bưng làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Văn Cúc làm Chính ủy. Địa bàn hoạt động: Bà Rịa - Long Khánh). Sư đoàn 5 do Nguyễn Hòa làm Sư đoàn trưởng, Lê Xuân Lựu làm Chính ủy2 (Tuy có cùng một quyết định thành lập (tức cùng ngày) nhưng Sư đoàn 9 và 5 chọn hai ngày chính thức ra mắt khác nhau và lấy đó làm ngày truyền thống).


Trên cơ sở lực lượng được Bộ Quốc phòng bổ sung cho B2 gồm 6.892 cán bộ, chiến sĩ và 880 tấn vũ khí, trang thiêt bị quân sự (có 42.906 súng các loại)3 (Để bảo đảm đánh thắng Mỹ ở miền Nam, Hội nghị Quân ủy Trung ương tháng 2-1966 đã xác định: “ưu tiên cho miền Nam, kiên quyết thực hiện mọi kế hoạch đối với miền Nam”. Năm 1966, phát triển lực lượng vũ trang tập trung lên khoảng 27 đến 30 vạn, khoảng 30 đến 35 trung đoàn quân chủ lực (trong đó có 7 sư đoàn và trên 51 tiểu đoàn quân địa phương), dân quân du kích phát triển từ 21 vạn lên 30 vạn. Miền Bắc phải chuẩn bị thêm 80.000 quân để chi viện bảo đảm cho miền Nam có tổng quân số lên 30 vạn, xác định phải theo kế hoạch năm 1965 chi viện là 2.840 tấn), năm 1966 Bộ Chỉ huy Miền tiếp tục chỉ đạo các đơn vị tập trung phát triển lực lượng, “chủ yếu là kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng các đơn vị đã có và tiếp thu thật tốt lực lượng mới từ miền Bắc vào. Đối với khối chủ lực, chú trọng xây dựng sư đoàn, nhưng chủ yếu là từng trung đoàn đánh cho thật tốt. Phát triển các binh chủng, nhất là đặc công và công binh đánh giao thông”4 (Quân ủy Miền - Tổng kết xây dựng lực lượng vũ trang trong năm 1966 - Hồ sơ 1831/QL, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7). Hàng nghìn tân binh tuyển tại chỗ từ các địa phương. Số tân binh mới tuyển và các đơn vị mới từ miền Bắc vào được bổ sung cho các đơn vị, đồng thời dành mọi ưu tiên về vật chất, tinh thần cho bộ đội giải phóng nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu1 (Quân ủy Miền - Tổng kết xây dựng lực lượng vũ trang trong năm 1966 - Hồ sơ 1831/QL, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Cũng năm 1966, Bộ Quốc phòng tăng cường cho chiến trường B2 Trung đoàn bộ binh 16 thuộc Sư đoàn 3252 (Trung đoàn 16 nguyên là Trung đoàn 101A đã từng tham gia chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên), Trung đoàn pháo hỏa tiễn ĐKB 84A3 (Quân ủy Miền - Tổng kết xây dựng lực lượng vũ trang trong năm 1966 - Hồ sơ 1831/QL, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7), Tiểu đoàn pháo tổng hợp 20 từ chiến trường Tây Nguyên về và Trung đoàn bộ binh 141, Trung đoàn bộ binh 165 thuộc Sư đoàn 312 và Trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 320 từ miền Bắc vào4 (Đây là những trung đoàn đã lập nhiều chiến công xuất săc, được tặng danh hiệu “Ba Vì anh dũng” (Trung đoàn 141), “Thành đồng biên giới” (Trung đoàn 165), “Tây tiến” (Trung đoàn 52)). Trên cơ sở đó, Trung đoàn 16 được tăng cường cho Sư đoàn 95 (Lúc bấy giờ Trung đoàn 3 được tách khỏi đội hình Sư đoàn 9 để nhận nhiệm vụ mới là luồn sâu, hoạt động độc lập trong lòng địch), Trung đoàn pháo hỏa tiễn ĐKB 84A6 (Quân ủy Miền - Tổng kết xây dựng lực lượng vũ trang trong năm 1966 - Hồ sơ 1831/QL, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7)và Tiểu đoàn pháo tổng hợp 20 được tăng cường cho Đoàn pháo binh 69.


Ngày 13-6-1966, tại vùng căn cứ tỉnh Phước Long, trên cơ sở 3 trung đoàn bộ binh (141, 165, 52) mới được tăng cường từ miền Bắc vào, Bộ Chỉ huy Miền công bố quyết định thành lập Sư đoàn bộ binh 77 (Lúc mới thành lập, Sư đoàn 7 có ba trung đoàn, gồm: Trung đoàn 141 (mật danh là Q.14), Trung đoàn 165 (mật danh là Q.12) và Trung đoàn 52. Một thời gian sau, khi Trung đoàn 52 chuyển đi nam Trường Sơn nhận nhiệm vụ mới, Bộ Chỉ huy Miền tăng cường cho Sư đoàn thêm Trung đoàn 16. Cuối năm 1966, Trung đoàn 16 lại được điều chuyển về Sư đoàn 9. Đến cuối năm 1968, Trung đoàn 209 (Trung đoàn Sông Lô) thuộc Sư đoàn 312 được điều động tiếp vào chiến trường B2 và đứng chân trong đội hình Sư đoàn 7. Lúc này biên chế của Sư đoàn 7 mới ổn định, bao gồm Trung đoàn 141, Trung đoàn 165, Trung đoàn 209). Bộ Chỉ huy gồm có: đồng chí Nguyễn Hòa  làm Sư đoàn trưởng, Dương Thanh (Dương Cự Tẩm) làm Chính ủy, Nguyễn Hải (Hoàng Anh Tuân) làm Sư đoàn phó, Nguyễn Dũng làm Chủ nhiệm chính trị, Nguyễn Huỳnh Ngân (Ba Vinh) làm Chủ nhiệm hậu cần.


Tháng 6-1966, bộ đội giải phóng Đặc khu Rừng Sác được thành lập, biên chế tương đương cấp trung đoàn, trực thuộc Bộ Tham mưu Miền, do đồng chí Lương Văn Nho làm Đặc khu trưởng kiêm Chính ủy. Đơn vị là lực lượng được huấn luyện đặc biệt, có khả năng tham chiến cả trên bộ lẫn dưới nước, nên được gọi là Trung đoàn đặc công Rừng Sác, hay còn gọi là Đoàn 10 đặc công. Bộ đội giải phóng Đặc khu Rừng Sác có nhiệm vụ án ngữ sông Lòng Tàu, đồng thời bí mật luồn sâu đánh phá hệ thống kho tàng của đối phương ở phía đông nam Sài Gòn.


Đến cuối năm 1967, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Bộ Quốc phòng tăng cường cho chiến trường B2 hai trung đoàn pháo hỏa tiễn 96 và 208. Đoàn pháo binh 69 Miền lúc bấy giờ có đủ ba trung đoàn hỏa tiễn, hai tiểu đoàn cối, ĐKZ, hai tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 ly và 14,5 ly và hai khung đơn vị bao gồm đơn vị lái xe tăng thiết giáp và đơn vị cơ giới để sẵn sàng tiếp quản xe, pháo của đối phương.


Trước khi bước vào Chiến dịch Mậu Thân, Quân giải phóng chủ lực của Miền gồm có 3 sư đoàn bộ binh (5, 7, 9), Đoàn pháo 69 (gồm 2 trung đoàn ĐKB và cối 120 ly, 2 tiểu đoàn cao xạ 12,8 ly), 1 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn công binh 1 trung đoàn thông tin, 2 tiểu đoàn trinh sát và một số đơn vị binh chủng...


Công tác hậu cần được đặc biệt chú trọng, “kiên quyết bảo vệ đường hành lang chiến lược, giữ vững các đường chi viện khác... Trong mọi tình huống cần giữ vững và tận dụng những khả năng thuận lợi về chính trị và kinh tế của K đối với cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân ta ở miền Nam...”1 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 5-1981). Các đoàn hậu cần 81, 82, 83, 84, 85, 86, 87 được nâng lên thành cấp trung đoàn, nối liền với tuyến các binh trạm vận tải, thực hiện tốt việc tiếp nhận hàng từ các đoàn 962, 559 và K.20...


Trang thiết bị, vũ khí, đạn dược phục vụ cho Chiến dịch Mậu Thân trong nội thành Sài Gòn đã được giao liên chuyển vào trước đó, cất giấu trong 6 kho bí mật bố trí ngay sát các mục tiêu quan trọng. Kho tại nhà anh Mười (gần Bộ Tư lệnh Hải quân), kho tại nhà anh Trần Phú Cương (gần Đài Phát thanh), kho tại nhà anh Bảy Rau Muống (ở Bàn Cờ), kho tại nhà anh Tám Sơn (gần Tòa Đại sứ Mỹ), kho tại nhà anh Năm Bắc (gần bót Hàng Xanh), kho tại nhà anh Lai (gần Dinh Độc Lập)2 (Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Thành phố HỒ Chí Minh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, t.2, tr.225).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:26:31 am
Từ đầu năm 1965, bộ đội các quân khu, tỉnh, huyện cũng được củng cố, tổ chức lại để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.

Bước vào giai đoạn Mỹ triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ”, trên địa bàn Quân khu 9 có 2 trung đoàn đã được thành lập trước đó. Tháng 6-1966, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ thị giải thể trung đoàn bộ binh và pháo binh, chỉ duy trì 3 tiểu đoàn bộ binh (303, 306, 309) và 1 tiểu đoàn pháo hỗn hợp mang phiên hiệu 231 do Thiện làm Tiểu đoàn trưởng, Lê Diên làm Chính trị viên. Tiểu đoàn pháo 231 được biên chế 1 đại đội DKZ 75, 1 đại đội cối, 1 đại đội cao xạ. Số chiến sĩ thuộc Trung đoàn pháo còn lại chuyển sang bộ binh hoặc các ngành khác và tăng cường cho địa phương. Tuy nhiên, về thực chất, phần lớn là giải ngũ. Điều băn khoăn là lực lượng cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn pháo của Khu 9 phần lớn cán bộ pháo được huấn luyện cơ bản ở miền Bắc, là một trung đoàn rất mạnh, nổi tiếng với những trận đánh bắn rơi nhiều máy bay như trận Chà Là, Ba Quân, Ngã Cạy, Ngã Năm Bình Minh1 (Giữa Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 không thống nhất với nhau về chủ trương, phương châm, phương thức tổ chức, sử dụng lực lượng vũ trang trên địa bàn quân khu. Điều này ảnh hưởng đến việc xây dựng, phát triển lực lượng Quân giải phóng. Sự thiếu thống nhất này kéo dài mãi đến năm 1970 mới chấn chỉnh được)...


Cuối năm 1966, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 chuyển Tiểu đoàn 306 chủ lực Khu qua sông Hậu làm nòng cốt, tạo thế, xây dựng phát triển lực lượng, tăng cường hoạt động vũ trang trên địa bàn Vĩnh Long, Trà Vinh, mở mặt trận Vĩnh - Trà. Do vậy, trong năm 1967, lực lượng chủ lực Khu 9 chỉ còn 2 tiểu đoàn bộ binh 303, 309 và Tiểu đoàn pháo 231. Do lực lượng yếu và phải liên tục chống các cuộc càn quét trên chiến trường Cần Thơ, Rạch Giá nên quân số của hai tiểu đoàn bị hao hụt dần, không phát huy được vai trò nòng cốt cho phong trào đấu tranh chính trị. Trước thực trạng đó, tháng 9-1967, Quân khu 9 thành lập thêm Tiểu đoàn 307 và khung Tiểu đoàn 308 tăng cường cho mặt trận Vĩnh - Trà. Tiểu đoàn 307 do đồng chí Ba Phương chỉ huy; sau khi đồng chí Phương hy sinh, Bùi Quang Đơ làm Tiểu đoàn trưởng.


Cuối năm 1967, chuẩn bị cho Chiến dịch Mậu Thân năm 1968, Quân khu 9 thành lập 1 lữ đoàn gồm 5 tiểu đoàn: 307, 303, 309, Tiểu đoàn Tây Đô và Tiểu đoàn 2311 pháo binh độc lập. Đồng chí Chín Hiền được cử làm Lữ đoàn trưởng, Võ Thành Tôn (Ba Tôn) làm Lữ đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng, Bùi Sáng làm Lữ đoàn phó phụ trách hậu cần.


Sau đợt I Tết Mậu Thân năm 1968, quân số của lữ đoàn hao hụt. Do vậy Quân khu 9 quyết định giải tán lữ đoàn, tổ chức lại thành 2 trung đoàn, thành lập thêm Tiểu đoàn 962 và trả Tiểu đoàn Tây Đô về tỉnh. Lúc bấy giờ Trung đoàn 1 gồm tiểu đoàn 303, 307, do đồng chí Ba Tôn làm Trung đoàn trưởng. Trung đoàn 2 gồm Tiểu đoàn 309, 962, do Trần Tứ Phương (Kiên Cường) làm Trung đoàn trưởng.


Trên địa bàn Quân khu 8, bước vào năm 1965, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu thống nhất chỉ đạo củng cố, phát triển lực lượng vũ trang chuẩn bị “đón tiếp” lực lượng quân viễn chinh Mỹ “sẽ đến trên chiến trường Khu 8”.


Để chủ động thế tấn công trên chiến trường, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định đưa 3 tiểu đoàn (261, 263, 265), 2 đại đội đặc công (312, 314), 1 đại đội trợ chiến, 1 đại đội phòng không về chiến trường trọng điểm Mỹ Tho; điều động 2 tiểu đoàn bộ binh (267, 269) về chiến trường Long An. Ngoài ra, Bộ Tư lệnh Quân khu còn tăng cường, kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy các tiểu đoàn, ban chỉ huy các tỉnh đội và ban chỉ huy các đại đội binh chủng độc lập.


Đến năm 1967, để chuẩn bị cho Chiến dịch Mậu Thân năm 1968, địa bàn và Quân giải phóng tỉnh Long An do Bộ Chỉ huy Miền quản lý tham gia thành lập các phân khu phục vụ chiến trường trọng điểm. Do vậy, trên địa bàn Quân khu 8 còn lại 5 tiểu đoàn bộ binh, 3 đại đội đặc công, 4 đại đội công binh, 2 đại đội cối 82, 1 đại đội cối 120, 3 đại đội ĐKZ75, 2 đại đội 12,8 ly gồm 15.332 chiến sĩ (tính cả Quân giải phóng địa phương)1 (Chưa tính lực lượng vũ trang tập trung tỉnh Long An).


Đến cuối năm 1967, trước khi Chiến dịch Mậu Thân xảy ra, Quân khu 8 thành lập thêm 2 tiểu đoàn (265, 267) và điều động lên Khu số tiểu đoàn từ tuyến tỉnh (Tiểu đoàn 514A Mỹ Tho, Tiểu đoàn 514 Kiến Tường). Trên cơ sở đó, Quân khu tổ chức lực lượng Quân giải phóng thành 2 chiến đoàn: Chiến đoàn 1 gồm các tiểu đoàn 261A, 261B, 514A do đồng chí Sáu Quang làm Chiến đoàn trưởng, đồng chí Tư Nam làm Chính ủy. Chiến đoàn 2 gồm các tiểu đoàn 263, 265, 267 do đồng chí Vũ Mạnh làm Chiến đoàn trưởng, đồng chí Tư Hiệp làm Chính ủy1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.613). Sau đợt I Tết Mậu Thân, cũng do quân số hao hụt lớn, Bộ Tư lệnh Quân khu 8 quyết định giải tán 2 chiến đoàn, tổ chức lại thành 2 trung đoàn.


Ở cấp tỉnh như Đồng Tháp, Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Phong, Kiến Tường, Long An, các tiểu đoàn thành lập trước đó được kiện toàn, ở cấp huyện, mỗi huyện vẫn duy trì được từ 1 đến 2 đại đội... Riêng Long An, ngoài 2 tiểu đoàn được Quân khu tăng cường, đến tháng 10-1966, tỉnh kiện toàn 2 tiểu đoàn của tỉnh thành những tiểu đoàn mạnh, trong đó Tiểu đoàn Long An 1 biên chế 600 chiến sĩ, Tiểu đoàn Long An 2 biên chế 350 chiến sĩ.


Năm 1967, mỗi tỉnh trên địa bàn Khu 8 đều đã xây dựng được 1 tiểu đoàn bộ binh (riêng tỉnh Bến Tre có đến 2 tiểu đoàn) và các phân đội, đại đội đặc công, công binh, biệt động...

Tại tỉnh Bến Tre, đến cuối năm 1967, sau khi tăng cường cho Quân khu 1 tiểu đoàn, cho Bộ Chỉ huy Miền 1 tiểu đoàn, hầu như ngay lập tức, tỉnh đã xây dựng lại 2 tiểu đoàn mới.

Tại tỉnh Mỹ Tho, sau khi đã tăng cường Tiểu đoàn 514A cho Quân khu và Tiểu đoàn 514B cho Gò Công cũng gấp rút thành lập thêm Tiểu đoàn 514C phụ trách tấn công địa bàn trọng điểm của tỉnh (thị trấn Cai Lậy). Tháng 10-1967, Quân khu đưa cán bộ pháo binh về tỉnh huấn luyện và lấy 3 đại đội 516, 518 và 530 để thành lập Tiểu đoàn 309 pháo binh do Trần Lan làm Tiểu đoàn trưởng, Lê Quế làm Chính trị viên.


Tỉnh Kiến Tường xây dựng được 2 đại đội phụ trách tấn công thị xã Mộc Hóa sau khi tăng cường Tiểu đoàn 514 cho Quân khu. Tỉnh Kiến Phong xây dựng được 2 tiểu đoàn. Tỉnh An Giang xây dựng được 2 tiểu đoàn, 1 liên đội để làm nhiệm vụ ở vùng Hòa Hảo.


Ở cấp huyện, trên địa bàn Khu 8, đầu năm 1967, bình quân mỗi huyện đều xây dựng được 1 đại đội (như các tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho), hoặc có từ 1 đến 2 trung đội (như các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, An Giang). Tuy nhiên, đến cuối năm 1967, Quân giải phóng cấp huyện tăng nhanh chóng, có huyện tăng gấp đôi, gấp ba. Điển hình như các huyện thuộc tỉnh Bến Tre, An Giang...


Trên địa bàn rừng núi, Quân khu 6 có 1 trung đoàn Quân giải phóng. Ngoài ra, lực lượng đặc công, biệt động của các quân khu phát triển nhanh chóng. Tháng 10-1966, Trung ương Cục quyết định thành lập thêm Khu 10 gồm hai tỉnh Quảng Đức, Phước Long của Khu 6 và tỉnh Bình Long của Khu 7 nhằm củng cố hệ thống căn cứ kháng chiến ở vùng rừng núi, mở hành lang chiến lược, phục vụ Quân giải phóng tác chiến.


Trên địa bàn Quân khu Sài Gòn - Gia Định, tính đến đầu năm 1965, Quân khu quản lý 3 tiểu đoàn chủ lực, bao gồm Tiểu đoàn Quyết Thắng, Tiểu đoàn 8 pháo binh, Tiểu đoàn 4 đặc công Gia Định. Lực lượng Quân giải phóng địa phương được kiện toàn và phát triển mạnh, bao gồm Tiểu đoàn 2 Gò Môn, Tiểu đoàn 3 Dĩ An, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 7 Củ Chi.


Tháng 6-1965, Bộ Chỉ huy Quân khu mở Hội nghị quân sự đô thị xác định nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng lực lượng vũ trang nhằm tạo nên những đòn đánh hiểm, sâu vào các cơ quan đầu não của đôì phương ngay trong nội đô Sài Gòn theo “Kế hoạch X” do Trung ương Cục vạch ra.


Hội nghị quyết định xây dựng 5 tiểu đoàn mũi nhọn, phát triển lực lượng biệt động, thành lập các đội vũ trang chiến đấu và xây dựng Trung tâm huấn luyện bí mật (lấy mật danh là Đoàn 165A) tại Lò Gò - Tây Ninh nhằm huấn luyện lực lượng vũ trang, đặc biệt là các tiểu đoàn mũi nhọn. Ban cán sự quân sự nội đô cũng được kiện toàn, do đồng chí Trần Hải Phụng phụ trách. Ngoài ra, Ban cán sự còn có Nguyễn Ngọc Lộc (Tư Quỳ), Nguyễn Văn Cường (Bảy Nam)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:27:42 am
Để thực hiện “Kế hoạch X”, Quân khu quyết định thành lập Đoàn biệt động F100 và bổ nhiệm Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) làm Chỉ huy trưởng, Nguyễn Nhinh (Bảy Dũng) làm Chính trị viên, Trần Minh Sơn (Bảy Sơn) làm Tham mưu trưởng, Nguyễn Hát (Nàm Hát) và Võ Văn Thanh (Sáu Thành) làm Chỉ huy phó.


Sau một thời gian ngắn được thành lập, Đoàn biệt động F100 đã tổ chức được 9 đội biệt động, mang số hiệu từ 3 đến 11, mỗi đội từ 15 đến 20 chiến sĩ. Ngoài ra, Đoàn biệt động F100 còn có 3 đội đặc công - biệt động, hoạt động trên địa bàn vùng ven như khu vực Thủ Đức, Nhà Bè, Gò Vấp, Hóc Môn; 2 đội đặc công nước hoạt động trên hệ thống sông rạch và 2 đội bảo đảm mang bí số A20 và A30 hoạt động trong nội thành. Đội A20 do đồng chí Ba Phong và đồng chí Hai Sang phụ trách, chịu trách nhiệm vận chuyển vũ khí từ bưng biền vào nội thành A30 do đồng chí Ba Đen chỉ huy, chịu trách nhiệm đào hầm bí mật cất giấu vũ khí, đạn dược và xây dựng cơ sở làm nơi trú ém quân...


Ngoài lực lượng đặc công, biệt động trực thuộc Quân khu ở các quận, huyện, các cơ quan đoàn thể cũng thành lập phát triển lực lượng biệt động. Điển hình như Đội biệt động 65 Bình Tân, Đội biệt động 66 Dĩ An, Đội biệt động 67 Gò Môn Đội biệt động 69 Nhà Bè, Đội biệt động Thủ Đức, Đội biệt động Thành đoàn, Đội biệt động Công vận, Đội biệt động Hoa vận Đội biệt động Phụ vận...


Tháng 10-1967, Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Quân khu miền Đông giải thể để thành lập các phân khu phục vụ cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 do Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo. Lúc này, Đoàn F100 cũng giải tán để thành lập 3 cụm biệt động nhắm vào các mục tiêu chiến lược trong nội đô với trên 100 cán bộ, chiến sĩ. Tiểu đoàn Quyết Thắng được nâng thành Trung đoàn Quyết Thắng gồm Tiểu đoàn 2 Gò Môn, Tiểu đoàn 3 Dĩ An, Tiểu đoàn 4 đặc công Gia Định.


Trên địa bàn Quân khu miền Đông, sau khi tăng cường Trung đoàn Đồng Nai để thành lập Sư đoàn 5 chủ lực Miền, Quân khu miền Đông phát triển thêm 1 tiểu đoàn mới và nhiều đơn vị binh chủng. Đến tháng 10-1967, để chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu miền Đông và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập “khu trọng điểm” gồm 6 phân khu, hình thành 5 cánh quân bao quanh Sài Gòn và Phân khu 6 (Phân khu nội đô) tạo thành thế “ngoại công, nội kích”.


Phân khu 1 (hướng đông bắc), gồm các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp (Gia Định), Bến Cát, Dầu Tiếng (Bình Dương), Trảng Bàng (Tây Ninh).

Phân khu 2 (hướng tây), gồm các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bên Lức (Long An), Tân Bình, bắc Bình Chánh và các quận nội thành 3, 5, 6 (Sài Gòn).

Phân khu 3 (hướng nam), gồm các huyện Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc (Long An), Nhà Bè, nam Bình Chánh và các quận nội thành 2, 4, 7, 8 (Sài Gòn).

Phân khu 4 (hướng đông), gồm các tỉnh Long Khánh, Biên Hòa và các huyện Thủ Đức, Nhơn Trạch, Thạnh Mỹ Tây (Gia Định).

Phân khu 5 (hướng bắc), gồm các huyện Phú Giáo, Lái Thiêu, Dĩ An (Bình Dương), Tân Uyên (Biên Hòa) và Phú Nhuận, Bình Hòa (Sài Gòn).

Phân khu 6 gồm vùng nội đô trung tâm thành phố Sài Gòn.


Ở các tỉnh, huyện là địa bàn trọng điểm mà Mỹ đã chọn để thực hiện chiến dịch “tìm diệt” và “bình định”, để có thể đương đầu trực tiếp với quân đội nhà nghề Mỹ, các cấp ủy đảng và chính quyền ưu tiên phát triển lực lượng vũ trang. Các tiểu đoàn Quân giải phóng của tỉnh được kiện toàn về cả quân số lẫn vũ khí, trang bị. Tiểu đoàn 14, Tiểu đoàn 24 Tây Ninh, Tiểu đoàn Phú Lợi (Thủ Dầu Một), Tiểu đoàn 445 Bà Rịa... phát triển mạnh với đầy đủ các bộ phận bộ binh, công binh, trinh sát, đặc công, thông tin...


Ở cấp huyện, mỗi huyện đều xây dựng được từ một đến hai đại đội tập trung, điển hình là ở Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Phước Thành, Biên Hòa, Bà Rịa... Đặc biệt, các đại đội như Đại đội 63 (Thuận An), Đại đội 302 (Tân Uyên), Đại đội 65 (Thủ Dầu Một), Đại đội 301 (Phú Giáo), Đại đội 61, 81 (Bến Cát)... được trang bị mạnh do vừa được chi viện từ miền Bắc, vừa tự trang bị bằng chiến lợi phẩm thu được.


Trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, cùng với phát triển lực lượng Quân giải phóng, Bộ Chỉ huy quân sự Miền tiến hành tổ chức lại chiến trường.

Năm 1966, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh sáp nhập với tỉnh Biên Hòa thành tỉnh Long - Bà - Biên; tỉnh Phước Thành giải thể; Quân khu 10 tái thành lập gồm các tỉnh Bình Long, Phước Long và Quảng Đức.

Tháng 3-1968, Quân khu 7 (T7) được thành lập lại, hao gồm địa bàn Phân khu 4 và tỉnh Bà Rịa.

Như vậy năm 19651 (Toàn miền Nam có khoảng 190.000 cán bộ, chiến sĩ, gồm 4 sư đoàn, 9 trung đoàn, 23 tiểu đoàn chủ lực, 31 tiểu đoàn bộ đội địa phương; 210.000 dân quân du kích), trên địa bàn B2, tổng số lực lượng chủ lực của Miền và Quân khu lên đến 52.789 cán bộ, chiến sĩ. Trong đó bộ binh có 2 sư đoàn, 5 trung đoàn, 12 tiểu đoàn; đặc công có 1 tiểu đoàn và 10 đại đội; trợ chiến có 1 trung đoàn, 5 tiểu đoàn và 13 đại đội; công binh có 4 đại đội. Lực lượng bộ đội địa phương tỉnh, huyện có 42.523 cán bộ, chiến sĩ, gồm 16 tiểu đoàn và 76 đại đội; dân quân du kích có 166.657 người. Trang bị của ba thứ quân, nhất là của khối chủ lực, tương đốĩ đầy đủ nhưng thiếu súng B40, cối 82, 12,8... Căn cứ miền Đông được mở rộng, xây dựng được hành lang thông suốt nối từ các tỉnh ở cực Nam Trung Bộ đến các tỉnh đồng bằng Cửu Long.


Đến cuối năm 1966, Quân giải phóng tập trung trên chiến trường miền Nam tăng 32% so với năm 1965 (từ 166.248 người tăng lên 219.640 người). Lực lượng Quân giải phóng của Miền và của các quân khu là 151.111 người, trong đó Quân giải phóng chủ lực của Miền có gân 92.000 cán bọ, chiến sĩ, biên chế thành 3 sư đoàn, 18 trung đoàn bộ binh (không kể các đơn vị hoạt động độc lập khác). Đặc biệt, thành phần binh chủng tăng khá nhanh: pháo binh tăng 162%, đặc công tăng 64%1 (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1988, tập II, quyển 1, tr.340). Lực lượng Quân giải phóng địa phương tỉnh, huyện có khoảng 80.000 cán bộ, chiến sĩ, tổ chức thành các tiểu đoàn ở các tỉnh và đại đội ở các huyện. Một số tỉnh có từ 1 đến 2 tiểu đoàn với đầy đủ biên chế, trang bị và các đơn vị binh chủng như pháo binh, đặc công, công binh, thông tin... Dân quân, du kích ở các xã, ấp phát triển mạnh, con số lên tới 174.000 người, đồng hơn cả quân số dân vệ và lực lượng thanh niên chiến đấu của chính quyền Sài Gòn.


Các binh trạm vận tải, các đoàn hậu cần trên chiến trường B2 được bố trí hợp lý tại các khu vực thuận lợi nhằm thực hiện tốt việc tiếp nhận hàng từ Đoàn 962, Đoàn 559 và K.20... Nhiều loại vũ khí, phương tiện chiến đấu mới được đưa vào chiến trường trang bị cho các đơn vị Quân giải phóng. Mỗi đại đội trong biên chế sư đoàn bộ binh được trang bị 9 khẩu B40. Mỗi trung đoàn được trang bị 18 khẩu B41. Quân giải phóng các tỉnh được trang bị súng tiểu liên AK, B40, B41. Đặc biệt Quân giải phóng trên địa bàn các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương... được trang bị trên 70 khẩu B40.


Đến cuối năm 1967, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã hình thành ba khối: bộ đội chủ lực Miền, bộ đội các quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện với đầy đủ các đơn vị binh chủng bộ binh, pháo binh, công binh, trinh sát, quân báo, đặc công, biệt động, thông tin, hậu cần.... Trong đó, Quân giải phóng chủ lực của Miền có 44.136 chiến sĩ, bao gồm Sư đoàn 9 bộ binh (9.368 chiến sĩ), Sư đoàn 5 bộ binh (6.516 chiến sĩ), Sư đoàn 5 bộ binh (5.854 chiến sĩ). Quân giải phóng chủ lực của các quân khu có 17.764 chiến sĩ. Quân giải phóng địa phương tỉnh, huyện có 65.157 chiến sĩ.


Năm 1967, chiến trường B2 tiếp nhận được khoảng 6.554 tấn trang thiết bị quân sự, súng đạn... từ hậu phương lớn miền Bắc. Do vậy, Quân giải phóng được trang bị khá tốt, bao gồm các loại vũ khí mới, đồng bộ, trong đó có hơn 9.000 khẩu CKC 23.360 khẩu AK, 17.000 khẩu RPD, 3.000 khẩu B40...


Để bảo đảm phục vụ cho các hướng tiến công đến cuối năm 1967, Bộ Chỉ huy Miền bố trí lại các khu vực hậu cần trên chiến trường B2: Đoàn 81 phụ trách Khu A từ đường 20 lên đường 14 Chiến khu Đ (Phước Long); Đoàn 82 phụ trách Khu B từ tây và bắc Tây Ninh dọc theo sông Sài Gòn; Đoàn 83 phụ trách Khu C từ Trảng Bàng đến Bến Cát, Dầu Tiếng, lộ 13; Đoàn 84 phụ trách Khu E từ nam đường 20 đến bờ biển; Đoàn 85 phụ trách Khu F từ Sóc Con Trăng, Snoul đến Bù Đốp; Đoàn 86 phụ trách Khu H từ Bản Đôn đến Sêrêpốc (Campuchia)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:30:20 am
II. CHIẾN ĐẤU CHỐNG QUÂN VIỄN CHINH MỸ, QUÂN ĐỒNG MINH CỦA MỸ VÀ QUÂN ĐỘI SÀI GÒN

1. Chiến đấu góp phần đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất của Mỹ

Để thực hiện cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, Mỹ tiếp tục đưa các đơn vị chiến đấu và vũ khí, trang thiết bị quân sự vào miền Nam Việt Nam. Tính đến tháng 12-1965, tổng số quân Mỹ và quân Đồng minh trên chiến trường miền Nam Việt Nam lên tới 180.000 quân1 (Ngày 8-3-1965, Tiểu đoàn 159 thủy quân lục chiến Mỹ từ Okinawa đến Đà Nẵng. Ngày 5-5-1965, Lữ dù 173 từ Okinawa đến Vũng Tàu. Ngày 1-6-1965, Tiểu đoàn 1 bộ binh Úc đến Biên Hòa. Ngày 23-6-65, hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến đến miền Nam, trong đó 1 tiểu đoàn đóng ở Sài Gòn. Ngày 12-7-1965, Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ (Sư đoàn Anh cả đỏ) đến miền Nam. Ngày 29-7-1965, Lữ 1 thuộc Sư đoàn dù 101 đến Cam Ranh. Ngày 30-11-1965, Sư đoàn 1 kỵ binh đến An Khê. Ngày 8-11-1965, Sư đoàn 1 Nam Triều Tiên đến miền Nam. Ngày 29-12-1965, Lữ 3 thuộc Sư đoàn 25 (Sư đoàn “Tia chớp nhiệt đới”) từ Hawai đến Pleiku), gồm 3 sư đoàn, 3 lữ đoàn bộ binh (33 tiểu đoàn), 21 tiểu đoàn pháo (378 khẩu), 5 tiểu đoàn và 3 đại đội thiết giáp (582 xe), 81 đại đội không quân (1.741 chiếc, trong đó có 345 máy bay chiến đấu và 1.023 trực thăng), 47 tàu hải quân. Bên cạnh đó, Mỹ còn giúp chính quyền Sài Gòn xây dựng, hiện đại hóa 520.000 quân, trong đó có 289.000 quân chủ lực (gồm 10 sư đoàn, 5 trung đoàn và 20 tiểu đoàn bộ binh)... Tất cả hình thành nên một liên minh quân sự khoảng 72 vạn quân để chuẩn bị cuộc phản công quy mô lớn.


Trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Mỹ và chính quyền Sài Gòn ráo riết điều chỉnh lại chiến trường, giải tán biệt khu Phước - Bình - Thành, sáp nhập vào khu chiến thuật 32; thành lập khu chiến thuật 33 thuộc vùng 3 chiến thuật (Biên Hòa, Long Khánh, Phước Long, Bình Tuy, Tây Ninh); thành lập căn cứ liên hợp quân sự Biên Hòa, cầu tiếp vận thiết bị ở Vũng Tàu, Sài Gòn; củng cố căn cứ không quân Tân Sơn Nhất, Biên Hòa; lập Bộ Tư lệnh Lục quân Mỹ ở Long Bình (20-6-1965), Bộ Tư lệnh Dã chiến ở Biên Hòa (15-3-1966), Bộ Tư lệnh Hải quân (1-8-1965), Bộ Tư lệnh Không quân1 (Trên toàn miền Nam, Mỹ lập căn cứ liên hợp quân sự Đà Nẵng căn cứ Cam Ranh, đầu cầu tiếp vận thiết bị kho tàng ở Cam Ranh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, củng cố sân bay Đà Nẵng, xây sân bay Chu Lai, lập Bộ Tư lệnh Alpa (tháng 9-1965 đổi thành Bộ Tư lệnh Dã chiến đóng ở Nha Trang))...


Tháng 1-1966, cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất chính thức bắt đầu, Mỹ liên tiếp mở 450 cuộc hành quân lớn nhỏ nhằm tìm diệt lực lượng Quân giải phóng và cơ quan đầu não của bộ máy kháng chiến2 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2)). Từ ngày 8-1-1966 đến ngày 10-5-1966, Mỹ mở 13 cuộc hành quân quy mô lớn đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu, Chiến khu Đ, Bời Lời, Củ Chi, Long Nguyên, Xuyên Mộc, Hắc Dịch...1 (Cuộc hành quân Marauder đánh vào Bàu Trai - Hậu Nghĩa của Lữ 173 dù va 1 tiểu đoàn Úc. Cuộc hành quân Grimp đánh vào Hố Bò - An Nhơn Tây của Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ, 1 tiểu đoàn Úc và 8 tiểu đoàn ngụy từ ngày 8-1 đến ngày 5-2-1966. Cuộc hành quân Masterp đánh vào Bời Lời - Bà Nhã - Bầu Đồn của Lữ 2 Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ. Cuộc hành quân Rolling - Stone đánh vào Nhà Đỏ - Bông Trang của Lữ 1 Úc trong tháng 3-1966. Cuộc hành quân Hattisbung đánh vào Bến Cầu - Tây Ninh của Lữ 2 Sư đoàn 25 Mỹ. Cuộc hành quân Silver City đánh vào Chiến khu của Lữ 2 Sư đoàn 1, Lữ 173 dù và 1 tiểu đoàn Úc từ ngày 7-3 đến ngày 24-3-1966 Cuộc hành quân Birmingham đánh vào Chiến khu C của Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ, Lữ 173 dù Mỹ và 7 tiểu đoàn ngụy từ ngày 24-4 đến ngày 18-5-1966. Cuộc hành quân Mali đánh vào Bàu Trai - Đức Lập của Lữ 2 Sư đoàn 25 Mỹ từ ngày 27-4 đến ngày 14-5-1966. Cuộc hành quân Austin đánh vào Bù Gia Mập, biên giới Phước Long của Lữ 1 Sư đoàn 101 dù Mỹ từ ngày 1-5 đến ngày 17-5-1966 Cuộc hành quân Whin đánh vào Bơi Lời - An Tịnh của 1 lữ đoàn thuộc Sư đoàn 25 Mỹ. Cuộc hành quận Hardi - deed đánh vào Bà Rịa của Lữ 2 Sư đoàn 1 Mỹ và 1 tiểu đoàn Úc tháng 5-1966. Cuộc hành quân Houston đánh vào Dầu Tiếng của Lữ 1 Sư đoàn 1 Mỹ). Trong quá trình thực hiện các cuộc hành quân phản công của Mỹ, quân lực Sài Gòn cũng đồng thời mở các cuộc hành quân cấp sư đoàn (thiếu), cấp lữ đoàn phục vụ việc bình định và bảo đảm an ninh xung quanh căn cứ của Mỹ2 (Hành quân “xây dựng 2/7” của E7/f5 ở Phước Vĩnh. Hành quân "Dân Tân 33” của F10 ngụy ở Đất Cuốc. Hành quân “An dân 6-1966” ở Tân Phú Trung. Sau tháng 5-1966, địch quay về đối phó với hoạt động mùa mưa của ta, nổi lên là cuộc hành quân Elpaso của F1 bộ binh Mỹ, Lữ 173 dù My ở Bình Long - Hớn Quản từ tháng 6 đến tháng 7-1966 đối phó với Chiến dịch Bình Long của Quân giải phóng).


Trên địa bàn miền Tây Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Mỹ chủ yếu sử dụng lực lượng ngụy mở các cuộc hành quân cấp trung đoàn càn quét vùng Thạnh Phú (Bến Tre), Chợ Gạo, Cai Lậy (Mỹ Tho), nam Cao Lãnh, bắc Hồng Ngự, Bến Lức, Đức Hòa (Long An)... (Khu 8); dọc bờ sông Bảy Háp, Đầm Dơi, Giồng Riềng, Long Mỹ, Kinh Xáng theo vòng cung Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang... (Khu 9); Võ Xu, Võ Đắc, Bình Tuy, căn cứ Lê Hồng Phong, nam Bình Thuận, Phước Long, Hoài Đức... (Khu 6) nhằm hỗ trợ cho công cuộc bình định1 (Ở Khu 8: Mỹ - ngụy càn ven biển Thạnh Phú (Bến Tre), Chợ Gạo, Cai Lặy (Mỹ Tho), nam Cao Lãnh, bắc Hồng Ngự và Bến Lức - Đức Hòa (Long An), ở Khu 9: Mỹ - ngụy đánh vào tuyến sông Bảy Háp, Đầm Dơi, Giồng Riểng, Long Mỹ, Kinh Xáng, lộ vòng cung Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang).


Ngày 6-11-1965, Bộ Chính trị gửi thư cho Trung ương Cục và Khu ủy Khu 5 chỉ thị: “đánh giá cho đúng việc tăng cường lực lượng mới của Mỹ. Cần phải thấy rằng [Mỹ - BT] đưa thêm mấy vạn quân với trang bị tối tân trong lúc cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta đang diễn ra rất mạnh mẽ, quyết liệt và rộng khắp, trong lúc chiến tranh du kích đã phát triển cao, quân chủ lực của ta đang xây dựng và chỉnh huấn thành những quả đấm mạnh, trong lúc ngụy quân, ngụy quyền đang bị đánh tan rã nghiêm trọng. Cũng chính vì vậy mà khi đưa thêm quân vào miền Nam, chúng hy vọng trước hết là giữ cho ngụy quân ngụy quyền không bị tan rã mau chóng, giữ vững một số vị trí then chốt để đề phòng những cuộc tấn công lớn của ta. Đồng thời với lực lượng có thêm, chúng sẽ từng bước phản công lại ta hòng giành lại thế chủ động và tạo ra thế mạnh cho chúng”. “Nhưng rõ ràng là tình hình không còn cho phép chúng làm được như vậy. Thật vậy, với số quân mới được tăng thêm, đế quốc Mỹ không thể triển khai bố trí lực lượng theo ý muốn của chúng mà trước hết là nhằm đối phó với ta... cho nên dù địch cố gắng bước đầu tập trung quân để phản công ta, nhưng rồi lại phải chuyển vào thế phòng ngự”. “Sắp đến, bắt đầu mùa khô, khi Mỹ thêm nhiều binh lực và phương tiện vận chuyển cơ động, chắc chắn chúng sẽ mở nhiều cuộc tấn công vào chiến trường rừng núi và nửa rừng núi; với quân Mỹ là chính, có kèm theo quân ngụy và quân chư hầu để cố giành chủ động, cố đạt một số thắng lợi để gây ảnh hưởng chính trị hòng đẩy ta vào thế bị động, gây thiệt hại khó khăn cho ta, có thể Mỹ sẽ dùng hình thức và chiến thuật chủ động tấn công để đẩy ta vào thế phòng ngự. Do đó, nếu ta không dùng hình thức phản công chiến dịch, phản công chiến đấu để tiêu diệt quân Mỹ và quân ngụy thì ta sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội và có thể lâm vào bị động. Cho nên ta cần phải coi các cuộc tấn công mùa khô của Mỹ là một cơ hội tốt nhất để diệt quân Mỹ ngoài công sự với những điều kiện thuận lợi mà trong các cuộc chiến đấu công đồn để diệt viện không thể có được”. “Để đánh bại quân Mỹ và quân ngụy, nhất thiết ta phải giành và nắm vững thế chủ động. Trong giai đoạn hiện nay, nắm thế chủ động là phải giữ và phát triển hơn nữa quyền làm chủ rừng núi, đồng bằng, chung quanh đô thị và tiên tới cả từng vùng trong mỗi đô thị nữa. Thế chủ động này của ta phải dựa trên cơ sở bố trí hợp lý nhất các bộ đội chủ lực của Miền, của Khu, các bộ đội địa phương tỉnh, huyện, các lực lượng dân quân, du kích và lực lượng chính trị của quần chúng cũng như trên cơ sở giao nhiệm vụ thích hợp nhất cho từng chiến trường, đồng thời luôn luôn giữ được thế tấn công địch mạnh và tự vệ mình tốt”1 (Tài liệu số 1493, lưu trữ Ban Tổng kết chiến tranh B2).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:32:38 am
Tháng 12-1965, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 được tổ chức đã nhận định: “mặc dầu đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân đội viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.633).


Trên chiến trường B2, từ sau chiến thắng Bình Giã, Đồng Xoài, Quân giải phóng liên tục mở chiến dịch tấn công đánh phủ đầu quân Mỹ và tạo nên nhiều chiến thắng vang dội.

Trên địa bàn Khu 8, với quyết tâm làm suy yếu quân ngụy trước khi lính Mỹ tràn vào, tháng 5-1965, Bộ Tư lệnh Quân khu chỉ thị các tỉnh “sử dụng sức mạnh tổng hợp, hợp đồng chặt chẽ ba thứ quân, 3 mũi tiêu diệt địch, chuẩn bị mục tiêu cho từng cấp (khu, tỉnh, huyện, xã) bảo đảm hợp đồng tác chiến liên tục và đều khắp”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.529).


Ở Mỹ Tho, Tiểu đoàn 261, Tiểu đoàn 263 hoạt động nghi binh ở vùng 20 tháng 7, tạo điều kiện cho Quân giải phóng địa phương phục kích bẻ gãy cuộc càn “Tiền Giang 22/65 tại các xã Thạnh Phú, Mỹ Thành, Phú Nhuận và Hậu Mỹ (từ ngày 3 đến ngày 6-6-1965). Tiểu đoàn 514 phục kích lực lượng bảo an đồn Cái Nứa, diệt tên quận trưởng Cái Bè (tháng 6-1965). Trung đội 1 công binh sử dụng 200kg thuốc TNT đã đánh sập cầu Cổ Cò ở An Thái Đông (25-6-1965). Tiểu đoàn 261 phục kích tiểu đoàn cơ động của Sư đoàn 7 khu chiến thuật Tiền Giang tại Mỹ Hạnh Đông (29-6-1965)2 (Với chiến công này, Tiểu đoàn 261 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất). Tiểu đoàn 261 tô chức phục kích lực lượng Sư đoàn 7 trên sông Ba Rài, đánh chìm 10 tàu, bắt 1 chiếc khác (9-1965); hỗ trợ du kích xã Ngũ Hiệp (Cai Lậy) tiến đánh diệt đồn Ngũ Hiệp (22-9-1965). Tiểu đoàn 514 tập kích đại đội biệt động quân tại ngã ba Lương Phú. Tiểu đoàn 261, Đại đội đặc công 314 tập kích sân bay Thân Cửu Nghĩa (tháng 11-1965)3 (Phía Quân giải phóng hy sinh 26 và bị thương 49 cán bộ, chiến sĩ). Ở Long An, Quân giải phóng tập kích lực lượng Sư đoàn 25 ngụy tại Láng Ven (7-5-1965), ngã ba Hựu Thành (6 1965); sử dụng kỹ thuật “đánh bồi”, “đánh nhồi” tiến công tiểu khu Hậu Nghĩa ở Bàu Trai lần 1 (17-9), lần 2, (27-10), lần 3 (30-11-1965). Kỹ thuật “đánh bồi”, “đánh nhồi” sau đó được Quân giải phóng tỉnh áp dụng cho các cuộc tiến công đồn Thanh Hà (Bến Lức), đôn Lạc Tấn (Tân Trụ), đồn Mỹ Lộc (Cần Giuộc). Tiếp đó, Quân giải phóng tỉnh từ vùng Hạ Cần Giuộc, vùng thượng Cần Đước vận động tiến công căn cứ Xoài Đội - Chợ Kiến, lực lượng bảo an ở Cầu Tràm xã Long Thượng (tháng 10-1965); tập kích đồn Gò Đen (11-11-1965); mở mảng Châu Thành, Tân Trụ; tấn công đồn Lạc Tân, Nhơn Thạnh Trung, Bình Chánh, Bình Tân, Bình Lập (tháng 11-1965)...


Đến cuối năm 1965, vùng giải phóng được mở rộng từ Cần Đước, Cần Giuộc xuống Tân Trụ, Châu Thành... Đặc biệt, mũi tiến công binh vận đã làm cho khoảng 6.000 lượt binh lính Sư đoàn 25 đào rã ngũ cùng với hơn 8.000 tên chết và bị thương. Sư đoàn 25 ngụy đã thực sự bị đánh quỵ trên hai vùng nam bắc lộ 4 của Long An. Tướng Cao Văn Viên đã gọi Sư đoàn 25 ngụy là “sư đoàn bệ rạc nhất của bất cứ quân lực nào trên thế giới”. Tướng William Childs Westmoreland thì cho rằng việc điều động Sư đoàn 25 ngụy về Long An, Hậu Nghĩa là một sai lầm trong việc dụng binh1 (Trích theo Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.537, 538).


Trên địa bàn Khu 9, từ giữa năm 1965, thực hiện kế hoạch bình định, Mỹ sử dụng B52 rải thảm bom đạn và chất độc hóa học, đánh phá ác liệt vào vùng giải phóng, căn cứ kháng chiến; đặc biệt là các địa bàn Rạch Gốc, kinh Chín Bộ, Khánh Bình Tây, Khánh Lâm, sông Ông Đốc, sông Bảy Háp, cửa Bồ Đề, rừng đước Năm Căn... (Cà Mau); kênh mương đào Đông Hưng, rạch Hóc Hỏa Đông Yên, kinh xáng Hòa Hưng... (Rạch Giá); vùng Ô Môn, Phụng Hiệp, Long Mỹ... (Cần Thơ). Do vậy, “các xã thuộc vùng giải phóng tỉnh, huyện, số đảng viên hoạt động tích cực chỉ chiếm 5%, 50% lưng chừng, số còn lại không hoạt động". Thậm chí có nhiều cán bộ kháng chiến còn phát biểu: “Lên Khu học tập thấy tình hình địch mỏng như lá lúa nhưng về đơn vị thì lại thấy nó dày hơn da trâu”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.378).


Trước thực trạng đó, tháng 10-1965, Quân khu tiến hành một đợt chỉnh huấn cho cán bộ từ tiểu đoàn trở lên để quán triệt tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới và phát động phong trào đấu tranh vũ trang để xốc lại tinh thần quân dân trên địa bàn Khu 9.


Thực hiện tinh thần đó, Đại đội 1 Tiểu đoàn 207 sử dụng chiến thuật phòng ngự phục kích đánh bật các đợt xung phong của 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 32 Sư đoàn 21 ngụy tại rạch Kè Một, Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận (20-7-1965). Tiểu đoàn Phú Lợi phối hợp cùng bộ đội địa phương huyện phục kích chặn đánh Trung đoàn 33 Sư đoàn 21 bộ binh ngụy tại Tân Hòa, An Hòa, Hiệp Hòa (từ ngày 15-10 đến ngày 20-10-1965). Tiểu đoàn 857 vận động đánh đồn Phước Chí, đồn Bờ Dừa (xã Chánh Hội)... Đặc biệt, Quân giải phóng tỉnh mở tuyến Châu Thành A (10-10-1965); tuyến Định Yên, Long Phước, Tân Hậu; tuyến Tân Hòa, Vĩnh Thới, Tân Lược, Tân Thới, Phong Hòa, Thạnh Lợi (tháng 11-1965)... chủ động tiến công lực lượng Trung đoàn 10 Sư đoàn 9 ngụy. Tiểu đoàn 309 mở tuyến ở An Biên, đánh kỳ tập vào căn cứ Thứ Bảy, Thứ 9, Thứ 9 Rưỡi, Thứ 10, Thứ Năm, Thứ Ba, căn cứ Xẻo Rô, giải phóng các xã Tây Yên, Đông Yên, Đông Hòa, Đông Thái và tuyến kinh xáng Xẻo Rô từ Thứ Ba đến Thứ Mười Một (tháng 11-1965). Tiểu đoàn 207 Rạch Giá đánh thiệt hại nặng đồn Đường Xuồng huyện Giồng Riềng, đồn Thới An huyện Gò Quao (11-10-1965)...


Trên địa bàn Khu 6, Đại đội 460 Hàm Tân tập kích một trung đội thuộc Đại đội bảo an số 513 tại Núi Đất, xã Tân Thuận, huyện Hàm Tân (5-5-1965). Đại đội 486 và Đại đội 487 Bình Thuận tập kích lực lượng bảo an, dân vệ và phòng vệ dân sự tại xã Phú Long, Hàm Thuận (17-5-1965). Đại đội 422 bộ đội địa phương huyện Tánh Linh phòng ngự chống Đại đội bảo an số 700 và 2 đại đội bảo an khác tại xã Gia An, huyện Tánh Linh (2-9-1965). Đại đội 421 và một trung đội của Đại đội 422 bộ đội địa phương huyện Hoài Đức phòng ngự chống Trung đoàn 43, Sư đoàn 18 ngụy và 1 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ tại xã Chính Đức, huyện Hoài Đức (24-11-1965)...


Trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng tổ chức phòng ngự chống cuộc càn của Trung đoàn 8, Sư đoàn 5 ngụy tại ấp Bàu Lách, xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi (9-5-1965). Trung đoàn Đồng Nai phục kích Tiểu đoàn 41 bảo an và chi đội thiết giáp của tiểu khu Long Khánh tại Cầu Lu, quốc lộ 20, huyện Định Quán (15-5-1965). Đội biệt động 67 tập kích quân Mỹ và cảnh sát Sài Gòn tại nhà hàng Mỹ Cảnh bến Bạch Đằng (23-6-1965). Tiểu đoàn Phú Lợi, Đại đội 64 huyện Bến Cát phục kích lực lượng bảo an chi khu Trị Tâm, tiến công Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 8 Sư đoàn 5 ngụy tại Suối Dứa, Thanh An, Dầu Tiếng (8-7-1965). Đại đội 61 bộ đội huyện Bến Cát phục kích Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 7 Sư đoàn 5 ngụy tại ấp cầu Tây, xã Thới Hòa, huyện Bên Cát (1-8-1965). Đội 5 thuộc F100 biệt động Sài Gòn - Gia Định tập kích Tổng nha cảnh sát ngụy, quận 1, thành phố Sài Gòn - Gia Định (16-8-1965). Đội 5 thuộc F100 biệt động Sài Gòn - Gia Định tập kích bọn sĩ quan không quân Mỹ tại khách sạn Metropol số 150 Trần Hưng Đạo (4-12-1965)...


Đặc biệt, chiến thắng Đất Cuốc (8-11-1965), Bàu Bàng (12-11-1965), Dầu Tiếng (27-11-1965)... cùng với chiến thắng Vạn Tường, Quảng Ngãi (18-8-1965), chiến thắng Plâyme, Tây Nguyên (từ ngày 10-10 đến ngày 18-11-1965)..., Quân giải phóng không những khẳng định “có thể đánh Mỹ”, “thắng Mỹ" mà còn tìm ra công thức đánh Mỹ hữu hiệu bằng cách “nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”.


Để đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, Cục Chính trị Miền phát động phong trào thi đua đánh Mỹ trên toàn chiến trường B2, đồng thời bổ sung các danh hiệu “dũng sĩ diệt Mỹ”, “dũng sĩ diệt cơ giới”, “dũng sĩ diệt máy bay”... và cụ thể hóa tiêu chuẩn các cấp dũng sĩ dành cho cá nhân. Tiếp đó, tháng 3-1966, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ tư đề ra 4 yêu cầu cụ thể cho toàn chiến trường B2: tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch; giữ vững, mở rộng khu giải phóng; xây dựng lực lượng lớn mạnh về mọi mặt; đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở các đô thị1 (Ở Vạn Tường, ta dùng 1 trung đoàn đánh tan cuộc càn của 8.000 quân Mỹ có hải quân và không quân yểm trợ, diệt 919 tên, phá hủy 22 xe tăng, bắn rơi 13 máy bay. Ở Plâyme đã diệt 3.000 tên, trong đó có 1.700 Mỹ; diệt 2 tiểu đoàn ngụy và 2 chi đoàn thiết giáp, bắn rơi 13 máy bay; đánh thiệt hại nhiều đơn vị thuộc Sư đoàn 1 kỵ binh không vận của Mỹ)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:34:00 am
Để đối phó với cuộc phản công mùa khô lớn nhất của Mỹ, trên chiến trường miền Đông, Bộ Chỉ huy Miền bố trí Sư đoàn 9 phòng ngự trên vòng cung Tây Ninh - Bình Long; Chiến khu Đ bố trí Sư đoàn 5 phòng ngự trên vòng cung Long Khánh - Biên Hòa - Bà Rịa. Xen kẽ các chiến trường là lực lượng Quân giải phóng các quân khu, các tỉnh, huyện và lực lượng du kích địa phương.


Tháng 1-1966, Mỹ chính thức mở đầu cuộc phản công lần thứ nhất (mùa khô năm 1965 - 1966) trên 5 hướng (5 kế hoạch 5 mũi tên), gồm: bắc - đông bắc Sài Gòn, đông nam Sài Gòn, đông nam Tuy Hòa - Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi.


Trên chiến trường miền Đông, ở hướng bắc và đông bắc Sài Gòn, Đại đội 2 Tiểu đoàn 2 Gò Môn kết hợp với bộ đội huyện Củ Chi phòng ngự chống trận càn của Lữ đoàn 199 bộ binh Mỹ tại ấp Bôn Phú, xã Trung An (26-1-1966)1 (Diệt hơn 300 tên địch, bắn cháy 24 máy bay trực thăng, 1 máy bay phản lực F105, thu 120 súng các loại. Ta bị thương 2 đồng chí, tiêu thụ 10 viên đạn AT, 3.000 viên đạn nhọn và gần 100 trái mìn, lựu đạn. Với chiến công trên, Đại đội 2 và đội du kích xã Trung An được tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. 24 cán bộ, chiến sĩ được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt máy bay Mỹ). Sư đoàn 9 Quân giải phóng tập kích 1 chiến đoàn của Lữ 1 thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ2 (Diệt 1.300 lính, gồm 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 chi đoàn thiết giáp) tại Bông Trang - Nhà Đỏ trong cuộc hành quân Rolling - Stone (23-2-1966). Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng tập kích Sư đoàn 25 Mỹ tại ấp Gò Nổi, xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi (25-2-1966)3 (Trận tập kích Gò Nổi giành thắng lợi có ý nghĩa rất lớn đối với lực lượng vũ trang Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Lần đầu tiên ta tổ chức trận tập kích diệt cơ bản 1 tiểu đoàn quân Mỹ tại chiến trường Củ Chi. Thắng lợi của trận đánh đã cho lực lượng vũ trang Quân khu rút ra nhiều bài học kinh nghiệm để hình thành cách đánh các cụm quân Mỹ đóng chốt dã ngoại. Ưu điểm của trận đánh là ta nắm chắc thủ đoạn hoạt động và thế phòng thủ của địch, xây dựng được quyết tâm chiến đấu hợp lý, sáng tạo. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn có quyết tâm chiến đấu cao, thể hiện tinh thần kiên quyết tiến công địch, bình tĩnh, sáng tạo trong xử trí tình huống khó khăn ngoài dự kiến. Trong chiến đấu các đơn vị triệt để áp dụng cách đánh gần, thọc sâu, chia cắt và tổ chức hiệp đồng tác chiến chặt chẽ. Hạn chế của trận đánh là ta chọn hướng tiến công phía bắc chưa phù hợp, chưa dự kiến hết tình huống khó khăn, xử trí còn chậm, dẫn đến trận đánh kéo dài, gây thương vong, tổn thất nhiều. Công tác thu gom vũ khí chưa tốt nên phải phá hủy phần lớn vũ khí trang bị của địch, số thu được rất ít. Xét thành tích, chiến công của Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng tại trận Gò Nổi, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã tặng Tiểu đoàn Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. Đại đội 1, Đại đội 2 được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì). Trung đoàn bộ binh số 2 thuộc Sư đoàn 9 Quân giải phóng tập kích 1 tiểu đoàn của Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ tại Sở cao su Phú Hưng, Bến Cát (5-3-1966). Lực lượng Quân giải phóng Thủ Dầu Một và dân quân du kích bẻ gãy nhiều cuộc càn tại Chiến khu Đ và bắn rơi 6 trực thăng trong cuộc hành quân Silver City của Mỹ (12-3-1966). Đại đội súng cối 81mm của Quân khu Sài Gòn - Gia Định kết hợp với Đại đội ĐKZ Quân khu 8 và một trung đội súng cối của tỉnh Long An tập kích lực lượng không quân Mỹ tại sân bay Tân Sơn Nhất, phá hủy 67 máy bay các loại, bắn cháy 1 kho xăng dầu 15 triệu lít (12-4-1966). Đội biệt động huyện Thủ Đức tập kích trung tâm huấn luyện Yết Kiêu (đêm 18 rạng sáng ngày 19-4-1966)1 (Theo tin tức nắm được từ cơ sở quần chúng, địch chết và bị thương trên 200 tên (trong đó có cả sĩ quan của hai ban chỉ huy Tiểu đoàn 2 và 3 đến trung tâm chờ nhận quân về). Phá hủy nặng một số căn nhà trong doanh trại của địch. Ta an toàn). Cơ quan H5 (Quân giới) phòng ngự chống lực lượng Sư đoàn bộ binh 25 và Trung đoàn cơ giới 11 của Mỹ tại ấp 7, ấp 8, xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng từ ngày 24-4 đến ngày 6-5-1967, phá hủy 11 xe cơ giới (trong đó có 2 xe bị ta bắn bằng B40, 9 xe đánh bằng mìn), bảo vệ được cứ của đơn vị và bảo vệ được Phòng Tuyên huấn T41. Sư đoàn 9 Quân giải phóng tập kích đánh thiệt hại một chiến đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ tại Bàu Sắn trong cuộc hành quân Birmingham của Mỹ vào Chiến khu Dương Minh Châu (tháng 5-1966)...


Ở hướng đông nam Sài Gòn, Trung đoàn bộ binh số 5 thuộc Sư đoàn 5 kết hợp với Quân giải phóng tỉnh Bà Rịa liên tiếp tập kích Lữ 173 dù của Mỹ trên đường 15 Bà Rịa (từ tháng 2 đến tháng 3-1966); tiến đánh 1 tiểu đoàn và 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn 243 Trung đoàn 18 ngụy tại Võ Xu (27-2-1966). Lực lượng đặc công thuộc Sư đoàn 5 Quân giải phóng tập kích căn cứ My ở Vũng Tàu, phá hủy 29 trực thăng (12-3-1966). Trung đoàn 4, Sư đoàn 5 Quân giải phóng Miền phòng ngự chống Lữ đoàn 199, Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ tại xã Xà Bang, huyện Châu Đức (10-4-1966); tấn công 1 tiểu đoàn thuộc Lữ 173 dù của Mỹ tại Núi Lé phía bắc Bình Giã (11-4-1966)...


Trên chiến trường Khu 6, Đại đội 2 Tiểu đoàn 430 Hàm Thuận vận động tiến công đại đội bảo an tại thôn Vườn Trầu xã Hàm Mỹ, huyện Hàm Thuận Nam (5-2-1966). Trung đoàn 4, Sư đoàn 5 Quân giải phóng Miền tập kích Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 43, Sư đoàn 18 ngụy tại ấp chiến lược Võ Su xã Võ Su, huyện Đức Linh (28-2-1966). Tiểu đoàn 482 bộ đội tỉnh Bình Thuận tập kích 4 trung đội dân vệ, Đại đội bảo an số 443 tại ấp Tầm Hưng, xã Tầm Hưng, quận Thiện Giáo (4-3-1966)...


Trên chiến trường Khu 8, Tiểu đoàn 269 Quân khu, Trung đội đặc công tỉnh Kiến Tường và du kích 3 xã Thạnh Phước, Bình Hòa, Bình Phong Thành tập kích Tiểu đoàn biệt kích Lôi Hổ tại ấp Nội Ngọ, xã Thạnh Phước, Tuyên Nhơn, Kiến Tường lần 1 (29-1-1966), lần 2 (20-3-1966); giải phóng tuyến hành lang vận chuyển về vùng trung tâm Đồng Tháp Mười. Đại đội 1, 2 Quân giải phóng tỉnh Kiến Tường và trung đội du kích Nhơn Hòa Lập, Hậu Thạnh, Tân Ninh tập kích đại đội biệt kích tiểu khu Kiến Tường tại ấp 4, xã Hậu Thạnh, quận Kiến Bình (2-4-1966). Quân giải phóng địa phương Đức Hòa đã đánh thiệt hại một đại đội Mỹ thuộc Lữ dù 173, làm chủ trận địa, thu 13 súng tại Bàu Sen (30-5-1966)...


Trên chiến trường Khu 9, Tiểu đoàn 207 phục kích đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn bảo an Kiên Giang đang trên đường giải tỏa kinh xáng Cò Tuất, thuộc xã Bàn Tân Định, huyện Giồng Riềng (26-1-1966). Tiểu đoàn 303 chủ lực Khu do đồng chí Võ Thành Tôn (Ba Tôn) chỉ huy đã đẩy lùi nhiều cuộc càn của Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 21 ngụy (28-1-1966). Đặc biệt, Tiểu đoàn 303 đã làm nên chiến thắng vang dội tại kinh Xuôi, đánh bại 2 chi đoàn xe M113 có sự chi viện của hàng trăm lượt máy bay chiến đấu của Mỹ. Tiểu đoàn 309 tiến công quân ngụy trên tuyến sông Trẹm, tiêu diệt đồn Vàm Xáng, căn cứ Tân Bàng; kết hợp với Tiểu đoàn 306 phục kích bắn chìm 5 tàu chiến, mở thông hành lang từ U Minh Thượng xuống tận U Minh Hạ (tháng 1-1966)...


Trong mùa khô năm 1965 - 1966, Quân khu 9 chủ trương mở một đợt hoạt động hướng Rạch Giá, trọng điểm là huyện Châu Thành A và Gò Quao. Tiểu đoàn 309, 303 phục kích đánh địch, làm chủ địa bàn hơn 1 tháng, củng cố vùng mới giải phóng gồm 6 xã: Thúy Liễu, Vĩnh Phước, Định Hoa, Hóa Quản, Bình An, Long Thạnh, Tắc Cậu...1 (Trong đợt phản công, địch bị loại ra ngoài vòng chiến đấu 25.000 lính Mỹ, 25.000 lính Đồng minh, 95.000 lính ngụy; đặc biệt có 9 tiểu đoàn Mỹ bị diệt (trong đó có 4 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 1 bộ binh, 1 tiểu đoàn thuộc Lữ 173 dù bị diệt tại chiến trường Nam Bộ. Lưu trữ phòng Khoa học quân sự Quân khu 7). Trong 3 tháng đầu năm 1966, Quân giải phóng đã bao vây 10 chi khu và 29 đồn bót, bức rút 1 chi khu và 12 đồn bót. Tính đến hết tháng 6-1966, lực lượng ba thứ quân đã phá sạch 2.668 ấp (chưa kể phá lỏng), chỉ còn lại hơn 300 ấp bị địch kìm kẹp nặng2 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2)), ở cực Nam Trung Bộ, tính đến tháng 4-1966, dân vùng giải phóng và dân vùng căn cứ toàn Khu là 152.400 người3 (Đến cuối năm 1965, lực lượng 3 thứ quân đã phá banh phá dứt điểm 238 trong tổng số 560 ấp, giải phóng 203.545 dân trong tổng số 744.400 dân. Trong 4 tháng đầu năm 1966, phá thêm được 9 ấp, 2 khu dinh điền với khoảng 4.000 dân (địch lấn xúc dân lại là 22.000 người)).


Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất, dù đã sử dụng tới 25 vạn quân4 (Trong tổng số 70 vạn gồm lính Mỹ, quân Đồng minh và quân ngụy) nhưng Mỹ chẳng những không giành được quyền chủ động trên chiến trường mà còn bị động, bị Quân giải phóng tiến công tiêu diệt, tiêu hao. Tỷ lệ thương vong trung bình là 1/5 nghiêng về lính Mỹ, quân Đồng minh và quân ngụy. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge thừa nhận: “Cuộc phản công không làm hao tổn được Việt cộng, không tiêu diệt được một đơn vị chính quy lớn nào của Việt cộng, không ngăn được du kích phát triển, hậu phương không ổn định. Mỹ và ngụy Nam Việt Nam vẫn bị động, Quân đội Sài Gòn giảm chất lượng nhanh chóng, lực lượng Mỹ tăng cường bổ sung không kịp, khả năng tiếp vận hạn chế, quân chính quy Việt cộng cơ động”1 (Lời của Lodge về Mỹ thú nhận ngày 30-4-1966).


Cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất của Mỹ kết thúc. Thực tiễn chiến trường chứng minh rằng, lực lượng Quân giải phóng không những lớn mạnh nhanh chóng về số lượng, mà còn ngày một hoàn thiện hơn về tổ chức lực lượng tổ chức chiến trường, tổ chức trận đánh. Đặc biệt nghệ thuật quân sự ngày một hoàn thiện hơn, linh hoạt hơn trong việc áp dụng cho từng chiến trường, từng lực lượng, từng trận đánh cụ thể. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhận xét: “Ta đã giữ được thế chủ động và đã sáng tạo ra cách đánh thích hợp, theo ý muốn của ta... Đứng về quân sự mà nói, ta đã bắt Mỹ phải đánh theo cách của ta, không cho chúng đánh theo lối của chúng”...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:36:19 am
2. Góp phần đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ trên chiến trường B2

Mùa khô năm 1966, Mỹ - ngụy triển khai cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai với 92 vạn quân, gồm 243 tiểu đoàn, trong đó có 83 tiểu đoàn lính Mỹ, lính Đồng minh và 160 tiểu đoàn quân ngụy, tập trung vào chiến trường chính là miền Đông Nam Bộ, đồng thời kìm chế vùng cao nguyên Trung Bộ, đồng bằng Khu 5 và đồng bằng sông Cửu Long1 (Tính đến tháng 12-1966, lực lượng Mỹ có 289.000 quân, gồm 7 sư đoàn, 4 lữ đoàn (tổng cộng khoảng 73 tiểu đoàn). Lực lượng Đồng minh có 52.000 quân, gồm 2 sư đoàn, 2 trung đoàn (khoảng 23 tiểu đoàn). Lực lượng quân ngụy có 287.000 quân chủ lực, gồm 11 sư đoàn, 4 trung đoàn, 20 tiểu đoàn (tổng cộng khoảng 161 tiểu đoàn). Lực lượng địa phương có khoảng 237.000 quân (11 tiểu đoàn, 590 đại đội bảo an, 2.400 trung đội dân vệ). Tổng số là 965.000 quân, gồm 20 sư đoàn, 10 trung đoàn (257 tiểu đoàn), 3.982 máy bay, 2.487 xe cơ giới, 2.541 pháo các loại)...


Lính Mỹ và Đồng minh chịu trách nhiệm tiến hành “tìm diệt cơ quan đầu não của bộ máy kháng chiến; quân ngụy chịu trách nhiệm giành dân, mở rộng vùng kiểm soát, tiến hành “bình định”. Tất cả tạo nên hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” nhằm làm chuyển biến cục diện chiến tranh vào giữa hoặc cuối năm 1967, đặc biệt là vùng “tuyệt đối an ninh” xung quanh Sài Gòn.


Để thực hiện mục tiêu trên, trên chiến trường chính miền Đông Nam Bộ, Mỹ bố trí đến hơn 40% số quân nói trên, chia thành ba lực lượng cơ động phụ trách ba hướng, bao gồm hướng bắc (trục “tam giác sắt” - Chiến khu bắc Tây Ninh), hướng đông nam (trục Long Khánh - Bà Rịa) và hướng tây (trục Long An - Mỹ Tho), trong đó hướng bắc Sài Gòn được xem là hướng chính.


Trước bối cảnh trên, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân dân cả nước đánh Mỹ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Tháng 7-1966, Tổng cục Chính trị gửi B2 bức Điện văn SỐ1173/D về phương hướng, nhiệm vụ công tác chính trị; Chỉ thị số 26/CT-H về kế hoạch xây dựng các sư đoàn chủ lực mạnh - Chỉ thị số 28/CT-H về phát huy sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược...


Tháng 8-1966, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức tổng kết và phổ biến một số kinh nghiệm về tổ chức chỉ huy, về kinh nghiệm và chiến thuật chiến đấu chống bộ binh - cơ giới Mỹ, về xây dựng và phát triển “vành đai diệt Mỹ”.


Tháng 10-1966, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền tổ chức hội nghị chiến tranh du kích toàn miền Nam lần thứ ba, phát động phong trào đánh Mỹ, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ trên chiến trường B2.


Trên tuyến phòng thủ phía bắc Sài Gòn, Bộ Chỉ huy Miền bố trí lực lượng Sư đoàn 9, Sư đoàn 7, Trung đoàn 161 (Nguyên là Trung đoàn 101, Sư đoàn 325 vào chiến trường Tây Nguyên từ năm 1964, nay được tăng cường cho chiến trường miền Đông), Trung đoàn 170 “an toàn khu”, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Tổng lực lượng trên toàn tuyến phòng thủ có khoảng 15.000 cán bộ, chiến sĩ, bao gồm khoảng 10.000 Quân giải phóng chủ lực, 5.000 Quân giải phóng địa phương và dân quân du kích. Ngoài ra, trên toàn tuyến phòng thủ còn có kho vũ khí, súng chống tăng B40, súng phòng không 12,7 ly, Bệnh viện K77, K71A, K71B, Bệnh viện Trung ương Cục... Tất cả đều phục vụ nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ từ xa Chiến khu B - bắc Tây Ninh. Lực lượng hậu cần tiền phương Miền chịu trách nhiệm bảo đảm hoạt động của Quân giải phóng trên tuyến phòng thủ phía bắc do Bùi Phùng - Phó Cục trưởng Cục Hậu cần Miền phụ trách.


Trên tuyến phòng thủ phía đông nam Sài Gòn, Bộ Chỉ huy Miền bố trí lực lượng Sư đoàn 5 đứng chân trên địa bàn Bà Rịa - Long Khánh, Châu Pha - Hắc Dịch kết hợp với Quân giải phóng địa phương bảo vệ Chiến khu E, bảo vệ cơ sở hậu cần Đoàn 84, chống Lữ đoàn Hoàng gia Úc tại căn cứ Núi Đất (Bà Rịa) và lực lượng quân ngụy bố trí trên quốc lộ 15.


Tháng 9-1966, Mỹ mở đầu chiến dịch mùa khô năm 1966-1967 trên chiến trường miền Đông bằng cuộc càn Attelboro (từ tháng 9 đến tháng 11-1966) tiến đánh Chiến khu Dương Minh Châu, Dầu Tiếng, Bến Cát. Tháng 12-1966, Mỹ mở cuộc hành quân Cedar falls tiến quân vào khu tam giác, Trảng Bàng - Củ Chi - Bến Cát (từ ngày 8 đến ngày 26-1-1967). Tháng 2-1967, Mỹ tiếp tục mở cuộc hành quân Junction City (từ ngày 22-2 đến ngày 15-4-1967) thọc sâu vào Chiến khu B - bắc Tây Ninh. Tháng 6-1967, Mỹ mở cuộc hành quân Manhattan trên chiến trường Tây Ninh đánh dấu sự kết thúc cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trên chiến trường B2. Trong các cuộc hành quân đó, Sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ”, Sư đoàn bộ binh 25 “Tia chớp nhiệt đới”, Lữ đoàn không vận 173, Trung đoàn kỵ binh thiết giáp 11 cùng với máy bay ném bom B52, lực lượng công binh, chó bẹcgiê... được huy động tham chiến, thực hiện chiến dịch “bóc vỏ trái đất”, “bới tung địa đạo”, “xóa bỏ Bến Súc”... nhằm truy tìm, tiêu diệt Quân giải phóng...


Từ khi cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai bắt đầu (tháng 9-1966) cho đến khi kết thúc (tháng 6-1967), trên chiến trường chính miền Đông Nam Bộ, Mỹ đã tổ chức 119 cuộc hành quân1 (Chiếm 90% các cuộc hành quân của Mỹ đã sử dụng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai) cùng với hàng trăm cuộc hành quân càn quét của quân ngụy2 (Trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai, ngoài các cuộc hành quân của Mỹ, chính quyền Sài Gòn tổ chức khoảng 900 cuộc hành quân càn quét trên toàn miền Nam). Tuy nhiên, Mỹ không thể tìm thấy cơ quan đầu não của Quân giải phóng mà lại bị Quân giải phóng liên tục phục kích, phản kích, tiến công tiêu diệt.


Trên địa bàn miền Đông, Tiểu đoàn Phú Lợi (Thủ Dầu Một) phục kích Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ tại ấp Bông Trang, xã Hưng Hòa huyện Bến Cát (25-6-1966). Tiểu đoàn 14 bộ đội địa phương tỉnh Tây Ninh tập kích lực lượng bảo an tại đồn Trí Huệ Cung, xã Trường Lưu, huyện Hòa Thành (12-7-1966). Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 5 chủ lực Miền kết hợp với Tiểu đoàn 445 bộ đội tỉnh Bà Rịa phục kích Quân đội Hoàng gia Úc tại Sở cao su Long Tân, huyện Long Đất (18-8-1966). Phân đội ĐKZ của Tiểu đoàn 6 Bình Tân và Đoàn 10 đặc công tập kích “Ủy ban lãnh đạo quốc gia” của chính quyền Sài Gòn tại buổi lễ diễu binh trước nhà thờ Đức Bà (1-11-1966). Biệt động F100 và Tiểu đoàn 6 Bình Tân tập kích lực lượng lính dù, lực lượng thiết giáp Mỹ và lực lượng quân ngụy bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất (đêm mùng 3 rạng sáng mùng 4-12-1966). Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng, Trung đội bộ đội địa phương huyện Củ Chi, Đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 8 và đội du kích xã Phú Hòa Tây tập kích một đại đội bộ binh cơ giới Mỹ tại gò Cây Trắc, ấp Phú An, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi (23-2-1967)1 (Tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, ta cơ bản giải quyết hết các mục tiêu trong căn cứ Cây Trắc, diệt và làm bị thương 350 tên địch, bắn cháy và phá hỏng 18 xe tăng, xe thiết giáp, 4 xe GMC, 3 xe ủi đất, thu 70 súng các loại. Ta hy sinh 13, bị thương 80 cán bộ, chiến sĩ, tiêu thụ 120 đạn cối, 14 ĐKP, 95 trái B40 - B41 và hơn 10 ngàn đạn nhọn, 34 trái bộc phá và mìn ĐH10. Trận tập kích cụm chốt dã ngoại Cây Trắc của Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng tuy chưa đạt được yêu cầu dứt điểm, tiêu diệt toàn bộ quân địch, nhưng ta thực hiện tiêu diệt một lực lượng lớn sinh lực, phương tiện chiến tranh của quân Mỹ. Trận đánh có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua diệt Mỹ ở toàn mật trận miền Đông. Từ các trận đánh, lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ rút ra được một số kinh nghiệm trong chiến đấu tập kích các cụm bộ binh cơ giới Mỹ chốt dã ngoại là: Khi đánh địch phòng ngự ta phải có lực lượng đủ mạnh, đặc biệt phải có lực lượng dự bị để khi ta gặp khó khăn - địch co cụm chống trả, ta tăng cường thêm lực lượng tiến công dứt điểm. Trong trận đánh, lực lượng chặn viện bố trí mỏng nên ta không đủ sức ngăn chặn địch). Đại đội 70 bộ đội địa phương huyện Bình Long vận động tiến công lực lượng biệt kích Sài Gòn tại sóc Chiên Thum, huyện Tà Đạt (15-4-1967). Đội 90C, F100 biệt động Sài Gòn - Gia Định tập kích lính bảo an tại Đềpô xe lửa Chí Hòa, quận 3 (27-4-1967)1 (Quân giải phóng phá hủy 17 đầu máy xe lửa loại hiện đại của địch, tiêu hủy 1 cần cẩu, làm hư hại 2 đầu máy xe lửa khác. Chiến công của Đội 90C biệt động Sài Gòn - Gia Định làm rung động cả miền Nam, gây xôn xao cả nước Mỹ. Ta phá tan kế hoạch vận chuyển đường sắt mà địch đầu tư, quảng bá rùm beng và trông đợi. Chiến công xuất sắc đánh vào Đềpô xe lửa Chí Hòa (Hòa Hưng) đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Sài Gòn - Gia Định nói riêng và toàn miền Nam nói chung. Ngay sau đó, Quân ủy Trung ương, Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền gửi điện khen ngợi lực lượng biệt động Sài Gòn - Gia Định đánh giỏi. Đài Phát thanh Giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam đã đưa tin về chiến thắng vang dội này). Cơ quan H5 (Quân giới) phục kích chống cuộc càn của lực lượng Sư đoàn bộ binh 25 và Trung đoàn cơ giới 11 Mỹ tại ấp 7, 8 xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng (từ ngày 24-4 đến ngày 6-5-1967)...


Trên địa bàn Quân khu 6, Đại đội 3 Tiểu đoàn 840, Đại đội 1 Tiểu đoàn 430 và Tiểu đoàn 842 Bình Thuận tiến đánh lực lượng không quân Mỹ tại Ruộng Sần, xã Hàm Phú, huyện Hàm Thuận Bắc (23-11-1967). Tiểu đoàn 186 chủ lực Quân khu 6 phối hợp với Trung đội 742 bộ đội huyện Di Linh phục kích Liên đoàn bảo an, Đại đội biệt động thuộc Tiểu khu Tuyên Đức; tiến công một đại đội thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ tại vành đai tây chi khu Di Linh (từ ngày 24 đến ngày 25-2-1967)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Hai, 2023, 08:38:25 am
Trên địa bàn Khu 8, lực lượng Mỹ có 3 lữ đoàn bộ binh (số 1, 2, 3) thuộc Sư đoàn 92 (Gồm 10 tiểu đoàn, trong đó có 2 tiểu đoàn cơ giới và 4 tiểu đoàn cơ động bằng máy bay trực thăng. Riêng Lữ đoàn 2 là lực lượng đặc nhiệm thủy bộ) đóng chốt ở căn cứ Rạch Kiến (Lữ đoàn bộ binh số 1) và căn cứ Bình Đức. Ngoài ra, quân Mỹ còn có Lữ đoàn hải quân đóng căn cứ ở Mỹ Tho, một lữ đoàn thuộc Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới”, Lữ đoàn 99 và Lữ dù 173 đóng tại Long An. Vốn là địa bàn kìm tỏa để bình định, Mỹ và quân ngụy thực hiện các cuộc hành quân Kolekola, Rạng đông, An dân, Chiến thắng, Cửu Long 155, 161, 55, 59, Sóng thần Sóng thần Cửu Long (Coronado)... tạo vùng an ninh cho công cuộc bình định, đặc biệt là khu vực Đức Hòa, Đức Huệ, Bàu Trai, lộ 4, 8, 9, 10...


Ở Mỹ Tho, tổ đặc công (4 người) sử dụng 4 khối thuốc nổ (200kg) đánh chìm tàu cuốc Jamaica - Bay (đêm mùng 8 rạng sáng mùng 9-1-1967). Trung đội trinh sát sử dụng cối 82 tiến công Sư đoàn 9 ngụy tại sân bay Thân Cửu Nghĩa (9-2-1967). Tiểu đoàn 514 phục đánh tiểu đoàn Mỹ tại xã Điềm Hy, huyện Châu Thành (2-5-1967)1 (Tỉnh đội Mỹ Tho tổ chức Đại hội Dũng sĩ diệt Mỹ lần thứ nhất vào đầu tháng 6-1967. Đại hội đã công nhận 35 dũng sĩ diệt Mỹ. Xã đội trưởng Bình Đức diệt được 65 tên Mỹ, đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú. Hai tháng sau, ngày 18-8-1967, trong Đại hội dũng sĩ diệt Mỹ lần thứ hai, số dũng sĩ diệt Mỹ đã lên tới 135 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 6 dũng sĩ diệt xe cơ giới và 1 dũng sĩ diệt máy bay)... Chỉ trong 7 tháng đầu năm 1967, trên mặt trận vành đai Bình Đức, quân và dân Mỹ Tho đã tiêu diệt và làm bị thương hơn 2.000 lính Mỹ và lính ngụy, thu 63 súng các loại.


Vành đai diệt Mỹ ở Khu 8 “đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên lính Mỹ, bắn cháy hơn 200 máy bay, đốt cháy gần 3 triệu lít xăng, bắn chìm nhiều tàu, xáng các loại. Đặc biệt là đánh chìm chiếc tàu cuốc Jamaica - Bay, tàu cuốc lớn bậc nhất của Mỹ, phá hủy trên 3 triệu viên đạn pháo và hỏa tiễn; hơn 50 khu đồn bót bị diệt. Hai lữ đoàn của Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ phải ba lần thay quân”2 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.614).


Ở Bến Tre, Đông Xuân 1966 - 1967, Quân giải phóng mở Chiến dịch Bình Đại - Ba Tri. Hai đại đội của Tiểu đoàn 516 san bằng 2 đồn ở xã Phú Khánh (9-11-1966); chặn đánh Tiểu đoàn biệt động quân 41 và Trung đoàn 10 Sư đoàn 7 ngụy ở Bình Khánh, Phước Hiệp (11-10-1966). Phân đội đặc công của Tiểu đoàn 261 tấn công đồn tề, trung đội dân vệ tại Châu Hưng. Một bộ phận của Tiểu đoàn 516 đánh thiệt hại nặng đồn Giồng Quéo (4-1-1967). Tiểu đoàn 261 và Tiểu đoàn 516 tập kích Tiểu đoàn biệt động quân số 32 của khu chiến thuật Tiền Giang tại Châu Hưng (Bình Đại); tiến công đồn Vang Quới; bức hàng, bức rút hàng loạt đồn bót; giải phóng hoàn toàn 4 xã Thạnh Tân, Phước Thuận, Thới Lai, Châu Hưng. Quân giải phóng Ba Tri phục kích, vận động tấn công 2 đại đội bảo an ở Giồng Trung xã Vĩnh Hòa...


Ở Kiến Tường, Quân giải phóng tìm được cách tiêu diệt “xuồng bay”, loại phương tiện quân sự thủy “bách chiến bách thắng” của Mỹ. Chỉ trong tháng 10-1966 đã có 9 “xuồng bay” của Mỹ bị tiêu diệt ở Bình Phong Thạnh, kênh Bích... Ngoài ra, Quân giải phóng còn gỡ được hệ thống đồn bót ở Tân Bình, Láng Tượng, Bắc Dầu, Quán Tre bắc... huyện Cao Lãnh.


Trên chiến trường Quân khu 9, đầu năm 1967, Mỹ và quân ngụy dùng máy bay trực thăng đổ quân truy bắt và kết hợp với máy bay B52 ném bom rải thảm phá hoại hậu cứ của Quân giải phóng.

Ở Cà Mau, Tiểu đoàn U Minh 2 phục kích Tiểu đoàn 470, một trung đội thám báo hành quân vào kinh Đòn Dong (14-7-1966). Quân giải phóng huyện Ngọc Hiển bao vây, đánh lấn, bức rút chi khu Đầm Dơi, bắn rơi máy bay F105 của Mỹ (10-1966). Tiểu đoàn U Minh 2 tiến công đồn Hộ Phòng (25-10-1966). Biệt động đánh mìn tại trụ sở huyện Vĩnh Lợi, nhà hàng Thanh Tân (12-10-1966), dinh quận thị xã Bạc Liêu (20-10-1966).


Ở Sóc Trăng, Đại đội 1 (Tiểu đoàn 2 tỉnh Sóc Trăng) ba lần dùng cối 82 tập kích sân bay Sóc Trăng, bắn cháy và hỏng 35 chiếc, thiêu hủy 2 kho xăng (từ tháng 5 đến tháng 10-1966). Tiểu đoàn Phú Lợi cùng với du kích xã Lịch Hội Thượng diệt đồn Trà Mơn, phá banh ấp chiến lược Bưng Triết, Bưng Bưởi; đánh sập cầu Trà Mơn (6-1966). Đại đội 601 tỉnh đánh 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 33 ngụy tại khu vực chùa Bà Len kinh Tân Phước, Long Hưng (27-10-1966)...


Tại Rạch Giá, Tiểu đoàn 207 đánh bại cuộc càn của một trung đoàn thuộc Sư đoàn 21 ngụy tại xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng, bắn cháy 4 xe M113 (4-9-1966).

Ở Cần Thơ, đội biệt động phối hợp với pháo binh Quân khu tập kích căn cứ Cưu Long, sân bay Trà Nóc, phá hủy và hỏng 50 máy bay (7-7-1966). Tiểu đoàn 306 tiêu diệt đồn Cái Đuốc; kết hợp với Tiểu đoàn 303 tập kích căn cứ địch ở kinh Ba Quân (26-10-1966)1 (Đánh thắng trận, Tiểu đoàn 306 được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng và Bộ Tư lệnh Miền tặng thương Huân chương Quân công hạng Hai). Tiểu đoàn 309 đánh thiệt hại nặng chi khu Ngang Dừa. Tiểu đoàn Tây Đô phục kích bắn chìm 5 tàu chiến tại đoạn kinh Một Ngàn đến kinh Sáu Ngàn (tháng 10-1966). Bộ đội huyện đảo Phú Quốc bẻ gãy cuộc hành quân “Ba lượn sóng” của quân ngụy tại khu Tượng - khu căn cứ của huyện (tháng 10-1966)2 (Qua 8 ngày chiến đấu, Quân giải phóng loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên địch; bắn cháy 1 máy bay trinh sát L19, 1 máy bay phản lực F105 và 3 máy bay trực thăng, bảo vệ an toàn khu căn cứ của huyện).


Ở Vĩnh Long, Trà Vinh, Tiểu đoàn 306 tiến công đồn Đập Ấu, bắt sống 150 lính bảo an, thu trên 200 súng các loại. Đây là trận đánh mở đầu thắng lợi của chủ lực Khu trên chiến trường Vĩnh - Trà, được Bộ Tư lệnh Miền tặng Huân chương Quân công hạng Ba (25-4-1967). “Chỉ tính trong 3 tháng (từ tháng 5 đến tháng 7-1967), các đại đội của Tiểu đoàn 306 phối hợp chặt chẽ với các địa phương bức rút, bức hàng trên 100 đồn bót, phá banh hàng trăm ấp chiến lược”. Lực lượng vũ trang tỉnh tiến công đồn Kỳ La, Mang Cá, Cầu Xây, Hòa Lạc, Rạch Chôm, Chăn Một (Châu Thành), áp sát thị xã Trà Vinh...1 (“Năm 1967, Vĩnh - Trà loại khỏi vòng chiến trên 10.000 tên, diệt, đánh thiệt hại nặng trên 10 tiểu đoàn địch, gỡ trên 200 đồn bót, hàng chục xã, hàng trăm ấp chiến lược được giải phóng. Nổi bật có Tiểu đoàn 306 diệt trên 5.000 tên địch, tiêu diệt 3 tiểu đoàn, 18 giang đoàn, trên 20 đại đội, đánh thiệt hại nặng 5 tiểu đoàn khác (Trung đoàn 14 và Trung đoàn 16 Sư đoàn 9 ngụy bị thiệt hại nặng); bắn rơi trên 30 trực thăng, diệt và bức hàng trên 100 đồn bót, hỗ trợ đắc lực hai tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh diệt địch, chuyển thế, mở vùng tốt. Năm 1967, Tiểu đoàn 306 được Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ Tư lệnh Miền tặng 4 Huân chương Quân công (1 hạng Nhất, 1 hạng Nhì và 2 hạng Ba) và 8 Huân chương Chiến công hạng Nhất cho các tiểu đoàn và đại đội”).


Đến giữa năm 1967, cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ kết thúc. Trên mặt trận “tìm diệt”, Mc. Namara nhận xét: “Tại miền Nam có trên 1 triệu quân, nhưng bị dồn vào thế bị cầm chân, tê liệt từng phần, quân thiện chiến Mỹ bị tổn thất nhiều và đau đớn...”2 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống-Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7) buộc phải quay về thế phòng ngự3 (Theo báo Daily Telegraph của Mỹ ngày 5-7-1967). “Quân lực Sài Gòn thì suy yếu, chỉ có 15 tiểu đoàn thực sự chiến đấu được”, “các đội bình định nông thôn bị tiêu diệt đến con số báo động”, “khủng hoảng diễn ra từ trung ương đến địa phương”4 (Westmoreland, báo cáo 5/67). “Ngược lại, chủ lực Việt cộng được gia tăng hơn bao giờ hết”5 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7). Tuy nhiên, mặt trận “bình định” mới được coi là “cuộc cách mạng thực sự chọi với chủ nghĩa cộng sản”, là “nhát dao đâm vào tim Việt cộng”. Sau khi dành 40% trong tổng số 2.732 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên cho bình định, Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng thu được một số" kết quả “khả quan”. Đến giữa năm 1967 trên chiến trường B2, chương trình “ưu tiên quốc gia” kiểm soát 12 tỉnh1 (Chương trình bình định “ưu tiên quốc gia” toàn miền Nam là 22 tỉnh), chính quyền Sài Gòn đã xây dựng được 1.177 ấp mới, chiếm khoảng 33,6% so với kế hoạch dự kiến (3.500 ấp), nâng số ấp chiến lược ở B2 so với toàn miền Nam từ 2.742/3.919 (năm 1966) lên 3.261/4.896 (năm 1967); dồn, xúc được 20.000 dân ở miền Tây, 50.000 dân ở miền Đông, 4.000 dân ở Khu 6 vào ấp tân sinh2 (Trong đó có 426 cuộc hành quân của quân Mỹ và Đồng minh, về quy mô có 70 cuộc hành quân cấp sư đoàn, 1.088 cuộc cấp trung đoàn, 1.644 cuộc cấp tiểu đoàn. Trung bình sử dụng 178 tiểu đoàn/ngày. Không quân thực hiện 440.363 lần/chiếc để yểm trợ hành quân, tiếp vận. Máy bay B52 xuất kích 4.894 lần/chiếc. Hải quân yểm trợ hành quân và vận tải 123.559 lần/chiếc. Trong tổng số 2.732 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên thực hiện trên toàn miền Nam, có 32% cuộc hành quân “tìm diệt” và đối phó, 40% nhằm bình định, còn 28% nhằm tiếp viện, mở đường. Trên mặt trận “bình định” (được coi là “nhát dao đâm vào tim Việt cộng”, là “cuộc cách mạng thực sự chọi với chủ nghĩa cộng sản”), tính đến tháng 6-1967, trên toàn miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã dành cho công cuộc bình định 40% trong tổng số 2.732 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:26:26 pm
III. THAM GIA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG XUÂN MẬU THÂN 1968

1. Quân giải phóng trong giai đoạn chuẩn bị tổng công kích

Các cuộc phản công chiến lược kết thúc, Chính phủ Mỹ nhận thấy kế hoạch “tìm diệt”, “tìm diệt và bình định” ba giai đoạn của tướng Westmoreland vạch ra từ năm 1965 về cơ bản bị phá sản1 (Trong cuốn “Tường trình’’ của Westmoreland nêu rõ, đến năm 1967 phải điều chỉnh lại kế hoạch ba giai đoạn) nên buộc phải mở tiếp cuộc phản công chiến lược lần thứ ba với mục tiêu đánh bại hoàn toàn Quân giải phóng và hoàn thành việc “xây dựng nông thôn mới” ở các vùng ưu tiên.


Để thực hiện mục tiêu trên, ngày 4-8-1967, Tổng thống Mỹ duyệt kế hoạch tăng binh lực tối đa cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Tính đến đầu năm 1968, trên chiến trường miền Nam Việt Nam có 525.000 quân Mỹ, 114.735 quân Đồng minh và 818.000 quân ngụy. Trong đó, khoảng 60% được bố trí trên chiến trường B2, bao gồm: 230.000 quân Mỹ, 15.800 quân Đồng minh và 520.000 quân ngụy.


Từ cuối năm 1967, Mỹ đã mở các cuộc hành quân, tiếp tục thực hiện chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định”.

Ở miền Đông Nam Bộ, Mỹ vẫn thực hiện các cuộc hành quân “tìm diệt”, nối rộng khu vực an ninh từ tỉnh Gia Định ra các vùng lân cận, tăng cường gấp đôi nỗ lực xây dựng nông thôn, khai thông và bảo vệ giao thông thủy bộ.


Ở đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh cực Nam Trung Bộ, công cuộc bình định, xây dựng nông thôn mới được tiến hành song song với việc nới rộng khu vực an ninh tại các tỉnh trọng điểm nhằm chống xâm nhập, cô lập và tiêu diệt các sư đoàn Quân giải phóng.


Đối với Quân giải phóng, tháng 10-1967, Cục Chính trị Miền tổ chức Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần thứ hai, tổng kết và vinh danh kịp thời những chiến công đạt được trong quá trình đổi đầu với chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ trên chiến trường B2. Tại đại hội, nhiều địa phương, đơn vị, cá nhân được Trung ương Cục, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng thưởng “Huân chương Tổ quốc”, “Huân chương Thành đồng Tổ quốc”, danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang”, “Chiến sĩ thi đua”... Chủ tịch Hồ Chí Minh có gửi thư chúc mừng đại hội và gọi đó là “Đại hội của những người sẽ đánh thắng “Chiến tranh cục bộ”...”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.371).


Cũng tháng 10-1967, Trung ương Cục nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng về Tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Ngày 25-10-1967, Trung ương Cục ban hành Nghị quyết “Quang Trung” về Tổng công kích - tổng khởi nghĩa.


Ngày 4-11-1967, Trung ương Cục miền Nam họp hội nghị toàn thể bàn về việc triển khai Nghị quyết “Quang Trung”. Tại hội nghị, Trung ương Cục được kiện toàn, gồm, Bí thư: Phạm Hùng; các Phó Bí thư: Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thái, Phan Văn Đáng; các Ủy viên Thường vụ: Phạm Văn Xô, Trần Nam Trung. Hội nghị cũng kiện toàn Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền.


Quân ủy Miền: Phạm Hùng (Bí thư), Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thái (Phó Bí thư); Phạm Văn Xô, Trần Văn Trà, Trần Độ, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Lê Văn Tưởng (Ủy viên).

Bộ Chỉ huy Miền: Hoàng Văn Thái (Tư lệnh), Phạm Hùng (Chính ủy), Nguyễn Văn Linh, Trần Độ (Phó Chính ủy), Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Hữu Xuyên, Đồng Văn Cống (Phó Tư lệnh), Lê Đức Anh (Tham mưu trưởng), Lê Văn Tưởng (Chủ nhiệm Chính trị), Nguyễn Văn Thi (Chủ nhiệm Hậu cần)1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.287, 288).


Tháng 12-1967, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định''2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.29, tr.50). “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định... Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền cấc cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân... Tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam... Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lặp, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tối thôhg nhất nước nhà”3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.29, tr.50).


“Cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang trên các chiến trường chính và sự nổi dậy của nhân dân ở các thành thị lớn là hai mũi tiến công chính kết hợp chặt chẽ với nhau, trợ lực lẫn nhau và thúc đẩy toàn bộ cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa khắp cả ba vùng thành thị, nông thôn đồng bằng và rừng núi. Đặc biệt, cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân ở các thành thị lớn là mũi nhọn thọc vào yết hầu của địch, có tầm quan trọng quyết định đối với toàn bộ chiến trường và toàn cuộc chiến tranh”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.29, tr.51).


Trên chiến trường B2, các quân khu 6, 8, 9 giữ vai trò phối hợp với chiến trường chính miền Đông Nam Bộ, trong đó Sài Gòn là chiến trường trọng điểm, mang tính quyết định của cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa.


Tháng 12-1967, Thường vụ Trung ương Cục ra chỉ thị gửi các quân khu hướng dẫn việc chuẩn bị và tiến hành công kích và khởi nghĩa với phương châm tiến công vào nơi hiểm yếu, quan trọng, toàn diện, đều khắp, nhanh, mạnh, bí mật, bất ngờ; kết hợp chặt chẽ giữa công kích và khởi nghĩa, đồng thời cũng “cần phải sẵn sàng chuẩn bị đánh địch phản kích, đập tan mọi âm mưu phản kích của chúng ngay từ đầu”2 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sủ Bộ Chỉ huy Miền, Sđd, tr.295, 296, 297). Bộ Chỉ huy Miền sắp xếp, bố trí và xác định nhiệm vụ cụ thể cho lực lượng Quân giải phóng trên chiến trường B2.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:27:54 pm
Trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ, lực lượng vũ trang được Bộ Chỉ huy Miền sắp xếp thành ba khối: khối chủ lực Miền, khối các phân khu, khối đặc công biệt động.

Khối chủ lực Miền bao gồm 3 sư đoàn bộ binh (thiếu) (5, 7, 9), Trung đoàn bộ binh 88, Đoàn pháo binh 69 và một số đơn vị binh chủng khác. Nhiệm vụ của khối chủ lực Miền là tiến công tiêu diệt hệ thống căn cứ quân sự của đối phương ở vùng ven Sài Gòn, khống chế lực lượng chủ lực của đối phương từ các vùng chiến thuật về ứng cứu Sài Gòn.


Khối các phân khu được tăng cường thêm 15 tiểu đoàn mũi nhọn, thành lập 6 phân khu, mỗi phân khu có từ 4 đến 6 tiểu đoàn; trong đó 5 phân khu (1, 2, 3, 4, 5) hình thành nên 5 cánh quân bao quanh Sài Gòn và 1 phân khu nội đô (Phân khu 6).


Phân khu 1, Ban cán sự bao gồm: Mai Chí Thọ (Bí thư Phân khu ủy), Trần Đình Xu (Tư lệnh Phân khu). Lực lượng bao gồm: Trung đoàn bộ binh 16, Tiểu đoàn bộ binh 1 Quyết Thắng, Tiểu đoàn bộ binh 2 Gò Môn, Tiểu đoàn đặc công 4. Phân khu phụ trách một phần huyện Trảng Bàng (Tây Ninh), các huyện Bến Cát, Dầu Tiếng (Bình Dương); tấn công trên hướng Hóc Môn - Gò Vấp - Tân Bình (Gia Định), phát triển vào Sài Gòn, đánh chiếm khu Hậu cần Gò Vấp, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, trại pháo binh Cổ Loa, trại thiết giáp Phù Đổng, Trung tâm huấn luyện Quang Trung...


Phân khu 2, Ban cán sự là: Phan Văn Hân (Bí thư Phân khu ủy), Võ Trần Chí (Chính ủy Phân khu), Ba Long (Tư lệnh Phân khu). Lực lượng có Tiểu đoàn 12 đặc công, Tiểu đoàn bộ binh 6 Bình Tân, Tiểu đoàn bộ binh 267, 269 (Quân khu 8). Phân khu phụ trách hướng tây, tây nam Sài Gòn bao gồm các huyện Đức Hòa, Bến Thủ (Long An), các quận 3, 5, 6, 11 (khu Sài Gòn - Gia Định); phát triển vào nội thành, hợp với lực lượng đặc công biệt động đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, khám Chí Hòa, trường đua Phú Thọ, Biệt khu Thủ đô...


Phân khu 3, Ban cán sự là Nguyễn Văn Chính (Bí thư Phân khu ủy kiêm Chính ủy). Lực lượng bao gồm: Tiểu đoàn bộ binh 1 2 Long An, Tiểu đoàn bộ binh 5 Nhà Bè, Tiểu đoàn 2 bộ binh Phú Lợi. Phân khu phụ trách các huyện Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc (Long An), quận 2, 4, 7, 8 (khu Sài Gòn - Gia Định); phát triển vào nội thành, hợp với lực lượng đặc công biệt động đánh chiếm Dinh Độc Lập, Tổng Nha cảnh sát, Bộ Tư lệnh Hải quân.


Phân khu 4, Ban cán sự bao gồm: Đoàn Công Chánh (Bí thư Phân khu ủy), Đặng Quang Long (Chính ủy Phân khu), Lương Văn Nho (Tư lệnh Phân khu). Lực lượng gồm có Trung đoàn bộ binh 4 thuộc Sư đoàn 5 chủ lực Miền, 2 tiểu đoàn Bà Biên (Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5). Phân khu phụ trách tấn công hướng đông Sài Gòn gồm huyện Nhơn Trạch (Biên Hòa), các quận 9, 1 (khu Sài Gòn - Gia Định); phát triển vào nội thành, hợp với lực lượng đặc công biệt động đánh chiếm Bộ Tư lệnh Hải quân, Chi khu cảnh sát Hàng Xanh, Đài Phát thanh Sài Gòn, Tòa Đại sứ quán Mỹ.


Phân khu 5 chỉ huy là Hoàng Minh Đạo (Bí thư Phân khu ủy kiêm Chính ủy). Lực lượng bao gồm Trung đoàn bộ binh Đồng Nai, Tiểu đoàn bộ binh 3 Dĩ An, Tiểu đoàn bộ binh 4 Thủ Đức. Phân khu phụ trách hướng đông bắc Sài Gòn, gồm Dĩ An, Lái Thiêu, Phú Giáo, Tân Uyên (tỉnh Bình Dương), Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây (khu Sài Gòn - Gia Định). Mục tiêu tấn công là cầu xa lộ Sài Gòn (cầu Điên Biên Phủ ngày nay), liên trường Thủ Đức, phát triển vào nội thành, hợp với lực lượng đặc công biệt động đánh chiếm Đài Phát thanh, Tòa Đại sứ quán Mỹ...


Phân khu 6 phụ trách nội thành. Ban cán sự bao gồm: Trần Bạch Đằng (Bí thư), Nguyễn Thái Sơn (Phó Bí thư), Trần Hải Phụng (Tư lệnh), Võ Văn Thạnh (Chính ủy), Nguyễn Đức Hùng (Tham mưu trưởng). Lực lượng bao gồm đơn vị F.100, Đội đặc công 90, Đội đặc công 11, Đội vũ trang Thành đoàn, Hoa vận, Công vận, Phụ vận, Tuyên huấn... Trong đó, đơn vị F.100 tổ chức thành 3 cụm: Cụm phía đông, Cụm phía bắc, Cụm phía nam.


Cụm phía đông gồm các đội đặc công biệt động 3, 4, 5, mỗi cụm gồm 3 trung đội với quân số dao động từ 45 đến 50 chiến sĩ, phụ trách các mục tiêu Dinh Độc Lộp (1 tiểu đoàn mũi nhọn và 200 thanh niên, sinh viên tiếp ứng), Đài Phát thanh Sài Gòn (1 tiểu đoàn mũi nhọn, lực lượng Ban Tuyên huấn T4 và 200 thanh niên, sinh viên tiếp ứng), Tòa Đại sứ quán Mỹ (1 tiểu đoàn mùi nhọn tiếp ứng).


Cụm phía bắc gồm các đội đặc công biệt động 6, 7, 9, phụ trách các mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu (2 tiểu đoàn mũi nhọn và 5.000 thanh niên, sinh viên tiếp ứng), khám Chí Hòa (1 tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên, sinh viên tiếp ứng).


Cụm phía nam gồm các đội đặc công biệt động 1, 2, 8, phụ trách các mục tiêu Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia (2 tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên, sinh viên tiếp ứng), Bộ Tư lệnh Biệt khu thủ đô (1 tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên, sinh viên tiếp ứng), Bộ Tư lệnh Hải quân (1 tiểu đoàn mũi nhọn và 200 thanh niên, sinh viên tiếp ứng).


Đảng ủy và Bộ Tư lệnh tiến phương khu trọng điểm cũng được thành lập, trong đó Ban cán sự Đảng ủy gồm có Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trà. Bộ Tư lệnh Tiền phương được chia thành hai bộ phận: Bộ Tư lệnh Tiền phương Bắc và Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam.


Bộ Tư lệnh Tiền phương Bắc: Ban cán sự gồm có Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, chịu trách nhiệm chỉ huy khối chủ lực Miền và lực lượng Quân giải phóng các Phán khu 1, 4, 5.

Bộ Tư lệnh tiền phương Nam: Ban cán sự gồm có Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Trần Hải Phụng, chịu trách nhiệm chỉ huy lực lượng Quân giải phóng các Phân khu 3, 6, 2, đồng thời lãnh đạo quần chúng nội thành nổi dậy.


Trên địa bàn Quân khu 8: thị xã Mỹ Tho và thị xã Bến Tre được xác định là hai địa bàn trọng điểm, trong đó thị xã Mỹ Tho là địa bàn ưu tiên số một, nên Trung ương Cục quyết định nâng lên cấp thành phố sau khi tách các huyện Gò Công, huyện Hòa Đồng để thành lập nên tỉnh Gò Công.


Tháng 12-1967, Thường vụ Khu ủy Khu 8 quyết định thành lập Bộ Chỉ huy tiền phương và bổ nhiệm Nguyễn Văn Sĩ (Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu) làm Tư lệnh, Bùi Thanh Khiết (Khu ủy viên, Phó Chính ủy Quân khu) làm Chính ủy.


Trên địa bàn Quân khu 9, sau khi nhận được chỉ thị về Tổng công kích - tổng khởi nghĩa, 9 mục tiêu quan trọng trên hai địa bàn trọng điểm bao gồm thành phố Cần Thơ (trọng điểm 1) và thị xã Vĩnh Long (trọng điểm 2) được xác định. Tuy nhiên, giữa Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu thiếu sự thống nhất về cách thức sử dụng lực lượng vũ trang.


Tháng 10-1967, Phó Bí thư Trung ương Cục Phan Văn Đáng về Khu 9 chỉ đạo tổ chức hội nghị giữa Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9 nhằm thống nhất ý kiến về sử dụng lực lượng vũ trang phục vụ Tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Sau nhiều ý kiến bàn thảo, hội nghị đi đến kết luận cần thiết phải sử dụng lực lượng chủ lực Quân khu. Tuy nhiên, không huy động hết 4 trung đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, các tiểu đoàn trinh sát, công binh, pháo binh mà chỉ sử dụng 1 trung đoàn chủ lực cùng với 9 đội đặc công biệt động. Công việc chuẩn bị phải được hoàn tất trong vòng 2 tháng.


Theo đó, “Ban chỉ đạo khởi nghĩa và Ban chỉ huy chung mặt trận được thành lập, gồm: Trần Văn Long (Mười Dài, Thường vụ Khu ủy, Phó Chính ủy Quân khu 9), Vũ Đình Liệu, Phạm Ngọc sến (Tư Kỷ), Nguyễn Việt Châu (Sáu Tâm). Sau đó bổ sung Dương Cự Tẩm (Phó Chính ủy Quân khu 9) làm Chính ủy, Đồng Văn CôVig (Thường vụ Khu ủy, Phó Tư lệnh Miền, Tư lệnh Quân khu 9) phụ trách quân lực, Phạm Ngọc Hưng (Năm Hải, Phó Tư lệnh Quân khu 9) làm Tham mưu trưởng Ban chỉ đạo tiền phương”1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.311).


Phương châm Tổng công kích - tổng khởi nghĩa được Ban chỉ đạo tiền phương đề ra: khi lực lượng đặc công biệt động tiến công mục tiêu, lực lượng vũ trang Quân khu bên ngoài đánh vào kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng. Đó là sự “kết hợp tiến công, tiêu diệt địch bằng lực lượng quân sự và nổi dậy làm chủ của lực lượng chính trị quần chúng, kết hợp hoạt động nông thôn và đô thị”2 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.311).


Trên địa bàn Quân khu 6, sau khi nhận chỉ thị Tổng công kích - tổng khởi nghĩa do Nguyễn Hữu Xuyến - Phó Tư lệnh Miền truyền đạt trực tiếp, Trần Lê (Bí thư Khu ủy cực Nam Trung Bộ kiêm Chính ủy Quân khu 6) và Nguyễn Minh Châu (Tư lệnh Quân khu 6) bắt tay chuẩn bị với quyết tâm: “Miền và các quân khu bạn làm được, Quân khu 6 cũng làm được”3 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.311).


Mục tiêu trọng điểm Tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên địa bàn Quân khu 6 được xác định bao gồm thị xã Phan Thiết (trọng điểm 1) và thành phố Đà Lạt (trọng điểm 2). Hai ban chỉ huy tiền phương được thành lập. Ban Chỉ huy Tiển phương A phụ trách địa bàn trọng điểm Phan Thiết, Ban cán sự do Nguyễn Minh Châu làm Chỉ huy trưởng, Lê Văn Hiến (Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận) làm Chính ủy. Ban Chỉ huy Tiền phương B phụ trách địa bàn trọng điểm Đà Lạt, Ban cán sự do Lê Thành Cộng (Phó Tư lệnh Quân khu 6) làm Chỉ huy trưởng, Vũ Anh Ba (Ủy viên Thường vụ Quân khu 6) làm Chính ủy.


Thực hiện chủ trương Tổng công kích - tổng khởi nghĩa, tiến đánh những mục tiêu trọng điểm của đối phương, cán bộ, chiến sĩ trên địa bàn Quân khu 6 đều tỏ rõ quyết tâm cao. Tuy nhiên, lúc đó, binh lính Mỹ và quân lực Sài Gòn đang tập trung lực lượng càn quét, đánh phá hệ thống căn cứ cách mạng ở Nam Sơn, Bình Thuận, Lâm Đồng..., lực lượng Quân giải phóng trên địa bàn Quân khu 6 đang bị chia cắt. Hơn nữa, thời gian chuẩn bị quá gấp gáp, tài lực, vật lực chuẩn bị thiếu chu đáo, không bảo đảm yêu cầu nên yếu tố thành công của Tổng công kích - tổng khởi nghĩa không cao.


Trên địa bàn Quân khu 10 (T10), sau khi nhận chỉ thị trực tiếp từ Bộ Chỉ huy Miền về Tổng công kích - tổng khởi nghĩa địa bàn trọng điểm được xác định là thị xã Phươc Long. Ban Chỉ huy Tiền phương được thành lập do đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên làm Phó Chỉ huy trưởng. Để chuẩn bị cho Tổng công kích - tổng khởi nghĩa, cùng với việc bố trí lực lượng, Quân khu 10 còn được Bộ Chỉ huy Miền chi viện hai tấn đạn, một tấn gạo...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:29:39 pm
2. Thực hành Tổng tiến công

a) Đợt I cuộc tiến công Tết Mậu Thân

Với tinh thần khẩn trương, bí mật, Quân giải phóng trên chiến trường B2 với “khí thế rực lửa Tết Quang Trung”, đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, Quân giải phóng khai hỏa ở Bình Thuận, Sài Gòn - Gia Định, Cần Thơ, Vĩnh Long...; đêm 31 rạng sáng ngày 1-2-1968, Quân giải phóng khai hỏa ở Tuyên Đức (Đà Lạt). Biên Hòa, Bình Dương, Kiến Hòa (Bến Tre), Định Tường (Tiền Giang), Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình (Trà Vinh)1 (Giờ nổ súng quy định chung trên toàn miền Nam là 2 giờ đêm giao thừa, nhưng theo lịch miền Bắc, Tết Mậu Thân đến sớm hơn một ngày so với lịch ở miền Nam. Do vậy, có sự sai lệch trong việc chấp hành ngày N giờ G theo quy định. Lịch miền Bắc, đêm giao thừa tức đêm 29 rạng sáng ngày 30-1-1968, nên các tỉnh Quy Nhơn, Kon Tum, Pleiku, Đắk Lắk Nha Trang, Đà Nắng tiến hành Chiến dịch Mậu Thân theo kế hoạch. Theo lịch miền Nam, đêm giao thừa chính là đêm 30 rạng sáng 31-1-1968, do vậy các tỉnh Huế, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Tín, Bình Thuận, Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn, Cần Thơ, Vĩnh Long và một số tỉnh miền Trung nổ súng chậm hơn một ngày so với các tỉnh ở miền Bắc. Riêng các tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre), Định Tường (Tiền Giang), Gò Cóng, Kiên Giang, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Bình Dương, Biên Hòa, Tuyên Đức (Đà Lạt) đến đêm 31-1 rạng sáng ngày 1-2-1968 mới quyết định nổ súng)...


Trên mặt trận Sài Gòn - Gia Định:

Đúng 2 giờ 15 phút sáng ngày 31-1-1968, Tiểu đoàn 268 Phân khu 2 bắn 8 quả cối 82 ly vào sân bay, mở màn đợt I Tết Mậu Thân.

Lực lượng đặc công biệt động thành ra quân: Đội 6, 9 (25 chiến sĩ) tấn công Bộ Tổng tham mưu, Đội 5 (17 chiến sĩ) tấn công Dinh Độc Lập, Đội 4 (14 chiến sĩ, có 1 nữ) tiến công Đài Phát thanh, Đội 3 (16 chiến sĩ) tiến công Bộ Tư lệnh Hải quân, Đội 11 (16 chiến sĩ) tiến công Tòa Đại sứ quán Mỹ. Trong cao điểm đầu tiên của chiến dịch, lực lượng đặc công biệt động thành đã tiến công 5 mục tiêu quan trọng nhất trong 9 mục tiêu theo kế hoạch đã định. Không được các tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng thanh niên, sinh viên vào tiếp ứng vì nhiều nguyên nhân, 88 đặc công biệt động đã phải độc lập tác chiến, tiến công và chiếm giữ mục tiêu. Dù lực lượng mỏng, đối phương lại đông hơn gấp hàng trăm lần, nhưng các chiến sĩ đặc công biệt động đã dũng cảm chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. 74 người hy sinh hoặc sa vào tay giặc trong tư thế “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”1 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.II, tr.605).

Hoạt động của các tiểu đoàn mũi nhọn:

Phân khu 1: Tiểu đoàn 2 Gò Môn và một bộ phận Tiểu đoàn 4 đặc công đã hành quân tiếp cận được mục tiêu Bộ Tổng tham mưu theo đúng kế hoạch (riêng Tiểu đoàn 267 Phân khu 2 không tiếp cận) nhưng không kết hợp được với lực lượng đặc công biệt động do đối phương tổ chức phản công. Trận đánh diên ra ác liệt, Quân giải phóng thương vong nhiều sau 2 ngày đêm chiến đấu chống phản kích nên buộc phải rút lui khi đơn vị chỉ còn lại 28 chiến sĩ. Tiểu đoàn 1 Quyết Thắng đánh chiếm trại pháo binh Cổ Loa, trại thiết giáp Phù Đổng, Xưởng quân cụ 80, Đại đội 80 tiếp vận truyền tin, Căn cứ 102 (Đánh tan tiểu đoàn bảo vệ hai căn cứ Cổ Loa, Phù Đổng, phá hủy nhiều xe pháo, bắn rơi 7 trực thăng, 1 máy bay trinh sát L19, bắn cháy 5 xe tăng và xe M113). Sư đoàn 9 chủ lực Miền (một bộ phận) tiến công Trung tâm huấn luyện Quang Trung...


Phân khu 2: Tiểu đoàn 268 cối 82 ly bắn 8 quả vào sân bay Tân Sơn Nhất. Tiểu đoàn 16 đánh chiếm các lô cốt phía tây nhưng bị đối phương phản kích. Riêng Tiểu đoàn 267 không tiêp cận được mục tiêu đã lui về khu vực cầu Tham Lương. Tại đây, các tiểu đoàn mũi nhọn Phân khu 2 (267, 269, 16, 12 đặc công) bố trí phòng ngự đánh phản kích. Tuy nhiên, do lực lượng đối phương quá mạnh nên lực lượng các tiểu đoàn bị thiệt hại tới 50% quân số, Tiểu đoàn 16 mất sức chiến đấu. Riêng Tiểu đoàn 6 Bình Tân đánh chiếm được Trường đua Phú Thọ, phát triển đến Biệt khu Thủ đô. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, đối phương đã tổ chức lực lượng phản kích. Trận đánh diễn ra quyết liệt, sau một ngày chiến đấu dũng cảm, Tiểu đoàn 6 tổn thất nặng nên buộc phải rút lui.


Phân khu 3: Đêm 31-1 rạng sáng ngày 1-2-1968, các tiểu đoàn mũi nhọn hình thành ba cánh tiến vào Sài Gòn. Lúc đó đối phương đã tổ chức phòng thủ chặt chẽ nên Tiểu đoàn 1 Long An, Tiểu đoàn Phú Lợi 2 bị đánh chặn tại cầu Nhị Thiên Đường. Tiểu đoàn 5 Nhà Bè bị đánh chặn tại Tân Quy, Nhà Bè. Tiểu đoàn 2 (đội đặc công và một bộ phận bộ binh) tác chiến tại khu vực Nguyễn Kim - Tân Phước khi đang trên đường tiên quân đến mục tiêu. Bộ Chỉ huy Tiền phương Nam cùng lực lượng Phân khu 2 sau khi vượt bến Lê Quang Liêm cũng phải trụ lại vùng Chợ Thiếc rồi sau đó rút ra vùng ven Phú Lâm, An Lạc. Tiểu đoàn Đồng Nai không tiến công được thị xã Tân An theo kế hoạch...


Phân khu 4: Tiểu đoàn 4 Thủ Đức phá cầu Xa lộ nhưng không thành, sau đó đánh phản kích ở khu vực Bình Quới Tây. Tiểu đoàn 5 Bà Biên không phát triển được lực lượng để tiến đánh Liên trường Thủ Đức.


Phân khu 5: Tiểu đoàn 3 Dĩ An đánh chiếm chi khu cảnh sát Hàng Xanh nhưng không phát triển đến được mục tiêu Đài Phát thanh, Tòa Đại sứ quán Mỹ do Tiểu đoàn 30 biệt động quân ngụy chặn đánh tại khu vực Hàng Xanh - Câu Sơn.


Nhìn chung, suốt 14 ngày chiến đấu ác liệt, các tiểu đoàn mũi nhọn chiến đấu dũng cảm, kiên cường bám trụ đánh phản kích. Tuy nhiên, do đối phương đông, hỏa lực mạnh, phản công quyết liệt, lực lượng các tiểu đoàn mũi nhọn ngày một hao hụt, các nhiệm vụ đặt ra đều không thực hiện được. Ngày 12-2-1968 cao điểm 1 của đợt I kết thúc, các tiểu đoàn mũi nhọn lần lươt rút ra ngoại ô.


Trên địa bàn vùng ven Sài Gòn:

Sư đoàn 5 Quân giải phóng tiến công sân bay Biên Hòa Bộ Chỉ huy dã chiến 2 Mỹ ở khu vực ngã ba Tam Hiệp... Sư đoàn 7 Quân giải phóng tiến công lực lượng Sư đoàn 5 ngụy tại Bến Cát, Tiểu đoàn bộ binh Mỹ tại Phú Giáo... Sư đoàn 9 Quân giải phóng tiến công hệ thống đồn bót tại Củ Chi, Thủ Đức... Quân giải phóng tỉnh Tây Ninh tiến công chi khu Phú Khương, chi khu Phước Ninh... Quân giải phóng tỉnh Bà Rịa tấn công thị xã Long Khánh, thị xã Bà Rịa, chi khu Tân Phong, yếu khu Túc Trưng, thị trấn Long Đất...


Ở Quân khu 10, Quân giải phóng Bình Phước Long tiến công thị trấn Phước Bình..., giải phóng 28 khu, ấp chiến lược...


Trên chiến trường cực Nam Trung Bộ:

Quân giải phóng tiến công thị xã Phan Thiết, đánh chiếm Ty cảnh sát, Ty chiêu hồi, Tỉnh đoàn bảo an, đánh giao thông trên các đường số 1, 8, 11, 20 tại các tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận... Đặc biệt, tại nhiều mục tiêu quan trọng ở Bình Thuận, Quân giải phóng trụ được cả tuần. Chính quyền Sài Gòn thừa nhận: “Bình Thuận là một trong những trọng điểm bị thiệt hại nặng nề ở miền Nam”1 (Trích theo Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.614). Tuy nhiên, trên chiến trường cực Nam Trung Bộ, mục tiêu chính theo kế hoạch là thị xã Phan Thiết và Đà Lạt không thực hiện được, Quân giải phóng chủ yếu đánh phản kích...


Trên chiến trường Trung Nam Bộ:

Đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, Quân giải phóng đồng loạt tấn công vào 6 thị xã, 21 thị trấn thuộc các tỉnh Trung Nam Bộ.

Nhiều mục tiêu quan trọng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều bị Quân giải phóng tấn công như tiểu khu quân sự, tỉnh đoàn bảo an, dinh Tỉnh trưởng, khám Gò Công, trại Đinh Tiên Hoàng... Tuy nhiên, quân ngụy huy động lực lượng (Sư đoàn 7, 9), máy bay ném bom, tăng thiết giáp, pháo hạm... để phản kích tiêu diệt Quân giải phóng. Các trận chiến đấu ác liệt diễn ra ở Mỹ Tho, Giếng Nước, Trung Lương, Gò Công, Bến Tre, Mộc Hóa, Cao Lãnh, Châu Đốc, Long Xuyên, Tri Tôn, Tân Châu... Quân giải phóng thiệt hại nặng buộc phải rút ra vùng ven hoặc rút về căn cứ. Đặc biệt, cùng với các mũi tấn công của Quân giải phóng, quần chúng ở các địa phương đã nổi dậy, tổ chức thành các tổ đội phục vụ chiến đấu, như tải đạn, đào công sự, dựng chướng ngại vật, tải thương, cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội... Trên địa bàn Khu 8, hàng ngàn ghe, xuồng, đò, mảng... được huy động phục vụ tổng tiến công.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:30:32 pm
Trên chiến trường Tây Nam Bộ:

Đêm 31-1-1968, Quân giải phóng đồng loạt nổ súng tấn công nhiều mục tiêu quan trọng của đối phương ở các thị xã, thị trấn.

Tại Cần Thơ, Quân giải phóng tấn công tiểu khu Phong Dinh, trung tâm chỉ huy địa phương quân, căn cứ Trung đoàn 2 thiết giáp, căn cứ Liên đoàn biệt động quân số 42, 44, Sở chỉ huy Vùng 4 chiến thuật, Đài Phát thanh, cư xá tình báo và cố vấn Mỹ, Lãnh sự quán Mỹ, sân bay Lộ Tẻ, Trà Nóc... Ở Vĩnh Long, Quân giải phóng tấn công khu truyền tin Hoa Lư, hậu cứ Tiểu đoàn 43 quân biệt động, dinh Tỉnh trưởng, Ty cảnh sát, Tiểu đoàn bảo an, phà Mỹ Thuộn... Ỏ Trù Vinh Quân giải phóng tấn công cư xá Mỷ, đồn Hồ Nước Ngọt... Ở Rạch Giá, Quân giải phóng tấn công trung tâm hành quân tiểu khu, bưu điện, trại cảnh sát, ty ngân khé)... Ở Cà Mau Quân giải phóng tấn công bót Thầy Giàu, làng Chiêu Hồi, trại Phạm Ngũ Lão... Đặc biệt, ngày 12-2-1968, Quân giải phóng và quân dân địa phương tiến công, vây ép, bức rút quân ngụy giải phóng hoàn toàn huyện Năm Căn và là huyện đầu tiên được giải phóng ở miền Tây Nam Bộ trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968...


Ngày 25-2-1968, đợt I cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 kết thúc. Tổng thông Mỹ Johnson thừa nhận: “Lực lượng Bắc Việt Nam và Việt cộng đã tiến công 36 trong 44 tỉnh ở miền Nam... Họ đã bắn phá 5 trong 6 thành phố lớn nhất và khoảng 1/4 trong số 248 quận lỵ”1 (Trích theo Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ khắng chiến, Sđd, t.II, tr.621).


“Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Khoa học quân sự, toàn miền Nam, quân dân miền Nam đã tiến công đồng loạt 6 thành phố, 44 thị xã, hàng trăm quận lỵ; loại khỏi vòng chiến 147.000 tên (có 43.000 tên Mỹ), làm tan rã 20 vạn tên; diệt và đánh thiệt hại nặng 31 tiểu đoàn bộ binh, 1 thiết đoàn và 5 chi đoàn thiết giáp, 196 đại đội (có 5 tiểu đoàn, 90 đại đội Mỹ bị diệt và bị thiệt hại nặng); phá hủy 2.310 máy bay, 1.700 tăng - thiết giáp, 350 pháo, 230 tàu xuồng, 1.368.000 tấn vật tư chiến tranh bị mất hoặc bị phá (chiếm 4% dự trữ chiến tranh của đối phương)”2 (Trích theo Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ khắng chiến, Sđd, t.II, tr.621).


“Những số liệu về diệt sinh lực địch ở đây được tổng hợp từ những báo cáo ở các chiến trường lúc bấy giờ, trong đó có những số liệu ước đoán.

- Riêng trên chiến trường B2, theo tài liệu Ban Tổng kết chiến tranh B2: quân dân B2 diệt, làm bị thương 55.000 tên (có 21.500 tên Mỹ), làm tan rã 19.000 tên; diệt 6 tiểu đoàn bộ binh (có 2 tiểu đoàn Mỹ), 4 chi đoàn thiết giáp (1 chi đoàn thiết giáp Mỹ), 78 đại đội (có 23 đại đội Mỹ); phá hủy 635 máy bay, 1.213 xe (có 793 tăng - thiết giáp), bắn chìm và cháy 63 tàu thủy, phá hủy 46 pháo cối (106 - 155 ly), 97 kho và trên 4.000.000 lít xăng; diệt, bức rút 7 chi khu, 398 đồn tua, giải phóng 38 xã, 137 ấp với 494.000 dân, tuyển được 1.297 tân binh, phát triển 10.600 du kích.

- Số liệu của Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn: trong 6 tháng đầu năm 1968 (chủ yếu trong các tháng 2, 3-1968) chêt 20.437 người (có 9.301 tên Mỹ), bị thương 74.772 người (có 40.622 tên Mỹ), mất tích 2.231 người (có 464 tên Mỹ), mất 465 vũ khí cộng đồng, 4.551 vũ khí cá nhân”1 (Trích theo Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.621).


Mặc dù Quân giải phóng đã giành được những thắng lợi lớn nhưng đợt I cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 ta đã không hoàn thành kế hoạch.

Tại Sài Gòn và vùng ven, sự phối hợp giữa các lực lượng, giữa các mũi tấn công thiếu đồng bộ. Quân giải phóng chưa thực hiện được nhiệm vụ “đòn xeo” trong tổng công kích, chưa phát động được quần chúng nổi dậy tham gia tổng khởi nghĩa. Lực lượng đặc công, biệt động tiến công các mục tiêu trọng yếu của địch theo đúng kế hoạch nhưng không có lực lượng tiếp ứng nên không thể chiếm giữ, trụ vững khi đối phương tổ chức phản công khiến cho lực lượng đặc công, biệt động bị thương vong lớn.


Tại các quân khu 8, 9, 10, 6, công tác chuẩn bị thiếu chu đáo; lực lượng thiếu, vũ khí, chiến trường tổ chức không tốt phương thức, nghệ thuật đánh địch trong nội thành, nội thị thiếu bài bản, chưa có kinh nghiệm chống đối phương phản công. Dù Quân giải phóng đã cố gắng hết sức có thể nhưng kết quả cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân năm 1968 đạt được không cao, xuất hiện nhiều tình huống xấu nằm ngoài dự kiến, dẫn đến tình trạng thương vong nhiều, gây tổn thất lớn cho Quân giải phóng; nhiều đơn vị mất sức chiến đấu.


Về đối phương, sau cơn choáng váng, Mỹ đã thành lập Bộ Chỉ huy quân sự Thủ đô (Capital Military American Command), sử dụng 4 lữ đoàn phản ứng nhanh, phối hợp với Chiến dịch Trần Hưng Đạo của quân ngụy để tổ chức giải tỏa, phản công đẩy lùi Quân giải phóng ra xa vùng đô thị.


Tháng 3-1968, chính quyền Sài Gòn quyết định nâng cấp “phòng vệ dân sự” thành lực lượng phòng thủ chiến lược; mở cuộc hành quân “Quyết Thắng” trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, Long An, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Tây Ninh để giải tỏa vùng ven, ngăn chặn các đợt tiến công của Quân giải phóng vào đô thị Sài Gòn.


Tính đến tháng 4-1968, lực lượng bảo vệ xung quanh Sài Gòn lên đến 200.000 tên (60 tiểu đoàn). Với lực lượng hùng hậu đó, Mỹ kết hợp với quân lực Sài Gòn sử dụng hàng ngàn xe tăng, xe bọc thép, máy bay lên thẳng... mở các cuộc hành quân càn quét, xây dựng tuyến công sự dã chiến phòng thủ theo vòng cung tây - bắc - đông; nam - tây nam Sài Gòn - nơi có nhiều địa hình sình lầy, bụi rậm, “có thể là con đường Quân giải phóng lựa chọn” để xâm nhập vào vùng nội thành.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:40:57 pm
b) Đợt II cuộc Tổng tiến công

Tháng 3-1968, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ sáu đánh giá kết quả đạt được và những yếu kém, tổn thất của đợt I Mậu Thân nhằm rút kinh nghiệm, bài học và đề ra chủ trương sắp tới. Hội nghị kết luận: “Ta đã thắng lợi, tiêu diệt được nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, nhưng chưa giành được thắng lợi cao nhất theo khả năng thứ nhất mà Bộ Chính trị đã đề ra”. Tuy nhiên đợt I Mậu Thân “đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa hết sức quan trọng...; tạo ra những sức mạnh to lớn về quân sự, chánh trị, kinh tế và mở ra một cục diện mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhàn dân ta, đật cơ sở vững chác dể đưa TCK- TKN đến thắng lợi hoàn toàn”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t.29, tr.604, 614).


Trên cơ sở nhận định trên, Hội nghị chủ trương: tiếp tục thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương bằng cách “liên tục tiến công địch và phất động quần chúng nổi dậy giành chánh quyền; ra sức tiêu hao, tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, duy trì và đẩy mạnh các mặt hoạt động trên địa bàn đô thị; làm chủ các đường giao thông chiến lược; giải phóng và làm chủ toàn bộ nông thôn đồng bằng, miền núi và tăng cường xây dựng hậu phương lớn mạnh về mọi mặt; nhanh chóng xây dựng, củng cố phát triển lực lượng vũ trang, chính trị, giành thắng lợi liên tiếp và vững chắc, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn với tinh thần hết sức khẩn trương; đồng thời sẵn sàng ứng phó một cách chủ động nếu chiến tranh kéo dài và mở rộng"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t.29, tr.604, 614).


Để chuẩn bị Tổng công kích - tổng khởi nghĩa đợt II, cùng với việc chỉ đạo các quân khu, các địa phương củng cố thế và lực. Bộ Chỉ huy Miền điều chỉnh cán bộ phụ trách các cánh hướng: Trần Văn Trà (Phó Tư lệnh Miền) được rút về Sở Chỉ huy cơ bản; Lê Trọng Tấn (Phó Tư lệnh Miền) được giao nhiệm vụ phụ trách hướng bắc, sở Chỉ huy đóng ở Thanh An (Bến Cát); Lê Đức Anh (Tham mưu trưởng Miền), Lê Văn Tưởng (Chủ nhiệm Chính trị Miền), Trần Văn Nghiêm (Cục phó Cục Tham mưu Miền) phụ trách hướng tây - nam...


Công tác chuẩn bị Tổng công kích - tổng khởi nghĩa đợt II tiến hành khẩn trương với nhiều khó khăn. Phần lớn lực lượng chủ lực, đặc biệt là các tiểu đoàn mũi nhọn tinh nhuệ của các phân khu sau đợt I Mậu Thân đều phải rút ra xa thành phố, thị xã, thị trấn. Hơn nữa, nhiều đơn vị quân chủ lực Miền, đơn vị chủ lực của các quân khu tổn thất nặng trong đợt I Mậu Thân, quân số chỉ còn lại gần phân nửa. Lương thực, thực phẩm thiếu thốn, nhiều đơn vị bí mật trú ém quân ở vùng ven phải chia sẻ từng lon gạo, từng bánh lương khô. Yếu tố bất ngờ của Tổng công kích - tổng khởi nghĩa không còn, tinh thần chiến sĩ sa rút, hoang mang. Bên cạnh đó, 60 tiểu đoàn Mỹ và quân ngụy được bố trí, tuần tra bảo vệ xung quanh Sài Gòn... Tuy nhiên, với quyết tâm cao độ, Thường vụ Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền vẫn giữ quyết tâm của Bộ Chính trị, mở đợt II Mậu Thân, bám mục tiêu chờ lệnh xuất kích.


Kế hoạch Tổng công kích - tổng khởi nghĩa đợt II Mậu Thân, Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền xác định:

Tại Sài Gòn - Gia Định, “sử dụng một bộ phận chủ lực cùng với các tiểu đoàn mũi nhọn tiến công 5 hướng vào nội thành, phối hợp với biệt động thành phát động quần chúng khởi nghĩa giành quyền làm chủ, sử dụng chủ lực và các binh chủng đánh địch ở vùng ven là chủ yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng Mỹ - ngụy, hỗ trợ cho lực lượng tấn công vào nội thành”1 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2)).


Phân khu 1 phụ trách hướng bắc, tây bắc. Sử dụng lực lượng phân khu 1 bao gồm Trung đoàn hộ binh 16, Trung đoàn bộ binh 88, 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn đặc công, từ hướng Hóc Môn phát triển vào nội thành, tấn công đối phương trên địa bàn Gò Vấp, Tân Sơn Nhất, phát động quần chúng nổi dậy.


Phân khu 2 phụ trách hướng tây nam. Lực lượng gồm có 3 tiểu đoàn bộ binh của Phân khu 2, Tiểu đoàn bộ binh 308 Trà Vinh, Sư đoàn bộ binh 9 Quân giải phóng, tấn công vào hướng Phú Lâm - quận 6 - quận 5, đánh chiếm Trường đua Phú Thọ, Biệt khu Thủ đô, Ngã tư Bảy Hiền.


Phân khu 3 phụ trách hướng nam. Lực lượng gồm có 3 tiểu đoàn bộ binh của Phân khu 3, tiến công quận 4, 8, phát triển vào quận 1, 2, tiến công Tổng nha cảnh sát...

Phân khu 4 phụ trách hướng đông. Lực lượng gồm có 2 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoàn đặc công, tiến công quận 9, Thủ Thiêm, cầu Xa lộ (cầu Điện Biên Phủ); pháo kích Bộ Tư lệnh Hải quân, kho Tân cảng, Nhà Bè, Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ quán Mỹ...


Phân khu 5 phụ trách hướng đông bắc. Lực lượng gồm có Trung đoàn bộ binh Đồng Nai, 1 tiểu đoàn bộ binh Phân khu 1, tiến công cầu Bình Lợi, Hàng Xanh, Thị Nghè, Gò Vấp, Bình Hòa...

Trong nội thành, Bộ Chỉ huy Miền chủ trương sử dụng lực lượng biệt động, an ninh thành kết hợp với lực lượng Thành đoàn, lực lượng vũ trang tuyên truyền Lê Thị Riêng lực lượng vũ trang tuyên truyền của các quận, đoàn thể, phối hợp cùng lực lượng Phân khu 3 tấn công khu vực quận 1 quận 2, quận 3, quận 5, bót Kiều Công Mười, Tòa hành chính. Tổng nha cảnh sát..., phát động quẩn chúng nổi đậy.


Tại vùng ven và xung quanh Sài Gòn: Trung đoàn bộ binh 5 thuộc Sư đoàn 5 giữ hành lang Trảng Bàng. Sư đoàn bộ binh 7 (thiếu) sử dụng Trung đoàn bộ binh 12 đứng chân vùng Lái Thiêu, Trung đoàn bộ binh 14 đứng chân vùng Bình Mỹ, Bình Cơ, trung đoàn bộ binh còn lại phụ trách hành lang từ sông Rạch Tra đến Tân Thới Hiệp. Sư đoàn pháo binh Miền pháo kích các căn cứ Lai Khê, Dầu Tiếng, Đồng Dù, Phú Lợi. Tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn bộ binh 70 kết hợp với lực lượng địa phương hỗ trợ quần chúng nổi dậy tại Củ Chi, Hóc Môn...


Tại Biên Hòa: Trung đoàn 724 pháo kích kìm chế sân bay Biên Hòa, kho Long Bình. Trung đoàn bộ binh 4 thuộc Sư đoàn 5 trước ngày N đánh kéo địch lên đường 20 (La Ngà - Định Quán).

Tại Tây Ninh: 2 tiểu đoàn bộ binh kết hợp với 1 tiểu đoàn đặc công và bộ đội địa phương thị xã đánh trước ngày N để nghi binh, chủ yếu tại khu vực Bến cầu, Bến Kéo, Trảng Lớn và một scT mục tiêu trong thị xã Tây Ninh.


Ngoài ra, Quân khu 10, Quân khu 6, Quân khu 8, Quân khu 9 đều có kế hoạch tấn công kết hợp với phát động quần chúng nổi dậy, phối hợp chung toàn chiến trường B21 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:42:50 pm
Ngày 5-5-1968, tiếng súng Tổng công kích, tổng khởi nghĩa đợt II nổ ra đồng loạt trên toàn Miền với khí thế “Cửu Long cuộn sóng”, “Trường Sơn chuyển mình”, “xốc tới”, “đợt sau cao hơn đợt trước”1 (Các khẩu hiệu động viên trong các văn kiện động viên của Miền lúc bấy giờ)...


Cao điểm 1 (từ ngày 5-5-1968 đến ngày 21-5-1968):

Mở màn cao điểm 1 đợt II, lúc 0 giờ 30 phút ngày 5-5-1968, hỏa lực Quân giải phóng tấn công sân bay Tân Sờn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Tòa Đại sứ quán Mỹ, Dinh Độc Lập, Tân Cảng Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tổng nha cảnh sát, Đài Truyền hình, cầu Phan Thanh Giản2 (Riêng Đài Truyền hình và cầu Phan Thanh Giản do lực lượng biệt động tấn công).


Phân khu 1: Quân giải phóng vận động tiến đánh vùng Cây Xoài, Xóm Mới, khu vực Chuồng Chó (Gò Vấp), nhưng không thể tiếp cận mục tiêu do đối phương chốt chặn ngay vùng ven. Trung đoàn 88 tác chiến ở Tân Thạnh Đông. Tiểu đoàn 1, 2 tác chiến ở An Phú Đông. Trung đoàn 16, Tiểu đoàn Quyết Thắng tiến công đối phương ở Tân Thới Hiệp...


Phân khu 2: Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) và Trung đoàn 2 (Phân khu 2) tiến vào khu vực Cầu Tre, Trường đua Phú Thọ, Bà Hạt, Ngã tư Bảy Hiền, Vườn Lài, Trần Quốc Toản, Sư Vạn Hạnh, phối hợp với đội vũ trang tuyên truyền đánh chiếm Tòa hành chính quận 5. Tuy nhiên, hướng tiến công này bị đối phương chốt chặn, phản kích. Các đơn vị phải liên tục đánh phản kích, bị thương vong lớn nên buộc phải rút lui, không tiếp cận được mục tiêu Biệt khu Thủ đô.


Phân khu 3: Quân giải phóng thọc vào quận 7, 8, đánh chiếm cầu Chữ Y (Tiểu đoàn 1, 2 Long An); cầu Tân Thuận (Tiểu đoàn 5); đánh phản kích ở khu vực Chánh Hưng (Tiểu đoàn Phú Lợi). Riêng Tiểu đoàn Nhà Bè không tiếp cận được mục tiêu theo kế hoạch mà vào phía nam quận 4, tiến đánh được một bót lẻ.


Phân khu 4: Tiểu đoàn 2, 4 tập kích cầu Sơn, Bình Hòa cầu Xa lộ. Đặc công Trung đoàn 4 đánh cầu Rạch Chiếc. Đơn vị pháo phân khu pháo kích Tân Cảng, Bộ Tư lệnh Hải quân kho Nhà Bè, Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ...


Phân khu 5: Tiểu đoàn 2, 3, 4 (Phân khu 5) không tiếp cận được mục tiêu, chuyển qua đánh phản kích ở khu vực đường Tự Đức, Cầu Sơn, Thị Nghè, Bình Hòa, rồi qua An Phú Đông. Tiểu đoàn 1, 2 (Trung đoàn Đồng Nai) không tiếp cận được mục tiêu cầu Bình Lợi, chuyển sang phản kích ở khu vực Bình Hiệp...


Ở nội thành, lực lượng Thành đoàn do Nguyễn Sơn Hà (Bảy Thép) chỉ huy tác chiến ở vùng Bàn Cờ, Vườn Chuối; một bộ phận khác làm nhiệm vụ dẫn đường cho Quân giải phóng Phân khu 2 đến khu Chợ Thiếc. Lực lượng vũ trang tuyên truyền1 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tr.59, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7) mang danh nghĩa Tiểu đoàn biệt động Lê Thị Riêng2 (Trích theo Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđđ, t.II, tr.638) tác chiến ở khu vực quận 1. Lực lượng vũ trang tuyên truyền các quận 1, 2 tác chiến ở các khu vực Cô Giang, Cô Bắc, Đề Thám... Lực lượng biệt động Hoa vận đánh chiếm Tòa hành chính, Ty cảnh sát, Ty thuế vụ quận, bót Bà Hòa trên địa bàn quận 5...


Nhìn chung, trong cao điểm 1, Quân giải phóng đã hành quân, vận động thọc sâu. Tuy nhiên phần lớn bị đối phương phát hiện chặn đánh nên buộc phải tác chiến ở vùng ven. Số ít đơn vị tiếp cận được mục tiêu theo kế hoạch nhưng không thể tác chiến do đối phương đã đề phòng, đón lõng nên chủ yếu vận động chống phản kích. Do cuộc chiến đấu không cân sức về cả lực lượng, hỏa lực và thế trận, Quân giải phóng bị tôn thất nặng. Trung đoàn 2 Phân khu 2 khi rút ra chỉ còn 50 tay súng lại phải mang theo 25 thương binh. Trung đoàn 1 (Sư đoàn 9) thương vong trên 700 chiến sĩ. Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 2, Sư đoàn 9) quân số 500 chiến sĩ, khi rút ra chỉ còn 43 chiến sĩ. Tiểu đoàn 1, 2 (Trung đoàn Đồng Nai - Phân khu 5) tấn công cầu Bình Lợi không thành bị thương vong nhiều. Lực lượng vũ trang Thành đoàn hy sinh toàn bộ ở Bàn Cờ, tại khu Chợ Thiếc. Lực lượng vũ trang tuyên truyền Lê Thị Riêng, nữ tự vệ các quận, lực lượng biệt động Hoa vận, Phụ vận... gần như bị xóa sổ vì sợ bị bắt, số khác hy sinh tại Cầu Kho, Cầu Muối, Cô Giang, Cô Bắc, Đề Thám, Huỳnh Quang Tiên...


“Tuy lực lượng giải phóng bị tổn thất nặng, nhưng cao điểm này có ý nghĩa chính trị lớn, mà chính Westmoreland đã thừa nhận: Họ đã đạt được mục tiêu thúc đẩy Mỹ đơn phương xuống thang chiến tranh, đến bàn hội nghị trong khi nhiều người Mỹ cứ tưởng là Chính phủ Mỹ bắt địch đến hội nghị”1 (Theo Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.639).


Cao điểm 2 (từ ngày 25-5-1968 đến ngày 18-6-1968):

Tại Sài Gòn - Gia Định:

Đêm 24 rạng sáng ngày 25-5-1968, Quân giải phóng đồng loạt tiến công các mục tiêu đã định.

Phân khu 1: Trung đoàn Quyết Thắng (2 tiểu đoàn) vượt sông Vàm Thuật tiến xuống Gò Vấp, kết hợp với Trung đoàn Đồng Nai (2 tiểu đoàn) tác chiến ở khu vực Cây Thị, Cây Quéo, cầu Băng Ky, Bà Chiểu, ngã 5 Chuồng Chó, chùa Tường Quang (An Phú Đông)... Khi rút ra, 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Quyết Thắng tổn thất đến 2/3 quân số.


Phân khu 2: Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 308 (miền Tây), Tiểu đoàn 7, 8 (Sư đoàn 9) tiến vào quận 5, quận 6, khu vực Nguyễn Trãi, Đồng Khánh, Khổng Tử, Tổng đốc Phương, Nguyễn Văn Thoại, chợ An Đông, chợ Bình Tây, Chợ Thiếc... Các trận chiến đấu ác liệt diễn ra, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 308 hy sinh gần hết, Tiểu đoàn 6 thương vong 280 cán bộ, chiến sĩ (khoảng 2/3 quân số). Tiểu đoàn 7 bị tổn thất nặng, hầu như mất sức chiến đấu nên tất cả phải rút lui.


Phân khu 3: do đối phương lập tuyến phòng thủ, bịt kín các ngõ vào thành phố nên Quân giải phóng buộc phải tác chiến, chống càn ở vùng ven.

Phân khu 4: sử dụng pháo kích vào Bộ Tư lệnh Hải quân, Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, kho xăng Nhà Bè, bắn cháy 10 tàu chiến của đối phương trên sông Lòng Tàu, trong đó có 1 tàu chở dầu 10.000 tấn.


Phân khu 5: Trung đoàn Đồng Nai (Tiểu đoàn 3, 4) vượt sông Vàm Thuật tiến đến Gò Vấp, kết hợp với Trung đoàn Quyết Thắng tác chiến ở Lò Vôi, đường Lê Quang Định, Ngô Đức Kế, khu Tập Thành, chùa Linh Sơn, chùa Trúc Lâm, đường Trần Bình Trọng, Ngô Tùng Châu... Sau ba ngày chiến đấu liên tục với lực lượng đối phương đông hơn nhiều lần, lực lượng hai tiểu đoàn 3, 4 chỉ còn khoảng 100 chiến sĩ, trong đó một số là thương binh nên không còn sức chiến đấu. Trung đoàn cử Tiểu đoàn 2 vào tiếp sức nhưng không vượt được sông. Khi rút lui được về cứ, hai tiểu đoàn 3, 4 chỉ còn 70 chiến sĩ.


Trên chiến trường vùng ven Sài Gòn - Gia Định:

Trung đoàn 5 Quân giải phóng (Sư đoàn 5) phối hợp với lực lượng Quân giải phóng địa phương huyện Trảng Bàng, Củ Chi tổ chức đánh trận Trảng Xa, Căm Xe, đường 15... Trung đoàn 12 Quân giải phóng (Sư đoàn 7) tổ chức đánh trận Phú Văn, Bình Cơ... Trung đoàn 4 Quân giải phóng (Sư đoàn 5) tổ chức đánh trận lộ 20 (La Ngà), yếu khu Túc Trưng, sân bay Biên Hòa. kho Long Bình, sở Chỉ huy dã chiến II của Mỹ tại Biên Hòa... Quân giải phóng Bà Rịa đánh yếu khu cẩm Mỹ, thị xã Bà Rịa, Xuân Lộc, Suối Râm... Quân giải phóng Tây Ninh tổ chức các trận đánh ở Bến cầu, Gò Dầu, lộ 22, Trung tâm thông tin dã chiến II núi Bà Đen, căn cứ quân sự Trảng Lớn...


Trên chiến trường khu vực Nam Trung Bộ:

Lực lượng vũ trang Bình Thuận loại khỏi vòng chiến số quân địch tương đương 10 đại đội. Trên chiến trường Lâm Đồng, các đơn vị khu, tỉnh đã diệt và loại khỏi vòng chiến trên 4 đại đội ngụy, đánh thiệt hại nặng chi khu Di Linh...


Trên chiến trường Trung Nam Bộ:

Quân giải phóng tập kích cụm cơ giới Mỹ ở Nhị Bình, đột nhập cư xá Mỹ, đồn cảnh sát, tấn công căn cứ Thiêt đoàn 6, Trung tâm huấn luyện Hùng Vương (Mỹ Tho); phục kích Trung đoàn 10 Sư đoàn 7 ngụy, đánh đồn Phú Hưng, Phú Định (Bến Tre), đánh chìm 10 tàu thuyền trên sông Ba Lai, diệt đồn Ba Chúc (An Giang)...


Trên chiến trường Tây Nam Bộ:

Quân giải phóng tiến công sân bay Lộ Tẻ, phục kích ở Cái Tắc - Tầm Vu... (Cần Thơ), đánh trận Bà Kha, cầu Ông Me, lộ Cầu Vồng, bao vây uy hiếp thị xã Vĩnh Long, thị xã Trà Vinh (Vĩnh - Trà); tiến công thị xã Rạch Giá, yếu khu Minh Lương, chi khu Ngã Năm, pháo kích sân bay Sóc Trăng, tiểu khu Ba Xuyên,...


Sau gần một tháng rưỡi đợt. II Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Mậu Thân kết thúc (18-6-1968). Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã tiêu diệt 47.800 tên địch (trong đó có 17.700 lính Mỹ, 600 lính Úc, 120 lính Thái Lan), làm tan rã 20.000 tên; tiêu diệt 13 tiểu đoàn (có 3 tiểu đoàn bộ binh Mỹ, 2 tiểu đoàn thiết giáp Mỹ, 1 tiểu đoàn bộ binh Úc), 90 đại đội (trong đó có 30 đại đội Mỹ, 3 đại đội pháo Mỹ, 2 đại đội pháo Úc); bắn rơi và phá hủy 353 máy bay, 1.254 xe quân sự (có 985 tăng thiết giáp), 100 pháo, 47 cầu cống; bắn chìm và cháy 107 tàu, diệt 143 đồn bót, bức rút 39 đồn, tua khác; phá 23 ấp chiến lược, giải phóng 5 xã, 53 ấp, 73.000 dân1 (Theo số liệu của Ban Tổng kết chiến tranh B2, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, tài liệu 1K. 117). Tuy nhiên, Quân giải phóng trên chiến trường B2 cũng bị tổn thất nặng, nhất là ở mặt trận trọng điểm. Lực lượng biệt động, lực lượng vũ trang các quận, lực lượng vũ trang tuyên truyền của các tổ chức đoàn thể trong nội thành như Thành đoàn, Hoa vận, Phụ vận... hầu như tan rã. Các đơn vị mũi nhọn của cả 5 phân khu đều thương vong lớn; nhiều tiểu đoàn chỉ còn lại 1/4 đến 1/3, hay 1/2 quân số, thậm chí có tiểu đoàn mất sức chiến đấu hoàn toàn. Đơn cử như Trung đoàn 1, Trung đoàn 21 Phân khu 2, Trung đoàn Quyết Thắng, Trung đoàn Gia Định, Trung đoàn Đồng Nai... hầu như đều mất từ nửa quân số trở lên. Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn Quyết Thắng thương vong gần hết. Trung đoàn Đồng Nai khi rút ra chỉ còn 70 chiến sĩ, số hy sinh, số thất lạc một thời gian sau mới tập hợp được 300 chiến sĩ. Khối chủ lực Miền cũng thiệt hại nặng: Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 thương vong 700 chiến sĩ chỉ trong 4 ngày; Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 Sư đoàn 9 có 500 chiến sĩ, sau đợt II Mậu Thân chỉ còn lại 43 chiến sĩ, thương vong đến 457 chiến sĩ2 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), lưu trữ Phong Khoa học quân sự Quân khu 7)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:44:27 pm
c) Đợt III cuộc Tổng tiến công

Tháng 6-1968, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ bảy được tổ chức nhằm tổng kết, đánh giá kết quả đạt được và chỉ ra nhưng nhược điểm, yếu kém của đợt II, đồng thời xác định nhiệm vụ la “Phải làm cho toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân nhận rõ thắng lợi sau 2 đợt tấn công và nổi dậy của toàn Miền, nhất là của hướng trọng điểm, nhận rõ thất bại mới và sự suy sụp mới của địch nhanh chóng củng cố phát triển lực lượng của ta, liên tục tấn công và nổi dậy ở đô thị cũng như ở nông thôn, tiẽp tục đánh địch những cú nặng hơn, giành thắng lợi mới to lớn hơn"1 (Trích Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ bảy (6/68) - số 1868, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Tháng 8-1968, Bộ Chính trị ra nghị quyết chuyên đề về Tổng công kích - tổng khởi nghĩa, khẳng định: “Thắng lợi to lớn và quan trọng nhất là chúng ta đã tạo ra một sự thay đổi đột biến trong cục diện chiến tranh...”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.29, tr.396). Do vậy, cần “động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả 2 miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, ra sức tăng cường lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang của ta, tiếp tục đẩy mạnh Tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh thế tiến công toàn diện bằng quân sự và chính trị, bằng ba mũi giáp công, kết hợp với tiến công ngoại giao, làm cho địch thua to hơn nữa trên tất cả các mặt, đạt cho được mục tiêu chiến lược đã đề ra, giành thắng lợi quyết định về ta, đồng thời tạo mọi điều kiện và luôn luôn sẵn sàng về mọi mặt để đánh thắng địch nếu chúng kéo dài hoặc mở rộng chiến tranh”3 (Trích Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 8-1968 - Số 2219, lưu Phòng Tư liệu Ban Tổng kết chiến tranh B2).


Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Cục và Quân ủy Miền chủ trương chuyển hướng ra vùng nông thôn, rừng núi, tiến công vào tuyến phòng thủ vòng ngoài của chính quyền Sài Gòn trên vùng 3 chiến thuật1 (Chỉ tiêu cụ thể: Diệt khoảng 10.000 Mỹ - ngụy; diệt từ 8 - 10 tiểu đoàn 35 - 40 đại đội (mỗi sư đoàn phải tiêu diệt 3 tiểu đoàn và 10 - 12 đại đội địch); diệt đại bộ phận Lữ 1 của Sư đoàn bộ binh 1 Mỹ, diệt một phân lực lượng tổng trù bị ngụy; làm tan rã đại bộ phận bảo an, dân vệ). Trong đó hướng chủ yếu là Tây Ninh, hướng thứ yếu là Lộc Ninh (Bình Long), hướng phối hợp là vùng ven và nội đô.


Để chuẩn bị đợt III, căn cứ vào thực tiễn chiến trường, Bộ Chỉ huy Miền quyết định bàn giao địa bàn các quận nội thành cho Phân khu 6, thành lập lại Quân khu miền Đông gồm các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa.


Trên cơ sở lực lượng Quân giải phóng của các phân khu 1, 2, 3, 4, 5, Bộ Chỉ huy Miền kết hợp với Quân giải phóng của địa phương mở mặt trận Tây Ninh - Bình Long.

Trên hướng chủ yếu Tây Ninh, lực lượng bao gồm Sư đoàn 9, Trung đoàn 174 của Sư đoàn 5 bộ binh, 1 tiểu đoàn đặc công Miền và pháo binh Miền trực tiếp chi viện, mục tiêu là căn cứ Trảng Lớn2 (Lực lượng trên hướng chủ yếu còn xây dựng phương án đánh viện đổ bộ đường không trong khu vực bắc và tây bắc thị xã Tây Ninh). Sư đoàn 5 được tăng cường 1 đại đội có nhiệm vụ phục kích đánh chặn trên các trục giao thông số 2, 26 22 và lực lượng phản ứng nhanh của đối phương.


Trên hướng thứ yếu Lộc Ninh, Sư đoàn 7 có nhiệm vụ diệt chi khu Lộc Ninh, đồng thời đánh viện bên ngoài; kết hợp với lực lượng địa phương đột nhập các ấp chiến lược, diệt tề trừ gian, phát động quần chúng giành quyền làm chủ, mở rộng vùng.


Đêm 17-8-1968, đợt III Mậu Thân chính thức diễn ra. Trên hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân giải phóng tiến công cụm quân sự hỗn hợp tại Trà Phí (17-8-1968), tiến công Đại đội biệt kích, trạm truyền tin dã chiến 2 của Mỹ trên đỉnh núi Bà Đen, phục kích Tiểu đoàn bộ binh cơ giới Mỹ trên đường số 2, diệt cụm quân sự hồn hợp Chà Là (21-8-1968), tiến công cụm quân sự hỗn hợp Trà Phí lần 2 (21-8-1968), diệt cụm xe thiết giáp Mỹ tại suối Ông Hùng (đêm 22-8-1968), phục kích 1 đoàn xe cơ giới Mỹ trên đường 22 (đêm 26-8-1968)...


Trên hướng thứ yếu Lộc Ninh, Quân giải phóng tiến công chi khu Lộc Ninh, phục kích chặn đánh Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ và lực lượng thuộc Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ đến giải tỏa.

Đêm 10-9-1968, trên hướng Tây Ninh, Quân giải phóng chuyển khu vực tác chiến sang hướng đông và đông nam, tập kích diệt cụm quân sự hỗn hợp Lâm Vồ (12-9-1968); đánh phản kích Lữ đoàn 187 Mỹ trên đường 22 (bắn hỏng 38 xe bọc thép, 8 xe tăng, 6 máy bay lên thẳng) (12-9-1968); phục kích Lữ đoàn 187 Mỹ trên đường 26; tập kích chi khu Bến Củi lần 1 (16-9-1968), lần 2 (17-9-1968), lần 3 (19-9-1968)...


Trên hướng Lộc Ninh, Quân giải phóng tổ chức nhiều trận đánh cấp tiểu đoàn, bắn cháy 16 xe bọc thép, 6 máy bay lên thẳng, thu 43 súng các loại (12-9-1968)...

Ngày 28-9-1968, cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa Mậu Thân đợt III kết thúc. Trong cả 2 giai đoạn (từ đêm 17-8 đến ngày 31-8 và từ đêm 10-9 đến ngày 28-9-1968), trên cả hướng chính và phụ, Quân giải phóng đã đánh 315 trận (trong đó có 16 trận cấp trung đoàn), tiêu diệt 13 tiểu đoàn địch (trong đó có 12 tiểu đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp Mỹ), 55 đại đội (trong đó có 35 đại đội Mỹ), tiêu hao nặng 7 tiểu đoàn khác, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. “Trên chiến trường Khu 6, Quân giải phóng tiến công chi khu Hòa Đa, chi khu Di Linh; tiến công một số mục tiêu quan trọng trong thị xã Đà Lạt Phan Thiết, Phan Rang; pháo kích nhiều lần sân bay Thành Sơn, Cẩm Lỵ. Hoạt động vũ trang hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm có kết quả như xung quanh BLao - Di Linh, nam Ninh Thuận, bắc Bình Thuận”1 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Tháng 10-1968, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm về cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Mậu Thân đợt III. Tại hội nghị, Tư lệnh Hoàng Văn Thái đánh giá “đó là một chiến dịch diễn ra vào mùa mưa nhưng đã đạt thắng lợi lớn nhất từ trước tới nay, đánh nhiều trận nhất, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch nhất, nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn, đại đội nhất, nhiều phương tiện chiến tranh nhất. Chiến dịch góp phần củng cố và phát triển thế chủ động tiến công và bao vây chiến lược của ta, đẩy địch vào thế bị động phòng ngự và suy yếu hơn về mọi mặt, góp phần thúc đẩy thắng lợi chung, nhất là đối với khu trọng điểm và đồng bằng sông Cửu Long, tạo thắng lợi chung về quân sự, chính trị, ngoại giao. Chiến dịch chứng tỏ bộ đội chủ lực ngày càng trưởng thành, nhiều tiến bộ quan trọng, các đơn vị đều tiến bộ và phát triển tương đối đều, có đơn vị tiến nhảy vọt, các đơn vị mới thích nghi nhanh chóng đối với chiến trường mới... Tạo nhiều cách đánh mối thích ứng điều kiện mới, nhiều kinh nghiệm phong phú, nâng cao thêm một bước nghệ thuật quân sự của các cấp chiến dịch, hiểu địch hơn”2 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.350, 351).


Với cố gắng vượt bậc, cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam nói chung, của Quân giải phóng trên chiến trường B2 nói riêng, đã giáng một đòn chí mạng vào kẻ thù, tạo nên bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, buộc giới cầm quyền Mỹ phải chuyển từ chiến lược tiến công “tìm diệt” và “bình định" sang chiến lược phòng ngự “quét và giữ” trên toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam.


Bên cạnh nhừng thắng lợi to lớn đó, cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân năm 1968 cũng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá. Tư tưởng “tích cực tiến công”, “kiên quyết và liên tục tiến công”, “càng đánh càng mạnh”, “đợt sau cao hơn đợt trước”, “tiến lên giành thắng lợi quyết định” trong Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Mậu Thân đợt II, đợt III khi yếu tố bí mật bất ngờ không còn đã làm cho Quân giải phóng càng đánh càng suy kiệt, yếu đi trước đội quân xâm lược nhà nghề thiện chiến mạnh hơn nhiều lần về lực lượng, vũ khí và trang thiết bị quân sự. Sự suy yếu của Quân giải phóng từ sau Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Mậu Thân đợt II đợt III đã tạo điều kiện thuận lợi cho đối phương tập trung toàn lực đánh phá toàn diện lực lượng kháng chiến trên mọi mặt trận. Đồng thời với “chiến dịch bình định đặc biệt Lê Lợi” trên phạm vi nông thôn toàn miền Nam (từ ngày 1-1-1968 đến ngày 31-1-1969) là các cuộc phản kích được Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện với quy mô lớn nhằm đeo bám, đẩy lùi Quân giải phóng vào sâu vùng rừng núi hoặc lên tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia.


Năm 1965-1968 là giai đoạn mà quân và dân miền Nam nói chung, Quân giải phóng trên chiến trường B2 nói riêng bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt nhất, đối đầu với quân đội hùng mạnh nhất thế giới, đưa cuộc kháng chiến chống xâm lược lên đỉnh cao của cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Trên chiến trường B2, Quân giải phóng phát triển mạnh mẽ cả quân chủ lực và quân địa phương với nhiều binh chủng từ bộ binh, công binh, đặc công, biệt động, thông tin, hậu cần, quân báo, tình báo... Đặc biệt, Quân giải phóng đã vận dụng đường lối quân sự của Đảng một cách linh động, sáng tạo, từ việc xây dựng lực lượng, tổ chức chiến trường đến việc chỉ đạo, chỉ huy và thực hành chiến đấu. Có thể nói, giai đoạn 1965-1968 là thời kỳ phát triển mạnh nhất, đa dạng nhất về lực lượng và nghệ thuật quân sự của lực lượng Quân giải phóng trên chiến trường B2 với nhiều cách đánh phong phú, linh hoạt, sáng tạo.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:46:28 pm
Chương ba
QUÂN GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU CHỐNG ChIẾN LƯỢC
“VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MỸ
(1969 -1972)


I. ĐIỀU CHỈNH, BỐ TRÍ LẠI LỰC LƯỢNG VÀ TỔ CHỨC CHIẾN TRƯỜNG SAU CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG TẾT MẬU THÂN

1. Tình hình chiến trường B2 sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân và nhiệm vụ của Quân giải phóng trong giai đoạn đầu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”

Năm 1969, Richard Milhous Nixon lên làm Tổng thông Mỹ trong bối cảnh cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân dân miền Nam Việt Nam đã làm chấn động cả nước Mỹ và thế giối, phong trào phản chiến và chống chiến tranh bùng phát mạnh mẽ trong lòng nước Mỹ, nội bộ Nhà Trắng mâu thuẫn sâu sắc về phương cách giải quyết vấn đề chiến tranh ở Nam Việt Nam. Trước sức ép của dư luận và số phận của binh lính Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Tổng thống Nixon buộc phải tuyên bố rút dần quân Mỹ về nước và thay vào đó là chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh’’.


“Việt Nam hóa chiến tranh” về bản chất là bản kế hoạch quân sự “dùng người Việt đánh người Việt”, Chính phủ Mỹ từng bước chuyển giao cuộc chiến chống “lực lượng cộng sản Bắc Việt” cho chính quyền Sài Gòn thực hiện. Bản kế hoạch gồm ba bước: “Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho ngụy, rút được quân chiến đấu trên bộ của Mỹ, làm suy yếu được ta thông qua bình định nông thôn. Bước 2: Chuyển giao nhiệm vụ trên không cho ngụy, làm cho quân ngụy đủ sức đương đầu với ta, giữ vững được Nam Việt Nam và Đông Dương. Bước 3: Hoàn thành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, củng cố các thành quả đã đạt được, ta suy yếu và chiến tranh tàn lụi dần”1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 02-1979, tr.78, 79). Tất cả dự kiến được thực hiện và hoàn thành trước ngày 30-6-1972.


Đầu năm 1969, Mỹ thành lập Cơ quan Hợp tác phát triển nông thôn “Cooperation for Rural Development Support” (MAC.CORDS), tiến hành tăng viện trợ lớn cho ngụy quyền Sài Gòn.

Về lực lượng, Mỹ tiến hành đào tạo cấp tốc đội ngũ sĩ quan cho quân ngụy sao cho đủ sức thay thê đội ngũ cô vân quân sự Mỹ (số lính ngụy được đưa đi Mỹ đào tạo tăng gấp 4 lần, số đào tạo tại các cơ sở huấn luyện, trường quân sự trong nước tăng gấp 10 lần so với kế hoạch hằng năm trước đây).


Từ cuối năm 1968, quân đội Sài Gòn có 717.000 quân, đến năm 1972 tăng lên 1.100.000 quân (lực lượng chính quy và bảo an). Các sư đoàn quân chủ lực biên chế đúng “tứ chế", mỗi sư đoàn có đủ 4 trung đoàn, mỗi trung đoàn có đủ 4 tiểu đoàn, nâng số biệt động quân lên thành 15 liên đoàn (thành lập mới 8 liên đoàn); xây dựng 500.000 phòng vệ dân sự, 140.000 cành sat (năm 1968 ìà 70.000); tổ chức 700 đoàn bình định (44.000 người), chưa kể lực lượng Thiên Nga, Phượng Hoàng, điệp báo, thám báo...


Trang thiêt bị quân sự, vũ khí cùng được Mỹ trang bị lại tỷ lệ thuận với sự tàng nhanh của quân ngụy. Năm 1968, trang thiết bị quân sự, vũ khí của quân ngụy có 800.000 tiểu liên, M79; 1.037 xe tăng, xe thiết giáp; 621 khẩu pháo; 20 phi đoàn không quân (400 chiếc máy bay); 308 tàu quân sự... Năm 1972, số lượng vũ khí tăng lên với tổng số có khoảng 2.000.000 tiểu liên, M79; 1.879 xe tăng, xe thiết giáp; 1.322 khẩu pháo; 65 phi đoàn (1.850 máy bay); 1.611 tàu, thuyền...


Về kế hoạch “tìm diệt” của địch, địa bàn Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ vẫn là những khu vực ưu tiên chính. Do vậy trong những năm 1969, 1970, mỗi tháng trung bình Mỹ thực hiện gần 400 cuộc hành quân càn quét từ cấp tiểu đoàn đến sư đoàn (chiếm 38% trên toàn Miền) nhằm tìm diệt Quân giải phóng, đồng thời hỗ trợ cho công tác bình định nông thôn. Trong đó, trên chiến trường Nam Bộ, số cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên tăng nhanh, năm 1968 là 7.654 cuộc, năm 1969 tăng lên 11.945 cuộc. Đặc biệt, trên vùng “trọng điểm an ninh quốc gia” miền Đông Nam Bộ, Mỹ ưu tiên tập trung 10% lực lượng Mỹ (103 tiểu đoàn) và 37% tổng lực lượng quân lực Sài Gòn (8 sư đoàn + 9 trung đoàn) liên tục mở các cuộc hành quân lớn, điển hình như “Atlas Wedge”, “Toàn thắng” đánh vào khu vực Dầu Tiếng, Bình Dương, Túc Trưng, Long Khánh; cuộc hành quân “Đại bàng” trên các hướng Tây Ninh, Bình Long, Phước Long và các cuộc hành quân cấp lữ đoàn tăng cường vào Bù Prang, Đức Lập, Long Khánh, Hắc Dịch, Bà Rịa...


Về bình định, sau chiến dịch “bình định cấp tốc”, Mỹ đưa ra kế hoạch bình định ba giai đoạn1 (Giai đoạn 1: “Bình định xây dựng” (từ đầu năm 1969 đến tháng 6-1970), mục tiêu là kiểm soát được vùng đông dân quan trọng nhất, đánh phá có kết quả tổ chức và tiềm lực chiến tranh nhân dân của cách mạng, đẩy Quân giải phóng ra xa vùng dân cư. Giai đoạn 2: “Bình định đặc biệt” (từ tháng 7-1970 đến tháng 6-1971), mục tiêu là kiểm soát chặt hầu hết các vùng đông dân, kiểm soát về cơ bản dân cư theo ý định của Mỹ, giảm tối đa lực lượng Quân giải phóng. Giai đoạn 3: “Cộng đồng tự vệ và phát triển nông thôn” (từ tháng 7-1961 trở đi): mục tiêu là bình định xong nông thôn, bắt đầu chuyển sang thời kỳ “xây dựng phát triển” mọi mặt, nhất là kinh tế). Để hỗ trợ công tác hình định trên chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn được ưu tiên lựa chọn. Mỹ sử dụng 2 lữ đoàn thuộc Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ, 3 sư đoàn và 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến ngụy kết hợp với lực lượng địa phương quân thực hiện nhiều cuộc hành quân “quét và giữ” trong đó có cuộc hành quân Cửu Long dọc theo tuyến Hà Tiên - Kiên Giang - Chương Thiện - An Xuyên; cuộc hành quân bình định dọc theo tuyến Kiến Phong, Kiến Tường, Định Tường...


Cùng với các cuộc hành quân càn quét, chính quyền Sài Gòn thành lập “Hội đồng bình định Trung ương”, “Trung tâm bình định Trung ương”, “Trung tâm bình định cấp tỉnh”, do tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng (quân sự) nắm quyền điều hành. Như vậy, chính quyền Sài Gòn hầu như quân sự hóa toàn bộ bộ máy công quyền các cấp, huy động hầu hết quân lực các cấp từ trung ương đến địa phương tham gia trực tiếp công cuộc bình định.


Từ năm 1969, ở nông thôn, bên cạnh các tổ chức “Cuộc cảnh sát”, “Trung tâm điều phối”, “Trung tâm bình định”... còn xuất hiện “Ủy ban Phượng Hoàng” và lực lượng Thiên Nga... thực chất là các tổ chức tình báo, mật vụ, cảnh sát mật... thực hiện mục tiêu phát hiện và làm tha hóa lực lượng cán bộ cách mạng. Trong 2 năm 1969-1970, lực lượng các tổ chức tình báo, mật vụ cảnh sát mật... của chính quyền Sài Gòn đã phát hiện được 98.763 cán bộ cách mạng nằm vùng, trong đó 53.956 trường hợp được “xác định”1 (Theo Jeff Stein - Marc Leepson, năm 1969 có 200.000 Việt cộng bị “trung lập hóa” (Những sự kiện chiến tranh Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.85)) ở vùng 3 và vùng 4 chiến thuật.


Trước âm mưu mới của Mỹ và tình thế cách mạng sau cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân năm 1968 đang dần xấu đi, tháng 4-1969 Bộ Chính trị tổ chức hội nghị đánh giá tình hình và nhiệm vụ trước mắt. Bộ Chính trị chỉ rõ: “Trước thời cơ lớn hiện nay, chúng ta cần tập trung nỗ lực cao độ để giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Trong khi tập trung nỗ lực cao độ để giành thắng lợi quyết định, chúng ta cần nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, ra sức xây dựng lực lượng mọi mặt, có phương thức tác chiến và đấu tranh thích hợp để đánh mạnh được, đánh lâu dài được, càng đánh càng mạnh”2 (Trích Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969 số 2130, lưu tại Phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2).


Căn cứ vào quyết tâm chiến lược mới của Bộ Chính trị, tháng 7-1969, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ chín đề ra nhiệm vụ: “Động viên sự nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phát huy thắng lợi đã giành được, kiên quyết khắc phục cấc khuyết điểm, nhược điểm, nắm vững và sáng tạo thời cơ tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa với ba mũi giáp công đến đỉnh cao nhất, kết hợp với tấn công ngoại giao, khẩn trương xây dựng lực lượng quân sự và chính trị; phát triển thế tấn công chiến lược một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến lược “quét và giữ”, chính sách bình định và các mục tiêu, biện pháp phòng ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trương “phi Mỹ hóa" chiến tranh của chúng, đánh cho Mỹ phải rút quân, đánh cho ngụy phải suy sụp và ta giành được thắng lợi quyết định là điều kiện rất cơ bản để tiến lên thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.30, tr.340).


Thực hiện nhiệm vụ quân sự nói trên, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền “triển khai bố trí hợp lý và phối hợp hoạt động của ba thứ quân trên các chiến trường, một mặt ra sức tiêu diệt tiêu hao, kìm chân lực lượng lớn quân Mỹ - ngụy trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Chợ Lớn, một mặt căng địch ra trên các chiến trường đồng bằng, miền núi, tập trung chủ lực mạnh trên chiến trường có lợi, kéo địch ra để tiêu diệt và mở rộng vùng giải phóng thành căn cứ cách mạng hoàn chỉnh; trước mắt phải tập trung những cố gắng cao nhất, đẩy mạnh tiến công quân sự, kết hợp với tiến công chính trị và ngoại giao, giành thắng lợi lớn nhất theo yêu cầu đã đề ra, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch, đồng thời tạo ra thế và lực mạnh, tạo ra thời cơ mới để giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn và bảo đảm đánh thắng địch trong mọi tình huống”2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.78, 79).


Trên chiến trường B2, từ sau cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968), hình thái chiến trường thay đổi, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị đánh bại nhưng lực lượng Quân giải phóng cũng bị hao hụt quá nhiều. Quân giải phóng cấp Miền, cấp quân khu, cấp phân khu và cả Quân giải phóng ở các tỉnh, huyện, nhiều đơn vị “vơi đi” phân nửa... Trước sự phản kích quyết liệt của Mỹ, vùng giải phóng, vùng căn cử ngày một thu hẹp, địa bàn đứng chân của Quân giải phóng trở nên thiếu an toàn. Hơn nữa, việc bảo đảm hậu cần ngày càng khó khăn: các cửa khẩu, khu dân cư, đường giao thông, tuyến tiếp tế từ đồng bằng lên các căn cứ, từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam... đều bị phong tỏa, kiểm soát chặt chẽ1 (So với năm 1968, số lần đánh phá của máy bay B52 trên tuyến 559 trong năm 1969 tăng 4 lần, máy bay chiến thuật tăng 2,5 lần, số lượng bom đạn tăng 3 lần). Đến tháng 9-1969, “dự trữ lương thực của Miền chỉ còn 2.000 tấn, không đủ cho bộ đội ăn trong một tháng, ở nhiều đơn vị, cán bộ, chiến sĩ ta phải ăn bữa sắn, bữa cơm, ăn củ nần, củ chụp, quả rừng”2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.76).


Đứng trước muôn vàn khó khăn song Quân giải phóng vẫn cố gắng vượt qua, tập trung nỗ lực cao độ để giành thắng lợi quyết định. Đó là nhiệm vụ, “quân lệnh như sơn”. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng lực lượng Quân giải phóng về mọi mặt, có phương thức tác chiến và đấu tranh thích hợp để có thể đánh được, đánh lâu dài được, càng đánh càng mạnh.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:50:19 pm
2. Củng cố, bố trí lại lực lượng Quân giải phóng và tổ chức chiến trường

Cuối năm 1968 đầu năm 1969, Bộ Quốc phòng bổ sung cho chiến trường B2 một số đơn vị Quân giải phóng đã có kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên, chiến trường Khu 5. Đó là Trung đoàn 101C, Trung đoàn 18D, Trung đoàn 33, Trung đoàn 174, Trung đoàn 20, Trung đoàn 10 đặc công (Trung đoàn 95A)1 (Trung đoàn 95A thuộc Sư đoàn 325 được xây dựng ở Bình Trị Thiên), Trung đoàn 95C (Trung đoàn Hoa Lư), Trung đoàn 209 (Trung đoàn Sông Lô)2 (Ngày 5-4-1968, Bộ Quốc phòng điều động Trung đoàn Sông Lô rời hậu phương lớn miền Bắc vào chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên)... Bên cạnh đó, Bộ Quốc phòng còn tăng cường thêm 10 tiểu đoàn, 100 đại đội, trung đội đặc công mới hoàn thành đợt huấn luyện quân sự ở miền Bắc vào để bổ sung cho đơn vị chiến đấu. Do vậy, các đơn vị từ bộ binh, pháo binh, công binh, đặc công đến các đơn vị trợ chiến... trên chiến trường B2 đều được bổ sung lực lượng3 (Lúc này nhân sự Bộ Chỉ huy Miền có sự thay đổi. Phó Tư lệnh Trần Văn Trà công tác thường xuyên tại Trung ương Cục. Bộ Chỉ huy Miền chỉ còn Phó Tư lệnh Nguyễn Hữu Xuyến (phụ trách hậu cần). Phó Tư lệnh Đồng Văn Cống xuống Tà Lài phổ biến Nghị quyết Trung ương Cục đợt IV Mậu Thân cho miền Đông. Hoàng Cầm lo việc chuẩn bị thành lập Quân đoàn 4. Đến tháng 7-1969, Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà) được điều về làm Tham mưu phó Miền. Nguyễn Trọng Xuyên - Phó Tư lệnh Quân khu 10 về giữ chức vụ Tư lệnh Quân khu 6 (cho đến tháng 2-1976)). Tay nhiên, từ cuối năm 1969 đầu năm 1970, Mỹ đã thực hiện hàng ngàn cuộc hành quân đánh phá sâu vào vùng căn cứ kháng chiến trên địa bàn Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ; lấn chiếm sâu vào các vùng nông thôn xung quanh Sài Gòn, Phước Long, Bình Tuy, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng; chiếm hầu hết vùng giải phóng Khu 8, Khu 9 và chuyển sang đánh vào các căn cứ U Minh, Đồng Tháp... Đến đầu năm 1970, trên toàn Miền, chính quyền Sài Gòn lập thêm được 2.656 ấp, trong số đó ở Nam Bộ có 1.503 ấp (miền Đông thêm 430 ấp và đồng bằng sông Cửu Long thêm 1.064 ấp).


Vùng giải phóng hầu như bị xóa. Vùng dân cư, trung tâm chính trị, kinh tế, tôn giáo, thị xã, thị trấn, đường giao thông... bị kìm tỏa. Vùng ven, vùng trung tuyến, vùng rừng núi, vùng biên giới thường xuyên bị càn quét, đánh phá ác liệt bằng phi pháo, chất độc hóa học, biệt kích, gián điệp...1 (Sau Mậu Thân năm 1968, để phục vụ công tác bình định, Mỹ và chính quyền Sài Gòn phân chiến trường miền Nam thành 4 loại vùng: 1- Loại vùng “An ninh” là vùng mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã kiểm soát được, thường là vùng đông dân cư ở sát đô thị, thị trấn, hạ tầng cơ sở của ta không con hoặc còn nhưng rất yếu, lực lượng vũ trang bị đẩy ra ngoài. Ở đây Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng cảnh sát, dân vệ, phòng vệ dân sự làm lực lượng chủ yếu để bình định. 2- Loại vùng “Củng cố là vùng tranh chấp, thường là vùng giáp ranh miền núi và đồng bằng, nơi chính quyền Sài Gòn đã lập được quyền quản lý nhưng hiệu lực yếu kém nơi Quân giải phóng còn trụ bám hoạt động, do đó Mỹ và chính quyền Sài Gòn chỉ kiểm soát được ban ngày. Đối với loại vùng này, Mỹ và chính quyền Sài Gòn thường sử dụng lực lượng bảo an, dân vệ cảnh sát phòng vệ dân sự để quản lý; một số trường hợp có kết hợp với bộ phận chủ lực. 3- Loại vùng "Tảo thanh" là vùng giải phóng, vùng căn cứ mật khu của Quân giải phóng. Đối với loại vùng này, Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng lực lượng chủ lực, tổ chức càn quét, đánh phá liên tục, xúc tát dân về vùng kiểm soát. 4- Loại vùng “Biên phòng" (vùng biên giới), địch sử dụng lực lượng đặc biệt biệt động quân, biệt kích, thám báo... có tăng cường quân chủ lực từng lúc để bình định nắm dân vùng núi và ngăn chặn Quân giải phóng xâm nhập). Trước tình hình đó, nhu cầu sắp xếp, bố trí lực lượng một cách hợp lý nhằm bảo tồn, củng cố lực lượng được đặt ra cấp thiết. Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định giữ nguyên các sư đoàn chủ lực 9, 7, 5 làm nhiệm vụ chống càn, bảo vệ các căn cứ đầu não kháng chiến. Trung đoàn 95C được điều về Sư đoàn 9 thay cho Trung đoàn 88 xuống miền Trung Nam Bộ nhận công tác mới2 (Trung đoàn 88 đứng trong đội hình Sư đoàn 9 từ tháng 4 đến tháng 10-1969). Trung đoàn 209 bổ sung cho Sư đoàn 73 (Như vậy Sư đoàn 7 đã có đủ ba trung đoàn (141, 165, 209) của Sư đoàn 312). Trung đoàn 33 được bố trí đứng vững ở Cẩm Mỹ. Trung đoàn 320 xuống bắc Tân An. Các Trung đoàn 4, 16, 33, 268, Quyết Thắng... về bám trụ ở bắc, tây bắc, đông bắc Sài Gòn. Bộ Chỉ huy Miền và Bộ Chỉ huy các phân khu 1, 2, 3, 6 dời lên biên giới Việt Nam - Campuchia. Bộ Chỉ huy Phân khu 6 rút xuống đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Chỉ huy Phân khu 5 dời về Chiến khu Đ. Bộ Chỉ huy Phân khu 4 dời về Bà Rịa. Bộ Chỉ huy T.7 bám địa bàn Xuân Lộc đường số 15... Tuy nhiên, “Các trung đoàn chủ lực về hoạt động ở các địa phương trong tình thế hết sức khó khăn vi đồn bót địch đóng dày đặc, chia cắt địa bàn, quân Mỹ - ngụy càn quét liên miên, trong khi hầu hết các lõm căn cứ, vùng giải phóng không còn. Tuy không giải thể, nhưng thực tế các trung đoàn đều phải phân tán thành các đại đội, trung đội, có khi xuống đến cấp tiểu đội để bám trụ. Trung đoàn 16, 268, Quyết Thắng phải chuyển mọi sinh hoạt xuống lòng địa đạo Củ Chi, ngày nằm hầm, đêm bí mật luồn vào ấp chiến lược vận động quần chúng, gây dựng lại cơ sở. Trung đoàn 320 ở Long An bị tổn thất nặng hai lần phải trở về Miền để xây dựng lại. Bộ đội chủ lực phải học sông như du kích, tự lực xuống đồng, xuống sông mò cua, bắt cá, vào ấp chiến lược mua gạo ăn. Tổn thất vì công việc này có những lúc còn cao hơn tổn thất do chiến đấu...”1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2010), Nxb. Quân đội nhân dân, 2010, Hà Nội, tr.141).


Đứng trước thực trạng đó, cùng với việc củng cố địa bàn trú ém quân, công tác hậu cần do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến - Phó Tư lệnh Miền trực tiếp phụ trách được củng cố lại. Các đoàn hậu cần tích cực thu mua lương thực, thực phẩm, vào rừng khai thác sản vật, tổ chức mở đường vận tải, tiếp nhận nguồn chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc qua Đoàn 559 tại khu vực ngã ba biên giới... Bằng nỗ lực hết mình, công tác hậu cần cung cấp quân số, trang bị vũ khí, lương thực, thực phẩm... cho các đơn vị Quân giải phóng dần dần được giải quyết. Bên cạnh đó, “trong năm 1969, Bộ Chỉ huy Miền đã tiếp nhận chi viện của miền Bắc cho B2 (qua Đoàn 17 chuyển về) 14.224 tấn gạo, 400 tấn muối, 164 tấn quân trang, 45 tấn thuốc quân y, 2.812 tấn vũ khí, đạn (riêng cho Quân khu 8 (T2): 556 tấn, Quân khu 9 (T3): 383 tấn) và 83 tấn vật liệu quân giới, 123 tấn phụ tùng phương tiện vận chuyển, 230 tấn nhiên liệu, 56 chiếc xe hơi các loại. Ngoài ra, nhờ nỗ lực thu mua của các đoàn hậu cần 81, 50, 70, 82, chủ yếu ở biên giới kết hợp với chi viện của Trung ương, Hậu cần B2 đã khôi phục được lượng dự trữ lương thực, đạn dược cho lực lượng vũ trang hoạt động trong đợt mùa thu và mùa khô 1969 - 1970”1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.398-399, 422).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:51:56 pm
Năm 1970, Bộ Quốc phòng tăng cường thêm cho chiến trường B2 số tân binh mới tuyển gồm 82 tiểu đoàn và hàng trăm tấn vũ khí, trang thiết bị quân sự nhằm bổ sung, trang bị cho các đơn vị chiến đấu thuộc các binh chủng từ bộ binh, công binh, pháo binh, đặc công đến thông tin... Được bổ sung tân binh, Bộ Chỉ huy Miền mạnh dạn điều động số đơn vị chủ lực cấp Miền, cấp khu, cấp phân khu... có kinh nghiệm chiến trường đấu xuống tuyến tỉnh, huyện, củng cố phát triển Quân giải phóng địa phương.


Năm 1970, Quân giải phóng trên chiến trường B2 dần dần được khôi phục, đặc biệt là khối chủ lực Miền. Sư đoàn 9 tổng số 11.654 (quân số chiến đấu 6.241). Sư đoàn 7 tổng số 10.151 (quân số chiến đấu 7.583). Sư đoàn 5 tổng số 9.182 (quân số chiến đấu 6.526). Đoàn pháo binh 75 tổng số 4.983 (quân số chiến đấu 4.348). Đoàn đặc công 429 tổng số 3.224 (quân số chiến đấu 2.260)2 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.398-399, 422).


Để phục vụ cho đợt hoạt động mùa mưa năm 1970, Bộ Chỉ huy Miền chủ trương thành lập các “khu căn cứ” trên cơ sở một số đoàn hậu cần, đường dây giao liên, các đơn vị biên phòng trên chiến trường B2. Từ tháng 5-1970, các “khu căn cứ” lần lượt ra đòi mang mật danh C10, C20, C30, C40 và Khu căn cứ Phước Long. Mỗi khu căn cứ có quân số dao động từ 2.000 đến 4.000 người, gồm bộ chỉ huy, cơ quan tham mưu, chính trị hậu cần và các đơn vị cơ sở.


Ngày 12-6-1970, Cục Hậu cần Miền quyết định thành lập hai đoàn hậu cần: Đoàn 500 và Đoàn 770, mỗi đoàn quân số 3.000, triển khai hoạt động ở gần khu vực Biển Hồ Côngpôngthom, Xiêm Riệp, Báttambăng, Côngpôngchơnăng...


Đến tháng 7-1970, các khu căn cứ được bố trí địa bàn đứng chân và đi vào hoạt động, trong đó C10 ở Karachê, Mônđônkiri C20 ở Côngpôngchàm, C30 ở Svâyriêng, Prâyven, C40 ở Côngpôngthom, Xiêm Riệp, Báttambảng; khu căn cứ Phước Long ở Tàkeo, Campốt, Côngpôngxpư1 (C10 thành lập trên cơ sở lực lượng thuộc Đoàn Hậu cần 86, 70, các đơn vị đường dây (C90); C20 hình thành từ các đoàn hậu cần 50, 82, một số đơn vị biên phòng; C30 hình thành từ Đoàn Hậu cần 100, một bộ phận Đoàn 82 và một số đơn vị biên phòng, đường dây giao liên; C40 hình thành từ các trung đoàn độc lập 201, 203, 205, 207 của Miền; Khu căn cứ Phước Long hình thành từ lực lượng Đoàn Hậu cần 200 và lực lượng hậu cần Sư đoàn 1).


Do chia sẻ lực lượng để thành lập các khu căn cứ nên lực lượng hậu cần trên chiến trường B2 giảm xuống chỉ còn 5.063 người (tháng 8-1970), so với 22.149 người tại thời điểm tháng 12-1969. Tháng 5-1970, Phân khu 2 và Phân khu 3 sáp nhập lại thành Phân khu 23 (Phân khu Long An)2 (Trước Tết Mậu Thân, hai phân khu 2 và 3 có 21 tiểu đoàn, khi sáp nhập chỉ còn lại 4 tiểu đoàn thiếu). Đặc biệt, từ tháng 10-1971 đến tháng 3-1972, hậu cần Miền đã chuẩn bị được 47.500 tấn lương thực, trong đó có 44.500 tấn gạo. Tuyến hậu cần chiến dịch chuẩn bị được 15.610 tấn lương thực, thực phẩm, 1.674 tấn vũ khí, 673 tấn xăng dầu, 43 tấn thuốc men, dụng cụ quân y. Riêng về đạn pháo, cối hạng nặng có 12.138 viên (1.079 viên đạn pháo 105 ly, 590 viên đạn 122 ly, 2.500 viên đạn 85 ly, 269 viên đạn cối 160 ly, 4.300 viên đạn cối 120 ly, 1.400 viên đạn DKB, 2.000 viên đạn H12). Tuyến hậu cần dự trữ chuẩn bị được 20.800 tấn hàng các loại, trong đó lương thực có thể bảo đảm cung cấp đủ cho Quân giải phóng cả năm 1972.


Năm 1971, Bộ Chỉ huy Miền còn quyết định sáp nhập Đoàn Hậu cần 81, 84 thành Đoàn Hậu cần khu vực 814 với tổng quân số 1.828 người, hoạt động trên địa bàn các tỉnh Biên Hòa Bà Rịa, Long Khánh, phục vụ Sư đoàn 7 tác chiến ở khu vực đông bắc Sài Gòn1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sdd, tr.448).


Ngày 18-3-1971, Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập cơ quan Bộ Chỉ huy tiền phương, lấy mật danh là Đoàn 301. Bộ Chỉ huy Đoàn 301 gồm: Trần Văn Trà (Tư lệnh), Trần Độ (Chính ủy), Hoàng Cầm (Tham mưu trưởng), Lê Ngọc Hiền (Tham mưu phó), Trần Văn Phác (Chủ nhiệm chính trị). Đoàn 301 là cơ quan chỉ huy cấp quân đoàn, chỉ huy trực tiếp ba sư đoàn bộ binh (9, 7, 5), Trung đoàn pháo binh 28, tiểu đoàn súng máy phòng không 12 ly và nhiều đơn vị binh chủng độc lập khác. Sự ra đời của Đoàn 301 phản ánh sự lớn mạnh của lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Lần đầu tiên trên chiến trường B2, một cơ quan chỉ huy tương đương cấp quân đoàn Quân giải phóng được thành lập.


Cùng ngày 18-3-1971, Bộ Chỉ huy Miền đổi tên là Bộ Tư lệnh Miền. Các cơ quan trực thuộc được kiện toàn một bước.

Chiến sự ngày càng tăng, hậu phương lớn miền Bắc chi viện sức người sức của cho chiến trường B2 ngày càng lớn, đặc biệt là vũ khí, đạn dược và trang thiết bị quân sự hiện đại. Ngày 3-3-1971, Bộ Chỉ huy Miền thành lập sở Chỉ huy tiền phương cơ giới để chuẩn bị tiếp nhận chi viện. Tháng 6-1971, Bộ Tư lệnh Miền quyết định rút số cán bộ kỹ thuật đặc công cơ giới J16 và cán bộ kỹ thuật Đặc khu Rừng Sác để thành lập Đội kỹ thuật 33 (64 chiến sĩ) trực thuộc Đoàn pháo binh 75 Biên Hòa. Tháng 8-1971, trên cơ sở Đội kỹ thuật 33 Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập đơn vị tăng thiết giáp lấy phiên hiệu là M26. Tháng 11-1971, đơn vị tăng thiết giáp chính thức tách khỏi Đoàn pháo binh 75 Biên Hòa để thành lập Đoàn tăng thiết giáp Miền - đơn vị tăng thiết giáp đầu tiên trên chiến trường B2.


Năm 1972, chuẩn bị cho Chiến dịch Nguyễn Huệ, Bộ Quốc phòng chi viện lực lượng cho chiến trường B2 bao gồm: 1 trung đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo binh 85, 1 tiểu đoàn hỏa tiễn 122 ly, 2 tiểu đoàn cao xạ 37 ly, 1 tiểu đoàn xe tăng 36 chiếc (có T54 và PT76 tăng lội nước), một đại đội pháo cao xạ 57mm tự hành, 1 đại đội tên lửa chống tăng B72. Với trang bị vũ khí ngày càng đa dạng, hiện đại, từ năm 1972, Quân giải phóng trên chiến trường B2 trở thành những đơn vị binh chủng hợp thành.


Trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, cùng với phát triển lực lượng Quân giải phóng, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo tổ chức lại chiến trường1 (Năm 1971, Bộ Tư lệnh Miền quyết định lại giải thể Quân khu 10 để thành lập Phân khu Bình Phước gồm 2 tỉnh Bình Long và Phước Long (tỉnh Quảng Đức chia nhập về các tỉnh Đắk Lắk và Lâm Đồng); Quân khu 7 và Phân khu 5 giải thể để thành lập Phân khu Bà Rịa và Phân khu Thủ Biên).


Sang năm 1972, tổ chức các phân khu không còn phù hợp hình thái chiến trường, Bộ Tư lệnh Miền giải thể các tổ chức phân khu, trả địa bàn Long An về lại Quân khu 8, đồng thời tái thành lập Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn - Gia Định.


Quân khu 7 gồm có các tỉnh Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hòa, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh. “Bộ Tư lệnh Quân khu gồm Nguyễn Văn Bứa (Tư lệnh), Trần Nam Trung (Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy), Vũ Ba (Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng). Quân số của Quân khu gồm 4 trung đoàn, 11 tiểu đoàn, 33 đại đội. 12 trung đội và 2 tiểu đội bộ binh; 2 tiểu đoàn, 6 đại đội, 3 trung đội và 1 tiểu đội trợ chiến; 5 tiểu đoàn, 9 đại đội, 31 đội và 4 tiểu đội đặc công; 2 đại đội, 5 trung đội, 5 đội và 2 tiểu đội công binh. Tổng cộng ba thứ quân toàn Quân khu có 16.367 người”1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2010), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.152, 153).


Quân khu Sài Gòn - Gia Định gồm có khu vực nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn và các quận, huyện vùng ven: Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Tân Bình, Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè. Bộ Tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Gia Định do Trần Hải Phụng làm Tư lệnh, Lê Thanh làm Chính ủy, Võ Văn Trí làm Chỉ huy phó và Nguyễn Đức Hùng làm Tham mưu trưởng. Lực lượng vũ trang Quân khu gồm: Đoàn 10 Rừng Sác, Trung đoàn 16, Tiểu đoàn Quyết Thắng (do Tiểu đoàn Quyết Thắng 1 và Quyết Thắng 2 hợp nhất lại), Đại đội Đồng Khởi (gồm nhân viên các cơ quan chuyển sang chiến đấu), các đại đội bộ đội địa phương, trong đó mạnh nhất là huyện Trảng Bàng (do Tiểu đoàn 268, tức Trung đoàn 268 cũ chuyển sang). Nhiều xã đã có tiểu đội du kích.


Quân khu 10 giải thể, trả tỉnh Quảng Đức cho Quân khu 6, phần còn lại thành lập Phân khu Bình Phước. Sau khi nhận lại tỉnh Quảng Đức, Quân khu 6 còn được Bộ Tư lệnh Miền tăng cường thêm hai tiểu đoàn bộ binh (15, 17) thuộc Trung đoàn 211.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 20 Tháng Hai, 2023, 02:52:59 pm
Trên chiến trường Quân khu 9, sau cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân (1968), lực lượng vũ trang cấp khu, cấp tỉnh, huyện thiếu hụt nghiêm trọng, lực lượng 3 trung đoàn Quân giải phóng chỉ còn tương đương 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn. Trong 2 năm 1968-1969, hơn 10.000 cán bộ chiến sĩ bị bắt, hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ hy sinh; lực lượng du kích từ 45.000 người chỉ còn 6.200 người. Do vậy, năm 1969, Quân khu buộc phải giải tán Trung đoàn 2 (gồm Tiểu đoàn 309, 962) để bổ sung quân số cho Trung đoàn 1 (Tiểu đoàn 303, 307). Dù vậy, quân số Trung đoàn 1 sau khi được bổ sung cũng chỉ có khoảng 600 cán bộ, chiến sĩ. Ngoài ra Quân khu còn Tiểu đoàn 962 và Trung đoàn hoạt động ở chiến trường Vĩnh - Trà gồm 3 tiểu đoàn (306, 308, 312), quân số mỗi tiểu đoàn chỉ còn lại từ 250 đến 350 cán bộ, chiến sĩ1 (Trước Mậu Thân (1968), quân số mỗi tiểu đoàn có từ 400 đến 600 chiến sĩ).


Ở cấp tỉnh, huyện, sau Tết Mậu Thân, có tỉnh mất trắng từ 1 đến 2 tiểu đoàn. Các tiểu đoàn Tiểu đoàn Tây Đô (Cần Thơ), Tiểu đoàn Phú Lợi (Sóc Trăng), Tiểu đoàn 207 (Rạch Giá)..., quân số mỗi tiểu đoàn chỉ còn lại khoảng trên 100 cán bộ, chiến sĩ.


Ở cấp huyện, trước Tết Mậu Thân mỗi huyện có từ 1 đến 2, hoặc 3 đại đội, sau Tết Mậu Thân quân số chỉ còn lại khoảng vài chục cán bộ, chiến sĩ, thậm chí có huyện chỉ còn lại khoảng 1 trung đội.


Để củng cố, phát triển quân chủ lực cấp khu, năm 1969, Trung ương Cục điều Võ Văn Kiệt về làm Bí thư Khu ủy thay Nguyễn Thành Thơ (Mười Khẩn); Lê Đức Anh - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Miền về làm Tư lệnh Quân khu.


Tháng 10-1969, Bộ Chỉ huy Miền tăng cường cho Quân khu 1 trung đoàn bộ binh (Trung đoàn 3, Sư đoàn 9) với quân số 2.500, có đầy đủ bộ binh, pháo binh. Sau khi về Quân khu, Trung đoàn được đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 2.


Tháng 3-1970, Bộ Chỉ huy Miền lại tăng cường cho Quân khu thêm 2 trung đoàn, bao gồm Trung đoàn 10 đặc công do đồng chi Trần Quang Đông chỉ huy và Trung đoàn 20. Tiếp đó, Bộ Chĩ huy Miền lần lượt đưa 10 tiểu đoàn (mỗi tiểu đoàn quân số từ 500 - 600) xuống T3 để tăng cường cho các tỉnh; lập Đoàn Hậu cần 200 bố trí từ Đìa Gai - Ba Thu nối hành lang xuống dọc biên giới... đến kênh Vĩnh Tế (An Giang)1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.400).


Như vậy, tính đến cuối năm 1970, trên địa bàn Quân khu 9 có 5 trung đoàn quân chủ lực bao gồm Trung đoàn 1, Trung đoàn 2, Trung đoàn 3, Trung đoàn 20, Trung đoàn 10 đặc công, ngoài ra còn có Đoàn 8, Tiểu đoàn 2012 đặc công, Tiểu đoàn 2014 đặc công thủy; Đoàn 962, Tiểu đoàn 2311, Tiểu đoàn 2315 pháo binh...


Đầu năm 1971, Trung ương Cục ra quyết định sắp xếp lại chiến trường Quân khu 9; Thành lập tỉnh Châu Hà (bao gồm Hà Tiên, một phần Rạch Giá và địa bàn Tịnh Biên, Tri Tôn của An Giang); thành lập tỉnh Bạc Liêu (bao gồm một phần địa bàn Sóc Trăng và một phần địa bàn Cà Mau); thành lập tỉnh Vĩnh Trà (bao gồm Trà Vinh và Vĩnh Long sau khi tách các huyện Châu Thành, Sa Đéc, Lấp Vò, Bình Minh giao cho tỉnh Cao Lãnh của Quân khu 8).


Trên chiến trường Quân khu 8, sau Mậu Thân (1968), lực lượng Quân giải phóng thiếu hụt khá lớn, một bộ phận hy sinh, bộ phận khác thất lạc đơn vị. Lực lượng Quân giải phóng từ 2 trung đoàn, sau Mậu Thân, quân số giảm xuống chỉ còn lại khoảng 1 trung đoàn thiếu, ở địa phương, Quân giải phóng cũng tổn thất nghiêm trọng, Bến Tre có 4 tiểu đoàn chỉ còn lại 1 tiểu đoàn thiếu; các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, An Giang, mỗi tỉnh chỉ còn lại khoảng 2 đại đội. Ở cấp huyện, mỗi huyện trong toàn khu chỉ còn khoảng 1 trung đội; du kích và tự vệ mỗi xã chỉ còn khoảng 1 đến 2 tiểu đội thiếu.


Đầu năm 1969, nhằm hỗ trợ hoạt động của khu, Bộ Chỉ huy Miền điều Dương Cự Tẩm (Năm Thanh) - Phó Chính ủy Quân khu 9 về làm Chính ủy Quân khu 8; Lê Văn Nhỏ (Hai Lâm) làm Phó Tư lệnh Quân khu - Khu ủy viên; Hứa Ba Lộc (Sáu Linh) - Chủ nhiệm phòng chính trị Quân khu 8 làm Phó Chính ủy Quân khu.


Tháng 9-1969, Bộ Chỉ huy Miền quyết định tăng cường cho Quân khu 8 Trung đoàn 88 bộ binh. Đến tháng 10-1969, khi Trung đoàn 88 có mặt tại Khu 8, Trung đoàn được đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 3.


Cuối năm 1969, Bộ Chỉ huy Miền tăng cường cho Quân khu 3.685 tân binh mới từ miền Bắc vào nhằm kiện toàn lại lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, đến năm 1970, công cuộc bình định của Mỹ làm cho tình hình ở các địa phương xấu đi nghiêm trọng. Đứng trước thực trạng đó, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định giải thể Trung đoàn 2, chỉ giữ lại Tiểu đoàn 514A, Đại đội đặc công, Phân đội cối 82 và Phân đội ĐKZ75 ly, đồng thời điều một số đơn vị chủ lực về làm nòng cốt để củng cố, phát triển bộ đội ở các địa phương, hỗ trợ cho phong trào chống phá bình định.


Ở Bến Tre, Tiểu đoàn chủ lực 263 Quân khu tiến hành giúp tỉnh củng cốlại Tiểu đoàn 516, 518, 560, thành lập mới Đại đội đặc công 290C, củng cố các đại đội 269A, 269C, 268B, 268C trợ chiến, Đại đội 82 ly, Đại đội săn tàu... Cùng thời gian này, Tỉnh ủy Bến Tre cũng quyết định phân chia địa bàn Mỏ Cày thành 2 huyện Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc. Tỉnh ủy còn quyết định “bố trí toàn bộ các lực lượng kháng chiến cho phù hợp với thực tế chiến trường hình thành các khu vực bám trụ. Nam Mỏ Cày có Tiểu đoàn 560, Đại đội 269C đặc công, Đại đội 268B trợ chiến. Cánh A Giồng Trôm có Tiểu đoàn 516, Đại đội 269A đặc công, Oại đội 82 ly và Đại đội săn tàu; đông tây Châu Thành có Tiểu đoàn 263, Đọi đội 269B đặc công, Đại đội 268C trợ chiến. Mỗi khu vực tô chức một Ban Chỉ huy tiền phương gồm 1 đồng chí Tĩnh ủy viên, 1 đồng chí trong Ban Chỉ huy Tỉnh đội, một số cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần, ban, ngành, đoàn thể. Các huyện khác do Thường vụ Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.712, 713). Đến năm 1972, Bến Tre thành lập Trung đoàn Đồng Khởi với 3 tiểu đoàn (263, 516, 590), riêng Tiểu đoàn 560 là tiểu đoàn độc lập.


Ở Kiến Phong, Trung đoàn 1 chủ lực khu (Tiểu đoàn 261A, 261B) về đứng chân và giúp tỉnh củng cố đơn vị 279, Đại đội 336 công binh. Giữa năm 1971, Quân khu tăng cường thêm Tiểu đoàn 718 cho Kiên Phong là tiểu đoàn thực binh mới từ miền Bắc vào.


Ở Mỹ Tho, Quân khu đưa Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 269 đặc công về giúp tỉnh củng cố lại Tiểu đoàn 514, Tiểu đoàn 514C2 (Sau Tết Mậu Thân, Tiểu đoàn 514 chỉ còn lại khoảng 30 chiến sĩ, Tiểu đoàn 514C chỉ còn khoảng 50 chiến sĩ), Tiểu đoàn 516. Đến cuối năm 1971, Mỹ Tho phát triển thêm được 482 tân binh bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Trên cơ sở đó, tỉnh tổ chức thêm 4 đại đội, trong đó có 2 đại đội đặc công (6 và 28), 1 đại đội công binh thủy, 1 đại đội bộ binh (Đại đội 78). Ở cấp huyện, Quân giải phóng cũng dần được khôi phục, đặc biệt là Châu Thành Nam, Châu Thành Bắc, Cai Lậy Nam, Cai Lậy Bắc, Cái Bè, mỗi huyện lập được 1 đại đội và 1 trung đội đặc công. Toàn tỉnh còn phát triển được 1.374 dân quân, du kích.


Ở Long An, Kiến Tường, từ mùa Xuân năm 1972, tổ chức các phân khu không còn phù hợp với hình thái chiến trường. Do vậy Bộ Tư lệnh Miền quyết định giải thể các tổ chức các phân khu, trả Long An, Kiến Tường lại cho Quân khu 8. Lúc bấy giờ Trung đoàn 320 bổ sung cho Quân khu, Long An còn lại 4 tiểu đoàn (1, 2, 4, 5)1 (Long An (từ Tết Mậu Thân, tổ chức thành 2 Phân khu 2 và 3, sau đó nhập lại thành Phân khu 23 trực thuộc Miền) có 21 tiểu đoàn). Kiến Tường có 3 tiểu đoàn (504, 504A, 604B) và các đại đội đặc công, biệt động, pháo cối....


Trong những năm 1971, 1972, Bộ Chỉ huy Miền tăng cường cho Quân khu 10.184 tân binh. Trên cơ sở đó lực lượng Quân giải phóng được bổ sung từ cấp quân khu đến cấp tỉnh, huyện với đầy đủ các loại hình binh chủng, từ bộ binh, đặc công, pháo binh, công binh đến thông tin, trợ chiến, hậu cần...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:23:00 am
II. CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐỊCH PHẢN KÍCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2 VÀ BIÊN GIỚI, ĐÁNH ĐỊCH BÌNH ĐỊNH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

1. Tổ chức các cuộc tiến công chống địch phản kích và bình định

Đợt tiến công Xuân 1969 (từ ngày 22-2 đến ngày 30-3):

Ở hướng bắc và tây - bắc Sài Gòn, Sư đoàn 1 (sư đoàn mới được tăng cường), Sư đoàn 7 (1 trung đoàn), Sư đoàn 9 (1 trung đoàn) kết hợp với lực lượng Phân khu 1 và lực lượng pháo binh, đặc công Miền... tiến công căn cứ Dầu Tiếng, Đồng Dù, Bến Tranh, Trà Cao, đặc biệt là khu vực Trảng Lớn, Dầu Tiếng, Đồng Dù, Phước Vĩnh, Lai Khê, sân bay Téc Ních, Thái Mỹ, Cống Vôi, Mũi Lớn, Đức Hòa...


Ở một cánh khác, quân dự bị của Miền tiến công đối phương trên các hướng đông, đông bắc Dầu Tiếng, tây nam thị xã Tây Ninh - Trảng Bàng. Sư đoàn 1 Quân giải phóng trên địa bàn Bình Long đánh phá bình định khu vực liên tỉnh lộ 13, lộ 26, lộ số 2 phía tây sông Sài Gòn... Sư đoàn 9 Quân giải phóng hỗ trợ đánh phá bình định dọc quốc lộ 1, lộ số 7, số 8...


Ở hướng đông và đông bắc Sài Gòn, lực lượng Sư đoàn 5 Quân giải phóng bao gồm Trung đoàn 33, Trung đoàn 4, Trung đoàn pháo 274 và 4 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn công binh phối hợp với Quân giải phóng địa phương tiến công khu kho liên hợp Long Bình, sân bay Biên Hòa, kho Nhà Bè, Vũng Tàu...; đánh phá bình định ở khu vực Thủ Đức, Nhơn Trạch, Long Thành, Xuân Lộc, Long Điền, Đất Đỏ... Lực lượng dự bị Sư đoàn 5 Quân giải phóng bao gồm 1 trung đoàn, 3 tiểu đoàn và các trung đoàn của Quân khu 7 đánh khu vực Biên Hoa và Long Bình, hỗ trợ đánh phá bình định vùng Trảng Bom - Xuân Lộc - Vĩnh cửu, Long Thành, Nhơn Trạch...


Ở hướng tây Sài Gòn, lực lượng Phân khu 2 tác chiến từ ven đô đến sát Vàm Cỏ Đông sử dụng pháo, đặc công tiến công sân bay Tân Sơn Nhất, phục kích lính ngụy trên địa bàn quận 6...

Ở hướng nam và tây nam Sài Gòn, Trung đoàn 320 từ Tân An đến Tân Trụ, Cần Đước cùng bộ đội địa phương đánh phá bình định; sử dụng đặc công và pháo đánh kho Nhà Bè và hậu cứ Mỹ ở Tân An. Phân khu 3 pháo kích vào hầu hết căn cứ đầu não Mỹ - ngụy ở Tân An, Cần Đước, Tân Trụ. Phân khu 5 đánh căn cứ Lái Thiêu, Châu Thành...


Trong đợt tiến công mùa Xuân năm 1969, trận Sóc Bế, An Lộc, trận ty cảnh sát và nhà ga Biên Hòa, trận tập kích căn cứ Đồng Dù... là những trận đánh tiêu biểu cho ý chí, sức mạnh và sự linh hoạt trong sử dụng chiến thuật, nghệ thuật quân sự của Quân giải phóng trên chiến trường B2. Trận tiến công ty cảnh sát và nhà ga Biên Hòa (23-2-1969) gây tiếng vang lớn. Đội biệt động thị xã Biên Hòa kết hợp với Đại đội 3 Sư đoàn 5 tập kích ty cảnh sát thị xã Biên Hòa, đánh tan một đại đội cảnh sát dã chiến; vận động tiến công nhà ga Biên Hòa, bắn rơi 1 máy bay trực thăng, phá hủy 1 tàu chở lính gồm 10 toa, bắt 7 lính, thu 10 súng các loại... Đặc biệt, sau trận đánh, công nhân khu kỹ nghệ Biên Hòa nổi dậy đốt cháy trên 3 triệu lít xăng, đánh sập 2 cầu gỗ, rải trên 10.000 truyền đơn, treo 20 cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng. Trận tập kích căn cứ Đồng Dù (26-2-1969), Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 429 tập kích lực lượng Lữ đoàn 2, Sư đoàn 25 Mỹ tại căn cứ Đồng Dù, phá hủy Sở chỉ huy, trung tâm thông tin, trạm rađa và nhiều trại lính, lô cốt hầm ngầm; phá hủy, phá hỏng 37 máy bay, 276 xe quân sự, 10 pháo 105mm, 7 súng cối 106,7mm, 1 xe tăng, 1 kho đạn... Tuy nhiên, trong trận này, Quân giải phóng hy sinh và bị thương 68 chiến sĩ, trong đó có 5 chiến sĩ bị bắt.


Trên chiến trường rừng núi Đông Nam Bộ, Tiểu đoàn 368 tỉnh Bình Long phục kích quân Mỹ tại Sóc Bế, An Lộc, bắn cháy 17 xe tăng. Sau trận đánh, Tiểu đoàn được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì, một số cán bộ được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba (12-1-1969)1 (Tiêu diệt 80 sĩ quan và binh lính Mỹ. Quân giải phóng hy sinh và bị thương 40 cán bộ, chiến sĩ)... Ở Quân khu 6, Quân giải phóng sử dụng đặc công, bộ binh đánh vào tiểu khu Bình Thuận, đột nhập ấp chiến lược Nhơn Hòa, Sơn Lương, Phước Quả, Phước Tín...; tập kích ESEPIC, chi khu Đức Trọng; pháo kích sân bay Cam Ly... Đặc biệt, Đại đội 715 đặc công tỉnh Lâm Đồng tập kích Lữ đoàn 173 Mỹ tại kho hậu cần Lữ đoàn 173 tại phía tây bắc thị xã B’Lao, phá hủy và làm hư hỏng 47 xe quân sự, 3 máy bay trực thăng, 3 dàn hỏa tiễn, 36 nhà lính, 24 lô cốt, hầm chiến đấu (19-1-1969)...


Trên chiến trường Quân khu 8, Trung đoàn 1 tiến công các mục tiêu trọng yếu trong thị xã Mỹ Tho. Tiểu đoàn 309 pháo kích căn cứ Đồng Tâm, phá hủy 12 máy bay, 7 tàu, 6 pháo, đốt cháy hàng triệu lít xăng (22-2-1969). Trung đoàn 2 (thiếu Tiểu đoàn 263) diệt một đại đội bảo an địch tại Thanh Vĩnh Đông; pháo kích 15 mục tiêu trong tỉnh Kiến Phong và 20 mục tiêu trọng yếu khác trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Đặc biệt, Trung đội cối nữ thuộc Tiểu đoàn 309F do nừ đồng chí Nguyễn Thị Bé Sáu chỉ huy pháo kích vào căn cứ Đồng Tầm, làm hỏng nặng 10 máy bay; diệt hai tiểu đội biệt kích của chi khu Sầm Giang (8-3-1969). Đại đội mũi nhọn thị xã Bến Tre kết hợp với đại đội đặc công tỉnh và cơ sở nội tuyến tập kích Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 10 ngụy tại Bình Phú; tập kích cụm pháo Mỹ ở Đổng Gò, Chợ Giữa trên tỉnh lộ 26, phá hủy 5 khẩu pháo 105 ly (24-2-1969). Ở Kiến Phong, 20 cán bộ, chiến sĩ đơn vị 279 chặn đánh Tiểu đoàn biệt động quân 41 tại xã Mỹ Hội (24- 2-1969). Lực lượng biệt động thị xã Cao Lãnh tiến công nhà hàng Á Đông, nhà hàng Tân Lợi - là những địa điểm tụ tập ăn chơi của nhóm sĩ quan ngụy thuộc biệt khu 44 (9-5-1969). Lực lượng công binh Khu 8 kết hợp với Đại đội 332 (Mỹ Tho) đột nhập vào ấp chiến lược Nhị Bình, diệt xe GMC, 1 xe Jeep, 1 xe M113, bắn rơi 1 máy bay (sau trận này tổ công binh được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba). Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 Kiến Phong (mỗi tiểu đoàn chỉ còn khoảng 100 quân) chống càn tại xã Bình Hàng Tây (25-2-1969); tại xã Long Hiệp, Mỹ Hội, Mỹ Xương, bắn rơi 1 trực thăng, thu 3 carbine, 1 M79 (từ ngày 23 đến ngày 28-3-1969); tiến công đồn An Bình (17-4-1969), đồn Ba Sao (24-4-1969)...


“Sau hơn 1 tháng tấn công, phối hợp với chiến trường chung toàn Miền, quân và dân Khu 8 đả loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Nổi bật nhất là 2 tỉnh Mỹ Tho và Bến Tre. Ta đã liên tục pháo kích vào 34 sở chỉ huy và hậu cứ của địch, kết hợp với phong trào “ba mũi" tròn diện rộng như Giồng Trôm, Mỏ Cày, Châu Thành (Bến Tre); Kiến Văn, Cao Lãnh (Kiến Phong); ở Gò Công 11 xã nổi lên tiến công địch ba mũi bao vây đồn bót, đột nhập ấp chiến lược... tuy nhiên cường độ tiến công nhỏ, rải rác, kết quả hạn chế, không hỗ trợ được cho phong trào chống bình định”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.676, 677). Quân giải phóng chủ yếu bằng lực lượng đặc công đột kích, pháo kích vào hệ thống sân bay, căn cứ hậu cứ kho tàng của quân ngụy trên hầu hết các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau...


Tại Cần Thơ, lực lượng đặc công pháo kích sân bay Cần Thơ, phá hủy 29 máy bay các loại (13-1-1969); pháo kích vào sân bay Trà Nóc (ngày 10 và ngày 11-2-1969). Ở Rạch Giá, Quân giải phóng pháo kích vào yếu khu quân sự, sân bay, bãi xe... Đại đội 616 pháo của tỉnh phối hợp với biệt động thị xã pháo kích tòa hành chánh, tỉnh đoàn bảo an, sân bay Lạc Hồng.... Ở Bạc Liêu, lực lượng biệt động đột kích vào sân bay Bạc Liêu, bắn cháy và phá hỏng 1 máy bay L19, 1 xe M113, 2 xe tăng, 2 xe M113, thu 7 súng các loại (12-3-1969).


Chỉ hơn 1 tháng trong đợt hoạt động Xuân 1969, Quân giải phóng tỉnh đánh 65 trận, chủ yếu tiến công vào các mục tiêu quan trọng của quân ngụy trong thị xã, thị trấn. Sự cố gắng vượt bậc của Quân giải phóng trên địa bàn Quân khu 9 đã khắc phục những khó khăn về quân số, liên tục tiến công đối phương trên diện rộng từ Cần Thơ, Vĩnh Trà, Chương Thiện, Bạc Lieu, Sóc Trăng đến Cà Mau. Ở nông thôn, ta đã chuyển vùng được 100 ấp, trong đó có 20 ấp mạnh, giành quyền làm chủ 20.000 dân, giải phóng 4 ấp và 5.000 dân...


Tính tổng cộng trên toàn chiến trường B2, Quân giải phóng đã đánh 934 trận, diệt 17.238 tên, tiêu diệt 2 tiểu đoàn ngụy, 3 cụm Mỹ, 23 đại đội, 6 đoàn bình định, hạ 157 máy bay, 346 thiết giáp, 74 tàu chiến. Trong đó, ở nội thành, nội thị có 48 trận, một số nơi đã kết hợp lực lượng biệt động với bộ binh và các binh chủng khác, tạo nên những trận đánh thối động ở các nơi như Tây Ninh, Đà Lạt, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sa Đéc, Cà Mau...1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2 Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2) tháng 2-1979. tr.76).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:24:04 am
Đợt hoạt động “thường xuyên mạnh” (4-1969):

Thắng lợi của đợt tiến công mùa Xuân năm 1969 không những tạo nên hình thái chiến trường thuận lợi mà còn minh chứng đúng đắn của chủ trương, kế hoạch, việc bố trí lực lượng và nghệ thuật tiến công của Quân giải phóng. Trên cơ sở đó, Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền chủ trương tiếp tục “chuyển qua hoạt động thường xuyên mạnh trong tháng 4".


Chấp hành mệnh lệnh của Quân ủy - Bộ Chỉ huy Miền, các trận đánh lại diễn ra ác liệt tại Bến Cầu (Tây Ninh), Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một), sông Cái Lớn (tây nam Vị Thanh), sông Lao (Bình Thuận)... Điển hình như ở Tây Ninh, Đại đội đặc công 25 của Trung đoàn 88, Sư đoàn 9 đã tập kích 2 trung đội "bình định” 1 trung đội dân vệ tại ấp chiến lược Bến Mới, xã Phước Lưu, huyện Trảng Bàng, bán sập 1 lô cốt, phá hỏng 3 trung liên, phá sập lán trại đội bình định, thu 2 xe honđa và nhiều trang thiết bị quân sự khác (2-4-1969). Đại đội 25 bộ đội địa phương huyện Long Đất vận động tiến công một đại đội thuộc Trung đoàn 43, Sư đoàn 18 tại nam Bầu Tây, ấp Long Mỹ, xã Phước Long Hội, thu 60 súng các loại, 3 máy thông tin PRC25, một số đạn và đồ dùng quân sự (4-1969). Ở Quân khu 2, lực lượng biệt động đánh lính nhảy chụp, chống lấn chiếm ở Giồng Trôm, chống bình định ở An Hóa... Ở Quân khu 3, biệt động Cần Thơ, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau... tiến công các mục tiêu trọng yếu trong nội thành nội thị. Đặc biệt trong tháng 4-1969, Sư đoàn 1 Quân Giải phóng đã bắn cháy 56 máy bay trực thăng của Mỹ...


Đợt tiến công Hè năm 1969 (từ ngày 11-5 đến ngày 20-6):

Sau đợt tháng 4-1969, Mỹ sử dụng Sư đoàn 1 tiến hành các cuộc hành quân an ninh từ tây sông Sài Gòn đến lộ 4, hình thành tuyến phòng ngự bắc liên tỉnh lộ 13 và tuyến cố định - liên tỉnh lộ 13. Trung đoàn 11 thiết giáp án ngữ ở Bình Long; Lữ 82 dù, Lữ 3 Sư đoàn 25 án ngữ ven sông Vàm Cỏ Đông; đồng thời Sư đoàn 18 quân lực ngụy bảo vệ tuyến Long Bình - Biên Hòa... Với lực lượng trên, Mỹ tổ chức nhiều cuộc hành quân hỗ trợ bình định, ủi phá vùng ven, vùng tuyến trung gian để giải tỏa sự uy hiếp Sài Gòn của Quân giải phóng, đồng thời thực hiện thí điểm chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” trên hướng đông bắc Sài Gòn.


Trước tình hình đó, Trung ương Cục quyết định “tiếp tục phát triển thắng lợi của đợt tiến công mùa Xuân, ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, tiếp tục đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định cấp tốc của địch và phát huy cách đánh mạnh, đánh liên tục vào các đô thị, thị xã”1 (Trích Chỉ thị số 81 của Thường vụ Trung ương Cục về đợt hoạt động Hè năm 1969). Thực hiện đợt tiến công mùa Hè năm 1969, Bộ Chỉ huy Miền quyết định sử dụng Sư đoàn 9 Quân giải phóng tiến công hướng tây nam thị xã Tây Ninh; Sư đoàn 7 Quân giải phóng tiến công vào tây và tây nam thị xã Hớn Quản; 1 trung đoàn thuộc Sư đoàn 1 Quân giải phóng đánh giao thông phía nam Hớn Quản. Sư đoàn 1 Quân giải phóng phụ trách tuyến đường 26, đường số 2 từ Dương Minh Châu đến Gò Dầu. Các trận đánh ác liệt diễn ra. Sư đoàn 7 Quân giải phóng tiến công Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ, Trung đoàn 1 Sư 1 bộ binh Mỹ trên đường 13, uy hiếp thị xã Hớn Quản bằng pháo. Lực lượng đặc công Miền tiến công căn cứ Lữ đoàn 3 địch ở Téc Ních. Sư đoàn 9 Quân giải phóng đánh thiệt hại nặng các đơn vị dù và thủy quân lục chiến ngụy ở khu vực nam Tòa Thánh Tây Ninh...


Trên hướng đông bắc, Trung đoàn 5 thuộc Sư đoàn 5 Quân giải phóng tập kích Chiến đoàn 43 (8-5-1969); 1 tiểu đoàn của Sư 18 tại Tầm Bung (9-6-1969); 1 cụm Mỹ, 2 chi đoàn thiết xa vận; Sở Chỉ huy Sư 18, Trung đoàn 52 ngụy và tiêu hao nặng 2 tiểu đoàn ngụy khác (từ ngày 8-5 đến ngày 23-5-1969)...


Phối hợp với quân chủ lực Miền, bộ đội các phân khu cũng tổ chức tiến công đối phương trên khắp chiến trường. Tổ đặc công thủy - Tiểu đoàn đặc công Thủ Dầu Một, Phân khu 1 tập kích lực lượng Tân Tây Lan tại đoạn sông Sài Gòn thuộc địa bàn Lái Thiêu (12-5-1969). Đại đội Công binh Z25 tập kích lính bảo an tại xã Truông Mít, huyện Dương Minh Châu (19- 5-1969). Tiểu đoàn đặc công, Phân khu 1 tập kích lực lượng tiếp vụ tại tổng kho trên đường Nguyễn Trường Tộ, quận Gò Vấp (22-5-1969). Đội 20 công binh Phân khu 2 phục kích Giang đoàn 42 ngụy tại xã Thạnh Phước, huyện Tuyên Bình, tỉnh Kiến Tường (12-6-1969). Đội Công binh thủy Phân khu 1 tập kích Giang đoàn 28 ngụy tại đoạn sông Sài Gòn thuộc xã An Tây, huyện Bến Cát (17-6-1969). Đại đội 20A Công binh Phân khu 1 và tể săn tàu sông của huyện Đức Huệ phục kích đánh tàu địch cơ động trên sông Vàm Cỏ Đông thuộc ấp Rạch Gốc, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ (6-6-1969). Đại đội 15 bộ đội địa phương Bác Củ Chi tập kích trung đội biệt kích Mỹ tại Bàu Điểu, Phước Hưng, Phước Hiệp (13-6-1969). Đại đội trinh sát J16 tập kích quân Mỹ tại núi Bà Đen (16-6-1969). Đại đội 51 bộ đội địa phương huyện Xuyên Mộc vận động tiến công quân Úc tại ấp Gò Cà, xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh (8-10-1969)...


Trên chiến trường Quân khu 6 và Quân khu 10: Ở Bình Thuận, Quân giải phóng tiến công đối phương xung quanh khu vực Bắc Bình - Tuy Phong, đường số 1, 8, 11. Ở Tuyên Đức, Quân giải phóng tiến công thị xã, tập kích chi khu Đức Trọng, pháo kích vào Trường võ bị Đà Lạt. Đại đội 412 bộ đội địa phương huyện Hoài Đức tập kích Đại đội bảo an 119 tại Chính Đức, Hoài Đức, tỉnh Bình Tuy (19-5-1969). Đại đội 450 bộ đội địa phương huyện Thuận Phong tập kích lực lượng bình định và một bộ phận quân Mỹ tại ấp chiến lược Tuy Hòa, Hàm Đức, Hàm Thuận (6-6-1969). Ở Quân khu 10, Quân giải phóng tiến công chi khu Phước Bình, pháo kích sân bay và trận địa pháo của quân đội Sài Gòn tại Bình Long...


Trên chiến trường Quân khu 8 (T2), Quân giải phóng Miền (Trung đoàn 3) hoạt động ở An Giang, thu hút lực lượng cơ động Quân đoàn 4 quân đội Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho Quân giải phóng Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Tường, Gò Công, Kiến Phong đẩy mạnh hoạt động đánh phá bình định. Tuy nhiên, tháng 6-1969, lực lượng tiểu khu Định Tường của chính quyền Sài Gòn đánh chiếm Minh Đức, Ngãi Đăng, Tân Trung, Cấm Sơn; tháng 7-1969 chúng đánh chiếm An Thới, An Định, An Thạnh, Thành Thói, Bình Khánh; từ tháng 8 đến tháng 10-1969, chúng chiếm đóng các xã Lương Hóa, Châu Hóa, Hiệp Hưng (Giồng Trôm), An Nhơn, An Quý (Thạnh Phú) Thạnh Tân, Phước Thuận (Bình Đại)... Vùng giải phóng bị thu hẹp, Quân giải phóng bị đánh bật ra khỏi địa phương. Hơn nữa, Mỹ còn sát hại 1.285 người dân, giam cầm, đánh đập hàng ngàn người khác... Phong trào cách mạng trên địa bàn Quân khu 8 dần đi xuống.


Trên chiến trường Quân khu 9 (T3), thực hiện chỉ thị của Quân ủy Miền “Ra sức đẩy mạnh tiến công quân sự đều khắp và liên tục, căng kéo địch ra để tiêu diệt và tiêu hao địch một cách rộng rãi...”. Tuy nhiên do thiếu lực lượng, Quân giải phóng chủ yếu phòng ngự, phục kích, tiến công nhỏ lẻ, pháo kích các căn cứ quan trọng, tiêu diệt hệ thống đồn bót trên trục giao thông và các khư vực bình định của quân đội Sài Gòn...


Có thể khẳng định, đợt tiến công mùa Hè của Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã giành được thắng lợi to lớn, đánh 6.582 trận, diệt 91.130 tên địch, bắn rơi và phá hủy 1.359 máy bay phá hủy 3.101 xe (1.965 xe bọc thép), bắn chìm và cháy 375 tàu phá hủy 609 pháo, 118 kho, thu 1.424 súng 43 máy VTĐ1 (Trong đó có 37.720 Mỹ, 1.575 Thái, 622 Úc; diệt 14 tiểu đoàn (2 tiểu đoàn Mỹ, 2 tiểu đoàn Thái), 8 cụm Mỹ, 2 đại đội thiết xa vận ngụy, 126 đại đội, 22 đội bình định. Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ và Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ: bị diệt 3.350 tên, bị diệt 4 đại đội bộ binh cơ giới 2 đại đội pháo, bị tiêu hao 2 tiểu đoàn bộ binh cơ giới, bị phá hủy 598 xe (có 420 xe tăng và bọc thép). Sư đoàn 1 kỵ binh không vận: bị diệt 7.668 tên, bị diệt 21 đại đội (trong đó có 4 đại đội pháo), bị thiệt hại 196 máy bay, 125 pháo, 253 xe. Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ: bị diệt 3.219 tên, bị diệt 5 đại đội bộ binh cơ giới, 3 cụm Mỹ tương đương tiểu đoàn và đại đội. Sư đoàn 18 ngụy bị diệt 3.400 tên (riêng Trung đoàn 43 bị diệt 85% sinh lực), bị diệt 4 tiểu đoàn, 6 đại đội và 2 chi đoàn thiết vận xa. Sư đoàn dù ngụy bị tổn thất 30% quân số, 7 tiểu đoàn bị tiêu hao nặng và vừa). Trung ương Cục đánh giá: “điểm nổi bật nhất là từ Xuân 1969 đến nay, trên cơ sở quán triệt quyết tâm chiến lược của Trung ương, ta đã có một bước tiến bộ rõ rệt trong việc vận dụng phương châm phương thức đấu tranh và xây dựng cả về mặt quân sự và chính trị để ngày càng phù hợp với quy luật của cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhất là đã ấp dụng và phát triển phương hướng đánh và cách đánh có hiệu suất cao, gây cho địch những tổn thất rất nặng mà ta thương vong ít, đã ấp dụng và phát triển phương châm phương thức công tác ba vùng để giữ vững và giành quyền làm chủ ở vùng yếu, vùng ven, kể cả từng bộ phận trong thành phố thị xã. Đây là một sự chuyển biến về chất lượng trong sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ ta... Nó đang mở ra những khả năng rất to lớn để quân, dân ta có thể đánh mạnh được, đánh lâu dài được, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lợi, vừa đảnh mạnh về quân sự, vừa tấn công mạnh về chính trị ở thành thị và nông thôn, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, mở rộng quyền làm chủ, giữ vững các địa bàn chiến lược, giữ vững và phát triển thế tiến công và bao vây địch, nhứt là trên chiến trường trọng điểm trong những điều kiện hết sức ác liệt và phức tạp của chiến trường ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.30, tr.326-327).


Tiêu đề: Re: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:25:19 am
Đợt tiến công giữa mùa mưa 1969 (từ ngày 11-8 đến ngày 15-9):

Đầu tháng 6-1969, để không có gì bất trắc có thể xảy ra đối với chính quyền Sài Gòn, Mỹ tiến hành bố trí lại lực lượng. Trên tuyến ven đô, Mỹ bố trí 19 tiểu đoàn, trong đó có 4 tiểu đoàn lính Mỹ và 15 tiểu đoàn quân ngụy, chiếm 16% lực lượng. Trên tuyến trung gian, Mỹ bố trí 62 tiểu đoàn, gồm 34 tiểu đoàn Mỹ và 28 tiểu đoàn quân lực Sài Gòn, chiếm 52% lực lượng. Ngoài số binh lính nói trên, Mỹ sử dụng Sư đoàn 1 bộ binh, Sư đoàn 25 của Mỹ và Sư đoàn 5, Sư đoàn 25 ngụy cùng với lực lượng trù bị chiếm giữ các địa bàn quan trọng xung quanh Sài Gòn như vùng Long Nguyên, Bời Lòi, vùng đông tây sông Sài Gòn sông Vàm Cỏ Đông và vùng phía nam sông Đồng Nai...


Thực hiện đợt tiến công giữa mùa mưa 1969, Bộ Chỉ huy Miền tổ chức lại lực lượng, “đặc công hóa các đơn vị: Trung đoàn 10 Rừng Sác, Tiểu đoàn 267, 269 (Phân khu 2), 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 4 (Phân khu 5), Tiểu đoàn 1 (Tây Ninh) để phù hợp với tình hình chiến trường tăng sức tấn công. Các phân khu cũng thành lập các đơn vị đặc công riêng”2 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2010), Sđd, tr. 139).


Trên hướng Bình Long, Sư đoàn 9 Quân giải phóng tập kích Trung đoàn 15 thiết giáp ngụy, cụm cơ giới Mỹ tại Tân Khai, phía tây thị xã Hớn Quản (từ ngày 11 đến ngày 12-8-1969). Tiểu đoàn 4 đặc công, Trung đoàn 429 tập kích lực lượng Lữ đoàn 3, Sư đoàn 101 kỵ binh không vận Mỹ tại xã Tân Lợi, tỉnh Bình Long (12-8-1969). Sư đoàn 7 Quân giải phóng đánh bại lực lượng biệt kích ngụy tại Lộc Ninh. Lực lượng đặc công Miền tiến công sân bay Téc Ních, chi khu Chơn Thành, căn cứ Lữ đoàn 3 không vận, căn cứ Trung đoàn 9 ngụy và căn cứ Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ...


Trên hướng Phước Long, Sư đoàn 5 tiến đánh trại biệt kích Bù Na. Quân giải phóng Quân khu 10 tập kích chi khu Bù Đăng, lực lượng đặc công Miền đột nhập ấp chiến lược...

Trên hướng Tây Ninh, Trung đoàn 88 Sư đoàn 9 tiến công Tiểu đoàn 1 dù. Trung đoàn 2 Sư đoàn 9 tiến công cụm Lovea, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 8 không vận Mỹ. Lực lượng pháo binh, pháo cao xạ Miền tiến cồng sân bay Téc Ních, căn cứ Trảng Lớn, Dầu Tiếng, Lai Khê....


Phối hợp với quân chủ lực Miền, các đơn vị bộ đội các phân khu cũng được huy động vào đợt tiến công mùa Thu năm 1969.

Lực lượng pháo binh miền Đông tập kích sân bay Biên Hòa. Đặc công tiến công thị xã Long Khánh, quận lỵ Long Điền. Bộ binh đánh phá bình định ở Long Thành, Xuân Lộc, Trảng Bom, Bà Rịa, Long Đất, Phước Hải... Đoàn 10 đặc công đánh tàu trên sông Vàm Cỏ Đông, sông Đồng Nai, tại cảng Nhà Bè, cảng Cát Lái...


Phân khu 1, Trung đoàn 16 tập kích căn cứ Mỹ tại Bầu Nổ, diệt 81 xe quân sự; tập kích căn cứ Mỹ tại làng 13 Dầu Tiếng, diệt 23 xe thiết giáp. Trung đoàn 268 kết hợp với Trung đoàn Quyết Thắng phục kích lực lượng ngụy tại vùng Củ Chi, Trảng Bàng.


Phân khu 2 sử dụng 6 tiểu đoàn bám trụ tại vùng Bình Chánh. Do lực lượng yếu nên chỉ dùng hỏa lực pháo, cối... phục kích lực lượng ngụy tuần tra an ninh, tiến đánh những trận nhỏ, lẻ (2 tiểu đoàn 12 và 16 rút sâu về Long An).


Phân khu 3, Trung đoàn 320 kết hợp với bộ đội địa phương hoạt động tương đối khá trên một số khu vực Châu Thành, Tân Trụ, Cần Giuộc.

Phân khu 5, Trung đoàn Đồng Nai sử dụng Tiểu đoàn 1 phối hợp với Quân giải phóng địa phương Thủ Dầu Một, Biên Hòa tiến đánh quân ngụy tại Tân Uyên. Đặc biệt, Đại đội đặc công 504 tập kích tiểu đoàn hỗn hợp thuộc Sư đoàn 1 Anh cả đỏ Mỹ tại ấp Bố Lá, xã Phước Hòa, huyện Tân Uyên (6-9-1969)1 (Diệt 150 tên và 14 xe bọc thép). Bên cạnh đó, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn Đồng Nai được giao nhiệm vụ hoạt động trên địa bàn trung chuyển từ giữa đường số 7 đến đường số 2...


Trên chiến trường Quân khu 6, Quân giải phóng tập kích yếu khu Sông Lũy, phục kích lính ngụy trên đường sô 1 (2 trận); thị xã Phan Thiết, Đà Lạt.... Đặc biệt, Tiểu đoàn 840 (Đại đội 5), Tiểu đoàn 240 (Đại đội 5) kết hợp với Quân giải phóng địa phương tập kích Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 18 ngụy tại căn cứ Sông Mao, Bắc Bình, Bình Thuận, đánh sập 6 lô cốt, 3 hầm ngầm, 2 pháo 105mm, 3 xe quân sự, 4 tấn đạn, 2 xe tăng, thu 34 súng các loại (11-8-1969)...


Trên chiến trường Quân khu 8, bước vào đợt tiến công mùa Thu Mỹ đã dần rút khỏi vùng bắc sông Cửu Long, chỉ còn khoảng 700 quân ở căn cứ Bình Đức. Tuy nhiên, vùng giải phóng của các tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường, An Giang, Mỹ Tho hầu như bị lấn chiếm. Đến tháng 10-1969, trên địa bàn Quân khu 2 có 1.724 đồn bót, 29.760 bảo an, 23.244 dân vệ, 48.300 phòng vệ dân sự (25.000 xung kích)... Chiến trường bị chia cắt, lực lượng Quân giải phóng mỏng không đủ lực lượng để thực hiện được kế hoạch trọng điểm, hoạt động vũ trang chỉ hỗ trợ chống phá bình định, ở Bến Tre, Tiểu đoàn 560, 516 phối hợp với bộ đội huyện Mỏ Cày đánh 8 trận tại Cẩm Sơn, Ngãi Đăng, An Định, Thành Thới (tháng 7 và 8-1969). Tiểu đoàn 560 tập kích đoàn bình định tại chợ xã An Thới, tập kích Trung đoàn 10 và 2 đại đội bảo an (tháng 8-1969)... ở Mỹ Tho, Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 514C tập kích đoàn bình định và 2 trung đội của Sư đoàn 7 ngụy (tháng 6-1969)...


Trên chiến trường Quân khu 9, hầu hết các vùng giải phóng như Tam Bình, Vũng Liêm, Trà Ôn, Cầu Kè, Tiểu Cần, Cầu Ngang, Trà Cú (Trà Vinh), Long Mỹ, Phụng Hiệp (Cần Thơ), Ngã 5, Thạnh Trị (Sóc Trăng)... đều bị địch lấn chiếm. Đến tháng 9-1969, trên địa bàn Quân khu có đến 2.000 đồn, 29.500 bảo an, 38.000 dân vệ (tháng 9-1969), 115.000 phòng vệ dân sự (40.000 xung kích). Lực lượng cách mạng bị hao hụt: trong 6 tháng đầu năm 1969, mất 744 đảng viên, 2.259 đoàn viên, 1.288 cơ sở quần chúng. Du kích xã từ 8.545 (9-1968) còn 2.147 (9-1969), du kích ấp từ 15.591 (9-1968) còn 6.260 (9-1969)1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979)...


Tháng 6-1969, các đơn vị bộ đội Quân khu 9 đẩy mạnh hoạt động ngăn chặn kế hoạch “bình định cấp tốc" của chính quyền Sài Gòn. “Đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn chủ lực địch; đánh tiêu hao Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 15 ngụy ở An Khánh (Vĩnh Long); diệt 10 đại đội bảo an, đánh thiệt hại nặng 8 đại đội bảo an khác; diệt gọn 11 đồn, bắn chìm 67 tàu chiến, bắn cháy 50 xe quân sự, phá hủy 24 khẩu pháo. Thu 226 súng các loại, 8 máy VTĐ và nhiều đạn dược”2 (Đảng uy - Bọ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.468).


Theo số liệu của Ban Tổng kết chiến tranh B2, đợt tiến công mùa Thu 1969, Quân khu 9 đã diệt Trung đoàn 15 thiết giáp ngụy (thiếu); 7 tiểu đoàn, trong đó có 1 tiểu đoàn Mỹ; 3 tiểu đoàn bộ; 3 cụm (2 cụm Mỹ); 2 chi đoàn thiết giáp (1 chi đoàn thiết giáp Mỹ); 98 đại đội (39 đại đội Mỹ), 15 đội bình định, 74 trung đội. Tiêu hao nặng Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ; 8 tiểu đoàn và 5 cụm Mỹ, hậu cứ Lữ 3 không vận và Bộ Chỉ huy Trung đoàn 9 ngụy; 46 đại đội. Bắn rơi và phố hủy 636 máy bay phá hủy 2.273 xe (có 1.583 xe bọc thép); bắn chìm và cháy 1 193 tàu, phá hủy 248 pháo, đốt cháy 39 kho, 8 bể xăng, phố sập 30 cầu cống... Thu 746 súng các loại và 7 vô tuyến điện1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979).


Nhìn chung, trong đợt Thu, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã liên tục phát triển thế tấn công, đánh 3.536 trận lớn nhỏ với nhiều phương thức, cách đánh sáng tạo, hiệu suất cao, tỷ lệ thương vong thấp... và đã giành được nhiều thắng lợi vang dội2 (Loại ra ngoài vòng chiến đấu 57.600 tên (có 13.618 Mỹ), 690 Thái Lan, 254 Úc. Diệt Trung đoàn 15 thiết giáp ngụy (thiếu), 7 tiểu đoàn (1 tiểu đoàn Mỹ), 3 tiểu đoàn bộ, 3 cụm (2 cụm Mỹ), 2 chi đoàn thiết giáp (1 chi đoàn thiết giáp Mỹ), 98 đại đội (39 đại đội Mỹ), 15 đội bình định, 74 trung đội. Tiêu hao nặng Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ, 8 tiểu đoàn và 5 cụm Mỹ, hậu cứ Lữ 3 không vận và Bộ Chỉ huy Trung đoàn 9 ngụy, 46 đại đội. Bắn rơi và phá hủy 636 máy bay, phá hủy 2.273 xe (có 1.583 xe bọc thép); bắn chìm và cháy 1.193 tàu, phá hủy 248 pháo, đốt cháy 39 kho, 8 bể xăng, phá sập 30 cầu công, v.v... Thu 746 súng các loại và 7 vô tuyến điện. Sư đoàn kỵ binh không vận bị diệt 5.000 tên (35% quân số), 163 máy bay (38% máy bay của sư đoàn), 38 pháo (42% số pháo của sư đoàn). Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ bị tiêu diệt, 1.500 tên (15% quân số), 193 xe (63% xe của sư đoàn) - Trung đoàn 11 kỵ binh thiết giáp Mỹ bị diệt 2.260 tên (70% quân số) và gần 300 xe. Trung đoàn 15 thiết giáp ngụy bị diệt 350 tên và 60 xe. Diệt 1 tiểu đoàn dù, 1 tiểu đoàn biệt kích, 34 tiểu đoàn biệt động quân, v.v...).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:27:43 am
Đợt tiến công đầu mùa khô 1969-1970 (từ tháng 11-1969 đến tháng 1-1970):

Từ tháng 6-1969, Trung ương Cục chủ trương mở đợt tiến công đầu mùa khô 1969-1970, đẩy đối phương lâm vào tình thế bế tắc trên các mặt trận, đặc biệt là mặt trận bình định, tạo điều kiện cho cuộc tiến công mùa Xuân năm 1970 giành thắng lợi.


Trên chiến trường miền Đông, quân chủ lực Miền thực hiện các trận đánh lớn mang tính thối động nhằm tạo cục diện có lợi trên chiến trường. Tuy nhiên, trước các cuộc hành quân đánh phá ác liệt của Mỹ, Quân giải phóng Miền chỉ đánh được một số trận nhỏ như tiến công, uy hiếp chi khu Bù Đốp (11-1969); phục kích lực lượng Sư đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ trên đường 14, trên liên tỉnh lộ 13 (1-1970).


Quân giải phóng ở các phân khu cũng gặp nhiều khó khăn cả về lực lượng, vũ khí, đạn dược và cả về hậu cần, do vậy, sức chiến đấu giảm sút. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 3 Phân khu 3 chỉ phục kích đánh một số trận nhỏ lẻ ở quận 7. Tiểu đoàn 6 Phân khu 2 đánh được một số trận ở Bình Chánh, Vĩnh Lộc. Tiểu đoàn 4 Phân khu 4 thì về bám trụ ở vùng Thủ Đức. Tiểu đoàn 14 Tây Ninh bám trụ ở vùng Gò Dầu... Trên tuyến trung gian, các tiểu đoàn, trung đoàn còn lại của các phân khu cũng chỉ thực hiện được những trận phục kích nhỏ trên các địa bàn Long Đất, Long Thành, Trảng Bom, Gò Dầu, Đức Hòa, Dầu Tiếng, nam Củ Chi, Thủ Đức, Châu Thành, Tân Uyên... Chỉ có trận tiến công Trường võ bị Thủ Đức tại xã Tăng Nhơn Phú, huyện Thủ Đức là gây được tiếng vang lớn (19-1-1970)...


Trên chiến trường Quân khu 6, Quân giải phóng cũng gặp muôn vàn khó khăn. Tuy nhiên, thực hiện đợt tiến công mùa Đông, lực lượng đặc công Quân khu đã tiến đánh hậu cứ Sông Lũy (Bình Thuận). Quân giải phóng địa phương Tuyên Đức, Đức Trọng tiến công hệ thống đồn, bót ở vùng trọng điểm Đức Trọng...


Trên chiến trường Quân khu 8, bước vào đợt hoạt động mùa Đông năm 1969, tại vùng 20 tháng 7 (Mỹ Tho), Trung đoàn 1 bao vây tiêu diệt hệ thống đồn bót; phục kích Tiểu đoàn 2, Sư đoàn 18 ngụy tại khu vực cây Ô Môi, kinh Năm Mạnh xã Long Tiên (Cai Lậy), thu gần 200 khẩu súng các loại (11-11-1969). Hai đại đội (1 và 3) thuộc Tiểu đoàn 514C phục kích đánh lực lượng bình định, bảo an trên lộ 20. Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 514 tiến công 2 trung đội bảo an ở Long Định đánh thiệt hại nặng đoàn bình định, 27 xe công binh ở ngà tư Chợ Bưng1 (Đại đội 2, Tiểu đoàn 514 được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng 8 chữ vàng “luồn sâu, đánh giỏi, chiến thắng vẻ vang” và tuyên dương Đơn vị anh hùng). Đại đội bảo vệ Tỉnh đội phục kích lực lượng bảo an tại xã Hội Cư. Tiểu đoàn 261A tiến công lực lượng bảo an tại đập Ông Tải xã Hậu Mỹ Nam (12-1969). Ở Bến Tre, Tiểu đoàn 516, 560 tiến công 2 đại đội bảo an tại xã Minh Đức, thu 50 súng. Ở Mỏ Cày, Bình Đại, Thạnh Phú..., bộ đội huyện phục kích lực lượng bình định, bảo an... Biệt động thị xã Bến Tre dùng mìn hẹn giờ, lựu đạn tiến công Mỹ trong nội ô. Một tổ đặc công nước do đồng chí Lê Văn Phích chỉ huy đánh sập cầu Bình Chánh, đánh tàu Mỹ trên kênh Chệp Sậy, sông Hàm Luông... ở Kiên Phong, Tiểu đoàn 1 chống càn tại các xã Mỹ Hội, Thiện Mỹ, Phong Mỹ (Cao Lãnh); đánh trận rạch Bà Lương (Long Hiệp), bắn rơi 1 trực thăng, bắn cháy 1 xe M113...


Trên chiến trường Quân khu 9, ngày 2-9-1969, Mỹ tổ chức cuộc hành quân đánh vào Chiến khu U Minh. Trong cuộc càn này, Mỹ sử dụng lực lượng gồm Sư đoàn 9, Lữ B thủy quân lục chiến, 4 tiểu đoàn biệt động quân, 4 giang đoàn thủy bộ, 3 giang đoàn xung phong, Hải đoàn 41 Mỹ (sông Đốc), Hải đoàn Hắc Giang (Năm Căn), 3 tiểu đoàn pháo binh, pháo bờ biển, 2 trung đoàn không quân, có cả B52 yểm trợ. Đồng thời, Mỹ còn sử dụng Sư đoàn 20 bộ binh đánh vào Mo So - Ba Hòn (Rạch Giá) để ngăn chặn đường hành lang của ta từ biên giới về Khu 92 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.474, 475). Ngay từ những ngày đầu, bộ đội chủ lực Miền (1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 3), bộ đội Quân khu 9 kết hợp với du kích 18 xã thuộc 4 huyện (Thới Bình, Vĩnh Thuận, An Biên, Giồng Riềng) kháng cự quyết liệt.


Tiểu đoàn 9 thuộc Trung đoàn 2 đánh 1 tiểu đoàn đổ quân bằng trực thăng tại kinh Tám Ngàn (huyện Thới Bình, Cà Mau). Cơ quan Phòng Tham mưu Quân khu tập kích Đại đội thủy quân lục chiến tại Rọ Ghe (huyện An Biên - Rạch Giá). Pháo binh Quân khu pháo kích căn cứ hạm đội nổi ở vàm sông Ông Đốc. Trung đoàn 1, Trung đoàn 2, Tiểu đoàn pháo 2311, Đại đội công binh Quân khu... tập kích trung tâm hành quân hỗn hợp của Lữ B thủy quân lục chiến đóng tại Thứ 11 (An Biên)1 (Tiêu diệt 680 tên địch (trong tổng sò 750 tên), Tên Đại tá Lữ đoàn phó chết tại chỗ, tên Đại tá Lữ đoàn trường bị thương trốn thoát. Bắt sống 21 tên, diệt toàn bộ Sở Chỉ huy Lữ B thủy quân lục chiến và 3 đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 4 thủy quân lục chiến, Giang đoàn 74 hải quân, pháo đội... Phả hủy 81 tàu sắt, 3 khẩu 155 và 5 khẩu 105, 11 cối ĐKZ và 7 đại liên, thu hàng chục máy VTĐ, hơn 30 súng các loại với tiểu đoàn bộ binh, 6 chi đoàn M113, 3 pháo đội, 1 giang đoàn). Lực lượng pháo binh, đặc công Quân khu tiến đánh căn cứ Xẻo Rô, chi khu Thứ Ba, căn cứ sở Chỉ huy Trung đoàn 32, Sư đoàn 21 tại Thứ Bảy... Pháo binh Đoàn 6 tiến công trận địa pháo của đối phương ở vàm Xáng, rạch Cái Bát... Ngày 6-11- 1969, cuộc càn kết thúc, kế hoạch bình định U Minh lần 1 của Mỹ hoàn toàn bị đánh bại.


Cùng lúc, bộ đội địa phương tỉnh Rạch Giá phối hợp với một bộ phận Trung đoàn 10 Miền đánh trận Hòn Me, bắn rơi 3 máy bay, bắn cháy 3 xe M113 (7-9-1969). Bộ đội địa phương Hòn Đất đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 44 biệt động quân ở Vàm Rầy (8-9-1969). Sau 78 ngày đêm chiến đấu ác liệt trên vùng Ba Hòn, Quân giải phóng loại gần 3.000 tên (có 500 tên đào, rã ngủ), diệt 11 đại đội, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn và 1 đại đội, phá hủy 6 xe M113, bắn rơi 6 máy bay, phá hủy 2 khẩu pháo (từ ngày 2-9-1969 đến ngày 18-11-1969)2 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm khàng chiến (1945-1975), Sdd, tr.478)...


Trong đợt tiến công đầu mùa khô 1969-1970, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã đánh trên 4.260 trận, loại khỏi vòng chiến đấu trên 71.000 tên địch, trong đó có 13.423 quân Mỹ, 172 úc, 297 Thái Lan... bắn rơi và phá hủy 978 máy bay, diệt 1.670 xe (có 1.068 xe bọc thép), phá hủy 183 pháo bắn chìm và cháy 194 tàu, phá hủy 98 kho, đánh sập 81 cầu công, thu 1.829 súng và 86 vô tuyến điện1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.113).


Qua 4 đợt tiến công trên chiến trường B2, tuy hình thái chiến trường bất lợi, nhưng bằng phương thức tác chiến hợp lý, Quân giải phóng, nhất là khối chủ lực Miền đã tiêu hao tiêu diệt được nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh, gây tổn thất nặng cho Mỹ và đồng minh; phá hủy nhiều căn cứ quần sự, đường giao thông chiến lược của đối phương. Đặc biệt, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã thí nghiệm tổ chức các trung đoàn đặc công nhằm nâng cao hiệu suất chiến đấu, đã gây nhiều tổn thất cho lực lượng địch2 (Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 42 vạn tên địch (trong đó có 147.153 Mỹ, 5.675 Thái Lan, 2.701 Úc). Tiêu diệt Trung đoàn 15 thiết giáp ngụy (thiếu 1 chi đoàn), 34 tiểu đoàn (6 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn Thái Lan), 22 cụm tương đương tiểu đoàn (có 18 cụm Mỹ), 4 đoàn xe cơ giới Mỹ (từ 60 xe đến 100 xe), 9 chi đoàn thiết giáp, 589 đại đội, 1 giang đoàn, V.V.; tiêu hao nặng Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ, 75 tiểu đoàn (có 5 tiểu đoàn Mỹ), 24 lần đánh tiêu hao nặng cụm tương đương tiểu đoàn, 5 chi đoàn thiết giáp. Bắn rơi và phá hủy 5.036 máy bay, phá hủy 12.404 xe (có 7.734 thiết giáp), 2.033 khẩu pháo, bắn chìm và cháy 1.869 tàu (có 88 tàu từ 8.000 - 13.000 tấn). Diệt 1 chỉ huy sở hành quân cấp trung đoàn, Chỉ huy sở Lữ 4 thủy quân lục chiến ngụy, 1 chỉ huy sở sân bay, 1 bộ chỉ huy hạm tàu, 7 chỉ huy sở cấp tiểu đoàn; đánh tiêu hao nặng 2 hậu cứ cấp sư đoàn (có 1 của Mỹ), 2 hậu cứ lữ của Mỹ, v.v.; phá hủy 396 kho xăng đạn, vũ khí và quân dụng. Trên mặt trận giao thông, ta đã đánh trên 1.000 trận lớn nhỏ, diệt 1.500 xe quân sự (có 738 xe bọc thép), bắn chìm, cháy 1.799 tàu, xuồng chiến đấu, đánh sập cầu cống, v.v... Ta liên tục đánh phá 26 thị xã và tiểu khu, đánh đúng mục tiêu và đối tượng, nhằm đúng cơ quan đầu não chính trị, quân sự, lực lượng kìm kẹp cơ sở. Diệt 131 đoàn, đội bình định; diệt 422 đồn tua, 601 lô cốt, bức hàng, bức rút 52 đồn tua. Đánh phá 1.877 ấp, diệt 4.123 ác ôn tề điệp, cảnh cáo 5.117 tên khác, phá rã 40.000 tự vệ dân sự phá lỏng, rã kìm 800.000 dân, giữ và mở rộng thế làm chủ 657 ấp với 500.000 dân. Giải phóng 2 xã, 11 ấp với 13.000 dân (ở Quân khu 9)).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:30:13 am
2. Chiến đấu đánh bại các cuộc phản kích của địch trên địa bàn biên giới và chiến trường Campuchia

Bước sang năm 1970, Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương. Ngay từ đầu năm, Mỹ mở cuộc phản công quy mô lớn lên tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia nhằm tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng, ngăn cắt hành lang chiến lược từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường B2. ở Campuchia, ngày 18-3-1970, Mỹ giật dây Lon Non làm đảo chính lật đổ Chính phủ trung lập Sihanouk. Quân đội Lon Non câu kết với quân ngụy Sài Gòn phản kích ta từ hai phía. Tiêp đó, Mỹ - ngụy1 (Lực lượng địch tham gia phản kích sang Campuchia gồm có 2 sư đoàn Mỹ (Sư đoàn kỵ binh không vận và Sư đoàn 25), 6 sư đoàn ngụy (Sư đoàn 5, Sư đoàn 25, Sư đoàn 18 thuộc Quân đoàn 3 và Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, Sư đoàn 21 thuộc Quân đoàn 4), 5-6 liên đoàn biệt động quân, toàn bộ Sư đoàn dù và 2 lữ thủy quân lục chiến, gồm 24-29 trung đoàn (72-87 tiểu đoàn), chưa kể 15-17 tiểu đoàn bảo an) mở các đợt phản kích lớn đánh phá Chiến khu Dương Minh Châu, Chiến khu Đ, bắc Long Khánh, tuyến Lộc Ninh - Tây Ninh (Vùng 3 chiến thuật); U Minh, Bảy Núi, Kiến Tường Kiến Phong, Châu Đôc, Hà Tiên (Vùng 4 chiến thuật); bắc Phan Thiết, đông nam Buôn Ma Thuột (Khu 6 và nam Tây Nguyên).


Ở nông thôn, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục thực hiện “Kế hoạch bình định đặc biệt” (từ tháng 7-1970 đến tháng 2-1971), “Cộng đồng tự vệ và phát triển địa phương” (tháng 3-1971 đến tháng 3-1972). Tính đến tháng 3-1972, trên toàn miền Nam, chính quyền Sài Gòn đã thiết lập được 7.194 ấp1 (Quốc sách ấp chiến lược thời kỳ đệ nhất cộng hòa lúc cao nhất là 7.512 ấp) kiểm soát được 13,9 triệu dân trên tổng số 17 triệu dân toàn miền Nam (chiếm 78%), tổ chức được 2.015 “cuộc cảnh sát xã”, xây dựng được mạng lưới “Phượng hoàng” từ Trung ương đến tận từng xã ấp; thành lập được lực lượng phòng thủ nông thôn gồm có 46 tiểu đoàn, 1.600 đại đội bảo an, 1.500.000 phòng vệ dân sự2 (Theo tài liệu AB 144 của địch)...


Cuộc tiến công Xuân - Hè 1970

Tháng 1-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta họp đánh giá lại tình hình và đề ra nhiệm vụ: “Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên ca hai miền phát huy thắng lợi dã dạt dược, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh; đánh bại âm mưu Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ, đánh bại âm mưu của chúng xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng duy trí chủ nghĩa thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam nước ta; làm thất bại chiến lược phòng ngự của địch, tạo nên chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bưôc đi đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản do thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà”3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.31, tr.56-57).


Ngày 4-4-1970, Bộ Chính trị chỉ đạo: “cần nghiên cứu tổ chức bố trí lại lực lượng cho thích hợp với tình hình mới, bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, cần nghiên cứu tổ chức bố trí lại lực lượng cho thích hợp với tình hình mới, bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, giúp cách mạng Campuchia có hiệu lực, vừa mạnh vừa vững chắc, chủ động về lâu dài”1 (Điện số 99/TK ngày 4-4-1970 của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục và Quân ủy Miền). Tiếp đó, ngày 3-5-1970, Bộ Chính trị chỉ thị: “Nhiệm vụ cơ bản của ta trên chiến trường K vẫn là đoàn kết chiến đấu với nhân dân K, cùng nhau chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, phối hợp chặt chẽ với bạn đánh bại âm mưu quân sự của địch trên chiến trường K, giữ vững và mở rộng cho được những địa bàn đứng chân của ta và căn cứ của bạn”2 (Điện số 160/TK ngày 3-5-1970 của Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục và Quân ủy Miền). “Đoàn kết chặt chẽ với nhân dân hai nước Campuchia và Lào, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau, sát cánh chiến đấu chống kẻ thù chung”3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.31, tr.212).


Ngày 24 25-4-1970, Hội nghị ba nước Đông Dương: Việt Nam - Lào - Campuchia được tổ chức, cùng đưa ra tuyên bố thành lập “Mặt trận thống nhất Campuchia”. Đây là bản tuyên bố mang tính cương lĩnh đoàn kết ba nước Đông Dương để đấu tranh chống kẻ thù chung.


Thực hiện chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục và Quân ủy Miền hạ quyết tâm mở “Đợt X” Xuân - Hè 1970, đồng thời giúp cách mạng Campuchia, kiên quyết bảo vệ bằng được căn cứ, kho tàng, phương tiện chiến lược của ta dọc theo biên giới Campuchia - Việt Nam.


Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Bộ Chỉ huy Miền đã lần lượt tổ chức ba bộ chỉ huy: C20 (Lương Văn Nho làm Chỉ huy trưởng), C40 (Đồng Văn Cống làm Chỉ huy trưởng), C50 (Lê Duy Mật làm Chỉ huy trưởng). Bộ Chỉ huy Miền còn thành lập Đoàn đặc công 367, đơn vị pháo cối, các khu hậu cần1 (Trên cơ sở này về sau thành lập Đoàn Hậu cần 400, C10 phụ trách vùng Karachê, Mônđônkiri; sau đó nhập thành Quân khu C50, gồm: C20 ở Côngpôngchàm, C30 ỏ Svâyriêng, C40 ở Côngpôngthom. về sau là nòng cốt cho các C căn cứ (C10, C20, C30)) và đoàn chuyên gia quân sự giúp Quân khu đông Campuchia. Lúc bây giờ, Bộ Quốc phòng tăng cường cho B2 Trung đoàn 4, Trung đoàn 174, Đoàn pháo binh 75...


Trên khu vực bắc Tây Ninh, Bình Long, Quân giải phóng mở đợt tiến công nhằm phá sự chuẩn bị tiến công tuyến biên giới của địch và tạo điều kiện cho địa phương đánh phá bình định. Đặc biệt, trên địa bàn Bù Gia Mập, Bình Long, Đại đội 8, Tiểu đoàn 739 tập kích địch, chủ động, bí mật áp sát, đồng loạt nổ súng đánh công sự quân Mỹ giành thắng lợi lớn (15-5-1970)...


Trên chiến trường trọng điểm miền Đông Nam Bộ, Tiểu đoàn 445 bộ đội địa phương Bà Rịa phòng ngự chống càn tại ấp Long Mỹ, xã Phước Long Hội, huyện Long Đất, tiêu diệt 13 xe tăng (M41 và MI 13) của quân đội Mỹ và chư hầu (18- 5-1970)... Tuy trên chiến trường trọng điểm Quân giải phóng chưa hoàn thành các mục tiêu đề ra, nhưng các trận đánh đã phần nào hỗ trợ cho phong trào đánh phá bình định ở 7 thị trấn, 19 xã và trên 100 ấp, góp phần làm rệu rã bộ máy kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn ở một số nơi...


Trên chiến trường Khu 6, các tiểu đoàn chủ lực đã đánh được một số trận ở khu vực trọng điểm ở Bình Thuận. Đại đội 2, Tiểu đoàn 481, thị xã Phan Thiết tập kích cảnh sát dã chiến cộng hòa tại trụ sở Phú Trinh, khu vực chợ Phường, xã Châu Thành, Phan Thiết, đánh thiệt hại 37 cảnh sát dã chiến và dân vệ, thu 4 súng, 2 máy đánh chữ và toàn bộ hồ sơ tài liệu (15-2-1970). Trung đoàn 33 phòng ngự chống Tiểu đoàn biệt kích tại Núi Lốp, Tánh Linh, Bình Tuy, bắn rơi 1 trực thăng (2-4-1970). Tiểu đoàn 840, Tiểu đoàn 240 Quân khu phối hợp với Tiểu đoàn 490 (Đại đội 5), Tiểu đoàn 482 tỉnh Bình Thuận và Tiểu đoàn 481 (Đại đội 1) thị xã Phan Thiết tập kích cần cứ quân Mỹ tại thị xã Phan Thiet, pha huy 23 máy bay, 37 xe quân sự, 2 kho đạn, 3 kho xăng dầu, 7 lô cốt lớn, 20 nhà lính, một số súng cối 106,7mm, pháo 105mm và nhiều vũ khí phương tiện chiến tranh khác (3-5-1970)...


Trên chiến trường Quân khu 8, đầu năm 1970, Mỹ dùng máy bay B52 ném bom rải thảm; sử dụng Lữ đoàn B1 (Đầu năm 1970 Bộ Tổng tham mưu ngụy tăng cường về Bến Tre Lữ đoàn B thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn pháo 18 khẩu, 3 giang đoàn 50 chiếc) thủy quân lục chiến càn quét cánh A Giồng Trôm (Bến Tre); điều động Sư đoàn 7 ngụy mở nhiều cuộc càn cấp tiểu đoàn, trung đoàn đánh vào bờ nam sông Tiền thuộc khu vực Phú Túc, Phú Đức, An Khánh huyện Châu Thành... Lực lượng bảo an, cảnh sát dã chiến, phòng vệ dân sự... được huy động lùng sục, vây ráp phục vụ cho công cuộc bình định... Đứng truớc tình hình đó, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định điều một số đơn vị chủ lực về địa phương mở đợt hoạt động Xuân - Hè nhằm xốc lại tinh thần, đồng thời hỗ trợ cho phong trào chống phá bình định. Ngày 31-3-1970, đợt hoạt động Xuân - Hè bắt đầu (từ ngày 30-3 đến ngày 1-5-1970).


Đợt A, Quân giải phóng trên địa bàn Khu 8 đồng loạt tiến công hàng trăm mục tiêu của đối phương trong vùng trọng điểm. Điển hình như Tiểu đoàn đặc công 269 tập kích Căn cứ 23 Trung đoàn 12 Sư đoàn 7 ngụy. Trung đoàn 1 đánh diệt đồn Xẻo Lác (Hiệp Đức), đồn Ông Bản (Cẩm Sơn). Tiểu đoàn 261A đánh đồn Thanh Hòa (2-4-1970). Trung đoàn 3 đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn của Sư đoàn 7 ngụy; đánh 1 đoàn tàu 20 chiếc trên kinh 28. Tiểu đoàn 514C đánh đồn Ca Da (Nhi Bình), tập kích 1 đại đội bảo an ở Gò Lũy. Tiểu đoàn 514A tập kích đại đội bảo an tại Vĩnh Hựu, bao vây ngăn chặn lộ 8, lộ 12 xã Vĩnh Hựu, Thạnh Nhựt. Tiểu đoàn 261A phục kích lực lượng bảo an tại xã Thạnh Phú (30-4-1970). Tiểu đoàn 267B phối hợp với Đại đội 1 của Thành đội Mỹ Tho tiến công sân bay Hùng Vương, phá hủy 7 lô cốt, 7 trọng liên, 7 xe GMC, 2 máy bay L19...


Đợt B, từ đêm 5-5-1970, Trung đoàn 3 tiến công hệ thống đồn bót khu vực tây kênh 28. Tiểu đoàn 514C tập kích trung tâm huấn luyện Tân Hiệp. Tiểu đoàn 263 kết hợp với Quân giải phóng địa phương tiến công đồn Mỹ Chánh, Mỹ Nhơn. Tiểu đoàn đặc công nước đánh chìm 3 tàu chiến, 2 chiếc phà tại bến phà Hàm Luông. Tiểu đoàn 514A tiến đánh đồn Bình Phục Nhứt. Tiểu đoàn 514B diệt đồn An Hoa Trung (Bình Nhì); tập kích trung đội dân vệ tại đồn cầu Tân Thới; tập kích đại đội biệt kích ở Thạnh Nhựt; pháo kích chi khu Hòa Đồng. Quân giải phóng An Giang tiến công căn cứ Chi Lăng, quận Tri Tôn (5-1970)...


Đợt hoạt động A và B, lực lượng vũ trang Khu 8 giành được những thắng lợi nhất định. Tay nhiên lực lượng Quân giải phóng cũng bị mất mát quá nhiều, sức chiến đấu giảm sút nên không mỏ được đợt C như kế hoạch đã định.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:31:45 am
Sau đợt tiến công Xuân - Hè của Quân giải phóng, Mỹ và chính quyền Sài Gòn vừa tăng cường phòng thủ, vừa mở các cuộc hành quân đánh trả, truy quét quyết liệt. “Lực lượng cách mạng nhiều nơi bị đánh bật ra khỏi dân, đường hành lang khu, tỉnh bị uy hiếp và bị cắt, kinh tế vùng giải phóng bị phá hoại nghiêm trọng. Toàn tỉnh Mỹ Tho chỉ còn 87 ấp giải phóng, Bến Tre mất thêm 19 xã 49 ấp giải phóng”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.706).


Trên chiến trường Quân khu 9, tháng 2-1970, Mỹ sử dụng lực lượng thủy quân lục chiến, Sư đoàn 21, Sư đoàn 9 và Thiêt đoàn 9 hành quân lấn chiếm U Minh lần 2.

Lực lượng vũ trang Quân khu 9 nhận lệnh khân trương củng cố lực lượng chuẩn bị đánh lớn. Trung đoàn 2 phục kích Chi đoàn xe M113 ở Vĩnh Hòa; tập kích Tiểu đoàn thủy quân lục chiến, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 16 Sư đoàn 9 tại Vĩnh Bình - nam Vĩnh Thuận (2-1970). Tiếp đó, Trung đoàn 2, Tiểu đoàn đặc công, Đoàn 6 pháo binh tập kích Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 33 tại kinh Họa Dồ, đập tan cuộc hành quân lấn chiếm U Minh lần thứ hai (12-3-1970).


Thừa thắng, Khu 9 bước vào đợt hoạt động Xuân - Hè năm 1970 trên cơ sở “Cơ quan chỉ đạo chỉ huy các cấp phải đứng vững ở vị trí có điều kiện và tạo nhiều biện pháp để nắm chắc tình hình, nắm đơn vị, nắm phong trào, thực hành chỉ huy, xử trí tình huống kịp thời chính xác”2 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sdd, tr.482).


Thực hiện nghị quyết của Quân khu ủy, “Trung đoàn 1 ở Long Mỹ liên tục đánh địch, diệt 11 đại đội bảo an. Trung đoàn 3 ở Vĩnh - Trà trụ bám trên địa bàn then chốt giữa hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Các cơ quan Quân khu có kế hoạch bám trụ và đánh địch. Phòng Tham mưu Quân khu dẫn đầu các cơ quan về bám trụ đánh địch, bảo đảm làm việc và chỉ huy liên tục. Phòng chính trị dẫn đầu về bắn máy bay địch. Phòng hậu cần dẫn đầu về đánh tàu”...


Tháng 3-1970, sau khi Trung đoàn 10 về Quân khu được bổ sung thêm 1 trung đoàn phó và 20 chiến sĩ quê ở Cà Mau nên thông thuộc địa hình sông nước. Trung đoàn bước vào chiến đấu ngay, tập kích chi khu Giá Ngựa, liên đội bảo an ở vàm Dinh Cái Nước (26-5-1970)...


Phối hợp với chiến trường U Minh, đầu năm 1970, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định lập lại mặt trận Vĩnh - Trà. Trung đoàn 3 (Tiểu đoàn 306 và Đại đội đặc công) tiến công chi khu Càng Long (24-4-1970), phục kích Tiểu đoàn bảo an, bức hàng 7 đồn, phá ấp chiến lược An Trường, Huyền Hội (5-1970). Đặc biệt trong tháng 4 và tháng 5, bộ đội địa phương Càng Long, Cầu Kè, Trà Ôn bao vây, bức hàng, bức rút được 20 đồn bót, mở vùng ruột ở nam sông Măng Thít...


Trên tuyến biên giới và chiến trường Campuchia, đồng thời với đợt tiến công Xuân - Hè, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo khối chủ lực Miền phụ trách tuyến biên giới và phát triển tiến công giải phóng nhiều vùng chiến lược quan trọng ở Campuchia.


Sư đoàn 9 phụ trách khu vực phía bắc Tây Ninh, trong hơn 4 tháng hoạt động đã giành được thắng lợi lớn, mở được một vùng giải phóng rộng lớn từ biên giới Việt Nam cho đến sát bờ sông Mê Kông, từ nam đường số 1 đến tây đường 22, trừ một số thị xã, thị trấn địch ở trong thế bị bao vây uy hiếp1 (Thành tích hoạt động của Sư đoàn 9 trong đợt tấn công Xuân - Hè 1970 (từ ngày 26-3 đen ngày 31-7-1970): đã đánh 614 trận, diệt 21.893 tên (3.743 Mỹ, 12.831 tên quân đội Sài Gòn, 5.319 tên quân đội Lon Non). Pha 1.099 xe (777 xe tăng và xe bọc thép), 169 pháo, 218 máy bay, 35 tàu. Thu 3.647 súng các loại, 55 các máy thông tin, 619 đạn cối, 130.000 đạn nhọn).


Sư đoàn 7 Quân giải phóng phụ trách mặt trận tỉnh Côngpôngchàm kết hợp với các tiểu đoàn thuộc khư căn cứ (C20), du kích cơ quan, bệnh viện, V.V.. có nhiệm vụ tiêu diệt địch, bảo vệ kho tàng, cơ quan, đánh chiếm Mimốt và mở rộng vùng giải phóng K. Trong điều kiện khó khăn, địch đánh phá ác liệt, việc tiếp tế chưa được thực hiện tốt, nhưng Sư đoàn 7 đã đánh 532 trận, diệt 16.874 tên, bắt 1.135 lính K, diệt 2 tiểu đoàn dù, 31 đại đội, 5 cụm (từ 2 đại đội trở lên) của 3 tiểu đoàn thuộc trung đoàn thiết giáp Mỹ, tiêu hao nặng 37 đại đội và 18 cụm quân sự; phá hủy 1.742 xe quân sự, bắn rơi 208 máy bay (có 188 trực thăng), 152 pháo, 46 kho xăng, dầu và đạn. Thu được 1.649 súng các loại. Sư đoàn 7 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ do Quân ủy giao, góp phần quan trọng vào việc đánh bại âm mưu phản kích chiến lược của Mỹ1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.133).


Sư đoàn 5 (Trung đoàn 33, Trung đoàn 174, Trung đoàn 5) phụ trách cả chiến trường Miền, tuyến biên giới và chiến trường Campuchia.

Ở khu vực Tánh Linh - Bình Thuận, Trung đoàn 33 đánh phá bình định. Trên tuyến biên giới, Trung đoàn 174 kết hợp với các tiểu đoàn vận tải của tuyến 86 đánh lực lượng Sư đoàn kị binh không vận Mỹ bảo vệ kho tàng. Trên chiến trường Campuchia, Trung đoàn 5 đánh chiếm Kratié, Stung Treng, sau đó tham gia mặt trận Bình Long - Phước Long. Trung đoàn 6 đánh chiếm Mônđônkiri2 (Trên tuyến biên giới và nội địa miền Nam, Sư đoàn đã đánh 288 trận, diệt 7.646 địch, diệt 12 đại đội, phá hủy 312 xe (có 194 xe bọc thép), 68 pháo, bắn rơi 153 máy bay, thu 55 súng. Trên chiến trường Campuchia, Sư đoàn đã tiêu diệt và làm tan rã trên 5.000 tên quân đội Lon Non, đánh chiếm 3 thị xã (Kratié, Mônđônkiri, Stung Treng), thu nhiều vũ khí, đạn dược (ở Kratié đã thu hơn 100 tấn vũ khí, đạn dược, ở Chơlong đã thu gần 400 súng, 3 huyện phía bắc Karachê thu 200 súng, ở Mônđônkiri đã thu trên 200 súng, ở Stung Treng thu trên 3.000 súng các loại...)).


Trên hướng bắc (Bình Long), tây - tây nam (Phước Long) Bộ Chỉ huy Miền trực tiếp chỉ huy hai trung đoàn (205, 207), 2 tiểu đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn đặc công (sau tăng thêm Trung đoàn 1) mở mặt trận Bình Long - Phước Long. “Trên mặt trận phía bắc Campuchia (Bình Long), ta đã giải phóng nhiều vùng nông thôn xung quanh Xiêm Riệp, dọc biển Hồ từ phía bắc xuống Pre Kdam, dọc 2 bên đường số 6 từ Xiêm Riệp xuống Côngpôngthom. Trên mặt trận Tây Nam (Phước Long) tháng 4-1970 ta giải phóng các vùng Tà Ni, Túc Méas, Côngpôngtrạch, Kép..., về sau tăng thêm Sư đoàn 1 phát triển lên cắt đường 4, đánh vào Côngpôngxpư, Kirirom, Kimini, giải phóng thêm một vùng rộng lớn nam bắc lộ 4”1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.135, 136)...


Trong đợt hoạt động Xuân - Hè năm 1970, Quân giải phóng trên toàn Miền đã đánh trên 3.000 trận, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực đối phương, phá hỏng và thu nhiều súng đạn và phương tiện chiến tranh2 (Diệt Ban chỉ huy nhẹ Sư đoàn 23 ngụy, Trung đoàn bộ Trung đoàn 44 2 sở chỉ huy trung đoàn, 4 tiểu đoàn ngụy, 7 cụm (5 cụm Mỹ), 3 chi đoàn thiết giáp (2 chi đoàn Mỹ), 107 đại đội (106 Mỹ), 23 đoàn bình định. Phá hủy 652 máy bay, 1.298 xe (693 xe tăng và xe bọc thép), 150 tên, 312 pháo, thu 2.163 sung. Diệt 5 chi khu, 68 đồn tua và bức rút 26 đồn tua khác, diệt 2.820 ác ôn, tề điệp, kìm kẹp. Phát triển thêm 2.600 du kích, tuyển được 1.810 tân binh (chủ yếu là Quân khu 2, Quân khu 3). Riêng khối chủ lực Miền, từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 7-1970 đã đánh 1.434 trận, diệt 46.413 địch (13.347 Mỹ), phá hủy 3.153 xe quân sự (2.176 xe tăng và bọc thép), 389 pháo, 579 máy bay, thu 5.357 súng các loại). Đặc biệt, trên chiến trường Campuchia, Quân giải phóng B2 đã bước đầu đánh bại âm mưu của Mỹ trong việc thực hiện chiến lược Khmer hóa chiến tranh trên chiến trường Đông Dương.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:33:19 am
Đợt tiến công mùa mưa 1970

Sau đợt Xuân - Hè của Quân giải phóng, Mỹ vẫn ngoan cố với mục đích “Đông Dương hóa chiến tranh”. Trên chiến trường miền Nam Việt Nam, từ tháng 6-1970, Mỹ mở đợt “bình định bổ túc” 4 tháng cho kế hoạch “bình định phát triển", phấn đấu đến cuối năm 1970 đạt mục tiêu 90% dân song trong ấp “an ninh hoàn toàn tốt”, 10% số còn lại sống trong mức “an ninh tương đối”, triển khai trang bị cho “nhân dân tự vệ”, đẩy mạnh “chiêu hồi”, đồng thời hoàn thành việc bầu cử chính quyền xã, ấp để chuyển sang giai đoạn “phát triển kinh tế"...


Trên chiến trường Campuchia, Mỹ ra sức củng cố chính quyền Lon Non, xây dựng tuyến phòng thủ Phnôm Pênh, phong tỏa các trục đường giao thông chiến lược, cắt đứt con đường vẩn tải chiến lược từ hậu phương miền Bắc Việt Nam vào chiến trường B2...


Trước sự phát triển mới của cách mạng Campuchia, ngày 19-6-1970, Bộ Chính trị họp đề ra nhiệm vụ, xác định 11 Đông Dương là một chiến trường”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.31, tr.240, 259), “Chúng ta nhất định cùng nhân dân hai nước bạn Campuchia và Lào đánh bại mọi âm mưu xâm lược mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương đến thắng lợi hoàn toàn . Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở đợt tiến công mùa mưa năm 1970 với nhiệm vụ chiến lược là đánh bại chiến lược bình định của Mỹ trên chiến trường B2 và âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược ra khắp Đông Dương.


Trên chiến trường Quân khu 8, đến giữa năm 1970 tình hình trở nên khó khăn, Mỹ lúc này đã giao quyền tác chiến và bình định cho Tư lệnh Quân khu. Tuy nhiên, số quân ngụy Sồi Gòn ở đây đã đạt tới 1.021.000 quân. Lực lượng Phượng Hoàng, cảnh sát, bảo an, dân vệ có mặt từ tỉnh xuống tận ấp để thực hiện kế hoạch “bình định bổ túc có chiều sâu”. Các cuộc hành quân phát quang, biến vùng căn cứ thành những vùng trắng, vừa xóa bo nơi trú đóng quân của bộ đội giải phóng, vừa gây khó khăn cho Quân giải phóng trong việc đột ấp nhặn tiếp tế của dân...


Đứng trước nhiều khó khăn, Bộ Tư lệnh Quân khu vẫn quyết tâm chỉ thị cho Quân giải phóng thực hiện đợt tiến công mùa mưa với mục tiêu là giữ vững, củng cố địa bàn, bám trụ để tiến công địch, ở Mỹ Tho, Quân giải phóng đưa lực lượng vào vùng ven, vùng yêu, thực hiện “ba bám” (bám địa bàn, bám dân, bám địch), bao vây, tiến công hệ thống đồn bót, phá bình định, đưa quần chúng trở về ruộng vườn cũ sản xuất... Ở Bến Tre, Quân giải phóng thực hiện khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không rời”, “Dân bám đất, Đảng bám dân, bộ đội bám địch mà đánh”, diệt ác, phá bình định, tiến công giao thông, giữ vững lõm căn cứ, tổ chức các chốt pháo, chốt đặc công, chốt biệt động, hợp đồng chiến đấu... ở Kiến Tường, Quân giải phóng luồn các xã Tân Ninh, Nhơn Ninh, Tân Hòa... đẩy mạnh hoạt động vũ trang, bức rút đồn bót, tạo thế giằng co, giữ vững hành lang giao thông từ phía đông qua Đồng Tháp Mười.


Đến cuối năm 1970, bằng những nỗ lực lớn, toàn Quân khu 8 đã diệt được 14 đại đội, phá hỏng 91 xe quân sự, thu được gần 320 súng các loại1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.141)...


Trên chiến trường Quân khu 9, sau đợt tấn công Xuân - Hè của Quân giải phóng, quân đội Sài Gòn buộc phải điều chỉnh, bố trí lại lực lượng. Trung đoàn 33 Sư đoàn 21 từ An Biên phải trở về đóng tại Cần Thơ, Trung đoàn 32 từ Khánh Bình Tây về án ngữ tại khu vực nam sông Ông Đốc, rút Liên đoàn 42 biệt động quân và 2 tiểu đoàn biệt kích từ Kiến Phong về Cần Thơ,Trung đoàn 31 Sư đoàn 21 từ vùng Bà Đầm về đóng chốt tại Phong Điền... Các điểm nóng như Thúy Liễu, Vĩnh Phước, Vĩnh Tụy, Ninh Thạnh Lợi, Tân Lợi, sông Cái Lớn, Nhà Ngang, Ba Đình, Cái Nước, Kinh Xáng, Chắc Băng, Huyện Sử, Thối Bình... đều được bố trí lực lượng mạnh, hình thành vòng vây chia cắt U Minh thành từng mảnh, thực hiện âm mưu đánh chiếm U Minh lần thứ ba.


Tháng 6-1970, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định mở một đợt tiến công đánh phủ đầu. Trung đoàn 10, Tiểu đoàn đặc công Quân khu tiến công hàng loạt địa điểm đóng quân của lực lượng bảo an trên lộ Vĩnh Tuy - Ba Đình. Trung đoàn 2 đánh vào xã Tây Yên (An Biên). Tiếp đó, Đoàn 6 pháo binh tiến công căn cứ Xẻo Rô, Quân giải phóng mở đợt tiến công hướng An Biên, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Cái Sách, Châu Thành A (Cần Thơ), cù lao Long Phú (Sóc Trăng), An Trường, Huyền Hội, Tam Bình (Trà Vinh)...


Dù chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ, nhưng trong đợt tiến công mùa mưa, Quân khu 9 đã tiêu diệt được 2 tiểu đoàn, 23 đại đội ngụy, bắn cháy 53 máy bay1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.141)...


Trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, thực hiện đợt hoạt động mùa mưa, Quân giải phóng Quân khu và các phân khu chia nhỏ lực lượng, luồn sâu xuống nắm từng địa hàn, thực hiện phương châm “bám thắt lưng định mà đánh”. Đại đội 564, Tiểu đoàn 1 Phân khu 5 tập kích 1 tiểu đoàn lính ngụy tại xã Bình Mỹ, Tân Uyên (7-6-1970). Đội 2 trinh sát đặc công huyện Cao Su và đơn vị pháo binh 274 phục kích lực lượng lính Thái Lan tại đồn điền cao su An Viễn, huyện Cao Su (10-7-1970)... Tổng kết đợt hoạt động mùa mưa, Quân giải phóng Quân khu và các phân khu trên địa bàn miền Đông đã diệt được 4 đại đội, 23 trung đội lính ngụy, bắn cháy 65 máy bay, phá hủy 153 xe quân sự và 24 tàu chiến... Quân giải phóng đã tạo ra được sự chuyển biến có mức độ1 (Nam Chi - Bắc Chi - Trảng Bàng có thể liên hoàn, ta bám trụ và giành quyền làm chủ tốt, xây dựng xã chiến đấu tốt. Đông Mọn giúp Nam Chi, đưa 70-80% dân về nhà cũ. Gò Vấp: đặc công luồn sâu đánh ống dẫn dầu của địch) trên một số vùng nhất định về đánh phá bình định2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.141).


Trên chiến trường Quân khu 6, bộ đội địa phương huyện Tuy Phong phục kích trung đội địa phương quân ngụy tại Dốc Đồn, Bình Thạnh (3-6-1970). Đơn vị 81 đặc công tỉnh Bình Tuy phối hợp với Đại đội 421 huyện Hoài Đức tập kích trung đội dân vệ tại Sùng Nhơn (12-6-1970). Đại đội 450, 452 Thuận Phong tiến công trung đội bảo an tại cầu Ông Tầm, khu vực xã Hồng Sơn (15-6-1970). Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 33 chủ lực Miền tập kích Lữ đoàn 199 Mỹ tại khu vực đồi 157 huyện Đức Linh (20-6-1970). Đội nữ pháo binh 85 tỉnh Bình Tuy tập kích Lữ đoàn 199 Mỹ tại sân bay Láng Gòn (5-7-1970). Trung đội 31 bộ đội địa phương huyện Tuy Phong phục kích trung đội dân vệ tại Phú Hải (7-8-1970)...


Trong đợt hoạt động mùa mưa năm 1970, các đơn vị Quân khu 6 đã đánh tan 9 đại đội, 16 trung đội, phá hủy 167 xe quân sự, bắn hạ 40 máy bay. Đã đánh 210 lần vào 165 ấp chiến lược...1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr 141).


Trên tuyến biên giới, Đại đội 8 thuộc Tiểu đoàn 739 phục kích lính Mỹ tại phía tây bắc Suối Băm (5-6-1970), tại đồi Không Tên phía bắc Suối Băm (10-6-1970), tại khu vực Suối Băm, huyện Bù Gia Mập bảo vệ an toàn căn cứ và thương binh (22-6-1970). Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 174, Sư đoàn 5) đánh thiệt hại nặng 1 đại đội Mỹ, 1 đại đội lính ngụy trên đường 14A đoạn Lộc Ninh, huyện Bù Đốp (18-7-1970). Đại đội 26 Tiểu đoàn 25 (Phân khu 1) phục kích lực lượng biệt kích ngụy tại mạn nam - bắc cầu cần Lê, huyện Lộc Ninh (19-11-1970).


Nhìn chung, dù chưa có những trận đánh mang tính thôi động, nhưng trong đợt hoạt động mùa mưa năm 1970, Quân giải phóng trên tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia đã diệt được 14 đại đội, 1 chi đoàn xe bọc thép, 51 máy bay, 913 xe quân sự (450 xe tăng, xe thiết giáp), 29 tàu chiến... Bên cạnh đó, trên chiến trường K2 (Hình thành các khu vực chiến trường bao vây Phnôm Pênh: Khu vực chiến trường phía bắc (bắc Côngpôngchàm, Côngpôngthom, Xiêm Riệp), khu vực tây bắc (Báttambăng, Pursat, Kokong), khu vực tây và tây nam (Côngpôngchơnăng, Côngpôngspư, Tàkeo, Campôt), khu vực đông và đông nam (Prâyveng, Svâyriêng, Côngpõngchàm), khu vực đông bắc (Kratié, Stung Treng, Ratanakiri, Mônđônkiri). Về tính chất hoạt động, gồm 3 vùng chiến lược sau: vùng căn cứ hậu phương chiến lược (gồm 4 tỉnh đông bắc, đông bắc Côngpôngthom, đông Xiêm Riệp và nam Prâyveng), vùng căn cứ du kích (gồm các tỉnh tây bắc và tây nam), vùng xen kẽ vây ép địch (xung quanh Phnôm Pênh)), Quân giải phóng B2 kết hợp với lực lượng vũ trang nước bạn làm tan rã khoảng 21.000 quân ngụy Campuchia, diệt 15 tiểu đoàn, 17 đại đội; đánh thiệt hại 22 tiểu đoàn, 9 đại đội khác; phá hỏng 175 xe quân sự, bắn cháy 19 máy bay, 34 tàu chiến; thu 3.785 súng, 53 tấn đạn và giải phóng thêm được nhiều vùng rộng lớn1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr 141, 142).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:37:48 am
III. CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐỊCH BÌNH ĐỊNH, THAM GIA CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC NĂM 1972

1. Đánh địch bình định, tạo thế và lực cho Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2

Năm 1971, trước âm mưu của Mỹ và tình hình chiến trường Đông Dương, Bộ Chính trị đề ra phương hướng hoạt động là “tiến công chủ yếu của ta là đồng bằng sông Cửu Long và chiến trường biên giới hai nước... Mặt trận đồng bằng và mặt trận biên giới có liên quan hết sức mật thiết với nhau, có thể coi đó là một chiến trường...”2 (Trích chỉ thị của Bộ Chính trị cho Trung ương Cục và Quân ủy Miền ngày 7-9-1970. Số bảo mật 2.222, lưu Phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2).


Để tăng cường sức mạnh cho Quân giải phóng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng biên giới, Bộ Chính trị chỉ thị tăng cường lực lượng cho chiến trường B2 khoảng 7.000-10.000 người nhằm xây dựng lực lượng Quân giải phóng cấp trung đoàn mạnh cho Quân khu, cấp tiểu đoàn mạnh cho các tỉnh với đầy đủ binh chủng bộ binh, pháo binh, đặc công, trợ chiến..., đặc biệt là các tỉnh trọng điểm như Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, Chương Thiện...


Tháng 10-1970, Trung ương Cục tổ chức hội nghị lần thứ 10. Hội nghị đã đánh giá tình hình, đề ra nhiệm vụ: “kiên trì đẩy mạnh tiến công và nổi dậy ra sức xây dựng, tăng cường lực lượng cách mạng, phát triển mạnh mẽ phong trào quần chúng đấu tranh chính trị, vũ trang và binh vận, chĩa mũi nhọn tiến công vào bọn ngoan cố, hiếu chiến và những đơn vị nòng cốt của địch ở các cấp, đạt tới yêu cầu mở rộng thế lực làm chủ khắp ấp, xã, phá lỏng hệ thống phòng thủ, kìm kẹp của địch ở nông thôn, mở rộng và nâng cao phong trào thành thị với đội ngũ chính trị vững mạnh, mở rộng các vùng không chế của địch trong các xóm, phường và tổ chức quần chúng, giữ vững và mở rộng các vùng căn cứ, hành lang, bảo đảm tiếp tế hậu cần, nâng cao vai trò chủ lực, thu hút, tiêu diệt, kìm chế quân cơ động của địch và đánh thủng, đẩy lùi các tuyến ngăn chặn, lấn chiếm của địch, làm cho kế hoạch bình định của địch bị thất bại nặng nề và ta tạo ra thế tiến công chiến lược mới, đi tối đánh sụp thế lực của bọn cầm quyền ngoan cố, hiếu chiến và một bộ phận quan trọng ngụy quân, làm thất bại về cơ bản chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, làm thay đổi lớn cục diện, tiến tới giành thắng lợi quyết định, đồng thời sẵn sàng ứng phó và giành thắng lợi trong mọi tình huống chiến tranh phức tạp, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ của chiến trường chính, tích cực phối hợp với quân và dân bạn cùng giữ vững, phát triển thế tiến công và cùng giành thắng lợi cho cả ba dân tộc Đông Dương”1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.144, 145).


Căn cứ vào Nghị quyết của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương Cục lần thứ 10, Quân ủy Miền đã bắt tay vào công tác chuẩn bị cho mùa khô 1970-1971, quyết tâm “giữ vững và phát triển thế tiến công địch, kiên quyết đánh bại âm mưu tiến công mùa khô của đế quốc Mỹ, đánh thiệt hại nặng quân ngụy miền Nam và quân Mỹ trên chiến trường Campuchia, tạo ra một tình thế thuận lợi mới trên cả 2 chiến trường”2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.144, 145).


Năm 1971, ngụy quyền Sài Gòn tiến hành triển khai kế hoạch “cộng đồng tự vệ”, “cộng đồng phát triển”1 (Kế hoạch “cộng đồng tự vệ”, “cộng đồng phát triển” gồm 2 giai đoạn (giai đoạn 1 từ 1-3-1971 đến hết tháng 7-1971, giai đoạn 2 từ tháng 8-1971 đến hết tháng 1-1972)) nhằm thực hiện ba mục tiêu: “tự phòng vệ, tự quản lý, tự phát triển”2 (Mục tiêu tự phòng: Phải đạt được tối thiểu 95% cấp A, B, diệt cho được 14.000 cơ sở hạ tầng, loại trừ 6.000 cơ sở nội tuyến của ta trong hàng ngũ của chúng. Phát triển phòng vệ dân sự lên 4-5 triệu, sử dụng nhân dân tự vệ đóng đồn thay dân vệ, chuyển dân vệ thành cảnh sát, bảo an và tăng cường cho chủ lực, tổ chức mạng tình báo. Lập Bộ Tư lệnh cảnh sát, phát triển cảnh sát (đạt 98% số xã có phân chi, tức là 2.130 phân chi). Dự định tháng 4-1971 kiểm kê xong nhân số và tháng 7-1971 lập xong mạng tình báo đại chúng. Mục tiêu tự quản: Bầu cử xong 100% xã ấp loại A, B, bố trí đủ 100% nhân viên trong bộ máy tề, xã, ấp, tăng cường huấn luyện tề tại tỉnh và trung tâm Vũng Tàu, lập các toán lưu động giám sát ở cấp tỉnh hướng dẫn tể xã và kiểm tra theo dõi hoạt động. Giúp nhân dân vào các tổ chức chính trị, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo phản động, tăng cường công tác thông tin đại chúng nhồi nhét tư tưởng chống cộng. Mục tiêu tự túc và phát triển: Tiếp tục thực hiện chính sách ruộng đất phản động, khuyên khích phát triển sản xuất, mở rộng diện tích cấy lúa, cải tiến nông ngư nghiệp và chăn nuôi, bảo đảm đủ ăn và cố gắng đạt 2 sản phẩm chính để xuất cảng là lúa và cao su, thực hiện cho được 20% số xã tự túc, trên không phải cung cấp). Để thực hiện ba mục tiêu trên, chính quyền Sài Gòn triển khai chiến dịch “Đại bàng”, “Vì dân”, “Phượng Hoàng”..., quyết liệt quân sự hóa bộ máy kìm kẹp, tăng cường lực lượng cảnh sát, Phượng Hoàng, mật vụ, tình báo... nhằm phát hiện, tiêu diệt cơ sở nội tuyến, lực lượng vũ trang cách mạng, lấn chiếm vùng giải phóng, tiến công biên giới, đánh phá kho tàng, cắt đứt hành lang tiếp tế, tiêu hao, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn Quân giải phóng. Có thể nói năm 1971 công cuộc bình định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã phát triển tới đỉnh cao nhất3 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.154).


Với quyết tâm đẩy mạnh đánh phá bình định, tạo thế tạo lực trên chiến trường miền Nam trong năm 1971, Trung ương Cục ban hành Chỉ thị số 01/CT-71 chỉ đạo toàn Đảng, toàn quân bám chặt xã ấp, tổ chức quần chúng xây dựng cơ sở, khôi phục lực lượng, đánh phá bình định.


Trên chiến trường Khu 8, từ giữa năm 1971, cơ quan tiền phương Quân khu về Mỹ Tho, bám sát địa bàn để chỉ đạo phong trào1 (Ở cách bót Bà Hơn không đầy 300m, cách bót Miếu Bà 800m, cách đồn Cây Mít khoảng 1km). Theo đó, lực lượng Quân giải phóng cấp khu, cấp tỉnh, huyện đều về địa bàn kiên cường bám trụ, xốc lại phong trào. Do vậy phong trào đánh phá bình định bắt đầu chuyển động và phát triển, ở Bến Tre, các trận đánh bình định xảy ra liên tiếp ở Mỏ Cày Nam, Giồng Trôm, Phước Thạnh (Châu Thành), Thới Thuận (Bình Đại), Cồn Bững (Thạnh Phong, Thạnh Phú)... Điển hình như Tiểu đoàn 516 tiến công lực lượng khai quang ở Thạnh Phú Đồng; Tiểu đoàn 263 tiến công Liên đội 72 bảo an Gò Công ở An Phước, Phú An Hòa; phục kích đoàn bình định ở Quới Sơn; Đại đội đặc công A tập kích đồn Lương Quới, Bình Thành... ở Mỹ Tho, Tiểu đoàn 269 đặc công tập kích các trận địa pháo địch ở Cai Lậy, Vĩnh Kim; Tiểu đoàn 261A đánh khu trù mật Mỹ Phước Tây, đồn chợ Bình Phú (Cai Lậy); Tiểu đoàn 514C tập kích trung tâm huấn luyện Tân Hiệp...


Đến cuối năm 1971, “bộ đội huyện, tỉnh và chủ lực quân khu được bổ sung, củng cố một bước và đứng vững trên địa bàn trọng điểm của mình. Phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của quần chúng cũng có chuyển biến mới. Từng bước đã hình thành được thê kết hợp ba thứ quân (chủ lực, địa phương, du kích) và thế tiến công địch bằng ba mũi (quân sự, chính trị, binh vận) ở cơ sở. Với tinh thần tích cực tiến công và phản công bằng phương thức thích hợp, ta đã phá lỏng, phá rã kìm kẹp của địch ở nhiều nơi và mở được một số lõm, phát triển được thế làm chủ của nhân dân ở xà ấp, làm cho thế kìm kẹp của địch giảm hiệu lực. Ta đã vượt qua được thử thách ác liệt, của thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất (1969-1971), tạo ra những điều kiện mới để cùng toàn Miền thực hiện nhiệm vụ chiến lược mới”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.724).


Trên chiến trường Khu 9, công cuộc bình định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn sau 3 năm đà thu được, những “thành công rất khả quan". Ngày 1-6-1971, tại buổi lễ mừng chiến thắng U Minh và khánh thành chi khu Hiếu Lễ, Tổng thống Nguyền Văn Thiệu tuyên bố”: “Bộ đội tập trung của Việt cộng không còn nữa, hiện nay chỉ còn 100 du kích ở U Minh Thượng và 100 du kích ở U Minh Hạ, chỉ hoạt động kiểu du kích mà thôi”2 (Dẫn theo Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.495, 497).


Đối với Quân giải phóng, thực hiện Chỉ thị số 01/CT-71 của Trung ương Cục, trước tình hình khó khăn, đặc biệt là vũ khí, Quân khu chủ trương “đặc công hóa bộ binh” để tiết kiệm đạn, đồng thời phát động phong trào dùng vũ khí tự tạo, sửa chữa bom đạn lép, qua biên giới mua súng đạn, chất nổ dù đường vận chuyển khó khăn và vô cùng nguy hiểm.


Tháng 9-1971, Bộ Tư lệnh Quân khu trực tiếp chỉ huy Trung đoàn 2, Trung đoàn 10 và Trung đoàn 20 tiến công lực lượng chủ yếu của quân ngụy đang chiếm đóng ở U Minh3 (Lực lượng địch tại U Minh lúc này có Sư đoàn 21 (đủ 12 tiểu đoàn), Trung đoàn 14 Sư đoàn 9 (có 4 tiểu đoàn), 5 tiểu đoàn pháo 105 và 155 ly, 7 giang đoàn; quân bảo an có 12 tiểu đoàn và tương đương, 46 đại đội và hơn 60 trung đội dân vệ), diệt 1 căn cứ, 1 đồn, 2 tiểu đoàn, 2 sở chỉ huy nhẹ cấp trung đoàn, 5 đại đội, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn khác, loại khỏi vòng chiến đấu 2.057 tên4 (Dẫn theo Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.495, 497).


Phối hợp với chiến trường U Minh, lực lượng đặc công khu đánh căn cứ Xẻo Rô, chi khu Thứ Ba. Trung đoàn 1 tiến đánh 11 đại đội bảo an, diệt 3 đồn ở Xà Phiên. Lực lượng đặc công, trinh sát Sóc Trăng tiến công chi khu Phú Lộc. Tiểu đoàn 3 U Minh tập kích địch ở Rau Dừa; phối hợp với bộ đội huyện Cái Nước tiến công 5 đồn ở Bình Hưng1 (Theo tài liệu của Phòng Dân quân B2, năm 1969 Khu 9 có 40 đội du kích hoạt động được, 6 tháng đầu năm 1971 lên 180 đội, cuối năm 1971 lên 265 đội. Tuy nhiên, hiệu suất chiến đấu của du kích còn thấp, 4 du kích xả mới diệt được 1 địch, 23 du kích ấp mối diệt được 1 địch)...


Trong năm 1971, trên mặt trận đánh phá bình định, Quân giải phóng đã đánh 168 trận vào 10 thị xã, 52 chi khu, thi trấn, diệt gần 4.000 tên địch, diệt 6 chi khu (Khu 9 diệt 4, Khu 6 diệt 1, đặc công Miền diệt 1); đánh 156 trận vào 32 căn cứ và hậu cứ địch, 11 sân bay, diệt trên 5.000 tên, phá hủy 57 máy bay, 157 xe quân sự, 57 pháo, 22 kho; đánh 369 trận giao thông, diệt trên 5.000 tên, phá 800 xe quân sự, 12 đầu máy, 107 toa xe, bắn chìm và cháy 443 tàu xuồng2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr154). Mặc dù địch và ta còn giằng co quyết liệt, nhưng tình hình nông thôn đã vượt qua thời kỳ khó khăn nghiêm trọng nhất, ta đã chặn địch lại được, đã đánh chúng ở nhiều nơi và đang tạo ra những điều kiện hết sức cơ bản, đòi hỏi phải tiếp tục củng cố một cách khẩn trương vững chắc để chuyển sang bước hai đánh phá bình định”3 (Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 11 tháng 10-1971).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:39:03 am
2. Phối hợp đánh bại các cuộc hành quân của Mỹ trên biên giới và chiến trường Campuchia

Bước vào năm 1971, Mỹ ráo riết thực hiện chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”, liên tiếp tổ chức các cuộc hành quân lớn nhằm truy tìm căn cứ, kho tàng của Quân giải phóng, cắt đứt hành lang vận tải chiến lược từ hậu phương lớn miền Bắc “quá cảnh” qua đất Campuchia vào chiến trường Nam Bộ.


Ngày 4-2-1971, Mỹ huy động toàn bộ lực lượng Quân đoàn 3 ngụy gồm 34 tiểu đoàn bộ binh, 5 trung đoàn thiết giáp, 8 tiểu đoàn pháo, 5 tiểu đoàn quân đội Lon Non và 15 phi đoàn không quân Mỹ mở cuộc hành quân “Toàn Thắng 1-71 NB" đánh vùng đông bắc Campuchia.


Nhận biết được âm mưu của đôì phương, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định tổ chức chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân “Toàn Thắng 1-71 NB”, không cho đối phương lấn chiếm đường 7 nhằm bảo vệ kho tàng của Quân giải phóng dọc vùng biên giới. Chiến dịch diễn ra ác liệt, được chia làm 3 đợt: Đợt 1 (từ 4-2 đến 4-3-1971); Đợt 2 (từ 5-3 đến 16-4-1971); Đợt 3 (từ 17-4 đến 24-6-1971).


Trong đợt 1, lực lượng thực hiện chiến dịch bao gồm Sư đoàn 9 (thiếu Trung đoàn 1), Trung đoàn 174 (Sư đoàn 5), Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) do Tư lệnh Sư đoàn Nguyễn Thới Bưng và Chính ủy Sư đoàn Nguyễn Văn Quảng trực tiếp chỉ huy đảm nhiệm khu vực bắc đường sô 7, Suông, Chúp.


Trong đợt 2, đợt 3, lực lượng tham gia chiến dịch được huy động có quy mô tương đương cấp quân đoàn, bao gồm 3 sư đoàn bộ binh (5, 7, 9), 2 trung đoàn pháo binh (75, 96), 1 trung đoàn đặc công, 1 trung đoàn công binh, 3 đại đội độc lập của 3 căn cứ (10, 20, 30) do đồng chí Trần Văn Trà - Tư lệnh đoàn 301 trực tiếp chỉ huy1 (Ngày 18-3 -1971, Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập cơ quan chỉ huy tiền phương lấy mật danh là Đoàn 301 do đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh. Đoàn 301 chỉ huy lực lượng có quy mô tương đương cấp quân đoàn bao gồm Sư đoàn 9, 7, 5, Trung đoàn pháo binh 28, Tiểu đoàn súng máy phòng không 12 và nhiều đơn vị binh chủng, phục vụ khác. Sau khi thành lập, Đoàn 301 trực tiếp tham gia chỉ huy đợt 2, đợt 3 chiến dịch).


Sau 3 tháng chiến đấu dũng cảm, ngày 31-5-1971 chiến dịch kết thúc, cuộc hành quân “Toàn Thắng 1-71 NB” của Mỹ - ngụy bị đánh bại1 (Quân giải phóng đã đánh tan Chiến đoàn 8, một trung đoàn xe tăng, 18 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh, 6 chi đoàn thiết giáp, bắn rơi 238 máy bay, 1.509 xe quân sự...). Quân giải phóng đã giữ vững căn cứ và bảo vệ thành công hành lang vận tải chiến lược từ hậu phương lớn miền Bắc vào chiến trường Nam Bộ.


Sau thất bại cuộc hành quân "Toàn Thắng 1-71 NB”, ngày 20-8-1971, tướng Mỹ MacKen chỉ huy 15 lữ đoàn quân Lon Non mở cuộc hành quân “Chen La 2” đánh vào Côngpôngthom. Cuộc hành quân được máy bay ném bom B52 yểm trợ nhằm tiến chiếm đường số 6, đoạn nối từ Tăngcốc đến Côngpôngthom vốn là hành lang của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam nối từ đông sang tây.


Trước âm mưu của Mỹ, ngày 1-10-1971, Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch phản công trên đường số 6 với quết tâm đánh bại cuộc hành quân “Chen La 2”. Bộ Tư lệnh chiến dịch được thành lập do đồng chí Đồng Văn Cống làm Tư lệnh, đồng chí Lê Văn Tưởng làm Chính ủy, đồng chí Lê Ngọc Hiền làm Phó Tư lệnh. Tham gia chiến dịch gồm có lực lượng Sư đoàn 9 (E 205, 207, 201, 203), lực lượng khu căn cứ C40 (2 trung đoàn, hai tiểu đoàn 32, 22, 1 đại đội đặc công nước); phía bạn Campuchia có hai tiểu đoàn cùng một số đại đội bộ đội địa phương.


Ngày 25-10-1971, chiến dịch phản công trên đường số6 diễn ra. Quân giải phóng đã lần lượt tiến công Phumđa, Anđôngpô, Rumluông, Barai, Tăngcốc, Krum, Anđét, Tăngcraxăng, Xăngtúc... Đến ngày 13-11-1971, Quân giải phóng làm chủ khu vực rộng lớn từ bắc Phumđa đến bắc Tăngcôc, giải phóng đường 6 một đoạn dài 12km.


Trước sức tiến công mãnh liệt của Quân giải phóng, tinh thần binh lính Lon Non hoàn toàn suy sụp. Trước nguy cơ toàn bộ lực lượng bị tiêu diệt, một bộ phận lớn tháo chạy về hướng Phnôm Pênh. Trên các trục lộ giao thông 3. 4, 5 thuộc tuyến phòng thủ Phnôm Pênh bị Quân giải phóng chọc thủng lực lượng lính Lon Non và quân ngụy Sài Gòn phòng thủ ở đây đang bị Quân giải phóng uy hiếp tiêu diệt, sân bay Pochentông đã bị Quân giải phóng tiến công nhiều lần1 (Theo báo cáo hoạt động ở Campuchia trong năm 1971 số 7933 lưu phòng Tư liệu Ban Tổng kết chiến tranh B2, trên mặt trận lộ 4, ta đã tiêu diệt gần 1 vạn tên (trong đó có khoảng 1.300 ngụy Sài Gòn), diệt 8 tiểu đoàn (có 1 tiểu đoàn ngụy Sài Gòn), bắn rơi 31 máy bay, phá hủy 390 xe, giải phóng hơn 80km và hơn 10.000 dân trên các mặt trận lộ 3, lộ 5 sân bay Pochentông, đánh 2 trận tập kích bằng đặc công và 9 trận pháo kích. Diệt 805 tên (có 350 giặc lái và nhán viên kỹ thuật), diệt 1 tiểu đoàn bảo vệ sân bay, phá hủy 131 máy bay, 100 xe quân sự, 9 kho...).


Ngày 4-12-1971, cuộc hành quân “Chen La 2” bị Quân giải phóng đánh bại, chiến dịch phản công trên đường 6 kết thúc2 (Diệt và bắt 15.397 tên; diệt từ 10 đến 12 tiểu đoàn, 17 đại đội, tiêu hao nặng và làm tan rã 25 tiểu đoàn, 2 sở chỉ huy lữ, tiêu hao 13 tiểu đoàn và Sở Chỉ huy “Chen La 2”, phá hủy 53 xe, 10 khẩu pháo, thu 3.691 súng các loại, 150 tấn đạn, pháo, 100 máy thông tin... Trong đó có hai khẩu pháo 105mm, ta cho xe kéo về để sử dụng trong các trận đánh nám 1972). Đồng chi Hoàng Văn Thái đánh giá Sư đoàn 9 và các đơn vị tham gia chiến dịch “đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”. Đó là thắng lợi của sự vận dụng sáng tạo cách đánh chiến dịch phản công, nghệ thuật chọn đúng mục tiêu, chớp thời cơ khi đối phương chuẩn bị kết thúc cuộc hành quân, chủ động tiến công, linh hoạt trong chuyển hướng tiến công, tạo thế chia cắt, bao vây, cô lập, tiến công, truy kích, làm tan rã từng mảng, từng bộ phận lực lượng đổĩ phương.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:41:26 am
3. Tham gia cuộc tiến công chiến lược năm 1972

Sau những thất bại nặng nề trên các chiến trường trong năm 1971, Mỹ nhận ra rằng, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã phục hồi và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Tuyến phòng thủ biên giới trở nên yếu ớt trước sự tiến công của Quân giải phóng, do vậy cần ưu tiên lập tuyến phòng thủ nội địa, ưu tiên bảo vệ thủ phủ Sài Gòn và vùng lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long1 (Địch tập trung lực lượng chủ yếu phòng ngự phía bắc và tây bắc Sài Gòn, trên hai trục đường 13 và 22, có chính diện và chiều sâu, gồm 3 tuyến. Tuyến ngoài: Sư đoàn 25: 2 chiến đoàn trên đường 22 và 1 chiến đoàn trên hướng đường 1. Lực lượng Sư đoàn 5: 1 chiến đoàn giữ tuyến Măng Cải - Lộc Ninh - Bù Đốp, 2 chiến đoàn trên đường 13 (trong đó có 1 chiến đoàn dự bị cơ động ở Bến Cát - Lai Khê). Lực lượng Sư đoàn 18: 1 chiến đoàn tăng cường giữ hướng đông và đông bắc Sài Gòn, phòng ngự cơ động trên đường 1 và đường 20, 2 chiến đoàn ở Long Khánh giữ trục đường 1 và đường 1. Tuyến trung gian: chủ yếu sử dụng lực lượng cơ động QĐ kết hợp với lực lượng cơ động của các Sư đoàn. Vùng ven: Chủ yếu là lực lượng cơ động chiến lược (thủy quân lục chiến và dù). Ở Quân khu 4: Địch tập trung phần lớn Sư đoàn 9 và Sư đoàn 21 để lấn chiếm U Minh, đóng chốt ngăn chặn, Sư đoàn 7 giữ khu vực Mỹ Tho, Trà Vinh, Bến Tre, các liên đoàn biệt động quân (lực lượng cơ động của Quân đoàn), kết hợp với các đơn vị biệt động quân biên phòng ngăn chặn hành lang biên giới đến Kiến Tường).


Về phía ta, mùa Thu năm 1971, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 nhằm đánh sập chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” bằng ba quả đấm chiến lược:

“Quả đấm mạnh của quân chủ lực ta, đánh những trận tiêu diệt lớn trên các chiến trường thích hợp và quan trọng, làm tan rã quân chủ lực ngụy Sài Gòn; Quả đấm mạnh của lực lượng quân sự và chính trị của ta ở đồng bằng, kết hợp tiến công với nổi dậy, nổi dậy và tiến công để đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch, giành lại quyền làm chủ ở nông thôn; Quả đấm mạnh ở thành thị, chủ yếu là phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn của quần chúng, làm lung lay đến tận gốc, tiến lên đánh đổ chính quyền trung ương của ngụy”2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr-159, 160).


Để thực hiện thành công ba quả đấm nói trên, Bộ Chính trị chỉ đạo phải “động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dằn, kịp thời nắm lấy thời cơ lớn trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và binh vận, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của Mỹ ở Campuchia, Lào, giành thắng quyết định”1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.159).


Nhằm chuẩn bị cho chiến dịch năm 1972, tháng 10-1971, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ 11 quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, đồng thời đề ra nhiệm vụ năm 1972 cho chiến trường miền Đông Nam Bộ, các tỉnh cực Nam Trung Bộ và đồng bằng Nam Bộ.


Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 11, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền đã hạ quyết tâm thực hiện chiến dịch tiến công năm 1972, xác định hướng tiến công chủ yếu là đường số 13, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực đối phương trên hướng bắc Sài Gòn, giải phóng khu vực Bình Long, Phước Long, vùng đệm ở Tây Ninh, Bình Dương; phối hợp với hướng tiến công chủ yếu Đường 9 - Trị Thiên ghìm chân quân chủ lực ngụy, tạo điều kiện cho nhân dân các tỉnh cực Nam Trung Bộ và đồng bằng Nam Bộ nổi dậy đánh phá bình định2 (Đến trước chiến dịch, quân ngụy bố trí dày đặc trên địa bàn miền Đông với 4 sư đoàn bộ binh (5, 18, 25 và 21), 1 lữ đoàn dù, 5 liên đoàn biệt động quân, 456 xe tăng, xe bọc thép, 396 khẩu pháo, 67 liên đội, 146 đại đội bảo an, 820 trung đội dân vệ).


Chiến dịch tiến công chiến lược của Quân giải phóng năm 1972 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ ra đời mang mật danh “Chiến dịch Nguyễn Huệ” do Trung tướng Trần Văn Trà làm Tư lệnh. “Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 3 sư đoàn (5, 7, 9), 4 trung đoàn bộ binh, 4 trung đoàn và 8 tiểu đoàn binh chủng, trong đó có 2 trung đoàn pháo xe kéo, 2 tiểu đoàn tăng, 2 tiểu đoàn tên lửa loại mang vác và cao xạ 37 ly. Lực lượng địa phương các phân khu, tỉnh có 10 tiểu đoàn và 63 đại đội. Trước đó, bộ đội chủ lực Miền còn đứng chân ngoài biên giới (trên đất Campuchia). So sánh quân số tập trung, bộ binh ta chỉ bằng 62% của địch; pháo binh và xe tăng bằng từ 13 - 17% của địch. Ta không có không quân tham gia chiến dịch”1 (Bộ Quốc phòng, Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sdd, tr.448).


Đợt 1 (từ ngày 1-4 đến ngày 15-5-1972), đúng 4 giờ sáng ngày 1-4-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch phát lệnh nổ súng mở màn với “đòn nghi binh” tiến công vào Chiến đoàn 49 ngụy ở phía bắc Tây Ninh, tạo điều kiện cho các đơn vị quân chủ lực triển khai lực lượng từ các vị trí tập kết dọc biên giới xuống đường 13. Sư đoàn 5 bao vây cụm cứ điểm Lộc Ninh, Sư đoàn 9 bao vây thị xã An Lộc, Sư đoàn 7 Quân giải phóng tiến công các chốt chặn từ nam thị xã đến bắc Chơn Thành... Chiều ngày 7-4 Quân giải phóng hoàn toàn làm chủ chi khu Lộc Ninh2 (Trong đợt 1, ta diệt trên 23.000 tên (trong đó bắt sông trên 3.000 tên), diệt 3 chiến đoàn thiếu thuộc 2 sư đoàn (5, 18), 14 tiểu đoàn bộ binh, 2 trung đoàn thiết giáp thiếu, 9 pháo đội, đánh quỵ hoàn toàn Sư đoàn 5, đánh thiệt hại nặng 3 chiến đoàn và lữ đoàn. Bắn rơi và phá hủy 169 máy bay, phá hủy 555 xe quân sự (191 xe tăng thiết giáp), 42 pháo và 16 kho các loại. Thu được 282 xe quân sự (12 xe M41 và M113, 1 xe VTĐ siêu tần), 43 pháo (7 pháo 105 và 36 pháo 105), 4.053 súng các loại, 265 máy thông tin, 13.746 viên đạn pháo (3.775 viên đạn pháo 155, 9.971 viên đạn pháo 105).


Đợt 2 (từ ngày 16-5 đến ngày 30-9-1972): Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tập trung lực lượng, chuyển sang tiến công Đường số 13, Bình Long, hình thành thế bao vây thị xã An Lộc, chặn đánh hai cuộc hành quân mở đường lên thị xã ở Tàu Ô của Sư đoàn 21, Chiến đoàn 15 Sư đoàn 9, Tiểu đoàn 46 Sư đoàn 25 ngụy1 (Đã tiêu diệt khoảng 33.600 địch, diệt 1 chiến đoàn và 1 trung đoàn thiết giáp, đánh thiệt hại Sư đoàn 21 và Sư đoàn 25 ngụy. Bắn rơi và phá hủy 557 máy bay, 354 xe quân sự, 177 pháo, 61 kho các loại. Ta thu trên 1.000 súng các loại, trên 10.000 đạn rốc két, 66 máy thông tin).


Đợt 3 (từ ngày 1-10-1972 đến ngày 28-1-1973): Ngày 1-10-1972, vừa vững tuyến đường số 13, vừa phát triển các mũi tiến công đánh phá "bình định" ở bắc Bình Dương, Củ Chi. Tháng 1-1973, Trung đoàn 14, 209 Quân giải phóng tổ chức thành nhiều hướng tiến công Chiến đoàn 8 ngụy tại Bến Tranh2 (Trong đợt 3, ta diệt gần 20.000 địch, diệt 1 chiến đoàn, 10 đại đội và 21 trung đội, 30 đồn tua cấp tiểu đội, trung đội, đánh thiệt hại nặng 11 tiểu đoàn, bắn rơi và phá hủy 191 máy bay, 172 xe, 31 pháo và 3 kho lớ„ thu 2 pháo và trên 1.700 súng các loại, 102 máy thông tin, giải phóng và làm chủ 60 ấp khoảng 60.000 dân)...


Trải qua hơn 10 tháng liên tục tiến công, ngày 19-1-1973, Chiến dịch Nguyễn Huệ đã kết thúc thắng lợi. Quân giải phóng đã đánh thiệt hại nặng quân ngụy, giải phóng được một khu vực rộng lớn mang tính chiến lược quan trọng ở tây bắc Sài Gòn, đồng thời làm thay đổi cục diện trên chiến trường B2, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc tiến công chiến lược 19723 (Đã tiêu diệt khoảng 33.600 địch, diệt 1 chiến đoàn và trung đoàn thiết giáp, đánh thiệt hại Sư đoàn 21 và Sư đoàn 25 ngụy. Bắn rơi và phá hủy 557 máy bay, 354 xe quân sự, 177 pháo, 61 kho các loại. Ta thu trên 1.000 súng các loại, trên 10.000 đạn rốc két, 06 máy thông tin).


Trên chiến trường Quân khu 8, bước vào năm 1972, Quân giải phóng mở đợt hoạt động quân sự trong đợt tháng 4, tháng 5, tiến công vào địa bàn nam quốc lộ 4 và một số đồn bót trên địa bàn Gò Công, Kiến Tường, Mỹ Tho, Bến Tre. Tuy nhiên, sức tiến công yếu ớt, không làm thay đổi cục diện chiến trường. Cuối tháng 5-1972, Bộ Chính trị đã chỉ thị: “phải tập trung lực lượng mạnh mở chiến dịch quy mô lớn cả về bề sâu lẫn bề rộng ở vùng nam bắc lộ 4 (Mỹ Tho) và một phần Kiến Phong, phá tan hệ thống kìm kẹp của địch trong tỉnh Mỹ Tho và một phần tỉnh Kiến Phong, nhằm một mặt uy hiếp Sài Gòn - Chợ Lớn, một mặt phát triển thúc đẩy phong trào Bến Tre, Trà Vinh để phá sập hầu hết hệ thống kìm kẹp của địch, đánh bại kế hoạch bình định của chúng và giành phần lớn nhân dân về ta”1 (Trích Điện số 373/TK ngày 25-5-1972 của Bộ Chính trị gửi Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền).


Để thực hiện chỉ thị trên, Bộ Tư lệnh Miền điều chuyên một bộ phận quân chủ lực xuống Khu 8 kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định2 (Các lực lượng tham gia chiến dịch này gồm có: Bộ đội chủ lực Miền: Sư đoàn 5, Sư đoàn 30B (Trung đoàn 24, Trung đoàn 207), Trung đoàn 271, Trung đoàn 28 pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn trinh sát, 1 phân đội cơ giới, 1 tiểu đoàn thông tin; bộ đội chủ lực Khu 8: Trung đoàn 1, Trung đoàn 88, Trung đoàn 320, 3 tiểu đoàn đặc công; lực lượng địa phương: Mỹ Tho (2 tiểu đoàn), Kiến Phong (2 tiểu đoàn), Kiến Tường (1 tiểu đoàn), Bến Tre (1 trung đoàn)), làm “đòn xeo” cho nhân dân địa phương nổi dậy phá ấp dân sinh, diệt ác. Chiến dịch tiến công tổng hợp trên chiến trường Khu 8 bắt đầu khởi sắc.


Đợt 1 (từ ngày 10 đến ngày 30-6-1972), Quân giải phóng vừa tiến công đánh phá bình định trên địa bàn quân khu, tiến quân lên tuyến biên giới đánh các cuộc phản kích, kìm chân lực lượng sư đoàn 7 quân lực Sài Gòn, tạo điều kiện cho lực lượng quần chúng nổi dậy diệt ác, phá đồn3 (Trong vòng 20 ngày của đợt 1, bộ đội chủ lực Quân khu đánh thiệt hại nặng yếu khu Ba Dừa, đánh tan 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 11 Sư đoàn 7 ngụy, bao vây, tiêu hao một số liên đội bảo an, bức rút hệ thống đồn bót, làm chủ tuyến Ba Rài, giải phóng 3 xã ở mảng 3 Cai Lậy, 1 xã ở Bến Tre, 1 xã ở Kiến Phong)...


Đợt 2 (từ ngày 3-7 đến ngày 31-7-1972): Quân giải phóng tiến đánh cuộc hành quân Sorya 1, 2 của quân đội Lon Non; bức rút hệ thống đồn bót trên kênh Nguyễn Văn Tiếp, lộ 20, Băng Dày (nam lộ 4 - Mỹ Tho); tiến công chi khu Vĩnh Kim; mở mảng sông Ba Rài đến Vĩnh Kim, nam lộ 4 đến bờ sông Cửu Long. Trên tuyến bắc lộ 4 - Mỹ Tho, Quân giải phóng mở mảng Kinh cũ, Nguyễn Văn Tiếp, giải phóng mảng 3 Cai Lậy, 1 xã của Châu Thành bắc, 3 xã ở Gò Công, lõm 6 Đồng Sơn...


Đợt 3 (từ ngày 14-8 đến ngày 10-9-1972): Quân giải phóng đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 1 Sư đoàn 7 ngụy; đánh bại hoàn toàn các cuộc hành quân Sorya 1, 2 của quân đội Lon Non; tiến công hệ thống đồn bót, phá bình định, mở rộng vùng giải phóng lên vùng Chợ Gạo, Củ Chi, Tân Hiệp, Châu Thành, Mỏ Cày Bắc....


Chiến dịch tổng hợp tiến công phá bình định trên chiến trường Khu 8 giành được thắng lợi lớn. Nếu tính cả đợt hoạt động tháng 4, tháng 5, Quân khu 8 đã diệt và làm rã 24 tiểu đoàn, liên đội; 63 đại đội, 986 trung đội; bức hàng, bức rút 548 đồn bót; giải phóng 25 xã (240 ấp) với khoảng 21 vạn dân1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr 168)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Hai, 2023, 09:42:35 am
Trên chiến trường Quân khu 9, chấp hành chỉ thị của Quân ủy Miền, thực hiện chiến dịch tiến công tổng hợp trên chiến trường Khu, Quân giải phóng xác định địa bàn Chương Thiện - U Minh là trọng điểm tiến công “cao điểm”, tạo cơ sở làm bàn đạp mở các mảng “cao điểm” khác, từng bước giải phóng miền Tây.


Cao điểm 1 (từ tháng 4-1972 đến đêm mùng 6 rạng sáng ngày 7-4-1972): Quân giải phóng đồng loạt nổ súng tiến công chi khu và quận lỵ Ngang Dừa (Trung đoàn 2), đồn Giồng Cấm, bức hàng đồn Lương Hào, đồn tề Minh Hòa, Ninh Quới, Lộc Ninh. Trung đoàn 1 tiến công điểm then chốt Thanh Long, kìm chân Trung đoàn 15, tập kích Đoàn 3 Trung đoàn 15 ngụy gần đồn Út Lờ. Trung đoàn 1 giải phóng xã Vĩnh Viễn, ngọn sông Nước Trong, bờ nam sông Nước Đục; tập kích Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 15 ngụy; phối hợp với bộ đội địa phương huyện Long Mỹ tiêu diệt đồn Hội đồng Sửu (xã Thuận Hưng), bức hàng đồn Ba Phát. Trung đoàn 10 tiến công căn cứ Bà Thầy, Nỗng Cạn, Chỉ huy sở Trung đoàn 33 ngụy tại căn cứ cầu chữ Y. Lực lượng pháo binh Quân khu đánh sân bay, tiểu khu Chương Thiện, căn cứ hành quân Hỏa Lựu...


Tiểu đoàn Tây Đô tiến công căn cứ Quang Phong; Tiểu đoàn 2012 đặc công tiến đánh yếu khu Thát Lát; Tiểu đoàn tỉnh Sóc Trăng diệt yếu khu Rạch Gò, phân khu Chợ Kinh, bức hàng, bức rút 6 đồn ở huyện Mỹ Xuyên...


Kết thúc cao điểm 1, “Ta đã giành thắng lợi lớn trong thế chiến lược chung của toàn miền Nam, bước đầu phá vỡ một số kết quả chương trình bình định của địch đã gây dựng trong mấy năm qua, chọc thủng và mở ra một số mảng trong hệ thống phòng thủ của địch. Nhưng do ta nắm tình hình địch chưa chắc, tiến công chưa bạo, sử dụng chưa hết khả năng hiện có; mặt khác chất lượng các trận đánh chưa đạt yêu cầu diệt gọn và lam chủ trận địa; một số địa phương còn cố thủ, cầm chừng, chưa tung lực lượng ra tiến công đúng mức nên việc mở mảng ở Ngang Dừa đúng ra là trong 3 ngày nhưng phải làm đến 7 ngày, tốc độ mở chậm. Địch bị đánh nhiều nhưng chưa đau thắng lợi chưa giòn giã, ba mũi ở cơ sở bước đầu có phát triển, nhưng chưa nhiều, chưa mạnh”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sdd, tr.510).


Cao điểm 2 (từ ngày 20-4 đến đầu tháng 6-1972): Quân khu lấy địa bàn Chương Thiện làm hướng chủ yếu, quyết tâm mở mảng giải phóng tây nam Long Mỹ, mở thông cửa ngõ U Minh, mở rộng vùng giải phóng U Minh - Cà Mau.


Ngày 20-4-1972, Trung đoàn 1 cường tập hệ thống đồn Tô Ma, Cây Me, Giao Du, Cái Sắn. Trung đoàn 2 đánh hệ thống đồn bót ở xã Vĩnh Tuy, lộ Cái Miên; đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 15 Sư đoàn 9 ngụy. Trung đoàn 20 diệt căn cứ Bình Minh (Sân Gạch), giải phóng xã Vĩnh Bình Bắc và phần lớn Vĩnh Bình Nam. Tiểu đoàn 2012 đặc công đánh thiệt hại nặng chi khu Gò Quao. Trung đoàn 20 đánh căn cứ Bình Minh. Trung đoàn 10 tập kích căn cứ Bà Thầy Gần thứ hai).


Đến cuối tháng 4-1972, Quân giải phóng trên địa bàn toàn Quân khu gỡ được 270 đồn, thu hồi một phần căn cứ U Minh - Cà Mau, chọc thủng hệ thống phòng thủ Chương Thiện, giải phóng 11 xã, củng cố vững chắc vùng căn cứ tây nam Long Mỹ.


Cao điểm 3 (tháng 5-1972): Đêm mùng 8 rạng sáng ngày 9-5-1972, Trung đoàn 2 tấn công đồn trên vàm kinh xáng Chắc Băng. Trung đoàn 1 diệt đồn Cái Nhào Nhỏ, kết hợp với bộ đội địa phương giải tán phòng vệ dân sự, làm chủ kinh xáng Vịnh Chèo. Trung đoàn 20 kết hợp với đặc công khu diệt cụm đồn tề ở ngã tư Ông Dèo, gỡ đồn Bưng Đê, Bầy Kê, Ba Hô, Kinh Mới, mở mảng giải phóng kinh xáng - Ba Hồ. Trung đoàn 2 tiến công khu vực Lái Niên, mở thông hành lang U Minh - Giồng Riềng. Trung đoàn 10 gỡ đồn kinh 2, kinh 3, kinh 14, kinh 11, Vĩnh Thuận, mở rộng căn cứ U Minh, khai thông hành lang Long Mỹ, Ngang Dừa. Tiểu đoàn Tây Đô cùng với địa phương gõ đồn Sáu Thọ, Cái Su, Đập Đá...


Cao điểm 4 (tháng 6-1972): Đêm mùng 9 rạng sáng ngày 10-6-1972, Trung đoàn 1 (Tiểu đoàn 309) tiến công quận Ngã Năm thuộc tiểu khu Ba Xuyên (Sóc Trăng); Trung đoàn 2 tiến công quận Phước Long thuộc tiểu khu Bạc Liêu; Trung đoàn 10 được tăng cường tiến công chi khu Thới Bình và Khu Chợ thuộc tiểu khu An Xuyên (Cà Mau); Trung đoàn 20 (tiểu đoàn dự bị) tiến công tiểu khu Chương Thiện nhưng không giải quyết được mục tiêu, buộc phải quay về Giồng Riềng tiến công hệ thống đồn trên địa bàn xã Vĩnh Thạnh, tuyến sông Cái Bé, tạo địa bàn đứng chân. Phối hợp với Quân giải phóng Quân khu, Quân giải phóng tỉnh, huyện cùng nhân dân địa phương nổi dậy bức hàng, bức rút hệ thống đồn bót, phá bình định.


Sơ kết cao điểm 4, yêu cầu đặt ra không đạt được. Chỉ có 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 2 kết hợp chặt chẽ với Quân giải phóng Phước Long và nhân dân địa phương nên đã giành được thắng lợi lớn.


Cao điểm 5 (tháng 7-1972): Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định trong cao điểm 5 sẽ tiến hành tiến công giải phóng “cuốn chiếu” quận Vĩnh Thuận1 (Quận Vĩnh Thuận có 25 vị trí nằm trên 3 xã Vĩnh Long, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Bình Nam. Lực lượng quân ngụy đóng chốt gồm có 1 tiểu đoàn bảo an, 1 đại đội cảnh sát dã chiến, 1 đại đội thám báo, 1 trung đội pháo 105 ly (tại chi khu) và 1 tiểu đoàn, 2 liên đội, 2 đại đội bảo an (tại các đồn bót)).


Đêm mùng 8 rạng sáng ngày 9-7-1972, Trung đoàn 10 (Tiểu đoàn 7) đánh Sở Chỉ huy chi khu Vĩnh Thuận nhưng không thành phải rút ra khỏi chi khu. Trung đoàn 1 (thiếu) tiến công lực lượng bảo an tại kinh 14 Vĩnh Thuận nhưng bị đối phương phản kích, Trung đoàn bị bom pháo địch đánh trúng, đội hình bị thiệt hại nặng. Tiểu đoàn 2012 đặc công khu tiến công Cống Đá, Tiểu đoàn trưởng hy sinh. Thiếu chỉ huy, các mũi tiến công lúng túng, không diệt được mục tiêu và buộc phải rút lui. Trung đoàn 20 phục kích đánh Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 14 Sư đoàn 9 ngụy tại Rạch Rùa, Vị Thanh. Trận đánh thắng lớn, bắt trên 100 tù binh, thu 150 súng và được coi là “trận đánh mẫu mực”, được Bộ Tư lệnh phát động phong trào thi đua học tập trong toàn Quân khu.


Cao điểm 6 (tháng 8-1972): Đêm 11 rạng sáng ngày 12-8- 1972 Quân giải phóng bước vào chiến dịch. Trung đoàn 10 sử dụng Tiểu đoàn 7 đánh căn cứ Rạng Đông, Tiểu đoàn 8 đánh chi khu Hiếu Lỗ. Trung đoàn 2 sử dụng tiểu đoàn đặc công tiến công căn cứ Toàn Thắng; gỡ hệ thống đồn kinh 15, ngọn kinh 12, ngọn kinh 9. Trung đoàn 20 đánh cụm đồn tể trên địa bàn xã Thúy Liễu (Gò Quao).


Ngày 25-8-1972, các đợt hoạt động cao điểm kết thúc, Quân giải phóng Quân khu 9 đã “làm tan rã gần 1 vạn quân địch; tiêu diệt 6 tiểu đoàn, 1 liên đội, 1 chi đoàn, 97 đại đội, 329 trung đội, giải tán và làm tan rã 20.000 phòng vệ dân sự;... đánh chìm, cháy 213 tàu, phá hủy 234 xe quân sự, 192 khẩu pháo, bắn rơi 151 máy bay, phá hủy 51 kho, phá sập 51 cầu, thu 8.896 súng các loại và 474 máy vô tuyến điện... Tính chung, Quân giải phóng Quân khu 9 tiêu diệt 4 chi khu, 2 yếu khu, 6 căn cứ trung đoàn, tiểu đoàn, diệt, bức hàng, bức rút 916 đồn bót (trong đó du kích và lực lượng chính trị, binh vận của xã, ấp gỡ 600 đồn), địch tái chiếm lên 650 nền đồn. Ta giải phóng 400 ấp, giải phóng khoảng 800.000 dân (so với cuối năm 1971, chỉ có 200.000 dân được giải phóng). Lực lượng vũ trang phát triển lớn và mạnh, du kích tăng 50%, bộ đội địa phương tỉnh, huyện tăng 20 - 50% quân số1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.526).


Trên chiến trường Quân khu 6: bước vào chiến dịch tổng hợp trên chiến trường B2, Quân giải phóng khu kết hợp với lực lượng tỉnh, huyện tiến đánh hệ thống căn cứ, đồn bót trên địa bàn Ninh Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Bình Trung, Lương Sơn, đặc biệt là trên chiến trường trọng điểm Bình Thuận.


Trong đợt hoạt động cao điểm tháng 4, 5, 6, Quân giải phóng khu cùng các đội vũ trang tiến hành đánh đồn, làm “đòn xeo” cho lực lượng ba mũi tại xã, ấp và quần chúng nổi dậy phá ấp trên trục đường 1, trục đường 8, đường 11, Tuyên Đức, Bình Trung... bung dân về làng cũ làm ăn.


Trong đợt hoạt động tháng 9, 10, 11, 12, Quân giải phóng đồng loạt tấn công vào các chốt, điểm, căn cứ, đồn bót của quân ngụy trên các trục đường 8, 3, 11, 20, 21 ở Phan Thiết, Mường Mán (Bình Thuận), Tánh Linh (Bình Tuy), Đa Oai, An Phước (Ninh Thuận), Tuyên Đức... Quân giải phóng khu còn huy động lực lượng dân quân du kích kết hợp với lực lượng tại chỗ tiến công đối phương, chủ động phòng ngự, chống phản kích, phá lỏng kìm kẹp, củng cố vùng căn cứ, vùng giải phóng...


Có thể nói giai đoạn 1969-1972 là một giai đoạn đặc biệt. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 tưởng chừng không thể gượng dậy nổi sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968), đặc biệt là trong năm 1970 khi chiến lược “quét và giữ”, chương trình “bình định cấp tốc”, “bình định 3 giai đoạn” của Mỹ được thực hiện quyết liệt trên toàn bộ chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, Quân giải phóng vẫn vững tin vào sự tất thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, khắc phục khó khăn, củng cố lực lượng, kiên cường bám trụ, tổ chức phòng ngự, phản công, tiến công, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ.


Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã vượt qua những ngày tháng khó khăn nhất của cuộc kháng chiến chống Mỷ, cứu nước. Trong khoảng thời gian khó khăn đó, Quân giải phóng trên chiến trường B2 vừa củng cố, xây dựng, phát triển lực lượng vừa chủ động, sáng tạo trong thực hành cuộc chiến tranh giải phóng. Những thắng lợi giành được trên chiến trường B2 chiến trường Campuchia, đặc biệt là Chiến dịch Nguyễn Huệ ở miền Đông Nam Bộ, chiến dịch tổng hợp trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long, trên địa bàn các tỉnh cực Nam Trung Bộ đã minh chứng sự lớn mạnh của Quân giải phóng về lực lượng về tổ chức chiến trường, tổ chức trận đánh, phương thức tác chiến, năng lực chiến đấu và nghệ thuật quân sự được sử dụng trên chiến trường. Quân giải phóng trên chiến trường B2 thực sự đã góp phần quan trọng vào việc đánh bại một bước chiến lược ‘Việt Nam hóa chiến tranh”, giành ưu thế ngoại giao trên bàn đàm phán tại Hội nghị Pari về chiến tranh Việt Nam.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:24:09 pm
Chương bốn
ĐÁNH ĐỊCH VI PHẠM HIỆP ĐỊNH PARI,
TẠO THẾ, TẠO LỰC, THAM GIA CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG MÙA XUÂN 1975 VÀ BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG SAU NGÀY MIỀN NAM HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG
(1973 -1976)


I. TÌNH HÌNH CHIẾN TRƯỜNG B2 SAU HIỆP ĐỊNH PARI VÀ NHIỆM VỤ CỦA QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM

1. Âm mưu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn sau Hiệp định Pari

Hiệp định Pari được ký kết1 (Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết và có hiệu lực thi hành với các nội dung cơ bản: Thế giới tôn trọng độc lập, chủ quyền và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Hoa Kỳ và quân đồng minh rút toàn bộ lực lượng, vũ khí, phương tiện chiến tranh và phá hủy toàn bộ căn cứ quân sự tại miền Nam Việt Nam. Lực lượng quân sự hai bên giữ nguyên vị trí, thực hiện ngừng bắn hoàn toàn, tiến hành trao trả tù binh, kể cả tù binh người nước ngoài. Nhân dân Việt Nam thực hiện quyền tự quyết trên cơ sở thỏa thuận, hòa giải, hòa hợp dân tộc; tô chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước; bảo đảm quyền tự do, dân chủ của nhân dân, không có sự cưỡng ép, can thiệp từ bên ngoài. Ban liên hiệp quân sự bốn bên được thành lập nhằm bảo đảm sự phối hợp đồng bộ trong quá trình thực hiện Hiệp định. Sau khi Ban liên hiệp quân sự bốn bên chấm dứt hoạt động, phải thành lập Ban liên hiệp quân sự hai bên để tiếp tục nhiệm vụ phối hợp thực thi Hiệp định. Hiệp định Pari được ký kết, Ủy ban quốc tế được thành lập để kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam (gồm đại diện 4 nước: Ba Lan, Hunggari, Inđônêxia, Canađa)) đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Dù buộc phải rút hết quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn cố gắng vớt vát “thể diện chính trị” bằng cách tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, sử dụng chính phủ Việt Nam Cộng hòa làm công cụ biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống cộng sản ở Đông Nam Á.


Từ năm 1972, chuẩn bị cho thời kỳ “hậu hiệp định”, Mỹ đã ráo riết đưa vào miền Nam Việt Nam một khối lượng lớn vũ khí, trang thiết bị chiến tranh, bao gồm 760 máy bay, 574 khẩu pháo, 220 xe thiết giáp1 (Viện Khoa học quân sự: Tổng kết hoạt động thực hiện Hiệp định Pari, tập 3, tr.157, lưu tại phòng Tư liệu Ban Tổng kết chiến tranh B2)... Ngày 29-3-1973, những binh lính Mỹ, Hàn Quốc, Philíppin... cuối cùng làm lễ cuốn cờ tại sân bay Tân Sơn Nhất, nhưng tại Biển Đông và Thái Lan, Mỹ vẫn bố trí “Cụm hoạt động yểm trợ Mỳ và tập đoàn không quân số 7” (United States Support Activity Group and Seventh Airforce) gồm 125.000 quân, 1.020 máy bay, 56 tàu chiến các loại nhằm duy trì “lực lượng răn đe”...


Khi Hiệp định Pari được ký kết, tại miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn đang thực thi “trôi chảy” chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ. Chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn kiểm soát phần lớn đất đai của 26 tỉnh thành trên toàn miền Nam Việt Nam với 70% dân tập trung trong ấp tân sinh loại A, B.


Quân lực ngụy lớn mạnh, gồm 1.086.000 lính chính quy, 7.000 trung đội nghĩa quân, 2.177 cảnh sát cuộc, 799.000 phòng vệ dân sự...2 (Theo số liệu của Viện Lịch sử quân sự, quân chủ lực ngụy có 720.000 tên, phòng vệ dân sự: 1.150.000 tên, trong đó 400.000 tên có vũ trang (tổng cộng 1.125.000 quân có vũ trang, không kể cảnh sát có 115.000 tên)) cùng với khoảng 20.000 cố vấn Mỹ làm việc trong cơ quan “Tùy viên Quốc phòng” (Defense Attache Office - DAO) vốn trước kia là “Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ” (MACV) tại miền Nam Việt Nam.


Tổng số dự trữ vật tư chiến tranh của quân ngụy lên đến 1.930.000 tấn, trong đó có 480.000 tấn đạn, 760.000 tấn xăng dầu và 690.000 tấn phương tiện quân sự khác... Riêng trên chiến trường B2, đầu năm 1973, số quân ngụy là 358.000 người, đến cuối năm 1973 là 389.000 người, phòng vệ dân sự vũ trang là 250.000 người. Toàn bộ lực lượng biên chế thành 6 sư đoàn, 7 trung đoàn; tổng chung là 75 tiểu đoàn quân chủ lực, 252 tiểu đoàn và 211 đại đội bảo an, 36 đại đội và 3.730 trung đội dân vệ. Số vũ khí trang bị cho các binh chủng gồm 1.216 xe thiết giáp, 798 pháo, 1.076 máy bay, 1.330 tàu hải quân được phân bố trong 8.471 các loại căn cứ, đồn bót quân sự1 (Trích theo tài liệu Tổng kết mùa khô 1974-1975 của B2, Phòng tư liệu, Ban Tổng kết chiến tranh B2)...


Bên cạnh những thuận lợi trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng gặp một số khó khăn: nền kinh tế vốn hoàn toàn phụ thuộc kinh tế Mỹ, từ sau khi Hiệp định Pari trở nên khó khăn hơn; tâm lý hoài nghi “bị Mỹ bỏ rơi” xuất hiện trong cả bộ máy dân sự lẫn quân sự của chính thể Sài Gòn. Tuy nhiên, được Tổng thống Nixơn cam kết “tiếp tục yểm trợ... trong giai đoạn hậu chiến”2 (Thư của R. Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu ngày 5-1-1973, theo Nguyễn Tiến Hưng: Khi đồng minh tháo chạy, California” 2005, tr. 97-100. Thư của R. Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu ngày 14-1-1973, theo Nguyễn Tiến Hưng Sdd, tr.101) nên chính quyền Sài Gòn vẫn cương quyết triển khai thực hiện “bằng được” 4 mục tiêu quan trọng:

- Trước mắt, đẩy mạnh bình định lấn chiếm, bình định quyết liệt, tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Quân giải phóng, xóa thế da báo, củng cố và mở rộng vùng kiểm soát, “duy trì được trọn vẹn lãnh thổ đã kiểm soát không để mất thêm một ấp nào, trường hợp bị chiếm phải tái chiếm lại trong ngày”.
   
- Thực hiện chương trình phát triển kinh tế 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 (1973-1974), dựa vào các nguồn viện trợ và đầu tư của Mỹ, tập trung các nguồn lực, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, khôi phục kinh tế, phong tỏa kinh tế vùng giải phóng... Giai đoạn 2 (1973-1980), phát triển nền kinh tế toàn diện, tiến tới bảo đảm khả năng “tự túc, tự cường”.

- Tiến hành hiện đại hóa quân đội (1974-1975), biến Quân lực Việt Nam Cộng hòa thành một đội quân tinh nhuệ có năng lực tác chiến bảo vệ chế độ trong mọi tình huống.

- Thực hiện kế hoạch “cộng đồng tự vệ - cộng đồng phát triển” (1973-1975), lấy bình định làm biện pháp trung tâm, đến năm 1975 phải đưa được 100% dân cư vào quản lý trong “ấp quân sự loại A, kiểm soát toàn bộ miền Nam (1978-1980), đẩy lùi lực lượng cách mạng ra vùng biên giới, biến “cộng sản” thành một lực lượng đối lập “nhỏ nhoi”, có thể dễ dàng quét sạch và để “chiến tranh tự nó sẽ tàn lụi”..., xóa bỏ thực tế hai chính quyền, hai quân đội - hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị, và miền Nam Việt Nam sẽ là một quốc gia riêng biệt đặt dưới quyền kiểm soát của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa.


Để thực hiện 4 mục tiêu quan trọng trên, Tổng thông Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: “Ngưng chiến không ngưng bắn, không thi hành Hiệp định, trên hòa bình dưới chiến tranh, ngoài hòa hợp trong bình định”; phải thực hiện chủ trương 4 không: “không nhường đất, không trung lập, không liên hiệp, không nói chuyện với đối phương...”; đồng thời “tiếp tục hành quân truy lùng và tiêu diệt nới rộng phạm vi kiểm soát, nhanh chóng chiếm đóng các vị trí chiến lược để từ đó ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản... Sử dụng đồng thời hai lực lượng vũ trang và dân sự tấn công mọi mặt để tràn ngập lảnh thổ, giữ đất, giữ dân, tận dụng không quân chiến thuật và pháo binh để oanh kích các vị trí tập trung quân cộng sản... đập tan các cuộc binh biến, phản chiến, ly khai hoặc hòa giải dưới mọi hình thức...”1 (Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Phòng tổng kết địch thuộc Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1984, tr.234).


Từ đầu năm 1973, chính quyền Sài Gòn tập trung 60% quân chủ lực và phần lớn lực lượng địa phương quân, mỏ-.các cuộc hành quân “Tràn ngập lãnh thổ”, tiến hành “Bình định đặc biệt”, “Bình định trọng điểm”, xóa thế da beo, lập các khu tập trung, các khu định cư mới theo Kế hoạch cộng đồng tự vệ” đã được hoạch định từ năm 1972.


Với phương châm “Địa bàn cuộc chiến tranh hiện nay là dân chúng tại các xã ấp, nêu giải quyết được cuộc chiến tranh ở ấp xã là giải quyết được 75% toàn bộ cuộc chiến tranh”2 (Theo tài liệu tổng kết địch của Viện Khoa học quân sự, Phòng tư liệu, Ban Tổng kết chiến tranh B2), chính quyền Sài Gòn tiến hành tổ chức từ 30 đến 40 cuộc càn quét mỗi ngày lúc cao điểm mỗi ngày tổ chức đến trên 100 cuộc càn quét.


Trên chiến trường B2, từ tháng 1 đến tháng 3-1973, chính quyền Sài Gòn đã bình định được 120 ấp, 24 xã, đóng 257 đồn bót tại Khu 8; lấp kín được 509 ấp với 250.000 dân tại Khu 6, Khu 73 (Tài liệu dự thảo của Viện Khoa học quân sự nêu Khu 5 mất 20 vạn dân, 45 lỏm, 320 ấp; Khu 8 mất 10 vạn dân, khoảng 39 ấp...). Đến tháng 8-1973, chính quyền Sài Gòn chiếm được 835 ấp, dồn được khoảng 1 triệu dân, đóng thêm 1.035 đồn bót; đến tháng 10-1973, chiếm thêm 901 ấp (tăng 390 ấp so với trước Hiệp định Pari), đóng thêm 1.180 đồn và kiểm soát 7.253 ấp4 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), Sdd, tr.7, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:26:26 pm
2. Nhiệm vụ của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2

Theo tinh thần của Hiệp định Pari, ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ có “hai vùng” kiểm soát được phân bố theo thế “da beo”, tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phát huy sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân.


Trên chiến trường B2, các tuyến phòng ngự bảo vệ thủ phủ Sài Gòn từ xa ở vùng biên giới phía bắc và tây bắc đã bị Quân giải phóng phá vỡ, vùng giải phóng ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ được mở rộng1 (Các căn cứ ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ có khoảng 25.000 dân, ở miền Đông có khoảng 47.000 dân. Vùng giải phóng ở đồng bằng sông Cửu Long có đông dân hơn nhưng bị địch chia cắt và dễ bị uy hiếp). Dù chưa nối liền với vùng giải phóng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng với vùng giải phóng rộng lớn, Quân giải phóng đã giành và làm chủ gần 1/5 dân số, đã tạo thế và lực mới trong việc bổ sung, phát triển lực lượng, tạo thế đứng vững chắc cho Quân giải phóng trong việc giành quyền chủ động bao vây, chia cắt các trục đường giao thông chiến lược, các thị xã, thị trấn và cả thủ phủ Sài Gòn.


Lợi thế quân sự đang nghiêng hẳn về phía Quân giải phóng. Tuy nhiên Trung ương Cục chỉ đạo Quân giải phóng trên chiến trường B2 thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy định trong Hiệp định Pari, đồng thời để phòng sự lật lọng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.


Nghị quyết Trung ương Cục đầu tháng 1-1973 chỉ rõ: “đối với hoạt động quân sự, phải có kế hoạch chu đáo giữ vững vùng giải phóng. Phải nắm chắc, củng cố lực lượng dự bị để sẵn sàng đánh địch một cách chủ động theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị cụ thể. Tập trung một số lực lượng cần thiết đánh một số điểm chắc thắng, diệt nhiều địch, thối động lớn, ít tiêu hao. Mở rộng diện đánh nhỏ, rộng khắp, phân tán lực lượng địch làm hậu thuẫn cho đấu tranh chính trị. Phát huy các binh chủng đánh phá kho tàng, sân bay, bến cảng, cắt uy hiếp các đường giao thông chiến lược, uy hiếp các thị xã, thị trấn. Đi đôi với tác chiến, có kế hoạch cụ thể xây dựng lực lượng, đồng thời phải nắm vững những nguyên tắc chiến lược:

“Một là: nắm vững mục tiêu hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ và kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong tình hình mới.

Hai là: nắm vững chiến lược tấn công đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Ba là: Nắm vững quan điểm bạo lực.

Bốn là: Gắn chặt nhiệm vụ hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam với bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước.

Năm là: Kết hợp phong trào cách mạng miền Nam với phong trào cách mạng ở Campuchia và Lào. Phong trào đấu tranh hòa bình giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”1 (Tài liệu số 2706 lưu tại phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2).


Ngày 24-1-1973, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 200-CT/TW đánh giá và chỉ đạo cách mạng miền Nam: “Cuộc cách mạng ở miền Nam có nhiều thuận lợi mới nhưng còn gay go, phức tạp, có khả năng tiến triển trong điều kiện hòa bình được giữ vững, nhưng phải sẵn sàng đối phó với khả năng địch ngoan cố phá hoại hòa bình...”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Ván kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.5). Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cũng chỉ thị: Kiên quyết giữ vững hòa bình, không chủ động gây xung đột quân sự, gây nội chiến, ra sức phát huy thắng lợi đã giành được, củng cố và tăng cường thực lực mọi mặt, tranh thủ thuận lợi mới, khả năng mới để đưa cách mạng tiến lên bằng cao trào chính trị, có lực lượng vũ trang hậu thuẫn...1 (Dự thảo Nghị quyết Bộ Chính trị, lưu tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung Chỉ thị của Quân ủy Trung ương cũng tương tự như dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị).


Đầu tháng 3-1973, Quân ủy Trung ương xác định: “Nhiệm vụ quân sự ở miền Nam là đi đôi với đẩy mạnh đấu tranh chính trị pháp lý của đông đảo quần chúng, cần phải đánh bại mọi hành động lấn chiếm của địch, giành dân, giữ vững vùng giải phóng, chuẩn bị mọi mặt cả về thế lẫn lực để nêu địch mở rộng chiến tranh ta kiên quyết tiêu diệt chúng”2 (Tài liệu số 2102, lưu tại Phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2). “Nhất thiết lực lượng vũ trang ta phải mạnh và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu. Bất kể trong tình huống nào, địch gây hấn trở lại nhất định phải bị giáng trả đích đáng và ta sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn”3 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1945-2010), Sđd, tr. 155).


Thực hiện chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Quân ủy Miền ra nghị quyết xác định nhiệm vụ cơ bản cho cách mạng trên chiến trường B2 trong giai đoạn mới là: “Đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh hoạt, tùy theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp giữa các mặt trận đó cho thích hợp để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam, không ngừng giữ vững và phát triển lực lượng của cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống đưa cách mạng miền Nam tiên lên”4 (Trích theo Nghị quyết Quân ủy Miền, tài liệu số 2102, lưu tại Phòng Tư liệu - Ban Tổng kết chiến tranh B2).


Chấp hành Nghị quyết của Quân ủy Miền, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo các lực lượng vũ trang B2:

“Đấu tranh thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình, từng bước củng cố hòa bình là cơ sở để chuyển sang giai đoạn đấu tranh chính trị, để phát huy ưu thế của ta, phát triển phong trào cách mạng và lực lượng cách mạng”.


“Để thực hiện chủ trương trên phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng”. “Đấu tranh quân sự hiện nay vẫn giữ vị trí rất quan trọng. Lúc này, ta không chủ trương mở rộng tiến công quân sự, nhưng ta kiên quyết trừng trị bọn địch lấn chiếm, hành quân cảnh sát, phá hoại Hiệp định”.


“Trong từng địa phương cần xác định rõ tính chất từng vùng (vùng giải phóng, vùng tranh chấp mạnh, tranh chấp yếu, vùng yếu) để có chủ trương và phương châm, phương thức cụ thể trong kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận, pháp lý, để thực hiện ý đồ không ngừng nâng cao thế và lực của ta”.


“Trong khi thực hiện các nhiệm vụ trước mắt, phải tích cực chuẩn bị cho bước tiếp theo. Vì vậy, phải sớm có ý đồ tổng quát, sau đó sẽ bổ sung dần trong quá trình phát triển của tình hình...; phải nghiên cứu tính toán kỹ từng hướng chiến lược, có chuẩn bị cụ thể về nắm địch, về xây dựng lực lượng quân sự, chính trị của ta, rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật, tổ chức chỉ huy cho cán bộ theo phương hướng đã xác định, tích cực chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị vật chất về các mặt, nhâ't là dự trữ vũ khí đạn...”.


“Trước mắt, trong năm 1973, lực lượng vũ trang B2 tập trung vào bốn công tác lớn: xây dựng lực lượng vũ trang, huấn luyện cán bộ và bộ đội, bảo đảm hậu cần và xây dựng hậu phương quân đội, xây dựng khu giải phóng và căn cứ địa miền Đông Nam Bộ”1 (Dự thảo Kế hạch công tác quân sự năm 1973, lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự, số 264/TWC).


Trong những tháng đầu năm 1973, trong khi Quân giải phóng chủ trương thực hiện các điều khoản của Hiệp định, kỳ vọng cuộc chiến tranh phi nghĩa chấm dứt, một bộ phận Quân giải phóng ở cả Miền lẫn các quân khu có tư tưởng xả hơi, chủ quan, rút về tuyến sau xây dựng, củng cố lực lượng, không có kế hoạch đối phó với sự vi phạm, phá hoại Hiệp định của đối phương. Từ suy nghĩ chủ quan, mất cảnh giác đó nên trong những tháng đầu năm 1973, các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” của chính quyền Sài Gòn đạt được nhiều kết quả hơn họ mong đợi. Từ tháng 1 đến tháng 3-1973, trên chiến trường B2, chính quyền Sài Gòn lấn sâu vào các vùng giải phóng của Khu 8, lấp kín 120 ấp, 24 xã, đóng 257 đồn bót với khoảng 10 vạn dân. Trên địa bàn Khư 6, Khu 7, chính quyền Sài Gòn lấn sâu vào các vùng mà Quân giải phóng mới giành được trong những năm 1971, 1972, gồm 509 ấp với khoảng 250.000 dân2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.7, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Trước sự tráo trở của chính quyền Sài Gòn, tháng 3-1973 tại Bù Đốp, Quân ủy Miền tổ chức Hội nghị quân sự. Hội nghị nhận định: “Nơi nào cấp ủy hữu khuynh, lực lượng vũ trang yếu, không kiên quyết đánh địch lấn chiếm thì nơi đó mất đất, mất dân...”. Cùng tháng, Trung ương Cục ban hành chỉ thị chỉ đạo “tiến công, phản công bằng kết hợp quân sự, chính trị, pháp lý” và Chỉ thị số 03 chỉ rõ: “Nếu địch hành động bằng quân sự thì phía cách mạng phải kiên quyết tiêu diệt chúng. Mặt khác cần phải dùng pháp lý Hiệp định để đấu tranh chính trị và binh vận"1 (Lưu trữ Phòng Lịch sử Đảng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh). Tiếp đó, ngày 10-4-1973, đồng chí Phạm Hùng Bí thư Trung ương Cục, điện báo cho Bộ Chính trị về hành động vi phạm Hiệp định Pari của chính quyền Sài Gòn, đồng thời xin chủ trương dùng bạo lực cách mạng chống hoạt động lấn chiếm của chính quyền Sài Gòn, củng cố vùng giải phóng và xin phép khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang.


Tháng 5-1973, Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị mở rộng nhằm đánh giá chiến trường miền Nam kể từ sau khi Hiệp định Pari được ký kết và đề ra phương hướng hoạt động cho cách mạng miền Nam trong thời gian tới.


Trên cơ sở kết luận của Hội nghị Bộ Chính trị, tháng 6-1973, Trung ương Cục ra nghị quyết chỉ đạo lực lượng vũ trang trên chiến trường B2 kiện toàn lực lượng, từng bước tiến dần lên chính quy hiện đại, đồng thời chủ động phản công, tấn công đối phương lấn chiếm, phá hoại Hiệp định. Theo đó, Quân ủy Miền ban hành nghị quyết về công tác quân sự, chỉ rõ: “Kiên quyết và chủ động đánh bại kế hoạch bình đinh lan chiem cua địch, tiêu diệt và làm tan rã nhiều địch kết hợp với đấu tranh chính trị và đấu tranh pháp lý của quần chúng, giữ vững, hoàn chỉnh vùng giải phóng và căn cứ địa cách mạng, mở rộng diện tranh chấp, từng bước chuyển vùng tranh chấp thành giải phóng, chuyển vùng địch kiểm soát thành vùng tranh chấp để thu hẹp vùng địch, giành dân và giành quyền làm chủ của dân, tạo thế và điều kiện thuận lợi phát triển phong trào đấu tranh trong đô thị và vùng địch kiểm soát ở nông thôn.


Đi đôi với việc chủ động và linh hoạt tiến công địch, ra sức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân cân đối và vững mạnh cả ba vùng, hết sức chú trọng phát triển nhanh chóng lực lượng dân quân du kích, củng cố và từng bước phát triển lực lượng bộ đội địa phương, xây dựng chủ lực thành lực lượng tinh nhuệ chất lượng chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại địch trong mọi tình huống, trước mắt cũng như trong trường hợp xảy ra chiến tranh lớn, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.488, 489, 237, 243-244). Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh: “Cán bộ và chiến sĩ phải nắm vững hơn nữa phương châm kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận và pháp lý”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.488, 489, 237, 243-244).


Tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tổ chức bàn về tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam và đề ra đường lối chiến lược tiến công, “phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm vùng giải phóng hoặc bình định các vùng đồng bằng, vùng giáp ranh”3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.488, 489, 237, 243-244). “Trong bất cứ tình hình nào, phải nắm vững lực lượng vũ trang... Nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang là giữ vững vùng rừng núi từ vĩ tuyến 17 đến miền Đông Nam Bộ, xây dựng thành một hệ thống căn cứ địa hoàn chỉnh, phối hợp với việc giữ vững các vùng giải phóng ở đồng bằng (vùng lõm) để tạo thế uy hiếp các thành thị, giúp cho phong trào đấu tranh chính trị phát triển trong vùng tranh chấp và vùng địch kiểm soát... sẵn sàng trong tư thế đánh địch, chủ động đập tan các cuộc hành quân lấn chiếm của chúng, kiên quyết thực hành phản công và tiến công, đánh những trận tiêu diệt thật đau, thật mạnh”4 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.34, tr.488, 489, 237, 243-244).


Sau Hội nghị lần thứ 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ 12 nhằm kiện toàn tổ chức và đề ra những nhiệm vụ xây dựng căn cứ, phát triển lực lượng, công tác quân sự, công tác đô thị... cho lực lượng vũ trang trên chiến trường B2.


Tháng 9-1973, Bộ Tư lệnh Miền tổ chức Hội nghị Quân chính toàn B2 nhằm quán triệt Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương Cục. Tại Hội nghị, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo các quân khu, các tỉnh trên chiến trường B2 khắc phục tư tưởng hữu khuynh, xốc lại lực lượng, phát triển thế và lực, nắm bắt thời cơ, chủ động tiến công từng bước đưa cách mạng miền Nam tiến lên.


Trên cơ sở những nhiệm vụ trên, Quân giải phóng trên chiến trường B2 bắt đầu bước vào một giai đoạn cách mạng mới.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:28:23 pm
II. PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG, CHUẨN BỊ TIỀM LỰC MỌI MẶT, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM vụ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

1. Xây dựng, phát triển lực lượng

a) Lực lượng chủ lực Miền

Để thuận lợi cho việc xây dựng lực lượng, huấn luyện bộ đội, bảo đảm hậu cần, củng cố khu giải phóng và xây dựng căn cứ địa cách mạng, Bộ Tư lệnh Miền quyết định dời căn cứ đứng chân từ Campuchia về Việt Nam.


Căn cứ Lộc Ninh (Bình Phước) được gấp rút xây dựng. Đến cuối tháng 1-1973, căn cứ mới về cơ bản hoàn thành.

Đầu tháng 2-1973, Bộ Tư lệnh Miền chuyển về đóng ở vùng Tà Thiết, bao gồm ba cơ quan: tham mưu, chính trị, hậu cần. Lúc này, Bộ Tư lệnh Miền do đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục, Bí thư Quân ủy Miền làm Chính ủy; các đồng chí Trần Độ, Lê Văn Tưởng - Phó Bí thư Quân ủy Miền làm Phó Chính ủy; đồng chí Hoàng Văn Thái làm Tư lệnh; các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Đồng Văn Cống, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Hữu Xuyến, Hoàng Cầm làm Phó Tư lệnh - đồng chí Nguyễn Minh Châu làm Tham mưu trưởng; đồng chí Bùi Phùng làm Cục trưởng Cục Hậu cần; đồng chí Trần Văn Phác làm Cục trưởng Cục Chính trị...


Căn cứ Lộc Ninh (thị trấn Lộc Ninh) lúc bấy giờ không chỉ là căn cứ của Bộ Tư lệnh Miền mà còn là căn cứ, là thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nơi sẽ đón tiếp các phái đoàn Ban Liên hiệp Quân sự 4 bên và Phái đoàn Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám sát việc thi hành Hiệp định Pari.


Cùng xây dựng căn cứ mới, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập “Phái đoàn quân sự” với mật danh là Đoàn 315B, do Trung tướng Trần Văn Trà (Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam) làm Trưởng đoàn, Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn cùng Đại tá Đặng Văn Thu (Đoàn Huyên), Võ Đông Giang, Bùi Thanh Khiêt, Trần Văn Danh và Nguyễn Văn Sĩ làm Phó đoàn1 (Có thời gian Đại tá Lương Văn Nho cũng được cử tham gia với cương vị Phó đoàn).


Đoàn 315B gồm trên 100 cán bộ, chiến sĩ, một phần vừa từ Hội nghị Pari trở về, phần khác do Bộ Tư lệnh Miền tiến cử từ các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần... của Bộ Tư lệnh Miền. Bên cạnh đó, đơn vị chuyên theo dõi hoạt động của Ban liên hiệp quân sự bốn bên cũng được thành lập với mật danh là Đoàn 315A.


Để bảo vệ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Phái đoàn quân sự của Chính phủ, đơn vị vệ binh được thành lập gồm 30 chiến sĩ. Đến đầu tháng 2-1973, Quân giải phóng Lộc Ninh gấp rút củng cố lực lượng, thành lập Tiểu đoàn 203 và Đại đội 75 nhằm phối hợp với đơn vị vệ binh với lực lượng Tỉnh đội căn cứ (lực lượng bảo vệ căn cứ Miền) bảo vệ căn cứ vùng giải phóng.


Từ sau Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Tư lệnh Miền chủ trương kiện toàn lại lực lượng vũ trang để ứng phó với tình hình mới. Cơ cấu nhân sự được tổ chức theo hướng gọn nhẹ nhưng hiệu quả nhằm rút bớt lực lượng bổ sung cho các đơn vị chiến đấu.


- Đoàn 315A và Đoàn 315B được sáp nhập và thu hẹp thành Phòng Nghiên cứu thi hành Hiệp định Pari;

- Phòng Quân báo được tăng cường thêm Ban Nghiên cứu tình báo;

- Thành lập Đoàn 21 trinh sát kỹ thuật (tương đương trung đoàn) gồm 2 tiểu đoàn mang phiên hiệu Tiểu đoàn 46 (tiểu đoàn cũ) và Tiểu đoàn 47 (tiểu đoàn mới thành lập);

- Tỉnh đội căn cứ (lực lượng bảo vệ căn cứ Miền) đổi thành Ban căn cứ;

- Thành lập Phòng Nhà trường nhằm thực hiện công tác đào tạo, huấn luyện;

- Thành lập Phòng Tiếp nhận, trao trả quân nhân đối phương;

- Thành lập Phòng Hậu cần trực thuộc Cục Chính trị Miền.


Đặc biệt, dựa vào lực lượng Quân giải phóng và trang thiêt bị quân sự hiện có, Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập các bộ tư lệnh binh chủng trên chiến trường B2, gồm:

- Bộ Tư lệnh Thông tin (Đoàn 23), gồm 8 tiểu đoàn, 10 đại đội, 4 trung đội;

- Bộ Tư lệnh Công binh (Đoàn 25), gồm 7 tiểu đoàn;

- Bộ Tư lệnh Đặc công (Đoàn 27), gồm 8 tiểu đoàn;

- Bộ Tư lệnh Thiết giáp (Đoàn 26), gồm 4 tiểu đoàn;

- Bộ Tư lệnh Phòng không (Đoàn 77), gồm 2 trung đoàn pháo cao xạ, 4 tiểu đoàn xe kéo;

- Bộ Tư lệnh Pháo binh (Đoàn 75), gồm 3 trung đoàn pháo mặt đất.

Cuối năm 1974, các cơ quan Miền đã rứt ra được 3.420 chiến sĩ. Kết hợp với 53.392 chiến sĩ cùng nhiều binh khí kỹ thuật do Trung ương chi viện, Bộ Tư lệnh Miền thành lập thêm nhiều các đơn vị vũ trang.


Ngày 20-7-1974, Bộ Tư lệnh Miền chính thức quyết định thành lập Quân đoàn 4 - Quân đoàn đầu tiên của Nam Bộ.

Quân đoàn 4 theo dự kiến gồm có 35.112 cán bộ, chiến sĩ, được tổ chức thành 3 sư đoàn bộ binh (Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9) và 5 trung đoàn binh chủng (Trung đoàn pháo cơ giới 24 Trung đoàn pháo cao xạ 71, Trung đoàn công binh 25, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn thông tin 69).


Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 do Thiếu tướng Hoàng Cầm làm Tư lệnh, Đại tá Bùi Cát Vũ làm Phó Tư lệnh, Đại tá Nguyễn Huỳnh Ngân làm Phó Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm hậu cần, Đại tá Lê Thanh làm Chủ nhiệm chính trị, Đại tá Hoàng Nghĩa Khánh làm Tham mưu trưởng.


Tháng 10-1974, hình thái chiến trường B2 có nhiều biên động. Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập thêm một số đơn vị binh chủng cơ giới, pháo cao xạ, Lữ đoàn biệt động 316, Sư đoàn bộ binh 3... có khả năng tác chiến độc lập. Riêng Sư đoàn 5, Bộ Tư lệnh Miền quyết định tăng cường thêm lực lượng và trang thiết bị quân sự mạnh như xe tăng lội nước, B40, Cối 120mm... đồng thời điều động về bám trụ trên địa bàn hướng tây nam Sài Gòn. Quân đoàn 4 biên chế chỉ gồm 2 Sư đoàn 7 và 9. Tuy nhiên, để bảo đảm sức chiến đấu, Bộ Tư lệnh Miền tăng cường thêm cho Quân đoàn hai trung đoàn pháo hôn hợp và 3 tiểu đoàn đặc công mang phiên hiệu 20, 21, 25.


Cuối tháng 3-1975, trên cơ sở Sư đoàn 3, Sư đoàn 5, Trung đoàn 88, Trung đoàn 24 cùng với 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Long An và một số đơn vị binh chủng khác, Bộ Tư lệnh Miền thành lập Đoàn 232 (tương đương cấp quân đoàn) để tăng cường cho cánh quân tây nam - nam Sài Gòn.
Ngày 8-4-1975, Bộ Chỉ huy “Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định” được thành lập. Ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị quyết định đổi tên thành “Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Để phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh, một số đơn vị Quân giải phóng B2 được sắp xếp lại:

- Quân đoàn 4 được tăng cường thêm Sư đoàn 6 (Quân khu 7), Sư đoàn 341 và Trung đoàn 95. Sư đoàn 9 được tách ra chuyển giao cho Đoàn 232.

- Trên cơ sở Đoàn 232, Binh đoàn cánh Tây Nam được thành lập (tăng cường thêm Sư đoàn 9, Trung đoàn 16, Trung đoàn 271B, 2 trung đoàn chủ lực Quân khu 8 và 1 tiểu đoàn tăng T54, 1 tiểu đoàn pháo). Do vậy, trước khi bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng Binh đoàn cánh Tây Nam (Đoàn 232) gồm có 3 sư đoàn (F3, F5, F9), 4 trung đoàn (E16, E24, E88, E271b), 2 tiểu đoàn (1 tiểu đoàn tăng T54, 1 tiểu đoàn pháo) và một số đơn vị binh chủng kỹ thuật khác.

- Sư đoàn 2 đặc công Miền được thành lập, gồm 6 trung đoàn đặc công biệt động (E10, E113, E115, E116, E117, E429).

- Lữ đoàn biệt động 316 được tổ chức thành 3 tiểu đoàn (D80, D81, D 82) và các đội biệt động độc lập Z10, Z21, Z22, 223, Z25, Z26, Z28, Z30, Z31.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:29:41 pm
b) Bộ đội các quân khu, các tỉnh

Từ đầu năm 1973, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo các quân khu kiện toàn lại lực lượng, di chuyển từ Campuchia về nước xây dựng căn cứ đứng chân, bám trụ trực tiếp lãnh đạo lực lượng vũ trang hoạt động và chiến đấu có hiệu quả.


Quân khu 6

Để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới, Bộ Tư lệnh Quân khu về đóng tại căn cứ Nam Sơn1 (Phía nam lộ 20, vùng đất ranh giới giữa 3 tỉnh Lâm Đồng, Long Khánh, Bình Tuy), tiến hành kiện toàn lại lực lượng, chỉ đạo các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Quảng Đức tuyển quân, phát triển lực lượng, thành lập các đơn vị chiến đấu bám địa bàn, chiến trường.


Cùng với việc tuyển quân, Bộ Tư lệnh Quân khu tiến hành tổ chức lại lực lượng, rút bớt quân số để bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Đến cuối năm 1973, lực lượng ba thứ quân trên địa bàn Quân khu phát triển mạnh, cân đối. Đặc biệt, Bộ Tư lệnh Quân khu đã tổ chức cho các cán bộ, chiến sĩ cả bộ đội chủ lực lẫn bộ đội địa phương tỉnh, huyện tham gia các khóa huấn luyện, bồi dưỡng kỹ thuật tác chiến chiến dịch, chiến thuật nhằm nâng cao chất lượng chiến đấu...


Đầu năm 1974, Quân khu thành lập Trung đoàn 812, biên chế lực lượng bộ đội chủ lực cấp khu lên tới 2.800 cán bộ, chiến sĩ. Lực lượng bộ đội tỉnh, huyện cũng được kiện toàn với khoảng 2.600 cán bộ, chiến sĩ được trang bị vũ khí đầy đủ, hiện đại. Các Tiểu đoàn 482 Bình Thuận, Tiểu đoàn 810 Tuyên Đức... được rút gọn thành đại đội; bộ phận hỏa lực, kỹ thuật... được củng cố, tổ chức thành các trung đội. Bộ đội địa phương huyện chỉ tổ chức đến cấp trung đội. Tất cả sẵn sàng bước vào chiến dịch mùa khô 1974-1975.


Quân khu 7

Bộ Tư lệnh Quân khu sau khi rời chiến trường Campuchia trở về đóng cứ tại Chiến khu Đ. Để thực hiện nhiệm vụ mới, Bộ Tư lệnh Quân khu tiến hành kiện toàn lại lực lượng theo hướng gọn, nhẹ, hiện đại. Trong quá trình sắp xếp lực lượng, Quân khu đã rút ra được 520 chiến sĩ để thành lập thêm 1 tiểu đoàn bộ binh (thiếu).


Tháng 6-1973, sau khi tăng cường 2.756 cán bộ, chiến sĩ cho quân chủ lực Miền, lực lượng chủ lực Quân khu giảm xuống còn 3 trung đoàn với 16.367 cán bộ, chiến sĩ. Đến đầu năm 1974, Quân khu tiếp tục tăng cường lực lượng cho quân chủ lực Miền nên lực lượng chỉ còn 11.786 cán bộ, chiến sĩ.


Năm 1974, được sự chấp thuận của Bộ Tư lệnh, Quân khu 7 thành lập Sư đoàn 6 (sư đoàn đầu tiên của Quân khu). Sư đoàn 6 có biên chế gồm 3.747 cán bộ, chiến sĩ, được tổ chức thành 2 trung đoàn (Trung đoàn 33, Trung đoàn 4), 4 tiểu đoàn trợ chiến và 3 tiểu đoàn đặc công. Sư đoàn 6 do Đặng Ngọc Sĩ làm Sư đoàn trưởng, Nguyễn Đăng Mai làm Chính ủy. Sau đó Nguyễn Văn Bứa làm quyền Tư lệnh, Dương Cự Tẩm làm Chính ủy.


Bước vào chiến dịch mùa khô 1974-1975, khi Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tổ chức cơ quan Bộ Tư lệnh tiền phương và tổ chức Bộ Chỉ huy các chiến dịch thì lực lượng quân chủ lực và bộ đội địa phương trên địa bàn Quân khu 7 lên tới con số 15.321 cán bộ, chiến sĩ.


Trên địa bàn Quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, phát triển nhanh chóng. Đặc biệt là tỉnh Tây Ninh, đến đầu năm 1974, tỉnh đã xây dựng được 12 tiểu đoàn, kết hợp với 1 trung đoàn chủ lực của Quân khu tăng cường, đưa lực lượng bộ đội trên địa bàn tỉnh lên gần 3.000 cán bộ, chiến sĩ.


Bộ Tư lệnh Miền tăng cường nhiều đơn vị cho các quân khu và các tỉnh: Tiểu đoàn 1 (50) cho Tây Ninh, Tiểu đoàn 240 cho Biên Hòa...


Quân khu 8

Đầu năm 1973, tình hình chiến trường Khu 8 không thuận lợi, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định tiếp tục đứng chân tại Thavét (Prâyveng - Campuchia). Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh Quân khu bố trí cho 3 trung đoàn chủ lực về đóng cứ tại Kiến Tường, sau đó điều lên vùng biên giối để xây dựng, củng cố lực lượng.


Tháng 6-1973, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định thành lập Bộ Chỉ huy tiền phương J10 phụ trách nam, bắc lộ 4 (Mỹ Tho) và Bộ Chỉ huy tiền phương J25 phụ trách mảng 4 Cai Lậy Bắc, Bắc Cái Bè và vùng 4 Kiến Tường.


J10 có tổ chức gồm: Trung đoàn 1, Trung đoàn 24, Tiểu đoàn 269 đặc công, Đại đội 318 đặc công nước, Tiểu đoàn 309 pháo binh, Tiểu đoàn trinh sát đặc công. Bộ Chỉ huy tiền phương J10 do đồng chí Võ Văn Thạnh (Ba Thắng) làm Tư lệnh, đồng chí Phan Luông Trực làm Tham mưu trưởng, đồng chí Tám Điện làm Chủ nhiệm chính trị.


J25 được tổ chức gồm: Trung đoàn 2 (Trung đoàn 320), Trung đoàn 3 (Trung đoàn 88), Tiểu đoàn 283 đặc công, Đại đội 342 công binh. Bộ Chỉ huy tiến phương J25 do dồng chí Huỳnh Công Thân làm Tư lệnh, đồng chí Bảy Nam làm Tham mưu trưởng, đồng chí Hoàng Đình Phú làm Chủ nhiệm chính trị.


Cuối tháng 2-1974, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định chuyển Sở Chỉ huy từ biên giới Campuchia về chiến trường Mỹ Tho. Tại căn cứ mới, Bộ Tư lệnh Quân khu tiến hành kiện toàn lại lực lượng, giải tán J10 và J25, thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu. Lúc này, đồng chí Lê Quốc Sản được tái bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân khu 8 thay cho đồng chí Đồng Văn cống được rút về Miền nhận nhiệm vụ mới. Tiếp đó, tháng 8-974, Quân khu tiến hành thành lập Sư đoàn 8 bộ binh (sư đoàn đầu tiên của Quân khu) gồm Trung đoàn 88, Trung đoàn 24, Trung đoàn 320. Sư đoàn 8 do đồng chí Huỳnh Văn Mên (Phó Tư lệnh Quân khu) làm Sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Thạnh (Phó Chính ủy Quân khu) làm Chính ủy.


Cũng năm 1974, Bộ Tư lệnh Miền còn tăng cường cho Quân khu 8 Trung đoàn 20, 2 tiểu đoàn pháo và 2 đại đội đặc công.

Trên địa bàn Khu 8, bộ đội địa phương cũng được kiện toàn. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 1 đến 2 tiểu đoàn; ngoài ra các tỉnh huyện còn có các đại đội độc lập từ bộ binh, đặc cong, pháo binh, cối... Đặc biệt, tỉnh Bến Tre còn thành lập được Trung đoàn “Đồng khởi”.


Bước vào Chiến dịch mùa Xuân năm 1975, Quân khu thành lập thêm 7 tiểu đoàn (mỗi tiểu đoàn từ 150 lên 250 chiến sĩ), 36 đại đội, 150 trung đội.

Bến Tre phát triển từ 3 tiểu đoàn thiếu thành 5 tiểu đoàn đủ. Mỗi huyện có từ 1 đến 3 đại đội. Mỹ Tho đôn 1.000 du kích, tuyển 797 tân binh lập 28 đại đội mới, bổ sung 3 tiểu đoàn tỉnh từ 120 lên 200 - 220 chiến sĩ mỗi tiểu đoàn. Long An có 3 tiểu đoàn, 1 tiểu đoàn pháo, 4 đại đội đặc công, 2 đại đội căn cứ hành lang (816 người). Lực lượng các huyện 7 đại đội, 1 trung đội (trong đó có 2 trung đội biên chế đến 854 người). Ngoài ra còn có 433 du kích xã, 628 dân quân ấp... Kiến Tường củng cố tiểu đoàn tỉnh từ 18 chiến sĩ phát triển lên 140 chiến sĩ, an ninh vũ trang từ 22 chiến sĩ lên có 150 chiến sĩ, du kích mỗi xã từ 1 tiểu đội phát triển lên 2 tiểu đội. Sa Đéc thành lập 1 tiểu đoàn tỉnh, mỗi huyện từ 2 đến 3 đại đội. Nam sông Tiền bổ sung 2 trung đội, du kích mỗi xã có từ 1 đến 2 trung đội1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.88, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:31:17 pm
Quân khu 9

Bộ Tư lệnh đặt cơ quan chỉ huy ở vùng Long Mỹ (Chương Thiện, Cần Thơ).

Từ đầu năm 1973, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu (Võ Văn Kiệt - Bí thư kiêm Chính ủy, Lê Đức Anh - Tư lệnh) chủ trương “làm trái chủ trương của Trung ương”, bố trí các đơn vị chủ lực khu ở các địa bàn hiểm yếu, hợp đồng với các lực lượng tại chỗ sẵn sàng phản công, tiến công, đánh trả không cho quân đội Sài Gòn bình định lấn chiếm, phá hoại Hiệp định Pari.


Đồng chí Võ Văn Kiệt lý luận rằng: "nguyên tắc cao nhất của Đảng là không được để thua". Trên cơ sở trên tinh thần đó, Bộ Tư lệnh Quân khu khẩn trương triển khai ba nhiệm vụ cơ bản:

Một là, để nghị các cán bộ cấp trên gặp Khu ủy trước khi xuống các địa phương;

Hai là, nghiên cứu kỹ ý kiến chỉ đạo của trên để nếu triển khai thực hiện sẽ không gây ảnh hưởng tiêu cực;

Ba là, điện khẩn cấp lên Trung ương Cục báo cáo tình hình và cử cán bộ trực tiếp lên Trung ương Cục đề đạt ý kiến: “Nếu không chống địch lấn chiếm thì không còn đất để ở, mất dân mất đất...”.

Tháng 7-1974, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 thành lập Sư đoàn 4 - sư đoàn chủ lực đầu tiên của Quân khu.

Sư đoàn 4 tổ chức thành 3 trung đoàn (Trung đoàn 2, Trung đoàn 10, Trung đoàn 20) và các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần.

Sư đoàn 4 do đồng chí Nguyễn Đình Chức (Phó Tư lệnh Quân khu) làm Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Văn Hên (Phó Chính ủy Quân khu) làm Chính ủy.

Sau khi Sư đoàn 4 được thành lập, Bộ Tư lệnh Miền còn tăng cường cho Quân khu một trung đoàn chủ lực thiện chiến (Trung đoàn 1 thuộc Sư đoàn 1 Miền) và 3 tiểu đoàn pháo binh. Trên cơ sở đó, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 tiến hành bố trí, sắp xếp lại lực lượng trên chiến trường Khu 9, thành lập Bộ Chỉ huy Tiền phương Quân khu Vĩnh Trà và bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Đệ (Phó Tư lệnh Quân khu) làm Tư lệnh, đồng thời tăng cường Trung đoàn 1 cho mặt trận Tiền phương.


Lực lượng mặt trận Tiền phương Quân khu Vĩnh Trà lúc này có 2 trung đoàn, trong đó Trung đoàn 1 do đồng chí Phạm Văn Trà chỉ huy, Trung đoàn 3 do đồng chí Lê Xã Hội chỉ huy. Lực lượng bộ đội tỉnh Vĩnh Long do đồng chí Tư Thiện làm Tỉnh đội trưởng và bộ đội tỉnh Trà Vinh do đồng chí Trị làm Tỉnh đội trưởng.


Bước vào Chiến dịch mùa Xuân năm 1975, toàn Quân khu có tổng số 23 tiểu đoàn, trong đó Cà Mau 5 tiểu đoàn, Rạch Giá 3 tiểu đoàn, Trà Vinh 5 tiểu đoàn, Cần Thơ 2 tiểu đoàn và 7 đại đội, Bạc Liêu 3 tiểu đoàn, Long Châu Hà 2 tiểu đoàn và 2 đại đội, Vĩnh Long 3 tiểu đoàn. Tại các huyện trên địa bàn Quân khu thành lập thêm được 60 đại đội, riêng ở Trà Ôn, Vũng Liêm, Tam Bình, Gia Ray, Ngọc Hiển, Trần Văn Thời, Hồng Dân, Cái Nước, Thới Bình, Châu Thành... đều thành lập được tiểu đoàn.


Ngoài ra, trên địa bàn Quân khu còn thành lập được 330 đại đội du kích xã và 19 đại đội dân công phục vụ chiến đấu1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), thống 2-1979, tr.88, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Trong những năm 1974, 1975, Quân giải phóng trên địa bàn Quân khu phát triển nhanh, mạnh về mọi mặt cả sốlượng lân chất lượng, đặc biệt lực lượng ba thứ quân bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích phát triển cân đối, tương quan lực lượng trên địa bàn Khu 9 đến đầu năm 1975 nghiêng hẳn về phía Quân giải phóng.


Quân khu Sài Gòn - Gia Định

Sài Gòn - Gia Định là địa bàn đặc biệt quan trọng, “sẽ trở thành tiêu điểm của cuộc chiến đấu gay go và phức tạp giữa ta và địch”. Do vậy, sau khi ròi căn cứ dọc biên giới Việt Nam - Campuchia về nước, Bộ Tư lệnh chọn lại Hố Bò làm căn cứ đóng quân, bố trí lực lượng áp sát vùng ven đô thành Sài Gòn để đủ sức chế áp đối phương.


Tại căn cứ Hố Bò, Quân khu kiện toàn lại lực lượng vũ trang, thành lập thêm 1 đại đội pháo, đồng thời bổ sung thêm 1 liên đội đặc công thủy (K77) cho Đoàn 10 đặc công. Đoàn biệt động 19 tháng 5 được tổ chức thành các đại đội 1, 3, 4, 5... Các đại đội độc lập 7, 8, 9, 11, Z15, Z16, Z17, V20, V22 được kiện toàn, bổ sung đầy đủ biên chế và trang bị vũ khí...


Tháng 5-1974, trên cơ sở Tiểu đoàn Quyết Thắng, Quân khu Sài Gòn - Gia Định ra quyết định thành lập Trung đoàn Gia Định 1.

Tháng 8-1974, để chuẩn bị chiến trường cho Quân giải phóng thực hiện “đòn quyết chiến chiến lược” trên địa bàn Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Miền quyết định giải tán Quân khu Sài Gòn - Gia Định và thành lập Thành đội Sài Gòn - Gia Định.


Thành đội Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Trần Mân làm Thành đội trưởng, đồng chí Mai Văn Chúc làm Chính trị viên, đồng chí Trần Minh Sơn làm Chỉ huy phó. Riêng số cán bộ lãnh đạo của Quân khu còn lại được điều động về Miền nhận nhiệm vụ mới.


Tháng 3-1975, Thành đội Sài Gòn - Gia Định ra quyết định thành lập Trung đoàn Gia Định 2, đồng thời thành lập thêm 3 tiểu đoàn độc lập, nâng tổng sô quân chủ lực của Thành đội lên con số 2 trung đoàn, 5 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 4 Gia Định, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức và các Tiểu đoàn 195, 197, 198).


Tháng 4-1975, thực hiện Chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng đặc công, biệt động cũng được sắp xếp lại hình thành các mũi tiến công:

- Đoàn 196: hướng Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp.

- Đoàn 197: hướng Tân Bình, Bình Chánh.

- Đoàn 198: hướng nam Bình Chánh, Nhà Bè.

- Đoàn 199: hướng nam Thủ Đức.

- Đoàn 195: hoạt động trong nội đô1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lạch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sdd, tr.558).

Các đội vũ trang Thành đoàn, Hoa vận, Binh vận, Công vận, Phụ vận, Tuyên huấn... được kiện toàn.

Bước vào năm 1973, lực lượng chủ lực của Miền và các quân khu là 149.000 người, bộ đội địa phương tỉnh có khoảng 36.000 người, lực lượng dân quân du kích khoảng 62.000 người.

Nếu so sánh lực lượng hai bên thì lực lượng Quân giải phóng (bao gồm chủ lực Miền, quân khu và bộ đội địa phương tỉnh) chỉ bằng khoảng 17% lực lượng quân chính quy của quân lực Việt Nam Cộng hòa; dân quân du kích chỉ bằng khoảng 20% lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự của Việt Nam Cộng hòa1 (Đề án công tác quân sự: Tình hình nhiệm vụ và phương hướng chủ trương của ta trong giai đoạn sắp tới, lưu trữ tại Phòng Khoa học quân sự Quân khu 9, số 01/TWC/1974).


Đến cuối năm 1973, trên toàn miền Nam, bộ đội chủ lực có 310.000 người, bộ đội địa phương 70.000, dân quân du kích 120.000 (tổng số ba thứ quân là 500.000, so với quân đội Sài Gòn là 710.000)2 (Lực lượng vũ trang ba thứ quân trên chiến trường B2: - Năm 1961: Bộ đội chủ lực có 7.470 người, gồm 1 trung đoàn (thiếu), 6 tiểu đoàn, 8 đại đội bộ binh. Bộ đội địa phương (tỉnh huyện) có khoảng 8.200 người, gồm 20 đại đội, 120 trung đội và 15 tiểu đội bộ binh. Dân quân du kích có khoảng 69.500 người. - Năm 1965: Bộ đội chủ lực có 53.890 người, gồm 2 sư đoàn (có 1 sư đoàn thiếu), 4 trung đoàn, 12 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn và 3 đại đội đặc công, 3   tiểu đoàn và 11 đại đội trợ chiến, 3 đại đội công binh. Bộ đội địa phương có 35.700 người, gồm 22 tiểu đoàn, 20 đại đội, 114 trung đội bộ binh. Dân quân du kích có 129.700 người. - Năm 1968: Bộ đội chủ lực có 12.500 người, gồm 4 sư đoàn, 12 trung đoàn, 23 tiểu đoàn bộ binh, 18 tiểu đoàn và 5 đại đội đặc công, 1 tiểu đoàn và 4 cụm biệt động, 3 trung đoàn và 10 tiểu đoàn trợ chiến, 4 tiểu đoàn và 13 đại đội công binh. Bộ đội địa phương có 38.500 người, gồm 29 tiểu đoàn, 157 đại đội và 70 trung đội bộ binh, 15 đại đội đặc công, 25 đại đội và 93 trung đội trợ chiến, 5 đại đội và 18 trung đội công binh. Dân quân du kích có 118.000 người. - Năm 1972: Bộ đội chủ lực có 150.200 người, gồm 4 sư đoàn, 17 trung đoàn, 52 tiểu đoàn bộ binh, 37 đại đội và 113 đội đặc công, 16 tiểu đoàn biệt động, 5 tiểu đoàn và 18 đại đội trợ chiến, 7 tiểu đoàn và 15 đại đội công binh. Bộ đội địa phương có: 36.600 người, gồm 1 trung đoàn, 39 tiểu đoàn, 151 đại đội, 47 trung đội bộ binh, 7 tiểu đoàn, 30 đại đội, 133 trung đội đặc công biệt động, 2 tiểu đoàn, 16 đại đội, 8 trung đội trợ chiến, 10 đại đội, 16 trung đội, 13 tiểu đội công binh. Dân quân du kích có: 62.200 người).


Đến đầu năm 1975, trên chiến trường B2, lực lượng vũ trang ba thứ quân phát triển mạnh mẽ. Bộ đội chủ lực Miền có tới cấp quân đoàn, binh đoàn (Quân đoàn 4, Binh đoàn Tây Nam) và các sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, các đại đội độc lập với đủ loại quân binh chủng, từ tình báo, quân báo, trinh sát, đặc công, biệt động, thông tin, bộ binh, thiết giáp, phòng không, pháo cao xạ, pháo binh, công binh...


Bộ đội các quân khu tổ chức thành sư đoàn (6, 8, 4, 5), trung đoàn, tiểu đoàn và các đại đội độc lập... Các đơn vị này đều được biên chế đủ chủng loại, quân số. Cấp sư đoàn có 3 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh, các tiểu đoàn, đại đội binh chủng, phục vụ khác; trung đoàn có 1.800 đến 2.000 quân; tiểu đoàn có 400 quân1 (Xem Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.857)...


Bộ đội địa phương tỉnh, huyện có tói cấp trung đoàn, tiểu đoàn đại đội độc lập.... với khoảng 86.639 cán bộ, chiến sĩ được trang bị vũ khí, khí tài quân sự hiện đại. Dân quân du kích tăng mạnh, lên đến con số 95.828 người2 (Số liệu phát triển dân quân du kích trong năm 1974, lưu trữ tại Phòng Khoa học quân sự Quân khu 9, sô 27/l974/TWC).


Toàn bộ cán bộ, chiến sĩ hầu như đều được tham dự các lớp huấn luyện quân sự, huấn luyện kỹ chiến thuật đánh trận, kỹ thuật tác chiến chiến dịch... vừa làm tăng khả năng tiêu diệt địch vừa làm tăng sự tự tin và quyết tâm của lực lượng vũ trang trên chiến trường B2.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:32:28 pm
2. Xây dựng, phát triển tiềm lực mọi mặt

a) Xây dựng căn cứ địa

Trước khi Hiệp định Pari được ký kết, Trung ương Đảng đã chỉ đạo việc xây dựng căn cứ địa và đặt ra các yêu cầu về bảo vệ căn cứ địa cách mạng trong giai đoạn mới.

Từ đầu năm 1973, Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ cho Cục Hậu cần Miền lập để án quy hoạch xây dựng một số vùng căn cứ, đồng thời cử lực lượng tiền trạm kết hợp với bộ đội địa phương phân định vùng giải phóng, xây dựng căn cứ, chuẩn bị tài lực vật lực cho Bộ Chỉ huy Miền và Bộ Chỉ huy các quân khu chuyển từ Campuchia về bám trụ trên chiến trường B2.


Vùng giải phóng trên chiến trường B2 được nghiên cứu khảo sát, đặc biệt là vùng rừng núi từ Khu 6 nối liền vùng rừng núi đồng nam nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược “ra sức xây dựng miền núi Khu 6 và miền rừng núi miền Đông Nam Bộ thành một căn cứ chiến lược lâu dài cho cả chiến trường B2”1 (Lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, số VN 3907, tr.137).


Trên địa bàn rừng núi Quân khu 6, vùng giải phóng thuộc các tỉnh Lâm Đồng, Quảng Đức, Long Khánh, Bình Tuy... được mở rộng với khoảng 25.000 dân. Tuy nhiên, hình thái chiến trường vẫn bị cắt vụn, thiếu liên lạc với vùng rừng núi ở miền Đông Nam Bộ nên trở thành những địa bàn yếu, đối phương thường xuyên bung ra đánh phá gây nhiều khó khăn cho Quân giải phóng trong việc bám trụ, đứng chân hoạt động. Do vậy, Bộ Tư lệnh Khu 6 phải chọn căn cứ Nam Sơn (phía nam lộ 20, vùng đất ranh giới giữa 3 tỉnh Lâm Đồng, Long Khánh, Bình Tuy) làm hậu phương cho cuộc chiến tranh của Khu.


Trên địa bàn Đông Nam Bộ, vùng giải phóng đã mở rộng với khoảng 47.000 dân. Dù chiến trường vẫn ở thế da beo, tuy nhiên Quân giải phóng có khả năng duy trì sự chỉ huy thống nhất xuyên suốt từ Lộc Ninh (Bình Phước) nôi liền đến Tân Biên (bắc Tây Ninh), Chiến khu Đ (Biên Hòa), Dầu Tiếng, Bèn Cát (Bình Dương), Lộc Thuận (Trảng Bàng), Hố Bò (Củ Chi)... tạo thành hệ thống căn cứ chiến lược.


Trên địa Quân khu 8 và Quân khu 9, vùng giải phóng đã mở rộng ở nhiều nơi, đặc biệt ở vùng nam bắc đường 4 (Mỹ Tho), vùng Chương Thiện, nối liền với nhiều huyện của Cần Thơ, Sóc Trăng... Dân số vùng giải phóng lên tới hơn 1 triệu người, tuy nhiên vẫn bị địch chia cắt và dễ bị uy hiếp1 (Tình hình và sự lảnh đạo của Trung ương Cục từ Hội nghi Trung ương Cục lần thứ 11 năm 1971 đến nay và yêu cầu phương hướng công tác nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, lưu trữ tại Phòng Khoa học quân sự Quân khu 9, số 35/1973/TWC).


Nhìn tổng thể, hình thái chiến trường ở đồng bằng sông Cửu Long vụn nát, việc xây dựng hậu phương chiến tranh, xây dựng căn cứ địa đứng chân cho lực lượng giải phóng trở nên khó khăn, nhất là việc kết nối lãnh đạo, chỉ huy thống nhất với căn cứ đầu não kháng chiến ở miền Đông. Hành lang liên lạc từ Miền về Quân khu 8, Quân khu 9 vẫn phải đi đường vòng qua biên giới Campuchia. Do vậy, Bộ Tư lệnh Quân khu 8 buộc phải tiếp tục đứng chân tại Prâyveng (Campuchia), riêng Bộ Tư lệnh Quân khu 9 quyết định chọn vùng giải phóng Long Mỹ thuộc Chương Thiện đặt cơ quan chỉ huy.


Tháng 4-1973, Trung ương Cục ra chỉ thị về xây dựng căn cứ địa chỉ rõ: “phải có một sự nhận thức mới về ý nghĩa, nội dung về quy mô, về tốc độ và về phương pháp xây dựng các căn cứ và vùng giải phóng trong tình hình mới”. “Đặc biệt chú trọng xây dựng các căn cứ lớn ở phía bắc các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, phía tây Quảng Đức, Chiến khu Đ và Đồng Tháp Mười... tạo thành vùng căn cứ liên hoàn nôi hậu phương lốn vào đến miền Tây Nam Bộ”2 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.522).


Thực hiện chủ trương trên, Quân giải phóng trên chiến trường B2 vừa phải chống phá “bình định lấn chiếm , vừa tiến hành xây dựng căn cứ, xây dựng hậu phương chiến tranh. Dù kết quả đạt được còn khiêm tốn, nhưng chủ trương của Bộ Tư lệnh Miền về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương chiến tranh đã được triển khai thực hiện đúng hướng.


Tháng 10-1973, Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập Căn cứ Tân Phú trải dài trên địa bàn các huyện Tân Uyên, Bắc Phú Giáo, Độc Lập.

Căn cứ Tân Phú vừa là địa bàn đứng chân của các lực lượng quân sự Miền, Quân khu 7 và bộ đội địa phương Đồng Nai, Bình Dương, vừa là cơ sở hậu cần lớn, cung cấp tài lực, vật lực quân sự cho Quân giải phóng ở hướng đông bắc Sài Gòn. Tháng 11-1973, hành lang chiến lược 559 đông Trường Sơn được mở xuyên qua Bù Bông - Kiến Đức, nối liền ngã ba Đắc Soong (Quảng Đức) đến đến tận Bù Gia Mập, Bù Đốp, Lộc Ninh. Tháng 5-1974, đoạn đường 10km từ Rinét đến Rạch Bắp được tái lập nối thông căn cứ Rùm Đuôn, Bổ Túc (bắc Tây Ninh), Tà Thiết, Lộc Ninh (Bình Phước), Chiến khu Đ về Trảng Bàng, Củ Chi và vùng ven Sài Gòn - Gia Định, tạo thế mới trên vùng bắc Sài Gòn, tạo bàn đạp bao vây Sài Gòn từ hướng bắc.


Trong những năm 1974, 1975, công tác mở rộng và xây dựng hoàn chỉnh vùng căn cứ, bảo vệ đường hành lang từ Miền xuống các quân khu và từ Quân khu xuống các tỉnh được đẩy mạnh, các chiến trường nối kết với nhau liên hoàn, vừa có thể tiếp nhận tài lực, vật lực quân sự với khối lượng lớn, tốc độ nhanh từ đông Trường Sơn vươn tối, vừa, “có thể triển khai những quả đấm chủ lực lớn, vây ép và uy hiếp Sài Gòn từ nhiều hướng"1 (Lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, tài liệu số VN 3907, tr.137).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:33:47 pm
b) Phát triển lực lượng hậu cần phục vụ chiến đấu

Ngay sau khi Hiệp định Pari vừa ký kết, thực hiện chỉ đạo của Trung ương cục, Bộ Tư lệnh Miền tiến hành tổ chức lại các đoàn hậu cần, vừa chuẩn bị tài lực, vật lực quân sự tại chỗ vừa xây dựng kế hoạch đón nhận nguồn chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc, chuẩn bị thế và lực thực hiện đòn đánh chiến lược kết thúc cuộc chiến tranh.


Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Miền, các đoàn hậu cân tổ chức, sắp xếp lại, chuyển địa bàn hoạt động từ vùng sát biên giỏi Campuchia về chiến trường B2, lập kế hoạch triên khai thu mua lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm.


Đoàn 500, Đoàn 340 được thu hẹp, rút bớt lực lượng, phương tiện tăng cường cho các đoàn hậu cần đóng trên chiến trường B2.

Đoàn Hậu cần 770 được lệnh chuyển từ Stungtreng (đông bắc Campuchia) về Labankhê, Buprăng, Bù Gia Mập (vùng biên giới), xây dựng cung trạm mới, tăng cường thêm lực lượng, sẵn sàng đón nhận nguồn chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc thông qua tuyến 559 đông Trường Sơn.


Bộ Tư lệnh Miền quyết định giải thể Đoàn Hậu cần 200, Đoàn Hậu cần 240 để bổ sung quân số và phương tiện kỹ thuật cho hậu cần Quân khu 8, hậu cần Quân khu 9; đồng thời tổ chức lại hậu cần Quân khu 7, bố trí thành 4 cánh phụ trách 4 khu vực: Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Củ Chi, Long An.


Để thực hiện tốt công tác hậu cần, tạo thế và lực cho Quân giải phóng trên chiến trường B2, ngoài việc tổ chức, sắp xếp lại lực lượng để chuẩn bị đón nhận chi viện từ miền Bắc, hậu cần Miền và hậu cần các quân khu còn tiến hành thành lập phòng kiến thiết cơ bản; tạo hành lang vận chuyên; lập các cung, trạm, kho tàng, phòng quản lý xăng xe, phương tiện vận tải, trạm, xương sửa chữa, xăng dầu và bố trí lực lượng bảo vệ... nhằm nâng cao khả năng cơ động, hoạt động của các đoàn hậu cần.


Để tạo thế và lực, hậu cần Miền và các quân khu vừa xây dựng căn cứ, cơ sở, vừa khôi phục, phát triển sản xuất, vừa thực hiện công tác thu mua tranh giành lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, đấu tranh đánh bại kế hoạch phong tỏa kinh tế của đối phương, vừa xây dựng mạng lưới đường chiến lược kết nối với các vùng căn cứ, các đoàn hậu cần khu vực, nối thông từ Miền xuống các địa bàn thuộc các tỉnh ở đông Trường Sơn.


Bộ Tư lệnh Miền thành lập Bộ Tư lệnh công binh, điều động và tăng cường một số đơn vị công binh trực thuộc Cục Hậu cần trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tạo lực của Cục Hậu cần và các đoàn hậu cần khu vực.


Cuối năm 1973, sau Chiến dịch Bù Bông - Tuy Đức, Bộ Tư lệnh Miền gấp rút cho xây dựng con đường cơ giới nối liền với đường cơ giới đông Trường Sơn qua Bù Gia Mập đến Lộc Ninh; hậu cần Miền đã hỗ trợ Đoàn 559 lắp đặt đường ống dẫn xăng dầu, xây dựng các trạm cung cấp xăng dầu, bồn chứa xăng dầu; hỗ trợ lực lượng thông tin 559 xây dựng tuyến đường dây thông tin hữu tuyến nối từ Hà Nội vào Lộc Ninh và từ Lộc Ninh đi căn cứ Bắc Tây Ninh, căn cứ đóng quân của Quân đoàn 4...


Trong hai năm 1973 - 1974, lực lượng hậu cần B2 đã hoàn thành ba tuyến đường vận tải chiến lược quan trọng:

- Tuyến đường vận chuyển dọc địa bàn phía đông, từ Lộc Ninh, Bù Đốp xuống Đoàn Hậu cần 814, nối với Quân khu 6 Quân khu 7;

- Tuyến đường vận chuyển phía tây từ Lộc Ninh qua Đoàn Hậu cần 220 sang Đoàn 230 xuống Quân khu 8, Qụân khu 9;

- Tuyến đường vận chuyển phía bắc từ Lộc Ninh qua Đoàn Hậu cần 220 xuống Đoàn 235 tới vùng ven Sài Gòn1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.551).


Đến mùa khô năm 1974, trên chiến trường B2, không những “các con đường vận chuyển và thông tin chiến lược đều đã hoàn tất, tạo ra một sự thông suốt chưa từng có từ miền Bắc vào đến Nam Bộ, mở ra khả năng lớn về vận chuyển (quân, vật chất) cũng như sự chỉ đạo nhanh chóng, kịp thời từ Trung ương vào đến Nam Bộ”1 (Bộ Quốc phòng - Quân khu 7: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Sđd, tr.550, 551), mà tài lực, vật lực quân sự và thông tin chiến lược còn được vận chuyển, truyền tải đến mọi vùng trên chiến trường B2.


Tính đến tháng 9-1973, hậu cần Miền đã tiếp nhận từ hậu phương miền Bắc trên 10 vạn cán bộ, chiến sĩ, gồm 2 sư đoàn bộ binh, 2 trung đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn thiết giáp, 1 trung đoàn công binh và nhiều đơn vị binh chủng khác; 140.000 tấn hàng hóa, trong đó có 26.673 tấn vũ khí, 5.868 tấn xăng dầu, 41.847 tấn gạo và 10.000 tấn vũ khí dự trữ2 (Tổng cục Hậu cần: Tổng kết công tác hậu cần chiến trường Nam Bộ - cực Nam Trung Bộ (B2) trong kháng chiến chống Mỹ, 1986, tr.546, 554). Đến cuối năm 1974, hậu cần Miền đã tiếp nhận từ hậu phương miền Bắc 30.233 tấn đạn dược, xăng dầu, vật tư kỹ thuật, nhiều hơn gấp 5 lần so với năm 1973; tiếp nhận được 28.612 cán bộ, chiến sĩ (nhiều hơn năm 1973 gần 4.000 quân)3 (Tổng cục Hậu cần: Tổng kết công tác hậu cần chiến trường Nam Bộ - cực Nam Trung Bộ (B2) trong kháng chiến chống Mỹ, 1986, tr.546, 554).


Tổng cộng trong 2 năm 1973, 1974, hậu cần Miền đã tiếp nhận được từ hậu phương miền Bắc 37.000 tấn hàng hóa. Bên cạnh đó hậu cần Miền cũng đã thu mua và tự sản xuất tự túc được 80.500 tấn. Số lương thực, thực phẩm, trang thiết bị quân sự, vũ khí, đạn dược, xăng dầu... nói trên không những đáp ứng yêu cầu của lực lượng giải phóng trên chiến trường B2 mà còn dự trữ được 28.000 tấn cho chiến cuộc mùa khô 1974 - 1975. Ngoài ra, hậu cần của các quân khu cũng đã thu mua và dự trữ được hơn 3.000 tấn hàng hóa quân sự, lương thực, thực phẩm, tạo nên một khối lượng tài lực quân sự dự trữ lớn nhất kể từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Tổng kết chuyên đề tổ chức hậu cần khu vực ở chiến trường Nam Bộ - cực Nam Trung Bộ (B2) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, 1983, tr. 56, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Đến đầu năm 1975, để phục vụ cho các chiến dịch quân sự trong tình hình mới, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo hậu cần Miền và hậu cần của các quân khu sắp xếp lại lực lượng và địa bàn hoạt động.

Đoàn Hậu cần 814 chuyển xuống phía nam sông Đồng Nai, kết hợp với các đoàn hậu cần Quân đoàn 2, Quân đoàn 4 và hậu cần Quân khu 7 chuẩn bị tài lực, vật lực phục vụ cho lực lượng Quân giải phóng (Quân đoàn 2, Quân đoàn 4) ở hướng đông.


Đoàn Hậu cần 210 chuyển xuống phía nam Đồng Xoài, Bến Bầu, Bình Mỹ, Lái Thiêu, kết hợp với hậu cần Quân đoàn 1 chuẩn bị tài lực, vật lực phục vụ cho lực lượng Quân giải phóng ở hướng đông bắc.

Đoàn Hậu cần 235 chuyển xuống vùng Trảng Bàng, Củ Chi, lập các cung trạm, chuẩn bị tài lực, vật lực phục vụ cho lực lượng Quân giải phóng (Quân đoàn 3) và bộ đội địa phương phụ trách hướng tây bắc.


Đoàn Hậu cần 240, Đoàn Hậu cần 230 kết hợp với hậu cần Quân khu 8 bảo đảm cho Binh đoàn Tây Nam và Sư đoàn 8 (Quân khu 8) ở hướng tây nam, nam.

Đoàn Hậu cần 770 chuyển căn cứ xuống Đồng Xoài, Đoàn Hậu cần 220 chuyển về An Lộc. Đoàn Hậu cần 340, 220 tổ chức thành 8 tiểu đoàn cơ động xây dựng các cung trạm phục vụ tài lực, vật lực cho các đoàn đặc công, biệt động; phục vụ cho các chiến dịch chủ yếu và chi viện lực lượng cho các đoàn hậu cần mặt trận. Bên cạnh đó, Bộ Tư lệnh Miền còn chỉ đạo thành lập 6 tuyến vận tải từ Bù Gia Mập, Lộc Ninh xuống các đoàn hậu cần tuyến trước. Đến đầu tháng 4-1975, hậu cân Miền đã chuẩn bị được 65.000 tấn hàng hóa quân sự, lương thực, thực phẩm, vượt chỉ tiêu 5.000 tấn so với yêu cầu của Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đã để ra.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:35:29 pm
III. CHIẾN ĐẤU TRỪNG TRỊ ĐỊCH VI PHẠM HIỆP ĐỊNH PARI TẠO THẾ TẠO LỰC CHUẨN BỊ TỔNG TIẾN CÔNG

1. Chiến đấu đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, hành quân lấn chiếm của quân ngụy trên chiến trường B2

Ngay sau khi Hiệp định Pari được ký kết, chính quyền Sài Gòn đã đây mạnh kế hoạch “Cộng đồng tự vệ”, thực hiện bình định lấn chiếm, coi bình định lấn chiếm là biện pháp có ý nghĩa quyết định thắng bại trong việc xóa thế da beo, thu hẹp vùng giải phóng, tiêu diệt hạ tầng cơ sở, đẩy lùi Quân giải phóng... Các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” được chính quyền Sài Gòn thực hiện nhằm vừa duy trì sự kiểm soát 11.159 ấp đã chiếm được từ trước đó1 (Kế hoạch cộng đồng tự vệ 1972-1975: Duy trì trọn vẹn số ấp đã kiểm soát được 11.159 ấp (miền Đông Nam Bộ 2.417 ấp, đồng bằng Nam Bộ 4.309 ấp, xóa bỏ 60 căn cứ lõm quanh Sài Gòn, 103 xã ấp giải phóng ở đồng bằng Nam Bộ), vừa lấn sâu vào vùng giải phóng, lấn chiếm, gom dân, bình định...


Đối với Quân giải phóng, thực hiện các điều khoản của Hiệp định Pari được ký kết với tinh thần “xả hơi”, chủ quan, mất cảnh giác, hầu như cả Bộ Tư lệnh Miền và hầu hết các quân khu trên chiến trường B2 đều không chuẩn bị các biện pháp đối phó2 (Chỉ có Quân khu 9 chủ trương bố trí các đơn vị chủ lực kết hợp với các lực lượng bộ đội địa phương xây dựng các phương án đánh trả quân đội Sài Gòn bình định lấn chiếm), “không dám” sử dụng vũ lực vì sợ vi phạm Hiệp định, nên trở nên lúng túng trước kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, hành quân lấn chiếm ồ ạt của chính quyền Sài Gòn.


Đứng trước âm mưu của Mỹ và hành động phá hoại Hiệp định của chính quyền Sài Gòn, tháng 5-1973, Bộ Chính trị tổ chức hội nghị và khẳng định: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sdd, t.34, tr.232). Như vậy, từ giữa năm 1973, nhận thức mơ hồ về sự tôn trọng Hiệp định Pari của Mỹ và chính quyền Sài Gòn hoàn toàn được gỡ bỏ, Quân giải phóng B2 bắt đầu chiến dịch đánh bại kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, hành quân lấn chiếm của chính quyền Sài Gòn.


Ở Khu 6, Quân chủ lực tiến công tuyến đường sắt Phan Thiết - Phan Rang, bức rút đồn bót địch tại Ô Cam Tây, Bác Ái (Ninh Thuận)...

Ở Khu 7 và Khu Sài Gòn - Gia Định, Bộ Tư lệnh Miền điều một số trung đoàn độc lập kết hợp với bộ đội địa phương Bình Phước chặn đánh các cuộc hành quân của quân ngụy ở vùng giải phóng như Chơn Thành, An Lộc...; điều động Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 Miền kết hợp với bộ đội địa phương Bình Dương, Tây Ninh chặn đánh các cuộc hành quân lớn của Chiến đoàn 7, Chiến đoàn 9 ngụy tại Bàu Bàng, Đồng Rùm...


Ở Khu 8, lực lượng vũ trang trong 3 tháng 9, 10, 11 năm 1973 bức hàng được 123 đồn bót, bức rút 27 đồn khác, đồng thời chủ động thực hiện nhiều trận chống càn, đánh càn, phản công, tiến công, khôi phục các vùng giải phóng Kiến Vãn (Kiến Phong), Tân Phú, phần lớn các xã vùng 20 tháng 7, mảng 3 Cai Lậy Bắc, giải phóng các xã Bàng Long, Phú Quý, Kim Sơn, Mỹ An (Kiến Phong)... nối liền với vùng 4 Kiến Tường... Đến cuối năm 1973 toàn khư đã đẩy lùi được các mũi càn quét lấn chiếm của đối phương ở nam bắc lộ 4 (Mỹ Tho); Mỏ Cày, Giồng Trôm (Bến Tre)..., khôi phục lại hình thái các mảng, lõm giải phóng như trước ngày 28-1-1973, đặc biệt là địa bàn Mỹ Tho, Bến Tre.


Ở Khu 9, Bộ Tư lệnh Quân khu sử dụng quân chủ lực khu kết hợp với bộ đội địa phương tiến công quân ngụy lấn chiếm ở vùng Long Mỹ, Gò Quao, Vĩnh Thuận1 (Tính đến đầu tháng 6-1973, quân ngụy Sài Gòn chỉ đóng lại được 16 đồn. Lực lượng cách mạng diệt nhiều trung đội, đại đội quân Sài Gòn, 1 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn biệt động quân, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn bảo an khác, pháo kích diệt 8 máy bay trong sân bay Trà Nóc...)... Đến cuối năm 1973, Quân giải phóng Quân khu 9 và bộ đội đia phương đã đánh nhiều trận ở vùng trọng điểm Chương Thiện, giữ vững thế xen kẽ vùng tranh chấp, làm phá sản ý định “lấn chiếm Chương Thiện” và “làm cỏ U Minh” của chính quyền Sài Gòn. “Vùng giải phóng miền Tây phát triển toàn diện: vụ mùa năm 1973 tăng 10.181ha so với năm 1972, khôi phục 15.000ha rẫy, 29.000ha vườn; 40 huyện có trạm dân y, 229 xã, 601 ấp có trạm y tế, nhà bảo sanh; năm học 1973-1974, vùng giải phóng khai giảng 942 trường phổ thông với 58.261 học sinh, 4.608 học viên bình dân... Thanh niên tòng quân 4.737 ngươi, du kích xã, ấp tăng 4.572 đội viên”2 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Num Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.856).


Nhìn chung, đến cuối năm 1973, trên toàn chiến trường B2 hầu như Quân giải phóng chưa có trận đánh nào lớn nhưng thế trận phản công, chủ động tiến công, đánh đối phương bình định lấn chiếm đã phát triển đều khắp các chiến trường. Tuy nhiên, nếu nhìn bề ngoài, “vị thế quân sự của chính quyền Sài Gòn có tạm thời được cải thiện hơn so với cuối năm 1972, trước khi ký Hiệp định Pari. Theo số liệu tổng kết của chính quyền Sài Gòn (số VV1714) đến tháng 10-1973, trên toàn miền Nam quân Sài Gòn lấn chiếm thêm 900 ấp, đóng thêm 525 đồn; riêng ấp A quân sự tăng nhiều: từ 4.271 ấp năm 1972 lên 5.508 ấp cuối năm 1973, trong đó Nam Bộ 2.923 ấp lên 3.470 ấp”1 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.864).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:36:46 pm
2. Chiến đấu thực hiện kế hoạch tác chiến mùa khô 1973-1974 trên chiến trường B2

Từ giữa năm 1973, kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, “hành quân lấn chiếm” của chính quyền Sài Gòn vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân miền Nam. Do vậy, từ đầu tháng 8-1973, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố thực hiện chiến dịch “bình định đặc biệt” nhằm đẩy nhanh Quân giải phóng ra khỏi biên giới, củng cố hệ thống phòng ngự, hỗ trợ tích cực cho kế hoạch điều chỉnh “tái thiết phát triển 1973” sang “an ninh phát triển 1974” nhằm đối phó với cuộc tiến công có hạn chế của đối phương và tạo điều kiện thuận lợi cho việc “tấn công ngay đối phương tại vùng cộng sản kiểm soát”...


Với quan điểm “xã, ấp là hạt nhân của chiến tranh diện địa”, chính quyền Sài Gòn xúc tiến việc hiện đại hóa quân đội, xây dựng hoàn thiện "lực lượng dã chiến” và “lực lượng lãnh thổ”, triển khai kế hoạch “bình định đặc biệt” với mục tiêu hết năm 1973 phải “xóa bỏ 60 lõm giải phóng ở miền Đông Nam Bộ, 103 xã ấp giải phóng ở đồng bằng Cửu Long”; đến năm 19742 (Chỉ tiêu của địch đề ra năm 1974 là bình định 70% ấp loại A và 60% số còn lại là loại B, dồn 20 vạn dân vào khu định cư và 40 vạn dân vào khu hồi cư. Theo Cục 2, trong năm 1974 toàn miền Nam về bình định giảm 677 ấp (ta phá 830 ấp, địch lập lại 17 ấp) giảm 2.128 đồn bót (ta nhổ 2.742, địch đóng lại 614)), phải lập được 70% ấp chiến lược loại A, thành lập các phân chi khu quân sự để bình định dân cư trong “kế hoạch dồn 20 vạn dồn vào khu định cư và 40 vạn dân hồi cư... Đồng thời triển khai kế hoạch “nền kinh tế tự lực tự cường”, xây dựng một chế độ chính trị “đứng về phía thế giới tự do”.


Tuyên bố của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu diễn ra trong bối cảnh viện trợ của Chính phủ Mỹ giúp Việt Nam Cộng hòa đang bị cắt giảm1 (Trong thời gian này, nước Mỹ suy thoái kinh tế nặng nề dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, uy tín của Mỹ trên trường quốc tế ngày một suy giảm. Trước bối cảnh đó, Chính quyền Nixon khó khăn trong việc thuyết phục Quốc hội Mỹ viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa duy trì cuộc chiến tranh xam lựợc). Do vậy, trong kế hoạch “bình định đặc biệt”, vùng lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long trở thành địa bàn đặc biệt quan trọng, không những có vị thế về chính trị, quân sự mà con có vị thế về kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Điều đó giải thích tại sao ngày 20-11-1973, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm tuân lệnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về Cần Thơ giao nhiệm vụ cho vùng 4 chiến thuật thực hiện kế hoạch “Trần Khánh Dư và coi năm 1974 là năm của “chiến tranh lúa gạo”.


Trên chiến trường B2, từ cuối năm 1973 cục diện chiến trường chuyển biến có lợi cho Quân giải phóng. Căn cứ tình hình thực tế chiến trường, Bộ Tư lệnh Miền xây dựng kế hoạch quân sự mùa khô 1973-1974, chỉ đạo các lực lượng vũ trang trừng trị quân đội Sài Gòn vi phạm Hiệp định “bất kỳ ở đâu, bằng các hình thức và lực lượng thích đáng”2 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.866) nhằm chống sự bình định lấn chiếm của địch, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long.


Trên địa bàn miền Đông Nam Bộ - Khu 6, từ tháng 9 -1973, Quân giải phóng tiến công giải phóng vùng Khiêm Hạnh, Quéo Ba, Trà Cao (Tây Ninh).

Tháng 11-1973, Bộ Tư lệnh Miền sử dụng Trung đoàn 429, 421 đặc công phối hợp bộ binh, pháo binh, xe tăng tiến công tiêu diệt yếu khu Bù Bông, Kiến Đức, giải phóng một vùng rộng lớn từ Bu Prăng, Bù Bông, Tuy Đức, nối liền ngã ba Đắc Soong (Quảng Đức) đến Bù Gia Mập, Bù Đốp, Lộc Ninh.


Tháng 12-1973, Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác tiến cồng kho xăng Nhà Bè, thiêu hủy hơn 2.500.000 lít xăng dầu. Tháng 3-1974, Quân khu 7 phối hợp với bộ đội tỉnh Bà Rịa - Long Khánh mở chiến dịch đường 2 Bà Rịa, giải phóng một vùng rộng lớn từ Kim Long đến sở Bà Cùi. Tháng 5-1974, quân chủ lực Miền mở chiến dịch đường 7 (Bến Cát), trục lộ 14; giải phóng Kiến Điền, Rạch Bắp, đường 14 từ Chơn Thành đến Đồng Xoài...


Trên địa bàn Quân khu 8, từ tháng 12-1973 đến tháng 2-1974, Quân khu “diệt 4.000 địch, diệt 3 đại đội, mở ra một số lõm giải phóng ở kênh 28 từ ngã Sáu đến ngã ba Mỹ Thiện và một đoạn kênh Nguyễn Văn Tiếp A”1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sđd, tr.783). Tiếp đó, tháng 2-1974, Bộ Tư lệnh tiền phương quân khu chỉ đạo tập trung đánh bình định ở Ba Rài, Tam Bình, Hội Cư, lộ 20, kênh 28, kênh 4, vùng 4 Kiến Tường, ngã tư Bằng Lăng, ngã tư kinh Phú Huyện, trục kênh Nguyễn Văn Tiếp, Mỹ Tây, Mỹ Lợi, ngã tư Phụng Thớt, Năm Ngàn, Kênh Bùi, mảng 3 Cai Lậy Bắc, giải phóng khu vực Gò Lũy... Được sự hỗ trợ của Sư đoàn 5 chủ lực Miền, Quân khu 8 và bộ đội địa phương tỉnh, huyện đã giải phóng một khu vực rộng ở Mộc Hóa, giữ vững vùng giải phóng ở kinh Năm Ngàn, Phụng Thớt, Hai Hạt, Trại Lòn, Bằng Lăng.


Kết quả, Quân khu 8 đã giải phóng được 9 xã, phá hủy 150 đồn bót và hệ thống kìm kẹp của địch ở kênh 28, kênh Dương Văn Dương và vùng Tây Cái Bè1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945-1975), Sdd, tr.787)... Tuy nhiên, đến cuối tháng 7-1974, Quân khu 8 vẫn chưa khôi phục được vùng 4 Kiến Tường.


Trên địa bàn Quân khu 9, triển khai kế hoạch mùa khô 1973-1974, các trung đoàn chủ lực Khu kết hợp với bộ đội tỉnh, huyện đánh phá bình định lấn chiếm, cố gắng phản kích mở rộng vùng giải phóng ở các tỉnh Chương Thiện, Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá, gỡ 324 căn cứ, đồn bót, giải phóng 156 ấp, nối thông hành lang căn cứ U Minh Thượng - U Minh Hạ và đi các vùng căn cứ trọng điểm của các tỉnh trên địa bàn Quân khu.


Kết quả, kế hoạch mùa khô 1973-1974, trên chiến trường B2, lực lượng vũ trang đã giải phóng 360.000 dân, 16 xã, 582 ấp, làm chủ 668 ấp, trong đó số lượng Quân khu Tây Nam Bộ thực hiện được chiếm trên 70% số lượng đạt được của toàn B2. Quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu 3 tiểu đoàn, triệt phá 1.234 đồn bót, giải phóng hoàn toàn 24 xã với 360.000 dân. Lực lượng vũ trang cấp Miền, cấp khu và bộ đội địa phương các tỉnh, huyện trên chiến trường B2 chuyển từ thế bị động (nửa đầu năm 1973) lên thế chủ động phòng ngự và tân công. Tất cả phối hợp với nhau nhịp nhàng, phát huy sức mạnh tổng hợp của ba mũi, ba thứ quân, ba vùng chiến lược, tạo thế kìm căng đối phương trên khắp các chiến trường.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 13 Tháng Ba, 2023, 02:37:52 pm
3. Tham gia đợt tiến công mùa mưa năm 1974

Cuộc tiến công chiến lược mùa khô 1973-1974 của Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã góp phần làm cho các kế hoạch của chính quyền Sài Gòn để ra sau Hiệp định Pari đều bị phá sản, thế và lực giảm sút nghiêm trọng, buộc quân đội Sài Gòn phải lui về thế phòng ngự1 (Trên toàn miền Nam, địch hành quân lấn chiếm từ 9.025 cuộc năm 1973 tụt xuống 3.175 cuộc năm 1974; hành quân chống đỡ, đối phó 2.160 cuộc năm 1973 tăng lên 8.871 cuộc năm 1974. Trên toàn Miền, ấp loại A quân sự từ 5.508 ấp cuối năm 1973 tụt xuốhg 2.695 ấp năm 1974 (miền Đông Nam Bộ 1.553 ấp tụt xuống 848 ấp, đồng bằng sông Cửu Long 1.948 ấp con 1.009 ấp), ở B2: mất 2.373 đồn bót (miền Tây Nam Bộ mất 1.500, miền Trung Nam Bộ mất 675). Xem thêm: Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới... Sđd, tr. 261, 262, 265; Quân khu 7 - Bộ Quốc phòng: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền, Sđd, tr. 566-567; Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), Sđd, tr. 241). Bên cạnh đó, viện trợ của Mỹ cho chế độ Sài Gòn năm 1974 về quân sự, kinh tế bị cắt đến trên 50%. Do vậy, nhu cầu kinh phí cần có cho chính quyền Sài Gòn mua sắm đạn dược thiếu 41%, nhiên liệu thiếu 71%, y dược thiếu 37%, truyền tin thiếu 66%, quân nhu thiếu 68%, quân cụ thiếu 65%, công binh thiếu 81%, không quân thiêu 73%, hải quân thiếu 83%2 (“Tình trạng thiếu hụt các mặt của quân lực Việt Nam Cộng hòa tháng 10-1974”, tài liệu số 8882, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, TL PTT VNCH Đệ II, tập Quân sự)... Đứng trước thực trạng đó, trong Thông điệp tháng 6-1974, Nguyễn Văn Thiệu kêu gọi binh lính “đánh giặc theo kiểu con nhà nghèo”3 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.879). Tình hình chính trị, quân sự, kinh tế... của chính quyền Sài Gòn đang chuyển biến theo hướng có lợi cho Quân giải phóng.


Tháng 5-1974, Quân ủy Miền ra nghị quyết chỉ rõ “làm chuyển biến rõ nét hơn nữa cục diện chiến trường đồng bằng Cửu Long, tạo điều kiện tiến lên giành phần lớn vùng nông thôn đồng bằng... Phát huy thế mạnh ở miền Đông, mở rộng và hoàn chỉnh vùng giải phóng, lấn dần vùng trung tuyến, đẩy mạnh hướng tấn công ở phía đông Sài Gòn thuộc phạm vi QK6 + QK7; tạo cho được thế chiến tranh du kích và phong trào đấu tranh chính trị ở vùng ven chung quanh Sài Gòn đều hơn, chuẩn bị cơ sở cho phong trào đô thị”1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.22, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Cuối tháng 7-1974, Trung ương Cục tổ chức Hội nghị lần thứ 13, nhận định “cách mạng có khả năng giành thắng lợi lớn trong mùa mưa và mùa khô năm 1974-1975”. “Để biến những khả năng trên thành hiện thực thì phải chuẩn bị tốt cho cả mùa mưa và mùa khô, nỗ lực lớn, phát huy tư tưởng tiến công, giành thắng lợi lớn, tạo ra bước ngoặt có tính quyết định”2 (Hội đồng chi đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sủ Nam Bộ kháng chiến, Sdd, t.II, tr.880).


Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Cục, Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo quân chủ lực Miền, quân chủ lực các quân khu và bộ đội địa phương các tỉnh huyện trên chiến trường B2 tổ chức tấn công ngay trong mùa mưa năm 1974. “Phải tiếp tục phát triển tấn công mạnh hơn, giành thắng lợi lớn hơn mọi năm”3 (Báo cáo tổng kết kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 5-1981, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7), quyết không cho đối phương gượng dậy, phục hồi, làm thay đổi lớn hơn nữa cục diện chiến trường, tạo sự chuyển biến mang lợi thế so sánh về lực lượng và trang thiết bị kỹ thuật quân sự có lợi cho Quân giải phóng...


Tại cực Nam Trung Bộ, bộ đội Quân khu 6 phá lỏng kìm ở một số nơi như Tánh Linh, Trà Cổ, Sông Lũy (Bình Thuận).

Tại Đông Nam Bộ, chủ lực Miền cùng bộ đội Quân khu 7, Quân khu Sài Gòn - Gia Định tấn công tuyến Bến Cát - Rạch Bắp, mở tuyến bắc sông Đồng Nai, tuyến lộ 2 Bảo Bình - Bà Rịa, tuyến lộ 20 Định Quán, bắn phá sân bay Biên Hòa, tấn công kho xăng dầu Nhà Bè... Trong hai tháng 9 và 10-1974, lực lượng đặc công đã tấn công 82 mục tiêu trong số 90 mục tiêu ở vùng ven Sài Gòn, diệt 4 đồn, giải tán 17 toán phòng sự dân vệ, làm rã 7 ban tề ấp, xóa toàn bộ ấp trắng, đưa lên thế tranh chấp 12 ấp với 22.600 dân.


Tại Trung Nam Bộ, bộ đội Quân khu 8 đã mở được 8 lõm mới tại Mỹ Tho, Bến Tre, Sa Đéc, Long Châu Tiền. Cuối năm 1974, toàn khu có 26 xã giải phóng hoàn toàn, 59 xã giải phóng cơ bản, 751 ấp với 470.000 dân.


Tại Tây Nam Bộ, đến cuối 1974, bộ đội Quân khu 9 đã giải phóng hoàn toàn 56 xã, giải phóng cơ bản 93 xã, 1.367 ấp, khoảng 908.000 dân (có 56.350 dân bưng về).

Chỉ trong 3 tháng 7, 8, 9-1974, chủ yếu bằng lực lượng vũ trang địa phương và ba mũi tiến công ở cơ sở, lực lượng Quân giải phóng đã diệt địch và giành dân gần bằng kết quả của 6 tháng Xuân Hè năm 1974: diệt 5 tiểu đoàn quân đội Sài Gòn, giải phóng 215.000 dân, giải phóng hoàn toàn 16 xã, giải phóng cơ bản 28 xã. Trên toàn chiến trường B2, trong 8 tháng đầu năm 1974, Quân giải phóng đã “đánh 1.554 trận, loại khỏi vòng chiến 116.343 quân”, “gỡ 1.826 đồn bót; các địa phương đã giải phóng 72 xã, 394 ấp, với 426.000 dân”1 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.883)...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:27:47 am
4. Chiến đấu thực hiện kế hoạch tác chiến mùa khô 1974 - 1975

Đến cuối năm 1974, trên chiến trường B2, cán cân quân sự đã nghiêng hẳn về phía Quân giải phóng, thời cơ hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân xuất hiện. Quân ủy Trung ương chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu xây dựng “kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam sau vài ba năm làm thay đổi so sánh lực lượng ở miền Nam”. Dự thảo mang bí số 133/TG1 ra đời với nội dung kế hoạch “Quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam” trong hai bước:


Bước một, giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong năm 1975...,

Bước hai, đánh lớn, tiến công và nổi dậy, giành thắng lợi hoàn toàn miền Nam trong năm 19761 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn tháng (Hồi ức), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 109-110)...


"... động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đêh mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch củng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà...”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.35, tr. 185).


Trên chiến trường B2, kế hoạch tác chiến 1975 dự kiến chia thành 3 đợt: Đợt 1 (từ tháng 12-1974 đến tháng 2-1975); Đợt 2 (từ tháng 3-1975 đến tháng 6-1975); Đợt 3 (từ tháng 8-1975 đến tháng 10-1975).

a) Đợt 1 mùa khô 1974-1975

Đợt 1 dự kiên thực hiện từ đầu tháng 12-1974 đến hết tháng 2-1975, Quân giải phóng B2 chủ động tấn công phá kế hoạch mùa khô của địch, giành thắng lợi lớn hướng chủ yếu là đồng bằng Cửu Long, khu vực Vĩnh Trà, vùng Chương Thiện, vùng 4 Kiến Tường và miền Đông Nam Bộ với hướng Đường 14 - Phước Long.


Đêm 5-12-1974, Quân giải phóng Miền, Quân giải phóng các quân khu và bộ đội địa phương các tỉnh, huyện bắt đầu bước vào chiến dịch.


Ở đồng bằng sông Cửu Long

Trên địa bàn Vĩnh Trà, Quân khu 9 sử dụng hai trung đoàn (Trung đoàn 1 và Trung đoàn 3) kết hợp với bộ đội địa phương mở chiến dịch tổng hợp tại Vĩnh Trà. Ngày 5-12-1974, để đánh lạc hướng đối phương, Trung đoàn 1 đã nổ súng tản công giải phóng xã Tam Ngãi (Cầu Kè). Khi vào chiến dịch, (ngày 5-12-1974), lực lượng vũ trang Quân khu 9 lần lượt tấn công Trà Vinh, Vĩnh Long; mở toang vùng Tiểu cần, Trà Cú Cầu Ngang, Duyên Hải, nam sông Măng Thít..., làm chủ hầu hết các đường giao thông nông thôn, gỡ 423 đồn bót, loại khỏi vòng chiến và diệt 5 tiểu đoàn, 11 đại đội quân lực Sài Gòn, giải phóng 24 xã, giải phóng cơ bản 14 xã, 240 ấp, 206.000 dân.


Trên địa bàn Hậu Giang, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 4 tấn công, bao vây chi khu Hưng Long, tập trung đánh Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 21 ngụy phản kích, giải tỏa. Sau khi tấn công dứt điểm chi khu Hưng Long (ngày 17-12-1974), Sư đoàn 4 phối hợp với lực lượng quần chúng bao vây, bức rút địch ở Gò Quao, Vĩnh Hòa, Thúy Liễu, giải phóng tuyến Ba Hồ (Bắc Chương Thiện). Bên cạnh đó, Quân khu 9 sử dụng lực lượng chủ lực khu kết hợp với bộ đội địa phương tấn công Châu Hà, giải phóng Nam Thái Sơn, Mỹ Lâm, Tân Hội, Sóc Sơn, Bình Sơn, Thổ Sơn, phát triển lên mở vùng Ba Thê.


Phối hợp với các mùi tấn công chính, bộ đội địa phương tổ chức “chia lửa” mở phân tuyến Xã No, Xà Phiên, Thuận Hưng, phần lớn xã Vĩnh Thuận Đông, Vị Thủy (Cần Thơ); Hóa Quản, Thủy Liễu, Cà Nhưng (Rạch Giá); tuyến Sông Đốc, Cái Tàu, Bảy Háp, nam bắc thị xã (Cà Mau); sông Cổ Cò, Thạnh Thới An giải phóng cơ bản 3 xã thuộc Mỹ Tú, mở lõm ở bắc Đại Ngãi (Sóc Trăng).


Đặc biệt, trong giai đoạn 1, lực lượng ba mũi ở vùng Hậu Giang đã gỡ 157 đồn bót, có trên 400 đội du kích đánh 1.167 trận, loại khỏi vòng chiến trên 3.000 tên địch.

Trên địa bàn Bến Tre, Quân khu 8 sử dụng Trung đoàn 1 và 1 tiểu đoàn đặc công kết hợp với bộ đội địa phương mở chiến dịch tổng hợp nhỏ tại Mỏ Cày, gỡ 13 đồn bót, mở 3 lõm thuộc Hưng Khánh Trung, Thành An, Tân Thạnh Tây. Riêng bộ đội địa phương Bến Tre gỡ được 6 đồn, giải phóng cơ bản xã Long Mỹ và một số ấp tại Giồng Trôm...


Trên địa bàn Kiến Tường, Sư đoàn 5 của Miền tăng cường đã kết hợp với bộ đội địa phương Kiến Tường tấn công nhằm mở tuyến biên giới, dứt điểm quận lỵ Tuyên Nhơn; mở các tuyến Vàm Cỏ Tây, kinh La Răng, chùa Nổi, Nam Bình Châu...


Trên địa bàn Đồng Tháp Mười, Sư đoàn 8 chủ lực của Quân khu 8 tấn công yếu khư Kinh Quận (điêm then chôt), chi khu Kiến Bình, căn cứ Phụng Thớt, khu nhà thờ Lá, đồn kinh Bùi Mới, đồn Bắc Hòa, đồn Bốn Bích... Một bộ phận Sư đoàn 8 còn kết hợp với Trung đoàn 88, Tiểu đoàn 341 công binh, Trung đoàn 207 và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Mỹ Tho tiến công đồn Cầu Dừa (Mỹ Phước Tây), cắt lộ 12 (13 ngày), đánh sập cầu Cái Lân, mở lõm nam lộ 4 Cái Bè, gỡ 26 đồn, giải phóng cơ bản 3 xã, 12 ấp tại chợ Gạo...


Chia lửa với chiến trường chính, bộ đội địa phương Long Châu Tiền, Sa Đéc gỡ được 6 đồn, giải phóng trên 10.000 dân ở Mỹ An Hưng, Lấp Vò (Châu Thành)...; bộ đội địa phương An Long mở vùng Kinh Quân, Kinh Xáng tuyến Vàm cỏ, đưa 7.000 dân về làng cũ làm ăn...


Ở miền Đông Nam Bộ và Khu 6

Bước vào chiến dịch, Bộ Tư lệnh Miền chủ trương đồng thời mở bốn mặt trận chính bao gồm Đường 14 - Phước Long, Võ Đắc - Tánh Linh; Tây Ninh và vùng ven - nội đô nhằm kìm, căng đối phương trên diện rộng, tạo điều kiện cho việc giải quyết từng mục tiêu cụ thể.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:29:27 am
Mặt trận Đường 14 - Phước Long:

Đêm 12 rạng sáng ngày 13-12-1974, được lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, ba trung đoàn (2 trung đoàn của Sư đoàn 3 và 1 trung đoàn của Sư đoàn 7) kết hợp với lực lượng đặc công nổ súng mở màn chiến dịch tấn công khu vực Bù Đăng1 (Lực lượng đối phương có 1 tiểu đoàn bảo an và cảnh sát, dân vệ PBDS (khoảng 1.200 lính), 25 đồn bót, có 2 điểm chi khu cũ và mới, 1 quận lỵ hành chính). Sau 27 giờ chiến đấu, Quân giải phóng làm chủ khu vực Bù Đăng, phát triển xuống ngã ba Liễu Đức. Cùng lúc đó, trên một tuyến khác, 5 tiểu đoàn bộ binh cùng lực lượng đặc công tấn công khu vực Bù Na2 (Lực lượng đối phương có 1 tiểu đoàn bảo an, dân vệ (khoảng 500 lính), có 7 đồn, trong đó 1 yếu khu), đến 15-12-1974 thì dứt điểm, sau đó phát triển lên ngã ba Liễu Đức Liên, một bộ phận phát triển về hướng Đồng Xoài.


Cùng thời gian, bộ đội địa phương tỉnh Bình Phước tấn công tiêu diệt chi khu Bù Đốp lưu vong, nhưng bị quân ngụy phản kích và chiếm lại sau 2 ngày giao tranh ác liệt.

Như vậy, sau 3 ngày tác chiến (từ ngày 13 đến đến ngày 15-12-1974), Quân giải phóng chỉ làm chủ được đường 14 đoạn từ km11 đến nam Kiên Đức; chi khu Bù Đốp lưu vong chưa giải quyết được theo kế hoạch. Tuy nhiên, khi tuyến đường 14 bị Quân giải phóng phong tỏa, chính quyền Sài Gòn nhận ra rằng chi khu Đồng Xoài, chi khu Phước Bình và cả thị xã Phước Long đều bị Quân giải phóng uy hiếp. Hình thái chiến trường trở nên xấu đi nghiêm trọng cho quân đội Sài Gòn trong khi đang bị kìm chặt và căng mỏng trên khắp chiến trường miền Đông. Sư 18 ngụy bị kìm chân trên địa bàn Hoài Đức, Long Khanh; Sư 25 ngụy cũng bị căng mỏng trên chiến trường Tây Ninh. Trong khi đó, các nguồn tin tình báo cho biết, Quân giải phóng đang phát triển về uy hiếp Phú Giáo, Tân Uyên Bến Cát lô 7... (đòn nghi binh của Sư đoàn 9 Quân giải phóng), buọc Sư đoàn 5 ngụy phải tổ chức phòng ngự chống đỡ, không thể điều binh giải tỏa lộ 14.


Thời cơ tiêu diệt chi khu Đồng Xoài xuất hiện. Bộ Tư lệnh Miền sau khi kiểm tra lại tình hình đã hạ quyết tâm tiêu diệt Đồng Xoài và dự kiến nếu tình hình phát triển thuận lợi, Quân giải phóng có thể “phát triển lên hướng thị xã Phước Long, tiêu diệt các chi khu và đồn bót xung quanh, tạo thời cơ tốt để dứt điểm thị xã Phước Long với thời gian nhanh nhất”1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.37, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7). Đề nghị của Bộ Tư lệnh Miền không những được Quân ủy Trung ương chấp thuận mà còn được đồng ý cấp lệnh điều động xe tăng, pháo hạng nặng, pháo cao xạ phục vụ chiến dịch.


Để bảo đảm thực hiện chiến dịch thắng lợi, Bộ Tư lệnh Miền tập trung một lực lượng quân sự áp đảo, bao gồm: 1 sư đoàn (F3), 6 trung đoàn (2 E độc lập, 2E thuộc F7, 1E thuộc F9 và E16), các tiểu đoàn độc lập, đặc công, hậu cần, 2 tiểu đoàn pháo mặt đất (130 ly, 105 ly, 85 ly, cối 160 ly), 5 tiểu đoàn pháo cao xạ, 8 tăng T54 và 12 tăng T59.


Trước và trong quá trình diễn ra chiến dịch, Bộ Tư lệnh Miền cho Quân giải phóng tấn công nghi binh kìm chân Sư 18, Sư đoàn 5 ngụy tại các mặt trận Hoài Đức, Tây Ninh; lệnh cho lực lượng đặc công, pháo binh tập kích vào sân bay Biên Hòa, các bãi tiếp dầu trực thăng ở Lai Khê, Phú Lợi (Bình Dương) và căn cứ biệt động quân ở Chơn Thành, An Lộc nhằm ngăn ngừa sự chi viện cho Phước Long bằng đường không...


Ngày 22-12-1974, một bộ phận quân chủ lực Sư đoàn 7 kết hợp với bộ đội địa phương tỉnh Bình Phước tiến đánh chi khu Bù Đốp lần thứ hai. Sau khi chi khu Bù Đốp lưu vong thất thủ, số binh lính Sài Gòn sống sót chạy về Phước Long kết hợp với sô tàn quân canh trú trên đường 14 rút về trước đó đã lập thành các tuyến phòng thủ xung quanh thị xã, núi Bà Rá và chi khu Phước Bình. Do vậy, lực lượng quân ngụy Sài Gòn bảo vệ chi khu Đồng Xoài, chi khu Phước Bình và ở thị xã Phước Long có khoảng 4.000 quân, 10 pháo các loại, 1 chi đội cơ giới và có trên 40 đồn bót1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.38, lưu trù Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Ngày 26-12-1974, Trung đoàn bộ binh tăng cường của Sư đoàn 7 Quân giải phóng tấn công và nhanh chóng chiếm lĩnh chi khu Đồng Xoài. Ngày 31-12-1974, Quân giải phóng đồng loạt tấn công chi khu Phước Bình, cao điểm Bà Rá... Sau 4 ngày tấn công, Quân giải phóng không những đập tan chi khu Phước Bình, chiếm lĩnh cao điểm Bà Rá mà còn đập vỡ các tuyến phòng ngự, áp sát thị xã Phước Long từ hướng tây bắc, hướng nam... Trước sự tấn công như vũ bão của Quân giải phóng, đúng 10 giờ 30 phút ngày 6-1-1975, thị xã Phước Long hoàn toàn thất thủ, cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Quân giải phóng tung bay trên nóc dinh Tỉnh trưởng Phước Long1 (Kết quả Quân giải phóng làm tan rã 4 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn thuộc Chiến đoàn 7 Sư đoàn 5 ngụy, diệt 1.160 tên, bắt sống 2.146 tên, thu 3.125 súng các loại (trong đó có 6 pháo 155 ly, 15 pháo 105 ly, 14 cối 81, 20 khấu cối 60 ly, 4 khẩu ĐK57, 1 khẩu 106,7), bắn rơi 15 máy bay).


Mặt trận Tánh Linh - Hoài Đức:

Để mở mặt trận Tánh Linh - Hoài Đức, Bộ Tư lệnh Miền sử dụng 2 trung đoàn bộ binh (E4, E33), 3 tiểu đoàn đặc công (D18, D20, D200c) thuộc Sư đoàn 6 Quân khu 7 và Trung đoàn 812 Quân khu 6.

Đêm 9 rạng sáng ngày 10-12-1974, Trung đoàn 812 và Tiểu đoàn 200C đặc công tiến công cao điểm Lồ Ô - Núi Gian, cô lập chi khu Tánh Linh; 2 tiểu đoàn đặc công (D18, D20) tiến công chi khu Hoài Đức; Trung đoàn 4 và Trung đoàn 33 chặn đánh Liên đoàn 7 biệt động quân, Chiến đoàn 48 thuộc Sư đoàn 18 và Trung đoàn 5 thiết giáp ngụy; mở tuyến Trà Tân - Cầu Gia Huynh, uy hiếp chi khu Võ Đắc.


Bị Quân giải phóng tấn công toàn tuyến Tánh Linh - Hoài Đức, chính quyền Sài Gòn đã điều động Chiến đoàn 43 thuộc Sư đoàn 18 lên ứng cứu. Do vậy, chiến dịch trở nên khó khăn, Quân giải phóng chưa thể dứt điểm được chi khu Võ Đắc. Tuy nhiên, Quân giải phóng đã kịp giải phóng hoàn toàn huyện Tánh Linh và 4 xã thuộc huyện Hoài Đức với 34.287 dân. Quan trọng hơn, Quân giải phóng đã kìm chân được Sư đoàn 18 ngụy, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Đường 14 - Phước Long2 (Kết quả mặt trận Tánh Linh - Hoài Đức, Quân giải phóng loại khỏi vòng chiến 2.380 binh lính Sài Gòn, xóa sổ 1 tiểu đoàn, 3 đại đội và mở được 48 đồn bót).


Mặt trận Tây Ninh:

Bộ Tư lệnh Miền sử dụng hai trung đoàn chủ lực Miền (E16, E205) kết hợp với bộ đội địa phương Tây Ninh tấn công căn cứ truyền tin dã chiến II trên đỉnh núi Bà Đen, căn cứ Xóm Phan và căn cứ Suối Đá (trận then chốt).


Rạng sáng ngày 5-12-1974, lực lượng trinh sát Bộ Tham mưu Miền được sự chi viện của hỏa lực pháo mặt đất và pháo cao xạ tiến công căn cứ truyền tin dã chiến II trên đỉnh núi Bà Đen. Cùng thời điểm, Trung đoàn 205 tập kích căn cứ Suối Đá, Trung đoàn 16 tiến công căn cứ Xóm Phan, bộ đội địa phương Tây Ninh kìm chân đốĩ phương ở khu vực phía nam Tòa Thánh và lộ 22...


Sau 32 ngày chiến đấu ác liệt, Quân giải phóng đã chiếm được căn cứ truyền tin dã chiến II trên đỉnh núi Bà Đen, làm rối loạn hệ thống truyền tin, buộc chính quyền Sài Gòn phải sử dụng Sư đoàn 25, lực lượng biệt kích dù và điều động cả lực lượng không quân thuộc Quân đoàn 3 lên giải cứu. Dù Quân giải phóng không mở được căn cứ Suối Đá, nhưng Mặt trận Tây Ninh có vai trò lớn trong việc kìm giữ lực lượng đối phương để Quân giải phóng hoàn thành mục tiêu ở Mặt tràn Đường 14 - Phước Long.


Mặt trận vùng ven - nội đô:

Trên hướng tây và tây bắc, lực lượng vũ trang Thành đội gỡ hệ thống đồn bót tại Củ Chi, Hóc Môn, nam bắc Bình Chánh, đánh địch ủi phá địa hình tại Phú Hòa Đông, Gò Vấp. Lực lượng đặc công (Đoàn 115, Đoàn 117) gỡ đồn bót và củng cố bàn đạp đứng chân tại Đức Hòa, Tam Tân. Đoàn 119 diệt và bức rút đồn bót dọc lộ 8, phát triển xuống sát Lái Thiêu.


Trên hướng đông và đông bắc, lực lượng vũ trang Thành đội tại Nam Thủ Đức tấn công gở đồn, bót và đánh binh lính Sài Gòn càn quét, đưa được lực lượng bám trụ tại vùng Bưng Sáu Xã (Nam Thủ Đức). Lực lượng đặc công (Đoàn 119) tiến đánh đồn bót, lực lượng phòng vệ dân sự trên địa bàn Châu Thành Thủ Dầu Một. Đoàn 116 tiến công đồn tại Long Thành, Thủ Đức, áp sát Long Bình, Suối Nước Trong, Nam Thủ Đức. Đoàn 10 bức rút đồn ở Nhà Bè, Nhơn Trạch, tấn công tàu chiến của đối phương trên sông Nhà Bè, sông Lòng Tàu. Đoàn 113 tập kích bằng hỏa lực không chế sân bay Biên Hòa, tạo điều kiện cho Quân giải phóng mở Mặt trận Đường 14 - Phước Long- tập kích bằng hỏa lực vào Trung tâm huấn luyện Quang Trung căn cứ Đồng Dù, căn cứ Long Bình, căn cứ Quan Tre, căn cứ suối Nước Trong...


Ở nội thành, lực lượng đặc công, biệt động tập kích Phòng thông tin Phú Thọ Hòa, Trạm kiểm soát xa cảng Phú Lâm, Trạm tuyến lính ngã tư Bảy Hiền, bót cảnh sát tại quận 7, đường Minh Phụng1 (Kết quả hoạt động của mặt trận vùng ven - nội đô, lực lượng vũ trang cách mạng đã loại khỏi chiến đấu 4.281 tên, diệt 1 đại đội, gỡ 84 đồn, phá hủy 14 máy bay, 2 tàu, 78 xe, 5 kho, 20 cầu. Giải phóng hoàn toàn 3 xã, 4 xã cơ bản, 37 ấp, 17.000 dân)...


Kết quả chung đợt 1 mùa khô 1974-1975, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã loại khỏi vòng chiến được 56.315 binh lính Sài Gòn, xóa 22 tiểu đoàn, 1 bộ chỉ huy tiểu đoàn, 66 ban tề, 1 giang đoàn, 1 chi đội; đánh thiệt hại 25 tiểu đoàn, 4 chi đoàn; thu 12.122 súng các loại, 604 xe quân sự, phá hỏng 108 máy bay, 110 tàu chiến, mở 1.548 đồn bót2 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.42, 43, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7)...


Cùng với kết quả đợt 1, hoạt động của Quân giải phóng trên chiến trường B2 trong bước 1 đợt 2 mùa khô 1974-1975 đã làm thay đổi hình thái chiến trường, làm thay đổi cả cán cân quân sự địch - ta, làm cho cán cân đó nghiêng hẳn về phía Quân giải phóng. Kết quả đã tạo nên thời cơ vô cùng thuận lợi để quân dân miền Nam Việt Nam có thể hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã khởi đầu từ 21 năm qua.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:31:04 am
b) Đợt 2 mùa khô 1974-1975

Theo dự kiến, đợt 2 mùa khô năm 1974-1975 được thực hiện từ đầu tháng 3-1975 đến tháng 6-1975. Tuy nhiên, trên thực tế Đợt 2 mùa khô 1974-1975 hình thành nên 2 bước: Bước 1 từ đầu tháng 3-1975 đến ngày 9-4-1975; Bước 2 từ ngày 10- 4-1975 đến ngày 25-4-1975 (bước này có thể coi là giai đoạn chuẩn bị cho Chiến dịch Hồ Chí Minh) và tiếp theo là Chiến dịch Hồ Chí Minh.


Bước 1 (đợt 2)

Ngay từ tháng 1-1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: Thế và lực cách mạng đã lớn mạnh hơn hẳn lên, ta đang ở thế chủ động tấn công, lại có vùng giải phóng rộng lớn liên hoàn vùng núi, thế chiến lược của ta rất vững chắc và ngày càng mạnh ở nông thôn...1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 02 năm 1979, tr.44, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7). Từ nhận định đó, Bộ Chính trị chủ trương “chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích và tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy, đánh đổ ngụy quyền... giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam”2 (Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, t.II, tr. 184-185).


Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị là cách mạng miền Nam sẽ giành thắng lợi quyết định trong 2 năm (1975-1976), đồng thời dự kiến: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì phải nhanh chóng nắm lấy thời cơ, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam ngay trong năm 19751 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.44, 45, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo lực lượng vũ trang trên chiến trường B2 quyết tâm hoàn thành các chỉ tiêu đã hoạch định ngay trong mùa khô năm 1975.


Ở miền Đông và Khu 6:

Trên hướng Dầu Tiếng, Tây Ninh, lộ 13, đêm 10 rạng sáng 11-3-1975, Quân đoàn 4 sử dụng một bộ phận Sư đoàn 9, Trung đoàn 16, 1 đại đội pháo 130 ly và 1 tiểu đoàn tăng T54 kết hợp với bộ đội địa phương Tây Ninh, Bình Phước mở chiến dịch tấn công chi khu Dầu Tiếng, căn cứ Suối Ông Hùng, cầu Khởi, lộ 13 (Tây Ninh)... Đến ngày 17-3-1975, tất cả các mục tiêu đều được giải quyết. Quân giải phóng diệt 3.089 lính ngụy, thu 1.063 súng, phá 61 xe, 3 xe M41, 6 pháo, 155 máy thông tin...


Trên hướng An Lộc - Chơn Thành, ngày 20-3-1975, Quân đoàn 4 sử dụng một bộ phận Sư đoàn 9, Trung đoàn 341 kết hợp với bộ đội địa phương Bình Phước tấn công giải phóng An Lộc, Chơn Thành, diệt trên 2.000 lính ngụy.


Trên hướng Định Quán - lộ 20, Quân đoàn 4 sử dụng Trung đoàn 14 (Sư đoàn 7) tấn công chi khu Định Quán; Trung đoàn 290 (Sư đoàn 7) tấn công cầu La Ngà; một tiểu đoàn của Trung đoàn 4 (Sư đoàn 7) tấn công yếu khu Đạ Hoai, Phương Lâm. Phục vụ mặt trận Định Quán - lộ 20, ngoài lực lượng Sư đoàn 7 còn có lực lượng của Sư đoàn 341. Tuy nhiên, Sư đoàn 341 chỉ làm lực lượng dự bị, sẵn sàng cơ động đánh chặn Sư đoàn 18 ngụy có thể từ Túc Trưng - Long Khánh kéo lên. Kết quả trên hướng Định Quán - lộ 20, Quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến 200 lính ngụy, bắt 145 tên, thu 364 súng các loại, 54 máy thông tin1 (Lực lượng đối phương trên tuyến lộ 20 từ Túc Trưng - Đạ Hoai gồm có 1 tiểu đoàn chủ lực, 11 đại đội bảo an. Ngoài ra còn có lực lượng Sư đoàn 18 đóng tại Long Khánh, Chiến đoàn 318 tại Trảng Bom, Liên đoàn 9 biệt động quân đóng tại Long Bình).


Trên hướng Lâm Đồng - Di Linh - Đà Lạt, Quân đoàn 4 sử dụng lực lượng Sư đoàn 7 tấn công thị xã Lâm Đồng; một bộ phận kết hợp với quân chủ lực Khu 6 (E812) tấn công giải phóng Di Linh; một bộ phận phát triển về Đà Lạt. Kết quả, trên hướng Lâm Đồng - Di Linh - Đà Lạt, Quân giải phóng đã đánh tan 4 tiểu đoàn dân vệ và 2 tiểu đoàn biệt động quân.


Trên hướng Bình Tuy - Long Khánh, ngày 16-3-1975, lực lượng Sư đoàn 6 của Quân khu 7 phối hợp lực lượng bộ đội địa phương tiến công giải phóng khu vực lộ 3, đoạn từ Hoài Đức đến Gia Ray, ngã ba ông Đồn, Đồi 52 (Long Khánh), Suối Cát, căn cứ 3 lộ 1, căn cứ 4 lộ 1 Long Khánh, căn cứ 10 lộ 1 Bình Tuy... Kết quả, trên hướng Bình Tuy - Long Khánh, Quân giải phóng đã đánh tan Chiến đoàn 48, Chiến đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 tại Long Khánh, 2 tiểu đoàn thuộc Chiến đoàn 43 tại Núi Thị, 1 tiểu đoàn thuộc Chiến đoàn 43 tại Võ Đắc ngoài ra còn có Tiểu đoàn 344 Bình Tuy tại Trà Tân...


Trên vành đai vùng ven Sài Gòn, ngày 20-3-1975, Trung đoàn Gia Định 1 kết hợp với lực lượng bộ đội địa phương Củ Chi tấn công đoàn xe GMC chở đạn (51 xe GMC và 2 xe hộ tống) trên tuyến Hóc Môn - Củ Chi. Lực lượng đặc công biệt động tham gia đội hình Sư đoàn 2 đặc công triển khai xuống hướng tây nam, pháo kích sân bay Biên Hòa, Đồng Dù, kho xăng Vũng Bèo...


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:33:17 am
Ở đồng bằng sông Cửu Long:

Trên tuyến biên giới Tây Ninh - Long An, ngày 12-3-1975, Đoàn 232 sử dụng Sư đoàn 3 và 1 trung đội thuộc Sư đoàn 5 tấn công hệ thống đồn bót trên tuyến biên giới Tây Ninh - Long An. Ngày 14-3-1975, dứt điểm hệ thống đồn bót ở Bến Cầu, Mộc Bài, An Thạnh, Tra Cao; ngày 20-3-1975 dứt điểm yếu khu Quéo Ba, mở thông hành lang dọc bờ tây sông Vàm Cỏ Đông đoạn từ Tây Ninh đến Kiến Tường. Quân giải phóng đã làm rã 2 tiểu đoàn bảo an, Tiểu đoàn 83 biệt động quân, khoảng 2.300 phòng vệ dân sự, 36 đồn bót...


Trên tuyến Đồng Tháp Mưòi - Mỹ Tho, chủ lực Quân khu 8 sử dụng lực lượng Sư đoàn 8 tiến công căn cứ Ngã Sáu Mỹ Tho, giải phóng đại bộ phận lộ 20; Trung đoàn 88 bức rút đồn Bắc Cai Lậy; Tiểu đoàn 341 công binh tiến công giao thông trên lộ 12...


Trên tuyên Vĩnh Trà - Bến Tre, chủ lực Quân khu 9 sử dụng lực lượng Trung đoàn 3 và Trung đoàn 1 tấn công yếu khu Thầy Phò, đánh chặn viện và gỡ đồn bót trên lộ Vĩnh Xuân. Sau khi hoàn thành mục tiêu, Trung đoàn 3, Trung đoàn 1 phối hợp với bộ đội địa phương Vĩnh Trà tiến đánh yếu khu cầu Mới, Cái Nhum, Ba Còng, Cát Vòn... làm chủ tuyến sông Măng Thít. Trung đoàn 1 tiếp tục phối hợp với bộ đội địa phương Bến Tre bức rút đồn bót, giải phóng xã Tân Thiêng, Phú Son, Hòa Nghĩa (Chợ Lách)... Bộ đội địa phương Bến Tre diệt PCK Tân Xuân - Phưóc Tuy - Ba Tri, giải tỏa Tiểu đoàn 454, Tiểu đoàn 453 bảo an, gỡ 40 đồn bót, mở mảng ở 3 xã của huyện Ba Tri.


Trên địa bàn Hậu Giang, Sư đoàn 4 tấn công căn cứ Bà Đầm, giải phóng Thường Xuân, Kinh Xáng, Ô Môn. Trung đoàn 10 (F4) đánh thiệt hại FCK Rạch Gòn, giải phóng cánh đồng Long Thành, Nam Cái Tắc. Bộ đội địa phương Cần Thơ giải phóng cơ bản kinh xáng Xà Mo từ Kinh 14.000 lên vàm.


Bước 2 (đợt 2)

Cùng với những thắng lợi vang dội của Quân giải phóng B3 trên chiến trường Tây Nguyên, B4 trên chiến trường Trị Thiên, BI trên chiến trường Khu 5... kết quả hoạt động bước 1 trong đợt 2 mùa khô 1974-1975 của Quân giải phóng B2 đã làm cho binh lính ngụy Sài Gòn trở nên hoang mang đến cực độ, một bộ phận hoảng loại, trốn chạy... dân đến nguy cơ tự tan rã từng mảng lớn, cả trong bộ máy công quyền và lực lượng quân sự Việt Nam Cộng hòa.


Hình thái chiến trường thật sự có lợi cho Quân giải phóng, “Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính tri như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam”1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.44).


Trên cơ sở nhận định trên, từ nửa cuối tháng 3-1975, Bộ Chính trị đề ra quyết tâm “Nắm vững thời cơ, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào phương hướng chủ yếu, hành động táo bạo bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay”; “quyết tâm hoàn thành giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa”2 (Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, t.2, tr. 209); “thời điểm chiến lược để tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào sào huyệt của địch đã chín muồi”3 (Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Sđd, tr. 217).


Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, từ cuối tháng 3-1975 đã tiến hành xây dựng phương án tiến công giải phóng Sài Gòn bằng cách sử dụng lực lượng vũ trang B2 có tăng cường thêm từ 2 sư đoàn đến 1 quân đoàn của Bộ. Song để bảo đảm chắc thắng, Bộ Chính trị quyết định tập trung sử dụng 15 sư đoàn quân chủ lực. Sau khi giải phóng xong Sài Gòn nếu đồng bằng sông Cửu Long chưa giải quyết xong sẽ phát triển xuống đồng bằng để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng toàn bộ đất nước. Để thực hiện phương án này, Bộ Quốc phòng đã điều động 3 quân đoàn chủ lực và số lớn binh khí kỹ thuật từ miền Bắc, miền Trung vào tham gia chiến dịch1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kỉnh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2), tháng 2 -1979, tr.59, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Ngày 29-3-1975, Thường vụ Trung ương Cục ra Nghị quyết 15, chỉ đạo quân dân trên chiến trường B2 “Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam thực hiện thống nhất nước nhà...”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.503-504, 504-505). “Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tập trung cao nhất mọi sức mạnh tinh thần và lực lượng của mình, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp ba mũi giáp công, ba thứ quân, ba vùng, vùng lên tổng công kích tổng khởi nghĩa nhanh chóng đánh sập toàn bộ ngụy quân ngụy quyền, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân với khí thế tấn công quyết liệt, thần tốc, táo bạo và quyết giành toàn thắng, giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình, toàn miền Nam”3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.503-504, 504-505).


Trên địa bàn B2, Quân giải phóng bước vào chiến dịch nhằm phá thế phòng thủ, chia cắt lực lượng đối phương, tạo thế trận có lợi cho trận quyết chiến chiến lược cho chiến dịch.


Trên địa bàn Quân khu 6 và Quân khu miền Đông:

Trong bước 1 Đợt II, sau khi hoàn thành các mục tiêu trên hướng Lâm Đồng - Di Linh - Đà Lạt, một bộ phận Trung đoàn 812 (Quân khu 6) phát triển về Ninh Thuận, Bình Thuận, phối hợp với lực lượng Quân đoàn 2 của Bộ đánh chiếm Phan Rang (từ ngày 14 đến ngày 16-4-1975), Phan Thiết (ngày 19- 4-1975), Bình Tuy (ngày 22-4-1975)... giải phóng hoàn toàn Khu 6.


Ở Mặt trận Xuân Lộc, do lực lượng chủ lực Quân đoàn 41 (Quân đoàn 4 (thiếu) phụ trách hướng đông - đông nam, bao gồm lực lượng Quân đoàn 4 được tăng cường thêm Sư đoàn 6 (Quân khu 7), Lữ 52 (Quân khu 5), 1 tiểu đoàn pháo 130 ly, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn pháo cao xạ hỗn hợp, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 trung đoàn đặc công (E113) cùng lực lượng bộ đội địa phương các tỉnh miền Đông. Quân đoàn 4 có nhiệm vụ thực hành chia cắt, bao vây tiêu diệt F18 địch, giải phóng Xuân Lộc, phát triển về Biên Hòa (bao gồm cả Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 địch và sân bay), một bộ phận phát triển xuống đánh thẳng vào Vũng Tàu, cắt đứt lộ 15 và sông Lòng Tàu, đưa pháo bắn vào các mục tiêu quân sự trong Sài Gòn, đánh chiếm Dinh Độc Lập, căn cứ Hải quân, Bộ Quốc phòng, Đài Phát thanh... Thời gian nổ súng là đêm 9-4-1975) được bổ sung thêm Sư đoàn 341, Sư đoàn 6 thiêu (Quân khu 7), Trung đoàn 5 (Quân khu 5) phụ trách. Sáng 9-4-1975, Sư đoàn 1 tiến công thị xã Xuân Lộc, đánh chiếm bến xe, ấp Trần Hưng Đạo, hậu cứ Chiến đoàn 52, đồi Móng Ngựa... Sư đoàn 6 (Quân khu 7) và Trung đoàn 95E bố trí đánh chặn viện, chia cắt phía tây Xuân Lộc, giải phóng Túc Trưng, Kiệm Tân, Dầu Giây...


Sau 5 ngày chiến đấu, Quân giải phóng không thể dứt điểm được các mục tiêu đã định; thế trận trở nên giằng co, gây thương vong lớn. Trước tình hình đó, được sự chỉ đạo của trên, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 thay đổi cách đánh: “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”.


Từ ngày 15-4-1975, Quân đoàn 4 chuyển hướng, đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, Núi Thị, uy hiếp Trảng Bom (Sở Chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy), chế áp sân bay Biên Hòa... Bên cạnh đó, tuyến phòng thủ từ xa Phan Rang lần lượt bị thất thủ đã đặt Xuân Lộc vào thế bị Quân giải phóng bao vây bốn mặt. Trước tình thế nguy cấp đó, ngày 18-4-1975, Chuẩn tướng Lê Minh Đảo cấp báo với Bộ Tư lệnh Quân đoàn xin bỏ Xuân Lộc rút về phòng thủ Biên Hòa1 (Tại tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh, với tư tưởng giữ tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh bằng mọi giá, Tổng thống Thiệu đã bố trí toàn bộ Sư đoàn 18 tại đây và cử Chuẩn tướng Lê Minh Đảo chỉ huy. Lê Minh Đảo chia sư đoàn làm 3 chiến đoàn: Chiến đoàn 43 và 2 tiểu đoàn địa phương giữ Xuân Lộc (tỉnh lỵ Long Khánh). Ban chỉ huy đóng tại hậu cứ Chiến đoàn 43 ở thị xã; Tiểu đoàn 2 ở Núi Thị; Tiểu đoàn 1 và 3 bảo vệ hướng đông, đông bắc thị xã; Đại đội 83 biệt động ở đông nam thị xã; Chi đoàn 1/5 chiến xa M41, Chi đoàn 3/5 M13, Đại đội trinh sát 48 và Bộ Chỉ huy Thiết đoàn 5 đóng trong thị xã; Đại đội trinh sát 18, một đại đội của Tiểu đoàn 2 đóng quanh nhà riêng của Tư lệnh - là Sở Chỉ huy nhẹ của Sư đoàn; phân tán từng trung đội đóng ở các nhà cao tầng xung quanh Bộ Tư lệnh; 2 tiểu đoàn địa phương quân được giao nhiệm vụ bảo vệ sân bay và đường sắt.


Chiến đoàn 52 phòng thủ Tân Kiên và đoạn đường 1 từ núi Trân đến Sóc Lù (Chi khu Tân Kiên và đoạn quốc lộ 20) là chiến đoàn còn có nhiệm vụ làm lực lượng ứng viện cho thị xã khi cần thiết. Ban Chỉ huy Chiến đoàn 52 đóng ở nam chi khu; Tiểu đoàn 1 Núi Đét; Tiểu đoàn 2 tại khu; Tiểu đoàn 3 đồi Móng Ngựa (nam chi khu); Chi đoàn 3/5 hợp lại thành đại đội trinh sát làm lực lượng ứng trực cho Chiến đoàn; Đại đội 43 trinh sát, Đại hội 30 địa phương ở Núi La; một toán viễn thám và 2 trung đội địa phương đóng ở Sóc Lù. Chiến đoàn 48 kết hợp với Quân đoàn 3 do tướng Toàn chỉ huy giải tỏa quốc lộ 1, tái chiếm núi Chứa Chan, sau đó về đóng cứ tại vùng ven thị xã nhằm tãng cường lực lượng bảo vệ Xuân Lộc. Cùng thời gian trên, tướng Toàn phát hiện được Quân giải phóng đang di chuyển về hướng Long Khánh, phán đoán Quân giải phóng sẽ đánh Long Khánh nên đã quyết định hoàn trả Chiến đoàn 48 cho Sư đoàn 18, đồng thời điều toàn bộ Lữ đoàn 3 thiết giáp đến tăng cường cho hướng Xuân Lộc. Ban Chỉ huy Chiến đoàn 48 đóng trong rừng cao su phía đông chi khu; Tiểu đoàn 1 ở cùng với Bộ Chỉ huy Chiến đoàn; Tiểu đoàn 3 đóng ở suối Cát). Ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chuẩn y ý kiến của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, ra lệnh rút bỏ Xuân Lộc. Thực ra trong đêm 20-4-1975, lực lượng Sư đoàn 18 ở Xuân Lộc đã rút về Long Bình, Biên Hòa, Bà Rịa.


Sau khi rút bỏ Xuân Lộc, các sư đoàn quân ngụy ở miền Đông Nam Bộ bị chia cắt, “Sư đoàn 25 Sài Gòn bị kềm chân ở Tây Ninh không thoát ra được; Sư đoàn 5 Sài Gòn bị kìm chân ở hướng Bình Long, không di chuyển về Bình Dương được; Sư đoàn 22 Sài Gòn bị đánh thiệt hại nặng ở Long An, không bảo đảm giữ được phía nam Sài Gòn”1 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sdd, t.II, tr.950). “Phòng tuyến ngoài Sài Gòn đã vụn như vỏ củ hành”2 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sdd, t.II, tr.950). “Cánh cửa thép” phía đông Sài Gòn đã mở”3 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sdd, t.II, tr.950).


Trên địa bàn Quân khu Sài Gòn - Gia Định:

Binh đoàn Tây Nam được lệnh từ bỏ mục tiêu Mộc Hóa (Kiến Tường), sử dụng Sư đoàn 5 và Sư đoàn 3 (1E) thọc sâu xuống lộ 4 (Long An), tấn công Tân An, gỡ đồn bót tạo hành lang nối thông xuống bắc lộ 4. Sư đoàn 3 (thiếu) và Sư đoàn 9 tập kết tại tây Vàm Cỏ Đông, sử dụng Trung đoàn 205 mở khu an ninh Lộc Giang...


Từ đầu tháng 4-1975, lực lượng Thành đội tập kích sân bay Biên Hòa, trường huấn luyện Nước Trong, căn cứ Hốc Bà Thức, kho bom Bình Ý, trạm rađa Phú Lâm..., triển khai lực lượng ở vùng ven, áp sát các mục tiêu được phân công theo kế hoạch chiến dịch.


Trên địa bàn Quân khu 8:

Ngày 15-4-1975, Sư đoàn 8 chuyển hoạt động xuống lộ 4, mở hành lang nam Long An. Trung đoàn 88, Trung đoàn 24 kết hợp với 2 tiểu đoàn Long An gỡ 45 đồn bót, giải phóng 12 xã thuộc các huyện Châu Thành, Cần Đước, Tân Trụ... mở rộng bàn đạp tấn công từ hướng nam lên Sài Gòn.


Trên địa bàn Quân khu 9:

Sư đoàn 4 mở vùng Chương Thiện, Cần Thơ, khống chế sân bay Trà Nóc, áp sát các mục tiêu thị xã Cần Thơ.

Kết quả, từ ngày 21-2-1975 đến ngày 20-4-1975, Quân giải phóng B2 đã loại khỏi chiến đấu 37.591 tên; diệt 1 chiến đoàn, 3 chi đoàn, 2 chi đội, 27 tiểu đoàn, 2 đoàn bình định và 827 đồn bót các loại; thu 27.953 súng các loại, 911 VTĐ, 100 xe (28 tăng). Giải phóng 3 tỉnh, 3 huyện, 50 xã1 (Ban Tổng kết chiến tranh B2: Báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chỏng Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trường Bộ (B2), tháng 2-1979, tr.68, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:38:36 am
IV. THAM GIA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH GIẢI PHÓNG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH, CÁC TỈNH ĐỒNG NAM BỘ VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG, HẢI ĐẢO

1. Chiến đấu giải phóng Sài Gòn

Từ đầu tháng 4-1975, trong khi lực lượng vũ trang tiếp tục đẩy mạnh tiến công đối phương trên chiến trường B2 thì các Quân đoàn 1, 2, 3 Quân giải phóng đang trên đường thần tốc tiến về chiến trường B2. Đến ngày 25-4-1975, các Quân đoàn 1, 2, 3 Quân giải phóng đã tiến đến các điểm tập kết, hình thành nên thê trận vây chặt Sài Gòn từ nhiều hướng.


Ngày 26-4-1975, Quân giải phóng hình thành 5 mũi tiến công trên 4 hướng nhắm vào 5 mục tiêu chủ yếu của chính quyền ngụy trong nội đô Sài Gòn, bao gồm: Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Dinh Độc Lập.


- Hướng bắc và đông bắc do Quân đoàn 1 phụ trách, tiến công mục tiêu Bộ Tổng tham mưu.

- Hướng tây bắc do Quân đoàn 3 phụ trách, tiến công mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất.

- Hướng nam và tây nam do Binh đoàn Tây Nam phụ trách, tiến công mục tiêu Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát Sài Gòn.

- Hướng đông và đông nam do Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 phụ trách, tiến công mục tiêu Dinh Độc Lập.


Để trực tiếp chỉ huy chiến dịch, sáng ngày 26-4-1975, bộ phận tiền phương của Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh chuyển đến lập sở Chỉ huy tại Căm Xe - Bến Cát.

Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu!

Từ ngày 26 đến ngày 28-4-1975

Lực lượng B2 trong đội hình Quân đoàn 4 (Sư đoàn 7, Sư đoàn 341: Sư đoàn 6, Lữ 52, 1 tiểu đoàn pháo 130 ly, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn cao xạ hỗn hợp, 1 tiểu đoàn xe tăng, Trung đoàn 113 đặc công).


Ngày 27-4-1975, Sư đoàn 341 tấn công Trảng Bom, sông Thao, Bàu Cá. Đến ngày 28-4-1975 hoàn thành các mục tiêu, làm chủ một khu vực rộng lớn từ Trảng Bom và đoạn từ Suôi Đỉa đến sát ga Long Lạc, diệt và bắt 1.600 binh lính ngụy, phá 7 pháo và 20 xe tăng. Sư đoàn 6 (Quân khu 7) tiến công yếu khu Trảng Bom, căn cứ Hố Nai, gặp phải sự kháng cự quyết liệt của đối phương nên chưa thể chiếm lĩnh các mục tiêu. Riêng Sư đoàn 7 và Lữ đoàn 52 theo sau đội hình Sư đoàn 6 đã áp sát được nam lộ 1.


Lực lượng B2 trong đội hình Binh đoàn Tây Nam (F3, F5, F9, E16, E88, E24, E271b, E117, E429 đặc công, 1D tăngT54, 1D PT 85, 1D K634, 1D pháo 130, 1E và 5D cao xạ hỗn hợp):

Ngày 27-4-1975, Sư đoàn 5 tiến chiếm cắt đứt lộ 4 đoạn từ Bến Lức đến Tân An. Sư đoàn 8 (Quân khu 8) chiếm lĩnh lộ 4 đoạn Trung Lương - Tân Hiệp. Tiểu đoàn 341 (Quân khu 8 ) kết hợp với bộ đội địa phương cắt lộ 4 đoạn từ Cai Lậy đến An Hữu. Trung đoàn 88, Trung đoàn 24 (Quân khu 8 ) tiến chiếm đường số 5, mở rộng địa bàn đứng chân ở phía tây bắc Cần Giuộc áp sát Sài Gòn. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu An Ninh Lộc Giang, khống chế đối phương, bảo đảm cho Sư đoàn 9 và binh khí kỹ thuật vượt sông Vàm Cỏ Đông. Đến ngày 28-4-1975, toàn bộ lực lượng Sư đoàn 9 đã hoàn chỉnh công tác vận động vượt sông Vàm Cỏ Đông tập kết tại Bàu Công - Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Như vậy, lực lượng Quân giải phóng B2 trong cánh quân do Binh đoàn Tây Nam phụ trách đã hoàn thành nhiệm vụ cắt đứt hoàn toàn lộ 4, kìm chế được lực lượng Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, Sư đoàn 22 ngụy, tạo điều kiện cho Sư đoàn 9 và binh khí kỹ thuật vượt sông Vàm Cỏ Đông vào vị trí tập kết áp sát Sài Gòn.


Lực lượng B2 ở vùng ven:

Ngày 27-4-1975, Trung đoàn 116 đặc công (2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 19) kết hợp với Tiểu đoàn 25 đánh chiếm, giữ và bảo vệ cầu xa lộ Biên Hòa. Ngày 28-4-1975, Trung đoàn 113 đặc công sử dụng 2 tiểu đoàn (D23, D174) đánh chiếm, giữ và bảo vệ cầu Ghềnh, cầu Rạch Vát (sau đó đổi phương phản kích chiếm lại). Đoàn 316 (D81, Z23) đánh chiếm, giữ và bảo vệ cầu Rạch Chiếc1 (Cùng thời gian Quân đoàn 2 đánh chiếm chi khu Đức Thạnh, chi khu Long Thành, thị xã Bà Rịa và Trường huấn luyện thiết giáp. Quân đoàn 1 diệt các trận địa pháo, mỏ đoạn Bình Mỹ Bình Cơ/lộ 16; cắt lộ 22, lộ 1, gỡ một số đồn bót, chặn và chia cắt Sư đoàn 25 địch). Tiểu đoàn 4 Thủ Đức đánh chiếm, giữ và bảo vệ cầu xa lộ Sài Gòn. Trung đoàn 316 kết hợp với bộ đội tỉnh Tây Ninh chốt chặn trên các tuyến đường 1, 22, kìm chế không cho lực lượng Sư đoàn 25 ngụy rút chạy từ Tây Ninh về Đồng Dù, Hóc Môn. Tiểu đoàn 40 đánh chiếm ấp Bến Gỗ; Trung đoàn 10 đặc công sử dụng 2 đại đội (C4, C32) tiến đánh đồn Phước Khánh, không chế đoạn Phước Khánh - ngã ba Đồng Tranh...; 2 đại đội (C5, C21) đột kích căn cứ Hải quân, phà Cát Lái, pháo kích Dinh Độc Lập, pháo kích Bộ Tư lệnh Hải quân. Trung đoàn đặc công 429 (D197, D23) tiến công trung tâm vô tuyến viễn thông Phú Lâm. Trung đoàn Gia Định đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất...


Sau 2 ngày tấn công (từ ngày 26 đến ngày 28-4-1975), Quân giải phóng B2 hầu như đã hoàn thành các mục tiêu đặt ra, đưa lực lượng áp sát phía đông và phía nam, tây nam Sài Gòn. Đặc biệt, lực lượng Quân giải phóng ở vùng ven đã áp sát các mục tiêu giao thông quan trọng, chiếm lĩnh được một số cầu, không cho đổi phương co cụm về cố thủ bảo vệ Sài Gòn.


Tối ngày 28-4-1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh ra lệnh Tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn mặt trận. Quân giải phóng đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu then chốt ở nội đô Sài Gòn, đồng thời chỉ thị cho các quân khu trên chiến trường B2 phối hợp tiến công và nổi dậy với khẩu hiệu hành động: “Chậm trễ là có tội với lịch sử”, “thời cơ là mệnh lệnh”1 (Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ kháng chiến: Lịch sử Nam Bộ kháng chiến, Sđd, t.II, tr.968).


Ngày 29-4-1975

Quân đoàn 4:

Sư đoàn 6 kết hợp với Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) tấn công căn cứ Sư đoàn thiết giáp 18 ngụy tại ngã ba Yên Thế, sau chiếm lĩnh mục tiêu, phát triển đánh chiếm căn cứ Hố Nai, nhưng không giải quyết được mục tiêu. Sư đoàn 341 tấn công Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ngụy, sân bay Biên Hòa nhưng đều bị đối phương ngăn chặn. Sư đoàn 7 tiến đánh Tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến và lực lượng tăng thiết giáp của Sư đoàn 18 ngụy tại phía tây Hố Nai...


Binh đoàn cánh Tây Nam:

Sư đoàn 3 đánh chiếm thị xã Hậu Nghĩa, bức rút chi khu Đức Hòa, Đức Huệ, căn cứ Trà Cú, mở thông tuyến hành lang dọc sông Vàm Cỏ Đông. Sư đoàn 9 (binh đoàn thọc sâu) và một số đơn vị binh chủng kỹ thuật xuất phát từ Mỹ Hạnh, Vĩnh Lộc tiến lên Bà Quẹo, Bà Lác, đê Đại Hàn, phía bắc Bà Hom... Sư đoàn 5, Trung đoàn 88, Trung đoàn 24 (Quân khu 8 ) cắt lộ 4, chiếm lộ 5 đoạn Cần Giuộc - Chợ Lớn.


Lực lượng B2 ở vùng ven Sài Gòn:

Trung đoàn 116 đặc công tấn công Bộ Chỉ huy Tiếp vận 3 và khu xăng dầu tại nam Long Bình (D19); đánh chiếm cầu xa lộ Biên Hòa, bám trụ đánh phản kích và chờ đón binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 (D25). Tiểu đoàn 23 và Tiểu đoàn 174 đặc công (E11) đánh chiếm lại cầu Ghềnh, cầu Mới. Tiểu đoàn 9 (E113) đánh chiếm Bộ Chỉ huy Trung đoàn 15 thiết giáp, Trung tâm tiếp vận Biên Hòa. Trung đoàn 10 đặc công tiên đánh và chiếm lĩnh đoạn giao thông Phước Khánh - ngã ba sông Đông Tranh và sông Sài Gòn, đánh chiếm chi khu Nhà Bè, một bộ phận vượt biển ra giải phóng đảo Côn Sơn. Trung đoàn 115 đặc công đánh chiếm cầu Bình Phước (đầu cầu phía tây), cầu Chợ Mới, Đài Phát thanh Quán Tre. Tiểu đoàn 91 đặc công đánh chiếm phân chi khu Tân An, cầu Tân An, cầu Rạch Cát, pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất. Tiểu đoàn 5 đặc công (E117) tấn công lực lượng Liên đoàn 8 biệt động quân. Tiểu đoàn 7b đặc công tiến đánh lực lượng địa phương quân tại Tân Tạo, cầu Bà Hom... Tiểu đoàn 9 đặc công đánh bức đồn Bình Trị Đông, pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất. Tiểu đoàn 13 đặc công (E49) tấn công căn cứ rađa Phú Lâm. Tiểu đoàn 78 đặc công giải phóng ấp Bình Hưng, đánh chiếm căn cứ Ký Thúc Ân, cầu Nhị Thiên Đường. Đoàn 316 biệt động đánh chiếm bót Phú Thọ Hòa, bót Nguyễn Văn Cừ (D90), căn cứ Tiểu đoàn 61 pháo trại Phù Đổng, bót cầu sắt An Phú Đông (D80, Z8, Z32), cầu Rạch Chiêc (D81), lực lượng dân vệ tại Xuân Thới Thượng (Z23 và E1 Gia Định), cầu Rạch Bà, cảng Rạch Dừa tại Vũng Tàu (Z10)...


Lực lượng Thành đội Sài Gòn:

Trung đoàn 1 Gia Định tiến công bót ngã Ba Đông, cầu lớn lộ 9, cầu Tham Lương, giải phóng xã Tân Thới Nhất, Xuân Thới Thượng. Trung đoàn 2 Gia Định bức rút bót Tổng Khôn, Tân Thạnh Đông, chặn đánh lực lượng Sư đoàn 25 ngụy rút chạy về lộ 8, lộ 15. Tiểu đoàn 4 Thủ Đức đánh chiếm được cầu xa lộ Sài Gòn (lần 2). Bộ đội Củ Chi kết hợp với lực lượng Quân đoàn 3 tấn công Đồng Dù, đánh chiếm chi khu Củ Chi. Bộ đội Bình Chánh, Tân Bình diệt chi khu Tân Tạo, Tân Túc, Tân Hòa... Tiểu đoàn 4 Gia Định kết hợp với Trung đoàn 115 đặc công giải phóng xã Tân Thới Hiệp, mở hành lang tiếp cận phía bắc sân bay Tân Sơn Nhất cho lực lượng Quân đoàn 3 tấn công...


Ngày 30-4-1975

Quân đoàn 4:

Sư đoàn 6 phối hợp với một trung đoàn thuộc Sư 341 đánh chiếm Chỉ huy sở Quân đoàn 3, chiếm Bộ Tư lệnh Không quân, sân bay Biên Hòa. Sau khi hoàn thành các mục tiêu ở Biên Hòa, đội hình phát triển sang Thủ Đức, Tiểu đoàn 7e (F341) vượt cầu Ghềnh tiến vào đến nội thành Sài Gòn. Trung đoàn 209 (F7) tiến chiếm Chỉ huy sở Sư đoàn 18 biệt động quân, sau đó phát triển vào nội thành Sài Gòn. Sư đoàn 7 tiến công căn cứ Tam Hiệp tiếp đó vượt cầu xa lộ Biên Hòa tiến vào Sài Gòn, bộ phận đi đầu đến Dinh Độc Lập, bộ phận khác tiến công chiếm lĩnh Bộ Chỉ huy Thủy quân lục chiến, căn cứ Hải quân, Bộ Quốc phòng, cảng Bạch Đằng, Đài Phát thanh. Lữ đoàn 52 tiến vào sau đội hình Sư đoàn 7, đánh chiếm Bộ Tư lệnh biệt động quân...


Binh đoàn cánh Tây Nam:

Sư đoàn 3 sau khi giải phóng Hậu Nghĩa chuyển làm lực lượng dự bị cánh Tây Nam. Sư đoàn 5 bức hàng lực lượng Sư 22 cộng hòa và Liên đoàn 6 biệt động quân ngụy, đánh chiếm thị xã Tân An, Thủ Thừa. Trung đoàn 16 chiếm cầu An Lạc, cầu Bình Điền, phát triển vào nội thành Sài Gòn. Trung đoàn 1 (F9) sau khi chiếm lĩnh Vĩnh Lộc phát triển đến ngã tư Bảy Hiển, tiến chiếm Bộ Tư lệnh Biệt khu thủ đô. Trung đoàn 2 (F9) phát triển hợp điểm tại Dinh Độc Lập. Trung đoàn 3 (F9) đánh chiếm chi khu Tân Tạo, trạm rađa Phú Lâm, Trường đua Phú Thọ. Trung đoàn 24 gỡ bót ngã ba Bình Hưng Đông, bót cảnh sát Quận 8, đánh chiếm cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, chiếm Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia. Trung đoàn 88 (Quân khu 8 ) gỡ bót, tấn công phân chi khu Đa Phước, bức hàng đồn Ông Thìn, ngã ba An Phú, Nhà Bè...


Lực lượng B2 ở vùng ven:

Lực lượng đặc công biệt động sau khi đánh chiếm các trục đường, cầu giao thông quan trọng tạo điều kiện cho các cánh Quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, đã tham gia tác chiến với từng cánh quân chủ lực, trực tiếp tham gia đánh chiếm các mục tiêu trong nội đô.


Trung đoàn đặc công 116 đưa đội hình thọc sâu của Quân đoàn 2 phát triển theo trục xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa, chiến đấu diệt cụm quân ngụy ở liên trường Thủ Đức. Tiếp đó Đội Z23 biệt động đón đội hình thọc sâu của ta vượt qua cầu Rạch Chiếc. Khi đến cầu Sài Gòn, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức mới tái chiếm ở đầu phía đông, nên khi vượt cầu thì đụng phải ổ đề kháng của quân ngụy ở đầu cầu phía tây. Trận chiến diễn ra ác liệt, mãi đến hơn 11 giờ, đội hình thọc sâu Quân đoàn 2 mới tiên được vào Dinh Độc Lập. Lực lượng biệt động vùng ven gồm Z28, Z32 của Lữ đoàn B16 biệt động cùng đội trinh sát của Lữ đoàn đặc công biệt động 316 chia làm 3 tổ xuất phát đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu, chiếm lĩnh Trung tâm Điện toán và chờ đón lực lượng chủ lực đến tiếp quản. Tiểu đoàn 80 đặc công cơ giới và một bộ phận Lữ đoàn đặc công biệt động 316 đánh chiếm căn cứ pháo binh Cổ Loa, căn cứ thiết giáp Phù Đổng ở Gò Vấp...


Lực lượng Thành đội Sài Gòn:

Đoàn 198 đặc công biệt động chiếm giữ cầu Bông, đón Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 3 tiến theo đường số 1 tấn công tiêu diệt Trung tâm huấn luyện Quang Trung, sân bay Tân Sơn Nhất. Trung đoàn Gia Định 1 tăng cường Đoàn 195 đặc công biệt động tiến công phân chi khu Xuân Thới Thượng, Tân Thới Nhất, đồn Nhà Tô... Trung đoàn Gia Định 2 diệt đồn Tổng Khôn, Tân Thạnh Đông, bức hàng bót Chợ, giải phóng xã Tân Thạnh Đông, chặn đánh tàn quân Sư đoàn 25 ngụy. Tiểu đoàn 4 Gia Định phối hợp với một bộ phận của Trung đoàn 115 đánh chiếm cầu Bình Phước, diệt các ổ đề kháng của quân ngụy trên xa lộ Đại Hàn...


Đến 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, Quân giải phóng đánh chiếm xong 5 mục tiêu chủ yếu trong nội thành, cắm cò trèn Dinh Độc Lập. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc toàn thắng. Lực lượng Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3 ngụy hoàn toàn tan rã, bộ máy chính quyền trung ương Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Quân giải phóng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:39:53 am
2. Chiến đấu giải phóng các tỉnh miền Đông Nam Bộ

Là địa bàn bao quanh thủ phủ Sài Gòn, làm bàn đạp cho Quân giải phóng tiếp cận Sài Gòn từ 4 hướng, do vậy nhiều vùng thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ là chiến trường chính mà Quân giải phóng phải giải quyết trước khi bước vào chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Trong đợt 1 và trong bước 1 đợt 2 của chiến dịch mùa khô 1974-1975, nhiều vùng tuyên ở các địa phương đã được giải phóng. Điển hình như tuyến lộ 14 nối liền với Tây Ninh tạo bàn đạp bao vây Sài Gòn từ hướng Bắc; Phước Long, lộ 20 - Tánh Linh - Võ Đắc - Xuân Lộc tạo bàn đạp bao vây cô lập Sài Gòn từ hướng đông; Dầu Tiếng - Bầu Đồn - Truông Mít uy hiếp lộ 22 tạo bàn đạp bao vây từ phía tây bắc; Bến cầu, Quéo Ba, tuyến Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây... tạo bàn đạp bao vây Sài Gòn từ phía tây. Hơn nữa, từ đầu tháng 3 đến đầu tháng 4-1975, những chiến thắng vang đội trên địa bàn Tây Nguyên, Trị Thiên, Khu 5, Khu 6, Long An, Hậu Nghĩa, Xuân Lộc... đã tác động mạnh mẽ đến quân dân miền Đông Nam Bộ với tinh thần “quyết giành toàn thắng giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam”1 (Nghị quyết đặc biệt của Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 15. Lưu trữ tại Phòng Khoa học quân sự Quân khu 9, số 471/1975/TWC (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.36, tr.505)) mà Nghị quyết 15 của Trung ương Cục đã đề ra.


Tại Tây Ninh, được sự hỗ trợ của Đoàn 232, ngày 11-3-1975, Đại đội 61 lực lượng vũ trang tỉnh cùng bộ đội địa phương tiến công yếu khu Bến cầu. Đến ngày 15-3-1975, Bến Cầu là huyện đầu tiên của Tây Ninh được giải phóng. Tiếp đó Trung đoàn 16 chủ lực Miền kết hợp với lực lượng vũ trang tỉnh (D14) và bộ đội địa phương tiến công giải phóng toàn bộ vùng nông thôn Dương Minh Châu, Tân Biên, Gò Dầu, Trảng Bàng... Ngày 29-4-1975, vây ép địch ở huyện Châu Thành và thị xã Tây Ninh. Sáng ngày 30-4-1975, tỉnh Tây Ninh hoàn toàn giải phóng.


Tại Tân Phú, từ giữa tháng 3-1975, chủ lực Quân đoàn 4 kết hợp với bộ đội tỉnh tiến công địch ở Phân chi khu Phương Lâm, Núi Tràn, cao điểm 112, làm chủ đường 20. Đến ngày 20-3-1975, toàn tỉnh Tân Phú hoàn toàn giải phóng.


Tại Long Khánh, cùng với thời điểm quân chủ lực tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ Long Khánh, bộ đội tỉnh tiến công giải phóng Sở cao su Bình Lộc, Suối Tre... Dưới áp lực mạnh mẽ của Quân giải phóng, ngày 21-4-1975, bộ máy kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn ở tỉnh Long Khánh hoàn toàn bị tan rã.


Tại Bà Rịa - Vũng Tàu, được sự hỗ trợ của Sư đoàn 3, ngày 26-4-1975, bộ đội tỉnh Bà Rịa tiến công thị xã, đến 15 giờ ngày 27-4-1975 thị xã Bà Rịa hoàn toàn được giải phóng. Tiếp đó, bộ đội tỉnh tiến công giải phóng Xuyên Mộc, Long Đất. Riêng đảo Lý Sơn, bộ đội địa phương tiến hành giải phóng huyện đảo. Ở thành phố Vũng Tàu, ngày 30-4-1975, Quân giải phóng thực hành tiến chiếm các công sở hành chính, đến 13 giờ 30 thi hoàn thành.


Tại Thủ Dầu Một, ngày 26-4-1975, bộ đội địa phương được sự giúp sức của lực lượng Quân đoàn 1 tiến công các tuyên phòng thủ phía bắc thị xã Thủ Dầu Một. Ngày 29-4-1975, bộ đội địa phương tiến công giải phóng Tân Uyên, Châu Thành, Phú Giáo, Lái Thiêu, Dĩ An, áp sát thị xã Thủ Dầu Một. Ngày 30-4-1975, bộ đội địa phương đánh chiếm tiểu khu Phú Lợi, giải phóng huyện Lái Thiêu, thị xã Thủ Dầu Một, Phú Giáo, Bến Cát. Riêng việc giải phóng Dĩ An có sự can thiệp, giúp sức của lực lượng quân chủ lực thuộc Quân đoàn 4.


Tại Biên Hòa, ngày 27-4-1975, lực lượng nằm trong đội hình Quân đoàn 4 tiêu diệt yếu khu Trảng Bom, Hố Nai, sông Thao, Bàu Cá. Ngày 27-4-1975, bộ đội địa phương giải phóng huyện Thống nhất, tù chính trị phá khám Tân Hiệp. Sáng ngày 30-4-1975, Sư đoàn 6 phối hợp 1 trung đoàn của Sư 341 đánh chiếm Chỉ huy sở Quân đoàn 3 ngụy, Bộ Tư lệnh Không quân, sân bay Biên Hòa. Bộ đội địa phương tiến công giải phóng huyện Vĩnh Cửu, khu kỹ nghệ, thị xã. Đến 10 giờ ngày 30-4-1975, thành phố Biên Hòa hoàn toàn được giải phóng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:41:02 am
3. Giải phóng đồng bằng sông Cửu Long

Với tinh thần tự “giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình” trước khi Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra, lực lượng vũ trang ba thứ quân ở Quân khu 8, Quân khu 9 được chuẩn bị khá chu đáo về lực lượng và thế trận. Tuy nhiên, do lực lượng đối phương ít bị tổn thất trong các chiến dịch quân sự trước đó, lực lượng địch còn nguyên 3 sư đoàn chủ lực và các đơn vị biệt động quan, địa phương quân. Tư lệnh vùng 4 Nguyễn Khoa Nam hô hào binh lính “tử thủ đến cùng”.


Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Miền vẫn duyệt kế hoạch cho đồng bằng sông Cửu Long tự giải phóng, nhưng được phép tổ chức chậm hơn 2 ngày so với kế hoạch dự kiên. Do vậy, những thắng lợi vang dội của Chiến dịch Hồ Chí Minh đang diễn ra ở Sài Gòn và ở miền Đông Nam Bộ lan tỏa rất nhanh và tác động tích cực đến đồng bằng sông Cửu Long.


Ngày 28-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra ở đồng bằng sông Cửu Long, binh lính ngụy ở các tỉnh hoảng loạn cực độ. Trước sự bao vây, bức hàng, bức rút của Quân giải phóng, bộ máy công quyền và quân đội ngụy ở các tinh tan rã từng mảnh.


Quân khu 8 (Trung Nam Bộ):

Tại Long An, 2 tiểu đoàn nằm trong đội hình Binh đoàn Tây Nam tiến công Sài Gòn, lực lượng còn lại thực hiện nhiệm vụ tự giải phóng. Ngày 29-4-1975, Binh đoàn Tây Nam tiến công tiểu khu Hậu Nghĩa, Hiệp Hòa, Đức Hòa; lực lượng biệt động thị xã đánh chiếm thị xã Tân An. Ngày 30-4-1975, tỉnh Long An hoàn toàn giải phóng.


Tại Kiến Tường, Quân giải phóng tiến vào thị xã, dùng loa kêu gọi Tỉnh trưởng đầu hàng. Trước sức mạnh của Quân giải phóng, ngày 1-5-1975, Tỉnh trưởng đầu hàng không điều kiện, tỉnh Kiến Tường được hoàn toàn giải phóng.


Tại Mỹ Tho, khi nghe lòi tuyên bố đầu hàng của Tổng thông Dương Văn Minh, lực lượng biệt động phát động quần chúng nổi dậy. Ngày 1-5-1975, Quân giải phóng khu tiến vào chiếm dinh Tỉnh trưởng, giải phóng thị xã. Tại căn cứ Đồng Tâm, sáng 30-4-1975, Tư lệnh Sư đoàn 7 ngụy vẫn triệu tập cuộc họp xây dựng “kế hoạch Gavel” nhằm “tử thủ đến cùng”. Tuy nhiên, khi nghe Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, binh lính Sư đoàn 7 đã trôn chạy gần hêt. Ngày 30-4, du kích đã lọt vào căn cứ và đến 24 giờ, phối hợp với chủ lực Khu tiến công từ ngoài vào, binh lính trong căn cứ Đồng Tâm tan rã, một số bị bắt. Chuẩn tướng Nguyễn Văn Hai - Tư lệnh Sư đoàn 7 tự sát.


Tại Gò Công, khi lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh được phát đi trên đài phát thanh, lực lượng chính trị, binh vận tại chỗ kịp thời hành động, giải phóng thị xã lúc 13 giờ ngày 30-4. Sau đó bộ đội địa phương mới về tiếp quản. Toàn tỉnh Gò Công được giải phóng lúc 14 giờ 30 phút ngày 30-4.


Tại Bến Tre, Tỉnh trưởng Bến Tre ban đầu ra lệnh “tử thủ đến cùng”, nhưng sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh, y đã bỏ lại binh lính chạy trốn. Quần chúng ở thị xã và các chi khu đã chiếm 200 đồn bót ngoại vi dọc đường giao thông, gọi hàng 2 đại đội bảo an trước khi bộ đội tỉnh vận động tới thị xã. Ngày 30-4-1975, Quân giải phóng tiến vào chiếm Tòa hành chính, tiểu khu quân sự, dinh Tỉnh trưởng. Ngày 5-5-1975, số binh lính ngoan cố còn lại (trong đó có viên Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 22 ngụy) ra hàng Quân giải phóng.


Tại Sóc Trăng, bộ đội ta đã áp sát tiểu khu quân sự. Quần chúng nổi dậy tước súng của phòng vệ dân sự, trang bị thành lực lượng vũ trang phối hợp chiến đấu với bộ đội, hướng dẫn bộ đội chiếm các mục tiêu quan trọng. Hàng vạn quần chúng trong nội ô xuống đường phục vụ chiến đấu, tham gia truy bắt tàn binh, thu vũ khí, giữ gìn trật tự trị an, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.


Tại Long Xuyên, ngày 30-4-1975, quần chúng khắp nơi nổi dậy tiến chiếm công sở, đài truyền tin, kho bạc... Ngày 1-5- 1975 Trung đoàn 101 của Quân khu Tây Nam Bộ với xe bọc thép và xe chuyển quân ồ ạt tiến vào giải phóng thị xã Long Xuyên, chiếm Đài truyền tin, phát lệnh của Quân giải phóng.


Tại Châu Đốc, ngày 1-5-1975, tiểu đoàn tỉnh và lực lượng biệt động, an ninh vũ trang tiến vào thị xã Châu Đôc, nhận bàn giao từ viên Trung tá Phó tỉnh trưởng, sau đó tổ chức mít tinh mừng thắng lợi. Một đại đội thuộc Tiểu đoàn A12 tỉnh cùng một đại đội của Trung đoàn 101 đánh quân bảo an Hòa Hảo cố thủ ở tổng hành dinh của thủ lĩnh vũ trang giáo phái Hòa Hảo Lâm Thành Nguyên. Hai tiểu đoàn Quân giải phóng của tỉnh Long Châu Tiền từ Tân Châu, Hồng Ngự tiến về vùng Hưng Nhơn, Phú An, Hiệp Xương, Long Sơn, Phú Tân... nơi đang tập hợp hơn 18.000 lính bảo an tuyên bố “tử thủ” “bảo vệ Tổ đình”, đòi lập khu đạo tự trị ở Long Xuyên, Châu Đốc. Sau nhiều ngày giải thích, Quân giải phóng đã giải tán “lực lượng thống nhất bảo an - Hòa Hảo”. Ngày 3-5, Quân giải phóng tiến vào Tổ đình Hòa Hảo, thu giữ vũ khí.


Tại Sa Đéc, Quân giải phóng sau khi làm chủ tỉnh lỵ (1-5-1975) liền tập trung toàn bộ 3 tiểu đoàn (502A, 502B và 1 tiểu đoàn mới thành lập), tăng cường 1 chi đội xe thiết giáp bánh hơi, một bộ phận giang thuyền, tàu chiến đấu nhỏ, pháo 105 ly chiến lợi phẩm vừa thu được... để chi viện cho lực lượng giải phóng huyện Chợ Mới - nơi tàn quân địch rút về tử thủ tại chùa cổ Tây An. Ngày 6-5-1975, lực lượng “quyết tử” và “tử thủ” đầu hàng. Ta bắt bọn cầm đầu, thu trên 40.000 súng, 35 tàu chiến, 1 trực thăng, 33 xe quân sự...


Quân khu 9 (Tây Nam Bộ):

Tại Cần Thơ, Tư lệnh Quân khu 4 Nguyễn Khoa Nam hô hào “tử thủ đến cùng”, điều Quân đoàn 4 ngụy về lập công sự bảo vệ thành phố. Đêm 29-4-1975, một số" đơn vị thuộc Sư đoàn 4 Quân khu Tây Nam Bộ đánh chiếm ngoại vi thành phố. Ngày 30-4-1975, quân dân Cần Thơ nổi dậy chiếm giữ cầu Trà Nóc, uy hiếp sân bay, Đài Phát thanh và phát đi lời tuyên bố của ủy ban nhân dân cách mạng Cần Thơ. Chiều ngày 30- 4-1975, toàn bộ các đơn vị thuộc Sư đoàn 21, Sư đoàn, Trung đoàn bảo an Phong Dinh, 2 thiết đoàn và 1 chi đội xe thiết giáp đầu hàng Quân giải phóng.


Tại Sóc Trăng, ngày 30-4-1975, bộ đội đã áp sát tiểu khu quân sự. Quần chúng nổi dậy tước súng của phòng vệ dân sự tự trang bị thành lực lượng vũ trang phối hợp chiến đấu với bộ đội, hướng dẫn bộ đội chiếm các mục tiêu quan trọng. Hàng vạn quần chúng trong nội ô xuống đường phục vụ chiến đấu, tham gia truy bắt tàn binh, thu vũ khí, giữ gìn trật tự trị an và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đến 14 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, thị xã Sóc Trăng được giải phóng và đến sáng 1-5-1975, toàn tỉnh được giải phóng.


Tại Trà Vinh, lực lượng vũ trang địa phương giải phóng thị xã, gỡ được 22 đồn bót. Tiếp đó tiến công 2 cụm pháo (21 khẩu) của Sư đoàn 7 ngụy với lời thề “quyết tử giải phóng Trà Vinh!”. Ngày 30-4, quần chúng nổi dậy với băng rôn, cờ cách mạng xuất hiện khắp nơi. 10 giờ 30 ngày 30-4-1975, Ban khởi nghĩa vào chiếm dinh Tỉnh trưởng. Đến hết ngày 30-4-1975, toàn bộ hệ thống kìm kẹp hoàn toàn bị tan rã, tỉnh Trà Vinh được giải phóng.


Tại Vĩnh Long, ngày 30-4-1975, Quân giải phóng tiến công thị xã với thế mạnh áp đảo, dùng máy bộ đàm kêu gọi đầu hàng. Tuy nhiên, Đại tá Tỉnh trưởng Vĩnh Long vẫn lệnh cho binh sĩ “tử thủ”. Đến khi Vùng 4 chiến thuật thất thủ, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 16 Sư đoàn 9 ngụy đầu hàng Quân giải phóng, viên đại tá Tỉnh trưởng mới đầu hàng và bàn giao chính quyền cho cách mạng. Ngày 1-5-1975, Vĩnh Long được giải phóng.


Tại Bạc Liêu, ngày 30-4-1975, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tỉnh, quần chúng nổi dậy bao vây tòa hành chánh. Tuy nhiên, Đại tá Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Điệp vẫn hô hào binh lính “tử thủ đến người cuối cùng”. Nhưng dưới sức ép mạnh mẽ của Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh, đến 10 giờ 30, Nguyễn Ngọc Điệp buộc phải giao chính quyền cho cách mạng.


Tại Rạch Giá, ngày 30-4-1975, lực lượng vũ trang kết hợp với quần chúng nổi dậy ở thị xã, tiến công chi đội thiết giáp ở Rạch Sỏi. Tiểu đoàn 207 của tỉnh tiến công sân bay. Trước sức tấn công mạnh mẽ của Quân giải phóng, đến 20 giờ cùng ngày, Tỉnh trưởng ra lệnh cho binh lính đầu hàng. Đến 22 giờ 30 phút ngày 30-4, tỉnh Rạch Giá hoàn toàn được giải phóng.


Tại Cà Mau, đêm 29-4-1975, lược lượng vũ trang tỉnh triển khai tấn công và làm tê liệt vành đai bảo vệ thị xã. Tuy vậy, khoảng 12.000 binh lính Sài Gòn vẫn hô hào “tử thủ”. Với lực lượng vũ trang áp đảo1 (10 tiểu đoàn, riêng lực lượng tỉnh có 7 tiểu đoàn và 1 đại đội pháo 105 ly), qua máy bộ đàm, Quân giải phóng thuyêt phục viên Đại tá Tỉnh trưởng Cà Mau đầu hàng, giao chính quyền cho cách mạng. Dù thế, tên Tỉnh trưởng vẫn chỉ huy các lực lượng còn lại chống cự và sau đó lên trực thăng trốn thoát. Ngày 1-5-1975, Quân giải phóng tiến vào thị xã, tỉnh Cà Mau được giải phóng.


Tại Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu, lực lượng quần chúng từ thế bao vây tấn công đến binh vận, bức hàng từng đồn, tua nhỏ, phân chi khu, giải phóng ấp xã. Quần chúng kéo ra đông đảo, phối hợp với du kích bao vây, đuổi bắt ác ôn, kêu gọi, bức hàng. Nhiều nơi, địch đã rút chạy trước, quần chúng kéo ra chiếm, phá đồn tua.


Từ ngày 30-4 đến ngày 6-5-1975, 19/19 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đều được giải phóng.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:42:04 am
V. QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2 SAU NGÀY MIỀN NAM HOÀN TOÀN GIẢI PHÓNG

1. Tiếp quản, quân quản

Sau khi giải phóng thành phố Sài Gòn, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và hải đảo, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Miền, các đơn vị Quân giải phóng khẩn trương tiếp quản các căn cứ quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Bộ Tư lệnh Miền chuyển sở Chỉ huy về căn cứ Sóng Thần, sau đó chuyển tiếp về căn cứ Trần Hưng Đạo trong nội thành Sài Gòn (căn cứ Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa). Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần - kỹ thuật, các đơn vị thông tin, pháo binh, phòng không, tăng - thiết giáp, công binh... thuộc Bộ Tư lệnh Miền tiếp quản các căn cứ tương ứng của quân đội Sài Gòn để lại. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 chuyển sở Chỉ huy vào căn cứ Lê Văn Duyệt (Biệt khu Thủ đô của chính quyền Sài Gòn) sau đó chuyển về căn cứ Sóng Thần ở Thủ Đức. Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản căn cứ Quân khu 3 - Quân đoàn 3 tại thành phố Biên Hòa, sau đó chuyển về căn cứ Trần Hưng Đạo. Bộ Tư lệnh Quân khu 8 tiếp quản căn cứ Đồng Tâm tại Mỹ Tho (căn cứ Sư đoàn 7 ngụy). Bộ Tư lệnh Quân khu 9 tiếp quản căn cứ Quân khu 4 - Quân đoàn 4 tại thành phố Cần Thơ. Bộ Tư lệnh Sài Gòn - Gia Định tiếp quản căn cứ Biệt khu Thủ đô. Tỉnh đội các tỉnh tiếp quản căn cứ tiểu khu của địch tại từng địa phương.


Trong khi tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định và các địa phương, Quân giải phóng nhận được chỉ thị về việc chuẩn bị công tác tiếp quản các tỉnh, thành trên địa bàn Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, đặc biệt là thành phố Sài Gòn - Gia Định. Hàng loạt cán bộ quân sự, chính trị các cấp được cử tham gia Ủy ban quân quản và chính quyền cách mạng các địa phương.


Sau khi tiếp quản các căn cứ quân sự của địch, Ủy ban quân quản các địa phương lần lượt ra mắt và bắt tay thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng lâm thời: ban bố mệnh lệnh kêu gọi tất cả đồng bào, cán bộ, chiến sĩ tích cực cùng chính quyền cách mạng nhanh chóng thiết lập trật tự, duy trì các hoạt động dân sinh trở lại bình thường; kêu gọi nhân viên chính quyền cũ, các binh sĩ ngụy ra trình diện; các công nhân, viên chức cũ trở lại nhiệm sở và ban bố lệnh giới nghiêm ban đêm. Các lực lượng tiếp quản đã tịch thu, quản lý toàn bộ tài liệu quân sự, chính trị, kỹ thuật, thiết bị doanh trại của bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ - ngụy; các cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự của địch từ trung ương tới địa phương.


Phối hợp với Ủy ban quân quản các địa phương, Quân giải phóng mỗi sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực và địa phương phụ trách một số quận, huyện, xã. Riêng Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định cử 5.500 cán bộ, chiến sĩ, tổ chức 4 đoàn, 34 đội công tác. Các đơn vị vũ trang chia nhỏ lực lượng trên khu vực hành chính được phân công, thành lập từng đội công tác thực hiện nhiệm vụ cứu trợ1 (Chí tính riêng ở miền Đông Nam Bộ, trong hai tháng 5 và 6-1975, bộ đội bớt khẩu phần án và thu gom từ các kho tàng cứu đói cho dân 661 tấn gạo, 27 tấn lúa và 475 giạ lúa, 8 triệu đồng), tổ chức đưa đồng bào chạy nạn về quê cũ sinh sông, khôi phục sản xuất1 (Các đồn điền cao su ở miền Đông Nam Bộ đến cuối tháng 6-1975 đã khôi phục hoạt động sản xuất tại 11 đồn điền cao su, cho vav vốn 53.200.000 đồng; cứu tế, cứu đói cho công nhân 450.000 đồng, 42.000kg gạo), rà phá, tháo gỡ bom mìn, vật nổ, thu dọn phế liệu chiến tranh và văn hóa phẩm độc hại, khám chữa bệnh cho nhân dân... Các đội công tác vũ trang tổ chức tuyên truyền về các chính sách của cách mạng, vạch rõ những luận điệu xuyên tạc của chế độ cũ, vận động nhân dân tham gia các hoạt động xây dựng xã hội mới. Trong năm 1975, lực lượng vũ trang B2 đã tuyên truyền phát động cho hàng triệu lượt quần chúng, phát triển hàng trăm chi đoàn, hàng nghìn đoàn viên, hàng trăm nghìn hội viên công đoàn giải phóng, nông hội thanh niên giải phóng và phụ nữ giải phóng.


Vừa thực hiện các nhiệm vụ tiếp quản, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự - an toàn xã hội, ổn định đời sống nhân dân, các đơn vị Quân giải phóng còn triển khai công tác tiếp nhận trình diện và cải huấn sĩ quan, binh lính ngụy trước đây. Trên địa bàn Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, ngoài số tướng lĩnh, nhân viên chính quyền cao cấp chạy ra nước ngoài, đại đa số vẫn còn ở lại (riêng tại miền Đông Nam Bộ đã có khoảng nửa triệu ngụy quân, ngụy quyền tan rã tại chỗ). Không kể đối tượng hạ sĩ quan, binh lính không phải là ác ôn ra trình diện được học tập ngắn ngày rồi trở về địa phương, số người phải tập trung cải huấn lên đến 64.395 người (trong đó có 33 cấp tướng, 414 đại tá, 2.500 trung tá, 4.567 thiếu tá và một số cấp úy, xã trưởng)2 (Cục Hậu cần Miền: Báo cáo công tác hậu cần 9 tháng đầu năm 1975, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, tài liệu BC-214 tr.4). Bộ Tư lệnh Miền chỉ đạo thành lập 5 đoàn quản giáo làm nhiệm vụ quản lý, tổ chức học tập, điều trị cho số sĩ quan nói trên (gồm Đoàn 500 tại các địa điểm Hóc Bà Thức, thị xã Long Khánh, Suối Râm - Đồng Nai, Trảng Lớn - Tây Ninh; Đoàn 600 tại Cát Tiên - Lâm Đồng; Đoàn 700 tại Phú Quốc; Đoàn 775 tại Tân Hiệp - thị xã Biên Hòa; Đoàn 875 tại Tây Ninh). Ngoài ra, một số liên trại được tổ chức để quản giáo các đối tượng thuộc diện tệ nạn xã hội như gái điếm, trộm cướp, xì ke ma túy1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Lịch sử hậu cần Quân khu 7 (1945-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 663-664).


Tháng 2-1976, Ủy ban nhân dân cách mạng được thành lập thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Sau khi chuyển một số cán bộ quân sự sang cơ quan dân - chính - đảng các địa phương, các đơn vị vũ trang B2 kết thúc nhiệm vụ quân quản, chuyển sang hoạt động thường xuyên, xây dựng lực lượng, truy quét tàn quân địch, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trong điều kiện thời bình.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:43:18 am
2. Truy quét tàn quân địch, thu hồi cơ sở vật chất của quân đội Sài Gòn

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, phần lớn sĩ quan, binh lính quân đội Sài Gòn ra trình diện, học tập và trở lại địa phương làm ăn sinh sống. Tuy nhiên, vẫn còn không ít tên ngoan cố không ra trình diện, sống lẩn lút, móc nối tìm cách chống phá cách mạng bằng nhiều thủ đoạn, hoặc ngấm ngầm hoặc công khai. Riêng địa bàn Sài Gòn - Gia Định, thành phố có dân số đông nhất nước (gần 3,5 triệu người), có trên 2 vạn tên địch đang lẩn trốn và tìm mọi cách chống phá chính quyền cách mạng. Nhiều nơi tàn quân tập hợp đến cấp đại đội, rải truyền đơn, khẩu hiệu, xuyên tạc chính sách của cách mạng, sát hại các cán bộ, tổ chức vượt biên, phá hoại tài sản công cộng. Nhiều đảng phái, tổ chức phản động vẫn tiếp tục tồn tại, lén lút hoạt động. Một bộ phận dân cư bị ảnh hưởng bởi luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của Mỹ - ngụy, sống bất hợp tác với chính quyền cách mạng hoặc che giấu các phần tử phản động.


Triển khai Nghị quyết Hội nghị Quân ủy Miền ngày 3-5- 1975 “tiếp tục truy lùng, truy quét địch, trấn áp các lực lượng phản động để bảo vệ thành quả của cách mạng; đồng thời, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu đánh địch còn phá rối, bất luận lúc nào, ở đâu, trong phạm vi mình phụ trách để bảo vệ chính quyền, bảo vệ tài sản, cơ sở vật chất, quốc phòng, kỹ thuật, kho tàng... nói chung”1 (Biên bản Hội nghị thường trực Quân ủy Miền mở rộng (ngày 8-5- 1975), lưu trữ Ban Tổng kết chiến tranh B2, tài liệu số 2050/BM, tr.6-7), các đơn vị Quân giải phóng vừa kiên trì kêu gọi trình diện vừa kiên quyết truy quét các nhen nhóm tàn quân, đập tan những đảng phái phản động. Tại Quân khu 7, trong hai tháng 5 và 6-1975 lực lượng vũ trang diệt và bắt 15.094 tàn quân, 331 tên trong các tổ chức phản động, thu 32.575 súng, đưa đi học tập cải tạo ngắn hạn 31.112 binh sĩ, đưa đi học tập dài hạn 6.000 sĩ quan, nhân viên cao cấp ngụy2 (Báo cáo tổng hợp số liệu các mặt hai tháng 5 và 6-1975 của khu vực miền Đông Nam Bộ, lưu trữ Văn phòng Trung ương Đàng, tài liệu số 23). Tại Quân khu 8, tính đến 12-5-1975, lực lượng vũ trang bắt giam gần 300 tên (trong đó có 1 sĩ quan cấp tướng), thu 1.900 xe, 135.000 súng, có 218 pháo (30 đến 155mm), 136 tàu, 11 máy bay, 3 triệu lít xăng. Tại Quân khu 9. tính đến 11-5-1975, lực lượng vũ trang bắt giam 2.040 sĩ quan (trong đó có 2 sĩ quan cấp tướng), thu 231 tàu, 284 xe cơ giới các loại (có 72 thiết giáp), 176 máy bay, 68.748 súng (188 pháo), 1.391 máy vô tuyến điện, 7.880.000 lít xăng3 (Báo cáo tình hình kết quả tấn công và tiếp quản của các quân khu 7, 8, 9, lưu trữ tại Phòng Khoa học quân sự Quân khu 9, tài liệu số 46/1975/TWC). Bên cạnh việc truy quét tàn quân, lực lượng vũ trang B2 còn trấn áp, phá nhiều vụ án chống phá cách mạng của các đảng phái phản động, lùng bắt các băng cướp đang hoành hành và nhiều đối tượng tệ nạn xã hội khác. Riêng tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, từ tháng 5 đến tháng 11-1975, lực lượng vũ trang đã triệt phá 850 vụ phá hoại chính trị của 288 đối tượng, bắt giam 737 tên lưu manh trộm cướp và 2.437 đối tượng tệ nạn xã hội.


Trong lúc lực lượng vũ trang B2 đang truy quét tàn quân địch thì ở bên kia biên giới, chính quyền Khmer đỏ ở Campuchia ngày càng bộc lộ thái độ thù địch với Việt Nam. Từ ngày 3 đến ngày 10-5-1975, chúng bất ngờ tiến công Việt Nam tại nhiều điểm thuộc huyện Châu Thành, Bến Cầu, Tân Biên tỉnh Tây Ninh, đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, giết hại và bắt đi hàng trăm dân thường vô tội. Chính sách thù địch của Khmer đỏ gây nhiều căng thẳng ở vùng biên giới, làm khó khăn thêm quá trình ổn định tình hình ở miền Nam. Các đơn vị Quân giải phóng phối hợp với lực lượng vũ trang các địa phương tổ chức chiến đấu chống hành động tiến công xâm lược của quân đội Pôn Pốt. Lực lượng vũ trang các quân khu 7, 8, 9 phối hợp với bộ đội Biên phòng, bộ đội quân chủng Hải quân đã kiên quyết chặn đánh quân địch, giải phóng hoàn toàn các đảo, đẩy địch về bên kia biên giới, giữ vững lãnh thổ và chủ quyền vùng biên giới.


Đồng thời với việc truy quét tàn quân và chiến đấu chống hành động xâm lấn biên giới, Quân giải phóng khẩn trương tiếp quản, thu hồi, bảo quản cơ sở vật chất của địch để lại. Quân đội Sài Gòn tan rã nhanh chóng, để lại một khối lượng vũ khí trang bị, cơ sở vật chất rất lớn. Thực hiện Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục về “nhận rõ tài sản đó là do địch vơ vét mồ hôi nước mắt của nhân dân, là xương máu của nhiều cán bộ, đồng chí, đồng đội, đó là những tài sản của nhà nước”1 (Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.1084) các quân khu, quân đoàn, đơn vị, binh chủng nhanh chóng tiếp quản các căn cứ, kho tàng quân sự của địch để lại, tổ chức bảo vệ, phân loại, quản lý theo nguyên tắc ngành nào tiếp quản cơ sở ngành đó, cấp nào tiếp quản cấp đó, tiếp quản tới đâu quản lý sử dụng ngay tới đó. Quân giải phóng còn phối hợp với chính quyền cách mạng và nhân dân thu gom tất cả các loại vũ khí, đạn và mìn còn vương vãi đưa ra khỏi thành phố, thị xã. Tính đến cuối tháng 8-1975, toàn B2 đã thu hồi khoảng 27.000 tấn vũ khí, đạn dược, gồm 3.777 tấn súng, 22.128 tấn đạn, 962 tấn thuôc nổ (chưa kể khoảng 40 tấn còn tồn trong các kho lớn)2 (Báo cáo kết quả thu hồi vũ khí, phương tiện, binh khí kỹ thuật của địch (từ ngày 1-5-1975 đến ngày 30-10-1975), lưu trữ Ban Tổng kết chiến tranh B2, số MI 1736). Riêng tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, chỉ trong 7 ngày sau ngày 30-4, Quân giải phóng đã thu gom được khoảng 10.000 tấn súng đạn, quân cụ các loại3 (Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Lịch sử hậu cần Quân khu 7 (1945-2000), Sđd, tr.655). Đến cuối năm 1975, công tác kiểm kê, phân loại, bàn giao cơ sở vật chất doanh trại, kho tàng, trang bị, vũ khí đạn dược hoàn tất. Một bộ phận được đưa vào sử dụng phục vụ cho nhiệm vụ trước mắt của lực lượng vũ trang toàn Miền, bộ phận khác được chuyển giao cho các đơn vị của Bộ đứng chân trên địa bàn.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 21 Tháng Ba, 2023, 09:45:32 am
3. Thực hiện công tác chính sách và tổ chức lại lực lượng

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong mùa Xuân 1975, lực lượng vũ trang B2 được phát triển lên mức cao chưa từng thấy. Tính đến thời điểm tháng 4-1975, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đã lên đến 277.659 cán bộ, chiến sĩ (tháng 12-1972 là 185.372 cán bộ, chiến sĩ)1 (Đề cương tỉ mỉ báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1979, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7, tr.7/KN). Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhu cầu giải quyết công tác chính sách, hậu phương quân đội đặt ra không kém phần cấp bách. Thực hiện Chỉ thị số 223/CT-TV ngày 8-7-1975 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác thương binh và xã hội sau chiến tranh, Bộ Tư lệnh Miền ban hành Chỉ thị số 06/CT-75 yêu cầu các đơn vị vũ trang: 1. Nhanh chóng chuyển tin tức của các quân nhân tại ngũ về gia đình; 2. Khẩn trương xác định liệt sĩ, quân nhân từ trần hoặc mất tích, báo tử, an ủi động viên và giải quyết chu đáo quyền lợi gia đình, con cái liệt sĩ; 3. Phát hiện, tu sửa, giữ gìn, quy tập mộ liệt sĩ; 4. Thống kê, lập hồ sơ khen thưởng thành tích trong chiến tranh; 5. Từng bước bồi hoàn mất mát và những đóng góp của các gia đình có công trong kháng chiến2 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1975-2000), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.90-91).


Trong điều kiện công việc hết sức bề bộn, đời sống khó khăn, các đơn vị Quân giải phóng đã tập trung thực hiện tốt chỉ thị của Bộ Tư lệnh Miền. Mỗi đơn vị đều cử 1 phó chính ủy, 1 chính trị viên phó trực tiếp phụ trách công tác chính sách. Cơ quan chính sách các cấp tổ chức tập huấn cán bộ chuyên trách, liên hệ với chính quyền địa phương để cùng phối hợp thực hiện: lập danh sách, xác minh các trường hợp mất tích, báo tử, quy tập mồ mả; giám định sức khỏe, xếp hạng thương tật, cấp sổ; khen thưởng các trường hợp tồn đọng sau chiến tranh (trong thời kỳ kháng chiến, riêng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh) gồm các loại thi đua quyết thắng và đề nghị tặng thưởng huân huy chương, danh hiệu đơn vị và cá nhân anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Mặc dù nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, nhưng trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang B2 đã hoàn thành khối lượng công việc đồ sộ. Tính đến tháng 12- 1977 (khi Bộ Tư lệnh Miền giải thể), riêng Quân khu 7 đã lập danh sách, quản lý hồ sơ 68.566 liệt sĩ; quy tập về nghĩa trang, kiểm tra, đánh dấu cắm bia 23.360 mộ liệt sĩ; thống kê giám định 18.593 (trên 36 đầu đơn vị) thương binh các hạng, cấp sổ cho 6.342 người; khen thưởng hàng chục nghìn huân chương các loại, xét đề nghị tuyên dương 11 đơn vị và 21 cá nhân anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân1 (Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 7 (1975-2000), Sđd, tr. 94-95).


Các đơn vị sắp xếp lại lực lượng và tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ phù hợp với điều kiện thời bình. Theo đó, về tổ chức quân sự theo lãnh thổ, Quân khu 6 (T6) nhập về Quân khu 5; Quân khu 8 (T2) nhập về Quân khu 9; Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh nhập về Quân khu 7. Về lực lượng chủ lực, Quân đoàn 4 được kiện toàn gồm 3 sư đoàn bộ binh (7, 9, 341) và một số đơn vị bộ binh trực thuộc, các đơn vị binh chủng. Một số đơn vị khác được điều chuyển trực thuộc Bộ Quốc phòng hoặc bổ sung về các quân khu. Sư đoàn bộ binh 5 chuyển về Quân khu 7. Bộ Tư lệnh Quân đoàn do Hoàng Cầm làm Tư lệnh, Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy2 (Các thành viên khác: Phó Tư lệnh là Bùi Cát Vũ, Nguyễn Huỳnh Ngân; Phó Chính ủy là Vương Thế Hiệp). Các tổ chức vũ trang nói trên khẩn trương sắp xếp lại lực lượng theo biên chế thời bình đủ các khối: thường trực sẵn sàng chiến đấu (bộ binh và binh chủng), cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần - kỹ thuật), nhà trường (quân chính, hạ sĩ quan, quân y, văn hóa, thiếu sinh quân), hậu cần, kỹ thuật (bệnh viện quân y, xưởng sửa chữa, kho trạm) và đơn vị trực thuộc khác (đối ngoại, pháp chế, tổng kết chiến tranh, trạm khách, điều dưỡng...). Đặc biệt, các quân khu đều tổ chức một lực lượng lớn làm nhiệm vụ sản xuất. Riêng Quân khu 7 có 3 đoàn kinh tế: Đoàn Phước Long (Sư đoàn 3, gồm 7 trung đoàn), Đoàn 600 (gồm 4 trung đoàn), Đoàn La Ngà (gồm 4 trung đoàn)1 (Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Lịch sử hậu cần Quân khu 7 (1945-2000), Sđd, tr.682).


Việc sắp xếp lại tổ chức quân sự và lực lượng vũ trang đến giữa năm 1976 mới cơ bản hoàn thành. Các quân khu, quân đoàn từng bước chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiêp từ Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Và ngày 7-7-1976, Bộ Tư lệnh Miền chính thức giải thể, Quân giải phóng trên chiến trường B2 hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang sau 15 năm hoạt động.


Giai đoạn 1973 - 1976, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã từng bước đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, giành thắng lợi to lớn, cùng quân dân cả nước thực hiện thành công cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam Việt Nam. Từ vấn đề khôi phục, phát triển lực lượng, hình thành các đơn vị binh chủng chuyên môn như công binh, pháo binh, vận tải, trinh sát, đặc công... đến việc xây dựng căn cứ địa, phát triển tiềm lực, vật lực quân sự, làm cho Quân giải phóng B2 ngày một lớn mạnh và giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau ngày miền Nam giải phóng, tính chất cuộc cách mạng ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ đã hoàn toàn thay đổi, nhưng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn tiếp tục tồn tại và hoạt động, tiếp quản vùng mới giải phóng, nhất là các thành phố thị xã, căn cứ quân sự, chính trị và hệ thống kho tàng dự trữ vật chất kỹ thuật của địch; truy quét tàn quân địch, trấn áp lực lượng phản cách mạng, thu dung và cải huấn sĩ quan, binh lính quân đội Sài Gòn, bảo vệ an toàn các mục tiêu quan trọng, các địa bàn chiến lược, toàn bộ khu vực biên giới, bờ biển và hải đảo; tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, tháo gỡ bom mìn và các chướng ngại quân sự, giúp đỡ nhân dân xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định cuộc sống, xây dựng quan hệ sản xuất mới, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; giải quyết chính sách hậu phương quân đội và sắp xếp lại tổ chức quân sự và lực lượng cho phù hợp với điều kiện thời bình. Kết quả của những hoạt động ấy đã góp phần quan trọng vào thành công của cách mạng Việt Nam trong những năm 1975-1976, đặt tiền đề để lực lượng vũ trang tiến lên con đường xây dựng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Ba, 2023, 07:49:19 am
KẾT LUẬN


1.

Địa bàn Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên (gọi tắt là B2) là phần đất cuối cùng phía nam của Tổ quốc, có vùng rừng núi chạy giáp liền với chân dãy Trường Sơn, có thành phố thủ phủ của các chế độ ngụy quyền Sài Gòn, có đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, có bờ biển dài với nhiều cửa sông và đường biên giới giáp với Vương quốc Campuchia. Tựu trung, chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên có ba vùng chiến lược hoàn chỉnh: rừng núi, đồng bằng và đô thị. Vùng rừng núi kéo dài từ miền Đông Nam Bộ đến phía tây các tỉnh Khu 6 cũ, nối liền với Nam Tây Nguyên, đông bắc Campuchia và Hạ Lào. Núi cao, rừng rậm và tương đối bằng phẳng, vùng rừng núi ở chiến trường B2 có đặc điểm thuận lợi cho việc cơ động và trú đóng quân, xây dựng lực lượng và dự trữ cơ sở vật chất, hình thành căn cứ địa và hậu phương chiến lược tại chỗ rộng lớn của cả miền Nam Đông Dương. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nơi đây trở thành căn cứ địa của các cơ quan đầu não kháng chiến, nơi xây dựng các đơn vị chủ lực mạnh, nơi tập kết đứng chân và phát triển tiến công của các binh đoàn chủ lực về giải phóng Sài Gòn trên các hướng bắc và đông bắc. Vùng đô thị bao gồm Sài Gòn và các thành phố, thị xã lớn khác như Biên Hòa, Vũng Tàu, Đà Lạt, Mỹ Tho, Cần Thơ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các đô thị ở B2, đặc biệt là thành phố Sài Gòn, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và hệ thống căn cứ quân sự của địch, nơi đặt bản doanh chỉ đạo, chỉ huy toàn bộ cuộc chiến tranh hoặc từng vùng chiến trường của thế lực xâm lược và bè lũ tay sai. Với ta, nơi đây là trung tâm các phong trào đấu tranh chính trị, nơi cung cấp nhiều sức người sức của để xây dựng lực lượng Quân giải phóng, là điểm quyết chiến chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.


Cư trú ở Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên có nhiều thành phần dân tộc khác nhau như Việt, Xtiêng, Châu Ro, Châu Mạ, Mnông, Chăm, Hoa, Khmer... với nhiều tôn giáo lớn như Thiên Chúa, Phật, Hồi, Cao Đài, Hòa Hảo... Chiếm tuyệt đại bộ phận trong số họ là nông dân. Công cuộc khẩn hoang, làm chủ thiên nhiên và đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống giặc ngoại xâm trên vùng đất mới đã cố kết họ thành một khối đoàn kết gắn bó hun đúc nơi họ ý chí khảng khái, bất khuất trước mọi cản trở của hoàn cảnh, tinh thần tự lực, tự cường và sự năng động sáng tạo cả trong làm ăn và đánh giặc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đòi, phong trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra liên tục và đều khắp với những cao trào mang dấu ấn sâu sắc trong lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Quân giải phóng miền Nam ra đời, xây dựng, chiến đấu với hành trang truyền thống và kinh nghiệm rất phong phú được tích lũy từ trong tiến trình lịch sử 300 năm của cư dân Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên.


Chiến trường B2 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Đối với kẻ thù, đây là nơi thực hiện tập trung nhất chủ nghĩa thực dân kiểu mới và các chiến lược chiến tranh; nơi chúng thực hiện thí điểm các biện pháp chiến lược, chiến thuật như “ấp chiến lược”, “thiết xa vận”, “trực thăng vận” (trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”); “tìm diệt”, “bình định”, “quét và giữ” (trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”); “bình định thí điểm”, “bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt” (trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”); là địa bàn cố thủ cuối cùng trong nỗ lực chia cắt đất nước, duy trì ách thống trị của đế quốc Mỹ và chế độ ngụy quyền tay sai. Đối với lực lượng kháng chien, Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên là chiến trường trọng điểm của toàn miền Nam, nơi Trung ương Đảng tập trung chỉ đạo giải quyết những vấn đề chiến lược chủ yếu nhất tại chiến trường nhằm phát triển cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Phong trào Đồng khởi năm 1960, phong trào phá ấp chiến lược năm 1963, những trận đánh Mỹ đầu tiên và những chiến dịch tiêu diệt lớn những năm 1965 - 1967, cuộc Tổng công kích Xuân Mậu Thân (năm 1968), phong trào đấu tranh đô thị, đòn phản công trên tuyến biên giới và phát triển tiến công mở rộng vùng giải phóng sang Campuchia năm 1970, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 trên chiến trường B2 là chuỗi biến cố lịch sử mà ý nghĩa của nó có tác dụng làm chuyển biến toàn bộ tiến trình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Tựu trung, Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên là địa bàn có khả năng thể hiện sự vận dụng đầy đủ đường lối quân sự, đường lối chính trị của Đảng ta về tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, địa bàn có điều kiện thể hiện một cách trực tiếp truyền thống đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt Nam - Campuchia, nơi mở đầu và kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1945-1975.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Ba, 2023, 07:50:12 am
2.

Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chấp hành sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, trong suốt quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Xứ ủy, Trung ương Cục miền Nam và các cấp ủy Đảng xuất phát từ tình hình thực tiễn, tình hình lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ba thứ quân, phát động quần chúng xây dựng lực lượng chính trị và trên cơ sở đó xây dựng lực lượng vũ trang đi đôi với vũ trang cho quần chúng rộng rãi. Lịch sử Quân giải phóng miền Nam tại chiến trường B2 diễn ra trên nền tảng ấy.


Từ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ - Diệm tiến hành phá hoại Hiệp định, điên cuồng sử dụng bạo lực phản cách mạng đánh phá khốc liệt cách mạng miền Nam. Trước nhu cầu bức xúc bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tại nhiều nơi ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, từ năm 1956, tổ chức Đảng Cộng sản địa phương đã từng bước tổ chức các đơn vị vũ trang (xã, ấp có du kích, tự vệ, tỉnh có đại đội). Đó là những cán bộ quân sự từ kháng chiến chống Pháp được bố trí ở lại, những cơ sở nòng cốt trong lực lượng chính trị và một bộ phận tích cực trong lực lượng giáo phái Cao Đài - Hòa Hảo - Bình Xuyên. Có thể nói đây là lực lượng quân sự đầu tiên hình thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Xuất phát từ đòi hỏi bức bách của tình hình, vừa mới ra đời, các đơn vị vũ trang nói trên đã lập được nhiều thành tích xuất sắc trong vũ trang tuyên truyền phát động quần chúng, xây dựng cơ sở, diệt ác, trừ gian, bảo vệ cán bộ, và tiến tói tác chiến tiêu diệt địch. Họ là lực lượng chủ yếu làm nên những thắng lợi quân sự ở Trại Be, Bến Củi, Minh Thạnh, Dầu Tiếng, Giồng Thị Đam, Gò Quản Cung, Tua Hai và cao trào Đồng khởi năm 1960.


Khi Mỹ - ngụy thay đổi chiến lược, tiến hành “chiến tranh đặc biệt”, cuộc đấu tranh ở miền Nam từ khởi nghĩa từng phần cũng đã sang chiến tranh cách mạng. Hoạt động xây dựng lực lượng vũ trang được đặt ra như là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của cách mạng miền Nam. Ngày 15-2-1961, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Tháng 11-1961, Hội nghị Trung ương Cục quyết định “gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang tập trung, khắc phục chênh lệch giữa ba thứ quân”. Hệ thống Đảng và hệ thống quân sự được thiết lập xuyên suốt từ trên xuống dưới. Hàng đoàn cán bộ tập kết ra miền Bắc lần lượt trở về. Chi viện của Trung ương về người và vũ khí diễn ra với quy mô ngày một lớn. Trong bối cảnh ấy, ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, hệ thống dân quân du kích phát triển mạnh. Các huyện củng cố và xây dựng bộ đội địa phương huyện, các tỉnh xây dựng tiểu đoàn tập trung tỉnh, khu và Miền xây dựng bộ đội chủ lực đến cấp trung đoàn. Tính chung cả B2, nếu trong năm 1961, bộ đội chủ lực có 7.473 người, bộ đội địa phương có 8.222 người, thì đến năm 1964, đã có 35.016 bộ đội chủ lực, 37.575 bộ đội địa phương. Chất lượng Quân giải phóng phát triển một bước căn bản. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương cùng với dân quân du kích thực sự trở thành nòng cốt trong phong trào đấu tranh làm phá sản các chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận”, quốc sách “ấp chiến lược” của địch, và làm nên các sự kiện quân sự vang dội như trận Phước Thành sân bay Biên Hòa, Chiến dịch Bình Giã...


Từ giữa năm 1965, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân chiến đấu Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam. Địa bàn B2 trở thành một trong những “đầu cầu” tiếp nhận quân viễn chinh xâm lược. Tình hình so sánh lực lượng địch - ta tại chỗ thay đổi đột ngột. Để đương đầu với không chỉ quân đội Sài Gòn mà cả quân Mỹ, quân chư hầu được huấn luyện bài bản và trang bị vũ khí hiện đại, cần có các đơn vị quân đội chủ lực mạnh. Vấn đề đẩy mạnh tốc độ xây dựng lực lượng vũ trang trên chiến trường B2 trở nên cấp bách. Tháng 8-1965, Hội nghị Trung ương Cục miền Nam quyết định “nỗ lực xây dựng chủ lực của ta thành những quả đấm thật mạnh và tinh nhuệ, đồng thời hết sức củng cố và phát triển lực lượng dân quân du kích và bộ đội địa phương”. Cũng từ năm 1965, hành lang chiến lược nối từ B2 ra Trung ương và nội vùng B2 được xây dựng liên hoàn, căn cứ địa và vùng giải phóng mở rộng, phát huy được tác dụng hậu phương tại chỗ. Sự chi viện của miền Bắc (đặc biệt là vũ khí), ngày một nhiều. Đó là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng vũ trang trong giai đoạn lịch sử này. Ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Quân giải phóng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Bộ đội chủ lực Miền phát triển đến cấp sư đoàn. Bộ đội chủ lực của khu, phân khu phát triển về đầu đơn vị. Bộ đội địa phương của tỉnh, huyện được chủ ý tăng cường về chất lượng tuy quân số có phần giảm do được rút lên xây dựng chủ lực Miền. Trang bị vũ khí có bước tiến bộ mới. Trong chiến dịch phản công đánh bại cuộc càn Junction City, một số đơn vị bộ đội địa phương có cả súng chống tăng B40, B41 và DKZ75 súng cối và hỏa tiễn, sơn pháo 105mm. Tính chung toàn B2 đến cuối năm 1968 bộ đội chủ lực có 120.996 cán bộ, chiến sĩ; bộ đội địa phương có 43.600 cán bộ, chiến sĩ. Đây là giai đoạn phát triển vượt bậc của Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2. Sự ra đời của các sư đoàn chủ lực Miền đánh dấu sự phát triển hoàn chỉnh về tổ chức và trang bị của lực lượng vũ trang ba thứ quân trên chiến trường B2, giai đoạn phát triển cao độ tiến công địch bằng hai chân, ba mũi, ba vùng, góp phần lần lượt đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô của Mỹ - ngụy và thực hành cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân năm 1968.


Sau Tết Mậu Thân, Mỹ - ngụy chuyển hướng chiến lược, thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, tiến hành đánh phá ác liệt phong trào cách mạng miền Nam. Chúng tập trung mọi nỗ lực để bình định nông thôn, tìm diệt chủ lực Quân giải phóng và mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Quân giải phóng miền Nam phải tiến hành xây dựng trong điều kiện tác chiến liên tục: đánh trả sự phản công ào ạt của địch, mở rộng hoạt động sang chiến trường Campuchia, thực hiện đòn tiến công chiến lược năm 1972. Đây là thời kỳ Quân giải phóng vừa chiến đấu vừa xây dựng với nhịp độ khẩn trương và gay go nhất. Trong khi khối chủ lực của khu và Miền giữ được mức ổn định về số lượng, thì bộ đội địa phương bị giảm sút quân số. Trên toàn chiến trường B2, đến cuối năm 1971, lực lượng chủ lực có 135.586 người, bộ đội địa phương còn 33.918 người. Đến cuối năm 1972, con số này không phát triển thêm được bao nhiêu (149.129 chủ lực, 36.603 bộ đội địa phương). Mặc dù vậy, chất lượng chiến đấu của các thứ quân được nâng lên rõ rệt. Một số đơn vị bộ đội binh chủng kỹ thuật ra đời. Quân giải phóng miền Nam đã kiên cường bám trụ và chiến đấu, đánh địch bình định ở đồng bằng, đánh địch càn quét ở biên giới, khôi phục thế chiến tranh nhân dân trên các vùng chiến trường, tiến công có hiệu quả trong mùa hè năm 1972, góp phần buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari và rút quân chiến đấu Mỹ và chư hầu về nước.


Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, lực lượng vũ trang ở B2 được xây dựng một cách toàn diện. Nhờ có sự chi viện lớn của hậu phương miền Bắc (quân số, vũ khí và phương tiện kỹ thuật, hàng quân y, quân nhu, xăng dầu...), lực lượng vũ trang ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ phát triển nhảy vọt. Bộ đội chủ lực Miền hình thành hai binh đoàn (Quân đoàn 4, Binh đoàn 232). Lực lượng chủ lực của các khu thành lập đến cấp sư đoàn. Bộ đội địa phương của tỉnh, huyện tăng gấp đôi quân số so với cuối năm 1972. Các binh chủng như xe tăng, pháo binh, công binh, thông tin... phát triển mạnh mẽ về đầu đơn vị, số lượng với nhiều chủng loại trang bị khí tài lớn và hiện đại. Nhờ vậy, Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã nhanh chóng khắc phục những lúng túng ban đầu về nhận thức nhiệm vụ, kịp thời chuyển sang tiến công giành thế chủ động, đánh địch lấn chiếm vi phạm Hiệp định Pari, tạo thế, tạo lực giải phóng cục bộ từng vùng, tiến hành Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, chuẩn bị chiến trường, tạo điều kiện về mọi mặt và phối hợp cùng các binh đoàn chủ lực của Bộ tiến công giải phóng các địa phương, giải phóng Sài Gòn - Gia Định và các đảo, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các đơn vị Quân giải phóng thực hiện công tác quân quản, truy quét tàn quân địch, bảo vệ chính quyền cách mạng, tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng kinh tế.


15 năm kể từ ngày thành lập (1961) đến ngày kết thúc nhiệm vụ (1976), Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Quân đội giao phó, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thành qua mà Quân giải phóng đã giành được trong mười lăm năm ấy bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đó là nhờ có đường lối chiến tranh cách mạng, sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng mà trực tiếp là Trung ương Cục sự chỉ đạo chính xác kịp thời của Bộ Tổng Tư lệnh, Quân ủy - Bộ Tư lệnh Miền; nhờ toàn thể cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng trên toàn chiến trường B2 có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ quản lý, chỉ huy và kỷ chiến thuật chiến đấu giỏi có quyết tâm chiến đấu và tinh thần đoàn kết, tổ chức kỷ luật cao, dũng cảm, mưu trí, năng động sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ; có sự phối hợp nhịp nhàng của lực lượng chính trị quần chúng trong thế trận chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện, sự hỗ trợ của các cơ quan ban ngành đoàn thể kháng chiến, sự chi viện to lớn của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Ba, 2023, 07:51:25 am
3.

Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành cua Quan giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 chứng minh rằng: mọi thắng lợi của quân đội cách mạng đều là kết quả sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước, thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn đường lối chính trị, đường lối quân sự và quán triệt một cách đầy đủ đường lối đó trong xây dựng và hoạt động của Quân giải phóng.


Trong quá trình hoạt động, Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã quán triệt đầy đủ đường lối của Đảng về độc lập dân tộc, nắm vững nhiệm vụ; từ đó, có những quyết sách thích hợp trong việc vừa đề cao tinh thần tự lực tự cường, khắc phục những khó khăn của chiến trường, vừa hết sức tranh thủ sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa và phát huy có hiệu quả sự chi viện ấy; đồng thời tích cực thực hiện nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia trong chiến đấu chống kẻ thù chung. Trong khi quán triệt đường lối của Đảng, Quân giải phóng luôn luôn nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng chiến lược tiến công. Đó là, con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, lấy chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân để đánh bại chiến tranh xâm lược của Mỹ - ngụy. Đó là, muốn thực hiện tiêu diệt sinh lực địch, làm thay đổi so sánh lực lượng, thay đổi cục diện và làm chủ chiến trường, phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, tiến công kiên quyết và liên tục, kết hợp tiến công với nổi dậy, tấn công với phản công, tiến công toàn diện, khắp nơi, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Đi đôi với việc quán triệt đường lối chính trị, Quân giải phóng thường xuyên nắm vững đường lối quân sự của Đảng, nắm vững quy luật chiến tranh, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, giữa tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ, giữa chỉ đạo chiến lược và nghệ thuật chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch, chiến thuật, kết hợp các phương thức tác chiến, nắm vững đường lối và nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng hậu phương tại chỗ và căn cứ địa cách mạng.


Nhờ nắm vững đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng mà Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã giải quyết thành công những vấn đề về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, trên tất cả các lĩnh vực tác chiến và xây dựng lực lượng vũ trang, công tác hậu cần kỹ thuật, công tác đảng, công tác chính trị, công tác tổ chức tham mưu cho Đảng ủy cấp trên và công tác bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang trên toàn chiến trường B2. Thực tiên hoạt động từ khi thành lập cho đến lúc kết thúc nhiệm vụ chứng tỏ Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã luôn luôn bám chắc vào mục tiêu cuối cùng của cách mạng, nắm vững ý đồ chiến lược của cấp trên, hiểu rõ đặc điểm vị trí, vai trò của chiến trường, vững vàng trên quan điểm bạo lực và tư tưởng tiến công mà đề ra phương hướng, kế hoạch thực hiện cả cho trước mắt lẫn lâu dài.


Tư tưởng tiến công, quan điểm bạo lực cách mạng được thể hiện xuyên suốt từ đầu đến cuối trong quá trình tác chiến và xây dựng lực lượng. Đó là, Quân giải phóng ở chiến trường B2 hình thành và phát triển dựa trên hai nguồn: từ phong trào chính trị, lực lượng chính trị tại chỗ và từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngay từ những năm đầu của cuộc chiến tranh cách mạng, các địa phương ở Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ đã tìm mọi cách phát triển dân quân du kích, phát triển bộ đội địa phương, đồng thời kiên quyết khẩn trương xây dựng lực lượng chủ lực. Từ đó dần hình thành các sư đoàn chủ lực rồi quân đoàn của Miền, các trung đoàn rồi sư đoàn của các quân khu, các tiểu đoàn rồi trung đoàn của các tỉnh, thành phố, các binh chủng kỹ thuật khí tài hiện đại. Tất cả được quy hoạch phát triển một cách cân đối, phù hợp với yêu cầu và ý đồ chiến lược chung và được bố trí đội hình thích hợp nhằm tạo thế, giành quyền chủ động tiến công trên các chiến trường. Đó là, Quân giải phóng đã tổ chức có hiệu quả mạng lưới nắm địch, theo dõi chặt chẽ tình hình địch - ta, phân tích đánh giá chính xác để vận dụng vào thực tiễn chỉ đạo chiến lược, tổ chức chiến dịch và trận đánh, đề ra và vận dụng sáng tạo các phương châm, phương thức tác chiến phù hợp. Đó là chủ trương đẩy mạnh phương thức tác chiến tiêu diệt, tiêu hao địch rộng rãi của bộ đội địa phương, đồng thời sử dụng lực lượng chủ lực đánh đòn tập trung, tiêu diệt lớn nhằm làm thay đổi cục diện chiến trường; là phương châm kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, phương thức tác chiến đánh bồi, đánh nhồi, sử dụng lực lượng binh chủng trong tác chiến hiệp đồng hoặc tác chiến độc lập đánh trong thành phố, thị xã, hậu cứ, kho tàng; đẩy mạnh đánh phá địch bình định, giành quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng vùng kiểm soát ở nông thôn, đồng bằng, rừng núi. Đó là, Quân giải phóng thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm nhằm không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về đường lối chiến tranh cách mạng, về nghệ thuật quân sự, về trình độ chỉ huy cho cán bộ, trình độ kỹ chiến thuật cho chiến sĩ. Đồng thời chú trọng giải quyết những vấn đề về chiến thuật nhằm nâng cao khả nảng hoàn thành nhiệm vụ của các chiến dịch, các đợt hoạt động như chiến đấu vận động, vận động phục kích, tập kích, chiến thuật đánh cơ giới, đánh tiêu diệt từng cụm cơ giới, đánh cụm dã ngoại của kỵ binh, không vận Mỹ, chiến thuật vây lấn, chốt chặn... với những sáng tạo hết sức phong phú.


Xuyên suốt các giai đoạn của cuộc chiến tranh, Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 đã không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác đảng, công tác chính trị. Ngay từ khi thành lập, đồng thời với việc khẩn trương xây dựng hệ thống tổ chức Đảng các cấp, cấp ủy đảng trong các đơn vị Quân giải phóng đã chú trọng chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu, nhất là trong những lúc tình hình có sự chuyển biến phức tạp. Nội dung công tác giáo dục chính trị tập trung vào việc quán triệt đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, quán triệt phương hướng, mục tiêu, phương châm, phương thức của chiến tranh cách mạng và nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Từ đó xây dựng quyết tâm chiến lược, chiến dịch và chiến đấu cho lực lượng vũ trang, bồi dưỡng lập trường cách mạng, thực hiện dân chủ quân sự, xây dựng lòng tin vào thắng lợi, động viên tinh thần khắc phục khó khăn, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, trụ bám và chiến đấu liên tục dài ngày trong các chiến dịch, các đợt hoạt động và trong những thời điểm cam go nhất của cuộc kháng chiến. Trong công tác xây dựng đảng, Quân giải phóng thường xuyên đặt vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang thành nhiệm vụ hàng đầu; thực hiện nghiêm ngặt chế độ ra nghị quyết, triển khai và kiểm tra kết quả thực hiện nghị quyết của Quân ủy Miền; coi trọng các khâu rèn luyện đảng viên, phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng chi bộ vững mạnh, duy trì nguyên tắc chế độ công tác đảng ủy, chế độ sinh hoạt đảng và đại hội nhiệm kỳ đảng bộ các cấp. Nhằm bổ sung kịp thời số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ, công tác cán bộ được ưu tiên chỉ đạo một cách căn cơ, đúng hướng, từ tạo nguồn đến đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm; bảo đảm có lực lượng dự trữ và lực lượng bổ sung đầy đủ, nhất là sau mỗi biến cố lớn của chiến trường. Công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, công tác chính sách như khen thưởng trong chiến đấu, sau chiến đấu, nhân rộng điển hình, chính sách hậu phương quân đội, thương binh, bệnh binh, liệt sĩ, quy tập mộ liệt sĩ, làm sơ đồ mộ chí, xác minh liệt sĩ và báo tử, chính sách đối với quân nhân bị địch bắt trở về... được quan tâm chỉ đạo thực hiện một cách kịp thời, công minh, có tác dụng khích lệ tinh thần hăng hái của bộ đội trong điều kiện chiến tranh gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại.


Một vấn đề có ý nghĩa quy luật là, khi có hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang thì lập tức phải có hệ thống tổ chức hậu cần - kỹ thuật, lực lượng vũ trang càng lớn mạnh thì hệ thống tổ chức hậu cần - kỹ thuật cũng phải ngày càng vững mạnh và công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật cần được tổ chức tốt, phù hợp với đặc điểm chiến trường và sự phát triển của cuộc chiến tranh. Nắm vững quy luật trên, Quân giải phóng trên chiến trường B2 đã thực hiện công tác hậu cần - kỹ thuật một cách có hiệu quả. Ngay sau khi thành lập và xuyên suốt các giai đoạn của cuộc chiến tranh, cùng với việc xây dựng hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang các cấp, xây dựng các cơ quan tham mưu, chính trị, Quân giải phóng đã tập trung xây dựng hệ thống hậu cần trong quân đội. Tổ chức hậu cần quân đội gắn liền với căn cứ địa bằng hình thức tổ chức khu vực hậu cần. Các khu vực hậu cần được xây dựng trong thế bố trí chiến lược: hậu cần khu vực - hậu phương tại chỗ - hậu phương trực tiếp gần đó - hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi tổ chức hậu cần khu vực đều có các lực lượng thu mua hàng hóa, sản xuất vũ khí vận tải, kho tàng dự trữ chiến lược và chiến dịch, giao thông liên lạc, các tuyến bệnh viện quân - dân y, tổ chức chiến đấu. Hệ thống tổ chức và bố trí hậu cần theo khu vực đã bảo đảm nối liền hậu cần tại chỗ với nguồn chi viện của Trung ương, giữ vững tính vững chắc liên hoàn cho cả phía trước và phía sau, trên các hướng chiến lược quan trọng; đồng thời bảo đảm tính ổn định, cơ động, kịp thời trước mọi nhu cầu và diễn biến của tình hình. Nắm vững quan điểm hậu cần của chiến tranh nhân dân, dựa vào dân, kết hợp chặt chẽ hậu cần quân đội với hậu cần nhân dân, quan điếm cần kiệm, tự lực tự cường, Quân giải phóng đã giải quyết thành công vấn đề tạo nguồn và khai thác các nguồn chuẩn bị hậu cần - kỹ thuật. Đó là nguồn đóng góp của nhân dân, thu mua từ vùng địch tạm chiếm, thu mua từ Campuchia, sản xuất tự túc và thu chiến lợi phẩm.


Từ sau ngày Quân giải phóng miền Nam trên chiến trường B2 kết thúc nhiệm vụ, trên địa bàn Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, lực lượng vũ trang các quân khu, quân đoàn, dưói sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã kế thừa và phát huy truyền thống của Quân giải phóng miền Nam trong thơi kỷ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia; xây dựng tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân; xây dựng quân đội nhân dân "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Ba, 2023, 07:54:22 am
PHỤ LỤC

DANH SÁCH BỘ CHỈ HUY QUÂN GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM VIỆT NAM TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
(1961 - 1976)


Giai đoạn 1961-1962:

- Trần Nam Trung   Trưởng ban quân sự
- Nguyễn Văn Linh   Chính ủy
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó ban quân sự


Giai đoạn 1962-1964:
- Trần Văn Quang   Trưởng ban quân sự, Tư lệnh
- Nguyễn Văn Linh   Chính ủy
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó ban quân sự, Phó Tư lệnh


Giai đoạn 1964-1967:
- Trần Văn Trà   Tư lệnh
- Nguyễn Chí Thanh   Chính ủy
- Lê Trọng Tấn   Phó Tư lệnh
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó Tư lệnh, từ năm 1965
- Nguyễn Thị Định   Phó Tư lệnh, từ năm 1965
- Đồng Văn Cống   Phó Tư lệnh, từ năm 1965
- Trần Độ   Phó Chính ủy, từ năm 1965


Giai đoạn 1967-1973:
- Hoàng Văn Thái   Tư lệnh
- Phạm Hùng      Chính ủy
- Trần Văn Trà   Phó Tư lệnh
- Lê Trọng Tấn   Phó Tư lệnh, đến năm 1969
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó Tư lệnh
- Nguyễn Thị Định   Phó Tư lệnh
- Lê Đức Anh   Phó Tư lệnh, từ năm 1969
- Đồng Văn Cống   Phó Tư lệnh, 1969-1972
- Trần Độ   Phó Chính ủy
- Lê Văn Tưởng   Phó Chính ủy, từ năm 1972


Giai đoạn 1973-1976:   
- Trần Văn Trà   Tư lệnh
- Phạm Hùng   Chính ủy
- Nguyễn Hữu Xuyến   Phó Tư lệnh, đến năm 1974
- Nguyễn Thị Định   Phó Tư lệnh
- Lê Đức Anh      Phó Tư lệnh
- Đồng Văn Cống      Phó Tư lệnh, từ năm 1974
- Trần Độ   Phó Chính ủy, đến năm 1974
- Lê Văn Tưởng      Phó Chính ủy


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 27 Tháng Ba, 2023, 08:00:01 am
BẢN THỐNG KÊ QUÂN SỐ
QUÂN GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
(1961 - 1976)
1
(Nguồn: Đề cương tỉ mỉ báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Ban Tổng kết chiến tranh B2, 2-1979, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu  7)


Năm 1960:

- Miền Đông Nam Bộ: Khu có 1 tiểu đoàn (997 người); tỉnh có 3 đại đội và 2 trung đội (616 người); huyện có 12 trung đội và 17 tiểu đội (562 người). Toàn miền Đông Nam Bộ có 1.556 súng các loại.

- Miền Trung Nam Bộ: Khu có 1 tiểu đoàn (266 người); tỉnh có 4 đại đội và 4 trung đội (1.673 người); huyện có 27 trung đội (1.166 người). Toàn miền Trung Nam Bộ có 2.338 súng các loại.

- Miền Tây Nam Bộ: Khu có 1 tiểu đoàn (771 người); tỉnh có 4 đại đội và 3 trung đội (720 người); huyện có 32 trung đội (1.530 người). Toàn miền Tây Nam Bộ có 2.644 súng các loại.

- Cực Nam Trung Bộ: Liên tỉnh 3 (Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa) có 2 đại đội, Nam Tây Nguyên có 1 đại đội.


Năm 1961:

Quân giải phóng toàn B2 là 19.571 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 9.209 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 10.362 người


Năm 1962:

Quân giải phóng toàn B2 là 35.888 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 15.317 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 20.571 người

Trong số bộ đội chủ lực, trực thuộc Miền: 10.100 người, Quân khu Sài Gòn - Gia Định: 534 người, Quân khu 6:1.145 người, Quân khu 7:1.785 người, Quân khu 8: 786 người, Quân khu 9: 850 người, Quân khu 10: 117 người.


Năm 1963:

Quân giải phóng toàn B2 là 54.364 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 25.895 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 28.469 người

Trong số bộ đội chủ lực, trực thuộc Miền: 11.946 người, Quân khu Sài Gòn - Gia Định: 950 người, Quân khu 6:1.475 người, Quân khu 7: 1.982 người, Quân khu 8: 3.224 người, Quấn khu 9: 6.318 người.


Năm 1965:

Quân giải phóng toàn B2 là 73.332 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 35.016 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 38.316 người

Trong số bộ đội chủ lực, trực thuộc Miền: 16.362, Quân khu Sài Gòn - Gia Định: 2.882, Quân khu 6: 1.957, Quân khu 7: 2.304, Quân khu 8: 5.255, Quân khu 9: 6.256.


Năm 1966:

Quân giải phóng toàn B2 là 106.213 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 61.978 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 44.235 người

Trong số bộ đội chủ lực, trực thuộc Miền: 44.136 người, Quân khu Sài Gòn - Gia Định: 2.843 người, Quân khu 6: 2.850 người, Quân khu 7: 1.894 người, Quân khu 8: 3.655 người, Quân khu 9: 6.256 người, Quân khu 10: 344 người.


Năm 1968:

Quân giải phóng toàn B2 là 166.000 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 127.500 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 38.500 người


Năm 1969:

Quân giải phóng toàn B2 là 184.754 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 100.626 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện : 84.128 người


Năm 1970:

Quân giải phóng toàn B2 là 174.504 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 140.586 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 33.918 người


Năm 1972:

Quân giải phóng toàn B2 là 185.732 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 149.129 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện: 36.603 người


Năm 1975:

Quân giải phóng toàn B2 là 278.237 người, trong đó:

- Bộ đội chủ lực Miền, khu: 209.325 người

- Bộ đội địa phương tỉnh, huyện : 68.912 người


Từ 1960 đến 1975:

Hậu phương miền Bắc chi viện cho chiến trường B2:

Quân số: gần 400.000 người (riêng tân binh là 236.000 người). Cụ thể về đơn vị, có:

- 3 sư đoàn, 12 trung đoàn, 26 tiểu đoàn bộ binh.

- 4 trung đoàn, 30 tiểu đoàn, 9 đại đội trợ chiến, pháo cao xạ.

- 1 trung đoàn, 6 tiểu đoàn, 1 đại đội tăng - thiết giáp.

- 4 trung đoàn, 9 tiểu đoàn, 16 đại đội pháo mặt đất.

- 36 tiểu đoàn, 111 đại đội đặc công.

- 7 tiểu đoàn, 2 đại đội thông tin.

- 1 tiểu đoàn, 2 đại đội trinh sát.

- 4 tiểu đoàn, 19 đại đội công binh.

- 1 trung đoàn, 2 tiểu đoàn, 1 đại đội vận tải.

Vũ khí đạn được và một số mặt hàng khác:

- 62.445 tấn vũ khí, đạn dược và phương tiện khí tài kỹ thuật

- 33.494 tấn xăng, dầu, mỡ.

- 59.934 tấn lương thực, 1.043 tấn muối.

- 2.827 tấn quân trang, 2.725 tấn thuốc quân y.


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Ba, 2023, 07:24:46 am
MỘT SỐ CHIẾN DỊCH LỚN DO BỘ CHỈ HUY
QUÂN GIẢI PHÓNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
TRỰC TIẾP CHỈ ĐẠO, CHỈ HUY


1. Chiến dịch Bình Giã
- Thời gian: 2-12-1964 đến 7-3-1965.
- Địa bàn: đông tỉnh lộ 2 (Bà Rịa - Long Khánh).
- Lực lượng: 2 trung đoàn chủ lực Miền và 3 tiểu đoàn chủ lực Quân khu 7, 1 tiểu đoàn pháo binh Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Trần Đình Xu (Tư lệnh), Lê Văn Tưởng (Chính ủy).


2. Chiến dịch Đồng Xoài
- Thời gian: từ ngày 10-5 đến ngày 22-7-1965.
- Địa bàn: Phước Long, Bình Long, bắc Bình Dương.
- Lực lượng: 3 trung đoàn chủ lực Miền, 1 tiểu đoàn chủ lực Quân khu 6, 2 tiểu đoàn chủ lực Quân khu 7 và 1 tiểu đoàn pháo binh Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Lê Trọng Tấn (Tư lệnh), Lê Văn Tưởng (Chính ủy).


3. Chiến dịch Bàu Bàng
- Thời gian: từ ngày 12-11 đến ngày 27-11-1965:
- Địa bàn: Dầu Tiếng, Bình Long.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 9 và Tiểu đoàn Phú Lợi (Bình Dương).
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Hoàng Cầm (Tư lệnh), Lê Văn Tưởng (Chính ủy).


4. Chiến dịch Tây Ninh
- Thời gian: từ ngày 3-11 đến ngày 25-11-1966.
- Địa bàn: tỉnh Tây Ninh.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 9, Trung đoàn 16 và lực lượng vũ trang tỉnh Tây Ninh.
- Loại hình: Chiến dịch phản công
- Chỉ huy: Trần Văn Trà (Tư lệnh), Trần Độ (Chính ủy).


5. Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Xêđa Phôn
- Thời gian: từ ngày 8-1 đến ngày 26-1-1967.
- Địa bàn: Củ Chi (Gia Định), Trảng Bàng (Tây Ninh), Bến Cát (Bình Dương).
- Lực lượng: Trung đoàn bộ binh 2, Sư đoàn bộ binh 9, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định.
- Loại hình: Chiến dịch phản công.
- Chỉ huy: Trần Đình Xu (Tư lệnh), Mai Chí Thọ (Chính ủy).


6. Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xity (Junction City)
- Thời gian: từ ngày 22-2 đến ngày 15-4-1967.
- Địa bàn: Tây Ninh, Dầu Tiếng.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 9, Trung đoàn 16, lực lượng bảo vệ căn cứ bắc Tây Ninh, lực lượng vũ trang tỉnh Tây Ninh.
- Loại hình: Chiến dịch phản công.
- Chỉ huy: Trần Văn Trà (Tư lệnh), Nguyễn Chí Thanh (Chính ủy).


7. Chiến dịch Lộc Ninh
- Thời gian: từ ngày 27-10 đến ngày 10-12-1967.
- Địa bàn: tỉnh Phước Long.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 9, Sư đoàn bộ binh 5, Trung đoàn 88, các đại đội pháo binh Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Hoàng Văn Thái (Tư lệnh), Lê Văn Tưởng (Chính ủy).


8. Tiến công Xuân Mâu Thân 1968 ở Sài Gòn - Gia Định
- Thời gian: từ ngày 31-1 đến ngày 18-6-1968.
- Địa bàn: Khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 9, Sư đoàn bộ binh 7, Sư đoàn bộ binh 5, Trung đoàn 16, 88, các tiểu đoàn mũi nhọn, lực lượng biệt động nội thành Sài Gòn và các tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương của Long An, Tây Ninh, Bình Dương, Biên Hòa.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy chiến dịch: sở chỉ huy cơ bản: Hoàng Văn Thái (Tư lệnh), Phạm Hùng (Chính ủy); sở Chỉ huy tiền phương: Trần Văn Trà (Tư lệnh), Nguyễn Văn Linh (Chính ủy).


9. Chiến dịch Tây Ninh - Dầu Tiếng
- Thời gian: từ ngày 17-8 đến ngày 24-9-1968.
- Địa bàn: Tây Ninh - Dầu Tiếng.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 9, Sư đoàn bộ binh 5, Trung đoàn 174, Trung đoàn 88, lực lượng vũ trang Tây Ninh, 1 trung đoàn pháo binh Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Hoàng Văn Thái (Tư lệnh), Phạm Hùng (Chính ủy).


10. Chiến dịch Xuân 1969
- Thời gian: từ ngày 22-2 đến ngày 31-3-1969.
- Địa bàn: Tây Ninh, Biên Hòa, Dầu Tiếng.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 1, Sư đoàn bộ binh 5, Sư đoàn bộ binh 7, Sư đoàn bộ binh 9, 3 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn công binh 1 trung đoàn pháo binh Miền và các đơn vị vũ trang các tỉnh trên địa bàn chiến dịch.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Trần Văn Trà (Tư lệnh).


11. Chiến dịch Long Khánh
- Thời gian: từ ngày 5-5 đến ngày 20-6-1969.
- Địa bàn: tỉnh Long Khánh.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 5, Trung đoàn 29 và 1 tiểu đoàn pháo binh Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Trần Minh Tâm (Tư lệnh), Lê Xuân Lựu (Chính ủy).


12. Chiến dịch Bình Long - Phước Long
- Thời gian: từ ngày 12-8 đến ngày 15-9-1969.
- Địa bàn: Lộc Ninh, Hớn Quản, Bù Đốp, tỉnh Bình Long.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 1, Sư đoàn bộ binh 5, Sư đoàn bộ binh 7, Sư đoàn bộ binh 9 và 1 trung đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn đặc công Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Hoàng Văn Thái (Tư lệnh), Trần Độ (Chính ủy).


13. Chiến dịch Phước Bình - Bù Đốp
- Thời gian: từ ngày 3-11 đến ngày 10-12-1969.
- Địa bàn: Bù Đăng - Đức Lập, tỉnh Phước Long.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 7, Trung đoàn pháo binh Miền và lực lượng vũ trang Quân khu 10.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Lê Nam Phong (Tư lệnh).


14. Chiến dịch Đông Bắc Campuchia
- Thời gian: từ ngày 29-4 đến ngày 30-6-1970.
- Địa bàn: 6 tỉnh Đông Bắc Campuchia.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 5, Sư đoàn bộ binh 7, Sư đoàn bộ binh 9, Trung đoàn 271, 3 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn pháo binh Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Trần Văn Trà (Tư lệnh), Lê Văn Tưởng (Chính ủy).


15. Chiến dịch mùa khô năm 1971
- Thời gian: từ ngày 4-2 đến ngày 24-6-1971.
- Địa bàn: tỉnh Krachê - Kôngpôngchàm.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 5, Sư đoàn bộ binh 7, Sư đoàn bộ binh 9, Trung đoàn pháo binh 75, Trung đoàn pháo binh 96, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn công binh 25.
- Loại hình: Chiến dịch phản công.
- Chỉ huy: Trần Văn Trà (Tư lệnh), Lê Văn Tưởng (Chính ủy).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Ba, 2023, 07:26:38 am
16. Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ đường 22
- Thời gian: từ ngày 26-9 đến ngày 20-10-1971.
- Địa bàn: đoạn đường 22 từ cầu cần Đăng đến Xa Mát (Tây Ninh).
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 7, Tiểu đoàn 24 Sư đoàn bộ binh 9, Tiểu đoàn 26, 27 Trung đoàn công binh 301 và 1 tiểu đoàn pháo cao xạ Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Đàm Văn Ngụy (Tư lệnh).


17. Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân “Chenla 2”
- Thời gian: từ ngày 20-10 đến ngày 4-12-1971.
- Địa bàn: Trục đường số 6 (Kôngpôngchàm).
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 9, Trung đoàn 205, Đoàn đặc công 367.
- Loại hình: Chiến dịch phản công.
- Chỉ huy chiến dịch: Đồng Văn Cống (Tư lệnh), Lê Văn Tưởng (Chính ủy).


18. Chiến dịch Nguyễn Huệ
- Thời gian: từ ngày 31-3-1972 đến ngày 28-1-1973.
- Địa bàn: Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Dương.
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 5, Sư đoàn bộ binh 7, Sư đoàn bộ binh 9 và 3 trưng đoàn độc lập, 2 trung đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn xe tăng, 4 tiểu đoàn pháo cao xạ.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Trần Văn Trà (Tư lệnh), Trần Độ (Chính ủy).


19. Chiến dịch tiến công tổng hợp Khu 8
- Thời gian: từ ngày 10-6 từ ngày 10-9-1972.
- Địa bàn: 5 tỉnh (Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiên Phong, Gò Công và Bến Tre).
- Lực lượng: Sư đoàn bộ binh 5, c30B (3 trung đoàn) của Miền, lực lượng vũ trang Khu 8 và 1 tiểu đoàn đặc công Đoàn 367.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Hoàng Văn Thái (Tư lệnh kiêm Chính ủy).


20. Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Sorya 2
- Thời gian: từ ngày 6-8 đến ngày 11-9-1972.
- Địa bàn: Trục đường 1 khu vực Tàbéc (Campuchia).
- Lực lượng: 3 trung đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, Đại đội 50.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Hoàng Cầm (Tư lệnh), Trần Văn Phác (Chính ủy).


21. Chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Ángko - Chay
- Thời gian: từ ngày 8-8 đến ngày 28-8-1972.
- Địa bàn: tỉnh Xiêm Riệp (Campuchia).
- Lực lượng: 5 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo binh và 5 đại đội bộ đội Campuchia.
- Loại hình: Chiến dịch phản công.
- Chỉ huy: Hoàng Cầm (Tư lệnh), Trần Văn Phác (Chính ủy).


22. Chiến dịch Đường 14 - Phước Long
- Thời gian: từ ngày 13-12-1974 đến ngày 6-1-1975.
- Địa bàn: tỉnh Phước Long.
- Lực lượng: Quân đoàn 4 (Sư đoàn bộ binh 7, Sư đoàn bộ binh 9) và Sư đoàn bộ binh 3, Trung đoàn bộ binh 271, Trung đoàn 201, Trung đoàn đặc công 429, Trung đoàn pháo binh 75, 3 tiểu đoàn pháo cao xạ, 1 tiểu đoàn tăng - thiết giáp, 1 trung đoàn công binh Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Hoàng Cầm (Tư lệnh), Hoàng Thế Thiện (Chính ủy).


23. Chiến dịch Xuân Lộc
- Thời gian: từ ngày 9-4 đến ngày 20-4-1975.
- Địa bàn: Xuân Lộc - Long Khánh.
- Lực lượng: Quân đoàn 4 (thiếu Sư đoàn bộ binh 9), Sư đoàn bộ binh 6, Trung đoàn pháo 75, Trung đoàn tăng-thiết giáp Miền.
- Loại hình: Chiến dịch tiến công.
- Chỉ huy: Hoàng Cầm (Tư lệnh), Nguyễn Văn Trung (Chính ủy).


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Ba, 2023, 07:31:18 am
QUÂN SỐ QUÂN ĐỘI MỸ, QUÂN ĐỘI SÀI GÒN
VÀ QUÂN ĐỘI CÁC NƯỚC ĐỔNG MINH CỦA MỸ
TRÊN CHIẾN TRƯỜNG B2
1
(Nguồn: Đề cương tỉ mỉ báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, Ban Tổng kết chiến tranh B2, 2-1979, lưu trữ Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7)


(https://i.imgur.com/w36Jp53.jpg)


Tiêu đề: Lịch sử Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam trên chiến trường B2 1961-1976
Gửi bởi: vnmilitaryhistory trong 30 Tháng Ba, 2023, 07:33:26 am
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH


I. SÁCH

1. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

2. Ban Tổng kết chiến tranh Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.

3. Ban Tổng kết lịch sử Bộ Tổng tham mưu: Tổng kết Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1977.

4. Bộ Quốc phòng: Lịch sử Bộ Chỉ huy Miền (1961-1976), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

5. Lê Bưởi (Chủ biên): Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đê'quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Ban Tổng kết chiến tranh B2, 1984.

6. Hoàng Cầm: Chặng đường mười nghìn ngày (hồi ký), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.

7. Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về chiến tranh và quân đội, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.

8. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.

9. Lê Văn Dương: Quân lực Việt Nam Cộng hòa giai đoạn hình thành 1946 - 1955, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa xuất bản, 1972.

10. Hồ Sơn Đài: Cuộc kháng chiến (1945-1975) nhìn từ Nam Bộ. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

12. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4: Binh đoàn Cửu Long, tập I, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1989.

13. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 5: Lịch sử Khu 6 (cực Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên) kháng chiến chống Mỹ(1954 -1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995.

14. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 7: Lịch sử miền Đông Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

15. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 8: Quân khu 8 - Ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.

16. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 9: Quân khu 9 - Ba mươi năm kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.

17. Trần Bạch Đằng (Chủ biên): Chung một bóng cờ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.

18. Nguyễn Thị Định: Không còn con đường nào khác (hồi ký), Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1989.

19. Võ Nguyên Giáp: Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970.

20. Lê Mậu Hãn (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999.

21. Khuất Biên Hòa: Đại tướng Lê Đức Anh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005.

24. Neil Sheelhan: Sự lừa dối hào nhoáng, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.

25. Peter A. Poole: Nước Mỹ và Đông Dương, từ Rudơven đến Níchxơn, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986.

26. Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên): Các Đại hội đại biểu toàn quốc và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

27. Robert S. McNamara: Nhìn lại quá khứ - Tấn thẳm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.

28. Hoàng Văn Thái: Những năm tháng quyết định (hồi ký). Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985.

29. Trần Văn Trà: Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm (hồi ký), Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1982.

30. Trung tâm từ điển bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng: Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân Hà Nội, 1996.

31. Trung tướng Lê Văn Tưởng: Con đường tôi đả chọn (hồi ký), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.

32. Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước, tập 1 (1954-1965), tập 2 (1965-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.

33. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miêh Nam (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

34. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

35. Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Quân khu 6 kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

36. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, tập II, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội (quyển 1: 1988, quyển 2: 1990).

37. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hệ thống tổ chức quân sự của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong chiến tranh Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003.

38. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, Hà Nội, 2013.

39. Westmoreland: Tường trình của một quân nhân, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1988.

40. Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên: Nhớ về chiến trường Khu 6 (hổi ký), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.


II. TÀI LIỆU

Văn bản nghị quyết, chỉ thị, điện, biên bản hội nghị, báo cáo chiến trường, tài liệu khảo sát điền dã, băng ghi âm lời kể nhân chứng... lưu tại:

- Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

- Lưu trữ Bộ Quốc phòng.

- Lưu trữ Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

- Lưu trữ Viện Lịch sử Đảng.

- Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.

- Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.

- Phòng Khoa học quân sự Quân khu 5.

- Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7.

- Phòng Khoa học quân sự Quân khu 9.

- Phòng Khoa học quân sự Quân đoàn 4.