Tiêu đề: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 06:18:15 pm Tên sách: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân Năm xuất bản: 2004 Số hoá: ptlinh, chuongxedap ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP ĐIỆN BIÊN PHỦ 50 NĂM NHÌN LẠI NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN Hà Nội - 2004 LỜI NHÀ XUẤT BẢN "Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã làm cho ba tiếng Điện Biên Phủ trở thành biểu tượng của sức mạnh Việt Nam. Tinh thần Điện Biên Phủ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta". Kết thúc bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bản viết gửi cho Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết như vậy. Với ý nghĩa đó, chúng tôi xuất bản cuốn Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại1 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN _________________________________________________1. Tên sách do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đặt. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2022, 05:47:15 pm ĐIỆN BIÊN PHỦ1 I. HÌNH THÁI CHIẾN SỰ VÀO MÙA HÈ NĂM 1953 Mùa Hè năm 1953, cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta đã bước vào năm thứ tám. Tám năm đó là tám năm chiến đấu cực kỳ gian khổ và anh dũng của quân đội và nhân dân ta chống lại quân đội xâm lược của đế quốc Pháp có can thiệp Mỹ giúp sức, lúc đầu mạnh hơn ta rất nhiều về vũ khí và trang bị. Tuy nhiên, trải qua tám năm kháng chiến lâu dài, trái với ý muốn chủ quan của quân địch, lực lượng của quân đội và nhân dân ta không những không bị tiêu diệt, mà ngược lại càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng; so sánh lực lượng đã dần dần thay đổi có lợi cho ta. Còn về phía địch thì ngày càng lâm vào thế bị động, càng tiếp tục chiến tranh càng gặp những khó khăn mới, đi từ thất bại này đến thất bại khác. Ôn lại quá trình sơ lược của tám năm kháng chiến là một điều cần thiết để hiểu rõ tình hình địch, ta và hình thái chiến sự trước khi quân địch đề ra kế hoạch quân sự Nava, cũng tức là trước khi quân ta bắt đầu những chiến dịch mùa Đông 1953 và mùa Xuân 1954 và chuẩn bị mở chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại. Dân tộc ta là một dân tộc hết sức yêu chuộng tự do và hòa bình, lại sẵn có một truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám mới thành công, trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 trước quốc dân và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và tài sản để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy". Mọi người đều biết: chỉ không đầy một tháng, sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thì thực dân Pháp được đế quốc Anh giúp sức đã gây hấn ở Sài Gòn, mưu mô xâm lược nước ta một lần nữa. Trong lúc đó, chúng cũng mưu mô trở lại xâm lược Campuchia và Lào. Chúng đã phái sư đoàn thiết giáp sang, thực hiện kế hoạch chiến lược "đánh nhanh giải quyết nhanh", cho rằng chỉ trong vòng 10 tuần lễ là có thể "bình định" xong Nam Bộ, làm bàn đạp để tấn công ra miền Bắc. Nhưng, chúng đã tính nhầm, nhân dân Nam Bộ đã vùng dậy kháng chiến, tuy chỉ có vũ khí thô sơ nhưng vẫn không chịu khuất phục trước kẻ địch. Chiến tranh du kích dần dần được mở rộng khắp vùng châu thổ sông Cửu Long. Đảng ta, một mặt lãnh đạo nhân dân Nam Bộ kháng chiến, động viên toàn quốc ủng hộ Nam Bộ, mặt khác ra sức lợi dụng mâu thuẫn giữa những kẻ địch, hòa hoãn với Pháp, ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, gạt 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ra khỏi đất nước, thực hiện chủ trương "hòa để tiến", tranh thủ thời gian để củng cố chính quyền nhân dân, củng cố lực lượng cách mạng, chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược mới của địch. Mặc dầu đã công nhận nước ta là một nước tự do và có chủ quyền, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm đặt lại nền thống trị của chúng. "Ta càng nhân nhượng, chúng càng lấn tới". Chúng xé bỏ hiệp định đã ký kết, tiếp tục chiến tranh ở Nam Bộ, lại thực hiện kế hoạch xâm lấn từng bước, đánh chiếm nhiều địa phương ở Trung Bộ, Bắc Bộ. Khả năng giữ vững hòa bình ngày càng trở nên mong manh. Chúng liên tiếp đánh chiếm Hòn Gai, Hải Phòng; sang tháng 12 năm 1946 tăng cường hành động khiêu khích, buộc tự vệ ta phải hạ vũ khí đầu hàng, gây hấn ở ngay giữa thủ đô Hà Nội. Để trả lời và ngăn chặn âm mưu xâm lược của chúng, toàn dân Việt Nam ta đã vùng lên giết giặc cứu nước, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, "thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, Đảng ta đã nêu rõ: Con đường kháng chiến là con đường duy nhất để bảo vệ đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng. Đảng ta lại chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; cuộc kháng chiến đó sẽ lâu dài, gian khổ nhưng nhất định đi đến thắng lợi. Quân đội và nhân dân ta một lòng tin tưởng vào đường lối của Đảng. Quân ta đã chiến đấu hết sức anh dũng để tiêu hao và tiêu diệt quân địch trên khắp các mặt trận. Đặc biệt ở Thủ đô Hà Nội quân ta chiến đấu với quân địch trong hai tháng trời, giữ vững vị trí ở ngay trung tâm thành phố. Các cuộc chiến đấu đó đã có tác dụng động viên cổ vũ lớn đối với toàn dân, đồng thời tiêu hao và giam giữ lực lượng của địch, yểm hộ cho chính quyền và lực lượng của ta chuyển về nông thôn, cho nhân dân ta tiến hành mọi công tác động viên và tổ chức cần thiết. Chúng ta đã bảo toàn được chủ lực, phát động nhân dân, giữ vững và củng cố căn cứ địa nông thôn làm chỗ đứng chân, chỗ dựa của ta để kháng chiến lâu dài. Thu Đông năm 1947, địch huy động trên một vạn quân tinh nhuệ, mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và quân chủ lực của ta, giành lấy một thắng lợi quyết định và thúc đẩy việc thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc. Quân và dân Việt Bắc đã chiến đấu anh dũng và thu được thắng lợi lớn. Quân địch đã bị thất bại thảm hại. Chiến lược "đánh nhanh giải quyết nhanh" của chúng một lần nữa đã bị phá sản. Với chiến thắng Việt Bắc, hình thái cầm cự dần dần xuất hiện. Chiến tranh chuyển sang giai đoạn mới. Bị thất bại trong âm mưu đánh nhanh giải quyết nhanh, thực dân Pháp bắt buộc phải kéo dài chiến tranh xâm lược. Chúng chủ trương tăng cường đánh phá nhằm "bình định" vùng chúng chiếm đóng, giành sức người sức của của ta, thực hiện âm mưu thâm độc "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt". ____________________________________________ 1. Tác phẩm viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 10 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, theo bản in lần thứ tư, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1969. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2022, 05:52:31 pm Năm 1949, trước những thắng lợi to lớn của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đang tiến xuống Hoa Nam, trước phong trào chiến tranh du kích ngày càng phát triển rộng rãi và mạnh mẽ của ta, thực dân Pháp cấp tốc phái tướng Rơve sang Đông Dương vạch ra kế hoạch mới, hòng cứu vãn tình thế. Rơve chủ trương tăng quân cho chiến trường Bắc Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, tăng cường phòng thủ khu tứ giác Lạng Sơn - Tiên Yên - Hải Phòng - Hà Nội, phong tỏa biên giới Việt - Trung. Kế hoạch Rơve còn đề ra vấn đề ra sức phát triển quân ngụy, sử dụng quân ngụy vào việc chiếm đóng, tập trung quân Âu Phi để xây dựng lực lượng cơ động, tích cực càn quét đánh phá nhằm đàn áp phong trào chiến tranh du kích của ta. Thực hiện kế hoạch này, địch đã mở nhiều cuộc hành binh liên tiếp và nhiều cuộc càn quét khốc liệt, mở rộng khu vực kiểm soát của chúng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Về phía ta, chúng ta chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng rãi ở khắp các địa phương bị tạm chiếm. Phương châm đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung đã được thực hiện khắp nơi và đã đưa lại nhiều thắng lợi. Một bộ phận bộ đội chủ lực của ta đã được phân tán thành đại đội độc lập, tiến sâu vào sau lưng địch, kết hợp tác chiến với vận động nhân dân, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, tiêu diệt địch với xây dựng và bảo vệ cơ sở nhân dân, dìu dắt bộ đội địa phương và dân quân du kích, tiến lên phối hợp với quần chúng đấu tranh chống lại địch. Công tác địch vận, nhất là ngụy vận đã được chú trọng, coi là một nhiệm vụ chiến lược. Các cuộc chống càn quét được tiến hành có kết quả. Chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, các căn cứ du kích và khu du kích xuất hiện sau lưng địch. Hậu phương của địch dần dần biến thành tiền phương của ta. Trong khi các trung đội độc lập, các đại đội độc lập hoạt động phân tán khắp các chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ để phát triển chiến tranh du kích rộng rãi thì các tiểu đoàn tập trung cũng được xây dựng và học tập tiến lên đánh những trận tập kích, phục kích lớn hơn; các tiểu đoàn tập trung là mầm mống của đánh vận động sau này. Trong những năm 1948-1949 và đầu năm 1950, quân ta đã bắt đầu mở những chiến dịch nhỏ có tính chất du kích; lực lượng sử dụng khoảng 3 - 4 tiểu đoàn hay nhiều hơn nữa, có khi lên đến 9 tiểu đoàn. Trong các chiến dịch đó, ta đã nhằm những hướng sơ hở của địch mà tấn công, tiêu diệt sinh lực của chúng, mở rộng vùng căn cứ của ta. Tình hình chung trên chiến trường biểu hiện hình thái giằng co quyết liệt, trong khi Đảng ta đề ra chủ trương tích cực cầm cự chuẩn bị tổng phản công. Mùa Đông năm 1950, đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong cục diện chiến tranh. Quân ta đã lớn mạnh vượt bậc, đại thắng quân địch trong chiến dịch Biên Giới, tiếp theo đó đã mở nhiều chiến dịch lớn: Chiến dịch Trung Du, chiến dịch Đường số 18 và chiến dịch Hà Nam Ninh trong năm 1951, chiến dịch Hòa Bình mùa Đông 1951 và mùa Xuân 1952, chiến dịch Tây Bắc mùa Đông 1952. Hình thái phản công cục bộ đã xuất hiện. Trong các chiến dịch thắng lợi nói trên, chúng ta đã tiêu diệt gọn từng binh đoàn cơ động của địch, tiêu diệt hàng vạn tên địch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn trên chiến trường Bắc Bộ. Các tỉnh quan trọng ở vùng biên giới Việt - Trung: Cao Bằng - Lạng Sơn - Lào Cai, tỉnh Hòa Bình nằm trên đường giao thông giữa Việt Bắc và Liên khu 4, phần lớn đất đai của miền Tây Bắc đi từ sông Thao cho đến biên giới Việt - Lào đều lần lượt được giải phóng. Căn cứ địa Việt Bắc, hậu phương chủ yếu của cuộc kháng chiến, đã được mở rộng và củng cố rất nhiều. Trên miền rừng núi Bắc Bộ, quân địch chỉ còn chiếm đóng tỉnh Hải Ninh ở Đông Bắc, thị xã Lai Châu và tập đoàn cứ điểm Nà Sản ở Tây Bắc. Trong khi chủ lực ta thu được những thắng lợi lớn liên tiếp trên mặt trận chính diện thì chiến tranh du kích đã phát triển khá mạnh khắp cả chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ. Đặc biệt trong chiến dịch Hòa Bình, chủ lực ta đã tiến sâu vào vùng sau lưng địch sông Hồng, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương, tiêu diệt hàng loạt cứ điểm của địch, mở rộng căn cứ du kích và khu du kích, giải phóng hàng triệu đồng bào. Vùng tạm chiếm của địch bị thu hẹp lại chỉ còn khoảng một phần ba đất đai và làng mạc ở gần các đường giao thông và các đô thị lớn. Trên chiến trường Bình Trị Thiên, mặc dầu điều kiện địa hình có phần không lợi cho ta, chiến tranh du kích vẫn được giữ vững. Ở miền Nam Trung Bộ, bộ đội ta cũng đi sâu vào trong lòng địch, mở rộng cơ sở, xây dựng căn cứ du kích ở miền Tây Nguyên chiến lược. Ở Nam Bộ vùng tự do Khu 9 được giữ vững, chiến tranh du kích phát triển rộng khắp. Mùa Hè năm 1953, Quân giải phóng Pathét Lào có các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp, mở cuộc tấn công bất ngờ vào thị xã Sầm Nưa. Phần lớn quân địch ở đây bị tiêu diệt. Cả tỉnh Sầm Nưa và những vùng đất đai rộng lớn ở Thượng Lào được giải phóng, gây nên một thế uy hiếp mới đối với địch. Nhìn chung cục diện chiến trường miền Bắc thì từ mùa Đông năm 1950 trở đi, quân ta luôn luôn giữ thế chủ động, quân địch ngày càng bị hãm vào thế bị động. Quân địch ra sức cầu cứu đế quốc Mỹ và đế quốc Mỹ đã can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương. Trong khi đó chính phủ Pháp đã nhiều lần thay đổi tướng tá của quân đội viễn chinh. Sau chiến dịch Biên Giới, chúng đã phái danh tướng của Pháp là Đờ Lát đờ Tátxinhi sang Đông Dương. Chúng ta đều biết rằng Đờ Lát đã ra sức mở rộng quân ngụy, tập trung binh lực, xây dựng phòng tuyến, đánh ra Hòa Bình để giành lại thế chủ động, nhưng rốt cuộc đã bị quân ta đánh bại. Tướng Xalăng thay cho Đờ Lát cũng đã chứng kiến một cách bất lực những thất bại đau đớn của quân đội viễn chinh trên chiến trường Tây Bắc và Thượng Lào. Do phải tập trung binh lực phòng giữ đồng bằng Bắc Bộ, nên trên các chiến trường khác địch lại có nhiều sơ hở hơn trước. Hoạt động của quân ta trên các chiến trường đó đã có điều kiện để đẩy mạnh hơn, giành được những thắng lợi ngày càng lớn hơn. Trên đây là những nét chính về tình hình chiến sự từ lúc bắt đầu kháng chiến cho đến giữa năm 1953. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2022, 05:58:05 pm * * * Tình hình ta, địch vào mùa Hè năm 1953 đại thể có thể tóm tắt như sau: VỀ PHÍA TA: Lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt của cuộc kháng chiến, từ chỗ còn non yếu lúc đầu, trải qua tám năm chiến đấu và rèn luyện, đã phát triển và lớn mạnh rất nhiều. Quân đội nhân dân lúc đó đã có những đại đoàn, trung đoàn chủ lực, lại bao gồm nhiều tiểu đoàn và trung đoàn bộ đội địa phương. Ngoài bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương ra, còn có các lực lượng dân quân du kích hùng hậu phát triển rộng rãi khắp nơi. Sự hình thành và lớn mạnh của ba thứ quân là kết quả của đường lối đúng đắn của Đảng ta: thực hiện động viên và vũ trang toàn dân, phát động chiến tranh nhân dân. Nó cũng là kết quả của việc thực hiện phương châm tác chiến đúng đắn của chiến tranh cách mạng lâu dài: phát động chiến tranh du kích, tiến từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy tiến từ đánh du kích lên vận động, công kiên. Tình hình từ năm 1950 đến năm 1953 như đã nói ở trên là: với hình thái phản công cục bộ, đánh vận động đã tiến lên chiếm địa vị chủ yếu trên chiến trường chính, tức là chiến trường Bắc Bộ, trong khi đó ở Bắc Bộ, đánh du kích vẫn còn rất quan trọng. Trên các chiến trường khác thì đánh du kích còn giữ địa vị chủ yếu. Dân quân du kích lúc đó đã trở thành một lực lượng rất lớn có tinh thần giết giặc; cứu nước, chống càn quét bảo vệ làng mạc rất cao, có kinh nghiệm tác chiến và đã cướp được nhiều vũ khí của địch để trang bị cho mình, và là nguồn bổ sung lớn để củng cố và phát triển quân đội ta. Bộ đội địa phương hình thành từ năm 1948 trên cơ sở tập trung các đại đội độc lập và một bộ phận các đơn vị dân quân du kích, đã đảm nhiệm được nhiệm vụ tác chiến trong địa phương, tiêu diệt quân địch, chống càn quét, bảo vệ địa phương, tác chiến phối hợp tốt với bộ đội chủ lực và dân quân du kích. Điểm nổi bật hơn hết là bộ đội chủ lực ta đã lớn mạnh nhanh chóng và có tính cơ động khá cao. Các đại đoàn và trung đoàn chủ lực đều đã được củng cố về tổ chức biên chế, và tăng cường trang bị bằng vũ khí lấy được của địch và một phần do ta tự sản xuất trong hoàn cảnh cực kỳ gian nan, thiếu thốn. Trình độ kỹ thuật, chiến thuật, khả năng tác chiến, trải qua các đợt huấn luyện, lại được rèn luyện trong các chiến dịch lớn, đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Quân chủ lực của ta đã tích lũy được kinh nghiệm về đánh vận động và đánh công kiên, đã quen đánh tập trung với một lực lượng tương đối lớn, hoạt động trên một địa bàn tương đối rộng, đặc biệt thiện chiến trên chiến trường rừng núi, thực hiện được đánh tiêu diệt, thực hiện được tiến sâu, rút nhanh, tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt. Sở dĩ lực lượng vũ trang nhân dân, đặc biệt là bộ đội chủ lực có những tiến bộ rõ rệt và nhanh chóng nói trên, trước hết là do Đảng ta đã chú trọng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, ra sức tăng cường công tác giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng, không ngừng nâng cao bản chất cách mạng, bản chất giai cấp của quân đội ta. Các cuộc chỉnh huấn chính trị đã có một tác dụng lớn làm cho quân đội nhận rõ mục tiêu chiến đấu của mình, nâng cao chí căm thù, nâng cao tinh thần chiến đấu. Cuộc chỉnh quân chính trị mùa Hè năm 1953 được tiến hành trong khi Đảng ta thực hiện triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất đã nâng cao một cách rõ rệt trình độ giác ngộ giai cấp và khí thế cách mạng của quân đội. Đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, làm tan rã địch, thực hiện chế độ dân chủ nội bộ đi đôi với kỷ luật nghiêm minh; kiên quyết anh dũng trong chiến đấu, tích cực cần cù trong công tác và sản xuất, đã trở thành nền nếp sinh hoạt, chiến đấu, và là truyền thống tốt đẹp của quân đội ta. Nhân dân ta trước sau vẫn đoàn kết một lòng xung quanh Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, quyết tâm kháng chiến, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng. Năm 1951, Đại hội lần thứ II của Đảng đã xác định đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, khẳng định sự đúng đắn của chủ trương kháng chiến lâu dài, đề ra những nhiệm vụ trước mắt để tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Những nghị quyết của đại hội đã động viên, cổ vũ mạnh mẽ đã soi sáng con đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến lên giành thắng lợi mới. Năm 1952-1953, Đảng ta chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô và thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, nhờ đó mà đã phát động mạnh mẽ tinh thần chống đế quốc và chống phong kiến, đã bồi dưỡng lực lượng của hàng chục triệu nông dân lao động. Do chính sách đúng đắn của Đảng ta, khối công nông liên minh không ngừng được củng cố, Mặt trận dân tộc thống nhất được mở rộng và ngày càng vững chắc, chính quyền dân chủ nhân dân được kiện toàn, công cuộc củng cố căn cứ địa ở nông thôn và xây dựng cơ sở chính trị ở thành thị ngày càng thu được kết quả tốt, mọi mặt công tác kháng chiến đều có một đà tiến bộ mới. Về mặt quốc tế, cuộc kháng chiến chính nghĩa và anh dũng chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân ta ngày càng được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân Pháp và các nước thuộc địa của Pháp, của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Trung Quốc đối với tình hình thế giới đã có một tác dụng hết sức to lớn; thắng lợi đó đã làm cho sự so sánh lực lượng trên trường quốc tế chuyển biến có lợi cho phe xã hội chủ nghĩa và các lực lượng dân chủ, độc lập dân tộc và yêu chuộng hòa bình. Đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, thắng lợi đó càng có một ý nghĩa trọng đại. Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, nhân dân ta không còn ở vào tình trạng vô cùng khó khăn là kháng chiến ở trong vòng vây của địch, chúng ta đã có một biên giới chung với nước xã hội chủ nghĩa anh em vĩ đại, căn cứ địa kháng chiến của ta đã được nối liền với phe xã hội chủ nghĩa. Năm 1950, các nước xã hội chủ nghĩa công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự kiện đó càng làm cho uy tín và địa vị quốc tế của nước ta được nâng cao, làm cho nhân dân ta càng thêm tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng. VỀ PHÍA ĐỊCH: Vào mùa Hè năm 1953, nếu tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân ta là một tình hình đầy triển vọng thì ngược lại, tình hình cuộc chiến tranh xâm lược của địch lại đầy khó khăn nguy khốn. Lực lượng của địch lúc bấy giờ có khoảng 45 vạn quân trên toàn chiến trường Đông Dương, trong đó có trên 12 vạn binh lính người Pháp, người Phi và lê dương, ngoài ra là quân ngụy. Tuy so với lúc đầu, số quân của địch đã tăng thêm rất nhiều, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch lúc đó đã thay đổi có lợi cho ta hơn trước nhiều. Nhược điểm thiếu binh lực đối với thực dân Pháp luôn luôn trầm trọng từ khi chúng gây ra chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Đó là vì đế quốc Pháp đã bị suy yếu sau đại chiến thế giới lần thứ hai, sức người, sức của có hạn, cuộc chiến tranh thuộc địa lại bị nhân dân trong nước phản đối, nên không thể động viên nhiều binh lực, vật lực để đánh với ta. Nhưng nguyên do chính của tình trạng thiếu binh lực là bản chất của cuộc chiến tranh xâm lược và phi nghĩa của chúng. Mục đích cuối cùng của chúng là phải chiếm đoạt đất đai của ta, nhân dân ta lại kiên quyết đứng dậy chống lại chúng, tiêu hao và tiêu diệt chúng. Chúng bị bắt buộc phải phân tán binh lực, lập nên hàng nghìn cứ điểm lớn nhỏ để phòng giữ các địa phương chúng chiếm được. Chính vì vậy mà quá trình tiến hành chiến tranh xâm lược của quân đội viễn chinh Pháp là cả một quá trình phân tán binh lực. Binh lực càng phân tán thì càng suy yếu, càng tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiêu diệt chúng từng bộ phận. Như trên đã nói, chúng đã bị thất bại trong chiến lược "đánh nhanh giải quyết nhanh". Và từ khi phải bị động chuyển sang đánh kéo dài thì chúng đã ra sức sử dụng ngụy quân, ngụy quyền, thực hiện âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt". Chúng coi đó là một chính sách quan trọng để giúp chúng giải quyết nạn thiếu binh lực. Nhưng vì lực lượng ta càng ngày càng lớn mạnh, cho nên việc mở rộng quân nguỵ chỉ đưa lại ít kết quả, thành phần quân nguỵ càng tăng, tinh thần chiến đấu của quân đội chúng càng giảm sút nghiêm trọng. Năm 1950, chính là lúc phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp được mở rộng hơn hết, cũng chính là lúc binh lực của chúng bị phân tán nghiêm trọng hơn hết. Chúng đã đi dần vào thế bị động phòng ngự và thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược tương đối mạnh để đối phó với các cuộc tấn công mới của quân ta. Nhược điểm nói trên của địch càng bộc lộ rõ từ khi quân ta bắt đầu những chiến dịch phản công cục bộ. Quân địch không những bị tiêu diệt từng bộ phận sinh lực mà còn phải rút khỏi nhiều địa phương chúng chiếm đóng trước đây. Từ thế chủ động tấn công lúc đầu, quân địch rõ ràng đã đi vào thế bị động chống đỡ trên chiến trường Bắc Bộ. Chúng đã ra sức tìm cách thoát khỏi tình thế bất lợi đó, tìm cách mở rộng quận ngụy hơn nữa, để tăng thêm số quân hơn nữa, tạo điều kiện tập trung nhiều lực lượng cơ động hơn. Nhưng do mâu thuẫn nội tại của cuộc chiến tranh xâm lược nên chúng ngày càng bị sa lầy, càng thêm nguy khốn. Về mặt chính trị, do tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược nên chúng gặp phải sự phản đối ngày càng tăng thêm của nhân dân Pháp cũng như của dư luận tiến bộ của nhân dân trên thế giới. Trong hàng ngũ lính Pháp và Phi, tinh thần chán ghét chiến tranh ngày càng phát triển. Trước những thất bại liên tiếp từ trận Biên Giới trở đi, tinh thần chiến đấu của quân đội viễn chinh đã kém lại càng sút kém hơn. Nội bộ thực dân Pháp cũng càng chia rẽ. Để cứu vãn tình thế ngày càng xấu đi, thực dân Pháp ngày càng cần thêm viện trợ của đế quốc Mỹ, ngày càng bị phụ thuộc vào Mỹ. Viện trợ của Mỹ năm 1951 chiếm 12% trong ngân sách chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, đến năm 1953 đã lên tới 71%. Đế quốc Mỹ càng tăng cường viện trợ, càng mưu mô chiếm đoạt quyền lợi của Pháp; mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp do đó ngày càng tăng. Chính trong tình hình thực dân Pháp đang lâm vào cảnh nguy khốn nói trên, đế quốc Mỹ đã thừa lúc đình chiến ở Triều Tiên mà tăng cường can thiệp vào Đông Dương, mưu toan đặt quan hệ trực tiếp với các chính quyền bù nhìn, nhằm hất cẳng Pháp. Và kế hoạch Nava là âm mưu mới của đế quốc Pháp - Mỹ, nhằm tiếp tục và mở rộng chiến tranh xâm lược ở nước ta. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2022, 06:04:56 pm II. ÂM MƯU MỚI CỦA ĐỊCH. KẾ HOẠCH QUÂN SỰ NAVA Tình hình nguy khốn của quân đội xâm lược Pháp trên chiến trường Đông Dương vào đầu năm 1953 đã đặt ra cho đế quốc Pháp vấn đề hết sức cấp thiết là phải có những phương sách mới để cứu vãn tình thế, tránh những thất bại nặng nề hơn. Bấy giờ, ở Pháp, trước những tin tức thất trận liên tiếp ở Đông Dương, phong trào của nhân dân đòi chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu ngày càng trở nên rộng rãi và mạnh mẽ. Trong quốc hội Pháp, phái chủ trương hòa bình giải quyết vấn đề Việt Nam ngày càng thu được nhiều phiếu hơn. Ngay đến chính phủ phản động Lanien - Biđôn cũng nhận thấy không còn có khả năng tiếp tục mãi cuộc chiến tranh xâm lược, không còn có hy vọng có thể tiêu diệt được lực lượng ta và đã đến lúc phải gấp rút tìm ra một lối thoát. Nhưng lối thoát như thế nào? Đó là một vấn đề nan giải. Chính phủ Pháp cho rằng phải tập trung mọi cố gắng tìm ra một "lối thoát vinh dự" nghĩa là "lối thoát trong thắng lợi". Và muốn đạt mục tiêu đó thì trước mắt cần phải ra sức đẩy mạnh chiến tranh, giành lấy những thắng lợi quân sự tương đối lớn. Đối với Mỹ thì trước tình hình quân đội xâm lược Pháp bị sa lầy ở Đông Dương, đế quốc Mỹ càng lộ rõ bộ mặt bỉ ổi là một tên sen đầm quốc tế cực kỳ hiếu chiến, thâm độc. Nếu cuộc đình chiến ở Triều Tiên đã làm cho chính giới Pháp suy tính đến khả năng giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương bằng một biện pháp tương tự thì cuộc đình chiến đó đã thúc đẩy Mỹ ngày càng tăng cường can thiệp nhằm kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương. Chính Aixenhao đã nhiều lần tuyên bố, quyết không để cho chủ nghĩa cộng sản quốc tế tiến thêm một bước nào ở Đông Nam Á, đặc biệt ở Đông Dương mà chúng coi là một vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Chúng đã không ngừng gây áp lực đối với thực dân Pháp, đòi hỏi thực dân Pháp phải có những cố gắng chiến tranh mới, đồng thời cũng tích cực chuẩn bị để thay thế cho Pháp. Đi đôi với việc tăng cường viện trợ về mọi mặt, đế quốc Mỹ đã buộc Pháp phải trao trả quyền "độc lập" cho các chính phủ bù nhìn, tạo điều kiện chính trị để Mỹ có thể nắm trực tiếp các chính phủ này. Viện trợ quân sự của chúng vào năm 1953 hàng tháng đã lên đến trên hai vạn tấn, có tháng lên đến bốn vạn tấn. Chúng lại phái sang hàng trăm nhân viên quân sự, cử một phái đoàn quân sự để kiểm soát thực dân Pháp và các chính quyền bù nhìn, ngày càng trực tiếp tham gia vào việc điều khiển chiến tranh ở Đông Dương. Vào giữa năm 1953, với sự thỏa thuận của Hoa Thịnh Đốn, chính phủ Pháp chỉ định tướng Nava làm tổng chỉ huy các lực lượng quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương thay tướng Xalăng. Mặc dầu chưa có tên tuổi và danh vọng như Đờ Lát đờ Tátxinhi, Nava là một nhân tài quân sự trong hàng tướng trẻ tuổi của quân đội Pháp, có tri thức và nhãn quan chiến lược. Sau một thời gian rất ngắn điều tra và nghiên cứu chiến trường, Nava đã phác họa ra một kế hoạch chiến lược tương đối hoàn chỉnh nhằm cải biến tình hình hòng chuyển bại thành thắng và trong một thời gian ngắn giành lấy một thắng lợi chiến lược có tính chất quyết định. Nava nhận định rằng, một thiếu sót cơ bản trong sự lãnh đạo chiến tranh của chính phủ Pháp là không xác định được rõ ràng mục đích của cuộc chiến tranh, và cho đó là nguyên nhân chính làm cho tinh thần của quân đội viễn chinh ngày càng sút kém mệt mỏi, làm cho quân ngụy càng không có tinh thần chiến đấu. Bởi vậy, theo Nava thì một mặt chính phủ Pháp cần xác định chủ trương của mình là tiến hành chiến tranh để bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi nhất định của Pháp ở Đông Dương, mặt khác phải mạnh bạo thừa nhận quyền "độc lập" của các quốc gia liên kết trong khuôn khổ khối liên hiệp Pháp. Cần chỉ rõ cho các "quốc gia" này nhận thấy rằng họ chỉ giành được "chủ quyền" và "độc lập" thực sự khi nào đánh bại được Quân đội nhân dân Việt Nam; và vì vậy họ cần phải động viên toàn lực chiến đấu vì lý tưởng "chủ quyền" và "độc lập" đó, họ phải ra sức củng cố và mở rộng các "quân đội quốc gia". Đối với Mỹ thì Pháp rất cần đến viện trợ của Mỹ để tiếp tục chiến tranh; Pháp và Mỹ cùng có chung một mục đích là ngăn ngừa chủ nghĩa cộng sản quốc tế, nhưng Pháp không thể chỉ chiến đấu vì mục đích đó để rồi sau này bị Mỹ thay thế ở Đông Dương mà còn phải chiến đấu cho lợi ích của bản thân mình nữa. Trung thành với lợi ích của chủ nghĩa đế quốc Pháp và chỉ biết nhìn vấn đề theo quan điểm của bọn thực dân, Nava cho rằng, nếu xác định được mục tiêu chiến tranh như trên thì không những quân đội viễn chinh Pháp biết rõ vì sao mà họ hy sinh chiến đấu trên chiến trường Đông Dương, mà các "quân đội quốc gia" cũng sẵn sàng tham gia chiến tranh để giành lấy "độc lập" và "chủ quyền". Về tổ chức chỉ đạo chiến tranh, Nava nhận định rằng, do những khủng hoảng nội các liên tiếp, tướng tá chỉ huy ở Đông Dương lại bị thay đổi luôn, nên chính phủ Pháp thiếu hẳn một sự lãnh đạo chặt chẽ, kế hoạch tiến hành chiến tranh cũng thiếu chủ trương cụ thể và liên tục. Nava cũng thấy rằng, trong lúc đó thì về phía ta, quân đội và nhân dân ta có một mục tiêu chiến đấu rõ rệt: chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc, có một tinh thần chiến đấu rất cao, theo một đường lối kháng chiến rõ ràng, và luôn luôn kiên quyết tiến tới dưới sự lãnh đạo của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nava cho rằng, có gấp rút giải quyết những tiền đề chính trị nói trên: mục tiêu của chiến tranh, chính sách đối với các quốc gia liên kết, việc tổ chức lãnh đạo, v.v. thì Pháp mới có thể giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Về quân sự, Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ nhận định rằng, tình hình chiến sự càng ngày càng bất lợi cho quân đội viễn chinh. Đó là vì Quân đội nhân dân Việt Nam đã lớn mạnh rất nhiều; bộ đội chủ lực của ta rất thiện chiến, bộ đội địa phương rất quen thuộc chiến trường; quân ta có một tinh thần chiến đấu rất anh dũng, lại có một lực lượng cơ động mạnh gồm nhiều đại đoàn, có khả năng mở những chiến dịch tấn công tương đối lớn. Trong khi đó thì chiến tranh du kích phát triển khắp nơi, đã giam giữ và tiêu hao rất nhiều lực lượng của chúng. Về phía quân đội viễn chinh thì càng ngày càng lâm vào tình trạng phân tán và bị động. Phần lớn lực lượng đều bị bó chân làm nhiệm vụ phòng ngự trong hàng nghìn đồn bốt rải rác trên khắp các chiến trường. Do đó mà lực lượng dự bị địa phương đã yếu, lực lượng tổng dự bị lại càng yếu hơn, thiếu hẳn một khối cơ động chiến lược mạnh để đối phó với các cuộc tấn công của chủ lực ta hoặc để mở những cuộc phản công giành lại chủ động. Nava đi đến kết luận là cần phải cải biến tình thế đó trên cơ sở xây dựng một quân đội ngụy lớn mạnh để giải quyết vấn đề số quân, thành lập gấp rút một lực lượng cơ động chiến lược mạnh, làm biện pháp chủ yếu để thoát khỏi tình trạng bị động phòng ngự lúc bấy giờ và tiến tới giành lại chủ động. Phân tích các phương hướng chiến lược có thể bị uy hiếp, Nava đã nêu ra những nhận xét như sau: a) Hướng thứ nhất, có thể bị quân ta uy hiếp là đồng bằng Bắc Bộ. Ở đây, các căn cứ du kích và khu du kích của ta đang phát triển rộng khắp, lực lượng vũ trang địa phương của ta lại khá mạnh, do đó ta có khả năng sử dụng chủ lực tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, phá vỡ phòng tuyến của chúng ở những khu vực nhất định. Nava cho rằng nguy cơ nói trên cần phải đề phòng, nhưng đây không phải là nguy cơ lớn nhất. Là vì nếu chúng ra sức đánh phá những căn cứ sau lưng địch của ta, lại luôn luôn sẵn sàng một lực lượng ứng chiến thì với điều kiện cơ động nhanh chóng, với khả năng phát huy tác dụng của các binh chủng kỹ thuật, chúng nhất định có thể ngăn chặn được cuộc tấn công của ta phát triển. Và nếu ta có giành được thắng lợi thì cũng chỉ thu được một thắng lợi có giá trị chiến thuật mà thôi. Tuy nhiên, đồng bằng là một vùng nhiều người, nhiều của, vận chuyển tiếp tế đều thuận lợi, quân ta có nhiều khả năng mở cuộc tấn công lớn vào đồng bằng, vì vậy cần phải tổ chức việc phòng thủ hết sức thận trọng. b) Hướng thứ hai, có thể bị quân ta uy hiếp là hướng Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào. Ở đây, trên chiến trường rừng núi, chúng có rất nhiều sơ hở. Do chỗ từ trước chỉ coi trọng đồng bằng, coi đồng bằng là vị trí "then chốt của Đông Nam Á", nên việc tổ chức chiến trường miền núi có nhiều thiếu sót, binh lực bố trí phân tán, điều kiện tiếp tế khó khăn, điều kiện địa hình thì có lợi cho ta, không lợi cho chúng. Những thiếu sót và những điều kiện thất lợi nói trên đã từng gây ra cho chúng nhiều thiệt hại lớn, nhất là trong các trận Biên Giới, Tây Bắc. Cho nên, cần đề phòng nguy cơ quân ta lại mở cuộc tấn công vào hướng này. Một cuộc tấn công mới có thể thu được những thắng lợi không những ở Tây Bắc mà cả ở miền Bắc Thượng Lào, do đó có thể gây ra một ảnh hưởng quân sự và chính trị không nhỏ, không những đối với Lào mà cả đối với Thái Lan. Nhưng Nava tỏ vẻ yên tâm hơn sau khi cân nhắc khả năng dùng bộ đội lớn của ta trên hướng này, vì các tướng tá quen thuộc chiến trường đều đã kết luận rằng: quân đội ta không có khả năng bảo đảm vấn đề cung cấp chi viện với một quy mô lớn trong một thời gian tương đối dài nên ở hướng này ta chỉ có thể dùng một binh lực có hạn mở những cuộc tấn công trong thời gian tương đối ngắn. c) Hướng thứ ba, có thể bị quân ta uy hiếp là hướng miền Nam Đông Dương. Ở đây có miền Tây Nguyên chiến lược liền với Hạ Lào rồi đến chiến trường Nam Bộ nhiều người, nhiều của, lực lượng của địch nói chung so với đồng bằng Bắc Bộ thì yếu hơn nhiều, lại bố trí theo hướng phân tán phòng ngự ở các địa phương. Nava nhận định rằng, nếu chủ lực ta mở cuộc tấn công về hướng này thì có thể gây nên một sự đảo lộn lớn và thu được nhiều thắng lợi. Mặc dầu trước mắt chưa có triệu chứng gì về một cuộc tấn công như vậy, nhưng từ khi quân ta giải phóng Tây Bắc, bộ đội tình nguyện Việt Nam và Quân giải phóng Pathét Lào hoạt động ở Thượng Lào, giải phóng tỉnh Sầm Nưa và nhiều địa phương khác thì nguy cơ nói trên lại cần phải đề phòng. Do đó Nava đặt ra vấn đề phải kiên quyết ngăn chặn không để cho chủ lực ta vượt khỏi chiến trường miền Bắc, vượt khỏi một "tuyến cấm" đại thể đi từ Thà Khẹt đến Đồng Hới. Đối với chiến trường miền Nam, Nava cho rằng trải qua mấy năm tiến hành chiến tranh mà quân Pháp cứ để cho quân ta giữ vững các tỉnh nhiều người, nhiều của ở Liên khu 5 và một vùng tự do khá rộng ở Khu 9 Nam Bộ, đó là một thất sách lớn, vì ta có thể dựa vào những chỗ đứng chân đó để tăng cường lực lượng, gây những uy hiếp mới cho chúng. Căn cứ vào những nhận định nói trên, Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ đề ra một kế hoạch tác chiến quy mô nhằm giành lại chủ động, và trong một thời gian ngắn giành lấy một thắng lợi quyết định. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Một, 2022, 06:07:22 pm Kế hoạch tác chiến đó đại thể chia làm hai bước: a) Trong Thu Đông năm 1953 và mùa Xuân năm 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, thực hiện tấn công chiến lược ở miền Nam, đồng thời ra sức mở rộng quân ngụy, tập trung binh lực xây dựng một đội quân cơ động lớn. Cụ thể là trong những tháng Thu Đông năm 1953, chúng chủ trương tập trung một lực lượng cơ động mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ, mở những cuộc càn quét dữ dội để đánh phá các căn cứ du kích và khu du kích của ta, đồng thời mở những cuộc tấn công uy hiếp vùng tự do của ta để giam giữ, tiêu hao chủ lực của ta, làm cho chủ lực của ta mỏi mệt, buộc ta phải bị động chống lại chúng trước khi đi vào thực hiện kế hoạch tấn công của ta. Trong lúc đó chúng sẽ tranh thủ thời gian mở rộng quân ngụy và tập trung binh lực. Sau mùa Đông, tức là sau mùa hành binh lớn ở Bắc Bộ, bước vào đầu năm 1954, chúng sẽ lợi dụng lúc quân ta đã bị tiêu hao, mỏi mệt, phải nghỉ ngơi để chúng chuyển phần lớn lực lượng cơ động vào hoạt động ở chiến trường miền Nam. Lúc bấy giờ chính là lúc điều kiện thời tiết ở miền Nam có lợi cho việc tác chiến của chúng. Ý định của chúng là mở những cuộc hành binh lớn nhằm mục đích chiếm đóng tất cả các vùng tự do còn lại của ta, nhất là vùng tự do Liên khu 5 và vùng tự do Khu 9 ở Nam Bộ. Đánh chiếm được tất cả các vùng nói trên tức là trừ diệt được những mối uy hiếp lớn; địch dự định sẽ nhân đà thắng lợi mà tổ chức thêm quân ngụy, đồng thời tập trung thêm lực lượng cơ động tiến hành mọi sự chuẩn bị cho một cuộc đại tấn công trên chiến trường miền Bắc. b) Nếu kế hoạch trên được thực hiện tốt thì đến Thu Đông năm 1954, với một lực lượng cơ động đã được tăng cường rất nhiều và đang có một khí thế chiến thắng, chúng sẽ chuyển toàn lực ra miền Bắc, chuyển sang tấn công chiến lược trên chiến trường miền Bắc, giành lấy những thắng lợi quân sự to lớn, buộc ta phải điều đình trong một tình hình có lợi cho chúng. Và, nếu ta không chịu chấp nhận những điều kiện của chúng thì lúc đó sẽ tiêu diệt chủ lực ta. Để có đủ lực lượng cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch nói trên, Nava chủ trương giải quyết bằng ba biện pháp: mở rộng quân ngụy, mở rộng các "quân đội quốc gia" theo quy mô rộng lớn; rút một bộ phận lực lượng chiếm đóng để tập trung lại; xin tăng viện từ Pháp sang. Nava không có con đường nào khác là áp dụng chính sách thâm độc mà trước đây tướng Rơve, rồi đến tướng Đờ Lát đờ Tátxinhi đã đề xướng: "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt", dùng quân ngụy làm lực lượng chiếm đóng thay thế cho các lực lượng Âu Phi trở về tập trung. Điều mới là Nava đã chủ trương cần thực hiện những phương sách đó với một quy mô rộng lớn hơn; với một tinh thần kiên quyết hơn. Với vũ khí và đôla của Mỹ, Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ quyết định tổ chức ngay trong năm 1953 một lực lượng quân ngụy mới gồm 54 tiểu đoàn gọi là khinh quân và sang năm 1954 thì tăng số đơn vị đó lên gấp đôi, đến 108 tiểu đoàn. Như vậy, đưa số quân ngụy từ khoảng 20 vạn lên đến 29 vạn, không kể số quân ngụy ở trong quân đội viễn chinh. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn dã man tàn bạo để bần cùng hóa nhân dân ta trong vùng tạm chiếm, càn quét, vây bắt, lừa bịp, dụ dỗ, lưu manh hóa thanh niên. Từ tháng 5 năm 1953 đến tháng 3 năm 1954, số quân ngụy đã tăng thêm 9 vạn rưởi. Địch đã tổ chức thêm được 107 tiểu đoàn. Đây là con số quân ngụy cao nhất từ trước đến lúc này. Tuy nhiên, bọn tướng tá Pháp - Mỹ cũng đã phải thừa nhận ngay rằng việc mở rộng quân ngụy thực tế chỉ giải quyết được vấn đề số lượng, trong lúc đó thì chất lượng ngày càng kém sút, tinh thần chiến đấu suy sụp, mặc dầu chúng đã vận dụng mọi thủ đoạn của chiến tranh tâm lý, nào là nêu chiêu bài độc lập giả hiệu, nêu lý tưởng chiến đấu chống cộng, nào là cho quân lính chúng tha hồ bắn phá, hãm hiếp, cướp bóc trong các cuộc hành binh. Đi đôi với việc mở rộng quân ngụy, Nava chủ trương nhanh chóng tổ chức ra một lực lượng cơ động chiến lược khá mạnh, đủ sức để đánh bại những chiến dịch tấn công trước mắt của quân ta và nhất là để chuyển sang tấn công chiến lược tiêu diệt chủ lực ta sau này. Cụ thể, Nava dự định trong năm 1953 và năm 1954 xây dựng nên một khối lực lượng cơ động là 7 sư đoàn trong đó có 6 sư đoàn lục quân, 1 sư đoàn quân nhảy dù, gồm tất cả 27 binh đoàn cơ động. Để thực hiện kế hoạch trên, địch đã quyết định rút các lực lượng Âu Phi tinh nhuệ của chúng ở một số vị trí về tập trung lại. Đồng thời Nava đề nghị chính phủ Pháp tăng viện 2 sư đoàn, nhưng chỉ được chấp nhận 12 tiểu đoàn điều động từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên sang. Bước vào Thu Đông năm 1953, địch đã tập trung được một lực lượng cơ động gồm 84 tiểu đoàn trên toàn chiến trường Đông Dương và, để thực hiện bước đầu của kế hoạch Nava, chúng đã tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ một lực lượng cơ động khá mạnh gồm 44 tiểu đoàn tức là trên 50% lực lượng cơ động toàn Đông Dương lúc đó. Từ khi mới nhận chức, tướng Nava đã nhiều lần tuyên bố phải hành động theo khẩu hiệu "luôn luôn chủ động", "luôn luôn tấn công". Ngay trong mùa Hè năm 1953 và suốt mùa Thu năm ấy, địch đã mở liên tiếp hàng chục cuộc càn quét dữ dội trong vùng chúng chiếm đóng ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ. Trong các cuộc càn quét này chúng đã huy động những lực lượng khá mạnh, có khi tới hàng chục tiểu đoàn bộ binh, có pháo binh và không quân yểm hộ như trong các trận càn quét lớn ở Bình Trị Thiên, vùng Hải Hậu tỉnh Nam Định, vùng sông Luộc tỉnh Thái Bình. Chúng càn đi quét lại nhiều lần, tàn sát nhân dân, vây bắt thanh niên, dồn dân vào các khu tập trung để tiện bề kiểm soát. Chúng ra sức đánh phá căn cứ du kích của ta, phá hoại kinh tế, phá hoại lực lượng dự trữ của ta, dùng mọi thủ đoạn để thực hiện kế hoạch thâm độc mở rộng quân ngụy của chúng. Tháng 7 năm 1953, chúng cho quân nhảy dù sâu vào hậu phương của ta, tập kích Lạng Sơn và tuyên bố khoác lác rằng đã gây cho ta những tổn thát lớn, mặc dầu cuộc tập kích đó chỉ gây những thiệt hại không đáng kể. Chúng cho bọn phản động tay sai tăng cường hành động biệt kích, mở rộng những vùng thổ phỉ ở các khu vực gần Lào Cai, Lai Châu, nhất là ở Sơn La. Tháng 8 năm 1953, chúng rút toàn bộ binh lực ở Nà Sản về tập trung ở đồng bằng và tuyên bố huênh hoang cho cuộc rút quân đó là một thắng lợi lớn. Trước đây, địch đã từng coi Nà Sản là thành "Vécđoong"1 thứ hai, chặn đứng cuộc tiến quân của chủ nghĩa cộng sản về phía nam. Đến nay, khi phải rút quân để tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt, chúng lại tuyên bố Nà Sản không còn có tác dụng gì về quân sự nữa. Tháng 10 năm 1953, chúng mở cuộc tấn công lớn gọi là chiến dịch Hải Âu vào vùng giáp giới Ninh Bình - Thanh Hóa, tuyên bố đã giành được quyền chủ động, đã làm tê liệt chủ lực của ta và rêu rao sắp sửa chiếm đóng Thanh Hóa hoặc tấn công lên Phú Thọ. Một đơn vị chủ lực của ta đã được lệnh, thừa lúc chúng tiến quân ra vùng tự do, chọn những nơi địa hình thuận lợi mà tiêu diệt từng bộ phận sinh lực của chúng. Quân ta đã gây cho địch những tổn thất nặng ở mặt trận chính diện Ninh Bình cũng như ở vùng sau lưng địch, đã tiêu diệt hàng nghìn tên địch. Chúng đã phải rút khỏi phủ Nho Quan. Từ lúc tướng Nava sang Đông Dương cho đến thượng tuần tháng 11 thì hầu như mọi việc đều diễn ra thuận lợi, nào là tăng cường việc "bình định" vùng tạm chiếm, nào là uy hiếp vùng tự do của ta, nào là rầm rộ "động viên" thanh niên mở rộng quân ngụy, nào là chủ động trong việc rút quân, chủ động trong việc tấn công, nào là mạnh bạo tập trung lực lượng cơ động chiến lược. Lúc bấy giờ, địch cho rằng kế hoạch Thu Đông của ta đã bắt đầu bị phá vỡ vì một bộ phận chủ lực của ta đã bị chúng tiêu hao, các đơn vị chủ lực khác thì chắc chắn phải sử dụng vào việc bảo vệ vùng tự do. Từ các nhật lệnh, các "thư hàng tuần" của tướng Nava gửi cho binh sĩ cho đến dư luận báo chí Pháp - Mỹ đều để lộ một không khí hết sức lạc quan. Bỗng nhiên, bộ tổng chỉ huy của địch nhận được một số tin tức tình báo mới: có những triệu chứng về việc di chuyển của một đơn vị chủ lực của quân ta lên hướng Tây Bắc. Địch đứng trước bao nhiêu vấn đề mới: thế thì quân ta mở cuộc tấn công Thu Đông vào đồng bằng hay lên Tây Bắc; và nếu chủ lực ta tấn công lên Tây Bắc thì làm thế nào để bảo toàn cho lực lượng của chúng ở Lai Châu, nhất là làm thế nào để bảo vệ Thượng Lào. Sau khi cân nhắc lợi hại, tướng Nava đã đi đến quyết định mở một cuộc hành binh mới không nằm trong kế hoạch chiến lược của y trước đây. Ngày 20 tháng 11 năm 1953, một lực lượng cơ động của địch gồm sáu tiểu đoàn tinh nhuệ, nhảy dù xuống cánh đồng Mường Thanh và đánh chiếm Điện Biên Phủ. Ý định lúc đầu của địch là sau khi củng cố Điện Biên Phủ sẽ liên lạc với Lai Châu và có thể đánh chiếm vùng Tuần Giáo và có thể cả Sơn La, Nà Sản. Như vậy, địa bàn của chúng ở Tây Bắc sẽ được mở rộng, việc phòng thủ Thượng Lào cũng được bảo đảm. Nhưng, đến trung tuần và hạ tuần tháng 11, địch lại phát hiện những triệu chứng mới: hình như không phải chỉ một đơn vị chủ lực của ta, mà nhiều đơn vị, kể cả những đơn vị thiện chiến nhất, đang tiếp tục di chuyển lên hướng Tây Bắc. Những tin tức đó lúc đầu chưa được rõ rệt, nhưng càng ngày càng được xác nhận. Mùa Đông năm 1953 là lần đầu tiên địch phát hiện những cuộc chuyển quân của ta tương đối sớm, tuy không phải là sớm lắm. Khác hẳn với những năm trước như trong chiến dịch Biên Giới hay chiến dịch Tây Bắc, mãi đến khi quân ta nổ súng, địch mới phát hiện được hướng tấn công chính của ta. Một vấn đề mới hết sức quan trọng được đặt ra cho bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh: trước ý định mở một cuộc tấn công lớn của quân ta, thì giữa hai phương sách: hoặc rút quân khỏi Điện Biên Phủ hoặc tăng cường Điện Biên Phủ và tiếp nhận cuộc chiến đấu với chủ lực ta ở đó, nên chọn phương sách nào? Ngày 3 tháng 12 năm 1953, tướng Nava quyết định chọn phương sách thứ hai và ra chỉ thị cần giữ vững Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào, tạo mọi điều kiện tốt để tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực ta, nếu ta mở cuộc tấn công vào Điện Biên Phủ, đối với Lai Châu thì khi cần có thể rút quân về tăng cường cho Điện Biên Phủ. Tướng Nava căn cứ vào kinh nghiệm Nà Sản, vững tin rằng: với một lực lượng mạnh, với một tổ chức phòng thủ hiện đại, Điện Biên Phủ nhất định sẽ trở thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Quân ta đã tiến lên Tây Bắc thì tương kế tựu kế lại càng nên tìm cách thu hút thêm chủ lực của ta, nếu cuối cùng ta không bỏ ý định tấn công thì nhất định chủ lực ta sẽ bị tổn thất nặng nề. Như vậy, không những chỗ đứng chân của địch ở Tây Bắc được giữ vững, Thượng Lào được an toàn mà đồng bằng Bắc Bộ cũng không bị tấn công. Mùa Đông sẽ đưa lại những thắng lợi mới. Và khi chủ lực ta đã bị tiêu hao, mỏi mệt, ngược lại lực lượng cơ động của chúng đã được tập trung và tăng cường, tướng Nava sẽ ung dung chuyển sang kế hoạch mùa Xuân tức là thực hiện ý đồ tấn công chiến lược trên chiến trường miền Nam như kế hoạch đã định. Quyết định trên đây của tướng Nava, giữ vững và tăng cường Điện Biên Phủ và tiếp nhận chiến đấu với chủ lực ta ở Điện Biên Phủ là một quyết định có tính chất chiến lược cực kỳ quan trọng. Và sau khi đã hạ quyết tâm chiến lược, thì địch lại tiếp tục tuyên truyền thắng lợi, coi việc đánh chiếm và tăng cường Điện Biên Phủ là một bằng chứng không thể chối cãi của sức mạnh mới khôi phục lại và khả năng cơ động chiến lược cao độ của quân đội viễn chinh. Sau những ngày lo âu, không khí lạc quan trong chính giới và dư luận Pháp - Mỹ lại tăng thêm hơn trước nữa. Trong lúc đó bộ đội chủ lực của ta đang tích cực chuẩn bị mở các cuộc tấn công Thu Đông và thắt chặt dần vòng vây xung quanh Điện Biên Phủ. Một trang sử mới bắt đầu trong cục diện của cuộc chiến tranh ở Đông Dương. ___________________________________________ 1. Vécđoong: Một thị trấn trên sông Mơdơ. Năm 1916, trong 10 tháng, quân Pháp đã đẩy lùi các cuộc tấn công của quân Đức - BBT. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Mười Hai, 2022, 05:35:22 pm III. CHỦ TRƯƠNG CỦA TA TRONG ĐÔNG XUÂN 1953-1954. CÁC CUỘC TẤN CÔNG LỚN CỦA QUÂN TA TRÊN CÁC CHIẾN TRƯỜNG PHỐI HỢP TRƯỚC CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ Như trên đã nói, cục diện chiến trường Việt Nam vào mùa Hè năm 1953 đã có những biến đổi quan trọng. Về phía ta thì từ chiến dịch Biên Giới trở đi, quân ta đã lớn mạnh rất nhiều, liên tiếp chiến thắng trong nhiều chiến dịch tấn công, giữ vững thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ. Về phía địch thì địch đã bị thất bại liên tiếp, sinh lực bị tiêu diệt, phạm vi chiếm đóng bị thu hẹp; chúng không thể không dùng những phương sách mới như mở rộng quân ngụy, tăng cường lực lượng cơ động để hòng cứu vãn tình thế. Vì lực lượng của ta trên chiến trường miền Bắc mạnh hơn trên chiến trường khác khá nhiều, vì tầm quan trọng về chính trị cũng như về chiến lược của đồng bằng Bắc Bộ nên địch càng ngày càng có xu thế tập trung lực lượng phòng giữ vùng châu thổ sông Hồng, coi đó là "vị trí then chốt của Đông Nam Á". Từ đầu năm 1953, Trung ương Đảng ta đã phân tích một cách sâu sắc và khoa học hình thái chiến sự trên chiến trường Việt Nam và nói chung trên chiến trường toàn Đông Dương. Trung ương nhận định rằng, do tình hình phát triển không đều của lực lượng ta trên các chiến trường Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ cho nên đại bộ phận chủ lực của địch đã dần dần tập trung ra Bắc Bộ, trong lúc đó trên các chiến trường khác chúng còn nhiều sơ hở. Ở Bắc Bộ thì lực lượng của chúng tập trung ở đồng bằng, còn ở chiến trường miền núi thì chúng tương đối yếu hơn, điều kiện địa hình ở đó lại có lợi cho ta, không lợi cho địch. Bộ đội chủ lực của ta trải qua các chiến dịch lớn, đã nâng cao sức chiến đấu của mình, có những khả năng mới về đánh vận động cũng như về đánh công kiên. Tuy nhiên, trên chiến trường đồng bằng, như kinh nghiệm các chiến dịch Trung Du, chiến dịch Đường số 18 và chiến dịch Hà Nam Ninh năm 1951 đã chứng tỏ, với một mức độ tập trung binh lực nhất định, ta chỉ thực hiện được ưu thế tuyệt đối trong một thời gian ngắn. Đến khi địch lợi dụng khả năng tiếp viện nhanh chóng của chúng để đưa thêm lực lượng cơ động thì ta lại gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp tục phát triển cuộc tấn công của ta. Trên chiến trường rừng núi thì rõ ràng quân ta có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để tiêu diệt quân địch. Ở đây thế bố trí của địch còn tương đối phân tán, quân địch bị hạn chế trong việc sử dụng và phát huy tác dụng của pháo binh, không quân, v.v. Việc tiếp tế và tăng viện của chúng cũng chỉ có thể thực hiện bằng đường hàng không, do đó bị hạn chế rất nhiều. Quân ta có nhiều khả năng để thực hiện và giữ vững ưu thế binh lực trong suốt cả chiến dịch tấn công hoặc trên những hướng nhất định của chiến dịch, do đó có thể thu được thắng lợi lớn. Trên cơ sở sự phân tích nói trên, nắm vững tư tưởng tiêu diệt sinh lực địch là chính, Trung ương Đảng ta đã đề ra phương hướng chiến lược hết sức đúng đắn là: Tập trung lực lượng mở những cuộc tấn công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm xung yếu mà chúng không thể bỏ; do phải phân tán binh lực mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng. Nói một cách cụ thể hơn, trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, trước mắt việc chính là tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch, cũng có thể dùng một bộ phận chủ lực để đánh những trận nhỏ. Còn các chiến dịch lớn thì nên mở vào những hướng khác, làm như vậy cũng tức là dần dần tạo điều kiện để tiến tới giải phóng đồng bằng. Trung ương một lần nữa lại xác định tư tưởng chỉ đạo cuộc kháng chiến nói chung cũng như tư tưởng chỉ đạo tác chiến của quân đội ta: "Phương châm chung của cuộc chiến tranh giải phóng của ta là trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, vì vậy ta không chủ quan khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kỳ thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh". Chỉ được đánh thắng, không được đánh không thắng. Chủ lực ta phải lấy đánh vận động làm chính. Dùng cách đánh vận động cơ động linh hoạt để tiêu diệt từng bộ phận sinh lực của địch. Dùng ưu thế binh lực để tiêu diệt địch một cách giòn giã trong từng trận, không đánh tiêu hao, không đánh tan. Quân ta lại cần kết hợp đánh công kiên với đánh vận động. Đó là một điều cần thiết để đưa các chiến dịch tấn công của ta đến những thắng lợi lớn. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Mười Hai, 2022, 05:37:53 pm Từ khi mặt trận Triều Tiên đình chiến, chúng ta đã dự đoán âm mưu mới của đế quốc Pháp - Mỹ là ra sức tăng cường lực lượng và mở rộng chiến tranh xâm lược ở Đông Dương. Tình hình quân sự vào mùa Hè năm 1953 đã trở nên khẩn trương một cách rõ rệt, nhất là từ khi tướng Nava được cử làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Nhân dân và quân đội ta không hề nao núng trước những âm mưu và thủ đoạn mới của địch. Nhiệm vụ của chúng ta là phải kiên quyết chiến đấu để phá tan kế hoạch Nava, đánh bại kế hoạch đó. Nhưng chủ trương chiến lược nên như thế nào, kế hoạch tác chiến nên như thế nào? Trước âm mưu mới của địch, cần phải phân tích tình hình và định rõ phương châm hành động như thế nào cho chính xác, cho bảo đảm thắng lợi? Vấn đề cụ thể đặt ra là: địch đang tập trung binh lực lớn ở đồng bằng Bắc Bộ, địch đang tập trung ở đây một lực lượng cơ động lớn hơn hết từ trước đến lúc này, đang càn quét dữ dội vùng tạm chiếm, mở những cuộc tấn công lớn nhỏ ra vùng tự do của ta, như vậy ta nên tập trung binh lực đối phó với địch, hay điều động lực lượng mở cuộc tấn công vào các hướng khác. Phương sách thứ nhất là: địch tập trung lực lượng ở đồng bằng Bắc Bộ, uy hiếp vùng tự do của ta; thế thì ta cần tập trung toàn bộ hay phần lớn chủ lực ta ở đồng bằng, tranh thủ tiêu diệt một bộ phận quân địch, phối hợp đẩy mạnh chiến tranh du kích, bảo vệ vùng tự do trong một thời gian. Sau khi địch bị tổn thất đến một mức độ nhất định, vùng tự do của ta được củng cố, lúc đó ta sẽ tùy tình hình mà để chủ lực hoạt động ở đồng bằng hay điều động đi hướng khác. Phương sách thứ hai là: địch tập trung lực lượng ở đồng bằng Bắc Bộ, chiến trường đồng bằng lại có nhiều thuận lợi cho địch, ít thuận lợi cho chủ lực ta tác chiến, sử dụng chủ lực ở đó chỉ có thể thu được những thắng lợi có hạn, mà lại có thể bị tiêu hao lực lượng. Vì vậy ta cần điều động chủ lực đi đánh ở những hướng khác, ở những hướng địch tương đối sơ hở, tiêu diệt sinh lực địch trong những điều kiện thuận lợi, buộc địch phải phân tán đối phó; trong khi đó thì đẩy mạnh chiến tranh du kích trên khắp các chiến trường sau lưng địch cả nước. Nếu địch đánh ra vùng tự do thì lực lượng chúng càng bị phân tán; chủ lực ta thu được thắng lợi ở hướng địch sơ hở thì tự khắc chúng phải rút khỏi vùng tự do của ta. Lúc bấy giờ chúng ta đã thấy rõ những nét chính của kế hoạch quân sự Nava, nhưng âm mưu của địch vẫn chưa bộc lộ một cách cụ thể. Trung ương Đảng ta đã nghiên cứu và phân tích tình hình, nắm vững tư tưởng và phương hướng chiến lược cơ bản đã được đề ra từ trước, đi tới xác định chủ trương tác chiến trong Đông Xuân 1953 - 1954. Chủ trương đó là: Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tấn công vào những hướng địch sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch trong vận động ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch và tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do, để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Kế hoạch tác chiến đại thể là: a) Sử dụng một bộ phận chủ lực mở cuộc tấn công lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân địch còn chiếm đóng Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu Tây Bắc. b) Đề nghị với Quân giải phóng Pathét Lào phối hợp với các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam mở cuộc tấn công vào hướng Trung Lào, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng. c) Vì hành động của địch chưa rõ rệt nên trước mắt chúng ta chủ trương bố trí một bộ phận quan trọng của bộ đội chủ lực ta tại một địa điểm cơ động, giấu kín lực lượng, sẵn sàng hành động. Trước cuộc tấn công của quân ta lên Tây Bắc, địch có thể tăng viện binh lên Tây Bắc, trong trường hợp đó ta sẽ điều động thêm chủ lực lên hướng đó để tiêu diệt sinh lực của chúng. Địch cũng có thể đánh sâu vào một hướng nào đó của căn cứ địa Việt Bắc nhằm cắt đứt đường giao thông, tiếp tế của ta, phá hoại các tuyến chi viện tiền tuyến của ta, gây tổn thất cho vùng tự do của ta đồng thời buộc chủ lực ta ở Tây Bắc phải rút về. Trong trường hợp đó ta sẽ tìm cách dụ địch vào thật sâu rồi sử dụng một bộ phận của chủ lực mà tiêu diệt chúng. d) Ở hướng đồng bằng thì đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch, củng cố và phát triển các căn cứ du kích và khu du kích, phối hợp đắc lực với các cuộc tấn công nói trên. Nếu địch đánh ra vùng tự do thì tiêu hao và tranh thủ tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng. Trên đây là kế hoạch tác chiến cho bộ đội ta trên chiến trường chính - chiến trường miền Bắc. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Mười Hai, 2022, 05:38:53 pm Trung ương lại căn cứ vào tình hình địch, ta và tư tưởng chỉ đạo nói trên mà định ra kế hoạch tác chiến Đông Xuân cho chiến trường miền Nam, đại thể như sau: a) Ở miền Nam, ta có vùng tự do rộng lớn ở Liên khu 5, ở đó có lực lượng vũ trang tương đối mạnh. Lúc bấy giờ ta đã nhận được nhiều tin tức tương đối đích xác về sự chuẩn bị của địch để đánh chiếm vùng tự do của ta. Ở Liên khu 5 chúng ta cũng đứng trước một vấn đề nan giải tương tự như ở Bắc Bộ: địch sắp mở cuộc tấn công vào vùng tự do của ta; ta nên sử dụng đại bộ phận chủ lực để đối phó với âm mưu của địch, bảo vệ vùng tự do hay nên sử dụng chủ lực vào một hướng khác, ở đó ta có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để tiêu diệt sinh lực địch. Chúng ta đi đến một quyết định mạnh bạo và chính xác là tập trung phần lớn chủ lực của Liên khu 5 mở cuộc tấn công lên chiến trường miền núi Tây Nguyên, ra sức tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai. Nhân dân, bộ đội địa phương, dân quân du kích cùng với một bộ phận nhỏ chủ lực có nhiệm vụ tích cực chuẩn bị để đối phó với âm mưu của địch xâm phạm vùng tự do của ta. Chúng ta phán đoán địch có thể tạm thời đánh chiếm một bộ phận đất đai của vùng tự do, nhưng nếu cuộc tấn công của ta phát triển thuận lợi trên chiến trường Tây Nguyên thì cuối cùng chúng cũng bị bắt buộc phải rút quân và có khi phải rút khỏi nhiều địa phương khác nữa. b) Đối với chiến trường Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ thì nhiệm vụ là đẩy mạnh chiến tranh du kích, lợi dụng điều kiện thuận lợi mới do quân địch phải tập trung nhiều lực lượng đi các hướng khác mà tăng cường hoạt động đánh nhỏ ăn chắc, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận nhỏ sinh lực địch, đẩy mạnh ngụy vận, mở rộng các căn cứ du kích và khu du kích. Nhân dân và bộ đội ta ở vùng tự do Khu 9 cũng ráo riết chuẩn bị để đối phó với cuộc tấn công có thể xảy ra của địch. Kế hoạch tác chiến nói trên xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản sau đây về chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến: Một là, trong cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân ta, nguyên tắc tác chiến cơ bản nhất là phải tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; có tiêu diệt được sinh lực địch thì mới làm thay đổi được so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho ta, có tiêu diệt được sinh lực địch thì mới giải phóng được đất đai. Nếu vì phòng giữ hoặc giải phóng đất đai mà không nắm vững nguyên tắc tiêu diệt sinh lực địch thì rốt cuộc lực lượng ta dễ bị tiêu hao mà đất đai cũng không phòng giữ được, càng không giải phóng thêm được. Cho nên cần nắm vững nguyên tắc chính là tiêu diệt sinh lực địch. Hai là, phải đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt. Lúc bắt đầu cuộc chiến tranh, lực lượng ta về số quân và trang bị, vũ khí còn yếu hơn địch rất nhiều, nếu ta không nắm vững nguyên tắc đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt thì lực lượng ta không thể bồi dưỡng thêm, không thể lớn mạnh thêm được. Đối với quân đội ta là quân đội của một dân tộc bị áp bức, quân đội của nhân dân lao động nghèo khổ thì nhất thiết phải nắm vững nguyên tắc: chắc thắng mới đánh, không chắc thắng thì không đánh; hễ đánh là đánh tiêu diệt, không đánh tiêu hao, làm sao qua mỗi một trận chiến đấu, qua mỗi một chiến dịch thì quân ta lớn lên một bước, quân địch yếu đi một bước. Ba là, vì muốn tiêu diệt sinh lực địch, vì chỉ được đánh thắng, không được đánh không thắng, vì phải làm những việc đó trong điều kiện địch mạnh, ta yếu về số quân và trang bị, vũ khí cho nên phương hướng tác chiến không thể chọn nơi nào khác là những nơi địch sơ hở, địch tương đối yếu, ta có nhiều điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tập trung ưu thế tuyệt đối về binh lực, hỏa lực, đánh những trận tiêu diệt thật giòn giã. Qua kinh nghiệm thành công và thất bại trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, chúng ta càng ngày càng nhận rõ nguyên tắc quan trọng đó: chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh. Đầu chương này đã nhắc lại rằng, Trung ương Đảng ta đã khẳng định một cách đúng đắn phương hướng chiến lược của bộ đội chủ lực ta: nhằm những chiến trường địch sơ hở, nhằm những hướng quan trọng mà địch tương đối yếu mà mở những cuộc tấn công để tiêu diệt địch. Khi định ra kế hoạch hoạt động Đông Xuân 1953 - 1954, chúng ta đã căn cứ vào phương hướng do Trung ương Đảng xác định. Bốn là, cũng vì mục đích tiêu diệt sinh lực địch, vì phải nhằm những nơi, những hướng địch tương đối yếu mà đánh, vì phải tạo nên những điều kiện thuận lợi để tiêu diệt địch, cho nên trong tình hình quân sự cụ thể lúc bấy giờ mà đặc điểm lớn là địch tập trung một lực lượng cơ động khá mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ, ta không nên mở cuộc tấn công lớn vào khối cơ động mạnh của chúng mà lại phải tìm mọi cách buộc chúng phải phân tán lực lượng. Trước hết là phân tán chúng ra nhiều hướng, như vậy trên mỗi một hướng lực lượng của chúng nhất định sẽ yếu hơn, ta có nhiều điều kiện để tiêu diệt hơn; tốt nhất là phân tán chúng ra những hướng không lợi cho chúng về địa hình, về sử dụng binh khí, kỹ thuật, về vận chuyển tiếp tế, v.v. ta càng có nhiều điều kiện hơn nữa để tiêu diệt thật nhiều sinh lực của chúng. Nếu điểm quan trọng nhất trong kế hoạch quân sự Nava là khắc phục mọi khó khăn, dùng mọi biện pháp, kiên quyết tập trung binh lực, xây dựng cho kỳ được một khối cơ động chiến lược hết sức mạnh để đối phó thắng lợi với các cuộc tấn công của quân ta, hơn nữa để mở những cuộc tấn công lớn tiêu diệt chủ lực ta, thì điểm rất quan trọng trong kế hoạch tác chiến Đông Xuân của ta là khắc phục mọi khó khăn, sử dụng mọi biện pháp, giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán, phá vỡ khối cơ động tập trung của chúng, điều động từng bộ phận chủ lực của chúng ra những hướng khác nhau, rồi chọn những hướng thuận lợi cho ta mà tiêu diệt chúng. Chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, chúng ta có thể làm được việc đó, là vì chúng ta đã nắm được một trong những mâu thuẫn quan trọng của cuộc chiến tranh xâm lược của địch: mâu thuẫn giữa tập trung binh lực và chiếm đóng đất đai, mâu thuẫn giữa việc xây dựng một lực lượng cơ động lớn với việc phân tán lực lượng ra khắp các địa phương, mâu thuẫn giữa tấn công và phòng ngự về chiến lược. Kế hoạch tác chiến Đông Xuân còn thể hiện và nhấn mạnh phương châm tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt. Tích cực, chủ động nghĩa là nắm lấy cơ hội tốt, tìm chiến trường có điều kiện thuận lợi cho ta, không lợi cho địch mà tấn công quân địch, tiêu diệt sinh lực của chúng; nghĩa là quyết không đi vào chỗ bị động đối phó với địch mà trái lại phải điều động quân địch theo ý muốn của ta; lại có nghĩa là chưa có cơ hội thì tạo nên cơ hội để tiêu diệt chúng. Lại cần phải cơ động, linh hoạt. Vì sao? Vì tình hình địch có thể biến hóa nhanh chóng, một phần là do địch có lực lượng tập trung và có nhiều phương tiện vận chuyển, một phần là do hoạt động của ta buộc địch phải đối phó. Nói chung trên cả chiến trường cũng như nói riêng trên từng hướng một, địch có thể rút chỗ này tăng chỗ kia, có thể tăng ít hay tăng nhiều, có thể đánh ra vùng tự do hay không đánh, đánh ra thì có thể đánh chỗ này hay đánh chỗ khác. Quân ta phải hết sức cơ động, linh hoạt mới không bỏ qua cơ hội để tiêu diệt địch. Cơ động, linh hoạt như thế nào? Cơ động, linh hoạt tức là sẵn sàng chuẩn bị tác chiến với một kẻ địch như thế này, nhưng cũng sẵn sàng để tác chiến với một kẻ địch như thế khác, có thể tác chiến với kẻ địch chưa tăng cường, nhưng cũng có thể tác chiến với kẻ địch tăng cường hay rút lui; sẵn sàng tác chiến ở đồng bằng nhưng cũng sẵn sàng lên tác chiến ở rừng núi; đang thực hiện kế hoạch tác chiến đã định, nhưng nếu điều kiện thay đổi không lợi nữa thì lập tức chuyển quân hay rút quân; đang điều động lực lượng về hướng này nhưng bỗng tình hình thay đổi thì lập tức điều động lực lượng đi hướng khác. Đối với bộ đội thì cơ động, linh hoạt tức là luôn luôn sẵn sàng tác chiến ở chiến trường nào cũng được, bất kỳ lúc nào cũng được, tác chiến bằng hình thức nào cũng được, chiến đấu với một kẻ địch ở trong vị trí hay đang hành quân cũng đều được, đánh vận động, đánh công kiên hay đánh du kích cũng đều được, miễn là tiêu diệt được sinh lực địch. Nói tóm lại, cơ động, linh hoạt là một biểu hiện của tinh thần tích cực, chủ động, là xuất phát từ tinh thần tích cực tiêu diệt sinh lực địch, tất cả mọi tư tưởng, mọi hành động đều phục tùng mục đích căn bản là tiêu diệt sinh lực địch. Nhìn chung chiến trường cả nước mà nói thì kế hoạch tác chiến Đông Xuân của ta nhằm đánh bại kế hoạch Nava, thể hiện một sự hoạt động phối hợp trên tất cả các hướng ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, ... thể hiện một sự hoạt động phối hợp chặt chẽ giữa chiến tranh chính quy trên các mặt trận chính diện với chiến tranh du kích trên các mặt trận sau lưng địch, một sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch và nhiệm vụ giải phóng đất đai, lấy tiêu diệt sinh lực địch làm chính. Làm được như vậy tức là chúng ta lợi dụng được những chỗ yếu, những mâu thuẫn của địch để tiêu diệt địch, mâu thuẫn giữa việc củng cố phòng ngự ở vùng tạm chiếm với việc tấn công ra vùng tự do của ta, mâu thuẫn giữa việc chiếm đóng và bình định các chiến trường miền Nam với việc tập trung lực lượng ra Bắc Bộ, mâu thuẫn giữa chiếm đóng đất đai với tập trung binh lực. Làm được như vậy thì chúng ta tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, phân tán được lực lượng cơ động của chúng, giải phóng được một bộ phận đất đai, xây dựng được những căn cứ địa mới, sáng tạo được những chiến trường mới, tạo điều kiện để tiêu diệt thêm nhiều sinh lực địch. Làm được như vậy thì chúng ta giữ vững và củng cố được thế chủ động của ta, làm cho địch ngày càng đi sâu vào con đường bị động. Làm được như vậy thì chúng ta sẽ phá được âm mưu mới của địch, phá được âm mưu của Nava cũng như trước đây chúng ta đã phá được âm mưu của Tátxinhi. Trên đây là chủ trương chiến lược và kế hoạch tác chiến của ta trong Đông Xuân 1953 - 1954. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Mười Hai, 2022, 05:41:42 pm Thực hiện chủ trương và kế hoạch đó, trong các vùng tự do bị địch uy hiếp, chúng ta đã tiến hành phân tán kho tàng, di chuyển cơ quan, trường học vào sâu trong nội địa, chuẩn bị tự lực đối phó với mọi âm mưu tấn công của địch. Ở trong vùng sau lưng địch thì nhân dân cùng các lực lượng vũ trang ra sức chuẩn bị để đối phó với các cuộc càn quét của địch. Bước vào tháng 10 năm 1953, hàng chục vạn dân công đã được động viên vào việc chuẩn bị cho các chiến trường; các tuyến đường sá được mở rộng từ trước, lúc này được sửa chữa lại. Giữa tháng 11 năm 1953, một bộ phận chủ lực ta lên đường ra tiền tuyến, đi về hướng Lai Châu. Bộ đội tình nguyện Việt Nam cũng chuẩn bị cùng Quân giải phóng Pathét Lào hoạt động ở hướng Trung Lào. Các cuộc tấn công Đông Xuân của ta sắp bắt đầu. Chính vào lúc đó, cục diện chiến sự có một sự biến chuyển mới. Địch phát hiện sự di chuyển của một bộ phận chủ lực ta lên hướng Tây Bắc. Ngày 20 tháng 11 năm 1953, chúng đã dùng một bộ phận lực lượng cơ động, nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ. Một tình huống mới đã xuất hiện. Chúng ta đã kịp thời nhận định tình huống mới đó như sau: Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, mặc dầu ta không phán đoán được cụ thể về địa điểm và thời gian, nhưng cũng nằm trong phạm vi phán đoán trước của ta là nếu Tây Bắc bị uy hiếp thì địch sẽ tăng viện lên hướng đó. Như vậy là trước sự uy hiếp của ta, địch đã phải bị động đối phó, phải phân tán một bộ phận lực lượng cơ động lên Điện Biên Phủ để yểm hộ cho Tây Bắc, để che chở cho Thượng Lào, để phá kế hoạch tấn công của ta. Rồi đây, tình hình địch có thể biến hóa như thế nào nữa? Chúng có thể vừa giữ Điện Biên Phủ vừa giữ Lai Châu, một nơi chính, một nơi phụ, có thể lấy Điện Biên Phủ làm chính. Nếu bị ta uy hiếp, chúng có thể co về một nơi và tăng viện thêm một chừng nào; cũng chưa nhất định co về nơi nào, nhưng khả năng co về Điện Biên Phủ nhiều hơn. Nếu bị ta uy hiếp mạnh hơn, chúng có thể tăng viện nhiều và biến thành một tập đoàn cứ điểm (trong trường hợp này chúng có thể lấy Điện Biên Phủ làm nơi thiết lập trận địa) nhưng chúng cũng có thể rút. Đến lúc này ta chưa thể quyết đoán địch sẽ đóng hay rút, sẽ đóng một nơi hay hai nơi, sẽ đóng lâu dài hay trong thời gian ngắn, sẽ tăng viện nhiều hay ít, v.v. Một là vì ta chưa có đủ căn cứ cụ thể để phán đoán âm mưu địch, hai là vì địch cũng có nhiều khó khăn, rút thì mất đất, tăng nhiều thì phân tán lực lượng cơ động và có thể bị tiêu diệt nên chưa nhất định đã có chủ trương dứt khoát, hoặc hiện có chủ trương nhưng khi gặp khó khăn do sự đối phó của ta gây nên cũng có thể thay đổi. Vô luận rồi đây tình hình địch thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta. Nó bộc lộ mâu thuẫn của địch giữa chiếm đóng đất đai với tập trung lực lượng, giữa chiếm đóng chiến trường rừng núi với củng cố chiến trường đồng bằng. Căn cứ vào nhận định nói trên, các đơn vị chủ lực của ta đang tiến quân lên Tây Bắc nhận được mệnh lệnh gấp rút tấn công tiêu diệt địch ở Lai Châu, đồng thời cho một cánh quân tiến nhanh về phía bắc Điện Biên Phủ, cắt đường rút lui của quân địch ở Lai Châu về phía Điện Biên Phủ, ngăn chặn không cho quân địch ở Điện Biên Phủ tiến lên đón chúng; đồng thời tiến hành bám sát địch ở Điện Biên Phủ, bao vây Điện Biên Phủ và chuẩn bị chiến trường. GIẢI PHÓNG LAI CHÂU, BAO VÂY ĐIỆN BIÊN PHỦ Ngày 10 tháng 12 năm 1953, tiếng súng tấn công của quân ta bắt đầu nổ trên mặt trận Lai Châu. Trước đó quân ta đã tiêu diệt và gọi hàng hàng nghìn thổ phỉ ở Mường La và Châu Thuận. Quân địch ở Lai Châu đã cho một bộ phận rút về Điện Biên Phủ bằng máy bay từ ngày 7 tháng 12 năm 1953. Số còn lại là hai tiểu đoàn ngụy và 23 đại đội chuẩn bị rút theo đường núi về tập trung ở Điện Biên Phủ. Được tin địch rút khỏi Lai Châu, quân ta hành quân cấp tốc theo đường 41, nay là đường số 6, tiến lên truy kích địch. Ngày 10 tháng 12, ta tiêu diệt đồn Pa Ham, một vị trí tiền tiêu của địch cách Lai Châu khoảng 30 kilômét. Ngày 12 tháng 12 năm 1953, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Lai Châu. Ngày 13 tháng 12, quân ta tiêu diệt quân địch ở Mường Pồn và ở đỉnh núi Pu San trên đường rút lui của chúng. Trước đó hai ngày, ta đã tiêu diệt một bộ phận quân địch ở Điện Biên Phủ tiến lên tại Bản Tấu cách Điện Biên Phủ khoảng 10 kilômét về phía bắc. Trải qua hơn 10 ngày đêm chiến đấu, truy kích, bao vây và tiêu diệt địch trong miền núi hiểm trở này, quân ta đã giải phóng toàn bộ khu vực địch còn chiếm ở Lai Châu, tiêu diệt 24 đại đội địch. Sau chiến thắng ở tây nam Ninh Bình, chiến thắng Lai Châu là một thắng lợi lớn của quân ta trong Đông Xuân 1953 - 1954. Thắng lợi đó càng làm cho bộ đội và nhân dân ta thêm tin tưởng. Một kết quả nữa của trận Lai Châu là quân địch phải gấp rút tăng cường cho Điện Biên Phủ để tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt. Kế hoạch tập trung binh lực của Nava bắt đầu bị phá vỡ. Ngoài đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ đã biến thành nơi tập trung binh lực thứ hai của địch. Quân ta gấp rút tiến hành bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Mười Hai, 2022, 05:42:56 pm GIẢI PHÓNG THÀ KHẸT VÀ NHIỀU ĐỊA PHƯƠNG Ở TRUNG LÀO Đồng thời với việc chuẩn bị đánh Lai Châu, bộ đội tình nguyện Việt Nam được lệnh phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào mở cuộc tấn công vào hướng Trung Lào là nơi địch tương đối sơ hở. Đầu tháng 12, địch phát hiện hoạt động của ta, gấp rút tăng thêm quân cho mặt trận này. Trong hai ngày 21 và 22 tháng 12, các đơn vị Lào - Việt đánh luôn hai trận ở Khăm He và Banaphào gần biên giới Việt - Lào, tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn cơ động của địch và phần lớn một tiểu đoàn cơ động thứ ba và tiểu đoàn pháo. Chiến thắng trong mấy trận liên tiếp, các đơn vị Lào - Việt tiến rất nhanh về phía Thà Khẹt, mặt khác truy kích địch về hướng đường số 9. Địch hoảng hốt bỏ thị xã Thà Khẹt rút chạy về Xênô là một căn cứ quân sự ở Xavanakhét. Ngày 25 tháng 12, các đơn vị Quân giải phóng Pathét Lào tiến vào thị xã Thà Khẹt giải phóng, trên bờ sông Cửu Long. Các địa phương giải phóng được mở rộng đến sát đường số 9 một số vị trí của địch cũng bị tiêu diệt. Đây là một thắng lợi lớn nữa của quân ta trong Đông Xuân 1953 - 1954. Để kịp thời đối phó với hoạt động của ta, địch đã phải gấp rút điều động những lực lượng cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ và từ các chiến trường khác đến tăng viện, tổ chức Xênô thành một tập đoàn cứ điểm lớn để ngăn cản các đơn vị Lào và Việt tiến xuống Hạ Lào. Nava bị bắt buộc phải tiếp tục phân tán binh lực. Ngoài đồng bằng Bắc Bộ và Điện Biên Phủ ra, Xênô đã trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của địch. GIẢI PHÓNG CAO NGUYÊN BÔLÔVEN VÀ THỊ XÃ ATÔPƠ Cùng một lúc với cuộc tấn công ở mặt trận Trung Lào, một đơn vị của các lực lượng Lào và Việt đã vượt qua nhiều vùng rừng núi hiểm trở tiến sâu xuồng Hạ Lào, bắt liên lạc với các lực lượng vũ trang địa phương ở đó. Lợi dụng thế địch sơ hở, ngày 30 và ngày 31 tháng 12, các lực lượng Lào và Việt đã tấn công và tiêu diệt một tiểu đoàn địch ở vùng Atôpơ, giải phóng thị xã Atôpơ. Thừa thắng, các lực lượng đó đã phát triển mạnh về hướng Xaravan, giải phóng toàn bộ cao nguyên Bôlôven ở Hạ Lào. Quân địch lại phải điều động lực lượng mới đến tăng cường cho thị xã Pắc Xế. GIẢI PHÓNG CÔNG TUM VÀ MIỀN BẮC TÂY NGUYÊN Mặc dầu bị đánh bại ở nhiều hướng, địch vẫn chủ quan trong phán đoán của chúng. Thấy chiếm được Điện Biên Phủ một cách dễ dàng, địch cho rằng ta không đủ sức để tấn công Điện Biên Phủ, không những vì Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm rất mạnh, mà lại vì Điện Biên Phủ ở rất xa hậu phương của ta, quân ta có muốn tấn công cũng khó lòng khắc phục được những trở ngại về cung cấp lương thực. Chúng cho rằng, sở dĩ ta tấn công về nhiều hướng cũng là vì ta do dự trước tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; chỉ cần chờ một thời gian nữa, ta gặp khó khăn về lương thực, phải rút quân khỏi Tây Bắc, lúc đó chúng sẽ tìm cách tiêu hao một phần chủ lực của ta và tiếp tục thực hiện kế hoạch đã định, đánh chiếm Tuần Giáo, Sơn La và có thể trở lại Nà Sản. Cũng do nhận định chủ quan nói trên, mà ngày 20 tháng 1, ở Liên khu 5, chúng huy động 15 tiểu đoàn mở cuộc tấn công vào phía nam Phú Yên. Đó là chiến dịch Átlăng tức là cuộc tấn công chiến lược mà kế hoạch Nava đã chuẩn bị từ trước, nhằm mục đích chiếm lĩnh toàn bộ vùng tự do của ta ở miền Nam Trung Bộ. Mặc dầu địch đánh vào vùng tự do của ta, quân ta ở Liên khu 5 vẫn tiếp tục thực hiện kế hoạch đã định một cách hết sức kiên quyết, chỉ để một bộ phận nhỏ đối phó với địch để yểm hộ hậu phương, còn phần lớn lực lượng thì tập trung tấn công lên Tây Nguyên là một hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối sơ hở. Cuộc tấn công bắt đầu ngày 26 tháng 1 năm 1954. Ngày hôm sau, ta tiêu diệt tiểu khu Măng Đen là tiểu khu mạnh nhất của địch ở vùng này. Tiếp theo đó ta tiêu diệt Đắc Tô và giải phóng toàn bộ phía bắc tỉnh Công Tum. Ngày 17 tháng 2, ta giải phóng thị xã Công Tum, quét sạch quân địch ở phía Bắc Tây Nguyên, sau đó tiến sát đến đường số 19. Cũng trong thời gian đó, ta tập kích vào thị xã Plây Cu. Quân địch rất lúng túng, phải ngừng cuộc tấn công của chúng ở đồng bằng Liên khu 5, điều động nhiều đơn vị ở đó và cả một số đơn vị ở Trung Lào và Bình Trị Thiên lên tăng cường cho thị xã Plây Cu và một số cứ điểm miền Nam Tây Nguyên để chống đỡ. Chiến thắng Công Tum là một thắng lợi lớn nữa của quân và dân ta trong Đông Xuân. Tại Liên khu 5, ta đã phá thế uy hiếp của địch đối với phía sau lưng Quảng Nam, Quảng Ngãi, ta giải phóng cả một địa bàn chiến lược quan trọng ở Bắc Tây Nguyên. Vùng tự do của ta đi từ ven biển Quảng Nam, Quảng Ngãi đến biên giới Việt - Lào, đã được nối liền với vùng giải phóng tây nam Bôlôven của nước bạn. Thắng lợi này càng chứng tỏ phương châm chỉ đạo của Trung ương là chính xác. Sự đối phó bị động của địch ngày càng bộc lộ rõ rệt. Địch điều động lực lượng từ đồng bằng Bắc Bộ tăng cường cho Trung Lào, rồi lại điều động từ Trung Lào và Bình Trị Thiên tăng cường cho Tây Nguyên. Địch tập trung lực lượng, định nhanh chóng đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5, nhưng lại phải ngừng hoạt động, phải bị động chuyển lực lượng ra chống đỡ trước cuộc tấn công của ta. Địch muốn tập trung lực lượng, nhưng lại bị buộc phải tiếp tục phân tán lực lượng. Plây Cu và một số cứ điểm ở miền Nam Tây Nguyên đã trở thành một nơi tập trung binh lực thứ tư của địch. Cuộc tấn công của ta trên chiến trường Tây Nguyên còn tiếp tục phát triển cho đến tháng 6 năm 1954 và còn thu được nhiều thắng lợi, đặc biệt trong trận chiến thắng lớn ở An Khê, tiêu diệt trung đoàn cơ động số 100 từ chiến trường Triều Tiên mới về, giải phóng An Khê, thu được rất nhiều xe cộ và vũ khí, đạn dược. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 14 Tháng Mười Hai, 2022, 05:44:41 pm GIẢI PHÓNG PHÔNG XA LỲ, LƯU VỰC SÔNG NẬM HU, TIẾN SÁT LUÔNG PHABĂNG Sau khi Lai Châu bị tiêu diệt, Điện Biên Phủ trở nên quá cô lập. Địch tìm cách nối liền Điện Biên Phủ với Thượng Lào, tăng thêm quân chiếm đóng dọc lưu vực sông Nậm Hu cho đến Mường Khoa, dự định mở đường giao thông với Điện Biên Phủ. Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, tiêu diệt thêm sinh lực của chúng, buộc chúng phải tiếp tục phân tán binh lực, tạo điều kiện tốt cho việc tiến hành mọi công tác chuẩn bị để mở cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam được lệnh phối hợp với các đơn vị Quân giải phóng Pathét Lào mở cuộc tấn công vào lưu vực sông Nậm Hu. Ngày 26 tháng 1 năm 1954, các lực lượng Lào và Việt tấn công vào Mường Khoa, tiêu diệt một tiểu đoàn lính Âu ở đó, sau đó đã nhanh chóng khuếch trương chiến quả, quét sạch quân địch ở lưu vực sông Nậm Hu, tiến đến sát Luông Phabăng. Phòng tuyến Nậm Hu mà địch cho là con đường "liên lạc chiến lược" của chúng đã bị phá vỡ, 17 đại đội địch bị tiêu diệt, trong đó có toàn bộ một tiểu đoàn lính Âu, Luông Phabăng bị uy hiếp. Mặt khác các lực lượng Lào và Việt phát triển lên phía bắc và giải phóng tỉnh Phông Xa Lỳ. Căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào được mở rộng, nối liền với khu giải phóng Sầm Nưa và với khu Tây Bắc của ta. Trước cuộc tấn công mạnh mẽ của liên quân Lào - Việt, địch lại phải điều động lực lượng cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường cho Luông Phabăng. Nava lại một lần nữa bị buộc phải tiếp tục phân tán lực lượng. Luông Phabăng trở thành một nơi tập trung binh lực thứ năm của địch. THẮNG LỢI Ở CHIẾN TRƯỜNG SAU LƯNG ĐỊCH: ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ, BÌNH TRỊ THIÊN, CỰC NAM TRUNG BỘ, NAM BỘ Trong khi địch buộc phải lúng túng đối phó với các cuộc tấn công liên tiếp của chủ lực ta trên nhiều hướng, thì ở chiến trường sau lưng địch, khắp nơi, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích đều nắm vững thời cơ đẩy mạnh hoạt động phối hợp. Ở đồng bằng Bắc Bộ chiến tranh du kích phát triển rất mạnh. Bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương của ta tiêu diệt hàng loạt vị trí quan trọng của địch, trong đó có những vị trí lớn như vị trí Hoàng Đan ở Hà Nam, vị trí La Tiến ở Thái Bình, vị trí quận Từ Sơn ở Bắc Ninh; buộc địch phải rút khỏi hàng loạt vị trí khác trong đó có những vị trí quan trọng như phân khu Cầu Bố ở Bắc Giang, vị trí Diêm Điền và Cao Mại ở Thái Bình, Kinh Môn ở Hải Dương, Phù Lưu Tế ở Hà Đông, Ao Khoang và Suối Me ở Sơn Tây. Các hình thức tập kích, phục kích, đánh giao thông đều phát triển mạnh, tiêu diệt từng đại đội, có khi từng tiểu đoàn địch. Đường số 5 là con đường chiến lược huyết mạch của địch bị uy hiếp nghiêm trọng, có khi đã bị cắt đứt hàng tuần. Đặc biệt trong hai cuộc tập kích lớn vào sân bay Cát Bi và sân bay Gia Lâm, quân ta đã phá hủy hàng chục máy bay của địch. Trong những tháng sau đó, chiến tranh du kích ở vùng châu thổ sông Hồng còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Ngụy vận cũng thu được những thành tích rất lớn. Các vùng căn cứ du kích và khu du kích được mở rộng rất nhiều, chiếm ba phần tư đất đai của vùng địch tạm kiểm soát. Ở Bình Trị Thiên, Cực Nam Trung Bộ, quân ta cũng hoạt động tích cực, đánh mạnh trên các đường giao thông, đánh đổ nhiều đoàn tàu của địch, phá các cuộc càn quét của chúng, mở rộng các căn cứ du kích và khu du kích, tăng cường công tác ngụy vận, thu được nhiều thắng lợi. Ở Nam Bộ, trong suốt thời gian Đông Xuân, quân ta đã ra sức đẩy mạnh hoạt động phối hợp. Do lực lượng cơ động của địch bị điều động đi các chiến trường khác, do sự cổ vũ của những chiến thắng liên tiếp của quân ta trên nhiều mặt trận, lại do phương châm hoạt động được xác định đúng đắn, một số khuyết điểm trước đây được khắc phục nên chiến tranh du kích có đà phát triển mạnh mẽ, thu được thắng lợi rất lớn. Trên 1.000 đồn trại, tháp canh của địch bị tiêu diệt hoặc bức rút. Vùng tự do Khu 9 được giữ vững và mở rộng. Các căn cứ du kích và khu du kích lớn nhỏ đều được khôi phục và mở rộng rất nhiều. Nhiều địa phương mới được giải phóng. Số địch ra hàng ta lên tới hàng nghìn, về sau lên tới hàng vạn. * * * Vào thượng tuần tháng 3 năm 1954, nhìn chung hình thái chiến sự trên các chiến trường, nổi lên hai đặc điểm đáng chú ý: Một là, quân ta đã chủ động mở một loạt chiến dịch tấn công trên nhiều hướng, đã chiến thắng khắp nơi, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, giải phóng nhiều địa phương, trong đó có những vùng chiến lược quan trọng. Hai là, khối cơ động chiến lược của địch không còn tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ nữa mà đã bị phân tán ra nhiều hướng: Luông Phabăng và Mường Sai ở Thượng Lào, Xênô ở Trung Lào, Plây Cu và miền nam Tây Nguyên ở Liên khu 5, lại còn một bộ phận lực lượng tinh nhuệ nhất bị giam chân ở Điện Biên Phủ. Khối lực lượng cơ động nổi tiếng của Nava trước đây tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ là 44 tiểu đoàn, bây giờ chỉ còn 20 tiểu đoàn, nhưng phần lớn những tiểu đoàn này cũng không còn cơ động nữa mà đã phải rải ra để bảo vệ các đường giao thông quan trọng, nhất là đường số 5. Kế hoạch Nava đã bắt đầu bị phá sản. Âm mưu của Nava là xây dựng một khối lực lượng cơ động chiến lược ngày càng mạnh mẽ để giành lại thế chủ động; nhưng ta đã buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động đi khắp nơi, liên tiếp bị tiêu diệt từng bộ phận và ngày càng lâm vào thế bị động chống đỡ. Âm mưu của Nava là tiêu hao và tiêu diệt một bộ phận lực lượng chủ lực của ta, phá kế hoạch Thu Đông năm 1953 của ta; nhưng không những chủ lực của ta không bị tiêu diệt, mà lại chiến thắng liên tiếp; ngược lại chủ lực của chúng lại bị tổn thất rất nặng. Âm mưu của Nava là "bình định" vùng tạm chiếm; nhưng chiến tranh du kích ở đó lại ngày càng phát triển với một khí thế rất mạnh. Âm mưu của Nava là mở những chiến dịch tấn công uy hiếp vùng tự do của ta, giam giữ và tiêu hao chủ lực ta, nhưng không những vùng tự do của ta không bị uy hiếp, chủ lực ta vẫn giữ tính chất cơ động cao độ; mà chính hậu phương của chúng lại bị ta đánh mạnh, bị uy hiếp hơn bao giờ hết. Tuy vậy, bọn tướng tá Pháp - Mỹ vẫn chưa chịu nhìn thấy sự thật thảm hại đó. Chúng còn cho rằng hoạt động của ta trong Đông Xuân 1953-1954 đã lên đến đỉnh cao nhất rồi, cuộc lui quân của ta sắp bắt đầu rồi, ta nhất định không đủ sức để tiếp tục tấn công được nữa. Chúng còn cho rằng: mặc dầu đã bị những tổn thất nhất định, chúng đã chống đỡ và ngăn chặn được các cuộc tấn công Thu Đông của ta và thời cơ tốt của chúng đã đến. Xuất phát từ nhận định đó, tướng Nava đã ra lệnh tiếp tục cuộc tấn công chiến lược trên chiến trường miền Nam, tập trung một binh lực tương đối lớn tiếp tục đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5, tiếp tục thực hiện kế hoạch Átlăng bị bỏ dở. Ngày 12 tháng 3, để giành lại chủ động, chúng mở cuộc tấn công đổ bộ lên Quy Nhơn. Chúng không ngờ rằng ngay hôm sau, vào ngày 13 tháng 3 năm 1954 thì quân ta mở cuộc tấn công lớn vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ bắt đầu. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Hai, 2022, 08:46:47 pm IV. CHIẾN DỊCH LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ. TÌNH HÌNH ĐỊCH VÀ CHỦ TRƯƠNG TÁC CHIẾN CỦA TA Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc. Cánh đồng Điện Biên Phủ chiều dài khoảng 18 kilômét, chiều rộng từ sáu đến tám kilômét. Đây là cánh đồng lớn nhất, giàu có nhất và dân cư đông đúc nhất trong bốn cánh đồng lớn ở Tây Bắc. Điện Biên Phủ ở gần biên giới Việt - Lào, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng; phía đông bắc nối liền với Lai Châu, phía đông và đông nam nối liền với Tuần Giáo, Sơn La, Nà Sản, phía tây thông với Luông Phabăng, phía nam thông với Sầm Nưa. Đối với đế quốc Pháp - Mỹ, chúng đã coi Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền tây nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân có tác dụng rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam Á. Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ lúc đầu có khoảng sáu tiểu đoàn, đến sau tăng lên dần để đối phó với cuộc tấn công của ta. Khi quân ta bắt đầu tấn công Điện Biên Phủ thì lực lượng của chúng đã tăng lên đến 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh; trong quá trình chiến dịch, chúng tiếp tục tăng thêm 4 tiểu đoàn và 2 đại đội nhảy dù, tổng cộng là 17 tiểu đoàn bộ binh. Phần lớn các lực lượng này gồm các đơn vị Âu Phi và các đơn vị nhảy dù tinh nhuệ. Ngoài ra, còn có ba tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn công binh, một đại đội xe tăng, một đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và một phi đội không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200 tên. Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ được bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm ba phân khu yểm hộ lẫn nhau, tất cả có 49 cứ điểm. Mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự; nhiều cứ điểm được tổ chức lại thành những cụm cứ điểm gọi là "trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp", có lực lượng cơ động, có hỏa lực của mình, xung quanh có hào giao thông và hàng rào dây thép gai, có khả năng độc lập phòng ngự khá mạnh. Mỗi một phân khu gồm có nhiều trung tâm đề kháng kiên cố như vậy. Mỗi một trung tâm đề kháng cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được che chở bằng hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, bằng một hệ thống công sự phụ (hàng rào hoặc bãi dây thép gai, bãi mìn) và bằng một hệ thống hỏa lực rất mạnh. Phân khu quan trọng hơn hết là phân khu trung tâm ở ngay giữa làng Mường Thanh, tức là châu lỵ Điện Biên Phủ. Ở đây, tập trung gần hai phần ba lực lượng của địch (8 tiểu đoàn gồm 5 tiểu đoàn chiếm đóng và 3 tiểu đoàn cơ động), có nhiều trung tâm đề kháng yểm hộ lẫn nhau và bao bọc lấy cơ quan chỉ huy, các căn cứ hỏa lực và căn cứ hậu cần, đồng thời bảo vệ sân bay. Phía đông phân khu, có cả một hệ thống điểm cao rất lợi hại, đặc biệt là các ngọn đồi A1, C1, D1, E1; những điểm cao đó là bộ phận phòng ngự quan trọng nhất của phân khu. Địch đã nhiều lần nhận định rằng Điện Biên Phủ là một pháo đài kiên cố, quân ta không thể nào công phá được. Chỉ lấy riêng phân khu trung tâm mà nói, thì lực lượng của địch đã khá mạnh, các điểm cao phía đông là những điểm cao quân ta khó lòng đánh được; chúng lại có sẵn một lực lượng pháo binh và cơ giới đủ sức đánh chặn mọi cuộc tiếp cận qua cánh đồng bằng phẳng, có sẵn một hệ thống công sự, dây thép gai và hào chiến đấu đủ sức tiêu hao và đánh lui mọi lực lượng tấn công, có sẵn một lực lượng cơ động gồm các tiểu đoàn nhảy dù sẵn sàng phối hợp với các trung tâm đề kháng để phản kích và tiêu diệt mọi lực lượng tấn công từ bên ngoài đến, có sẵn một lực lượng pháo binh cơ giới, và không quân đủ sức ngăn chặn các lực lượng tấn công và tiêu diệt các căn cứ pháo binh của ta mà chúng cho là dễ phát hiện, vì buộc phải đặt ở sườn núi phía trong lòng chảo, còn nếu đặt ở phía ngoài thì lại quá tầm bắn cần thiết (khoảng cách từ những ngọn núi lớn khống chế Điện Biên Phủ đến sân bay là từ 10 đến 12 kilômét). Ở phía bắc, có phân khu bắc gồm các trung tâm đề kháng đồi Độc Lập và Bản Kéo. Đồi Độc Lập là một vị trí có nhiệm vụ án ngữ phía bắc, ngăn chặn cuộc tấn công của quân ta từ hướng Lai Châu vào Điện Biên Phủ. Him Lam, tuy thuộc khu trung tâm, nhưng cùng với các vị trí đồi Độc Lập và Bản Kéo là những vị trí ngoại vi đột xuất nhất của địch, có nhiệm vụ án ngữ phía đông bắc, ngăn chặn cuộc tấn công của quân ta từ hướng Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ. Ở phía nam, có phân khu nam còn gọi là phân khu Hồng Cúm, có nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tấn công từ phía nam lên, đồng thời giữ đường liên lạc với Thượng Lào. Hỏa lực pháo binh được bố trí thành hai căn cứ: một căn cứ ở Mường Thanh, một căn cứ nữa ở Hồng Cúm, có thể yểm hộ lẫn nhau và yểm hộ cho các cứ điểm xung quanh. Ngoài hỏa lực chung của tập đoàn cứ điểm, mỗi trung tâm đề kháng còn có hỏa lực riêng bao gồm nhiều súng cối các cỡ, súng phun lửa và các loại súng bắn thẳng bố trí thành một hệ thống hỏa lực chặt chẽ yểm hộ cho bản thân mình và các cứ điểm xung quanh. Điện Biên Phủ có hai sân bay. Ngoài sân bay chính ở Mường Thanh lại còn có một sân bay dự bị ở Hồng Cúm, ngày ngày được nối liền với Hà Nội, Hải Phòng bằng một cầu hàng không, trung bình mỗi ngày có gần 100 chuyến máy bay vận tải tiếp tế khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù khoảng 100 đến 150 tấn. Máy bay trinh sát và khu trục của phi đội thường trực luôn luôn bay lượn trên vùng trời Điện Biên Phủ. Nhiệm vụ bắn phá và oanh tạc quân ta để yểm hộ cho tập đoàn cứ điểm thì do máy bay của địch xuất phát từ các căn cứ Gia Lâm hay Cát Bi đảm nhiệm, về sau có một bộ phận xuất phát từ tàu chở máy bay của Mỹ đậu ở vịnh Hạ Long. Với lực lượng hùng hậu và cơ cấu phòng ngự vững chắc như trên, Nava đã từng nhận định rằng Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất chưa từng có ở Đông Dương, là một "pháo đài không thể công phá". Do nhận định chủ quan đó, mà địch đã phán đoán rằng quân ta có ít khả năng tấn công vào Điện Biên Phủ, và nếu quân ta mạo hiểm tấn công vào thì càng tốt, vì chắc chắn là quân ta không thể nào tránh khỏi thất bại. Chúng đã coi Điện Biên Phủ là một chiến trường được chuẩn bị sẵn để gây tổn thất nặng cho chủ lực ta. Chúng đã có lần láo xược thả truyền đơn thách thức quân ta tấn công Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Hai, 2022, 08:47:43 pm Về phía ta, ngay sau khi địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, chúng ta đã nhận định rằng: dưới sự uy hiếp của chủ lực ta, quân địch có khả năng rút khỏi Điện Biên Phủ, đồng thời cũng có khả năng tăng cường phòng thủ ở đó, tổ chức Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm; và nếu khả năng thứ hai biến thành hiện thực thì đó là một cơ hội tốt để quân ta tiêu diệt sinh lực tinh nhuệ của chúng. Do dự kiến nói trên, nên trong khi chủ lực ta mở cuộc tấn công lên Lai Châu, ta đã cho một bộ phận cấp tốc tiến về phía tây, cắt liên lạc giữa Lai Châu và Điện Biên Phủ, tiến hành bao vây Điện Biên Phủ, bám sát địch, chuẩn bị chiến trường. Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh. Tập đoàn cứ điểm là hình thức phòng ngự mới nhất của địch trên chiến trường Đông Dương lúc bấy giờ. Hình thức đó đã từng hình thành với một trình độ còn thấp ở Hòa Bình vào cuối năm 1951, đã từng xuất hiện ở Cánh Đồng Chum và Nà Sản vào năm 1952 và đầu năm 1953. Đứng trước hình thức phòng ngự mới nhất, mạnh nhất của địch, chúng ta đã từng đặt ra vấn đề nghiên cứu để giải quyết là nên trực tiếp tấn công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm hay không nên. Trước đây, khi bộ đội ta còn yếu, hình thức chiếm đóng và tác chiến của địch là cứ điểm nhỏ và đội ứng chiến nhỏ. Khi bộ đội ta đã đủ sức tiêu diệt viện binh nhỏ và cứ điểm nhỏ thì hệ thống bố trí của địch lại được phát triển và củng cố thêm một bước, dựa vào những cứ điểm lớn, có công sự ngày càng kiên cố, có binh lực và hỏa lực ngày càng mạnh hơn, đồng thời dựa vào những đội quân ứng chiến tương đối lớn. Về sau, trước sự lớn mạnh của quân ta, khi một cứ điểm của địch lâm vào nguy cơ bị tiêu diệt thì chúng có hai cách đối phó: một là rút quân để bảo tồn binh lực, hai là tăng cường thêm binh lực và tổ chức phòng ngự theo hình thức tập đoàn cứ điểm. Cách tổ chức phòng ngự bằng tập đoàn cứ điểm không phải là một sáng kiến của quân đội xâm lược của thực dân Pháp. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, bọn phát xít Đức đã từng vận dụng cách phòng ngự bằng tập đoàn cứ điểm, cũng gọi là "chiến lược con nhím", hòng ngăn chặn những cuộc tấn công như vũ bão của Hồng quân Liên Xô tiến về hướng Bá Linh. Các tướng tá Pháp - Mỹ chỉ đem những kinh nghiệm của bọn phát xít Đức vận dụng vào chiến trường Đông Dương, hòng ngăn chặn những bước tiến của quân ta. Đứng trước phương sách phòng ngự mới của địch, cách đánh của ta phải như thế nào để giành được thắng lợi lớn nhất, trong một tình hình nhất định về so sánh lực lượng giữa ta và địch. Cần nhấn mạnh ở đây một lần nữa rằng trong khi giải quyết vấn đề phép đánh về chiến dịch cũng như về chiến thuật, bao giờ chúng ta cũng xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản về chỉ đạo tác chiến, tức là nguyên tắc tiêu diệt sinh lực địch và nguyên tắc đánh chắc thắng. Xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản nói trên, khi hình thức tập đoàn cứ điểm mới xuất hiện, khả năng chiến đấu của quân ta về chiến dịch và chiến thuật còn có hạn, chúng ta đã từng chủ trương không nên trực tiếp đánh vào tập đoàn cứ điểm, mà chỉ tìm cách kiềm giữ chủ lực của địch trong tập đoàn cứ điểm, còn chủ lực của ta thì sử dụng đánh vào một hướng khác, ở đó địch tương đối yếu và sơ hở hơn, ta có nhiều điều kiện thuận lợi để tiêu diệt sinh lực địch hơn. Chúng ta đã từng vận dụng phép đánh đó trong chiến dịch Hòa Bình. Địch tập trung lực lượng thành tập đoàn cứ điểm ở Hòa Bình thì hướng tấn công chủ yếu của quân ta không phải là Hòa Bình mà là ở những nơi khác; chúng ta đã từng tiêu diệt viện binh của địch và cứ điểm của địch ở ven bờ sông Đà và đã mở cuộc tấn công vào vùng sau lưng địch ở Bắc Bộ, thu được nhiều thắng lợi lớn. Về sau, khi địch tập trung lực lượng ở tập đoàn cứ điểm Nà Sản thì sau khi tiến hành một hai cuộc chiến đấu ở đây, một bộ phận sinh lực địch bị tiêu diệt, nhưng lực lượng ta cũng bị tiêu hao, ta cũng lại chủ trương trước mắt không mở cuộc tấn công trực tiếp vào Nà Sản. Bộ đội tình nguyện Việt Nam lại phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào mở cuộc tấn công vào hướng Thượng Lào, phía tây nam Nà Sản và đã thu được thắng lợi lớn. Nhưng phép đánh trên đây không phải là phép đánh duy nhất. Chúng ta đã nhận định rằng vấn đề trực tiếp tấn công vào tập đoàn cứ điểm, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm là một vấn đề nhất định phải được giải quyết, là một bước tất nhiên quân đội ta phải trải qua trong quá trình phát triển của cuộc đấu tranh vũ trang và trên con đường trưởng thành của quân đội. Thật vậy, chúng ta có tiêu diệt được tập đoàn cứ điểm thì mới đánh bại được hình thức đối phó mới nhất, cao nhất của địch, đánh bại được sự cố gắng lớn nhất của chúng trong bố trí phòng ngự, gây cho chúng một sự khủng hoảng mới, tạo nên cục diện mới, mở đường cho quân đội ta tiến lên và thúc đẩy cuộc đấu tranh vũ trang của ta phát triển. Vì vậy, từ khi hình thức tập đoàn cứ điểm xuất hiện, chúng ta đã dày công nghiên cứu hình thức phòng ngự mới đó của địch, đánh giá và phân tích chỗ mạnh và chỗ yếu của nó, đề ra những nguyên tắc chiến thuật cũng như những yêu cầu về kỹ thuật và trang bị, những khó khăn cần được khắc phục, để rèn luyện cho quân đội ta, chuẩn bị cho quân đội ta tiến lên giải quyết thắng lợi nhiệm vụ tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch. Và, có thể nói rằng bước vào Thu Đông năm 1953, thì quân đội ta đã được chuẩn bị để làm nhiệm vụ đó. Chính vì vậy mà khi phát hiện địch có khả năng tăng cường lực lượng lên Điện Biên Phủ và biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm thì Trung ương Đảng ta đã nhanh chóng hạ quyết tâm tranh thủ thời cơ tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Hai, 2022, 08:48:34 pm Hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chúng ta đã căn cứ vào những khả năng mới của quân đội ta, đồng thời cũng căn cứ vào đặc điểm của chiến trường Điện Biên Phủ, căn cứ vào những điều kiện tác chiến trên quy mô lớn của ta cũng như của địch trên chiến trường này. Trong quá trình diễn biến của tình hình chiến sự mùa Đông năm 1953, Điện Biên Phủ đã dần dần trở thành điểm trung tâm của kế hoạch Nava. Chúng ta có tiêu diệt được Điện Biên Phủ thì mới đập tan được âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Pháp - Mỹ. Tuy nhiên, sự cần thiết phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tầm quan trọng của Điện Biện Phủ không thể coi là cơ sở chủ yếu để hạ quyết tâm đánh Điện Biên Phủ. Vấn đề quyết định là, căn cứ vào sự so sánh lực lượng cụ thể giữa ta và địch lúc bấy giờ, căn cứ vào những khả năng mới của quân ta và những khả năng mới của địch, ta có thể bắt đầu vận dụng cách đánh trực tiếp vào tập đoàn cứ điểm bằng cuộc tấn công vào Điện Biên Phủ hay không; nói một cách khác, Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm rất mạnh, tấn công vào Điện Biên Phủ, ta có nắm chắc phần thắng lợi hay không. So với Nà Sản trước đây thì Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh hơn nhiều. Không những binh lực và hỏa lực mạnh hơn gấp bội mà tổ chức phòng ngự cũng hiện đại hơn. Nếu Nà Sản là một tập đoàn cứ điểm quy mô nhỏ hơn, chỉ gồm những trung tâm đề kháng đơn giản, thì Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm quy mô lớn, gồm nhiều trung tâm đề kháng phức tạp. Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ đã đánh giá rất cao những chỗ mạnh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, coi đó là một hình thức tập đoàn cứ điểm theo kiểu phức tạp, tổ chức phòng ngự ở một trình độ cao. Chúng đã đi đến kết luận: nếu quân đội ta đã không đánh được Hòa Bình và Nà Sản thì đương nhiên là không thể nào đánh được Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ là một pháo đài không thể công phá được. Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ lại còn cho rằng ưu thế của chúng ở Điện Biên Phủ còn do chỗ vị trí của tập đoàn cứ điểm này nằm ở giữa núi rừng Tây Bắc rất xa những căn cứ hậu phương của ta. Chúng ta muốn đánh Điện Biên Phủ thì phải sử dụng một lực lượng bộ đội khá lớn, phải tổ chức và duy trì những tuyến cung cấp rất dài trong một thời gian khá lâu. Chúng cho rằng, theo những kinh nghiệm chúng đã thu được thì ta hoàn toàn không có khả năng giải quyết vấn đề chi viện cung cấp theo một quy mô lớn, trong một thời gian dài như vậy. Đó là chưa nói đến những trở ngại và tổn thất rất lớn mà máy bay oanh tạc của chúng có thể gây ra cho việc chuyển quân và việc tiếp tế của ta. Còn như nói rằng Điện Biên Phủ nằm ở giữa một thung lũng xung quanh đều có núi rừng bao bọc, thì thung lũng này là một thung lũng khá rộng, đường giao thông từ Tuần Giáo đi vào là những đường nhỏ, quân ta chắc chắn không thể vận chuyển pháo binh vào gần được, lại càng không thể giải quyết vấn đề tiếp cận qua cánh đồng bằng phẳng để tấn công vào tập đoàn cứ điểm. Như vậy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lại càng không thể công phá được. Nava đã căn cứ vào những lý do nói trên để hạ quyết tâm chiến lược: ra sức tăng cường Điện Biên Phủ, tiếp nhận cuộc chiến đấu với chủ lực của ta, cho Điện Biên Phủ là một chiến trường lý tưởng được lựa chọn để gây cho chủ lực ta những tổn thất hết sức nặng nề nếu ta dám mở một cuộc tấn công mạo hiểm. Những chỗ mạnh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ do Nava nêu lên không phải là hoàn toàn không phù hợp với sự thực. Sai lầm của Nava, là ở chỗ chỉ thấy chỗ mạnh của tập đoàn cứ điểm mà không thấy hết chỗ yếu của nó. Sai lầm cơ bản hơn nữa của y là, với cách nhìn của một nhà quân sự tư sản, y không thể thấy hết được những khả năng lớn lao của một quân đội nhân dân và của cả nhân dân một nước đang chiến đấu vì độc lập và hòa bình, càng không hiểu và không thấy được quá trình phát triển tiến lên, những tiến bộ và cố gắng vượt bậc của quân đội ta và nhân dân ta, không hiểu được và không đánh giá được những khả năng lớn lao của tinh thần đấu tranh bất khuất của một dân tộc, của tinh thần quyết chiến quyết thắng của một quân đội nhân dân. Khi chúng ta hạ quyết tâm mở cuộc tấn công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chúng ta có thấy hết những chỗ mạnh của địch và những khó khăn và trở ngại mà chúng ta có thể gặp phải hay không? Những điều đó chúng ta đều nhận thấy. Nhưng đồng thời chúng ta lại thấy những chỗ yếu của địch mà quân ta có thể lợi dụng; hơn nữa chúng ta lại thấy khả năng to lớn của quân đội và nhân dân ta, có thể vượt qua mọi khó khăn, khắc phục những chỗ mạnh của địch để giành lấy thắng lợi. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có đủ những yếu tố mạnh của mọi tập đoàn cứ điểm, lại có những chỗ mạnh đặc biệt của nó nữa. Nhưng do vị trí của nó nằm cô lập ở giữa núi rừng trùng điệp và mênh mông của miền Tây Bắc và Thượng Lào, rất xa những căn cứ hậu phương, nhất là những căn cứ không quân lớn của địch, mọi việc tăng viện hoặc tiếp tế đều hoàn toàn dựa vào đường không. Do đó, nếu đường hàng không bị hạn chế hay bị cắt đứt thì tập đoàn cứ điểm rất mạnh này sẽ ngày càng bộc lộ nhược điểm của mình, có thể mất dần sức chiến đấu và lâm vào thế bị động phòng ngự trong những điều kiện ngày càng khó khăn; trường hợp lâm nguy cũng khó lòng rút quân được toàn vẹn. Đó là chưa nói đến tinh thần chiến đấu của binh lính địch nói chung là bạc nhược, nếu gặp khó khăn thiếu thốn hoặc thất bại thì lại càng kém sút thêm. Về phía ta, thì lực lượng ta là những đơn vị chủ lực tinh nhuệ có tinh thần chiến đấu cao, trình độ trang bị kỹ thuật có tiến bộ, hăng hái phấn khởi, quyết tâm tiêu diệt địch. Chúng ta có thể tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực để đánh địch, quân ta lại đã có những kinh nghiệm nhất định, về đánh công kiên, đã được bước đầu huấn luyện để đánh tập đoàn cứ điểm, có khả năng khắc phục khó khăn, giải quyết những vấn đề cần thiết để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm. Vấn đề cung cấp tiếp tế lương thực và đạn dược cho một lực lượng lớn ở xa hậu phương trong một thời gian dài đương nhiên có những khó khăn rất lớn, nhưng ta lại có sức mạnh của một hậu phương rộng lớn, có toàn dân, toàn Đảng, tập trung toàn lực để chi viện tiền tuyến, bảo đảm lương thực, đạn dược cho quân đội tiến hành nhiệm vụ. Chúng ta cũng đã từng cân nhắc đến khả năng tăng viện của địch trong khi Nava còn có sẵn trong tay một lực lượng cơ động lớn. Do những cuộc tấn công mùa Đông của ta, khối cơ động đó đã bị phân tán rất nhiều. Chúng ta dự đoán, trong thời gian tới lực lượng địch có thể bị phân tán nhiều hơn nữa. Cho nên chúng ta đã đánh giá cao tác dụng của các chiến trường phối hợp, trong việc tạo điều kiện tốt cho chủ lực ta tấn công tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, hạn chế sự tăng viện của địch lên mặt trận Điện Biên Phủ. Xuất phát từ sự phân tích trên đây, luôn luôn nắm vững nguyên tắc tiêu diệt sinh lực địch và đánh chắc thắng, Trung ương Đảng ta đã hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Trong khi Nava chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược với chủ lực ta thì chúng ta cũng chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược với địch. Chúng ta hạ quyết tâm tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ để tiêu diệt những binh lực tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương. Quyết tâm rất lớn trên đây quán triệt phương châm tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt mà Trung ương đã đề ra cho việc chỉ đạo tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954. Thật vậy, nắm vững phương châm tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, trong thời kỳ đầu của chiến cục Đông Xuân, chúng ta đã chủ trương dùng từng bộ phận của chủ lực ta mở nhiều cuộc tấn công vào những hướng địch tương đối sơ hở, trong khi đó thì ở Điện Biên Phủ quân ta giam hãm chủ lực địch để tạo điều kiện cho quân ta tiêu diệt địch trên các hướng khác, đồng thời tiến hành mọi công tác chuẩn bị cần thiết để mở cuộc tấn công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bước sang thời kỳ thứ hai của chiến cục Đông Xuân, công tác chuẩn bị trên mặt trận Điện Biên Phủ đã được hoàn thành, nhiều điều kiện thuận lợi mới đã được tạo ra do những chiến thắng liên tiếp của quân ta trên khắp các chiến trường, chúng ta đã mở cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Nếu chủ trương của ta trước đây là tránh những nơi địch mạnh, chọn những hướng chiến lược quan trọng mà địch tương đối yếu để tấn công tiêu diệt địch, thì bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ chúng ta đã tập trung đại bộ phận chủ lực của ta tấn công vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch. Nếu trong các cuộc tấn công của ta trong thời kỳ đầu, hình thức tác chiến chủ yếu là đánh vận động và đánh công kiên nhỏ, thì bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ, hình thức tác chiến là một trận đánh công kiên quy mô rất lớn có tính chất trận địa. Đứng về ý nghĩa quyết chiến chiến lược mà nói cũng như đứng về quy mô và hình thức của chiến dịch, cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã đánh dấu một biến chuyển mới, một sự phát triển mới trong sự lãnh đạo đấu tranh vũ trang của Đảng ta cũng như trong quá trình lớn mạnh của quân đội ta. Thắng lợi của chiến dịch to lớn này chắc chắn sẽ mở ra một cục diện mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Thế là từ khi cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu, nhiệm vụ của chủ lực ta ở Điện Biên Phủ, lúc này đã trở thành mặt trận chính diện của cả nước, không phải là bao vây, giam giữ quân địch nữa, mà là chuyển sang tấn công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch. Nhiệm vụ của bộ đội ta trên các chiến trường cả nước là phối hợp hoạt động với Điện Biên Phủ, tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, phân tán giam giữ lực lượng của chúng, giảm đến mức tối đa khả năng của chúng tăng quân thêm cho mặt trận Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Hai, 2022, 08:49:49 pm Sau khi đã hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, một vấn đề hết sức quan trọng được đặt ra là vấn đề tiêu diệt bằng cách nào. Đó là vấn đề phương châm của chiến dịch. Đi vào phương châm chiến dịch của ta tại mặt trận Điện Biên Phủ, thì trong thời gian đầu khi quân địch mới nhảy dù xuống, quân ta mới thực hiện bao vây Điện Biên Phủ, lực lượng của địch chưa được tăng cường, bố trí của chúng còn tương đối sơ hở, trận địa phòng ngự chưa được củng cố, ta đã có dự kiến tranh thủ thời gian, lợi dụng những điều kiện sơ hở của một kẻ địch mới lâm thời chiếm lĩnh trận địa để đánh nhanh giải quyết nhanh. Nếu tiến hành chiến dịch theo phương châm này thì sẽ tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực, chia làm nhiều hướng, có hướng chủ công, có hướng phối hợp, đánh sâu vào trong lòng địch, chia cắt tập đoàn cứ điểm ra từng bộ phận; tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực, đánh vào chỗ sơ hở nhất và quan trọng nhất của địch, lợi dụng sơ hở của chúng để tiêu diệt bộ phận quan trọng của chúng; tiếp đó, tiếp tục giải quyết những bộ phận còn lại, hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Đánh nhanh giải quyết nhanh có nhiều điều lợi: quân ta đang sung sức, cuộc chiến đấu không kéo dài nên ít ngại tiêu hao, mỏi mệt. Thời gian của chiến dịch không dài, nên vấn đề tiếp tế lương thực, đạn dược có thể bảo đảm chắc chắn, không gặp trở ngại lớn. Tuy nhiên, đánh nhanh giải quyết nhanh lại có một điều bất lợi rất lớn là quân ta, mặc dầu đã được chuẩn bị về tư tưởng và chiến thuật để đánh tập đoàn cứ điểm, nhưng chưa có kinh nghiệm thực tế, lần này là lần đầu đánh tập đoàn cứ điểm, lại gặp một tập đoàn cứ điểm mạnh. Bởi vậy, trong khi tiến hành công tác chuẩn bị, ta đã tiếp tục theo dõi tình hình địch và kiểm tra lại khả năng của ta. Chúng ta đã phát hiện địch có tăng cường lực lượng, xây dựng trận địa phòng ngự, tổ chức hệ thống phòng ngự khá vững chắc. Nắm vững nguyên tắc đánh chắc thắng, chúng ta đã nhận định rằng, trong tình huống tập đoàn cứ điểm của địch đã được củng cố, không còn ở vào tình trạng lâm thời chiếm lĩnh trận địa nữa, nếu đánh nhanh giải quyết nhanh thì không mười phần bảo đảm thắng lợi. Do đó, chúng ta đã kiên quyết xác định phương châm của chiến dịch là đánh chắc tiến chắc. Theo phương châm đánh chắc tiến chắc, chúng ta quan niệm chiến dịch Điện Biên Phủ không phải là một trận công kiên quy mô rất lớn và tiếp diễn liên tục trong một thời gian ngắn từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, mà lại là một chiến dịch công kiên có tính chất trận địa, quy mô rất lớn, nhưng lại gồm một loạt nhiều trận chiến đấu công kiên không lớn lắm tiếp diễn trong một thời gian khá dài, tập trung ưu thế binh lực tiêu diệt địch từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Tiến hành chiến dịch theo phương châm đánh chắc tiến chắc, đưa đến nhiều khó khăn, trở ngại mới. Chiến dịch càng kéo dài, địch càng tăng cường công sự, lại có thể đưa thêm viện binh, về phía ta thì hoạt động kéo dài, bộ đội có thể bị tiêu hao, mỏi mệt, khó khăn lớn nhất là khó khăn về cung cấp và tiếp tế. Nhưng đánh chắc tiến chắc thì bảo đảm chắc thắng. Nhìn chung, so sánh lực lượng giữa địch và ta thì ta có ưu thế binh lực, nhưng đó chỉ là ưu thế tương đối; nếu đánh từng bước thì ta có thể tập trung ưu thế tuyệt đối binh lực, hỏa lực vào từng cuộc chiến đấu, bảo đảm chắc thắng cho từng cuộc chiến đấu. Đánh như vậy lại hợp với trình độ bộ đội của ta. Bộ đội ta lúc đó mới có kinh nghiệm đánh công kiên, tiêu diệt từng cứ điểm độc lập do hai, ba đại đội hoặc một tiểu đoàn địch phòng giữ, nay cần tiến lên một bước tiêu diệt mỗi lần một hay một số cứ điểm một tiểu đoàn nằm trong tập đoàn cứ điểm, có thể vừa đánh vừa học, bằng một loạt trận công kiên gay go phức tạp nhưng không lớn lắm, tiến tới hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch. Chính cách đánh nói trên đã tạo nên bước nhảy vọt làm cho bộ đội ta chỉ trong một thời gian ngắn đã tiến vượt bậc từ chỗ mới tiêu diệt được cứ điểm độc lập một tiểu đoàn của địch đến chỗ tiêu diệt cả một tập đoàn cứ điểm lớn và kiên cố của chúng. Đánh chắc tiến chắc, chúng ta lại giữ được chủ động hoàn toàn, muốn đánh lúc nào thì đánh, muốn đánh nơi nào thì đánh; lúc nào chuẩn bị đầy đủ và chắc thắng thì đánh, không thì không đánh hoặc chưa đánh; nơi nào cần giữ và có thể giữ thì giữ, không thì không giữ; đánh một trận rồi thấy nên tiếp tục đánh ngay thì đánh, cần nghỉ ngơi để chấn chỉnh lực lượng và chuẩn bị trận sau cho tốt thì vẫn có thể nghỉ ngơi. Đánh chắc tiến chắc, chúng ta lại có thể khoét sâu nhược điểm lớn nhất của địch là vấn đề tiếp tế vận tải. Chiến dịch càng kéo dài thì địch càng bị tiêu hao nhiều về sinh lực cũng như về vũ khí, đạn dược, càng gặp khó khăn nhiều về tiếp tế vận tải. Nếu ta khống chế được sân bay và hạn chế được đường tiếp tế duy nhất của chúng, nếu ta ra sức thắt chặt vòng vây thì địch càng thêm khốn đốn. Nhìn chung chiến trường cả nước, thì nếu chiến dịch Điện Biên Phủ tiến hành trong một thời gian dài, các chiến trường khác càng có điều kiện thuận lợi để tiêu diệt thêm nhiều sinh lực địch, giải phóng thêm nhiều đất đai, đồng thời làm tốt nhiệm vụ phối hợp với chiến trường chính. Vì những lý do nói trên, chúng ta đã kiên quyết xác định phương châm của chiến dịch là đánh chắc tiến chắc. Quyết định đó đòi hỏi một quyết tâm rất lớn, quyết tâm nắm vững nguyên tắc đánh chắc thắng trong việc chỉ đạo tác chiến, quyết tâm động viên toàn lực khắc phục muôn nghìn khó khăn trở ngại để bảo đảm chắc thắng cho chiến dịch. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Hai, 2022, 08:50:15 pm Địch có thể tăng cường, chúng tăng cường thì quân ta phải tiến hành nhiều cuộc chiến đấu hơn và những cuộc chiến đấu gay go hơn mới tiêu diệt được toàn bộ quân địch. Giữa việc cần thiết phải tiến hành nhiều cuộc chiến đấu gay go mà chắc chắn thắng lợi với việc tiến hành ít cuộc chiến đấu mà không nắm chắc phần thắng, chúng ta đã chọn giải pháp thứ nhất. Tuy nhiên, địch có thể tăng viện, nhưng không phải là tăng viện bao nhiêu cũng được, nhất là trong khi quân ta đã hạn chế việc tiếp tế vận chuyển của chúng, trong khi trên khắp các chiến trường cả nước quân ta lại tích cực hoạt động. Chúng tăng cường thì một mặt có thêm lực lượng để đối phó với ta, nhưng mặt khác cũng tăng thêm khó khăn cho chúng. Bộ đội ta có thể lo ngại vì bị tiêu hao và mỏi mệt, nhưng không phải không có cách nào để tránh hoặc giảm bớt sự tiêu hao mỏi mệt đó. Chúng ta phải hết sức chăm lo giữ gìn sức khỏe cho bộ đội, săn sóc việc ăn uống nghỉ ngơi, tăng cường công tác vệ sinh phòng bệnh ở mặt trận, lại phải tích cực đào công sự, ẩn nấp kín, chuẩn bị đầy đủ việc bổ sung quân số và nhanh chóng chấn chỉnh lực lượng sau mỗi trận chiến đấu để bảo đảm tác chiến liên tục. Hoạt động dài thì dễ bị tiêu hao mỏi mệt nhưng so với địch thì ta ở tuyến ngoài, tiến lui, đều chủ động; còn địch thì ở tuyến trong và bị động; ta muốn đánh thì đánh, muốn nghỉ thì nghỉ, còn quân địch thì bất cứ lúc nào đều phải ở luôn dưới hầm, trong vòng vây của ta, tinh thần căng thẳng, luôn luôn lo sợ quân ta tiến công. Vì vậy chúng ta quyết không sợ tiêu hao mỏi mệt, quyết tìm mọi cách để khắc phục những hiện tượng đó, bảo đảm toàn thắng cho chiến dịch. Thời gian hoạt động kéo dài, quả thật vấn đề cung cấp tiếp tế là một vấn đề hết sức khó khăn đối với ta. Trong các chiến dịch trước như chiến dịch Tây Bắc chẳng hạn, mặc dầu quy mô nhỏ hơn, lực lượng bộ đội ít hơn, chiến trường lại gần hậu phương ta hơn, mà cũng đã có những ngày bộ đội phải ăn cháo, lại có những lúc hầu như do khó khăn về cung cấp không giải quyết được mà phải bỏ ý định tác chiến. Chiến trường Điện Biên Phủ ở cách xa hậu phương ta hàng 400 - 500 kilômét, các tuyến đường chi viện nhiều quãng hết sức hiểm trở, nếu không quân địch đánh phá, nếu thời tiết không thuận lợi, thì việc chi viện mặt trận chắc chắn sẽ gặp những khó khăn trở ngại hết sức lớn lao. Nhưng chúng ta quyết không thể vì muốn tránh những khó khăn về chi viện cung cấp, mà lại áp dụng một phương châm tác chiến không bảo đảm thắng lợi. Ngược lại, để giành toàn thắng cho chiến dịch, chúng ta phải nâng cao tinh thần vượt qua gian khổ của tất cả cán bộ và chiến sĩ, nâng cao tinh thần phục vụ tiền tuyến của các đơn vị cung cấp, vận tải tiếp tế, của các tổ chức dân công. Với quyết tâm của Trung ương Đảng và Chính phủ, với sự hy sinh cố gắng của nhân dân hậu phương, chúng ta tin tưởng có thể tiến hành được việc chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ. Về mặt này, về phía địch thì cũng không phải mọi sự đều dễ dàng cả; nếu ta hạn chế hoặc cắt đứt được đường hàng không của chúng thì với nhu cầu lương thực, đạn dược rất lớn của chúng, với số thương vong ngày càng nhiều, với tinh thần bạc nhược của một quân đội đánh thuê, chúng sẽ gặp phải những khó khăn không thể lường được, không thể khắc phục nổi. Một lo ngại nữa là, nếu thời gian chiến dịch kéo dài thì mùa mưa càng gần lại. Mùa mưa ở chiến trường rừng núi có thể gây ra tai hại lớn, đường sá bị hư hỏng, công sự bị ẩm ướt, sức khỏe bộ đội và dân công có thể bị ảnh hưởng. Nhưng so với quân địch thì ta ở trên cao, địch ở dưới thấp, công sự của chúng có thể bị sập đổ, nước ngập đầy hầm, chúng cũng không thể tập trung lên chỗ cạn và trống trải vì sợ hỏa lực của ta. Vì vậy thời tiết có thể gây khó khăn cho ta, nhưng đồng thời cũng gây những khó khăn lớn cho địch. Thực tiễn của chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng tỏ sự đúng đắn của phương châm đánh chắc tiến chắc. Phương châm chỉ đạo đó đã đưa chiến dịch đến toàn thắng. Thể hiện phương châm đánh chắc tiến chắc, nội dung kế hoạch tác chiến của ta ở Điện Biên Phủ gồm một loạt trận công kiên, tiêu diệt mỗi lần một hay một số trung tâm đề kháng của địch, hình thành và thắt chặt vòng vây, hạn chế đi đến triệt hẳn nguồn tiếp tế và tiếp viện của địch, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch. Theo dự kiến, chiến dịch có thể gồm hai giai đoạn: a) Một giai đoạn tác chiến nhằm tiêu diệt các trung tâm đề kháng ngoại vi, hình thành và thắt chặt trận địa tấn công và bao vây, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, hạn chế đi đến triệt nguồn tiếp tế và tiếp viện của địch. b) Khi mọi điều kiện đã được tạo nên đầy đủ thì chuyển sang thời kỳ tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch. Diễn biến chiến sự đại thể theo đúng phương hướng nói trên, nhưng đi vào cụ thể thì có phần phức tạp hơn. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:18:03 am V. CHIẾN DỊCH LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ. DIỄN BIẾN CỦA TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ Từ khi địch nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ cho đến lúc quân ta tấn công tiêu diệt Điện Biên Phủ, thời gian gần bốn tháng. Trong thời gian đó, địch đã ra sức tăng thêm binh lực, đào thêm hào chiến đấu và hào giao thông, tăng cường công sự, củng cố hệ thống phòng ngự của chúng. Trong thượng tuần tháng 12 năm 1953, sau khi Nava đã hạ quyết tâm biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, thì quân địch đã đề ra một kế hoạch phòng thủ gồm bốn bước: Bước thứ nhất: Làm chậm bước tiến của quân ta bằng cách dùng không quân oanh tạc các đường chuyển quân của ta, các đường giao thông chính từ Yên Bái và Thanh Hóa đi Tây Bắc. Bước thứ hai: Tiến hành oanh tạc dữ dội để đánh bật quân ta ra khỏi Lai Châu. Bước thứ ba: Chặn các cuộc tấn công của ta vào Điện Biên Phủ, gây cho ta những thiệt hại nặng. Bước thứ tư: Khuếch trương chiến quả, mở rộng vùng chiếm đóng của chúng. Vào cuối tháng 11 năm 1953, quân địch dự định mở một cuộc hành binh đánh vào vùng Thái Nguyên - Chợ Chu để phá hủy kho tàng và thu hút chủ lực của ta. Sau khi cân nhắc lợi hại, chúng nhận thấy không đủ khả năng để thực hiện kế hoạch đó, một mặt vì thiếu binh lực, mặt khác vì sợ vấp phải thất bại như trong cuộc đánh ra Phú Thọ - Đoan Hùng năm trước. Chúng bèn tăng cường các cuộc ném bom và bắn phá các đường hành quân tiếp tế của ta, có khi suốt cả ban ngày và ban đêm, mong đánh vào một nhược điểm quan trọng của ta là việc chi viện cung cấp cho tiền tuyến, để phá kế hoạch tấn công của ta. Đẩy mạnh công tác chuẩn bị: mở đường kéo pháo; xây dựng trận địa cho pháo binh và bộ binh; chuẩn bị về cung cấp tiếp tế; chuẩn bị lực lượng bộ đội về mọi mặt; theo dõi tình hình địch. Chính trong điều kiện quân địch đã chuẩn bị đề phòng và dùng mọi thủ đoạn để đối phó, chúng ta đã tiến hành một công cuộc chuẩn bị hết sức to lớn để thực hiện quyết tâm của Trung ương là mở cuộc đại tấn công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Theo chỉ thị của Trung ương Đảng và Chính phủ, toàn quân và toàn dân ta đã tập trung lực lượng, cố gắng đến tột bậc để giành thắng lợi lớn cho các cuộc tấn công Đông Xuân của ta mà điểm trung tâm là mặt trận Điện Biên Phủ. Trên chiến trường cả nước, như đã nói rõ trong phần III, quân ta đã mở nhiều cuộc tấn công thắng lợi, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động khắp nơi, giải phóng nhiều địa phương quan trọng, trong đó có các khu vực xung quanh Điện Biên Phủ, làm cho Điện Biên Phủ ở vào tình trạng hoàn toàn cô lập, đồng thời giảm bớt trong một chừng mực nào khả năng tăng viện của địch lên chiến trường Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:19:52 am Tại mặt trận Điện Biên Phủ, chúng ta đã xúc tiến mạnh mẽ công tác chuẩn bị về mọi mặt cho chiến dịch to lớn sắp tới. a) Khi địch mới nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ thì Điện Biên Phủ là một vị trí ở cách xa hậu phương của ta, chỉ nối liền với đường số 41 bằng một con đường ngựa dài gần 100 kilômét. Đó là con đường Điện Biên Phủ - Tuần Giáo, đã lâu địch và ta đều ít dùng đến. Con đường đi qua những đồi núi liên tiếp trên những độ dốc khá cao, bị cắt đứt bởi gần 100 con suối lớn nhỏ. Muốn sử dụng chủ lực, nhất là pháo binh, mở cuộc tấn công vào Điện Biên Phủ, thì vấn đề đặt ra trước tiên là phải gấp rút mở con đường Tuần Giáo - Điện Biên để xe hơi có thể chạy được. Quân ta đã khắc phục những khó khăn rất lớn, mở được đường, bắc được hàng chục chiếc cầu qua suối trong một thời gian tương đối ngắn. Về sau, cho đến khi chiến dịch kết thúc, các đơn vị công binh đã làm tròn nhiệm vụ giữ vững con đường được tốt, mặc dầu địch càng ngày càng tăng cường phá hoại, mưa to và nước lũ gây thêm cho ta rất nhiều khó khăn. b) Quân ta đã mở đường và kéo pháo vào trận địa. Lúc đầu, khi ta tranh thủ điều kiện địch còn sơ hở để đánh nhanh giải quyết nhanh, pháo binh của ta đã được di chuyển bằng xe hơi đến vùng phụ cận Điện Biên Phủ, rồi từ đó cho đến các trận địa lâm thời, bộ đội ta đã từng dùng sức người để kéo pháo trong suốt bảy ngày đêm liền. Đến khi phương châm đánh chắc tiến chắc được xác định, để tăng cường việc chuẩn bị, bộ đội ta lại đã kiên quyết kéo pháo ra. Tiếp đó, chúng ta đã mở năm con đường mới để có thể vận chuyển pháo binh bằng xe hơi, tạo điều kiện sử dụng pháo binh một cách cơ động hơn. Đây là những con đường được mở qua các sườn núi và ngọn đèo ở xung quanh Điện Biên Phủ, trong tầm hỏa lực pháo binh của địch, qua những nơi từ trước đến nay chưa bao giờ có một vết đường con nào cả. Bộ đội ta đã bạt núi xẻ đồi, hoàn thành được nhiệm vụ mở đường cho pháo binh trong thời gian quy định. Những con đường ấy đã được bảo quản tốt và giữ được bí mật nhờ ngụy trang kín đáo mãi cho đến lúc chiến dịch kết thúc. Để chuẩn bị mở cuộc tấn công vào Điện Biên Phủ, pháo binh của ta lại được di chuyển qua các con đường mới đó, và trên những đoạn đường quá hiểm trở xe hơi không thể đi qua thì pháo lại được kéo vào trận địa bằng sức người. Việc mở đường cho pháo binh và kéo pháo vào trận địa là một cuộc chiến đấu gian khổ và anh dũng của các đơn vị bộ đội pháo binh và bộ binh, tiêu biểu cho tinh thần chiến đấu và lao động của một quân đội cách mạng. Trong khi làm đường và kéo pháo, cán bộ và chiến sĩ ta đã tỏ ra hết sức dũng cảm và cần cù, không ngại pháo binh và không quân của địch, tích cực lao động, ra sức phát huy sáng kiến tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian hoàn thành nhiệm vụ; trong những trường hợp khó khăn gian nguy, đã từng có những đồng chí hy sinh thân mình để bảo vệ pháo. Kết quả là, trái với dự đoán của địch, cho rằng ta không có cách nào chuyển pháo binh đến gần tập đoàn cứ điểm của chúng, bộ đội ta đã chuyển hàng trăm tấn pháo và đạn dược, vượt qua hàng chục dốc cao vực thẳm, đưa được pháo vào trận địa. c) Quân ta đã tổ chức những trận địa pháo binh hết sức kiên cố. Để phát huy sức mạnh hỏa lực, bảo đảm an toàn cho pháo binh ta trong một thời gian hoạt động khá dài, chúng ta đã xây dựng những trận địa pháo binh hết sức kiên cố, đủ sức chịu đựng trọng pháo 105 và 155 ly của địch ở những vị trí hoàn toàn bất ngờ đối với chúng. Các trận địa này được xây dựng sâu vào sườn núi sườn đồi, lại được ngụy trang rất kín đáo, nên khó lòng bị máy bay trinh sát của địch phát hiện, và lại có đủ khả năng chịu đựng được mọi sự oanh tạc, bắn phá của địch. Ngoài những trận địa thật, chúng ta lại tổ chức những trận địa nghi binh để làm lạc hướng quân địch, phân tán hỏa lực và tiêu hao bom đạn của chúng. Quân địch đã coi thường pháo binh của ta, không những cho rằng pháo binh của ta lực lượng còn yếu mà lại không có cách gì vận chuyển đến những địa điểm ở gần chúng. Chúng tin rằng vạn nhất nếu quân ta di chuyển được pháo binh vào những trận địa có thể uy hiếp chúng thì chúng hoàn toàn có khả năng sử dụng các phương tiện quan sát hiện đại để tức khắc phát hiện các căn cứ hỏa lực của ta và hoàn toàn có khả năng dùng pháo binh hoặc không quân của chúng để bắn trả hoặc oanh tạc, tiêu diệt pháo binh ta. Nhưng, trái với dự tính của chúng, do sự chuẩn bị đầy đủ của ta, từ khi ta nổ súng tấn công cho đến suốt quá trình chiến dịch, pháo binh nhỏ bé của ta không những không bị tiêu diệt mà ngược lại còn phát huy tác dụng rất lớn, làm cho quân địch phải khiếp sợ. d) Quân ta đã xây dựng những trận địa kiên cố cho các cơ quan chỉ huy, những trận địa cần thiết để chuẩn bị cho bộ binh xuất kích và tiếp cận. Các trận địa đó về sau được phát triển thành cả một hệ thống trận địa tấn công và bao vây rộng lớn, đã có tác dụng quan trọng trong việc giải quyết cho bộ đội ta vấn đề tiếp cận và chiến đấu liên tục suốt ngày đêm trên một địa hình bằng phẳng, đối với một kẻ địch có hỏa lực không quân và pháo binh mạnh. Trong điều kiện chiến dịch kéo dài, tác chiến với một quân địch khá mạnh, chúng ta đã đặt thành một nhiệm vụ quan trọng vấn đề bảo đảm an toàn và sự liên tục trong chỉ huy và công tác cho các cơ quan chỉ huy, các đơn vị chủ lực. Để đạt mục đích đó, bộ đội ta đã xây dựng những trận địa hết sức kiên cố cho các bộ tư lệnh đại đoàn; phần lớn các trận địa này đều được xây dựng sâu vào các sườn núi và có thể chịu đựng được những trận bắn phá của pháo binh và không quân địch. Trong đợt đầu, nhiệm vụ tác chiến của bộ đội ta là tiêu diệt một số cứ điểm ngoại vi của địch. Bản thân các cứ điểm này là những trung tâm đề kháng khá mạnh được che chở bằng những hệ thống trận địa và công sự phụ rất phức tạp, bằng những lưới hỏa lực bắn thẳng, bắn chéo quét các sườn đồi và một lưới hỏa lực cầu vồng bắn chặn tất cả những nẻo đường quân ta có thể dùng để xuất kích, hơn nữa các vị trí này lại được các căn cứ hỏa lực ở phân khu trung tâm và phân khu nam yểm hộ với một kế hoạch hỏa lực đã chuẩn bị sẵn. Đó là chưa nói đến hoạt động của không quân chiến đấu của địch. Trong điều kiện như vậy, để bảo đảm cho cuộc tác chiến sắp tới thu được thắng lợi, quân ta đã ra sức đào công sự, xây dựng trận địa xuất phát tấn công, từ đó các đơn vị ẩn nấp để xuất kích, đào cả một hệ thống hào giao thông dài gần trăm kilômét để bộ đội có thể lợi dụng tiếp cận quân địch, chuẩn bị kỹ lưỡng trận địa xuất phát xung phong để từ đó quân ta tấn công vào vị trí của quân địch. Việc chuẩn bị kỹ lưỡng cả một hệ thống trận địa đó cho bộ binh đã làm giảm tác dụng của hỏa lực địch và bảo đảm cho quân ta chiến đấu thắng lợi. e) Chúng ta đã chuẩn bị tốt về mặt cung cấp tiếp tế. Nhu cầu của chiến dịch về lương thực, đạn dược, thuốc men rất lớn. Nhân dân ta đã hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chính phủ "Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng", đã dồn sức người sức của để chi viện mặt trận Điện Biên Phủ; nhân dân ở vùng tự do, ở vùng mới giải phóng Tây Bắc, cũng như ở vùng sau lưng địch, đều hăng hái tham gia phục vụ tiền tuyến. Chúng ta đã tổ chức những tuyến cung cấp dài hàng mấy trăm kilômét từ Thanh Hóa hay Phú Thọ lên đến Tây Bắc, đi qua những quãng đường hiểm trở và ngày đêm bị địch oanh tạc phá hoại, tìm mọi cách cản trở sự vận chuyển của ta. Các chiến sĩ công binh và thanh niên xung phong miền xuôi và miền ngược đã anh dũng làm đường, sửa đường, phá bom chờ nổ. Địch phá đường, ta làm lại. Các chiến sĩ ta đã thi gan với quân giặc và nêu cao tinh thần quyết tâm mở đường thắng lợi. Ngay ở những quãng đường vô cùng hiểm nghèo không ngày đêm nào là không quân địch không oanh tạc bắn phá, đường vận chuyển của ta chỉ bị đình trệ ít nhiều và nói chung vẫn được bảo đảm. Hàng chục vạn anh chị em dân công nam, nữ đã không quản khó khăn, gian nguy, hăng hái phục vụ tiền tuyến, tính đến trên ba triệu ngày công. Hội đồng cung cấp tiền phương của Chính phủ và các tổ chức hậu cần của quân đội đã huy động mọi phương tiện hiện đại và thô sơ có thể huy động được để vận chuyển lương thực, đạn dược ra mặt trận. Các đoàn xe hơi đã được sử dụng với năng suất cao nhất, đi không đèn trong suốt nhiều đêm, lợi dụng sương mù để chạy ban ngày, vượt đèo cao đường khó, vượt qua cả những nơi địch ném bom chờ nổ. Hàng vạn xe đạp thồ và xe đẩy thô sơ, hàng nghìn thuyền mảng, hàng đoàn lừa ngựa đã được huy động để vận chuyển lương thực, đạn dược qua đường lớn, đường nhỏ, sông sâu, suối lũ để bảo đảm nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến. Nhận dân ta đã lập được một kỳ công hoàn toàn ngoài sự ước lượng của địch. Chúng ta đã bảo đảm việc cung cấp tiếp tế cho một lực lượng bộ đội lớn, tác chiến trên một mặt trận rất xa hậu phương, trong một thời gian dài, một việc mà quân địch cho là chúng ta không thể nào làm được. Trong lúc tiến hành những công tác chuẩn bị nói trên, chúng ta lại cần theo dõi tình hình địch ở Điện Biên Phủ và trên chiến trường cả nước. Tại mặt trận Điện Biên Phủ, địch đã tăng cường củng cố trận địa phòng ngự đến một mức độ khá cao, vì vậy cần phải đi sâu nắm vững đặc điểm cụ thể của địch, phân tích cụ thể những chỗ mạnh và chỗ yếu của chúng, đặc biệt là đối với vị trí Him Lam và các vị trí phân khu bắc là những mục tiêu tấn công của quân ta trong đợt thứ nhất. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:21:03 am Trong suốt thời gian chuẩn bị, bộ đội ta đã phải đảm nhiệm những công tác nặng nề như mở đường Tuần Giáo - Điện Biên, mở đường cho pháo binh, xây dựng trận địa pháo, vận chuyển và kéo pháo vào vị trí, xây dựng trận địa cho bộ binh. Trong tầm hỏa lực pháo binh của địch, dưới sự quan sát thường xuyên của máy bay trinh sát của chúng, một công trường khổng lồ đã xuất hiện trong vùng phụ cận Điện Biên Phủ. Để tránh mọi tiêu hao không cần thiết, bộ đội ta đã hoạt động ban đêm ở những nơi trống trải, về sau để tranh thủ thời gian, đã lợi dụng sương mù hoặc dựng lên những giàn ngụy trang dài hàng kilômét để tiến hành công việc cả ban ngày. Phải nói rằng trong cả tháng 12 năm 1953 và tháng 1 năm 1954, pháo binh và không quân địch hoạt động rất ráo riết. Bước sang tháng 2 năm 1954, chính trong lúc công tác chuẩn bị của ta được đẩy mạnh rất khẩn trương thì cũng là lúc địch cho rằng, có lẽ ta đã bỏ ý định tấn công Điện Biên Phủ, nên máy bay oanh tạc của chúng bị thu hút một phần đi các chiến trường khác, nhất là về phía lưu vực sông Nậm Hu và Luông Phabăng, ở đó Quân giải phóng Pathét Lào và bộ đội tình nguyện của ta đã mở cuộc tấn công thắng lợi. Quân địch cũng đã nhiều lần dùng lực lượng cơ động của chúng ở Điện Biên Phủ, có pháo binh và xe tăng yểm hộ, tiến hành những cuộc hành binh trinh sát, đi sâu vào các vùng phụ cận. Chúng ta đã cho một số đơn vị nhỏ của bộ đội ta lợi dụng những địa hình tốt, lợi dụng công sự kiên cố để đánh lui các cuộc hành binh đó, bảo vệ và giữ bí mật cho công tác chuẩn bị của ta. Các đơn vị này mặc dầu phải đơn độc chiến đấu với một quân địch mạnh gấp mấy lần, đã làm tròn nhiệm vụ một cách rất anh dũng. Ngày 31 tháng 1 năm 1954, một trung đội chiếm giữ trận địa ở phía bắc Điện Biên Phủ đã đánh lui 7 đợt xung phong của 5 tiểu đoàn địch. Ngày 12 tháng 2 năm 1954, một tổ 5 trinh sát viên đã đánh lui một tiểu đoàn địch. Ngày 15 tháng 2 năm 1954, một trung đội của ta lại đánh lui 12 đợt xung phong của ba tiểu đoàn địch. Các đơn vị sơn pháo của ta cũng được đưa đến những vị trí cách địch chỉ 2 - 3 kilômét, bắt đầu uy hiếp sân bay Mường Thanh, để gây trở ngại cho việc tiếp tế của chúng. Trong lúc phải tiến hành một khối lượng công tác to lớn nói trên thì đồng thời bộ đội ta phải chuẩn bị lực lượng cho sung sức để đi vào chiến đấu. Các đơn vị đều hết sức chú trọng việc nâng cao sức khỏe, giữ vững số quân chiến đấu, việc cải thiện cấp dưỡng, bảo đảm cho bộ đội ăn uống nghỉ ngơi, cho chiến sĩ ăn no, ăn nóng, uống nước nóng, ngủ đủ, ngủ ấm. Việc tăng cường vệ sinh phòng bệnh được các tổ chức quân y các cấp quan tâm rất nhiều. Mặt khác, chúng ta đã dành một phần thời gian để tiếp tục huấn luyện về chiến thuật và kỹ thuật cho cán bộ và chiến sĩ, nhất là về vấn đề xây dựng trận địa, về vấn đề tác chiến hợp đồng giữa bộ binh và pháo binh, về vấn đề đánh tập đoàn cứ điểm. Từ khi Trung ương hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, từ khi phương châm đánh chắc tiến chắc được xác định, kế hoạch tác chiến cụ thể, nhất là kế hoạch chuẩn bị, đã được đề ra, công tác chính trị đã phát huy tác dụng to lớn của mình. Dựa vào chi bộ làm nòng cốt, công tác chính trị đã tiến hành giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng một cách hết sức sâu rộng, làm cho mỗi một cán bộ và chiến sĩ đều thấm nhuần ý nghĩa to lớn của chiến dịch Điện Biên Phủ, làm cho ai nấy đều nhận rõ thắng lợi của chiến dịch, cũng như thắng lợi của mọi sự nghiệp cách mạng, chỉ có thể giành được bằng chiến đấu anh dũng, hy sinh gian khổ; làm cho ai nấy đều nhận rõ, muốn giành thắng lợi lớn, tất nhiên phải cố gắng lớn, do đó đã rèn luyện cho bộ đội có một tinh thần quyết chiến quyết thắng rất cao. Đối với phương châm đánh chắc tiến chắc của chiến dịch, không phải lúc đầu toàn thể cán bộ và chiến sĩ đều thông suốt. Công tác chính trị đã ra sức quán triệt phương châm, khắc phục mọi tư tưởng sợ mỏi mệt, sợ tiêu hao, xây dựng và giữ vững quyết tâm chiến đấu lâu dài và liên tục. Trong thời kỳ chuẩn bị, công tác chính trị cũng đã giáo dục ý nghĩa quan trọng của công cuộc chuẩn bị đối với thắng lợi của chiến dịch, do đó đã nâng cao ý chí chiến đấu và tinh thần dũng cảm lao động của cán bộ và chiến sĩ, đổ nhiều mồ hôi hơn để sau này tiết kiệm xương máu của đồng đội, vượt mọi khó khăn trở lực, làm cho tốt công việc chuẩn bị. Công tác chính trị đã biết kết hợp việc giáo dục nhiệm vụ lãnh đạo tư tưởng với yêu cầu cụ thể của nhiệm vụ mà động viên và chỉ rõ phương hướng cụ thể để toàn thể cán bộ và chiến sĩ ta cố gắng tiến lên. Nhiều khẩu hiệu thiết thực đã được đề ra như: "Tích cực làm đường sá cho pháo binh là tích cực tranh thủ thắng lợi"; "Tích cực làm trận địa kiên cố là tích cực tranh thủ thắng lợi"; "Bảo đảm đường sá thông suốt là tích cực tranh thủ thắng lợi"; hay là "Thêm một người làm đường tức là tăng thêm điều kiện để chiến thắng quân địch"; "Xây dựng công sự dày thêm một phân tức là tạo thêm điều kiện để chiến thắng quân địch". Vào cuối thượng tuần tháng 3 năm 1954, công tác chuẩn bị về mọi mặt đã được hoàn thành và kiểm tra kỹ lưỡng. Ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta được lệnh mở cuộc đại tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Như trong phần IV đã nói, trong dự kiến, chiến dịch có thể gồm một giai đoạn tiêu diệt các cứ điểm ngoại vi, thắt chặt vòng vây, hạn chế đi đến triệt đường tiếp viện và tiếp tế của địch; tiếp đó chuyển sang giai đoạn tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trong thực tế, chiến dịch đã diễn biến thành ba đợt: a) Đợt thứ nhất: quân ta tiêu diệt các vị trí ngoại vi phía bắc và đông bắc của địch, cụ thể là tiêu diệt vị trí Him Lam và toàn bộ phân khu bắc. b) Đợt thứ hai: dài hơn hết và ác liệt hơn hết, quân ta tiêu diệt khu vực phòng ngự then chốt của phân khu trung tâm của địch, đánh chiếm các ngọn đồi phía đông, chiếm lĩnh sân bay, tạo thành một vòng vây lửa xung quanh địch, từng bước thắt chặt vòng vây lại, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, thu hẹp vùng trời của địch, đi đến triệt hẳn nguồn tiếp viện và tiếp tế của địch. c) Đợt thứ ba: thời gian ngắn hơn, do các điều kiện thuận lợi đã được tạo nên đầy đủ, quân ta đánh chiếm điểm cao cuối cùng ở phía đông và chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:23:14 am Đợt tấn công thứ nhất: tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam và toàn bộ phân khu bắc. Trung tâm đề kháng Him Lam là một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch. Vị trí này thuộc phân khu trung tâm, cách Mường Thanh 2,5 kilômét, có nhiệm vụ che chở cho phân khu trung tâm và án ngữ con đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên, ngăn chặn hướng tấn công chính của quân ta vào ngoại vi Điện Biên Phủ. Him Lam do một tiểu đoàn lê dương tăng cường, thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 mà địch cho là một trong những đơn vị thiện chiến nhất của chúng chiếm giữ. Địch bố trí thành ba cứ điểm yểm hộ lẫn nhau, có trận địa phòng ngự vững chắc, có nhiều hỏa điểm lợi hại và cả một hệ thống công sự phụ bằng mìn và dây thép gai bố trí thành bãi, có nơi rộng đến 100 - 200 mét. Đột xuất về phía đông bắc, trung tâm đề kháng Him Lam có liên quan mật thiết với phân khu bắc của tập đoàn cứ điểm. Phân khu này gồm trung tâm đề kháng đồi Độc Lập và trung tâm đề kháng Bản Kéo. Cả ba vị trí này hình thành một khu vực ngoại vi của địch đột xuất về phía bắc, đông bắc và tây bắc. Vị trí đồi Độc Lập nằm trên một quả đồi dài 700 mét, rộng 150 mét ở cách Mường Thanh 4 kilômét, do một tiểu đoàn Bắc Phi tăng cường chiếm giữ, có trận địa phòng ngự kiên cố, có hệ thống công sự phụ rất mạnh, được tăng cường hỏa lực cầu vồng. Vị trí đồi Độc Lập có nhiệm vụ án ngữ con đường và ngăn chặn các cuộc tấn công của quân ta từ phía bắc đánh xuống. Còn trung tâm đề kháng Bản Kéo thì nằm trên một quả đồi ở tây bắc sân bay, cách phân khu trung tâm 2 kilômét, do một tiểu đoàn ngụy người Thái chiếm đóng. Cả ba trung tâm đề kháng nói trên đều được hỏa lực trọng pháo 105 và 155 ly của địch ở Mường Thanh và Hồng Cúm yểm hộ, theo một kế hoạch hỏa lực rất dày đặc. Nhiệm vụ của quân ta trong đợt một là tiêu diệt cả ba trung tâm đề kháng ngoại vi đột xuất hơn hết của địch, tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng, tạo điều kiện cho quân ta thắt chặt vòng vây và mở cuộc tấn công vào khu trung tâm. Đây là những trận đánh công kiên đầu tiên của quân ta đánh vào những trung tâm đề kháng của địch nằm trong một tập đoàn cứ điểm rất mạnh. Đây lại là những trận đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ. Nếu đối với toàn bộ chiến dịch, sự chỉ đạo phải nắm vững nguyên tắc cơ bản đánh chắc thắng, thì đối với những trận đầu của chiến dịch, nguyên tắc đó lại càng phải được bảo đảm. Chính để bảo đảm cho những trận đầu của chiến dịch nhất định phải là những trận thắng lợi, bộ đội ta đã dày công chuẩn bị và rèn luyện trong một thời gian dài, nắm vững nguyên tắc: phải đánh những trận có chuẩn bị, chỉ đánh những trận có chuẩn bị đầy đủ; trong đánh công kiên, công tác chuẩn bị lại càng phải mười phần đầy đủ; trong đánh công kiên có tính chất trận địa vào một vị trí mạnh của địch nằm trong một tập đoàn cứ điểm mạnh, công tác chuẩn bị chiến đấu về mọi mặt lại càng phải hết sức đầy đủ. Không có một sự chuẩn bị về mọi mặt hết sức cụ thể và đầy đủ thì không thể đánh công kiên thắng lợi được. Đi vào sử dụng lực lượng, để bảo đảm trận đầu chắc thắng, chúng ta đã tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực tuyệt đối so với lực lượng địch. Lực lượng của ta về bộ binh mạnh hơn địch gấp ba hoặc hơn gấp ba lần, về hỏa lực súng cối và pháo binh nhẹ, mạnh hơn địch gấp nhiều lần. Các đơn vị trọng pháo của ta có nhiệm vụ một mặt trực tiếp chi viện cho bộ binh, một mặt khống chế các căn cứ trọng pháo của địch. 17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tấn công trung tâm đề kháng Him Lam. Theo kế hoạch dự định thì bắt đầu từ 16 giờ, pháo binh của ta mới hoạt động. Nhưng vào lúc 12 giờ trưa, một tình huống mới xuất hiện, địch phát hiện các trận địa xuất phát xung phong của ta lúc đó chỉ cách chúng khoảng 200 mét, chúng cho một đơn vị tiến ra đánh phá. Một đơn vị trọng pháo của ta được lệnh dùng hỏa lực tập kích vào Him Lam, đánh địch bảo vệ trận địa, đồng thời bắn vào sân bay và Mường Thanh để kiểm tra độ chính xác. Trận tập kích bằng hỏa lực này đã phá hủy được một số công sự, trong đó có sở chỉ huy của địch ở Him Lam và phá hủy một số máy bay trên sân bay. Tên quan tư chỉ huy vị trí Him Lam và tên quan năm chỉ huy phân khu trung tâm bị pháo binh ta bắn chết ngay từ phút đầu. Đúng 17 giờ, cuộc tấn công vào trung tâm đề kháng Him Lam bắt đầu. Bộ binh và pháo binh phối hợp khá chặt chẽ. Sau một giờ chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm đầu tiên; sau hai giờ, ta tiêu diệt cứ điểm thứ hai. Cuộc chiến đấu ở cứ điểm thứ ba về phía tây bắc diễn ra gay go. Pháo binh của địch lúc đầu bị tê liệt, dần dần hoạt động trở lại khá mạnh. Đến 22 giờ 30 phút, quân ta tiêu diệt hoàn toàn trung tâm đề kháng Him Lam, tiêu diệt gần 300 địch, bắt sống hơn 200 tên. Chiến thắng Him Lam là chiến thắng đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ. Trận đánh tiêu diệt này có một tác dụng rất lớn đối với sự phát triển của chiến dịch. Ngày hôm sau, 14 tháng 3 năm 1954, quân ta mở cuộc tấn công vào trung tâm đề kháng đồi Độc Lập. 17 giờ, trọng pháo của ta bắt đầu bắn vào khu chỉ huy của địch ở Mường Thanh, vào các trận địa pháo binh và sân bay của chúng, đồng thời bắn phá hủy các công sự của đồi Độc Lập. Cuộc chiến đấu bằng hỏa lực diễn ra ác liệt. Theo những tài liệu bắt được của địch sau này, để chi viện cho các vị trí Him Lam và đồi Độc Lập và phá hủy các trận địa pháo binh của ta, chỉ trong ba ngày, từ 13 đến 15 tháng 3 năm 1954, quân địch đã bắn tất cả trên ba vạn phát đạn pháo. Trong đêm 14 tháng 3 năm 1954, chúng lại huy động máy bay oanh tạc từ Hà Nội lên ném bom liên tiếp suốt đêm Trận tấn công vào đồi Độc Lập, vì các đơn vị sơn pháo chuyển đến chậm (đêm đó trời mưa to), nên đến 2 giờ sáng ngày 15 tháng 3 năm 1954 mới bắt đầu. Cuộc chiến đấu kéo dài đến mờ sáng, đến 6 giờ 30 phút thì quân ta tiêu diệt hoàn toàn trung tâm đề kháng đồi Độc Lập. 6 giờ, địch cho một đơn vị bộ binh có xe tăng yểm hộ từ Mường Thanh tiến lên phản kích, nhưng bị pháo binh ta bắn thương vong một số, phải rút lui. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:23:42 am Trung tâm đề kháng thứ ba về phía tây bắc, tức là vị trí Bản Kéo trở nên cô lập, bị quân ta uy hiếp mạnh. Trong khi một đơn vị chủ lực của ta đang xúc tiến việc chuẩn bị để tiêu diệt vị trí Bản Kéo thì quân địch ở đây đã rất hoang mang. 15 giờ ngày 17 tháng 3 năm 1954, pháo binh của ta bắn 20 phát vào Bản Kéo. Mặc dầu bọn chỉ huy người Pháp ra sức khống chế lính ngụy, nhưng binh lính người Thái đã lợi dụng lúc bọn chỉ huy chui xuống hầm ẩn nấp, mang cả vũ khí kéo ra hàng. Địch cho xe tăng đuổi theo toán quân ngụy; pháo binh của ta đã bắn chặn để yểm hộ cho số hàng binh nói trên, buộc xe tăng của địch phải lùi lại. Thế là hai trận đầu của chiến dịch là hai trận thắng lợi giòn giã. Trung tâm đề kháng Him Lam và toàn bộ phân khu bắc của địch đã bị tiêu diệt. Phòng tuyến ngoại vi của địch về phía đông bắc, phía bắc và tây bắc bị phá vỡ, quân địch ở phân khu trung tâm ở vào tình thế khó khăn hơn, bị hở sườn hẳn về các phía này. Đây cũng là những trận công kiên có tính chất trận địa đầu tiên của quân ta, tiêu diệt những trung tâm đề kháng kiên cố của địch nằm trong một tập đoàn cứ điểm rất mạnh. Bộ đội ta đã tiến bộ một bước dài về cách đánh công kiên tương đối chính quy, có trọng pháo và pháo cao xạ phối hợp. Thắng lợi này rất quan trọng, vì nó mở đường cho thắng lợi của cả chiến dịch và đặt cơ sở cho nhiều thắng lợi lớn về sau. Trong hai cuộc chiến đấu đợt đầu, các trận địa tấn công của ta tỏ ra có nhiều kết quả. Việc tổ chức phòng không, phòng pháo của quân ta được chu đáo, nên tác dụng của không quân và pháo binh địch đã bị hạn chế rất nhiều. Không những thế, pháo binh của ta đã hoạt động rất chính xác, hiệp đồng tốt với bộ binh, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng, phá hủy một phần các căn cứ pháo binh của chúng, sân bay trung tâm bị uy hiếp, nhiều máy bay đậu ở trên sân bay bị trúng đạn. Các đơn vị pháo cao xạ của ta cũng bắt đầu hoạt động, bắn rơi nhiều máy bay địch, yểm hộ cho quân ta chiến đấu. Về phía địch, chúng đã bị tổn thất nặng, bị tiêu diệt 2 tiểu đoàn tinh nhuệ, bị tan rã 1 tiểu đoàn, mất toàn bộ phân khu bắc và vị trí ngoại vi chủ chốt ở đông bắc. Làm cho chúng lo ngại nhất là các căn cứ hỏa lực khá mạnh của chúng không những bị phá hủy một phần mà đã tỏ ra ít tác dụng, không có khả năng dùng chiến thuật phản pháo để tiêu diệt các trận địa pháo binh của ta. Hơn nữa, sân bay trung tâm, mà điều kiện an toàn là hết sức cần thiết để không quân của chúng có thể chuyển viện binh và lương thực, đạn dược lên Điện Biên Phủ, thì nay đã bị hỏa lực pháo binh của ta uy hiếp. Nhưng, thất bại lớn hơn hết của địch là chúng đã phán đoán sai. Chúng đã cho rằng quân ta chỉ có thể tiêu diệt được những cứ điểm độc lập trên dưới một tiểu đoàn, chứ không thể tiêu diệt được những trung tâm đề kháng gồm nhiều cứ điểm nằm trong một tập đoàn cứ điểm kiên cố như Điện Biên Phủ, nhất là khi những trung tâm đề kháng đó lại được những đơn vị hết sức thiện chiến của chúng chiếm giữ. Chúng coi thường pháo binh nhỏ yếu của ta, nhưng sau những trận giao chiến đầu tiên, chúng đã hết sức hoảng sợ trước uy lực mạnh mẽ của trọng pháo và pháo cao xạ của quân ta. Mấy hôm sau, tên quan năm chỉ huy trọng pháo của địch ở Mường Thanh đã tự sát. Đứng về quan điểm chiến lược toàn chiến trường Đông Dương, thì địch đã phạm một sai lầm rất nghiêm trọng. Vì cho rằng chúng ta không dám và đã bỏ ý định đánh Điện Biên Phủ, cho nên ngày 12 tháng 3 năm 1954, tướng Nava đã dùng một lực lượng cơ động khá lớn tiếp tục thực hiện ý đồ tấn công chiến lược trên chiến trường miền Nam, đổ bộ đánh chiếm Quy Nhơn, phân tán thêm lực lượng ở đó. Cuộc hành binh chiến lược không đúng lúc này càng gây thêm cho địch nhiều khó khăn làm cho chúng càng thêm bị động. Tuy nhiên, sau đợt tấn công thắng lợi đầu tiên của ta, sau những thất bại nặng nề của chúng, quân địch mặc dầu gặp nhiều khó khăn lúng túng, nhưng lực lượng của chúng còn rất mạnh và chúng đang ra sức đối phó. Ngày 14 và ngày 16 tháng 3 năm 1954, chúng đã tăng viện thêm hai tiểu đoàn quân dù từ Hà Nội lên. Chúng thả dù thêm nhiều bộ phận súng nặng và đạn dược. Chúng ra sức củng cố trận địa phòng ngự để đủ sức chịu đựng trọng pháo của ta. Chúng điều chỉnh bố trí, tăng cường việc bảo vệ sân bay, đưa lính Âu Phi ra một số cứ điểm ngoại vi thay thế cho quân ngụy. Địch còn tin ở sức mạnh của khu trung tâm, ở sức mạnh của pháo binh và không quân của chúng, cho rằng quân ta không thể nào công phá được. Chúng tăng cường hoạt động không quân bắn phá các trận địa và tuyến cung cấp của ta. Chúng còn mong quân ta bị tổn thất nặng không đủ sức để tiếp tục cuộc tấn công. Nhất là nếu chiến dịch kéo dài, tuyến cung cấp bị đánh phá dữ dội, thì ta không khỏi gặp khó khăn lớn về lương thực, đạn dược, do đó mà phải thu quân. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:24:59 am Đợt tấn công thứ hai: đánh chiếm các ngọn đồi phía đông, đánh chiếm sân bay, triệt đường tiếp tế và tiếp viện, thắt chặt vòng vây, từng bước thu hẹp phạm vi chiếm đóng và vùng trời của phân khu trung tâm. Đợt thứ hai là đợt quan trọng nhất của chiến dịch, dài nhất và ác liệt nhất, bởi vì phân khu trung tâm là phân khu mạnh nhất, vị trí của phân khu lại nằm giữa cánh đồng Mường Thanh, có một hệ thống điểm cao rất lợi hại ở phía đông bảo vệ. Sau thắng lợi của đợt một, chúng ta nhận định rằng, mặc dầu quân ta đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch, nhưng lực lượng của chúng vẫn còn rất mạnh, vì vậy phương châm tác chiến của chúng ta vẫn là đánh chắc tiến chắc. Nhiệm vụ đề ra cho đợt tấn công thứ hai là đánh chiếm các điểm cao phòng ngự phía đông của phân khu trung tâm, nhanh chóng tiếp cận bao vây quân địch, thắt chặt trận địa tấn công và bao vây, khống chế đi đến đánh chiếm sân bay trung tâm, hạn chế đi đến triệt hẳn đường tiếp tế và tiếp viện của địch, tích cực tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng và vùng trời của chúng, tạo điều kiện chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch. Phân khu trung tâm gồm năm trung tâm đề kháng, cộng tất cả trên ba mươi cứ điểm do bảy tiểu đoàn Âu Phi và một tiểu đoàn ngụy phòng giữ, trong đó có một số tiểu đoàn dù cơ động. Ở đây có bộ chỉ huy chung của tập đoàn cứ điểm, các căn cứ hỏa lực chính, các đơn vị xe tăng, các căn cứ hậu cần và sân bay trung tâm của Điện Biên Phủ. Toàn bộ phân khu nằm ở giữa cánh đồng Điện Biên Phủ. Từ phân khu đi đến các triền núi xung quanh, địa hình đều bằng phẳng, trên những khoảng cách từ ba đến năm kilômét hay nhiều hơn nữa. Muốn thực hiện nhiệm vụ tấn công các điểm cao phía đông và đồng thời thắt chặt vòng vây, thì về chiến thuật, một vấn đề cực kỳ quan trọng cần được giải quyết là vấn đề tiếp cận tập đoàn cứ điểm của địch, trên một địa hình bằng phẳng và tiến hành chiến đấu liên tục cả đêm lẫn ngày trong điều kiện pháo binh, cơ giới và không quân của địch hoạt động mạnh. Từ khi bộ đội chủ lực của ta bắt đầu đánh công kiên thì vấn đề làm thế nào để tiếp cận quân địch luôn luôn được đặt ra. Ngay trong cả các chiến dịch lớn trước đây, chúng ta đã giải quyết vấn đề đó bằng cách lợi dụng địa hình rừng núi và lợi dụng đêm tối để tiếp cận địch một cách bí mật. Về sau, khi bộ đội ta đã tiến lên đánh những cứ điểm tương đối lớn thì quân ta đã bắt đầu làm ít nhiều công sự để giảm bớt tác dụng của hỏa lực địch, nhưng những công sự ấy còn hết sức sơ sài. Cho nên, có thể nói rằng tất cả các cuộc chiến đấu công kiên của ta trước đây, trừ một số trường hợp đặc biệt, đều được tiến hành ban đêm: xuất kích ban đêm, chiến đấu ban đêm, rút quân ban đêm. Do thời gian bị hạn chế như vậy, cho nên khả năng tiêu diệt địch của quân ta trong đánh công kiên cũng bị hạn chế. Tại Điện Biên Phủ, vấn đề chiến thuật quan trọng đó lại được đặt ra một cách cấp thiết, với một yêu cầu rất cao. Chúng ta đã giải quyết vấn đề đó bằng chủ trương xây dựng trận địa tấn công và bao vây và cũng vì vậy nhiệm vụ xây dựng trận địa tấn công và bao vây được coi là nhiệm vụ trung tâm trong công việc chuẩn bị cho đợt tấn công thứ hai. Hệ thống trận địa tấn công và bao vây bao gồm những đường hào giao thông trục chạy xung quanh phân khu Mường Thanh, cắt đứt phân khu trung tâm và phân khu nam chiến đấu tỏa ra từ các triền núi xung quanh tiến sát trận địa của địch, nhiều tuyến hào giao thông ngang để tăng cường khả năng liên lạc; ở những vị trí nhất định lại phải xây dựng các công sự cho hỏa lực, xây dựng hầm đạn, hầm ngủ, hầm cứu thương, v.v. Trong khoảng mươi ngày, bộ đội ta đã đào thêm trên 100 kilômét hào giao thông, hào chiến đấu, xây đắp vô số công sự đủ các kiểu. Quá trình phát triển trận địa tấn công và bao vây là cả một quá trình chiến đấu gay go giữa ta và địch. Quân địch đã tìm mọi cách để phá hoại hào giao thông, phá hoại trận địa của ta, nhưng, dưới bom đạn của máy bay và pháo binh địch, qua nhiều trận chiến đấu lớn nhỏ xảy ra liên tiếp, quân ta ngày càng tiến sát gần địch với một sức mạnh không gì ngăn cản được. Xây dựng trận địa tấn công và bao vây là một công trình lao động và chiến đấu to lớn của quân ta, tỏ rõ tinh thần chiến đấu anh dũng, lao động cần cù, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi gian khổ của một quân đội cách mạng. Thành công của trận địa tấn công và bao vây là đã giải quyết cho quân ta vấn đề tiếp cận quân địch trên địa hình bằng phẳng, vận chuyển lực lượng, giữ vững trận địa, tiến hành chiến đấu liên tục không quản ngày đêm, hạn chế đến mức cao tác dụng của pháo binh và không quân địch. Đến cuối tháng 3 năm 1954, trận địa tấn công và bao vây căn bản đã hoàn thành, các trận địa xuất phát xung phong để tiến đánh các ngọn đồi phía đông cũng đã được chuẩn bị. Đêm ngày 30 tháng 3 năm 1954, đợt thứ hai của chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu với cuộc tấn công của quân ta vào năm điểm cao phòng ngự phía đông của phân khu trung tâm. Dãy điểm cao này là then chốt phòng ngự của địch, mất các điểm cao đó thì Điện Biên Phủ không thể giữ được, nhiều tuyến hào giao thông có công sự. Vì vậy mà cuộc chiến đấu trên các ngọn đồi phía đông diễn ra hết sức ác liệt. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:25:54 am 17 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1954, cuộc tấn công vào các ngọn đồi phía đông của địch bắt đầu. Đây là một cuộc chiến đấu lớn, vì mục đích của nó không phải chỉ nhằm tiêu diệt một tiểu đoàn của địch mà nhằm tiêu diệt luôn mấy tiểu đoàn của địch; lại là một cuộc chiến đấu phức tạp vì nó bao gồm cả một loạt trận công kiên, tiêu diệt nhiều vị trí của địch. Cuộc chiến đấu diễn ra lúc đầu khá thuận lợi. Chỉ sau 45 phút là quân ta tiêu diệt gọn quân địch và đánh chiếm đồi C1 ở cạnh đồi A1. Sau 1 giờ 30 phút, quân ta tiêu diệt một bộ phận tiểu đoàn dù ngụy, tiếp đó đánh chiếm đồi E là điểm cao ở về phía bắc. Sau 2 giờ, quân ta lại tiêu diệt toàn bộ một tiểu đoàn địch và đánh chiếm đồi D là điểm cao thứ hai từ phía bắc trở xuống và cũng là điểm cao quan trọng hơn hết về phía này. Tiếp đó quân ta đánh chiếm luôn đồi D2. Gần sáng quân địch cho một lực lượng phản kích về phía các ngọn đồi này, trong ngày hôm sau lại tổ chức phản kích lần thứ hai; các cuộc phản kích đó đều bị quân ta đánh lui. Đặc biệt trên đồi A1, tức là điểm cao quan trọng nhất trong năm ngọn đồi, cũng là điểm cao cuối cùng che chở cho phân khu trung tâm, cuộc chiến đấu diễn ra hết sức gay go, từ đêm 30 tháng 3 cho đến ngày 4 tháng 4 năm 1954. Trong đêm đầu, quân ta đánh chiếm hai phần ba vị trí. Đến tảng sáng và suốt ngày hôm sau, địch tăng cường lực lượng, có pháo binh và xe tăng yểm hộ đánh chiếm lại hai phần ba vị trí. Đêm 31 tháng 3, quân ta tấn công lần thứ hai; cuộc chiến đấu kéo dài đến sáng ngày 1 tháng 4, kết quả, ta chiếm lại hai phần ba vị trí; nhưng tiếp đó địch lại phản kích nhiều lần chiếm lại một phần trận địa đã mất. Sang đêm 1 tháng 4, ta tổ chức cuộc tấn công lần thứ ba; cuộc chiến đấu giằng co, quyết liệt; cho đến ngày 4 tháng 4, ta và địch giành nhau từng tấc đất một; địch đã lợi dụng những hầm ngầm và trận địa kiên cố để chống lại quân ta; cuối cùng mỗi bên giữ một nửa điểm cao. Trong khi quân ta chưa giải quyết được điểm cao cuối cùng, thì quân địch được tăng viện bằng một lực lượng nhảy dù xuống; sáng ngày 9 tháng 4 năm 1954, chúng tổ chức cuộc phản kích đánh chiếm lại đồi C1; cuộc chiến đấu ở đây lại tiếp diễn trong bốn ngày đêm, kết quả đồi C1 cũng chia đôi, ta chiếm một nửa, địch chiếm một nửa. Thế là cuộc tấn công của quân ta vào các ngọn đồi phía đồng phân khu trung tâm đã thu được thắng lợi quan trọng, nhưng chưa hoàn thành được tất cả những mục đích đã đề ra. Tính từ lúc chiến dịch bắt đầu, chúng ta đã tiêu diệt được 5.000 sinh lực tinh nhuệ của địch, nghĩa là một lực lượng tương đương với 6 tiểu đoàn trong đó có 3 tiểu đoàn bị tiêu diệt gọn. Số địch bị tiêu diệt chiếm gần hai phần năm tổng số. Lực lượng còn lại của địch còn khá mạnh, trên một vạn quân, về sau còn được tăng viện thêm một số tiểu đoàn; nhưng tinh thần chiến đấu thì bị giảm sút. Về địa hình có lợi, thì chúng ta đã khống chế các điểm cao ở phía bắc, khống chế phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông phân khu trung tâm; trận địa tấn công và bao vây của ta đã tiến tới gần sân bay, vòng vây đã thắt chặt thêm, tiếp tế và tiếp viện của địch bị hạn chế, liên lạc giữa phân khu trung tâm và phân khu nam bị cắt đứt. Phạm vi đóng quân của địch bị thu hẹp, vùng trời của chúng cũng bị thu hẹp rất nhiều. Chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho đợt tấn công thứ hai tức là tiếp tục củng cố và phát triển vào gần địch hơn nữa trận địa tấn công và bao vây, cải tạo địa hình, đánh chiếm một số vị trí quan trọng nhằm từng bước thắt chặt vòng vây hơn nữa, đánh chiếm sân bay đạt đến mục đích triệt hẳn tiếp tế và tiếp viện của địch, uy hiếp mạnh hơn nữa tung thâm của chúng. Thực hiện chủ trương nói trên, trận địa ta ngày càng tiến sát gần địch, có nơi chỉ cách địch 10-15 mét. Các ngọn đồi đã chiếm được ở phía đông, nhất là đồi D1, đã được biến thành cứ điểm phòng ngự mạnh của ta, có trận địa hỏa lực cho sơn pháo và súng cối, với những công sự rất kiên cố. Hỏa lực các cỡ của ta luôn luôn uy hiếp quân địch. Cuộc chiến đấu diễn ra liên tiếp không kể ngày đêm. Quân ta lợi dụng các hào chiến đấu đã đào sát đến vị trí của địch, áp dụng chiến thuật đánh lấn dần. Đêm 1 tháng 4 năm 1954, cứ điểm 106 bảo vệ sân bay về phía tây bị quân ta đột nhập bất thần, địch không kịp trở tay bị ta tiêu diệt gọn. Đêm 2 tháng 4, cứ điểm 311 nằm về phía tây bị quân ta uy hiếp; một bộ phận ra hàng, một bộ phận rút chạy. Đêm 18 tháng 4, quân ta tiêu diệt vị trí 105 bảo vệ phía bắc sân bay; tiếp đó, đêm 22 tháng 4, bộ đội ta đang làm công sự chuẩn bị tấn công, đã nắm vững thời cơ có lợi, đột nhập tiêu diệt quân địch, đánh chiếm vị trí 206 bảo vệ phía tây sân bay. Sân bay trung tâm của địch đã bị hoàn toàn bộc lộ. Trận địa của ta từ phía tây, phía đông và phía bắc tiến vào sân bay, liên lạc với nhau, cắt ngang sân bay; sân bay trung tâm của địch đã bị quân ta đánh chiếm. Vòng vây của quân ta càng thắt chặt hơn nữa; cuộc chiến đấu càng trở nên gay go. Quân địch liên tiếp tổ chức nhiều cuộc phản kích dữ dội, có cơ giới và không quân yểm hộ, nhằm đánh lùi trận địa của ta. Cuộc phản kích quyết liệt nhất đã xảy ra trong ngày 24 tháng 4, với mục đích đánh lùi quân ta ra khỏi sân bay. Kết quả là địch đã bị tiêu diệt một bộ phận, trận địa của ta vẫn được giữ vững, sân bay vẫn bị quân ta kiểm soát. Phạm vi đóng quân của địch càng bị thu hẹp, dần dần mỗi chiều chỉ còn có 2 kilômét. Khu trung tâm của địch đã nằm vào trong tầm bắn của tất cả các cỡ súng của ta. Các trận địa pháo cao xạ của ta cũng được chuyển vào cánh đồng. Vùng trời bị thu nhỏ của chúng không còn an toàn nữa. Lúc này, tiêu diệt được thêm một, hai tên địch, giành thêm một, hai tấc đất cũng có ý nghĩa quan trọng. Quân ta một mặt đã tấn công tiêu diệt từng cứ điểm của địch, đánh lui những cuộc phản kích của chúng, mặt khác, đẩy mạnh cuộc thi đua bắn tỉa quân địch. Các chiến sĩ thiện xạ bắn súng trường, bắn súng máy, bắn súng cối, các chiến sĩ pháo binh ra sức bắn tỉa quân địch, làm cho địch ngày càng bị tiêu hao, thương vong chồng chất, tinh thần sút kém, luôn luôn lo sợ và căng thẳng, không dám đi lại, hễ lộ ra khỏi trận địa tên nào là bị quân ta bắn chết. Các đội dũng sĩ của ta đột nhập sâu vào trong lòng địch, đánh phá kho tàng, tiêu hao sinh lực của chúng. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:27:00 am Vấn đề tiếp viện và tiếp tế của địch đã trở nên hết sức khó khăn. Từ lâu, sân bay đã không còn sử dụng được. Nhất là từ khi quân ta đã cắt ngang và kiểm soát sân bay thì địch chỉ còn một cách là thả dù quân tiếp viện và thả dù lương thực, đạn dược tiếp tế. Nhưng vì khu vực của địch quá hẹp, máy bay lại sợ pháo cao xạ của ta không dám xuống thấp nên chỉ một phần dù tiếp tế rơi đúng vào vị trí của chúng, một phần ngày càng lớn rơi vào trận địa của ta. Quân ta đã tích cực dùng hỏa lực bắn phá không cho địch ra nhặt dù để triệt nguồn tiếp tế của chúng, mặt khác tranh đoạt tiếp tế với địch, lấy lương thực, đạn dược của địch bổ sung một phần cho ta. Chúng ta đã từng sử dụng khá nhiều đạn đại bác do địch thả xuống để bắn lại chúng. Sau các trận giao chiến trên các ngọn đồi phía đông, địch đã cho nhảy dù tăng viện hai tiểu đoàn; về sau lại cho nhảy dù từng đợt những toán lính mà chúng gọi là tình nguyện đi cứu viện cho Điện Biên Phủ, tổng cộng khoảng bảy, tám trăm tên; bọn này một số bị rơi vào trận địa của ta và bị quân ta bắt làm tù binh ngay từ khi mới nhảy xuống. Tình hình trong suốt đợt hai luôn luôn khẩn trương. Bọn can thiệp Mỹ đã tăng viện nhiều máy bay oanh tạc và vận tải để giúp quân Pháp cố thủ Điện Biên Phủ. Quân địch đã dùng vào mặt trận Điện Biên Phủ hai phần ba số máy bay chiến đấu và hai phần ba số máy bay vận tải của chúng ở Đông Dương, không kể những phi đội máy bay C.119 của Mỹ. Chúng hy vọng với một kế hoạch ném bom dữ dội và liên tục, với những loại bom hạng nặng, tập trung vào từng khu vực chúng có thể cứu nguy cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Máy bay oanh tạc của địch hoạt động ráo riết, bắn phá không ngớt những mục tiêu chúng cho là trận địa của quân ta, trút bom napan đốt cháy núi đồi xung quanh Điện Biên Phủ, dùng bom hạng nặng trút xuống các vị trí mà chúng cho là trận địa pháo binh của ta. Chỉ trong một ngày 2 tháng 4 năm 1954, chúng đã dùng đến gần 250 chuyến máy bay oanh tạc và khu trục. Sự cố gắng tột bậc và tuyệt vọng của địch đã không thu được kết quả như chúng mong muốn. Trong khi đó, trận địa quân ta vẫn thắt chặt vòng vây thêm mãi; các đơn vị pháo cao xạ trẻ tuổi của ta hoạt động tích cực và thu được nhiều kết quả, gây cho không quân địch nhiều tổn thất đáng kể. Bước vào tháng 4 năm 1954, bọn tướng tá Pháp - Mỹ đã thấy nguy cơ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có thể bị quân ta tiêu diệt. Thượng tuần tháng 4, chính phủ Pháp chính thức yêu cầu Mỹ phái sang những đội máy bay chiến đấu và máy bay oanh tạc hạng nặng, xuất phát từ Philippin hoặc từ các tàu chở máy bay của hạm đội 7 của hải quân Mỹ để chi viện cho Điện Biên Phủ. Nhưng ngay nội bộ chính giới Mỹ cũng không nhất trí; giữa bọn đế quốc có mâu thuẫn gay gắt; vả lại, chúng không tin rằng một hành động như vậy có thể cứu vãn được quân đội viễn chinh Pháp mà chắc chắn sẽ bị dư luận trong nước và ngoài nước kịch liệt lên án, lại có thể làm cho tình hình Đông Dương trở nên phức tạp, gây nên những hậu quả khó lường được, rốt cuộc kế hoạch này không được thi hành. Trung tuần tháng 4, chúng đã từng tính đến một cuộc hành binh giải vây từ lưu vực sông Nậm Hu tiến về hướng Điện Biên Phủ. Kế hoạch này vì thiếu quân nên phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần, cuối cùng cũng không thực hiện được. Chúng lại một lần nữa dự định mở cuộc hành binh đánh sâu vào hậu phương của ta, dự định đánh vào Tuyên Quang, Yên Bái; hạ tuần tháng 4, chúng lại dự định đánh lên Đoan Hùng. Nhưng quân thiếu, lực lượng không quân không đủ, lại sợ không đảm bảo được thắng lợi mà có thể bị thất bại đau đớn; rốt cuộc dự định này cũng không được thực hiện. Vào hạ tuần tháng 4, chúng đã mất dần hy vọng có thể cố thủ Điện Biên Phủ. Chúng cũng dần dần nhận thấy rằng hoạt động không quân của chúng không thể "nghiền nát" quân ta được, không thể nới rộng vòng vây của ta, cũng không thể cắt đứt đường vận chuyển tiếp tế của ta. Lực lượng cơ động của chúng ở Điện Biên Phủ chỉ còn 5 đại đội, phạm vi chiếm đóng của chúng mỗi chiều chỉ còn 1,7 kilômét đến 1,3 kilômét. Tình hình quân địch đã trở nên trầm trọng. Về phía ta, suốt đợt hai, trong khi quân ta chiến đấu liên tục tại mặt trận Điện Biên Phủ thì trên các tuyến cung cấp từ hậu phương đi đến mặt trận, cuộc chiến đấu với địch cũng diễn ra cực kỳ gay go, gian khổ. Chúng ta đã nói ở trên, nhu cầu lớn lao của chiến dịch về mặt tiếp tế chi viện: lực lượng tham chiến lên đến mấy vạn quân, lực lượng dân công vận tải lên đến mấy chục vạn, các tuyến cung cấp dài từ 300 đến 500 kilômét, thời gian kéo dài trên sáu tháng. So với chiến dịch Biên Giới, chỉ nói khối lương thực cần thiết, cũng đã tăng lên gấp mười lần. Chỉ lấy phạm vi hậu cần của chiến dịch, nghĩa là từ Sơn La trở lên, khối lượng vận chuyển trong chiến dịch cũng đã lên đến trên 4,5 triệu tấn kilômét. Trong khi đó phương tiện vận chuyển chỉ một phần dựa vào cơ giới, còn lại thì phải dựa vào phương tiện thô sơ, dựa vào sức người. Trong thời gian chuẩn bị, địch đã ra sức bắn phá các tuyến cung cấp của ta. Nhưng, không quân của chúng bắn phá dữ dội hơn cả là trong thời gian tháng 4, nghĩa là trong khi tình hình Điện Biên Phủ bị lâm nguy, việc trực tiếp chi viện cho Điện Biên Phủ ngày càng gặp trở ngại to lớn, chúng đã coi việc phá hoại các tuyến cung cấp của ta là một trong những phương sách chủ yếu để cứu vãn tình thế. Các con đường vận chuyển của ta lại là những đường độc đạo, có nhiều quãng hết sức hiểm trở, đã hẹp lại xấu. Quân địch đã tập trung máy bay ném bom tạ, thả bom chờ nổ và bom bươm bướm, hoạt động không kể ngày đêm, tập trung ném bom và bắn phá một số điểm hiểm yếu nhất, như đèo Khế, đèo Hút Gió, đèo Lũng Lô, đèo Pha Đin, v.v. có nơi chúng trút hàng trăm tấn bom trong một ngày. Đó là chưa nói đến những khó khăn rất lớn do mưa, lũ gây nên. Do những khó khăn trở ngại nói trên, dự trữ của ta ở trước mặt trận đã có lúc bị giảm xuống khá nhiều dưới mức quy định. Để khắc phục mọi khó khăn trở ngại, bảo đảm cung cấp tiếp tế cho tiền tuyến, Trung ương và Chính phủ đã kêu gọi toàn Đảng và toàn dân cố gắng đến cùng, nhất định bảo đảm vận chuyển ra mặt trận đủ lương thực, đủ đạn dược để cho quân ta tiếp tục chiến đấu. Chúng ta có lúc đã tăng cường hàng trăm cán bộ trung cao cấp vào các tuyến cung cấp; một bộ phận quan trọng cán bộ chính trị ở mặt trận cũng tham gia vào công tác hậu cần. Nhờ sự cố gắng lớn lao của nhân dân hậu phương, trong đó có nhân dân Tây Bắc, nhờ tinh thần chiến đấu anh dũng và vượt gian khổ rất cao của anh chị em dân công, nhất là ở ngoài hỏa tuyến, chúng ta đã phá được âm mưu thâm độc của địch hòng làm thất bại công cuộc chi viện tiền tuyến của ta. Chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ chi viện cung cấp trên một quy mô lớn cho chiến dịch lịch sử này. Chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ nếu cần thì có thể tiếp tục chiến đấu trong suốt tháng 5 hoặc lâu hơn nữa. Đặc điểm của đợt tấn công thứ hai là lúc đầu thì diễn ra sau những chiến thắng giòn giã của đợt tấn công thứ nhất, cho nên để bảo đảm chắc thắng, về mặt lãnh đạo tư tưởng, chúng ta đã chú trọng khắc phục những hiện tượng chủ quan, khinh địch, dễ đưa đến nắm tình hình địch không cụ thể, làm trận địa không đúng tiêu chuẩn, không đi sâu nắm vững và kiểm tra lực lượng chiến đấu cũng như kế hoạch tác chiến. Nhưng, đặc điểm quan trọng nhất của đợt tấn công thứ hai là tính chất gay go ác liệt của các cuộc chiến đấu, đòi hỏi một tinh thần chiến đấu anh dũng rất cao; là thời gian rất dài, bộ đội phải chiến đấu liên tục, bị tiêu hao mỏi mệt, tinh thần căng thẳng; là điều kiện chiến đấu không những gay go mà lại hết sức gian khổ, sau mấy tháng chuẩn bị thường phải ẩn nấp dưới công sự, nay lại phải chiến đấu và sinh hoạt ở trong hào giao thông và hầm trận địa trong một thời gian dài. Đó là chưa nói đến những khó khăn mới do thời tiết đưa lại; mỗi một lần mưa to thì trận địa có nơi bị lở hoặc bị ngập nước. Tình hình cung cấp có lúc lại không được đầy đủ. Các cuộc chiến đấu đã diễn ra liên tiếp trong quá trình phát triển và thắt chặt trận địa tấn công và bao vây, cho nên lực lượng của ta không khỏi bị tiêu hao, đòi hỏi phải kịp thời bổ sung và chấn chỉnh để bảo đảm chiến đấu liên tục. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:27:34 am Trong tình hình nói trên, công tác chính trị đã đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, tiếp tục giáo dục thật sâu rộng ý nghĩa to lớn của chiến dịch, tiếp tục quán triệt quyết tâm của Trung ương là tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, lấy mỗi một thắng lợi của quân ta, mỗi một thất bại của địch mà động viên cán bộ và chiến sĩ, lấy gương chiến đấu hy sinh của bao nhiêu anh hùng, chiến sĩ để phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng của bộ đội, giữ vững và nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng. Công tác chính trị đã đi sâu giáo dục và kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như kỷ luật trận địa, việc tổ chức sinh hoạt trong trận địa; việc bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ ăn nóng, ngủ đủ; việc xây dựng trận địa cho đúng yêu cầu, chuyển quân ban ngày không bị lộ, bảo đảm được khô ráo, không bị ngập nước; việc giữ gìn kỷ luật vệ sinh phòng bệnh. Công tác chính trị còn phải chăm lo giữ vững lực lượng chiến đấu, bổ sung quân số, đề bạt cán bộ. Công tác phát triển đảng, luôn luôn kiện toàn chi bộ đã được hết sức coi trọng. Việc chấp hành kỷ luật nghiêm minh, thưởng, phạt kịp thời và đúng đắn cũng là một công tác quan trọng để nâng cao tinh thần chiến đấu của bộ đội. Đợt hai càng kéo dài, quân ta càng thu được nhiều thắng lợi, ưu thế binh lực hỏa lực của ta ngày càng tăng thêm. Qua thực tiễn của các cuộc chiến đấu, chủ trương tác chiến rõ ràng là chính xác, các vấn đề chiến thuật đề ra đều được giải quyết rất cụ thể. Trong lúc đó quân địch bị thất bại ngày càng nặng và đang gặp những khó khăn chồng chất về binh lực, về tiếp viện và tiếp tế cũng như về tinh thần. Tuy nhiên, cũng chính vào lúc đó, trong cán bộ và chiến sĩ ta, xuất hiện tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, biểu lộ dưới hai hình thức: một là ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi, ngại khó, ngại khổ; hai là chủ quan khinh địch, chủ quan tự mãn. Bộ Chính trị theo dõi rất sát tình hình quân ta trước mặt trận đã nhận định rằng: những thắng lợi to lớn vừa qua đã tạo những điều kiện căn bản cho quân ta hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ; nhưng, vì cán bộ ta còn có khuyết điểm, chủ yếu là vì "tư tưởng hữu khuynh còn nghiêm trọng, cho nên đã hạn chế thắng lợi của ta một phần". Bộ Chính trị ra chỉ thị: "Các cấp ủy, các đảng viên và toàn thể các cán bộ phải ra sức khắc phục tư tưởng hữu khuynh, củng cố và đề cao quyết tâm, đề cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, quân đội và Đảng, kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm vừa qua, tiếp tục thấu triệt phương châm đánh chắc tiến chắc đồng thời phải ra sức tranh thủ thời gian, triệt để chấp hành mệnh lệnh, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ giành toàn thắng cho chiến dịch". Trong cuộc hội nghị đại biểu đảng ủy các đại đoàn và các cơ quan, chúng ta đã triển khai một cuộc đấu tranh tư tưởng nghiêm túc và sâu sắc. Hội nghị đã nhận định tình hình địch, ta một cách khách quan, nêu rõ thắng lợi của ta, thất bại của địch, nêu rõ những điều kiện dần dần chín muồi để tiêu diệt toàn bộ quân địch, đề ra yêu cầu phải quán triệt phương châm đánh chắc tiến chắc, đồng thời phải tích cực tranh thủ thời gian, đưa chiến dịch đến toàn thắng, trước mùa mưa đã gần tới. Chúng ta đã tiến hành phê phán không nhân nhượng những biểu hiện của tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, đã nêu rõ: "Tư tưởng của Đảng ta, của quân đội ta là tư tưởng tích cực cách mạng của giai cấp vô sản, là tinh thần đấu tranh bất khuất, đấu tranh đến cùng chống kẻ thù, tinh thần đấu tranh không nhân nhượng, không thỏa hiệp của giai cấp vô sản. Tư tưởng đó là tinh thần triệt để cách mạng, lúc thắng lợi không say mê, lúc khó khăn không chùn bước, bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng kiên trì đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng. Trong quân đội, tư tưởng đó của Đảng là tinh thần anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch, triệt để chấp hành mệnh lệnh, đó là tinh thần kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, không sợ gian lao nguy hiểm, không sợ mỏi mệt thương vong, không sợ hy sinh tính mệnh. Đó là tinh thần liên tục chiến đấu, lúc thắng lợi thì không chủ quan tự mãn, lúc thất bại thì không hoang mang dao động, bất kỳ trong trường hợp nào cũng bình tĩnh, khẩn trương, kiên trì chiến đấu". Sau cuộc hội nghị nói trên, một cuộc giáo dục và đấu tranh tư tưởng được triển khai sâu rộng từ các cấp ủy cho đến chi bộ, từ cán bộ cho đến chiến sĩ, trong tất cả các đơn vị tham chiến. Công tác giáo dục và đấu tranh đó là một thành công rất lớn của công tác chính trị trên mặt trận Điện Biên Phủ, là một trong những thành công lớn nhất của công tác chính trị trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta. Nó đã đưa lại kết quả to lớn là những biểu hiện của tư tưởng sai lầm đã được khắc phục. Toàn thể đảng viên, cán bộ và chiến sĩ đều củng cố lòng tin tưởng vững chắc ở thắng lợi cuối cùng của chiến dịch, củng cố quyết tâm sắt đá, hoàn thành cho kỳ được nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân ta được nâng cao. Với một khí thế mạnh mẽ, tất cả các đơn vị đều cố gắng tiến lên, tích cực chuẩn bị cho đợt tấn công sắp tới, ra sức tạo mọi điều kiện để chuyển sang tổng công kích. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:28:28 am Đợt tấn công thứ ba: đánh chiếm điểm cao cuối cùng ở phía đông, tiêu diệt một số cứ điểm khác của địch, thu hẹp hơn nữa phạm vi đóng quân và vùng trời của chúng, uy hiếp mạnh tung thâm của chúng, nắm vững thời cơ tiến hành tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Vào hạ tuần tháng 4 năm 1954, tình hình quân địch đã trở nên hết sức nguy khốn. Tuy nhiên ở phía đông chúng vẫn còn giữ hai phần ba ngọn đồi A1 và một nửa ngọn đồi C1. Vùng trời của chúng đã bị thu hẹp rất nhiều, nhưng chúng vẫn còn thu được một phần dù tiếp tế do máy bay vận tải của chúng thả xuống. Nhiệm vụ đề ra cho đợt hoạt động mới của quân ta là đánh chiếm các điểm cao địch còn giữ một phần ở phía đông, tiêu diệt một số vị trí ở phía tây, tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực của địch, phát triển sâu hơn nữa trận địa tấn công và bao vây, phát huy tất cả các thứ hỏa lực bắn phá tung thâm của địch, uy hiếp vùng trời còn lại của chúng, chuẩn bị chuyển sang tổng công kích. Đợt tấn công lần thứ ba bắt đầu trong điều kiện tình hình quân địch đã trở nên trầm trọng; về phía ta, thì tinh thần chiến đấu của bộ đội rất cao, các khó khăn về cung cấp vừa được khắc phục, do đó những trận chiến đấu của đợt này là những trận chiến đấu giòn giã nhất. Phần lớn các đơn vị đều nổ súng đúng thời gian đã định, triệt để chấp hành mệnh lệnh, chiến đấu cực kỳ anh dũng, hoàn thành tất cả những nhiệm vụ được trên giao cho. Đêm ngày 1 tháng 5, đợt tấn công thứ ba bắt đầu. Quân ta nhanh chóng tiêu diệt quân địch còn kiểm soát một nửa đồi C1, chiếm toàn bộ ngọn đồi. Cũng trong đêm đó, quân ta đã tấn công tiêu diệt nhanh chóng hai vị trí 505 và 505A ở dưới chân các ngọn đồi phía đông nằm trên tả ngạn sông Nậm Rốm. Ở phía tây, vị trí 311A của địch cũng bị tiêu diệt gọn. Ở phân khu nam, quân ta tiêu diệt một bộ phận quân địch đóng ở phía đông bắc Hồng Cúm. Sang đêm ngày 3 tháng 5, quân ta lại tiêu diệt thêm vị trí 311B ở phía tây. Trận địa tấn công và bao vây của ta càng thắt chặt lại, có nơi chỉ cách sở chỉ huy của tập đoàn cứ điểm khoảng 300 mét. Quân địch lúc bấy giờ có những dấu hiệu muốn mở một con đường máu để phá vòng vây. Nava và các tướng tá Pháp - Mỹ đã nhận thấy rằng Điện Biên Phủ sắp bị tiêu diệt đến nơi. Chúng dự định thu thập lực lượng tổ chức thành ba cánh quân, thừa lúc ban đêm đột phá vòng vây của ta, đánh tháo về phía Lào: một cánh gồm các đơn vị dù rút theo hướng đông nam; một cánh gồm các đơn vị lê dương và Bắc Phi rút theo hướng nam; một cánh gồm các đơn vị ở Hồng Cúm rút theo hướng tây. Trong lúc đó, ở phía Thượng Lào, chúng sẽ cho một cánh quân tiến sang để đón. Riêng tướng Đờ Cát và một số đơn vị thì được chỉ định ở lại với thương binh tại Điện Biên Phủ. Chúng ta đã theo dõi sát những ý định và sự chuẩn bị của chúng; các đơn vị của quân ta có nhiệm vụ giữ các trận địa ở phía tây đã được lệnh kiểm soát chặt chẽ tất cả các con đường lớn và đường nhỏ đi từ Điện Biên Phủ ra biên giới Việt - Lào. Sau khi đã tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân ta đã bắt được bản mệnh lệnh mở cuộc hành binh đột phá vòng vây, dự định thực hiện vào đêm ngày 7 tháng 5 năm 1954. 17 giờ ngày 6 tháng 5, quân ta mở cuộc tấn công vào đồi A1. Ở đây, trong thời gian chuẩn bị, công binh ta đã đào một đường hầm ngầm đi sâu vào giữa ngọn đồi và đã đặt sẵn một tấn thuốc nổ. Được sự phối hợp chặt chẽ của công binh, sau tiếng nổ mạnh mẽ của bộc phá, quân ta đã chia làm nhiều mũi, từ nhiều hướng đánh vào vị trí của địch, tiêu diệt quân dù lê dương chiếm đóng ở đó. Chúng ta đã đánh chiếm điểm cao cuối cùng. Cũng trong đêm ấy, quân ta tiêu diệt quân địch và đánh chiếm đồi C2; đây là điểm cao phụ nằm giữa ngọn đồi C1 và sông Nậm Rốm. Các vị trí 506 của địch ở phía bắc cầu Mường Thanh, 310 ở phía tây cũng bị tiêu diệt. Sau các cuộc tấn công thắng lợi trên đây của quân ta, địch đã mất hết tất cả cac điểm cao ở phía đông, lực lượng bị tiêu diệt thêm một phần quan trọng, phạm vi chiếm đóng bị thu lại rất hẹp, mỗi chiều chỉ còn từ bảy, tám trăm mét đến một kilômét, tinh thần binh sĩ của chúng hoang mang đến cực độ. Mọi điều kiện đều đã đầy đủ để chuyển sang tổng công kích. Trong khi chúng ta đang đẩy mạnh công tác chuẩn bị, để bảo đảm thắng lợi cho cuộc tổng công kích thì sáng ngày 7 tháng 5, có những dấu hiệu rất đáng chú ý về tình hình địch. Những máy bay tiếp tế vũ khí đạn dược đều quay về Hà Nội, không thả dù nữa. Chỉ có một số máy bay tiếp tế còn thả ít nhiều dù lương thực. Trong lúc đó, lác đác ở một số nơi trong khu địch đóng quân, ta phát hiện có nhiều tiếng nổ: quân địch đang phá hủy một số vũ khí. Một số binh lính của địch vứt súng đạn xuống sông Nậm Rốm. Chúng ta nhận định trong hàng ngũ địch đang xảy ra tình trạng hỗn loạn. Bộ đội ta được lệnh chuẩn bị sẵn sàng. 14 giờ ngày 7 tháng 5, một đơn vị của ta mở cuộc tấn công vào vị trí 507, ở gần cầu Mường Thanh. Địch đối phó yếu ớt, toàn bộ binh lính địch kéo cờ trắng ra hàng. Tiếp đó, quân ta phát triển thắng lợi tấn công tiêu diệt luôn hai vị trí 508 và 509 nằm trên tả ngạn sông Nậm Rốm. Rõ ràng, quân địch đã rối loạn, mất hết tinh thần chiến đấu; ở một số nơi đã có những lá cờ trắng xuất hiện. 15 giờ ngày 7 tháng 5, quân ta được lệnh không chờ đến tối, nắm ngay cơ hội thuận lợi, lập tức mở cuộc tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm. Các đại đoàn của ta lập tức hành động, từ phía đông và phía tây giáp công, đánh thẳng vào sở chỉ huy của địch. Mặc dầu quân địch còn khoảng một vạn tên, tinh thần của chúng đã hoàn toàn tan rã. Quân ta đánh đến đâu, địch giương cờ trắng ra hàng đến đó. 17 giờ 30 phút, quân ta đánh chiếm sở chỉ huy của địch: tướng Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị quân ta bắt sống. Toàn bộ địch còn lại lũ lượt kéo ra hàng. Chúng đều bị bắt làm tù binh và được ta đối đãi tử tế. Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta đã được nêu cao trên cánh đồng Điện Biên Phủ. Ngay đêm hôm đó, quân ta tấn công quân địch ở phân khu nam. Quân địch ở đây có trên 2.000 tên, định tìm đường rút chạy về phía Thượng Lào, nhưng bị quân ta đuổi đánh. 20 giờ, quân ta bắt gặp quân địch; 24 giờ thì toàn bộ quân địch bị bắt làm tù binh. Sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân ta đã kết thúc bằng một chiến thắng vĩ đại. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:26:29 pm VI. Ý NGHĨA TO LỚN CỦA CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VĨ ĐẠI VÀ CỦA CÁC CHIẾN THẮNG ĐÔNG XUÂN NÓI CHUNG Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và nói chung các chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 là những chiến thắng to lớn nhất của lực lượng vũ trang nhân dân và của nhân dân ta từ trước đến nay. Các chiến thắng vĩ đại đó đã đánh dấu một sự tiến bộ vượt bậc, một sự chuyển biến lớn lao trong quá trình phát triển tiến lên của cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta chống đế quốc Pháp xâm lược có bọn can thiệp Mỹ giúp sức. Phân tích hình thái mới của cuộc kháng chiến, chúng ta nhận thấy nổi bật lên những điểm sau đây: Một là, trong cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, chúng ta đã mở nhiều chiến dịch tấn công trên nhiều hướng của chiến trường cả nước. Từ năm 1950 trở đi, với chiến dịch Biên Giới, hình thái phản công cục bộ đã xuất hiện. Trong mỗi một mùa tác chiến hoặc trong mỗi một thời gian nhất định, bộ đội chủ lực ta đã có khả năng mở chiến dịch tấn công thắng lợi trên một hướng nhất định của chiến trường chính, tức là chiến trường Bắc Bộ. Trong những năm tiếp sau, chúng ta luôn luôn giữ quyền chủ động trên chiến trường chính; những cố gắng lớn lao của địch để giành lại chủ động ở Bắc Bộ đã bị quân ta đánh bại. Bước vào mùa Thu, mùa Đông năm 1953 và mùa Xuân năm 1954, bộ đội chủ lực ta không những đã có khả năng mở những chiến dịch tấn công trên nhiều hướng, mà quan trọng hơn nữa là không những mở chiến dịch tấn công trên chiến trường Bắc Bộ mà cả trên chiến trường Liên khu 5; đồng thời bộ đội tình nguyện ta đã phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào mở những chiến dịch tấn công ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào. Phạm vi cuộc tấn công chiến lược Thu Đông năm 1953 của ta đã vượt ra ngoài chiến trường chính, bước đầu mở rộng đến chiến trường miền Nam, chiến trường Đông Dương. Hai là, bước qua thời kỳ thứ hai của cuộc tấn công chiến lược Thu Đông đó thì trên mặt trận chính diện chủ yếu, tức là mặt trận Điện Biên Phủ, chúng ta đã tập trung đại bộ phận bộ đội chủ lực tinh nhuệ của ta, mở cuộc tấn công lớn vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch, do một bộ phận quan trọng bộ đội tinh nhuệ của địch phòng giữ. Trước đây, kể cả trong thời kỳ đầu của cuộc tấn công Thu Đông, phương hướng tác chiến của ta là nhằm những hướng chiến lược quan trọng mà địch tương đối sơ hở để tấn công tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch. Bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ thì chúng ta đã chuyển lên tập trung chủ lực của ta tiêu diệt chủ lực của địch, đánh vào một tập đoàn cứ điểm mà địch cho là không thể nào công phá được. Chiến dịch Điện Biên Phủ mang tính chất đầy đủ của một trận quyết chiến về chiến lược. Ba là, trong cuộc tấn công Đông Xuân 1953-1954, đã diễn ra một sự biến chuyển mới về hình thức tác chiến. Vận động chiến bao gồm những thành phần chiến đấu công kiên trước đây đã tiến lên giữ địa vị chủ yếu trên chiến trường Bắc Bộ, thì nay đã phát triển rộng khắp hơn, tiến lên giữ địa vị chủ yếu trên chiến trường Liên khu 5 và trên chiến trường nước bạn. Biến chuyển to lớn hơn nữa là nếu trước đây, kể cả trong thời kỳ đầu của cuộc tấn công Đông Xuân, hình thức tác chiến phổ biến của chủ lực là đánh vận động, thì bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ, điểm trung tâm của chiến trường cả nước, quân đội ta đã vận dụng hình thức tác chiến mới: chiến dịch công kiên có tính chất trận địa trên một quy mô lớn. Trong lúc đó trên chiến trường sau lưng địch, du kích chiến vẫn giữ một địa vị hết sức quan trọng, ở Bình Trị Thiên và Nam Bộ vẫn giữ địa vị chủ yếu. Qua những biến chuyển và phát triển vượt bậc của phạm vi các chiến dịch tấn công, của tính chất và hình thức tác chiến của chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta đã thu được những thắng lợi lớn lao chưa từng thấy. Những thắng lợi đó đã đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ hình thái phản công cục bộ tiến lên hình thái phản công lớn, từ thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ tiến lên giành chủ động trên chiến trường cả nước. Ý nghĩa chiến lược to lớn của chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và các chiến thắng Đông Xuân là ở chỗ đó. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:27:55 pm Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và các chiến dịch Đông Xuân nói chung, chúng ta đã tiêu diệt một bộ phận rất quan trọng sinh lực của địch. Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt lớn nhất và điển hình nhất của quân đội ta từ trước đến nay, trận chiến thắng lớn nhất của nhân dân ta trong gần 100 năm đấu tranh chống ngoại xâm. Trận Điện Biên Phủ cũng được coi là một trong những trận đánh tiêu diệt lớn nhất trong lịch sử đấu tranh vũ trang của các dân tộc nhỏ chống quân đội xâm lược của bọn đế quốc thực dân. Tại Điện Biên Phủ, quân ta đã tiêu diệt và bắt làm tù binh trên 16.000 tên địch, trong đó có toàn bộ cơ quan chỉ huy của tập đoàn cứ điểm, có một tên tướng, 16 tên quan năm, 1.749 sĩ quan và hạ sĩ quan. Lực lượng của địch bị tiêu diệt bao gồm 17 tiểu đoàn bộ binh tinh nhuệ trong đó có 7 tiểu đoàn dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, gần 1 tiểu đoàn công binh, tổng cộng là 21 tiểu đoàn. Nhìn chung trên các chiến trường cả nước thì trong cuộc tấn công Đông Xuân này, quân ta đã tiêu diệt 11 vạn 2 nghìn tên địch, tức là một phần tư toàn bộ lực lượng vũ trang của địch ở Đông Dương, trong số đó có 25 tiểu đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn. Số máy bay oanh tạc, chiến đấu và vận tải, kể cả máy bay oanh tạc B.24 và máy bay vận tải hạng nặng C.119 của Mỹ bị bắn rơi và phá huỷ ở Điện Biên Phủ là 62 chiếc, tính cả các chiến trường cả nước là 177 chiếc, tức là một bộ phận rất quan trọng lực lượng không quân của địch ở Đông Dương. Từ khi đế quốc Pháp trở lại gây chiến tranh xâm lược, chưa bao giờ trong một thời gian tương đối ngắn, quân địch bị một tổn thất nặng nề như vậy. Đối với địch, tổn thất lại nặng nề hơn nữa là ở chỗ đại bộ phận lực lượng bị quân ta tiêu diệt lại bao gồm những sinh lực tinh nhuệ nhất của chúng, tức là các tiểu đoàn quân dù, các tiểu đoàn Âu Phi, mà chúng coi là "mũi nhọn của ngọn giáo", là "quả đấm tấn công", là nòng cốt của khối cơ động chiến lược của Nava. Những thất bại nặng nề nói trên đã làm cho bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp phải kinh hoàng, làm cho tinh thần tướng tá và binh sĩ của chúng đã kém sút lại càng suy sụp nhanh chóng. Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và các chiến dịch Đông Xuân nói chung, chúng ta đã giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn có tính chất quan trọng về chiến lược. Ở Bắc Bộ, sau khi Lai Châu và Điện Biên Phủ được giải phóng, trên toàn bộ khu Tây Bắc của ta lần đầu tiên không còn bóng giặc. Căn cứ địa của cuộc kháng chiến đã được mở rộng, bao gồm toàn bộ miền rừng núi Bắc Bộ, đi từ Việt Bắc đến Tây Bắc, Hòa Bình, lại được nối liền với khu giải phóng rộng lớn của nước bạn ở Thượng Lào. Quân địch lúc đó chỉ còn đóng ở đồng bằng Bắc Bộ. Ở Liên khu 5, vùng tự do của ta mà địch rắp tâm đánh chiếm, nay lại được mở rộng rất nhiều. Một địa bàn quan trọng rộng lớn ở miền Bắc Tây Nguyên chiến lược đã được giải phóng. Thế uy hiếp của địch ở sau lưng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đã bị phá tan. Vùng tự do của ta đi từ bờ biển đến biên giới Việt - Lào, nối liền với khu giải phóng của nước bạn ở Hạ Lào, gây nên một thế uy hiếp mới đối với địch ở miền Nam Đông Dương. Trên các chiến trường sau lưng địch, ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ, các căn cứ du kích và vùng du kích được mở rộng rất nhiều. Hình thái chiếm đóng của địch nhiều nơi đã từ diện biến thành tuyến và điểm. Phạm vi vùng bị tạm chiếm ở đồng bằng Bắc Bộ bị thu hẹp; ba phần tư đất đai vùng sau lưng địch đã được giải phóng. Ở Lào, Quân giải phóng Pathét Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam đã giải phóng tỉnh Phông Xa Lỳ và vùng lưu vực sông Nậm Hu, mở rộng căn cứ địa Thượng Lào. Vùng giải phóng ở Trung Lào và ở Hạ Lào cũng được mở rộng. Trên toàn nước bạn, hơn một nửa đất đai và một nửa dân số đã được giải phóng. Do những thắng lợi lớn lao của quân ta và bạn như trên đã nói, qua cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân của ta mà đỉnh cao nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ, kế hoạch quân sự Nava của đế quốc Pháp - Mỹ đã bị phá sản. Quân địch đã bị tổn thất trầm trọng về sinh lực. Cái gọi là "khối lực lượng cơ động chiến lược" của Nava đã bị tiêu diệt một bộ phận rất quan trọng, bộ phận còn lại thì bị buộc phải phân tán đến mức độ không còn là cơ động nữa. Tinh thần binh sĩ hết sức hoang mang. Lực lượng quân ngụy mới tăng thêm đã tan rã từng mảng lớn. Điều nghiêm trọng hơn nữa đối với địch là: tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân ta đã đánh bại hình thức phòng ngự cao nhất, mạnh nhất của chúng, đặt quân địch trước nguy cơ các hệ thống phòng ngự khác đều yếu hơn Điện Biên Phủ nhiều sẽ tiếp tục sụp đổ. Trong tình hình nguy khốn đó, quân địch đương nhiên không còn nghĩ đến những cuộc tấn công chiến lược đã đề ra trong kế hoạch Nava, càng không thể nghĩ đến khả năng giành lấy những thắng lợi có tính chất quyết định theo như ước tính của bọn hiếu chiến Pháp - Mỹ. Lúc bấy giờ, điều lo lắng lớn nhất của chính phủ Pháp là làm thế nào để bảo toàn cho lực lượng còn lại của quân đội viễn chinh tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt. Trung tuần tháng 5 năm 1954, tướng Êly đến Sài Gòn, mang theo chỉ thị của chính phủ Pháp cho tướng Nava: cần thực hiện thu hẹp ngay phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng Bắc Bộ về vùng "châu thổ có ích", chuẩn bị sẵn sàng khi cần thì có thể tiến hành việc rút quân về miền Nam vĩ tuyến 18. Tinh thần của chỉ thị đó là phải lấy việc giữ gìn lực lượng còn lại của quân đội viễn chinh làm mục tiêu chủ yếu, coi đó là nhiệm vụ ưu tiên. Kế hoạch rút quân của địch đã được tiến hành trong hạ tuần tháng 6 và thượng tuần tháng 7 năm 1954. Quân địch đã rút chạy khỏi thị xã Việt Trì, phân khu Chợ Bến và toàn bộ Liên khu Nam đồng bằng bao gồm các tỉnh và thị xã Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Phát Diệm, Bùi Chu. Trong cuộc rút chạy này, quân địch đã bị quân ta truy kích tiêu diệt một bộ phận. Hàng vạn lính ngụy đã bỏ hàng ngũ quân địch trở về với nhân dân. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:28:28 pm Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và các chiến thắng Đông Xuân nói chung đã mở ra một cục diện chính trị mới, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954. Chiến thắng Điện Biên Phủ đến giữa lúc Hội nghị Giơnevơ năm 1954 sắp họp để bàn về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng đó đã đánh bại âm mưu của bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn can thiệp Mỹ muốn kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược ở Đông Dương và đang tìm cách phá hoại Hội nghị Giơnevơ. Nội các phản động Lanien - Biđôn, từ trước đã nêu lên chủ trương "đánh đến cùng", "quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương", bị đổ. Nội các của phái chủ hòa do Măngđét Phrăng đứng đầu lên thay thế. Mặc dầu đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp vẫn tiếp tục tìm cách phá hoại, sau hơn bảy mươi ngày thương lượng, hội nghị đã thu được kết quả tốt. Đoàn đại biểu nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại hội nghị đã nêu lên lập trường căn bản của nhân dân và Chính phủ ta là: hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, coi đó là nguyện vọng thiết tha và quyền lợi chính đáng mà nhân dân Việt Nam quyết hy sinh phấn đấu đến cùng để thực hiện. Dựa vào khối đoàn kết chiến đấu của toàn dân ta, có các chiến thắng Đông Xuân nhất là chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại làm hậu thuẫn, dựa vào sự đoàn kết của nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào, được sự ủng hộ hết lòng của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhân dân ta đã giành được thắng lợi lớn về ngoại giao. Hiệp nghị Giơnevơ được ký kết ngày 21 tháng 7 năm 1954, hòa bình được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam và hai nước bạn Campuchia và Lào. Sau gần 100 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, sau tám, chín năm kháng chiến anh dũng và gian khổ của toàn dân ta, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Những điều khoản chính trị nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do cũng được quy định. Thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta và của nhân dân thế giới đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, là một thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và thực dân hiếu chiến Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và chiến thắng Đông Xuân nói chung đã có ảnh hưởng rộng lớn trên thế giới. Trong khi bọn đế quốc hiếu chiến hoang mang, thất vọng thì các tin chiến thắng của quân và dân ta trên các chiến trường cả nước, đặc biệt là tin chiến thắng Điện Biên Phủ, đã làm nức lòng nhân dân tiến bộ toàn thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ không những là thắng lợi to lớn của nhân dân ta mà còn được các nước xã hội chủ nghĩa anh em coi như thắng lợi của bản thân mình. Điện Biên Phủ được coi là thắng lợi to lớn của các dân tộc nhỏ yếu đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành tự do và độc lập. Điện Biên Phủ đã trở nên niềm tự hào của các dân tộc bị áp bức, là một cống hiến lớn lao của nhân dân ta vào cao trào giải phóng dân tộc đang dâng lên mạnh mẽ từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, báo hiệu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sắp sụp đổ. Điện Biên Phủ còn là thắng lợi to lớn của các lực lượng hòa bình trên thế giới. Không có thắng lợi Điện Biên Phủ thì chắc chắn Hội nghị Giơnevơ không thu được kết quả, hòa bình không được lập lại ở Đông Dương. Điều đó càng chứng tỏ rằng, chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng và nói chung thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân ta, thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc thực dân dưới mọi hình thức, có tác dụng cực kỳ quan trọng làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, làm thất bại âm mưu xâm lược và gây chiến của chúng, góp phần trọng đại vào việc bảo vệ hòa bình trên thế giới. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:30:22 pm * * * Chiến thắng Điện Biên Phủ và nói chung các chiến thắng Đông Xuân rất vĩ đại. Qua các chương đã trình bày ở trên, chúng ta đều nhận rõ rằng nhân tố chủ yếu nhất, cơ bản nhất của thắng lợi đó là đường lối chính trị và quân sự đúng đắn của Đảng ta đứng đầu là Hồ Chủ tịch, là sự chỉ đạo chiến lược và chiến dịch đúng đắn và sáng tạo trong Đông Xuân 1953-1954. Đường lối đó là đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào thực tiễn cụ thể của cách mạng nước ta; là đường lối chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân và toàn diện, áp dụng vào điều kiện cụ thể cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng ở nước ta. Đường lối đó thấm nhuần những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang cách mạng, phát huy những truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc của dân tộc ta, kết hợp kinh nghiệm quý báu của Hồng quân Liên Xô và của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc với kinh nghiệm của bản thân ta, căn cứ vào điều kiện cụ thể cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng ở nước ta mà vận dụng một cách sáng tạo. Chúng ta còn nhớ, vào mùa Hè năm 1953, nhân dân ta đang đứng trước những khó khăn mới rất lớn. Thực dân Pháp được can thiệp Mỹ tăng cường viện trợ, đang ra sức thực hiện kế hoạch tiếp tục và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương. Trong một thời gian ngắn, quân địch đã tăng cường lực lượng khá nhanh, tập trung một khối cơ động chiến lược khá lớn, liên tiếp mở những cuộc hành binh nhằm "bình định" vùng tạm chiếm, giành giật sức người sức của với ta một cách quyết liệt, đồng thời uy hiếp vùng tự do của ta, hòng nhanh chóng tiến lên giành lại quyền chủ động chiến lược. Đứng trước âm mưu thâm độc của một kẻ địch có kinh nghiệm và hung ác như vậy, với kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng và lãnh đạo đấu tranh vũ trang đã tích lũy từ lâu, với tinh thần triệt để cách mạng của một đảng tiên phong, với quyết tâm tiêu diệt quân địch, đưa kháng chiến đến thắng lợi, Trung ương Đảng ta đã phân tích tình hình một cách khách quan và khoa học, đánh giá đúng kẻ địch, nhận rõ những mâu thuẫn nội tại của chúng, thấy chỗ mạnh của chúng đồng thời cũng thấy chỗ yếu của chúng, thấy khó khăn của ta đồng thời cũng thấy hết khả năng chiến đấu to lớn của lực lượng vũ trang và nhân dân ta. Trung ương Đảng ta đã đề ra phương hướng chiến lược chính xác là tập trung lực lượng đánh vào những nơi quan trọng mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, đồng thời buộc chúng phải phân tán lực lượng để đối phó với ta trên những hướng xung yếu mà chúng không thể bỏ, tạo điều kiện mới để tiêu diệt thêm sinh lực của địch. Sự chỉ đạo chiến lược tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt đó đã phá vỡ từng bước khối cơ động chiến lược của Nava và đưa các chiến dịch tấn công Đông Xuân của ta trên khắp các chiến trường cả nước đi đến những thắng lợi to lớn. Đến khi chủ lực của địch đã bị phân tán khắp nơi, một bộ phận tinh nhuệ nhất lại được tập trung ở Điện Biên Phủ, thì Trung ương Đảng ta đã phân tích một cách toàn diện cục diện chiến sự cả nước, phân tích đúng đắn những chỗ mạnh rất lớn và những điểm yếu cũng rất căn bản của địch ở Điện Biên Phủ. Với một lòng tin tưởng mãnh liệt vào khả năng chiến đấu và sáng tạo của lực lượng vũ trang nhân dân và của nhân dân ta, Trung ương đã hạ quyết tâm chiến lược: tập trung toàn lực tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Quyết tâm chiến lược sáng suốt và anh dũng đó cũng như sự chỉ đạo chiến dịch đúng đắn và sáng tạo trong chiến dịch lịch sử này đã đưa lực lượng vũ trang và nhân dân ta đến những thắng lợi vĩ đại. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:31:10 pm Nhân tố quyết định thứ hai của chiến thắng Điện Biên Phủ và nói chung của các chiến thắng Đông Xuân là tinh thần quyết chiến quyết thắng, tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và nói chung trong các chiến dịch Đông Xuân là sức mạnh vô cùng tận của quần chúng nhân dân, nhất là quần chúng nhân dân lao khổ khi đã thấm nhuần đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, khi đã vùng lên chiến đấu vì những nguyện vọng cơ bản và tha thiết nhất của mình, vì độc lập cho Tổ quốc, vì ruộng đất cho dân cày, để mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta kế tục và phát triển truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta, là tinh thần quật cường và tài mưu lược của một dân tộc dân không đông lắm, đất không rộng lắm, đã có mấy nghìn năm lịch sử đoàn kết chống ngoại xâm, đã từng đánh thắng những đội quân xâm lược đông hơn gấp nhiều lần. Đó là tinh thần yêu nước của một dân tộc đã từng lập nên những chiến công lừng lẫy: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa... Đó là chí khí anh hùng của một quân đội cách mạng non trẻ, đem sức mạnh của chính nghĩa, của khối đoàn kết toàn dân mà chống lại quân đội hùng mạnh của một nước đế quốc xâm lược. Tinh thần đó cũng tức là tinh thần triệt để cách mạng của giai cấp vô sản mà Đảng ta đã dày công giáo dục cho quân đội, là quyết tâm cao độ đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai, là tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi gian khổ, là chủ nghĩa anh hùng cách mạng đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc, của cách mạng lên trên hết, sẵn sàng hy sinh tất cả vì lợi ích của cách mạng. Tinh thần đó đã được hun đúc rèn luyện trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài của nhân dân ta. Đặc biệt trong Đông Xuân 1953-1954, chính sách phát động quần chúng triệt để giảm tô thực hiện cải cách ruộng đất đã có một tác dụng lớn lao, nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ giai cấp, và nâng cao tinh thần tích cực cách mạng của nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân ta. Trong quân đội, sau nhiều đợt chỉnh huấn chính trị về mục tiêu đấu tranh của cách mạng dân tộc dân chủ và nhiệm vụ quân đội nhân dân, đặc biệt là sau cuộc chỉnh quân chính trị về chính sách cải cách ruộng đất, cán bộ và chiến sĩ của ta mà tuyệt đại đa số xuất thân là nông dân đã củng cố thêm một bước lập trường giai cấp, nâng cao thêm một bước tinh thần tích cực diệt địch, ai nấy đều hăng hái xông ra mặt trận với một khí thế cách mạng rất cao, xung phong nhận những nhiệm vụ khó khăn nhất, sẵn sàng triệt để chấp hành mệnh lệnh tiêu diệt quân địch, giành lấy thắng lợi. Với một khí thế như vậy, không có một khó khăn nào mà quân ta không vượt qua, không có kẻ địch nào mà quân ta không tiêu diệt được, không có nhiệm vụ nào mà quân ta không hoàn thành được. Dựa vào máy bay, xe tăng, đại bác, với sự tính toán hết sức chủ quan, chúng cho rằng quân ta không thể mở đường được, không thể kéo pháo vào trận địa được. Trái với ước lượng của chúng, quân ta đã làm được việc đó. Cậy có binh lực lớn, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, trận địa kiên cố, địa hình bằng phẳng có thể lợi dụng được, chúng cho rằng quân ta không thể nào tiếp cận được mà không khỏi bị tiêu diệt, không thể nào đánh được các trung tâm đề kháng của chúng, càng không có khả năng tiến hành một cuộc chiến đấu liên tục cả ngày lẫn đêm nhằm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng. Trái với dự đoán của chúng, những việc mà chúng cho là không thể làm được, quân ta đã làm được. Quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trong cuộc chiến đấu vĩ đại trên mặt trận Điện Biên Phủ cũng như trên các chiến trường cả nước trong Đông Xuân 1953-1954, lực lượng vũ trang nhân dân ta đã nêu biết bao nhiêu tấm gương hy sinh chiến đấu, mãi mãi tiêu biểu cho truyền thống tốt đẹp của quân đội ta. Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng. Hoàng Văn Nô, người dũng sĩ đâm lê, đã liên tiếp đâm chết nhiều tên địch, cho đến khi bị tử thương mà còn ở trong tư thế hiên ngang diệt địch. Tô Vĩnh Diện đã không chút do dự hy sinh tính mệnh để bảo vệ pháo. Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai. Đó là những chiến sĩ quân báo một mình dùng mưu trí bắt sống nhiều địch, những chiến sĩ lái xe bị thương không rời tay lái, những chiến sĩ công binh vật lộn với bom chờ nổ, những chiến sĩ quân y, vận tải lăn mình trong khói lửa để chuyển đạn, tải thương, những chiến sĩ thông tin quên mình để bảo vệ đường dây liên lạc, v.v... và biết bao nhiêu tấm gương chói lọi không sao kể xiết. Đó là những đơn vị ở mặt trận Điện Biên Phủ cũng như ở các mặt trận phối hợp, dù là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương hoặc dân quân du kích, tất cả đều đã khắc phục không biết bao nhiêu gian khổ, khó khăn và đều đã lập nên những chiến công rực rỡ, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch. Nhân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ và nói chung trong các chiến dịch Đông Xuân đã nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, hết lòng phục vụ tiền tuyến, đoàn kết chiến đấu bên cạnh bộ đội, thực hiện khẩu hiệu "Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng". Tại khắp nơi trong nước, ở chiến trường chính cũng như ở các chiến trường phối hợp, ở vùng tự do cũng như ở vùng sau lưng địch, nhân dân ta đã dồn sức người sức của cho các mặt trận. Ở mặt trận Điện Biên Phủ, để khắc phục những khó khăn rất lớn về cung cấp cho một chiến dịch quy mô lớn, thời gian dài, với một binh lực lớn, trên một chiến trường rừng núi xa hậu phương hàng trăm kilômét, nhân dân ta đã có một tinh thần anh dũng và đoàn kết chiến đấu với quân đội rất cao. Nhân dân ta đã làm được một việc vĩ đại hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng của địch. Bom đạn của máy bay địch, gian khổ của đường dài, không ngăn cản được bước tiến của các đoàn dân công, các đoàn vận tải trên khắp các đường lớn, đường con, dòng sông, dòng suối, ngày đêm đưa lương thực, đạn dược đến Điện Biên Phủ cho bộ đội đánh giặc. Biết bao nhiêu tấm gương hy sinh chiến đấu, vượt qua gian khổ, khắc phục khó khăn đáng kính phục đã xuất hiện. Nhân dân vùng Tây Bắc mới giải phóng, còn nghèo khổ, đã hăng hái góp phần lương thực còn lại cho bộ đội. Những đoàn xe đạp thồ đã nâng mức trọng tải mỗi xe lên tới hàng tạ, có khi đến ba tạ. Dân công chở thuyền, mảng trên sông phần nhiều là phụ nữ đã vượt qua biết bao nhiêu dòng nước xiết, khắc phục biết bao nhiêu ghềnh thác hiểm nghèo. Tại tuyến lửa, nhân dân đã chiến đấu sát cánh với bộ đội, lăn mình trong khói lửa tải đạn, tải thương binh. Tại các bệnh viện, trên đường tải thương, nhân dân đã săn sóc úy lạo thương binh như con em ruột thịt. Trên các tuyến đường, nhân dân đã ngày đêm lăn lộn làm đường, sửa đường dưới sự uy hiếp của máy bay địch, ngay trên những quả bom chờ nổ. Nhân dân ta không những cung cấp cho bộ đội mọi nhu cầu chiến đấu và chiến đấu bên cạnh bộ đội mà còn chăm lo cho bộ đội từ cái kim, sợi chỉ, miếng quà, tấm bánh, gửi hàng nghìn bức thư cổ vũ, thăm hỏi chiến sĩ, gửi đến cho chiến sĩ cả tấm lòng thương yêu đùm bọc của toàn dân, truyền cho chiến sĩ cả nhiệt tình của hàng triệu nông dân đang phấn khởi sôi nổi tiến hành công cuộc cải cách ruộng đất. Tinh thần đoàn kết chiến đấu, tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng rõ ràng là nhân tố quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như của các chiến dịch Đông Xuân. Điều đó chứng minh rằng truyền thống yêu nước lâu đời của dân tộc khi đã được phát huy mạnh mẽ và tư tưởng cách mạng, đường lối cách mạng, khi đã đi sâu vào quần chúng nhân dân thì trở nên một sức mạnh vật chất vĩ đại, vô địch. Điều đó càng chứng minh rằng hậu phương vững chắc là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi trong cuộc chiến tranh cách mạng. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:32:33 pm Nhân tố thứ ba quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như của các chiến dịch Đông Xuân là sự phối hợp chặt chẽ của Quân giải phóng Pathét Lào, sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân nước bạn đối với bộ đội tình nguyện ta, là sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Trong suốt mấy năm kháng chiến, nhất là trong Đông Xuân 1953-1954, đứng trước âm mưu xâm lược của kẻ thù chung, Quân giải phóng Pathét Lào đã đồng cam cộng khổ, sát cánh chiến đấu với quân tình nguyện ta, nhờ đó mà đã đưa lại thắng lợi lớn cho hai dân tộc. Nhân dân Lào đã hết lòng ủng hộ các đơn vị bộ đội tình nguyện, thương yêu như con em của mình. Nhân dân các nước Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đã coi cuộc chiến đấu của lực lượng vũ trang và nhân dân ta như tiền tuyến chống chủ nghĩa đế quốc của cả phe xã hội chủ nghĩa, đã theo dõi hằng ngày tình hình chiến sự trên mặt trận Điện Biên Phủ, đã kịch liệt lên án những âm mưu và hành động kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Pháp - Mỹ, hết lòng ủng hộ và cổ vũ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Ở đây, một lần nữa, cần nhắc đến tác dụng hết sức to lớn của những kinh nghiệm về đấu tranh vũ trang của nhân dân Liên Xô và nhân dân Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của ta. Trong khi cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung đi đến bước quyết liệt, với một tinh thần quốc tế chủ nghĩa cao cả, nhân dân Pháp và Đảng Cộng sản Pháp đã ra sức ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, đẩy mạnh cuộc đấu tranh anh dũng đòi chấm dứt cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" ở Đông Dương, chống lại chính sách xâm lược của thực dân hiếu chiến Pháp. Nhân dân các dân tộc bị áp bức, nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới cũng theo dõi cuộc chiến đấu của nhân dân ta, nhất là cuộc chiến đấu trên mặt trận Điện Biên Phủ, với một sự đồng tình sâu sắc, với một lòng ủng hộ nhiệt liệt, coi thắng lợi Điện Biên Phủ như thắng lợi của bản thân mình. Chúng ta rất coi trọng sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng hòa bình, dân tộc độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta và coi đó là một nhân tố rất quan trọng đã đưa chúng ta đến thắng lợi. Trên đây là những nhân tố quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại và nói chung của các chiến thắng Đông Xuân. Đứng về phía thực dân xâm lược Pháp, sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, quân đội viễn chinh bị thất bại thảm hại, kế hoạch quân sự Nava bị phá sản hoàn toàn, thì từ các nhà quân sự có tên tuổi cho đến các chính khách, các nhà văn, nhà báo, người ta đã viết rất nhiều về Điện Biên Phủ và đã nêu lên nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân thất bại, kẻ thì quy trách nhiệm cho chính phủ Pháp, kẻ thì quy trách nhiệm cho tướng Nava. Cuộc tranh luận sôi nổi đó đến nay vẫn chưa chấm dứt. Chúng ta đều biết rằng lúc đầu, khi tướng Nava quyết định đánh chiếm Điện Biên Phủ để ứng cứu cho Lai Châu, bảo vệ Thượng Lào, thì từ các nhà chiến lược cho đến các chính khách lớn nhỏ, kể cả các giới chính trị và quân sự của Mỹ, đều hết sức tán dương và ca ngợi. Chính tướng Cônhi cũng coi việc đánh chiếm Điện Biên Phủ là một cuộc hành binh rất đúng lúc và đúng nơi, lại còn nói thêm rằng nếu có quyền quyết định và có đủ khả năng thì từ trước đã chuyển toàn bộ tập đoàn cứ điểm Nà Sản lên Điện Biên Phủ. Còn tướng Xalăng thì cho rằng "đánh chiếm Điện Biên Phủ là cần thiết". Ngay thủ tướng Pháp Lanien, tuy không trực tiếp quyết định việc này, nhưng khi nhận được báo cáo thì không những hết sức tán thành mà còn cho rằng "quyết định chủ động của tướng Nava không hề bị một chuyên gia quân sự nào kể cả ở Pháp và ở nước ngoài chê trách cả". Sau khi tướng Nava hạ quyết tâm chiến lược ngày 3 tháng 12 năm 1953 "phòng giữ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào" và "tiếp nhận chiến đấu" với chủ lực ta nhằm gây cho chủ lực ta một tổn thất nặng nề, thì một lần nữa từ các tướng tá cho đến các chính khách Pháp - Mỹ cũng đều nhất trí nhận định rằng, "tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một pháo đài không thể công phá". Tướng Nava và các bộ hạ của y như Cônhi, Đờ Cát, đều cho rằng Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Pháp Plêven, bộ trưởng Bộ Quốc gia liên kết Mắc Giắckê, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp tướng Êly cũng đều đã đích thân đến Điện Biên Phủ để quan sát tại chỗ hệ thống phòng ngự vững chãi của tập đoàn cứ điểm và ai nấy đều tin tưởng chiến trường này quả là chiến trường lý tưởng được chuẩn bị hết sức chu đáo để tiêu diệt chủ lực của ta. Tướng Ô Đanien, tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, cũng đều chung một ý kiến. Mãi đến hạ tuần tháng 12, khi có tin đại bộ phận chủ lực của ta tiếp tục tiến quân về hướng Điện Biên Phủ, bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh mới bắt đầu lo lắng, cho rằng, nếu xảy ra cuộc giao chiến thì "chưa chắc bảo đảm thắng lợi một trăm phần trăm". Tuy nhiên, các tướng tá Pháp - Mỹ chưa đánh giá hết nguy cơ lớn đang đe dọa tập đoàn cứ điểm. Lúc bấy giờ, cũng có ý kiến nên rút khỏi Điện Biên Phủ, nhưng cả tướng Nava và tướng Cônhi đều cho rằng, cần phải "kiên trì phòng giữ căn cứ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào", nếu rút Điện Biên Phủ thì sẽ "tổn thương đến tinh thần của bộ đội đồn trú đang phấn chấn trước viễn cảnh của một trận phòng ngự thắng lợi". Còn đại tá Đờ Cát thì từ chỗ "kiên quyết phải kéo đối phương xuống thung lũng này" để tiêu diệt, đi đến chỗ không thật tin tưởng lắm, cho rằng, "trận đánh sẽ gay go, nhưng nếu được tăng cường hai, ba tiểu đoàn dự bị thì sẽ giữ vững trận địa". Nhưng thời gian kéo dài, quân địch vẫn không thấy quân ta mở cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm, mà lại có những cuộc hành binh lớn về phía Thượng Lào. Tướng Nava cho rằng "ngọn trào tấn công" của đổi phương đã chấm dứt. Do nhận định như vậy, nên Nava đã mang một bộ phận chủ lực tiếp tục chiến dịch Átlăng ở miền Nam. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:33:08 pm Trong thời gian Điện Biên Phủ bị quân ta tấn công, thì bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh đã từng có nhiều dự định, tuy rốt cuộc không được thực hiện, nhưng mãi đến nay họ vẫn chưa đánh giá được những dự định ấy nếu được thực hiện thì sẽ đưa đến những kết quả thế nào, thành công hay thất bại. Quân địch đã từng có dự định đánh lên Thái Nguyên hay Tuyên Quang, Yên Bái, để cắt đứt đường giao thông tiếp tế của ta. Chúng ta có thể khẳng định rằng nếu quân địch mở một cuộc hành binh lên hướng đó thì không những không phá được giao thông tiếp tế của ta, mà chắc chắn bị bộ phận chủ lực của quân ta giấu kín ở đó nắm ngay thời cơ mà gây cho chúng những tổn thất nặng nề. Quân địch đã từng có dự định rút quân khỏi Điện Biên Phủ bằng đường hàng không. Việc này nếu làm sớm thì có thể quân địch chỉ bị quân ta tiêu diệt một bộ phận; nhưng từ hạ tuần tháng 12 trở đi, chủ lực ta đã tập trung ở xung quanh Điện Biên Phủ, luôn luôn bám sát địch, nếu địch rút quân thì chắc chắn bị thiệt hại nặng. Đến lúc quân địch ở Điện Biên Phủ đã lâm vào tình trạng nguy khốn, thì địch đã từng có dự định đột phá vòng vây rút về phía Thượng Lào. Nếu dự định này được thực hiện thì chắc chắn toàn bộ sinh lực của địch sẽ bị tiêu diệt sạch trong những trận chiến đấu quyết liệt vì quân ta đã kiểm soát tất cả các con đường lớn, nhỏ đưa đến biên giới Việt - Lào; dù quân địch lúc đầu có chạy thoát được một bộ phận thì trên chiến trường rừng núi Thượng Lào ở gần Điện Biên Phủ chúng cũng nhất định bị tiêu diệt. Cũng đã có lúc theo đề nghị của chính phủ Lanien - Biđôn, bọn hiếu chiến Mỹ như bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đalét, tham mưu trưởng lục quân Mỹ, tướng Rátpho, muốn lợi dụng dịp hiếm có này đưa máy bay oanh tạc hạng nặng của Mỹ can thiệp vào Đông Dương để cứu nguy cho Điện Biên Phủ. Chúng ta có thể nói rằng, nếu bọn hiếu chiến Mỹ thực hiện kế hoạch tăng cường can thiệp của chúng thì khó khăn của chúng ta có thể tăng thêm, nhưng chung quy cũng không thể cứu vãn được tình thế của quân đội viễn chinh, không thể cứu nguy được cho Điện Biên Phủ, v.v... Chính các giới chính trị và quân sự ở Mỹ cũng đã thấy điều đó; không những họ lo ngại trước dư luận phản đối của nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, mà họ càng không dám tái diễn ở Đông Dương một cuộc chiến tranh Triều Tiên thứ hai. Vì vậy mà chính Aixenhao cũng phải tuyên bố không đồng tình với việc tăng cường can thiệp đó, cho rằng, nếu làm như vậy thì không những sẽ là một "tấn bi kịch" cho nước Mỹ mà "còn có thể dẫn đến chiến tranh ở Đông Dương hoặc Đông Nam Á". Sớcsin, lúc đó là thủ tướng Anh cũng nói thẳng là, "không nên can thiệp" vì "can thiệp là sai lầm về chiến lược", lại nói rằng, "chỉ có Giơnevơ mới là khả năng tốt nhất". Trong cuộc bình luận về "tài thao lược" của tướng Nava sau khi trận đánh đã kết thúc, những ý kiến tương đối xác đáng về quân sự của các nhà "Gia Cát Lượng" tư sản là: tướng Nava cho quân nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ là có thể hiểu được, nhưng quyết định chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết chiến chiến lược với chủ lực của ta là sai, sai ở chỗ đánh giá quá cao lực lượng của mình, đánh giá quá thấp lực lượng của đối phương. Hoặc giả, họ còn cho rằng, trong lúc đã quyết định tập trung bộ đội tinh nhuệ ở Điện Biên Phủ để quyết chiến với ta mà lại còn mang một bộ phận chủ lực mở chiến dịch Átlăng, dùng binh như vậy là phạm sai lầm về chiến lược, vì làm như vậy tức là phân tán chủ lực, một điều mà tướng Nava lúc nào cũng tuyên bố là hết sức tránh. Những ý kiến trên đây là xác đáng, nhưng sau khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị tiêu diệt thì những ý kiến ấy không phải là những cao kiến ghê gớm gì mà đó chỉ là sự thật hai năm rõ mười, bất cứ một ai cũng đều thấy cả. Vấn đề là ở chỗ, nếu các nhà "Gia Cát Lượng" nói trên ở vào địa vị của tướng Nava thì liệu họ có thoát khỏi cách nhìn nhận vấn đề theo chiến tranh cổ điển, theo quan điểm chiến lược tư sản, liệu họ có thấy hết những khả năng to lớn của các lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến tranh cách mạng, của cả một dân tộc có truyền thống quật cường bất khuất, có đường lối cách mạng và kháng chiến đúng đắn, đang đứng dậy chiến đấu để tự giải phóng hay không? Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp ở Đông Dương đã kéo dài tám, chín năm. Mặc dầu quân địch đã ra sức tăng cường lực lượng đến gần nửa triệu quân, hy sinh hàng chục vạn binh sĩ, bỏ vào cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" đến 2.688 tỷ tiền Pháp, tốn không biết bao nhiêu của cải, đổ không biết bao nhiêu máu của nhân dân Pháp, 20 nội các lần lượt thay thế nhau ở Pháp; 7 cao ủy, 8 tổng chỉ huy lần lượt thay thế nhau ở Đông Dương, cuộc chiến tranh xâm lược vẫn ngày càng nguy khốn, đi từ thất bại này đến thất bại khác, từ sai lầm chiến lược này đến sai lầm chiến lược khác, cuối cùng đưa đến thất bại thảm hại trên mặt trận Điện Biên Phủ. Đó là vì cuộc chiến tranh của thực dân Pháp là chiến tranh phi chính nghĩa. Cuộc chiến tranh đó đã vấp phải tinh thần đấu tranh bất khuất của cả một dân tộc. Cho nên, không có một tướng soái tài giỏi nào, dù là Lơcléc, Tátxinhi, Nava hay một người nào khác, có thể cứu thoát quân đội viễn chinh khỏi thất bại. Cũng không có một sức mạnh vũ khí nào, dù là đại bác, xe tăng, hay máy bay oanh tạc hạng nặng, kể cả bom nguyên tử của đế quốc Mỹ nữa, có thể cứu vãn được tình thế. Nói cho đến cùng, nếu trong Thu Đông năm 1953, quân địch không nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ hoặc đánh chiếm rồi rút quân, không chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến với ta, thì sớm hay muộn một trận Điện Biên Phủ cũng sẽ diễn ra, dù thời gian và địa điểm có thể khác; và rốt cuộc, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp - Mỹ cũng nhất định đi đến thất bại nhục nhã. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:34:02 pm * * * Với chiến thắng Điện Biên Phủ, với các chiến thắng Đông Xuân nói chung, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ đã thu được thắng lợi vĩ đại. Thắng lợi to lớn của nhân dân ta trên mặt trận Điện Biên Phủ và ở Hội nghị Giơnevơ đã chứng minh một cách hùng hồn đường lối đúng đắn của Đảng ta trong cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ của dân tộc. Có cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ, mới có Điện Biên Phủ, mới có các chiến thắng Đông Xuân. Cho nên nói đến những nhân tố thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, của các chiến dịch Đông Xuân và muốn nhận thức sâu sắc những nhân tố đó, chúng ta không thể không nói đến những nhân tố chủ yếu đã quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến của toàn dân. Có thắng lợi của kháng chiến, của Điện Biên Phủ, trước hết là do chủ trương kiên quyết kháng chiến của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Dân tộc ta hết sức yêu chuộng hòa bình, Đảng và Chính phủ ta đã hết sức kiên trì chính sách hòa bình. Nhưng thực dân Pháp nhất định cướp nước ta gây ra chiến tranh xâm lược. Đứng trước hành động xâm lược phi chính nghĩa của địch, nhân dân ta chỉ có con đường sống còn duy nhất là đem chiến tranh giải phóng, chính nghĩa của toàn dân chống lại chiến tranh xâm lược, phi chính nghĩa của đế quốc, đem bạo lực cách mạng của nhân dân chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ địch. Chủ trương kiên quyết kháng chiến của Đảng ta là con đường duy nhất để bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Và chỉ sau khi lực lượng kháng chiến của nhân dân ta đã lớn mạnh, đủ sức giáng cho quân địch một đòn nặng nề trên mặt trận Điện Biên Phủ thì chúng mới chịu nhả bỏ những đặc quyền đặc lợi của chúng, buộc phải thừa nhận những quyền lợi chính đáng của nhân dân và dân tộc ta, và mới có thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954. Một sự thật đã trở thành quy luật là, bọn đế quốc không bao giờ tự nguyện rút lui, nếu nhân dân không dùng mọi hình thức đấu tranh cách mạng để kiên quyết và bền bỉ chống lại chúng, làm thất bại âm mưu gây chiến và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng. Có thắng lợi của kháng chiến, của Điện Biên Phủ, là do Đảng ta đã nắm vững đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của chủ nghĩa Mác – Lênin. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chính là tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ dưới hình thức đấu tranh vũ trang. Đế quốc Pháp trở lại xâm lược nước ta. Trong tình hình đó, nhân tố dân tộc có một vị trí quan trọng bậc nhất. Đảng ta lại nhận định rằng, cách mạng dân tộc giải phóng triệt để phải có nội dung dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong phải kết hợp với nhau hết sức mật thiết. Đó là vì chủ nghĩa đế quốc đã câu kết với giai cấp địa chủ phong kiến để chống lại nhân dân ta. Đó là vì nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng cách mạng đông đảo nhất. Đảng ta đã coi trọng vấn đề nông dân, không những vì nông dân là một lực lượng to lớn trong đội quân chủ lực của cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, mà còn là cơ sở để giải quyết một loạt vấn đề: xây dựng chính quyền cách mạng, căn cứ địa cách mạng ở nông thôn, phát động chiến tranh nhân dân, tiến hành chiến tranh du kích lâu dài, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, v.v. Dưới khẩu hiệu vì độc lập cho Tổ quốc, vì ruộng đất cho nông dân, Đảng ta đã động viên toàn dân, trước hết là quần chúng công nông cơ bản đã đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các phần tử yêu nước, đoàn kết các dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở công nông liên minh. Đường lối chính trị đúng đắn đó đã động viên được lực lượng to lớn của toàn dân tham gia cuộc chiến tranh giải phóng. Chính dựa trên đường lối đó mà Đảng ta đã thành công trong việc phát động chiến tranh nhân dân, trong việc củng cố và mở rộng hậu phương của cuộc kháng chiến, trong sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng lớn mạnh, huy động sức người, sức của của nhân dân yêu nước, thực hiện khẩu hiệu "Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng". Cả nước đổ ra mặt trận, tinh thần quyết chiến quyết thắng của lực lượng vũ trang nhân dân và nhân dân ta trên các chiến trường cả nước, nhất là trên mặt trận Điện Biên Phủ, càng chứng minh đường lối chính trị đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta. Có thắng lợi của kháng chiến, của Điện Biên Phủ, đó là do Đảng ta có đường lối quân sự đúng đắn. Như trên đã nói, đó là đường lối quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng vào thực tiễn cụ thể của chiến tranh cách mạng ở một nước thuộc địa và nửa phong kiến, phải chiến đấu chống một kẻ địch mạnh về số lượng, về vũ khí và trang bị, trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Đó cũng là sự phát triển rất phong phú của truyền thống bất khuất và mưu lược của tổ tiên ta dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta đã vận dụng tài tình và sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân, tiến hành chiến tranh cách mạng toàn dân và toàn diện, thực hiện động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Đảng ta đã có đường lối chiến lược đúng đắn, nhận định rằng, cuộc kháng chiến của ta phải lâu dài gian khổ, dựa vào sức mình là chính nhưng nhất định thắng lợi; lực lượng vũ trang của nhân dân phải gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; phương châm tác chiến phải đi từ chiến tranh du kích tiến dần lên chiến tranh chính quy, từ đánh du kích tiến dần lên đánh vận động và đánh công kiên, luôn luôn kết hợp chặt chẽ và linh hoạt các hình thức tác chiến đó. Thực tiễn của cuộc kháng chiến đã chứng minh sự thành công rực rỡ của đường lối quân sự đúng đắn của Đảng. Lực lượng vũ trang của nhân dân ta, trong khói lửa của chiến đấu, đã lớn mạnh không ngừng, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ những thắng lợi lúc đầu còn nhỏ đến những thắng lợi ngày càng to lớn. Thắng lợi của các chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, đặc biệt là của chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại, là một mẫu mực lãnh đạo chiến tranh và chỉ đạo chiến lược và tác chiến theo đường lối quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin, là một thành công cực kỳ to lớn của đường lối đó. Thắng lợi của cuộc kháng chiến, của Điện Biên Phủ không thể tách rời những điều kiện thuận lợi trong sự phát triển của tình hình quốc tế. Đảng ta luôn luôn coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Sự phát triển của tình hình thế giới luôn luôn có ảnh hưởng đến cách mạng nước ta. Từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai, so sánh lực lượng trên thế giới giữa cách mạng và phản cách mạng đã không ngừng biến chuyển có lợi cho nhân dân cách mạng, không có lợi cho bọn phản cách mạng. Tiếp theo thắng lợi vĩ đại của Hồng quân Liên Xô đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức - Nhật, thắng lợi vĩ đại của cách mạng Trung Quốc đã làm cho so sánh lực lượng nói trên thay đổi về căn bản, lực lượng cách mạng đã mạnh hơn hẳn lực lượng phản cách mạng. Một cao trào cách mạng mới xuất hiện, trong đó hệ thống xã hội chủ nghĩa là trung tâm đang ngày càng vững mạnh và phát huy tác dụng quyết định của mình đối với phương hướng phát triển của xã hội loài người; phong trào giải phóng dân tộc đã trở nên trào lưu cách mạng vô cùng mạnh mẽ, làm sụp đổ từng mảng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc; phong trào cách mạng ở các nước tư bản đang đấu tranh để giành dân chủ, tiến bộ xã hội và bảo vệ hòa bình thế giới, chuẩn bị tiến lên đánh đổ chủ nghĩa tư bản, làm cách mạng xã hội. Trong điều kiện so sánh lực lượng trên thế giới đã thay đổi có lợi cho cách mạng, rõ ràng đã xuất hiện thời kỳ mà các lực lượng cách mạng đang tiến hành chiến lược tấn công, tập trung mũi nhọn của cuộc đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược và gây chiến đứng đầu là đế quốc Mỹ. Chiến lược tấn công đó hiện đang nhằm khâu yếu nhất của trận địa đế quốc chủ nghĩa tức là khu vực châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh mà đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc, giành thắng lợi cho sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã được tiến hành trong tình hình quốc tế thuận lợi nói trên. Đảng ta và nhân dân ta đã căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta mà tiến hành chiến lược tấn công chống chủ nghĩa đế quốc dưới hình thức đấu tranh vũ trang và chúng ta đã thành công rực rỡ. Cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân ta mà đỉnh cao nhất là Điện Biên Phủ đã chứng minh hùng hồn một chân lý của thời đại là: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ, khi đã đoàn kết đứng dậy, theo một đường lối đúng đắn, kiên quyết chiến đấu cho độc lập và hòa bình, thì có đầy đủ khả năng để chiến thắng quân đội xâm lược của bọn đế quốc thực dân hung hãn nhất. Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc thực dân nhất định thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:34:54 pm * * * Từ chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, từ ngày hòa bình lập lại đến nay đã được mười năm. Trong mười năm qua trên đất nước thân yêu của chúng ta đã diễn ra biết bao nhiêu sự đổi thay to lớn. Trên miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân ta đã đi vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã đi đúng con đường đã được Đảng ta vạch ra từ năm 1930, tiến từ cách mạng dân tộc dân chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Có sự chuyển biến lớn lao đó là do kết quả của cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và quyết liệt chống chủ nghĩa đế quốc và tay sai, đánh đổ được ách thống trị của bọn đế quốc thực dân và của giai cấp địa chủ phong kiến. Bằng một quá trình cách mạng không ngừng, chính quyền dân chủ nhân dân, trước đây về bản chất là một chính quyền chuyên chính công nông, đã tiến lên làm nhiệm vụ chuyên chính vô sản. Chính trong điều kiện nhà nước chuyên chính vô sản đã được thiết lập, mà chúng ta đã tiến hành nhanh chóng công cuộc khôi phục kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất, sau đó lại tiến hành thắng lợi công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nông dân lao động thật sự làm chủ nông thôn, đã tự nguyện tiến lên con đường làm ăn tập thể, con đường hợp tác hóa. Toàn bộ công thương nghiệp tư bản đã được hòa bình cải tạo. Kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh. Chế độ người bóc lột người căn bản đã bị xóa bỏ. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng. Nhân dân ta đang phấn khởi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, thực hiện bước đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế nước ta đang vững bước tiến lên trở thành một nền kinh tế tự chủ. Đời sống văn hóa của quần chúng ngày càng tiến bộ. Chính quyền nhân dân được củng cố, công cuộc quốc phòng được tăng cường. Trong mười năm, một thời gian rất ngắn trong lịch sử của một dân tộc, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy. Những thành tích to lớn đó chứng tỏ chế độ xã hội chủ nghĩa rất tốt đẹp. Với một tinh thần lao động quên mình rất cao, với một tinh thần cảnh giác cao độ, biểu hiện của tinh thần cách mạng triệt để, nhân dân ta đang ra sức phấn đấu xây dựng và bảo vệ miền Bắc, làm cho miền Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng cả nước và cơ sở ngày càng vững chắc cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Để đền đáp công ơn của đồng bào miền Nam, nhân dân ta đang hăng hái đẩy mạnh thi đua yêu nước, luôn luôn sát cánh với đồng bào miền Nam hiện đang đấu tranh anh dũng chống kẻ thù của dân tộc. Theo đúng những điều khoản của Hiệp nghị Giơnevơ, lẽ ra nhân dân ta đã có thể xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc trong một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Nhưng hiệp nghị ký kết chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã vi phạm trắng trợn hiệp nghị, mưu mô chia cắt lâu dài đất nước ta, hòng biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Ở miền Nam, có thể nói rằng, tiếng súng chiến tranh của bọn cướp nước và bán nước chưa bao giờ chấm dứt từ khi có hiệp định đình chiến. Chính quyền Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ thi hành chính sách khủng bố, tàn sát, lập nên chế độ độc tài phát xít, tiến hành hàng trăm cuộc càn quét với lực lượng của quân đội chính quy, gây ra những tội ác tày trời, bắt bớ và bắn giết đồng bào yêu nước ở miền Nam lúc bấy giờ không có một tấc sắt trong tay, đang lấy đấu tranh chính trị để chống lại kẻ thù, đòi quyền sống của con người được bảo đảm, đòi độc lập và dân chủ, đòi thống nhất đất nước. Những năm gần đây, đế quốc Mỹ lại công nhiên vũ trang can thiệp vào miền Nam, đưa nhân viên quân sự và lính chiến đấu, đưa hàng vạn tấn vũ khí các loại vào miền Nam, chi phí hàng tỷ đôla, mỗi ngày trên một triệu. Chúng gây ra cuộc chiến tranh không tuyên bố, lấy miền Nam làm chiến trường thí nghiệm điển hình của cái mà chúng gọi là "chiến tranh đặc biệt" nhằm đàn áp phong trào giải phóng của các dân tộc. Đồng bào miền Nam cũng như nhân dân cả nước ta vốn hết sức yêu chuộng hòa bình. Nhưng một lần nữa, thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng đã chỉ rõ cho đồng bào ta: trước hành động bạo lực và chiến tranh của kẻ thù, con đường sống còn duy nhất là phải kiên quyết chống lại bằng bạo lực chính trị và vũ trang của quần chúng đông đảo, bằng chiến tranh chính nghĩa của toàn dân. Đồng bào ta ở miền Nam đã vùng lên tiến hành cuộc chiến tranh yêu nước để tự giải phóng. Dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, 14 triệu đồng bào ta ở miền Nam cùng nhau đoàn kết, muôn người như một để cứu nhà, cứu nước, chống kẻ thù của nhân dân và dân tộc. Tuyên ngôn và chương trình hành động của Mặt trận đã nêu rõ đường lối đấu tranh nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, đánh đổ chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Tuyên ngôn và chương trình đó đã phản ánh những nguyện vọng cơ bản tha thiết nhất của đồng bào ta ở miền Nam, do đó đã tập hợp được tất cả các giai cấp cách mạng, các nhân sĩ yêu nước, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, xu hướng chính trị. Uy tín của Mặt trận ngày càng rộng rãi. Trên trường quốc tế, cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào ta ở miền Nam lại được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi và mạnh mẽ xưa nay chưa từng có trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Đi theo đường lối đúng đắn của Mặt trận, đồng bào ta đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân vô cùng anh dũng và quyết liệt, với những hình thức đấu tranh cách mạng hết sức phong phú và đầy sáng tạo. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng, đấu tranh chính trị được kết hợp hết sức chặt chẽ với đấu tranh vũ trang. Quần chúng nhân dân đông đảo được tổ chức thành một đội quân chính trị kiên cường, tiến hành đấu tranh trực diện chống kẻ thù, đòi quyền sống và những quyền tự do tối thiểu của con người, đòi độc lập và dân chủ. Trong lúc đó, chiến tranh du kích được phát động rộng khắp và phát triển hết sức nhanh chóng. Quân giải phóng miền Nam anh hùng, mặc dầu còn non trẻ và phải chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ, đã liên tiếp đánh bại quân thù, lập nên những chiến công chói lọi, làm cho kẻ địch phải khiếp sợ. Cuộc chiến tranh yêu nước của đồng bào ta ở miền Nam hiện đã đi vào một bước phát triển mới, mà đặc điểm là so sánh lực lượng đang thay đổi có lợi cho ta, không lợi cho địch. Kế hoạch Xtalây - Taylơ nhằm giải quyết chiến tranh trong vòng 18 tháng đã phá sản. Hệ thống "ấp chiến lược" mà địch cho là kinh nghiệm mới nhất và có hiệu lực nhất của các cuộc chiến tranh phản cách mạng mà chúng đã từng tiến hành ở Hy Lạp, Mã Lai, Philíppin, thì nay đem áp dụng ở miền Nam, đang bị phá tan từng mảng lớn dưới ngọn trào đấu tranh chính trị và quân sự của nhân dân ta. Tuy đã tăng số quân lên đến nửa triệu, tăng cố vấn và lính chiến đấu người Mỹ lên đến hàng vạn, tuy đã ra sức áp dụng mọi thứ chiến thuật chúng cho là mới nhất, sử dụng mọi thứ vũ khí chúng cho là hết sức hiện đại trong chiến tranh chống du kích, tuy đã phải dùng đến những thủ đoạn hết sức dã man như rải chất độc hóa học, đế quốc Mỹ và bọn tay sai ngày ngày chứng kiến một cách bất lực thất bại này đến thất bại khác. Rõ ràng chúng đã chui vào "một con đường hầm không có lối thoát". Mâu thuẫn trong hàng ngũ chúng ngày càng trở nên gay gắt. Đế quốc Mỹ trong một thời gian ngắn đã phải hai lần thay ngựa giữa dòng, gây nên đảo chính. Nhưng, qua mỗi lần đảo chính, lực lượng của chúng không những không được củng cố mà lại càng suy yếu, tinh thần binh sĩ của chúng càng giảm sút nghiêm trọng. Hiện nay đế quốc Mỹ ngoan cố và hung ác đang ra sức tăng cường vũ trang can thiệp vào miền Nam, hòng tìm ra một lối thoát. Nhưng, ngay trong các giới chính trị và quân sự của chúng cũng không còn một ai tin rằng, có thể giải quyết vấn đề chiến tranh xâm lược ở miền Nam trong một thời gian ngắn, thậm chí càng ngày càng có nhiều người đã nhìn thấy cuộc chiến tranh đó hiện đang đi đến thất bại thảm hại. Nhân dân miền Nam anh hùng đã chiến đấu ròng rã 20 năm trời, hiện đang tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh lần thứ hai của dân tộc ta. Với một ý chí đấu tranh sắt đá, với một tinh thần anh dũng vô song, đồng bào ta ở miền Nam đang chứng minh một cách hùng hồn chân lý vĩ đại của thời đại: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ, khi đã đoàn kết đứng dậy theo một đường lối đúng đắn, kiên quyết chiến đấu cho độc lập và hòa bình, thì có đầy đủ khả năng để chiến thắng quân đội đông về số lượng, mạnh về trang bị, vũ khí của bọn đế quốc cướp nước và bè lũ tay sai bán nước, đánh bại mọi âm mưu xâm lược của bọn đế quốc thực dân, dù chúng là thực dân cũ hay thực dân mới, dù chúng là đế quốc Mỹ, tên đầu sỏ, hiếu chiến và hùng mạnh nhất trong phe đế quốc. Nhân dân các nước trên thế giới đang hết lòng cổ vũ cuộc đấu tranh chính nghĩa của đồng bào ta ở miền Nam, coi cuộc đấu tranh đó là tiền tuyến của loài người tiến bộ chống kẻ thù hung bạo nhất của nhân dân thế giới: chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Đồng bào ta ở miền Nam nhất định sẽ tỏ ra xứng đáng với sự đồng tình ủng hộ quý giá đó. Trận Điện Biên Phủ lâu dài và vô cùng vĩ đại của đồng bào ta ở miền Nam nhất định giành được thắng lợi cuối cùng. Tổ quốc Việt Nam ta nhất định sẽ thống nhất. Đế quốc Mỹ và tay sai nhất định sẽ bị thất bại nhục nhã. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:36:45 pm * * * Trải qua các thế kỷ, trong cuộc đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm để giữ gìn độc lập cho đất nước, dân tộc Việt Nam anh hùng đã từng viết nên những trang sử hết sức oanh liệt: BẠCH ĐẰNG, CHI LĂNG, ĐỐNG ĐA, ĐIỆN BIÊN PHỦ. Ngày nay chúng ta đang sống trong một thời đại vĩ đại. Tương lai thuộc về chúng ta. Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi tiến lên trên con đường đi đến một tương lai ngày càng tươi sáng. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam nhất định thành công. Sự nghiệp thống nhất nước nhà nhất định thắng lợi. Trên thế giới, dưới ngọn cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác - Lênin, loài người tiến bộ sẽ mãi mãi tiến lên phía trước. Bọn đế quốc thực dân hung tàn sẽ bị quét sạch trên trái đất. Tất cả các dân tộc bị áp bức ngày nay đã đứng dậy đấu tranh sẽ được hoàn toàn giải phóng, làm chủ vận mệnh, đất nước của mình. Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ toàn thắng. Loài người sẽ tiến lên mãi trong hòa bình và hạnh phúc. Chúng ta lấy làm tự hào rằng: trong sử sách đấu tranh cách mạng của nhân dân và các dân tộc vùng lên phá tan xiềng xích, chống áp bức bóc lột, Điện Biên Phủ sẽ mãi mãi được coi là một chiến công hiển hách, một sự kiện vĩ đại báo hiệu thắng lợi của nhân dân, của các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc thực dân trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại sẽ mãi mãi cổ vũ nhân dân ta, dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, kiên quyết tiến lên giành những thắng lợi mới ngày càng to lớn hơn. Với các thế hệ mai sau, Điện Biên Phủ sẽ sống mãi. Hà Nội 1964 KỶ NIỆM MƯỜI NĂM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Hai, 2022, 08:09:58 pm CHÚNG TA PHẢI PHÁ TAN KẾ HOẠCH QUÂN SỰ NAVA 1 Lời tòa soạn Từ chiến dịch Biên Giới trở đi, quân đội ta đã chiến thắng liên tiếp trong nhiều chiến dịch, luôn luôn giữ quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ. Sau khi Hòa Bình được giải phóng, căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ được mở rộng, những địa phương rộng lớn ở Tây Bắc lần lượt trở về tay ta, thế địch ngày càng nguy khốn, bị động. Đế quốc Pháp - Mỹ càng thấy rõ muốn cứu vãn tình thế thì phải tăng thêm lực lượng, thuyên chuyển tướng tá, thay đổi kế hoạch. Thừa lúc chiến tranh Triều Tiên vừa chấm dứt, đế quốc Mỹ tích cực đi sâu vào âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương. Tháng 5 năm 1953, với sự thỏa thuận của Hoa Thịnh Đốn, chính phủ Pháp chỉ định tướng Nava làm tổng chỉ huy các lực lượng quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương thay tên bại tướng Xalăng. * * * Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ nhận định rằng nguyên nhân làm cho tình hình quân đội viễn chinh Pháp ngày càng nguy khốn là lực lượng của Pháp bị phân tán đến cực độ trên khắp các chiến trường Đông Dương để đối phó với chiến tranh du kích của ta. Vì vậy chúng không có một lực lượng cơ động mạnh để đối phó với các cuộc tấn công của chủ lực ta. Trong lúc đó thì chủ lực ta ngày càng tăng thêm, quy mô các chiến dịch của ta ngày càng rộng lớn. Căn cứ vào nhận định trên, Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ đề ra một kế hoạch mới gọi là kế hoạch Nava nhằm cứu vãn tình thế, mong chuyển bại thành thắng, và trong một thời gian ngắn giành lấy một vài thắng lợi chiến lược có tính chất quyết định. Kế hoạch Nava chủ trương tổ chức một lực lượng cơ động chiến lược rất mạnh không những hòng đủ sức đánh tan những chiến dịch tấn công trước mắt của quân ta mà còn hòng đủ sức để tiêu diệt chủ lực của ta sau này. Song khi thực hiện âm mưu trên, Nava đã gặp phải một mâu thuẫn rất lớn: Nếu để lực lượng phân tán chiếm đóng thì không có lực lượng cơ động mạnh, nhưng nếu rút bớt lực lượng chiếm đóng để tập trung lại thì chiến tranh du kích của ta lại lợi dụng những sơ hở mới của địch mà phát triển mạnh lên, vùng tạm chiếm bị thu hẹp. Nava đã giải quyết khó khăn đó bằng cách phát triển ngụy quân làm lực lượng chiếm đóng, thay cho các lực lượng Âu Phi được tập trung lại. Chúng chủ trương tổ chức ngay 54 tiểu đoàn ngụy quân mới, gọi là khinh quân và dự định sang năm 1954 thì tăng số đơn vị ấy lên gấp đôi. Với lực lượng cơ động tập trung được, bọn đế quốc Pháp - Mỹ định ra kế hoạch tác chiến khá táo bạo, nhằm đi đến tiêu diệt chủ lực ta và kết thúc chiến tranh trong vòng 18 tháng. Theo kế hoạch đó, thì trong bước đầu, chúng tập trung một lực lượng cơ động khá mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ để tấn công và tiêu hao chủ lực của ta, đồng thời đánh chiếm Điện Biên Phủ, nhằm củng cố vùng tạm bị chiếm Tây Bắc thành một bàn đạp vững chắc. Bước thứ hai, lợi dụng mùa mưa, trong lúc chủ lực ta đã bị mệt mỏi và không thể có hoạt động gì đáng kể, địch sẽ chuyển quân vào miền Nam để đánh chiếm tất cả những vùng tự do và căn cứ du kích của ta ở Liên khu 5 và Nam Bộ. Rồi sang Thu Đông 1954-1955 trong khi tình hình miền Nam đã được "bình định", thì chúng sẽ tập trung một lực lượng cơ động rất mạnh ra chiến trường miền Bắc, mở cuộc đại tấn công vào hậu phương của ta, từ đồng bằng đánh lên, từ Điện Biên Phủ đánh xuống, hai cánh quân cùng giáp công lại và tiêu diệt chủ lực của ta, chiếm đóng vùng tự do của ta, đi đến kết thúc chiến tranh. Nếu kế hoạch đó thành công thì nước ta sẽ biến thành một thuộc địa của Pháp - Mỹ, một căn cứ quân sự để chúng tiến hành những âm mưu xâm lược mới. Đó là khái quát về kế hoạch Nava của địch. Thời kỳ cuối cùng của cuộc kháng chiến cũng là thời kỳ mà quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, tích cực đánh bại và phá tan kế hoạch Nava. Một thời gian ngắn sau khi tên bại tướng Xalăng bị thải hồi, Nava được cử sang thay thế, các báo chí của địch thường nói nhiều đến kế hoạch quân sự mới của Nava. Và chính ngay Nava cũng đã nhiều lần tuyên bố huênh hoang bắt chước giọng lưỡi của Tátxinhi trước đây, đánh trận nhiều trên báo chí hơn là trên chiến trường. Cách đây gần một tháng, địch đã huy động một lực lượng khá lớn để tập kích vào Lạng Sơn. Thật sự, chúng đã gây cho ta chưa đầy 1% con số thiệt hại như chúng đã công bố, nhưng cuộc tập kích đó đã là một dịp để cho địch tuyên truyền khoác lác về kế hoạch quân sự Nava. Ngày 11 tháng 8 vừa rồi, bọn địch còn lại ở Nà Sản đã rút lui. Cuộc rút lui đó là một thất bại lớn cho địch, âm mưu của chúng mong dùng Nà Sản để chiếm lại Tây Bắc và che chở cho Thượng Lào đã hoàn toàn thất bại. Mặc dầu như vậy, cuộc rút lui Nà Sản lại là một dịp để địch tiếp tục tuyên truyền cho kế hoạch Nava. Kế hoạch quân sự của Nava nội dung như thế nào, kế hoạch đó nhằm những mục đích gì và chúng ta cần phải làm gì để phá tan kế hoạch đó? Trước hết, chúng ta cần nhận rõ rằng một nhược điểm lớn của địch trên chiến trường Việt Nam là thiếu quân số. Quân số đã thiếu mà sinh lực lại bị ta tiêu diệt liên tiếp, cho nên lại càng thiếu hơn. Một nhược điểm lớn thứ hai của địch là từ sau chiến dịch Tây Bắc, chủ lực của chúng đã bị phân tán giữa đồng bằng và rừng núi, lực lượng cơ động của chúng vì vậy mà giảm đi khá nhiều. Nava ngay khi mới sang đây không thể không nhận thấy điều đó. Và kế hoạch của hắn trước tiên là tăng thêm và chấn chỉnh lại lực lượng của Pháp, đồng thời dùng đủ mọi phương sách để tập trung lực lượng cơ động lại. Tăng quân bằng cách nào? Mang viện binh ở Pháp sang như trước đây Tátxinhi đã làm thì rất khó, Nava đành yêu cầu tăng thêm cán bộ, khuếch trương ngụy quân. Rốt cuộc, muốn tăng quân chủ yếu vẫn là xúc tiến kế hoạch lập thêm 54 tiểu đoàn khinh quân ngụy và tăng thêm các bộ đội hương dũng phản động. Tăng lực lượng vẫn chưa đủ, còn phải tập trung lực lương cơ động lại. Địch đã cho bọn ngụy binh thay thế chiếm đóng để tập trung bộ đội Âu Phi lại. Chúng đã tạm thời rút bớt gần 30 vị trí ở đồng bằng. Gần đây, chúng lại rút quân khỏi Nà Sản. Thật là một mâu thuẫn khó giải quyết cho chúng: muốn chiếm thêm đất đai thì phải phân tán lực lượng; muốn tập trung lực lượng thì lại thu hẹp phạm vi chiếm đóng. Trong kế hoạch tăng cường và chấn chỉnh lực lượng này, Nava chủ trương khuếch trương và sử dụng đến cùng các bộ đội "quốc gia" giả hiệu. Tên tướng phản động này sẽ không từ một mưu mô, thủ đoạn nào, từ lối tuyên truyền lừa gạt và nhồi sọ, đặt "chính trị viên" giả hiệu để làm mật thám trong các đơn vị ngụy quân, cho đến những lối lưu manh hoá hoặc làm truỵ lạc những thanh niên bị bắt, xô đẩy ngụy binh vào con đường tàn hại đồng bào, chết thay cho giặc. Mục đích tăng cường và tập trung lực lượng của Nava là đi tới "bình định" các vùng tạm bị chiếm nhất là đồng bằng Bắc Bộ, đánh phá hậu phương ta và dần dần thoát khỏi thế bị động hiện nay của chúng. Mục đích đó không có gì mới lạ, đó cũng là sự mong mỏi và ảo tưởng của tất cả bọn thực dân xâm lược từ trước tới nay. Chỗ mới trong kế hoạch Nava là ở trong thủ đoạn thực hiện. ___________________________________________ 1. Bài đăng trên báo Nhân dân, số 129 (11-15 tháng 8 năm 1953), lấy bút danh Hồng Nam. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Hai, 2022, 08:10:51 pm Địch hiện nay nói rất nhiều về việc giành lại thế chủ động, nhưng mưu mô lớn của chúng vẫn là khống chế những vùng sau lưng địch giàu có của ta. Có khống chế được những vùng đó thì mới tránh được nguy cơ bị giáp công từ ngoài vào và từ trong ra. Có khống chế được những vùng đó thì mới cướp của, cướp người của ta được. Tên Mác Cơlắc trước đây đến thăm Việt Nam1 đã từng lo ngại cho hậu phương của giặc ở Việt Nam. Nava gần đây cũng phải nhận rằng tình hình của chúng ở vùng sau lưng địch là nghiêm trọng và hết sức lo lắng đối với "những vùng đỏ" rộng lớn ở ngay trong lòng chúng. Cho nên chúng sẽ ra sức càn đi quét lại các căn cứ của ta, rút kinh nghiệm thất bại cũ, sẽ phối hợp các bộ đội cơ động với các tiểu đoàn khinh quân, càn quét dần dần và đi sâu hơn, trong một thời gian dài hơn, và sau khi càn quét để lại nhiều lực lượng hơn trước để chiếm giữ. Chủ trương càn quét tàn khốc đó, đi đôi với kế hoạch dồn làng và tập trung dân hiện chúng đang làm. Trong lúc đó, chúng sẽ tăng cường việc đánh phá vùng tự do của ta, tăng cường hoạt động gián điệp - chính Nava trước đây là một tên sĩ quan tình báo - thả thổ phỉ và tổ chức thổ phỉ ở hậu phương ta, ném bom bắn phá dữ dội ở các đường giao thông quan trọng, v.v. Chúng sẽ nhằm những nơi và thừa những lúc ta sơ hở mà đánh sâu vào hậu phương của ta cướp phá và gây ảnh hưởng chính trị, nhất là ở những vùng giàu có, buôn bán tập trung, có cơ quan, kho tàng quan trọng. Chúng mong làm cho dân chúng hoang mang, về quân sự thì mong làm cho chủ lực ta bị phân tán để giảm bớt thế chủ động của ta. Địch sẽ tranh thủ thời gian, một mặt đánh phá vùng tạm chiếm, một mặt tập kích vào vùng tự do của ta, mong tạo điều kiện để tập trung lực lượng cơ động lại ngày càng nhiều, tiến tới giành thế chủ động, và trong thời gian sắp tới thì có thể chống đỡ hoặc phá được cuộc tấn công mới của ta. Chống đỡ với cuộc tấn công đó vẫn là một mối lo lắng lớn của Nava cũng như của các tên chỉ huy Pháp trước đây, vì kinh nghiệm đã chỉ rõ cho chúng biết rằng mỗi lần chủ lực của ta mở cuộc tấn công là một lần chúng bị thất bại đau đớn. Trên đây là những nét chính của kế hoạch Nava nhìn qua những hành động quân sự đầu tiên của chúng. Kế hoạch đó vẫn tiếp tục âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, nói chung là âm mưu dùng người châu Á đánh người châu Á của đế quốc Mỹ - kế hoạch đó đi đôi với âm mưu chính trị của chính phủ phản động Pháp tuyên bố "hoàn thành độc lập" giả hiệu cho bọn chính phủ bù nhìn. Kế hoạch đó không những là một âm mưu mới của bọn thực dân Pháp mà lại là âm mưu mở rộng chiến tranh, tăng cường sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào chiến trường nước ta. Chẳng thế mà tên ngoại trưởng phản động Mỹ đã ra sức tán dương kế hoạch này và chính phủ Mỹ cũng đã từng hứa hẹn hết sức giúp đỡ thực dân Pháp thực hiện kế hoạch đó. Quân địch càng thất bại, chúng càng cố gắng. Trước đây, sau trận đại bại Biên Giới, Pháp và Mỹ đã cho Tátxinhi sang. Lần này, sau các trận đại bại ở Tây Bắc và Thượng Lào bọn đế quốc Pháp - Mỹ lại định ra kế hoạch quân sự mới và cho tên Nava sang để thực hiện kế hoạch đó. Chúng ta cần nhận rõ âm mưu của địch, theo dõi hành động của chúng và tỉnh táo đề phòng, tích cực chiến đấu, để phá tan âm mưu của chúng: a) Muốn phá kế hoạch của địch thì tăng cường cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch là một việc rất quan trọng. Ở vùng sau lưng địch, chúng ta cần có sự chuẩn bị về tư tưởng và kế hoạch, sẵn sàng phá tan các cuộc càn quét lối mới của địch. Chúng ta phải tăng cường lực lượng vũ trang, đặc biệt là lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở huyện và xã, có như vậy mới chống lại được các cuộc càn quét dài ngày. Phải tin tưởng nhất định có thể phá tan lối càn quét mới của địch cũng như chúng ta đã chiến thắng bao nhiêu lối càn quét cũ của chúng. Ở mỗi địa phương, chúng ta phải tạo cơ hội tiêu diệt cho kỳ được một số đơn vị khinh quân mà tinh thần rất bạc nhược, để làm cho bọn này hoảng sợ, để phá âm mưu khuếch trương ngụy binh của địch. Tiêu diệt bọn khinh quân cũng tức là phá một phần kế hoạch càn quét mới của chúng. b) Ở vùng tự do thì cần chống lại tư tưởng chủ quan khinh địch, phải dựa vào việc phát động quần chúng, dựa vào nhân dân mà đề phòng gián điệp, tăng cường bảo mật, trừ gian, tiêu diệt bọn thổ phỉ. Đồng thời phải tích cực tăng cường các lực lượng vũ trang và bán vũ trang để cho các lực lượng này đủ sức tiêu hao hoặc tiêu diệt một bộ phận địch khi chúng đánh tới. Vì quân địch càng đi sâu vào nội địa của ta thì càng gặp khó khăn, cho nên chỉ cần chúng ta không chủ quan, có đề phòng, chú ý tăng cường và chấn chỉnh lực lượng vũ trang, thì chúng ta nhất định phá được âm mưu địch đánh ra vùng tự do của ta. Ở tất cả các địa phương, nhất là những nơi giáp địch, cần coi việc bảo vệ hậu phương là một nhiệm vụ quan trọng. c) Trong khi đó, bộ đội chủ lực của ta càng phải tăng cường lực lượng chiến đấu, chỉnh quân thắng lợi, học tập chiến thuật kỹ thuật tiến bộ, khi có cơ hội là đánh cho địch những đòn rất nặng, như ở Biên Giới, như ở Hòa Bình, như ở Tây Bắc hoặc hơn thế nữa. Các đơn vị chủ lực phải luôn luôn sẵn sàng để chiến đấu, hết sức cơ động linh hoạt; có như vậy mới không bỏ qua cơ hội để tiêu diệt địch, mới làm cho những cuộc hành binh mạo hiểm của địch trở nên những thất bại đau đớn của chúng. d) Muốn phá kế hoạch Nava thì không những chiến trường Bắc Bộ phải cố gắng, mà các chiến trường Trung, Nam cũng cần ra sức hoạt động. Sự hoạt động tích cực đó trở nên ngày càng quan trọng, không những để kiềm giữ lực lượng địch và phối hợp với Bắc Bộ, mà để chống lại âm mưu của địch tăng cường việc đánh phá để "bình định", mở rộng vùng tạm bị chiếm, bắt người cướp của, khuếch trương ngụy binh ngay ở trên các chiến trường Trung và Nam. Kế hoạch quân sự Nava đại để là như thế. Kế hoạch này căn bản vẫn tiếp tục âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, như trên đã nói. Đó là tính chất thâm độc của nó, đồng thời cũng là nhược điểm lớn nhất của nó. Chúng ta tin tưởng nhất định đánh bại kế hoạch này cũng như trước đây quân đội và nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch, Đảng và Chính phủ, với một tinh thần chiến đấu anh dũng đáng khen ngợi, đã từng đánh bại "bình định" đồng bằng và đánh ra Hoà Bình của Tátxinhi; đánh bại kế hoạch cố thủ Nà Sản để chiếm lại Tây Bắc của Xalăng, và nhiều kế hoạch khác của bọn thực dân xâm lược Pháp và bọn can thiệp Mỹ. HỒNG NAM ______________________________________________ 1. Tướng Mỹ, đến Việt Nam hạ tuần tháng 3 năm 1953 dưới thời Xalăng (BBT). Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Hai, 2022, 08:17:49 pm KẾ HOẠCH NAVA ĐÃ GẶP NHỮNG THẤT BẠI NẶNG NỀ1 Kế hoạch "tăng cường và tập trung binh lực", nhất là tăng cường các tiểu đoàn khinh quân ngụy và tập trung quân cơ động bình định địch hậu, thả thổ phỉ vào hậu phương, đánh ra vùng tự do của Nava... để hòng dần dần thoát khỏi thế bị động giành lại quyền chủ động đã gặp những thất bại nặng nề. Địch vừa đưa từ Pháp sang và từ Triều Tiên về được một vạn quân, thì từ khi Nava sang đến nay đã bị ta tiêu diệt mất 44 nghìn sinh lực. Số mới được bổ sung không đủ bù cho số mới thiếu hụt. Địch tìm đủ mọi cách lừa phỉnh và bắt ép thanh niên ta vào ngụy binh, nhưng phong trào của nhân dân ta trong địch hậu nổi lên rộng khắp, chống bắt lính và đòi chồng con, ngụy binh bỏ hàng ngũ giặc ngày càng nhiều và ta đã tiêu diệt được 2 tiểu đoàn và 13 đại đội khinh quân nguỵ... khiến âm mưu phát triển ngụy quân nhất là các tiểu đoàn khinh quân của Nava đã gặp những thất bại nặng. Địch rút khỏi Nà Sản, bỏ hơn 30 vị trí ở đồng bằng, điều quân từ Trung, Nam và Lào, Miên ra Bắc để tập trung binh lực nhất là tập trung quân cơ động. Nhưng trước sự uy hiếp của quân ta và sự lớn mạnh của Quân giải phóng Pathét Lào, địch đã phải thả dù hơn 10 tiểu đoàn xuống Điện Biên Phủ để che chở cho Lai Châu, điều binh đoàn cơ động số 2 vào Thà Khẹt. Hiện nay Lai Châu đã được giải phóng, khu căn cứ kháng chiến Trung Lào được mở rộng, 10 tiểu đoàn tinh nhuệ của địch vẫn bị chôn chân ở Điện Biên Phủ, số quân còn lại của binh đoàn cơ động số 2 vẫn bị giam chân ở mặt trận Savannakhét và đường số 9. Nava đang mắc kẹt giữa tập trung và phân tán binh lực. Phân tán thì dễ bị tiêu diệt, nhưng tập trung thì không chiếm được đất đai. Đó là mâu thuẫn cơ bản của chế độ đế quốc không thể nào giải quyết được và nhất định đưa chúng đến những thất bại hoàn toàn. Từ khi vội vã rút lui khỏi tây nam Ninh Bình, địch đã liên tiếp mở những cuộc càn quét lớn vào Hải Hậu và Kiến Xương ở Nam Định, Thái Bình. Gần đây chúng lại đã tập trung 7 binh đoàn cơ động có đầy đủ pháo binh và phi cơ yểm hộ, mở một cuộc càn quét thứ hai vào phía nam Thái Bình. Nhưng tất cả các cuộc càn quét đó không đạt được mục đích bình định mà còn bị thiệt hại nặng, tổng cộng bị ta tiêu diệt 3.000 tên. Địch tập trung càn nơi này thì bỏ sơ hở nơi khác, quân ta đã nhân cơ hội đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở những trận đánh tương đối lớn, lập được nhiều chiến công to. Đặc biệt trận công kiên diệt viện ở Gia Lộc đã tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn Maroc số 3, trận tập kích thị xã Thái Bình, tiêu diệt tên quan Spiroth và toàn bộ chỉ huy của hắn, trận tập kích Dị Sử, căn cứ hậu phương của binh đoàn số 3, tiêu diệt trên 300 tên địch, thu gần 500 khẩu súng các cỡ. Giặc không thực hiện được âm mưu "bình định" đồng bằng lại còn bị uy hiếp ở phía sau và giáp công hai mặt ngày càng nguy khốn. Bọn thổ phỉ thả vào hậu phương ta phần lớn bị bao vây và tiêu diệt. Riêng ở Sơn La và Lai Châu trên 3.000 thổ phỉ đã bị ta giết và bắt sống. Bọn phỉ còn lại ở các nơi khác đang bị tấn công và hiện bị cô lập không hoạt động được. Về căn bản, âm mưu của địch thả thổ phỉ quấy rối hậu phương ta đã thất bại. Địch tập kích vào thị xã Lạng Sơn và đánh ra tây nam Ninh Bình hòng phân tán, thu hút chủ lực ta đến đối phó, phá hoại nhân tài vật lực của ta, cản trở cuộc chuẩn bị tấn công Thu Đông của ta. Nhưng chủ lực của ta bình tĩnh giữ vững quyền chủ động kiên quyết tập trung hoàn thành nhiệm vụ chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự. Kho tàng, công xưởng của Chính phủ, thóc lúa của nhân dân đã được cất giấu phân tán hoặc chuyển đi nơi khác. Mục đích cuộc tập kích và hành binh của địch không đạt được, địch lại còn bị tiêu diệt trên 5.000 tên. Lai Châu được giải phóng là một thất bại nặng nề của địch và là một thắng lợi to lớn của ta về mọi mặt quân sự và chính trị. Thượng Lào bị sơ hở, Điện Biên Phủ bị uy hiếp, "Xứ Thái tự trị" giả hiệu của địch bị tan rã. Vùng tự do của ta được củng cố, đường liên lạc quốc tế của ta được mở rộng, chính sách dân tộc đoàn kết của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã thành công, đồng bào Thái thân yêu được trở về với đại gia đình dân tộc Việt Nam. Thất bại Lai Châu của địch làm cho binh lính chúng thêm hoang mang dao động. Thắng lợi Lai Châu của ta đang cổ võ tinh thần chiến đấu anh dũng, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, nỗ lực thi đua giết giặc lập công của toàn thể quân đội ta để giật cờ danh dự "Quyết chiến quyết thắng" của Hồ Chủ tịch và để chúc mừng tình hữu nghị Việt - Trung - Xô vĩ đại. Kế hoạch Nava mới được đem thi hành đã thất bại nặng nề. Càng đi sâu vào việc thực hiện kế hoạch đó, Nava còn gặp nhiều thất bại nặng nề hơn nữa. Nhất định hắn không thể thoát khỏi thế bị động mà càng ngày càng lâm vào thế bị động nguy hiểm nữa. Kết quả cuối cùng chắc chắn Nava sẽ bị thất bại hoàn toàn và bị cách chức như các tên bại tướng trước. CHÍNH NGHĨA2 _____________________________________________1. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, số 117, ngày 3 tháng 1 năm 1954, xuất bản tại mặt trận Điện Biên Phủ, lấy bút danh Chính Nghĩa. 2. Chính Nghĩa là bút danh của những bài bình luận quân sự do đồng chí Võ Nguyên Giáp gợi ý và hướng dẫn phóng viên chắp bút. In trên báo Quân đội nhân dân, xuất bản tại mặt trận Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Hai, 2022, 08:20:58 pm TỪ HOÀ BÌNH, NÀ SẢN TỚI ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ LUÔNG PHABĂNG HAY LÀ: "TÀI THAO LƯỢC" CỦA NAVA 1 Cách đây mấy hôm Nava hội họp các nhà báo để tuyên bố rằng tình hình quân sự hiện nay khả quan, tất cả mọi việc xảy ra đều như hắn đã dự đoán từ trước. Chúng ta còn nhớ khi mới bước chân sang Đông Dương, Nava đã dự đoán là nếu phân tán binh lực thì sẽ bị thất bại, nên hắn lớn tiếng tuyên bố: nhất định phải tập trung binh lực để giành lại chủ động. Lúc đó Nava đã nhận thấy Tátxinhi mang chủ lực lên Hòa Bình thì bị thất bại, cả ở Hòa Bình và địch hậu, cho nên Nava sẽ không đi con đường đó. Nava cũng đã biết Xalăng mang chủ lực lên Nà Sản thì nhiều nơi khác bị sơ hở và bị thất bại, nên Nava đã vội vã rút quân khỏi Nà Sản, mặc dầu bỏ Nà Sản thì mất một căn cứ rất tốt để chiếm lại vùng Tây Bắc quan trọng của chúng ta. Nhận thấy và biết như vậy, nhưng từ đầu mùa Đông 1953 đến nay, Nava ngày càng đi vào con đường Hoà Bình và Nà Sản của Tátxinhi và Xalăng. Nava lại có thành tích nhiều hơn. Trước kia Tátxinhi chỉ có một Hòa Bình, Xalăng một Nà Sản, nhưng Nava hiện nay có Điện Biên Phủ, Xênô, Luông Phabăng và một Nà Sản nhỏ phía bắc Luông Phabăng là Mường Sài. Trong 15 ngày gần đây, không những Nava đã điều chủ lực từ đồng bằng Bắc Bộ lên Luông Phabăng mà lại còn rút quân ở Trung Lào và Điện Biên Phủ đưa sang thủ đô Lào. Điều đó chứng tỏ là từ đầu mùa Đông đến nay, Nava càng ngày càng đi sâu vào thế lúng túng bị động, đối phó, càng phải phân tán chủ lực nhiều hơn trước. Vì phân tán binh lực nên Nava đi từ thất bại này đến thất bại khác. Có lẽ Nava cũng đã dự đoán như vậy, nhưng hắn vẫn bắt buộc phải làm như thế. Vì có một điều mà Nava không dự đoán được. Đó là sự trưởng thành mau chóng của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng Pathét Lào. Đó là đường lối quân sự tài tình của Hồ Chủ tịch, Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh. Đường lối quân sự đó, sự trưởng thành đó đã đánh bại kế hoạch tập trung binh lực của hắn, đưa hắn vào tình thế nguy nan hiện nay. Một tờ báo phản động Pháp đã phải viết: "Chính sách tấn công của Nava hiện nay đi đến đâu? Quân đội đối phương đã điều quân đội Pháp đi hết chiến trường này sang chiến trường khác. Hễ nơi nào bị uy hiếp là quân Pháp vội vã dùng máy bay chở dây thép gai đến xây công sự. Đến lúc mà các nhà quân sự Pháp tuyên bố là vị trí đã được xây dựng vững chắc rồi thì đúng là lúc quân đội đối phương để mặc quân đội Pháp ở đó mà mở cuộc tấn công lớn ở nơi khác cách hàng trăm cây số. Quân đội Pháp lại bắt buộc xây thêm một vị trí cố thủ khác và cứ bị động như thế mãi". Phải chăng đó là tình trạng khả quan mà Nava đã dự đoán trước như hắn vừa tuyên bố một cách miễn cưỡng. Một điều chắc chắn là tình trạng nguy khốn của Nava nhất định sẽ còn kéo dài và Nava sẽ còn gặp những thất bại đau đớn mà cả hắn lẫn quan thầy Mỹ của hắn không dự đoán được. CHÍNH NGHĨA __________________________________________1. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, số 127, ngày 3 tháng 3 năm 1954, xuất bản tại mặt trận Điện Biên Phủ, lấy bút danh Chính Nghĩa. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Hai, 2022, 08:23:58 pm NHỮNG LỤC ĐỤC NỘI BỘ TRONG PHE ĐỊCH, NGỤY SAU NHỮNG THẤT BẠI QUÂN SỰ VỪA QUA1 Gần đây bọn đương cục Pháp không thể che giấu được những mâu thuẫn nội bộ trong phe địch, nguỵ, giữa Nava và Đờgiăng, giữa thực dân Pháp và bù nhìn Bảo Đại, giữa đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Mặc dù chính Nava và Đờgiăng đã phải phân bua trong một cuộc hội nghị báo chí rằng chúng không có gì chống nhau, nhưng chúng càng cải chính thì dư luận lại càng thấy rõ những mâu thuẫn của chúng. Vì không ai còn lạ gì không có lửa sao lại có khói. Mâu thuẫn giữa Nava và Đờgiăng xảy ra sau khi Quân giải phóng Pathét Lào đại thắng ở lưu vực sông Nậm Hu, uy hiếp thủ đô Luông Phabăng. Lúc đó, vấn đề đặt ra là có nên tăng viện cho Luông Phabăng hay không? Nava thì đứng về phía lợi ích quân sự nên chủ trương không, vì tăng viện cho Luông Phabăng sẽ đưa đến kết quả là biến Luông Phabăng thành một tập đoàn cứ điểm mới và sẽ đưa quân đội viễn chinh Pháp đến nhiều thất bại nặng nề khác. Nhưng Đờgiăng thì lệch về chính trị mà dốt về quân sự, nên cho rằng nếu không tăng viện cho Luông Phabăng thì thủ đô nước Lào có thể lọt vào tay quân giải phóng. Đó là một điều rất nguy hiểm. Trong khi hai bên cao cấp văn, võ của thực dân đang bàn cãi giằng co thì bọn chủ Mỹ can thiệp vào. Rút cục Nava đành phải tuân lệnh quan thầy của hắn, lại phải phân tán binh lực. Thành ra vấn đề tập trung binh lực, đối với hắn lại càng trở nên một câu trống rỗng. Mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và bù nhìn Bảo Đại xảy ra sau khi quân Pháp bị thất bại ở mặt trận Tây Nguyên. Trước đây bù nhìn Bảo Đại vẫn cho Tây Nguyên là nơi an toàn nhất, nên hắn đã chọn Đà Lạt với Tây Nguyên làm nơi cư trú và trốn tránh thường xuyên của hắn. Hắn tưởng Quân đội nhân dân Việt Nam không bao giờ có thể đặt chân đến đấy được. Thực dân Pháp lại hứa hẹn với Bảo Đại sẽ củng cố và mở rộng Tây Nguyên thành một căn cứ vô cùng vững chắc. Bảo Đại có thể ung dung săn bắn, nghỉ mát ở đây. Nhưng bất thần quân ta mở cuộc tiến công vào miền Bắc Tây Nguyên, quân đội viễn chinh Pháp đã hoảng hốt bỏ Công Tum rút chạy. Bù nhìn Bảo Đại cũng hoảng hốt đề nghị với thực dân Pháp giữ Công Tum nhưng Pháp cứ rút khỏi Công Tum chạy dài, không thèm đếm xỉa gì đến đề nghị của hắn. Trước những thất bại nặng nề, liên tiếp của thực dân Pháp ở Đông Dương, đế quốc Mỹ muốn nhân cơ hội này, lấy danh nghĩa giúp Pháp để nhúng tay trực tiếp hơn nữa vào cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, để đi đến hất cẳng Pháp. Mỹ đã tỏ ra hăng hái giúp Pháp hơn Pháp mong muốn. Chúng đã gửi nhiều máy bay và cán bộ chuyên môn sang cho Pháp, chúng định đưa tên Đanien, tổng chỉ huy lục quân Mỹ ở Thái Bình Dương sang để giúp Nava, nghĩa là để tranh dần lấy quyền chỉ huy quân sự của Nava. Nhưng vì đụng chạm đến quyền lợi của hắn, lại sợ dư luận nhân dân Pháp phản đối, nên mới đây Nava phải tuyên bố là hắn từ chối dứt khoát sự giúp đỡ khó chịu ấy của quan thầy Mỹ. Nhưng cả về vấn đề này cũng như mọi vấn đề khác, chúng ta sẽ thấy quyền quyết định không phải là do Nava, cũng không phải là do chính phủ phản động Pháp, mà chính là do bọn gây chiến Hoa Thịnh Đốn. Những mâu thuẫn nội bộ trong phe địch, ngụy đã phản ánh những thất bại quân sự nặng nề của chúng và cũng chứng tỏ sự bối rối lúng túng của chúng trước những thắng lợi liên tiếp của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng Pathét Lào trong Đông Xuân năm nay. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận rõ rằng, dù chúng có lục đục với nhau về một số vấn đề cụ thể, chúng vẫn thống nhất trong chủ trương mở rộng chiến tranh xâm lược ở Việt - Miên - Lào. Vì vậy, chúng ta còn phải đánh mạnh hơn nữa, thu nhiều thắng lợi hơn nữa trong mùa Xuân năm nay để khơi sâu thêm những nhược điểm của địch, để phá tan mọi âm mưu thâm độc mới của bọn đế quốc Pháp, Mỹ. CHÍNH NGHĨA ______________________________________________1. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, số 129, ngày 9 tháng 3 năm 1954, xuất bản tại mặt trận Điện Biên Phủ, lấy bút danh Chính Nghĩa. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Hai, 2022, 08:31:02 pm HOAN HÔ CHIẾN CÔNG CỦA HAI ĐOÀN DŨNG SĨ DIỆT 78 PHI CƠ ĐỊCH Ở GIA LÂM VÀ CÁT BI1 Trận này như lời Đại tướng Tổng tư lệnh đã nói trong bức điện khen ngợi các đơn vị chiến thắng, là một trong những trận chiến đấu dũng cảm và oanh liệt nhất, là trận phá hoại lớn nhất trong lịch sử quân đội của chúng ta. Chính địch cũng phải công nhận là chúng bị thiệt hại một phần mười lực lượng không quân của chúng ở Đông Dương; chỉ riêng ở Gia Lâm số thiệt hại lên tới 6 triệu Mỹ kim tức là 2.000 triệu phờrăng. Cố nhiên những điều chúng công bố còn dưới sự thực nhiều. Trong khi một phần lớn chủ lực của địch đang bị giam chân ở các vị trí cô lập như Điện Biên Phủ, Luông Phabăng, Xênô và hoàn toàn dựa vào không quân để tiếp tế và cứu viện, thì những thiệt hại ở Gia Lâm và Cát Bi càng gây cho chúng nhiều khó khăn lúng túng mới, tạo điều kiện cho Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng Pathét Lào tiếp tục giành nhiều thắng lợi mới. Đặc biệt trong số phi cơ bị ta phá hủy có hơn 10 chiếc C.47 là loại phi cơ vận tải hạng lớn đế quốc Mỹ vừa gửi sang giúp Nava khi bước vào Thu Đông để Nava thực hiện kế hoạch quân sự của hắn và một số máy bay phóng pháo kiểu B.26 cũng của đế quốc Mỹ vừa cấp tốc gửi sang giúp thực dân Pháp sau những thất bại quân sự trên lưu vực sông Nậm Hu ở Thượng Lào. Phá huỷ một số phi cơ đế quốc Mỹ vừa gửi sang giúp thực dân Pháp, chúng ta đã tỏ rõ cho bọn đế quốc thấy rằng tinh thần chiến đấu anh dũng của Quân đội nhân dân Việt Nam thật là vô bờ bến, vũ khí tối tân của giặc không thể nào chiến thắng nổi. Chúng ta đã nêu cao ý chí kháng chiến giành độc lập của quân dân ta, trước âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược ở Đông Dương của bọn đế quốc Pháp - Mỹ, chúng ta đã cảnh báo thẳng bọn đế quốc Mỹ rằng vũ khí tối tân của chúng cũng không thể nào cứu vãn được tình thế nguy nan của thực dân Pháp ở Đông Dương. Quân đội nhân dân Việt Nam rất lấy làm vui mừng phấn khởi khi được tin Bộ Tổng tư lệnh đã tặng thưởng một cách xứng đáng các chiến sĩ anh dũng vừa chiến thắng ở Gia Lâm, Cát Bi và nguyện noi gương học tập tinh thần dũng cảm vô song đó. Hoan hô chiến công của hai đoàn dũng sĩ đã diệt 78 phi cơ địch! CHÍNH NGHĨA ____________________________________________1. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, số 131, ngày 14 tháng 3 năm 1954, xuất bản tại mặt trận Điện Biên Phủ, lấy bút danh Chính Nghĩa. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Hai, 2022, 08:33:43 pm CHÚC MỪNG THẮNG LỢI ĐẦU NĂM CỦA NHÂN DÂN PATHÉT LÀO1 Sau khi đại thắng ở mặt trận Thà Khẹt và đường số 9 mùa Đông năm 1953, vào tháng giêng năm nay, Quân giải phóng Pathét Lào lại đại thắng ở mặt trận Thượng và Hạ Lào. Chỉ trong thời gian năm ngày, Quân giải phóng Lào đã tiêu diệt hơn 3.000 quân địch, trong đó có tiểu đoàn lê dương số 2 (2/3è REI) và nhiều đơn vị ngụy khác. Những binh lính ngụy này phần lớn bị giặc lừa gạt hoặc bắt buộc theo chúng nên khi ra trận kém tinh thần chiến đấu, có một số được biết lượng khoan hồng của Chính phủ kháng chiến nên đã bỏ hàng ngũ của giặc quay trở về với Tổ quốc. Quân giải phóng Lào đã giải phóng cả vùng lưu vực sông Nậm Hu gồm một phần tỉnh Luông Phabăng và Phông Xa Lỳ ở Thượng Lào và vùng tây nam cao nguyên Bôlôven ở Hạ Lào. Nếu cộng thêm với những đất đai được giải phóng từ chiến dịch Sầm Nưa mùa Xuân năm 1953 và chiến dịch Trung Lào mùa Đông năm 1953, thì vùng tự do của nước Pathét Lào hiện nay rộng tới gần 10 vạn cây số vuông, dân số trên dưới 1 triệu người. Các vùng mới giải phóng này lại tiếp giáp với hậu phương rộng lớn của Việt Nam ta, như ở Tây Bắc, Khu 4, Liên khu 5. Đó là chưa kể những vùng du kích ở sâu trong lòng địch hiện đang được mở rộng do ảnh hưởng của những chiến thắng trên. Hình thái quân sự hiện nay ở Pathét Lào đã đi tới một cục diện mới. Trước chiến dịch Sầm Nưa địch đóng thành diện trên gần toàn cõi nước Lào. Sau những thất bại này, địch ở Thượng Lào đã bị dồn lại ở mấy vị trí lớn như Luông Phabăng, Cánh Đồng Chum, Xiêng Khoảng, Viêng Chăn. Bộ phận địch còn lại ở Phông Xa Lỳ và bản Huổi Sai thì bị cô lập. Ở Trung và Hạ Lào địch bị dồn lại thành một tuyến dài dọc đường số 13 và sông Mê Công như Pắc Xê, Savannakhét, Thà Khẹt... Bị đánh mạnh ở chiến trường Lào trong Đông Xuân năm nay, địch phải đối phó rất lúng túng, không những chúng đã phải điều động nhiều lực lượng cơ động Âu Phi từ Bắc và Nam Bộ đến mà chúng còn điều cả nhiều đơn vị ngụy Việt và Miên đến như tiểu đoàn dù ngụy số 3, tiểu đoàn ngụy số 17, tiểu đoàn Thái số 1, tiểu đoàn Miên số 2. Trong thời gian sắp tới, địch còn cố gắng khuếch trương ngụy quân Lào và mưu chiếm lại những địa bàn và đường giao thông quan trọng. Nhưng chúng ta tin rằng, quân đội và nhân dân Pathét Lào sẽ củng cố được những thắng lợi vừa qua và sẽ làm cho quân địch không thể dễ dàng cứu vãn được tình thế nguy nan của chúng. Thắng lợi của nhân dân Pathét Lào đồng thời cũng là một thắng lợi chung của nhân dân ba nước Việt - Miên - Lào, vì hơn 3.000 sinh lực địch bị tiêu diệt, hơn 20 tiểu đoàn cơ động bị thu hút trên chiến trường Lào. Thực tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân dân Việt và Miên trên các chiến trường tiêu diệt nhiều địch, thu nhiều thắng lợi. Sự trưởng thành của quân đội và nhân dân Pathét Lào, của nước Pathét Lào độc lập, tự do là một thắng lợi lớn của nhân dân ba nước Việt - Miên - Lào, là một thắng lợi lớn của phong trào dân tộc giải phóng nói chung ở Đông Nam Á. CHÍNH NGHĨA _____________________________________________1. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, số 123, ngày 18 tháng 2 năm 1954, xuất bản tại mặt trận Điện Biên Phủ, lấy bút danh Chính Nghĩa. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Hai, 2022, 08:36:49 pm NHẬN ĐỊNH Ý NGHĨA CỦA CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ 1 Trận đại thắng của quân ta ở Điện Biên Phủ đã quyết định số phận của kế hoạch Nava. Kế hoạch Nava đã hoàn toàn thất bại, âm mưu mở rộng chiến tranh Việt - Khơme - Pathét Lào của bọn thực dân hiếu chiến Pháp và can thiệp Mỹ đã bị một đòn thất bại nặng. I- MỘT CHIẾN THẮNG VĨ ĐẠI Trận Điện Biên Phủ là một chiến thắng vĩ đại từ trước đến nay chưa từng có trong lịch sử đấu tranh vũ trang của Quân đội nhân dân Việt Nam, là một thất bại lớn nhất của đế quốc chủ nghĩa Pháp trong lịch sử chiến tranh xâm lược thuộc địa của chúng. Chỉ đứng về mặt tiêu diệt sinh lực mà nói thì quân ta đã tiêu diệt ở Điện Biên Phủ 21 tiểu đoàn chủ lực của địch, cộng 16.000, tức là hai phần năm toàn bộ chủ lực cơ động mà tướng Nava đã ra sức tập trung ở Bắc Bộ vào đầu Thu Đông 1953, chủ lực của địch lại bị tiêu diệt trong một tập đoàn cứ điểm kiên cố nhất của chúng, được tăng cường phòng ngự với những vũ khí và phương tiện tối tân do đế quốc chủ nghĩa Mỹ viện trợ cho Pháp. Về phía ta thì Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiến bộ một bước rất dài, từ chỗ tiêu diệt từng tiểu đoàn của địch trong công kiên tiến tới tiêu diệt 21 tiểu đoàn của địch trong một tập đoàn cứ điểm, từ chỗ đánh công kiên quy mô nhỏ đến chỗ đánh công kiên có tính chất trận địa quy mô tương đối lớn, có trọng pháo phối hợp. Trong trận Điện Biên Phủ, quân ta đã có một tinh thần chiến đấu dũng cảm gan dạ, liên tục, một tinh thần chịu đựng gian khổ và khắc phục khó khăn rất cao. Trải qua 8 năm kháng chiến trường kỳ và gian khổ, quân ta tiêu diệt trên 40 vạn quân địch, ngày nay quân ta lại đại thắng ở Điện Biên Phủ; ý nghĩa sâu xa nhất của trận Điện Biên Phủ là: Quân đội nhân dân Việt Nam nhất định chiến thắng được mọi kẻ xâm lược, vì quân đội đó là quân đội của nhân dân, chiến đấu vì chính nghĩa, vì độc lập và hòa bình, có Đảng Lao động Việt Nam, có Chính phủ lãnh đạo, lại dựa vào một hậu phương vững chắc nhất từ khi hàng triệu nông dân đã được phát động, cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu. Ngược lại bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn đế quốc can thiệp Mỹ nhất định bị đánh bại, vì chiến tranh của chúng là chiến tranh xâm lược, phi nghĩa, không những nhân dân Việt Nam và Khơme, Pathét Lào kiên quyết chống lại, mà nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ và nhân dân tiến bộ toàn thế giới đều kiên quyết chống lại. II- CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VỚI CHIẾN THẮNG ĐÔNG XUÂN TRÊN KHẮP CHIẾN TRƯỜNG TOÀN ĐÔNG DƯƠNG Điện Biên Phủ là trung tâm điểm của toàn chiến trường Đông Dương trong suốt mùa Đông 1953 và mùa Xuân năm nay. Muốn nhận rõ ảnh hưởng của trận Điện Biên Phủ đối với ta cũng như đối với địch, chúng ta không thể tách rời mặt trận Điện Biên Phủ với các mặt trận khác khắp chiến trường Việt Nam và chiến trường hai nước bạn Khơme và Pathét Lào. Chúng ta còn nhớ: vào giữa năm 1953, ngay sau khi bị thất bại và bắt buộc phải đình chiến ở Triều Tiên, đế quốc chủ nghĩa Mỹ đã lấy Đông Dương để làm nơi tích cực can thiệp, kéo dài và mở rộng chiến tranh, hòng biến Đông Dương thành căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công các nước Đông Nam Á. Bọn đế quốc chủ nghĩa gây chiến đã tiến tới một bước câu kết chặt chẽ với bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn bù nhìn tay sai để thực hiện âm mưu nói trên. Chúng định ra kế hoạch Nava, mong tiêu diệt phần lớn chủ lực của ta, đánh chiếm phần lớn lãnh thổ của ta, đồng thời tiêu diệt Quân đội giải phóng Khơme và Pathét Lào, đánh chiếm hoàn toàn hai nước bạn Khơme và Pathét Lào. Đó là kế hoạch giải quyết chiến tranh trong 18 tháng mà thực dân Pháp và can thiệp Mỹ thường nói đến. Để thực hiện kế hoạch trên, bước vào Thu Đông 1953, địch đã tập trung 45 tiểu đoàn cơ động ở Bắc Bộ, tăng viện thêm binh lực ở Pháp sang, tích cực khuếch trương ngụy quân, mong chống đối với mọi cuộc tấn công của ta ở đồng bằng, đồng thời mưu đánh chiếm toàn bộ Liên khu 5, bình định miền Nam Việt Nam, quét sạch mọi lực lượng kháng chiến ở Khơme và Pathét Lào, sau đó trở lại mở cuộc tấn công lớn có tính chất quyết định ở Bắc Bộ. Trong kế hoạch này, Điện Biên Phủ có một vị trí rất quan trọng. Địch đã đánh chiếm Điện Biên Phủ, dự định trong vòng tháng 1 năm nay từ Điện Biên Phủ đánh lấy lại Nà Sản, trước mắt thì để buộc chủ lực ta phải đối phó trên hai mặt trận Tây Bắc và đồng bằng, sau này thì để dùng Điện Biên Phủ làm một căn cứ vững chắc tiến đánh Việt Bắc của chúng ta, trong khi đại quân của chúng từ đồng bằng đánh lên. Âm mưu của chúng thực là thâm độc, ta không nên khinh thường. Tuy nhiên, bọn đế quốc Pháp - Mỹ đã không tính đến tinh thần kháng chiến bất khuất của quân đội và nhân dân ba nước Việt - Khơme - Pathét Lào, chúng không tưởng tượng được rằng trong lúc chúng dồn chủ lực ra đồng bằng Bắc Bộ và Điện Biên Phủ thì Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội giải phóng Khơme, Pathét Lào có thể tấn công chúng vào những hướng chúng sơ hở. Thực vậy, quân ta đã tấn công lên Lai Châu, giải phóng Lai Châu, buộc địch phải phân tán thêm chủ lực lên Điện Biên Phủ để chống giữ. Quân đội giải phóng Pathét Lào đã tấn công vào Thà Khẹt và Hạ Lào, giải phóng Thà Khẹt và cao nguyên Bôlôven buộc địch phải phân tán chủ lực lên Xênô Quân ta đã tấn công vào phía Bắc Tây Nguyên giải phóng Công Tum buộc địch phải tăng thêm lực lượng cho Ban Mê Thuột và Tuy Hòa mà chúng vừa đánh chiếm. Quân đội giải phóng Pathét Lào lại tấn công lớn vào Thượng Lào, giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, buộc địch phải phân tán chủ lực lên Luông Phabăng. Vào đầu tháng 3 năm nay, Nava tưởng rằng sức tấn công của quân ta và Quân đội giải phóng Khơme, Pathét Lào không còn mạnh mẽ nữa, chỉ trong vòng vài tuần lễ nữa thì tình thế sẽ thay đổi, quân Pháp sẽ phản công và ta nhất định không dám đánh Điện Biên Phủ. Nhưng đến khi Nava đã mang chủ lực tung ra bốn phương rồi, ngày 12 tháng 3 lại phân tán một bộ phận chủ lực nữa đổ bộ lên Quy Nhơn, thì ngày hôm sau 13 tháng 3 quân ta mở cuộc tấn công lớn vào Điện Biên Phủ, cũng trong thời gian đó quân ta đánh mạnh ở đồng bằng sơ hở, nhiều lần cắt đường Hải Phòng - Hà Nội, Quân giải phóng Khơme thì đánh vào đông Khơme và tây bắc Khơme. Nava đã phải vội vã rút lực lượng các nơi về để tăng viện cho Điện Biên Phủ, bọn hiếu chiến Pháp và bọn đế quốc Mỹ gấp rút tập trung lực lượng, nào là cho viện binh từ Pháp sang, nào là tăng máy bay oanh tạc và vận tải nhân viên không quân của Mỹ sang Đông Dương, nào là chở vũ khí, đạn dược từ Phi Luật Tân và Nhật Bản sang, chúng kiên quyết giữ cho kỳ được Điện Biên Phủ. Nhưng chiến sự tiếp diễn, Điện Biên Phủ càng ngày càng nguy ngập, tăng quân thêm nữa thì sợ bị tiêu diệt nhiều hơn, đánh vào hậu phương ta thì đã có kinh nghiệm thất bại ở Phú Thọ, mang bộ đội lớn từ Pathét Lào đánh sang thì đã có kinh nghiệm thất bại ở sông Nậm Hu. Rút cục, như Nava đã phải thú nhận, bọn hiếu chiến Pháp chỉ còn một đường là ỷ lại vào tác dụng của không quân Mỹ. Nhưng không quân Mỹ với hàng tấn bom, hàng vạn lít napan trút xuống vùng rừng núi Điện Biên Phủ đã tỏ ra ít hiệu quả, trước tinh thần chiến đấu anh dũng và gan dạ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Quân ta tiêu diệt Điện Biên Phủ. Thế là sau một năm thực hiện kế hoạch Nava, cục diện quân sự ở Đông Dương đã thay đổi nhiều, nhưng không phải thay đổi có lợi cho địch mà thay đổi có lợi cho ta. Địch mưu tăng cường chủ lực và khuếch trương ngụy quân, nhưng sinh lực của chúng đã bị tiêu diệt trên 8 vạn từ tháng 11 năm 1953 đến nay. Địch mưu giành lại chủ động, nhưng Nava chỉ giành được một lối chủ động đặc biệt tức là chủ động phân tán binh lực khắp mọi nơi, chủ động mang quân lên Điện Biên Phủ để bị ta tiêu diệt. Địch mưu đánh chiếm phần lớn lãnh thổ Việt Nam, Khơme, Pathét Lào nhưng đến ngày nay thì Phú Thọ, Thanh Hóa của ta vẫn vững chắc, ở địch hậu Bắc Bộ thì căn cứ du kích và vùng du kích của ta chiếm rộng đến 2/3 đất đai, ở Nam Bộ thì vùng tự do và vùng du kích của ta đã được mở rộng, ở Liên khu 5 địch đánh chiếm Quy Nhơn thì ta giải phóng Công Tum. Ở nước bạn Pathét Lào thì vùng tự do ngày nay đã chiếm trên 1/2 đất đai, có trên một triệu dân, phạm vi kiểm soát của địch bị thu lại trong vùng tam giác Xiêng Khoảng - Luông Phabăng - Viêng Chăn và một số tuyến dài dọc sông Cửu Long; ở nước bạn Khơme thì khu giải phóng đã được mở rộng. Còn trận quyết định mà bọn đế quốc Pháp - Mỹ thường nói đến thì phải chăng đó là trận Điện Biên Phủ. Nhưng trận Điện Biên Phủ không quyết định thắng lợi của chúng, mà trận Điện Biên Phủ đã quyết định số phận của kế hoạch Nava: kế hoạch Nava đã hoàn toàn thất bại; âm mưu mở rộng chiến tranh của bọn hiếu chiến Pháp và bọn can thiệp đế quốc chủ nghĩa Mỹ đã bị một đòn thất bại rất nặng. III- CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VỚI HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ Tại Hội nghị Giơnevơ, lập trường của phái đoàn nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là độc lập và hòa bình thực sự, đúng như lời Hồ Chủ tịch đã nhiều lần tuyên bố. Trên mặt trận Điện Biên Phủ cũng như trên các mặt trận khác khắp Việt Nam và Khơme, Pathét Lào, quân ta và Quân đội giải phóng Khơme, Pathét Lào đang chiến đấu vì độc lập và hòa bình thực sự. Pháp và bọn can thiệp Mỹ bị chúng ta chặn lại trên chiến trường thì lúc đó chúng ta mới có độc lập và hòa bình thực sự. Chúng ta cần biết rằng bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn can thiệp Mỹ càng thất bại nặng càng ra sức cố gắng; đế quốc chủ nghĩa Mỹ hiện đang mưu trực tiếp nắm lấy các chính phủ bù nhìn và đang đẩy các chính phủ bù nhìn đó bắt bớ hàng vạn thanh niên đi chết thay cho chúng, chúng đang tiếp tục âm mưu mở rộng chiến tranh với xương máu của kẻ khác, âm mưu dùng người châu Á đánh người châu Á của Aixenhao. Chúng ta phải tích cực củng cố và khuếch trương thắng lợi vĩ đại của Điện Biên Phủ, của chiến dịch Đông Xuân. Chúng ta phải làm đúng lời dạy của Hồ Chủ tịch trong bức thư Người đã gửi các cán bộ và chiến sĩ Điện Biên Phủ: "Thắng lợi Điện Biên Phủ tuy to lớn, nhưng mới là thắng lợi đầu tiên. Chúng ta kiên quyết kháng chiến tranh lấy độc lập thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn". _____________________________________________ 1. Lời tuyên bố với nhà báo (BBT). Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 09:47:45 am TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA TUẦN BÁO "CÁCH MẠNG CHÂU PHI" NHÂN DỊP KỶ NIỆM CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ (tháng 5 năm 1963) Hỏi: Xin Đại tướng cho biết những nhân tố nào là nhân tố quyết định nhất của chiến thắng Điện Biên Phủ? Trả lời: Trận Điện Biên Phủ là chiến thắng to lớn nhất của nhân dân và quân đội nhân dân chúng tôi trong cuộc chiến tranh giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Trong những nhân tố quyết định thắng lợi lịch sử đó, đương nhiên phải nói đến những nhân tố thuộc chiến lược và chiến thuật quân sự. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng nhân tố quan trọng nhất, quyết định nhất của thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ là quyết tâm sắt đá, là tinh thần chiến đấu rất cao của nhân dân và quân đội nhân dân chúng tôi, theo lời kêu gọi của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên quyết tập trung mọi lực lượng nhằm tiêu diệt cho kỳ được những toán quân tinh nhuệ của địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đi sâu hơn nữa, chúng tôi có thể nói rằng nhân tố cơ bản đã quyết định chiến thắng Điện Biên Phủ cũng là nhân tố đã đưa cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lâu dài và gian khổ của chúng tôi đến thắng lợi cuối cùng. Nhân tố đó chính là đường lối chính trị và quân sự đúng đắn của Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đã đoàn kết toàn dân chúng tôi trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đã xây dựng và giáo dục quân đội nhân dân, đã lãnh đạo đúng đắn và tài tình cuộc chiến tranh nhân dân chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược, dưới những khẩu hiệu cơ bản: Giành độc lập cho Tổ quốc, đem lại ruộng đất cho nông dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Một nhân tố quan trọng nữa của chiến thắng của chúng tôi, đó là sự đồng tình và ủng hộ triệt để của nhân dân yêu chuộng hòa bình và tự do trên thế giới, trước hết là nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Sự đồng tình ủng hộ đó đã cổ vũ chúng tôi rất nhiều. Hỏi: Xin cho biết vai trò của nhân dân hậu phương trong công cuộc chuẩn bị và tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ? Trả lời: Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ mà đỉnh cao nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ đã thể hiện rõ tính chất toàn dân, toàn diện, tính chất chính nghĩa và nhân dân của cuộc chiến tranh. Trong suốt chín năm kháng chiến chưa bao giờ nhân dân Việt Nam góp công, góp sức chi viện cho tiền tuyến nhiều như trong Đông Xuân 1953 - 1954, nghĩa là trong thời gian chuẩn bị và tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ. Dưới khẩu hiệu Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, với tinh thần phấn khởi sau khi giành được ruộng đất về tay mình, hàng chục vạn người mà đại đa số là nông dân đã tham gia các đội dân công đi hàng ngàn cây số, bảo đảm vận chuyển lương thực, đạn dược, sửa đường, săn sóc thương binh... Nhân dân đã tự nguyện cung cấp hàng vạn tấn thóc gạo, hàng nghìn tấn thực phẩm cho bộ đội, huy động xe cộ, thuyền bè để phục vụ tiền tuyến. Nhân dân vùng sau lưng địch, nhân dân ở ngay trong các thành phố bị tạm chiếm cũng hăng hái nộp thóc quân lương, tích cực quyên góp các thứ cần thiết để ủng hộ tiền tuyến. Chính tinh thần hy sinh và dũng cảm không bờ bến của nhân dân hậu phương dốc lòng phục vụ tiền tuyến đã giúp chúng tôi giải quyết một vấn đề cực kỳ khó khăn, một vấn đề mà địch cho rằng chúng tôi không thể nào giải quyết được, đó là vấn đề cung cấp lương thực, đạn dược cho mặt trận Điện Biên Phủ cũng như cho các mặt trận phối hợp, trên những tuyến vận chuyển rất dài, trên một quy mô rất lớn, dưới những trận đánh phá và ném bom dữ dội và liên tiếp của không quân Pháp - Mỹ. Phần đóng góp của nhân dân hậu phương vào chiến thắng Điện Biên Phủ thực là hết sức to lớn. Hỏi: Xin cho biết, có đúng là đã có một sự viện trợ quan trọng của Mỹ cho quân đội viễn chinh Pháp trong thời gian chiến dịch Điện Biên Phủ. Trả lời: Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến cứu nước của chúng tôi, đế quốc Mỹ đã câu kết chặt chẽ với thực dân Pháp, cung cấp vũ khí, đạn dược, máy bay, tàu chiến cho Pháp để tàn sát nhân dân Việt Nam. Từ khi bị đuổi khỏi lục địa Trung Quốc và sau khi thất bại nhục nhã ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ càng can thiệp sâu vào Việt Nam, lợi dụng những khó khăn của Pháp để hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương, Mỹ đã thực tế nắm quyền chỉ đạo cuộc chiến tranh ở Đông Dương từ năm 1953, kế hoạch Nava là một chứng cớ. Từ năm 1951 viện trợ Mỹ và số lượng vũ khí của Mỹ đưa vào Đông Dương ngày càng tăng thêm. Viện trợ Mỹ năm 1951 là 119 triệu đôla, năm 1954 đã lên đến gần 800 triệu đôla. Vũ khí Mỹ đưa vào Đông Dương năm 1951 trung bình mỗi tháng 6.000 tấn, năm 1953 hàng tháng đã lên đến trên hai vạn tấn, sang năm 1954, nhất là trong thời gian chiến dịch Điện Biên Phủ, số vũ khí Mỹ đưa vào đã có lúc lên đến gần 10 vạn tấn trong một tháng. Ngay từ khi thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và bắt đầu xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (11-1953) đế quốc Mỹ đã lập một số cầu hàng không để tiếp tế vũ khí, lương thực cho Pháp, lại cho hàng không mẫu hạm của hạm đội thứ 7 vào vịnh Bắc Bộ, đưa sĩ quan không quân Mỹ trực tiếp lái máy bay Mỹ mang cờ Pháp để tàn sát nhân dân Việt Nam. Thực tế trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam cũng như trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đối với bọn đế quốc thực dân Pháp, đây là một cuộc chiến tranh bẩn thỉu tiến hành với máu của lính Pháp và một số lính đánh thuê khác và với đôla và bom đạn của đế quốc Mỹ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 09:48:26 am Hỏi: Do kết quả của trận Điện Biên Phủ, chúng ta có thể rút ra những kết luận chính như thế nào? Trả lời: Do kinh nghiệm của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam nói chung, đặc biệt là của chiến thắng Điện Biên Phủ, theo ý tôi, chúng ta có thể rút ra một số kết luận như sau: a) Điện Biên Phủ không những là một chiến thắng to lớn của nhân dân Việt Nam mà còn là một thắng lợi lớn của nhân loại tiến bộ, của tất cả các dân tộc nhỏ yếu đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức, giành độc lập và tự do của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, dân chủ và hòa bình trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng tỏ, trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ yếu, một khi đã có đường lối đúng đắn, đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh giành độc lập và dân chủ chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức, lại được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, dân tộc đó nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. b) Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, đứng trước hành động bạo lực, hành động chiến tranh của bọn đế quốc thực dân xâm lược, các dân tộc bị áp bức chỉ có một con đường là đối phó lại bằng đấu tranh chính trị và quân sự quyết liệt của nhân dân, bằng bạo lực chính trị và quân sự của toàn dân. Con đường đấu tranh chính trị và quân sự của toàn dân, con đường chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân, Mặt trận dân tộc thống nhất của toàn dân chính là con đường sống còn và là con đường thắng lợi của chúng ta. c) Chúng ta đều biết Điện Biên Phủ đã mở đường cho thành công của Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954 lập lại hòa bình ở Đông Dương và công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và hai nước Lào, Campuchia. Do đó chúng ta có thể đi đến kết luận: mọi việc thương lượng với bọn đế quốc đều cần phải dựa vào, cần phải đi đôi với đấu tranh kiên quyết bằng mọi hình thức chống lại âm mưu thâm độc của chúng; và chỉ khi nào lực lượng của nhân dân lớn mạnh lên trong đấu tranh thì chúng mới chịu nhả bỏ đặc quyền, đặc lợi của chúng và bắt buộc công nhận những quyền lợi chính đáng của chúng ta. Do đó, chúng ta có thể đi đến kết luận: bằng cuộc kháng chiến anh dũng, lâu dài và gian khổ của mình, bằng cuộc chiến đấu và chiến thắng vĩ đại trên mặt trận Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam đã đấu tranh không những cho độc lập của Tổ quốc mình mà cả cho sự nghiệp hòa bình ở Việt Nam và Đông Nam Á nữa, một nền hòa bình mà hiện nay đế quốc Mỹ đang phá hoại nghiêm trọng ở miền Nam nước chúng tôi và ở Lào. d) Đối với nhân dân Việt Nam chúng tôi, chúng tôi còn rút ra một kết luận quan trọng và thiết thân nữa là: nếu trước đây nhân dân Việt Nam đã chiến thắng được đế quốc Pháp - Mỹ, đặc biệt trong trận Điện Biên Phủ, thì ngày nay trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để tự giải phóng của đồng bào chúng tôi ở miền Nam chống cuộc chiến tranh không tuyên bố vô cùng dã man của đế quốc Mỹ và tay sai, mặc dầu phải trải qua muôn ngàn khó khăn gian khổ, nhân dân miền Nam anh dũng nhất định giành được thắng lợi cuối cùng. Sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam nhất định đi đến thắng lợi. e) Qua những âm mưu can thiệp và xâm lược trắng trợn, đế quốc Mỹ càng lộ bộ mặt xâm lược tàn bạo của chúng đối với nhân dân Việt Nam bộ mặt của tên sen đầm quốc tế, kẻ thù độc ác và nguy hiểm nhất của nhân dân thế giới, của phong trào giải phóng dân tộc. Chúng tôi tin tưởng, ở khắp mọi nơi trên thế giới, ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, bọn đế quốc do Mỹ đứng đầu, dù chúng thâm độc và quỷ quyệt đến đâu trong âm mưu nô dịch các dân tộc, cuối cùng cũng nhất định sẽ bị thất bại thảm hại. Sự nghiệp đấu tranh để tự giải phóng của các dân tộc Á - Phi và Mỹ Latinh nhất định thu được thắng lợi rực rỡ. Hỏi: Đề nghị Đại tướng gửi vài lời đến độc giả của tạp chí Cách mạng châu Phi là một tuần báo ủng hộ triệt để cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc châu Phi. Trả lời: Tôi xin gửi đến các bạn đọc của tạp chí Cách mạng châu Phi, đến tất cả những người bạn châu Phi, những lời chào nhiệt liệt nhất của chúng tôi, những lời chào đoàn kết anh em và kiên quyết đến cùng trong cuộc đấu tranh vĩ đại của chúng ta chống chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức vì độc lập và tự do của các dân tộc châu Phi cũng như của các dân tộc châu Á và châu Mỹ Latinh, vì hòa bình thực sự trên thế giới, hòa bình trong độc lập dân tộc, trong tự do và hạnh phúc. Các dân tộc châu Phi luôn luôn coi những thắng lợi của chúng tôi, đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ như thắng lợi của bản thân mình. Tôi muốn nói lên đây lời cảm ơn chân thành và cảm động của chúng tôi đối với sự ủng hộ triệt để của các bạn, trước đây trong cuộc kháng chiến cứu nước của chúng tôi cũng như ngày nay trong công cuộc hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh để tự giải phóng của đồng bào chúng tôi ở miền Nam. Xin chúc các bạn thành công rực rỡ trong sự nghiệp đấu tranh cho một châu Phi tự do không còn bóng dáng của bọn đế quốc thực dân dưới mọi hình thức cũ và mới. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 09:51:36 am CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ 25 NĂM NHÌN LẠI1 Bước vào mùa Hè năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã phát triển đến trình độ có thể tiến lên giành những thắng lợi quyết định. Đặc điểm cơ bản của so sánh lực lượng giữa ta và địch lúc bấy giờ biểu hiện trên những điểm chủ yếu sau đây: Một là, trên khắp các chiến trường, chiến tranh nhân dân đã được phát triển rộng khắp và mạnh mẽ; cả nước đã đứng lên chiến đấu giết giặc trong nhiều năm. Quân đội xâm lược Pháp mặc dù được tăng cường buộc phải phân tán khắp nơi; quân số càng đông, sức mạnh chiến đấu lại càng yếu. Hai là, lực lượng vũ trang nhân dân ta, từ những đơn vị non trẻ lúc đầu đã lớn mạnh nhanh chóng và vượt bậc với cơ cấu ba thứ quân, với lực lượng cơ động chiến lược lớn, với thế bố trí chiến lược mạnh, với chất lượng chiến đấu ngày càng cao. Còn quân đội viễn chinh thì thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược. Ba là, ta đã tiến lên giành chủ động chiến lược trên chiến trường chính. Còn địch thì ngày càng lâm vào thế bị động. Bốn là, cục diện quốc tế thuận lợi đối với ta hơn là đối với địch. Tình hình nói trên chứng tỏ quyết tâm kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng ta là đúng đắn và sáng tạo. Đảng và Hồ Chủ tịch đã hạ quyết tâm kháng chiến toàn quốc trong điều kiện nước ta đất không rộng, người không đông, nhân dân ta mới tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền ta còn trứng nước, quân đội ta còn non trẻ, chung quanh ta đều là những nước thù địch. Quyết tâm kêu gọi cả nước đứng lên kháng chiến trong tình hình như vậy, là một quyết tâm to lớn, xứng đáng với truyền thống hàng nghìn năm đấu tranh chống ngoại xâm quật cường bất khuất của dân tộc Việt Nam. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, tuy có sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, nhưng rõ ràng là chúng ta đã chiến đấu cực kỳ anh dũng trong vòng vây của địch, với sự tự lực hoàn toàn về trang bị vũ khí, về vật chất kỹ thuật. Trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ, không những dân tộc ta, nhân dân ta đã đứng vững trước kẻ thù đế quốc xâm lược, mà lực lượng của ta về mọi mặt, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, đã lớn mạnh lên trông thấy. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta ngày càng đoàn kết chiến đấu, lực lượng vũ trang ta ngày càng phát triển. Hệ thống làng xã chiến đấu được xây dựng khắp nơi; đại đoàn đầu tiên của quân đội nhân dân đã ra đời. Chúng ta đã tạo nên những điều kiện cần thiết và những cơ sở vững chắc để đưa cuộc kháng chiến tiến lên những bước mới. Đến khi điều kiện trong nước cũng như điều kiện quốc tế trở nên thuận lợi, nhất là sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời vào năm 1949, thì nhân dân ta tiếp tục dựa vào sức mình là chính, đã có khả năng đầy đủ để tiếp thụ có hiệu quả những kinh nghiệm và sự giúp đỡ của các nước anh em, tạo ra những bước phát triển mới. So sánh lực lượng giữa ta và địch vào mùa Hè năm 1953 đã cho phép chúng ta mở ra chiến cuộc Đông Xuân, giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Sự phát triển thắng lợi của cuộc kháng chiến gắn liền với cả quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, là kết quả của những năm chiến đấu lâu dài của toàn dân, kết hợp với những nhân tố mới của thời đại, là kết quả của đường lối kháng chiến đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta đứng đầu là Hồ Chủ tịch. Đó là cách nhìn vấn đề duy nhất đúng đắn đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như sau này, đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên mới. ___________________________________________ 1. Phần bổ sung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào cuốn Điện Biên Phủ, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 25 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, in lần thứ 6, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1979. Tên bài là của BBT. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 09:54:20 am * * * Nhìn lại âm mưu của địch, thấy nổi lên một điểm là chúng luôn luôn chủ quan, luôn luôn phạm sai lầm. Kế hoạch Nava là một kế hoạch chiến lược lớn vận dụng những nguyên lý của khoa học quân sự của Pháp và của Mỹ để phân tích cục diện chiến trường, dựa vào một sự cố gắng chiến tranh rất lớn của Pari và Oasinhtơn nhằm giành một thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn. Cả bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp lẫn các tướng tá của Lầu Năm góc đều hết sức tin tưởng vào kế hoạch ấy; càng đi vào triển khai càng thêm tin tưởng và lạc quan. Mọi người đều biết, trước đây, vào tháng 9 năm 1945, khi mới đưa quân trở lại xâm lược nước ta, đế quõc Pháp cũng cho rằng việc ấy dễ dàng như trở bàn tay, muốn lập lại nền thống trị thực dân của chúng trên đất nước ta, chẳng qua chỉ cần tiến hành một cuộc diễu binh khải hoàn. Vì sao kẻ thù xâm lược luôn luôn chủ quan như vậy, chủ quan đến nỗi là sắp đến lúc thất bại thảm hại rồi mà lại vẫn còn tưởng rằng chúng đang đi đến thắng lợi to lớn. Đương nhiên, đó hoàn toàn không phải là bọn tướng tá Pháp - Mỹ kém trình độ văn hóa hoặc thiếu tri thức quân sự, cũng không phải là chúng thiếu hiểu biết về những tính năng và tác dụng của các binh chủng, quân chủng, của các vũ khí và phương tiện chiến tranh mà chúng tung ra chiến trường. Chúng luôn luôn chủ quan chính là vì chúng không nắm được quy luật của chiến tranh, do đó không thể đánh giá đúng ngay bản thân lực lượng của chúng, càng không thể lường hết được sức mạnh to lớn của cả một dân tộc đang đứng lên đấu tranh vì độc lập, tự do. Chúng không nắm được và cũng không thể nào nắm được quy luật của chiến tranh. Bởi vì, cuộc chiến tranh do chúng gây ra là chiến tranh xâm lược, chiến tranh phi nghĩa. Bởi vì, các quy luật của chiến tranh nói riêng và các quy luật của lịch sử nói chung đều đi ngược lại mục tiêu chính trị, kinh tế và quân sự của chúng, đi ngược lại cả lý do tồn tại của chúng, phủ định không thương tiếc sự tồn tại ấy. Và trong chiến tranh, đã không nắm được quy luật thì tất nhiên không tránh được những quyết định chủ quan, dẫn đến sai lầm về chiến lược. Thất bại là tất yếu. Liên hệ đến tình hình trong hai mươi năm lại đây, từ khi đế quốc Mỹ đem quân xâm lược nước ta, chúng ta lại thấy diễn đi, diễn lại hiện tượng chủ quan đó. Với tiềm lực khổng lồ của chúng, đế quốc Mỹ tin tưởng chúng nhất định thắng. Mỗi lần leo thang, tăng thêm quân, chúng lại một lần nữa tin là nhất định thắng. Sự thật trên chiến trường đã diễn ra trái hẳn với ý muốn của chúng. Cứ sau mỗi một cố gắng chiến tranh mới để "nhất định thắng" thì chúng lại phải chịu đựng một thất bại nặng nề hơn, cho đến thất bại hoàn toàn. Thật không phải là ngẫu nhiên mà có sự trùng hợp kỳ lạ giữa hai cuộc chiến tranh xâm lược về quy luật diễn biến. Đối với đế quốc Pháp khi lực lượng quân đội viễn chinh tăng lên đến mức cao nhất, quân ngụy được mở rộng, trang bị vũ khí được tăng thêm, viện trợ của Mỹ cũng được tuồn sang nhiều nhất, thì cũng chính là lúc chúng đang chuẩn bị một cách vô ý thức để đi đến thất bại thảm hại. Đối với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai cũng vậy. Chính vào thời điểm quân Mỹ tăng lên đến mức cao nhất là lúc chúng buộc phải xuống thang chiến tranh, rút quân khỏi nước ta trong thất bại nhục nhã. Và tiếp đó, cũng chính là vào thời điểm chúng cho rằng chiến lược Việt Nam hóa đã thành công, quân ngụy được phát triển đến trên một triệu, được trang bị hiện đại, trở thành đội quân tay sai mạnh nhất của chủ nghĩa thực dân mới, chính vào lúc đó là lúc quân ta phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, bọn đế quốc cũng như các thế lực phản động khác... vẫn luôn luôn mù quáng và ngoan cố, luôn luôn ôm ấp những mưu đồ đen tối và phiêu lưu. Bởi vì, đó là vấn đề thuộc về bản chất của chúng. Chúng đều là những tên học trò dốt, không bao giờ biết tiếp thụ và không có khả năng tiếp thụ những bài học của lịch sử cho đến ngày chúng bị loại ra khỏi vũ đài của lịch sử. Vì vậy, chúng ta nhất thiết phải luôn luôn cảnh giác và sẵn sàng. Và trong những cuộc đụng độ mới trên mọi quy mô có thể diễn ra giữa cách mạng và phản cách mạng, quy luật lịch sử sẽ diễn ra theo hướng tất yếu của nó là: địch nhất định thua, ta nhất định thắng. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 09:55:10 am * * * Nói đến kế hoạch chiến lược của địch và chủ trương chiến lược của ta trong Đông Xuân 1953-1954 cho đến trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, chúng ta thấy có hai điểm nổi bật. Một là, địch có kế hoạch tập trung binh lực, tăng cường khối lực lượng cơ động chiến lược, nhằm giành lại chủ động, thực hiện một loạt kế hoạch tiến công, chuẩn bị một trận quyết chiến chiến lược trên một chiến trường do chúng lựa chọn. Ta đã sử dụng một bộ phận lực lượng chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng hiểm yếu mà địch tương đối sơ hở. Ta đã buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động chiến lược, làm thất bại ý đồ chiến lược chủ yếu, phá hoại công cụ chiến lược chủ yếu của chúng, tiêu diệt từng bộ phận lực lượng của chúng, làm phá sản kế hoạch Nava. Hai là, địch không có ý định điều quân chủ lực lên chiến trường rừng núi Tây Bắc. Ta đã buộc chúng phải ném chủ lực xuống cánh đồng Điện Biên Phủ. Ta đã tạo nên thời cơ và đã lập tức nắm lấy thời cơ, hạ quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ. Trận Điện Biên Phủ trước đây không nằm trong kế hoạch chiến lược của tướng Nava đã trở thành trận quyết chiến chiến lược lớn nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi cuối cùng. Những sự kiện trên đây là sự thể hiện sinh động của sự chỉ đạo chiến lược vừa cách mạng vừa khoa học của Đảng ta. Trong sự chỉ đạo chiến lược ấy, Đảng ta luôn luôn nắm vững phương châm tích cực chủ động, cơ động linh hoạt, bí mật bất ngờ. Phương châm đó đã được vận dụng và phát triển sáng tạo trong nhiều năm kháng chiến chống Pháp. Cái tinh túy nhất và cũng là nét đặc sắc nhất của sự chỉ đạo chiến lược đó là luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công, giành lấy quyền chủ động, giữ vững và phát triển quyền chủ động. Nắm vững quyền chủ động là biểu hiện tập trung của quyền làm chủ trong chiến tranh, là biểu hiện cao nhất của tư tưởng chiến lược tiến công. Phải nắm vững quyền chủ động trong mọi tình huống, chủ động trong phản công, chủ động trong tiến công, chủ động cả trong tình huống tạm thời tiến hành phòng ngự. Có nắm được quyền chủ động mới buộc được địch hành động theo ý định của ta, mới có thể tạo nên thời cơ mới để tiến công tiêu diệt địch, mới có thể liên tục tiến công quân địch. Muốn nắm được quyền chủ động thì phải phát hiện và nắm vững quy luật của chiến tranh. Chúng ta luôn luôn nắm được quyền chủ động, bởi vì khoa học quân sự Mác - Lênin với phương pháp biện chứng của nó chứa đựng những khả năng vô tận để phát hiện và nắm vững quy luật của chiến tranh. Trong chiến tranh, các tình huống biến chuyển mau lẹ, mỗi bên đều tìm mọi cách che giấu ý định và hành động của mình. Vì vậy, sự chỉ đạo chiến lược phải đi sát thực tiễn của chiến trường, hết sức nhạy bén với mọi nhân tố mới vừa nảy sinh, có như thế mới nắm vững được các quy luật của chiến tranh nói chung, cũng như sự vận động của các quy luật ấy trong từng tình huống, trong mỗi thời điểm nhất định của chiến tranh cũng như trong toàn bộ quá trình diễn biến của nó. Cũng vì trong chiến tranh, tình hình biến chuyển cực kỳ nhanh chóng và phức tạp, cho nên một sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn và sắc bén cần phải kết hợp tính kiên quyết rất cao với tính cơ động linh hoạt. Có như thế mới kịp thời nắm lấy thời cơ mới, giữ vững quyền chủ động trong mọi tình huống, đồng thời tăng thêm khả năng bí mật bất ngờ, nhân sức mạnh chiến đấu của lực lượng ta lên gấp bội để giáng những đòn quyết định vào phương hướng quyết định, giành lấy thắng lợi lớn nhất. Sự chỉ đạo chiến lược của Đảng ta trong Đông Xuân 1953-1954 và trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm cho quân địch đi từ bị động này đến bị động khác, từ sự bất ngờ này đến sự bất ngờ khác. Bất ngờ đến nỗi khi chúng đang tin tưởng có thể tập trung lực lượng cơ động thì bỗng dưng bị buộc phải phân tán ra ở những hướng chúng chưa hề dự kiến. Bất ngờ đến nỗi khi chúng cho rằng ta không còn sức để đánh Điện Biên Phủ thì ngay hôm sau ta mở cuộc tiến công lớn vào Điện Biên Phủ. Bất ngờ đến nỗi trong khi chúng cho rằng Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm có khả năng gây tổn thất không thể cứu vãn cho chủ lực của ta, thì trong thời gian tiếp đó tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. Một nét đặc sắc lớn của sự chỉ đạo chiến lược của ta là đã biết tạo nên một sức mạnh to lớn do sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang với cuộc chiến đấu rộng khắp của nhân dân, giữa hoạt động của ba thứ quân, giữa các mặt trận sau lưng địch với mặt trận chính diện, giữa các chiến trường quan trọng trên phạm vi cả nước ta và trên phạm vi các chiến trường của toàn bán đảo Đông Dương. Sự phối hợp đó đã diễn ra giữa hoạt động quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Chúng ta đã tạo nên một sức mạnh to lớn của cả nước, một sức mạnh mà sau này, về từ ngữ đã được khái quát lên thành sức mạnh tổng hợp. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này, đường lối quân sự cũng như khoa học quân sự của Đảng ta đã phát triển đến những đỉnh cao mới những khả năng mới về phát hiện và nắm vững quy luật, trên cơ sở đó mà phát huy quyền chủ động, mà vận dụng tư tưởng chiến lược tiến công cũng như nghệ thuật tạo nên sức mạnh tổng hợp ngày càng to lớn. Nhờ vậy mà nhân dân ta đã lần lượt đánh bại chiến lược này đến chiến lược khác của chiến tranh xâm lược, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại đến toàn thắng. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 09:56:08 am * * * Đối với mặt trận Điện Biên Phủ thì vấn đề đặt ra là: tập trung đại bộ phận chủ lực của ta mở cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch với sự phối hợp của các chiến trường; hay là chỉ tiếp tục bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giam chân chủ lực của địch ở đây, để tạo điều kiện cho quân ta tiêu diệt quân địch ở các hướng khác. Đó là vấn đề phương hướng chiến lược chủ yếu của chủ lực ta trong cục diện cụ thế lúc bấy giờ. Khi đã hạ quyết tâm mở cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì vấn đề đặt ra là phải đánh như thế nào để bảo đảm cho chiến dịch lịch sử này giành được toàn thắng. Đó là vấn đề nghệ thuật chiến dịch và vấn đề chiến thuật. Chúng ta đều biết rằng, các vấn đề chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật nói trên chính là nội dung chủ yếu của nghệ thuật quân sự. Và nghệ thuật quân sự không phải cái gì khác là nghệ thuật tạo nên một sức mạnh áp đảo nhằm cuối cùng tiêu diệt quân địch, đánh thắng chúng mà ta thì hạn chế tổn thất đến mức thấp nhất. Nghệ thuật tạo nên sức mạnh ấy bao giờ cũng phải tính đến điều kiện cụ thể của ta và của địch về binh lực và hỏa lực, về địa hình của chiến trường, về bảo đảm hậu cần, bảo đảm kỹ thuật; phải tính đến điều kiện mọi mặt trên chiến trường chính và cả trên các chiến trường phối hợp; lại còn nhất thiết phải tính đến ý đồ chiến lược của địch và những biện pháp chiến thuật và kỹ thuật mà địch có thể sử dụng để thực hiện ý đồ ấy. Ngay sau khi chủ lực của địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ thì Trung ương Đảng ta đã hạ quyết tâm bám sát địch, bao vây địch, tạo điều kiện để tiêu diệt chúng. Cho đến khi lực lượng của địch ngày càng tăng thêm, bao gồm nhiều đơn vị tinh nhuệ của khối cơ động chiến lược của chúng, tập đoàn cứ điểm được xây dựng và củng cố ngày càng vững chắc, Trung ương Đảng ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Chúng ta đã căn cứ vào tình hình địch, ta như thế nào để hạ quyết tâm chiến lược quan trọng ấy. Một là, vì chúng ta đã sớm xác định chiến trường chính là chiến trường Bắc Bộ, phương hướng tiến công chủ yếu của chủ lực ta phải là chiến trường miền núi, cụ thể lúc bấy giờ là chiến trường Tây Bắc. Chúng ta đã chọn phương hướng chiến lược chủ yếu như vậy là xuất phát từ nhiều lý do; một trong những lý do quan trọng là vì trong điều kiện địch có hỏa lực không quân, pháo binh và cơ giới mạnh, quân ta trang bị và kỹ thuật còn kém hơn thì tác chiến ở địa hình rừng núi đối với ta tương đối có lợi hơn so với địa hình đồng bằng. Hai là, vì kẻ địch ở Điện Biên Phủ tuy mạnh nhưng ở vào thế bị cô lập; việc tiếp tế và bảo đảm hậu cần bằng đường hàng không có thể bị ta hạn chế và cắt đứt. Đó là chỗ yếu chí mạng của chúng. Ba là, vì bộ đội chủ lực của ta lúc bấy giờ đã có những tiến bộ lớn về chiến dịch và chiến thuật. Quân ta đã có kinh nghiệm đánh công sự vững chắc và đã được rèn luyện một bước để tiêu diệt địch trong tập đoàn cứ điểm. Bốn là, vì tuy Điện Biên Phủ ở xa hậu phương ta, nhưng ta đã chuẩn bị một phần các tuyến đường nhằm sử dụng chủ lực trên hướng Tây Bắc; vấn đề tiếp tế hậu cần tuy khó khăn nhưng có thể giải quyết được. Năm là, vì thế chiến lược chung ngày càng ở thế có lợi cho ta, lực lượng cơ động của địch ngày càng bị phân tán, quân ta đang tiếp tục đẩy mạnh hoạt động trên khắp các chiến trường. Như vậy, nếu đối với các hướng chiến lược khác trên cả nước, chúng ta tiến công vào những nơi hiểm yếu mà địch tương đối sơ hở, thì trên hướng chiến lược Điện Biên Phủ, chúng ta đã hạ quyết tâm tập trung lực lượng tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch. Đó cũng là sự biểu hiện sinh động của sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Trung ương Đảng ta. Trong chỉ đạo chiến tranh, có được một quyết định chiến lược chính xác là một nhân tố quan trọng vào bậc nhất. Nhưng khi đã có quyết định chiến lược chính xác, muốn bảo đảm giành được thắng lợi thì còn phải giải quyết đúng đắn các vấn đề về nghệ thuật chiến dịch, về chiến thuật nữa. Có thể nói rằng, trong một trận đánh, lực lượng hai bên ra trận như thế nào chỉ mới là điều kiện, là khả năng cho mỗi bên để giành lấy thắng lợi. Thắng lợi ấy còn do cách đánh quyết định. Trước một kẻ địch nhất định, với một lực lượng nhất định của ta, đánh như thế này có thể thắng to, đánh như thế kia có thể thắng nhỏ, thậm chí có khi bị thất bại. Rõ ràng cách đánh có tầm quan trọng quyết định để biến khả năng thắng lợi thành hiện thực. Đứng về chiến dịch mà nói, trên mặt trận Điện Biên Phủ, lúc đầu chúng ta đã quyết định vận dụng phương châm đánh nhanh thắng nhanh, tập trung toàn bộ chủ lực, tổ chức hiệp đồng giữa các binh chủng, mở cuộc tiến công từ một số hướng, tiêu diệt toàn bộ quân địch trong thời gian ba đêm hai ngày. Theo phương châm ấy, một kế hoạch tác chiến cụ thể đã được đề ra; mọi mặt công tác chuẩn bị đã được triển khai rất khẩn trương; các sư đoàn chủ lực của ta đã được giao nhiệm vụ; các đơn vị pháo binh đã được kéo vào trận địa; công tác bảo đảm hậu cần trên hỏa tuyến đã được đẩy mạnh; mạng thông tin liên lạc đã được tổ chức. Công tác chính trị đã động viên bộ đội và dân công nêu cao quyết tâm giành toàn thắng cho chiến dịch. Quân ta chỉ đợi lệnh là bắt đầu nổ súng. Trong suốt thời gian chuẩn bị, chúng ta đã bám sát quân địch, theo dõi từng động tĩnh của chúng, phát hiện hệ thống phòng ngự của chúng ngày càng được xây dựng vững chắc hơn. Đến ngày 25 tháng 1 năm 1954, khi kiểm tra lại tình hình địch, ta về mọi mặt thì chúng ta đi đến kết luận: tập đoàn cứ điểm của địch đã được củng cố rất nhiều so với trước; trong tình hình đó, kế hoạch đánh nhanh không thể bảo đảm chắc thắng được. Sáng ngày 26, vào lúc 11 giờ, ta quyết định thay đổi cách đánh, bỏ kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh chuyển sang phương châm đánh chắc tiến chắc. Chiều ngày 26, toàn bộ lực lượng ta đã được lệnh rút ra khỏi trận địa, trở về nơi tập kết; các đơn vị pháo binh trước đây đã được lệnh kéo vào đến nay lại được lệnh kéo ra. Và để yểm trợ cho cuộc tạm thời thu quân, đại đoàn 308 đã được lệnh phối hợp cùng Quân giải phóng Pathét Lào, lập tức mở cuộc tiến quân về hướng Luông Phabăng, vừa tiêu diệt sinh lực của địch, vừa thu hút hầu hết không quân của địch về hướng đó. Một công cuộc chuẩn bị mới với một khối lượng công tác tham mưu, chính trị và hậu cần rất lớn lại được triển khai. Cho đến khi mọi công tác chuẩn bị đã được hoàn thành, quân địch tưởng rằng ta đã bỏ ý định mở cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ, thì ngày 13 tháng 3, quân đội ta mở đầu cuộc tiến công lớn vào tập đoàn cứ điểm. Thắng lợi của chiến dịch chứng tỏ rằng, sự thay đổi phương châm là hoàn toàn chính xác. Nó đã có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của chiến dịch. Vận dụng phương châm đánh chắc tiến chắc hoàn toàn không có nghĩa là khi điều kiện mọi mặt đã thay đổi có lợi cho ta, khi các thắng lợi liên tiếp của quân ta đã từng bước tạo nên thời cơ mới, thì ta không chuyển sang đánh nhanh thắng nhanh. Thực tế, chiều ngày 7 tháng 5, khi tình hình địch đã có dấu hiệu rối loạn, tinh thần suy sụp, thì quân ta lập tức được lệnh nắm lấy thời cơ, vào 15 giờ đã mở cuộc tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm, đến 17 giờ 30 phút thì tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Ở đây, tôi muốn phân biệt rõ giữa một quyết định tác chiến chính xác với tinh thần kiên quyết chiến đấu của quân đội. Một quyết định tác chiến chính xác là một chủ trương tác chiến thể hiện đầy đủ tính cách mạng và tính khoa học, xuất phát từ một sự đánh giá đúng đắn và toàn diện về ta và về địch. Còn tinh thần kiên quyết chiến đấu lại là quyết tâm chiến đấu anh dũng của quân đội, quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ đã được giao cho. Phải nói rằng, tinh thần quyết chiến là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Nhưng chỉ có tinh thần quyết chiến cũng chưa đủ. Tinh thần quyết chiến chỉ có thể phát huy đầy đủ tác dụng của nó trên cơ sở một kế hoạch tác chiến chính xác, một quyết tâm đúng đắn về chiến dịch, chiến thuật, và những khả năng hiện thực về tổ chức và chỉ huy. Khi đã có đường lối cách mạng đúng đắn thì phương pháp cách mạng là vấn đề quyết định. Khi đã có chủ trương tác chiến đúng đắn thì phương pháp tác là vấn đề quyết định. Đó là một trong những nội dung chủ yếu của nghệ thuật chỉ huy. Vấn đề phương pháp tác chiến đã được phát huy đến trình độ mới với nội dung hết sức phong phú và sáng tạo trong suốt những năm chống Mỹ, cứu nước sau này và là một trong những nhân tố đã đưa cuộc kháng chiến ấy đến thắng lợi cuối cùng. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 09:57:42 am * * * Đứng về nghệ thuật chiến dịch cũng như về chiến thuật, có thể nói rằng, với trận Điện Biên Phủ, quân đội ta đã thực hiện một bước nhảy vọt lớn. Chỉ trong một thời gian ngắn, từ chỗ tiêu diệt một tiểu đoàn địch hay nhiều nhất là một tiểu đoàn tăng cường trong công sự vững chắc, quân đội ta đã tiến vượt hẳn lên, tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm kiên cố với một lực lượng tinh nhuệ rất mạnh gồm hai mươi mốt tiểu đoàn. Quân đội ta đã thực hiện bước tiến vượt bậc ấy trong khi trang bị vũ khí của ta chưa có sự cải tiến nào đáng kể. Chúng ta vẫn chiến đấu trong điều kiện địch có không quân tương đối mạnh, có pháo binh mạnh, có xe tăng, còn bộ đội ta thì chưa có chiếc máy bay nào, chưa có chiếc xe tăng nào, pháo binh còn rất hạn chế. Bí quyết của bước tiến vọt đó là sự vận dụng những phương pháp chiến thuật mới, những phương pháp chiến thuật có ý nghĩa chiến dịch nhằm giải quyết yêu cầu mới rất cao của nhiệm vụ là phải tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Phương pháp chiến thuật quan trọng nhất có ý nghĩa chiến dịch là phương pháp lần lượt tiêu diệt từng tiểu đoàn hoặc một số tiểu đoàn địch nằm trong hệ thống tập đoàn cứ điểm. Phương pháp chiến thuật ấy phù hợp với trình độ của bộ đội ta, với khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng của quân đội ta lúc bấy giờ. Chính phương pháp ấy tưởng chừng như đơn giản, nhưng thực tế là rất sáng tạo, đã cho phép bộ đội ta quán triệt phương châm đánh chắc thắng chắc, tiêu diệt địch từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch, thực hiện một bước nhảy vọt kỳ diệu trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong quá trình phát triển của chiến dịch, quân ta đã sáng tạo ra chiến thuật bao vây đánh lấn, nhanh chóng tiêu diệt từng trung tâm đề kháng của địch mà ta thì bị thương vong rất ít. Phương pháp chiến thuật quan trọng thứ hai có ý nghĩa chiến dịch là công tác xây dựng hệ thống trận địa tiến công và bao vây. Bộ đội ta đã từng làm trận địa xuất phát tiến công có công sự cho từng trung đội, đại đội, tiểu đoàn. Với biện pháp ấy, trong điều kiện địch có hỏa lực pháo binh và không quân mạnh, quân đội ta nói chung phải lợi dụng đêm tối để tiến hành tiến công, do đó, mỗi cuộc chiến đấu không thể nào kéo dài quá ba đến năm tiếng đồng hồ và như vậy thì chỉ có khả năng tiêu diệt từng tiểu đoàn độc lập của địch trong công sự vững chắc. Trong một thời gian khá dài, vấn đề đặt ra mà chưa được giải quyết là phải làm thế nào để tiến hành được cuộc chiến đấu cả ngày lẫn đêm và trên mọi loại địa hình, có như vậy mới mở ra khả năng tiêu diệt sinh lực lớn của địch. Sự phát triển công sự thành một hệ thống trận địa tiến công và bao vây đã giải quyết thành công một vấn đề quan trọng, mở ra khả năng nói trên. Trên cánh đồng Điện Biên Phủ, dưới bom đạn của địch, quân đội ta đã từ chỗ trước đây thường chỉ chiến đấu trong một đêm, tiến lên bám trụ, chiến đấu liên tục trong suốt năm mươi nhăm ngày đêm, thắt chặt vòng vây, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất của địch. Ở đây, cũng cần nói đến hệ thống các trận địa vững chắc của pháo binh ta đặt trên sườn các đồi núi vây quanh Điện Biên Phủ; mặc dù kẻ địch ra sức bắn phá, các trận địa pháo binh của ta vẫn hoạt động tốt, không hề bị gián đoạn. Phương pháp chiến thuật quan trọng thứ ba, cũng là một phương pháp có ý nghĩa chiến dịch, là dùng mọi cách đánh để triệt đường tiếp tế hậu cần của địch. Trận địa tiến công và bao vây của ta ngày càng thắt chặt lại, hỏa lực pháo binh rồi đến hỏa lực bộ binh của ta đã khống chế sân bay. Cuối cùng, sân bay Mường Thanh bị chiếm hẳn. Việc tiếp tế bằng cầu hàng không ngày càng bị hạn chế, đi đến bị cắt đứt hoàn toàn. Cái mà địch đã từng cho là chỗ mạnh đã biến thành chỗ yếu chí mạng của chúng. Triệt đường tiếp tế hậu cần của địch là một thành công lớn của quân đội ta, một trong những kinh nghiệm nổi bật trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Kết quả là, mặc dù quân địch còn trên một vạn quân, nhưng chúng đã lâm vào cảnh thiếu lương thực, thiếu đạn dược, bị đẩy vào chỗ nguy khốn nghiêm trọng, cuối cùng đã phải đầu hàng. Phương pháp chiến thuật quan trọng thứ tư, cũng là một phương pháp có ý nghĩa chiến dịch là tìm mọi biện pháp để bảo vệ các tuyến hậu cần tiếp tế của ta, nhiều tuyến chi viện kéo dài từ hậu phương xa, cộng các tuyến lại thì dài hàng nghìn kilômét1, đi qua nhiều đèo dốc hiểm yếu, bị không quân địch bắn phá suốt ngày đêm. Ngoài những tuyến đường đã có sẵn, chúng ta đã gấp rút mở thêm đường mới, lợi dụng cả đường bộ và đường sông, sử dụng mọi phương tiện vận chuyển từ thô sơ đến hiện đại. Phải nhấn mạnh rằng, sự khai thác hậu cần tại chỗ đã có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong khi chiến dịch tiếp diễn, đạn dược, nhất là đạn pháo, cướp lấy của địch cũng đã giải quyết một phần khá lớn yêu cầu chiến đấu cho pháo binh của ta. Bằng những biện pháp hết sức tích cực và sáng tạo, với một sự cố gắng to lớn, chúng ta đã bảo đảm thành công vấn đề tiếp tế hậu cần cho chiến dịch. Do đó, cái mà địch cho là chỗ yếu không thể khắc phục của ta đã trở thành một nhân tố bất ngờ, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch. Vấn đề phương pháp chiến thuật có một nội dung hết sức phong phú trong chiến dịch Điện Biên Phủ; trên đây chỉ nêu lên một số phương pháp chủ yếu, nhằm nói lên tầm quan trọng của các phương pháp chiến thuật đối với thắng lợi của một chiến dịch. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, mối quan hệ giữa chiến lược, nghệ thuật chiến dịch với phương pháp chiến thuật hết sức rõ rệt. Có chiến lược đúng mới có thể có nghệ thuật chiến dịch và phương pháp chiến thuật đúng. Nhưng chỉ có chiến lược đúng cũng chưa đủ, phải có nghệ thuật chiến dịch đúng và phương pháp chiến thuật đúng mới bảo đảm giành được thắng lợi trong chiến tranh. Thậm chí có chiến lược đúng, có nghệ thuật chiến dịch đúng mà phương pháp chiến thuật sai cũng có thể đưa đến thất bại về chiến dịch, gây ra ảnh hưởng tiêu cực về chiến lược, có khi ảnh hưởng nghiêm trọng. Đây là cả một hệ thống hữu cơ của tư tưởng tác chiến trong khoa học và nghệ thuật quân sự cách mạng. Nội dung chủ yếu của tư tưởng tác chiến ấy là phải thể hiện tư tưởng chủ động, tư tưởng tiến công ở trình độ cao nhất, kết hợp tinh thần kiên quyết với trí thông minh sáng tạo, giải quyết triệt để những mâu thuẫn đối kháng được đặt ra trong cuộc chiến đấu quyết liệt giữa ta và địch, vô luận trong điều kiện lực lượng ta nhiều hay ít, vũ khí trang bị hiện đại hay thô sơ, đều phải tạo nên cho được một sức mạnh áp đảo cụ thể trong những tình huống cụ thể, tiêu diệt bằng được mọi kẻ địch mà lực lượng ta thì càng đánh càng mạnh thêm lên. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt, nghệ thuật quân sự và tư tưởng tác chiến độc đáo và sáng tạo của quân đội ta đã phát triển đến những đỉnh cao mới. Trong khi quân đội ta ngày càng trưởng thành, vũ khí trang bị ngày càng hiện đại, chúng ta càng phải phát huy những cái gì là tinh túy nhất, là sáng tạo nhất trong truyền thống quân sự vô cùng quý giá của nhân dân ta, của dân tộc ta. Với vũ khí thô sơ và tương đối hiện đại, quân đội ta đã phát huy quyền làm chủ của con người đối với kỹ thuật, tạo nên sức mạnh kỳ diệu để thắng mọi kẻ địch. Với trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại, chúng ta càng phải phát huy quyền làm chủ và vai trò quyết định của con người, tạo nên sức mạnh mới, mạnh hơn gấp trăm lần để chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu. Với ý nghĩa đó, kinh nghiệm của Điện Biên Phủ mãi mãi còn có sự cống hiến quan trọng. _____________________________________________ 1. Các tuyến chủ yếu là: tuyến chi viện từ Thanh Hóa đến Điện Biên Phủ, tuyến chi viện từ Cao Bằng đến Điện Biên Phủ, tuyến chi viện từ Lai Châu đến Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 09:59:15 am * * * Trong bức điện khen ngợi cán bộ và chiến sĩ nhân dịp chiến thắng Điện Biên Phủ, Hồ Chủ tịch đã viết: "Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bước đầu...". Từ bước đầu vĩ đại ấy, trong ròng rã hai mươi năm qua, nhân dân ta lại lập nên một chiến công mới: đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn Tổ quốc thân yêu. Đây là chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ta. Thật là một sự trùng hợp kỳ diệu: hai cuộc kháng chiến, hai lần tổng tiến công, hai chiến dịch quyết chiến chiến lược vĩ đại. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, từ những ngày đầu, nhân dân ta đã có một quyết tâm sắt đá, "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ", quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên, trong những ngày đầu, chúng ta cũng mới nắm được những quy luật chung, những khả năng phát triển chủ yếu của cuộc chiến tranh; chúng ta chưa thể thấy được hết mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù, dự đoán được hết quy mô ngày càng lớn của cuộc chiến tranh xâm lược. Thực ra, chúng ta không thể nào lường trước được hết những cái mà chính bộ tham mưu của đế quốc Pháp cũng chưa hề tính tới. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng vậy; khi đứng lên chiến đấu chống quân thù theo tiếng gọi của Tổ quốc thì nhân dân ta từ Nam chí Bắc đã có một quyết tâm rất lớn, nhất định chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng. Tuy nhiên, trong những ngày đầu đứng lên đánh Mỹ, không phải chúng ta đã dự đoán được hết mọi mưu đồ nham hiểm của kẻ thù, thấy được hết quy mô ngày càng mở rộng của chiến tranh xâm lược - một cuộc chiến tranh tàn bạo nhất, quy mô lớn nhất từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thực ra, chúng ta không thể nào dự đoán được hết những cái mà ngay trong sự chỉ đạo chủ quan của kẻ thù, chính Lầu Năm góc cũng chưa hề lường đến. Thế nhưng, trong quá trình của cả hai cuộc kháng chiến thần thánh, kẻ địch càng hung hăng tàn bạo thì quân và dân ta lại càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh lên. Mỗi một lần kẻ địch tìm cách tăng thêm sức mạnh mọi mặt để giành bằng được một thắng lợi mà lúc nào chúng cũng cho là đã nắm chắc trong tay, thì nhân dân ta, dân tộc ta càng phát huy hơn nữa sức mạnh mới của mình, nâng cao hơn nữa tài năng của mình trong tổ chức thực tiễn, làm cho sức mạnh kháng chiến cứu nước của dân tộc ta, trong bất cứ tình huống nào, luôn luôn là một sức mạnh vô địch. … Cũng nên nhắc lại ở đây rằng: dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân ta luôn luôn sắt son một lòng, quyết chí giải phóng đất nước, hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng. Nhưng, không phải trong chúng ta, ai ai cũng đều lường được hết sức mạnh vô cùng to lớn của chính bản thân dân tộc mình. Vì vậy mà, vào lúc nào đó, một vấn đề hệ trọng đã được đặt ra: nếu đế quốc Mỹ và tay sai đem một triệu quân xâm lược nước ta thì phải chăng, muốn giành được thắng lợi, chúng ta phải cần đến trên một triệu quân tình nguyện của các nước anh em cùng nhau sát cánh chiến đấu. Ngày nay, thực tế lịch sử đã kết luận: dựa vào sức mình là chính, với sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, nhân dân Việt Nam ta hoàn toàn có khả năng đánh bại mọi kẻ thù, kể cả quân đội viễn chinh hùng mạnh của tên đế quốc đầu sỏ. Trên ba mươi năm qua, dân tộc ta, nhân dân ta đã tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước oanh liệt nhất trong lịch sử của dân tộc. Ba mươi năm chẳng qua chỉ là một khoảnh khắc trong lịch sử lâu đời của đất nước. Trong khoảnh khắc ấy, biết bao đổi thay kỳ diệu đã diễn ra trên mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc. Nhớ lại, mới ngày nào đó, nhân dân ta còn phải chịu đựng biết bao lầm than khổ nhục, rên xiết trong cảnh nước mất nhà tan. Lúc bấy giờ, trên thế giới, hầu như chưa mấy ai biết đến dân tộc Việt Nam, trong khi kẻ thù đang mưu toan xóa hẳn nước ta trên bản đồ của bán đảo Đông Dương, của Đông Nam châu Á. Ngày nay, cục diện của đất nước ta đã thay đổi hoàn toàn. Sau bao nhiêu năm chiến đấu với một tinh thần anh dũng tuyệt vời, nhân dân ta đã quét sạch mọi kẻ thù đế quốc xâm lược, dân tộc ta đã đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới: Nhìn lại cả quá trình đấu tranh cách mạng, từ khi chưa có một tấc đất tự do, chưa có một tấc sắt trong tay, rõ ràng dân tộc ta, đất nước ta đã lớn lên như thần Phù Đổng. Bí quyết nào, sức mạnh nào đã làm cho dân tộc ta, đất nước ta lớn lên nhanh chóng như vậy, để trong cuộc sống hàng ngày và trong cuộc chiến đấu lâu dài của mình, làm nên được những sự tích phi thường như vậy? Ở đây, chúng ta phải nói đến sức mạnh không bờ bến của mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ những thuở xa xưa, tinh thần làm chủ non sông đất nước đã ăn sâu vào trí óc, máu thịt của con người Việt Nam. Trải qua biết bao thế hệ chiến đấu chống thiên tai, địch họa, tinh thần ấy đã được hun đúc thành khí phách anh hùng, thành truyền thống yêu nước vĩ đại. Đó là truyền thống cả nước chung sức lại, mỗi khi có họa xâm lăng; trăm họ đều là binh, chí dân mạnh hơn thành quách. Với ý chí quyết chiến và tài thao lược kiệt xuất, dân tộc ta đã đánh thắng biết bao cuộc xâm lăng tàn bạo của các thế lực phong kiến phương Bắc, giữ vững nền độc lập của đất nước. Bước vào kỷ nguyên mới của loài người, bắt đầu với cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong, dân tộc ta, nhân dân ta đã nhân sức mạnh của mình lên gấp nhiều lần, liên tiếp đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới của các nước đế quốc to, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, theo lời kêu gọi của Đảng, nhân dân ta cả nước một lòng, từ thành thị đến nông thôn đã vùng lên khởi nghĩa, đưa Cách mạng tháng Tám đến thành công, lập ra chính quyền dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á, đập tan ách thống trị hàng trăm năm của chủ nghĩa đế quốc, phá tan xiềng xích hàng nghìn năm của bọn vua quan phong kiến. Tiếp đó, hưởng ứng lời hiệu triệu kháng chiến chống Pháp, toàn dân ta đã nhất tề đứng dậy giết giặc, cứu nước. Đoàn kết, đại đoàn kết, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Mỗi một làng xã là một pháo đài, mỗi một đường phố là một trận địa; cả nước ta biến thành một hệ thống làng xã chiến đấu bao la và rộng khắp. Chính trên cơ sở đó mà quân đội nhân dân từ những đơn vị nhỏ lúc đầu đã nhanh chóng trở thành những binh đoàn lớn mạnh. Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, nhà nước dân chủ nhân dân đã phát huy khả năng tổ chức thực tiễn to lớn của mình, động viên và tổ chức quân đội và nhân dân, giáng những đòn quyết định, đánh thắng quân thù, lập nên chiến công lừng lẫy. Dân tộc Việt Nam ta không hề say sưa với thắng lợi, bởi vì, một nửa đất nước đang rên xiết dưới gót sắt của đế quốc và bè lũ tay sai. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân ta, cả nước một lòng, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vừa xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vừa hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Trên cơ sở tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà nước vô sản chuyên chính càng có những khả năng to lớn để kết hợp mọi hình thức đấu tranh, vừa củng cố hậu phương, vừa chi viện tiền tuyến. Lực lượng vũ trang quần chúng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp, quân đội nhân dân ngày càng tiến lên trên con đường chính quy và hiện đại. Với tư tưởng quân sự luôn luôn chủ động, luôn luôn tiến công quân địch, bằng một chiến lược tổng hợp tài tình và vô cùng sáng tạo, quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày càng nắm vững quy luật của chiến tranh, đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cuối cùng đã quật ngã tên khổng lồ chân đất sét, làm nên câu chuyện thần kỳ của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX. Bí quyết thắng lợi lớn nhất của dân tộc ta, của nhân dân ta trong sự nghiệp chống ngoại xâm là đường lối đúng đắn, độc lập tự chủ và sáng tạo của Đảng ta, là sự phát triển vượt bậc và ngày càng hoàn chỉnh của khoa học và nghệ thuật quân sự đánh giặc cứu nước của nhân dân ta, là sự kết hợp hữu cơ giữa sự lãnh đạo của Đảng với tinh thần quyết chiến và trí thông minh sáng tạo của quân và dân cả nước, giữa tinh thần cách mạng tiến công triệt để của giai cấp công nhân với truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, là sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh của cả dân tộc được tổ chức lại ở trình độ ngày càng cao với sức mạnh to lớn của thời đại mới, tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo, đánh thắng mọi kẻ thù, giành lại độc lập và tự do cho Tổ quốc. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:00:30 am * * * Ngày nay, nước ta đã được độc lập và thống nhất hoàn toàn, cả nước đang trên đà tiến lên chủ nghĩa xã hội. Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IV lịch sử, toàn dân ta đang tập trung sức lực và trí tuệ của mình, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc trong hòa bình. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lẽ sống của nhân dân ta. Hòa bình và hữu nghị là nguyện vọng của dân tộc ta. … Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng: thắng lợi của nhân dân ta là một thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử và có tầm quan trọng quốc tế lớn lao, là thắng lợi chung của các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đó là thắng lợi của văn minh chống bạo tàn, của ánh sáng chống đêm tối, thắng lợi của những giá trị cao quý nhất của cả loài người tiến bộ. Đó là thắng lợi của chính nghĩa, thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin vô địch. Chính vì vậy mà chủ nghĩa đế quốc quốc tế và mọi thế lực phản động khác, từ chủ nghĩa dân tộc sô vanh nước lớn cho đến các loại phản động tồi tệ nhất đều run sợ trước sự lớn mạnh của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trước ảnh hưởng ngày càng lớn của đường lối Mác - Lênin chân chính của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính sách thù địch của các thế lực phản động... không mảy may chứng tỏ là chúng mạnh, mà trái lại càng chứng tỏ chúng đang trên con đường suy yếu, không thể nào tránh khỏi quy luật đào thải của lịch sử. Đứng trước tình hình mới, nhân dân ta càng nhận thức sâu sắc sứ mệnh lịch sử của mình, nêu cao tinh thần tự lực tự cường, dốc lòng dốc sức xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh; luôn luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu kiên quyết... Quyết tâm đánh bại mọi mưu đồ nham hiểm và hành động xâm lược của kẻ thù, kể cả chiến tranh quy mô lớn. Nhân dân ta quyết làm tròn nhiệm vụ trọng đại của mình, bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tình hữu nghị chân chính giữa nhân dân các dân tộc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giữ gìn hòa bình và đấu tranh cách mạng của nhân dân các nước ở Đông Nam châu Á và trên thế giới. Trong sự nghiệp chính nghĩa của mình, nhân dân ta nhất định thắng, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động... nhất định thất bại. Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta có chủ nghĩa Mác - Lênin chân chính, có đường lối đúng đắn, độc lập tự chủ và sáng tạo của Đảng ta, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đường lối quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta nhất định thắng, bởi vì dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đang vững bước tiến lên xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hóa mới, con người mới trên phạm vi cả nước ta. Chúng ta nhất định thắng, bởi vì dân tộc ta vốn có truyền thống đấu tranh bất khuất, nhân dân ta giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính, lực lượng vũ trang nhân dân ta có truyền thống quyết chiến quyết thắng đã được thử thách. Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta có sự đồng tình ủng hộ quốc tế to lớn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, của nhân dân các dân tộc yêu chuộng hòa bình và công lý, của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và Hồ Chủ tịch, lúc này hơn lúc nào hết, dân tộc ta, nhân dân ta quyết đem hết nghị lực và trí tuệ, bằng một sự cố gắng lớn lao nhất trong hành động cách mạng và tổ chức thực tiễn, cả nước một lòng, ra sức phấn đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thân yêu, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đến toàn thắng trên đất nước Việt Nam thân yêu trong mọi tình huống. Hà Nội, ngày 1 tháng 1 năm 1979 Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:16:49 am “ĐIỆN BIÊN PHỦ - CÂY CỘT MỐC BẰNG VÀNG” 1 Cùng với Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa... Điện Biên Phủ đã đánh dấu một chặng đường lịch sử của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Đây là cây cột mốc bằng vàng”. * * * Ba mươi năm trước đây, tại một thung lũng bấy giờ chưa mấy ai biết đến trên miền Tây Bắc của Tổ quốc, đã diễn ra trận quyết chiến chiến lược lớn nhất trong cuộc kháng chiến lâu dài của nhân dân ta chống đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Sau 55 ngày đêm chiến đấu với một tinh thần quyết chiến quyết thắng, quân và dân ta đã lập nên chiến công Điện Biên Phủ, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm mạnh nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ mang ý nghĩa sâu sắc của thời đại mới, bắt đầu từ Cách mạng tháng Mười Nga. Với chủ nghĩa Lênin, con đường giải phóng của các dân tộc đã được mở ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người học trò xuất sắc của Lênin, sáng lập ra Đảng ta, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiến lên trên con đường thắng lợi. Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á ra đời. Tiếp đó, Đảng đã phát động cuộc kháng chiến trường kỳ khi đế quốc Pháp trở lại xâm lược nước ta, nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện của nhân dân ta đã vượt qua muôn trùng khó khăn gian nguy, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, gây cho địch những tổn thất nặng nề, đẩy chúng vào tình thế ngày càng nguy khốn. Bước vào Đông Xuân 1953-1954, trước mưu đồ điên cuồng của đế quốc Pháp - Mỹ đề ra kế hoạch Nava nhằm kết thúc chiến tranh trong vòng 18 tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta đã động viên và lãnh đạo toàn quân và dân ta trong cả nước phối hợp với quân và dân hai nước bạn Lào và Campuchia anh em, tiến hành cuộc tiến công chiến lược rộng lớn, đập tan kế hoạch Nava, giành thắng lợi lớn trên khắp các chiến trường mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Trong lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta biết bao phen đã đánh thắng những đội quân xâm lược tàn bạo của các thế lực phong kiến phương Bắc. Nhưng đây là lần đầu tiên, dân tộc ta, nhân dân ta đã đánh thắng đội quân hùng mạnh của một nước đế quốc phương Tây, đế quốc Pháp xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với các chiến thắng to lớn khác trên các chiến trường đã đưa đến thành công của Hội nghị Giơnevơ, lập lại hoà bình trên đất nước ta và hai nước bạn Lào và Campuchia, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn trong cuộc đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã lần đầu phá vỡ một mảng thành trì quan trọng của chủ nghĩa đế quốc, gióng lên hồi chuông báo hiệu buổi chiểu tàn của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã được nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung Quốc, nhân dân các nước anh em và cả loài người tiến bộ trong đó có nhân dân Pháp đón mừng như thắng lợi của bản thân mình. Các dân tộc bị áp bức ở khắp châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh được cổ vũ mạnh mẽ, kế tiếp nhau vùng lên chiến đấu. Nhân dân ta có thể tự hào là đã có cống hiến xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng của các dân tộc. Cùng với những thắng lợi vang dội của biết bao dân tộc, trong những thập kỷ gần đây đã đứng lên chiến đấu để làm chủ vận mệnh của mình, chiến thắng Điện Biên Phủ đã khẳng định chân lý vĩ đại: Một dân tộc bị áp bức, quyết tâm đoàn kết chiến đấu vì độc lập và tự do theo đường lối đúng đắn, nhất định có đầy đủ khả năng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đó là quy luật của lịch sử trong thời đại ngày nay. ____________________________________________ 1. Bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ; đăng trên Báo ảnh Việt Nam, số 305, ngày 6 tháng 5 năm 1984; báo Sài Gòn giải phóng, số 2758, ngày 6 tháng 5 năm 1984; Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5 năm 1984. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:17:43 am * * * Trong cuộc đọ sức quyết liệt Đông Xuân 1953-1954, trên khắp các chiến trường của bán đảo Đông Dương nói chung cũng như trên chiến trường chính Điện Biên Phủ, sự lãnh đạo của Đảng ta đã tỏ ra đúng đắn, sáng tạo và sắc bén, thực sự biết địch, biết ta, nắm được quy luật của chiến tranh và luôn luôn giữ vững quyền chủ động. Chúng ta cho chủ động là nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân. Chủ động thể hiện quyền làm chủ trên chiến trường, buộc địch phải hành động theo ý định của ta. Chủ động cũng là biểu hiện cao nhất của tư tưởng tiến công cách mạng trong chiến tranh. Với tư tưởng chủ động và tiến công ấy, chúng ta đã phát huy đến cao độ sức mạnh của quân và dân ta trong cả nước, phối hợp với quân và dân của hai nước anh em trên bán đảo Đông Dương. Chúng ta đã kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để giành lấy thắng lợi từng bước, đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ngược lại, đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ không phải thiếu sức mạnh vật chất và vũ khí, cũng không thiếu những tướng lĩnh tài ba, nhưng do cuộc chiến tranh xâm lược là phi chính nghĩa, nên họ không nắm được và cũng không thể nào nắm được quy luật của chiến tranh. Họ luôn luôn đánh giá quá cao sức mạnh vật chất và kỹ thuật, đánh giá quá thấp sức mạnh của một dân tộc, một quân đội đứng lên chiến đấu vì độc lập và tự do. Họ luôn luôn chủ quan, luôn luôn bị bất ngờ, luôn luôn bị động, luôn luôn phạm sai lầm. Vào lúc họ tưởng chừng như sắp giành thắng lợi to lớn thì chính là lúc đi đến thất bại hoàn toàn. Bắt tay vào thực hiện kế hoạch, đầu mùa Đông 1953, tướng Nava đã có một quyết tâm lớn, tập trung ở vùng châu thổ sông Hồng một lực lượng cơ động lớn nhất từ trước tới nay, quyết giành lại chủ động. Nava quên rằng, do bản chất chiến tranh xâm lược, phân tán lực lượng để chiếm đóng đất đai là một sự tất yếu không thể tránh được. Do vậy, khi quân ta phối hợp với lực lượng vũ trang của hai nước bạn triển khai cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân trên khắp các chiến trường, cho các cánh quân của ta đánh vào những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối sơ hở, thì tướng Nava liên tiếp bị động, buộc phải rút từng bộ phận của lực lượng cơ động, phân tán ra khắp bốn phương để đối phó. Kẻ địch lại càng lúng túng và bị động trước bão táp của chiến tranh nhân dân nổi lên mạnh mẽ ở khắp các vùng sau lưng địch: từ đồng bằng Bắc Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long, Bình Trị Thiên, Tây Nguyên và ở hai nước bạn Lào và Campuchia, tiêu diệt và làm tan rã sinh lực địch, mở ra những vùng giải phóng rộng lớn. Chỉ trong vòng bốn tháng, khối lực lượng cơ động mà Nava dày công xây dựng đã bị xé nhỏ làm nhiều mảnh, không còn có hiệu lực. Kế hoạch Nava bắt đầu bị phá sản từ đó. Cũng trong xu thế nói trên, khi một cánh quân của ta tiến lên Tây Bắc, Lai Châu bị đe dọa, Thượng Lào bị uy hiếp, thì tướng Nava đã phải vội vã cho các đơn vị quân dù đổ bộ xuống Điện Biên Phủ. Thế là tại Điện Biên Phủ, một trận quyết chiến chiến lược đã hình thành ngoài mọi tính toán của viên tư lệnh thứ bảy của đội quân viễn chinh Pháp. Trên mặt trận Điện Biên Phủ, dưới áp lực của quân ta, bọn chỉ huy quân đội viễn chinh tiếp tục tăng thêm lực lượng. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lớn lên rất nhanh, được tổ chức “phòng ngự ở mức độ tối đa”. Các tướng tá Pháp - Mỹ coi Điện Biên Phủ là “một pháo đài bất khả xâm phạm”, sẵn sàng và đủ sức để nghiền nát quân chủ lực của ta nếu quân ta dám liều lĩnh tiến công vào. Chúng ta đã sớm nhận định: địch bị động điều các binh đoàn tinh nhuệ của chúng lên miền rừng núi Tây Bắc, đây là một cơ hội tốt để quân ta tiêu diệt chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Quân và dân ta đứng trước một nhiệm vụ lịch sử hết sức nặng nề và vẻ vang. Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại ấy, lúc đầu, khi quân địch mới chiếm đóng, còn sơ hở, ta đã từng chủ trương tập trung các đại đoàn chủ lực, tiến hành một trận đánh lớn tiêu diệt tập đoàn cứ điểm trong 2 ngày 3 đêm. Giờ G đã được định vào 17 giờ ngày 26 tháng 1. Một ngày trước đó, chiều 25 tháng 1, khi bộ đội ta đã được bố trí sẵn sàng ở vị trí xuất phát tiến công, thì chúng ta nhận thấy nếu đánh theo phương châm đánh nhanh giải quyết nhanh không đảm bảo mười phần thắng lợi. Quán triệt phương châm đánh chắc thắng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn luôn nhấn mạnh, chúng ta đã chủ động thay đổi cách đánh. “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Trung ương Đảng và Chính phủ ta kêu gọi toàn quân và toàn dân, quyết định động viên đến mức cao nhất sức người sức của cho một trận quyết chiến dài ngày. Một bất ngờ lớn đối với địch là trên tuyến đường dài, hàng mấy trăm kilômét, hàng chục vạn đồng bào và chiến sĩ ta, với khí thế do cải cách ruộng đất mang lại, dưới mưa bom bão đạn của địch, từ những hậu phương xa xôi ngày đêm mang lương thực đạn dược ra tiền tuyến, liên tục bảo đảm hậu cần cho mặt trận Điện Biên Phủ - một điều mà bộ tham mưu quân đội viễn chinh với những tính toán tỉ mỉ cho rằng ta không thể nào giải quyết được. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:18:16 am Qua một thời gian, không thấy quân ta hành động, Nava cho rằng ngọn trào tấn công của Việt Minh đã chấm dứt. Ngày 12 tháng 3, thực hiện kế hoạch chiến lược đã định từ trước, Nava huy động một bộ phận lực lượng cơ động mở cuộc hành binh mới vào vùng tự do của ta ở miền Nam. Ngay ngày hôm sau, 13 tháng 3, vào 17 giờ, trọng pháo của ta bắn vào đồi Him Lam, mở màn cho cuộc tấn công lớn vào tập đoàn cứ điểm, quân địch hoàn toàn bị bất ngờ. Địch càng bị bất ngờ khi phát hiện cả một hệ thống trận địa tấn công và bao vây với hàng trăm kilômét chiến hào từ núi cao đổ xuống cánh đồng Mường Thanh, siết chặt dần xung quanh tập đoàn cứ điểm. Địch đã bị bất ngờ khi quân ta tập trung ưu thế binh lực tuyệt đối tiêu diệt từng tiểu đoàn, từng trung tâm đề kháng một, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng, từng bước vững chắc tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Địch lại bị bất ngờ trước những đợt tấn công ngày càng mạnh của quân ta, trước sự phát triển không thể nào ngăn cản được chiến hào của ta xuyên qua sân bay, cắt đứt con đường tiếp tế duy nhất bằng cầu hàng không của chúng. Khi hệ thống trận địa của ta tiến sát vào khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm thì toàn bộ những hoả lực các cỡ của ta đã trực tiếp uy hiếp sở chỉ huy của tướng Đờ Cátxtơri. Trên các chiến trường sau lưng địch, chúng lại đứng trước một bất ngờ mới. Quân và dân ta và quân dân hai nước bạn ra sức tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh cao trào tấn công, phối hợp với chiến trường chính. Ở Nam Bộ, hàng nghìn đồn bốt của địch bị tiêu diệt. Ở Tây Nguyên, cả vùng phía Bắc được giải phóng. Ở Bình Trị Thiên, căn cứ du kích được mở rộng. Ở châu thổ sông Hồng, vùng tự do đã chiếm ba phần tư đất đai. Hàng vạn ngụy quân ra hàng, phạm vi của chính quyền nhân dân mở rộng nhanh chóng. Ở Lào, một nửa dân số và một nửa đất đai của nước bạn đã được giải phóng. Ở Campuchia, căn cứ địa Tây Nam được mở rộng. Thế chiến lược của quân đội viễn chinh trên toàn bán đảo Đông Dương đang bị rung chuyển. Với cách đánh dũng cảm, mưu trí và sáng tạo của cán bộ và chiến sĩ ta, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã trở thành một địa ngục trần gian giam hãm 17 ngàn quân lính viễn chinh Pháp sống trong trận địa giữa bùn lầy, lương thực đạn dược cạn dần, thương binh chồng chất, mạng sống từng ngày từng giờ bị đe dọa. Các tướng tá Pháp - Mỹ bàn tính mãi không tìm ra cách cứu nguy cho tập đoàn cứ điểm đang giãy giụa trong cơn hấp hối. Chiều mồng 7 tháng 5 năm 1954, trước cuộc tổng tiến công của quân ta từ các hướng, hơn một vạn quân lính còn lại của quân đội viễn chinh lũ lượt kéo nhau ra hàng. Có người hô “Hoà bình muôn năm”. Có người kéo phong cầm và ca hát. Những người chiến thắng đã cứu sống họ. Toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Quân và dân ta giành được toàn thắng. Trong bức điện khen ngợi cán bộ và chiến sĩ nhân dịp chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu...”. Từ đó, ròng rã trong 20 năm, dân tộc ta, nhân dân ta lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, tàn bạo nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Cũng giống như đế quốc Pháp trước đây, đế quốc Mỹ mỗi lần mở rộng chiến tranh là một lần tưởng rằng nhất định thắng, nhưng cuối cùng lại thất bại. Mùa Xuân năm 1975, khi Oasinhtơn cho rằng chiến tranh sắp đi đến thắng lợi hoàn toàn thì chính vào lúc đó, trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại, toàn bộ cơ đồ của đế quốc Mỹ và tay sai đã sụp đổ tan tành. Nhân dân ta đã giành được thắng lợi trọn vẹn, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thời cơ lớn đã xuất hiện trên bán đảo Đông Dương. Nhân dân Lào anh em đã phát động cuộc tổng tiến công và nổi dậy, giành được toàn thắng. Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ra đời. … Chủ nghĩa đế quốc... các thế lực phản động khác là những tên học trò dốt trong các trường học của lịch sử. Họ chưa chịu từ bỏ những mưu đồ đen tối, nô dịch các dân tộc, đẩy mạnh chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh hạt nhân, gây tình hình căng thẳng khắp nơi trên thế giới. Ngày nay, hơn bao giờ hết, đấu tranh cho hoà bình và hợp tác giữa các dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cả loài người tiến bộ. Trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh, chúng ta rất khao khát hoà bình. Hoà bình và hữu nghị là nguyện vọng của dân tộc ta. Độc lập và chủ nghĩa xã hội là lẽ sống của nhân dân ta. Với sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa có Liên Xô là trụ cột, với tinh thần liên minh chiến đấu keo sơn của nhân dân ba nước Đông Dương, với sức mạnh tiến công của ba dòng thác cách mạng, chúng ta luôn luôn cảnh giác, cùng nhau đoàn kết đấu tranh cho một nền hoà bình lâu dài trên trái đất, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Mọi mưu toan phiêu lưu của các thế lực hiếu chiến sẽ bị loại trừ. Dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Tổng bí thư Lê Duẩn, nhân dân ta trong cả nước quyết đem hết tinh thần và nghị lực của những ngươi chiến thắng, phát huy sức mạnh to lớn của chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thân yêu. Tinh thần Điện Biên Phủ mãi mãi cổ vũ nhân dân ta vững bước tiến lên trong hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:26:25 am QUYẾT ĐỊNH KHÓ KHĂN NHẤT1 1 Một buổi sáng đầu tháng Mười năm 1953, tôi từ cơ quan Bộ Tổng tư lệnh tới nơi Bác ở. Mùa Thu năm nay đến với những lo âu và hy vọng. Không khí có phần căng thẳng. Không năm nào, vào thời gian này, những đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường lại chưa lên đường. Ta vẫn chưa xác định trận đánh lớn trong mùa khô sẽ nổ ra ở đâu. Từ Điềm Mặc tới Lục Giã, đi ngựa khoảng vài giờ. Trời mưa. Con đường mòn lầy lội chạy dưới chân núi Hồng, qua những rừng vầu, những thửa ruộng bậc thang, những bản nhỏ thưa thớt. Nửa buổi sáng, tới Tỉn Keo, một bản của thôn Lục Giã, nằm ở chân núi. Từ đây có đường sang Tân Trào qua đèo Gie. Lên một đoạn dốc không xa, đã nhìn thấy ngôi nhà tre nhỏ lấp ló bên sườn núi, giữa rừng vầu. Bác ở Khuổi Tát, một bản nhỏ người Dao, tận trên đỉnh núi. Ngôi nhà này là nơi Bác thường đến họp với Bộ Chính trị. Những cánh cửa sổ bằng nứa đã được chống cao. Trong nhà có một bàn tre rộng và mấy chiếc ghế ghép bằng ống bương. Ngồi đây nhìn xuống cánh đồng bậc thang dưới chân núi. Giữa cánh đồng, nổi lên một cây cổ thụ. Mỗi lần về họp, nhìn thấy cái cây như gặp lại người quen. Mùa Xuân vừa rồi, tôi trở lại Tỉn Keo. Trên nền nhà cũ, hàng bông bụt vẫn đơm hoa. Nhưng giữa cánh đồng, cây cổ thụ không còn. Nó đã bị nước cuốn trôi trong một mùa lũ. Chốc lát, Bác, anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Đồng cùng tới. Anh Nguyễn Chí Thanh không đến họp được vì đang mệt. Cuộc họp lần này có triệu tập thêm anh Hoàng Văn Thái. Tôi bắt đầu trình bày tình hình địch. Từ tháng Năm, Hăngri Nava đã sang thay Raun Xalăng, làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp. Viên tướng bốn sao sớm tỏ ra năng động và táo bạo. Nava cho quân nhảy dù xuống tận Lạng Sơn, nằm rất sâu trong hậu phương ta, càn quét lớn ở Bình Trị Thiên, Đồng Tháp Mười, mở hàng loạt cuộc hành binh tại đồng bằng Bắc Bộ. Đặc biệt, trong tháng Tám, Nava bất thần rút quân Pháp khỏi tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Suốt mùa Hè, bộ đội đã tập trung rèn luyện đánh tập đoàn cứ điểm. Nà Sản là một mục tiêu trong mùa khô. Vì so sánh với đồng bằng, thì rừng núi vẫn là chiến trường thuận lợi hơn. Tây Bắc lại là hướng ta đã lựa chọn. Địch rút quân ở Nà Sản không khỏi ảnh hưởng tới kế hoạch Đông Xuân. Trên chiến trường rừng núi Bắc Bộ, Pháp chỉ còn hai lực lượng nhỏ ở Lai Châu và Hải Ninh. Có ý kiến nên tiêu diệt hai bộ phận này để giải phóng hoàn toàn biên giới Việt - Trung. Đây là những chỗ yếu của địch. Nhưng kế hoạch Đông Xuân phải nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân địch, tạo nên một bước chuyển mới của chiến tranh. Từ lâu, các chiến sĩ đã mơ ước ngày trở về đồng bằng để giải phóng quê hương. Nhưng đồng bằng lại là chỗ rắn nhất. Phòng tuyến boongke của Đờlát đờ Tátxinhi xây dựng trước đây vẫn còn. Hiện nay Nava đã lại tập trung một lực lượng cơ động lớn chưa từng có từ khởi đầu chiến tranh, sẵn sàng chờ đón cuộc tiến công của ta... Bác ngồi họp, thái độ bình thản, điếu thuốc lá kẹp giữa hai ngón tay. Đôi mắt Người chợt lộ vẻ chăm chú. Bàn tay Bác đặt trên bàn bỗng giơ lên và nắm lại. Người nói: - Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn. Bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón trở về một hướng. Tôi báo cáo tiếp. Gần đây, có thêm nguồn tin của bạn, chúng ta đã nắm được những ý đồ nguy hiểm của Pháp - Mỹ trong kế hoạch Nava. Mùa khô này, Nava chủ trương tiến hành bình định ở Nam Việt Nam, tránh giao chiến với chủ lực ta trên chiến trường Bắc Bộ. Quân Pháp sẽ dùng mọi cách đánh phá vùng tự do, đánh sâu vào hậu phương nhằm giam giữ và tiêu hao chủ lực ta, phá vỡ kế hoạch tiến công của ta trên chiến trường chính. Đồng thời, Nava vẫn ra sức tranh thủ xây dựng lực lượng cơ động lớn mạnh để thực hiện ý đồ chiến lược đè bẹp những đại đoàn chủ lực của ta trong một trận đánh quyết định vào mùa khô sau. Nava dự tính thực hiện những âm mưu này trong vòng mười tám tháng. Tổng quân ủy đề nghị: Để giữ vững và phát huy quyền chủ động, dùng một bộ phận quân chủ lực, kết hợp với lực lượng địa phương, mở những cuộc tiến công vào những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phân tán quân cơ động để đối phó. Tiếp tục khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch, tạo nên thế trận mới, thời cơ mới. Theo dõi sát tình hình, khi thời cơ xuất hiện, sẽ nhanh chóng tập trung lực lượng, tập trung chủ lực, tiêu diệt sinh lực quan trọng của địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh. Trên chiến trường Bắc Bộ, sẽ mở cuộc tiến công lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân địch còn chiếm đóng Lai Châu, uy hiếp quân địch ở Thượng Lào. Hướng thứ hai, là Trung Lào và hướng thứ ba là Hạ Lào. Ta sẽ đề nghị Quân giải phóng Pathét Lào phối hợp với bộ đội Việt Nam mở cuộc tiến công vào hai hướng này, nhằm tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai. Hướng thứ tư là Bắc Tây Nguyên. Vùng tự do rộng lớn ở Liên khu 5 sẽ là mục tiêu của những cuộc tiến công đánh chiếm trong mùa khô này. Ta mạnh dạn đưa phần lớn bộ đội chủ lực của Liên khu 5 đánh lên vùng rừng núi Bắc Tây Nguyên. Đây chính là biện pháp vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa bảo vệ vùng tự do Liên khu 5 một cách hiệu quả. Với các chiến trường Nam Bộ, Cực Nam Trung Bộ và chiến trường địch hậu ở đồng bằng Bắc Bộ, phải đẩy mạnh chiến tranh du kích, vừa kìm chân quân địch, vừa tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch, trong khi chúng phải điều quân cơ động đi các hướng khác. Tại chiến trường chính Bắc Bộ, ta có kế hoạch bảo vệ vùng tự do, giấu một số đơn vị mạnh ở những vị trí cơ động, kịp thời tiêu diệt địch khi chúng đánh ra... Chỉ cần phá vỡ thế tập trung binh lực của địch là đã làm thất bại về cơ bản kế hoạch của Nava. Bác hỏi: - Dự kiến đưa quân lên Tây Bắc thì địch sẽ phản ứng ra sao? - Chúng có thể tăng cường lực lượng giữ Tây Bắc hoặc đánh ra vùng tự do, kéo quân ta về. Chúng cũng có thể rút quân khỏi Lai Châu, như vậy toàn bộ Tây Bắc sẽ được giải phóng. - Các hướng khác có khả năng thu hút quân cơ động địch không? - Ngoài Tây Bắc và Thượng Lào, còn Tây Nguyên, Trung Lào, Hạ Lào là những nơi xung yếu mà địch không thể bỏ. Hội nghị thông qua bản đề án của Tổng quân ủy và góp nhiều ý kiến quan trọng, đặc biệt nhấn mạnh phương châm: "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt". Bác nói khi kết thúc hội nghị: - Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa. Trong kế hoạch Nava cũng như đề án hoạt động Đông Xuân của ta chưa hề xuất hiện ba chữ: “Điện Biên Phủ”. Tuy nhiên, số phận của Nava đã được định đoạt từ cuộc họp ở Tỉn Keo. ____________________________________________ 1. Bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 35 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đăng trên báo Nhân dân chủ nhật, tháng 5 năm 1989, nhà văn Hữu Mai ghi. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:30:31 am 2 Trung tuần tháng Mười, Nava “ra tay trước” bằng cuộc hành binh lớn Hải Âu. Ba mươi tư tiểu đoàn địch ào ạt đánh ra Ninh Bình. Ta chỉ sử dụng đại đoàn 320, có mặt tại chỗ cầm chân quân địch. Các chiến sĩ đồng bằng đã tiêu diệt hàng ngàn quân địch. Sau hai chục ngày đánh ra bị tiêu hao lực lượng mà không đạt kết quả gì, mấy chục tiểu đoàn quân địch lại quay về vị trí xuất phát. Không để Nava điều hành chiến trận, ta giữ vững chủ động. Cuộc họp tư lệnh các chiến trường trên cả nước, trừ Nam Bộ ở quá xa, vẫn được triệu tập theo đúng kế hoạch. Ngày 15 tháng Mười Một, đại đoàn đầu tiên của ta tiến lên hướng Tây Bắc. Trong hai ngày 20 và 21 tháng Mười Một, giữa lúc hội nghị phổ biến kế hoạch Đông Xuân của Bộ Chính trị đang tiến hành, tôi được báo cáo chừng 6 tiểu đoàn quân Pháp đã nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Ta điều tiếp đại đoàn 308 lên Tây Bắc, cùng với đại đoàn 316 đi trước, tiến gấp về Lai Châu. Ngày 10 tháng Chạp, quân địch ở Lai Châu tháo chạy về Điện Biên Phủ. Đại đoàn 316 chặn đánh và truy kích diệt 14 đại đội địch. Cả hai đại đoàn của ta được lệnh chuyển hướng nhanh chóng tiến vào bao vây quân địch ở Điện Biên Phủ. Một trung đoàn hoả tốc hành quân vòng về phía nam Điện Biên Phủ, chốt chặn ở Pom Lót, đề phòng địch rút sang Thượng Lào. Từ ngày 20 đến cuối tháng Mười Hai, cuộc tiến công của bộ đội Lào - Việt nổ ra tại Trung Lào và Hạ Lào. Toàn tỉnh Thà Khẹt và thị xã Atôpơ được hoàn toàn giải phóng. Nava vội ném một binh đoàn cơ động xuống căn cứ Xênô ở Savannakhét và điều quân tới bảo vệ thị xã Pắcxế. Khối quân cơ động của Nava thực sự bắt đầu tan vỡ. Nava tiếp tục tăng quân lên Điện Biên Phủ. Đến tháng Mười Hai 1953, địch đã có ở đây khoảng mười tiểu đoàn. Một tập đoàn cứ điểm lại xuất hiện giữa rừng núi Tây Bắc. Hạ tuần tháng Mười Hai, tôi gặp Bác và các anh, báo cáo tiếp tình hình mới. Bộ Chính trị hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm của địch ở Tây Bắc. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ bắt đầu. Ngày mồng 1 tháng Giêng 1954, Bộ Chính trị chỉ định cơ quan lãnh đạo chỉ huy chiến dịch. Tôi kiêm nhiệm Chỉ huy trưởng và Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Kế hoạch điều động tiếp lực lượng lên Tây Bắc được triển khai. Đại đoàn 312 đang náu mình tại một khu rừng già Yên Bái, là đại đoàn thứ ba, được lệnh tiến vào Tây Bắc. Đại đoàn 351 với những đơn vị lựu pháo, cao pháo 37 ly mới tổ chức, vượt sông Hồng lần đầu tham gia chiến dịch. Một thời gian sau, đại đoàn 304 (thiếu một trung đoàn) cũng được điều động lên Điện Biên Phủ. Tôi lên Khuổi Tát chào Bác trước khi lên đường. Bác hỏi: - Chú đi xa như vậy, chỉ đạo các chiến trường có gì trở ngại không? - Các đồng chí Tổng tham mưu phó, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đều đã có mặt trên đó, sẽ tổ chức cơ quan tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh. Việc ở nhà có anh Nguyễn Chí Thanh và anh Văn Tiến Dũng. Chỉ trở ngại là ở xa, không thường xuyên xin được ý kiến Bác và Bộ Chính trị. - Tổng tư lệnh ra mặt trận, “Tướng quân tại ngoại”. Trao cho chú toàn quyền quyết định. Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh. Tôi cảm thấy nhiệm vụ lần này rất nặng. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:31:14 am 3 Ngày 5 tháng Giêng 1954, tôi cùng sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh lên đường ra mặt trận. Trong sở chỉ huy tiền phương, hình thành hai bộ phận. Một bộ phận gồm các đồng chí cục trưởng phụ trách theo dõi chiến trường cả nước và chiến trường các nước anh em Lào, Campuchia. Một bộ phận gồm các đồng chí cục phó, đặc trách chiến dịch Điện Biên Phủ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ chỉ huy Mặt trận. Trong Bộ chỉ huy mặt trận, ngoài tôi, có anh Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng, anh Lê Liêm, Chủ nhiệm Chính trị, anh Đặng Kim Giang, Chủ nhiệm Hậu cần. Các anh cùng tham gia Đảng ủy mặt trận. Anh Thái, anh Liêm, anh Giang đã đưa theo các đồng chí Đỗ Đức Kiên, cục phó Cục 1, Cao Pha, cục phó Cục 2, đi trước để chuẩn bị chiến dịch. Cùng đi với tôi có đồng chí Trần Văn Quang, cục trưởng Cục Tác chiến và đồng chí Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục Quân báo. Tôi đã đi chiến dịch nhiều lần, kể cả những chiến dịch lớn như Biên Giới, Hòa Bình, Tây Bắc, nhưng chưa bao giờ chứng kiến một quang cảnh hùng tráng như mùa Xuân năm đó. Chuẩn bị cho những trận đánh lớn, quân và dân ta đã khôi phục và mở rộng hàng ngàn kilômét đường. Qua sông Hồng, chiếc xe Jeep chiến lợi phẩm đưa chúng tôi đi trên con đường mới mở rộng, màu đất đỏ như son dưới ánh đèn pha. Nhìn những đoạn đường chênh vênh bên bờ vực thẳm, những thành vại cao ngất, thấy công sức đã đổ ra suốt những tháng qua. Phần lớn các suối, chưa có cầu. Từ mùa Hè, đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, đã chỉ thị cho công binh và dân công xếp đá làm những cầu ngầm cho xe qua. Núi rừng Tây Bắc âm u ban đêm bỗng trở nên sống động. Xe kéo pháo, xe vận tải, ì ì nối đuôi nhau. Những đoàn người dài vô tận. Các chiến sĩ súng ống, gạo đạn đầy ắp trên người, đi hàng một, bước gấp. Nhìn dáng đi mạnh mẽ của bộ đội, có thể thấy các chiến sĩ năm nay sung sức và tổ chức hành quân của các đơn vị làm khá tốt. Phong phú là màu sắc của những đoàn dân công. Những đoàn xe đạp thồ như những đàn voi con. Người miền xuôi, không ít đồng bào từ hậu địch ra, kĩu kịt trên vai đôi quang gánh. Tiếng hò Bắc véo von. Giọng hò khu Tư trầm và ấm. Đồng bào dân tộc vùng cao, với những bộ quần áo đẹp nhiều màu sắc, người gùi gạo, người dắt ngựa... Có anh chiến sĩ hậu cần dẫn theo cả một đàn lợn... Tất cả đều đi về một hướng. Máy bay địch đánh phá ác liệt những đoạn đường xung yếu, phần lớn là đèo cao và bên phà. Đèo Lũng Lô, phà Tạ Khoa, Cò Nòi, nơi gặp nhau giữa hai con đường từ Hoà Bình, Yên Bái lên Tây Bắc, đã trở thành những túi bom. Máy bay thả pháo sáng suốt đêm trên những trọng điểm. Lại nghĩ tới vấn đề tiếp tế đạn dược, lương thực. Đường từ hậu phương ra mặt trận quá dài. Không chỉ những người ở tiền tuyến cần gạo, mà những người vận chuyển gạo cũng phải ăn! Vấn đề này sẽ trở nên rất gay gắt nếu chiến dịch kéo dài. Dọc đường tôi theo dõi tình hình địch ở Điện Biên Phủ và những hoạt động ở các chiến trường, chú ý tới cánh quân Lào - Việt ở Trung Lào, Hạ Lào, sự phát triển của chiến tranh du kích tại Nam Bộ, công tác chuẩn bị chiến dịch Bắc Tây Nguyên. Gần tới Sơn La, đồng chí cục phó Cục 2 điện báo cáo: có những đám khói trong khu đồn trú của địch ở Điện Biên Phủ. Tôi chỉ thị phải theo dõi thật chặt chẽ, nếu có hiện tượng gì mới thì báo cáo ngay. Biết đâu đây không phải là địch đốt những thứ không thể đem trước khi rút quân! Phần lớn những đại đoàn của ta đã tiến lên Tây Bắc. Nếu bây giờ địch rút khỏi Điện Biên Phủ ...? Đành rằng ta sẽ có cách khác để tạo điều kiện tiêu diệt sinh lực địch, nhưng việc thực hiện kế hoạch Đông Xuân ở chiến trường chính không khỏi bị chậm lại. Chẳng còn mấy tháng nữa sẽ đến mùa mưa. Nhưng những đám khói không xuất hiện trở lại, quân địch ở Điện Biên Phủ tiếp tục củng cố công sự. Trong trận đánh sắp tới, nhiệm vụ quân và dân ta sẽ vô cùng nặng nề. Không nhớ tôi đã đọc ở đâu một câu của Brière de I’Isle, tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp, hồi cuối thế kỷ trước đã nói với binh lính: “Hỡi binh sĩ lữ đoàn 2, hãy nhớ rằng từ khi trái đất tồn tại, không bao giờ một quân đội châu Á có thể đánh chiếm một vị trí do binh lính châu Âu chiếm giữ”. Tám năm qua, câu nói đó với chúng ta đã trở thành vô nghĩa. Nhưng bây giờ lại chợt nhớ tới. Vì trước mắt chúng ta là một tập đoàn cứ điểm với những đơn vị Âu Phi tinh nhuệ nhất của quân đội viễn chinh Pháp. Tập đoàn cứ điểm xuất hiện lần đầu tại chiến trường Bắc Bộ trong chiến dịch Hoà Bình. Năm đó, ta đã bao vây kìm giữ quân cơ động địch ở thị xã Hoà Bình, đánh địch trên đường số 6 và sông Đà và mở một mặt trận thứ hai ở đồng bằng Bắc Bộ. Bằng cách này, ta đã giành thắng lợi khá lớn. Sau khi địch rút khỏi Hoà Bình, tôi đã tới xem những vị trí phòng ngự của chúng. Những cứ điểm riêng lẻ này khi được kết thành một hệ thống, yểm trợ lẫn cho nhau, được sự hỗ trợ của đại bác, xe tăng, máy bay và những đội quân ứng chiến, rõ ràng là có một sức mạnh khác hẳn. Một năm sau đó, tập đoàn cứ điểm lại xuất hiện ở Nà Sản, khi bộ đội ta mở chiến dịch Tây Bắc. Lần này, bộ đội ta đã đánh vào tập đoàn cứ điểm Nà Sản, tranh thủ thời gian kẻ địch mới tới chưa kịp củng cố trận địa phòng ngự. Ta đã tiêu diệt được hai cứ điểm ở ngoại vi. Nhưng cái giá phải trả cho mỗi trận đánh, không thể chấp nhận. Một lần nữa, ta lại phải từ bỏ ý định tiến công. Tập đoàn cứ điểm đã trở thành biện pháp phòng ngự cao nhất của địch, có ý nghĩa chiến lược mà ta không thể không đánh bại nếu muốn đưa cuộc kháng chiến tiến lên. Từ sự điều tra và những kinh nghiệm thu được ở Hoà Bình, Nà Sản ta đã nhận thấy không phải bộ đội ta không có khả năng tiêu diệt những “con nhím” của địch. Chúng ta thấy có hai cách. Một là, dùng toàn bộ lực lượng đánh cùng một lúc. Một mũi đột kích mạnh mẽ thọc sâu vào sở chỉ huy của tập đoàn cứ điểm, giống như lưỡi gươm xọc vào tim địch, tạo nên sự rối loạn ngay từ bên trong. Những mũi khác sẽ nhằm những hướng địch sơ hở, đánh đồng thời, tạo nên sự rối loạn ở cả bên trong và bên ngoài. Ta gọi là cách “đánh nhanh giải quyết nhanh”. Hai là, đánh từng bước, tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng, tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm bằng những trận công kiên kế tiếp. Đó là cách “đánh chắc tiến chắc”. Trong tờ trình của Tổng quân ủy và phương án tác chiến ở Điện Biên Phủ gửi Bộ Chính trị ngày 6 tháng Chạp năm 1953, chúng tôi đã dự kiến: “Thời gian tác chiến ở Điện Biên Phủ ước độ bốn mươi lăm ngày”, không kể thời gian tập trung bộ đội và tiến hành công tác chuẩn bị. Trận đánh có thể khởi đầu vào trung tuần tháng Hai 1954. Chúng tôi đánh giá đây “sẽ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay”, sẽ phải sử dụng 3 đại đoàn bộ binh, toàn bộ pháo binh, công binh, phòng không. Nếu kể cả cơ quan chỉ huy chiến dịch, các đơn vị trực thuộc, bộ đội bảo vệ tuyến cung cấp, bộ đội bổ sung, thì “quân số tổng quát của chiến dịch sẽ là 42.000 người”. Dự kiến này đã làm theo phương án “đánh chắc tiến chắc”. Từ trước tôi đã có ý nghĩ, với trình độ tác chiến và trang bị của bộ đội hiện nay, chỉ có thể tiêu diệt những tập đoàn cứ điểm mạnh bằng cách đánh dần từng bước. Những tin tức từ Điện Biên Phủ báo cáo về, quân địch vẫn ráo riết củng cố công sự. Bộ binh Pháp vốn có truyền thống chiến đấu phòng ngự. Từ ngày nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, chúng đã có gần hai tháng rưỡi xây dựng trận địa. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã hoàn toàn khác với tập đoàn cứ điểm Nà Sản năm trước... Từng ngày, tôi nóng lòng sớm tới mặt trận. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:31:56 am 4 Mùa khô này, cả nước cùng ra trận. Nhưng chưa chiến dịch nào, con đường ra mặt trận của chúng tôi lại bị đánh phá ác liệt như lần này. Phải mất trọn một đêm để vượt qua đèo Pha Đin, dài ba mươi ki-lô-mét, còn bom nổ chậm và rất nhiều bom bướm, cửa ải cuối cùng trên đường tiến vào Điện Biên Phủ. Sáng 12 tháng Giêng, tới Tuần Giáo. Ban ngày, nghỉ lại, chờ trời tối đi tiếp vào sở chỉ huy mặt trận. Đây đã là đất Lai Châu. Thị xã Lai Châu chỉ mới được giải phóng lần đầu cách đây một tháng. Ngôi nhà sàn của đồng bào Thái hai mái cao vút. Sàn tre ở đầu hồi có ang nước và mấy chậu gỗ trồng những cây hẹ, chủ nhà niềm nở đưa nước pha trà mời khách. Chợp mắt được một lúc, thức giấc. Thấy anh Hoàng Văn Thái từ sở chỉ huy mặt trận đã ra ngồi chờ. Theo nhận định của các đồng chí đi chuẩn bị chiến dịch, Điện Biên Phủ có một cánh đồng khá rộng, nhưng vẫn nằm giữa địa hình rừng núi, thuận lợi cho ta. Bộ đội đã tập kết chung quanh Điện Biên Phủ. Lúc này, địch không thể rút lui mà không có thiệt hại. Địch ở Điện Biên Phủ hoàn toàn cô lập về đường bộ; giao thông vận tải, tiếp tế đều trông vào máy bay. Địch có ở Điện Biên Phủ mười tiểu đoàn. Chúng đã ra sức xây dựng công sự, nhưng chỉ mới làm được những công sự dã chiến. Một số mặt của tập đoàn cứ điểm còn sơ hở. Về phía bộ đội ta, các đơn vị đều sung sức, tinh thần chiến đấu lập công rất cao. Ta đã trao đổi với các đồng chí bạn cùng đi chuẩn bị chiến trường, thấy nên dùng cách đánh nhanh để tiêu diệt địch. Sự xuất hiện của pháo binh và pháo cao xạ sẽ tạo cho địch một bất ngờ. Đánh nhanh thắng nhanh, bộ đội đang còn sung sức, sẽ đỡ tổn thất và không phải đối phó với khó khăn rất lớn về tiếp tế đạn dược, lương thực cho hàng vạn chiến sĩ và dân công trong một cuộc chiến đấu dài ngày... Bản sơ đồ tập đoàn cứ điểm được trải rộng trên mặt sàn. Lần đầu, tôi nhìn thấy những vị trí địch nhiều và dày đặc đến như vậy. Từ nhiều phía, nhất là phía tây, muốn tiếp cận địch, đều phải vượt qua cánh đồng rộng. Riêng phía đông tập đoàn cứ điểm là rừng núi, nhưng đã bị án ngữ bằng một loạt vị trí nằm khá gần nhau trên những mỏm đồi. Tôi hỏi: - Hiện nay còn phải giải quyết những vấn đề gì? - Đang sửa gấp đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ. Đường này dài gần một trăm kilômét, trước đây chỉ dùng cho xe ngựa và đã bỏ lâu ngày. Sửa xong đường, đưa pháo vào vị trí là có thể nổ súng. - Ý kiến các đồng chí chỉ huy các đại đoàn như thế nào? - Anh em cũng đều thấy là nên đánh ngay khi địch chưa đứng chân vững. Bộ đội rất phấn khởi vì lần này có lựu pháo và cao xạ. Tôi cảm thấy chủ trương này không ổn, muốn nghe thêm tình hình. Nava hẳn đã quyết định tiếp nhận chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Bộ đội còn phải mất một thời gian làm đường. Địch còn có điều kiện tăng quân. Ngay bây giờ đánh nhanh thắng nhanh đã khó. Rồi đây hẳn lại càng khó. Buổi chiều, đi tiếp vào sở chỉ huy nằm ở cây số 15 trên con đường Điện Biên Phủ - Tuần Giáo. Không khí ở sở chỉ huy rất nhộn nhịp. Cán bộ tham mưu tấp nập chuẩn bị kế hoạch tác chiến, bản đồ, sa bàn. Những cán bộ tới gặp tôi, đều hân hoan nói, cần tranh thủ thời gian để đánh nhanh thắng nhanh. Trong cuộc hội ý của Đảng ủy mặt trận, đúng như lời anh Thái đã nói, những đồng chí đã đi trước để chuẩn bị chiến dịch đều nhất trí cần đánh địch ngay trong lúc địch chưa kịp tăng thêm quân và củng cố công sự, có khả năng giành chiến thắng trong vài ngày. Các đồng chí dự kiến với tinh thần “Mở đường thắng lợi” của bộ đội và dân công như hiện nay, khoảng năm ngày nữa có thể hoàn thành việc kéo pháo vào trận địa. Mọi người lo, nếu để địch tăng cường tập đoàn cứ điểm quá mạnh, sẽ bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt địch lớn trong Đông Xuân này; và cũng lo chiến dịch kéo dài, sẽ không giải quyết được vấn đề tiếp tế trên con đường 500 kilômét từ hậu phương ra mặt trận, nằm trên địa hình rừng núi hiểm trở, thường xuyên bị máy bay địch đánh phá. Tôi thấy cần gặp đồng chí Trưởng đoàn chuyên gia quân sự của bạn đã cùng đi lên đây. Quan hệ giữa chúng tôi với các chuyên gia quân sự của bạn từ chiến dịch Biên Giới tới giờ, nhìn chung là tốt đẹp. Bạn đã giúp chúng ta nhiều kinh nghiệm quý rút từ chiến tranh cách mạng của Trung Quốc và chiến tranh chống Mỹ ở Triều Tiên. Trưởng đoàn là một cán bộ cách mạng lâu năm, từng trải, lịch lãm và chín chắn. Những cuộc trao đổi giữa chúng tôi thường cởi mở, thân tình. Trước ngày trở về nước, đồng chí đã nói những năm công tác ở Việt Nam là một thời kỳ “hoàng kim” trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Đồng chí đã tặng tôi một bức tranh có con chim đại bàng với cây tùng và năm chữ: “Đông phong nghênh khải hoàn”. Tôi nêu ý kiến của mình là không thể đánh nhanh được. Đồng chí Trưởng đoàn quân sự của bạn, sau giây lát cân nhắc, nói đã gặp những chuyên gia cùng đi chuẩn bị chiến trường với cán bộ Việt Nam. Các chuyên gia đều nhất trí với các đồng chí Việt Nam là cần đánh sớm, có khả năng giành chiến thắng bằng “đánh nhanh thắng nhanh”. Nếu để địch tăng thêm quân và củng cố công sự, thì cuối cùng sẽ khó có khả năng đánh thắng. Tôi vẫn cho rằng đánh nhanh không thể giành thắng lợi. Nhưng cũng chưa thật đủ cơ sở thực tế để bác bỏ phương án đã được các đồng chí đi trước lựa chọn. Tôi không có điều kiện và thời gian để trình bày đầy đủ với Bác và Bộ Chính trị. Trước tình hình như vậy, tôi đồng ý triệu tập hội nghị triển khai kế hoạch chiến đấu. Tôi nói riêng với một cán bộ trong Văn phòng Tổng quân ủy những suy nghĩ của mình, dặn theo dõi, nghiên cứu, suy nghĩ kỹ và chỉ được trao đổi riêng với tôi về vấn đề này. Tôi chỉ thị cho đồng chí cục phó Cục 2 điều tra thật cẩn thận những vị trí trên cánh đồng hướng tây, nơi được đánh giá là sơ hở, ta sẽ sử dụng mũi thọc sâu đánh vào. Và yêu cầu phải báo cáo hàng ngày những hiện tượng như tăng quân, củng cố công sự của địch. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:32:56 am 5 Ngày 14 tháng Giêng năm 1954, mệnh lệnh chiến đấu được phổ biến trên một sa bàn lớn tại hang Thẩm Púa. Cán bộ trung cao những đại đoàn tham gia chiến đấu đều có mặt. Những đồng chí tư lệnh quân sự: Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn, Lê Quảng Ba, Đào Văn Trường, Nam Long. Những đồng chí chính ủy: Chu Huy Mân, Phạm Ngọc Mậu... Rất nhiều cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn qua nhiều năm chiến đấu đối với tôi đã trở thành thân thuộc. Nhiệm vụ thọc sâu trao cho đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ. 308 sẽ đánh vào tập đoàn cứ điểm từ hướng tây, xuyên qua những vị trí nằm trên cánh đồng, thọc thẳng tới sở chỉ huy của Đờ Cátxtơri. Các đại đoàn 312, 316 nhận nhiệm vụ đột kích vào hướng đông, nơi có những cao điểm trọng yếu của địch. Dự kiến trận đánh sẽ diễn ra trong hai ngày ba đêm. Trước mắt tập trung toàn bộ lực lượng bộ đội hoàn thành đường kéo pháo và đưa pháo vào trận địa dã chiến. Khi phổ biến quyết tâm chiến đấu để chuẩn bị phần nào tư tưởng cho cán bộ, tôi nói: “Hiện nay địch tình chưa có triệu chứng thay đổi lớn. Chúng ta cần ra sức nắm vững địch tình, để một khi địch tình biến hóa thì kịp thời xử trí”. Trước mỗi trận đánh, tôi thường khuyến khích cán bộ nói hết khó khăn, để cùng bàn cách khắc phục. Nhưng lần này, các đơn vị đều hăng hái nhận nhiệm vụ. Chỉ có những người hỏi cho rõ hơn, không ai có thắc mắc gì. Sau này tôi mới biết, có những đồng chí chỉ huy cảm thấy nhiệm vụ đơn vị quá nặng, lo phải đột phá liên tiếp, trận đánh kéo dài, không giải quyết được thương binh và tiếp tế đạn dược. Nhưng trước không khí chung, không ai nói những ý nghĩ thực của mình. Một số nhà văn, nhà báo các nước anh em cũng theo bộ đội đi chiến dịch. Một buổi tối, anh Lê Liêm đề nghị tôi và anh Thái gặp bạn trước khi các đồng chí đó lên đường trở về nước. Cuộc gặp diễn ra bên dòng suối lấp lánh ánh trăng, dưới một chiếc dù hoa, chiến lợi phẩm của những trận đánh địch ở Lai Châu. Nhà văn Ba Lan nói: - Thiên nhiên của các đồng chí đẹp quá! Quang cảnh này thật thanh bình. Lúc này không có một tiếng súng. Dưới ánh trăng, những mỏm đá nhấp nhô mờ ảo. Tôi nói: - Tôi cũng thấy quang cảnh ở đây rất đẹp. Tôi ít khi làm thơ, nhưng cảm thấy cảnh này thật nên thơ. Chúng tôi lại sắp chiến đấu chính là để cho khắp đất nước đêm nào cũng đẹp như đêm nay. Đồng chí nhà báo Tiệp Khắc nói: - Quân đội của các đồng chí thật lạ. Tôi thấy không có gì cách biệt giữa một vị tướng với một người lính. Rồi anh kể lại, hôm nay khi lội dọc con suối vào sở chỉ huy, đã nhìn thấy đồng chí Tổng tham mưu phó nhường ngựa cho một chiến sĩ đau chân, xách giày trong tay cùng lội suối như mọi người. - Quân đội chúng tôi như vậy. Quan hệ giữa chúng tôi trước hết là quan hệ của những người đồng chí, những người bạn chiến đấu. Cuối buổi gặp, đồng chí nhà văn Ba Lan hỏi bằng một giọng vừa lưu luyến vừa băn khoăn: - Các đồng chí sắp đi chiến đấu, còn chúng tôi thì sắp lên đường trở về nước. Tôi muốn đề nghị đồng chí Tổng tư lệnh cho biết, sau đây chúng tôi sẽ nhận được tin gì? Tôi đã trả lời: - Hoặc là các đồng chí sẽ không nhận được tin tức gì về Điện Biên Phủ. Nhưng sẽ được tin chiến thắng của chúng tôi trên các chiến trường khác. Hoặc là các đồng chí sẽ được tin chúng tôi chiến thắng ở Điện Biên Phủ, khi đó sẽ là một chiến thắng rất to. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:33:33 am 6 Sở chỉ huy từ cây số 15 chuyển vào Mường Phăng. Đứng trên đỉnh núi sau sở chỉ huy, nhìn thấy rõ cánh đồng Mường Thanh khá rộng và toàn bộ những cứ điểm của địch. Các đồng chí trong Bộ chỉ huy và Đảng ủy mặt trận chia nhau đi kiểm tra và đôn đốc công tác chuẩn bị chiến đấu. Phần lớn những trận địa pháo tôi tới thăm, đều nằm ở những nơi trống trải. Pháo đặt ở những vị trí như thế này khi nổ súng rất dễ lộ mục tiêu cho không quân và pháo binh địch đánh phá. Con đường kéo pháo khá dài, nằm trên địa hình hiểm trở, nhiều dốc cao, vực sâu. Tôi thấy rất khó kéo pháo vào trận địa theo thời gian dự kiến là hai ngày. Và việc tiếp đạn khi chiến đấu sẽ rất khó khăn. Bộ chỉ huy mặt trận đã huy động cả đại đoàn 312 và trung đoàn 57 vào làm nhiệm vụ kéo pháo. Nhưng sau một tuần, pháo vẫn chưa tới trận địa đủ. Cán bộ, chiến sĩ ta chưa lường được sức mình khi phải đưa những cỗ lựu pháo, cao xạ pháo nặng hàng tấn qua núi rừng hiểm trở, nhiều chỗ có độ dốc cao. Đồng chí Cao Pha báo cáo địch tiếp tục tăng quân. Ở nhiều cứ điểm địch đã có công sự kiên cố. Mỗi cứ điểm đều có bãi mìn kết hợp với hàng rào dây thép gai bao quanh, có nơi rộng tới trăm mét. Những cứ điểm ở phía tây, nơi đại đoàn 308 sẽ đột phá, tuy có yếu hơn một số cao điểm, nhưng lại nằm trên cánh đồng trống, địch dễ sử dụng xe tăng, pháo binh và lực lượng phản kích, các chiến sĩ ta lại không có địa hình ẩn náu. Đồng chí Hiếu nói riêng với tôi: “Công tác tư tưởng mới nhắc tới quyết tâm mà ít bàn cách khắc phục những khó khăn trong trận đánh”. Đồng chí Trần Văn Quang báo tin, ngày 20 tháng Giêng, Nava đã tung khoảng mười lăm tiểu đoàn vào nam Phú Yên. Bộ đội Liên khu 5 vẫn tiếp tục tiến hành kế hoạch đã định, chỉ để một bộ phận nhỏ cùng với lực lượng vũ trang địa phương đối phó với cuộc tiến công, đại bộ phận đã tiến lên Bắc Tây Nguyên. Trận đánh của ta ở hướng thứ tư sắp bắt đầu. Sau nhiều ngày đêm chật vật, những khẩu pháo mới xích tới gần trận địa dã chiến. Ngày nổ súng được quyết định là 17 giờ 25 tháng Giêng. Gần ngày N, một chiến sĩ của đại đoàn 312 không may bị địch bắt. Có tin địch thông báo cho nhau về thời gian tiến công của bộ đội ta. Diễn biến đầu tiên ngoài dự kiến. Tất cả các đơn vị đều đã triển khai sẵn sàng chờ lệnh. Tôi quyết định hoãn thời gian nổ súng lại hai mươi bốn tiếng. Và phân công nhau đi nắm lại tình hình sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị. Từ sau khi phổ biên nhiệm vụ chiến đấu từ hang Thẩm Púa, tôi cảm thấy thời gian rất dài. Nhưng tính lại, mới mười một ngày. Nhiều lần, tôi lên mỏm núi sau sở chỉ huy, đứng ngắm giờ lâu, những cứ điểm địch đỏ ối trên cánh đồng Mường Thanh, bằng phẳng và những ngọn đồi phía đông. Máy bay địch, chiếc xếp hàng bên đường băng, chiếc bay lượn trên không thả dù, chiếc lao xuống bắn phá những nơi chúng nghi có quân ta. Những chiếc xe tăng địch chạy trên con đường nối liền Mường Thanh với Hồng Cúm. Mỗi ngày qua, tôi càng khẳng định là không thể nào đánh nhanh được. Tôi nhớ tới lời Bác dặn trước khi lên đường và một câu trong nghị quyết của Trung ương hồi đầu năm 1953: “Chiến trường ta hẹp, người của ta không nhiều, cho nên ta chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn”. Qua tám năm kháng chiến, bộ đội ta đã trưởng thành. Nhưng vốn liếng quả chưa nhiều. Chúng ta chỉ mới có sáu đại đoàn chủ lực. Hầu hết các đại đoàn đều có mặt trong chiến dịch này! Đêm 25 tháng Giêng, tôi thao thức. Đầu đau nhức. Đồng chí bác sĩ buộc trên trán tôi một nắm ngải cứu. Khi nghe anh Thái nói lần đầu ở Tuần Giáo về khả năng đánh nhanh thắng nhanh, tôi đã thấy nếu ta làm như vậy là mạo hiểm. Từ đó tới nay đã nửa tháng qua. Tình hình địch đã thay đổi rất nhiều. Quân số của chúng không còn là mười tiểu đoàn mà theo tin của quân báo đã lên tới hơn mười ba tiểu đoàn. Chúng đã củng cố công sự phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội sẽ phải tiến hành một trận công kiên lớn tiêu diệt tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc rất mạnh, được sự yểm trợ của lực lượng không quân, pháo binh, thiết giáp tại chỗ, và chắc chắn còn được ưu tiên yểm trợ số 1 đối với lực lượng không quân địch ở miền Bắc Đông Dương... Ba khó khăn hiện lên rất rõ. Thứ nhất, bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ mới tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường, có công sự vững chắc như ở Nghĩa Lộ. Khi đánh vào tập đoàn cứ điểm Nà Sản, chúng ta mới đánh từng tiểu đoàn địch trong công sự dã chiến, mà còn đánh rất dở! Thứ hai, trận này ta không có xe tăng, máy bay nhưng hợp đồng bộ binh, pháo binh quy mô cũng là lần đầu, bộ đội lại chưa qua diễn tập. Vừa qua đã có trung đoàn trưởng xin trả bớt súng, vì không biết phối hợp như thế nào! Thứ ba, bộ đội từ trước đến nay chỉ quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn náu. Chủ lực ta chưa có kinh nghiệm tác chiến ban ngày trên địa hình bằng phẳng, với một kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo binh và xe tăng. Trận đánh sẽ diễn ra trên một cánh đồng dài 13 kilômét và rộng 6 kilômét... Tất cả những khó khăn này ta đều chưa bàn cách giải quyết. Suốt đêm, tôi không sao ngủ được, càng thấy trách nhiệm nặng nề, chỉ mong trời chóng sáng để triệu tập cuộc họp Đảng ủy mặt trận. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:35:34 am 7 Sáng ngày 26 tháng Giêng 1954 (trước đây có những tài liệu nói ngày 25 là không đúng), các đồng chí trong Đảng ủy xuống các đơn vị nắm tình hình chưa về đủ. Trong khi chờ đợi cuộc họp, tôi gặp đồng chí bạn. Đồng chí Trưởng đoàn quân sự của bạn ngạc nhiên nhìn nắm ngải cứu trên trán tôi. Đồng chí ân cần hỏi thăm tình hình sức khoẻ rồi nói: - Trận đánh sắp bắt đầu. Đề nghị Võ Tổng cho biết tình hình tới lúc này ra sao? Tôi đáp: - Đó cũng là vấn đề tôi muốn trao đổi với đồng chí. Qua theo dõi tình hình, tôi cho rằng địch không còn trong trạng thái lâm thời phòng ngự, mà đã trở thành một tập đoàn cứ điểm phòng ngự kiên cố. Vì vậy không thể đánh theo kế hoạch đã định... Tôi nói tiếp ba khó khăn lớn của bộ đội, rồi kết luận: - Nếu đánh là thất bại. - Vậy nên xử trí thế nào? - Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm “đánh chắc tiến chắc”. Sau giây lát suy nghĩ, đồng chí bạn nói: - Tôi đồng ý với Võ Tổng. Tôi sẽ làm việc với các chuyên gia. - Thời gian gấp. Tôi cần họp Đảng ủy để quyết định. Và cần có dự kiến cho 308 tiến về phía Luông Phabăng, bộc lộ lực lượng chừng nào, kéo không quân địch về hướng đó, không để chúng tập trung gây khó khăn khi quân ta lui quân và kéo pháo ra... Cuộc trao đổi giữa tôi và đồng chí bạn diễn ra khoảng hơn nửa giờ. Khi tôi trở về sở chỉ huy thì các đồng chí trong Đảng ủy đã có mặt đông đủ. Tôi trình bày những suy nghĩ mình đã có từ lâu chung quanh cách đánh tập đoàn cứ điểm, những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau hội nghị Thẩm Púa đến nay, ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ nhưng phải thay đổi cách đánh. Mọi người im lặng một lúc. Rồi đồng chí Chủ nhiệm chính trị phát biểu: - Đã động viên sâu rộng bộ đội về nhiệm vụ rồi, anh em đều rất tin tưởng, quyết tâm chiến đấu rất cao. Giờ nếu thay đổi thì giải thích cho bộ đội làm sao? Đồng chí Chủ nhiệm hậu cần nói: - Tôi thấy cứ nên giữ vững quyết tâm. Hậu cần chuẩn bị tới bây giờ đã khó khăn. Nếu không đánh ngay, sau này lại càng không đánh được! Tôi nói: - Tinh thần bộ đội là rất quan trọng, nhưng quyết tâm phải có cơ sở... Hậu cần là điều kiện tiên quyết, nhưng cuối cùng quyết định, là phải có cách đánh đúng. Đồng chí Tham mưu trưởng nói: - Anh Văn cân nhắc cũng phải... Nhưng lần này, ta có ưu thế binh lực, hoả lực, lại có kinh nghiệm của bạn, tôi thấy nếu đánh vẫn có khả năng giành thắng lợi... Trao đổi một hồi chưa đi tới kết luận. Cuộc họp tạm dừng một lát. Khi cuộc họp tiếp tục, tôi nói: - Tình hình khẩn trương, cần sớm có quyết định. Vô luận tình hình nào, chúng ta vẫn phải nắm nguyên tắc cao nhất là: Đánh chắc thắng... Trước khi tôi ra đi, Bác trao nhiệm vụ: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”. Với tinh thần trách nhiệm trước Bác và Bộ Chính trị, tôi đề nghị các đồng chí trả lời câu hỏi: “Nếu đánh có chắc thắng trăm phần trăm không?”. Đồng chí Chủ nhiệm chính trị nói: - Anh Văn nêu câu hỏi thật khó trả lời. Ai dám bảo đảm là sẽ chắc thắng trăm phần trăm? Đồng chí Chủ nhiệm hậu cần nói tiếp: - Làm sao dám bảo đảm như vậy! - Tôi nghĩ với trận này, ta phải bảo đảm chắc thắng trăm phần trăm. Bấy giờ đồng chí Tham mưu trưởng mới nói: - Nếu yêu cầu phải chắc thắng trăm phần trăm thì khó... Lát sau Đảng ủy đi đến nhất trí là trận đánh có thể gặp nhiều khó khăn mà ta chưa có biện pháp cụ thể để khắc phục. Tôi kết luận: - Để đảm bảo nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết và kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới. Sau đó tôi phân công anh Hoàng Văn Thái ra lệnh cho cán bộ đơn vị bộ binh, tôi ra lệnh cho pháo binh và trao nhiệm vụ mới cho 308. Tôi gọi điện cho pháo binh: - Tình hình địch đã thay đổi. Quyết tâm tiêu diệt Trần Đình1 vẫn giữ vững. Nay thay đổi cách đánh. Vì vậy, ra lệnh cho các đồng chí từ 17 giờ hôm nay, kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Triệt để chấp hành mệnh lệnh! Không giải thích. Đầu dây đằng kia, tiếng đồng chí Phạm Ngọc Mậu, chính ủy pháo binh đáp: - Rõ. Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh. 14 giờ 30, mới có liên lạc điện thoại với anh Vương Thừa Vũ, tư lệnh đại đoàn 308. - Chú ý nhận lệnh: Tình hình thay đổi. Đại đoàn các đồng chí có nhiệm vụ hướng về Luông Phabăng tiến quân. Dọc đường, gặp địch tùy điều kiện cụ thể mà tiêu diệt. Giữ vững lực lượng, có lệnh, trở về ngay. Giữ liên lạc vô tuyến điện. Khi được hỏi mới trả lời. - Rõ - Anh Vũ đáp - Triệt để chấp hành mệnh lệnh!... Xin chỉ thị về sử dụng binh lực như thế nào? - Toàn quyền quyết định, từ một tiểu đoàn đến toàn đại đoàn. Hậu cần tự giải quyết. Đúng 4 giờ chiều nay xuất phát. - Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh. Đồng thời tôi chỉ thị cho một bộ phận nhỏ, mang theo một đài vô tuyến điện, đi về phía Mộc Châu, mỗi ngày ba lần đánh điện báo cáo “Đại đoàn 308 đã về tới...”. Điện mật, xen đôi tiếng không dùng mật mã. Do những bức điện này, lúc đầu địch đã tưởng 308 đang quay về đồng bằng. ____________________________________________ 1. Mật danh chiến dịch Điện Biên Phủ. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:37:14 am 8 Trong ngày hôm đó tôi đã đạt được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình. Không thể dùng điện đài, tôi viết thư hỏa tốc gửi về báo cáo Bộ Chính trị. ít ngày sau nhận được thư của anh Trường Chinh cho biết Bác và các anh ở nhà nhất trí cho rằng quyết định thay đổi phương châm là hoàn toàn đúng đắn. Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ động viên toàn dân dốc toàn lực chi viện cho tiền tuyến tới khi bộ đội giành toàn thắng tại Điện Biên Phủ. Trên mặt trận Điện Biên Phủ, mặc dù mỗi người còn có những băn khoăn, suy nghĩ khác nhau, nhưng toàn thể cán bộ, chiến sĩ đã triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân, biểu thị một niềm tin, một tinh thần kỷ luật tuyệt vời. Cả đại đoàn 312 cùng các chiến sĩ pháo binh, bảy ngày đêm ròng rã, đã kéo pháo ra an toàn trên con đường hiểm trở, bị máy bay và pháo địch biến thành con đường lửa. Các chiến sĩ đại đoàn 308 lên đường với mỗi người năm lạng gạo, đã đuổi địch trên chặng đường dài 200 kilômét với sự phối hợp với bộ đội Pathét Lào và sự đùm bọc của nhân dân Lào, đã đập tan phòng tuyến Nậm Hu, tiêu diệt 14 đại đội. Nava lại phân tán lực lượng cơ động, lập thêm một tập đoàn cứ điểm nữa ở Mường Sài và tăng quân bảo vệ Luông Phabăng. Ngày Tết đến bất chợt với hoa ban nở trắng bên sườn núi và dọc những khe suối quanh sở chỉ huy. Nam Bộ, Liên khu 5 xa xôi gửi điện chúc mừng các chiến sĩ Điện Biên Phủ sớm giành toàn thắng. Trong hàng vạn lá thư từ hậu phương gửi ra mặt trận, có những lá thư từ Mátxcơva, Bắc Kinh, Bình Nhưỡng. Đêm 30 Tết, tôi vẫn theo dõi những khẩu pháo cuối cùng trên đường trở về vị trí tập kết. Anh Vương Thừa Vũ điện về báo cáo những chiến sĩ đầu tiên của đại đoàn 308 cùng bộ đội Pathét Lào đã ở bên sông Mê Công, cách Luông Phabăng, kinh đô nhà vua Lào 7 kilômét. Cuộc tiến công ở Thượng Lào nổ ra đồng thời với cuộc tiến công giải phóng Công Tum tiếp theo những cuộc tiến công giải phóng tỉnh Thà Khẹt và cao nguyên Bôlôven trước đó, cùng với việc Nava ném quân xuống Điện Biên Phủ đã làm tan vỡ khối quân cơ động của địch. Đại đoàn 320 cùng với các lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh đã làm mưa làm gió tại đồng bằng Bắc Bộ, đập tan phòng tuyến Sông Đáy, đột nhập các sân bay, phá huỷ một phần sáu số máy bay của địch ở Đông Dương. 20 trong số 44 tiểu đoàn cơ động của Nava còn lại ở đồng bằng, phải rải ra để bảo vệ những tuyến đường giao thông quan trọng, đặc biệt là đường 5. Cuộc tiến công của địch vào Phú Yên bị sa lầy. Quân du kích Nam Trung Bộ tập kích thành phố Nha Trang, thị trấn Ninh Hoà. Bộ đội địa phương Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận diệt nhiều cứ điểm đại đội của địch. Giấc mộng bình định Nam Bộ của Nava trong mùa khô này đã tan thành mây khói. Các tiểu đoàn chủ lực của khu, tỉnh ở Nam Bộ đều tiến vào vùng tạm bị chiếm, đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân, đánh đồn, chặn viện, đánh vận động, đánh giao thông, tiêu diệt trên một ngàn đồn bốt, tháp canh (nhiều vị trí đại đội), diệt nhiều đoàn xe cơ giới, xe lửa, tàu thuyền của địch. Quân địch buộc phải quay về bảo vệ những vùng trước đây chúng coi là “bình định xong”. Vùng tự do Khu 9 được giữ vững và mở rộng. Các căn cứ du kích và khu du kích lớn, nhỏ đều được khôi phục và mở rộng rất nhiều. Nhiều địa phương mới được giải phóng. Trên toàn bộ các chiến trường, quân Pháp đều bị sa lầy. Nhưng trên mặt trận Điện Biên Phủ, quyết định ngày 26 tháng Giêng năm 1954 vẫn còn đứng trước những thử thách cực kỳ lớn. Quân số địch ở Điện Biên Phủ đã tăng lên 19 tiểu đoàn và còn khả năng tăng lên nữa trong quá trình chiến đấu. Chuẩn bị theo phương châm mới, trận đánh đã lui lại một tháng rưỡi. Chúng ta đã xây dựng trận địa bao vây và tiếp cận chung quanh tập đoàn cứ điểm, với hàng trăm kilômét chiến hào, để bộ đội có thể chiến đấu cả ban ngày và ban đêm dưới bom đạn. Chúng ta đã đưa những khẩu pháo vào ẩn náu an toàn trong những căn hầm nằm phân tán giữa lòng núi và làm đường cho xe vận tải chở đạn tới từng hầm pháo. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để chiến thắng”, quân và dân ta đã không tiếc mồ hôi, xương máu làm nên kỳ công bảo đảm việc tiếp tế đạn dược, lương thực cho các chiến sĩ ở mặt trận. Ta đã dành cho kẻ địch một bất ngờ lớn nhất là không chấp nhận một cuộc tổng giao chiến chớp nhoáng với toàn bộ lực lượng viễn chinh tinh nhuệ địch náu mình trong tập đoàn cứ điểm kiên cố. Ta quyết định tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng bằng cách đánh sở trường của ta, vào thời gian, địa điểm do ta lựa chọn, với thế mạnh áp đảo trong từng trận đánh, đồng thời siết chặt trận địa chiến hào, triệt nguồn tiếp tế cho tới lúc tập đoàn cứ điểm nghẹt thở. Ngày 13 tháng 3 năm 1954, tiếng súng tiến công của ta ở Điện Biên Phủ bắt đầu. Viên chỉ huy phó tập đoàn cứ điểm, phụ trách pháo binh, phải tự sát vì không có cách nào làm im lặng những khẩu pháo Việt Nam. Đờ Cátxtơri và bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đành chịu bó tay ngồi nhìn những cứ điểm mạnh nhất của tập đoàn cứ điểm lần lượt sụp đổ dưới bàn chân không giày của những chiến sĩ xung kích Việt Nam. Trận địa chiến hào của ta, từ núi cao đổ xuống cánh đồng, mỗi ngày càng siết chặt sợi dây định mệnh chung quanh tập đoàn cứ điểm. ... Ngày mồng 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến quyết thắng tung bay trên nóc hầm của tướng Đờ Cátxtơri. Hơn một vạn quân địch ở Mường Thanh kéo cờ trắng đầu hàng. Quân và dân ta tháng Năm ấy lại có một chiến công lớn mừng ngày sinh của Bác Hồ. Thư khen ngợi của Bác tới ngay ngày hôm sau: "Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu...". Tôi viết hồi tưởng này là để dâng một bó hoa thơm kính viếng anh linh các anh hùng, liệt sĩ, để nói lên sức mạnh thần kỳ của đoàn kết toàn dân chiến đấu, của liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia đã làm nên chiến công hiển hách trong mùa Xuân lịch sử cách đây 35 năm. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:45:14 am VIỆT NAM – HỒ CHÍ MINH - ĐIỆN BIÊN PHỦ1 Mùa Xuân năm Giáp Ngọ (1954), chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh của Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tạo thế, tạo lực để quân và dân ta tiếp tục cuộc chiến đấu 30 năm, đưa sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn. Nhân dân ta tự hào, phấn khởi. Bạn bè quốc tế vui mừng. Đã xuất hiện trên báo chí phương Tây một khẩu hiệu như là một chân lý: “Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ". Có thể coi đây là bản tổng kết súc tích, ngắn gọn của loài người tiến bộ chào đón chiến công đầu oanh liệt đại phá thành trì của chủ nghĩa thực dân. * * * Sự kiện Điện Biên Phủ làm "chấn động địa cầu". Đây là chiến công vang dội đầu tiên của một dân tộc vốn là thuộc địa, đánh thắng quân đội hiện đại của một đế quốc phương Tây. Đây cũng là trận tiêu diệt chiến lớn điển hình nhất trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống quân xâm lược nước ngoài. Tiếng sấm Điện Biên Phủ khiến nhân loại hướng về dải đất hình chữ S trên bán đảo Đông Dương, một nước nguyên là thuộc địa bị các thế lực thực dân xóa tên gần 100 năm trên bản đồ thế giới. Các nhà sử học đi sâu vào quá khứ phát hiện ra dân tộc làm nên Điện Biên Phủ sống trên một đất nước anh hùng bất khuất, có lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều thiên niên kỷ, có lần sau hơn một nghìn năm bị thống trị, chẳng những không bị đồng hóa, mà đã vùng lên giành lại quyền sống của mình. Những phát hiện làm cho thế giới phải kinh ngạc và khâm phục, thực ra không phải là mới với con người Việt Nam vốn mang truyền thống chống ngoại xâm trong huyết quản. Đối với một dân tộc ở vào khu vực ngã ba đường của vùng Đông Nam châu Á, kể từ thời Văn Lang, Âu Lạc đã phải chống chọi với những cuộc chinh phục của ngoại bang, thì đánh giặc giữ nước đã thành quy luật sinh tồn. Một khi cờ nghĩa phất cao, "tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có". Trước họa xâm lăng, nhân dân Việt Nam buộc phải liên tiếp đứng lên giành và giữ độc lập. Bởi vì "nước mất" thì "nhà tan", "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"... "đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ". Bởi vì "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi!". * * * Đất nước ta là một trong những chiếc nôi của loài người. Nơi đây, từ ngàn xưa đã tích tụ một hào khí anh hùng, một truyền thống giữ nước vẻ vang, một hệ thống tri thức quân sự độc đáo và sáng tạo, chống lại những kẻ địch lớn mạnh. Đó là những di sản quý báu, là cội nguồn của những võ công oanh liệt ngày nay. Bước vào lịch sử cận đại, từ giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa đế quốc phân chia thế giới, xâm chiếm thuộc địa. Bài toán có tính quốc tế đặt ra lúc này cho các dân tộc bị áp bức đang còn trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phong kiến, tiền phong kiến, là làm thế nào để chống lại ách xâm lược của các nước tư bản công nghiệp hơn hẳn về kinh tế, kỹ thuật, làm thế nào để giành thắng lợi trong sự chênh lệch rất lớn về trình độ sản xuất và phương thức sản xuất. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là người đầu tiên tìm ra đáp số. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người đã tìm ra con đường cứu nước, đặt nền móng cho đường lối cách mạng và đường lối quân sự của Đảng ta. Đó là con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới, là quan điểm đoàn kết toàn dân, quan điểm khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh toàn dân, phát động sức mạnh vô tận của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam để dựng nước và giữ nước. Trong chiến tranh, đó là đường lối chiến lược của "một nước nhỏ mà đánh thắng hai đế quốc to", đã được lịch sử chứng minh và kiểm nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Ngay từ những ngày đầu, Người đã chủ trương xây dựng ba thứ quân, "lập ra đội chủ lực", vì "về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng". Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình làm chính, phải đẩy mạnh chiến tranh du kích đi đôi với phát triển chiến tranh chính quy, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Phải "đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế". "Tất cả cho tiền tuyến. Tất cả để chiến thắng". Tất cả đều "do dân" và "vì dân". Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta đã đưa Cách mạng tháng Tám đến thành công. Tư tưởng của Người và đường lối của Đảng tiếp tục đưa kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. _____________________________________________ 1. Bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đăng trên báo Quân đội nhân dân, năm 1994. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:47:31 am * * * Điện Biên Phủ là đỉnh cao của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, là kết quả của chín năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, của sự phối hợp chiến lược chặt chẽ giữa các chiến trường cả nước ta và hai nước bạn, từ miền Bắc đến miền Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, giữa tiền tuyến và hậu phương. Điện Biên Phủ là thắng lợi của khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, biết phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của ta, không cho địch phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của chúng, thường lấy cái mạnh của ta đánh thắng vào chỗ yếu và hiểm yếu của địch, liên tiếp phá tan mọi âm mưu chiến lược của chúng, tiến tới đánh thắng chúng hoàn toàn. Binh thư kim, cổ, đông, tây đều thống nhất ở nguyên tắc về quyền chủ động và nguyên tắc tập trung lực lượng. Thế nhưng vận dụng được các nguyên tắc ấy trong thực tiễn lại tùy thuộc vào tính chất chiến tranh và khả năng của các bên tham chiến. Kế hoạch quân sự của tướng Nava nhằm xây dựng một khối cơ động mạnh, giành lại quyền chủ động chiến lược, tiến tới kết thúc chiến tranh trên thế mạnh không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Thế nhưng, với phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", khoét sâu mâu thuẫn cố hữu giữa tập trung và phân tán của chiến tranh xâm lược, Bộ thông soái tối cao Việt Nam bằng một sự điều động binh lực năng động, mưu trí, đã buộc quân Pháp phải đánh theo ý định của ta, phải xòe "nắm đấm chủ lực" ra nhiều hướng. Và khi quân Pháp tập trung ở một điểm cô lập xa hậu phương, hình thành một tập đoàn cứ điểm rất mạnh mà chúng cho là bất khả xâm phạm hòng thu hút và tiêu diệt chủ lực ta, thì ta đã tập trung cao độ lực lượng chủ lực tinh nhuệ đánh ngay vào chỗ mạnh nhất của địch. Với cách đánh sáng tạo, quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch trong một trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi ngay ở nơi địch muốn quyết chiến với ta. Đây là đặc điểm nổi bật của chiến dịch Điện Biên Phủ. Quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ là một quyết tâm rất lớn, có cơ sở khoa học và thực tiễn. Ở đây, lòng dũng cảm và trí thông minh của con người Việt Nam kết hợp với nhau trong cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt, đầy kịch tính, cuối cùng đã mang về chiến thắng. Xưa kia, Trần Quốc Tuấn dặn dò tướng sĩ "cần phải xem xét tình hình biến chuyển như người đánh cờ, tùy cơ mà ứng biến"1. Nguyễn Trãi cũng đã viết: "Việc binh cốt phải mau chóng như thần, máy then mở đóng, như bánh xe chuyển, như đám mây bay, trong khoảng chốc lát, chợt nóng lạnh, thay đổi khôn lường"2. Trong điều kiện ngày nay, do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, vũ khí và phương tiện chiến tranh, sự thay đổi tình huống trên chiến trường lại càng mau lẹ. Nghệ thuật quân sự phải vừa có tính kiên quyết vừa có tính linh hoạt. Một mặt, phải hạ quyết tâm chính xác và kiên trì thực hiện quyết tâm, không dao động với những hiện tượng bề ngoài; mặt khác, khi tình hình đã thay đổi, thì kịp thời thay đổi phương thức và biện pháp cho phù hợp để giành chiến thắng. Từ "đánh nhanh giải quyết nhanh" chuyển sang "đánh chắc tiến chắc", Đảng ủy Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đã có một "quyết định khó khăn nhất", kịp thời hành động đúng quy luật, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm địch trong một cuộc chiến đấu 55 ngày đêm, thay vì tiến công địch trong ba đêm hai ngày theo phương án cũ. Phương pháp khoa học quân sự đưa đến chiến công Điện Biên Phủ được lặp lại trong đại thắng mùa Xuân năm 1975. Khi tình hình chuyển biến nhanh chóng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã nhạy bén chuyển từ kế hoạch cơ bản sang kế hoạch thời cơ, điều hành chiến tranh theo tinh thần "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", kết hợp tiến công và nổi dậy, giành toàn thắng trong thời gian hai tháng, không phải là hai hoặc ba năm như dự kiến ban đầu. * * * Kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, nhân dân ta thành kính tưởng nhớ và ghi công các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh chiến đấu quên mình trong hơn ba mươi năm trên khắp các chiến trường, giải phóng đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trước mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. "Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ” Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, mà ý nghĩa của câu tổng kết năm nào vẫn sáng ngời chân lý, soi tỏ bước đường trước mắt của nhân dân ta xây dựng đất nước giàu mạnh, mang lại hạnh phúc cho toàn dân theo đường lối "đổi mới" của Đảng. Chiến thắng Điện Biên Phủ để lại những bài học lịch sử hết sức quý giá. Đó là sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam, của khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên trình độ mới, phát huy vào sự nghiệp mới. Tin tưởng ở dân, bồi dưỡng sức dân. Tất cả "do dân" và "vì dân", thì "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, là chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam, là tinh thần cách mạng và khoa học, luôn bám sát thực tiễn, phát hiện quy luật, phát hiện cái mới, hành động đúng quy luật khách quan với tinh thần "đổi mới". Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiệt tình và trí tuệ của toàn dân tộc trong thời đại mới, không bao giờ chủ quan, tự mãn, nhất định đất nước ta sẽ có những bước phát triển mới với tốc độ nhanh và vững, sánh vai cùng các nước trên thế giới. Đó là tinh thần quyết chiến quyết thắng của Điện Biên Phủ, là quyết tâm đi theo con đường Bác Hồ đã lựa chọn, biết phát huy ở mức cao nhất sự giúp đỡ và sự đồng tình ủng hộ quốc tế, luôn luôn giữ vững độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc, độc lập tự chủ, tự lực tự cường. Tinh thần Điện Biên Phủ sẽ chiến thắng mọi nguy cơ, đập tan âm mưu "diễn biến hòa bình", diệt trừ "quốc nạn" tham nhũng và mọi biểu hiện tiêu cực khác. Điện Biên Phủ cùng với đại thắng mùa Xuân năm 1975 đang cổ vũ quân và dân ta lập nhiều thành tích mới, những câu chuyện thần kỳ mới trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Hướng về Điện Biên Phủ, thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh tự hào về chiến công bất tử của cha anh, tích cực, sáng tạo trong học tập, lao động và chiến đấu, cống hiến nhiệt tình và sức trẻ làm nên những Điện Biên Phủ mới, đánh thắng nghèo nàn lạc hậu, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đó là suy nghĩ và hành động có ý nghĩa nhất để đền đáp công ơn các anh hùng liệt sĩ, để xứng đáng với dòng máu của tổ tiên, làm vẻ vang cho nòi giống Việt Nam trường tồn và phát triển. ____________________________________________ 1. "Quân kỳ suy biến, như vị kỳ nhiên, tùy thời chế nghi": Di chúc của Trần Quốc Tuấn, Việt sử thông giám cương mục, Nxb Văn sử Địa, Hà Nội, 1958, tr. 100. 2. Quân trung từ mệnh tập. Thư cho Vương Thông, Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 118. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 11:01:58 am TINH THẦN ĐIỆN BIÊN PHỦ SỐNG MÃI TRONG SỰ NGHIỆP CỦA CHÚNG TA 1 Trong buổi bình minh của thiên niên kỷ mới, trên Tổ quốc Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, công cuộc đổi mới xây dựng phát triển đất nước đang từng ngày khởi sắc, nhân dân ta kỷ niệm trọng thể 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Chúng ta còn nhớ: Thu Đông 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân xâm lược Pháp bước sang năm thứ tám. Sau 5 năm tự lực chiến đấu trong vòng vây, từ năm 1950 trở đi, chủ lực ta liên tiếp mở nhiều chiến dịch lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở biên giới Việt - Trung, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào. Chiến tranh du kích phát triển mạnh, làm "ruỗng nát" vùng tạm chiếm của đối phương. Trước tình hình nguy khốn ở Đông Dương, chính phủ Pháp cử tướng bốn sao Hăngri Nava sang làm tổng chỉ huy thứ bảy của đội quân viễn chinh xâm lược. Ta được biết nội dung kế hoạch Nava do bạn Trung Quốc cung cấp. Theo kế hoạch này, Nava đề ra mục tiêu trong vòng 18 tháng, tập trung lực lượng cơ động chiến lược để tiến công tiêu diệt phần lớn chủ lực ta, buộc Chính phủ ta phải chấp nhận đàm phán theo những điều kiện do Pháp đề ra, nhằm tìm "lối thoát danh dự" cho cuộc chiến tranh xâm lược. Trong Đông Xuân 1953-1954, Nava tập trung các binh đoàn cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ nhằm đối phó với cuộc tiến công có thể xảy ra của chủ lực ta, càn quét bình định vùng sau lưng chúng; cho quân nhảy dù xuống Lạng Sơn, đánh ra Ninh Bình, uy hiếp các căn cứ kháng chiến của ta ở Việt Bắc và Thanh Nghệ Tĩnh. Để phá tan kế hoạch Nava, buộc chúng phải phân tán lực lượng, bị động đối phó, Bộ thống soái tối cao của ta chủ trương dùng một bộ phận quân chủ lực, phối hợp với các lực lượng địa phương, chủ động mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, lấy Tây Bắc làm hướng chính. Đó là những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối yếu, ta có thể tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, tiếp tục khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch, tạo nên thế trận mới, thời cơ mới. Tình hình có thể phức tạp, ta cần theo dõi diễn biến, khi thời cơ xuất hiện thì nhanh chóng tập trung lực lượng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta. Tháng 11 năm 1953, khi phát hiện chủ lực ta tiến lên Tây Bắc, Nava cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ để yểm trợ cho các đơn vị ở Lai Châu rút chạy, đồng thời bảo vệ Thượng Lào. Sau khi biết chắc phần lớn chủ lực ta đã tiến lên Tây Bắc, Nava chủ trương tăng cường lực lượng, gấp rút xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương nhằm thu hút và đánh bại chủ lực ta. Đầu tháng 12 năm 1953, quân ta mở cuộc tiến công tiêu diệt phần lớn quân địch ở Lai Châu rút chạy, bao vây Điện Biên Phủ. Hạ tuần tháng 12, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào mở cuộc tiến công vào Trung Lào, giải phóng Thà Khẹt và phát triển xuống Hạ Lào, giải phóng cao nguyên Bôlôven. Tháng 1 năm 1954, tuy có tin địch sẽ tiến công vào vùng tự do ven biển Liên khu 5, nhưng chủ lực ta vẫn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, kiên quyết mở cuộc tiến công lên Bắc Tây Nguyên, giải phóng Công Tum và một vùng rộng lớn, nối liền với khu giải phóng Hạ Lào. Hạ tuần tháng 1 năm 1954, trong khi tạm đình cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ, một đơn vị chủ lực ta đã bất ngờ mở cuộc tiến công sang Thượng Lào. Đòn tiến công này đã giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, uy hiếp thủ đô Luông Phabăng. Bằng 5 đòn tiến công chiến lược nói trên, ta đã điều động được lực lượng địch, thu hút chúng đến những chiến trường có lợi cho ta, buộc khối cơ động chiến lược của Nava phải chia năm sẻ bảy để tiêu diệt chúng. Phối hợp với các đòn tiến công của bộ đội chủ lực, chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ ở các vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Hàng chục đoàn tàu bị lật đổ, hàng chục máy bay bị phá hủy trên các sân bay, hàng trăm đồn bốt bị san bằng, nhiều vùng căn cứ du kích được mở rộng. Thắng lợi to lớn của các chiến trường phối hợp trong giai đoạn đầu của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 đã làm cho kế hoạch Nava bị đảo lộn và bắt đầu phá sản. Ở chiến trường chính, Điện Biên Phủ, lúc đầu chưa có trong kế hoạch Nava và cũng chưa có trong kế hoạch tác chiến của ta, đã trở thành nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược, cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch. ____________________________________________ 1. Bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bản gửi cho Nxb Quân đội nhân dân, ngày 4 tháng 3 năm 2004. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 11:02:37 am Thực hiện quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, bộ phận tham mưu của ta và của Đoàn cố vấn đi trước để chuẩn bị chiến trường, đã đề nghị phương án tranh thủ "đánh nhanh giải quyết nhanh" khi địch còn đứng chân chưa vững, dốc toàn lực đánh trong 3 đêm 2 ngày tiêu diệt toàn bộ quân địch giành thắng lợi. Tôi và đồng chí Trưởng đoàn cố vấn đi sau, lên đến mặt trận đã nghe báo cáo phương án đánh nhanh. Tại cuộc họp đầu tiên của Đảng ủy chiến dịch, tôi đã nêu những khó khăn lớn mà bộ đội ta chưa thể vượt qua nếu đánh theo phương án đó. Nhưng ý kiến chung đều cho rằng: Bộ đội ta đã được huấn luyện về cách đánh tập đoàn cứ điểm, hiện nay sung sức, quyết tâm chiến đấu rất cao, lại có lựu pháo và cao xạ pháo lần đầu xuất trận, với sức mạnh mới, có thể gây bất ngờ và sẽ chiến thắng. Nếu không đánh sớm, để địch tăng thêm quân và củng cố công sự khiến tập đoàn cứ điểm trở nên quá mạnh, ta sẽ bỏ lỡ cơ hội đánh tiêu diệt lớn trong Đông Xuân này. Chiến dịch kéo dài sẽ không giải quyết được khó khăn về hậu cần. Đồng chí Trưởng đoàn cố vấn cũng tán thành phương án ấy. Tuy không tin vào thắng lợi của phương án đánh nhanh thắng nhanh, nhưng tôi tự thấy mình vừa mới đến chiến trường, chưa có đủ cơ sở thực tế để bác bỏ ý kiến của đa số, nên đã đồng ý triệu tập Hội nghị cán bộ để phổ biến kế hoạch tác chiến theo phương châm "đánh nhanh giải quyết nhanh". Đồng thời tôi chỉ thị cơ quan tham mưu theo dõi chặt chẽ tình hình địch từng ngày, từng giờ, kịp thời báo cáo; nếu tình hình thay đổi, ta có thể thay đổi kế hoạch... Suốt 11 ngày đêm theo dõi tình hình, tôi thấy địch ngày càng tăng cường lực lượng, ra sức củng cố trận địa, và những khó khăn của ta chưa có cách khắc phục. Nhiều đêm trăn trở, cân nhắc, đêm cuối cùng thức trắng, tôi đi đến kết luận: đánh theo cách này nhất định thất bại. Sáng ngày 26 tháng 1, tôi đã trao đổi ý kiến thống nhất với đồng chí Trưởng đoàn cố vấn, tiếp đó đưa ra Đảng ủy mặt trận bàn thay đổi cách đánh. Cuộc thảo luận trong Đảng ủy đã diễn ra gay go sôi nổi. Tất cả đều cho rằng bộ đội quyết tâm cao, mọi mặt đã chuẩn bị, phải đánh nhanh, nếu không sẽ khó khăn, mất thời cơ. Nhưng khi đặt ra câu hỏi: Vậy đánh nhanh có bảo đảm chắc thắng 100% như Bác Hồ căn dặn không? thì không ai dám khẳng định; cuối cùng Đảng ủy đã đi đến nhất trí phải chuyển sang phương châm "đánh chắc tiến chắc" - một phương án đã từng dự kiến trước đây. Mặc dầu mấy vạn quân ta đã giàn trận, đạn đã lên nòng sẵn sàng nổ súng vào đêm ngày 26 tháng 1, nhưng chúng ta đã kiên quyết dừng lại, cho lui quân về vị trí tập kết, kéo pháo ra để chuẩn bị trận địa đánh theo phương án mới. Quyết định thay đổi phương châm đã được triển khai, sau đó báo cáo về Trung ương bằng thư hỏa tốc, được Bác Hồ và Bộ Chính trị nhất trí và cho biết sẽ động viên hậu phương đem toàn lực chi viện cho tiền tuyến đánh thắng. Thay đổi cách đánh trong tình thế toàn mặt trận từ trên xuống dưới quyết tâm chiến đấu theo phương án đánh nhanh giải quyết nhanh, các đơn vị đã vào vị trí chiến đấu, chờ giờ nổ súng là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi. Chúng ta chuyển sang cách đánh chắc tiến chắc tức là bao vây đánh dần từng bước, tiêu diệt địch từng bộ phận, từ ngoại vi vào tung thâm. Đánh theo cách này, ta có điều kiện tập trung binh hỏa lực ưu thế tuyệt đối trong từng trận, tạo nên sức mạnh áp đảo đánh thắng địch. Để bảo đảm bao vây, tiêu diệt địch từng bước, theo kinh nghiệm chiến đấu của Giải phóng quân Trung Quốc mà Đoàn cố vấn giới thiệu, chúng ta đã xây dựng một hệ thống đường kéo pháo bằng cơ giới và các trận địa pháo có hầm đào sâu vào vách núi; xây dựng một hệ thống trận địa bao vây và tiến công quy mô chiến dịch, với hàng trăm kilômét hào giao thông để cơ động tiếp cận địch, với hàng vạn công sự chiến đấu, công sự ẩn nấp cho người và vũ khí, có hầm nghỉ ngơi, sinh hoạt, cấp cứu thương binh trong lòng đất, bảo đảm cho bộ đội chiến đấu liên tục ngày đêm trên cánh đồng Mường Thanh, dưới sự đánh phá ác liệt của không quân và pháo binh địch. Trải qua một quá trình chiến đấu dài ngày, chúng ta đã lần lượt tiêu diệt từng cụm cứ điểm của địch, siết chặt vòng vây, vận dụng chiến thuật đánh lấn, bắn tỉa, chia cắt sân bay, triệt đường tiếp tế... làm cho tập đoàn cứ điểm ngày càng bị bóp nghẹt, không phận ngày càng bị thu hẹp, khó khăn ngày càng chồng chất, tinh thần chiến đấu của địch ngày càng sa sút. Cuối cùng, ta mở đợt tiến công quyết định đánh vào sở chỉ huy đầu não, bắt sống tướng Đờ Cát và bộ chỉ huy, buộc toàn bộ quân địch đầu hàng, giành toàn thắng cho chiến dịch. Như vậy, quân đội ta từ chỗ mới tiêu diệt được từng tiểu đoàn địch phòng ngự trong công sự vững chắc và thường chỉ đánh trong đêm, đã tiến lên tiêu diệt 21 tiểu đoàn phòng ngự trong một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với 8 trung tâm đề kháng, 49 cứ điểm và đánh liên tục trong 56 ngày đêm, đã tiêu diệt, bắt sống hơn 1 vạn 6 nghìn quân địch, đại bộ phận là lính Âu Phi tinh nhuệ. Đây là trận tiêu diệt chiến lớn nhất, tiêu biểu nhất, một bước trưởng thành vượt bậc về trình độ tác chiến của quân đội ta. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 11:05:09 am * * * Kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác Hồ viết: "Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn"1. "Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới". Năm nay kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, nhìn lại tiến trình lịch sử của dân tộc ta và của nhân loại qua nửa thế kỷ, chúng ta càng thấy ý nghĩa to lớn và sâu sắc của chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt và bắt sống quân viễn chinh xâm lược lớn nhất, gọn nhất của quân đội ta, dân tộc ta và của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX. Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân xâm lược Pháp. Ông cha ta trước đây từng tiêu diệt quân xâm lược ở Bạch Đằng, Chi Lăng... để giải phóng Thăng Long. Đến thời đại Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã đánh một trận tiêu diệt lớn quân xâm lược ở Điện Biên Phủ, buộc đối phương phải đi đến ký kết Hiệp nghị Giơnevơ, giải phóng nửa nước, giải phóng Thủ đô Hà Nội. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, được xây dựng ngày càng vững mạnh trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước, trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đó là "nhân tố quyết định nhất", trong khi phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam Thành đồng Tổ quốc là “nhân tố quyết định trực tiếp" của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Như chúng ta đã biết, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với sức mạnh mới của một nửa nước được hoàn toàn giải phóng, xây dựng chế độ xã hội mới với sự giúp đỡ của các nước anh em cả về kinh tế và quốc phòng. Ta có một quân đội nhân dân được xây dựng theo phương hướng chính quy và hiện đại, gồm nhiều binh chủng và quân chủng, với một đội ngũ cán bộ dạn dày kinh nghiệm, đã được bồi dưỡng, đào tạo trưởng thành. Trong quá trình kháng chiến chống Mỹ, hàng triệu thanh niên lên đường vào Nam chiến đấu, trong đó hàng vạn "chiến sĩ Điện Biên Phủ" đã lập công xuất sắc. Hàng ngàn "chiến sĩ Điện Biên Phủ" đã tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đại thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trong đó có ba trong bốn tư lệnh quân đoàn từng là trung đoàn trưởng chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Như vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ đã tạo nên chỗ dựa vững chắc, tạo nên lực lượng, ý chí, niềm tin và kinh nghiệm để quân và dân ta tiến lên, đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, thống nhất hoàn toàn, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, qua 9 năm kháng chiến nhân dân ta đã làm nên trận đại thắng Điện Biên Phủ giải phóng nửa nước, tạo điều kiện để 21 năm kháng chiến tiếp theo, làm nên trận toàn thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng nửa nước còn lại, đưa giang sơn về một mối. Điều trùng lặp kỳ lạ là về thời gian, hai trận quyết chiến chiến lược ấy đều diễn ra trong 56 ngày đêm chiến đấu liên tục và chiến thắng vẻ vang. Cũng một điều trùng lặp nữa là khi tình thế thay đổi thì cả hai trận đã kịp thời thay đổi quyết sách. Trận trước dự định đánh trong 2 ngày 3 đêm đã chuyển sang đánh gần 2 tháng; trận sau dự định đánh trong 2 năm nhưng khi thời cơ đến đã tiến công thần tốc chỉ đánh trong gần 2 tháng. Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đông Đa trong thời đại mới. Ý nghĩa to lớn của chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đối với dân tộc ta là như vậy. Trên phạm vi thế giới, với chiến thắng Điện Biên Phủ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một dân tộc vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đất không rộng, người không đông, kinh tế còn lạc hậu, vũ khí kém cỏi, đã đánh thắng quân đội xâm lược của một cường quốc phương Tây có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn, trang bị vũ khí hiện đại. Trong lần đến thăm Việt Nam gần đây, Chủ tịch Phiđen Cátxtrô đã nói: “Tôi đã đọc lịch sử chiến tranh. Từ trước đến nay chưa từng có một cuộc chiến tranh nào mà một nước nhỏ, kinh tế lạc hậu như Việt Nam mà vẫn đánh thắng Pháp và Mỹ. Đó là vô song. Trên thế giới chưa từng có. Trong lịch sử chưa từng thấy". "Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm cho các dân tộc thuộc địa ngửng cao đầu"2. Tiếng sấm Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, vang tới những vùng xa xôi còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ, thức tỉnh và tạo niềm tin cho các dân tộc bị áp bức vùng lên. Gần hai thập kỷ sau Điện Biên Phủ, hàng loạt nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã lần lượt giành độc lập với hình thức và mức độ khác nhau. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội phát triển sâu rộng. Với Điện Biên Phủ, Việt Nam trở thành nước đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ - một vết nhơ trong lịch sử nhân loại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần làm thay đổi cục diện thế giới. Ý nghĩa quốc tế lớn lao của Điện Biên Phủ là như vậy. ____________________________________________ 1. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 261, 266. 2. Ôman Uxêđích, Trưởng đoàn đại biểu Quân đội Angiêri nói trong dịp sang thăm Việt Nam năm 1960. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 11:06:56 am * * * Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu, từ tinh thần chiến đấu đầy dũng cảm và mưu trí sáng tạo của quân và dân ta; từ sự phối hợp chiến đấu của nhân dân hai nước Lào, Campuchia anh em, sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế kể cả nhân dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn sâu xa từ truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí quật cường bất khuất; trí thông minh sáng tạo; tình đoàn kết nhân ái là những nhân tố chủ yếu tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc ta được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử. Trong thời đại mới, sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt Nam đã được khơi dậy mạnh mẽ, được nâng lên tầm cao mới, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã tạo nên sức mạnh phi thường, lần lượt đánh thắng hai đế quốc to, giành thắng lợi trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. * * * Ngày nay sau 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, cục diện thế giới và đất nước đã và đang có những biến đổi lớn lao, sâu sắc. Đất nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội mới, đồng thời phải đương đầu với những nguy cơ và thách thức mới. Trong khi kinh tế và khoa học trên thế giới đang có những bước phát triển vượt bậc, thì nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo. GDP bình quân đầu người mới bằng 1/3 của Thái Lan, 1/50 của Singapo, 1/70 của Mỹ. Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, điều thiết thực nhất là chúng ta hãy phát huy tinh thần Điện Biên Phủ trong cuộc chiến đấu mới - cuộc chiến đấu chống nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc cho toàn dân ta. - Tinh thần Điện Biên Phủ trước hết là tinh thần yêu nước, "không có gì quý hơn độc lập, tự do", không cam chịu làm nô lệ, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, quyết chiến, quyết thắng, kết hợp tinh thần dũng cảm kiên cường với trí thông minh sáng tạo, nỗ lực phi thường để khắc phục những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua, làm được những việc tưởng chừng không thể làm nổi, tạo nên bước tiến vượt bậc về khả năng và sức mạnh chiến đấu để đánh bại kẻ thù lúc chúng có những cố gắng chiến tranh cao nhất. Ngày nay, phát huy tinh thần Điện Biên Phủ, chúng ta hãy nêu cao lòng yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, tự tôn dân tộc, tự lực tự cường, không cam chịu nghèo nàn và lạc hậu, quyết tâm vượt qua thách thức, phát huy trí thông minh sáng tạo, dám nghĩ dám làm, làm nên một "Điện Biên Phủ" mới trong sự nghiệp đổi mới. Mỗi người, mỗi tổ chức có những nỗ lực vượt bậc, lập nên những đỉnh cao thành tích mới, những "Điện Biên Phủ" lớn, nhỏ trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, giáo dục, văn hóa, xã hội. Như chúng ta đã từng thực hiện được bước tiến vượt bậc trong sản xuất xuất khẩu lương thực, biến những vùng, những hộ nghèo đói trở thành giàu có; đạt đỉnh cao trong thi tài văn hóa, khoa học trên thế giới; đạt được một bước tiến vượt bậc về thành tích thi đấu của tuổi trẻ Việt Nam trong Sea Game 22. Điều cực kỳ quan trọng là chúng ta phải thực hiện cho được chủ trương coi khoa học và giáo dục là quốc sách hàng đầu, làm cho con người Việt Nam tiến lên chiếm những đỉnh cao của khoa học, làm cho khoa học - giáo dục thật sự trở thành động lực, nhất định chúng ta sẽ tạo nên những bước phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết của Trung ương 9 vừa qua của Đảng, góp phần sớm khắc phục sự tụt hậu, từng bước đưa nước ta tiến lên nhanh và vững, sánh vai cùng các nước trung bình rồi các nước tiên tiến trên thế giới. Trong lúc tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, phải thường xuyên coi trọng nhiệm vụ tăng cường an ninh, củng cố quốc phòng. Có kế hoạch chống lại các âm mưu hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, nghiên cứu những phát triển của khoa học quân sự hiện đại thế giới, các hình thức chiến tranh kiểu mới, vận dụng và phát triển sáng tạo kinh nghiệm quý báu của hai cuộc kháng chiến, hoàn thiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chuẩn bị cho các lực lượng vũ trang, cho đất nước sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược mà kẻ địch có thể gây ra với nước ta, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. - Tinh thần Điện Biên Phủ là tinh thần tôn trọng thực tế, nắm vững quan điểm thực tiễn, không chủ quan duy ý chí, luôn bám sát sự phát triển của thực tiễn, khi thấy tình hình đã thay đổi thì mục tiêu tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ vẫn giữ vững, nhưng kiên quyết thay đổi cách đánh, dù cách đánh ấy đã thành nghị quyết đang triển khai, tìm ra cách đánh phù hợp để giành thắng lợi. Đây là bài học sâu sắc nhất về lãnh đạo và chỉ huy trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngày nay, bài học ấy đang hết sức có ý nghĩa đối với chúng ta. Đảng ta từ Đại hội VI đến Đại hội IX đã xuất phát từ tình hình thực tiễn, từng bước phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành được thắng lợi to lớn, quan trọng. Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế chậm phát triển như nước ta là chưa có tiền lệ. Tình hình thực tiễn của thế giới và nước ta đã và đang có những biến đổi sâu sắc và những phát triển mới chưa từng có. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội còn nhiều vấn đề đặt ra phải nghiên cứu giải đáp. Chúng ta hãy phát huy tinh thần thực tiễn và sáng tạo của Điện Biên Phủ vào công cuộc đổi mới. Luôn gắn lý luận với thực tiễn, thấm nhuần quan điểm coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, luôn bám sát thực tiễn, phân tích phát hiện, nhận thức đúng đắn những phát triển mới của tình hình thế giới và trong nước. Nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển sáng tạo lý luận. Khi thực tiễn đã thay đổi thì mục tiêu xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vẫn giữ vững, nhưng kiên quyết thay đổi, bổ sung những chủ trương, chính sách, biện pháp, dù có những vấn đề đã thành quyết định, nghị quyết nhưng không còn phù hợp, không có hiệu quả. Không chủ quan, duy ý chí, không bảo thủ giáo điều, dừng lại ở nhận thức và quan điểm cũ đã lỗi thời. Có như vậy mới đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi. Tiêu đề: Re: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười Hai, 2022, 11:08:29 am - Sức mạnh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh của toàn dân, của cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, chúng ta đã động viên được sức mạnh của toàn quân, toàn dân, từ tiền tuyến đến hậu phương vào trận quyết chiến Điện Biên Phủ. Lần đầu tiên chúng ta đã tập trung gần 5 sư đoàn chủ lực mạnh vào một trận đánh, động viên các chiến trường trong cả nước và hai nước bạn Lào - Campuchia chiến đấu phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ. Chúng ta đã huy động sức người sức của từ vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh, Tây Bắc, Việt Bắc đến nhiều tỉnh vùng địch tạm chiếm ở Bắc Bộ chi viện cho Điện Biên Phủ. Hàng chục vạn đồng bào đã hăng hái đi dân công, thanh niên xung phong, tham gia làm đường, vận tải tiếp tế, phục vụ chiến dịch, bảo đảm hậu cần cho một mặt trận xa hậu phương hàng năm, bảy trăm cây số, trong điều kiện đường sá khó khăn, phương tiện vận tải thô sơ thiếu thốn, địch đánh phá ác liệt, làm được một việc mà kẻ thù không thể ngờ tới ta có thể làm được. Ngày nay, sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vẫn là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, của toàn dân. Chúng ta phải luôn coi trọng nêu cao tinh thần dân tộc, quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đại hội IX về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết 54 dân tộc anh em, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết đồng bào trong nước và đồng bào định cư ở nước ngoài, làm thất bại âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch. Phải thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các vùng đồng bào dân tộc, trong đó có Điện Biên Phủ và Tây Bắc, vùng căn cứ kháng chiến, vùng sâu vùng xa, giúp đồng bào phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, khắc phục tình trạng quá chậm trễ như hiện nay, làm cho miền núi sớm tiến kịp miền xuôi như Bác Hồ mong muốn. Thực hiện các nghị quyết của Trung ương về phát huy thế mạnh của các vùng kinh tế, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, động viên toàn dân ra sức làm kinh tế, để thực hiện dân giàu, nước mạnh, với một khí thế thi đua sôi nổi như toàn dân đã hăng hái tham gia hai cuộc kháng chiến trước đây. Phải luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ trong Di chúc đối với công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh: "Để giành được thắng lợi trong công cuộc khổng lồ này, phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”. Thực sự mở rộng dân chủ, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tránh dân chủ hình thức, tạo nên sự nhất trí giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, sự gắn bó của người dân với chế độ xã hội, với lãnh đạo, như dân đã từng gắn bó với cách mạng trong thời kỳ kháng chiến. Thực hiện dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương phép nước. Chỉ trên cơ sở sự đồng tình ủng hộ và tham gia tự nguyện của nhân dân, giữ vững được lòng dân, ta mới giữ vững được ổn định chính trị, tạo nên sức mạnh đưa công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đến thành công. - Nhân tố quyết định đưa đến thắng lợi Đông Xuân 1953-1954 và chiến thắng Điện Biên Phủ là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sự lãnh đạo đó không những trước hết thể hiện ở đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn, ở sự chỉ đạo chiến lược tài tình mà điều quan trọng còn thể hiện ở vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên. Trước thách thức quyết liệt của trận Điện Biên Phủ, biết bao đảng viên ưu tú đã một lòng vì nước vì dân, nêu cao tinh thần gương mẫu trong chiến đấu, không quản gian khổ, hy sinh, sẵn sàng xả thân để giành chiến thắng. Tại mặt trận, trước tình huống khó khăn, gay go, quyết liệt đã vang lên tiếng thét "Các đảng viên cộng sản tiến lên", "Ai là người theo Đảng hãy tiến lên", hai tiếng đảng viên thiêng liêng và hành động tiên phong gương mẫu của đảng viên đã có sức mạnh cổ vũ đồng đội xông lên tiêu diệt kẻ thù, giành thắng lợi. Ngày nay, sự lãnh đạo của Đảng, vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngủ cán bộ, đảng viên vẫn là nhân tố quan trọng, quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta đã có một đội ngũ cán bộ đảng viên kế tiếp xứng đáng, có phẩm chất và năng lực, năng động, sáng tạo, làm hạt nhân lãnh đạo trong các cấp, các ngành, đưa công cuộc đổi mới tiến lên đạt những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, điều mà hiện nay toàn Đảng, toàn dân quan tâm và lo ngại là bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, tiêu cực, quan liêu, tham những, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng, đang làm giảm uy tín và sức mạnh lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng. Vì vậy toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đồng tâm, nhất trí, tìm ra nguyên nhân yếu kém và biện pháp có hiệu lực, thực hiện bằng được nghị quyết về xây dựng chỉnh đốn Đảng, chống quan liêu, tham những, lãng phí, tiêu cực, làm cho đội ngũ đảng viên thật sự hết lòng vì nước, vì dân, tiếp tục nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu trong nhiệm vụ cách mạng mới, như đã từng tiên phong gương mẫu trong chiến đấu. Đây cũng là nhân tố quyết định đưa sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc tiến lên đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. - Đối với nhân loại, Điện Biên Phủ là điểm hẹn tất yếu mà lịch sử dành cho những cuộc chiến tranh xâm lược trong thời đại ngày nay. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã chứng minh một chân lý của thời đại là các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược, nếu biết đoàn kết đứng lên đấu tranh vì độc lập tự do, vì quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của mình, có đường lối đúng đắn, dám đấu tranh và biết đấu tranh thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. Trong thời đại ngày nay bất cứ dân tộc nào dùng sức mạnh để áp đặt ý muốn của mình lên dân tộc khác thì cuối cũng nhất định sẽ thất bại. Các lực lượng hiếu chiến dù có tàn bạo đến đâu thì cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ vì hòa bình, hữu nghị và phát triển, vì một trật tự thế giới mới công bằng, dân chủ nhất định thắng lợi. * * * Kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại, nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, nhớ ơn các bà mẹ Việt Nam Anh hùng đã hiến dâng cho đất nước những người con thân yêu. Chúng ta gửi lời thăm hỏi thân thiết nhất đến các đồng chí thương binh, bệnh binh, cựu chiến binh, thanh niên xung phong, dân công, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, của cuộc kháng chiến 30 năm chống đế quốc xâm lược. Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã làm cho ba tiếng "Điện Biên Phủ" trở thành biểu tượng của sức mạnh Việt Nam. Tinh thần Điện Biên Phủ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta! Hết! |