Lịch sử Quân sự Việt Nam

Thư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:11:06 pm



Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:11:06 pm
- Tên sách: Hồi ức B2
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Lao động
- Năm xuất bản: 1999
- Người số hóa: giangtvx, dungnuocgiunuoc



LỜI GIỚI THIỆU


Ai đọc tập sách này (Hồi ức B2), không thể không rưng rưng nước mắt. Tất cá những mảnh đời đã được gom tụ lại thành một cuộc đời: cuộc đời của những người đã từng sống chiến đấu ở "Miền Đông gian lao mà anh dũng". Tập sách chân thật, chân thât đến từng chi tiết, chân thật đến phát khóc lên được. Mỗi mẩu hồi ký của mỗi người không chỉ gợi lại mà còn làm sống dậy những kỷ niệm sâu thẳm của đời ta về một vùng đất ta đã từng gửi một phần xương máu của mình cho Độc lập, Tự do của Tổ quốc. Đó là hồi ký của các anh: Tư Kỳ, nguyên Trưởng phòng Tuyên huấn, Mười Tái, nguyên Trưởng phòng Địch vận, Năm Bình, nguyên Trưởng phòng Bảo vệ, Hai Tá, nguyên Trưởng ban Phát thành quân Giải phóng, Mai Chiến Thái, Đình Thịnh, nguyên phóng viên báo Quân Giải phóng miền Nam, Quốc Vinh, Cô Hỷ, Quang Đạt, Nghiêm Hà, nguyên quay phim nhiếp ảnh của Xưởng phim Quân Giải phóng, Tư Sơ, phòng bảo vệ... Đủ mặt cán bộ chiến sĩ của Cục Chính trị B2, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hồi ký khi được viết bằng văn xuôi, lúc được viết bằng văn vần. Thể loại nào cùng được các anh thể hiện một cách nhuần nhuyễn, hấp dẫn. Mặc dù các anh không phải là nhà vãn, nhà thơ, nhưng văn chương của các anh mạch lạc khúc chiết, đọc đến đâu là hiểu, là thấm đến đấy. Đạt được như vậy là do cái thật của mỗi cuộc đời đã được kể ra một cách dung dị, dễ hiểu, không hoa hoè, sáo rỗng.


Tập sách không dày, chí vẻn vẹn chưa đầy 200 trang, nhưng đọc xong ta thấy hiện lên cả một chiến trường đầy gian khổ nhưng vô cùng anh dũng. Một chiến trường được hiện ra với từng cảnh rừng, từng con suối, từng trái cây rừng, từng hố hom, hố đạn. Một chiến trường hiện ra với đầy tình người sống chết bên nhau. Đọc xong tập sách không thể không rưng rưng nhớ về một quá khứ của đời mình từ những phút giây nguy hiểm, những ngày gian khổ đói cơm, nhạt muối. Nói tóm lại, tập sách giúp ta nhớ lại tất cả những gương mặt dù đã quen hay còn lạ ở chiến trường, những gương mặt còn sống hay đã mất. Tập sách tuy ngắn nhưng tình của nó đã vô cùng. Những ai đã từng trải qua các mặt trận đều mong có một tập để nhớ mãi, liên tưởng mãi và gìữ làm kỷ niệm của đời mình; và nhưng ai chưa một lần đặt chân trên mảnh đất B2 trong những ngày đạn lửa cũng nên có một tập sách này để cảm phục và noi gương.


Hà Nội, tháng 1-1999
Đại tá ĐẶNG VĂN NHƯNG
Tổng biên tập
Báo Quân đội Nhân dân Việt Nam


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:11:38 pm
LỜI NÓI ĐẦU


Đã mười năm nay, cứ vào một ngày đầu xuân, những anh chị em trước đây công tác ở Cục Chính trị Quân giải phóng Miền Mam Việt Nam (B2), lại họp mặt để thăm hỏi sức khoẻ nhau, chúc nhau những lời tốt đẹp đầu năm và ôn lại những ngày gian khổ ác liệt, song cũng rất tự hào ở chiến trường.


Thật là cảm động biết bao khi cuộc chiến tranh mỗi ngày càng lùi sâu vào di vãng và mỗi người đang phải đối mặt với bao lo toan vất vả của cuộc sống đời thưòng, vậy mà những kỷ niệm về tình đồng đội, tình bạn trong chiến đấu vẫn được nâng niu trân trọng. Và cứ mỗi lần gặp gỡ nhau, các anh, các chị lại thấy như mình trẻ lại.


Giờ đây, mỗi người một hoàn cảnh: người đang công tác, người đã nghỉ hưu, người còn tại ngũ hay đã chuyển ngành..., nhưng cứ nhắc tới ngày đã ở "Cục Chính trị B2" là trong lòng ai cũng rộn lên niềm xúc động.


Nhân dịp kỷ niệm 10 năm kể từ cuộc gặp đầu tiên (1989-1999), Ban Liên lạc tập họp một số bài viết về những kỷ niệm của một số đồng chí ở khu vực phía Bắc thành tập sách với tựa đồ "Hồi ức B2". Tập sách này là món quà đầy ý nghĩa đầu xuân, giúp chúng ta nhớ tới những sự kiện, vùng đất và những con người đã từng đóng góp công sức máu xương vào chiến thắng của dân tộc.


Chúng tôi, những người biên soạn cũng cần nói thêm rằng, do những nguyên nhân về hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, về thời gian đã trôi qua hàng thập kỷ và không gian xa cách, nên có những chi tiết nào đó trong tập sách có thể chưa thật chuẩn xác; vì vậy, mong các đồng đội cũng như bạn đọc thông cảm và lượng thứ.

Hà Nội, tháng 1-1999
Ban Biên Soạn
NGÔ THẾ KỶ
PHẠM QUỐC VINH
LÊ VĂN VỌNG
NGHIÊM HÀ


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:12:34 pm
NHỚ VÀ NGHĨ VỀ NAM BỘ - "B2"


TƯ TIÊN


Thời niên thiếu tôi đi học trường lang. Học sách giáo khoa tôi chỉ biết: Nước Việt Nam có hình cong như chữ "S", kéo dài tư "ải" Nam Quan đến mũi Cà Mau, (lược chia thành 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ va Nam Kỳ. Tôi lại được nghe bố mẹ kể rằng: ở làng tôi có một số người nhà nghèo, ham mê cờ bạc, khi mang công mắc nợ cùng đường phải ký "Côngtờra" với sở mộ phu đi Nam Kỳ. Chuyện đi Nam Kỳ làm phu cạo mủ cao su cho Tây ghê rợn lắm!... Rừng thiêng nước độc, lao dịch cực hình, đã đi thì khó trở về. Ông nội tôi là một trong số những người như vậy. Đến nay con cháu chỉ lấy ngày ông ra đi "mồng 8 tháng giêng" để cúng giỗ. Ấn tượng đầu tiên của tôi về xứ Nam Kỳ xa xưa là như vậy...


Sau cách mạng tháng tám 1945 ta không gọi là Nam Kỳ nữa. Chữ "Kỳ" được đổi thành chữ "Bộ" để phân biệt thời nô lệ mất nước với thời đã giành lại được độc lập tự do. (Tôi tự nghĩ như vậy). Ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi lúc này là ngày 23/9/1945, quân Pháp núp bóng quân Anh, Ấn trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Với khí thế sục sôi, thanh niên tình nguyện Nam tiến để hợp lực cùng đồng bào chiến sĩ Nam Bộ chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Phong trào tình nguyện Nam tiến có tới hàng triệu con người; Không thể chia phần cho tất cả, nên cũng có kẻ ở người đi... Tôi là người không được may mắn như nhiều bạn khác nên phải ở lại. Chẳng bao lâu nữa, ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ ngay trên đất Thăng Long, Đông Đô, Ha Nội - Thủ đô của cả nước. Thế là tất cả mọi người đều xung trận...


Cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, 9 năm sau giành được thắng lợi. Với Hiệp nghị Giơnevơ, tạm thời phân chia 2 miền, tập kết quân đội để chờ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Quân dân Miền Bắc được đón tiếp các cán bộ chiến sỹ Miền Nam tập kết ra Bắc. Từ lâu nghĩ về Miền Trung, Miền Nam của Tổ Quốc tôi chỉ hình dung trong cái vòng cong của hình chữ "S"; nay được tay bắt mặt mừng với những con người đại diện cho đồng bào chiến sĩ Miền Trung, Miền Nam ra tập kết, xúc động biết bao khiến tôi không cầm nổi nước mắt.


Khi đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bội ước phá hoại hiệp nghị Giơnevơ, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam; Miền Bắc lại có phong trào Nam tiến lần thứ hai. Lần này tôi được vào tham gia chiến đấu tại chiến trường Tây Nguyên "B3". Tuy vậy tôi vẫn chưa được đến với đồng bào chiến sĩ Nam Bộ B2". Tôi ước mơ có dịp đi đến tận cùng đất nước để tận mắt nhìn thấy mũi Cà Mau, mảnh đất thiêng liêng mà mình đã từng ấp ủ trong tim từ thời niên thiếu... Bị thất bại thảm hại sau 20 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai buộc phải ký hiệp định Pari. Lúc này tôi được cấp trên giao nhiệm vụ dẫn đoàn cán bộ vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ - "B2". Mong ước của tôi đã được toại nguyện. Tôi cùng anh em hăm hở lên đường. Ước gì lúc này mình biến thành mũi tên để bay nhanh đến đích. Đang phấn chấn trong lòng bỗng nhiên có chuyện đột xuất: Mẹ tôi bất ngờ lâm bệnh nặng đang hôn mê bất tỉnh. Lòng tôi lại rối như tơ vò. Theo kế hoạch, ngày mai đã lên đường. Tôi phụ trách, nắm toàn bộ kế hoạch công tác của ngành trong giai đoạn mới và kế hoạch dẫn đưa đoàn cán bộ hành quân Nam tiến. Người thay thế tức thời lúc nay không dễ gì chuẩn bị kịp. Trước tình hình đó tổ chức cũng hơi khó xử. Tôi nói: Nhiệm vụ cách mạng dù hoàn cảnh nào cũng có thứ thách hy sinh. Lúc này Tổ quốc là trên hết! Tôi có thể tự thu xếp công việc gia đình để thực hiện đúng kế hoạch đã định. Tổ chức cũng thấy yên lòng với quyết tâm của tôi. Trước tình hình nước sôi lửa bỏng của đất nước, anh em chúng tôi ngồi trao đối tâm tình với nhau bên giường mẹ đang hấp hối. Tất cả đều nhất trí động viên tôi lên đường và hứa hẹn: Việc chăm lo cho mẹ ở nhà chúng em xin gánh vác chu toàn. Mong anh yên tâm lên đường thuận buồm xuôi gió. Tôi chào mẹ lần cuối cùng: Mẹ! Con vì nghĩa nặng tình sâu với dân với nước, đặc biệt với đồng bào Miền Nam nên phải xa mẹ vào lúc này. Mong mẹ hiểu và tha thứ cho con. Mẹ không nói được nữa, nhưng nước mắt của mẹ cứ trào ra. Anh em chúng tôi mọi người đều khóc hòa chung vào dòng nước mắt của mẹ. Thế là tôi đã vượt qua được một thử thách đau lòng để lên đường. Sau nay nhận được điện báo tin: Mẹ đã qua đời sau khi tôi ra đi được một tuần...


Trải qua gần 3 tháng hành quân bộ, từ Đông Trường Sơn vượt qua Tây Trường Sơn, rồi từ Tây Trường Sơn lại trở về Đông Trường Sơn. Cuối cùng cả đoàn đã vào tới đích. Đặt chân lên đất Nam Bộ "B2", tôi thấy nhiều điều mới lạ. Từ cảnh vật đến con người, sao nó cứ vời vợi, buâng khuâng... Tôi nhớ đến lời Bác Hồ: "Miền Nam đi trước về sau" - "Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi"... Bác Hồ với Miền Nam cũng như cả nước với Miền Nam... Sông có thể cạn, đá có thể mòn... Song không một sức mạnh nào có thể ngăn cách được mối tình ruột thịt Bắc Nam...


Đi sâu vào đất Lộc Ninh, trước mắt bỗng xuất hiện một rừng cây... Anh em reo lên: Ôi! Rừng cao su đây rồi... Những hàng cây thẳng tắp, giữa mùa khô lá rụng cành trơ. Những dải đất bazan đỏ ngầu phủ kín cỏ cây ven đường giống như một lớp sơn màu gạch. Mắc võng nằm nghỉ dưới gốc cây cao su, tôi chợt nhớ tới lời bố mẹ nói ngày nào, mà hình dung thấy sự lam lũ vất vả thời xa xưa của những người phu cạo mủ. Nghĩ đến ông nội, tôi bùi ngùi thương cảm: Ông ơi! Người ta đã vùi lấp ông ở gốc cây nào? Để cháu tìm đến với ông cho đỡ cô quạnh! Thầm nghĩ trong óc mà nước mắt cứ tuôn trào...


Buổi ra mắt đầu tiên với các đồng chí đồng đội ở Nam Bộ "B2" anh phụ trách buổi tiếp đón hỏi tôi: Anh Tiên là thứ mấy trong gia đình? - Tôi thưa: Nếu chỉ tính con trai thì tôi là trưởng, dưới tôi còn bốn chú em nữa. Tính cả con gái thì trên tôi còn hai người chị.


Anh phụ trách nói: Theo cách tính của Nam Bộ thì anh có chị Hai, chị Ba... Còn anh là thứ Tư. Nam Bộ không có "trưởng" hay "cả" và không phân biệt trai hay gái, ngươi con đầu là thứ hai... Xin được giới thiệu anh là anh "Tư". Đây là thủ tục nhập tịch của tôi khi tới chiến trường Nam Bộ "B2" và từ đó tôi được anh em đồng chí đồng đội gọi là anh "Tư" đôi khi để tránh sự trùng lắp thứ tự với các anh em khác cũng là thứ "Tư" thì anh em dùng cả "thứ" và "tên" gọi tôi là anh Tư Tiên". Được mang cái tên anh "Tư" hay "Tư Tiên" tôi cảm thấy mình gắn bó với Nam Bộ "B2" như anh em trong nhà. Tôi tự thấy yêu mình hơn. Từ đó, mỗi khi viết văn, viết báo, tôi cũng lấy bút. danh là "Tư Tiên" để giữ lấy kỷ niệm chiến trường thấm đậm tình thương nhớ.


Những ngày công tác ở chiến trường Nam Bộ "B2", khi thâm nhập vào các xóm, ấp, ăn ở trong nhân dân, hoặc khi xuống các đơn vị chung sống cùng đồng chí đồng đội, trong giao tiếp ứng xứ nghe những tiếng xưng hô: Cụ Hai, ông Hai, bà Hai, bác Hai, dì Hai, cô Hai, cậu Hai, anh Hai, chú Hai, cô Út, cậu Út v.v... thật là đầm ấm như con một mẹ, anh em một nhà, chung sống với nhau thuận hòa, ưu ái, chia ngọt xẻ bùi, sống chết bên nhau... Tôi rất ngưỡng mộ cái cách thức biểu hiện tình cảm của đồng bào, đồng chí Nam Bộ "B2"... Sao nó hiền hoà, gợi thương, gợi nhớ đến thế... Khi nóng nó có thể đem lại luồng gió mát cho con người, khi lạnh nó lại sưởi ấm lòng người, khiến người ta có thể dễ quên đi nỗi buồn phiền, để tâm hồn mình nhanh  chóng trở lại trạng thái bình yên thanh thản... Người ta dễ xua tan đi nỗi tức giận trong lòng để đến với nhau bằng tình vị tha độ lượng, như cây cao bóng cả che mát cho đời.


Biết ơn tổ tiên ông cha ta, đã mang dòng huyết thống của cha Lạc Long Quân với mẹ Âu Cơ, sinh con cùng một bọc, chia nhau xuống biển, lên non để xây dựng nên cơ đồ đất Việt có hình cong như chữ "S"; biết ơn tư tưởng Đại đoàn kết của Bác Hồ kính yêu, để lớp lớp cháu con ngày nay có được nếp sống "đẹp" tuyệt trần: Kết hợp hài hòa giữa cá nhân với cộng đồng, trong cái "nôi" của mẹ bọc trăm con. Không thấy có sự phân chia cách biệt thái quá nào giữa những người con với gia đình, giữa họ hàng với làng nước. Đó là bản sắc độc đáo của văn hoá dân tộc Việt Nam cần được bảo tồn và phát huy, để tôn cao hơn nữa lòng tự hào dân tộc của ngươi Việt Nam trước nhân loại.

Tháng 11/1998
T.T


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:13:55 pm
CHÚNG TÔI VÀO B2


NGÔ THẾ KỶ


Một buổi sáng đầu tháng 5-1966, tôi được anh Hoàng Minh Thi, Cục trưởng Cục Tuyên huấn mời lên gặp. Anh cho tôi biết tôi được cử đi B, vào B2, tức là vào Cục Chính trị Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam, hiện đang ở Miền đông Nam Bộ. Tôi làm Trưởng một đoàn gồm 6 phóng viên báo chí, thông tấn. Chúng tôi vào B để đáp ứng yêu cầu của chiến trường đang và sẽ còn phát triển.


Anh Thi hỏi tôi có gì khó khăn không? Tôi trả lời: Tôi đi được, không có gì khó khăn. Anh bảo tôi cứ chuẩn bị đi bộ, vượt Trường Sơn, nhưng anh sẽ xin cho tôi đi theo anh Nguyễn Chí Thanh, đã vào B2 mấy năm nay, hiện đang ở ngoài này và lại sắp vào trong ấy. Nhưng ý định này không thành.


Nhận nhiệm vụ mới, tôi rất xúc động. Thế là tôi sắp xa Phòng biên tập phát thành quân đội nhân dân, nơi tôi công tác 7 năm nay.

Tất nhiên xúc cảm sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn là tôi sắp xa vợ tôi và các con tôi. Vợ tôi công tác ở Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng tham mưu. Mới hơn 30 tuổi nhưng sức yếu. Chúng tôi có 2 con trai, đứa lớn lên 9, đứa bé lên 5. Vì chiến tranh phá hoại, các cháu phái sơ tán khỏi Hà Nội, được trại trẻ của Tổng cục Chính trị chăm sóc.


Có lần vợ tôi hỏi: bao lâu nữa thì gia đình lại được đoàn tụ? Điều này tôi cũng đã tự hỏi và tìm cách trả lời. Tôi nói Mỹ chưa từng tham gia một cuộc chiến tranh nào quá 3 năm. Anh hy vọng, sau 3 năm chúng ta lại sống bên nhau. Sự thực là sau tròn 10 năm, tôi mới trở về.


Cuối tháng5/1966, tôi vào Sư đoàn 338 ở Thanh Hóa để luyện tập chuẩn bị vượt Trường Sơn. Anh em chúng tôi vào B2 cũng đã đủ mặt: Nguyễn Duy Khải, Đỗ Công Viện, Lê Minh, Mai Bá Thiện (phóng viên nhiếp ảnh), Nguyễn Văn Năng, Nghiêm Hà (phóng viên nhiếp ảnh) và đồng chí Trạch, quân y sĩ.


Hàng ngày chúng tôi đeo ba lô, tập hành quân. Ba lô mỗi ngày thêm trọng lượng và hành trình ngày một thêm dài.

Trung tuần tháng 7, Tổng cục Chính trị cho xe đưa chúng tôi lên đường. Tôi rất xúc động trước sự quan tâm của Tổng cục Chính trị, của Cục trưởng Tuyên huấn Hoàng Minh Thi cũng như tất cả các xe khác ở thời kỳ ấy, xe chúng tôi đêm đi ngày nghỉ. Ban đêm xe phải dùng đèn gầm, chỉ chiếu lờ mờ một đoạn đường ngắn. Đêm nào cũng vậy, khắp trời vang tiếng máy bay, tiếng bom, tiếng súng phòng không, đồng chí Quyên lái xe của chúng tôi thật là giỏi. Nhiều đoạn xe đi trên miệng hố bom. Ban ngày tuy xe là mục tiêu của máy bay địch nhưng dân khu Bốn vui lòng dành nhà mình cho chúng tôi vào nghỉ.


Thế rồi các trọng điểm, mấy nơi còn được gọi là cửa tử, chúng tối cũng lần lượt vượt qua: phà Ghép, phá Bến Thủy, đèo Ngang, phà Ròn, phà Gianh, phà Quán Hầu, phà Long nại...

Đến miền Tây Vĩnh Linh thì xe quay ra và chúng tôi bắt đầu vượt Trường Sơn bằng đôi chân của minh.

Đêm đầu tiên ở đường Trường Sơn là một đêm đầy ấn tượng. Chúng tôi được đưa đến một khu rừng rậm để ăn ngủ ở đấy. Theo ngôn ngữ của đường Trường Sơn thì đây là "bãi khách". Trời mưa rả rích và tối như mực. Chúng tôi khoác ni-lông, bấm đèn pin, dùng dao găm để chặt cây và dây rừng dọn chỗ mắc võng, che ni-lông làm chỗ ngú. Loay hoay cả tiẽng đồng hồ mới dọn xong cái ổ của mình, chúng tôi chuyển sang nấu cơm ăn bữa đêm nay và nấm cơm cho cả ngày mai. Trời mưa nặng hạt hơn. Chúng tôi mò mẫm kê bếp, kiếm củi, mở đường xuống suối tìm chỗ vo gạo lấy nước rồi thổi cơm. Bếp ướt, củi ướt. Cái gì có thể dùng để nhóm lửa được đều được mang ra sử dụng: sách vở, quai dép cao su dự trữ... Cuối cùng rồi cũng có cơm ăn, tuy sống nhăn sống nhở.


Đi được hai ngay thì đồng chí Năng ngã trẹo chân phải ở lại chạy chữa rồi đi sau. Một tuần sau, y sĩ Trạch chảy máu dạ dày phải quay ra Bắc. Rất may là cùng đi với đoàn chúng tôi, có một tổ cán bộ vào công tác trong Bộ Chỉ huy Miền, trong đó tôi có một người bạn bác sĩ Bùi Tiến Đông. Anh đã tận tình chăm sóc sức khoẻ cho đoàn chúng tôi suốt cuộc hành trình.


Những ngày vượt Trường Sơn là những ngày liên tục băng đèo, trèo núi, lội suôi, vượt sông. Có chặng suốt một ngày chỉ qua được một con đèo. Chúng tôi đi trong mùa mưa nên suốt ngày ướt, đường lầy lội. Tội nghiệp Nghiêm Hạ. Có hôm anh trượt chân ngã, một chiếc dép văng xuống vực. Anh phải leo dốc đá tai mèo   một chân đi dép, một chân trần. May buổi tối đến chặng nghỉ, anh được trạm cho một chiếcc dép.


Trước mắt chúng tôi, khó khăn còn nhiều: dọc đường nhiều muỗi, nhiều vắt. Mỗi người chúng tôi phải chuẩn bị một bọc muối để gỡ vắt cho nhanh, như những người thợ cấy có bọc vôi để gỡ đỉa. Có một số nơi còn có ruồi vàng đốt đau như kim tiêm, vết đốt trở thành mụn nhọt. Mỗi ngày mỗi người chúng tôi được ăn 7 lạng gạo. Suốt cuộc hành trình không hôm nào thiếu gạo. Nhưng thức ăn chỉ có nước mắm cô đặc, ruốc thịt nhưng thịt ít mà muối thì nhiều. Dọc đường cố kiếm thêm một ít măng hoặc rau tàu bay.


Một niềm vui không nhỏ đối với chúng tôi là, vì đoàn chúng tôi là một đoàn nhỏ nên ở nhiều chặng, chúng tôi được vào nghỉ ở trong trạm. Ngoài trời mưa tầm tã, chỗ nghỉ của chúng tôi thật là một thiên đường. Chúng tôi có chỗ ngủ khô ráo, hoặc năm võng, hoặc có giường, tuy giát giường chỉ là những cành cây nhỏ ghép lại, hay là những thân tre, vầu, nứa tãi ra. Chúng tôi có bếp đun nấu khô ráo, nhiều trạm cho chúng tôi củi, có nơi còn cho chúng tôi cả rau và thịt thú rừng săn bắn hoặc bẫy được. Chúng tôi rất cảm động trước tình đồng chí, đồng đội.


Một niềm vui nữa là khi gặp dân ở ven đường, chúng tôi thường được báo trước về những dịp này bằng tiếng hót hoặc bóng dáng của những con chim cu gáy, loại chim thường sống gần các nương rẫy. Gặp dân, chúng tôi cảm thấy mình lại được hoà vào xã hội, vào cộng đồng. Và một niềm vui thực tế hơn là chúng tôi có thể dùng một số thứ đã chuẩn bị sẵn theo kinh nghiệm của những người đi trước, như cặp tóc, đá lửa, quần áo v.v... để đổi cho dân lấy con gà, con vịt, nải chuối, quả dưa... Đây thực sự là bữa tiệc của chúng tôi trên dẫy Trường Sơn. Nhưng đây cũng là dịp hiếm hoi, vì để giữ bí mật, đường đi thường tránh xa những nơi có dân cư sinh sõng.


Thật không may, vừa đến địa phân khu VI thì tôi bị ốm. Sau nay tôi mới được biết là anh em lo tôi chết, vì có lúc tôi đã bị hôn mê và tay đã "bắt chuồn chuồn". Anh em đưa tôi vào một bệnh xá. Đoàn đẻ anh Lê Minh ở lại chăm sóc tôi, còn anh em tiếp tục cuộc hành quân. Tôi rất cảm động trước sự chu đáo của anh em. Mặt khác tôi rất lo vì nghe mong manh đây là vùng đất khó khăn nhất của đường Trường Sơn. Lương thực, thực phẩm, thuốc men từ miền Bắc vào thì đến đây đã gần hết, mà từ Nam Bộ đưa ra đến đây cũng không còn mấy. Nhưng tôi lại gặp khá nhiều bất ngờ. Đầu tiên là việc các anh bố trí cho tôi ở cùng với Ban chỉ huy bệnh xá. Từ ít lâu nay ở đây đã quan hệ được với Cam-pu-chia nên lương thực, thực phẩm, thuốc men đủ dùng. Thuốc lá thơm cũng không thiếu. Ở đây, lần đầu tiên tôi được ăn chè nấu bằng  sữa hộp và chuối tây. Nhân viên trong bệnh xá nhiều anh chị là người dân tộc. Có mấy anh săn bắn rất giỏi nên chúng tôi thường xuyên được ăn thịt thú rừng. Khoảng sau mười hôm thì tôi ra viện và cùng anh Lê Minh tiếp tục lên đường vào Miền.


Cuộc sống Trường Sơn thật là hào hùng và có biết bao điều cao cả. Nhưng ở đây cũng không tránh khỏi những chuyện đau thương.

Chúng tôi đi trên những cây số cuối cùng của đường Trường Sơn và một ấn tượng không bao giờ quên: những nấm mộ của các đồng chí vì bom đạn giặc, vì bệnh tật mà nằm lại vĩnh viễn trên dải Trường Sơn.


Trước đây tôi đã từng nghĩ, nếu đi B thì thích nhất được vào Nam Bộ. Ở đây có "miền Đông gian lao và anh dũng", có thành phố Sài Gòn, có sông Tiền, sông Hậu cùng cả vùng châu thổ mênh mông, có những người dân với những tính cách đáng quý.


Thế là tôi bây giờ đã được toại nguyện. Sau khoảng 3 tháng đi đường, trung tuần tháng 10/1966, chúng tôi đã đặt chân lên đất miền Đông Nam Bộ.

Chúng tôi đã đến trạm liên lạc của Cục Chính trị Miền. Nghe có nhiều tiếng bom tiếng pháo cách đây không xa. Hỏi ra được biết địch đang mở cuộc hành quân At-tơn-bô-rơ. Tuy vậy không khí ở đây rất bình thản.


Khi viết những dòng này, tôi hình dung lại từng khuôn mặt của sáu người bạn cùng vào B2 với tôi cách đây hơn 30 năm: Nguyễn Văn Năng, phóng viên nhiếp ảnh đã hy sinh ngoài mặt trận khi đang làm nhiệm vụ. Nghiêm Hà, phóng viên nhiếp ảnh mà giặc cướp mất của anh nửa bàn tay trong Mậu Thân 1968. Nguyễn Duy Khải thì vợ chồng phải chia tay nhau vì vợ không giữ được lòng chung thuỷ trong những năm xa cách. Mai Bá Thiện, phóng viên báo Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam qua đời năm 1996 vì căn bệnh hiểm nghèo. Căn bệnh này có liên quan gì đến chất độc hoá học mà quân thù thả xuống những vùng anh đã đi qua? Đỗ Công Viện, sau giải phóng miền Nam về công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương, nay đã nghỉ hưu. Còn Lê Minh, con ngươi "trên từng cây số" chí cốt với tôi, thì ngay sau ngày đất nước thống nhất đã trở về với người bạn đời rất đỗi thân thương ở quê hương Thanh Hoá, theo lời hẹn trước lúc lên đường.

N.T.K


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:14:48 pm
TÔI TRỞ VỀ NAM


TRƯƠNG THÀNH HỶ


Năm 1954 tập kết ra Bắc, chúng tôi được tập trung về Tổng cục Chính trị. Quân đội chưa có ngành điện ảnh, nên lần lượt các anh em điện ảnh trong Nam ra, chuyển về Xưởng phim thuộc Bộ Văn hoá. Chỉ còn là một nhóm nhỏ gồm Vũ Ba, Phạm Tranh, Việt Hiền, Đoàn Tý và tôi ở lại quân đội công tác cho Bảo tàng quân đội, báo Hình ảnh quân đội và báo Quân đội nhân dân.


Năm năm sau, 1959, quân đội mới thành lập Xưởng phim và tôi được trở về công tác ngành quay phim, nghề cũ của tôi. Ban giám đốc Xưởng phim phân công tôi quay phim tư liệu. Phim tư liệu nhằm vào những đề tài còn bí mật chưa được đưa ra công khai, đòi hỏi ngươi quay phim có phẩm chất, đồng thời biết giữ bí mật. Những anh em còn trẻ không mấy gì thích loại đề tài này.


Thế là tôi lần lượt đi Lào hết đợt này đến đợt khác. Khi thì đi phụ quay cho anh Như Ái, về sau tôi đi độc lập. Bộ đội Việt - Lao giải phóng Cánh Đồng Chum, địch núng thế, ta phát huy thắng lợi giải phóng tỉnh Văng Viêng. Tôi được phép nhận về những chiến lợi phẩm thuộc ngành chuyên môn như máy chiếu và phim 16mm.


Từ năm 1961, Sư đoàn 338 trở thành hậu cứ huấn luyện, tập kết và tổ chức đưa anh em trở về Miền Nam. Địch gọi đây là căn cứ "biệt kích 338". Xưởng phim quân đội tổ chức một đoàn làm phim về các hoạt động của sư đoàn nay, gồm anh Trần Việt - đạo diễn trưởng đoàn, Phùng Đệ và tôi quay phim, đồng chí Tân lái xe. Làm phim này quả thật không thú vị gì. Đây là hậu phương lớn lo người, lo của cho tiền tuyến lớn, chuyện quốc gia đại sự bí mật chết người. Từ quay phim, tráng phim đến thành phẩm đều có bảo vệ đi kèm từng công đoạn một. Hết đoàn này tập trung huấn luyện lên đương về Nam lại đến đoàn khác. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đều đến thăm đoàn, từ Bác Tôn Đức Thắng, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Phạm Hùng.


Do nhu cầu công tác, đồng chí Trần Việt được rút về nhận phim khác Còn lại tôi, Phùng Đệ và Tấn lái xe phải leo đẽo theo hoài. Tự nhiên, dù không muốn, trong con người tôi vẫn tích luỹ qua nhiều "bí mật quốc gia", cứ đà này thì còn lâu mới có điều kiện về Nam!


Tháng 10 năm 1962, nhân kỷ niệm 45 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Liên Xô gửi tặng Hải quân nhân dân Việt Nam một đội hải thuyền. Tư liệu đặc biệt này lại đến tay anh Bằng và tôi. Nhưng đây cũng là duyên may cho tôi khi được bố trí đi trên chiếc hải thuyền chiến lợi phẩm do dân quân du kích Miền Nam bắt sống từ tay giặc Pháp và được gặp Trung tướng Trần Văn Trà. Tôi đã nhiều lần hân hạnh gặp và thu hình ảnh Trung tướng tại Sư đoàn 338, khi đồng chí đến thăm và tiễn đưa các đoàn quân bí mật trở về Nam. Chưa kịp chào hỏi thì đồng chí đã hỏi ngày:

- "Xưởng phim quân đội đã cử đội quay nào vào Nam chưa?"

- "Thưa đồng chí, Xưởng phim đã chọn năm đồng chí người Miền Nam đưa đi đào tạo và đã lên đường cùng với bên dân sự do anh Hiền Liên (Cao Thành Nhơn) và Trần Nhu, căn cứ vào thời gian xuất phát thì nay đã đến.

- "Riêng đồng chí Hỷ, đồng chí có muốn đi không?".

Câu hỏi trúng ngay "tim đen" của tôi rồi tranh thủ dịp may hiếm có, khi tàu chạy trên Vịnh Hạ Long đã đề đạt vởi Trung tướng một số vấn đề về công tác tổ chức điện ảnh cho Giải phóng quân Miền Nam và nhờ đồng chí có ý kiến với Tổng cục Chính trị để tôi được đi mà không ràng buộc vì tư liệu quốc gia.


Sau chuyến đi hải quân về ít lâu, một hôm, Chi uỷ và Ban giám đốc Xưởng mời tôi lên. Bước vào phòng, tôi đã thấy các đồng chí ngồi đầy đủ cả. Không khí trang nghiêm khác hẳn mọi hôm. Đồng chí Bí thư phổ biến cho đồng chí Trần Anh Tra và tôi: một người về Quân khu 5, một người về Nam Bộ. Tôi đã đoán trước nội dung buổi họp nên không có gì ngạc nhiên.


Thế là công tác ở Xưởng phim quân đội chỉ được 3 năm, tôi đã âm thầm rời Xưởng không một lời chào hỏi tiễn đưa với những người đáng bậc thầy, đáng bậc đàn anh, có người ít tuổi hơn nhưng tài năng sắc sảo tôi thường lưu ý học tập. Sau khi chiến tranh kết thúc không bao giờ tôi gặp lại anh Bằng vì anh đã hy sinh trên chiến trường Quảng Trị năm 1972.


Những năm tháng tuy ngắn ngủi ở Xưởng phim Quân đội nhân dân Việt Nam những thắm thiết tình đồng chí và thật quý giá cho trình độ nghề nghiệp của tôi. Số nhà 17 Lý Nam Đế, Xưởng phim quân đội, nơi tôi và các anh em phát triển nghề nghiệp, và cũng chính là cái nôi cho Xưởng phim quân giải phóng B2 mà tôi phụ trách sau này.

T.T.H.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:16:20 pm
TÔI ĐI "B"


BÙI VĂN SƠ


Ra đi lần này khác hẳn thời đánh Pháp vì nửa nước đã hoà bình. Mỗi người đã có một tổ ấm riêng. Bản thân tôi lúc ấy đã có vợ và hai con nhưng các con đều còn nhỏ, bà con thân thuộc thì đều ở xa... Nỗi day dứt nhất của tôi khi ấy là hai đứa con còn quá thơ dại, và cũng chẳng biết đến bao giờ tái ngộ?; Nhưng một bên vai là nợ nước, một bên vai là nghĩa vụ làm chồng làm cha... Nhưng được cái may, là người vợ hiền có thái độ đúng mực; Tuy có bịn rịn, nhưng tỏ rõ quyết tâm: nuôi con khôn lớn.


Khi chia tay tạm biệt, tôi chí có đôi vần ca dao mộc mạc, dặn lại vợ con:

"Xem trong thiên hạ xưa nay,
Muốn mai xum họp, ngày rầy chia phôi
Dù rằng Nam Bắc đôi nơi
Nhớ nhau, mình hãv lựa lời dạy con"


Hôm tạm biệt người thân, vợ chồng tôi có mời hai anh bạn cùng ngành, cùng binh chủng, lại cùng đi B một ngày, ra ăn bữa cơm thân mật. Sau này tôi biết tin, anh Mui vào khu 5, anh Thận vào Khu 6, tôi vào Khu 7. Nhưng rồi cả hai anh đều vĩnh viễn ở lại chiến trường.


Hôm ấy, cả đoàn Hà Nội, gồm "khung cán bộ cho sư đoàn và nhân viên kỹ thuật" của pháo, xe tăng, chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Trung Bộ, tập trung để lên xe tại Cửa Đông phố Lý Nam Đế. Hồi đó chúng tôi đều ăn vận quần xanh, áo sơ mi trắng như đi du lịch xa, gồm 4 xe ca, biển dân sự, từ từ chuyển bánh về hướng Nam. Cuộc tiễn đưa rất cảm động, nhân dân Hà Nội đều thầm hiểu: "Bộ đội đi B". Tôi có làm mấy câu thơ

Hôm nay tạm biệt Thủ đô
Hôm nay tạm biệt Tháp rùa thân yêu
Xe ca chuyển bánh đều đều
Phố phường thân mến nhìn theo bóng mình
Đã rằng hai chữ: Tử - Sinh
Ra đi, giữ trọn nghĩa tình Bắc - Nam


Đoàn xe đi đến Ninh Bình thì bị trục trặc, phải vào huyện đội Gia Khánh nghỉ tạm để điện về Bộ Tổng tham mưu xin đổi chiếc xe khác. Gần sáng thì xe tới, chúng tôi đ¡ tiếp vào huyện Yên Định - Thanh Hóa tập hành quân mang vác nặng và làm công tác tổ chức. Hàng ngày chúng tôi cho gạch vào ba lô con cóc tập vượt đèo lội suối. Chúng tôi chí tập được vài tuần lễ là lên đường, lần này thì đi bằng đôi chân vạn dặm nhưng có thêm chiếc gậy "Trường Sơn" do từng người tự tạo theo ý thích.


Mấy đêm đầu qua Quảng Bình thì còn nằm ở nhà dân, từ khi đến Làng Ho, bên này bờ sông Bến Hải thì thay đổi quần áo, giầy dép sao mũ... trở thành anh giải phóng quân Miền Nam và từ đó hoàn toàn ngủ rừng, mọi dấu vết của Miền Bắc đều phải xoá bỏ (để lại hoặc gửi về gia đình, đây là kỷ luật thật nghiêm khắc).


Mỗi người tự chọn cho mình một cái tên mới dễ nhớ để làm quen dần trong giao tiếp. Lúc ấy quân ta tức cảnh:

"Hôm qua Quân đội nhân dân,
Sáng nay thành Giải phóng quân anh hùng
Ba lô "con cóc" trên lưng
Đi làm nghĩa vụ non sông đang chờ"


Cảnh sinh hoạt cũng nên thơ: "Quần vợ, mũ con, gạo lon, cơm ống, nhà trông, giương treo, "ỉa mèo" leo dốc, hành quân cấp tốc, đi vượt thời gian.

Đường Trường Sơn thời kỳ này mới mở, nhiều đoạn đường như chưa có dấu chân người, anh chị em giao liên cắt rừng theo bản đồ, nhiều khi mệt quá, lính ta nổi cáu với người dẫn đường, nên mới có câu: "Đường giao liên dài theo đất nước, cứ đi đừng có than vãn, cũng không ai giải quyết ngăn lại được đâu!". Đi trong rừng rậm, nên ngày đi đêm ngủ, thời kỳ này địch chưa đánh phá, chỉ đôi chỗ có biệt kích, giao liên trinh sát, nếu có nghi vấn thì cắt rừng đi hướng khác.


Đoàn chúng tôi vào "Ông Cụ", bí danh của Trung ương Cục Miền Nam, vì vậy phải ròng rã suốt 4 tháng trời lên dốc trèo đèo lội suối vượt sông để vào mảnh đất "Thành Đồng" của Tổ Quốc.

Đi vào đúng mùa mưa nên lính ta rất gian truân. Tôi đến trạm, thực chất là một khu rừng mà đơn vị được giao liên phân cho để làm nơi ăn ngủ tạm một đêm. Anh em đi chặt cây làm cọc mồi mắc võng, lợp tấm tăng để ngủ, và làm 3 cái chạc gác chiếc ba lô. Trời đổ mưa, cái lo nhất là nấu cơm mà củi ướt. Nhiều khi còn phải đem xuống suối rửa cho bớt bùn thì củi mới cháy, và cái lo nữa là vắt, phát hiện được hơi người thì nhao nhao leo tới, bám vào cổ chân, tay để hút máu, muốn cho nó rời khỏi da chỉ còn nước là dùng thuốc chống vắt đã làm sẵn (gồm xà phòng và muối).


Đi đến địa phận tỉnh Quảng Nam, đoàn trưởng Lâm Quang Bẩy, bị sốt rét ác tính đã lâu nhưng cứ gắng gượng theo đoàn, đêm ấy phải nằm lại vĩnh viễn nơi này! Vì tình cảm đồng đội, vả lại là người chỉ huy, nên anh em chúng tôi dừng lại một ngày để đưa tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng, trên một đính đồi cao. Sau đó chúng tôi phaải hành quân vượt Trạm cho kịp, mọi người cũng phải bớt tiêu chuẩn gạo cho đủ cơ số đến Trạm thứ ba mới được phát tiếp.


Cực nhất là ăn đói thiếu chất, vì suốt 4 tháng ròng rã mà chỉ có 2 "cóng" ruốc muối, từ Bắc đưa vào, mỗi ngày chỉ có 2 miệng lon sữa bò gạo mà suốt ngày trèo đèo lội suối, hao tổn khá nhiều calo. Với người nhiều tuổi và cuộc sống đã qua gian khổ thì dần dần cũng tạm thích nghi và cố gắng vượt qua; nhưng với lớp trẻ thì xuống sức trông thấy, nhiều anh em mới nửa đường đã phải nằm lại Trạm, nhiều anh do sốt rét rừng liên miên, da vàng bủng, chân tay teo tóp chỉ còn da bọc xương; số không nhỏ nằm lại vĩnh viễn trên đường.


Lửa thử vàng, gian nan thử sức, lúc này chúng tôi thường nhắc nhau: "Ta phải đi bằng đầu, chứ không phải bằng đôi chân" và cái tốt cái xấu trong con người cũng là lúc nó bộc lộ, chẳng phân biệt tuổi tác, cấp chức...


Nhiều người nhường cơm cho bạn, mang vác giúp nhau, võng cáng nhau cùng tới đích... càng gian nan, tình thương yêu nhau càng thắm đượm; nhưng cá biệt cũng có người phạm lỗi. Một hôm qua bản dân tộc người Gia Rai, đoàn cho đổi một số quần áo lót dự trữ để lấy sắn (mỳ) cho anh em ăn thêm đỡ đói. Có một vị cán bộ đã giấu đi một ít cho cá nhân, khi phát hiện chính xác, tôi đã "rỉ tai", đến bây giờ gặp lại ông bạn vẫn còn ngượng. Có một lần vượt sông Mã Đà, tôi bị sốt, đoàn mua bò giết thịt, cái thiện, anh Tư Tuyên thay đoàn trưởng đã ưu tiên phát cho tôi một quá tim bò, giao cho một cậu đem về cho tôi. Sáng hôm sau anh Tuyên kể lại thì mới vỡ lẽ là cậu ta thèm quá ăn mất.


Tôi còn nhớ chuyện đồng chí Hoàng Thiên là cán bộ tiểu đội của trung đội chúng tôi, trong khi "tán gẫu" Thiên hứa: Khi nào về tới căn cứ sẽ đãi tôi một bữa thịt heo (lợn rừng) thả phanh. Sau này Thiên là dũng sĩ diệt Mỹ vào hạng có tên tuổi ở vùng Sóc Ky. Khi tôi xuống đơn vị gặp Thiên, Thiên thu xếp nơi ăn nghỉ cho tôi xong là đi vào rừng, khoảng 2 giờ sau đã đem về một đùi lợn rừng yêu cầu chị em cấp dưỡng nấu nướng rồi gọi 2 cậu nữa khiêng một con lợn gần tạ về đãi chúng tôi. Thiên chỉ nói ngắn gọn: Đã hứa là làm.


Lại nói đến hôm đặt chân tới Trạm cuối cùng chúng tôi dốc túi ăn một bữa cơm với cá khô rán và củ cải luộc. Đây là đặc sản của lính Miền Đông Nam Bộ lúc bấy giờ (cá khô mua từ biển hồ Campuchia sang). Tôi cũng tự mình nấu 2 "hăng gô" cơm, ăn xong lên võng nằm mà có cảm tưởng như là bụng mình có người đánh vỡ ra mất! Sáng hôm sau thì tôi được anh em trong Phòng bảo vệ an ninh Quân giải phóng ra đón về. Gặp lại anh em đồng nghiệp nhất là số anh em đi trước tôi, thật là mừng vui khôn tả và đặc biệt mình đã vượt qua chặng đường gian nan nguy hiểm.

Tháng 7 năm 1997
H.V.S.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:17:30 pm
MỘT CHUYẾN VÀO NAM


NGUYỄN VĂN KHẢ


Tháng 3/1964 tôi và anh Nguyễn Văn Tôn cán bộ công tác tại Cục bảo vệ được lệnh vào chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ (B2).

Thủ trưởng Cục bảo vệ lúc đó là đồng chí Phạm Kiệt nói với hai chúng tôi là do yêu cầu gấp của chiến trường, các đồng chí thu xếp bàn giao công việc và làm công tác tư tưởng với gia đình trong phạm vi 15 ngày để ra đi vào Nam. Các đồng chí không phải tập đeo gạch, leo núi, mà đi bằng môt con đường khác; khi đi các đồng chí sẽ biết. Là cán bộ bảo vệ, Cục không phải dặn gì thêm. Cố gắng giữ gìn sức khoẻ và làm công tác ổn định tư tưởng cho gia đình để ra đi được thanh thản.


Cả hai chúng tôi nhận nhiệm vụ một cách nhẹ nhàng và bàn giao công việc với đơn vị rất nhanh. Về gia đình, với vợ con thì không khó khăn lắm; tôi đã nói rõ với vợ về việc đi vào Nam chiến đấu. Nhưng với mẹ tôi, tuổi đã gần 70, tai điếc khá nặng. Bố tôi mất từ lúc tôi mới 5 tuổi, mẹ tôi ở lại nuôi tôi và chỉ có một mình tôi. Rất thương mẹ và đắn đo suy nghĩ mãi không biết nên nói với mẹ như thế nào để cho mẹ đỡ nghĩ ngợi nhiều. Tôi nói rằng: "Con được cấp trên cử đi sang nước bạn học mấy năm nữa nên lại phải xa mẹ, xa vợ con". Nói như vậy vì tôi đã học ở Liên Xô mấy năm, về nước cuối năm 1962.


Tôi thật không ngờ về mẹ của mình. Bà nói rằng: Con nói không đúng rồi! Con vừa đi học ở nước bạn về, Nhà nước đang cần đánh giặc để giải phóng Miền Nam, con đi mà đánh giặc. Trước đây thời kỳ đánh Tây, con đi tám, chín năm trời, mẹ ở nhà có một mình vẫn được. Nay con có đi xa, nhưng có vợ, có con con ở với mẹ với bà là tốt quá rồi. Con cứ đi, đi cho "chân cứng đá mềm", đánh hết giặc rồi trở về, chắc rằng lúc đó mẹ chưa chết đâu!"


Tôi lặng người không biết nói gì nữa. Tôi ôm lấy mẹ mà nước mắt của tôi cứ chảy ra, tôi càng thương mẹ tôi. Cảm ơn mẹ, một người mẹ tuyệt vời!

Vào một buổi tối của tháng 4/1964, chúng tôi được báo ngày xuống tàu đi vào Nam. Đồng chí thuyền trưởng hướng dẫn và dặn dò chúng tôi những điều cần thiết cho người đi tàu biển. Đúng 12 giờ trưa ngày hôm sau chúng tôi bước xuống tàu, tạm xa Miền Bắc thân yêu đi vào chiến trường mà ở trong đó nhân dân và biết bao chiến sĩ cán bộ chúng ta chịu đựng gian khổ gặp rất nhiều khó khăn nguy hiểm và biết bao nhiêu đồng bào đồng chí đã hy sinh trong đấu tranh cách mạng.


Ngồi trên tàu, một thuỷ thủ đã nói với tôi rằng: với chiếc tàu này, nếu người ngoài nhìn vào bảo là tàu đánh cá cũng được, tàu buôn cũng được và nếu phán đoán là tàu chiến thì cũng không sai.

Nhìn biển rộng mênh mông, càng xa bờ càng thấy mình quá bé nhỏ trước biển khơi. Chỉ còn thấy mặt nước, chân mây, biển trải rộng với nhiều màu sắc khác nhau theo thời gian trong ngày. Và chiều tối là một khoảng không gian rộng vô cùng với một màu tím đen thẫm đẹp tuyệt vời!


Khi ở vị trí tập kết, qua tìm hiểu chúng tôi được biết từ năm 1962 đến năm 1964 chúng ta đã có mấy chục chuyến tàu chở vũ khí vào chiến trường, Từ tàu gỗ nhỏ, tàu gỗ lớn hơn đến tàu sắt nhỏ và giờ đây là tàu khoảng 100 tấn. Việc đưa vũ khí vào Nam bằng tàu biển là rất khó khăn nguy hiểm, nhưng nếu vào được 50% là một thắng lợi lớn. Mỗi chuyến đi có kèm theo đưa hai, ba cán bộ vào chiến trường và thường là những đồng chí có yêu cầu đi gấp. Bằng mọi cách cố gắng cao nhất, dù tình huống nào cũng không để lộ đường vận chuyển, không lộ phương tiện vận chuyển, không lộ bến tiếp nhận.


Phương tiện bảo đảm cho một chuyến đi của chúng tôi còn rất nghèo nàn, chỉ có một cái la bàn, một hải đồ 1/1.000.000 và một cái thước đo góc. Bao nhiêu thứ cần thiết nữa thì chúng ta không có.

Qua 2 giờ trên biển tôi thấy người bắt đầu nôn nao say sóng. Đến giờ thứ 4, thứ 5 thì say sóng thật sự, người choáng váng, nhức đầu, nôn mửa. Mệt quá, vẫn nôn, nôn hết, nôn ra mật xanh, mật vàng, không có gì để nôn nhưng cứ há mồm cho nước chảy ra và sau cùng là ra một ít máu.


Các đồng chí có kinh nghiệm trên tàu đến xem, xác định do nôn oẹ nhiều quá, họng bị căng ra và chảy máu ở các vi ti huyết quản nên không ngại gì cả. Đi thêm một, hai ngày nữa thì sẽ hết nôn oẹ.

Chuyến tàu của chúng tôi đã đi được 5 ngày 4 đêm, tuy gặp rất nhiều tàu buôn, tàu đánh cá ngoài khơi xa nhưng không gặp một trở ngại nào. Tàu cũng tốt. Các đồng chí thủy thủ nói rằng cho đến giờ phút này thì đây là một chuyến đi thông đồng bén giọt. Khi tàu bắt đầu đi vào biển Miền Nam thì cũng là lúc có điện của cấp trên cho biết trên đường tàu đi vào, sẽ gặp hai tàu của địch đi tuần tiễu, cần theo dõi sát để xử lý phù hợp. Vào đến khu vực ngang với hải phận phía Nam người tôi đã trở lại hoàn toàn tỉnh táo. Tôi suy nghĩ rằng đây là một hoạt động vận chuyển rất độc đáo cho cách mạng Việt Nam.


Suốt một khoảng thời gian dài chúng tôi đi đến hải phận quốc tế. Bất ngờ, từ ngoài khơi, tàu phóng vào khoảng giữa ở một điểm nào đó mà địch không nghi ngờ để đi đến đích đã định.

Mọi người trên tàu chuấn bị rất khẩn trương để sẵn sàng ứng phó chuẩn bị chiến đấu. Chúng tôi đươc phổ biến thêm là: Khi gặp địch, phải hết sức bình tĩnh và hoàn toàn theo lệnh của thuyền trưởng. Nếu gặp địch tới gần, xét thấy tàu của ta không đi vào được nữa thì cho xuồng xuống biển và chúng tôi xuống đó có người bơi đưa vào bờ. Các thuỷ thủ sẽ ở lại chiến đấu để bảo vệ tàu.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:18:05 pm
Sau này tôi được biết rằng ở trong tàu chúng tôi đi có 3 tấn thuốc nổ, trường hợp nguy hiểm nhất, ta không còn cách nào để bảo vệ tàu nửa thì sẽ cho nổ 3 tấn thuốc đó và phá huỷ tàu luôn.

Thực tế trên con đường biển này cũng đã xảy ra một vài trường hợp như vậy. Mọi người trên tàu mong cho trời yên biển lặng không gặp địch để vào bến được an toàn... Bỗng đồng chí thuyền trưởng thông báo phát hiện có hai ánh sáng đèn phía trước... Đúng rồi, hai ánh sáng đèn đó đang đi thẳng về phía tàu của chúng tôi. Ngay lập tức đồng chí thuyền trưởng đến chỗ chúng tôi và nói dự kiến của mình là tàu của ta cứ tiếp tục đi thẳng đường đến một độ nào đó mà tàu tuần tiễu của địch có thể sắp phát hiện đường đi của tàu ta (tàu của ta không bật đèn) thì ta sẽ rẽ ngang để tránh chúng. Đồng chí vừa nói đến đây, một thủy thủ vào báo cáo là hai tàu của địch đã rẽ vòng sang hai bên. Thuyền trưởng lên quan sát và quyết định mở hết tốc lực đi thẳng vào hướng đã định nhưng mọi người vẫn theo dõi hai tàu của địch. Đi một quãng xa, hai tàu của địch vòng lại đi vào theo hướng tàu của ta. Đúng lúc này có một cơn gió mạnh, sóng đánh trùm lên tàu của ta, tàu địch nhẹ hơn nên dập dềnh... địch không phát hiện được mục tiêu. Thế là thoát! Mọi người thở phào nhẹ nhõm vì qua được một tình huống hiểm nghèo.


Tàu tiếp tục đi, các thuỷ thủ cho biết không lâu nữa là chúng ta đến bến, đến khu vực đã định và thuyền trưởng cho đánh tín hiệu nhưng không thấy trong bờ trả lời! Lúc đó là vào khoảng 3 giờ sáng, nếu bến bắt được tín hiệu, ra đón tàu vào, mọi việc bốc xếp hàng xong xuôi, cất giấu tàu rồi trời mới sáng.


Vào giờ này, nhìn ra biển thấp thoáng đã có những con thuyền đánh cá của dân ra khơi... Bỗng dưng tàu bị chựng lại, đáy tàu kêu lạo xạo, mắc cạn rồi! Từ hôm bắt đầu đi đến nay, quan sát thuyền trưởng, chúng tôi thấy đồng chí rất bình tĩnh trước những tình huống khó khăn, nhưng lần này thấy anh bồn chồn lo lắng. Anh cho tàu lùi lại nhưng không thoát được bãi cạn... Trên một vùng biển không xa bờ lắm một chiếc tàu nổi chềnh ếnh, nếu trời sáng thì làm sao mà giấu được kẻ địch, đến nước này thì thật là gay cấn!


Thấy tàu mắc can, một số thuyền đánh cá của dân lùi ra xa hơn mà không dám đến gần; có lê la họ không hiểu là tàu gì, tránh xa để khỏi bị liên lụy phiền phức... Nhưng có một chiếc thuyền đánh cá ở gần hơn lảng vảng đi lại. Một đồng chí thuỷ thủ gọi to: "Xin bác cho chúng cháu hỏi thăm". Chiếc thuyền vẫn từ từ đi ngang không lui ra xa mà cũng chẳng đến gần tàu. Đồng chí thuỷ thủ khác giọng Nam Bộ lại gọi to: "Xin cho chúng cháu hỏi thăm bác ơi!"... Thuyền đi tới gần tàu. Khi nhìn rõ có hai người đàn ông, một người trạc gần 60 tuổi và một người khoảng 40 tuổi, anh thuỷ thủ nói: "Tàu chúng cháu chở chiến lợi phẩm bị mắc cạn, nhờ bác cho biết đây là đâu và làm thế nào để ra khỏi nơi này".


Ông già hỏi lại là các chú ở đâu tới mà giờ này đến đây để bị mắc cạn? Không chờ trả lời, ông già nói luôn là tôi biết rồi, cho tôi gặp chú chỉ huy. Chúng tôi mừng nhưng cũng còn nghi ngại. Ai cũng theo dõi từng cử chỉ của ông gia. Đồng chí thuyền phó, người Nam Bộ đến gặp ông già và ông ta nói ngay rằng: "Tôi thấy tàu mắc cạn, thấy im lặng, tôi đoán ngay là tàu của ta từ ngoài Bắc, tàu của Bác Hồ đưa vào. Nếu tàu của bọn ngụy thì chúng làm ầm lên và bắn súng gọi nhau để cứu trợ. Bây giờ các chú nghe tôi, trương ngay lá cờ 3 sọc lên, đề phòng trời sáng mà ta chưa ra khỏi chỗ này, máy bay của nó đi qua sẽ không chú ý tới. Những gi nặng ở trên tàu các chú đưa xuống một số thuyền của chúng tôi, tôi cho gọi bà con đến. Khi đồ nặng bớt đi, tau sẽ nổi lên, tôi sẽ dẫn các chú ra lạch để vào bờ. Khi ra lạch, các đồ nặng lại đưa lên tàu trả các chú. Cần phải làm nhanh, nếu trời sáng thì dễ lộ lắm, nguy hiểm".


Ông già nói thêm: "Chúng tôi là dân ở trong ấp chiến lược nhưng lòng chúng tôi không ở ấp chiến lược đâu! Những thuyền mà tôi gọi đến cũng có một vài tên chỉ điểm của Mỹ Ngụy; không gọi họ đến thì họ sẽ đi báo cho địch. Gọi họ đến họ không đi đâu được. Sẽ nói với họ rằng đây là tàu chở chiến lợi phẩm. Sau khi xong chúng tôi sẽ giám sát họ cả buổi đánh cá ngày hôm nay. Chiều về họ có báo cho địch, kẻ thù chả làm gì được các chú nữa. Các chú cứ an tâm đi!"


Qua chỗ cạn được rồi, ông già và một số thuyền dẫn tàu đi vào lạch. Đi một quãng nghe chừng đã ổn định, các hàng nặng ở các thuyền của dân lại đưa lên tàu. Chúng tôi cảm ơn đồng bào và đi tiếp được một đoạn đường dài thì bắt được liên lạc trong bờ, gặp người ra đón và vào bến an toàn. Tàu vào đến bến thì trời đã sáng rõ. Ai cũng mừng và vui sướng.


Tôi ở chiến trường Nam Bộ tất cả là 14 năm tròn tính từ ngay vào chiến trường cho đến khi lại trở về công tác tại Cục Bảo vệ Tổng cục chính trị (tháng 3/1978). Biết bao nhiêu là kỷ niệm ở chiến trường đánh Mỹ, nhưng kỷ niệm về chuyến đi vào Nam là sâu sắc của đời tôi.


Dù đã 34 năm trôi qua mà tôi vẫn nhớ như là mới xảy ra. Quên sao được con tàu không số với những thủy thủ gan dạ vững vàng, tinh tường khôn khéo lái con tàu tránh được bao hiểm nguy vào bến an toàn. Điều lắng đọng nhất là lần đầu gặp những người dân Nam Bộ, và chính họ, trong đó nổi bật là một ông già chí cốt với cách mạng, với tình nghĩa sâu đậm, sự tỉnh táo nhạy bén đã cứu con tàu thoát khỏi tình huống tưởng chừng không thể vượt qua.

14.11.1998
N. V. K


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:18:45 pm
RỜI XUÂN MAI ĐI B


NGÔ ĐẠT TÀI

   Sông Bùi lùi lại, đồi quay mặt,
   Cây nghển đầu cao ngóng dõi theo.
   Thôi nhé Quê hương! Xin tạm biệt,
   Ra đi không khỏi nhớ nhung nhiều!
   Xe nuốt đường dài, cát bụi bay.
   Bâng khuâng một dải vắt lưng mây.
   Anh nhìn xa lạ mà thân thiết,
   Không cả mỉm cười, không vẫy tay* (Để đảm bảo bí mật cho chuyến đi)
   Người tưởng rằng đây những chuyến hàng
   Nghĩa tình gang thép gửi vô Nam
   Biết đâu xe chở lòng son sắt
   Mệnh nước ngời trong phận kín thầm.
   Nối tiếp đoàn xe chuyển gập gềnh,
   Rừng đồi, đồng ruộng, biển mông mênh,
   Bến phà, cửa đập, bao cồn cát,
   Khúc khuỷu, gồ ghề, đèo chênh vênh.
   Hướng điền, cuồn cuộn suối trong veo,
   Vun vút xa xa núi cõng đèo.
   Từ giã "vạch, sao", vui đón nhận:
   Ba lô con cóc, mũ tai bèo.
   Khuất đi những cột khói thanh bình
   Trước mắt loé dần lửa chiến chinh.
   Núi tiếp nhau cao, khe tiếp thẳm,
   Bướm trêu chiến sĩ lượn quanh mình.

(4-1962)
N.Đ.T


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 04:20:19 pm
LẦN ĐẦU GẶP ANH MƯỜI CÚC(*)
Nguyễn Văn Linh (nguyên Tổng bí thư Đảng)


MƯỜI TÀI


Tôi thật may mắn Tháng 8 năm 1962, vừa vào tới căn cứ Trung ương cục Miền Nam, tôi đã được dự Hội nghị binh vận toàn Miền. Sau đó ít lâu, lại được tham gia lễ Kỷ niệm một năm thành lập Mặt trận giải phóng dân tộc Miền Nam Việt Nam.


Anh Mười Cúc, bí thư Trung ương cục đi công tác vắng nên không tới dự Hội nghị Binh vận. Lần dự lễ Kỷ niệm, tôi hy vọng sẽ được gặp anh.

Vào hội trường, tôi vui mừng được gặp anh Nguyễn Văn Quang, người quen cũ. Anh Quang là cán bộ ở Tổng cục chính trị, đã cùng tôi theo một khoá học ở trường Trung cao chính trị quân đội, được cử đi vào Nam trước tôi mấy tháng.


Sau những lời chào nhau niềm nở, tôi yêu cầu anh chỉ cho tôi đồng chí Bí thư Trung ương cục. Anh nói "Anh Mười Cúc là người thứ hai, ngồi hàng thứ hai". Và chúng tôi thì thẩm trao đổi:

- Sao anh Mười không ngồi trên Chủ tịch đoàn?

- Anh Hai Đán, phó bí thư, phụ trách dân vận tham gia Chủ tịch đoàn là đủ.

- Những ai ngồi ở hang ghế đầu?

- Các vị nhân sĩ, các uỷ viên của Mặt trận.

Anh Mười Cúc khiêm tốn, giản dị ngồi ở hàng thứ hai. Khác với những cuộc họp mà trước đây tôi thường thấy, không có ai trong ban tổ chức lom khom chạy qua, chạy lại đến xin ý kiến chỉ đạo thêm của người có vị trí lãnh đạo cao nhất.


Và điều làm tôi ngạc nhiên hơn là khi đến giờ giải lao, anh Mười thân mật chuyện trò với những người cùng đi ra. Anh tươi cười đáp lễ những đại biểu chào anh.

Lúc anh đến gần chúng tôi, anh Quang và tôi cùng nghiêng đầu chào, Anh Mười bắt tay tôi và hỏi:

- Anh ở C... (bí danh của các ban) nào mà hôm nay tôi mới gặp mặt?

- Thưa anh, tôi ớ C72 (Ban Binh vận)

Anh vui vẻ hỏi thêm:

- Tốt quá, anh đã ra viện rồi á? Cần tiếp tục giữ gìn sức khỏe!

Tôi thầm nghĩ: Các ban của Trung ương cục có hàng trăm cán bộ, làm sao biết hết mọi người, thế mà anh phát hiện ra tôi người lần đầu mới gặp. Anh còn nắm được tình hình ốm đau của tôi nữa!

Tôi được giao nhiệm vụ đi B2 để chuyển đạt những chủ trương, đường lối, chính sách binh địch vận mới, nhưng không được mang theo tài liệu, không được ghi chép. Vì vậy, tuy đến Xuân Mai đăng ký sớm, nhưng tôi không được ở lại bồi dưỡng như mọi người. Tôi phải trở về Hà Nội, ngày nghiên cứu những nghị quyết, thông tri, chỉ thị mới nhất của Trung ương, tối tối đeo ba lô gạch tập leo núi Nùng, hoặc đi bộ trên hè phố. Vào đến B2, đáng lẽ được ở lại trạm cuối cùng ăn bồi dưỡng một tháng trước khi đi nhận công tác nhưng nghe tin có cuộc họp Binh vận toàn Miền, tôi xin được rời trạm đi ngay để khỏi bỏ lỡ một cơ hội hiếm có, về căn cứ Ban Binh vận ngủ một đêm. Sáng hôm sau, khi ra khỏi võng, tôi ngã vật xuống đất. Tuy đầu óc vẫn tỉnh, nhưng các cơ bắp chân tay không hoạt động được. Anh em khiêng tôi sang quân y viện. Bác sĩ kết luận cơ thể tôi bị suy nhược nặng sau một đợt hành quân dài ngày và thiếu dinh dưỡng.


Chắn hẳn Ban Binh vận đã báo cáo tình hình sức khỏe của tôi với Thường vụ Trung ương cục. Nhưng nắm được tình hình rồi vẫn lưu tâm theo dõi tình sức khỏe của một cán bộ không trực tiếp công tác với mình thì cũng là đức tính đáng quý của người giữ vị trí chủ chốt lãnh đạo.


Thái độ bình dị, sâu sát của anh làm tôi vừa ngạc nhiên vừa mến phục.

Cuộc gặp gỡ đầu tiên với anh Mười Cúc luôn luôn in sâu trong tâm trí của tôi. Tôi coi đó là một bài học giúp tôi nâng cao trách nhiệm đối với các đồng chí cùng tôi công tác sau này.

M.T


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:15:59 pm
LÀM PHIM Ở CHIẾN TRƯỜNG


PHẠM QUỐC VINH


Ngay từ đầu năm 1963, trong chúng tôi đã có người cùng với máy quay phim lên đường vào chiến trường. Đợt đi B dài hạn đầu tiên có Trương Thành Hy, Trần Anh Trà, Phạm Xuân Bình rồi tiếp theo hàng năm số quay phim, biên tập luân phiên nhau đi chiến trường ngày một tăng. Người đi dài hạn có khi 2, 3 năm, có người ở B2 bẩy, tám năm liền. Số đi ngắn hạn tùy theo từng chiến dịch, thường từ 3 đến 4 tháng.


Đội ngũ chúng tôi phần lớn là cán bộ chính trị, có một số giáo viên văn hoá, một số từ các đơn vị chuyển sang và từ những năm 1970 có cả một số "tân binh" được bổ sung ngay tại chiến trường. Trình độ chuyên môn không đồng đều, phần lớn còn non yếu, có một số lần đầu mới làm quen với máy quay phim, nhưng chúng tôi vừa học vừa làm, vưa rút kinh nghiệm. Luôn luôn bồi dưỡng - kèm cặp lẫn nhau về nghiệp vụ, đó là phương châm phấn đấu của chúng tôi. Chúng tôi thường trao đổi và xác định với nhau là người chiến sĩ quay phim ở mặt trận bên cạnh lòng yêu nghệ thuật điện ảnh còn đòi hỏi phái tự rèn luyện cuộc sống dầy dạn như những người chiến sĩ và tâm hồn người chiến sĩ.


Thời kỳ đầu đi chiến dịch, chúng tôi còn rất lúng túng về những trang bị vì có nhiều thứ và cồng kềnh! Một đội quay phim đi chiến trường nhiều là 3 người, ít là 2 người với một máy quay loại 16 mm, một máy ảnh và phim nhựa (thường đem theo 10 hộp phim 16mm loại 30 mét) cùng tăng - võng - quần áo. Những thứ này để gọn trong "bòng" (ba-lô) vừa phải chống ẩm ướt nhưng lại phải sắp xếp cho khéo để thao tác nhanh nhất, nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội ghi hình ảnh tốt nhất.


Không phải chỉ có vậy, trong đội quay còn phải có người mang theo cả súng AK hoặc súng "Các bin", súng ngắn, thủ pháo, lựu đạn để tự vệ, cùng cuốc xẻng, cưa để làm công sự, (cưa cắt lát hầm). Ngoài ra người nào cũng phải có lương thực, thực phấm đảm bảo trung binh từ 10 đến 15 ngày. Chừng đó thứ cũng đủ nặng rồi, và tất cả đều nhờ vào ý chí và đôi chân.


Trên đường đi chiến dịch, ngày đêm ròng rã cùng hành quân với bộ đội, chúng tôi vẫn phải tranh thủ ghi chép hình ảnh về những đặc điểm của địa phương, những hoạt động mà bộ đội phải khắc phục khó khăn gian khổ vượt qua... Đến vị trí trú quân dù mệt nhọc đến đâu chăng nữa, bản thân đồng chí quay phim nào cũng phải nhanh chóng làm một công sự đảm bảo cho chiến đấu, có khi phải làm công sự nổi ở những vùng sông, rạch... vì thế cuốc xẻng là vật thiết thân, ai cũng giữ gìn chu đáo.


Những năm đầu ở chiến trường miền Đông, chỉ có 1, 2 đội quay và qua từng chiến dịch anh em chúng tôi đều có ghi lại được những chiến công vẻ vang của Quân giải phóng. Tuy nội dung chưa đầy đủ nhưng hình ảnh rất chân thực, có sức hấp dẫn đồng thời đó là những thước phim có giá trị lịch sử vô cùng quý giá.


Trong trận Bình Giã, Hồng Hải và Trường Sơn đã ghi được hình khẩu đội ĐKZ lần đầu tiên diệt chiến xa M.113 địch trên chiến trường miền Đông Nam Bộ; những chiến sĩ đội mũ tai bèo, chân dép lốp xông lên diệt bọn lính thuỷ đánh bộ "thiện chiến". Các anh ghi được cả những bộ mặt hoảng hốt của kẻ chiến bại...


Đầu năm 1965, vượt qua suối - sông - dốc cao - mưa gió - các đồng chí Phú Thạnh, Bá Nhàn, Thanh Xuân, Tôn Bảo đã cùng bộ đội ra mặt trận. Đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ rất thích bộ phim "Chiến thắng Đồng Xoài" vì đó là chiến công gần gũi của họ. Người xem thích nhất là cảnh chi khu Đồng Xoài rực lửa có những tên lính đành thuê chui từ trong đồn ra cao tay đầu hàng trước mũi súng quân ta, cùng những tên lính thuộc tiểu đoàn 7 dù, phơi thây trên bãi chiến trường.


Chuẩn bị cho đầu Xuân 1968, đội ngũ chúng tôi được tăng cường thêm: Dương Phước An, Châu Quang, Trần Cần Kiệm, Nguyễn Quế, Vũ Thập, Quang Đạt, Trọng Hội... Số anh em này đều là giáo viên văn hoá bổ sung vào chiến trường nhưng lại cầm máy quay.


Cùng với anh em đã vào từ trước, tất cả chúng tôi đã "xuống đường" đợt này, ngày đêm hành quân bám sát bộ đội, gian khổ ác liệt nhưng rất vui. Ai nấy náo nức mong sao ống kính của mình sẽ được "lia" một cung rộng trên thành phố Sài Gòn, in rõ những tư thế hiên ngang của người chiến thắng.


Vượt qua bom đạn ác liệt lọt được vào nội đô, Dương Phước An, Vũ Thập đã đạt được phần nào ý nguyện của mình, thu vào ống kính những hình ảnh tiến quân vào Sài Gòn, những tổ xung kích đang bám sát từng căn nhà, góc phố đánh địch. Một khẩu đội 12 ly 7 đặt giữa ngã tư đường phố bắn máy bay địch, những cột khói bom đạn do máy bay của chúng thả xuống giữa đô thành... và những bà má ven đô tham gia tiếp tế giúp đỡ cho Quân giải phóng... là những hình ảnh sôi động trong bộ phim "Vài hình ánh về cuộc tổng tấn công và nổi dậy" của Xưởng phim Quân giải phóng sau Tết Thân 1968.


Giành được chiến thắng oanh liệt và để có được những thước phim có giá trị lịch sử đó, chúng ta đã phải "đổi" bằng xương máu của biết bao chiến sĩ trong đó có các chiến sĩ quay phim mặt trận.

Châu Quang đi theo mũi tiến công phía Bắc Sài Gòn, đã trèo lên cây cao quay những đợt đổ quân ứng cứu của địch... và rồi đồng chí hy sinh nhưng không rời máy.

Phú Thạnh bám theo bộ binh ghi được những cảnh xung phong đánh địch phản kích. Bị thương, anh tự băng bó lấy rồi lại tiếp tục tiến theo bộ đội. Anh cố gắng chạy cho kịp trong khi vết thương vẫn rỉ máu. Anh nằm xuống, nhưng cảnh cuối cùng mà máy của anh đã ghi được đó là một khẩu đội đại liên đang giòn giã nhả đạn vào quân giặc.


Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ở phía trước, trên đường rút về căn cứ, Dương Phước An đã hy sinh trong một trận phục kích của địch ở kênh Bo-bo.

Những gương chiến đấu ngoan cường, những gương hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ, của đồng đội càng thôi thúc chúng tôi quyết tâm nỗ lực thu thập tài liệu và làm phim tốt hơn... và dù cho có khó khăn về phương tiện và kỹ thuật... những bộ phim thời sự và phóng sự ngắn của chúng tôi vẫn kịp thời đến với các chiến sĩ các đơn vị trước khi ra trận.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:17:09 pm

Từ 1969 cuộc chiến tranh ở miền Nam bước sang giai đoạn mới. Quán triệt tình hình nhiệm vụ, trong 3 năm liền, chúng tôi phân chia lực lượng đi thu thập tài liệu hình ảnh về hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực và nhân dân ta đấu tranh chống phá "bình định" của địch trong âm mưu thực hiện "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ.


Không phải chúng tôi chỉ thu thập tài liệu ở chiến trường miền Nam mà ngay khi giặc Mỹ xâm lược đưa quân can thiệp vào Căm-pu-chia, năm 1970, các đội quay phim Quân giải phóng được sự ủng hộ giúp đỡ của lực lượng cách mạng và nhân dân Câm-pu-chia anh em, đã tới được Kăm-pôt, Tàkeo, Chlong, Kờ-ra-chiê và đến cả Ang-ko (Siêm Riệp) nữa.


Nhớ lại có lần phối hợp chiến đấu cùng với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Căm-pu-chia, các đơn vị chủ lực của ta đã được nhân dân bạn huy động từng đoàn xe hon-đa chở bộ đội hành quân trên đường 7... còn các đội quay chúng tôi cũng đã có lần được bà con đưa bằng xe hon-đa từ vùng đất đỏ biên giới, vượt hàng trăm ki lô mét trên quốc lộ 6 đến tận khu đền Ang-ko cổ kính. Những ngày làm phim trên vùng Biển hồ mênh mông, chúng tôi sống với bà con gần nửa tháng trời trên xuồng máy, nhưng rất tiếc là không có đủ phim nhựa mang theo để ghi tư liệu. Trận đánh phối hợp với bạn giải phóng Puốc năm ấy (1970) Trọng Hội và Quang Đạt đã ghi được khá nhiều hình ảnh bộ đội từ khi xuất kích chiến đấu ngay trong thị xã, cho đến những đoàn tù binh của bè lũ Lon Non được giải về phía sau.


Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng tôi đã ghi lại được hàng nghìn mét phim tư liệu trên chiến trường Cam-pu-chia nói về tội ác của giặc Mỹ xâm lược cấu kết với bè lũ tay sai, về hoạt động võ trang tuyên truyền của các lực lượng giải phóng Cam-pu-chia, về tinh đoàn kết quân dân... Số phim tư liệu về chiến dịch "Chen La I, Chen-La II" do các đội quay Quốc Hùng, Đồng Cam, Minh quang, Thanh Dũng... đảm nhiệm gồm hàng nghìn mét còn nguyên trong kho lưu trữ phim tư liệu chưa được khai thác sử dụng cùng nhiều tư liệu chưa được khai thác sử dụng cùng nhiều tư liệu khác nữa mà nội dung rất phong phú, có ý nghĩa lịch sử...


Làm công tác điện ảnh, kịp thời ghi được nhiều tư liệu ở chiến trường là điều đáng mừng nhưng điều mong muốn trước hết của những người quay phim mặt trận là những thước phim đó phải nhanh chóng đến với đông đảo người xem mà ưu tiên là các chiến sĩ và nhân dân ở phía trước.


Điều băn khoăn của anh em quay phim mặt trận là khi thấy phim do mình quay về không được in tráng kịp thời để xem kết quả ra sao? "Khổ tâm" hơn nữa là có thời kỳ phim quay về để ùn lại không được dựng thành phim, cất vào kho "tư liệu"!?!


Trong những năm ở chiến trường, cũng có thời kỳ chúng tôi phải chịu cảnh như vậy! Đó là những năm căn cứ phải di chuyển nhiều lần, phim nhựa hạn chế, (phim dương bán) vật liệu, hoá chất thiếu v.v... nên việc tổ chức in tráng và sản xuãt phim trong rừng sâu gặp nhiều khó khăn... Tuy nhiên được sự chi viện từ hậu phương lớn, chúng tôi vẫn ra sức phấn đấu ra phim sau mỗi chiến dịch, bộ phận sản xuất phim vẻn vẹn chỉ có 3 người đều là thương binh: Đó là Bá Nhàn, Lương Ngọc Triển và Tôn Bảo. Buồng tối lợp bằng lá "trung quân" thường đặt bên bờ suối và làm vào ban đêm. Tổ chức tráng thủ công, mỗi guồng phim 30 mét, anh em cũng đã dùng một chiếc máy quay cũ cải tiến thành "máy" in phim. Cùng với một chiếc máy phát điện nhỏ đặt dưới hầm phục vụ cho sản xuất phim. Sau mỗi đêm anh em có thể in và tráng từ 300 đến 500 mét bảo đảm chất lượng phim trong sáng, tốt.


"Chiến thắng Xuân hè 1969" là tập III của bộ phim tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt, đã nêu bật sự tích anh hùng đánh Mỹ ở căn cứ Dầu Tiếng, ở Téc-Ních (Binh Long), ở Đồng Pan, Bà Chiêm, Tà tê, Suối Giây... trên chiến trường miền Đóng anh dũng, đẩy bè lũ Ních Sơn càng lún sâu vào những thất bại mới!


Phim "Chiến thắng Đông Bắc Căm-pu-chia" là một phóng sự vạch trần cuộc hành quân của bè lũ Mỹ - ngụy mang tên "Toàn thắng 1-71". Trọng Hội, Nguyễn Quế, Quốc Hùng, Đồng Cam, Minh Quang đã theo sát các đơn vị chủ lực của ta phối hợp chiến đấu với quân dân bạn và ghi được đủ các loại xe, pháo, tăng, thiết giáp của Mỹ - ngụy với đủ các sắc lính trong các trận quân ta đánh tiêu diệt xuất sắc ở Xuông, Chúp, Đầm be, Oát-thơ mây, Snun.


Gương những anh hùng chiến sĩ thi đua ở Sài Gòn Gia Định và miền Đông Nam Bộ cũng được phản ánh trong phim thời sự cuối năm 1971.

Cũng vào dịp đó Nguyễn Quế và Thành Đồng vượt vào tận ven đô (vùng Củ Chi) để lam phim phóng sự “Về thăm một vùng đất thép". Từ hình ảnh đến lời giới thiệu thật bình dị, chân chất và gần gũi mà lại vẫn nêu được phẩm chất của những người dân chí cốt với cách mạng, của người chiến sĩ thành đồng "thề cùng giặc Mỹ có tao không mày"!


Thực hiện quyết tâm chiến lược: tấn công nổi dậy giành thắng lợi lớn năm 1972, chúng tôi "ra quân" với trên 10  đội quay ở các mặt trận trong chiến dịch mang tên “Nguyễn Huệ”, nhà quân sự thiên tài của dân tộc. Chúng tôi thường phân công bố trí những đội quay phim “khỏe” cả về tinh thần và sức lực đồng thời “mạnh” cả về kỹ thuật đi theo hướng chủ yếu của chiến dịch.


Đã từng quen thuộc địa hình, địa vật ở vùng Lộc Ninh, Tổ quay phim của Phan Văm Cam cũng theo bộ đội ém sẵn gần sát chi khu trước giờ nổ súng. Anh chiếm lĩnh vị trí trên một cây cao và đã quay được những điểm chạm loạt pháo đầu tiên của ta nổ tung đồn địch. Cơn bão lửa dội xuống đầu giặc vừa dứt, cũng là lúc Cam tụt từ trên cây xuống đất đón chờ đoàn xe tăng của ta hiệp đồng binh chủng lần đầu xuất trận trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.


Bám theo trong đội hình của đoàn xe, Cam muốn ghi được cảnh xe tăng của ta vừa cơ động vưa nhả đạn lao thẳng vào phía cửa mở. Nhưng bất ngờ chiếc xe tăng đi đầu bị khựng lại sau một tiếng nổ lớn. Cả đoàn xe bị ùn tắc dừng lại! Thấy không ổn. Cam ôm chặt lấy máy quay vội nhẩy xuống vòng ra hướng khác theo tổ xung kích đang trên đường tiến vao đồn địch. Trời đã sáng rõ. Máy bay địch lồng lộn bắn phá chặn đường. Giữa lúc Cam đang quay bộ đội trên đường vào lô cốt đầu cầu thì một loạt bom nổ ngay gần đó. Cam ngã khuỵ xuống vẫn còn kịp dặn phụ quay phim Nguyễn Cường nhanh chóng cầm máy thay thế tiến vào "tung thâm"... Những bộ mặt kinh hoàng của những tên cố vấn Mỹ, những tên Nguỵ gục đầu khiếp sợ từ trong công sự, hầm ngầm lũ lượt chui ra giơ tay hàng cùng với đại ta chỉ huy trưởng chiến đoàn 9 Ngụy, đều lọt vào ống kính máy quay của Nguyễn Cường.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:18:46 pm
Cũng đi theo chiến dịch này, cùng với các chiến sĩ ta kiên trì bám dọc đường 13, đoạn gắn ngã ba Đồng Tâm, đồng chí Minh Quang một mình một máy quay đón chờ trận đánh chiến đoàn 52 rút chạy. Quang đã có bài học kinh nghiệm của Vũ Thập bình tĩnh gan dạ xông lên chớp thời cơ. Thập đã ghi được đầy đủ hình ảnh rất sinh động trận tiêu diệt đoàn xe địch trên lộ 22 mấy năm trước. Ống kính máy quay của Quang đã không uổng công chờ đợi. Quang đã chủ động bấm máy quay từ lúc ta nổ súng diệt chiếc xe đi đầu cho đến khi đoàn xe bị chia cắt, xe pháo ngổn ngang, quân tướng hoảng hốt tan tác, đứa thì chết, đứa thì đầu hàng, số còn lại chạy dạt sang bên đường đều bị bắt sống.


Phim “Chiến dịch Nguyễn Huệ - 1972" còn phản ánh trung thực cuộc sống của các dũng sĩ đường 13 đã trải qua 150 ngày đêm liên tục vây hãm đánh địch An Lộc mà vẫn dẻo dai ngoan cường chốt giữ, chịu đựng hàng nghìn tấn bom đạn của quân thù.


Có được trường đoạn trong phim này, Nguyễn Quế và Thanh Đồng với máy quay của mình đã tìm tới từng công sự, gặp từng chiến sĩ bám chốt, kể cá các đồng chí "anh nuôi" và hàng ngày cũng 1 bữa cơm nóng, 2 bữa cơm nguội, không một giờ ngủ yên như các dũng sĩ.


Những mét phim đó không chỉ nói lên những gương bám trụ kiên cường của các chiến sĩ giữa một vùng đất hẹp mà quân thu mong huỷ diệt sự sống ở đây, đồng thời phim còn nêu lên được phong thái đàng hoàng, một tâm hồn lạc quan, một niềm tin mãnh liệt của người chiến thắng.


Ngoài việc ghi hình ảnh tác chiến của các đơn vị chủ lực, chúng tôi không xem nhẹ những hoạt động đấu tranh của nhân dân đánh phá "bình định".

Những năm 1970 - 1971 đã có những đội quay đi sâu vào vùng Bà Rịa, Biên Hoà, đi Bến Tre, và xuống tận Bẩy Núi, Cô-tô, An Giang. Dù gặp nhiều khó khăn về địch tình, về khí hậu thời tiết, nhưng được sự giúp đỡ của bà con nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương, các Tổ quay phim của Quốc Hùng, Bất Diệt, Cần Kiệm, Văn Minh, Quang Đạt đã quyết tâm ghi được nhiều phim tư liệu quý. Đồng chí Quốc Hùng, có lần đã phải chịu 26 ngày đêm không tắm giặt, cơm vắt ngủ hầm để chờ quay bộ đội phục kích giặc.


Đồng chí Nguyễn Văn Thắng, một phụ quay phim trẻ tuổi đời, tuổi quân và cả tuổi nghề nữa, đã tận tụy phục vụ quay chính trong các chiến dịch. Khi đang công tác ở vùng Bẩy Núi đã nói với tổ Đảng: "Các anh cứ dạy bảo em, em xin hứa là không bao giờ phụ lòng Chi bộ, phụ lòng các anh!" Và chí 2, 3 ngày sau, trên đường công tác chẳng may đồng chí chạm phải mìn địch, đồng chí đã hy sinh, để lại cho đơn vị hình ảnh tươi sáng va đẹp đẽ của người Đảng viên trẻ tuổi "lớp Hồ Chí Minh".


Sau những kiên trì đấu tranh và anh dũng chiến đấu, hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký kết, nhưng giặc Mỹ và bè lũ tay sai vẫn ngoan cố phá hoại hoà bình...

Những người làm phim chúng tôi vẫn xác định được trách nhiệm trước tình hình mới. Từ "R" xuống tận đồng bằng Cửu Long để làm phim là một quyết tâm cao và sau chuyên đi ấy không phải là không có khó khăn. Đầu năm 1974, tổ quay của Nguyễn Quế, Thanh Đồng đã đem về những mét phim sinh động về quân và dân vung Cần Thơ Rạch Giá đã trừng trị đích đáng bọn Mỹ nguỵ với tham vọng "bình   định", “lấn chiếm", "tràn ngập lãnh thổ". Bộ phim ấy mang tên “Phía Nam Sông Hậu'' còn ngợi ca cuộc sống êm đẹp thanh bình trong vùng mới giải phóng của bà con nhân dân miền Tây Nam Bộ.


Trong thời kỳ này, chúng tôi cũng dành một số quay phim để ghi tư liệu về hoạt động của phái đoàn ta trong Ủy ban Quân sự 4 bên tại Tân Sơn Nhất, về hoạt động trao trả tù binh, về các anh chị em từ các lao tù của Mỹ ngụy, chiến thắng trở về.


Điều kiện phim nhựa còn eo hẹp, lại thiếu phương tiện thu thanh, máy quay đồng bộ, nhưng vẫn mạnh dạn làm phim “Tiếng hát của những người chiến thắng" đạt hiệu quả tốt gây xúc động là một cố gắng đáng kể.


Bộ phim "Ủy Ban Quốc tế thăm vùng giải phóng Lộc Ninh" là một phóng sự ngắn ra kịp thời nêu được tinh thần phấn khởi của nhân dân ta và sự đón tiếp nồng hậu thân thiết trọng tình hữu nghị của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đối vơi các vị khách quốc tế lần đầu đến vùng giải phóng.


Làm phim về Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng lần thứ IV đầu năm 1974, các đồng chí quay phim không chỉ ghi lại những cảnh sinh hoạt trong Đại hội giữa rừng sâu, mà anh em đã chia nhau đi lấy hình ảnh về những gương chiến đấu, công tác học tập của những anh hùng và tập thể anh hùng ngay tại các đơn vị, nên nội dung của bộ phim mang tên "Nhưng ngọn cờ chiến thắng" rất phong phú, hấp dẫn với người xem.


Đầu năm 1974, lực lượng quay phim được tăng cường thêm Cao Thuận, Ngô Hường, Nguyễn Nhiêm. Các anh em thay nhau đi làm phim ở những vùng mới được giải phóng.

Đầu tháng 12-1974, thực hiện Nghị quyết của Trung ương lần thứ 21: "Tiến hành chiến tranh cách mạng, tấn công vào sào huyệt của chúng tiến lên giải phóng miền Nam", lực lượng quay phim đi theo chiến dịch đường 14 - Phước Long gồm những đội quay trẻ như Nguyễn Nhiêm, Tường Vân, Minh Quang, Văn Minh v. v...


Nhớ lại hồi năm 1965, "ra quân" lần đầu, số anh em quay phim Quân giải phóng đã vượt khó khăn gian khổ vác máy đến chiến trường này và đã cùng với quân dân ta rộn ràng phấn khởi câu ca:

"Ai về Sông Bé - Phước Long
Còn nghe vang dội chiến công Đồng Xoài"


… thì nay những anh em quay phim lớp kế tiếp cũng dũng cảm bám sát các mũi tiến quân của các đơn vị từ ngày mở đầu trận đánh (13-12-1974) cho đến khi kết thúc chiến dịch (6-1-1975). Những hình ảnh quay được trong bộ phim "Phước Long hoàn toàn giải phóng" góp phần vào việc cổ vũ động viên quân dân miền Đông Nam Bộ tiến lên chuẩn bị giành thắng lợi vĩ đại!


Trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân 1975 và tiếp theo là "Chiến dịch Hồ Chí Minh" lịch sử, anh em quay phim Quân giải phóng rất phấn khởi được sát cánh cùng với đông đảo đội ngũ quay phim Xưởng phim Quân đội đi theo các cánh quân tiến đánh giải phóng Sài Gòn, và những tài liệu đó đã tập trung góp phần vào bộ phim "Chiến thắng Xuân 75 lịch sử" - đánh dấu một chặng đường thắng lợi vẻ vang giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước.


Quá trình trưởng thành của chúng tôi là quá trình phấn đấu công tác học tập với sự nỗ lực chủ quan say mê nghề nghiệp đồng thời còn hăng hái lao động chiến đấu liên tục nữa. Bên những gương hy sinh dũng cảm trong khi quay phim, chúng tôi còn có những tay súng giỏi và có người đã là dũng sĩ diệt cơ giới, dũng sĩ diệt Mỹ-ngụy.


Trong trận chống càn "Gian-sơn Xi-ty năm 1967 - sau khi đã chôn giấu phim, ảnh, tài liệu... tổ chiến đấu gồm các đồng chí Bất Diệt, Tôn Báo và Hồng Hải đã phục kích dùng B.40 bắn cháy 1 xe tăng M41, còn Bá Nhàn dùng mìn chống tăng cải tiến đánh tan xác 1 xe thiết giáp Mỹ.


Cùng với bộ binh đánh trận phục kích đoàn xe địch trên đường 22 (năm 1969) Vũ Thập đã dùng súng ngắn bắn vào tốp lính Mỹ ở gần nhất và diệt xong tốp nay, ống kính của đồng chí lại tiếp tục hoạt động trong khi đồng chí phụ quay Đồng Cam tung thủ pháo tiêu diệt bọn Mỹ đang núp ở một ngôi nhà trong ấp chiến lược dùng súng bắn lén!


Cùng với bộ đội chiến đấu, phụ quay phim Phạm Văn Năm trong trận Cầu Khởi (Tây Ninh) dùng AK đẩy lùi đợt xung phong cua bọn “Trâu Điên”. Có lần một mình Năm lạc vào vùng chốt Mỹ, nhưng rất bình tĩnh, tỉnh táo, mưu trí, Năm đã tìm cách vượt qua địch tìm đường về căn cứ... và còn nhiều gương dũng cảm gan da khác nữa!


Nhìn lại trong hơn 10 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong chúng tôi tuy tuổi đời, tuổi quân và tuổi nghề có khác nhau nhưng đã lần lượt thay nhau theo bộ đội hành quân trên các nẻo đường, đã có mặt ở các trận đánh và chiến dịch lớn nhỏ tại chiến trường miền Nam cũng như chiến trường bạn. Tổng số phim mà đội ngũ chúng tôi đã quay và ghi lại đươc lên tới gần 50.000 mét. Từng thời gian, tuy đã có trích ra để dựng thành phim phổ biến kịp thời, nhưng phần lớn số phim đó chưa được sử dụng! Đây là một tài sản rất quý - một số vốn tư liệu phim chiến tranh có giá trị cần được giữ gìn bảo quản chu đáo để nghiên cứu khai thác tiếp tục sau này sử dụng xây dựng những bộ phim về truyền thống lịch sử của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, về cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại của dân tộc Việt Nam.


Là các chiến sĩ trên mặt trận văn hoá nghệ thuật, trong biên chế của đơn vị là 107 người thì có tới 23 là liệt sĩ, ngót năm chục người là thương binh, những người còn sống thì nay hầu hết đã về nghỉ… Chúng tôi thấy rất tự hào phấn khởi vì đội ngũ chúng tôi trong suốt thời gian qua đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang, đã góp phần trí tuệ, sức lực nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và cho nền nghệ thuật Điện ảnh trẻ tuổi Việt Nam.

P.Q.V


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:19:44 pm
NHỚ CÁC ANH*
(Điện ảnh Quân giải phóng thuộc Cục Chính trị Miền B2)


NGUYỄN VĂN LÂM


Trong kháng chiến chống Mỹ ở B2 (Nam Bộ) bệnh viện của chúng tôi hồi đó thu dung trung bình hàng tháng khoảng 500 thương bệnh binh, thời gian đột xuất khi mở chiến dịch hay thu dung tân binh ở miền Bắc mới vào bị ốm đau thì lên tới 2000 thương bệnh binh.


Tôi còn nhớ, cứ khoảng 3-4 tháng một lần đội chiếu bóng của Cục chính trị Miền - B2, lại về chiếu phim cho anh chị em thương bệnh binh và cán bộ chiến sĩ của bệnh viện chúng tôi xem.

Các anh thường chủ động đến với chúng tôi. Máy chiếu, phim, máy nổ... đều được mang theo trên những chiếc "xe đạp thồ" nặng nề, đạp ít đẩy nhiều, vì đường rừng thì hẹp lại khó đi, còn có khi phải qua suối, qua trảng ngập nước - trảng là một khoảng đất trống rất rộng, có khi hàng 2-3 km, từ phía bờ rừng bên kia sang bờ rừng bên này, nhất là vào mùa mưa thì thật là vất vả hết chỗ nói: nhiều khi phái tháo rời từng bộ phận để khiêng vác qua suối; có lúc các anh phải tìm đến đơn vị, nhờ cho người ra giúp sức cùng các anh mang máy móc phương tiện về "cứ"; đó là chưa kể trên đường đi phải hết sức chú ý đề phòng bom đạn, biệt kích... Nhưng lúc đến đơn vị là các anh khẩn trương tổ chức chiếu phim ngay cho anh chị em xem, mặc dù các anh mệt nhọc và đói, có lẽ vì sự mong đợi, sự khao khát của anh chị em lâu ngày quá rồi chưa được xem phim, đã làm cho các anh cảm thông sâu sắc bỏ qua đi những nhọc nhằn, phục vụ ngay cho anh chị em thương bệnh binh.


Thường thì các anh phải ở lại chiếu cho đơn vị chúng tôi ít nhất là vài ba buổi.

Bệnh viện có nhiều khoa, mỗi khoa lại cách nhau hàng 2-3 km đường rừng. Hơn nữa anh em thương bệnh binh nặng không đi xa được thường phải khiêng cáng anh chị em ra bãi chiếu để xem, có buổi chiếu phim kéo dài đến quá nửa đêm vì "tai nạn" máy bay, khi có báo động máy bay thì phải ngừng, máy bay đi xa lại tiếp tục chiếu, khán giả kiên trì ở lại xem cho đến hết phim, thì các anh cũng kiên trì chiếu cho bằng xong.


Ban ngày, các anh lại dành thời gian đi thăm hỏi các anh chị em thương bệnh binh ở các lán. Tình cảm giữa các anh va anh chị em thương bệnh binh thật là gắn bó đậm đà tình nghĩa đồng chí đồng đội.


Có một kỷ niệm sâu sắc mà anh chị em trong bệnh viện chúng tôi không bao giờ quên, đó là vào khoảng đầu năm 1969, các anh về chiếu cho anh chị em trong đơn vị xem hai bộ phim: Một phim truyện "Nổi gió" và một phim tài liệu “Trao trả 3 tù binh Mỹ ở Tây Ninh”, trong ba tù binh Mỹ đó có một tù binh Mỹ da mầu, bị chấn thương sọ não, đã được phẫu thuật cấp cứu kịp thời và điều trị khỏi tại bệnh viện chúng tôi. Khi xuất hiện trên màn chiếu hình ảnh của đồng chí Viện trưởng, bác sĩ Lê Thế Châu, chủ nhiệm khoa ngoại, và một số anh chị em y tá, hộ lý khác của bệnh viện thì tất cả cán bộ chiến sĩ, anh chị em thương bệnh binh đều reo hò không ngớt: "Hoan hô B8, hoan hô B8! mãi mới thôi! Anh chị em hoan hô B8 vì B8 đã nói lên được ít nhiều công lao của anh chị em trong đơn vị mà lại được chiếu phim lên màn hình thì tuyệt quá! Đó là sự cảm ơn của anh chị em trong đơn vị đối với B8.


Và cứ như thế, các anh đến rồi lại đi, bệnh viện thì đâu có ở một chỗ cố định, nhưng dù bệnh viện ở Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Cà Tum, Xa Mát, ngã ba Đầm Bè, Sơ Lông, Mi Mốt v.v... lại đều có mặt các anh, lâu lâu các anh chưa đến, anh chị em trong bệnh viện lại nhắc: "Sao dạo nay B8 lâu về thế!” chị em quen gọi đội chiếu bóng là B8 và coi như người nhà của bệnh viện.


Hồi đó bệnh viện nghèo, mà các anh đến phục vụ cho đơn vị cũng chẳng có gì chiêu đãi các anh, cũng chẳng có chi làm quà mà các anh cũng chẳng bao giờ đòi hỏi, nhưng giữa chúng ta lại có một món quà vô giá đó là tình cảm sâu nặng đậm đà của những người lính ở chiến trường hết đỗi thương yêu nhau, quý mến nhau, và tôi nghĩ rằng từ đó cho đến nay chúng ta cũng không quên được nhau!


Năm nay nhân kỷ niệm ngày 30/4, ngày đất nước thống nhất chung tôi lại nhớ tới các anh B8, những chiến sĩ văn hoá thầm lặng nhưng đầy vinh quang biết bao nhiêu. Xin chúc các anh vui, khoẻ, hạnh phúc và ước mong sao cho các anh được nhiều may mắn trong sự nghiệp và trong cuộc đời.


Tháng 4/98
N. V. L


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:20:28 pm
CHÙM BÁNH ÍCH


NGÔ QUANG ĐẠT


Khẩu pháo 120mm chồm lên trong ánh chớp lửa, bóng những pháo thủ, tiếng nổ ủ tai đồng thời diễn ra trong chớp mắt. Đó là cảnh cuối cùng của trận pháo kích lọt vào ống kính máy quay phim 16mm của tôi. Cả khẩu đội nhanh chóng thu pháo lui về phía sau.


Quân ta pháo kích và bao vây chi khu Lộc Ninh, chờ đón đánh quân tiếp viện bằng đường bộ và đường không của địch.

Pháo rút xong, trinh sát đưa tổ quay phim chúng tôi và thị trấn. Trời đã sáng, những mái nhà nằm dưới thung lũng, xung quanh là những đồi cao su bạt ngàn. Tiếng súng nổ, tiếng động cơ trên trời dưới đất ầm ầm. Từng tổ các chiến sĩ đang vận động ẩn hiện trên đường phố. Tôi say mê dán mắt vào kính ngắm, bấm máy.


Đường thị trấn im lặng khóng bóng người dân. Chiến tranh bom đạn đối với thị trấn này là chuyện thường tình. Chỉ khi nào an toàn họ mới rời khỏi nơi ẩn nấp.

Tôi theo các chiến sĩ trinh sát luồn lách qua các hẻm và các trục đường chính. Trên đường thỉnh thoáng một tốp bộ binh vận động thoăn thoắt. Nép vào vỉa hè tôi mải mê quan sát về phía chi khu. Đang tập trung tư tưởng chợt giật mình bởi một giọng nói nhỏ nhẹ: - "Này cậu!" Tôi quay phắt lại như bị điện giật. - "Em cầm lấy mấy chiếc bánh này ăn đỡ". Định thần lại, tôi nhận biết được điều gì đã xảy ra, vội nhẹ lắc đầu. Chị tiếp: "Lẹ lên, lỡ người ta nhìn thấy". Chợt hiểu ý chị, không kịp suy nghĩ, bị động như một cái máy tôi vội đưa tay đón nhận, miệng phát ra được mấy tiếng: "Xin cảm ơn chị".


Cái bóng thon thả nhỏ nhắn, khuôn mặt xinh xinh hiện lên những nét khắc khổ. Chị mỉm cười, đảo nhanh cặp mắt đăm chiêu một vòng rồi nhanh chóng khuất sau cánh cửa.

Sự việc xảy ra rất nhanh. Cái khoảnh khắc hiếm hoi đó còn lưu giữ mãi trong tôi. Cái giọng nói nhỏ nhẹ mà trong một câu cách phát âm đều có cả Bắc và Nam xen lẫn. Nụ cười, ánh mắt đều chứa đựng những ẩn ý sâu xa.


Tôi đi khắp nơi, ghi đươc nhiều hình ảnh về tình quân dân. Thật tiếc thay! Cái hình ảnh, việc làm của người chị vùng địch tạm chiếm đóng rất cảm động với chính bản thân lại không có trong những thước phim của mình. Hình ảnh ấy lưu mãi trong ký ức, chỉ của riêng mình. Hìn ảnh của người dân hướng về cách mạng.

N.Q.Đ


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:21:41 pm
KỶ NIỆM THỜI CHIẾN VỀ PHÓNG THÍCH TÙ BINH


NGUYỄN HÙNG TRÍ


Mười ngày sau khi tên lính chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ lên Đà Nẵng vào đầu tháng 3 năm 1965, ba anh em chúng tôi là những sinh viên đầu tiên của miền Bắc gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam với mục đích rõ rệt là đi B đánh Mỹ.


Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân Mỹ đã leo thang ra Bắc. Chúng đã ném bom cầu Hàm Rồng và cầu Đò Lèn. Để an toàn hơn, đoàn đi B của chúng tôi là đoàn đầu tiên được lệnh phải đi bộ từ Thanh Hoá thay vì từ Làng Ho, Quảng Bình như các đoàn trước đây. Sau 4 tháng hành quân từ Thanh Hoá, tháng 9/65 chúng tôi tới Trung ương Cục Miền Nam đóng tại Tây Ninh. Anh Nguyễn Bùi Nguyên đươc phân công về Công trường 9 (Sư đoàn 9), anh Nguyên Gia Chán về Công trường 5 (Sư đoàn 5), còn tôi về Phòng Địch vận, Cục Chính trị Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam và được phân công xuống Trại Tù Binh B20 lúc đó có 4 tù binh Mỹ và tạm giữ hai tù binh sĩ quan ngụy (ở cách biệt).


Trong số những tù binh bị bắt đầu tiên có hai tù binh George Smith (Trung sĩ) va Claude McClure thuộc Lực lượng Đặc biệt (Spécial Forces) bị bắt tại trại của những lực lượng này tại Hiệp Hòa (Long An) trong cuộc tấn công của du kích ta tháng 11 năm 1963. Trước sự đối xử chăm sóc hàng ngày của cán bộ chiến sĩ ta và những buổi do cán bộ quản giáo trại giới thiệu về lịch sử Việt Nam và các cuộc đấu tranh giữ gìn độc lập dân tộc, hai tù binh nay đã thấy và tin chính sách khoan hồng và nhân đạo của MTDTGP theo đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam. Họ được ăn đầy đủ ba bữa với khẩu phần ăn tạm đủ cho trọng lượng cơ thể họ; được phát thuốc rê, giấy cuốn và trà cho người nghiện. Vào những ngày lễ của ta, họ cũng được thức ăn đặc biệt như tất cả mọi người trong hoàn cảnh mỗi lần "đi chợ", các chiến sĩ ta phải mất hàng tuần lễ và không ít hy sinh vì phục kích, bom đạn của Mỹ-Ngụy. Hàng ngày sau khi ăn sáng, họ mong đợi được gọi với những cái tên rút gọn "Mít", "Lu" để đi theo các anh cảnh vệ làm việc đâu đó như tát suối bắt cá, cũng có khi đi đào dế cơm để về làm món ăn ưa thích là dế nướng nhồi đậu phộng... Họ trở nên quen thuộc và thích thú với các việc phục vụ cho sinh hoạt bình thường của họ trong trại như chẻ mây làm lạt, chằm lá lợp nhà, khoan cây, đào hầm ngủ chống bom, phụ kéo đất đào giếng, bổ củi giúp nhà bếp. Lần đầu tiên được giao vót chông để bảo vệ trại và cả tính mạng họ thì họ thi đua vót nhanh vót sắc. Nhiều việc họ làm khéo không kém chiến sĩ ta.


Một chuyện rất lạ trong con mắt anh em ta là toàn bộ những tù binh này đều có thói quen giống nhau là sau khi đánh răng bằng kem đánh răng, họ nuốt luôn bọt; và sau khi xoa xà phòng tắm và kỳ cọ, họ chỉ dội nước một lần cho hết bọt chứ không kỳ cọ thêm cho hết trơn xà phòng. Cách ăn của tất cả bọn họ cũng có điểm đặc biệt là ăn hết từng món, dầu mặn nhạt thế nào, thường là món mặn trước (kể cả món mắm ruốc cực kỳ mặn) sau đến rau và cuối cùng là ăn cơm không. Bữa ăn thường kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Tối tối họ lắng nghe bản tin tiếng Anh qua Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam và hy vọng nghe tin chiến tranh sớm chấm dứt. Nhiều người trong họ viết bài kêu gọi lính Mỹ chống chiến tranh, được ghi âm và phát trên đài phát thanh. Họ mong các chiến sĩ ta đi chợ về mang cho họ xà phòng thơm, kem đánh răng, thuốc rê, bàn cạo râu. Có chiến sĩ còn mua cho họ bánh mỳ khi ốm đau. Chiến sĩ ta nhiều lần đi rừng về còn mang cho hoa quả rừng, khi thì nắm quả gùi, quả trường, dâu da (những thứ quá cây rừng ăn rất ngon và nhiều vitamin), hoặc một ngọn cây lá chua, khi thì cành phong lan cắm giữa sàn chung. Họ thực sự yên tâm với cuộc sống yên ổn đó và mong chờ ngày được trao trả vào lúc kết thúc chiến tranh hoặc may mắn hơn thì được phóng thích khi có dịp. Và rồi ngày ấy đã đến.


Lúc này nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh lên cao với những hành động quyết liệt như trường hợp đốt thẻ quân dịch và thậm chí tự thiêu như trường hợp Norman Morrison, bà Alice Herz... Để đáp lại nghĩa cử đó và phối hợp với phong trào phản đối chiến tranh bên Mỹ, Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Bộ Chỉ huy QGP MNVN quyết định phóng thích 2 tù binh Mỹ để họ trở về với gia đình va phong trào của nhân dân Mỹ. Smith và McMlure được lựa chọn.


Sau khi nghe Trại trưởng đọc quyết định phóng thích hai tù binh xúc động thốt lên: "Thật không thể tưởng tượng nổi. Các ông thật là nhân đạo. Xin cảm ơn Quân Giải Phóng". Họ được phép quay về trại để báo tin mừng và chia tay với các bạn tù binh khác. Ngày hôm đó họ được chuyển ra căn nhà mới và buối tối được đến ăn chung trong nhà ăn của cán bộ chiến sĩ ta. Smith và Clure lần đầu tiên được nhìn thấy bếp lò Hoàng Cầm. Họ cũng hiểu thêm về những gian khổ của cán bộ chiến sĩ trong việc duy trì được cuộc sống của họ. Sau bữa cơm, cán bộ chiến sĩ ta tặng trà "con Hổ", thuốc lá ARA và những lưu niệm là những vật dụng cần thiết hàng ngay như đèn dầu làm bằng lo thuốc có ống dẫn bấc bằng vỏ đạn Mỹ, muỗng ăn cơm, lược làm bằng vỏ bom Mỹ, mũ tai bèo, khăn rằn miền Nam. Smith va Clure không quên mang theo tất cả đồ dùng cá nhân như bòng đựng quần áo, dép cao su, chăn màn, quần áo... Họ biết rằng đây sẽ là những kỷ niệm vô cùng quý báu cho gia đình và con cháu họ sau này.


Giờ phút chia tay đã đến. Họ lưu luyến nắm chặt tay từng cán bộ, nhân viên của trại. Họ nhìn trại trưởng Lê Huệ với đôi mắt xúc động, biết ơn.

Chiều hôm sau, đoàn chúng tôi được biết là sẽ đưa hai tù binh đó đến biên giới Căm-pu-chia để giao cho đại diện ta từ Phnôm-Pênh đón nhận. Việc hành quân từ trại trên rừng biên giới Tây Bắc tỉnh Tây Ninh đi theo hướng Tây Nam đến biên giới tính Svay-riêng (Cam-pu-chia) liên tục nhiều ngày đêm, chỉ dừng nghỉ ở những khoảng đường an toàn vì phải lo đảm bảo thời gian và bí mật nhưng cũng thật lý thú cho số tù binh được phóng thích này. Cùng vượt rừng, lội suối, vượt trảng cỏ, đồng trống, đầm lầy, khi đi sát bản làng biên giới, lúc tránh đồn địch, tránh máy bay..., họ thấy được sự phối hợp chặt chẽ, chính xác giữa các đơn vị trên tuyến đường đã qua; thấy được sự dày dạn, nhanh nhẹn tháo vát, lạc quan của cán bộ chiến sĩ quân giải phóng. Họ cũng được tham gia trong việc bắt trăn trong đầm lầy, tát mương bắt cá trên dọc đường đi để cái thiện thêm bữa ăn dọc đường. Sau 4 ngày hành quân, chúng tôi tới một đồn biên giới của Cam-pu-chia tại tỉnh Svav-riêng và giao cho đại diện ngoại giao của ta đã đợi sẵn tại đó. Smith và Clure bầy tỏ lòng biết ơn, nói: "Trong khi cho chúng tôi về nhà thì các ông quay lại chiến đấu. Chúng tôi mong góp phần sớm chấm dứt chiến tranh”.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:22:11 pm
Sau 5 tháng thẩm vấn truy hỏi và kết tội "cộng tác với địch" nhưng thất bại vì vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng cao của nhân dân Mỹ đòi trả lại tự do cho hai tù binh đã được phóng thích này, chính Tổng thống Mỹ là Giôn-sơn lúc đó phải ra lệnh cho Lục quân Mỹ thả họ về với gia đình vào tháng 4/1966. Và phải đến năm 1971 Smith mới có thể qua nhà báo nổi tiếng Donald Duncan (người phát hiện và công bố về chuồng cọp Côn Đảo sau này) giới thiệu cho công chúng Mỹ và thế giới một cách tỷ mỷ và khá trung thực (tuy còn một số đoạn chưa chính xác) về "Hai nam làm tù binh của Việt Cộng". Thực hiện lời hứa của mình trước khi chia tay, Smith và Clure đã tham gia tích cực trong phong trào cựu binh Mỹ phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Trên nhiều diễn đàn, Smith đã trở thành người nêu bật chính nghĩa và sự nhân đạo của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước.


Mấy năm sau chúng tôi lại thực hiện một cuộc phóng thích tù binh Mỹ nữa nhưng hoàn toàn khác trước.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 68 đã đánh sâu vào sào huyệt Mỹ Ngụy và bắt được nhiều tù binh Mỹ. Trong số này, một hạ sĩ quan Mỹ (da mầu) tên là Brigham bị một mảnh đạn B40 bằng hạt ngô cắm vào vỏ não bị quân Mỹ bỏ lại chiến trường ven Sài Gòn vào khoảng tháng 5/1968 đã được Quân Giải phong vượt bao hiểm nguy, cáng người tù binh thoi thóp nặng hơn một tạ này về trại tù binh Mỹ trong chiến khu ở miền Đông Nam Bộ. Chỉ trong hai ngày, sau khi tiếp nhận, ngoài việc chăm sóc, sơ cứu và bồi dưỡng đặc biệt, đồng chí trại trưởng Lê Quang Huy (hiện nay ở Bến Tre) và y sĩ Châu đã thu xếp và đưa tù binh này tới Viện Quân y K70. Tại đây, bác sĩ Viện trưởng Văn Lâm (nay là giảng viên Đại học Đông Đô, Hà Nội) và bác sĩ Châu đã tiến hành ca mổ trong vòng 3 tiêng đồng hồ, lấy ra mánh đạn và đưa tù binh giữ làm kỷ niệm. Tuy chưa thật tỉnh táo sau gây mê, tù binh cảm động nói "Thank you” trước sự vui mừng của nhiều cán bộ chiến sĩ Viện và trại đứng túc trực xung quanh.


Thực hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của Chính phủ CM lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân Mỹ qua phong trao phản chiến, Bộ Chỉ huy Quân giải phong miền Nam quyết định phóng thích va trao ba tù binh Mỹ cho Bộ chỉ huy Mỹ tại miền Nam Việt Nam tại một địa điểm trên chiến trường Tây Ninh. Đây là cuộc tiếp xúc đầu tiên, công khai và trực tiếp của đại diện Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ trên chiến trường, trước khi có Hội nghị bốn bên tại Paris nên có tiếng vang khá lớn trên thế giới.


Một tổ quay phim Quân giải phóng thuộc Cục chính trị miền B2 gồm các đồng chí Trường Sơn, Cần Kiệm và Quốc Hùng được lệnh lên đường để ghi lại toàn bộ diễn biên cuộc phóng thích tù binh Mỹ này.


Cuộc phóng thích dự định vào ngày 25/12/1968 nhưng hai bên không thống nhất được thủ tục giao nhận nên phải hoãn lại. Đúng 9 giờ sáng ngày 1/1/1969 máy bay trực thăng chở 5 sĩ quan của Mỹ hạ cánh xuống bến Tà Xiêm, Tây Ninh gặp đoàn đại diện Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam ở miền Đông Nam bộ. Do có chuẩn bị trước từ phía Mỹ nên không có một bóng máy bay nào quấy nhiễu. Đồng chí Năm Lực, trưởng đoàn Quân giải phóng tiếp nhận biên nhận của trưởng đoàn Mỹ và yêu cầu phía Mỹ không được tiến hành bất kỳ hành động chiến tranh nào trong vòng hai tiếng đồng hồ sau khi hoàn thanh trao trả. Đồng chí Năm Lực nhắn nhủ các tù binh Mỹ:"Nhân dân Việt Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam mong các ban mạnh khoẻ, sớm đoàn tụ cùng gia đình và tham gia phong trao phản chiến để sớm chấm dứt cuộc chiến tranh này ở miền Nam Việt Nam". Cả ba tù binh rất xúc động, riêng Brigham lúc này đã hoàn toàn khỏe, hô lớn "Thank you". Vậy mà sau khi trực thăng chở lính Mỹ cất cánh thì hàng chục máy bay quân sự các loại quần đảo để lùng sục tìm kiếm đường vận động về hậu cứ của ta va uy hiếp tinh thần nhân dân trong vùng.


Đoàn đã trở về hậu cứ an toàn và chỉ sau một thời gian ngắn bộ phim phóng sự “Trao trả ba tù binh Mỹ ở Tây Ninh" do anh em điện ảnh Quân giải phóng B2 thực hiện đã được chiếu rộng rãi ở các đơn vị, các bệnh viện thuộc miền Đông Nam Bộ.

N.H.T


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:23:12 pm
MỘT CƠN MƯA MIỀN ĐÔNG


LÊ VĂN VỌNG


Vào khoảng cuối mùa mưa năm 1970, bầu trời lúc nào cũng sũng nước và như thấp hẳn xuống. Mây màu chỉ sà chạm đỉnh rừng, tưởng giơ tay có thể nắm được. Những trận mưa kéo dài thâu đêm, vắt cả sang ngày. Nước dâng tràn sông, suối, chảy cuồn cuộn như thác.


Dường như còn giọt nước nào ông trời đổ nốt xuống để rồi sáu tháng sau đó lại bắt con người, cây cối phải chịu cảnh khô nắng dữ dằn.

Ngoài cái dạn dày bom đạn, những người lính miền Đông cũng phải quen với sự khắc nghiệt của thời tiết.

Căn cứ của Đại đội I, Tiểu đoàn 49 vận tải xe đạp nằm trong môt khu rừng thuộc tỉnh Phước Long. Dưới những tán cây bị mảnh bom cắt cụt, những căn hầm vẫn tỏa đều hơi ấm con người và cũng từ đây những bàn chân đêm đêm ra đi góp lửa cho chiến trường.


Biết được chúng ta đang chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô, đã hơn một tháng qua, địch tập trung đánh cắt những con đường dẫn xuống vùng giáp ranh các khu căn cứ, chi khu lớn cua chúng. Ném bom, rải chất độc, thả biệt kích v.v.... thế nhưng sức sống tuôn chảy trên những con đường chưa khi nào bị chặn. Suốt nhiều đêm chúng tôi chưa khi nào vắng mặt trong đội hình đơn vị. Có thể nói được tận mắt chứng kiến những lần vận chuyển "hàng" ra phía trước trong những ngày mùa mưa này, mới thấm thìa được nỗi gian khổ, cực nhọc của người lính vận tải miền Đông.


Những chiếc xe đạp thô sơ nhãn hiệu "Con Nai nằm", trước xe buộc một cái đèn ống bơ, thế nhưng hiệu quá của nó chẳng kém gì các phương tiện cơ giới.

Súng đạn, gạo, quân trang... chát cao lù lủ, nhìn không thấy người đẩy xe. Cả k-hôi hàng ấy cứ "Tự hành" trên đường. Không ai thồ dưới 200kg, nhiều người đạt tới con số 300, 350 và cả 400 kg nữa.

Cũng vì tính ưu việt của loại phương tiện vận tải này mà chúng ta đưa được cả những kho dự trữ hậu cần vào sát nách địch một cách bí mật, an toàn. Tôi đã có nhiều ngày được sống với các chiến sỹ xe thồ Tiểu đoàn 49, chứng kiến niềm vui và cả lúc nguy hiểm.


Đêm đêm những chiếc xe đạp "no hàng" ra đi, len lỏi giữa gốc cây, hố bom, men bờ suối, khi lên dốc, lúc xuống khe, thầm lặng, kiên nhẫn. Trong chuyến hàng đêm ấy chúng tôi đã gặp một trận mưa lớn. Cả đại đội xe thồ chở đầy hàng đạn như đi trên con đường đổ mỡ. Nhiều trường hợp cả người và xe "trôi" xuống vực. Phải xúm nhau vào, người đẩy, người kéo, người "bắt bánh"... "Trục" được xe hàng trở lại mặt đường là mồ hôi trộn máu. Lại có chỗ đất dẻo như nhựa đường, bám két, bánh xe không sao lăn được. Đi một đoạn lại dừng xe cậy đất.


Mọi lần vào thời điểm đó cả đại đội đã lên tới đỉnh dốc, dựa xe ngồi nghỉ, nhưng vì trận mưa tối, làm cho tốc độ đi bộ chậm lại. Khi người đi đầu vừa tới suối cạn, thì bom B52 đã nổ trên đỉnh dốc. Nhìn lên lửa chớp liên hồi, đất bay, cây đổ ầm ầm. Ba loạt bom B52 đã làm đỉnh dốc biến dạng, khi lần tới nơi không còn nhận ra những vị trí quen thuộc. Những thân cây đổ, vạt đất bằng, hay ụ mối mà trước đây anh em thường ngồi nghỉ sau chặng đường dài, đã bị bom đào hất. Nhìn cảnh tượng đó ai cũng thót tim.


Nếu không có trận mưa "ghìm" chân thì chắc chắn trận bom đã "hốt" gọn đơn vị rồi. Trong nỗi vui mừng thoát hiểm, mọi người đã gọi đó là cơn mưa "cứu sinh" của Miền Đông.

L.V.V


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:24:18 pm
Ở CHIẾN TRƯỜNG B2


ĐÀM THỊ LOAN


... Giữa năm 1967, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Trung ương Cục ở B2 ra Bắc họp. Trong lúc chuẩn bị lên đường trở vào B2, anh bị bệnh đột ngột mất tại Hà Nội.

Lúc này anh Hoàng Văn Thái đang trên đường từ Khu 5 ra Ha Nội thì được báo không ra Bắc nữa, mà tiếp tục vào B2 luôn. Cả đoàn biết tin đồng chí Nguyễn Chí Thanh mất quá đôt ngột, ai nấy đều đau xót, thương tiếc ngươi con trung thành của Đảng, một cán bộ lãnh đạo kiên cường, dũng cảm. Đồng chí mất đi giữa lúc cách mạng ở miền Nam đang trong giai đoạn quyết liệt, đó là một thiệt thòi lớn lao cho đất nước, cho nhân dân, cho Đảng. Mọi người không ai cầm được nước mắt vì quá đau buồn.


Trên đường vào B2 anh Thái biên thư cho tôi: "Em có thể thu xếp công tác và gia đình để vào B2 công tác được không?"

Anh biết, khi trước tôi học Trường Chính trị trung cao, có phong trào xung phong đi chiến trường tôi cũng xung phong, xin được đi chiến trường.

Được thư anh, tôi rất vui. Niềm vui được nhân đôi khi Ban tổ chức Trung ương báo tin cho tôi được vào miền Nam công tác. Tôi báo tin vui cho anh biết.

Cuối tháng 7 năm 1967, tôi được cấp trên đồng ý cho vào B2 chiến đấu. Việc này tôi có tâm sự với một vài chị em cùng có chồng công tác ở B2. Các chị nói với tôi:

- Chị Loan có anh Thái công tác ở B2 rồi, chị nên nghĩ cho kỹ, ở ngoài này chị vừa công tác, vừa chăm lo cho các cháu, để anh yên tâm công tác thì tốt hơn. Phải tính khả năng xấu nhất, nếu cá hai vợ chồng không may hy sinh, tội nghiệp cho các cháu quá.


Ý kiến của các chị cũng làm tôi suy nghĩ. Các chị phát biểu chân thành quá. Nghĩ đến cánh cả hai vợ chồng đều không may hy sinh để cho các cháu ở ngoài nay mồ côi cả cha lẫn mẹ, tôi lại thấy phân vân. Nhưng rồi tôi tự nghĩ, từ trước tới nay, việc sống chết biết thế nào mà lường được? Nếu rủi ro mà chết thì chết vì độc lập tự do, thống nhất đất nước, không có điều gì phải ân hận. Các con tôi sẽ không mồ côi, chúng sẽ được sống trong vong tay âu thương của Đảng và Bác Hồ.


Việc con cái, tôi phải sắp xếp cho chu đáo để bán thân nhẹ nhàng mà yên tâm lên đường.

Đầu tháng 11 năm tôi lên đường, cùng đi trong đoàn có đồng chí Quang ở cục Quân báo, đồng chí Điện ở Cục Tác chiến và bảy đồng chí nữa. Không phải nói đến những nhọc nhằn gian khổ trên đường Trường Sơn, mặc dầu đoàn tôi ít người. Sáng dậy sớm lên đường, tôi nghỉ tại các trạm giao liên; trên đường vào đến trạm cuối cùng của đường dây 559 là quá vất vả, mệt nhọc. Vao đường dây của B2, chúng tôi được nhận mỗi người một xe đạp. Đi xe đạp trên đường mòn Hồ Chi Minh là một điều thật thú vị, nhưng phái là người quen thuộc đường và phải biết phanh xe băng chân mới bảo đảm an toàn. Tôi chỉ quen dùng phanh tay, chưa quen phanh chân, nên có lần suýt chết. Hôm ấy xe đang lao xuống dốc vun vút, tôi mất bình tĩnh nên quên nghĩ đến phanh chân, xe cứ lao xuống, phanh tay không làm sao giữ được, sống chết trong gang tấc. May quá, có một đồng chí đang ngồi nghỉ chạy ra, nắm xe giữ lại. Thật là hú vía. Bấy giờ xuống xe, tôi mới tin là thoát nạn và cảm ơn đồng chí đã giúp đỡ tôi lúc quá nguy hiểm, ở chiến trường là như thế. Trước những khó khăn nguy hiểm tới tính mang bất kể ai cũng sẵn sàng xả thân vì đồng đội. Tôi ân hận vì cho đến nay, không hỏi được tên và đơn vị của đồng chí đó.


Đầu tháng 2 năm 1968, tôi đến Cục Chính trị Miền. Anh Hai Chân, Cục trưởng Cục Chính trị, anh Ba Lưu, Ba Thắng, anh Tám Trần và một số anh chị em trong cơ quan đến thăm hỏi chuyện trò rất vui. Trình giấy tờ với phòng Cán hộ xong, tôi xin phép sang Bộ chỉ huy thăm nhà tôi. Giữa nơi chiến trường ác liệt gặp lại nhau, chúng tôi xiết bao vui mừng. Nhà tôi bấy giờ lấy bí danh là Mười Khang.


Anh Thái giới thiệu tôi với một số anh em trong Bộ Chỉ huy Miền và các anh chị em khác trong cơ quan. Thấy tôi vào an toàn mạnh khoẻ, mọi người tỏ ý vui mừng. Anh Thái bấy giờ là Phó Bí thư Trung ương cục, vừa phụ trách Bộ Chỉ huy nên rất bận. Dạo ấy đang giữa mùa chiến dịch tổng tấn công Tết Mậu Thân. Tôi chỉ ở lại hai ngày, tôi kể cho anh nghe tình hình gia đình, con cái, anh em bạn bè... Anh rất vui khi nhận được thư các con. Tính anh vẫn vậy, dù bận đến đâu, nhưng hàng tháng anh vẫn dành thì giờ biên thư động viên các con chăm học, ngoan vâng lời thầy cô và các cô chú. Sau đó tôi trở lại phòng Cán bộ nhận công tác ngay. Tôi được phân công làm công tác chính sách: lo chuyện hậu phưong cán bộ và công tác bảo dưỡng dưới sự chỉ huy của đồng chí Bảy Phương, phụ trách phòng Cán bộ; đồng chí Thanh Đồng phụ trách Ban chính sách.


Hôm sau có môt đồng chí bên cơ quan Bộ Chỉ huy sang gặp tôi. Đồng chí nói:

- Chúng tôi muốn chị Mười sang công tác bên cơ quan Bộ Chỉ huy. Chị ở đây rất tiện, vừa công tác, vừa góp phần chăm sóc sức khỏe cho anh Mười thêm. Ý kiến chị thế nào?

- Tôi không muốn hai vợ chồng cùng công tác một chỗ, nhất là chồng tôi lại là chỉ huy. Vả lại tôi làm công tác này quen rồi. Tôi rất cám ơn sự quan tâm của của các đồng chí, nhưng mong các đồng chí thông cảm cho.

Công tác hậu phương, bảo dưỡng cán bộ ở trong này gặp nhiều khó khăn hơn ở Hà Nội. Vì bộ phận này người thì ít, chỉ có ba người, đối tượng chăm sóc lại đông, trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ. Bộ phận tôi phải phụ trách ba cục (Chính trị, Tham mưu và Hậu cần), các sư đòan và các tỉnh đội. Ở chiến trường đời sống rất khó khăn, có được gạo là tốt lắm rồi. Mỡ, thịt, cá đều là xa xỉ và rau lại là quý hiếm. Công tác chăn nuôi, trồng trọt rất được các đơn vị quan tâm, nhưng bị máy bay địch săn lùng dữ quá. Phát hiện được một mảng rưng được phát quang để trồng trọt và máy bay địch bắn phá liên tục cho đến khi tan nát mới thôi. Hơn nữa do yêu cầu giữ bí mật, đề phòng địch tập kích, cơ quan đổi chỗ luôn. Thuốc men chủ yếu trông cậy vào sự chi viện của miền Bắc, cũng may mà hàng của miền Bắc gửi vào đều đặn và kịp thời. Không những chỉ có thuốc men mà còn cả súng săn để phát cho các đơn vị tổ chức săn bắn, cải thiện thêm đời sống vật chất.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:25:29 pm
Ở chiến trường B2 ngại nhất mùa mưa. Vì mùa mưa là mua sức khoẻ của cán bộ và chiến sĩ sút kém nhất trong năm. Nhưng mùa mưa cán bộ lại hay về họp. Biết vậy, tôi đề nghị cấp trên tranh thủ bồi dường cho cán bộ ăn uống, thuốc men luôn trong thời gian họp, để họp xong, các đồng chí có sức khoẻ khá hơn để về chiến đấu.


Giữa năm 1968 anh Thanh Đồng sốt xuất huyết, chỉ có năm ngày anh mất. Tôi làm cả phần việc của anh. Thời kỳ này thật là bận, có hôm cán bộ các đơn vị mười một, mười hai giờ đêm mới về đến nơi rồi lại phải đi ngay. Thế là, phải giải quyết các mục bảo dưỡng luôn cho các đồng chí để kịp thời bồi bổ sức khoẻ. Tuy bận rộn, nhưng công việc vẫn trôi chảy vì đươc sự ủng hộ của cán bộ trong cơ quan.


Từ đầu năm 1969 tháng nào cũng vậy tôi đều có qua Cục Tham mưu làm việc với phong Cán bộ về việc bảo dưỡng. Hôm ấy là mồng 2 tháng 9 năm 1969, làm xong việc tôi ghé sang Bộ Chỉ huy thăm anh Thái. Lấn này không thấy anh vui như mọi khi, tôi đoán hoặc là anh ốm, hoặc ở Miền có chuyện gì rắc rối. Tôi hỏi anh mới biết ở Hà Nội điện vào, Bác Hồ ốm rất nặng, và đến trưa thi được tin: Bác mất!!! Tất cả lặng im, rồi mọi người khóc sướt mướt. Tôi có nín khóc mà nước mắt cứ chảy giàn giụa. Ai đó thốt lên tiếng nói:

- Bác ơi, chúng cháu chưa tròn nhiệm vụ đón Bác vào thăm đồng bào miền Nam. Nay Bác đã đi rồi, làm sao đây!

Thế là tất cả không kìm được nữa, oà khóc nức nở thành tiếng. Tôi vừa khóc vừa ra về.

Trước tình hình chung như thế, Cục Chính trị thấy không có lợi, nhất là đối với các đồng chí sắp ra mặt trận, bèn triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để kịp thời lãnh đạo tư tưởng, ổn định tinh thần cho anh em. Nếu không, có khả năng sẽ làm giảm sút sức chiến đấu, và cũng có thể tạo điều kiện cho địch thừa cơ đánh lấn tới.


Ngày mùng 9 tháng 9 năm 1969 tất cá hơn sáu trăm cán bộ và chiến sĩ thuộc Bộ Chỉ huy và ba Cục tổ chức lể truy điệu Bác. Buổi sáng mùa thu lặng gió. Từng đoàn người lặng lẽ tiến vào một khu rừng rậm rạp, đường vào gập ghềnh để đến lễ đài tưởng niệm. Bộ Chỉ huy có đủ mặt các anh Thái, anh Trà, anh Tấn, anh Độ... Người đông như thế mà khu rừng thì im phăng phắc, chỉ có tiếng khóc nức nở và những tiếng nấc bị ghìm nén lại. Lời điếu văn truy điệu vừa dứt, đáp lại lời kêu gọi của Bộ Chỉ huy Miền là những tiếng hô "xin thề" vang như sấm dậy. Quyết tâm biến đau thương thành sức mạnh, đánh cho kỳ được “Mỹ cút, ngụy nhào", để cho Bắc Nam xum họp một nhà.


Bác mất, đau thương ấy đến với chúng tôi bất ngờ quá, và nỗi mất mát lớn quá. Ai cũng cảm thấy mình có lỗi với Bác. Cả cuộc đời Bác dâng hiến cho dân tộc, mà cho đến khi ra đi, một nguyện vọng quá ư giản dị của Bác là được gặp gỡ đồng bào miền Nam cũng không thực hiện được.

- Bác ơi! Thế là hy vọng ngày chiến thắng hoàn toàn, trở về Hà Nội báo cáo với Bác là chúng cháu đã hoàn thành nhiệm vụ Bác giao không còn nữa.

Cơn choáng váng đã qua đi, chúng tôi lao vào công tác với một quyết tâm mạnh mẽ đúng như lời hứa trước hương hồn Người. Một mặt lo cho một số cán bộ vào địch hậu hoạt động, một mặt lo cho một số cán bộ ra mặt trận và dành nhiều thời gian cho việc đưa một số cán bộ và phần lớn anh em thương bệnh binh ra Bắc điều trị. Đây là một nhiệm vụ rất lớn đối với Ban tôi.


Trước hết phải đưa tất cả thương bệnh binh không còn khả năng chiến đấu ra trước. Đi bằng đường bộ, một số không đi được, thì bố trí người khiêng.

Còn lại có thể đi bộ từng chặng ngắn rồi nghỉ, có bác sĩ y tá đi theo chăm sóc. Chủ trương này được thực hiện nhanh chóng. Các binh trạm trên đường dây chấp hành các quy định khá nghiêm túc, nên nhìn chung, việc đưa thương bệnh binh ra Bắc đã chót lọt và không có tổn thất gì nghiêm trọng.


Ở chiến trường B2 không lâu bằng các đồng chí khác, nhưng những ngày gian khổ nhất tôi cũng đã trải qua. Tôi còn nhớ dạo đầu năm 1970 vấn đề gạo là khó khăn nổi cộm nhất toàn Miền. Tình hình biên giới không ổn định, máy bay địch oanh tạc nhiều, gạo không chuyển về được. Vòng vây của địch ở đồng bằng quá chặt nên gạo ở vùng địch hậu cũng không lên được. Mọi ngươi phải ăn ngô bung thay cơm. Có thêm muối là đã quý chứ đừng nhắc đến thịt, cá. Do đó cán bộ ốm đau quá nhiều, bệnh sốt huyết phát triển. Có nhiều đồng chí sốt vài ngày đã bị đi tiểu ra máu. Tình hình này lam công tác bảo dưỡng cán bộ gặp quá nhiều khó khăn. Tiền không thiếu, nhưng thiếu hiện vật, và ở trong rừng bây giờ hiện vật quý hơn tiền. Thấy công việc của tôi tuv không nguy hiểm, ác liệt, nhưng suốt ngày và có khi cả đêm nữa cũng vất vả nên cấp trên ưu tiên cho phép chỉ làm việc chuyên môn, các công tác khác được miễn. Nhưng tôi nghĩ về sức khoẻ, tôi có thể cố gắng tham gia được với anh em các mặt công tác khác. Có đồng cam cộng khổ với nhau thì mới dễ gần nhau, hiểu nhau và từ đó có thể xoá bỏ được một số định kiến hẹp hòi trong vấn đề Nam - Bắc.


Tôi cũng tham gia làm nhà, đào hầm, đi tải gạo hàng chục cây số. Cuộc sống tuy có gian khổ song thật chan hoà thân ái, lúc rỗi rãi còn tổ chức ca hát như thời còn trẻ ở Việt Bắc.

Tôi còn nhớ một hôm vừa đi xem phim về, khoảng mười hai giờ đêm, có lệnh báo động di chuyển ngay để tránh khả năng bị B52 oanh tạc. Chúng tôi đi suốt đêm trong mưa tầm tã, tay chân lạnh cóng, cứng nhắc, ngồi xuống phải nhờ người đỡ, đứng lên phải nhờ người kéo tay. Rồi lại phải vượt sông. Anh em biết bơi buộc thừng vào cổ tay chị em rồi cầm dây bơi qua trước, đến nơi thì kéo chị em sang. Ba lô súng đạn bọc vào ni lông, túm lại buộc chặt làm phao. Xe đạp cũng nhờ anh em kéo sang. Gian khổ hết chỗ nói, nhưng mỗi lần vươt qua lại quên hết, cùng nhau đùa vui, cười vang như là không có chuyện gì xảy ra. Tôi đã được sống lại không khí của những ngày ở chiến khu Việt Bắc năm xưa...

Đ.T.L


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:08:29 pm
TRƯỚC LÀN ĐẠN NHỌN


NGUYỄN QUẾ


Trước khi chúng tôi về thì Xưởng phim gặp một biến cố, biệt kích đột nhập vào đơn vị lúc vắng người, bắn chết mấy anh em, trong đó có anh Phạm Tranh, nhà nhiếp ảnh kỳ cựu. Chúng tôi chưa có dịp gặp anh, sau này nhìn lại những tấm ảnh anh chụp được đăng báo Quân đội Nhân dân mới hình dung phần nào trình độ nghề nghiệp của anh. Thật đáng tiếc cho chúng tôi không có may mắn được chung sống với anh để học hỏi thêm.


Qua năm 1966 có hai nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp cùng về công tác với chúng tôi. Hai anh em này tính khí khác nhau. Nguyễn Văn Năng quê ở Thái Bình, tính tình nhu mì, ít nói, chỉ lắng nghe, nghe đâu nhớ đấy, trí nhớ tốt đến độ tôi phát sợ, đúng hơn là kính nể. Sau chiến dịch trở về, anh em túm tụm uống trà, ăn đường tán, nói cười như pháo nổ, Năng ta cứ lẳng lặng, lâu lâu cười tủm. Bom đạn ác liệt, Năng ta vẫn thế. Ngoài chiến trường chụp được kiểu ảnh ưng ý, lại cười tủm. Mùa mưa năm 1968, trong một trận đánh ở Tây Ninh, Năng chạy ngang với bộ binh và… tôi không bao giờ gặp lại nụ cười tủm của Năng nữa. Bây giờ trong các tấm hình tư liệu lưu trữ còn có tên tác giả nhiếp ảnh Nguyễn Văn Năng nữa hay không, tôi không rõ, nhưng trong tâm trí tôi đó là mộ nhiếp ảnh viên có trình độ chuyên môn cao, người đồng chí tốt.


Ngược với tính nết của Nguyễn Văn Năng, anh Nghiêm Hà quê ở Hải Phòng, đi đến đâu thì như "lân đớp pháo" đến đó, vui như hội. Về chuyên môn của anh thì tôi khỏi nói vì khi về đến nơi anh được bổ nhiệm ngay làm tổ trưởng tổ nhiếp ảnh. Và từ khi có anh, hình ảnh chụp về đã vượt qua tính chất tư liệu, trở thanh báo chí và có lúc đạt trình độ nghệ thuật. Mùa mưa năm 1968, Nghiêm Hà ra mặt trận vào Sài Gòn và đã để lại một phần bàn tay phải của mình. Từ đó anh thôi không đi mặt trận nữa, nhưng vẫn tiếp tục hướng dẫn các thế hệ nhiếp ánh tiếp nối. Với giọng nói oang oang, tiếng cười giòn giã của anh trong những năm tháng ở rừng quả là quý báu và cần thiết, miễn là khi báo động có biệt kích hoặc đi qua vùng có máy dò tiếng động thì: “Nghiêm Hà ơi, bé bé cái mồm kẻo chết cả lũ".


Xin nhắc lại đầy đủ, ba anh nhiếp ảnh từ miền Bắc vào chi viện cho Quân giải phóng B2, ba người có học vấn và trình độ nghề nghiệp cao, có kinh nghiệm công tác báo chí trên Miền Bắc: Pham Tranh, Nguyễn Văn Năng, Nghiêm Hà. Ba ngươi vào thì hai hy sinh, một bị thương nặng. Những bức ảnh chiến tranh mà chúng ta còn xem được ngày hôm nay đã phải trả giá bằng cái giá như thế.


Từ năm 1969 trở về sau, đội ngũ nhiếp ảnh ngày càng đông và thành thạo nghiệp vụ, ít nhiều đều do Nghiêm Hà đào tạo. Hai mươi hai năm sau, chiến tranh kết thúc, đội ngũ đó có người chuyển nghề, có ngươi còn đeo đẳng với nghề nghiệp và đạt đỉnh cao của cuộc đời, chắc nhiều người còn nhớ đến ông thầy của thời vỡ lòng.


Người quay phim của Xưởng phim chúng tôi ngã xuống sớm nhất trước làn đạn nhọn của quân thù có tên Nguyễn Phú Thạnh, hy sinh vào mùa khô 1966. Tôi chưa có dịp gặp anh, nhưng một duyên may khiến tôi ghi nhớ về anh đến tận bây giờ. Khi tôi về đến Miền Đông thì anh Phú Thạnh cùng với Lê Tiễt và Dương Tôn Báo đang đi làm phim ở Sư đoàn 5. Chưa được mấy hôm thì Lê Tiết đem phim sống xuống Sư đoàn 5 cho Phú Thạnh và cùng với đoàn tiếp tục làm phim. Chưa kịp ra đi thì Dương Tôn Báo trở về buồn thiu báo tin, trong một trận đánh giao thông, Phú Thạnh xung phong cùng xung kích đứng trên ụ gò mối để lấy toàn cảnh thi lãnh nguyên một trái M79. Tôi nhận cùng với Dương Tôn Báo và Lê Tiết dựng phim về những chất liệu anh Phú Thạnh quay được. Nhờ đó tôi mới biết thêm ở Miền Đông có núi Mây Tào, ga Gia Huynh, ga Trảng Táo... những cảnh quay của anh chững chạc như đặt trên chân máy, nội dung từng cảnh đâu ra đấy, có con người, có bối cảnh rõ ràng rành mạch. Sau này xem các phim của anh Trần Nhu thì thấy rõ ràng thầy nào trò nấy, Phú Thạnh đã học được nơi người thầy của mình, những cốt lõi ngữ pháp ngôn ngữ điện ảnh và thực hiện một cách nhuần nhị ngay cả dưới làn đạn nhọn. Hay nói một cách khác, trong khi hai bên bắn nhau túi bụi, khói bụi mù mịt, đất cát lấm lem, người lính trông như củ khoai vừa bới dưới ruộng lên, vừa hành tiến đứng lên, chạy tới, nằm xuống núp đạn, vừa quan sát, vừa bắn, người quay phim cũng làm như vậy, nhưng cảnh quay của anh không rung không lắc, bấm máy đúng lúc và ngưng máy khi nội dung vừa đủ. Phú Bằng, nhà báo thân hữu của chúng tôi có nói "Quay phim là những phóng viên viết sách trên bảo thảo của mình dưới làn đạn nhọn”. Câu nói đó hoàn toàn đúng cho trường hợp của Phú Thạnh và là mục tiêu phấn đấu của chúng tôi. Tinh thần anh dũng của người quay phim là ở chỗ đó.

Vũ Thập là một nhà quay phim giỏi.

Câu nói đó không phải từ ông giám đốc Xưởng phim mà từ đồng nghiệp của chúng tôi công nhận. Tốt nghiệp cấp ba hệ chín năm, Vũ Thập vào bộ đội. Ngày ấy, những đầu năm 1950, trong một trung đoàn, số quân nhân có bằng thành chung, tú tài hiếm lắm, đếm được trên đầu ngón tay. Sau này Thập được quân đội gửi đi học đại học. Đó là một chàng trai nhanh nhẹn, khỏe mạnh và thông minh. Trong đợt Mậu thân, chủ lực ta đột nhập vào Sài Gòn hướng quận 6, Thập và Dương Phước An - một người quê Ninh Bình, một người quê Quảng Trị - cặp quay phim thành công nhất trong giới chúng tôi. Ngay ấy lực lượng ta đột nhập vào Sài Gòn chưa đủ mạnh để áp đảo địch. Vũ khí chỉ có B40 và AK với cơ số đạn trên lưng, di chuyển tung hoành vào ban đèm, sáng ra là thiên về phòng ngự. Trong khoảnh khắc bình minh ngắn ngủi (từ 5g00 đến 6g00 sáng), hai anh em đã tranh thủ quay được những cảnh tuyệt vời mà trong lịch sứ chống Mỹ cứu nước chẳng có nhà quay phim nào quay được.


Mùa mưa năm 1968, còn gọi đợt 8 Mậu Thân, vết thương phần mền mới lên da non, Vũ Thập lại tham gia trận phục kích vận động trên quốc lộ 22 đoạn Trảng Bàng. Nhanh nhẹn và dũng cảm đã đem lại cho anh những kết quả mà không mấy ai đạt đươc. Một chú lính Mỹ đưa tay đầu hàng ngay tại trận. Chú là lính lái xe, cùng với khẩu Rouleau sáu viên chưa bắn phát nào khi giao nộp. Sau này trong trại tù binh có dịp quay phim là hắn ta luôn miệng cảm ơn ông quay phim vì hy vọng hình ảnh này sẽ phát lên truyền hình Mỹ, má y có dịp xem để tin rằng y còn sống. Chú lính Mỹ gốc Mêhicô này còn nhờ tôi chuyển lời cảm ơn đến ông quay phim ngoài mặt trận (Vũ Thập) đã cho y những kiến thức cần thiết để tránh đạn của đồng đội y. Một thành công thứ hai của Vũ Thập là một cảnh quay bộ đội ta bắn đại liên (tiền cảnh) xung kích chạy lên (trung cảnh) và xa xa là xe Mỹ (bối cảnh). Gần 30 năm rồi tôi vẫn còn nhớ lại, đêm đó, trong rừng Tây Ninh, mưa lắc rắc cuối mùa, khi chiếu phim nháp đến cảnh này, tất cả chúng tôi, quay phim, nhiếp anh, dựng phim, đều vỗ tay hoan hô. Còn Vũ Thập lúc đó đang nằm trong quân y viện. Trận này anh bị thương, vết thương buộc anh phải giã từ quay phim, trở thành cán bộ huấn luyện cho đến khi trở về nghỉ.


Ngược lại với Vũ Thập sôi nổi, vui vẻ. Dương Phước An thâm trầm, kín đáo nhưng anh không xa cách mọi người. Sức mạnh nội tâm đã thuyết phục được giám đốc xưởng cử anh đi Bến Tre để làm một phóng sự về vùng đất này trong giai đoạn chiến tranh cục bộ. Bến Tre thời đồng khỏi đã được miêu tả nhiều trong một số phim. Những năm đó, Bến Tre là đất thánh của cách mạng Miền Nam, đến Bến Tre là mơ ước của nhiều phóng viên chúng tôi. Tôi không kể lại đây những gian truân vượt đồn bốt, sông rạch của chuyến đi mà chỉ ghi lại câu chuyện tình cảm. Giọng Quáng Trị của anh ở đất Bến Tre gây chú ý cho nhiều người. Một tối xong việc ngồi chơi thì một du kích địa phương đến thăm hỏi Dương Phước An. Sau khi thăm hỏi quê quán của An, người du kích đòi An thưởng một xị rượu đế. Đòi cho vui vậy thôi, anh ta kể:

“Trước đây, khi anh ta đi quân dịch bị điều động ra vùng 1 chiến thuật (tức Thừa Thiên – Quảng Trị) có đến thăm viếng nhà dân. Nay nghe An nói đúng tên xóm láng người thân trong nhà, anh ta đã xác định rằng anh ta đã đến đúng nhà An. Biết được trên 10 năm nay, An không có tin tức gia đình, anh ta chỉ cung cấp vài chi tiết là bố mẹ An vẫn sống mạnh giỏi và chị vợ An vẫn chờ An không đi lấy chồng. Chị ta đứng đắn, có vẻ như người hoạt động cho cách mạng đằng mình".


Chỉ biết được bấy nhiêu thôi là Dương Phước An đã quá mừng. Sau chuyến đi Bến Tre về, anh vui vẻ cởi mở hơn trước. Còn toàn bộ hình ảnh chuyến đi Bến Tre 1967 đó chưa kịp in tráng thì An tham dự Mậu Thân và hy sinh. Công tác biên tập năm đó không có ai trông nom nên phim cất kho luôn, sau này tôi chỉ nghe anh em kể lại một số cảnh quay mà chặc lưỡi hít hà!


Tôi chỉ công tác chung với Dương Phước An có hơn 4 năm, từ Hà Nội đến rừng Tây Ninh và đã cách biệt nhau ngót 30 năm rồi, nhưng giọng nói, dáng đi, cảnh quay của Dương Phước An vẫn còn rõ mồn một trong tâm trí. Nếu sức mạnh nội tâm của An thuyêt phục được ông Cố Hỷ giám đốc Xưởng phim Quân giải phóng để được đi Bến Tre rồi nhận tin nhà qua một người từng là lính ngụy, vui niềm vui ngắn ngủi trong 3 tháng cuối đời, rồi ngã xuống trên nẻo đường giao liên, nơi cánh rừng tràm Ba Thu, thì âu ra ký ức tôi chưa phai mờ về anh có lẽ cũng do sức mạnh tâm linh đó.


Hàng chục năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chị Lê Thị Muộn, vợ liệt sĩ Dương Phước An sau khi liên lạc được với tôi về việc tìm hài cốt chồng thì có nhờ cháu gọi điện thoại từ Quảng Trị vào Thành phố Hồ Chí Minh rằng chị quá già yếu không thể đi nổi. Hài cốt của Dương Phước An đã hoà cùng cỏ cây đất nước, non sông này.

N.Q


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:09:26 pm
CHIẾC DÉP LỐP


NGÔ QUANG ĐẠT


Hai tổ quay phim Vũ Thập và Trọng Hội, Nguyễn Quế và Quang Đạt được phái xuống Trung đoàn 3, Công trường 9 (nay là Sư đoàn 9 và Trung đoàn 3 đã tăng cường về Quân khu 9).

Địa bàn hoạt động của Trung đoàn là vùng chiến khu D, nó là một vùng rừng già sát Biên Hoà và Bình Dương. Rừng triền miên chạy dài lên tận biên giới.

Chúng tôi được điều xuống Đại đội X, Tiểu đoàn Y (vì quá lâu nên không nhớ tên chính xác). Đại đội được giao nhiệm vụ tiêu diệt trung đội địch canh gác án ngữ trên quả đồi cách thị trấn Tân Uyên chừng 3 km. Quy luật hoạt động của địch là sáng sớm từ thị trấn lên, chiều rút về.


Nửa đêm đơn vị đã chiếm lĩnh trận địa xong. Vũ Thập, Trọng Hội đi với Trung đội đánh chính diện, tôi và Nguyễn Quế đi với Trung đội đánh khoá đuôi. Nguyễn Quế đã nhường cho tôi quay phim trận này.

Khi trời sáng rõ, chúng tôi đã được biết tin chúng đang từ thị trấn đi lên. Nửa giờ sau toán quân đầu tiên của địch đã chui vào trận địa phục kích. Chúng đi hàng một nên đội hình lê thê. Sốt ruột hồi hộp chờ đợi cho địch đi sâu vào trận địa, chúng tôi dán mình vào mặt đất, như những con kỳ nhông rình con mồi, im lặng đến nghẹn thở. Sự căng thẳng được phá tan bởi tiếng nổ của B40 và súng máy từ phía Trung đội chặn đầu. Mặc dù đội hình chung chưa lọt gọn vào hết, Trung đội khoá đuôi vẫn phải nổ súng. Đó là hợp đồng theo tiếng súng. Chúng bị bất ngờ nên hoảng hốt vội vàng cùng nhau ù té chạy.


Tiếng hô xung phong hoà lẫn trong tiếng súng. Tôi mải bấm máy nên lẹt đẹt chạy theo sau các chiến sĩ. Xuống hết đồi, tôi tới một cánh đồng, vắt ngang qua cánh đồng này là một con đường ôtô; địch chạy toán loạn trên cánh đồng và sự truy đuổi của bộ đội cũng ráo riết. Súng nổ khắp nơi, cảnh rượt đuổi thật ngoạn mục đã hút chặt lấy ống kính của tôi. Đám tàn quân cố sống dốc sức chạy lên con lộ. Chúng tôi cũng chạy theo, gần tới lộ bỗng nhiên chiếc dép lốp của tôi bị bùn giữ chặt lại dưới ruộng. Đúng lúc đó phía trước trên con lộ đột nhiên xuất hiện một chiếc xe ZEP lao thẳng đến. Không thể một lúc làm được hai việc, tôi dán mắt vào kính ngắm bấm mấy cảnh chiếc xe xấu số này bị hai chiến sĩ ta xả đạn AK tới tấp. Tôi chỉ kịp nói: "Anh Quế! Lấy cho tôi chiếc dép ở dưới bùn".


Xe cháy, không còn một bóng địch cũng là lúc được lệnh rút quân. Đánh nhanh rút nhanh đó là chiến thuật. Đường về chúng tôi phải băng qua một cánh rừng đầy cây găng va gai mắc cỡ. Pháo địch phản kích bắn chặn đường rút quân của ta nổ rầm rầm khắp nơi. Về đến căn cứ điểm quân, Đại đội trưởng hỏi:

- Có ai sao không?

- Trung đội một an toàn.

- Trung đội hai an toàn.

Đồng chí y tá đang khều gai ở bàn chân tôi bỗng cất lên:

- Báo cáo Đại đội Trưởng, đơn vị phối thuộc có một bị thương.

Ngạc nhiên, Đại đội trưởng hỏi lại:

- Đơn vị nào phối thuộc hả?

- Báo cáo đơn vị quay phim.

Anh vội quay lại chỗ tôi vừa đi vừa hỏi:

- Đồng chí phóng viên bị thương sao hả?

Tôi vội đáp nhanh:

- Báo cáo tôi bị thương bởi gai mắc cỡ.

Cả đơn vị cười ầm lên vui vẻ vì trường hợp bị thương đặc biệt này.

Chân đau tôi chợt nhớ đến dép vội hỏi ngay:

- Anh Quế có lấy dép cho tôi không?

- Đây nè, tụt mất một quai mà!

Tôi sung sướng thầm cám ơn anh vì đã đem thần hộ mệnh về cho đôi chân vạn dặm của tôi. Đem một chiếc dép từ trận địa về cho bạn là việc làm đầy tình yêu thương đùm bọc của đồng đội.

Bây giờ tôi và anh cũng ngoài lục tuần cả. Trở về với đời thường, Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cách nhau xa, nhưng tấm lòng vẫn gần nhau. Những kỷ niệm xưa đã ghi tạc khắc sâu trong ký ức.

Không quên được: Một thời tuổi trẻ - Một thời chinh chiến!

N.Q.Đ


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:10:16 pm
MỘT LẦN VƯỢT QUA ĐỒNG THÁP MƯỜI


VŨ VĂN LƯƠNG


Sau đợt III của cuộc tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chúng tôi từ miền Đông Nam Bộ xuống Đồng bằng Sông Cửu Long, thực hiện quay phim tư liệu ghi lại một số hình ảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân miền Tây Nam Bộ.


Đoàn quay phim chúng tôi gồm các đồng chí: Trần Cần Kiệm, quê ở Cần Thơ, Hồng Hải (nhiếp ảnh), quê ở Long An, Ba Rô ở Bến Tre và tôi từ miền Bắc vào. Chúng tôi được bố trí cùng đi theo một tiểu đoàn chủ lực của Quân khu, từ biên giới Việt Nam Campuchia vượt qua Đồng Tháp để rồi về tỉnh Mỹ Tho. Đây là 1 chuyến đi "đặc biệt, hiếm có", với chặng đường hành quân dài ngày, với trang bị máy quay, phim nhựa, lương thực, vũ khí, qua nhiều vung căng thẳng gay go phức tạp mà chúng tôi chưa lường trước được.


Bộ phận trinh sát của tiểu đoàn được cử đi trước... Sẩm tối hôm đó, cùng với đội hình của tiểu đoàn, chúng tôi bắt đầu vượt qua Đồng Tháp Mười. Hồi ấy đang là mùa khô, trên vùng đất Đồng Tháp nứt nẻ là những đám cỏ của mùa nước trước rất cao, nay đã khum xuống thành những vòm nho nhỏ giữa cánh đồng bát ngát.


Rất không may là bộ phận trinh sát lại bị lọt vào ổ phục kích đón lõng của bọn lính ngụy; Qua đó chúng phán đóan ta có 1 lực lượng lớn đang di chuyển về đồng bằng.

Chúng tôi hành quân suốt đêm gần đền sáng thì tới bờ kênh Ngang.

Lệnh của tiểu đoàn là: “Tất cả không được nghỉ lại ở bờ kênh mà phải phân tán chui nấp dưới những lùm cỏ khum khum ở ngoài đồng.

Chúng tôi lo lắm! Ở giữa đồng nhỡ địch phát hiện lấy đâu địa hình địa vật mà chiến đấu? Nhưng lệnh là phải chấp hành và cũng như toàn tiểu đoàn, đoàn quay phim chúng tôi chia nhau chui vào các lùm cỏ, và thu xếp chuẩn bị sẵn sàng rồi lấy gạo rang ra nhấm nháp… Đồng chí Cần Kiệm ghé tai hỏi nhỏ: “Cậu có sợ không Lương? " - Quả thật là sợ song không còn cách nào khác!".


Khoảng 8 giờ sáng các loại trực thăng của Mỹ-ngụy bắt đầu hoạt động, chúng bay dọc kênh Ngang, loại trực thăng “cá lép” quần đảo thay nhau phóng "rốc két”, loại trực thăng “cá rô" lượn đi lượn lại dòm ngó, thỉnh thoảng ném lựu đạn xuống xăm hầm hòng tìm ra dấu vết của tiểu đoàn nhưng tất cả anh em bộ đội đều bình tĩnh ẩn nấp, im lặng, giữ nghiêm kỷ luật bí mật không để lộ.


Từ sáng đến chiều hết đợt máy bay này đến đợt khác chúng cũng chẳng phát hiện tìm kiếm được gì và khoảng 4 giờ chiều chúng chuồn về hết - Toàn tiểu đoàn đều an toàn.

Suốt cả ngày hôm đó chúng tôi chỉ ăn gạo rang và uống nước lã nhưng rất vui - Qua đợt hành quân đó, tôi mới hiểu rõ yếu tố bất ngờ về quân sự và cách xử trí thông minh của những người lính Nam Bộ đã thắng địch...


Đêm đó chúng tôi lại tiếp tục hành quân về đến vị trí an toàn rồi chia tay với tiểu đoàn chủ lực của Quân khu và sau đợt đó chúng tôi đã quay được khá nhiều hình ánh giá trị về quân dân Đồng bằng Cửu Long chống cuộc chiến tranh "Việt Nam hoá" của bè lũ Mỹ-ngụy.

V.V.L.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:11:10 pm
XUÂN ẤY – DƯỚI VƯỜN MĂNG CỤT LÁI THIÊU
(Nhân dịp kỷ niệm 30 năm – Tổng tiến công và nổi dậy 1968)


ĐÌNH THỊNH


Mùa Xuân 1968, tôi cùng đi với Trung đoàn 12 - Công trường 7 (Sư đoàn 7) Quân giải phóng Miền Đông Nam Bộ xuống chiến đấu ở miệt vườn Lái Thiêu, cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn.

Dẫn đường cho đơn vị chúng tôi là các nam nữ dân quân du kích địa phương. Sau mấy đêm luồn qua các đồn bốt, các ổ phục kích, các làn đạn pháo của địch, chúng tôi mới đến được ấp Bình Nhâm - Lái Thiêu - Một miệt vườn nổi tiếng về trái cây của Miền Nam.


Trên đường hành quân phải luôn luôn giữ bí mật, không được để lộ ra một tý gì về bộ đội chủ lực đang chuyển quân. Đơn vị phải phân công người đi sau cùng kéo một cành cây to, có nhiều lá để quét hết dấu dép bộ đội. Càng xuống vùng sâu, càng phải thận trọng hơn. Khi còn cách ấp khá xa, chúng tôi đã phải tháo dép cao su ra, xách tay, đi chân không. Đường vào ấp là một con đường rộng và như có rải đá răm hoặc đất sỏi ruồi, làm chân dẫm lên đau nhói. Chúng tôi cứ phải dúm 5 đầu ngón chân vảo, ma bước cho đỡ đau. Ấy thế mà các cô du kích giao liên cứ bước đi thoăn thoắt, chúng tôi phải ráng hết sức mới theo kịp. Dường như các cô gái đã quen với con đường này hay vì vui với công việc và nhiệm vụ được dẫn đường cho bộ đội Miền về đánh giặc trên quê hương mình trong mùa xuân này nên các cô quên cả gian khổ, mệt nhọc, vất vả.


Đưa bộ đội vào đến giữa ấp, các cô bảo chúng tôi dừng lại và nói:

- Mấy anh, mấy chú ơi! Đây là chỗ tạm ém quân của chúng ta, đêm mai sẽ đi tiếp. Giờ mấy anh, mấy chú tản vào hai bên vườn và khẩn trương đào hầm đi, ở đây gần bót địch, chung bắn phá dữ lắm.

Mặc dầu lưng còn ướt đẫm mồ hôi, chúng tôi đã phải bắt tay ngay vào đào hầm.

Lần đầu tiên xuống miệt vườn Lái Thiêu, nên nhìn cái gì cũng lạ lẫm, lạ lẫm nhất là vườn cây đóng quân. Trước đây đã từng nghe nói Miền Nam có măng cụt, sầu riêng ngon lắm, nay đứng dưới vườn cây vẫn chưa biết là cây gì. Khi hỏi ra đây chính là vườn măng cụt.. Nhiều chiến sĩ còn ngỡ ngàng nói với nhau: “Thế mà mình cứ nghĩ cây măng cụt giống như cây măng tre, măng nứa người ta chặt cụt đi, để ra cây măng mới ăn ngon hơn, hóa ra lại loại cây này". Rồi cứ trố mắt nhìn cười khúc khích.


Vào mùa xuân vườn măng cụt xanh tốt lạ thường. Cây cỏ tán lá dầy và xanh rậm rì. Cành đâm ngang tỏa ra như cành bứa nhưng không chống ngược lên, mà lại xòa ngang xuống. Cành cây nọ vươn dài, nối với cành kia, vườn nọ nối với vườn kia làm thành một thảm xanh dầy đặc. Ánh sáng khó vượt qua được kẽ lá, làm đất dưới gốc cây bị cớm nắng, hầu như không có cỏ và quang đãng. Dưới con mắt người lính thì đây là một địa hình che khuất khá lý tưởng nhưng lại là nơi rất dễ để cho địch nghi có "Việt cộng" đóng quân và là mục tiêu để chúng bắn phá.


Đất ở vùng này mềm dễ đào nhưng lại rất sẵn nước, chỉ cần đào lớp xẻng thứ hai, là đã có nước tràn vào. Vì thế không thể đào hầm sâu được. Tất cả phải làm hầm nổi, phải dùng cây chuối làm kèo chữ A, rồi đắp đất dầy xung quanh, tựa như cái áo giáp tam giác bằng đất, chủ yếu để tránh sát thương, khi mảnh bom, mảnh pháo văng tới. Nếu trúng bom, trúng pháo thì cũng khó tránh khỏi cái chết.


Chúng tôi chưa đào xong hầm thì địch đã mò tới nổ súng. Thế là suốt từ 5 giờ sáng hôm đó cho đến tối mịt - Một trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra ngay trên mảnh đất Bình Nhâm nay. Địch đã nhiều lần điên cuồng dùng phi pháo đánh phá dữ dội và thúc giục bộ binh liều mạng xông lên, nhưng vẫn bị đánh bật ra khỏi trận địa - Cuối cùng chúng đã phải tháo chạy.


Trận đánh vừa kết thúc, khói bom, mùi thuốc súng còn khét lẹt, đã thấy từng đoàn du kích, thanh niên xung phong quần áo bà ba đen, kéo đến phối hợp với bộ đội giải quyết chiến trường. Tốp làm chính sách, tốp tải đạn, tải thương, tốp dẫn đường cho bộ đội tiếp tục hành quân. Mặc cho nhà cháy, cây đổ ngổn ngang, trông thật xót xa, nhưng đồng bào và chị em miệt vườn vẫn không hề nao núng. Đồng bào và chị em vẫn động viên bộ đội:

- Bữa nay đằng mình đánh lớn, nên chúng cũng phải quậy phá chứ! Có ráng chịu cực lúc này, mai mốt mới có tự do độc lập; tự do rồi, ta lại xây nhà, trồng cây lo gì mấy chú.

Những lời nói của đồng bào thật mộc mạc, giản dị - Mộc mạc giản dị như cơm ăn nước uống hàng ngày nhưng hồn nhiên và chứa đựng cả một niềm tin mãnh liệt. Bởi vì giữa lúc đang còn tràn ngập lửa đạn ngay trên quê hương mình, ai dám đoán biết ngày nào mình sẽ thắng nhưng họ vẫn tin. Thế rồi niềm tin ấy đã thành sự thật. Chỉ sau 7 năm - Mùa xuân năm 1975 miền Nam đã hoàn toàn giải phóng.


Và hôm nay, sau gần 30 năm, tôi trở lại miệt vườn Lái Thiêu dấu vết của chiến tranh gần như đã được xoá hết. Nhà cửa đã xây lại đàng hoàng, hố bom đã được san lâp, trồng cây mới. Vườn đã xanh, giờ càng xanh hơn với bao hoa thơm, trái ngọt của sầu riêng, măng cụt.


Bất giác làm tôi bồi hồi nhớ lại mùa xuân năm 1968 - Mùa xuân thật bĩ cực nhưng hào hùng của miệt vườn Lái Thiêu, của Sài Gòn và cả miền Nam năm ấy. Có mùa xuân của sự   hy sinh, mới có mùa xuân 1975 – mới có mùa xuân 1998 - Mùa xuân của mầu xanh vô tận và bất diệt - Mùa xuân chuẩn bị bước vào thế kỷ 21 rạng rỡ của dân tộc.

Đ. T


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:12:01 pm
NHỮNG MÉT PHIM QUAY Ở TRẬN LỘC NINH


NGUYỄN CƯỜNG


Vào chiến dịch mùa khô năm 1972, toàn bộ lực lượng quay phim nhiếp ảnh xưởng phim quân giải phóng Miền được tung ra khắp mặt trận B2. Khác với chiến dịch trước, lần này chúng tôi cùng đi một ngày và được phòng Tuyên huấn Miền tách riêng ra khỏi đơn vị đến một cù lao trên một dòng sông gần Suông Chúp để tập huấn chính trị và giao nhiệm vụ cho từng đội quay phim xuống các đơn vị chủ lực Miền.


Đồng Cam và tôi cùng Vũ Hậu, nhiếp ảnh được xuống mũi chủ yếu của chiến dịch. Ở sư đoàn bộ 5 chúng tôi được chính uỷ Ba Cúc giao nhiệm vụ cụ thể và cho biết quyết tâm chiến dịch, đồng thời "nói nhỏ" sẽ có xe tăng và pháo hạng nặng cùng tham chiến. Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng lớn đầu tiên ở Miền, tạo ra thế và lực mới của cả chiến dịch. Đồng Cam động viên cả tổ quay phim quyết tâm bám sát xung kich, quay bằng được trận đánh lịch sử này.


Đồng Cam khác với tôi và Hậu, là người được giác ngộ tham gia lực lượng vũ trang cách mạng từ trẻ và được đào tạo trở thành quay phim của xưởng phim Quân giải phóng Miền (B2). Anh chưa một lần ra Bắc, chưa được tận mắt thấy uy lực của xe tăng và pháo binh ta. Cả tổ xuống tiểu đoàn chủ công, bám đại đội 2, đơn vị mở cửa, nơi xe tăng ta cùng bộ binh tấn công địch ngay giữa ban ngày. Để đảm bảo bí mật bất ngờ đường hành quân tới căn cứ địch phải đi qua một cánh rừng Khộp rộng lớn, mùa khô không con suối nhỏ nào có nước. Chúng tôi phải mang trên vai cây để làm hầm, nước uống 3 ngày và 5 ngày lương khô. Tổng cộng trên vai anh em chúng tôi cả phim, máy, gạo, gỗ làm hầm mỗi người phải trên 30kg.


Đến khi Đồng Cam, tôi và các đồng chí chỉ huy Đại đội 2 tay chạm vào hàng rào dây thép gai thứ nhất của địch thì ngày tận số của địch coi như đã định. Nhiệm vụ đầu tiên là chúng tôi phải có công sự để trụ lại cửa mở. Đất đỏ mùa khô chai cứng, mỗi làn dùng xẻng, dùng chân dẫm đạp chỉ cuống 2-3 cm. Gần sáng công sự chỉ sâu được 70-80 cm.


5 giờ sáng pháo binh ta bắt đầu bắn vào căn cứ địch. Bộ binh bắt đầu mở hàng rào. Mặt đất rung chuyển. Khói lửa mù trời. Căn cứ địch "quằn quại” trước đòn đánh của ta. Để quay được điểm nổ, Đồng Cam và tôi nhờ chiến sĩ trinh sát pháo binh chỉ giùm vị trí thích hợp. Nhưng rất khó đối với nghề quay phim. Cuối cùng Đồng Cam đề nghị đồng chí trinh sát quan sát địch trong căn cứ còn Cam đứng lên vai tôi dựa vào hàng cây cao su chĩa ông kính máy quay vào trong căn cứ địch. Anh trinh sát chỉ kịp kéo Đồng Cam xuống thì một loạt đạn bắn thẳng đã ghim vào thân cây cao su ứa mủ trắng tinh. Sau đấy Đồng Cam đi quay công binh đặt bộc phá mở hàng rào, quay khẩu đội ĐKZ 75 tiêu diệt hoả điểm địch trong căn cứ. Địch chống trả quyết liệt. Trên trời máy bay thi nhau ném bom. Hoả lực trong căn cứ địch bắn trả vào các vị trí của quân ta. Sau này khi quay lại vị trí cửa mở quanh công sự chúng tôi chừng 3m2 đã có 8 quả ĐKZ của địch bắn vào.


Tổ quay phim và Đại đội 2 trụ 1 ngày 1 đêm tại cửa mở. Sau này tôi được biết để giữ vững cửa mở 2 ngày chờ xe tăng ta xuất kích, bộ binh đã phải chiến đấu anh dũng không cho địch bịt cửa mở, tổn thất của Đại đội 2 thật lớn. Cả Đại đội chỉ còn 6 người không bị thương, 1 trung đội công binh, 1 trung đội đặc công không còn ai lành lặn.


Sáng ngày thứ 3 kể từ khi nổ súng, xe tăng ta xuất kích, bộ binh ào lên. Đồng Cam và tôi cùng Vũ Hậu và Nguyễn Cán nhiếp ảnh Sư 5 theo xe tăng thứ 6. Pháo địch bắn chặn quyết liệt, trên đầu máy bay địch gầm rú, Sau khi chỉ đường cho xe tăng vào thị trấn chúng tôi tranh thủ quay mấy cảnh ngược sáng: xe tăng in trên nên trời hừng sáng, cả tổ lao theo đoàn quân vào căn cứ địch. Chỉ là một phản xạ tự nhiên tôi kịp lăn xuống đất đã thấy trời đất mù mịt như có người vít đầu mình xuống. Biết bị bom nổ gần, tôi cố gắng quan sát thấy bên trái Đồng Cam nằm bất động, tay vẫn ôm chặt máy quay. Tôi vội đến lay gọi. Hai vết thương xuyên qua lồng ngực trào máu. Đồng Cam thều thao: “Cầm máy, quay phim tiếp..." rồi nhắm mắt. Hậu tìm thấy Cán đã hy sinh ngay trên miệng hố hom, hình hài không còn nguyên vẹn, chỉ nhận được chiếc máy ảnh đứt quai rơi ngay bên phần thi thể còn lại… Chúng tôi đưa xác đồng đội xuống hố bom… Tôi và Hậu tiếp tục theo bộ đội vào căn cứ địch và quay tiếp hơn 20m phim. Cả chiến đoàn địch đã bị tiêu diệt, ta bắt hàng nghìn tù binh trong đó có cả cố vấn Mỹ.


Hôm sau Hậu và tôi đưa Đồng Cam và Cán về nơi quy tập và vĩnh biệt các anh, những người phóng viên mặt trận dũng cảm.

Ngày nay, thỉnh thoảng được xem lại những mét phim của đội ngũ những người quay phim Quân giải phóng B2 tôi lại bồi hồi xúc động nhớ tới các anh.

Vô cùng biết ơn các anh, các chị đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh hôm qua để chúng ta có cuộc sống hòa bình hôm nay.

N.C


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:13:07 pm
NHỮNG KỶ NIỆM VỚI TRẦN CẦN KIỆM


NGHIÊM HÀ


Đầu năm 1966 nhóm phóng viên thông tấn chúng tôi được giao nhiệm vụ đi với anh Ngô Thế Kỷ, phụ trách phòng phát thành quân đội vào B2 xây dựng phân xã Quân giải phóng thuộc Thông tấn xã giải phóng. Nhưng không hiểu vì lý do gì, đến trạm tập kết của "R" ở Đồng Xoài, tôi được đón về B8 - Điện ảnh Quân Giải phóng, còn đồng chí Nguyễn Văn Năng cũng là phóng viên nhiếp ảnh dọc đường bị sốt rét, sẽ về sau, bốn đồng chí phóng viên viết tin: Lê Minh (anh ruột nhà văn Triệu Bôn), Nguyễn Duy Khải, Mai Bá Thiện, Đỗ Công Viện thi về A3 - Báo Quân giải phỏng.


Về đây tôi gặp nhiều anh em từng được đào tạo bài bản từ xưởng phim Quân đội nhân dân chi viện vao như Vũ Thập, Nguyễn Quế, Trọng Hội, Quang Đạt, Dương Phước An, Cần Kiệm v.v... Số anh em nhiếp ảnh từ Bắc vào, có lẽ mới thêm có mình tôi, tôi được phân về Ban nhiếp ảnh cùng với Trường Sơn, Kiên Trì và Thanh Tịnh.


Ở xưởng phim Quân giải phóng, mỗi lần đi chiến dịch hoặc đi công tác trong hậu cứ thu thập tư liệu, Ban phụ trách thường bố trí anh em thành từng tổ gồm: Một quay phim chính, một phụ và một nhiếp ảnh; tôi và Cần Kiệm nhiều lần đi với nhau trong một đội hình như vậv. Anh hơn tôi một giáp nhưng ý hợp tâm đầu. Tôi và cần Kiệm đều được học hành có hệ thống về chuyên môn nên hay "lý thuyết" với nhau về tạo hình, về kỹ thuật và học thuật. Con người Cần Kiệm cũng rất lạ, cứ đụng với anh về vấn đề này là dứt không ra. Tôi thì mới ra trường, lý luận ứ đọng, anh thì thực tiễn đầy ắp. Vì thế mà tôi và Càn Kiệm đã nhiều lần "đụng độ" với nhau.


Anh là trai Tây Đô, tập kết ra Bắc được học hành đến nơi đến chốn, người cao, mắt sâu, râu rậm, tướng mạo trông rất "ngon lành", vậy mà những năm tháng ở đất Bắc chưa hề hứa hẹn cùng ai. Ấy là cái lần anh Kiệm rủ tôi sang B6 (Văn công Quân giải phóng) chơi. Vừa luồn rừng, vừa ngậm điếu thuốc "rê", anh hỏi tôi:

- Nghiêm Hà khi vào đây, người yêu hẹn thế nào?

Tôi trả lời anh và khi hỏi lại anh, thì biết vậy?

Điện ảnh và văn công ở cách nhau khoảng 15 phút đường rừng, nên có mối quan hệ chặt chẽ trong công việc cũng như trong tình cảm. Tôi và anh Kiệm hay sang B6 chơi lắm. Những lần đi chơi tiếp xúc với anh chị em tôi thấy anh Kiệm còn có tài hùng biện. Với phong cách chững chạc, phương pháp hấp dẫn, kết hợp diễn tả sự việc bằng mắt, bằng tay, bằng mồm, anh nói chuyện gì cũng thu hút mọi người. Có lẽ những năm tháng ở Hà Nội anh đọc nhiều, nhớ được nhiều. Anh nói chuyện văn chương, nói chuyện âm nhạc rất say sưa; nói với dăm bảy người quanh bàn trà mà cứ như diễn thuyết, mồ hôi lấm tấm trên vành ria mép. Có lần anh cầm đờn dạo một bản nhạc theo điệu "Khổng Minh toạ lầu" rất mùi mẫn và điệu nghệ. Anh còn bình luận dẫn dắt tình cảm của nội dung bản nhạc một cách thú vị.


Cần Kiệm là con người cẩn thận, tỉ mỉ, cảnh giác. Tôi nhớ mãi lần làm nhiệm vụ ở Đại hội anh hùng lần thứ II xong, khi về, cơ quan tham mưu thông báo trên đường dây có biệt kích, anh dặn tôi kinh nghiệm đi đường phải hết sức giữ bí mật, không gây tiếng động trong lúc đi, như tiếng óc ách của bình tông nước, tiếng lạch cạch của các thứ lủng củng đeo ở thắt lưng và cách quan sát phía trước, hai bên đường; luôn phải đặt tình huống trong đầu "nếu phía trước địch xuất hiện, bất ngờ nổ súng" thì ta phải náp vào gò mối nào, gốc cây nào để vừa tự vệ, vừa chiến đấu được.


Suốt một ngày hành quân trong trang thái thần kinh căng thẳng như vậy, về đến bãi khách cách căn cứ chừng 1 giờ đồng hồ thì trời tối hẳn. Tôi nêu ý kiến nghỉ lại, mai về sớm, chắc an toàn rồi. Cần Kiêm đồng ý, nhưng yêu cầu tôi tìm chỗ khuất, không mắc tăng và không được nấu nướng, không được soi đèn pin, im lặng mắc võng ngủ. Tôi hơi bực, nhưng mệt và đói, có nắm cơm lúc trưa ăn hết rồi, tôi không tranh luận.


Cần Kiệm nằm trên võng, rút khẩu súng ngắn để ở tư thế sẵn sàng. Tói còn ngồi trên võng ăn thìa đường, uống ngụm nước cuối cùng và im lặng. Bỗng tôi phát hiện xa xa phía cuối bãi khách có đốm lửa của thuốc lá, tôi ghé tai Cần Kiệm thì thầm:

- Cuối bãi khách có quân ta, lại xin bọn họ điếu thuốc.

Tôi gợi ý như vậy vì tôi biết anh nghiện thuốc nhưng đã hết, Cần Kiệm gạt phắt đi bảo "ngủ thôi"...

Vì mệt, sáng bạch hôm sau chúng tôi mới tỉnh dậy, cuốn võng đi, lúc qua cuối bãi khách tôi chỉ chỗ tối hôm qua có đốm lửa, cách đường mòn chừng mười mét và nói:

- Bọn này vội gì mà đi sớm thế?

Với con mắt sắc sảo, Cần Kiệm kéo tôi vào, thì hoá ra là bọn thám báo! Chúng con để lại dấu vết là vỏ đồ hộp và bao thuốc lá "Quân tiếp vụ".

Thật là hú vía, nếu tối qua mò sang, chắc là chúng xơi tái, sáng nay chúng dậy trước, nhưng không phát hiện ra chúng tôi, vì bọn tôi nằm khuất và không căng tăng. Thế là vì chúng tôi không biết chúng chúng nó là ai, chúng nó không phát hiện ra chúng tôi, nên đã không xảy ra chuyện gì. Bí mật, bất ngờ, cẩn tắc mà Cần Kiệm hay nói đã giúp tôi bài học sâu sắc.


Chuẩn bị cho Mậu Thân 68, đội quay do cần Kiệm quay chính, Bất Diệt phụ và Nghiêm Hà chụp Inh là đội hình duv nhất của Quân giải phóng, phôi hợp với Điện ảnh Giải phóng sẽ vào tiếp quản Sài Gòn, ghi những hình ảnh lịch sử. Nhưng dấu son đó đã không thành. Sang thời điểm của đợt II, bọn địch đã lấy lại bình tĩnh, giành thế chủ động, chúng nống ra với chiến thuật "Thiết xa vận", dùng xe bọc thép càn, ủi, uy hiếp tinh thần quân ta.


Bọn tôi nóng ruột quá, nhào xuống E2, F9, anh Út Thới (là Trung tướng Nguyễn Thới Bưng sau này làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) vui vẻ giới thiệu với cơ quan tham mưu và đề nghị chúng tôi xuống D5. Ban chỉ huy tiểu đoàn phấn chấn điện cho các đại đội là trận tập kích cụm xe dã chiến ở Đức Huệ đêm nay có các nhà quay phim quân đội đi cùng, làm nức lòng cán bộ chiến sĩ đại đội chủ công.


Trước giờ xuất kích, Cần Kiệm triệu tập họp tổ Đảng vì chiều lúc dự họp nghe phổ biến kế hoạch ở trên Tiểu đoàn về tôi nêu ý kiến đi quay, chụp đánh kích ban đêm thì không làm ăn được gì? Mà có khi lại thương vong cần tính toán kỹ”. Với danh nghĩa tổ trưởng, Cần Kiệm quyết định đi tất cả, dù không quay, chụp được gì cũng đi, thương vong cũng đi, đây là công tác tư tưởng, công tác chính trị...


Mờ sáng hôm sau, đi trong đội hình rút quân về căn cứ, biết chúng tôi là đội quay phim, bộ đội hoan hô chúng tôi và tin chắc rằng những chiếc xe tăng cháy đã lọt vào ống kính. Tôi chẳng chụp được gì, nhưng thấm thía một điều: người phóng viên quay phim, chụp ảnh mặt trận, không chỉ làm nhiệm vụ ghi hình ảnh thắng lợi của ta, thất bại của địch mà còn là những người làm công tác tư tưởng rất hiệu quả.


Sau trận tập kích thắng lợi, tiểu đoàn 5 bị trực thăng, pháo binh truy kích liên tục, ban ngay ở trong dân, ban đêm di chuyển, đội quay chúng tôi luôn bám sát tiểu đoàn bộ, đến mờ sáng ngày thứ 3 thì đội hình tiểu đoàn bị lộ, 5 trực thăng, 3 AD6 thay nhau oanh tạc. Căn hầm nổi trên bờ ruộng, cách ban chỉ huy tiểu đoàn chừng 100m chỗ chúng tôi nằm, lần thứ ba quả bom đã nổ gần kề, chờ cho quả bom của chiếc AD6 cuối cùng nổ, Cần Kiệm "tốc hầm" hô chúng tôi chạy theo bờ ruộng, ra xa khoảng 100m nữa, chui vào  một cái hầm của trinh sát.


Sau đợt bom thứ tư, bọn AD6 bay đi - chắc hẽt bom, chỉ còn bọn trực thăng quần đảo trên không. Tiểu đoàn ra lệnh rút tiếp. Khi qua chỗ hầm cũ thì tôi chỉ thấy có cái "đĩa", thật may, chậm chút nữa, chắc không ai còn mảnh xác.


Cuối đợt II tổng tấn công, tôi bị thương đi viện và từ đó về, tôi làm công tác biên tập; đến cuối năm 1970 ra Bắc an dưỡng, vẫn theo dõi tin tức anh em B8, biết Cần Kiệm vẫn cầm máy và đã lấy vợ, cô y sĩ của đoàn văn công Quân Giai phóng. Giữa lúc cuộc đấu tranh và kháng chiến gần đến ngày thắng lợi vào cuối năm 1972 anh đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, để lại đứa con trai Trần Cần Thơ, khôi ngô, tuấn tú, giống bố như đúc.

N.H


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:14:41 pm
MỘT CUỘC ĐẤU TRANH Ở NHÀ LAO TAM HIỆP


VŨ NAM BÌNH


Câu chuyện này xảy ra khi phái đoàn quân sự của Chính phủ Cách Mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam chúng tôi đang công tác ở trong trại Đa-vít giữa thành phố Sài Gòn.

Lúc 22 giờ ngày 11/2/1973, Trần Vĩnh Đắt, đại tá Trưởng tiểu ban trao trả của ngụy Sài Gòn gọi điện cho đồng chí Lê Trực, Trưởng tiểu ban trao trả của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, báo một tin đặc biệt. Trấn Vĩnh Đắt nói: “Toàn bộ tù binh bên phía quý vị không chịu đi trao trả nên ngày mai không thể trao trả số người đó như đã thỏa thuận của các trưởng phái đoàn trong Ban Liên hiệp quân sự bốn bên”.


Đồng chí Lê Trực hỏi lý do tại sao mà số người này không chịu đi trao trả, hiện đang ở trại giam nào? Trần Vinh Đắt trả lời rằng: "Chúng tôi chí được giám đốc trại giam Tam Hiệp ở Biên Hoà báo cáo như vậy, chúng tôi không hiểu tại sao? Chỉ biết rằng họ đòi được gặp đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời".


Theo thỏa thuận của bốn trưởng phái đoàn trong ban Liên hiệp quân sự bốn bên thì 8 giờ sáng ngày mai 12/2/1973, cuộc trao trả đầu tiên được tiến hành. Ta trao trả một bộ phận tù binh Mỹ ở sân bay Gia Lâm, một bộ phận ở sân bay Lộc Ninh; họ phải trao trả người của ta tại sân bay Lộc Ninh và ở một địa điểm tại Quảng Trị.


Ban lãnh đạo của hai phái đoàn Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ cộng hòa liền triệu tập một cuộc họp. Mọi người tham gia thảo luận sôi nổi về sự kiện này. Cuối cùng, anh Trần Văn Trà kết luận hai khả năng: Một là địch phá hoại và hai là anh em ta không tin có việc trao trả nên đòi gặp cho được phái đoàn ta.


Chúng ta cử một đoàn sĩ quan đến trực tiếp xem xét tại chỗ để căn cứ vào thực tiễn mà xử lý. Yêu cầu số một là phải làm cho cuộc trao trả được tiến hành theo đúng tiến trình mà các trưởng đoàn đã thoả thuận. Bất kỳ trường hợp nào cũng không được trì hoãn việc trao trả. Đồng thời với việc cử phái đoàn đến trại giam Tam Hiệp, sáng mai tôi sẽ triệu tập Hội nghị các trưởng đoàn để giải quyết vấn đề này.


Tôi được cử làm trưởng đoàn, đồng chí Nguyễn Văn Bôn làm phó đoàn. Bên đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là anh Hoàng Thương và anh Lục. Cùng đi với đoàn có một số phóng viên báo chí, quay phim, chụp ảnh và một vài cán bộ khoẻ mạnh, chắc chắn, bình tĩnh, vững vàng đi để hỗ trợ đoàn. Báo ngay cho phái đoàn Mỹ và phái đoàn ngụy cử người cùng đi theo đến đón đoàn đi vào 6 giờ sáng đưa lên Biên Hòa. Chúng tôi mang theo một ít thuốc lá Thăng Long, Điện Biên, một số gói chè miền Bắc để có dịp thuận lợi thì tặng anh em ta ở trại giam.


Chỉ còn hai giờ nữa là ôtô của đoàn Mỹ-ngụy đón chúng tôi lên Biên Hoà. Với cương vị là trưởng đoàn, tôi nằm nghĩ miên man về cuộc xử trí ngày mai. Tôi thấy vẫn chưa có một cái gì là cái bửu bối chắc chắn nhất cho mình, tức là một "cái gậy" gì đây, một nội dung gì mà từ đây mình có thể đối phó được với sự xảo quyệt của kẻ thù. Tôi suy nghĩ đến việc có nên báo cáo với ngoài Trung Ương, đề nghị hoãn trao trả cả số tù binh Mỹ ở ngoài Bắc và số ở Lộc Ninh để bắt chúng phải trả người của ta thì ta mới trả hay không?... Đây là một vấn đề lớn liên quan đến nhiều mặt của cuộc đấu tranh.


Xem đồng hồ đã 4 rưỡi sáng, tôi mạnh dạn lên phòng anh Trà. Anh cũng chưa ngủ và anh Lê Quang Hòa cũng đang có mặt. Tôi liền báo cáo ý kiến của mình. Các anh cho gọi thêm mấy anh có liên quan đến để bàn được chặt chẽ hơn. Sự phân tích của các anh rất nhiều điều sâu sắc. Cuối cùng, anh Trà kết luận là chúng ta đã báo cáo ra Trung ương cách đây trên một giờ sau cuộc họp. Bây giờ điện ra báo cáo là việc trao trả ở Hà Nội như thế nào do Trung ương quyết định nhưng riêng bọn tù binh Mỹ trao trả ở Lộc Ninh vào 9 giờ sáng nay xin được hoãn đến khi nào có chuyến máy bay đầu tiên chở trao trả người bị bắt của ta hạ cánh xuống sân bay Lộc Ninh, lúc ấy mới bắt đầu làm thủ tục trao trả quân nhân Mỹ bị bắt... Nhận được ý kiến kết luận của anh Trà, tôi yên tâm đi vào cuộc đấu tranh.


Vì lý do gì không rõ, bọn sĩ quan của Mỹ-ngụy trên 9 giờ mới đến đón đoàn chúng tôi lên Tam Hiệp. Đinh Công Chất, thiếu tá sĩ quan an ninh quân đội ngụy và một trung tá Mỹ dẫn chúng tôi đi. Ngó ra ngoài nhìn quang cảnh từ Sài Gòn đi Biên Hoà nhưng không đem lại cho tôi một cảm giác gì cả vì trong đầu óc tôi đang suy nghĩ, sắp xếp những nội dung phương pháp xử trí khi đến nhà lao Tam Hiệp. "Chúng ta sắp đến trại giam Tam Hiệp rồi", - thiếu tá Chất nói với tôi như vậy.


Nhìn ra ngoài thấy quân cảnh ngụy rất nhiều, súng lăm lăm trong tay, cứ mười lăm đến hai mươi mét có một tên, tên nào ngó bộ cũng hung dữ.

Tôi hỏi thiếu tá Chất: "Họ làm cái gì đấy?".

Thiếu tá Chất trả lời là hình như họ bảo vệ cho cuộc trao trả hôm nay đấy! Tôi mỉm cười, thốt lên: Họ bảo vệ ai đấy nhỉ?

Vào đến cống trại giam, có khoảng một đại đội quân cảnh súng trong tav hình như là họ đang phải làm một chuyện gì nguy hiểm lắm?

Xuống xe Chất dẫn chúng tôi vào một hội trường lớn. Có mấy sĩ quan ngụy ra đón. Đinh Công Chất giới thiệu chúng tôi với một trung tá ngụy, ngực gắn chữ Phong và nói đây là giám đốc trại giam Biên Hòa.


Tên Phong nói một câu bâng quơ là các ông đến xem số người của các ông không chịu đi trao trả. Tôi không trả lời gì với câu nói đó. Qua cách nói của tên Phong, tôi đánh giá đây là loại người không có văn hóa.


Tôi hỏi một câu: ở đây ai là người có trách nhiệm nói chuyện với phái đoàn của chúng tôi? Người đó phải nói với chúng tôi cho đúng đắn rõ ràng và chính xác. Nhìn tên Phong, thấy sắc mặt có biến đổi. Tôi nói tiếp: Hôm nay là ngày các bên tiến hành trao trả người bị bắt chuyến đầu tiên. Nếu ở đây mà trở ngại việc trao trả người của chúng tôi thì sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc trao trả ngày hôm nav. Chúng tôi đến đây gặp tất cả những ngươi bị bắt của chúng tôi để hiểu rõ tại sao anh em chúng tôi theo như các ông báo cáo là không chịu đi trao trả, không chịu về với Chính phủ cách mạng lâm thời.


Đinh Công Chát nói với Phong là sẵn sàng trả lời những câu hỏi của Trung tá Vũ Bình để giải quyết sự việc được nhanh chóng. Tên sĩ quan Mỹ cũng đến thì thầm với Phong.

Tôi hỏi: Tất cả số anh em của chúng tôi bị giam ở nhà lao này đã được phổ biến nghị định thư trao trả chưa? Và đã phổ biến việc trao trả cho anh em được trao trả ngày hôm nay như thế nào?

Tên Phong lúng túng và trả lời rằng: Tối hôm qua chúng tôi đã cho cán bộ tâm lý chiến xuống phổ biến về trao trả cho anh em rồi nhưng họ nhất định từ chối không đi trao trả! Họ đòi gặp các ông, tôi cũng không biết họ đòi gặp các ông đẽ làm gì?


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:15:40 pm
Thế là dấu hiệu đầu tiên đã hé ra. Tôi nắm lấy và đánh một cú phủ đầu. Tôi nói to để cho tất cả số sĩ quan ngụy đang ngồi ở đó cũng nghe được.

Hôm qua, tức là ngày 11/2/1973, các ông mới nói đến vấn đề trao trả với anh em chúng tôi ở nhà lao này. Các ông có biết không: Điều 13 của Nghị định thư về việc trao trả nêu rõ rằng: "Trong vòng 5 ngày sau khi ký Nghị định thư này, các bên sẽ công bố và thông báo toàn văn Nghị định thư đến tất cả những người bị bắt nói trong Nghị đinh thư này mà bên mình đang giam giữ! Ngày 27/1/1973, Nghị định thư đã được ký, nay là 12/2/1973, tức là 16 ngày sau khi ký mà các ông không phổ biến Nghị định thư trao trả. Đây là một sự vi phạm Hiệp định Paris về Việt Nam. Tôi, thay mặt phái đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoa miền Nam Việt Nam cùng với phái đoàn của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa nghiêm khắc lên án và cảnh cáo Ban giám đốc trại giam Tam Hiệp - Biên Hoà đã vi phạm điều 13 của Nghị định thư trao trả.


Bọn sĩ quan ngụy ở xung quanh đó im phăng phắc. Chúng chăm chăm nhìn vào tôi. Tên Phong không nói lại một câu nào nữa.

Tôi nêu tiếp, chúng tôi yêu cầu được gặp tất cả anh em chúng tôi mà các ông trao trả trong đợt này. Chúng tôi cần gặp tất cả và ở ngay tại đây. Chúng tôi sẽ phổ biến cho anh em biết Nghị định thư trao trả và nói rõ về đợt trao trả này. Chỉ có làm như thế thì anh em chúng tôi mới thông suốt và lúc đó chắc là họ mới nhận đi trao trả.


Bọn sĩ quan ngụy nhìn nhau, chúng nhìn tên trung tá Mỹ và tên thiếu tá Định Công Chất. Hình như chúng sửng sốt trước vấn đề chúng ta đưa ra nhất là việc ta yêu cầu gặp toàn bộ anh em của ta tại đây.


Tên trung tá Phong, giám đốc nhà lao Tam Hiệp hạ giọng với thái độ khẩn cầu nói: Xin trung tá và các vị cho phép chúng tôi được đưa những anh em đại diện của từng khu vực đến gặp các vị. Phong nói thêm là nếu tất cả anh em lên đây sẽ không thể được an toàn. Anh Tư Bốn nói: Không bảo đảm an toàn cho ai? - Và tại sao lại không đảm bảo an toàn?


Tên Phong tỏ vẻ nhăn nhó nói là: Anh em bên quý vị dữ lắm, nếu toàn bộ số người đó đến đây thì chính là không an toàn cho chúng tôi. Anh Tư Bốn lại nói: Các ông ở đay có biết bao quân cảnh với súng ống thế kia ma sợ anh em của chúng tôi à!


Tên giám đốc trại giam năn nỉ rằng: Anh em bên phía quý vị họ căm thù chung tôi lắm, số quân cảnh ở đây vẫn không bảo đảm, họ có thể nhảy vào cướp súng mà bắn chúng tôi. Xin các vị thông cảm cho chúng tôi.


Trao đối với anh Tư Bốn, anh Hoàng Thương, anh Lục xong; tôi hỏi: Những ngườì mà các ông gọi là đại diện của từng khu vực là người của các ông cử ra hay là người do anh em chúng tôi cử ra. Tên Phong trả lời ngay: Thưa đúng là người của anh em cử ra chứ không phải chúng tôi cử.

Chưa thể tin các ông được. Tôi nói vậy và nêu ra hai vấn đề sau đây:

Nếu tôi phát hiện một dấu hiệu nào dù là nhỏ nhất không phải là người của anh em chúng tôi cử ra thì tôi sẽ huỷ bỏ cuộc gặp, lúc đó các ông phải để chúng tôi gặp tất cả anh em. Nếu không gặp được tất cả anh em, tức là không có việc trao trả người của chúng tôi hôm nay. Và như vậy, cũng sẽ không có việc trao trả quân nhân Mỹ ở Lộc Ninh hôm nay.

Nhìn sang phía sĩ quan Mỹ và sĩ quan ngụy trong đoàn trao trả, tôi hỏi các ông có đồng ý với ý kiến của chúng tôi không?

Họ không dám trả lời mà nhìn vào Phong, giám đốc trại giam. Phong nói rằng. Nếu không đúng người do anh em cử ra, chúng tôi sẽ thực hiện theo ý kiến của các vị…

Chúng tôi chờ anh em ta tới... Nhìn từ xa xa, thấy anh em ta thân hình gày còm, đi chậm chạp, có người đi khập khiễng. Chúng tôi quan sát rất kỹ anh em ta để tìm ra một điều gì là người của ta hay của địch. Khi anh em gàn tới, anh Tư Bốn, anh Hoàng Thương và vài đồng chí khác ra đón anh em. Không thấy ai mỉm cười, có đồng chí đưa tay ra nhưng anh em không bắt tay. Qua ánh mắt và nét mặt đã thấy toát lên là những con người kiên cường mãnh liệt.


Tôi rất xúc động, suy nghĩ ngay đây là người của ta, đồng thời cũng thấy là anh em con ấp ủ một điều gì đó đang chờ cơ hội để bộc lộ. Cũng có thể là chưa tin hẳn chúng tôi là phái đoàn thật của Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ cộng hòa.


Sau khi giới thiệu vài nét tóm tắt về đoàn của chúng tôi, tôi đi thẳng vào một câu hỏi đã được tính toán kỹ. Tôi nói: Tôi hỏi các đồng chí một câu thôi, nếu có, các đồng chí nói là có, nếu không, nói là không, không cần nói thêm một ý nào nữa. Mười hai anh em nhìn thẳng vào tôi, tôi hỏi: "Các đồng chi đã được phổ biến Nghị định thư trao trả chưa?" Vừa dứt lời, tất cả mười hai đồng chí đồng thanh nói: Không có! Một đồng chí giơ tay lên và nói xin có ý kiến. Khẳng định là người của ta rồi, tôi mời đồng chí đó nói. Đồng chí nói rằng: Khoảng vài tuần nay, chúng tôi có nghe một số sĩ quan ở trại giam này nói chuyện với nhau về Hiệp định Pari gì đó. Hoàn toàn không có ai phổ biến cho chúng tôi về trao trả, về Hiệp định. Chúng tôi yêu cầu phái đoàn phổ biến cho chúng tôi biết về Hiệp định Pari.


Thế đã rõ, đây chính là các đồng chí của ta, những đồng chí kiên cường, bất khuất.

Tôi nói ngay với mười hai đồng chí hai điều:

Điều thứ nhất là hôm qua ban giám đốc trại giam này báo cáo lên các phái đoàn liên hiệp quân sự rằng anh em không chịu đi trao trả, không chịu về với Cách mạng. Trung tướng Trần Văn Trà, thiếu tướng Lê Quang Hoà và các sĩ quan hai phái đoàn chúng tôi không tin điều đó. Nay xuống đây tôi hỏi giám đõc trại giam thì được trả lời là tôi hôm qua mới cho cán bộ tâm lý chiến xuống nói về trao trả. Như vậy ban giám đốc trại giam này đã vi phạm Hiệp định Pari. Từ khi ký Nghị định thư đến nay là đã qua 16 ngày mà họ không phổ biến Nghị định thư trao trả đến các đồng chí. Tôi đã thay mặt hai phái đoàn của ta trong ban liên hiệp quân sự bôn bên lên án và cảnh cáo ban giảm đốc nhà lao này về việc vi phạm đó.


Điều thứ hai, là tôi rất xúc động và rất thông cảm với các đồng chí. Chính các đồng chí không tin về cuộc trao trả này nên mới đòi được gặp các phái đoàn của ta. Không tin có việc trao trả không phải lỗi của các đồng chí, mà đây là một sự cảnh giác cần thiết. Chính do kẻ thù của chúng ta đã từng lừa dối các đồng chí. Có trường hợp họ nói cho người này người kia chuyển trại nhưng là mang đi thủ tiêu. Các đồng chí đã rất vững vàng và tỉnh táo. Chúng tôi hoan nghênh các đồng chí. Nói đến đây tôi thấy nét mặt của anh em phấn khởi hẳn lên, các đồng chí trong phái đoàn của chúng tôi cũng rất vui. Thuốc lá Thăng Long, Điện Biên và chè Ba Đình được anh Hoàng Thương, anh Tư Bốn đưa tặng các đồng chí. Đây là món quà của miền Bắc, của cả nước tặng các đồng chí. Các phóng viên quay phim, chụp ảnh, báo chí hoạt động chụp, quay ghi hình liên tục...


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 03 Tháng Giêng, 2023, 09:16:27 pm
Đến đây tôi thấy phải bắt đầu làm một việc quan trọng, đó là phổ biến Nghị định thư trao trả cho 12 đồng chí. Tôi ngoảnh lại nói với các sĩ quan Mỹ ngụy rằng: Các ông không phổ biến Nghị định thư cho các anh em của chúng tôi, nay các anh em chúng tôi ở đây yêu cầu nên chúng tôi phải phổ biến tại đây cho anh em chúng tôi. Nếu những người này thông suốt mang theo những Nghị định thư về báo lại với anh em ở trại thì mọi người mới đi trao trả.


Tên giám đốc trại giam không muốn tôi phổ biến tại đây trước mấy chục sĩ quan ngụy và hàng trăm lính quân cảnh. Chúng chỉ muốn anh em về nói lại như tôi đã nói là đủ. Nhưng không dừng lại ở đây được, tôi nghĩ bụng, ta phải tấn công tiếp. Tôi cầm quyển Nghị đinh thư và dõng dạc đọc, dừng lại từng chỗ cần thiết nói rõ thêm. Bọn sĩ quan Mỹ ngụy, rất sốt ruột nhưng chúng phải ngồi im để nghe. Hàng trăm lính quân cánh lúc nay ngồi cả xuống, lắng nghe gần như không nhúc nhích.


Trong Nghị định thư tôi nhấn mạnh phải trao trả hết những người bị bắt, không được từ chối, không được trì hoãn với bất cứ lý do gì. Đặc biệt làm nổi bật về những người bị bắt phải được đối xử nhân đạo. Họ được bảo vệ chống lại mọi hoạt động bạo lực xúc phạm đến tính mệnh và thân thể, nhất là việc giết hại họ bằng mọi hình thức, việc làm cho họ bị tàn phế, việc tra tấn nhục hình và mọi hành động xúc phạm đến nhân cách phẩm giá con người. Họ phải được ăn, mặc, ở đầy đủ và được chăm sóc về y tế theo nhu cầu của tình hình   sức khoẻ.


Cả 12 đồng chí nhìn tôi, nhìn mọi người trong 2 phái đoàn ta với tình đồng chí rất thân thương. Dõi theo nội dung trình bày của tôi, các đồng chí phấn khởi khi thấy ta thắng lớn, địch thua to, và phải trao trả hết những người bị bắt. Nhưng khi tôi nói đến các bên phải đối xử nhân đạo với người bị bắt thì các đống chí biểu hiện sự phẫn uất căm thù đối với kẻ địch.


Như dồn nén bấy lâu nay, tôi vừa dứt lời và phát Nghị định thư trao trả cho anh em thì hàng chục cánh tay dơ lên đòi phát biểu ý kiến. Gần như đồng chí nào cũng phát biểu, các đồng chí vạch mặt kẻ thù, lên án kẻ thù một cách rất sâu sắc, với một thái độ rất căm phẫn, đồng thời đề nghị một số ý kiến, có thể nói là làm cho kẻ thù phải hoảng sợ, phải nhục nhã; có tên không dám ngẩng mặt lên.


Đại ý một số câu các đồng chí nói với bọn giám trại như sau:

- Chúng tôi không đi trao trả hôm nay mà đòi găp được phái đoàn của chúng tôi là vì chúng tôi không tin các ông. Các ông lừa dối chúng tôi nhiều lắm rồi nê hoàn toàn không tin được.

- Chúng tôi đồng ý đi trao trả, càng nhanh càng tốt, nhưng phải trả gọn từng trại, không được chọn nhặt lẻ tẻ; những người ốm nặng phải được trả trước.

- Từ trong trại ra đến xe ô tô, chúng tôi không cần các ông cáng hoặc dìu anh em chúng tôi. Việc đó chúng tôi tự làm. Ai còn hai chân giúp người một chân, ai còn hai tay giúp người một tay, ai còn cả hai chân hai tay thì khiêng cõng người ốm. Cả thời gian giam giữ các ông hành hạ chúng tôi, bây giờ làm ra vẻ ta nhân đạo lắm!

- Những quần áo mới mà các ông phát, chúng tôi không thèm nhận, ăn mặc rách rưới, hôi hám, bẩn thiu suốt cả quá trình chúng tôi bị giam; nay khoác áo mới cho chúng tôi để biểu thị là mình tốt... Thôi, hãy bỏ cái kiểu ấy đi.

- Chúng tôi yêu cầu những xe ô tô đưa chúng tôi ra sân bay không được cắm cờ "ba que" hoặc có sơn chữ ba que.

Bọn sỹ quan ngụy ngồi tím mặt, mót số tên nhìn trừng trừng vào anh em ta, nhưng một số tên mặt cúi gầm.

Tôi quay lại nói với bọn sĩ quan ngụy rằng: Các vị có ý kiến gì về những đề nghị của các đồng chí chúng tôi không?

Tên Phong nói xin chấp nhận những ý kiến đó. Những lá cờ cắm từ trước, nếu các ông không muốn thì chúng tôi cất đi.

Đinh Công Chất có ý kiến là: Nếu các vị không nhận quần áo thì thôi, nhưng tôi đề nghị với Trung tá Vũ Bình là bên phía Trung tá cũng đừng phát quần áo mới cho người bị bắt của chúng tôi.

Tôi liền trả lời Đinh Công Chất rằng: Việc không nhận quần áo mới, không đi xe ôtô có cờ "ba sọc", không yêu cầu cáng hoặc dìu các người bị thương, ốm là do chính những người bị các ông giam giữ và đối xử với họ nên họ đề nghị như vậy. Còn số tù binh mà chúng tôi bắt giam giữ, tôi tin chắc rằng họ sẽ phấn khởi nhận những bộ quần áo của cách mạng để làm kỷ niệm. Tại sao ông Chất lại thay họ để đề đạt ý kiến đó?


Lại một đồng chí nữa đứng lên dõng dạc nói to: Tôi xin đươc nói thẳng với các vị phụ trách trại giam nay rằng: Các vị đừng có gài những tên phản động trà trộn trong số trao trả về vung giải phóng của chúng tôi. Các vị cố tình gài thì chúng tôi sẽ xứ trí ngay trước khi xuống đất vùng giải phóng của cách mạng.


Tên Phong đứng lên nói là chúng tôi không dám làm điều đó.

Tôi thấy cuộc gặp gỡ đã đến lúc kết thúc được rồi. Lúc này là 14 giờ ngày 12/2/1973. Nếu khẩn trương thì ta có thể trao trả được 1 đến 2 chuyến máy bay lên Lộc Ninh. Cả hai phái đoàn chúng tôi đứng xen lẫn với 12 anh em để chụp ảnh và quay phim. Chúng tôi ôm nhau mà nước mắt cứ trào ra. Thương các đồng chí ta quá chừng, rất phục tinh thần chiến đấu của các đồng chí ta. Một đồng chí ghé tai tôi và nói: Chụp ảnh quay phim như thế này là bảo đảm lắm rồi, kẻ thú tức lắm nhưng không dám thủ tiêu chúng tôi đâu!?...


Tất cả mọi người trong hai phái đoàn của ta đều lên máy bay với trên 100 anh em trao trả chuyến đầu tiên để xuống sân bay Lộc Ninh. Ngồi trên máy bay C.30, anh em hát vang những bài ca cách mạng.

V.N.B


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:47:05 pm
Ở HƯỚNG TÂY CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH 1975


TÁM TRÂN


Bước vào đầu năm 1975, tình hình chiến trường miền Nam càng sôi sục và phát triển rất nhanh bởi những chiến thắng lớn dồn dập của quân và dân ta.

Riêng ở chiến trường Nam Bộ nổi lên 2 chiến thắng lớn có ý nghĩa chiến lược:

- Trước hết là ở đồng bằng sông Cửu Long đã kết hợp tốt giữa tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, mở mảng, mở vung tương đối lớn, ta đã làm chủ đại bộ phận nông thôn các tỉnh Vĩnh - Trà, chung quanh Chương Thiện, phát triển sâu vùng đông dân cư, vùng tôn giáo ở Vĩnh Long, Sa Đéc, chợ gạo nam Long An, thu hẹp vùng kiểm soát của địch, đánh đúng vào chỗ dự trữ còn lại của địch hạn chế địch vơ vét nhân vật lực của ta ở đồng bằng.

- Hai là, chiến thắng vang dội Phước Long ở miền Đông Nam Bộ, Phước Long là một tỉnh nhỏ ở biên giới Việt Nam - Campuchia, nhưng chiến thắng Phước Long là một chiến thắng lớn về tầm vóc chiến lược. Đây là lần đầu tiên quân và dân miền Nam tiêu diệt gọn một chi khu của địch ở đồng bằng, giải phóng hoàn toàn một tỉnh ở ngay phía Bắc, uy hiếp trực tiếp đến cơ quan đầu não của ngụy ở Sài Gòn. Chiến thắng Phước Long còn mang ý nghĩa quan trọng là giúp cho lãnh đạo và chỉ huy của ta thấy rõ khả năng phản kích của quân ngụy và sự phản ứng bằng quân sự của Mỹ trên chiến trường đã rất hạn chế.


Bộ Chính trị có điện vào nhận xét: "Ta đang ở thế chú động tấn công, lại có vùng giải phóng rộng lớn liên hoàn, thế chiến lược của ta rất vững chắc và ngày càng mạnh ở nông thôn. Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay để hoàn thanh cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam"....


Quán triệt tư tưởng chỉ đạo đó, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền họp mở rộng tới các Chỉ huy đơn vị đánh giá cặn kẽ tình hình địch, ta; đi tới chủ trương thống nhất không thoả mãn dừng lại mà phải khẩn trương chuẩn bị, phải xốc tới mở tiếp các chiến dịch lớn ở cả đồng bằng và rừng núi kết hợp chặt chẽ tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn, cố gắng đạt được những mục tiêu quan trọng sau đây:

1. B2 phải chia lửa mạnh mẽ với chiến trường Tây Nguyên là hướng chính của cả nước.

2. Riêng ở Nam Bộ chủ lực Miền phải tiêu diệt trung đoàn và đánh quỵ sư đoàn ngụy, ở đồng bằng sông Cửu Long phải cố gắng giải phóng đại bộ phận nông thôn, mở thông hành lang chiến lược từ Tây Ninh xuống đồng bằng; mở thông hành lang từ Phước Long xuống tới bờ biển.

3. Tạo bàn đạp triển khai lực lượng quân sự lớn áp sát tuyến phòng thủ của địch.

4. Chiến trường B2 phải khẩn trương, tích cực, sẵn sàng đón thời cơ chiến lược khi hướng chủ yếu Tây Nguyên thắng lớn.

5. Chuẩn bị đòn quyết chiến chiến lược đánh vào Sài Gòn.

Sau đó Trung ương Cục mở hội nghị các Bí thư tỉnh uỷ toàn Miền đi sâu bàn biện pháp phát động quần chúng nổi dậy, kết hợp 3 mũi giáp công giành dân, giành quyền làm chủ ở cơ sở.

Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền lo củng cố và phát triển lực lương 3 thứ quân. Bên cạnh Quân đoàn 4 đã được rèn luyện và trưởng thành, các lực lượng võ trang giải phóng miền Nam Việt Nam lại có thêm một đơn vị chủ lực lớn nữa ra đời là Quân đoàn dã chiến 232 gồm f3 - f5 + các binh chủng. Nguồn lực lượng hỗ trợ của Quân đoàn này có cái mới là đã huy động được tân binh tại chỗ một phần, nhưng phần lớn vẫn do từ hậu phương lớn gửi vào. Bộ chỉ huy Miền ra quyết định thành lập Quân đoàn dã chiến 322 và bổ nhiệm Bộ chỉ huy Quân đoàn gồm 5 đồng chí:

- Đồng chí Nguyễn Minh Châu (tức Năm Ngà), Tham mưu trưởng của Miền làm Tư lệnh Quân đoàn.

- Đồng chí Trần Văn Nghiêm (Hai Nghiêm), Tham mưu phó của Miền làm Phó tư lệnh Quân đoàn.

- Đồng chí Nguyễn Văn Thành (Tư Râu), Phó chính ủy Cục Hậu cần của Miền làm Phó tư lệnh Quân đoàn kiêm Chủ nhiệm Hậu cần Quân đoàn.

- Đồng chí Trần Thanh Vân (Út Liêm), Sư trưởng Sư đoàn 5 làm Phó tư lệnh Quân đoàn.

- Đồng chí Trần Văn Phác (Tám Trần), Chủ nhiệm Cục Chính trị Miền làm Chính ủy Quân đoàn.

Bộ tư lệnh Quân đoàn dã chiến cũng được giao nhiệm vụ đồng thời là Bộ chỉ huy một chiến dịch quan trọng trong chiến cuộc mùa khô 1974-1975 ở Nam Bộ.

Thế là ngay từ những ngày đầu tháng 3/1975 toàn chiến trường miền Nam lại nô nức bước vào một đợt hoạt động mới mạnh mẽ hơn và quyết liệt hơn. Bộ chỉ huy Miền đã hạ quyết tâm sử dụng cả 2 Quân đoàn chủ lực quân Giải phóng miền Nam mở 2 chiến dịch ở hai hướng làm nhiệm vụ khác nhau trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Quân đoàn 4 mở chiến dịch tiêu diệt địch và giành dân ở Dấu Tiếng. Chi khu Dầu Tiếng nằm trên Quốc lộ 1, nằm giữa Tây Ninh và Sài Gòn. Còn Quân đoàn dã chiến 232 được giao nhiệm vụ tổ chức chiến dịch ở phía Tây, biên giới Việt Nam - Cămpuchia, mở thông đường hành lang chiến lược trên đất ta, kéo dài từ Tây Ninh đến Long An - Kiến Tường, tạo bàn đạp giải phóng toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long và chuẩn bị khi có thời cơ sẽ là một hướng của chiến dịch từ hướng Tây chọc thẳng vào hang ổ của địch ở Sài Gòn. Quân ngụy phát hiện việc điều quân và vận chuyển tiếp tế của ta ở Dầu Tiếng và ở hướng của chúng tôi, nhưng cấp cao của ngụy lại phán đoán đó là mẹo nghi binh của Quân giải phóng để bất ngờ tiến công vào thị xã Tây Ninh như đã xảy ra ở thị xã Phước Long gần đây. Chúng còn khẳng định rằng ta đang nôn nóng chiếm thị xã Tây Ninh để làm chỗ ra mắt Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam với thế giới. Chúng vội ra lệnh tăng cường phòng thủ thị xã Tây Ninh giao nhiệm vụ cho f25 ngụy phải túc trực ngày đêm tại căn cứ Trảng Lớn không được rời nửa bước.


Sau khi nhận nhiệm vụ, Đảng uỷ và Bộ chỉ huy Quân đoàn 232 họp bàn phương án tác chiến, hạ quyết tâm phải đánh thắng trận đầu để làm đà cho chiến dịch và nhất trí chọn đồn Bến Cầu làm trận then chốt mở màn chiến dịch.


Bến Cầu là một vị trí Chi khu cứng nhất trong hệ thống đồn bốt địch trên tuyến biên giới Tây Ninh. Đồn Bền Cầu bị tiêu diệt thi toàn bộ hệ thống đồn bốt ở vùng này sẽ không tránh khỏi bị sụp đổ nhanh chóng. Nhưng cũng có ý kiến phát biểu ngược lại rằng nếu vì lẻ gì đó mà bọn địch ở đồn Bến Cầu cầm cự được thì ta sẽ xoay sở ra sao? Cũng phải trải qua tranh luận khá lâu, thấy có cơ sở chắc thắng mới nhất trí được trong Đảng uỷ.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:49:25 pm
Tới ngày N... trên đường hành quân của E1 vào chiếm lĩnh trận địa đồn Bến Cầu có một ông già tốt bụng có con đi tập kết miền Bắc đón gặp Chỉ huy Trung đoàn can ngăn rằng: Các chú giải phóng nè, không đánh lại được tụi này đâu các chú ơi, đồn bốt nó toàn xi măng, sắt thép chắc lắm! Xảy ra chuyện gì pháo nó dội về tới tấp như mưa đó, còn trong đồn từ quan đến lính toan là bọn râu kẽm cả, ác ôn lắm! Nhưng đồn Bến Cầu đã bị tiêu diệt nhanh chóng. Tên Tiểu đoàn trưởng bị chết trong lúc tháo chạy ra khỏi đồn. Quả nhiên như dự kiến, tiếp theo là các đồn bốt khác trong tuyến phòng thủ dọc biên giới như đồn Mộc Bài, An Thạnh, Trà Cao, Quéo Ba đều chịu chung số phận như Bến Cầu. Trong khi đó Sư đoàn 25 ngụy cứ bị giam chân ở Trảng lớn không dám bung ra ứng cứu cho nhau.


Lúc này lại có tin chiến thắng lớn Buôn Mê Thuột dội vào làm cho khí thế quân ngũ ở chiến trường càng sôi sục hẳn lên.

Bộ chỉ huy Miền lại có lệnh khấn cấp cho Quân đoàn 232 chuẩn bị khẩn trương tấn công vào thị xã Mộc Hoá. Đó là mục tiêu quan trọng cuối cung phải đánh chiếm của đơn vị tôi trong chiến dịch nay. Quyết tâm của Bộ chỉ huy 232 là phải nhanh chóng đánh qụy sư đoàn 9 của ngụy và lữ cơ giới là 2 lực lượng cơ động nòng cốt của ngụy ở đồng bằng sông Cửu Long. Tiêu diệt được 2 lực lượng này là cầm chắc giải phóng hoàn toàn thị xã Mộc Hoá và toàn tỉnh Kiến Tường mở ra cục diện mới ở Đồng bằng sông Cửu Long.


Các đồng chí tính uỷ Kiến Tường ngày đêm lăn lộn với chúng tôi, bám sát cơ sở, vận động quần chúng nổi dậy, kết hợp 2 chân 3 mũi ở cơ sở.

Tới ngày N (4/4/1975) mọi việc chuẩn bị cuối cùng đã xong. Sắp tới giờ hành quân vào chiếm lĩnh trận địa, chúng tôi nhận được bức điện khẩn của Bộ chỉ huy Miền như sau: "Lệnh cho Đoàn 232 thôi không đánh Mộc Hoá mà điều ngay một Sư đoàn xuống cắt lộ 4, chuẩn bị gấp rút đánh chiếm thị xã Tân An đồng thời chỉ đạo đặc công đánh sập cầu Bến Lức, kiên quyết không cho địch ở Sài Gòn về co cụm ở đồng bằng và không cho địch ở đồng bằng kéo về ứng cứu Sài Gòn. Anh Sáu Nam, tức Lê Đức Anh chỉ huy phó Bộ chỉ huy Miền và anh Hai Lê, tức Lê Văn Tường, Phó chính uỷ Bộ chỉ huy Miền đang trên đường đến chỗ các anh để truyền đạt nhiệm vụ, cụ thể". Cuối bức điện Miền còn nhắc chúng tôi cử người trong Bộ chỉ huy 232 đến làm việc với Tỉnh Long An để phối hợp hành động.


Lệnh đã rõ. Ngay đêm ấy, chúng tôi lưu luyến từ biệt các đồng chí Tỉnh ủy Kiến Tường rồi vội vã kéo quân lật cánh từ vùng đất Kiến Tường qua ngả "Mỏ vẹt" Ba Thu về đứng chân chờ lệnh ở vùng mới giải phóng huyện Đức Huệ Tỉnh Long An để tiện cơ động lực lượng theo hướng mới của chiến dịch.


Sau hai đêm hành quân thức trắng, toàn bộ lực lượng 232 đã từ hướng Tây quay ngoắt về hướng Đông. Tới địa điểm trú quân, việc cần phải làm ngay của Bộ chỉ huy chúng tôi là chia nhau xuống giúp Sư đoàn 5 chuẩn bị lên đường làm nhiệm vụ mới và cử người đi gặp Tỉnh uỷ Long An. Tôi và đồng chí Chỉ huy phó Hai Nghiêm được phân công đi làm việc này. Sáng sớm hôm sau chúng tôi lên đường. Phương tiện đi lại tiện nhất lúc đó ở vùng Đồng Tháp Mười vẫn là chiếc xuồng. Tháng tư, chưa có mưa. Lòng kênh chỗ thì có nước chạy máy đuôi tôm được, chỗ thì cạn phải dùng sào đẩy, hì hụi mãi sẩm tối chúng tôi mới tới chỗ Tỉnh uỷ. Đồng chí Bí thư Tính uỷ và đồng chí Tỉnh đội trưởng Long An đã được điện của Miền, đang chờ chúng tôi. Chúng tôi họp ngay trong đêm và ngồi trong một chiếc màn rộng vì muỗi Đồng Tháp Mười nõi tiêng là "vi vu như sáo thối".


Việc quan trọng đầu tiên cần bàn với Tỉnh uỷ là giúp bảo đảm cho sư đoàn 5 có ngay 400 chiếc xuồng để chở người và vũ khí qua Đồng Tháp Mười nhanh chóng ra cắt lộ 4. Việc không kém phần quan trọng nữa là kết hợp tốt giữa tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng làm tan rã binh lính ngụy và hạn chế tối đa pháo binh địch... Việc cuối cùng là chỉ đạo đặc công của Miền phối hợp với đặc công của tỉnh đánh sập cầu Bến Lức. Về đánh cầu Bến Lức, đồng chí chỉ huy quân sự tỉnh nêu 2 khó khăn: một là địch vừa đưa lữ 22B từ khu 5 về đóng giữ 2 bên cầu. Hai là Cầu Bến Lức dài và rất vững chắc, muốn đánh sập một đoạn thì phải dùng một khối thuốc nổ cực lớn và phải làm thế nào đặt khối thuốc vào đúng chỗ cần đánh.


Khó thật. Bàn mãi, người mệt, mắt cứng đờ mà vẫn chưa tìm ra kế hay. Cuối cùng đồng chí Chỉ huy đặc công đề nghị dung đám bèo lộc binh giấu kín người và thuốc trong đó, mạo hiểm trôi theo dòng nước bám vào chân cầu đặt được thuốc vào đó là xong. Mọi người tán thưởng kế hoạch đó.


Trời đã gần sáng. Tôi vừa ngả lưng thiếp đi một lúc thì được đánh thức dậy vì có điện hoả tốc của trên. Đồng chí Lê Đức Anh cho biết là Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh ngưng phá cầu Bến Lức vì tình hình đang phát triển thuận lợi. Lệnh Sư đoàn 5 phối hợp với lực lượng của Tỉnh đánh chiếm cả thị xã Tân An và cầu Bến Lức. Sau đó Sư đoàn phải bảo vệ cầu để ta sử dụng không được phá nữa. Việc bàn cả đêm mới xong nay lại đổi hẳn. Các đồng chí đặc công đã về từ lâu để lo việc phá cầu. Chúng tôi cử ngay một cán bộ tác chiến lanh lợi của tỉnh, vội vã đuổi theo đồng chí Chỉ huy đặc công truyền đạt mệnh lệnh trực tiếp cho đặc công chuyển sang đánh vào Sở chỉ huy lữ 22 và trận địa pháo của ngụy. Trời vừa mờ sáng, tôi và anh Hai Nghiêm lại vội vã quay về ngay Sở chỉ huy quân đoàn để kịp họp với anh Sáu Nam và anh Hai Lê.


Khi gặp tỏi, anh Sáu Nam vui vẻ hỏi:

- Các anh đã đoán được tại sao trên không cho 232 đánh thị xã Mộc Hoá rồi chứ?

Theo ý kiến các anh tôi triệu tập ngay hội nghị Đảng uỷ chiến dịch mở rộng để quán triệt tình hình và nhiệm vụ mới của chiến dịch.

Mở đầu cuộc họp, với nét mặt nghiêm trang khác thường, anh Lê Đức Anh thông báo chính thức quyết tâm của Trung ương, Bộ chính trị và Quân uỷ Trung ương trong bức điện gửi cho Bộ chỉ huy các mặt trận: Mở chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh. Tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất, bảo đảm dùng sức mạnh áp đảo của toàn quân của cả nước đập tan ngụy quân, đánh sập ngụy quyền, giải phóng hoàn toàn Miền Nam yêu quí trước mùa mưa năm nay.


Anh Lê Đức Anh dừng lại, nét mặt rạng rỡ hẳn lên khi truyền đạt hai nhiệm vụ của Quân đoàn dã chiến 232 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, một là: Cắt chiến lược lộ 4; Hai là: Đột kích chiến lược vào nội đô Sài Gòn, mục tiêu là đánh chiếm sở chỉ huy Biệt khu Thu đô của ngụy.


Anh Hai Lê cũng nhắc lại hai nhiệm vụ đó và thông báo quyết định của Bộ chỉ huy Miền tăng cường cho Đoàn 232 thêm sư đoàn 9 là đủ 3 sư bộ binh, tăng cường thêm tiểu đoàn tăng, tiểu đoàn pháo hạng nặng 130 ly, tăng cường thêm công binh, cao xạ để có đủ sức mạnh hoàn thành nhiệm vụ mới.


Ôi thật là chuyện phi thường. Tuy bọn chúng tôi đã đoán biết mong manh cả rồi. Nhưng nay được nghe chính thức quyết tâm của Đảng giao cho mình, bản thân tôi cũng như các đồng chí khác vẫn cảm thấy bất ngờ, xao xuyến, xúc động lạ thường. Vì có ai ngờ trận quyết chiến chiến lược vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ lại diễn ra sớm sủa như vậy. Chiến dịch lịch sử này lại được mang tên Bác Hồ kính yêu thật là thỏa lòng khao khát của chiến sĩ và đồng bào cả nước.

T.T


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:50:40 pm
NHỮNG NĂM THÁNG Ở B2


TƯ KỶ


Cuối năm 1966 vào đến Cục Chính trị tôi được bổ nhiệm làm Phó trưởng phòng Tuyên huấn Miền. Trưởng phòng là anh Lê Đình Lệ, từng công tác ở Ban liên lạc đình chiến sau Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, nay lấy bí danh là Tư Trực. Anh phân công tôi phụ trách khối tuyên truyền, thông tấn, báo chí, trong đó trực tiếp phụ trách tờ báo Quân giải phóng của Miền, ở đây tôi gặp những anh em quen biết cũ. Anh Phạm Phú Bằng vốn là phóng viên báo Quân đội nhân dân nay là phóng viên báo Quân Giải phóng của Miền với bút danh Phạm Hồi. Anh Nguyễn Ngọc Tân, nhà văn của Tạp chí Văn nghệ, với tên mới là Nguyễn Thi, cây bút chủ lực của Tạp chí Văn nghệ quân giải phóng. Vài hôm sau, khi vào Bộ chỉ huy Miền, tôi gặp anh Văn Phác, bây giờ có tên mới là Tám Trần. Anh từng là Bí thư của anh Nguyễn Chí Thanh, nay phụ trách văn phòng Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền.


Đi xem căn cứ của Phòng tôi, cũng như của các Phòng bạn và của Cục, tôi có những ấn tượng sâu sắc: những căn cứ hầm chữ A vững chắc. Những căn nhà xinh xắn dưới tán cây rừng, cột kèo thẳng thắn, được cắt gọt gọn ghẽ, liên kết với nhau hoặc bằng những cái chốt xuyên qua những lỗ khoan vừa vận, hoặc bằng những mối buộc bằng mây óng ả. Đặc biệt mái nhà được lợp bằng những tấm lá kết rất khéo dùng khá bền và khó cháy gọi là lá "trung quân". Giường, bàn, ghế được làm bằng gỗ, tre, nứa nhưng chắc chắn và đẹp mắt. Trước nhiều căn nhà là những cụm, những giỏ phong lan nhiều loại. Ban nào cũng có chuồng gà và phòng thì có một chuồng lợn với những con giống lai được đưa ra từ vùng địch tạm chiếm. Tất cả phải chăng là nhưng biểu hiện của tinh thần kháng chiến lâu dài cho đến thắng lợi hoàn toàn, của một cuộc chiến đấu lạc quan, đàng hoàng, chững chạc, của một trình độ văn hoá kháng chiến rất cao, rất đẹp! Tất cả nhưng công trình nói trên đều do anh chị em trong cơ quan tự làm lấy. Mỗi đơn vị đều được trang bị khá đầy đủ cuốc xẻng, dao, cưa, khoan tay v.v...


Cuối mùa khô 1966 - 1967, Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn Miền được tiến hành. Tôi đươc cử đi dự để góp phần vao công tác tuyên truyền, thông tin báo chí về Đại hội. Đối với tôi, đây là dịp tốt để tôi tiếp cận với thực tế chiến trường. Qua mấy dòng này, tôi không kể về Đại hội mà chỉ ghi lại một vài kỷ niệm cá nhân. Một buổi sau khi làm việc ở hội trường Đại hội về, anh chị em nhà báo chúng tôi mắc võng ngồi nói chuyện với nhau trong một căn nhà laá. Bỗng anh Ba Thắng - Phó Chủ nhiệm Cục chính trị Miền đến thăm. Anh vừa hỏi chuyện tôi về đường Trường Sơn, về những anh em ở Cục Cán bộ - nơi anh công tác trước khi về miền Nam, vừa xem xét chiếc võng của tôi, chiếc võng bằng vải bạt dầy đã cùng tôi vượt Trường Sơn vào đây. Khi Đại hội kết thúc, tôi được cử làm phái viên xuống Sư đoàn 7, đi ngay từ địa điểm Đại hội. Đi được khoảng 1 giờ đồng hồ thì một đồng chí liên lạc viên của Cục đi xe đạp theo kịp tôi. Anh tôi đưa cho tôi một chiếc võng ni lông mỏng nhẹ và cho biết là do anh Ba Thắng gửi cho tôi. Tôi rất xúc động. Nhân đây tôi xin kể lại một chuyện khác xảy ra sau đó vài ba năm. Nhận được quà từ miền Bắc gửi vào; Cục Chính trị Miền phát cho mỗi cán bộ Trưởng, Phó phòng một chiếc đồng hồ Đức. Tôi được nhận một chiếc. Một buổi lên họp ở trên Cục, giờ nghỉ, anh Hai Lê, Chủ nhiệm Cục Chính trị đến hỏi chuyện tôi. Anh nhìn chiếc đồng hồ tôi đeo rồi nói: "Sao, anh em lại phát cho anh đồng hồ loại này à? Để tôi nói anh em đổi cho anh chiếc đồng hổ có lịch". Khi buổi họp kết thúc thì lời hứa của anh Hai Lê cũng được thực hiện.


Trở lại chuyện Đại hội anh hùng - chiến sĩ thi đua. Đại hội kết thúc. Mọi người từng tốp, từng tốp theo đường dây giao liên trở về các đơn vị. Có lúc dọc đường, máy bay trực thăng Mỹ sà xuống rất thấp nhòm ngó rồi nhả đạn. Bác Đinh Thùy, nhà nhiếp ảnh lão thành của Thông tấn xã Giải phóng đã hy sinh trong chuyến đi này.


Trong cuộc chiến tranh giữa ta và Mỹ - ngụy, địch không có hậu phương an toàn và hậu phương của ta cũng luôn bị địch đánh phá. Không ít lần, máy bay trực thăng của địch vào sâu hậu phương của ta, chiếc thì bay cao yểm trợ, chiếc thì bay thấp hoặc hạ cánh hoặc thả người xuống chộp bắt cán bộ chiến sĩ ta đang qua trảng hoặc cánh đồng. Còn ném bom bắn phá là thường xuyên.


Tôi nhớ mãi một đêm khoảng tháng 3/1969. Do địch dùng trực thăng bắt được một chiến sĩ của ta, địch biết được vị trí căn cứ của Bộ chỉ huy Miền. Chung dùng B52 oanh tạc. Từ chập tối, cuộc oanh tạc bắt đầu.


Mỗi đợt là 3 chiếc ném bom rải thảm. Đợt sau cách đợt trước khoảng 30 phút đồng hồ. Cuộc oanh tạc kéo dài suốt đêm, mờ sáng hôm sau mới kết thúc, cá thảy 27 đợt với 81 lần chiếc B52. Sáng ra, 2 chiếc máy bay trực thăng đến. Chúng đang quan sát nhòm ngó thì từ bãi bom còn nóng hổi và khét lẹt, những đường đạn thẳng căng được phóng lên. Một chiếc bị hạ, chiếc kia chuồn thẳng. Trong chiếc máy bay địch bị bắn rơi, bên cạnh 2 tên phi công Mỹ chết là quyẽn hồi ký của Khrút-xốp xuất bản ở Mỹ bằng tiếng Anh và những chiếc còng số 8, hẳn là chúng định dùng để lượm những "Việt Cộng" còn sống sót sau cuộc oanh tạc đại qui mô không tiền khoáng hậu. Chúng đâu có thể tưởng tượng trong đêm hôm đó, chúng tôi ngồi trong các căn hầm chữ A, uống trà, nhấm nháp lạc rang chuyện trò với nhau. Sau mỗi đợt bom, chúng tôi nhô lên khỏi cửa hầm gọi hỏi thăm nhau. Cuối cùng qua suốt cuộc oanh tạc của địch, chỉ có một đồng chí hy sinh. Tinh thần, tâm lý chúng tôi vẫn vững vàng mà tiêu biểu là các đồng chí vệ binh đã bắn chính xác hạ máy bay trực thăng Mỹ.


Về mặt ác liệt mà nói, chiến trường miền Đông Nam Bộ nếu không nói là hơn thì cũng không kém chiến trường nao. Nhưng về hậu cần (trừ khu VI và vùng Bà Rịa) lại tương đối khá. Có những đợt chúng tôi thiếu gạo nhưng lại ăn độn bằng đỗ xanh. Có một quãng thời gian ngắn năm 1970, chúng tôi không có đủ lương thực. Mỗi người mỗi ngày chỉ có một lon gạo. Các đồng chí lãnh đạo Cục Chính trị Miền đã phải tính đến nước xem tài sản của Cục thứ gì có giá trị để đem bán lấy tiền đong gạo nuôi đơn vị. Nhưng thật may, rừng miền Đông, nguồn thực phâm lại khá phong phú. Rỗi đó gần căn cứ chúng tôi có rất nhiều chim, loại địa phương gọi là "gà đẫy", vì nó có một cái túi ở trước ngực. Chúng đi kiếm ăn rất xa, có người nói tận Biển Hồ ở Căm-pu-chia. Chúng để dành những con cá, bỏ vao cái túi, mang về tổ nuôi con. Đó là nguồn bổ sung thực phẩm của chúng tôi trong những ngày thiếu gạo. Thịt loại chim này lại có mùi cá, nhưng khi khó khăn, chúng tôi lại không phải là những người khó tính.


Hàng năm, cứ đến cuối mùa mưa là chúng tôi càng bận rộn. Năm nào cũng vậv, đến mùa khô, Bộ chỉ huy Miền đều tổ chức chiến dịch hoặc đợt hoạt động trên toàn Miền. Và chiến dịch nào cũng vậy, Bộ chỉ huy Miền cũng lập Sở chỉ huy tiền phương của Bộ để chỉ huy các sư đoàn, các binh chủng, các trung đoàn chủ lực trực thuộc tiến hành chiến dịch. Trong phần lớn các chiến dịch này, tôi đều được cử đi Sở chỉ huy tiền phương của Bộ.


Kỷ niệm sâu sắc nhất là chiến dịch mùa khô 1972. Tôi được cử làm phái viên xuống Trung đoàn 209 thuộc Sư đoàn 7 trong suốt chiến dịch. Trên đường ra mặt trận, vì còn là cuối mùa mưa nên có ngày hầu như suốt cuộc hành trình, chúng tôi phải lội nước. Rất thương anh em chiến sĩ, nhất là ở các đơn vị trực chiến. Vai mang vác nặng thế mà khi nghỉ, không có một mỏm đất nhô lên khói mặt nươc để anh em đặt vũ khí, hành lý xuống, ngay cả khi ăn cơm.


Trung đoàn tác chiến ở ven đường 22, khu vực Xa-Mát-Thiện Ngôn. Tôi có khi xuống tiểu đoàn, đại đội, nhưng thường là anh Việt Hồng trung đoàn trưởng, sau nay là thiếu tướng Phó Tư lệnh Quân khu I yêu cầu tôi ở Sở chỉ huy trung đoàn. Đây là những ngày đêm, tôi chia sẻ với cán bộ chiến sĩ trực tiếp chiến đấu những gian khổ hy sinh trong các công việc liên tục; hành quân, đào hầm hố, canh gác, tuần tra, chiến đấu; trong hoàn cảnh ở hầm, cơm nắm, thiếu ngủ, đạn bom của máy bay cường kích, máy bay lên thẳng, của các giàn đại bác, của biệt kích, của bộ binh và xe tăng thiết giáp địch. Tôi chia sẻ với anh em niềm vui khi chiến thắng và nỗi buồn khi có đồng đội hy sinh. Ngay Sở chỉ huy trung đoàn cũng mấy lần bị máy bay oanh tạc và pháo giặc đánh trúng. Tôi đã cùng anh em chôn cất các đồng chí hy sinh, trong đó có đồng chí Phó Tham mưu trưởng trung đoàn. Và chính ở đây, người em họ gần của tôi là Ngô Qúy Linh, trợ lý quân lực của trung đoàn đã hy sinh. Bản thân tôi cũng mấy lần cách thế giới bên kia trong gang tấc, Song cái chính là niềm phấn khởi: trong chiến dịch, Trung đoàn 209 đã hoàn thành nhiệm vụ và có bước trưởng thành dài.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:51:18 pm
Đầu năm 1973, do thắng lợi của Hội nghị Pa-ri, hiệp định hòa bình được ký kết, tôi được cử làm một cán bộ trong đoàn đại biểu quân sự của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, tham gia liên hiệp quân sự bốn bên ở trại Đa-vít ngay trong thành phố Sài Gòn đang còn bị Mỹ - ngụy kiểm soát. Đoàn sẽ do máy bay lên thẳng của Mỹ đưa từ sân bay Lộc Ninh. Chúng tôi dự kiến các tình huống xâấu có thể xảy ra và định cách đối phó. Tình huống xấu nhất là địch xé lẻ đoàn chúng tôi, đưa mỗi nhóm trên mỗi chiếc trực thăng đến mỗi nơi khác nhau với âm mưu nham hiểm. Chúng tôi hứa với nhau dù hoàn cảnh nào, mỗi cán bộ chiến sĩ đều giữ vững khí tiết và tư thế của người chiến sĩ cách mạng chiến thắng.


Đến ngày giờ qui định, chúng tôi có mặt ở sân bay Lộc Ninh. Trong khi chờ máy bay trực thăng, chúng tôi vẫn phải cảnh giác, sẵn sàng đối phó nếu địch lật lọng cho máy bay chiến đấu đến oanh kích. Điều này đã từng xảy ra trong một dịp chúng ta trao trả tù binh Mỹ ở Tây Ninh. Nhưng rồi đã thấy xuất hiện những máy bay lên thẳng trên nền trời phía Sài Gòn bay lại. Chúng lần lượt đỗ xuống đường băng. Các phi công Mỹ xuống, mở cửa máy bay. Từ đây cho đến suốt thời gian ở Liên hiệp quân sự bốn bên trong trại Đa-vít, tôi có một cảm giác rất lạ. Chúng ta và Mỹ ngụy trước đây hễ xuất hiện đối diện nhau là nổ súng. Bây giờ gặp nhau là để đối thoại, để làm việc, để đấu tranh với nhau bằng các biện pháp khác. Chúng tôi lên máy bay. Các máy bay lần lượt rời khỏi đường băng và bay về phía Sài Gòn. Tôi nhìn xuống: những cánh rừng xanh thẫm, những con đường, những dải hố bom B52 dằng dặc, những khoảnh rừng vàng úa vì chất độc hoá học, rồi những cánh đồng, những thôn ấp, thị xã Thủ Dầu Một, những cây cầu đi vào Sài Gòn, rồi thành phố Sài Gòn xe cộ tấp nập. Nhưng máy bay lại chưa hạ độ cao, còn lượn mấy vòng quanh bầu trời bắc Sài Gòn. Về sau chúng tôi được biết lúc đó sân bay Tân Sơn Nhất còn chưa được sẵn sàng. Ít phút sau, đoàn máy bay lần lượt hạ xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Xung quanh bãi đáp, những tên lính ngụy mũ sắt, quần áo rằn ri, lăm lăm súng M16 Mỹ nòng chĩa chếch lên trời. Chúng tôi xuống máy bay lên xe buýt đi vào trại Đa-vít, vốn là một doanh trại của quân Mỹ trong khu vực sân bay Tân Sơn Nhất.


Sự có mặt của đoàn quân sự của Chính phủ Cách mang lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, đứng đầu là tướng Trần Văn Trà rất quen thuộc với đồng bào Sài Gòn và Đoàn quân sự của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do tướng Lê Quang Hoà là Trưởng đoàn, tại giữa thành phố Sài Gòn là thêm một minh chứng hùng hồn về thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân cả nước ta, mặc dù địch ra sức xuyên tạc, bưng bít.


Trong những ngày chúng tôi ở trại Đa-vít, địch hết sức hạn chế sự tiếp xúc của chúng tôi với nhân dân. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp nhận được cảm tình của đồng bào đối với cách mạng qua ánh mắt, nụ cười và những cử chỉ kín đáo của bà con những khi chúng tôi, mặc dù chỉ bằng ôtô, đi trên các đường phố Sài Gòn.


Trong dịp miền Bắc trao trả cho Mỹ đợt đầu tiên những phi công Mỹ bị bắt, tôi được lãnh đạo Đoàn cho phép ra gặp gia đình nhưng với danh nghĩa một thành viên bộ phận của Đoàn miền Nam cùng bộ phận của Đoàn miền Bắc, bộ phận của phía Mỹ ngụy và Uỷ ban quốc tế ra Hà Nội chứng kiến cuộc trao nhận tù binh Mỹ. Các anh ở đoàn miền Bắc đã điện ra Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng tham mưu để báo cho gia đình tôi. Chúng tôi đi trên một chiếc máy bay C130 của Mỹ. Từ trên máy bay nhìn xuống miền Bắc thân yêu, xuống thành phố Hà Nội quê hương, lòng tôi bồi hồi không sao tả xiết. Máy bay hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm. Cơ thể tôi có một nhược điểm cứ đi máy bay là tai bị ù nhức, người bị say choáng váng. Vừa xuống máy bay, tôi được một đồng chí quen dẫn tới một căn phòng nhỏ. Bước đến cửa phòng, tôi nhìn thấy nhà tôi và hai cháu. Làm sao mà nói hết được nỗi mừng vui của chúng tôi khi được gặp nhau sau 7 năm xa cách trong chiến tranh khốc liệt? Song chúng tôi không nói chuyện nhiều được với nhau vì đông đảo bạn bè hỏi han tíu tít. Thằng con lớn của chúng tôi lại bị sốt. Các bè bạn tất bật đánh gió cho cháu. Anh Kinh Chi, Cục trưởng Cục Bảo vệ, bảo gia đình chúng tôi ra trước nhà để anh chụp cho mấy kiểu ảnh. Tôi cười hỏi: “Tôi đang trong vai thành viên của phái đoàn miền Nam, anh không ngại bọn Mỹ ngụy la lối sao"? Anh cưới đáp: "Kệ cha chung nó!". Thế la chúng tôi cười vang và đi ra chụp ảnh. Tôi cũng không có thì giờ về thăm lại căn hộ của gia đình mình ở ngay bên kia sông Hồng, trên đường Điện Biên Phủ. Giờ trở lại Sài Gòn đã đến. Chúng tôi bịn rịn chia tay nhau với niềm tin ngay tái ngộ không còn xa lắm.


Công tác được khoảng hai tháng không may tôi bị đau bụng dữ dội do viêm tắc ống dẫn mật. Mặc dù được dùng mấy thứ thuốc, có thứ quý hiếm do các anh trong hai phái đoàn đàm phán của ta tại hội nghị Pari mang từ Pháp về, nhưng tôi vẫn chưa khỏi bệnh. Tôi buộc phải kết thúc những ngay ở trại Đa-vít, ra căn cứ để chữa bệnh và công tác.


Sau khi bộ đội Miền giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long ít lâu, một buổi đơn vị tôi đang tu sửa lại doanh trại và vun sới vườn rau thì có các anh lãnh đạo Miền đến thăm. Anh Bẩy Cường (tức đồng chí Phạm Hùng) Bí thư Trung ương Cục, Chính uỷ Miền cười hỏi: "Các đồng chí định ở đây lâu dài hay sao mà chăm chút cẩn thận dữ vậy?" chúng tôi linh cảm có những sự kiện trọng đại sắp diễn ra.


Quả nhiên sau đó ít hôm, tôi được triệu tập vào Bộ Chỉ huy Miền nghe phổ biến riêng về chiến dịch lớn sắp tới, chiến dịch Hồ Chí Minh. Các anh giao cho tôi dự thảo lệnh động viên toàn thể các lực lượng tham gia chiến dịch. Lòng tôi bồi hồi xúc động vô cùng. Sẽ khác Mậu Thân 1968, lần này nhất định chúng ta sẽ giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tôi ngồi vào bàn và dự thảo văn kiện lịch sử. Tay tôi run lên khi viết dòng chữ: "Nhất định chúng ta sẽ cắm cao lá cờ Quyết chiến Quyết thắng của Hồ Chủ tịch trên nóc dinh Độc Lâp, sào huyệt cuối cùng của bè lũ Mỹ ngụy". Sau vài hôm tôi rất phấn khởi được tin bản dự thảo đã được thông qua, chỉ sửa chữa thêm bớt đôi chút, trong đó có thêm một ý của anh Bảy Cường: "Với khí thế Trường Sơn chuyển mình, Cửu Long dậy sóng".


Trong chiến dịch này, tôi được cử làm phái viên xuống Quân đoàn III, tác chiến trên hướng Tây Bắc Sài Gòn. Chúng tôi đi giữa ban ngày đến Sở Chỉ huy Quân đoàn. Đất Củ Chi bị Mỹ ngụy san ủi hoang hoá mênh mông, không còn cây cao, chỉ có cỏ lau sậy và những cụm cây xấu hổ lúp xúp. Đến một chỗ có dân ở, chúng tôi được cô bác mời ăn dưa hấu. Trong đời, chưa khi nào tôi ăn dưa hấu thấy ngon mát như vậy. Trời nắng nóng, miệng khát khô và lòng dân "đất thép".


Tôi có mặt ở Sở Chỉ huy Quân đoàn vào đêm Sư đoàn 320 đánh căn cứ Đồng Dù - Củ Chi. Trận đánh dứt điểm va toàn Quân đoàn tiến về Sài Gòn thì mờ sáng ngày 30/4/1975, Quân đoàn chuyển cho tôi bức điện của Cục Chính trị Miền gọi tôi về ngay căn cứ để nhận nhiệm vụ mới.


Trong lòng, tôi rất muốn đi cùng đơn vị đang tiến đánh vào Sài Gòn, nhưng vì kỷ luật, tôi bắt buộc phải trở lại căn cứ của Cục chính trị Miền. Tôi có mang theo một chiếc đài thu thanh nhỏ. Vừa đi đường tôi vừa nghe đài Sài Gòn. Đến Bến Củi thì tôi nghe được lời tuyên bố đàu hàng của Dương Văn Minh, Tổng thống ngụy quyền. Cũng y như hồi ở căn cứ của Cục Tuyên Huấn - Tổng Cục Chính trị ở Việt Bắc khi nghe tin ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm của Pháp ở Điện Biên Phủ, lần này tôi cũng không sao nén nổi xúc động, tôi và đồng chí bảo vệ ôm chầm lấy nhau mà khóc.


Khi về đến căn cứ thì toàn cơ quan đang chuẩn bị hành quân về tiếp quản các cơ sở của Tổng cục Chiến tranh chính trị của quân ngụy tại thành phố Sài Gòn được giải phóng. Sau đó ít lâu, tôi thực hiện được mong ước của vợ chồng tôi khi tôi đi B: Trở về Hà Nội đoàn tụ gia đình qua thành phố Sài Gòn.

T.K


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:51:57 pm
TỪ MỘT TẤM HÌNH


VIẾT TÁ


Nguyễn Thế Kỷ vừa tặng tôi tấm hình chụp năm 1973, kỷ niệm 10 năm báo Quân Giải phóng Miển Nam Việt Nam ra đời (01/11/1963 - 01/11/1973).


Được có mặt ở báo từ khi ra đời cho đến hoàn thành nhiệm vụ lịch sử sau 30/04/1975, nhìn tấm hình với bao khuôn mặt thân quen lại gợi nhớ một thời làm báo trong chiến tranh. Từ đồng chí lãnh đạo, cán bộ biên tập đến từng phóng viên, cộng tác viên và phục vụ có mặt và không có mặt trong hình đã 35 năm trôi qua.


Anh Hai Chân (trung Lướng Lê Văn Tưởng) ngồi giữa với vầng trán cao, Chủ nhiệm Chính trị đầu tiên của Quân Giải phóng Miền Nam và cũng là một trong các đồng chí lãnh đạo chủ trương ra báo Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Ngô Thế Kỷ bên phải anh Hai, trưởng phong phát thành quân đội năm 1966 tăng cường cho báo Quân giải phóng miền Nam. Cách một người bên trái anh Hai là Phan Cẩn phụ trách bộ phận phóng viên sau Phú Bằng, kế anh là Trần Ngọc lúc đó là phóng viên báo Quân đội Nhân dân tại chiến trường. Ba Hiên đứng sau chếch bên phải anh Ngô Thế Kỷ thư kỷ toà soạn từ ngày báo ra đời cho đến kết thúc. Tôi nhìn mãi ngươi đứng kế Đặng Văn Nhưng, một hồi lâu nhận rõ anh Bảy Thưởng (Lê Thế Thưởng) phó Phòng Tuyên huấn, hoạ sĩ "nghiệp dư" của báo chuyên vẽ tranh biếm rất có nét. Trong hình có độc nhất một phụ nữ: Hà Phương Thịnh phụ trách một nhiệm vụ cũng đặc biệt của báo: Trợ lý văn chương. Còn biết bao đồng nghiệp trong tấm hình: Mai Chiến Thái, Thanh Giang, Nguyễn Đức Toàn, Nam Hương... và cũng còn nhiều người không có trong hình: Phú Bằng, Ngọc Bằng, Trần Hàm Ninh, Ngô Vy Ân... lớp phóng viên A14 (1966), lớp phóng viên 1973... mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một nhiệm vụ đều phấn đấu hoàn thành.


Tiếc rằng tấm hình không có mặt: Nguyễn Ngọc Châu, Thân Trọng Hân hy sinh tại chiến trường năm 1968, Lý Chí ngụy hy sinh trong một trận bom B.52 của Mỹ năm 1972... Các đồng chí lãnh đạo Miền, Cục Chính trị trong đó có đồng chí Văn Phác, Phòng Tuyên huấn có anh Tư Trực trực tiếp nhiều năm chăm lo tờ báo. 35 năm trôi qua, nhiều đồng chí hy sinh trong chiến tranh và cùng nhiều đồng chí đã vĩnh biệt đồng nghiệp: Lê Thế Thưởng, Phan Cẩn, Mai Bá Thiện.


13 năm hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, nhiều cán bộ biên tập, phóng viên chuyẽn sang công tác khác. Nhưng cũng còn không ít nặng nợ với nghề báo: Đặng Văn Nhưng, Việt Ân, Hoàng Huân, Trần Đình Bá... báo Quân đội Nhân dân Việt Nam; Nguyễn Viết Tá, Trần Phấn Chấn, Thanh Giang, Võ Trần Nhã... báo Cựu chiến binh thành phố; Vũ Ngọc Xiêm báo Du lịch TP Hồ Chí Minh; Trường báo Thanh Hoá; Hùng báo Hàng Không... và cả Trần Ngọc, có mặt trong tấm hình nay là Tổng bién tập báo Cựu chiến binh Việt Nam.


Từ một tấm hình chụp 25 năm và từ báo Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đã 35 năm, chỉ xin gợi nhớ một số khuôn mặt thân quen và không thể nào nêu lại đầy đủ để hồi tưởng một tờ báo trong chiến tranh: Báo Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam.

V.T


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:52:31 pm
CHUYỆN NGÀY XƯA
Nhân dịp gặp mặt đầu xuân Ất Hợi
của anh chị em Cục Chính trị Miền - B2


MƯỜI TÀI

   Khi ở Miền là chàng trai, cô gái,
   Nay tóc sương, vẫn "cô gái, chàng trai,"
   Vạn niên thanh dẫu lá chẳng xanh hoài,
   Lính giải phóng, chất nhộn vui còn mãi
   Từ khắp nẻo, nghĩa tình gom tụ lại,
   Một năm tròn được một buổi bên nhau.
   Vẫn bóng quân trang lá mạ bạc màu,
   Không dép lốp vướng bụi đường đất đỏ.
   Mũ tai bèo chỉ thấy trên ảnh nhỏ,
   Túi gạo thôi mang, mất tự bao giờ,
   Cất rồi băng nửa đỏ, nửa xanh lơ
   Còn chăng nữa gửi bảo tàng kỷ vật
   Gặp lại nhau những tấm lòng chân thật
   Ánh mắt thân thương, giọng nói ân tình,
   Ríu rít đổi trao, chị chị, anh anh,
   Phim quá khứ chắp nối nhau quay lại
   Lội suối băng rừng, đường mòn tiếp mãi...
   Thân bằng lăng, những cột chống vòm cao
   Trảng soài qua, nước miếng muốn tuôn trào,
   Rừng le thưa vẫn đủ che mắt giặc...
   Tiếng tắc kè đêm đêm trêu lính Bắc*
   Đỉa vắt đùa dai, ớn gót văn công.
   Vỏ bom bi che ánh sáng phòng không
   B52 bom rơi không đếm hết.
   Phủi chân đất, mỉm cười khinh cái chết!
   Bác Ba Phi bám võng lính lên Miền.
   Cán bộ nào huấn thị rất là duyên??
   Chuyện hài hước đương đầu cùng gian khó.
   Tính vui nhộn giúp đồng cam cộng khổ
   Để hôm nay ôn nhớ chuyện ngày xưa
   Biết bên nhau nhắc lại cũng không thừa
   Nhưng... nhường bạn ôn kể thêm chuyên cũ

19-2-1995
M. 7

* Tiếng kêu "tắc kè”, “tắc kè” nghe như tiếng: "Bắc Kỳ”, “Bắc Kỳ”.
** Lính giải phóng Miền Tây thích kể chuyện vui của bác Ba Phi người hài hước nổi tiếng vùng sông Hậu.


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:53:17 pm
NHỚ VỀ MỘT CA KHÚC MIỀN ĐÔNG

NGUYỄN TRỌNG HIẾU


Đã gần một phần tư thế kỷ trôi qua, nhớ lại năm tháng chiến trường, bao kỷ niệm cũ lại hiện lên trong ký ức tôi.

Những ngày tháng ở Miền Đông bao khó khăn chồng chãt, bao gian nan vất vả... Nhưng chúng tôi - những diễn viên văn công quân giải phóng B6, những nghệ sĩ, chiến sĩ luôn luôn tự hào với thời trai trẻ ấy, tự hào với thời chống Mỹ ngày xưa.


Nhớ mãi tình đồng đội, đồng hương khi ấy sao lớn lao là vậy!

Lúc đó vao năm 1974, trước ngày đất nước hoàn toàn thống nhất độc lập 1 năm, chúng tôi đang ở Lộc Ninh, căn cứ địa của vùng giải phóng, ở đó, không khí sau ngày ký hiệp định Paris thật tưng bừng náo nhiệt.


Trên những nẻo đường đi biểu diễn, chúng tôi cảm nhận thấy một vùng đất tự do rộng lớn, không khí cách mạng hừng hực. Quân dân đều lạc quan tin tưởng vào ngày giải phóng đang đến dần.

Thời gian ấy, tôi đã viết ca khúc "Về Miền Đông". Bài này được Ca sĩ Mai Khi trình diễn rất xúc động. Ít ngày sau, chúng tôi được nghe bài hát này phát trên Đài giải phóng. Đó là một kỷ niệm thật đáng nhớ trong cuộc đời tôi.

12-1998
N.T.H


VỀ MIỀN ĐÔNG

Ai đã về miền Đông qua Bình Dương Lộc Ninh vàm cỏ Đông qua rừng cao su xanh bạt ngàn.

Ai đã nghe tiếng miền Đông gian lao mà anh dũng, trung kiên mà bất khuất bao năm miền Đông mến yêu ơi mây đen tan rồi ánh mặt trời đang rọi chiếu sưởi ấm cho những cánh hoa tươi màu đang hé nở dưới ánh nắng hồng mùa xuân

Rừng xanh hôm nay reo vui như hát lên bài ca giải phóng

Gió mới tràn đầy sức sống đang về miền Đông đất anh hùng về miền Đông miền Đông đất anh hùng


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:54:08 pm
MỘT THỜI ĐỀ NHỚ!


MAI CHIẾN THÁI


Cũng như biết bao đồng đội khác, trong đời lính ít ai có được may mắn công tác và chiến đấu ở một đơn vị từ đầu đến cuối. Tôi đã phải kinh qua nhiều đơn vị và công việc khác nhau và ở đâu tôi đều cảm thấy sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau đầy ắp tình đồng chí, đồng đội, tình người. Nhưng đơn vị gây ấn tượng sâu sắc nhất, sống và làm việc đẹp nhất đối với tôi, đó là Phòng Tuyên huấn - Cục Chính trị thuộc Bộ chỉ huy Miền - B2.


Khi quân xâm lược Mỹ ồ ạt kéo quân vào Miền Nam và leo thang chiến tranh Miền Bắc nước ta, cũng là lúc Đoàn 707 - đoàn cán bộ Miền Bắc tăng cường cho chiến trường miền Nam do anh Lê Nam Phong, nay là trung tướng, làm trưởng đoàn đã có mặt ở căn cứ địa của Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phong Miền đông ở tỉnh Tây Ninh - Đông Nam bộ.


Với cái lạ lẫm vùng căn cứ kháng chiến ở Miền Đông Nam bộ, cách đồn bốt Mỹ nguỵ không xa lắm, với sự háo hức của một cán bộ trẻ mới tốt nghiệp khoá đào tạo cán bộ trung cấp chính trị ở học viện quân chính Bộ Quốc phòng, tôi được bổ sung về Phòng Tuyên huấn.


Ở đây tôi được sống và làm việc trong vòng tay thân tình ưu ái của các anh các chị đã công tác từ nhiều năm về trước. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Phong Tuyên huấn lúc bấy giờ có quy mô bề thế, có đủ các ban tuyên truyền, giáo dục, văn nghệ, ban trị sự báo Quân giải phóng, ban tư liệu, bình xã luận báo Quân giải phóng kiêm phục vụ Đài phát thanh, văn công, điện ảnh, văn thư bảo mật, nhà in, điện đài minh ngữ...


Một guồng máy cả mấy trăm con người gồm những cán bộ chiến sỹ khắp 3 miền quy tụ về đây, đặc biệt có các cô, các cháu ở các tỉnh thuộc khu 7, 8, 9 và Sài Gòn Gia Định như: Hai Hải, Minh Khai, Văn Nga, Mỹ Dung... Ngọc Hoá, Kim Thanh, Lý Chí Nguy... đã vượt qua vòng vây kìm kẹp của Mỹ nguy lên chiến khu tham gia kháng chiến cũng có mặt ở Phòng tuyên huấn. Dù thân gái dặm trường - Thuý Nga, Phương Thịnh, Vinh Hồng Xuân đã vượt hàng ngàn cây số Trường Sơn kề vai sát cánh với các "đấng nam nhi" tuyên huấn.


Như những con ong chăm chỉ, theo sự phân công của tổ chức, người làm việc ở căn cứ, người xuống cơ sở hay ra phía trước, vừa phục vụ kịp thời cho nhiệm xây dựng và chiến đấu, vừa phải tự lo lấy cuộc sống hàng ngày.


Ở Phòng Tuyên huấn có cái lý thú là sau một ngày làm việc vất vả, tối đến, phát huy sở trường của mình, vài ba anh em xuống suối câu cá, bốn nam anh em vào rừng đi săn. Trong đội săn bắn ít khi thiếu vắng các "cây thiện xạ" đầy kinh nghiệm như: Anh Hai Hùng, Hai Nhã, Ba Rêu và mỗi khi bắn được thú lớn, quy mô cải thiện không bó hẹp ở Phòng Tuyên huấn mà trở thành "Ngày hội", bạn bè các phòng bạn đến chung vui. Chúng tôi lại có dịp ôn chuyện hậu phương, chuyện gia đình quê hương.


Qua mấy đời trưởng phòng như: Anh Tư Trực, anh Sáu Tòng rồi anh Ngô Thế Kỷ... mọi việc ờ Phòng Tuyên huấn diễn ra nhịp nhàng không ồn ào, nhưng đầy khí phách và đạt hiệu quả cao.

Hơn 40 năm sống, công tác và chiến đấu trong quân ngũ, có thể nói đây là thời điểm bom đạn ác liệt nhất, sinh hoạt thiếu thốn gian khổ nhất và cũng là thời kỳ sóng gió nhất. Chúng tôi thường tâm sự với nhau, đã ở R (căn cứ địa B2) thi phải chấp nhận chung sống với bom B52, chất độc hóa học và sốt rét ác tính. Nhưng theo tôi đây là thời kỳ đẹp nhất, thời kỳ đáng ghi nhớ nhất về tình đồng chí, đồng đội, tình người. Suốt thời gian dài, cả chục năm không hề có phân biệt trong Nam hay ngoài Bắc, không cách biệt vì cấp bậc địa vị, không cậy tuổi tác và sự cống hiẽn, không phân cách bởi đơn vị đóng quân ở vòng trong hay vòng ngoài.


Tất cả, tất cả cùng một ý chí, một tấm lòng vì công viêc. Ai cũng thầm mong cho những chuyến đi ra phía trước của đồng chí mình được trở về an toàn, ai cũng vui mừng reo lên sau mỗi đợt máy bay B52 ném bom mà vẫn nghe có tiếng gọi nhau ở hầm bên cạnh báo hiệu cho sự an toàn. Và đã bao lần nghẹn ngào trước sự hy sinh của bao đồng nghiệp ra đi mà không bao giờ trở về, biết bao các cô, các chú, các cháu nhỏ bị bom đạn Mỹ ngụy cướp mất cuộc sống!


Ngần ấy năm công tác ở Phòng Tuyên huấn phải thấm trải bao nỗi buồn, vui, mất mát, những thương đau trước sự hy sinh thầm lặng của hàng ngũ những ngươi cầm bút, những người phục vụ...

Ấy vậy mà bao giờ lương tâm cũng giục giã mọi người phải có dũng khí, phải vươn lên làm tròn nhiệm vụ ở tiền tuyến lớn để rút ngắn khoảng cách với hậu phương lớn. Hiếm thấy có sự bon chen, cơ hội, vị kỷ trong cuộc sông, ở đây chân lý "Mình vì mọi người và mọi người vì mình" được thể hiện thật đậm nét.


Có lẽ với những con người như thế với tâm hồn trong sáng như thế, với cách đối nhân xử thế đầy tình nghĩa như thế đã chắp cánh cho anh chị em trong Phòng Tuyên Huấn chúng tôi vượt lên tất cả làm tròn nhiệm vụ của một "lính chiến" ở tiền tuyến lớn.


Tuy đã xa đồng chí, đồng đội 25 năm nhưng tôi vẫn nhớ như in những hình ảnh đẹp của một thời công tác, chiến đấu ở Phòng Tuyên huấn Cục chính trị B2. Xin ghi lại vài nét mộc mạc của một thời để nhớ.

M.C.T


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:54:46 pm
NGÀY TÁI NGỘ

BÙI VĂN SƠ


TẠI TÂN SƠN NHẤT
   Trời tháng 5 nóng quá!!!
   Lòng bồi hồi khôn tả
   Đứng, ngồi cũng chẳng yên
   Thức trắng hết cả đêm
   Chẳng tài nào ngủ được...


SÂN BAY GIA LÂM
   Trời Hà Nội xanh thắm
   Hoa Phượng đỏ rực trời
   Đã có xe đón rồi
   Cả Đoan về "Sáu Sáu" (66)
 

VỀ ĐẾN NHÀ:
   Vợ con mới chuyển nhà
   Nên không tường địa chỉ?...
   Nhờ một bà thiện ý
   Đưa tận về tới nơi
   Ôi người thân đây rồi!!
   Sao mà vui sướng thế!

Viết tháng 5/1975 khi được về thăm gia đình sao 10 năm xa cách.

B.V.S


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:55:19 pm
ẤN TƯỢNG B2

NGÔ THẾ KỶ

   Bao giờ trở lại Đông Nam Bộ
   Tôi sẽ đi thăm xóm Cà Tum
   Vào rừng hái nắm măng le củ
   Rồi xuống hố bom bắt cá tôm
   Thăm hết Lò Gò sang xóm Giữa
   Dạo choi Xa Mát ghé Đồng Pan
   Lên rừng lại nhớ sông Vàm cỏ
   Tìm ở đâu những xác xe tăng?
   Vui chân về lại căn cứ cũ
   Còn không những mái lá trung quân?
   Đâu đó một buổi chiều se lạnh
   Chị Ba trao tặng tấm khăn rằn
   Chiều xuống tôi ra ven Trảng lớn
   Ngắm nhìn màu tím núi Bà Đen
   Nước chảy đâu đây nghe róc rách
   Suối Tha La hay suối Bà Chiêm?
   Rừng đêm yên tĩnh hay nơi tác?
   Dọc, cheo, gà đầy hẳn càng nhiều
   Quả gùi mới chín, chua hay ngọt
   Phong lan nay mọc thấp hay cao?
   Sông Sài Gòn nước sâu hay cạn?
   Đi Lộc Ninh rồi Sóc Con Trăng
   Mang nắm hương thơm tìm mộ bạn
   Nằm khuất đâu đây dưới rừng bằng
   Ngày toàn thắng vào Dinh Độc lập
   Nhớ buổi lên đường tại Miền Đông
   Nô nức đưa quân vào chiến dịch
   Để làm nên trận đánh cuối cùng
   Vui gặp bạn giữa Xuân Hà Nội
   Lòng không nguôi nỗi nhớ B2
   Những má Năm, chị Tư, em Sáu
   Những bác Ba, anh Chín, chú Mười
   Những ngày đêm hy sinh, cống hiến
   Những tháng năm đẹp nhất cuộc đời.

Tháng 2 năm 1997
N.T.K


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:56:48 pm
MÃI MÃI LÀ NGƯỜI LÍNH B2


NGHIÊM HÀ


Từ sau đại thắng mua xuân 1975, nước nhà được thống nhất, Bắc- Nam xum họp một nhà. Phần lớn anh chị em công tác ở Cục chính trị B2 quê miền Bắc đều nhận nhiệm vụ mới và theo năm tháng lần lượt trở về với cuộc sõng đời thường.


Cứ mỗi độ xuân về, tết đến mặc dù được sống trong cảnh đầm ấm và hạnh phúc của gia đình, nhưng trong mỗi chúng tôi như cảm thấy trống vắng một cái gì đó thật thiêng liêng và thật cụ thể; phải chăng đó là tình đồng chí đồng đội đã từng gắn bó với nhau, sống chết với nhau cả chục năm ở chiến trường Nam Bộ.


Lúc đầu một số anh chị em văn công, điện ánh cư trú ở Hà Nội tìm gặp nhau, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm riêng tư, những chuyến đi phục vụ chiến dịch mà mỗi thước phim, mỗi kiểu ảnh đều phải đổi bằng xương máu; những lần đoàn văn công biểu diễn giữa những đợt B52 của giặc Mỹ; có đồng chí ngậm ngùi kể lại những trận chống càn, những lần đối mặt với bọn biệt kích "ở cứ", những ai còn, ai mất.


Từ những tình cảm sâu đậm đó đã trở thành ý nguyện của đông đảo anh chị em đã từng chiến đấu và công tác ở Cục chính trị B2 và được các đồng chí từng giữ trọng trách ở Cục chính trị B2 ủng hộ nguyện vọng và tình cảm trên là thành lập "Hội những người bạn chiến đấu cũ ở Cục chính trị B2" hiện cư trú ở Hà Nội. Thời điểm đó vào tháng 1-1989.


Theo thường lệ, hàng năm cứ sau tết âm lịch, các anh chị em ở các tỉnh lân cận như Hải Phòng, Nạm Định, Hà Nam, Phú Thọ, Thanh Hoá, dần dần lan ra Nghệ An, Thái Nguyên, cứ tới tấp điện về hỏi ngày họp mặt. Những ngày trung tuần tháng giêng âm lịch là Ban liên lạc bận túi bụi, vì yêu cầu là không để sót một ai có danh sách mà không có giấy mời.


Buổi họp mặt lần thứ 9 được tổ chức tại Viện bảo tàng Cách mạng ở thủ đô Hà Nội đã có trên 100 thành viên, đủ các cơ quan thuộc Cục chính trị B2: tuyên huấn, tổ chức, cán bộ, bảo vệ dân vận, địch vận, văn công, quay phim, chiếu bóng, nhiếp ảnh, báo Quân giải phóng, văn nghệ, Quân giải phóng, vận tải, hậu cần v.v... đều có mặt; họ về từ nhiều địa phương và bằng mọi loại phương tiện, hầu như ai cũng đến sớm so với thời gian triệu tập, có đồng chí về từ hôm trươc để được gặp nhiều bạn bè, hàn huyên được nhiều chuyện, bù cho 1 năm xa cách. Có đồng chí mới lần đầu về cứ ngơ ngác, hết nhìn mọi người nọ đến người kia, khi nhận ra nhau rồi thì ôm choàng lấy từng người, bùi ngùi xúc động ôn lại những kỷ niệm xưa, những trận chiến đấu chống càn, từ At-ten-bo-rơ, đến Gian-sơn Xy-ty, Chen-la I, Chen-la II... rồi cũng không quên kể cho nhau nghe chuyện làm ăn, sinh hoạt trong cuộc sống đời thường.


Nhiều đồng chí đã ở tuổi 60, 70, thành cụ cả, thú vị biết bao, có đồng chí những năm tháng ở B2 là cần vụ, nay về gặp thủ trưởng ở đây, tay bắt mặt mừng, thủ trưởng thì "thất thập cổ lai hy", còn chiến sĩ "ngũ thập tri thiên mệnh", tóc đã muối tiêu và đều có cháu nội, cháu ngoại cả.


Trở về với đời thường, nhiều đồng chí phải bươn chải với cuộc sống, có đồng chí tuổi cao sức yếu, có đồng chí thương tật tái phát, ốm đau và gặp điều bất hạnh, nhưng mỗi năm 1 lần về gặp mặt nhau như được tiếp thêm sức mạnh, ai nấy đều vui vẻ phấn khởi, như trút bớt được nỗi băn khoăn, trăn trở, toan tính hàng ngày.


Điều đáng mừng trong số các đồng chí đã từng công tác ở Cục chính trị B2 vẫn còn một số đồng chí tiếp tục đảm đương những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước và Quân đội, còn phần lớn anh chị em đã nghỉ hưu, nhưng tất cả đều giữ vững và phát huy bản chất "anh bộ đội Cụ Hồ", đều là những cựu chiến binh tích cực tham gia công tác và là lực lượng nòng cốt trong các phong trào ở địa phương.


Cuộc họp mặt hàng năm chẳng những là nơi giao lưu tình cảm mà còn bằng tình thân ái, giúp đỡ nhau khăc phục khó khăn cụ thể bằng chính thế mạnh của từng người. Có đồng chí được giúp giải quyết công ăn việc làm, đùm bọc cho con cái được thuận lợi trong học hành; cũng có trường hợp quyên góp giúp đỡ bằng vật chất cho con bạn đủ tiền học phí 1 năm v.v... và v.v...


Anh em còn có sáng kiến phát huy thế mạnh của chính mình, cộng tác cùng Báo công an Thành phố Hồ Chí Minh ra tờ đặc san kỷ niệm ngày chiến thắng 30-4 đã thu được số tiền bổ sung vào quỹ. Nhờ có tiền quỹ năm 1997 Ban liên lạc đã thay mặt anh em thăm hỏi các thành viên bị ốm đau, gia đình có khó khăn hoạn nạn, hoặc phúng viếng gia đình đồng chí có "cha già, mẹ héo". Đặc biệt có 3 đồng chí ở Hải Phòng, Phủ Lý, Hà Nội tuổi cao, bệnh trọng đã qua đời, Ban Liên lạc đã cử người đến tận gia đình chia buồn, động viên và trợ giúp kịp thời.


Một năm gặp nhau có một lần, nên cứ như là ngày hội, rất vui. Hình như không có gì có thể chi phối mọi người trong những ngày này, ngày của tình đồng đội, bao nhiêu kỷ niệm hào hùng năm xưa được khơi dậy, tự hào và kiêu hãnh, vô tư, trẻ trung và hạnh phúc tràn trề, bứt ra khỏi những toan tính hàng ngày. Chúng tôi đều rất tự hào về bản thân, tự hào về đồng đội, đến ngày hóm nay, không có gì phải hổ thẹn, phải ân hận.


Mỗi lần họp, Ban liên lạc đều có một báo cáo rất ngắn về tình hình tài chính, về những khoản hỗ trợ, về những thanh viên mới và những khoản chi cho việc nghĩa cử. Toàn bộ thời gian còn lại, là dành cho nhau để tâm tình hoặc cùng nhau chụp ảnh kỷ niệm, đi chơi, thăm nhà nhau. Mỗi lần họp như vậy là một lần chúng tôi nhắc nhở nhau: Hãy mãi mãi là người lính B2...

N.H


Tiêu đề: Hồi ức B2
Gửi bởi: dungnuocgiunuoc trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:58:38 pm
THẾ HỆ CHÚNG TÔI
Thân tặng đồng đội, những người cùng tuổi.

VŨ HÒA

   Thế hệ chúng tôi
   Mười tám tuổi xuân đã xanh mầu áo lính
   Tự hào là trai thời chiến!
   Hiên ngang cô gái mở đường.
   Thế hệ chúng tôi đi dọc Trường Sơn
   suốt những năm dài đánh Mỹ,
   đi hết quãng đời trai trẻ
   mỗi bước quân hành, cả nước ngóng trông theo
   Thương mẹ chắt chiu từng giọt nắng cuối chiều,
   hạt lúa, củ khoai ấm lòng người ra trận,
   dầu bom xới lên bom, đạn cày lên đạn
   lòng chúng tôi cứ sáng một niềm tin.
   Cuộc chiến vừa rồi ai nhớ, ai quên?
   chúng tôi tự nhìn mình thật rõ.
   Không một thế hệ nào như thế nữa:
   chịu đựng - đạn bom - mất mát - anh hùng!
   cái chết bất ngờ, cái chết vây quanh:
   sốt rét, đổ cây, đói ăn, biệt kích...
   sau mỗi chiến công, sau từng chiến dịch
   đồng đội nhìn nhau nước mắt rưng rưng.
   Nằm lại chiến trường bao nhiêu đứa trẻ măng
   chưa cầm nắm một bàn tay khác giới
   chưa biết phố phường, chưa hay "Đổi mới"
   chưa biết một mai còn bao chuyện bất ngờ!
   Vẫn biết rằng lịch sử chẳng làm ngơ
   lịch sử ghi tên từng người đã chết
   Nhưng những trang giấy ghi sao được hết
   đã mãy lần tóc mẹ bạc như bông?
   Những cô gái thanh niên xung phong
   lừng lẫy suốt thời mở đường ra trận
   xuân sắc qua nhanh, lỡ làng duyên phận
   đứa con ngoài giá thú có nguôi ngoai!
   Chẳng bất ngờ gì cũng thế hệ chúng tôi
   có kẻ bỗng thành tham ô, buôn lậu
   ở trại giam một lần tôi đã gặp
   nhắc chuyện xưa, nó khóc đến nao lòng.
   Bốn mươi, bốn lăm - tuổi ấy già không?
   nhưng tuổi ấy làm sao còn trẻ được?
   thành tích công lao chẳng sánh cùng lớp trước,
   học vị, học hàm không đọ với người sau.
   Có sống với cuộc đời thường nhật
   mới hiểu thế hệ này còn bao nỗi ưu tư!
   Cái cảnh mẹ già, vợ dại, con thơ...
   mảnh vườn cũ mỡ màu ngày một ít
   lương mất sức, hưu non... đã nghèo còn không kịp
   trong lúc đó đây cứ bỗng chốc sang giàu
   Thế hệ chúng con dầu có những buồn thương
   Vẫn cháy mãi ngọn lửa hồng trai trẻ
   Nhửng nỗi buồn phiền hẳn làm đau lòng Mẹ
   Xin sưởi ấm tim Người từ ngọn lửa phong sương

V.H.