Tiêu đề: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2022, 07:36:56 am Tên sách: Trung đoàn 174 anh hùng
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân Năm xuất bản: 2003 Số hoá: ptlinh, chuongxedap KỶ NIỆM LẦN THỨ 50 NGÀY THÀNH LẬP TRUNG ĐOÀN 174 CAO – BẮC – LẠNG (19-8-1949 – 19-8-2004) TRUNG ĐOÀN 174 ANH HÙNG (HỒI ỨC CỦA CÁC BẠN CHIẾN ĐẤU) LƯU HÀNH NỘI BỘ NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN HÀ NỘI - 2003 LỜI NÓI ĐẦU Theo sáng kiến của nhiều bạn chiến đấu, Ban liên lạc mở đợt vận động anh chị em viết những kĩ niệm sâu sắc về trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng Anh hùng yêu quí của chúng ta. Được sự hưởng ứng nhiệt liệt của anh chị em với sự cố gắng của Ban biên tập, cuốn sách "Trung đoàn 174 Anh hùng" (Hồi ức cúa các bạn chiến đấu) được ra mắt các đoàn thể các đồng chí. Trung đoàn 174 của chúng ta đã có một bề dày lịch sử 55 năm. Chúng ta là những thế hệ cán bộ và chiến sĩ có mặt từ ngày đầu kháng chiến chống Pháp, từ ngày đầu thành lập Trung đoàn. Qua 55 năm chiến đấu và trưởng thành, chiến công nối tiếp chiến công, chiến công sau lớn hơn chiến công trước. Chúng ta nhớ lại và thật tự hào về những chiến công ấy với những kỉ niệm sâu sắc trong thời kì đầu - thời kì gian khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm, chân đất mũ nan, súng đạn thô sơ, với khẩu hiệu "Dựa vào dân mà sống, lấy súng giặc đánh giặc". Trên cơ sở đó, cùng với toàn quân, chúng ta đi từ không đến có, từ du kích lên chính qui, từ đánh tiêu hao đến đánh tiêu diệt địch, từ đánh du kích đến đánh vận động tiến lên đánh công kiên. Trung đoàn ta đã tiến vào các chiến dịch quí mô có ý nghĩa quyết định, mở đầu bằng chiến dịch Biên giới tiến tới chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử lừng lẫy năm châu. Chúng ta vô cùng tự hào về cuộc sống và chiến đấu trong thời kì đầu của Trung đoàn. Chúng ta cần viết, viết về Trung đoàn, viết về đồng đội và bản thân, về những sự kiện và nhân chứng một thời chúng ta đã sống và chiến đấu ở Trung đoàn, để bổ sung cho lịch sử chính thức của Trung đoàn, viết để chúng ta nhớ lại và tự hào về truyền thống hào hùng, viết để lưu lại cho thế hệ mai sau. Chúng ta một thời cầm súng giỏi hơn cầm bút nên nhiều đồng chí ngại viết. Nhưng thật đáng mừng, nhiều anh chị em đã viết, viết tốt, viết rất chân thật, rất tình cảm và sâu sắc, vì truyền thống của Trung đoàn, về nghĩa tình đồng đội chứ đâu phải vì "cái tôi" hay "công anh, công tôi". Trên dưới một nửa thế kỉ đã trôi qua mà trí nhớ của chúng ta không còn tốt như trước. Vì vậy, nếu trong hồi ức có chỗ nào đó chưa thật chính xác thì chúng ta cùng sẵn lòng châm chước, thông cảm cho nhau. Ban biên tập đã làm việc tập thể, khẩn trương, nghiêm túc trong nhiều tháng cho cuốn sách này. Việc biên tập đã gặp một khó khăn khá lớn: đó là do khuôn khổ cuốn sách có hạn, rất tiếc là đã phải lược đi một số chi tiết, một số đoạn in dấu những kỉ niệm nhiều khi rất hay, rất cảm động trong bài. Và mặc dù Ban biên tập đã rất cố gắng nhưng vì trình độ có hạn nên chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong các đồng chí đọc và chỉ bảo cho những chỗ khiếm khuyết để chúng ta có thể làm tốt hơn những tập tiếp theo. Rất mong anh chị em ta tiếp tục viết, sao cho mọi bạn chiến đấu đều có bài, dù ngắn hay dài, để gắn kết hơn nữa chúng ta với Trung đoàn thân yêu của chúng ta. Chúng ta chào đón cuốn hồi ức này như một món quà chúng ta tặng cho nhau và cho những thế hệ mai sau. Xin rất cảm ơn các anh chị em đã đóng góp công sức, tài chính, đã giúp đỡ in ấn, xuất bản cuốn sách này. THƯỜNG TRỰC BAN LIÊN LẠC BẠN CHIẾN ĐẤU TRUNG ĐOÀN 174 VÀ BAN BIÊN TẬP Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2022, 07:43:08 am RA ĐỜI, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA MỘT TRUNG ĐOÀN CHỦ LỰC ANH HÙNG ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN1 Kỉ niệm 55 năm ngày thành lập trung đoàn 174 là kỷ niệm trên nửa thế kỉ hoạt động chiến đấu và trưởng thành của một trung đoàn chủ lực của Quân đội ta lúc đầu trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh, sau đó là trung đoàn chủ lực nòng cốt của đại đoàn 316. Nhân dịp này, tôi muốn nói một vài ý về bối cảnh lịch sử, về nguồn gốc và sự ra đời của trung đoàn. Sau chiến thắng lịch sử Việt Bắc (1947), chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của quân viễn chinh Pháp thất bại, vấn đề đặt ra cho Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh ta là phải nhanh chóng hình thành khối chủ lực cơ động chiến lược, đồng thời phát huy cao độ phong trào toàn dân đánh giặc, dùng quả đấm chiến lược mạnh tiêu diệt từng bộ phận quân cơ động và chiếm đóng của địch, giải phóng đất đai, tạo nên những bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta, tiến lên chủ động kết thúc chiến tranh thắng lợi. Thực hiện chủ trương này, BTTL bắt đầu xây dựng một số trung đoàn mạnh làm nòng cốt để nhanh chóng tổ chức các đại đoàn, hợp thành khối chủ lực cơ động chiến lược của Trung ương. Trung đoàn 174 là tập hợp của 3 tiểu đoàn mạnh nhất của 3 trung đoàn: trung đoàn 74 (Cao Bằng), trung đoàn 72 (Bắc Cạn), trung đoàn 28 (Lạng Sơn). Hầu hết cán bộ chiến sĩ trong mấy năm đầu mới thành lập là con em các dân tộc Cao - Bắc - Lạng, trình độ văn hoá còn thấp, nhưng giàu tinh thần yêu nước và cách mạng, dũng cảm chiến đấu. Khi được tập trung thành trung đoàn chủ lực thì ai nấy đều phấn khởi. Vừa nhận được quyết định của BTTL ngày 19/8/1949 chưa kịp làm lễ thành lập, Trung đoàn đã lao vào cuộc chiến đấu quyết liệt: đánh truy kích địch rút khỏi Bắc Cạn; đánh những trận phục kích lớn trên đường số 4; đánh tan 2 vạn quân Tưởng thuộc quân đoàn Bạch Sùng Hy đang tìm cách vượt qua Biên giới xuống Cao Bằng liên lạc với quân Pháp ở thị xã. Cuộc chiến đấu của E174 và bộ đội địa phương diễn ra liên tục, từ Hà Quảng sang Trà Lĩnh, địch chạy xuống Quảng Uyên - Phục Hoà hòng liên lạc với quân Pháp ở Đông Khê, nhưng Trung đoàn đã vận động nhanh hơn và kịp chặn đánh tiêu diệt địch. Một bộ phận nhỏ quân Tưởng chạy qua Biên giới thì gặp Quân giải phóng Trung Quốc nam hạ bao vây bắt sống. Sau chiến thắng lớn này, Trung đoàn mới được tập trung tại xã Đức Long, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng để làm lễ thành lập. Trong buổi lễ trọng thể này có đông đủ đại diện các cơ quan lãnh đạo các cấp thuộc Cao Bằng và nhân dân địa phương. Ngay sau buổi lễ, Trung đoàn bắt tay chuẩn bị tham gia chiến dịch Biên giới. Trong chiến dịch này, Trung đoàn là đơn vị chủ công có đơn vị bạn phối hợp tiêu diệt địch trong cứ điểm Đông Khê, cắt đứt đường số 4 mở màn chiến dịch thắng lợi và tiếp tục phát triển góp phần giải phóng 2 tỉnh Cao Bằng - Lạng Sơn. Ngày 1/5/1951, theo quyết định của trên, đại đoàn 316 được thành lập gồm 3 trung đoàn 174, 98 và 176, và từ đó tham gia hầu hết các chiến dịch cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trung đoàn đã chiến đấu liên tục 38 ngày đêm, lập công xuất sắc tiêu diệt cụm cứ điểm A1, trận địa then chốt của địch, góp phần tích cực vào chiến thắng Điện Biên. Tôi nghĩ trong cuộc chiến tranh nhân dân, trên cơ sơ phát huy phong trào toàn dân đánh giặc thì lãnh đạo chiến tranh phải xây dựng và nắm chắc khối chủ lực cơ động, quả đấm chiến lược mạnh nhằm những phương hướng có lợi, tấn công tiêu diệt quân chiếm đóng và cơ động của địch thì mới tạo nên những thắng lợi quyết định có ý nghĩa chiến lược. Từ chiến dịch Biên giới đến chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta tự hào là E174 cùng các đơn vị khác của F316 đã lập công xuất sắc, trưởng thành trong chiến đấu, đã có những bước nhảy vọt qua các chiến trường trong nước và làm nhiệm vụ quốc tế. Năm 1975, trong đội hình của F316, trung đoàn 174 lại được vào chiến dịch Tây Nguyên, đã chiến thắng oanh liệt trong trận mở đầu giải phóng Buôn Ma Thuột, rồi sau đó đã góp phần xứng đáng vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Các thế hệ của Trung đoàn cần học tập và rèn luyện ngay trong hoà bình, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ đất nước, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng, viết tiếp những trang sử sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Nhân dịp kí niệm 55 năm ngày thành lập trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng anh hùng và 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi chúc: - Các đồng chí lãnh đạo và nhân dân 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, quê hương của Trung đoàn, phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, đoàn kết một lòng xây dựng Tỉnh nhà giàu đẹp. - Toàn thể các bộ chiến sĩ Trung đoàn mãi mãi vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sẵn sàng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. - Các đồng chí cán bộ, chiến sĩ cũ của Trung đoàn đã về sống với đời thường và gia đình các đồng chí mạnh khoẻ, hạnh phúc, an khang, tuỳ theo sức mình góp phần xây dựng đất nước. _______________________________________________ 1. Nguyên Chính ủy đầu tiên Trung đoàn 174. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2022, 07:50:47 am 174 TRUNG ĐOÀN CỦA TÔI ĐẶNG VĂN VIỆT Trong một buổi họp tổ Cựu chiến binh của Trung đoàn 174, đồng chí Ca Sơn, biên tập cuốn Hồi ức ra nhân ngày kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Trung đoàn, dõng dạc tuyên bố: “Cuốn sách ra trong dịp lễ kỷ niệm này, không thể thiếu bài báo của anh Việt, người trung đoàn trưởng đầu tiên của trung đoàn – Đề nghị anh Việt nhớ cho - thời hạn nộp báo trước 19/8/2003”... Vậy tôi xin viết một vài lời về một vài đặc điểm của Trung đoàn ta: Nếu Tướng De Gaulle viết về: “Sư đoàn 1, sư đoàn của tôi! (ma première division)” với tất cả niềm tự hào là người sư trưởng đầu tiên của Sư đoàn 1, là sư đoàn đại diện cho quân đội Pháp đã cùng quân đồng minh đổ bộ xuống Normanclie, rồi tham gia đuổi phát xít Đức, giải phóng nước Pháp, sau đó dự lễ hạ cờ đầu hàng của quân đội Đức trong buổi lễ diễu binh qua Khải hoàn môn, thì tôi cũng bắt chước viết: “Trung đoàn 174, trung đoàn của tôi”. Cái tên mà tôi yêu, tôi quý, mà tôi đã gắn bó một phần cuộc đời của mình. Tôi vinh dự và may mắn là người trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn có mặt ngay từ những ngày đầu (19/8/1949) cho đến 1953, tôi được chuyển sang một đơn vị khác. Vậy phần trách nhiệm của tôi, gắn bó với Trung đoàn 174 là thời gian tôi có mặt, lăn lộn cùng cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn trên các nẻo đường của Tổ quốc. Tôi xin lược qua một số nét đặc trưng của Trung đoàn ta trên bước trưởng thành của lịch sử: 1) Là một trung đoàn thành lập nên bởi sự tập hợp tinh hoa của 3 trung đoàn: e28 (Lạng Sơn) - e72 (Bắc Kạn) - e74 (Cao Bằng): Ba con số 28 + 72 + 74 = 174 Quân số tương đương 6 tiểu đoàn, 5.500 quân. 2) Là một trong hai đơn vị chủ lực mạnh (e174 - e209) đầu tiên trực thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh. Thành phần phần lớn gồm con em các dân tộc miền núi - cộng với một số ít anh em miền xuôi, cùng chung sống, đoàn kết, chiến đấu dưới ngọn cờ cách mạng, tạo nên một bông hoa đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 3) Là đơn vị có mặt ở khắp các chiến trường Trung, Nam, Bắc, Lào, Miên, có một thời trên đất Trung Hoa. 4) Là đơn vị có mặt hầu hết trong các chiến dịch lớn, nhỏ. - 7 chiến dịch trong chống Pháp - 7 chiến dịch trong chống Mỹ (trong đó có 5 chiến dịch tại Lào, làm nhiệm vụ quốc tế). 5) Là đơn vị, vinh dự làm chủ công trong 5 trận then chốt quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ. 1. Trận Đông Khê 2: Tiêu diệt một phân khu trong chiến dịch Biên giới 1950, góp phần quyết định trong việc giải phóng khu Việt Bắc, giải phóng vùng Biên giới Việt - Trung. 2. Trận Mộc Châu: tiêu diệt một phân khu trong chiến dịch Tây Bắc 1952, góp phần quyết định trong việc giải phóng vùng Tây Bắc rộng lớn. 3. Trận tiêu diệt đồi A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ buộc De Castries phải treo cờ trắng, góp phần giải phóng 1/2 nước. 4. Trận đánh vào Buôn Ma Thuột (1975) tiêu diệt sư 23 ngụy Sài Gòn, góp phần vào chiến thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng cả nước. 5. Trận bảo vệ cánh đồng Chum (1969-1970), tiêu diệt quân Mèo - Vàng Pao, góp phần bảo vệ và làm chủ cánh đồng Chum, bảo vệ chính quyền cách mạng Lào. 6) Là đơn vị vinh dự đã đánh thắng 10 trận điển hình, tiêu biểu, xứng đáng là những bài học cho việc xây dựng quân đội. 1- Trận Bông Lau - Lũng Phầy 4 (3/9/1949) là một trận phục kích lớn tiêu diệt 96 trên 133 xe, là một điển hình về lối đánh vận động phục kích. 2- Trận Đông Khê 1 (25/5/1950) là trận công kiên lớn nhất, cho đến bây giờ, tiêu diệt một phân khu, một cứ điểm của một tiểu đoàn Âu Phi, đánh dấu của một bước trưởng thành quân đội ta trong gian đoạn chiến đấu trong 2 vòng vây. 3- Trận Đông Khê 2 (18/9/1950) - Mở màn cho chiến dịch Biên giới, tạo điều kiện cho thực hiện đánh điểm, diệt viện, tiêu diệt hai binh đoàn Lepage - Charton. 4- Trận Larivet: tiêu diệt boong ke lớn nhất, chặt đứt mắt xích của phòng tuyến Đông Tây của De Lattre De Tassigny. 5- Trận đánh vào hậu địch 3 tháng 5: Trung đoàn vào vùng địch chiến đấu không phải trong vòng vây mà trong lòng bàn tay của địch, uy hiếp đường số 5 đi Hà Nội - Hải Phòng, cùng các đơn vị diệt gần 1.000 tháp canh, 15.000 quân. 6- Trận Mộc Châu: Một vị trí kiên cố nhất vùng Tây Bắc, mở đường vào Tây Bắc sang Lào. 7- Trận A1: Một vị trí quan trọng, sau 38 ngày đêm bao vây và tiến công, cuối cùng tiêu diệt gọn - góp phần kết thúc thắng lợi chiến địch Điện Biên Phủ. 8- Trận giải phóng Buôn Ma Thuột: hợp đồng binh chủng lớn, tiêu diệt một sư ngụy (23). 9- Trận Sảm Thông - Long Chẹng (69-70): Bảo vệ cánh đồng Chum - bảo vệ chính quyền CM Lào, trận chiến đấu phòng ngự kéo dài. 10- Trận Plây Me: tiêu diệt lữ đoàn 175 Mỹ. Đúng là 10 trận điển hình, tiêu biểu. Theo cách nói của Sea Games 22, dành được 10 huy chương vàng. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 18 Tháng Mười Một, 2022, 07:52:21 am 7) Là đơn vị có bước trưởng thành rất đáng tự hào: - Trung đoàn được phong tặng Anh hùng. - Có 10 cá nhân được phong tặng anh hùng. - La Văn Cầu là lá cờ đầu của toàn quân. - Đội ngũ cán bộ trưởng thành rất lớn. - Hơn 20 cán bộ được phong tướng, hàng trăm cấp tá. - E174 là một nguồn cán bộ cung cấp cho nhiều đơn vị quân đội và chính quyền. - Được thưởng: + 8 Huân chương Quân công. + 1118 Huân chương Chiến công 8 ) Là đơn vị có những truyền thống vững chắc: - Về chiến đấu: Đã đánh là thắng (không phải 100%). - Huấn luyện giỏi. - Kỷ luật chiến trường tốt. - Binh - địch vận tốt. - Dân vận tốt: Đi dân nhớ, ở dân thương. - Đoàn kết trên dưới, trong ngoài một lòng. Nhân ngày kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Trung đoàn, tôi xin ghi lại một vài nét khái quát về lịch sử của Trung đoàn, đồng thời nhắc lại truyền thống của Trung đoàn. Truyền thống ấy được xây dựng lên dựa trên sự hy sinh xương máu của hàng ngàn vạn cán bộ và chiến sĩ trải qua hàng chục năm từ thế hệ này sang thế hệ khác - Truyền thống là một chiếc thang vô hình (sờ không thấy), vô giá (có tiền không mua được), vô hạn (không phải nay muốn mà mai có) - nhưng một khi nó đã hình thành thì nó trở thành vô địch. Truyền thống của Trung đoàn ta thật là quý giá, vĩ đại, ai mà không thấy tự hào và hạnh phúc được là một cán bộ - chiến sỹ của một trung đoàn oai hùng vẻ vang, lừng lẫy như trung đoàn 174. Chúng ta hãy vun đắp cho truyền thống ấy, phát huy, phát triển mãi mãi như vun đắp cho một cây cổ thụ ngày một xanh tươi, to đẹp. Tôi tuy ở quân đội không lâu lắm (15 năm), ngày ở Trung đoàn cũng một thời gian nhất định, nhưng những kỷ niệm sâu sắc hồi ở Trung đoàn còn lắng trong tâm tưởng, mãi mãi vẫn là những kỷ niệm đẹp của cả cuộc đời. Hình ảnh của những chiến thắng huy hoàng trên đường số 4, Bông Lau, Lũng Phầy, Đông Khê 1 - 2, giải phóng Bình Liêu, giải phóng Lạng Sơn, tiêu diệt quân đoàn Bạch Sùng Hy, chiến thắng Mộc Châu, làm rực nóng tâm hồn của những người lính của E174, mặc cho cái rét căm căm như dao cắt của núi rừng Tây Bắc - Những ngày vào địch hậu đồng bằng Bắc bộ, quần nhau với địch suốt gần 4 tháng tưởng chừng không có ngày về, thế mà trung đoàn vẫn hoàn thành nhiệm vụ và rút ra vùng tự do, còn nguyên vẹn lại còn tăng quân số, trang bị tốt hơn. Thật là một chuyện thần thoại. Tôi cũng không quên được những cán bộ, chiến sỹ đã cùng tôi trên khắp các chiến trường: Nguyễn Hữu An, Lê Hoàn, Khai Tâm, Nguyễn Kha, Hoàng Phúc, Đinh Giang, Hoàng Quốc, Koshiro Iwai (Sáu Nhật)... Đ/c Thành (cần vụ) luôn bên cạnh tôi, chăm lo cho tôi từ miếng ăn, giấc ngủ. Tôi cũng không thể quên công ơn to lớn của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Chính quyền, và nhân dân ở những nơi mà Trung đoàn đã đi qua, đã hết lòng đùm bọc giúp đỡ Trung đoàn hoàn thành mọi nhiệm vụ. Nay tôi đã trên 80 (85), mặc dù đã xa Trung đoàn, nhưng tôi vẫn để tâm theo dõi những bước trưởng thành của Trung đoàn. Đến nay đã là đời thứ 25 trung đoàn trưởng. Vinh dự tôi là số 1, mong sao những đồng chí trung đoàn trưởng kế tiếp vẫn tiếp tục dẫn dắt Trung đoàn tiến mãi để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong chiến đấu, cũng như trong xây dựng hoà bình. Có người hỏi vì sao ở tuổi 85 mà trung đoàn trưởng vẫn giữ phong độ, sức khoẻ cường tráng như một trung niên, vẫn ra sân quần 3 buổi mỗi tuần, vẫn viết sách, vẫn vi vu trên chiếc Nữ Hoàng đi thăm bạn bè, người thân, thăm các chiến sỹ cũ của Trung đoàn. Để trả lời, xin ghi lại vài dòng: Đầu óc luôn thảnh thơi / Quần vợt rồi đi bơi / Luôn vui cùng thơ phú / Còn giờ thì vi vu / Cuộc đời là hết ý / Nếu không thì hết hơi. Mọi việc đều đi đến kết thúc, tôi sẽ kết thúc cuộc đời một cách thảnh thơi và vui đẹp. Xin gửi đến toàn thể cán bộ chiến sỹ cũ và mới của Trung đoàn những tình cảm trìu mến nhất của tôi. Ngày 16 tháng 8 năm 2003 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 05:50:51 pm NHỚ VỀ CỘI NGUỒN VÀ NHỮNG NGÀY ĐẦU THÀNH LẬP TRUNG ĐOÀN 174 TRỊNH TRÂN Đầu năm 1949 cục diện chiến trường chuyển biến có lợi cho ta, địch lâm vào thế bị động. Trung đoàn 74 Cao Bằng do anh Chu Huy Mân làm trung đoàn trưởng tham gia chiến dịch Cao Bắc Lạng II của Bộ nhằm quyết tâm đánh mạnh để buộc địch rút khỏi Bắc Kạn, mở rộng vùng giải phóng Việt Bắc. Trung đoàn đã chia cắt đường số 4 với những chiến công: Trận Khuổi Đăm (08/3/1939), Nà Danh (25/3/1949), đèo Lũng Phầy và uy hiếp thị xã Cao Bằng. Chiến dịch kết thúc ngày 25/4/1949. Trung đoàn nhận lệnh của Bộ Tổng Chỉ Huy, ngày 25/4/1949 đã phải vượt qua Biên giới tham gia chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn, làm nhiệm vụ quốc tế, giúp cách mạng Trung Quốc đánh quân Tưởng mở rộng vùng giải phóng Thủy Khẩu - Long Châu - Ninh Minh - Bằng Tường và phá sự cấu kết Pháp – Tưởng uy hiếp giới Biên giới nước ta. 28/6/1949, trung đoàn hoàn thành nhiệm vụ rút quân về nước. Đầu tháng 7, ban Chỉ huy Trung đoàn mở ngay Hội nghị tổng kết chiến đấu, tập huấn tài liệu “Mở rộng dân chủ, đề cao kỷ luật”, mở đầu mùa “Rèn cán, luyện quân” năm 1949. Cuộc tập huấn chưa xong, có điện của Bộ gọi anh Mân về nhận thỉ thị của Trung ương. Tôi đang chỉ huy đội biệt động tại thị xã Cao Bằng, được quyết định của Trung đoàn bàn giao nhiệm vụ về dự Hội nghị và về văn phòng nhận nhiệm vụ làm thư ký riêng của anh Mân. Cấp tốc lên đường, tôi được theo anh Mân trên lưng ngựa, luồn rừng về Tổng hành dinh của Bộ tại vùng chợ Chu, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên, mới được biết chủ trương của Bộ xây dựng binh đoàn chủ lực Cao Bắc Lạng. Chính vì thế tôi được vinh dự có mặt ngay từ đầu và chứng kiến các sự kiện trong những ngày lập trung đoàn 174 yêu quý của chúng ta. Tình hình đang chuyển biến nhanh, nhiệm vụ khẩn trương, nhận chủ trương của Bộ, anh Mân trở về ngay Cao Bằng, họp trung đoàn uỷ bất thường, mở Hội nghị quân chính nhanh gọn. Cán bộ nhất trí, phấn khởi trước quyết định của Bộ, vui mừng trên bước đường quân ta đánh thắng và lớn lên, tin tưởng mau giành thắng lợi cuối cùng, nhưng không khỏi bâng khuâng lưu luyến danh hiệu Trung đoàn 74 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong 3 năm đầu kháng chiến trên chiến trường Cao Bằng (1947 - 1949). Tình cảm đồng đội nay phải chia tay, mỗi người về đơn vị mới, nhiệm vụ mới. Nhưng quân lệnh như sơn, phải gấp rút làm công tác tổ chức xong trong tháng 7/1949 theo kế hoạch: - Anh Mân, một số cán bộ chủ chốt và tiểu đoàn 73 về Binh đoàn Cao Bắc Lạng. - Anh Dương Đại Lâm, trung đoàn phó cùng bộ phận cơ quan các đại đội độc lập hợp nhất với Tỉnh đội Cao Bằng xây dựng bộ đội địa phương. - Một số bộ phận cán bộ do anh Bùi Đình Thuận chủ nhiệm Chính trị và anh Lê Vỹ, Phó tham mưu trưởng phụ trách, nhận nhiệm vụ tăng cường cho quân tình nguyện trên mặt trận Lào. Công việc đang tiến hành, nhận được điện của Bộ Chỉ huy Liên khu I, vội vã chia tay anh Mân và một số cán bộ chủ chốt về Kéo Coong, huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn (Chỉ huy sở của trung đoàn 28) để họp cán bộ quán triệt về tổ chức xây dựng Binh đoàn do anh Thanh Phong Phó chỉ huy liên khu xuống chỉ đạo. Theo Quyết định của Bộ, trung đoàn 174 được thành lập ngày 19/8/1949. - Binh đoàn Cao Bắc Lạng là danh hiệu vinh dự, nhưng lấy biệt hiệu là Trung đoàn 174 - Không đơn thuần 28 + 72 + 74 thành 174 mà có ý nghĩa Trung đoàn 174 được hội tụ tinh hoa và tốt đẹp của 3 Trung đoàn 28, 72, 74 và của nhân dân 3 tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn. - Cơ cấu trung đoàn bao gồm 4 tiểu đoàn và 6 đại đội chuyên môn kỹ thuật quân số gần 4.000. Đây là sức mạnh của một binh đoàn chủ lực. Đó là: 1) Tiểu đoàn 73 của e74 Cao Bằng, đổi phiên hiệu là tiểu đoàn 251. 2) Tiểu đoàn 55 của e72 Bắc Kạn, đổi phiên hiệu là tiểu đoàn 255. 3) Tiểu đoàn 386 của e28 Lạng Sơn, đổi phiên hiệu là tiểu đoàn 249. 4) Tiểu đoàn pháo binh của Bộ đưa về, lấy phiên hiệu là tiểu đoàn 253. Về cán bộ Chỉ huy, khi anh Thanh Phong công bố quyết định bổ nhiệm của Bộ tổng Chỉ huy, toàn thể Hội nghị cán bộ nhiệt liệt hoan nghênh với niềm tin tưởng vào những cán bộ ưu tú, có kinh nghiệm mà Bộ đã lựa chọn, như: anh Chu Huy Mân, nguyên trung đoàn trưởng 74 làm Chính ủy, anh Đặng Văn Việt, nguyên trung đoàn trưởng 28 làm trung đoàn trưởng, anh Đoàn Trần Phong được Bộ cử về làm trung đoàn phó. Cán bộ chủ chốt các cơ quan: anh Nguyễn Văn Thước, tham mưu trưởng, anh Hoàng Tiêu Sơn, chủ nhiệm Chính trị, anh Đinh Cảnh Vân, chủ nhiệm Cung cấp. Thật là một Hội nghị lịch sử cán bộ chủ chốt của Trung đoàn mới thành lập, hội tụ những cán bộ, đảng viên tinh hoa của 3 trung đoàn, đủ thành phần dân tộc Cao Bắc Lạng cùng những cán bộ từ trung du, đồng bằng được Bộ tăng cường, những khuôn mặt kiên nghị đã qua thử thách trong chiến đấu, nhưng cũng phảng phất di chứng của sự gian khổ thiếu thốn của bệnh sốt rét rừng. Tuy mỗi người ở mỗi đơn vị, mỗi chiến trường mới gặp nhau, nhưng mọi người tay bắt mặt mừng với tình cảm anh em một nhà, đều biểu lộ quyết tâm xây dựng trung đoàn vững mạnh, quyết chiến quyết thắng. Nhất là các tiểu đoàn trưởng Bắc Quân (d249), Nguyễn Hữu An (d251), Lê Thanh Tâm (d255), Nguyễn Kha (d pháo cối) đã từng gặp nhau, phối hợp với nhau tại chiến trận, đã ôm chầm lấy nhau hàn huyên, bàn luận sôi nổi về nhiệm vụ, về chiến công sắp tới. Hội nghị họp chưa xong, Bộ thông báo địch có thể rút quân Bắc Kạn và một số nơi khác và lệnh cho Trung đoàn cho ngay cán bộ cấp tốc về đơn vị tranh thủ thời cơ tiêu diệt, truy kích địch, bảo vệ dân, tiếp quản nơi địch rút. Ban Chỉ huy Trung đoàn nhanh chóng kết thúc Hội nghị, xác định phương châm chiến đấu và xây dựng, xây dựng trong chiến đấu, giao nhiệm vụ cho cán bộ ngày đêm về kịp đơn vị để chỉ huy chiến đấu. Đúng như Bộ thông báo, ngày 9 tháng 8 địch bắt đầu rút Bắc Kạn, ngày 22 tháng 8 rút Phủ Thông. Tiểu đoàn 255 đã đánh truy kích địch tại Ngân Sơn, Bằng Khẩu, địch rút hết đường số 3 vào ngày 18 tháng 8 năm 1949. Tại Cao Bằng, ngày 20 tháng 8 địch rút Quảng Uyên, Phục Hoà, tiểu đoàn 251 đã kịp thời phục kích địch tại Mã Phục và trên đường Phục Hoà rút về Đông Khê, các C độc lập đánh tiêu hao. Địch rút khỏi Nguyên Bình, Tĩnh Túc (ngày 24/8), rút khỏi Nước Hai Cao Bình ngày 30/8. Như vậy, địch đã thu hẹp khu chiếm đóng, tập trung quân phòng thủ giữ đường số 4, các vị trí trọng yếu ở thị xã Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, thị xã Lạng Sơn. Theo lệnh của Bộ, nhân địch đang hoang mang, rút quân về đứng chưa vững, phải tranh thủ thời cơ tiêu diệt sinh lực địch, triệt tiếp tế vận chuyển của địch. Một lần nữa, Trung đoàn hoãn việc tập trung quân lên Cao Bằng để xây dựng chỉ đạo các đơn vị, chấn chỉnh tổ chức tại trận, động viên cán bộ chiến sĩ ra sức chiến đầu, lập các chiến công mở đầu để chào mừng ngày thành lập Trung đoàn. Những khó khăn trước mắt là hậu cần, chủ yếu là lương thực. Trước đây tác chiến phân tán, nay tập trung toàn Trung đoàn về đường số 4, vấn đề lương thực là nan giải, nhất là năm nay hạn hán nặng, mất mùa cả lúa ngô, lại bị địch cướp phá, dân các bản làng đang thiếu đói, bộ đội hiện nay phải ăn ngô, sắn trừ bữa. BCH Trung đoàn phân công nhau: anh Việt chỉ huy, chuẩn bị chiến trường, anh Mân cùng Trưởng ban cung cấp lên đường tìm lãnh đạo địa phương giúp giải quyết vấn đề lương thực và dân công đảm bảo chiến đấu. Đúng là “khó vạn lần, dân liệu cũng xong”. Anh Hồng Kỳ - Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Cao Bằng nói: Các anh cứ lo đánh, dân sẽ lo lương thực. Anh Huyền Trang - Chủ tịch Lạng Sơn quyết đoán: Các anh yên tâm, dân đói nhưng bộ đội phải no để đánh giặc. Được tiếp sức của dân, Trung đoàn liên tiếp lập chiến công ròn rã: - Ngày 8/9/1949, đánh trận phục kích trên đèo Bông Lau - Lũng Phầy lần thứ 4, quân ta phá huỷ 96 xe quân sự, tiêu diệt 210 tên, bắt sống 23 tên lính Âu Phi, có tên quan tư chỉ huy. - Ngày 12/9/1949, đánh trận phục kích tại Bản Nầm lần thứ 2, kết quả diệt hơn 100 tên lính Âu Phi, phá huỷ 26 xe quân sự, thu hàng trăm vũ khí mới của địch vận chuyển. - Ngày 17/9/1949, đánh trận phục kích ở Bố Củng - Lũng Vài, lần thứ 3. Mặc dù ta bị lộ, địch cảnh giác đối phó nhưng quân ta đánh tan đoàn vận tải của địch, diệt hơn 100 tên. Kết quả đợt tác chiến của Trung đoàn với 3 trận liên tiếp cùng một vài trận của bộ đội địa phương đã chặt đứt đường số 4 từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, địch phải chuyển sang tiếp tế bằng đường hàng không. Tiếp theo, Trung đoàn được Bộ giao nhiệm vụ làm tổng dự bị cho Mặt trận H7 của Bộ trong kế hoạch tấn công Thất Khê. Do bị lộ, địch tăng quân, Bộ kết thúc mặt trận H7 vào cuối tháng 10/1943. Trung đoàn được Bộ đồng ý cho hành quân lên đóng quân tại huyện Hà Quảng, Hoà An tỉnh Cao Bằng để “rèn cán, luyện quân”, xây dựng Trung đoàn. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 05:51:24 pm Chưa được bao lâu, đầu tháng 12/1949, lần thứ 3 Trung đoàn phải hoãn tổ chức lễ thành lập Trung đoàn để triển khai chiến đấu theo lệnh của Bộ trước tình hình quân Tưởng bị giải phóng quân Trung Quốc tấn công xuống Hoa Nam, có ý tràn vào Biên giới nước ta, cấu kết với giặc Pháp. Ngày 18/12/1949, quân đoàn do Bạch Sùng Hi chỉ huy xâm nhập vào Cao Bằng từ ba hướng. Trung đoàn đã chiến đấu liên tục 40 ngày đêm, đánh chặn và truy kích - đánh bật quân Tưởng ra ngoài Biên giới, tiêu diệt hơn 8.000 tên, phối hợp với Quân giải phóng Trung Quốc bao vây và gọi hàng hơn 4.000 tên, ngăn chặn quân Pháp - Tưởng không liên lạc chi viện được cho nhau, kết thúc chiến đấu vào ngày 28/01/1950. Trung đoàn ca khúc khải hoàn, tranh thủ thời gian ngày 02/02/1950 đã long trọng tổ chức lễ thành lập Trung đoàn tại xã Đức Long, huyện Hoà An, Cao Bằng, nằm trong khu căn cứ Lam Sơn, căn cứ bí mật của Liên tỉnh uỷ Cao Bắc Lạng, nơi làm việc của Bác Hồ thời tiền khởi nghĩa. Dù trong hoàn cảnh địch còn đóng ở thị xã Cao Bằng, đường chim bay chỉ 20km, nhưng lễ thành lập Trung đoàn đã được tổ chức chu đáo, quy mô, long trọng, có hàng ngàn nhân dân quanh vùng, đại diện Đảng, Chính quyền, Mặt trận của 3 tỉnh và các huyện của tỉnh Cao Bằng tham dự, chào mừng ngày ra đời của Binh đoàn chủ lực của quê hương Cao Bắc Lạng. Ngày lễ Trung đoàn ra đời còn là ngày mừng công thắng lợi của quân dân 3 tỉnh mở rộng vùng giải phóng, mừng những chiến công đầu của Trung đoàn, ngày hội đoàn kết quân dân, biểu dương sức mạnh đoàn kết, ý chí, quyết tâm đẩy mạnh cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Sau Tết Nguyên Đán năm Canh Dần, Trung đoàn chuyển quân vào các huyện Quảng Uyên, Trùng Khánh trong bối cảnh cách mạng Trung Quốc đã thành công (01/10/1949), quan hệ quốc tế được mở ra trên Biên giới Cao Bằng. Trung đoàn được vinh dự bảo vệ Bác Hồ, thay mặt Đảng và Nhà nước ta bí mật qua Biên giới thăm Trung Quốc và Liên Xô. Qua đó, Trung đoàn 174 là đơn vị sớm được nhận viện trợ quốc tế về vũ khí, trang bị vật chất và tiếp thu kinh nghiệm chiến đấu, chiến thuật đánh vận động, đánh công kiên của Quân giải phóng Trung Quốc. Chưa được 1 năm, vượt qua khó khăn, thử thách, những ngày đầu, vừa chiến đấu vừa xây dựng, Trung đoàn có bước trưởng thành, vững vàng bước vào thời kỳ chiến đấu mới. Từ trận đầu đánh công kiên thắng lợi, tiêu diệt chi khu Đông Khê lần thứ nhất (tháng 05/1950), rồi tham gia chiến dịch Biên giới dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bác Hồ và chỉ huy của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Trung đoàn đã vinh dự được Bộ giao nhiệm vụ chủ công phối hợp với đơn vị bạn tiêu diệt chi khu Đông Khê lần thứ hai (17/9/1950). Trong trận đánh quyết định mở đầu chiến dịch, trung đoàn đã lập công xuất sắc, góp phần tích cực cho chiến dịch toàn thắng, giải phóng Cao Bằng, Lạng Sơn. Đến nay Trung đoàn đã có một lịch sử vẻ vang 55 năm (19/8/1949 - 19/8/2004), có mặt trong các trận quyết định, các chiến dịch quan trọng của đoàn quân, từ chiến dịch Biên giới đến chiến dịch Điện Biên Phủ, từ chiến dịch Tây Nguyên đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chiến công nối tiếp chiến công trên khắp các chiến trường từ Việt Bắc xuống Đông Bắc, sang Tây Bắc, từ vùng núi xuống trung du, đồng bằng, đánh vào thị trấn, đô thị, từ Bắc vào Nam, và làm nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào và Campuchia. Trung đoàn 174 đã đi suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp- chống Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Ngày nay, Trung đoàn 174 vẫn đứng trong đội hình Sư đoàn 316, Quân khu 2, trấn thủ cả vùng Tây Bắc Tổ quốc. Qua 55 năm chiến đấu và trưởng thành với nhiều thế hệ cán bộ và chiến sỹ kế tiếp nhau chiến đấu, biết bao liệt sỹ, thương binh đã hy sinh sương máu để xây dựng nên truyền thống vẻ vang, được Đảng và Nhà nước tuyên dương toàn Trung đoàn, một tiểu đoàn, một đại đội và 10 cán bộ, chiến sỹ danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và được tặng thưởng nhiều huân chương cao quý. Cội nguồn sức mạnh truyền thống của Trung đoàn là sự lãnh đạo, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng, sự chỉ huy tài năng của Bộ Tổng chỉ huy, là sự dựa vào sức mạnh của toàn dân, toàn quân. Nhưng Trung đoàn 174 còn có cội nguồn đặc trưng mà hiếm đơn vị nào có được: Đó là Trung đoàn đã được sinh ra tại căn cứ cách mạng Cao Bắc Lạng được Bác Hồ kính yêu sau 30 năm bôn ba khắp thế giới đã về nước trực tiếp xây dựng, đồng thời là nơi ra đời của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22/12/1944), tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trung đoàn 174 sinh ra và lớn lên với sự chăm sóc, nuôi dưỡng và kế thừa truyền thống cách mạng của nhân dân các dân tộc Cao Bắc Lạng, kế thừa truyền thống chiến đấu “ra quân đánh thắng” của các chi đội giải phóng quân, hội tụ tinh hoa của 3 trung đoàn đã trải qua 3 năm đầu kháng chiến trên chiến trường Cao Bắc Lạng. Sức mạnh truyền thống trên đã được phát huy bởi tình đoàn kết gắn bó ruột thịt giữa cán bộ, chiến sỹ các dân tộc và được nhân lên và phát triển qua mỗi chiến trường, qua mỗi thời kỳ, được tiếp sức, bổ sung liên tục bởi các cán bộ, chiến sỹ ưu tú của toàn quân, của cả nước. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 29 Tháng Mười Một, 2022, 05:53:57 pm CHIẾN ĐẤU TRONG ĐỘI NGŨ TRUNG ĐOÀN 28 (LẠNG SƠN) (trích Hồi kí) PHẠM NGỌC XƯƠNG ... Đoàn kết và chiến đấu là chìa khoá của mọi thắng lợi. Tôi vẫn còn nhớ tới cán bộ chiến sĩ đại đội trợ chiến 318 - các ông CTV Tráng Sỹ, Lê Ngọc Cừ, cán bộ quản trị đại đội Hồ Quang Dần, các cán bộ trung đội, ông Thường, Hoàng Long, và chiến sĩ liên lạc - ông Sửu (quê Thất Khê) và các chiến sỹ 12 ly 7 và cối 81 ly v.v... trong đại đội trợ chiến 318. Các đơn vị bạn 385 + 316 + 317, các ông Đinh Giang, Lê Hoàn, Hùng Quốc, Bế Chu Lang, Đinh Như Thành, Đoàn Độ, Phạm Như Lai và ông Sáu Nhật (chạy sang với Việt Minh tại Lạng Sơn năm 1945...) v.v... Một chiến tích xuất sắc ghi nhớ trong chiến dịch Thu Đông 1947, trận phục kích Bông Lau - Lũng Phầy (30/10/1947) một trận đánh vang dội, tiêu biểu, trận thắng lớn đạt hiệu suất cao nhất khi bước vào chiến dịch Thu Đông Việt Bắc 1947 kể từ ngày mở đầu kháng chiến toàn quốc tới ngày đó, do ông Đoàn Thế Hùng tham mưu trưởng trung đoàn 28 trực tiếp chỉ huy. Cũng là lần đầu gặp anh Sáu Nhật trinh sát chọn trận địa và phác họa đánh phục kích ngay trên trận địa. Tiểu đoàn 249 mang danh hiệu "Tiểu đoàn Bông Lau" sau chiến thắng. Năm 1948, Bộ Tổng Chỉ huy ra lệnh khu 1 và khu 12 hợp thành liên khu Việt Bắc. Bộ Tư Lệnh gồm: Chu Văn Tấn, Lê Quảng Ba và Lê Hiến Mai (chính ủy). Tăng cường công tác lãnh đạo, đồng chí Hà Kế Tấn được Bộ Tư Lệnh Liên khu Việt Bắc điều về làm trung đoàn trưởng trung đoàn 28 Lạng Sơn. Mặt trận Lạng Sơn liên tục đánh địch. Trung đoàn 28 phối hợp với các lực lượng tăng cường của Bộ Tư lệnh Liên khu Việt Bắc và của cả Bộ Tổng chỉ huy tổ chức những trận phục kích, tập kích các đồn địch trên đường số 4 từ Thất Khê xuống Na Sầm - Đồng Đăng, chặn đánh địch đi càn... Trong những năm 1948, trung đoàn 28 Lạng Sơn giao nhiệm vụ cho các cán bộ Võ bị Lục Quân (gồm các anh Huy Thi, Lưu Bằng, Vũ Ngọc Am, Ngọc Xương) và anh Sáu Nhật mở lớp huấn luyện cơ bản cho cán bộ cấp tiểu đội và trung đội trong khóa học 2 tháng (3 - 4/1948) để về huấn luyện lại chiến sỹ trong các môn cá nhân chiến đấu, xạ kích, ném lựu đạn và cá nhân chiến đấu trong đội hình chiến đấu tiểu đội và trung đội tại Ba Xã. Đại đội trợ chiến 318 do đại đội phó Phạm Ngọc Xương chỉ huy là đơn vị hỏa lực trực tiếp của trung đoàn Lạng Sơn được tham dự nhiều trận đánh cùng các đơn vị bạn trong tiểu đoàn 249 (ông Bắc Quân tiểu đoàn trưởng, ông Đắc Hanh chính trị viên) trên đường số 4 và với các đại đội độc lập ở các hướng quan trọng của huyện Điềm He (Đồng Đăng), huyện Thất Khê và Thoát Lãng (Na Sầm), hành quân tác chiến trên khắp chiến trường Lạng Sơn (đường số 4 và số 1). Năm 1949, quân Pháp lấy Bắc Bộ làm chiến trường chính, Cao Bằng - Lạng Sơn nằm trong tuyến phòng thủ Biên giới của quân Pháp; xây dựng quân ngụy làm nhiệm vụ chiếm đóng, lực lượng Âu Phi cơ động càn quét và mở rộng bằng nhiều cuộc tiến công lớn trong kế hoạch Revers. Về phía ta, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 6 (14-18/1/1949) từ sự phát triển chiến tranh du kích 1948, nhận định so sánh lực lượng Ta và Địch đang thay đổi có lợi cho ta. Thuận lợi mới là Giải Phóng quân Trung Quốc đã tấn công Hoa Nam sẽ tiến sát Biên giới Việt Nam. Hồ Chủ Tịch nêu rõ: "Kháng chiến trên hết, quân sự trên hết, tất cả phục vụ kháng chiến thắng lợi". Thực hiện mệnh lệnh của Bộ và của Liên khu Việt Bắc mở ra 2 chiến dịch ở Cao Bắc Lạng và Đông Bắc vùng Duyên Hải. Từ tháng 3-5/1949 Cao Bằng - Lạng Sơn ở hướng chính có nhiệm vụ làm tê liệt đường giao thông số 4, triệt tiếp tế của địch trên toàn bộ phía Bắc và Đông Bắc, tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã ngụy binh, buộc chúng phải rút khỏi Bắc Cạn. Đại đội trợ chiến của tôi chiến đấu trong đội hình của Trung đoàn 28 (Lạng Sơn) cùng du kích địa phương đánh phá các đồn Bông Lau. Tiểu khu Thất Khê và Na Sầm bị kiềm chế mạnh và đột nhập đánh phá. Đợt 2 chiến dịch mở ra bằng trận phục kích lớn ngày 24/5/1949 trên quãng đường địa hình hiểm trở giữa đồn Bông Lau và đồn Lũng Phầy. Lực lượng phục kích của ta có 3 tiểu đoàn: tiểu đoàn 23 (của Bộ), tiểu đoàn 251 (Cao Bằng) do đồng chí Nguyễn Hữu An chỉ huy, tiểu đoàn 249 (Lạng Sơn) do đồng chí Bắc Quân chỉ huy, đại đội trợ chiến 318 được tiểu đoàn 249 giao nhiệm vụ khóa đuôi và bố trí phòng không. Còn đơn vị chặn đầu là tiểu đoàn 23. Đoàn xe 114 chiếc cả cơ giới và thiết giáp cùng 500 Âu Phi rơi vào bẫy của ta. Trận đánh quyết liệt hơn cả trận 30/10/1947. Chỉ huy chung trận đánh do trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt bài binh bố trận chặt chẽ. Các đơn vị đều lập công. Tiểu đoàn 251 (Cao Bằng) lập công xuất sắc được tặng danh hiệu "tiểu đoàn Lũng Phầy". Chiến dịch kết thúc thắng lợi. Ngày 3/8/1949, Bắc Cạn là tỉnh đầu tiên ở Việt Bắc được giải phóng hoàn toàn, đã tạo nên một hình thái mới trên chiến trường Việt Bắc. Nhận định của Hội nghị Trung ương lần 6: Ta càng đánh càng mạnh, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi có lợi cho ta. Từ chủ động chiến dịch đến chủ động chiến lược bộ phận. Đặc biệt, nhấn mạnh việc xây dựng bộ đội chủ lực phải coi là trung tâm công tác. Theo chỉ thị của Bộ quyết định chọn trong các trung đoàn 74 (Cao Bằng), 72 (Bắc Cạn), 28 (Lạng Sơn) lấy 3 tiểu đoàn mạnh thành lập trung đoàn 174 (Cao Bắc Lạng). Như vậy, ngày 19/8/1949, trung đoàn 174 được quyết định thành lập và là đơn vị chủ lực đầu tiên của Bộ Tổng chỉ huy. Trung đoàn 209 và đại đoàn 308 cũng là những đơn vị chủ lực của Bộ có nhiệm vụ vẻ vang đi tiên phong trên con đường vận động chiến. Ngày 19/8/1949 Bộ quyết định thành lập Trung đoàn 174. Nói riêng, tiểu đoàn 386 của trung đoàn 28 Lạng Sơn đổi danh hiệu thành 249 khi thành lập trung đoàn 174 là tiểu đoàn tham gia đánh quân Pháp từ ngày địch gây hấn ở Lạng Sơn (11/1946), đánh trận nối tiếng ở đèo Bông Lau (30/10/1947). Sau đó liên tục hoàn thành nhiệm vụ diệt địch trên đường số 4 (đánh phục kích táo bạo) và nhiều trận đánh đồn bốt kể cả chi khu Đông Khê, Thất Khê, và Na Sầm. Cán bộ chỉ huy là các ông Lý Thế Kim, ông Bắc Quân, phó là ông Duy Thiện, Nguyễn Văn Khiếu, chính trị viên Nguyễn Đắc Hanh v.v... qua từng thời kỳ. Đội ngũ cán bộ chiến sỹ của Trung đoàn 174 hầu hết là con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan... Số anh em dân tộc Kinh cũng có, nhưng tỷ lệ nhỏ hơn, trong đó là mấy anh em Võ bị Lục quân chúng tôi và những anh em làm chuyên môn văn thư và chỉ huy các đơn vị thông tin, công binh, trinh sát v.v... Anh em người Kinh hòa mình nhanh chóng với anh em các dân tộc gan góc dũng cảm. Tất cả đều gắn bó đoàn kết với nhau. Ngày 19/8/1949, cũng là ngày tôi được chính thức công nhận chức đại đội trưởng đại đội trợ chiến trong số các đại độc trực thuộc... Tôi kiên trì liên tiếp chiến đấu và có tình cảm sâu sắc với trung đoàn Lạng Sơn, cố gắng làm tròn nhiệm vụ đã giao; lại càng thấm thía bài học "Cầm quân" mà tướng Nguyễn Sơn đã giáo dục đào tạo chúng tôi ở trường Lục quân Quảng Ngãi năm 1946. Viết xong 16/8/2003 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2022, 04:31:04 pm BÁC HỒ ĐÃ THEO DÕI CHỈ ĐẠO TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI (16/9 - 14/10/1950) (Trung đoàn 174 là đơn vị chủ công) NGUYỄN VĂN KHIẾU1 Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới trên hướng Cao Bằng - Lạng Sơn lấy mật danh là Lê Hồng Phong 2. Ngày 7/7/1950, Bộ Tổng chỉ huy quyết định mở chiến dịch "Cao Bắc Lạng", Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy, kiêm chính ủy. Mặc dù bận nhiều công việc hệ trọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy cần phải có mặt trong chiến dịch lớn đầu tiên. Tuần đầu tháng 8/1950, từ căn cứ địa, Bác đến Lam Sơn (Cao Bằng) làm việc với Tỉnh ủy, rồi sang Quảng Uyên tới làng Tả Phầy Tử (nơi đặt sở chỉ huy chiến dịch) làm việc với Bộ Chỉ huy chiến dịch. Tại đây, vấn đề đánh Cao Bằng trước, hay đánh Đông Khê trước đã được đưa ra thảo luận ở Hội nghị Đảng ủy Mặt trận ngày 16/8/1950. Đảng ủy nhất trí hoàn toàn với ý kiến của đồng chí bí thư là: Đánh vào Cao Bằng trước chưa bảo đảm chắc thắng. Nên đánh vào Đông Khê trước, chiếm lấy cứ điểm, kéo viện binh ở Lạng Sơn lên, buộc chúng phải chui vào thế trận bày sẵn của ta để tiêu diệt. Mục đích của chiến dịch phải lấy việc tiêu diệt sinh lực địch làm chính. Nếu tiêu diệt được nhiều sinh lực địch thì dù không đánh vào cứ điểm chính ta vẫn giải phóng được tỉnh Cao Bằng. Phương án đánh Đông Khê trước được đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Mặt trận báo cáo trực tiếp với Bác. Nghe xong, Người chưa phát biểu ngay mà còn hỏi lại một số cán bộ trong Bộ Chỉ huy và Cơ quan Mặt trận. Sau đó, Bác phát biểu phân tích đại ý: "Bác đồng ý với phương án đánh Đông Khê trước. Phương án này có nhiều cái hay. Ta đánh vào Đông Khê trước là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu, nhưng đây lại là điểm xung yếu trong hệ thống phòng thủ Biên giới của giặc. Cứ điểm Đông Khê bị diệt, địch khác nào như con thú què cẳng, nhất định phải lồng lộn lên phản ứng, tìm mọi cách chiếm lại để giữ Cao Bằng hoặc đón quân Cao Bằng rút về. Ta sẽ giấu quân ở những nơi do ta lựa chọn, bủa lưới thép săn thú vào tròng. Quân viện của địch ta sẽ diệt được, lúc ấy ta muốn chiếm Cao Bằng không khó lắm. Nếu chúng lại tự rút bỏ Cao Bằng, càng tốt cho ta đánh địch trong vận động". Cán bộ được dự hôm ấy chăm chú nghe Bác như nuốt lấy từng lời, từng ý của Người. 6 giờ sáng ngày 16/9/1950, quân ta nổ súng đánh Đông Khê mở màn chiến dịch. Trung đoàn 174 vinh dự được nhận nhiệm vụ chủ công đánh từ phía bắc xuống. Trung đoàn 209 là mũi diện đánh từ hướng nam lên. Trung đoàn 36 là lực lượng dự bị và đánh quân nhảy dù xuống cứu viện Đông Khê. Theo yêu cầu của Bác muốn được theo dõi trực tiếp trận đánh mở màn, Bác được bố trí lên đài quan sát của chiến dịch ở đông bắc thị trấn Đông Khê. Đứng trên ngọn núi, Bác trực tiếp quan sát bằng ống nhòm có bội số lớn - Bác chăm chú nhìn xuống cứ điểm giặc - vừa đối chiếu với bản đồ tham mưu vừa nhìn vào sơ đồ trận đánh, vừa nghe một cán bộ của Bộ Chỉ huy báo cáo tình hình. Máy bay địch gầm rít bỏ bom, bắn phá các khu vực ngoại vi cứ điểm Đông Khê, có lúc xà thấp hơn cả ngọn núi Bác đang đứng quan sát. Việc Bác Hồ ra mặt trận, lại trực tiếp theo dõi trận mở màn chiến dịch Biên giới càng làm cho mọi người thấy ý nghĩa quan trọng của chiến dịch. Bác đi chiến dịch vẫn ung dung, thư thái, vẫn chan chứa chất thơ trong tâm hồn và cũng không có lời động viên nào mạnh mẽ bằng cảnh tượng Bác Hồ "Chống gậy lên non xem trận địa _________________________________________Vạn trùng núi ấp, vạn trùng mây Quân ta khí mạnh nuốt ngưu đẩu Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy". 1. Nguyên Tham mưu phó Trung đoàn 174 trong chiến dịch Biên giới. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2022, 04:33:01 pm * Ta nổ súng tiến công lúc 6 giờ. Mũi chủ công, trung đoàn 174, đến 9 giờ sáng chiếm được yên ngựa Cạm Phày, 10 giờ chiếm được Phia Khóa. Nhưng khi tiến công vào Đồn to lại phải vượt qua bãi trống, nên bị hỏa lực địch chặn lại gặp nhiều khó khăn. Ba lần tổ chức tấn công không thành công vì qua đột phá khẩu gặp phải địa hình bằng phẳng (Sau trận Đông Khê I 25/5 chúng sửa chữa, san ủi phẳng lì) tập trung các loại hỏa lực vào đó, nên tiểu đoàn 251 chủ công bị thương vong nặng, không tiến lên được. Ở mũi diện, trung đoàn 209 có bộ phận đi lạc nên không kịp hiệp đồng chiến đấu. Khi trung đoàn nổ súng tiến công phát triển thuận lợi, nhưng sau đó cũng bị chặn lại. Sau một ngày đêm chiến đấu quyết liệt, ta vẫn chưa chiếm được Đồn to. Địch bị thiệt hại nặng, nhưng ta cũng có nhiều thương vong. Qua quan sát và được báo cáo của đồng chí Hoàng Văn Thái, người chỉ huy trận đánh, Bác đồng ý với Bộ Chỉ huy cho đơn vị tạm lui ra ngoài Đồn to, chấn chỉnh lại đội hình, củng cố thêm quyết tâm. Người chỉ thị: Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục, đánh cho kỳ thắng trận đầu. Cả ngày 17/9, theo chỉ thị của Mặt trận, quân ta chấn chỉnh lại bộ đội, đơn vị 174 chuyển hướng đột phá sang hướng đông bắc, bố trí lại hiệp đồng giữa pháo cối để chế áp có hiệu quả pháo binh địch. Cán bộ, chiến sĩ nghiên cứu thư của Bác gửi ngày 9/9/1950, gửi đồng bào Cao Bắc Lạng. Nội dung thư: "Hỡi đồng bào Cao Bắc Lạng yêu quý, quân ta mở chiến dịch Cao Bắc Lạng. Chiến dịch này rất quan trọng cho Cao Bắc Lạng và cho cả toàn quốc. Hỡi các chiến sĩ yêu quý, chiến dịch Cao Bắc Lạng rất quan trọng, chúng ta quyết đánh thắng trận này". Được thư Bác động viên, tinh thần cán bộ, chiến sĩ ai nấy đều quyết tâm, dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh thắng trận đầu. 17 giờ ngày 17/9, ta đồng loạt nổ súng mở đợt tấn công mới vào Đồn to (trung tâm Đông Khê). Ta nhanh chóng chiếm được nhiều vị trí trong thị trấn (Phủ Thiên, nhà thương, khu phố), nhưng khi tấn công vào Đồn to thì vấp phải sự kháng cự liệt quyết của địch. Ta phải chiến đấu chiếm từng đoạn giao thông hào có nắp, từng ngách hầm hào, từng lô cốt mới được củng cố thêm, chiến đấu diệt từng hỏa điểm bí mật của địch. Cuộc chiến đấu giằng co kéo dài. Xuất hiện nhiều gương chiến đấu dũng cảm: 3 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2 liệt sĩ) tiêu biểu cho lá cờ đầu trong phong trào thi đua yêu nước. Đến 4 giờ sáng ngày 18/9, đơn vị 174 thọc sâu được vào Sở chỉ huy Đồn to phối hợp với các mũi tiến công của trung đoàn 209 đánh chiếm toàn bộ Đồn to và thị trấn Đông Khê. Tên đồn trưởng Aliúc cùng một số sĩ quan Pháp định vượt rào chạy ra phía đông nam nhưng bị ta bắt. 10 giờ sáng, trận Đông Khê kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt và bắt sống 500 tên địch, bắn rơi một máy bay chiến đấu, thu toàn bộ vũ khí quân trang, quân dụng. Trung đoàn 174 và trung đoàn 209 đã hoàn thành nhiệm vụ đánh thắng trận đầu, tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển thuận lợi. * Sau chiến thắng Đông Khê, Bác Hồ đi thăm thương binh. Tới bệnh viện đã chiến, vốn dễ xúc động, Bác đã phải cố nén lòng để an ủi động viên các chiến sĩ bị thương an tâm điều trị chóng trở lại tham gia chiến đấu. Tuy vậy, có lúc Người không sao cầm được nước mắt khi thăm thương binh nặng. Phần chiến lợi phẩm thu được gửi lên tặng Bác, Bác chỉ để lại một ít, còn chia cho các đồng chí cảnh vệ và biếu nhân dân địa phương gần nơi Bác ở, còn phần lớn Bác bảo mang cho anh em thương binh ở bệnh viện dã chiến. Theo lời kể của anh Cao Pha (trưởng ban Quân báo chiến dịch Biên giới 1950), một hôm Bác đến chỉ huy sở gọi anh và bảo đưa Bác đi gặp tù binh. Anh lúng túng, không biết làm thế nào để giữ bí mật, sợ tù binh nhận ra Bác, thì Bác đã chỉ thị cho bác sĩ đem thuốc đỏ và bông, băng râu Bác lại y như một chiến sĩ bị thương. Thật là tuyệt diệu. Anh cho người chạy ra báo cho đồng chí Nghiêm Xuân Hiếu, cán bộ quân báo đang hỏi cung ở trại, chuẩn bị gấp cho cán bộ cấp trên đến gặp tù binh. Anh Cao Pha đưa Bác đến trạm. Ba sĩ quan tù binh (một đại uý đồn trưởng Đông Khê và hai trung úy) đứng dậy khi thấy Bác vào. Bác nói ngay: - Tôi tự giới thiệu là Việt kiều ở Pháp đã tham gia cuộc chiến tranh 1914-1918 cùng nhân dân Pháp chống Đức. Nghe theo lời kêu gọi của Chính phủ Hồ Chí Minh, tôi về cùng đồng bào tôi kháng chiến. Các anh đến đây để làm gì? Tên đồn trưởng trả lời1: - Chúng tôi đến đây theo lệnh cấp trên. - Các anh đều là những kẻ "thực dân". Nhân dân Việt Nam chống đế quốc Pháp xâm lược để bảo vệ Tổ quốc mình cũng như nhân dân Pháp chống phát xít Đức trước đây. Bây giờ các anh đã bị bắt làm tù binh. Các anh phải tuân theo những quy định của trại. Sau này, nếu các anh có thái độ tốt thì tôi sẽ nghiên cứu cho các anh hồi hương. Các anh có ý kiến gì thì gửi lên tôi theo địa chỉ này "Nguyễn Thắng - Cố vấn chính trị mặt trận". Lần đầu tiên, anh Cao Pha được nghe Bác nói tiếng Pháp, hay quá, rất chuẩn. Ba tên tù binh mở mắt to ngạc nhiên. Trên đường về, Bác cho biết hôm trước Bác gặp một toán tù binh được giải về trại. Thấy có một tù binh bị thương áo bị rách, Bác đã cho cái áo... Hơn nửa thế kỷ đã đi qua. Hình ảnh Bác Hồ ra mặt trận (đi chiến dịch) dự trận đánh mở màn vẫn đọng lại trong lòng cán bộ chiến sĩ thời chống Pháp được tham gia chiến dịch lớn đầu tiên, chiến dịch Biên giới (16/9 - 14/10/1950). Nó là hình ảnh tiêu biểu của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cả lãnh tụ và nhân dân gắn bó chan hòa làm một với người chiến sĩ ngoài mặt trận. Hình ảnh độc đáo này chỉ có thể tìm thấy trong chiến tranh cách mạng Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trận mở màn có Bác Hồ theo dõi chỉ đạo có hai tình tiết đặc sắc và lý thú: 1. Ngày 16/9, ta nổ súng đánh Đông Khê thì cũng là ngày Các-păng-chi-ê, tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương ký lệnh rút khỏi Cao Bằng. Trận Đông Khê thắng lợi tạo điều kiện cho đại đoàn 308, trung đoàn 209 bao vây tiêu diệt hai binh đoàn Lepage và Charton ở Khâu Luông - Cốc Xá, buộc địch phải rút chạy từ Thất Khê về Lạng Sơn và bỏ cả Lạng Sơn (khi chưa có lệnh), Lộc Bình - Đình Lập chạy về tận thị xã Bắc Giang. Một giải biên cương miền bắc nước ta sạch bóng quân thù (trừ Lai Châu và Tiên Yên - Móng Cái). Hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn hoàn toàn được giải phóng. Cửa ngõ ra quốc tế được mở toang, nối liền Việt Nam kháng chiến với hậu phương bao la là các nước anh em xã hội chủ nghĩa (cũ). 2. Trận Đông Khê 2 còn tượng trưng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Việt Nam. Trong một trận đánh mà có tới ba anh hùng lực lượng vũ trang được tuyên dương: Lý Văn Mưu (liệt sĩ 174) bị thương lảo đảo ngã gục xuống vẫn gượng dậy cố trườn lên đưa quả bộc phá tới lỗ châu mai. Lô cốt giặc sụp đổ. Mưu cũng hy sinh. Trần Cừ (liệt sĩ 209), đại đội trưởng, bị thương đã nén đau, nhảy lên ném thủ pháo cuối cùng vào lỗ châu mai và dùng cả thân mình bịt hỏa điểm địch làm cho nó câm họng (Đây là anh hùng bịt lỗ châu mai Việt Nam). La Văn Cầu (174 hiện còn sống) bị bắn gãy tay phải, quay lại yêu cầu đồng đội chặt đứt cho đỡ vướng, rồi ôm bộc phá lao lên phá tan lô cốt mở đường cho đơn vị xung phong an toàn. Trận đánh này là một trận đánh tiêu biểu về nhiều mặt, có giá trị nghiên cứu về chiến thuật và chiến dịch cao, một trận đánh hiếm có (được lãnh tụ Đảng, Chủ tịch nước quan sát chỉ đạo), có nhiều gương sáng hy sinh biểu hiện khí phách anh hùng, lại mang tính sử thi đậm nét. Mong các nhà khoa học lịch sử nghiên cứu sâu thêm để có những tài liệu học tập tham khảo cho các thế hệ sau. _________________________________________ 1. Aliúc đồn trưởng Đông Khê bị bắt. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2022, 04:41:23 pm CẢM XÚC VÀ KỶ NIỆM CỦA TÔI VỚI TRUNG ĐOÀN 174 CAO BẮC LẠNG NGUYỄN VĂN KHIẾU Tôi về trung đoàn 28 (Lạng Sơn) từ 3/1949 làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn chủ lực tỉnh (phiên hiệu 386, sau đổi thành 249). Từ 19/8/1949, tiểu đoàn được điều về thành lập Trung đoàn 174 (Cao Bắc Lạng), trung đoàn chủ lực mạnh đầu tiên trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy. Nghiễm nhiên, tôi được là một thành viên đầu tiên của trung đoàn Cao Bắc Lạng. Thời gian chiến đấu trong đội hình trung đoàn tương đối ngắn (3 năm là cán bộ phó: 19/8/1949 đến 10/1951; 2 năm là tham mưu phó trung đoàn: 1/1951 đến 3/1952). Tôi là cán bộ cơ quan (trợ lý các chiến liên khu I) được ra đơn vị chiến đấu để học hỏi trưởng thành. Ngay năm đầu khi trung đoàn mới thành lập ra quân đã có nhiều trận thắng liên tiếp. Thật là may mắn và hạnh phúc cho bản thân có dịp được rèn luyện trong chiến đấu. 1. Tôi rất tự hào được chiến đấu dưới lá cờ của Trung doàn Cao Bắc Lạng Một trung đoàn mới thành lập được 15 ngày: Ra quân trận đầu thắng lợi ròn rã bằng một trận phục kích tiêu diệt 96 xe/trong 130 chiếc xe địch - diệt và bắt 217 lính Âu Phi, bắt 23 trong đó có tên quan tư Đuymêgliô, thu trên 100 súng, 5000 lít xăng dầu. Đó là trận Bông Lau - Lũng Phầy lần 4 được Bộ công nhận là 1 trong 3 trận phục kích lớn tiêu diệt xuất sắc của toàn quân trong kháng chiến chống Pháp1 . - Liên tiếp trong 1 tháng từ 3/9 - 2/10/1949 bằng 3 trận phục kích (Bông Lau - Lũng Phầy 3/9 + Bản Nầm 15/9/1949 - Bố Củng - Lũng Vài 2/10/1949) đã chặt đứt hẳn con đường số 4 từ Na Sầm lên Cao Bằng - Địch không dám đi đường bộ mà phải tiếp tế bằng đường không. - Từ 18/12/1950, trung đoàn chặn đánh chừng hơn 1 vạn tên tàn quân Tưởng thuộc các sư 19 và 119 tràn vào Sóc Giang (Hà Quảng) diệt 5000 tên. Sau đó, trung đoàn liên lạc được với giải phóng quân Trung Quốc - Hai bên bủa vây buộc 4000 tên địch khác phải hạ vũ khí đầu hàng. Chiến thắng tàn quân Tưởng đã góp phần khai thông Biên giới, vun trồng tình đoàn kết giữa quân đội 2 nước Việt Trung, giáng một đòn mạnh vào tinh thần quân Pháp vốn đã hoang mang - nay lại càng thêm rệu rã. - Mười tháng sau khi thành lập, trung đoàn 174 tiêu diệt Đông Khê ngày 25/5/1950. Trận đánh kéo dài từ 6 giờ sáng 25/5 đến 3 giờ 26/5. Ta diệt và bắt sống 400 tên địch, phá 3 khẩu 75 ly, thu 2 khẩu 105 ly. Ta hy sinh 50, bị thương 80. Ngày 30/5 trung đoàn nhận được điện khen của Bộ: "Trận Đông Khê là một trận tiêu diệt lớn nhất từ đầu 1950 đến giờ. Nó chứng tỏ một lần nữa tinh thần anh dũng của cán bộ đường số 4". Trong lịch sử QĐNDVN, trận Đông Khê I được đánh giá: "Đây là một trận đánh công sự vững chắc lớn cấp trung đoàn có hiệp đồng bộ pháo, đồng thời là trận tiêu diệt xuất sắc của bộ đội ta lúc này". Trận đánh Đông Khê lần I có khuyết điểm là làm mất yếu tố bất ngờ về chiến dịch (vì Đông Khê nằm trong dự kiến của Bộ khi mở chiến dịch Biên giới 9/1950). Nhưng mặt khác, trận đánh Đông Khê I cũng giúp Bộ khẳng định được 2 vấn đề trước khi mở chiến dịch Biên giới. Đó là: a. Một trung đoàn bộ binh được pháo binh chi viện, có cách đánh thích hợp, được chuẩn bị chu đáo, hoàn toàn có khả năng tiêu diệt được vị trí kiên cố do một tiểu đoàn địch đóng giữ. b. Bộ đánh giá được đúng và chính xác vị trí Đông Khê. Đông Khê là điểm xung yếu trong hệ thống Biên giới của giặc. Cứ điểm Đông Khê bị diệt, địch khác nào như con thú bị què cẳng, nhất định phải lồng lộn lên phản ứng, tìm mọi cách chiếm lại để giữ Cao Bằng hoặc đón quân Cao Bằng rút về. Ta sẽ dàn quân ở những nơi do ta lựa chọn, bủa lưới thép săn thú vào tròng. Chiến dịch Biên giới mở màn bằng trận Đông Khê II ngày 16/9/1950 diễn ra đúng như vậy. Tôi năm nay đã 78 tuổi, quỹ thời gian ở lại để được dự kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống của Trung đoàn chẳng còn. Vì vậy, nhân dịp được dự kỉ niệm 55 ngày truyền thống, tôi xin cảm ơn trung đoàn CBL đã cho tôi có dịp được trả nghĩa Bác Hồ, được có mòn quà tình nghĩa tặng thầy hiệu trưởng Hoàng Đạo Thúy, thầy hiệu trưởng đầu tiên trong đời binh nghiệp của tôi, và cho tôi có cơ hội được về chiến đấu ở vùng Kinh Bắc quê tôi. 55 năm đã qua đi. Nhân dịp kỷ niệm ngày truyền thống của trung đoàn Cao Bắc Lạng, nhắc lại chuyện năm đầu ra quân thắng lợi tôi vẫn còn thấy tự hào. Thật hiếm có trung đoàn nào có thành tích tương tự. __________________________________________ 1. 3 trận phục kích tiêu diệt xuất sắc: - Trận La Ngà 7/3/1948 trung đoàn 310 (Nam Bộ). - Trận Bông Lau - Lũng Phày 3/9/1949 trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng. - Trận GM100 26/6/1954 An Khê trung đoàn 16 (Khu 5). Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2022, 04:42:02 pm 2. Tôi được trả nghĩa Bác Hồ Trước Cách mạng tháng 8/1945, thời Pháp thuộc tôi làm thư ký Sở Canh Nông Bắc Bộ - Tháng 10/1944, tôi hoạt động trong Đảng dân chủ Việt Nam (tại sở Canh Nông Bắc Bộ - 20 Lý Thái Tổ, Hà Nội) và tham gia hoạt động tiền khởi nghĩa, tham gia cướp chính quyền tại Hà Nội. Trong hàng ngũ của Viên chức cứu quốc, tôi được dự lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình. Tôi được nhìn thấy Bác Hồ và được nghe trọn vẹn bản Tuyên ngôn Độc lập mà Bác tuyên bố với đồng bào và thế giới. Từ một người dân mất nước, tôi đã trở thành công dân của một nước độc lập tự do vì có Đảng, có Bác Hồ. Năm 1946 đang làm thư ký thường trực ở Tổng hội viên chức cứu quốc, tôi xin tòng quân gia nhập Vệ quốc đoàn, để được trực tiếp tham gia đánh giặc cứu nước. Tôi được đi học ở trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn khóa I tại Sơn Tây - Ngày 26/5/1946 là ngày khai giảng khóa học. Bác Hồ với cương vị Chủ tịch nước đã lên dự lễ khai mạc và trao cho trường lá cờ thêu sáu chữ vàng "Trung với Nước - Hiếu với Dân". Đây là lần thứ hai tôi nhìn thấy Bác đúng vào lúc tôi mới bước chân vào con đường binh nghiệp. Cùng với 300 học viên, tôi đã được nghe Bác giảng cho bài học đầu tiên: Bác nói: - Trung với Nước, Hiếu với Dân là bổn phận thiêng liêng, là trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia của nước ta. Trung với Nước, Hiếu với Dân là đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Lợi ích cơ bản nhất, cấp thiết nhất của nhân dân lúc này là: "Độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc". "Phải hết lòng hết sức đấu tranh thật sự đặt lợi ích đó. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Phải yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội mình. Phải có đạo đức trí nhân dũng, cần kiệm liêm chính. Phải nhìn rộng, suy kỹ. Biết nuôi khí dân, biết định khí quân. Học phải đi đôi với hành, học để mà hành, hành để mà học. Học có hành mới có tiến bộ. Với cá nhân tôi, một thanh niên công chức "Xếp bút nghiên lên đường gia nhập Vệ quốc đoàn", được Bác bồi dưỡng cho bài học đầu tiên là một dấu ấn khó phai mờ, một hạnh phúc lớn khi bước vào cuộc đời binh nghiệp. Vào cuối tháng 2/1950, trung đoàn 174 đã có vinh dự tổ chức một hành lang an toàn cho một phái đoàn Trung ương đi công tác qua Cao Bằng sang nước bạn Trung Hoa. Phái đoàn lấy tên là phái đoàn Trần Đăng Ninh. Trung đoàn 174 phải bảo vệ tuyệt đối an toàn từ thị xã Cao Bằng qua đèo Mã Phục - Quảng Uyên đến cầu Tà Lùng (Phục Hòa). Khu vực tiểu đoàn 249 phụ trách thuộc địa phận Quảng Uyên đến giáp Phục Hòa, có nhiều đường tắt qua khe dãy núi đá mà bọn vượt biên buôn lậu hay qua lại. Dưới chân núi đá có làng, có hàng quán rải rác bán dọc đường. Người đi đường dừng chân thành các tụ điểm nghỉ ngơi đông người khó kiểm soát. Theo yêu cầu của bảo vệ, ngoài việc bố trí theo dõi, canh gác các đường tắt, cầu cống, còn phải có các tổ đóng giả người dân đi buôn bán, cán bộ đi công tác làm tổ cơ động trên mặt đường để kịp ứng phó với mọi tình huống khẩn trương. Nhận nhiệm vụ, tôi cứ phân vân suy nghĩ mãi. Phải là phái đoàn quan trọng của Trung ương. Có lẽ là đồng chí Tổng bí thư hoặc Thủ tướng hoặc là Bác Hồ đi ra nước ngoài chăng? Đồng chí Trần Đăng Ninh thì đầu tháng 2 (10/2) tôi vừa bàn giao cho đồng chí ấy phái đoàn La Quý Ba (Trung Quốc) ở Quán Vuông Chợ Chu (Thái Nguyên). Và cũng thật là tình cờ, có phần may mắn và có lẽ là một diễm phúc nữa: về chỗ đặt chỉ huy sở ở chân đèo, đang đứng quan sát người đi lại trên đường chỉ cách 50-60m thì tôi phát hiện: Một tốp 3 người mặc quần áo chàm - đầu đội mũ nan vành rộng, vai đeo ba lô bộ đội như đoàn cán bộ đi công tác. Cụ già có tầm thước cao, chiếc khăn mặt che mất bộ râu. Cụ già thấp hơn đi bên phải, khăn mặt khoác vai, tôi nhận ngay ra Cụ Cấp mà tôi có lần đã gặp ở hang Lam Sơn (bên cơ quan tỉnh ủy Cao Bằng). Người đi bên trái là một trung niên, tôi nhận ngay ra là đồng chí Hoạt phó Bí thư tỉnh ủy Cao Bằng. Thế cụ già đi giữa là ai? Mũ nan rộng vành che lấp cả vầng trán cao, khăn mặt che cả bộ râu và một nửa mặt nên tôi không thể nhận ra Bác được. Trong trí nhớ của tôi gợi lên một dáng người quen thuộc mà tôi đã gặp đâu đó. Thôi đúng rồi: dáng đi này chỉ có thể là Bác Hồ, Người đã đến khai giảng lớp học Võ bị Trần Quốc Tuấn, sau đó còn đến hai lần nữa dặn dò khi mãn khóa. Tôi vui sướng quá, vội gọi điện thoại cho anh An ở tiểu đoàn 251, thử xác minh xem tôi phát hiện có đúng không. Anh An sau đó cũng khẳng định với tôi là Bác Hồ có ở trong đoàn. Đến cuối 3/1950, khi về nước, Bác qua biên giới Tĩnh Tây - Trùng Khánh, ngủ đêm tại trung đoàn bộ 174. Được bảo vệ Bác qua Cao Bằng ra nước ngoài lần đầu sau Cách mạng tháng Tám là một vinh dự đối với tôi. Có chiến đấu ở 174, có hoạt động ở biên giới Cao Bằng mới có cơ hội này. Tôi coi đây không chỉ là nhiệm vụ cấp trên giao mà là một dịp tôi được trả nghĩa với Bác Hồ vì Bác dạy dỗ tôi khi theo con đường binh nghiệp. Tôi coi lời Bác dặn là kim chỉ nam cho hành động trong suốt cuộc đời binh nghiệp. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2022, 04:42:56 pm 3. Tôi có món quà tình nghĩa tặng thầy hiệu trưởng đầu tiên trong đời binh nghiệp. Năm 1944, khi là viên chức sở Canh Nông Bắc Bộ, tôi đã được đọc quyển "Trai nước Nam làm gì" của nhà giáo Hoàng Đạo Thúy. Thầy Thúy tham gia hoạt động Cách mạng trước 1945. Cách mạng tháng Tám thành công, năm 1946 thầy Thúy về làm Giám đốc trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khóa I mà tôi là học viên. Học viên chúng tôi được nghe Thầy giảng về binh pháp Tôn Tử, cha ông ta đánh giặc, được thầy giáo dục về lòng yêu nước, chí căm thù giặc và động viên chúng tôi lên đường khi bế mạc. Cuộc kháng chiến bùng nổ. Ra đơn vị chiến đấu, tôi ít có tin tức về Thầy. Trong chiến dịch Biên giới, tôi được gặp lại thầy Thúy lúc đó là Cục trưởng thông tin liên lạc xuống tham gia làm trưởng ban thông tin chiến dịch. Chiến dịch Biên giới thắng lợi (18/10/1950). Cuối tháng 11/1950, tôi đang cùng một bộ phận tham mưu trung đoàn làm nhiệm vụ bảo vệ thị xã Lạng Sơn (chống địch nhảy dù và bắn phi cơ địch) tại hang Phai Vệ (thị xã) thì nhận được điện thoại của chính ủy Chu Huy Mân: Cậu vào kho trung đoàn lấy 2 thùng thuốc lá ÊrinhMo gửi xe quân bưu về biếu anh Hoàng Đạo Thúy, Cục trưởng thông tin liên lạc. Thuốc là ÊrinhMo là thứ thuốc lá thái thành khoanh lát mỏng đựng trong hộp sắt tròn nhỏ - Khi hút bằng tẩu, thuốc có mùi thơm ngon. Gặp cơn nghiện, bọn lính Tabor nhai sống cho đỡ thèm. Anh Thúy nghiện thuốc lá, hút bằng tẩu. Anh Mân thời đó cũng nghiện thuốc lá. Anh Mân thông cảm với anh Thuý, có thuốc ngon nhớ đến bạn hiền. Vì thế gửi biếu anh Thúy 2 thùng (100 hộp nhỏ). Vào kho lấy thuốc, tôi chợt nảy ra ý nghĩ: nhân dịp này, lấy danh nghĩa ban tham mưu trung đoàn, tôi gửi thêm 2 thùng nữa. Tôi đưa về Ban thông tin trung đoàn 4 thùng, nhờ anh Hạc trưởng Ban thông tin khi có xe quân bưu Bộ xuống đưa và nhận công văn thì gửi về Cục biếu anh Thúy. Tôi vui sướng vì đã biểu thị được tình cảm của mình với Thầy hiệu trưởng đầu tiên khi tôi mới bước vào con đường binh nghiệp. Sự việc này tôi chưa hề nói với ai vì cho đó là một tình cảm nhỏ. Anh Thúy cũng chưa hề biết đã có người học trò, với tình nghĩa thày trò, gửi mấy hộp thuốc lá tình nghĩa tặng Thầy. Thầy Thúy đã ra đi ngày 28 Tết năm Giáp Tuất (1994), còn tặng lại con cháu bài thơ "Ngủ quên" và chúc Tổ quốc bền lâu với đất trời. 4. Tôi có cơ hội được chiến đấu trên mảnh đất quê hương vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh). Tôi sinh ra và lớn lên trên vùng quê Kinh Bắc, tại làng Thị Cầu, tổng Đỗ Xá, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Thời niên thiếu, tôi hay leo núi, tha thẩn đi bắt dế mèn, hái sim mua ở các núi Chu, núi Đèo, núi Dinh. Tục truyền núi Dinh làng tôi xưa kia là nơi đặt bản doanh của quân tướng nhà Lý chống lại quân Tống. Tại đây năm 1077, vào đêm chuẩn bị phản công quân Quách Quỳ ở bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu) đã vang lên bài thơ Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư của Lý Thường Kiệt. Xa quê đã 7 năm (1945-1951), mãi đến 12/1951 cùng Trung đoàn 174 tôi mới được trở về quê, vào sâu trong lòng địch, phá bình định, phát triển du kích chiến tranh, mở rộng căn cứ du kích vùng sau lưng địch tại Bắc phần và Nam phần Bắc Ninh. Tôi được tham gia chiến đấu cùng người dân và dân quân du kích quê tôi gần 2 tháng ở Bắc và Nam phần (15/12 - 26/2/1951). Người dân quê tôi ở vùng địch hậu bị địch o ép khống chế thành lập các làng tề, ban đêm phải kéo đèn treo cao ở 4 góc làng, phải đánh mõ thổi tù và để báo động, nhưng trong lòng vẫn theo Đảng, theo Bác Hồ. Đêm 17/12 trung đoàn 174 khi vượt qua đường 18 (Bắc Ninh đi Phả Lại) để vào trú quân ở bắc sông Đuống (xã Chi Lăng và Hưng Đạo), bộ phận đi sau của trung đoàn gặp xe tuần tiễu địch. Một bộ phận lạc đường, đi nhầm vào các làng tề. Chiến sĩ ta chưa quen hoạt động ở đồng bằng, không dám tiến sang phải hay sang trái, cứ tản ra giữa cánh đồng trống trải trong đêm tối, dùng ám hiệu tín hiệu tìm nhau. Được các tổ du kích địa phương đi tìm kiếm, những bộ phận đi lạc đường cũng về được vị trí trú quân trước khi trời hửng sáng. Đêm 22/12, trung đoàn 174 sử dụng tiểu đoàn 255 đánh Phố Mới không thành công. Ta bị 3 trận địa pháo địch: ở Bắc Ninh, Phả Lại và núi Pháo đài Đáp Cầu bắn vào đội hình bị thương vong, không dứt điểm được. Để chuẩn bị đánh Phố Mới lần thứ 2 (30/12/1951), ta phải tổ chức một trận địa cối 82 ly (6K) nhờ du kích dẫn đường vào sát làng Dủi (chợ Nội Doi) ngay nam Đáp Cầu bắn kiềm chế riêng trận địa pháo địch đặt ngay trên núi Pháo đài Đáp Cầu. Là tham mưu phó trung đoàn, lại là người địa phương, tôi cùng đại đội trưởng cối 82 ly theo du kích dẫn đường, ăn mặc quần áo nâu giả đi thăm đồng ven chân núi nhà thờ Rousselet - ven cánh đồng làng Thị Cầu quê tôi vào làng Dủi. Chúng tôi đi tìm trận địa xong, có phiên chợ nên vào chợ mua bán mấy mớ rau cỏ cầm tay coi như chợ về. Gặp người làng đi chợ - tôi được biết tin tức về gia đình - Mẹ tôi đã chết từ 5/1950 – Bố tôi theo em gái về quê vùng tề để sinh sống. Thế là vào trận Phố Mới lần 2, trung đoàn lại không thành công. Tôi có hai nỗi buồn: đơn vị về chiến đấu tại quê hương mình, trận đầu không thắng lợi, và được tin người mẹ sinh ra mình đã mất. Đêm 23/1/1952, trung đoàn cho 2 tiểu đoàn 249 và 255 bí mật vượt sông Thái Bình sang hoạt động ở Nam Sách, phối hợp với tiểu đoàn địa phương Bạch Đằng (Quảng Yên) trong một đêm 174 diệt 2 vị trí An Dật và Vạn Tải - diệt bốt quận lỵ (bốt Si), hỗ trợ cho bộ đội địa phương huyện diệt 23 bốt, tháp canh, giải phóng 2/3 huyện Nam Sách. Người dân nam phần Bắc Ninh quê tôi (khu vực Văn Thai - Kênh Vàng) đã chở các đơn vị của trung đoàn 174 vượt sông Thái Bình gió cả sóng lớn. Sau đó lại trở về nam phần Bắc Ninh trước khi trời sáng rõ. Trong khi 2 tiểu đoàn 249 và 255 sang Nam Sách thì tiểu đoàn 251 nhận nhiệm vụ đánh đồn Trạm Trai (huyện lỵ Thuận Thành). Đây là vị trí do bọn bảo chính đoàn đóng giữ, lực lượng có 2 trung đội, cách 200m có một bốt nhỏ do bảo an đóng giữ. Tiểu đoàn 251 do thời gian điều tra ngắn chỉ nắm được ngoại vi, trong tung thâm địch bố trí như thế nào, ta không nắm được. Theo lệnh Đại đoàn, cần phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính ở Hòa Bình vào dịp Tết Nhâm Thìn (1952), phải tiêu diệt đồn Trạm Trai trước 1 Tết. Hôm duyệt kế hoạch, tiểu đoàn trưởng Đinh Hồng Vũ (d251) ngại ngần chưa biểu lộ quyết tâm. Chính ủy đại đoàn 316 Chu Huy Mân chỉ huy bộ phận nhẹ đại đoàn xuống dự chỉ thị cho trung đoàn phải giúp đỡ tiểu đoàn 251 có đủ yếu tố chắc thắng, đừng để như trận Phố Mới. Trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt quay sang tôi chỉ thị: Ban tham mưu trung đoàn phải cung cấp bản sơ đồ vẽ tung thâm đồn Trạm Trai. Tham mưu phó Nguyễn Văn Khiếu cùng trung đội trưởng trinh sát Lý Long Quân do chị Nguyễn Thị Vân, nữ chỉ huy du kích Bùi Xá, ăn mặc cải trang thành người dân mang lễ vật đã vào nhà tên Chánh tổng Bảo An (một nhân mối của du kích Bùi Xá) đi điều tra tung thâm đồn Trạm Trai. Sau khi thuyết phục được tên Chánh tổng, hai người (Khiêu và Quân) đã leo được lên "Lô cốt" Bảo An nhìn vào tung thâm đồn Trạm Trai, vẽ sơ đồ và nghiên cứu cách đánh. Trung đội trưởng Lý Long Quân chỉ biết vẽ sơ đồ. Tham mưu phó phải vẽ một tả cảnh đồ bổ sung. Nhìn vào cảnh đồ vẽ, ta hình dung thấy rõ đồn hình chữ nhật: một lô cốt chính cao xây giữa là nơi đặt cơ quan chỉ huy và một vọng gác để bố trí trung liên quét vòng tròn và ra đường cửa đồn. 4 lô cốt ở 4 góc, cổng ra vào đi thẳng vào lô cốt mẹ. Phương án của tiểu đoàn đột phá vào lô cốt tây bắc. Tại sao không chấp nhận ý kiến của pháo binh đặt 2 khẩu pháo bắn vào lô cốt mẹ, xung kích đột phá vào theo đường cái theo cổng chính. Chiếm được lô cốt to, chiếm chỉ huy sở, sau đó từ giữa đồn tỏa ra chiếm các lô cốt ở 4 góc. Vừa nhanh vừa đỡ thương vong. Thời đó chúng tôi gọi cách đánh này là chiến thuật "nở hoa trong lòng địch". Đó là phương án do tham mưu của trung đoàn đề đạt, được trung đoàn trưởng chấp nhận. Đêm 26/1/1952 (tức 28 tháng Chạp Nhâm Thìn), sau 28 phút chiến đấu, ta đã tiêu diệt đồn Trạm Trai. Ta chỉ bị thương có 2 đồng chí, diệt và bắt sống 55 tên địch, thu toàn bộ vũ khí. Ta thu được hai nồi bánh chưng đang luộc dở (60 chiếc), hai con lợn đã mổ (mỗi con 60-70kg), kẹo bánh, đem về để liên hoan mừng chiến thắng vui Tết Nhâm Thìn. Được ở trong đội hình của trung đoàn Cao Bắc Lạng, tôi đã có cơ hội về trả nghĩa với quê nhà. Bốn tháng sống, chiến đấu trong vùng địch hậu Bắc Ninh và Hải Dương (12/1951 - 3/1952) tôi càng thấy rõ bản chất và sức mạnh của chiến tranh nhân dân - càng thấm thía câu nói của đồng chí Léo Phiguère, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp qua Biên giới (Cao Bằng (4/1950) vào thăm trung đoàn 174, đã nói: Chiến tranh du kích Việt Nam nằm trong bầu sữa mẹ, được nhân dân nuôi nấng đùm bọc, không kẻ thù nào khuất phục được (Trong trận đánh Trạm Trai nhanh gọn, ít thương vong, công lớn là của nữ chỉ huy du kích làng Bùi Xá Nguyễn Thị Vân). Trong trận chống càn Nghi An Cửu Cáp dân quân du kích đã chỉ cho bộ đội nên đánh vào sau lưng địch từ làng Thượng Vũ để phá cuộc càn (29/1/1952, tức mùng 2 Tết Nhâm Thìn). 198 thương binh của trung đoàn khi rút ra khỏi Bắc Ninh phải vượt qua đường 5 và đường sắt, đường số 18, qua sông Đuống, sông Cầu, an toàn ra vùng giải phóng, đều được dân quân du kích bảo vệ, khiêng cáng vượt an toàn từ hậu địch Bắc Ninh ra vùng tự do Bắc Giang. 55 năm đã trôi qua. Làng Thị Cầu quê tôi - xã Song Hồ (Thuận Thành) nơi xảy ra các trận đánh ngày 28 tháng chạp Nhâm Thìn (Trạm Trai) và trận chống càn ở Đông Côi (Nghi An - Cửu Cáp) đã trở thành hai xã anh hùng thời đổi mới. Nhân dịp kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Trung đoàn, tôi vẫn cảm thấy vinh dự, tự hào được chiến đấu dưới lá cờ của Trung đoàn Cao Bắc Lạng và cảm ơn trung đoàn cho tôi cơ hội trong kháng chiến chống Pháp được trả nghĩa với những người thân yêu nhất, với quê hương. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 08 Tháng Mười Hai, 2022, 04:48:11 pm THEO TRUNG ĐOÀN 174 TIẾN QUÂN VÀO ĐỊCH HẬU (1951-1952) HOÀNG LÊ VÂN1 Nhận lệnh trên, Đại đoàn 316 rời Lạng Sơn tiến vào địch hậu. Đường hành quân vô vàn khó khăn và nguy hiểm, phải vượt qua những cánh đồng đai trắng trống trải, qua các hệ thống tháp canh, đồn bốt dày đặc của giặc Pháp. Trên những đường 13, 18 chúng có hoả lực rất mạnh, chi viện cho nhau rất chặt, nếu phát hiện bộ đội ta. Vượt qua sông Thương, sông Cầu, sông Đuống, phương tiện đều trông vào dân. Trên đê các đồn, trạm địch có đèn pha, đêm đêm lia quét, bắn pháo sáng, kiểm soát trên bờ, mặt sông rất ngặt; phải vượt qua những cánh đồng chiêm trũng nước mênh mông, nước lầy lội, suốt đêm đông mưa phùn gió bấc. e174 xuống Hiệp Hoà (Bắc Giang), qua vành đai Phù Lỗ, tiêu diệt đồn La RiVê, bảo đảm cho e98 vào địch hậu an toàn. Ngày 15/12/1951, e174 tiến gấp vào Bắc Ninh đánh địch. Đồng bào Lạng Giang - Yên Dũng (Bắc Giang), Quế Võ (Bắc Ninh) sống bao năm dưới sự càn quét, chiếm đóng của địch, đã dùng những chiếc thuyền nan, bè chuối đơn sơ, những bát nước chè xanh cho đến cả nắm rạ nấu cơm để chở đón quân mình qua sông bằng cả tấm lòng tình nghĩa sâu nặng. d1 e174 hành quân xuyên đường đồng chiêm giữa đêm tối mịt mùng, có chiến sĩ ngã xuống vì rét. Bỗng cây gỗ làm cầu đang đi tụt xuống một đầu, đội hình ùn tắc. Đồng chí huyện ủy viên Gia Lương đi cùng chạy thốc lên, lao ngay xuống nước buốt, ghé vai nâng cầu. Bộ đội ngần ngại... thì đồng chí giục như ra lệnh: Các anh em đi nhanh, mặc tôi, nếu không pháo đồn nó bắn tới là nguy. Trung đoàn bộ e174 đang vượt đường 18 thì gặp xe tuần tiễu của địch, đội hình bị đứt. Tôi trong bộ phận trung đoàn trưởng Đặng Văn Việt, tham mưu phó trung đoàn Nguyễn Văn Khiếu bấm đèn pin loé ra bằng hạt ngô tìm lối chân, nhưng ruộng khô, trơ gốc mạ, không dấu vết... Thỉnh thoảng vài quả pháo sáng làng tề bay vọt lên phía xa xa rồi tắt ngấm, trời càng tối đen thêm. Tôi rút khẩu súng quay khỏi bao, Việt Hùng cũng làm theo, năm sáu người chụm lại gỡ bí. Cuối cùng trung đoàn trưởng Việt quyết định: Đồng chí Việt Hùng và một số chiến sỹ đi thẳng hướng này đến một làng tề2 "bắt cóc" một người để dẫn đường. Việt Hùng hăng hái nhận lệnh cùng một chiến sỹ đi luôn. Khoảng hơn 30’, thời gian trôi chậm chạp khiến mọi người như có lửa đốt. Thế rồi Việt Hùng và liên lạc đã đưa được một người đàn ông ngoài 50 tuổi tới. Chúng tôi yêu cầu dẫn đường tới H. Gần H chúng tôi trả người đó, không quên cảm ơn và xin lỗi việc làm bắt buộc này. Đội hình hàng một của cả một trung đoàn dài dặc đều tới đích an toàn, mỗi trung đoàn khoảng trên 2 ngàn quân3 được nhân dân dấu kín sau các luỹ tre làng, sát nách địch mà chúng không hay, không biết. Thật là “Rừng dân che bộ đội, rừng dân vây quân thù". Đêm 10/12/1951, tiếng súng mở màn chiến dịch nổ, e174 và e98 cùng các lực lượng vũ trang địa phương và đồng bào địch hậu tiến công địch, như thế chẻ tre, hàng loạt đồn bốt địch ở nam phần Bắc Ninh bị san phẳng. Đồn Thía (quận lỵ Lang Tài), đồn Phương Xá, Lạc Thổ (Hồ) v.v... tan tành. Địch tại Đạm Trai và nhiều nơi khác ra hàng. San bằng đồn Đồng Kỵ, diệt ác, phá tề. Cả vùng Tiên – Quế - Võ (Bắc Ninh) được giải phóng - Nam Sách, Bình Giang, Thanh Miện (Hải Hưng), Khoái Châu, Ân Thi, Tiên Lữ (Hưng Yên) được giải phóng. d9 chuẩn bị đánh đồn Vân Độ (Bình Giang), vùng này hàng trăm người bị chọc tiết, mổ bụng, moi gan, mọi phụ nữ bị hãm hiếp dã man, tất cả ông già, bà già, trẻ em bị tra tấn khốc liệt, hàng trăm người bị chặt đầu, bêu cọc, hàng trăm nóc nhà bị đốt phá, hàng nghìn gia đình trong cảnh màn trời chiếu đất. Tại bốt Ruối, chúng treo lủng lẳng hàng xâu dài tai người để uy hiếp đồng bào ta. Xung quanh bốt là cánh đồng phơi xương trắng. Chính sách của địch là: Cướp sạch, đốt sạch, giết sạch. Nhân dân vô cùng căm thù giặc, ngày đêm mong Đảng, Bác Hồ cho bộ đội vào giải phóng. Cán bộ, chiến sỹ nghe dân vạch tội ác của giặc mà cổ như nghẹn lại, lòng căm thù giặc càng sâu, quyết tâm giết giặc càng cao. Đêm 26/2/1952, d249 đã san bằng đồn Vân Độ. Đồng bào vô cùng phấn khởi, nô nức theo bộ đội thu chiến lợi phẩm, phá đồn. Những trận càn lớn do các Binh đoàn của địch số 1, 2, 3, 4, 7 thực hiện. Hai trung đoàn 174, 98 tổ chức chặn đánh mấy ngày, diễn ra nhiều lần tại cánh đồng Nghi An, Cửu Cáp (Bắc Ninh), diễn ra ở Bì Đổ, Ô Xuyên (Bình Giang - Hải Dương) vô cùng ác liệt. Cậy quân đông, có hoả lực dày, mạnh. Chúng đổ quân địch trên các trục đường, rải quân khắp cánh đồng, hình thành nhiều mũi, hợp vây quân ta vào giữa, phát huy mọi cỡ hoả lực, cho xe tăng bò sát ven làng bắn như đổ đạn, máy bay “Đầm già” vè vè lượn gần sát ngọn tre chỉ mục tiêu cho pháo. Những chiếc phi cơ Hen Cát đen trũi gầm rít, quần đảo lồng lộn nối nhau thả bom phá, bom napan lửa cháy, khói đen đặc quánh bụi đồi, tro than mờ mịt, cả không gian sôi réo ầm ầm, chớp bom loé chói liên tục, bầu trời như sập xuống muốn tước ra nứt toác, tiếng đạn cối, pháo, trung liên, súng trường thi nhau nổ. Mặt đất rung rinh chao đảo đất trời muốn vỡ vụn ra, co giật liên hồi. Quân ta nhễ nhại đẫm mồ hôi, mặt mũi nhọ nhem, áo quần sạm đen khói súng vẫn bình tĩnh trong đội hình chiến đấu đánh trả quyết liệt. Nhiều nơi ta đánh giáp la cà, đẫm máu giặc, giành giật từng đoạn luỹ tre, khúc hào. Bảy tám lần phi pháo, tăng địch liên tiếp đều không vào được làng. Ngược lại chúng phải trả giá rất đắt, trận đấu đẫm máu, lính Âu Phi chết như rạ khắp đồng. Trời tối, chúng vội vã rút lui đưa theo nhiều xác chết và lính bị thương. Tôi quên sao được đồng chí Kinh, người Cao Lan, là cán bộ tiểu đội, một mình tử chiến quyết giữ cổng làng Nghi An, đánh bật nhiều đợt xung phong của giặc trọn một ngày. Không được tiếp tế, đồng chí giữ vững cổng làng, lại còn cướp được trung liên của địch. Đầu tháng 2-1952, một tối thưa sao trời, gió đông nam hiu hiu thổi, mùi khét dầu xe tăng và khói đạn bom, mùi gây lợm thịt người cháy. Cái chết chóc cảm như còn rình rập đâu đây. Những đống tàn tro còn nghi ngút khói. Tôi ở trong phái đoàn của e174 đến thăm đồng bào Bì Đổ, Ô Xuyên vừa trải qua một trận càn khốc liệt trong ngày. Trước cảnh xóm làng trần trụi tan nát, tăng địch nghiền đi, trà lại, nhẵn như sân. Đồng bào đã tập trung ở giữa làng, ai nấy vẫn vững vàng, hằn căm uất còn hiện trên nét mặt. Mọi người nêu thắc mắc với phái đoàn: “Tại sao Trung đoàn không tới cứu để hàng trăm lính Pháp vây một phân đội nhỏ của ta ở đây suốt một ngày? Anh em chiến đấu rất hăng mà phải hy sinh gần hết, Chúng tôi đã khâm liệm, chôn cất ở đám ruộng cạnh làng, còn 3 anh em rút sang làng bên...”. Lính ngụy ở đây ai cũng thù ghét. Anh trung đội trưởng lệnh: Không bắn ngụy, để Tây tới thật gần, ăn chắc hãy nổ súng...”. “Bộ đội nhịn đói cả ngày đánh giặc, chúng tôi nấu cơm ở hầm mang ra tiếp tế nhất định không ăn, có phải khinh vùng tề chúng tôi chăng?...” Tất cả các câu hỏi dồn dập, hờn dỗi, bực tức, nghẹn ngào nhưng rất đỗi thân thương. Đồng chí Nguyễn Hữu An tiểu đoàn trưởng 249 thay mặt đoàn ân cần thăm hỏi, chia sẻ những mất mát đau thương và trả lời: “Vì các đơn vị khác đều phải đánh địch ở các nơi khác. Địch dùng một lực lượng rất lớn đổ quân bao vây định đè bẹp ta. Ngay từ phút đầu ta phải 1 chọi với 3, 4 tên nên không còn lực lượng chi viện.” “Vì giặc Pháp là kẻ thù chính cần phải tiêu diệt, còn ngụy quân là dân bị bắt buộc cầm súng làm bia đỡ đạn cho chúng. Ta thực hiện ngụy vận tất họ sẽ vác súng quay về với ta, gặp ta họ chỉ bắn vu vơ, do đó có lợi cho ta...” “Vì nhân dân ở đây bị đàn áp bóc lột 7 năm ròng, nay bộ đội lại lấy nữa của dân, dân đói, anh em không đành...”. Có nhiều tiếng nức nở khóc! Tim tôi đập mạnh, người nóng ran. Sau khi cám ơn, tạm chia tay với đồng bào, chúng tôi được cán bộ đảng viên ở đây đưa đến nơi an táng các chiến sỹ hy sinh trong ngày. Dưới bờ tre thui trụi là một đám ruộng lõm vào rìa làng có 17 ngôi mộ đều được đắp đất cao, nện bù cẩn thận, trên mặt mỗi mộ đặt ba nấm cỏ ngay ngắn mới tinh, 17 mộ xếp thẳng hàng vuông vức hiên ngang như phân đội lúc sinh thời xếp hàng tuyên thệ dưới lá quân kỳ. Mỗi mộ trên cắm ba nén hương đen cháy gần hết, khói còn bảng lảng quanh bờ luỹ như muốn nói gì với người sống về trận chiến đấu trong ngày. Chúng tôi bỏ mũ cúi đầu mặc niệm, vĩnh biệt 17 đồng đội thân yêu. Tuy chẳng có nghi lễ gì mà sao trang nghiêm mà xúc động đến thế. Từng đôi vào một, một số đồng chí trong đoàn và mấy đồng chí địa phương rung lên, chúng tôi đã khóc, khóc vì thương đồng đội tuổi đời còn rất trẻ đã sớm anh dũng hy sinh; khóc vì cảm động trước lòng yêu thương của đồng bào địa phương dù khốc liệt đến vậy, chỉ một thoáng đã chôn cất con em mình "mồ yên, mả đẹp". Nhân dân vùng Ô Xuyên - Bì Đổ lấy ngày chống càn thắng lợi (28-2-1952) là ngày Giỗ Trận để tưởng nhớ anh em tiểu đoàn 249 đã ngã xuống trên mảnh đất Ba Bì. Nhân dân đã xây một nghĩa trang liệt sĩ trong đó có 33 đồng chí của ta (có đồng chí Quang - người Nhật - là đại đội phó trợ chiến) cùng du kích và nhân dân địa phương đã hy sinh trong trận chống càn. Chỉ tiếc rằng cả 33 ngôi mộ đều không có tên!... __________________________________________ 1. Nguyên Chính trị hiệp lí viên Ban TM-CT e174. 2. Làng tề: giặc Pháp đặt chính quyền tay sai. 3. e98 và e174 vào địch hậu còn e176 ở Bắc Giang bảo vệ phía sau. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2022, 10:54:11 pm KỶ NIỆM ĐẦU TIÊN PHAN THANH TÙNG1 Khoảng đầu tháng 2 năm 1952, sau Tết âm lịch Nhâm Thìn, tôi đang công tác ở Trung đoàn 246 thì được triệu tập về gặp Bộ tư lệnh đại đoàn 316 ở Phỏng (Hữu Lũng - Lạng Sơn). Về đến Phỏng, được báo tin sáng hôm sau tập trung ở hang Phỏng, đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba sẽ đến thăm và nói chuyện. Chúng tôi có hơn 10 anh em ở các đơn vị được triệu tập về đã có mặt đông đủ từ sớm tại địa điểm quy định. Tuy không nói ra, nhưng ai cũng phấp phỏng chờ đợi và dự đoán là sẽ được nhận nhiệm vụ mới. Chừng 8, 9 giờ sáng (ngày nào tôi không nhớ cụ thể) thì anh Ba đến, mọi người đứng dậy vỗ tay đón chào Anh. Sau khi hỏi thăm sức khoẻ và chuyện đi đường của chúng tôi, anh bắt tay vào việc nói chuyện diễn biến tình hình trên chiến trường, chủ yếu là nói về chiến dịch Hoà Bình, về cuộc chiến tranh du kích ở vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nói về âm mưu của địch và chủ trương sắp tới của ta. Cuối cùng anh nói: "Bộ chỉ huy mặt trận quyết định triệu tập các anh về bổ sung tăng cường cho các đơn vị thuộc đại đoàn đang hoạt động trong vùng địch hậu". Anh còn nói: "Đưa cả một đội quân chủ lực lớn vào địch hậu là rất khó khăn, nhưng được nhân dân và chính quyền địa phương giúp đỡ, ta có thể khắc phục được khó khăn đó, hoàn thành nhiệm vụ". Rồi anh ngừng lời nhìn chúng tôi và hỏi: "Các anh có ý kiến gì không?" Chúng tôi đồng thanh đáp: "Không ạ" Anh Ba chúc chúng tôi sức khoẻ và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cuộc gặp của anh Ba với chúng tôi diễn ra nhanh gọn. Ra về ai nấy đều phấn khởi, nhưng trong lòng không khỏi có chút suy tư. Nghĩ lại lúc anh Ba hỏi, cả đoàn đang khí thế nên trả lời "không ạ"... Thực ra, chúng tôi là lính chủ lực, thường đánh trận xong lại rút về hậu cứ ở vùng tự do chỉnh huấn, nghỉ ngơi... Nay anh Ba lại nói vào hoạt động trong địch hậu dài ngày, nơi địch còn đang kiểm soát, nhân dân còn bị kìm kẹp, thật chưa hình dung hết: bộ đội ta đã sống và chiến đấu ở đây ra sao? Hai hôm sau, chúng tôi về tiểu đoàn huấn luyện của đại đoàn nhận tân binh đưa vào bổ sung cho các đơn vị đang chiến đấu của đại đoàn tại vùng địch hậu Bắc Ninh. Tôi được ở đoàn về bổ sung cho trung đoàn 174. Khi chúng tôi bàn giao xong tân binh cho quân lực trung đoàn thì cũng là lúc trung đoàn 174 chuẩn bị vượt đường 5 sang Bình Giang (Hải Dương). Tôi được phân công về tiểu đoàn 255. Khi về đến tiểu đoàn bộ cũng là lúc đơn vị sắp hành quân. Anh Lê Hoàn tiểu đoàn trưởng và anh Lê Vũ chính trị viên tiểu đoàn, trao đổi với nhau, thống nhất là tạm để tôi đi cùng tổ trinh sát của trung đoàn và anh Biên là quân khí trung đoàn, về nơi trú quân mới sẽ bổ sung tôi về đại đội 925 do anh Long Hưng là đại đội trưởng và anh Quốc Hồng là chính trị viên. Sau bữa cơm chiều, chạng vạng tối thì đơn vị hành quân từ Thuận Thành (Bắc Ninh), vượt đường 5 sang Bình Giang (Hải Dương), đoạn giữa thị trấn Cẩm Giàng và bốt Ghẽ. Tiểu đoàn bộ đi sau đại đội 925, và sau tiểu đoàn bộ là một toán dân công gánh gạo và đạn. Đêm ấy tối trời nhưng có sao, trời không mưa. Đoàn quân đi một hàng dọc dài như con rắn khổng lồ ngoằn ngoèo theo đường ruộng hướng về đường 5. Xa xa thỉnh thoảng có 1, 2 viên pháo sáng bắn lên trời và vài ba phát đạn súng trường bắn vu vơ như để trấn an tinh thần bọn lính gác ở mấy đồn gần đó. Đang đi thì có tiếng hô khẽ truyền từ phía trên: "Nằm xuống". Chúng tôi vừa kịp nằm thì nghe tiếng sèn sẹt của bánh xe sắt lăn trên đường tàu hoả. Thì ra chúng tôi đã đến sát đường tàu hỏa Hà Nội - Hải Phòng. Hú vía, chiếc xe goòng của địch đi tuần trên đường sắt vừa chạy qua không phát hiện ra chúng tôi. Chúng tôi hành quân tiếp, sang bên kia đường tàu. Bên kia đường tàu là cánh đồng bằng phẳng có con đường nhưng nhỏ. Thế là đoàn người ai đi nhanh thì vượt lên, không còn theo thứ tự như trước... Và rồi, tuy tối trời nhưng chúng tôi cũng nhận ra con đường 5 trước mặt. Nó không cao hơn ruộng bao nhiêu, chạy dài từ đông sang tây, nằm đen sì trên mặt ruộng đã gặt hái chỉ còn trơ gốc rạ, phẳng, rộng mênh mông, lúc đó đã phủ một lớp sương trắng mờ, mỏng. Khi chúng tôi cách đường khoảng mươi mét thì có mấy loạt đạn trung, đại liên bắn từ phía bốt Ghẽ về huớng chúng tôi. Tiếng nổ đanh, đạn đi xé không khí nhưng ở trên cao. Không ai bảo ai chúng tôi chạy vượt nhanh qua đường 5 sang cánh đồng bên kia. Trời về khuya, sương càng dày đặc hơn. Qua đường rồi, toán chúng tôi bị cắt khỏi đội hình tiểu đoàn, bởi toán dân công chạy lung tung chen ngang. Cũng đúng lúc này, chúng tôi nghe thấy tiếng trống, tiếng mõ của những làng gần đó nổi lên. Sau này chúng tôi được biết: đó là quy định của địch. Khi có Việt Minh tới thì các làng tề phải nổi tiếng mõ báo động. Lúc đầu chỉ một làng phía trái hướng Cẩm Giàng có tiếng mõ, sau thì cả trước mặt và bên phải cũng có tiếng mõ đánh lên... Toán chúng tôi may mắn còn trụ lại với nhau được 6 người: anh Biên quân khí trung đoàn, 4 anh em trinh sát và tôi. Đi về hướng nào cũng gặp làng tề, còn phía sau là đường 5. Đã nửa đêm về sáng lúc này chúng tôi đã thấm mệt. Chụm lại, chúng tôi bàn cách xử trí. Cậu Húy tiểu đội trưởng trinh sát đề nghị: bây giờ hãy tìm một chỗ trú tạm, khi trời sáng rõ, ta sẽ tìm đường hướng đi an toàn hơn. Bây giờ trời tối mù sương, lại bị xung quanh tề nổi tiếng mõ, khó tìm đường hướng thoát ngay được. Anh Biên và tôi thấy hợp lý, đồng ý ngay và chỉ gò đất có lùm cây to ở cách bên phải chỗ chúng tôi đứng chừng mươi mét lấy làm nơi nghỉ tạm. Tới gò đất, chúng tôi cử một cậu trinh sát thức canh gác, còn thì tìm các bụi cây chui vào ngủ. Chợp mắt được một lúc, tôi bỗng nghe có tiềng ì... ì... như xe ô tô chạy, mở mắt nhìn quanh thì thấy cậu Húy nằm gần tôi lúc này cũng đã thức giấc. Tôi bò lại và nói: "Này Húy, có lẽ đây gần đường ô tô". Húy vươn vai ngáp và nói: "Để tôi quan sát xem"... Trời rạng sáng dần, tuy còn mù sương nhưng tôi và Húy đã nhìn rõ hình dáng mấy chiếc ô tô mờ đen đang chạy trên đường. Húy như chợt nhớ ra: "Thôi chết, đúng là đường 5 rồi! Đêm qua, bọn mình đi thế nào lại vòng lại đường 5!" Húy ước chúng tôi đang ở cách đường 5 chừng 400 - 500 mét. Tôi gọi anh Biên dậy, đang định trao đổi với anh thì cùng lúc đó, chúng tôi nghe thấy tiếng một đứa trẻ kêu: "Tụi bay ơi! đây có người chết". Thì ra ở lùm cây cuối gò cậu trinh sát được phân công gác cũng mệt quá ngủ quên, đầu rúc vào bụi nhưng chân thò ra ngoài. Lũ trẻ chăn trâu trông thấy kêu rồi bỏ chạy về phía làng. Thấy có khả năng bị lộ và có thể bị vây bắt, chúng tôi nhất trí nhanh chóng chôn vũ khí, tài liệu và thống nhất nếu bị tra hỏi, chỉ khai là dân công đi theo Việt Minh, đêm qua bị phục kích ở đường 5, mệt quá trú ở đây để sáng tìm đường về quê (ngày ấy chúng tôi và địch hậu thường mặc quần áo nâu cải trang như dân). Sau khi làm xong việc chôn vũ khí, tài liệu thì trời đã sáng tỏ. Chúng tôi ngồi chụm vào một chỗ... Và điều không chờ đợi đã đến. Làng tề phía trước hướng Cẩm Giàng nổi lên một hồi trống mõ. Sau đó một toán người cầm gậy gộc, dao, theo mấy em bé chăn trâu lúc nãy đi về phía chúng tôi... Người trong làng kéo ra mỗi lúc một đông thêm... Đứng đối diện với chúng tôi là những người cầm gậy gộc và dao. Một người tuổi trung niên trong số họ, mặc bộ đồ kaki của lính dõng, tav cầm dao quát: "Việt Minh! Các anh là Việt Minh, chúng tôi phải bắt giải lên đồn, theo lệnh quan...". Nghe họ nói như vậy, tôi và anh Biên đều kêu lên: "Chúng tôi là dân công, không phải Việt Minh...". Anh Biên nói tiếp: "Đêm qua Việt Minh bắt chúng tôi gánh gạo và đạn cho họ, qua đường 5 bị Tây phục kích, chúng tôi bỏ chạy, định tìm về quê thì bị lạc đường..." Có tiếng người nói: "Cứ bắt gửi lên bốt Cẩm Giàng, các quan Tây đánh đòn săng tan thì biết có phải là Việt Minh hay không?"... Vừa lúc đó chúng tôi thấy 3, 4 bà đứng tuổi và một số chị em phụ nữ từ sau đám đàn ông chen lên phía trước, dãn ra như làm một hàng rào ngăn giữa chúng tôi và những người cầm gậy gộc, dao kia. Một bà nói: “Việt Minh gì họ, mẽ kia thì chỉ là dân làm ruộng, thôi tha cho người ta đi..." Một bà khác cũng nói: "Đưa lên Cẩm Giàng thì xác cũng không còn. Thôi, người ta cũng có gia đình vợ con, để người ta đi đi..." Người đứng phía sau chen lên mỗi lúc một đông hơn. Nhân lúc lộn xộn đó, tôi nói: "Xin cám ơn bà con, chúng ta đi đi..." Nói xong tôi đã thấy Húy và mấy cậu trinh sát quay về cánh đồng hướng đối diện với đường 5 mà chạy, tôi và anh Biên cũng chạy theo. Chạy một quãng nhìn lại, thấy có vài ba người đuổi theo, nhưng được một đoạn thì họ cũng quay lại. Chạy một lúc thì chúng tôi đến một bờ sông nhỏ (sau này chúng tôi mới biết đây gần bến đò Náo, bên kia là đất Bình Giang). Tới đây đang loay hoay tìm cách vượt sông thì thấy có một chiếc thuyền nhỏ trên đó có một ông già và một em bé chừng 13, 14 tuổi. Mừng quá, chúng tôi nói: "Xin cụ cho chúng cháu sang sông". Ông cụ nhìn chúng tôi rồi trả lời: "Thuyền tôi không chở được…" và định quay đi. Anh Biên nói: "Chúng cháu là bộ đội, bọn tề dõng... đuổi chúng cháu". Bỗng ông cụ hỏi: "Chở, nhưng có tiền không?". Tôi nói "Chúng cháu không có tiền Đông Dương, chỉ có tiền Cụ Hồ thôi..." (Tôi nói thật vì vừa ở vùng tự do vào chưa được phát tiền Đông Đương để tiêu trong vùng địch hậu). Cậu Húy nói: "Thôi, chúng mình đành lội sông vậy" rồi cùng mấy cậu trinh sát đi ra phía sông. Ông cụ lái đò đăm chiêu nhìn chúng tôi một thoáng rồi nói: "Thôi được, ba người một lần, xuống thuyền đi!". Chúng tôi lần lượt sang sông. Chuyến thứ hai vừa cặp bờ, thì cũng vừa lúc đó có 3 anh bộ đội và một chị phụ nữ đi tới. Một đồng chí bộ đội nhìn thấy chúng tôi reo lên: "Đây rồi... các anh ấy đây rồi..." Thì ra đấy là 2 anh liên lạc của tiểu đoàn bộ và một anh trinh sát đi trước, được anh Lê Hoàn cử đi tìm chúng tôi. Chị phụ nữ đi cùng là du kích xã, được xã đội cử đi theo. Chúng tôi cám ơn cụ già và em bé rồi bước lên triền đê. Chị phụ nữ còn đứng lại nói chuyện gì thêm với cụ già không biết, nhưng thấy cả hai người cười vui vẻ. Về đến đầu làng, nơi tiểu đoàn bộ đóng, đã thấy anh Hoàn, anh Vũ đứng đó. Anh Vũ nói: "Tưởng mất các cậu, chúng tôi lo quá... " Anh Hoàn vui vẻ đùa: "Chắc các cậu muốn ở lại du ngoạn đường 5 à..." Chúng tôi đều cười, trong không khí đầm ấm của những người anh em đồng đội ruột thịt. Đêm hôm ấy, toán chúng tôi lại được chị du kích dẫn về cái gò đất mà chúng tôi đã trú ngụ đêm qua để đào lấy súng và tài liệu đã cất giấu. Dọc đường, chị du kích nói chuyện cho chúng tôi biết: Tuy đây là vùng tề sau lưng địch, nhưng dân rất tốt, vẫn hướng về kháng chiến, hết lòng ủng hộ, bảo vệ cán bộ, bộ đội. Ông cụ chở đò sáng nay cũng là du kích, lúc đầu thử thách các anh thôi. Trên đây chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng nó ghi lại sâu đậm trong tôi kỷ niệm không bao giờ quên: đó là lúc anh Lê Quảng Ba giao nhiệm vụ cho chúng tôi ở hang Phỏng; là thái độ chăm lo thân tình của anh Lê Hoàn và anh Lê Vũ, những người thủ trưởng đầu tiên của tôi ở trung đoàn 174; là lòng yêu nước và những cử chỉ cao đẹp của những người dân ở vùng địch hậu ven đường 5 (Cẩm Giàng, Bình Giang - Hải Dương). ___________________________________________ 1. Nguyên cán bộ tác huấn Trung đoàn 174. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2022, 10:55:54 pm TÔI ĐÃ BẾ ANH BẾ VĂN ĐÀN TRÊN TAY NGUYỄN TRỌNG QUỲNH - LÊ THỊ ĐlỀN Gương liệt sĩ Bế Văn Đàn, người anh hùng lấy thân mình làm giá súng đã đi vào trang sách các em thơ, những bài hát về Bế Văn Đàn và những tên phố, tên trường vẫn là bài học truyền thống sâu sắc đối với thế hệ trẻ. Đồng chí Nguyễn Trọng Quỳnh (trích một đoạn trong chuyện anh Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng) nhớ lại những giây phút ác liệt ấy như sau: "Tôi nhìn thấy thân hình Đàn nằm lộ hẳn trên công sự giữa tầm đạn. Tôi vô cùng lo lắng cho tính mạng của Đàn. Lúc này hàng ngũ địch đang lộn xộn, chúng bắn trả càng dữ dội hỏa điểm của Pù và Đàn bị lộ. Từng loạt đạn đại liên bắn xả, nhưng khẩu trung liên trên lưng Đàn vẫn giòn giã nhả đạn. Anh ngước mắt nhìn lên nói với Pù, là xạ thủ trung liên đang kề súng trên vai Đàn: "Pù bắn mạnh vào!". Bỗng một viên đạn của địch bắn trúng loa chắn lửa làm khẩu trung liên văng về một bên. Đàn lại lôi súng kề lên lưng. Ngay lúc ấy, một viên đạn khác đã xuyên qua vai Đàn. Anh kêu lên rồi từ từ gục xuống, khẩu trung liên ngã về một bên, máu trên vai Đàn chảy ướt đẫm một bên áo. "Đàn, Đàn ơi, có việc gì không?". Pù kéo Đàn xuống thì thừa cơ bọn địch lại gào lên "A la xô". Nghe tiếng nói của bọn khát máu, Đàn lại nhoai lên mắm môi nheo mắt, lấy hết sức cố nhỏm người lên nói: "Kê lên Pù! Kê lên, quyết chiến đấu tiêu diệt chúng. Đảng kêu gọi chúng ta". Trên lưng Đàn, tiếng trung liên lại nổ rền. Mặt Đàn tái dần, lưng máu đầm đìa. Anh Quỳnh nói tiếp: Lúc ấy là 12 giờ 30 phút, tôi nhẩy lên cùng Pù vực Đàn xuống ven suối, mắt Đàn từ từ mở rồi nói nhỏ dần: "Giá tôi không mắc khuyết điểm ấy, thì tôi cũng được vào Đảng rồi đấy Bí thư nhỉ?". Nghe Đàn nói, tôi run cả người. Tôi ôm chặt Đàn vào lòng rồi muốn gào thét lên để Đàn nghe rõ: "Đồng chí Đàn yêu quý! Tôi thay mặt Đảng tuyên bố kết nạp đồng chí Bế Văn Đàn vào Đảng Lao động Việt Nam từ giờ phút này. Đồng chí Đàn hãy nhận lấy danh hiệu vinh quang của Đảng". Đàn dùng hết hơi sức ôm chặt lấy tôi và nói: "Tôi! Tôi được kết nạp Đảng!". Đàn ngả lưng và thiếp đi, ngực và một bên áo của tôi ướt đẫm máu người anh hùng Mường Pồn. Sau trận đánh đó, đồng chí Chu Huy Mân lúc ấy là Chính ủy đại đoàn 316 đã gọi đồng chí Quỳnh lên làm việc và hỏi rõ chi tiết việc kết nạp Đàn tại trận địa. Mức khen thưởng cho Đàn do đơn vị đề nghị là Huân chương chiến công hạng nhất. Sau nâng lên Huân chương quân công hạng ba. Đồng chí Nguyễn Trọng Quỳnh bồi hồi xúc động kể lại: "Đáng lẽ kết nạp Đàn trước ngày đi chiến dịch. Tất cả các thủ tục, nguyên tắc đã làm xong, nhưng chi bộ nhất trí để lại sẽ kết nạp trong chiến đấu, vì ngày ấy Đàn quá nhớ mẹ nên đã bỏ về thăm mẹ vài ngày trước khi đi chiến đấu. Lễ kết nạp tại trận địa không có cờ Đảng, không có bàn thờ Tổ quốc nhưng thật thiêng liêng. Tất cả đồng đội của Đàn được chứng kiến lễ kết nạp đó như một hiệu kèn xung trận cổ vũ mọi người bước vào cuộc chiến đấu mới". Sau trận này, đồng chí Quỳnh được đề bạt lên chính trị viên phó tiểu đoàn 251 của trung đoàn 174. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ và sau kháng chiến chống Pháp, đồng chí Quỳnh được cử đi học ở học viện Ki-ép Liên Xô. Sau khi đi học về, đồng chí Quỳnh ở đơn vị tên lửa làm nhiệm vụ ở miền Bắc, đến 1973 lại được cử vào miền Đông Nam Bộ. Sau ngày giải phóng miền Nam, năm 1978, anh ra Bắc làm hiệu phó Trường sĩ quan lục quân I cho tới khi nghỉ hưu. Trên đây là trích đoạn của "Chuyện nói về anh hùng Bế Văn Đàn" do đồng chí Nguyễn Trọng Quỳnh viết và kể lại năm 1959. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2022, 10:58:42 pm NHỚ LẠI MỘT VÀI KỶ NIỆM TRONG TRẬN MƯỜNG PỒN LÊ THỊ ĐIỀN Cách đây 49 năm, tôi là y tá quân y của đội điều trị thuộc Đại đoàn 316. Trên đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ, trong cái đêm đơn vị tôi đang hành quân bình thường thì có lệnh của trên: đơn vị quân y của chúng tôi phải tăng tốc độ để kịp phục vụ thương binh của một đơn vị đang truy kích địch. Vì vậy trong đêm hành quân ấy, chúng tôi đã có lúc hầu như vừa đi vừa chạy. Lệnh trên giao phải bằng mọi cách đến kịp để phục vụ thương binh. Đồng thời trong đêm hành quân ấy cũng là lần đầu tiên chúng tôi gặp máy bay địch thả pháo sáng nên cũng sợ. Lúc đầu thấy sáng còn ẩn nấp, nhưng sau trên nhận định bọn địch nó chỉ làm cản trở quân ta đang truy kích chúng thôi. Vì vậy lệnh của trên: chỉ khi nào có oanh tạc mới được ẩn nấp, nên đơn vị vẫn tiếp tục hành quân. Đến mờ sáng, Quân y chúng tôi đến kịp để tiếp nhận thương binh của trận Mường Pồn. Chúng tôi ở dọc hai bên khe suối, lúc đó chưa kịp làm lán. Vì vậy, chúng tôi vừa phục vụ thương binh vừa phải thay nhau lên rừng chặt cây làm lán và cắt lá chuối rừng tươi che lán cho thương binh. Những ngày ấy chúng tôi phục vụ thương binh không kể ngày đêm, chỉ thay nhau tranh thủ ngủ một vài tiếng. Khi ngủ, chúng tôi cũng không có lán mà chỉ lấy vài cây que và lá rừng trải xuống đất bên bờ suối. Trời có lúc mưa to, song vì quá mệt cũng ngủ thiếp đi, khi thức dậy quần áo ướt đẫm, nhưng xong lại tiếp tục phục vụ thương binh. Trong trận Mường Pồn ấy, anh Vũ Thế Châu đại đội trưởng đại đội 674 cũng bị thương về Quân y chúng tôi điều trị cùng nhiều thương binh khác của đại đội 674 có người anh hùng Bế Văn Đàn. Sau chiến thắng Mường Pồn, quân y chúng tôi có thương binh nên cũng được ưu tiên một số chiến lợi phẩm như: thịt lừa, thịt ngựa và một số hoa quả tươi như cam, quýt, và gạo nếp cho thương binh. Đặc biệt, mấy chị em nữ quân y cũng được ưu tiên mấy quả chanh tươi để gội đầu. Sau trận Mường Pồn, chúng tôi lại tiếp tục đi phục vụ thương binh đến hết chiến dịch Điện Biên hoàn toàn giải phóng. Còn tôi lại được phân công vào một tổ phẫu thuật ra trận địa Điện Biên để phối hợp với Quân y đại đoàn 308 và đại đoàn 312 cùng một số đội điều trị khác để làm nhiệm vụ điều trị cho 2500 thương binh Tây để chuẩn bị trao trả tù hàng binh. Trong thời gian 15 ngày ấy ở trận địa Điện Biên, chính phủ ta quy định cho bên đối phương không được oanh tạc trong phạm vi 15km đường bán kính. Suốt chiến dịch quân y chúng tôi ở tiền phương toàn phục vụ thương binh ở dưới hầm. Sau chiến thắng, chúng tôi không phải ở dưới hầm nữa mà lấy dù căng làm lán cho cả thương binh địch với thương binh của chúng ta. Lúc đó, chúng là quân bại trận và ta là quân chiến thắng, vì vậy, khi Quân y bọn tôi đến khám bệnh cho thuốc trong lán của chúng, thằng sĩ quan nào cao nhất là hô quân chào. Chúng gọi chúng tôi là đốc-tờ Việt Minh với thái độ kính trọng. Sau 15 ngày, tôi lại tiếp tục hành quân về đồng bằng, hành quân bộ từ Điện Biên về Thanh Hóa không hề có một phương tiện nào khác. Sau kháng chiến chống Pháp, tôi được đi học ở Cục Quân y. Tới những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc tôi vẫn ở quân y, tới năm 1989 tôi nghỉ hưu. Hiện tại tôi là Hội viên Hội Cựu chiến binh phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2022, 11:01:07 pm EM BÉ ẤY BÂY GIỜ Ở ĐÂU? TRẦN VĂN NHÀN1 Tại một địa điểm tập kết, Trung đoàn được báo tin: địch bỏ Lai Châu rút về Điện Biên Phủ để bảo toàn lực lượng. Trung đoàn được lệnh khẩn trương lên đường chặn địch và chọn Mường Pồn làm mục tiêu để tiếp cận. Chúng tôi không hành quân theo đường mà đi tắt qua đồi và suối cạn để tiến quân. Qua 5-6 giờ hành quân thì được trinh sát phía trước báo về: đã phát hiện một con đường mòn có dấu vết người ngựa vừa đi qua. Trung đoàn phán đoán địch đang rút theo đường mòn từ Lai Châu về Điện Biên; và lệnh cho tiểu đoàn 1 đi trước triển khai đội hình đánh địch trong vận động. Sau khi nổ súng, ta tiêu diệt và bắt sống một số tù binh và chiếm lĩnh một số cao điểm gần bản Mường Pồn. Qua khai thác tù binh, ta biết số địch chạm trán với ta là ở trong đội quân rút lui từ Lai Châu về và đang đóng trong bản. Trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 1 tiếp tục dùng hỏa lực chi viện cho bộ binh xung phong chiếm lĩnh hoàn toàn bản Mường Pồn. Tôi đi theo anh Nguyễn Hữu An - Trung đoàn trưởng nhanh chóng xuống bản thì thấy toàn cảnh binh lính địch kẻ chết người bị thương nằm la liệt trong các hầm nửa nổi nửa chìm. Trong một hầm có tên lính đang quằn quại hấp hối, lắp bắp cầu xin gặp Chỉ huy của ta. Cạnh tên lính có một em bé khoảng 6-7 tháng tuổi đang khóc ngằn ngặt. Chúng tôi vội bước tới hầm thì thấy tên lính ra hiệu xin chỉ huy của ta cứu lấy đứa bé rồi lịm dần. Cảm thấy đứa bé vô tội nên chỉ huy đã chấp nhận cho bế đứa bé lên khỏi hầm và giao đứa bé cho đồng bào trong bản chăm sóc nuôi dạy. Thấm thoát đã 50 năm trôi qua, chúng tôi chưa có dịp trở lại Mường Pồn. Nếu còn sống thì đứa bé đó cũng 50 tuổi rồi, nhưng hiện sống ra sao? Vậy qua hồi ký này, đề nghị đồng bào ở bản Mường Pồn tìm hiểu và cho biết cháu bé năm xưa hiện sống ở đâu và sống thế nào. Xin liên hệ với ông Trần Văn Nhàn, 69 Hàng Đường, Hà Nội, điện thoại: 04.8283236. Xin cảm ơn. ______________________________________________ 1. Nguyên trưởng ban tác chiến e174. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2022, 11:05:11 pm GIAN KHỔ TRÈO ĐÈO, LỘI SUỐI TÌM DẤU VẾT ĐỊCH THÁO CHẠY (30-11-1953) (trích hồi ký) TRẦN QUỐC TƯỜNG ... Tiểu đoàn được lệnh tiến ra Nậm Nầm và Sôp Nhôm truy kích địch vừa chạy ở Mường Pồn ra và bốn đại đội địch chạy ở Lai Châu về Nậm Nầm. Đồng chí Dũng Chi trực tiếp phụ trách đại đội 671 về hướng đi Mường Nhé. Tôi được phân công trực tiếp đi cùng đại đội 673 đi về hướng Nậm Nầm. Hai trung đội của C673 đi trước cùng đại đội Hùng Tân. Tôi và 1 B của đại đội đi sau. Hướng địch chạy không biết, chỉ lần theo dấu vết của địch bỏ lại dọc đường. Hôm đầu đi mãi gần hết buổi sáng quanh đi quẩn lại lại ra đường cái Lai Châu - Mường Pồn. Có liên lạc của đại đội 673 của Hùng Tân về báo cáo và dẫn đường. Tôi và trung đội của 673 lại ra đi giữa đêm sương lạnh buốt. Lội suối, trèo đèo, lắm chỗ phải rẽ cỏ gianh, trượt dốc cao, cứ lê đít xuống mà trượt. Gần sáng đến Nậm Ty, một bản nhỏ nằm ở dưới thung lũng. Hỏi người dân mới biết đại đội Hùng Tân mới đi từ buổi chiều hôm ấy. Đêm nay bộ đội phải ngủ ngoài trời, mưa rét. Sáng hôm sau lại lên đường. Trời mưa, đường trơn, vừa đi vừa phải cuốc bậc để lên hoặc xuống. Đến một bản đã cháy bỏ hoang tàn thì gặp một con suối lớn. Thấy có một tấm biển đề "Có cá đã ném, đơn vị nào đi qua cứ việc vớt để ăn". Bộ đội thì đói, cho dừng lại để thổi cơm ăn. Cơm ăn với cá lạt không có muối. Gặp 1 A trinh sát của Trung đoàn 98, phối hợp bắt được một con dê trôi ở giữa suối. Ăn cơm xong, tiếp tục động viên bộ đội lên đường và lấy liên lạc đưa đường. Trời đã tối, phải đốt đuốc để đi. Phải lội dọc theo suối, có nhiều chỗ phải lội đến bắp đùi. Chừng 24 giờ gặp một cái bản, cho bộ đội dừng lại ngủ. Hỏi dân được biết đơn vị đi trước đã đi cách một buổi sáng và hôm qua đánh nhau với địch ở đây. Ở trong bản có một số vợ con lính còn nằm lại. Nắm chắc hướng chạy của địch rồi và sáng hôm sau đi sớm lên đường tới Bản Mèo. Ra tới đường đi về Nậm Nầm tìm dấu vết của các đơn vị đi trước, phân vân không biết đi đường nào. Tìm ra vết chân ngựa đi nên phán đoán chắc địch chạy theo đường đó. Đi mãi càng đi càng gặp nhiều dấu vết địch, mũ, ba lô địch vứt lung tung. Đạn và băng trung liên vương vãi, đoán là địch đã bỏ chạy và đơn vị đi trước đã gặp địch. Động viên bộ đội đi tiếp. Đi qua hai con suối thấy đằng trước đốt lửa. Trông thấy bóng bộ đội thấp thoáng. Tôi gọi to và có tiếng trả lời. Đúng là đại đội 673 đang ở đó. Tôi vượt lên đi theo đồng chí chiến sĩ của đại đội 673 tiến vào bản thì Hùng Tân đang tập hợp bộ đội và tù binh để lên đường. Đó là bản Huổi Mết. Thấy tôi vào, đồng chí Hùng Tân hô bộ đội nghiêm và tiến ra báo cáo. Trung đội của đại đội 673 đi cùng tôi cũng tiến vào. Bộ đội thấy đồng chí chỉ huy Tiểu đoàn đến vui vẻ hò reo và hát. Tình đoàn kết thân ái giữa những người chiến sĩ nó mặn nồng làm sao! Ban chỉ huy đại đội đưa tôi lên một cái nhà cạnh đó báo cáo tình hình địch và kế hoạch tác chiến của bộ đội. Giở bản đồ ra để nghiên cứu thấy đây là địa phận của Pathét Lào rồi. Một tiểu đoàn địch vừa đi qua đây, cách một ngày. Bộ đội đã mệt, có một đồng chí bị thương nhẹ, lương thực thì hết. Chiến lợi phẩm nhiều không có ai mang, tù binh nhiều. Căn cứ tình hình đó, ra lệnh tiếp tục truy kích định theo hướng Phông Sa Lỳ. Song đường đi chưa rõ. Cho bộ đội dừng lại chấn chỉnh tổ chức, chuẩn bị tư tưởng, chuẩn bị cung cấp và để bộ đội nghỉ lại một đêm. Sáng tinh mơ bộ đội rời bản Huổi Mết ra đi. Lại bắt đầu leo dốc và đi theo dọc suối Nậm Nầm. Càng đi càng thấy nhiều vết chân ngựa, cứt ngựa mới nên tin chắc là địch vừa mới đi qua. Gần 14 giờ thấy đường đi khấp khểnh, có lốt chân người, đoán là đã gần đến bản. Ra lệnh cho bộ đội đi thận trọng, cử 1A đi đầu. Qua suối gặp ngay bản, ra lệnh bao vây và bố trí. Trong bản có nhiều lừa ngựa. Trong bụng mừng thầm. Bộ đội chia các ngả tiến vào lùng sục. Nhân dân trong bản hoang mang, đem cam và trứng gà ra biếu. Phải giải thích cho dân và tiến hành sục sạo tìm địch. Bắt được một lính lẩn lại. Mặt khác hỏi tình hình địch biết địch đã đi cách một ngày và để lại lừa ngựa đi về phía Phông Sa Lỳ. Hỏi dân nói là đường đi ngựa được. Ra lệnh lấy ngựa thồ súng đạn, chiến lược phẩm và cho bộ đội tiếp tục truy kích địch. Tôi lấy một con ngựa chiến lợi phẩm để đi cho đỡ mệt. Cũng là may khi còn công tác ở bên ngoài tôi cũng đã cưỡi ngựa quen nên khi lấy con ngựa này tôi cưỡi và điều khiển được ngay. Đường càng ngày càng khó đi ngựa. Đến một cái dốc phải cuốc đường cho ngựa đi. Dừng lại xem bản đồ. Chi ủy họp quyết định truy kích nữa hay là quay về? Thấy địch đã đi xa và về gần đến Mường Chanh nên tôi đồng ý cho bộ đội quay lại Poun Sai nghỉ để liên lạc chờ lệnh của trung đoàn. Chủ trương lúc đó là nút lại bản đó để chờ địch vì có thể địch còn đi qua. Bộ đội tiến hành dân vận và càn quét tù binh. Đang ngồi thì tiểu đoàn phó Lê Sơn đến báo có lệnh cho đại đội 317 của tiểu đoàn 9 truy kích. Sau đó thì đồng chí An trung đoàn trưởng 174 đến. Tôi báo cáo lại tình hình và đồng chí An đồng ý cho đại đội 673 quay lại Huổi Mết. Đại đội 673 đã đánh tan một đại đội, bắt 40 tù binh, thu 4 trung liên, 30 tiểu liên và 30 súng trường, thu nhiều lừa ngựa. Sáng hôm sau, tờ mờ sáng, đoàn quân chiến thắng mang theo tù binh, lừa ngựa đi về Huổi Mết. Ngang đường cho ném cá để lấy thức ăn cho bộ đội và cho bộ đội dừng lại càn quét tù binh và liên lạc với bộ phận của đồng chí Dũng Chi D trưởng 251 ở Nậm Nầm. Sau khi thảo luận xong kế hoạch đi tiếp, bắt thêm được 5 tù binh và thu thêm 5 súng nữa. Cho bộ đội ngủ lại một đêm để lấy sức và sáng hôm sau lên đường về Nậm Nầm. Đoàn quân đi ban ngày giữa những đồi cỏ gianh trọc, có cả vợ con lính, tù binh đi theo lốc nhốc trông rất lôi thôi. Đi ngang đường gặp liên lạc mang thư của đồng chí Dũng Chi đến. Biết đồng chí Dũng Chi đã đi từ buổi sáng. Lập tức tôi cùng đồng chí Hùng Tân phi ngựa vượt lên xem có gặp được đồng chí Dũng Chi không? Đến bản cho dừng lại thổi cơm, bàn giao tù binh và chiến lợi phẩm cho đơn vị hậu cần trung đoàn. Gần chiều lên đường đuổi theo bộ phận của đồng chí Dũng Chi. Trời tối đến phải ngủ lại một bản to (ở đây vẫn thuộc đất của Lào). Sớm hôm sau lại ra đi. Hôm nay bộ đội đi toàn cỏ gianh. Phong cảnh ở đây rất đẹp. Nhiều đồi trùng trùng điệp điệp trông xa như những lớp sóng cồn nhịp nhàng theo vết chân bộ đội đang mải miết đuổi theo đơn vị bạn. Thấy những dấu vết của đơn vị vừa ngủ đêm qua còn nguyên, biết rằng đơn vị đi trước không còn xa nữa. Tôi và Hùng Tân phi ngựa gấp đến bản Sì Na Phin thì gặp được đơn vị cuối cùng của đồng chí Dũng Chi. Bản Sì Na Phin là một bản địch vừa đi qua còn bỏ lại một số đồ đạc. Cho bộ đội nghỉ lại giữa lúc có tầu bay địch lượn thám thính và có cả máy bay khu trục đến. Máy bay địch đã xuất hiện, bay qua khu vực đơn vị đang nghỉ. Lấy liên lạc đi về Mường Nhé. Đến đây gặp hai đường. Nhưng cứ theo đường có vết chân bộ đội vừa đi. Hôm nay đi cả đêm. Càng đi, càng đi sâu vào chỗ không có người, càng thấy hiếm nước. Lo lắng quá, có lẽ không có nước để thổi cơm. Ngồi trên mình ngựa, chợt trông thấy ánh lửa lập lòe, truyền lại động viên bộ đội sắp có nước. Đi tới nơi thì gặp đơn vị bạn thổi cơm. Trời rét cho bộ đội nghỉ lại để lấy sức, thổi cơm ăn để sáng ngày ra đi cho kịp. Trùm gianh lên, che ni lông để ngủ. Sáng dậy ướt hết như bị mưa. Lại lên đường, đi đến trưa thì gặp đơn vị do đồng chí Bích (e98) chỉ huy cũng lên Mường Chè. Vượt qua đơn vị đó đến Mường Nhé. Vượt qua đơn vị đó gặp đồng chí Dũng Chi. Mừng quá, tôi và Dũng Chi thảo luận với nhau về công việc và dừng lại đó để ngủ. Thế là tiểu đoàn đã tập trung được hai đại đội 671 và 673. Đáng nhẽ là đi Mường Nhé ngay nhưng đang chuẩn bị cho đại đội 671 và đại đội 673 đi thì được lệnh của bộ quay lại về Tà Kan gấp vì Mường Nhé đả được giải phóng ngày 09-12-1953. Ngày 10-12-1953, tiểu đoàn được lệnh quay về Bản Tấu, Nà Nham bám sát địch ở phía đông Điện Biên Phủ... Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Hai, 2022, 11:07:09 pm 50 NĂM NHỚ LẠI CUỘC TRUY KÍCH XỐP NHÔM PHẠM XƯỞNG Không còn bao lâu nữa, chúng ta sẽ kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ. Một chiến công lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Đã nửa thế kỷ trôi qua mà như mới đây thôi, đoàn chúng tôi vừa hành quân qua Cò Nòi, Hát Lót, cụm cứ điểm Nà Sản địch đã rút chạy năm xưa hướng về ngã ba Tuần Giáo thì được lệnh bôn tập tiêu diệt quân địch từ Lai Châu chạy về Điện Biên Phủ... Với chức vụ trung đội trưởng b1/c673/d251, tôi chỉ biết động viên mình và động viên anh em: “Đoàn chúng ta đã đi là đến, đã đánh là thắng”, còn đi đường nào, đánh ở đâu tôi nào có biết. Thế là ngày đêm bám sát nhau cắt rừng, băng suối. Mãi tới chiều tối ngày 12/12/1953 mới nhìn mờ mờ thấy mục tiêu sẽ tấn công. Và đêm đó trung đội tôi, chủ công trong đội hình đại đội, đã nổ súng tấn công bọn địch co cụm tại một bản người dân tộc. Trận chiến diễn ra mau lẹ nhưng diệt địch chưa được bao nhiêu. Tảng sáng 13/12 phát hiện một đường rộng chừng 1m, xiên lên núi lau lách bị dạt còn mới. Tôi vừa báo cáo đại đội trưởng H. Tân vừa cho anh em lần theo dấu vết tìm địch, ngay sau đó cũng được lệnh của C nhanh chóng truy kích diệt địch tháo chạy. 25 anh em không còn cơm ăn, nước uống, ba lô nhẹ tõm trên vai, có người 1 súng, có người 2 súng (1 súng K50 đã hết đạn vẫn còn đeo bên người vì đây là loại súng mới trang bị của Liên Xô viện trợ), 1 súng lấy được của địch như Tuyn, Tôm-Sơn. Tôi còn khẩu Pít-tô-lê Mát gọn nhẹ đeo thêm hòm đạn trung liên cho Sằn cứ thế bám theo dấu vết địch. Gần trưa thấy đường tách làm hai ngã cùng hướng, tôi nắm 2 a đi theo cánh trái vì đường này to hơn, tôi đoán chủ yếu địch chạy theo đường này, còn Thoảng nắm 1 a đi theo đường cánh phải. Đi mãi đến tối mịt, tôi nhìn thấy ánh lửa lập loè, phán đoán có thể là địch, hoặc bản làng. Bám sát mục tiêu còn cách khoảng vài trăm mét, nghe văng vẳng tiếng người nói, chúng tôi bàn nhau áp sát. Gặp một tảng đá bên bờ suối cạn, tôi cho đặt khẩu trung liên sẵn sàng nhả đạn, kéo đội hình lên phân công nhiệm vụ. Vì rừng rậm trước mắt chỉ có một con suối cạn, thỉnh thoảng còn từng vũng nước nhỏ, nên chúng tôi định vừa nổ súng, vừa xung phong và hình thành thế bao vây diệt địch thực hiện “Mãnh đả, mãnh xung, mãnh truy” mà chúng tôi học được ở Lục Quân khoá 6 bên Trung Quốc. Trung liên đã sẵn sàng, tiểu đội 1 và 2 bí mật bò lên thì bỗng nghe tiếng anh Thoảng nói “Khoái khoái mừ ơi nọi lai lố” (nhanh nhanh mày ơi, đói lắm rồi). Hoá ra đây là tiểu đội 3 đến trước chúng tôi khi hai đường gặp nhau. Tôi toát mồ hôi và thầm nghĩ, nếu vội vàng cho nổ súng thì một số anh em sẽ ngã gục tại đây, tội lỗi và nỗi ân hận sẽ đeo đẳng suốt đời tôi. Mới xa nhau một buổi gặp lại tay bắt mặt mừng, A3 còn ít gạo sấy cho vào ống bơ, bi đông nấu cháo mỗi người húp lưng cháo loãng. Chúng tôi tạm dừng lại vì trời tối đen như mực, thay nhau canh gác và nghỉ ngơi dành sức cho cuộc truy kích tiếp theo. Tôi cứ băn khoăn đặt nhiều câu hỏi: Địch đã đi đến đâu? Liệu có đuổi kịp chúng hay không? Đang trao đổi với mấy đồng chí tiểu đội trưởng cùng các chiến sỹ gần đó thì đại đội trưởng H. Tân và mấy chiến sỹ đi cùng đã tới, đằng sau là b2 + b3 + đại đội bộ và chính trị viên phó tiểu đoàn Quốc Tường lần lượt tới. Chúng tôi lại tiếp tục đuổi theo địch tới một khúc suối rộng và sâu, cá dồn về nhiều, chúng tôi được phép dùng bộc phá đánh cá. Một tiếng nổ “ục”, cá nhao lên khá nhiều. Anh em vớt lên nướng ăn thay bữa. Cá không muối không cơm, ăn vào no bụng, nhưng người mệt nhoài. Tuy nhiên vẫn phải tiếp tục truy kích. Khoảng 15h00 tổ đi đầu báo cáo có bản phía trước. Tôi nép vào gốc cây và quan sát thấy trong bản có người, có lừa ngựa, đoán chắc gặp địch đây rồi. Tôi báo cáo đại đội trưởng H. Tân. Anh lệnh cho tôi thọc thẳng vào bản gặp địch đâu đánh đó. Tôi đề nghị anh: bên phải bản là dãy đồi dân trồng trọt, bên trái bản là con suối, nếu ta cho một bộ phận vòng bên phải chiếm dãy đồi không chế, uy hiếp địch, đại bộ phận vào chiếm bản sẽ có lợi hơn. Anh H. Tân đồng ý. A1/b1 nhận nhiệm vụ này đã nhanh chóng thực hiện ý định chiếm dãy đồi khống chế, b1 + b2... chia nhau thành từng mũi tiến vào bản. Không thấy địch, chỉ thấy dân khá đông trong các nhà sàn và mấy chục con ngựa rải rác trong bản. Chúng tôi được lệnh chốt các đường, khống chế các ngõ ngách “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”, rồi chia thành từng khu vực để các a, b vào từng nhà làm công tác tuyên truyền vận động nhân dân phát giác địch. Chẳng mấy chốc bọn địch kéo ra hàng, chúng đã trút bỏ hết quân phục, giấu súng đạn trà trộn trong dân. Suốt đêm hôm đó, được nhân dân giúp đỡ, chúng tôi có xôi ăn, nước uống để làm nhiệm vụ truy lùng bọn địch, thu vũ khí, quân trang, quân dụng và lừa ngựa. Sáng hôm sau, chúng tôi liên hoan nhẹ nhàng nhưng đầm ấm với dân bản (đây chính là bản Xốp Nhôm) và tổ chức cơ động về Điện Biên Phủ. Sau a1/b1 là chính trị viên phó Quốc Tường, đại đội trưởng H.Tân, 2 người, 2 ngựa cùng đoàn quân chiến thắng nhằm hướng Điện Biên thẳng tiến... Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:01:06 pm NHỮNG KỶ NIỆM KHÔNG BAO GIỜ QUÊN TRẦN NHÂM1 1. Chiến dịch thu đông Trần Hưng Đạo 1950 - 1951 trung đoàn Cao Bắc Lạng 174 anh hùng được lệnh về đánh địch giải phóng vùng Đông Bắc tổ quốc (tỉnh Quảng Ninh). Trận mở màn chiến dịch là đánh địch ở đồn Bình Liêu. Trung đoàn hành quân từ Lạng Sơn về Tiên Yên - Móng Cái - Đình Lập qua đèo Ngàn Chi đến Bình Liêu. Đèo Ngàn Chi toàn đồi núi trọc không có cây to, chỉ có cỏ và một số cây con thấp bé. Hành quân qua toàn đi đêm để giữ bí mật và tránh máy bay địch oanh tạc. Đèo không cao lắm nhưng rất dài và nhiều cua khúc khửu, đúng một ngàn chữ chi nên gọi là đèo Ngàn Chi. Khi hành quân vào thì trời quang mây, trăng sao rất đẹp, phong cảnh núi non rất thơ mộng. Qua một đêm hành quân từ 17 giờ bắt đầu lên đèo, đến 8 giờ sáng hôm sau xuống hết đèo đi khoảng 10 - 15 km thì đến Bình Liêu. Đơn vị triển khai chiếm lĩnh trận địa, đến đêm thì nổ súng tấn công đồn địch. Quân ta nhanh chóng chiếm khu hành chính và doanh trại của địch, bắt sống nhiều tù binh Pháp và hầu hết quân lính Pháp đầu hàng, còn bọn lính người Việt gốc Hoa thường gọi là người Ngái rất ngoan cố. Chúng vẫn chiếm giữ mấy cái lô cốt cố thủ chống cự lại quân ta, bất chấp ta đã gọi loa yêu cầu chúng đầu hàng. Đến sáng hôm sau, chúng vẫn ngoan cố dùng súng đại liên, súng máy chống cự lại. Ta phải đục tường nhà cho súng Ba zô ka bắn sập lô cốt, tiêu diệt toàn bộ số lính cố thủ trong các lô cốt, giải phóng Bình Liêu. Sau khi ổn định tình hình, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giao lại cho lực lượng vũ trang và chính quyền địa phương quản lý, ta tiếp tục đi đánh địch... Khi ở Bình Liêu ra lại qua đèo Ngàn Chi. Đêm hôm đó đang vượt đèo thì gặp một cơn dông mưa rất to, gió rất mạnh. Trời tối đen, đường đi thì nhỏ, khúc khuỷu, một bên là núi cao, một bên là vực sâu, không nhìn rõ đường. Ai có đèn pin lên trước dẫn đường, những người đi sau bám vào nhau lần từng bước, mọi người đều ướt rét run. Đơn vị quân y bị hai người chết rét là hai vợ chồng anh Tính ở bộ phận hậu cần. Đơn vị tải thương dùng mọi phương tiện che mưa cho thương bệnh binh không ướt. Chống rét cho thương bệnh binh, bảo đảm cho thương bệnh binh an toàn, lại phải cáng thêm 2 người chết rét vượt mưa bão. Sáng hôm sau xuống hết đèo, nghỉ lại ở mấy bản người dân tộc, tổ chức lễ an táng chôn cất cho 2 nạn nhân bị chết rét. Khi trời bắt đầu mưa to gió lớn, tôi thấy cháu Diệu con trai anh Bùi Thế Sinh, chưa đến 10 tuổi, mặc quần áo phong phanh do chị An mẹ cháu Diệu bế. Hai mẹ con che chung một tấm ni lông, gió bay phần phật, cháu bị ướt và rét, rất nguy hiểm. Tôi nhờ đồng đội mang cho hộp dụng cụ phẫu thuật, ba lô tôi đeo sang trước ngực, tôi cõng cháu Diệu trên lưng, trùm cho cháu chiếc áo ca bốt dạ chiếm lợi phẩm của Tây ở Lạng Sơn. Ngoài tôi chùm một tấm ni lông buộc chặt cả áo ca bốt và ni lông vào người, đi suốt đêm dưới trời mưa tầm tã, cố giữ cho cháu không bị ướt và bị rét. Cả đêm hôm sau đó, cháu Diệu ngủ ngon lành trên lưng tôi. Tôi rất mệt mỏi, phải cố chịu đựng cõng cháu, không thể đưa cháu sang người khác thay được vì mọi người đều ướt và mệt. Cháu Diệu nay là tiến sĩ, đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, Chủ nhiệm một khoa thuộc Học viện Kỹ thuật quân sự, cháu đã nghỉ hưu. 2. Chiến dịch Trần Đình (Điện Biên Phủ) thu đông năm 1953 - 1954. Tiểu đoàn quân y Đại đoàn 316 hành quân đi chiến dịch trong đội hình của đại đoàn bộ. Hành quân đến ngã ba Tuần Giáo khoảng 05 - 06 km thì rẽ trái vào khoảng 2 km cách đường cái Tuần Giáo Điện Biên, trú quân tại một khu rừng già xung quanh là núi bao bọc, cạnh một con suối to. Theo kế hoạch, nghỉ lại đây 2 ngày để bổ sung lương thực thực phẩm. Chúng tôi vừa đào công sự làm lán nghỉ xong, đang tắm giặt ở suối thì được lệnh về hành quân ngay. Bộ phận cấp dưỡng nấu cơm canh vừa sôi chưa chín cũng đổ đi thu xếp xoong nồi hành quân. Chúng tôi quần áo vừa giặt còn ướt cũng vắt lên ba lô hành quân đi liên tục ngày đêm đến gần bản Nà Nhạn rẽ tay phải lội qua con suối to, đi qua một bản người Thái, leo lên đồi cứ men theo sườn đồi hết quả núi này, đến quả núi khác, cứ xuống lại lên, thẳng hướng Mường Pồn mà tiến. Chúng tôi đến địa điểm quân y trung đoàn 174 tiếp nhận thương binh, tử sỹ nằm ở hai bên bờ suối. Chúng tôi quên hết mệt mỏi, triển khai ngay công tác chăm sóc khám bệnh, phân loại thương binh. Bộ phận phòng mổ triển khai ngay: san lấp mặt bằng, căng bạt dù chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật cho hai bàn mổ. Bác sỹ Phạm Văn Phúc mổ một bàn, bác sỹ Trọng Quỳnh mổ một bàn. Tôi gây mê hồi sức, mổ suốt đêm hôm đó, giải quyết thương binh cần mổ, điều trị cho thương binh qua cơn nguy kịch. Đến ngày hôm sau, tiếp tục hành quân về hướng thị xã Lai Châu mang cả thương bệnh binh. Bộ phận tải thương cùng với ban chính trị tổ chức tang lễ truy điệu mai táng cho các tử sỹ chu đáo, trong đó có liệt sỹ Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng đã anh dũng hy sinh. Trên đường hành quân từ Mường Pồn về thị xã Lai Châu không có lương thực thực phẩm, lương khô mang theo cũng hết. Đại đoàn ra lệnh cho các đơn vị của đại đoàn bộ còn hạt gạo nào dồn hết về quân y để nấu cháo cho thương bệnh binh. Còn toàn thể cán bộ chiến sỹ nhịn đói hành quân. Trên đường đi đói quá, chặt cây chuối rừng non bóc bẹ lấy nõn ăn. Gặp những buồng chuối rừng chín vàng trông rất ngon, khi chặt xuống lấy quả ăn không nổi vì toàn hột và sơ ăn rất chát. Chỉ ăn nõn và củ chuối sống qua 1 ngày hành quân vừa mệt vừa đói. Đến tối, cấp trên cho nghỉ và ngủ tại chỗ, trên đường hành quân cắt cử người thay nhau canh gác. Sáng hôm sau tiếp tục hành quân, đến khoảng 15 giờ tới bản Mường Lay, một bản dân tộc Thái trắng rất to, đông dân cư. Vì còn sớm, nên bộ đội nghỉ ngoài rừng, tối mới được đưa vào bản, đề phòng máy bay địch đến oanh tạc, chỉ cho bộ phận hậu cần vào trước. Trong bản chỉ có mấy ông già ở lại, còn hầu hết đàn ông đàn bà, thanh niên phụ nữ con trai con gái, trẻ em chạy vào rừng hết, vì sợ bộ đội Việt Minh bắt. Trong bản có rất nhiều trâu, bò, lợn, gà, ngan, vịt, thóc gạo, nhưng không có dân ở nhà nên lệnh cấp trên cấm tuyệt đối không ai được đụng chạm đến cái kim sợi chỉ và tài sản của dân. Bụng đói cồn cào, nhìn những quả trứng gà, trứng vịt trong ổ, thèm nhỏ dãi mà không được lấy ăn. Bộ đội trong lúc nghỉ ngoài rừng tranh thủ đào được rất nhiều củ mài. Đơn vị thu được một số ngựa què của quân Pháp bỏ lại. Hậu cần sư đoàn phát cho mỗi đơn vị một con. Tiểu đoàn quân y cũng được một con. Bộ phận hậu cần vào trước lĩnh ngựa làm thịt. Tối bộ đội vào bản nghỉ, được thông báo cử người đi lấy thịt ngựa về nấu với củ mài. Mấy ngày nhịn đói, nay được ăn bữa cháo củ mài ninh với thịt ngựa ăn rất ngon. Đến da con ngựa anh em cũng lấy về, tối đốt lửa nướng khô cạo sạch lông, rồi lại nướng cho nó phồng lên để ăn như ăn bánh đa nướng, nhai rất dòn. Lâu ngày được ăn một bữa cháo củ mài với thịt ngựa, ăn no nê lại được tắm rửa sạch sẽ, ngủ trên nhà sàn ngon lành nên sáng hôm sau dậy thấy người khoan khoái khoẻ mạnh. Sáng hôm sau, đơn vị tiếp tục hành quân về thị xã Lai Châu đã được trung đoàn 174 giải phóng hoàn toàn. Đến khoảng 16 giờ, đến cách thị xã Lai Châu 2,5km rẽ tay phải lội qua con suối, đi qua cánh đồng đến bản dân tộc Thái trắng ở ven núi nghỉ lại đây. Khoảng 17 giờ được lệnh cử người ở lại chăm sóc thương bệnh binh, còn tất cả vào thị xã Lai Châu lấy gạo thực phẩm. Đến thị xã, lên một quả đồi cao đến nhà kho thì không có gạo, toàn là thóc nếp. Đó là kho thóc của tên Đèo Văn Long đã bỏ chạy theo Tây về Hà Nội. Mọi người mang bao vào xúc thóc về bản, mượn cối của dân giã gạo sàng sẩy, nấu cơm nếp ăn với thịt lợn, canh rau cải. Nghỉ lại ở đây một tuần để ổn định tình hình, thành lập chính quyền cách mạng của tỉnh, các đơn vị kết hợp với chính quyền tổ chức mít tinh mừng chiến thắng, ra mắt chính quyền cách mạng. Tối đó dân đến rất đông, sau mít tinh, quân dân múa lăm vông, múa sạp biểu diễn văn nghệ. Những cô gái Thái trắng mặc trang phục rất đẹp, váy lụa đen gấu váy thêu hoa văn, áo sơ mi trắng vải hồng, cúc áo và thắt lưng toàn con bướm bằng bạc trắng, trên đầu quấn khăn bông trắng hoặc mầu hồng có hoa, xịt nước hoa của Pháp, tắm bằng xà phòng thơm Cô Ba Tý, đi dép xăng đan. Nhiều cô nói được tiếng Pháp, sống rất tình cảm thật thà. Các cô gái rất thích bộ đội ta và rất quí mến các anh. Sau một tuần, đơn vị tiếp tục hành quân về Điện Biên Phủ, không qua lại lối Mường Pồn mà hành quân theo đường số 6 từ thị xã Lai Châu qua đèo Cla-vô về Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ. Hành quân đến bản Nà Nhạn rẽ tay trái vào Mường Phăng chuẩn bị đánh Điện Biên Phủ. Tới Mường Phăng, thương bệnh binh được đưa đi bệnh viện dã chiến thuộc Cục quân y tiếp tục điều trị. Đơn vị hành quân ra phía đông Điện Biên Phủ chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu... Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm 2003 ___________________________________________1. Nguyên bác sĩ quân y Đại đoàn 316. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:05:48 pm TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO NHỮNG TRẬN ĐÁNH LỚN TRÊN ĐỒI A1 LÊ QUYÊN Trải qua những ngày "khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt, đầu nung lửa sắt, máu trộn bùn non"... của thời trai trẻ oanh liệt, nhìn lại quá khứ ấy, tôi cũng như bao đồng đội không khỏi tự hào và bùi ngùi nhớ tới nhiều đồng đội đã để lại xương máu mình cho "Điện Biên lẫy lừng thế giới". Sau khi đọc cuốn Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ở một số đoạn mà bản thân tôi, người thật việc thật, từng tham gia trực tiếp chiến đấu lúc đó ở cương vị cán bộ b, c bộ binh, tôi không khỏi áy náy và muốn làm rõ thêm một vài sự việc nêu trong sách, một cuốn sách mang tính lịch sử vĩ đại của dân tộc. Cho nên mặc dù lịch sử đã đi qua nửa thế kỷ rồi, vả lại một số sự việc viết lại này cũng chỉ là những chi tiết nhỏ của chiến dịch, nhưng nay tôi cũng xin viết lại sự thật một số sự việc đó. 1. Trận phòng ngự đồi Tà Lèng (trang 172, 173 sách đã dẫn) Sau khi Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định chuyển phương án tác chiến sang "đánh chắc tiến chắc", toàn đơn vị chúng tôi được rút về phía đông Mường Thanh, đóng quân ở sau bản Tà Lèng khoảng 1km chờ lệnh mới. Hôm đó là ngày 29 hay 30 tháng Chạp năm Quý Tỵ, hoặc 1/2/1954. Từ tờ mờ sáng, tôi, b trưởng b1 BB/C925, d255, e174 được gọi lên đại đội nhận lệnh của c trưởng Đặng Văn Đùng và d trưởng Nguyễn Đôn Tự: đưa ngay nửa trung đội ra tổ chức phòng ngự ở bản Tà Lèng, sẵn sàng đánh địch từ Mường Thanh nống ra thăm dò lực lượng ta. Nửa trung đội còn lại do b phó Hoàng Văn Luận phụ trách đóng quân trong đội hình đơn vị. Sau khoảng 30' chuẩn bị, tôi cùng a1 của tiểu đội trưởng Hát và a phó Mưu cùng một tổ trung liên, tổng cộng 15 đồng chí nhanh chóng ra bản Tà Lèng. Sau khi nghiên cứu khái quát địa hình và xác định hướng tấn công của địch, tôi cho dàn quân và gấp rút đào công sự phòng ngự. Bản Tà Lèng nằm trên đường mòn từ Mường Phăng đi xuống Mường Thanh, dân đã sơ tán hết vào rừng, còn lại chỏng trơ độ 8 mái nhà sàn tranh tre ọp ẹp và một số cây ăn quả lưa thưa trong vườn. Bản nằm trên một mỏm đồi, cao hơn cánh ruộng bậc thang phía trước chừng 8-10m. Hai bên và phía sau là đồi cao rậm rạp. Chính diện phòng ngự rộng khoảng 50-60m. Khoảng 8 giờ sáng, một chiến sĩ cảnh giới của b tôi bố trí ở phía trước cách độ 300m hớt hải chạy về báo cáo phát hiện địch đang dò dẫm tiến vào phía ta. Tuy công sự phòng ngự còn sơ sài (mới sâu khoảng 30cm), tôi cũng lệnh nhanh chóng nguỵ trang và sẵn sàng chiến đấu, đồng thời cho chiến sĩ Hướng chạy về báo cáo đại đội. Độ 15 phút sau, khi trời mới quang mây, chiếc máy bay bà già đã vè vè lượn trên đầu. Dưới đất địch dò dẫm tiến gần vào trước trận địa. Khoảng gần 9h khi một số tên Tây trắng, Tây đen tiến vào cách chúng tôi khoảng 20m, tôi cho đồng loạt nổ súng. Tên chỉ huy đang cầm ba-toong chỉ chỏ và tên đeo điện đài bị bắn gục. Chúng vãi đạn như mưa và hò hét xung phong (a la xô). Không vào được trận địa, chúng rút ra khoảng 100m, sau đó pháo các loại tới tấp dội xuống bản Tà Lèng. Do công sự không đủ độ sâu, anh em lại mệt mỏi sau một đêm mới trở về chưa được nghỉ ngơi, quân số lại mỏng, sau hai đợt xung phong không vào được trận địa. Địch chủ yếu dùng pháo và cối dội vào, phía ta hy sinh một, bị thương hai đồng chí. Khẩu trung liên, hỏa lực chủ yếu bị hỏng, chúng tôi chỉ còn tiểu liên, súng trường, lựu đạn và lưỡi lê. Gần 12h trưa, sau nhiều loạt pháo, chúng lại tổ chức xung phong lần nữa. Anh em tôi còn lại, súng đã dương lê, cố nhằm vào tên chỉ huy mà bắn và ném lựu đạn ra, sẵn sàng giáp lá cà với chúng. Không vào được, chúng lại rút ra. Một buổi trưa im lặng, căng thẳng, nặng nề. Sau 3 đợt đánh địch xung phong, nửa trung đội chỉ còn lại tôi và 5, 6 chiến sỹ. Trận địa đã bị lộ và tan tành sau nhiều đợt pháo. Thấy không thể cố thủ tiếp, tôi cho anh em rút lên đồi cao bên phải bản Tà Lèng độ 100m. Trên đó cây cối rậm rạp, lại có mấy công sự đào sẵn khá sâu (sau này mới biết là do trinh sát ta đào trên đường đi trinh sát xuống Mường Thanh). Tôi phân công chiến sỹ Phán bố trí ở công sự bên cạnh, còn công sự rộng hơn thì tôi và hai chiến sỹ còn lại (Lê Văn Bạc và Trần Văn Kiệm) bố trí, mắt luôn quan sát phía trước. Khoảng 2h chiều, máy bay bà già trở lại vòng lượn trên trận địa, pháo lại tới tấp dội vào bản Tà Lèng, và sau đó khoảng vài chục tên xung phong vào bản, nháo nhác tìm kiếm. Chúng tôi giữ tuyệt đối im lặng vì lực lượng còn quá mỏng. Đơn vị phía sau thì vẫn không thấy ra chi viện. Tìm không thấy quân ta, chúng cho là quân ta đã rút, nên chúng cũng rút ra xa. Độ 15 phút sau, chúng tôi nghe có tiếng động sột soạt ở sườn cao phía sau cách khoảng vài chục mét, nhưng cây cối rậm rạp và có lẽ từ chỗ quang mò vào nên chúng không phát hiện được. Chúng tôi ở thế thấp nên cố gắng ra hiệu cho nhau tuyệt đối im lặng. May sao chúng chỉ đi vòng qua rồi đi thẳng xuống bản Tà Lèng, lại nháo nhác tìm, bắn vu vơ mấy băng rồi đi tiếp ra hướng Mường Thanh. Bất ngờ một tiếng nổ oành ngay trên miệng hố, cả Bạc, Kiệm và tôi đều bị thương. Chiến sỹ Bạc bị nặng nhất: 1 mảnh vào đầu, bị choáng, nôn và khuỵu xuống hố; chiến sỹ Kiệm bị gẫy cổ tay; tôi đứng giữa bị một mảnh vào mi mắt. Chúng tôi xé áo băng bó cho nhau. Chiều xuống rồi, địch không dám tiến về phía ta nữa và có lẽ đang rút dần về Mường Thanh. Khoảng hơn 3h chiều, trời Điện Biên bớt dần ánh nắng, tôi cho một chiến sỹ còn khỏe về phía sau báo cáo tình hình, thì cũng là lúc đơn vị tiến ra truy kích địch. Có tiểu đội đồng chí Niết đi đầu và tiếp theo là xuất hiện sự việc dũng sỹ Hoàng Văn Nô đâm lê tiêu diệt địch trên đường rút. Tối đến, tôi và mấy chiến sỹ bị thương được đưa về đội Điều trị 3 ở Mường Phăng. Hôm sau là ngày mồng 1 Tết năm Giáp Ngọ. Khoảng gần trưa, trong lán của viện, chúng tôi được E trưởng Nguyễn Hữu An cùng mấy cán bộ của Ban Chính trị đến thăm và thông báo đề nghị tặng thưởng Huân chương cho tôi và đơn vị về thành tích phòng ngự giữ vững trận địa Tà Lèng. Đến quá trưa, chiến sỹ Bạc mới được chuyển đến viện trong tình trạng hôn mê hoàn toàn, tôi đã sang thăm và nói rõ hoàn cảnh bị thương với các y bác sỹ bên lán đó. Hôm sau tim Bạc ngừng đập, tôi đã có mặt lúc khâm liệm và cùng đưa Bạc đến nơi an nghỉ cuối cùng ở nghĩa trang cạnh ĐT3. Trên mộ có bia mộ gỗ. Nhiều năm sau, nhân dân Điện Biên Phủ đã chuyển hài cốt về nghĩa trang liệt sỹ A1, nhưng tiếc thay hầu hết đều không có tên tuổi cụ thể. Năm 1958, tôi từ Quân khu Tây Bắc được cử về học ở Hà Nội, nhớ lại địa chỉ, tôi đã tìm về gia đình Bạc ở Hưng Yên. Trong tình cảm quân dân cả nước, bà mẹ Bạc và gia đình đã yêu cầu nhận tôi làm con nuôi. Từ đó đến nay, kể cả sau đại thắng mùa Xuân từ chiến trường B2 trở về, tôi vẫn giữ tình cảm như có đồng chí Bạc trong gia đình, tuy vẫn mang theo một nỗi niềm ân hận là không đưa được hài cốt liệt sỹ Bạc về nghĩa trang quê nhà. Còn các chiến sỹ Phán, Kiệm, Hướng... thì đến nay vẫn chưa liên lạc được. Nửa thế kỷ qua rồi, nay đã là cựu chiến binh ở tuổi "cổ lai hi", tôi vẫn không quên được anh em đã cùng tôi sống chết ngày đó ở trận địa cảnh giới phòng ngự bản Tà Lèng. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:06:19 pm 2. Trận dương công đồi A1 Ngày 13/3/1954 sư đoàn 312 tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam. Đồi A1, một điểm phòng ngự có thể coi là hiểm yếu nhất đối với chỉ huy sở Mường Thanh, nơi chính thức ta sẽ mở đầu cuộc tấn công đợt 2 (30/3/1954). Riêng phân đội tôi được cọ xát với A1 từ 14/3/1954, tất nhiên chưa phải để tiêu diệt mà là nghi binh để đơn vị bạn tiêu diệt cứ điểm đồi Độc Lập. 5h chiều 14/3, phân đội chúng tôi gồm trung đội BB1 phối thuộc có 1b đại diện, 1a cối 60 ly của c925, nhận lệnh dương công đồi A1 để sư đoàn 308 công kích đồi Độc Lập. Phân đội chúng tôi được trang bị thêm 4 quả bộc phá ống, 2 đại liên, 2 cối 60 ly và 4 quả phóng lôi. Nhiệm vụ là: phát hỏa trước như tấn công vào đồi A1 để nghi binh và thu hút hỏa lực tạo thuận lợi cho sư đoàn 308 tiêu diệt cứ điểm đồi Độc Lập. Khoảng 7h tối 14/3, chúng tôi được lệnh xuất phát, lợi dụng pháo sáng địch, bí mật men theo chân đồi Cháy tiếp cận vào phía nam đồi A1. Xác định vị trí xuất phát tấn công và bố trí xong hỏa lực, chúng tôi bí mật đào công sự. Khoảng 12h đêm lệnh phát hỏa bắt đầu. Bốn chiến sỹ bộc phá thay nhau lên mở hàng rào, đồng thời trung đại liên nổ súng. Bốn quả phóng lôi cũng được khối 60 ly lần lượt phóng vào hàng tiền duyên. Cứ khoảng 3-4 phút, bộc phá viên lại thay nhau lên mở hàng rào. Mỗi lần ngớt tiếng pháo địch, trung đại liên chúng tôi lại nhả đạn. Trong đồi A1, pháo sáng địch phụt lên liên tục, và sau đó độ 5 phút, pháo Mường Thanh, Hồng Cúm tới tấp dội về trận địa. Độ 15 phút sau, pháo địch thưa dần, tuy nhiên cối trong đồn A1 vẫn bắn ra trận địa. Bỗng quan sát viên của tôi báo cáo: xuất hiện một tiểu đội địch trên sườn đồi Cháy phía sau lưng trận địa chúng tôi. Tôi báo cáo bằng điện thoại về anh Đôn Tự và được lệnh tiếp tục giữ bí mật, đồng thời cho 1 a bộ binh quay súng bố trí hướng về phía đồi Cháy. Nếu địch phát hiện thì tự chiến đấu bảo vệ, nếu không bị phát hiện thì im lặng chờ lệnh thu quân. Quả thật, độ mươi phút sau, bọn địch đi tuần tra quay trở về đồn. Lúc này pháo các cỡ đã râm ran chuyển sang phía đồi Độc Lập. Như vậy địch đã phát hiện và đối phó với hướng tấn công chủ yếu của ta. Sau 15 phút nữa, chúng tôi được lệnh thu quân, trận địa trở lại im lặng. Tôi cho cáng một liệt sỹ và 4 thương binh về trước, toàn quân đội đi sau theo thứ tự hỏa lực rồi đến bộ binh, lại men theo chân đồi Cháy trở về căn cứ. Trời cũng gần sáng. Đến gần trưa 15/3/1954, tôi được gọi lên gặp Ban chỉ huy d255 và được thông báo là Trung đoàn biểu dương cả phân đội tối qua đã hoàn thành xuất sắp nhiệm vụ dương công và được đề nghị tặng thưởng Huân chương chiến công. Quân số thương vong thấp hơn 3 lần dự kiến. Đại đoàn 308 đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm đồi Độc Lập. Trở về "hàm ếch", tôi tiếp tục đọc Thượng Cam Lĩnh và chuẩn bị để tối đến lại cùng anh em tiếp tục đi đào chiến hào vào đồi A1. Hà Nội, tháng 5 năm 2003 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:12:07 pm TIỂU ĐOÀN 249/E174 VỚI 38 NGÀY ĐÊM TRÊN ĐỒI A1 (trích hồi kí) VŨ ĐÌNH HÒE1 ... Sau Tết Giáp Ngọ, khoảng 6/2/1954, các cán bộ tiểu đoàn và đại đội được triệu tập lên Trung đoàn để quán triệt kế hoạch tác chiến mới, theo phương châm “đánh chắc thắng chắc". Theo kế hoạch này thì mục tiêu của trung đoàn 174 là A1. Trung đoàn quyết định dùng d9 đột phá từ hướng Đông, có nhiệm vụ đánh chiếm khu Trung tâm và khoảng 2/3 vị trí đồi A1. D1 mở đồng thời mũi đột phá theo hướng Đông Nam - Tây Bắc chia cắt và diệt 1/3 vị trí A1 từ hướng Tây, chặn quân phản kích của địch từ A3 lên, bảo đảm cho d9 hoàn thành nhiệm vụ, sau đó tuỳ tình hình d1 sẽ phát triển xuống A3. A1 là một cứ điểm của địch trên quả đồi cách trung tâm Mường Thanh khoảng 400m về hướng Đông Nam. Trong những năm 40 thế kỉ trước, đây là nơi đặt hành dinh và tư thất của viên tri châu Đèo Văn Ún. Theo lệnh của Đại đoàn, từ đầu tháng 2/1953 các đơn vị vừa xây dựng trận địa vừa tiến hành trinh sát địch để khi trận địa xong là bắt đầu tấn công. Nội dung xây dựng trận địa gồm việc đào một trục giao thông hào từ ven rừng nơi trú quân đến trận địa xuất phát tấn công dưới chân đồi A1 với chiều dài gần 4km - yêu cầu hào phải sâu gần 1,5m, rộng gần 0,6m, cứ cách 5-6m lại đặt một hàm ếch và khoảng cách 20-30m lại có một đường nhánh sang hai bên để tránh nhau. Công việc tiến hành hàng tháng trời, càng gần địch, càng khó khăn, nguy hiểm, tốc độ chậm dần, đến thời hạn quy định mà có chỗ chưa đạt yêu cầu. Ngày 13-3, được biết hôm đó các đơn vị bạn sẽ đánh vài điểm phía Bắc nên bộ đội nghĩ đào hào gần địch để bảo đảm an toàn. Riêng tôi cùng một số cán bộ đại đội đã đến chân đồi A1 để tranh thủ xem động tĩnh của địch, đồng thời cũng kiểm tra lại đoạn giao thông hào ở khu vực xuất phát tiến công, bị địch lấp lúc ban chiều. Khi đến đoạn hào cuối cùng thì một đồng chí dẫm phải quả mìn phát sáng địch cài lại khi lấp hào. Nghe tiếng nổ “bốp”, mọi người vừa kịp nằm xuống trước khi pháo toả sáng thì địch đã bắn liền 2 quả cối 60 ly vào chỗ chúng tôi. Các anh em khác đều an toàn, chỉ mình tôi bị một mảnh đạn vào cánh tay trái, vết thương không to, nhưng bị mẻ một miếng xương nên khá đau. Hôm sau, tuy đau nhưng tôi cũng cố lên Trung đoàn họp để nghe tình hình các đơn vị bạn chiến đấu hôm trước. Thấy tôi bị thương, anh An một mặt động viên, một mặt phê binh nhẹ tôi vì để bị thương không cần thiết trong lúc tình hình đang khẩn trương. Mấy hôm sau đó, vết thương sưng tấy phát sốt nên không lên họp trên Đại đoàn để nghe phổ biến tình hình nhiệm vụ mới. Anh Lê Sơn đã thay tôi kiểm tra, đôn đốc mọi công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Mọi công tác chuẩn bị đã tạm ổn, bộ đội được động viên sẵn sàng chiến đấu. Vào một ngày hạ tuần tháng 3, Đại đoàn tổ chức một cuộc họp cán bộ để tổng kết công tác chuẩn bị và phát động đợt thi đua lập công. Sau buổi lễ phát động thi đua, chiều 28/3 Đại đoàn phổ biến cho cán bộ tiểu đoàn biết ngày “N” là 30/3. Như vậy các đơn vị có hơn một ngày để kiểm tra lại các công việc đã chuẩn bị. Từ hôm dự lễ phát động thi đua trên Đại đoàn về, Bằng Khê có vẻ phấn khởi, khoe đã “xin” được văn công xuống tiểu đoàn biểu diễn trước khi bộ đội xuất quân. Nhưng suốt ngày 29/3 không thấy ai nói gì đến văn công. Trời mưa gió tầm tã, hầm hố ướt át, bẩn thỉu, tôi hỏi: Trời đất thế này văn công có xuống không? Nếu xuống thì ở đâu? Kế hoạch biểu diễn thế nào? Lê Sơn ngồi cạnh đó cười khà khà nói: "Thế nào mà em T.C chả đến, người ta đã hẹn nhau rồi! Ta sẽ nhường họ ở khu chỉ huy này, chỉ để Bằng Khê ở lại tiếp thôi, còn mọi người xuống đại đội nằm cũng được". Bằng Khê cũng cười vui vẻ nói: "Đừng lo chuyện đón tiếp, họ chỉ đến một lúc vào chiều mai thôi. Đây không phải là buổi biểu diễn cho bộ đội xem mà chỉ đến múa hát chào mừng trước khi bộ đội xuất quân thôi". Tuy không rõ chương trình cụ thể của đoàn văn công ngày hôm sau ra sao, song mọi người cũng vui vẻ chờ đợi mà không bàn tán gì thêm. Đêm 29 và sáng 30/3 trời tiếp tục mưa to nhưng buổi trưa thì tạnh ráo. 16g30 ngày 30/3 toàn tiểu đoàn chỉnh tề hàng ngũ tại một khu đất trống ven rừng làm nơi xuất quân. Đứng chính giữa hàng quân là đồng chí Bế Văn Cư đại đội trưởng 317 và 3 đồng chí xung kích. Đứng chếch phía trước, bên phải hàng quân là đồng chí Bích trung đoàn phó (theo lệnh Đại đoàn tăng cường cho chỉ huy tiểu đoàn trong trận này), Ban chỉ huy tiểu đoàn, một số đồng chí trong tiểu đoàn bộ và tổ văn công của đại đoàn 316. Tôi thay mặt Ban chỉ huy tiểu đoàn giao nhiệm vụ cho đại đội 317 cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” lên đỉnh đồi A1 trong đêm nay. Đồng chí Cư thay mặt đại đội nhận cờ và hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Tôi vừa quay người lại đứng ngang hàng với đồng chí Cư và ra lệnh “Chuẩn bị xuất phát” thì có tiếng nói to: “Khoan đã!”, đồng thời tiếng nhạc, tiếng hát của tổ văn công vang lên. Tôi không nhớ tên bài hát nhưng đây là bài hát quen thuộc của bộ đội, nhạc và lời của nó rất hay, thôi thúc tinh thần chiến đấu, lập công của người chiến sỹ với các lời ca: - Cờ này là Bác Hồ tặng khen Khi đã hạ quyết tâm Chiến trường lập công Bác mong chờ chúng ta diệt thù Dặn dò các cháu đi là chiến thắng …………………………………………… ___________________________________________ 1. Nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 249 Trung đoàn 174. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:12:59 pm Khoảng 18 giờ, tiểu đoàn đã vào vị trí xuất phát theo đội hình hàng dọc thứ tự 317, 316, 315. Sở chỉ huy của tiểu đoàn là chiếc hầm khoét vào sườn núi, cạnh giao thông hào, ngang với vị trí C316. Lúc đó có anh Bích, tôi, anh Bằng Khê và điện thoại, còn cán bộ tác huấn và tổ liên lạc ở hầm bên cạnh. Anh Lê Sơn đi với C317. Trời đã tối lắm rồi mà chưa thấy động tĩnh gì. Trước khi xuất phát, tôi đã hỏi anh An về giờ nổ súng, anh đáp “không biết”. Tôi cũng thấy anh Bích (trung đoàn phó đi với tiểu đoàn chủ công) hỏi anh An xem có lệnh của Đại đoàn chưa và câu trả lời vẫn là “chưa”. Chợt tiếng pháo, cối các cỡ nổ vang khắp cả vùng Mường Thanh. Tôi ngồi ngoài cửa hầm thấy rõ những quả pháo 105 ly của ta nổ tung trên đỉnh đồi A1. Trời ơi! lúc này mà tiến hành bộc phá đánh hàng rào là lý tưởng nhất. Tôi hỏi anh Bích: “Đánh nhé?” Anh Bích nói: “Chưa có lệnh”. Tôi sốt ruột quá, 5 phút, rồi 10 phút trôi qua, pháo hoả của ta giảm dần mật độ và thay vào đó là tiếng bộc phá, thủ pháo, trung liên, tiểu liên từ các đồi C, D, E vang lên, chứng tỏ các đơn vị bạn đã tiến hành đột phá bằng bộ binh rồi. Lê Sơn và các đại đội trưởng cũng không kiên nhẫn được, họ chẳng cần giữ bí mật nữa, chạy lại thét lên với tôi “Đánh chưa? Hết thời cơ rồi!”. Tôi cũng chỉ trả lời được là: “Về vị trí, sắp sửa rồi”. Đã 30 phút trôi qua từ khi toàn mặt trận nổ súng, chúng tôi vẫn chờ lệnh. Bỗng anh Bích reo lên: “Có lệnh đánh rồi!”. Thế là tôi vội ra khỏi hầm hét lên “Đánh đi!”. Chưa đầy 1 phút sau, đồng chí Cư báo về “Đã bắt đầu bộc phá”. Tôi theo dõi ánh chớp và tiếng nổ đều đều, biết rằng việc phá hàng rào đang diễn ra thuận lợi. Có thể một phút đầu địch nghĩ rằng ta chỉ nghi binh chứ không đánh A1 nên chỉ dùng hoả lực tại chỗ bắn trả. Mấy ụ súng tiền tiêu của chúng bị hai khẩu đại liên của đại đội trợ chiến do đồng chí Bật đại đội trưởng chỉ huy chế áp mạnh nên đạn bay vọt sang cả chỗ chúng tôi. Chỉ có 2 khẩu cối 81 ly trên đồi A1 và 4 khẩu cối 120 tại A2 của chúng tuy bị 2 khẩu sơn pháo của trung đoàn kiềm chế vẫn bắn được vài loạt đạn về phía đột phá của chúng tôi. Lực lượng tải thương đã phải chuyển một số thương binh về phía sau. Cuối cùng đội bộc phá của C317 cũng phá hết 4 hàng rào dây thép, mỗi hàng cách nhau 6-7m, trong đó có 3 hàng rào kép dày 3-4m và một hàng rào đơn cách lô cốt đầu cầu chừng 1m, kết thúc nhiệm vụ mở cửa bằng việc tiêu diệt lô cốt địch ở đầu cầu. Đội bộc phá đã hoàn thành nhiệm vụ, các đơn vị bộ binh lần lượt theo nhau xông lên. Tôi chỉ kịp nói với anh Bích và Bằng Khê: “Tôi vào đồn đây” và chạy theo C316, theo sát tôi là đồng chí Thái và hai liên lạc viên. Lúc này tại các trận đánh khác có lẽ quân ta đã giải quyết sắp xong hoặc ta, địch đang chiến đấu xen kẽ nhau, nên các loại pháo, cối của chúng gần như đổ dồn vào khu vực đột phá khẩu A1. Từng loạt, từng loạt đạn 155 ly, 105 ly, cối 120 ly thay nhau liên tiếp nổ trên đường tiến của chúng tôi. Số thương vong đã khá nhiều, đồng chí cán bộ tác huấn và một trong hai liên lạc viên theo tôi đã bị ngã. Anh em tải thương khi làm nhiệm vụ cũng bị hao hụt nhiều, nhưng tất cả mọi người, phía trước tôi là C316, sau tôi là C315, những ai còn sức đều cố gắng vượt qua cơn mưa đạn này để cố gắng xông vào đồn tiêu diệt quân thù, không ai lùi bước. Không biết địch đã bắn bao nhiêu tấn đạn và kéo dài bao lâu vào khu vực này. Chỉ biết tính chất ác liệt của nó được biểu hiện ra khi 5g30 sáng 31/3 tôi và anh Dũng Chi bị bật ra theo đường này thì không thấy cái cửa mở qua mấy hàng rào nữa mà xung quanh ngang, dọc, mỗi chiều chừng 50- 60m trên hướng đột phá tối hôm trước không có sợi dây thép gai nào, thậm chí không một chiếc cọc nào nhô khỏi mặt đất 10cm. Tất cả đều bị cắt đứt, còn trên mặt đất dày đặc vết đạn, vết nọ đè lên vết kia, nham nhở cả một mảnh đồi. Tiểu đoàn đã vào được trong đồn nhưng quân số bị hao hụt hơn 1/3. Vào trong đồn, tôi thúc C316 phát triển nhanh đề tiếp sức cho C317 vì tôi nghĩ Lê Sơn và Cư cũng đang cần chi viện, còn C315 theo kế hoạch phát triển theo hướng Tây Bắc. Hệ thống phòng thủ trong tung thâm A1 chia làm 3 tuyến, mỗi tuyến bố trí một số ụ chiến đấu trong các căn hầm nhỏ có mái dày chống được pháo của ta, các ụ chiến đấu và các tuyến nối với nhau bằng hệ thống giao thông hào khá sâu. (Tôi đứng gần ngập đầu). Với các cứ điểm độc lập thì cách bố trí này đánh không khó, chúng tôi chỉ cần bố trí một số súng máy kiềm chế các hoả điểm, rồi bộ binh xông lên dùng lựu đạn, thủ pháo tiêu diệt từng điểm một. Nhưng A1 nằm trong hệ thống tập đoàn cứ điểm nên ngoài 2 khẩu cối 81 ly của bản thân ra còn có các trận địa cối 81 ly, 120 ly của A2, A3 và lựu pháo 105 ly của tập đoàn liên tục bắn tới khiến bộ đội ta không thể phát triển trên mặt đất, phải đi một hàng dọc theo các ngách giao thông nên tốc độ quá chậm và cũng rất khó chỉ huy. Địch bố trí sẵn tại các ngách giao thông hào chống cự khá quyết liệt. Đang lúc có những tiếng lao xao: D1 đánh vào sườn D9 rồi! D1 nhầm hướng rồi! Anh Nhuận báo về: “một bộ phận D1 lọt vào đội hình D9”. Thì ra vì trời tối và bị pháo bắn rát quá, bộc phá D1 đã không mở cửa đúng hướng Tây Bắc như kế hoạch lại theo hướng chính Bắc. Tôi nghĩ nhanh trong đầu: gay rồi, không có lực lượng chia cắt địch, kiểu đánh vỗ mặt, dồn địch thế này thì khó có thể diệt gọn! Và cũng từ lúc đó sức kháng cự của địch trong cứ điểm hình như giảm nhiều, còn tốc độ của ta có vẻ nhanh hơn. Khoảng 20 phút sau, quân ta đã vượt đỉnh đồi sang phía tây, nhưng bỗng thấy anh em chững lại và có tiếng hô: Gặp hàng rào rồi! Thì ra đó là chiếc hàng rào đơn dọc theo hướng Bắc- Nam, ngăn khu đông và tây A1. Thấy tình hình khó khăn ngoài dự kiến, tôi lệnh cho đồng chí liên lạc duy nhất còn lại về báo cáo với anh Bích xin đưa đội dự bị vào. Khi đó vào khoảng 24 giờ đêm 30/3. Nhưng cũng từ lúc ấy, ngoài các khẩu cối quanh đó, các loại pháo 155 ly, cối 105 ly, cối 81 ly, của tập đoàn tới tấp bắn vào đội hình ta. Chúng bắn như mưa rào, nhiều quả đạn rơi cả xuống giao thông hào. Số thương vong tăng nhiều. Có thương binh bị kẹt lại trong hào vì không sao đưa ra được, chúng tôi đành phải lùi dần về đỉnh đồi, đưa thương binh ra và đợi đơn vị bạn đến tiếp sức. Trận pháo kéo dài hàng mấy giờ đồng hồ liên tục khiến nhiều đoạn hào bị sạt lở đến nỗi một số liệt sỹ của ta chưa kịp đem ra cùng cả tử thi địch trong hào cũng bị vùi lấp. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:14:01 pm Khoảng 2 giờ sáng, ngoài đạn pháo cầu vồng, tôi phát hiện hình như có tiếng đạn pháo bắn thẳng cỡ 40 ly hay 75 ly từ chân đồi A3 bắn lên và nghĩ bụng: “Mũi chia cắt, chặn viện không thực hiện được thì chắc chắn địch sắp phản kích. Tiếng pháo bắn thẳng đó có thể là của xe tăng địch chuẩn bị”. Tôi rất muốn liên lạc với Lê Sơn, với các đại đội trong tiểu đoàn và Dũng Chi D1, rất muốn báo cáo tình hình với Trung đoàn xin pháo cấp trên chi viện. Nhưng không có phương tiện thông tin nào nên đành bó tay. Lúc này tôi chỉ còn nắm được một tổ chiến đấu của C316 trong đó có anh Nhuận. Chúng tôi biết không thể trụ lâu nổi trước sự bắn phá ác liệt của hoả lực địch, đành phải lui dần. Khoảng 3h sáng vì chân đau do dẫm phải cọc rào và các mảnh pháo (tôi bị đứt dép từ ngoài cửa đột phá), tôi bị tụt lại sau theo một nhánh hào về phía đột phá của d9, còn anh em C316 lại bật sang hướng của d1. Đang mò mẫm đi thì nghe tiếng người trong một hầm chiến đấu của địch, tôi vội vàng ra phía trước chạy vụt vào thì thấy anh Hùng Tân tiểu đoàn phó 255 và anh Hồng Giang chính trị viên đại đội trợ chiến d9 cùng mấy chiến sĩ đang ở đó. Thì ra đồng chí liên lạc do tôi phái về báo cáo với anh Bích đã đến nơi và Trung đoàn đã lệnh cho C924/d255 vào tăng viện từ 1g30 phút sáng 31/3. Nhưng các đồng chí đó vào theo hướng phát triển của C315 nên không gặp tôi. Hướng Tây Bắc là nơi địch bắn phá ác liệt hơn cả nên cả C315 của d9 lẫn C924 của d5 đều bị thương vong nặng nề, mất sức chiến đấu, số còn lại cũng phải lui về bố trí quanh đấy. Tôi hỏi anh Hùng Tân có điện thoại liên lạc với Trung đoàn không thì được biết không có gì! Vì dây điện thoại bị đứt vụn nhiều đoạn, chiến sỹ thông tin đi nối dây bị thương hết. Đang lúc bối rối khó xử, chợt thấy một người chạy ào vào, trời còn tối không rõ mặt người, chúng tôi chưa kịp hỏi thì người đó đã hỏi: “Thằng Hoè đâu?” Té ra là Dũng Chi! Tôi đáp: “Tớ đây!” Anh hỏi tiếp: “Bên này thế nào? Tao hết quân rồi!”. Sau khi trao đổi, chúng tôi thấy tình hình rất khó khăn, với lực lượng còn lại tại chỗ không thể giữ nổi, cần trình bày cụ thể với Trung đoàn để xin ý kiến trên xem sao. Máy thông tin không có, để chiến sỹ liên lạc về báo cáo không thể nói hết mọi sự việc! Vì vậy chúng tôi nhất trí để anh Hùng Tân sẽ chỉ huy lực lượng bám giữ trận địa, tôi xuống chỗ máy điện thoại báo cáo về Trung đoàn. Dũng Chi ra để tập hợp lại đơn vị chờ lệnh trên. Khi tôi và anh Dũng Chi ra khỏi hầm thì trời đã sáng rõ rồi. Xuống đến hào giao thông gặp anh Lê Sơn và anh Toạ chính trị viên C317 - Nghe anh Sơn, nói tôi biết C317 bị thương vong nặng, số còn lại bị bật ra hướng d1. Tôi mừng vì thấy Lê Sơn an toàn nhưng cũng rất buồn vì tiểu đoàn đã bị tổn thất nặng quá! Tôi lần đến chỗ điện thoại, được biết anh Bằng Khê và anh Bích sau đó cũng băng qua đột phá khẩu vào đồn nhưng không có phương tiện thông tin, không nắm được đơn vị nào. Cán bộ tác huấn, liên lạc viên theo sau bị thương hết. Bản thân hai anh cũng bị pháo bắn cho không trụ nổi phải bật ra. Tôi gọi điện báo cáo với anh An mọi diễn biến trong đêm. Với giọng lo lắng, anh An nhắc tôi động viên anh em cố giữ lấy đầu cầu để xin trên tiếp viện. Tôi trình bày rõ ràng hiện chỉ còn một bộ phận nhỏ của d5 khó đánh lại quân phản kích của địch. Từ 6 giờ sáng địch lại bắn như mưa vào nơi anh em C924/d5 đang bám giữ, khoảng 7 giờ sáng 31/5, xe tăng và bộ binh địch chiếm lại đỉnh đồi. Khoảng 8 giờ sáng 31/5, bộ phận cuối cùng của d5 và một số anh em thuộc C315, C316/d9 cũng bị bật ra, anh Hùng Tân bị thương. Xế trưa, anh An gặp tôi ở chân đồi A1, một phần có thể vì lo lắng do không hoàn thành nhiệm vụ, một phần có thể bực mình vì chúng tôi đánh kém quá nên chỉ nói ngắn: Tập hợp số anh em còn lại để tối nay phối hợp cùng đơn vị bạn của đại đoàn 308 tiếp tục chiến đấu. Tôi báo cáo các cán bộ đại đội, trung đội bị thương vong cả rồi; số chiến sỹ chỉ còn chưa đầy 30 người có thể chiến đấu được. Anh thở dài nhìn hai bàn chân tôi rồi nói: “Cậu đau chân rồi, phải nghỉ thôi. Để tôi bảo Lê Sơn làm việc này". Nói rồi anh hối hả đi gặp Lê Sơn, bảo tổ chức lại lực lượng để cùng số còn lại của d1 tối nay đánh tiếp”. Tôi được Quân Y dìu về hậu cứ băng bó lại hai bàn chân, vì suốt đêm dẫm vào bùn đất có dính máu của đồng đội nên đã sưng tấy, phải chống gậy mới đi lại được. Chiều tối hôm đó nằm ở hậu cứ, tôi vừa đau vừa buồn, không hiểu anh em mình chiến đấu ra sao? Đang suy nghĩ mông lung thì có một đồng chí thương binh nhẹ về qua kể chuyện rằng: lúc buổi chiều khi đi quan sát vị trí địch có một cán bộ của đơn vị bạn đã nói rằng: “Cái đồn này chỉ cần hỉ mũi một cái là xong, thế mà không đánh được!”. Tôi cảm thấy xấu hổ vì đã không hoàn thành nhiệm vụ, lại bị đơn vị bạn coi thường. Tôi cảm thấy buồn quá, nhưng cũng giật mình nghĩ: lúc đầu anh em ta cũng chủ quan, cho rằng việc tiêu diệt A1 là không có gì khó khăn. E rằng đơn vị bạn cũng đi theo vết ấy thì sẽ bị vấp nặng đấy! Và đúng như vậy, đơn vị bạn cũng bị tiêu hao một bộ phận và không diệt được địch. Các trận chiến đấu kéo dài đến 4/4 thì dừng, địch tiếp tục chiếm đóng và củng cố công sự tại đây. Mấy ngày sau nữa, trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An, chính ủy trung đoàn Trần Huy và các tiểu đoàn trưởng lên Mường Phăng dự hội nghị sơ kết đợt hoạt động. Không khí cuộc họp thật nặng nề, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phê phản các khuyết điểm của các đơn vị bằng thái độ rất nghiêm khắc; đã phê bình đồng chí Nguyễn Hữu An và đồng chí Trần Huy; môt trung đoàn phó bị cách chức, một cán bộ tiểu đoàn thuộc trung đoàn 102 bị kỷ luât nặng vì dao động trong chiến đấu. Như vậy có 4 người bị tuyên bố kỷ luật đều do không hoàn thành nhiêm vụ tại A1. Tôi đã nín thở, lạnh người chờ nghe tuyên bố kỷ luật đối với mình, nhưng may quá, không có chuyện gì xảy ra nữa! Tuy vô sự nhưng tôi cảm thấy hơi bất mãn cho cái án kỷ luật này. Dọc đường về, tôi hỏi Dũng Chi: “Cậu nghĩ thế nào về vấn đề thi hành kỷ luật này?”. Dũng Chi nói: “Úi trời! Còn nghĩ nữa! Sợ bỏ mẹ ấy chứ! May cho mày đấy! Hôm nọ tao nghe lỏm mấy ông bàn thi hành kỷ luật cả lũ, trong đó có mày, người bảo phải cảnh cáo, người nói phải cách chức, nhưng không hiểu sao hôm nay cụ Giáp lại tha cho mày!” Tôi hỏi: “Tại sao người ta khép tội tớ, còn cậu thì bỏ qua?” Dũng Chi cười khà khà nói đùa: Tại cậu là tiểu đoàn trưởng chủ công nên tội lớn hơn cả! Tôi cũng bật cười vì tính vô tư và câu nói đùa đó, nhưng cảm thấy ấm ức trong lòng và tự hỏi: “Ai chịu trách nhiệm về việc e174 tham gia chiến đấu chậm tới hơn 30 phút, lỡ mất thời cơ đột phá của đơn vị, sai lệch cả kế hoạch hiệp đồng toàn mặt trận, khiến bộ đội bị thương vong nặng? Tại sao pháo cối địch thoải mái bắn không ngớt vào đầu quân ta mà ta không bị kiềm chế? Tại sao hàng tiểu đoàn địch có xe tăng dẫn đầu xông lên phản kích vào đơn vị chỉ có súng trường, lựu đạn và đã qua suốt đêm chiến đấu mà không thấy ai giúp đỡ, chặn lại? Tại sao cuộc chiến đấu khó khăn, ác liệt thế mà việc thông tin liên lạc lại không thông suốt? Không biết trước khi chiến đấu đã có ai nghĩ đến các vấn đề này không? Cách giải quyết ra sao? Trách nhiệm của những thiếu sót “nguy hiểm chết người” này thuộc về ai? Không hiểu vì sao mọi tội lỗi người ta đổ cả lên đầu cán bộ trung đoàn và tiểu đoàn? Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:15:08 pm Sau chiến dịch, tôi được điều về thay anh Y, có nhiều dịp cùng làm việc, cùng nghỉ ngơi với anh An, thỉnh thoảng có nhắc đến vấn đề này. Lúc đó anh chỉ thở dài, lắc đầu nói: “Khó lắm! Hình như người ta có định kiến rằng sự việc không thành là do cấp dưới gây nên, còn cấp trên chỉ có liên quan nhẹ thôi. Đối với cậu và Dũng Chi, một số ý kiến đòi phải có kỷ luật, nhưng mình và anh Bích đều nói rằng các cậu không có khuyết điểm gì trong trận này, có lẽ Đại đoàn đã đồng ý như vậy”. Tôi cảm ơn người chỉ huy đã hết lòng bảo vệ cấp dưới mặc dù bản thân mình cũng bị trên phê phán. Tuy “thoát tội” nhưng chúng tôi cũng thấy tư tưởng chủ quan khinh địch của mình là đáng phê bình. Đại đoàn lại giao cho trung đoàn 174 nhiệm vụ tiếp tục đánh A1. Đối với d9 vấn đề quân số lúc này là rất khó khăn, 4 đại đội trưởng chỉ còn một đại đội trưởng trợ chiến, đại đội phó không còn ai; cấp trung đội, tiểu đội mất hơn 80%, chiến sỹ chỉ còn khoảng hơn 20 người. Anh Học Hải và trợ lý chính trị của tiểu đoàn phải đến các trạm quân y tìm và động viên anh em bị thương nhẹ và các bệnh binh mau trở về đơn vị. Một số anh em bị ốm, bị lạc đơn vị trong quá trình hành quân từ Thanh Hoá ra cũng dần dần về tập trung, đến cuối tháng 4 tiểu đoàn đã tổ chức được đủ 4 đại đội nhưng quân số không được đủ như biên chế. ... Khi trao đổi về cách đánh, nhiều người có ấn tượng khá nặng về sự nguy hiểm của chiếc hầm ngầm. Thậm chí có người còn cho rằng nếu không diệt được hầm ngầm thì không thể chiếm được A1. Tôi suy nghĩ khác, vì được trực tiếp chiến đấu suốt đêm 30/3 nên tôi thấy rõ địch đã phát huy có hiệu quả các thế mạnh của chúng là pháo, cối và quân phản kích (có xe tăng yểm trợ trực tiếp). Ngược lại, ta không có cách đánh phù hợp để làm giảm hoặc vô hiệu hoá các thế mạnh của chúng khiến bị thương vong nặng ngay từ đầu, tiếp sau đó càng ngày càng bị động dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ. Theo sự suy nghĩ của tôi thì việc bắn pháo và phản kích có liên quan đến nhau: địch phản kích vì thấy có hy vọng cứu bọn bị đánh. Muốn phản kích thì phải dùng pháo bắn để tiêu hao ta, dọn đường cho quân tiến lên. Nhưng nếu thấy vì lý do nào đó không bắn pháo được hoặc bắn không hiệu quả (ví dụ: ta và quân nó xen kẽ cao độ, không có khoảng cách an toàn, quân phản kích có thể bị ngăn chặn lại trước khi đến đích v.v...) thì khả năng phản kích cũng như bắn pháo có thể giảm đi. Vì vậy nghiên cứu cách đánh phải đề xuất được các biện pháp làm giảm các thế mạnh của chúng. Hôm được Tư lệnh đại đoàn gọi lên bàn việc, tôi cũng báo cáo về suy nghĩ đó. Khi đồng chí đó hỏi cách đánh, tôi đề nghị Trung đoàn vẫn đột phá theo hai hướng. Hướng chính vẫn như cũ, nhưng phải thực hiện việc thọc sâu chia cắt, nhanh chóng áp sát, tạo thế xen kẽ ngăn chặn không cho địch co cụm hoặc rút về phía A3 hay chui xuống hầm ngầm. Hướng chia cắt nên thực hiện đột phá cách cửa mở cũ của d1 khoảng 50- 60m về phía Tây, phát triển nhanh lên hướng Tây Bắc, cắt 1/3 cứ điểm A1 về phía Tây, vừa có thể chặn đường rút của A1 có thể chặn quân phản kích từ A3 lên. Nếu ta, địch ở trung tâm A1 trong thế cài răng lược trong từng khu vực nhỏ thì pháo địch khó phát huy hiệu quả. Không có hoả lực chi viện mạnh thì quân phản kích của chúng dễ bị chặn lại. Còn đối với hầm ngầm, tôi báo cáo thực là chưa nghĩ ra cách đánh, nhưng theo tôi, nếu có cách nào đó phá được cũng tốt. Nếu không thì cũng không phải là trở ngại lớn vì đó không phải là công sự chiến đấu. Nghe xong, Tư Lệnh gật đầu nói: “Đã có một số ý kiến tương tự như thế này. Đại đoàn sẽ cùng Trung đoàn trao đổi rồi quyết định sau” Vài hôm sau đó, Trung đoàn triệu tập cán bộ tiểu đoàn lên phổ biến kế hoạch tác chiến đã được trên xét duyệt, đại ý như sau: - Sẽ đào một hầm sâu vào lòng núi để đặt thuốc nổ phá hầm ngầm của A1, lực lượng do Đại đoàn bố trí, Trung đoàn cử lực lượng bảo vệ và giúp đỡ khi cần. - D9 đột phá từ hướng Đông, sau đó tiến hành hai mũi thọc sâu, một mũi phát triển thang sang hướng Tây, một mũi chếch theo hướng Đông - Đông Nam vừa diệt địch vừa bảo vệ sườn bên phải cho d1 phát triển. - D1 đột phá theo hướng Đông Nam - Tây Bắc chia cắt 1/3 của điểm A1 về phía Tây và chặn quân tiếp viện của địch từ A3 lên A1, tạo điều kiện cho d9 tiêu diệt gọn quân địch ở A1. - D5 trước mắt làm nhiệm vụ bảo vệ bộ phận đào hầm, chốt giữ Đồi Cháy bảo vệ các đoàn cán bộ đi trinh sát thực địa. Khi chiến đấu làm dự bị cho d9, sẵn sàng phát triển xuống A3 sau khi ta diệt A1. Nghe xong, tôi đề nghị nên để d5 làm dự bị cho d1 bị uy hiếp từ ba phía (trước mặt và hai bên sườn) nên có sẵn lực lượng phía sau đề phòng lúc khó khăn. Nếu địch phản kích mạnh, d5 có thể nhanh chóng cùng d1 đánh chặn, một khi quân phản kích địch không tiến lên được thì d9 có thể một mình tiêu diệt phần còn lại của A1. Trường hợp d9 gặp khó khăn thì d5 vẫn có thể từ hướng đột phá của d1 đánh ngược sang phía Đông tạo thành 2 mũi giáp công (d5 + d9) bao vây tiêu diệt địch. Và sau khi diệt xong A1, nếu d5 ở phía sau d1 có điều kiện nhanh chóng phát triển sang A2- A3 Công tác chuẩn bị của d9 có phần nhẹ hơn d1, nhưng so với lần trước thì Dũng Chi cũng có nhiều thuận lợi vì ta đã làm chủ Đồi Cháy nên công việc trinh sát được tiến hành cả đêm lẫn ngày sát ngay hàng rào địch. Vất vả hơn cả có lẽ là Đôn Tự. D5 vừa phải giúp đỡ về nhân lực, vừa phải bảo vệ tổ công binh đào hầm ngay dưới tầm ném lựu đạn và cối của địch, suốt hơn 20 ngày đêm ròng rã. Và cũng khoảng thời gian đó các anh phải chịu đựng không biết bao nhiêu bom, đạn địch trút xuống khu vực bố trí tại Đồi Cháy, nơi phải bố trí và bảo đảm cho các đoàn cán bộ đi trinh sát. Mọi công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương. Anh em tuy vất vả nhưng không ai kêu ca phàn nàn, tất cả tin tưởng vào thắng lợi sắp tới vì thấy sự chuẩn bị lần này rất chu đáo. Tư lệnh và Chính ủy Đại đoàn cũng thân đến Đồi Cháy và chân đồn A1 để quan sát tình hình và động viên chúng tôi. Một lần đến thăm chúng tôi, Tư lệnh hỏi: “D9 thế nào?”. Câu hỏi hơi trừu tượng nhưng tôi cũng báo cáo: “Thưa anh, thực lực không bằng lần trước nhưng thế mạnh lại gấp nhiều lần ạ!”. Ông cười gật đầu rồi nói: “Cố gắng nhé!”. Chính uỷ Đại đoàn trước ngày “N” cũng gọi điện động viên chúng tôi. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:16:44 pm Cuối cùng mọi công việc đã xong và ngày “N” đã đến. Ngày 5/5 anh An thông báo: đồng chí Nguyễn Đức Y trung đoàn phó, tham mưu trưởng Trung đoàn sẽ tăng cường cho chỉ huy d9 (lại tăng cường) đồng thời nhắc nhở tiểu đoàn một số điều cần chuẩn bị để đơn vị khỏi bị ảnh hưởng của khối thuốc nổ phá hầm ngầm. Theo dự kiến của các chuyên gia, với trọng lượng 1.000kg, khối thuốc này sẽ có tiếng nổ rất lớn, sức chấn động cực mạnh, có thể làm vỡ mang tai, tức ngực, thậm chí đứt mạch máu não của những người lộ trên mặt đất trong khoảng cách 300m. Ánh lửa chớp của nói có thể làm mù mắt các sinh vật gần đấy khoảng 200-300m. D9, đơn vị gần khu vực nổ nhất, cần phải thực hiện các yêu cầu sau: - Tất cả phải ở dưới giao thông hào cách xa tâm nổ 300m trở lên - Nằm quỳ gối, chống tay, nhắm mắt, há mồm chổng mông về hướng nổ Nghe phổ biến xong, chúng tôi rất lo, nếu khối thuốc không nổ, tổ bộc phá sẽ khó khăn vì khoảng cách 300m quá xa, anh em dễ bị thương vong khi lên phá hàng rào. Anh Lê Sơn đề nghị cho bố trí cách 100m thôi vì ta nằm dưới hào, tâm nổ lại tận trên lưng chừng đồi cao hơn ta tới 10m chắc không ảnh hưởng mấy, nhưng Trung đoàn không đồng ý vì không bảo đảm. Vì vậy chúng tôi phải cấp tốc tăng thêm bộc phá viên dự bị. 19 giờ 00 tối 6/5, toàn tiểu đoàn đã triển khai đội hình hàng dọc dưới giao thông hào, trừ tổ canh gác còn tất cả quay lưng về A1; 19g30 rồi 20 giờ 00. Tôi suốt ruột hỏi anh Y “Sắp đến giờ “G” chưa?”. Anh đáp: “Sắp rồi đấy”. 20g 15 phút vẫn chưa nghe thấy bộc phá nổ. 20 giờ 30 phút, bỗng có tiếng chân người lao xao chạy từ phía A1 lại, phía trước có người hỏi: “Cái gì thế?”. Tôi cũng hỏi tiếp: “Ai đấy?” thì có tiếng trả lời khẽ: “Công binh đây! Điểm hoả rồi! Sắp nổ rồi!”. Anh Y gọi điện về Trung đoàn, còn tôi vội hạ lệnh: “Chống tay nhắm mắt, há mồm!”. Hô xong, tôi cũng vội phục xuống hào, chống tay, há mồm, chổng mông về phía A1. Lúc này thần kinh tôi căng thẳng, chờ đợi tiếng nổ kinh thiên động địa mà thầm lo không biết mình có chịu đựng nổi không. Nếu xảy ra chuyện gì thật tiếc cho bao nhiêu ngày chuẩn bị mà không được chiến đấu. Một phút rồi hai phút trôi qua, sao thời gian chậm thế? Sao mấy “thằng cha” để dây cháy chậm dài thế? Miệng khô, họng rát mà không dám ngậm lại để nhấp nước bọt, đầu ngứa, cổ ngứa cũng không dám bỏ tay ra để gãi, (chống bằng khuỷu tay còn bàn tay bị bịt tai) chỉ sợ mình vừa ngậm mồm vào hay rời bàn tay khỏi tai mà nó nổ thì bỏ mẹ. Cứ thế khoảng 4-5 phút mới nghe thấy “Ục” một tiếng nặng nề kèm theo một làn chấn động nhẹ làm rung rinh mặt đất. Khoảng 1 giây đồng hồ và một ít đất đá vụn bắn xuống chân đồi (chưa đến chỗ đơn vị bố trí). Có tiếng Lê Sơn quát: “Nổ rồi!”. Tôi không ngờ sự việc lại kết thúc quá nhẹ nhàng so với dự kiến, đồng thời cũng lo lắng vì chưa hiểu kết quả của cái “tác phẩm” này ra sao. Tôi hét to: “Báo cáo anh Y, cho bộ đội lên nhé!” và ra lệnh “Tiến lên” Khi bàn kế hoạch, chúng tôi nhất trí nếu khối thuốc nổ phá hầm ngầm thành công thì không cần tổ bộc phá lên phá hàng rào nữa, song với tình hình này không rõ, tiếng nổ như vừa rồi có phá được hầm ngầm không và nhất là hàng rào có còn không? (Sau đợt chiến đấu trước địch đã tu sửa lại công sự tiền duyên nhưng mới kịp làm một hàng rào rộng khoảng 3-4m thôi). Nhưng anh Lê Sơn phát hiện thấy một số đất đá văng xuống chân đồi thì phán đoán khu vực ta định mở cửa đã bị phá, khả năng không còn hàng rào nữa nên đã hạ lệnh xung kích theo sau ngay tổ bộc phá. Khi đại đội 317 bắt đầu xuất kích thì các loại pháo của Mặt trận, Đại đoàn, Trung đoàn đã bắn dồn dập vào cửa điểm địch để yểm trợ cho chúng tôi tiến lên. Khối thuốc nổ đã tạo thành hình phễu trên mặt đất có đường kính khoảng 10m, sâu chừng 3m, tâm nổ cách lô cốt đầu tiên khoảng 15m, hàng rào giây thép gai bị biến mất. Theo kế hoạch từ trước, đại đội 317 từ phía Bắc hố bộc phá đánh chiếm lô cốt đầu cầu rồi chọc thẳng vào trung tâm cứ điểm. Sức chống cự của địch ở hướng này không mạnh lắm. Ngay khi vượt tuyến phòng thù ngoài cùng, anh em đã thấy một số xác địch, cả trên mặt đất lẫn dưới giao thông hào. Có thể số này ở gần tâm nổ của khối thuốc phá hầm ngầm nên bị chấn động mạnh, choáng váng, hoảng loạn, chưa kịp hoàn hồn thì bị pháo ta bắn chết. Khoảng 30 phút chiến đấu, đại đội 317 đã chiếm được trung tâm chỉ huy A1 và phát triển tiếp về phía Tây. Địch ở đây dạt sang 2 bên và tiếp tục bị các đại đội 316 và 315 diệt và bắt sống. Đại đội 316 tiến vào căn cứ địch từ phía Nam hố bộc phá phát triển theo hướng Tây Nam, hướng này địch chống cự khá quyết liệt, đại đội trưởng Trương Duyên bị thương ngay từ đầu, nhưng anh em vẫn tiếp tục chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ. Theo dự kiến, đại đội 315 là dự bị của tiểu đoàn và di chuyển sau 317. Nhưng khi chúng tôi vào cứ điểm địch (các anh Y, Bằng Khê và tôi cùng đi sau C317). Tôi phát hiện một ngách hào từ phía Đông chạy vòng lên phía Tây Bắc. Tôi nhớ ra ngách hào này đã có từ trước, đây là đường rút của địch từ phía Đông xuống phía Tây, và trên mặt đất song song với thành hào là con đường chúng đã cho xe tăng dẫn đầu toán quân phản kích trong trận đánh trước mà tôi đã chứng kiến. Tôi nghĩ phải nhanh chóng điều đại đội 315 đánh sang hướng Tây Bắc để chặn địch rút và chuẩn bị đánh quân phản kích khi cần thiết. Không kịp báo cáo trung đoàn phó Y và Bằng Khê, tôi quay lại gặp đại đội 315 lúc đó đang lục tục kéo nhau lên (315 đi sau 316 nên cách 317 một quãng khá xa). Tôi lệnh cho 315 phát triển ngay sang hướng Tây Bắc chứ không theo sau 317 nữa. Xong rồi tôi quay về sở chỉ huy tiểu đoàn lúc này đang ở trong hầm chỉ huy Trung tâm A1. Hình như mọi người không hài lòng khi thấy tôi vào muộn, anh Y chỉ nhìn tôi mà không nói gì, còn Bằng Khê thì hỏi: “Vừa rồi cậu đi đâu thế?”. Tôi đáp ngắn gọn: “Quay lại lệnh cho 315 đánh lên hướng Tây Bắc, không đi theo 317 nữa. Và 3 người chúng tôi không ai nói gì với nhau nữa. Trận này pháo cối địch bắn không nhiều, hơn nữa đường dây điện thoại rải dưới lòng giao thông hào nên việc liên lạc từ tiểu đoàn xuống các đại đội 317, 316 thông suốt. Riêng đại đội 315 vì là dự bị của tiểu đoàn nên chưa có máy điện thoại - Anh Y liên tục làm việc với Trung đoàn và Lê Sơn, còn tôi ngồi nghe họ nói chuyện. Không khí trong hầm có vẻ hơi nặng nề. Chợt lúc ấy có tiếng súng nổ ở hướng 315. Tôi nghĩ: “Đã có dịp “thoát ly” rồi”. Và nói to với Bằng Khê nhưng cũng để mọi ngươi nghe thấy. “Tôi xuống 315 đây” rồi chui ra khỏi hầm. Chỉ kịp nghe Bằng Khê quát: “Liên lạc theo anh Hoè”. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Hai, 2022, 08:17:28 pm Lần này mật độ pháo địch bắn vào A1 giảm rất nhiều so với những lần đánh trước. Có thể có nhiều lý do như: không đủ đạn pháo (thả dù ra ngoài), trận địa pháo bị ngập lụt, bị pháo ta kiềm chế v.v... Nhưng theo tôi, lý do quan trọng nhất là ta và quân địch ở vào hai thế xen kẽ cài răng lược, Trung tâm chỉ huy cứ điểm lại bị đánh chiếm ngay từ đầu nên chúng không biết bắn pháo vào đâu. Lợi dụng tình hình đó và cũng đã biết rõ hướng đi từ lần trước, tôi không đi dưới hào mà chạy tắt trên mặt đất đến một quãng hào có người, nhảy xuống đúng vào đội hình đại đội 315. Tôi vượt lên phía trước gặp đại đội trưởng Hải Bằng và được biết 315 đã diệt được 3 ổ chiến đấu của địch, bắt được một số tù binh, đang tiếp tục phát triển theo hướng Tây Bắc. Địch kháng cự khá mạnh, nhưng ta chỉ có vài trường hợp bị thương. Tiếp đó, tôi đi cùng 315 theo giao thông hào cạnh con đường đất mà những lần trước xe tăng và quân phản kích địch đã từ A3 tiến lên. Vào quãng gần 3h sáng, bỗng có nhiều loại súng tiểu liên, súng trường nổ cách chỗ chúng tôi khoảng 20-30m về phía Tây. Tiếng đạn bay vèo vèo qua đầu. Tôi chợt nghĩ: địch phản kích à? Nhưng với kinh nghiệm bản thân, thấy không có pháo bắn, tôi hiểu rằng D1 cũng đã đến nơi rồi! Đúng rồi! Chỉ có 10 phút sau có tiếng ồn ào: “Gặp D1 rồi; gặp Sóc Trăng rồi". Tôi lệnh đại đội cho liên lạc với D1, đồng thời tiếp tục sục sạo các ngách hầm, hào xung quanh đó. Không lâu sau đó, có tiếng Hải Bằng vọng về sau: “Báo cáo anh Hoè, có một toán địch ẩn nấp trong hầm, đề nghị cho thủ pháo để đánh”. Lúc đó làm gì còn thủ pháo với bộc phá. Tôi nói: “Cứ gọi hàng đã, nếu không ra sẽ đánh”. Đường hào chật chội đông người, tôi đang len lên thì đồng chí báo vụ đến báo: sở chỉ huy đang gọi tôi nói chuyện. Thì ra sau khi tôi đi khỏi sở chỉ huy, tiểu đội thông tin liên lạc của tiểu đoàn đã bố trí một máy điện thoại sang 315 để nắm bắt tình hình. Thấy tôi đi khá lâu mà không có tin tức gì nên anh Y gọi để nắm tình hình. Tôi báo cáo: đã liên lạc được với d1. C315 đang sục sạo chung quanh, có khả năng diệt hoặc bắt thêm một số địch nữa. Báo cáo xong, tôi vội đi lên phía trước đội hình đại đội. Thấy tôi, Hải Bằng với giọng phấn khởi: “Báo cáo anh Hoè, bắt được thằng chỉ huy A1 rồi” và dẫn tên tù binh đến trước mặt tôi, nói tiếp: “Thằng này là quan ba tạm quyền chỉ huy tiểu đoàn”. Tôi mừng quá, hỏi lại: “Cậu đã hỏi bọn lính xem nó có phải là chỉ huy không?”. Hải Bằng đáp: “Hỏi rồi”. Với vốn liếng tiếng Pháp ít ỏi của mình, tôi hỏi tên tù binh: “Anh là ai?”. Đáp: "Đại uý Giăng Pu-giê, chỉ huy căn cứ Eliane 2”. Nhìn tên tù binh thấy đầu trần, vai không đeo quân hàm, tôi hỏi “Lon đâu?”. Nó không đáp, thò tay vào túi quần móc ra đôi quân hàm đại uý đưa ra trước mặt tôi. Thế là đủ rồi! Tôi nói với anh Hải Bằng: “Các cậu chờ một chút, mình báo cáo về Sở chỉ huy”. Nói rồi quay về chỗ máy điện thoại định báo cáo với anh Y và Bằng Khê nhưng máy điện thoại của Sở chỉ huy đang bận. Tôi sốt ruột hỏi một câu “cầu may”. “Thế máy này có liên lạc được với Trung đoàn không?". Đồng chí báo vụ đáp: “Được ạ”. Tôi mừng quá nói: “Thế cậu cho mình liên lạc với Ban chỉ huy Trung đoàn với”. Chưa đầy 1 phút sau, tôi đã gặp Chính ủy Trần Huy ở đầu bên kia. Tôi đã báo cáo là chúng tôi đã liên lạc được với D1 và bắt được tên chỉ huy cứ điểm A1. Đồng chí Huy hỏi lại: Có đúng thằng chỉ huy không? Tên là gì? Nó bây giờ ở đâu? Anh bây giờ ở đâu? Tôi báo cáo: “Tôi đang đi với C315 ở Tây Bắc A1 chỗ tiếp giáp với d1. Thằng chỉ huy A1 là đại uý Pu-giê, nó đang đứng trước mặt tôi. Chính ủy Trần Huy nói: “Thay mặt Ban chỉ huy Trung đoàn, tôi biểu dương thành tích này của tiểu đoàn 9. Bây giờ anh cho đơn vị bố trí tại chỗ và liên lạc chặt chẽ với d1. Còn anh phải trực tiếp đưa tên chỉ huy A1 về chỗ anh Y ngay. Trung đoàn sẽ cử người tới làm việc”. Chán thật! Tôi đang định tranh thủ “tạt” qua d1 xem Dũng Chi làm ăn ra sao, nhân tiện “khoe” việc bắt Pu-giê cho cậu ấy thèm, nhưng thế này thì mất thời cơ rồi. Chính uỷ lại bắt mình đích thân dẫn tù binh về. Nếu trước mặt mọi người mà nó phản cung lại không phải là chỉ huy A1 thì không có chỗ nào mà chui. Lại còn đi đường, chẳng may nó bị đạn lạc bắn chết thì mình cũng không sống nổi vì không hoàn thành nhiệm vụ. Và biết đâu mọi người lại nghĩ là mình báo cáo láo để lấy thành tích. Giá biết thế cứ chờ để báo về Sở chỉ huy tiểu đoàn thì hay hơn, dại thật! Nhưng chung quy có lẽ cũng tại cái máy điện thoại. Lần trước không có cái nào đã khổ, lần này nhiều máy quá cũng khổ. Anh Hải Bằng cho 2 chiến sỹ đi cùng tôi dẫn tên Pu-giê về tiểu đoàn. Đi được chừng 30m, chợt thấy tiếng Dũng Chi hét: “Thằng Hoè đâu?”. So với tiếng gọi của cậu ta tại lô cốt đầu cầu sáng 31/3 thì lần này (sáng 7/5) có vẻ to hơn và phấn khởi hơn. Có tiếng Hải Bằng nói gì đó tôi không nghe rõ. Tôi muốn quay lại nhưng không được vì đã hơi xa và vướng tên tù binh. Vào đến Sở chỉ huy, thấy không khí ở đây nhộn nhịp vui vẻ lắm, có lẽ vì các đại đội dễ hoàn thành nhiệm vụ và nhất là tiểu đoàn 9 lại bắt được tên chỉ huy cứ điểm A1. Chưa kịp nói chuyện với ai thì báo vụ viên gọi tôi đến máy gặp Tư lệnh Đại đoàn. Vội báo cáo mấy câu với anh Y và bảo liên lạc dẫn tên tù binh sang ngách hầm bên, rồi tôi đến bên máy điện thoại nghe Tư lệnh gọi. Thì ra Đại đoàn và có lẽ cả Mặt trận lúc này cũng đã có tin về việc ta tiêu diệt A1, bắt sống Pu-giê. Tư lệnh hỏi tình hình diễn biến trận đánh và việc bắt tên quan ba Pu-giê. Nghe xong, ông khen đánh như vậy là tốt và chuyển lời Bộ Tư lệnh biểu dương toàn tiểu đoàn, căn dặn chuẩn bị để có thể tiếp tục làm nhiệm vụ mới. Liền sau đó, anh An gọi điện biểu dương đơn vị và lệnh d9 tập trung hoả lực bắn vào đội hình quân địch đang phản kích lên C2 để chi viện cho 98. Tôi lập tức lệnh cho C315 chuẩn bị địa điểm bố trí hoả lực (nơi C315 đang bố trí đối diện với sườn núi C2, hai bên cách nhau chưa đến 100m) và lệnh cho C trợ chiến chuyển mấy khẩu đại liên, súng cối 81 ly của tiểu đoàn đến ngay C315 nhận nhiệm vụ. Sau đó hội ý nhanh với Bằng Khê và Lê Sơn về chỉ thị của cấp trên. Chúng tôi thống nhất cho anh em tranh thủ nghỉ ngơi lấy sức. Lúc đó đã là 4 giờ 30 sáng 7/5. Xong xuôi rồi tôi lại chạy đến C315, xem việc bố trí hoả lực ra sao. Đến nơi thấy Hải Bằng đang lom khom hướng mấy khẩu súng máy sang phía C2. Thấy tôi, Hải Bằng reo lên: “A! anh Hoè, lúc anh mới đi khỏi, anh Dũng Chi đến hỏi: Thằng Hoè đâu? Tôi nói anh vừa đi rồi!" Theo dõi anh em bắn chi viện cho 98 đến 8h sáng 7/5, tôi quay về sở chỉ huy được biết d1 đã xuống A3. Nhắc các đơn vị bị bố trí canh gác xong, tôi mới nằm nghỉ một lúc - Khoảng 12 giờ trưa, lúc đang ăn cơm, chúng tôi thấy có 1 toán khá đông lính địch (cả Âu, Phi và nguỵ) từ A2, A3 cầm cờ trắng (vải trắng buộc vào que) đi qua A1 về phía sau - 13 giờ phát hiện một số cứ điểm bên Mường Thanh lác đác có cờ trắng. 15h, theo lệnh Trung đoàn, tôi đem theo một trung đội của 315 lội qua sang bờ phía Tây sông Nộm Rốm nắm tình hình. Sang đến nơi, thấy các cứ điểm đều đã có quân ta kiểm soát nên tôi cho anh em bố trí cạnh bờ sông rồi báo cáo về. Khoảng 17 giờ, Bằng Khê gọi điện báo cho anh em về để chuẩn bị xuống Hồng Cúm. Lúc này hình như các đơn vị bạn cũng đang thu quân và từng toán tù binh cũng đang được dẫn lên phía Bắc Mường Thanh ra đường Tuần Giáo, về đến chân đồi A1 thấy vắng lặng không một tiếng người, tôi nghĩ có lẽ đơn vị đi Hồng Cúm rồi, lại phải đuổi theo thôi, mệt thật. Lên đến đỉnh đồi, thấy một đồng chí liên lạc đang chờ và báo cho tôi biết đơn vị được lệnh về hậu cứ rồi, không đi Hồng Cúm nữa. Trời đã tối, tôi cho anh em đơn vị về trước ăn cơm, còn 2 đồng chí liên lạc ở lại với tôi (1 người đi cùng tôi, 1 người đón tôi). Sau khi dặn các đồng chí liên lạc chờ ở cạnh lô cốt đầu cầu, tôi quay lại thăm nơi chúng tôi bắt được tên quan ba Pu-giê, cũng là nơi gặp nhau của hai tiểu đoàn: Bông Lau - Lũng Phầy, địa điểm đã chứng kiến sự kết thúc thắng lợi của toàn thể cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn Cao - Bắc - Lạng trong cuộc chiến đấu dũng cảm đầy hi sinh, gian khổ suốt 38 ngày đêm tại A1 - cứ điểm then chốt, chìa khoá để mở cửa vào trung tâm chỉ huy quân Pháp ở Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Xong rồi, tôi trở lại để một lần nữa ngắm nhìn cái hầm ngầm A1, một công trình kiến trúc đã từng được toàn Mặt trận biết đến và có bao nhiêu người đã tìm cách phá nó nhưng không thành. Cuối cùng, trên đường xuống núi, chúng tôi đi vòng quanh cái hố “thuốc nổ” để quan sát một “tác phẩm” do các đức tính: dũng cảm, kiên trì, thông minh, sáng tạo của những cán bộ, chiến sỹ công binh tạo ra. Chỉ tiếc rằng kết quả của nó chưa được như ý. Xuống đến khe suối cạn, đường rẽ về hậu cứ, chúng tôi bồi hồi quay đầu lại tạm biệt đồi A1 nơi có biết bao nhiêu đồng chí, đồng đội đã ngã xuống hoặc để lại một phần xương máu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập cho muôn đời con cháu mai sau. Đã gần 50 năm nay, tôi không có ý định viết những chuyên liên quan đến bản thân về trận đánh A1 trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Để kỉ niệm 55 năm ngày thành lập trung đoàn 174 và 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Ban liên lạc bạn chiến đấu 174 yêu cầu tôi với trách nhiệm chỉ huy tiểu đoàn 249 kể lại một số hoạt động của đơn vị và cá nhân trong trận đánh 38 ngày đêm trên đồi A1. Tôi cố gắng thực hiện yêu cầu đó để lưu lại một chút kỉ niệm của những người đi trước (thời chống Pháp) nhưng do thời gian trôi qua đã nửa thế kỉ, do tuổi cao và trí nhớ có hạn, tư liệu có trong tay không nhiều, thêm vào đó thời gian lại ít, nên có thể có nhiều thiếu sót. Rất mong các đồng chí, đồng đội thông cảm và chỉ bảo cho. 8-2003 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 08:38:18 am TRÍCH HỒI KÝ ĐIỆN BIÊN PHỦ NGUYỄN DŨNG CHI1 Chỉ còn không đầy chín tháng nữa là chẵn 50 năm địch đầu hàng ở Điện Biên Phủ mà tôi thì đã sang tuổi 78. Phải viết một cái gì đó về Điện Biên. Viết thật sự và chi tiết về một quá khứ đẹp và hào hùng của thời thanh niên chống Pháp. Bỏ qua hay quên quá khứ là điều tồi tệ, bạc nghĩa bạc tình, là có tội với những người đã đổ máu cho Tổ quốc. Quên quá khứ, với tất cả mọi lứa tuổi, là vô đạo đức không thể chấp nhận được. Kẻ thù ngày trước của chúng ta mong chúng ta quên đi quá khứ, họ yêu cầu ta chấp nhận quên quá khứ hoặc là bỏ quá khứ lại phía sau, chỉ sợ rằng những hội chứng Việt Nam khó mà quên được trong ký ức họ. Tôi muốn tả lại trận đồi A1 Điện Biên Phủ, trận đánh dài ngày nhất, ác liệt nhất của chiến dịch Điện Biên. Nhà văn Hữu Mai đã khai thác kỹ lưỡng trí nhớ của tôi hồi năm 1962-1963 để viết tiểu thuyết Cao điểm cuối cùng. Tiểu đoàn trưởng trong cao điểm cuối cùng là tôi, cộng với những chi tiết hư cấu cần thiết của Hữu Mai để nêu lên một phần cái bản chất giai cấp tiểu tư sản. Song, trận A1 Điện Biên Phủ không đơn giản như vậy. Trận A1 kéo dài từ tối 30/3/1954 và kết thúc 14h30’ ngày 7-5-1954. Sau khi tiêu diệt Mường Pồn ngày 12-12-1953, chôn cất Bế Văn Đàn tại bản Lìn xong, tiểu đoàn 251 trung đoàn 174 truy kích tàn quân Thái đến Sốp Nhôm, Huổi Mét, quay về Điện Biên. Đại đoàn 312 đến vùng Điện Biên vào cuối tháng 12 năm 1953, chịu trách nhiệm phía bắc đông-bắc, tiểu đoàn 251 quặt xuống phía đông-nam, chuẩn bị tiêu diệt đồi A1 để cho trung đoàn 102 thọc sâu vào trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên. Toàn bộ trận Điện Biên dự kiến hai đến ba ngày là xong. Sau khi truy kích đám tàn quân Thái, tôi bị sốt rét ác liệt hành hạ hơn nửa tháng nên hôm tiếp nhận trận địa tôi lảo đảo đi theo tiểu đoàn. Vừa đến bìa rừng, ngước nhìn đồi A1 mục tiêu của tiểu đoàn, trông mờ mờ thấy ngọn đồi cũng không cao hơn Nà Xi2 bao nhiêu, tôi thấy an tâm, nghĩ rằng tiểu đoàn sẽ chiếm gọn thôi bởi tiểu đoàn Bông Lau - Lũng Phầy này có thua ai. 17giờ 15’ ngày 25/1/1954 có lệnh hoãn tiến công, tiểu đoàn phải rút trước khi trời hửng sáng. Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba chặn tôi giữa con đường kéo pháo qua Pu Hồng Mèo, giải thích: - Phải chuẩn bị chu đáo, đánh chắc, tiến chắc theo lệnh anh Văn. Vừa nói xong, ông lại hét tướng: - Có nhanh lên không, trời sáng bạch rồi! Thật may được hoãn đánh, tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm mới phòng ngự mà chỉ trinh sát ở cấp đại đoàn và trung đoàn thì thật là chủ quan phiêu lưu. Quay lại cánh rừng già tập kết cách đây hai ngày, chính uỷ đại đoàn Chu Huy Mân trao cho tiểu đoàn, cho đại đội trưởng Hồng Tân và tôi 3 chiếc huân chương khen thưởng trận Mường Pồn và thông báo truy tặng Bế Văn Đàn Huân chương Chiến công hạng Nhất. Cuộc trinh sát chính thức được thực hiện sau đó một tuần. Anh Nguyễn Hữu An trung đoàn trưởng cùng hai tiểu đoàn trưởng khác là Nguyễn Đôn Tự, Vũ Đình Hoè và tôi đến một bờ ruộng bậc thang cách cứ điểm chừng vài trăm mét chỉ mới thấy A1 đen xịt, dài dài, hơi cao cao, bị chắn về phía nam bởi một đồi thấp hơn cháy trụi gọi là đồi Cháy. Trung đoàn trưởng chỉ cho Hoè tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 hướng đột phá, hướng hai mũi bộc phá của hai đại đội. Anh quyết định giao cho tiểu đoàn tôi tiêu diệt cứ điểm A3 nằm ở đuôi phía nam A1 dọc theo đường 41 nối A1 Điện Biên với Hồng Cúm - Tây Trang; A3 mà bị tiêu diệt thì riêng anh Hoè cũng đủ “xơi tái” A1 rồi. Chúng tôi đang giương mắt ra định hướng và kiếm vật chuẩn thì bỗng nghe tiếng chân chạy qua các bụi cây, tiếp theo một loạt tiểu liên đanh, mấy tiếng nói nhỏ: “rút, rút” sau một câu tiếng Tây: “Oh la là Việt Minh”; Thế là chẳng ai bảo ai, chúng tôi vội bò lui, bò lui cho đến khi chạm vào một bờ ruộng, mọi người lăn qua để tránh đạn, nằm thở rồi tiếp tục quan sát trong tiếng tim đập thình thịch. Lộ rồi! Tôi nằm nhìn A3 chỉ thấy một vệt đen mờ mờ... Với tiểu đoàn tôi thì chỉ cần cho hai mũi chọc thẳng vào sườn là xong. ___________________________________________ 1. Nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 251 Trung đoàn 174, Sư đoàn 316. 2. Nà Xi thuộc tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Tiểu đoàn 251 đã bị thất bại ở đây năm 1952 (D.C). Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 08:39:31 am Cuộc họp đảng uỷ trung đoàn mở rộng đến các tiểu đoàn trưởng và cơ quan trung đoàn diễn ra sôi động. Chính uỷ Mân cũng tham dự. Nội dung xoay quanh đánh A1 bằng một tiểu đoàn - một mũi hay là hai tiểu đoàn - hai mũi? Bất phân thắng bại. Tôi thì bàng quang, vì tiểu đoàn tôi có đánh A1 đâu. Trong đầu tôi đang suy nghĩ về cách tiêu diệt A3. Kể cũng thích, một mình tiêu diệt một cứ điểm chẳng có ai chỉ huy “đè đầu” mình... Tha hồ tự do muốn đánh sao là quyền mình, chỉ cần đúng thời gian nổ súng là được. Cuộc họp xem ra bế tắc, Đảng uỷ chịu không biểu quyết được. Bỗng chính uỷ đại đoàn vỗ vai tôi. - Cậu có thích đánh A1 không? - Có. - Thế đánh nhé! Thì ra ông bắt đầu khoái tôi sau trận Mường Pồn, đánh nhanh đến mức không biết tiểu đoàn 1 đã diệt xong Mường Pồn, ung dung có mặt trên đường Lai Châu - Điện Biên ngay đêm 20-12-1953 theo đúng lệnh anh Văn đã cắt đứt đường rút của quân Lai Châu về tăng cường cho Điện Biên. Hội nghị quyết định: theo ý kiến của anh Mân, tiêu diệt A1 bằng hai tiểu đoàn 9 và 1, tiểu đoàn 5 của anh Đôn Tự chỉ làm dự bị. Tôi nghĩ dự bị cho nó vui để thể hiện là có hai thê đội, chứ A1 mùi mẽ gì! Đã chuẩn bị xong, quyết định vị trí quả bộc phá đầu tiên hướng đúng vào lô cốt Đông Nam, nơi đánh chiếm đầu cầu, chỗ đặt hai đại liên, bốn trung liên, bốn cối 60 ly bắn đạn 120 Trung Quốc có chuôi cũng được quyết định. Vị trí chỉ huy là một hàm ếch cách lô cốt đầu cầu áng chừng 100m, dựa vào chân đồi Cháy - quả đồi có thể giúp khống chế A1 từ phía đông nam. Việc trinh sát cũng đã chỉ ra hướng phát triển của trận đánh. Mục tiêu cuối cùng phân cho tiểu đoàn tôi là hầm thông tin chỉ huy. Tôi và các đại đội trưởng rỉ tai nhau bên ngoài hàng rào cuối cùng của A1: Ngon rồi! Về thôi. Tất cả chúng tôi, những cán bộ chỉ huy tiểu đoàn, đại đội, đều yên tâm quay về. Việc bây giờ chỉ còn là động viên tinh thần quyết chiến của bộ đội - nhiệm vụ của các ông chính trị viên. Thế là ăn đứt. Chúng tôi đã làm xong giao thông hào suốt từ vị trí tập kết cách cụm cứ điểm phía đông Điện Biên chừng ba đến năm ki lô mét đến tận chân các cứ điểm. Ở A1, giao thông hào chạy đến chân đồi Cháy, có nơi đến đến suối Pom Loi. Tiểu đoàn tôi hào hứng xuất phát giữa ban ngày trong giao thông hào sâu trên ngực. Lúc đó là 16 giờ ngày 30-3-1954. Trời trong vắt không một gợn mây, ra khỏi bìa rừng rẽ phía bản Ten rồi ngược lên phía đông bắc. Đâu đó đường đạn pháo 105 ly của các tiểu đoàn bạn Hồ Đệ, Trung Kiên và Phúc Râu đang vi vu chi viện. Tuyệt thật, lần đầu tiên chiến đấu hợp đồng binh chủng có pháo cầu vồng; mặc cho máy bay Hen-cát (Hellcat), Spít-phai (Spitfire) và cả B26 gầm rú, tiểu đoàn tôi đàng hoàng tự tin theo giao thông hào tiến về hướng A1, có cả liên lạc điện đàm 2 oát. Cậu liên lạc viên bảo tôi: - Báo cáo, không thấy lệnh gì từ trung đoàn. - Liên lạc thẳng với đại đoàn. - Dạ không nghe tín hiệu. Trời còn sáng rực, đồng hồ chỉ 17 giờ. Bên phải tôi phía xa chừng năm trăm mét, quân trung đoàn 98 của anh Vũ Lăng vừa đi vừa chạy về phía chân đồi A1. Thôi chậm mất rồi! Đánh chác mà không hợp đồng đúng thì chết mất. Quả nhiên chỉ vài phút sau, hàng loạt pháo 105 không biết từ đâu dội xuống giao thông hào, không ai thương vong, nhưng vẫn mất liên lạc với trên. Tôi len lên đầu tiểu đoàn, đã có chiến sỹ ngồi thụp xuống, tôi không nhìn rõ ai, vội đạp bừa lên trước. Gặp Hồng Tân “Sẹo” đại đội trưởng 671, tôi thấy nhẹ cả người. Hồng Tân vẫn đứng dựa vào giao thông hào cười toét mồm: - Này, ban chỉ huy, đánh chứ? - Dứt khoát đánh! Trận mạc gay go, gặp một đồng đội vững như bàn thạch, “vô tư” như Hồng Tân quả là may mắn: đại đội trưởng chưa hết chiến dịch đã có bảy huân chương trên ngực, thuộc quyền mình lại có tiểu đội trưởng bộc phá Nông Văn Voòng cũng có bảy huân chương thì làm sao mà không đánh được. Nhưng, chỉ huy các cán bộ đó mà trên mặt anh thoáng hiện nét băn khoăn thì gay go với họ ngay. Tôi hỏi điện đài 2 oát có điện báo gì không? vẫn không nghe thấy gì... Tôi nhìn A1 qua khói mù đen kịt, trời tối dần rồi tối hẳn. Cả tiểu đoàn vẫn tiến nhanh. Tôi quát: "Cứ vào bộc phá, nhanh lên! trợ chiến lên mau!" Rồi phang vào mông đại đội trưởng trợ chiến một gậy (cái gậy ngắn tôi mang theo). Trước mắt chỉ còn một đống đen ngòm, thỉnh thoảng loé lên ánh sáng vàng quạnh của đạn 105 và tiếng cối 106 của địch nổ. Tiếng đạn nhỏ không còn nghe được nữa. Con suối cạn Pom Loi đã bị ngập nước do đạn cối, pháo đào xới lòng cạn. Tôi chỉ kịp thét: “Cẩn thận giữ nụ xoè! Đội bộc phá cối lên đầu!". Tiếng đại liên, trung liên của ta yểm hộ đột phá khẩu nổ ran. Đúng là tiểu đoàn Bông Lau - Lũng Phầy, không cần lệnh cụ thể họ đã tự động khai hoả như kế hoạch và tiếng bộc phá đầu tiên cũng đã nổ. Tôi nhìn đồng hồ Relide tự động: 19 giờ 30 phút! Vậy là trận A1 bắt đầu lúc 19giờ 30 ngày 30-3-1954. Liên lạc ấn tôi vào hầm với chính trị viên tiểu đoàn vì còn phải bảo vệ điện đài. Tôi bảo Hồng Tân: “Còn một hàng rào thì báo cáo”. Trong hầm ếch ngồi xổm sát vào nhau còn có hai liên lạc viên. Lúc này giá như Bế Văn Đàn còn sống, một cậu liên lạc đẹp trai xông xáo luôn mang cà mèn cơm nguội cho tôi! Ngoài miệng hầm ếch bấy giờ không thể gọi là tối được nữa: một màu vàng đục, đen, xám, màu đồng, màu đất sét, màu ba dan thật khó có hoạ sỹ nào lên được gam màu... Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 08:42:10 am ...Nóng ruột quá, muốn lên ngay nhưng còn đại đội thê đội hai. Tôi nhoài ra miệng hàm ếch, một tiếng ù tai, cổ đắng nghẹt. Có cái gì dựa vào tôi. "Ông Hợi (chính trị viên Lê Hợi) chuẩn bị lên nhé!" Không ai đáp lại. Người dựa vào tôi là liên lạc viên đã chết từ bao giờ. Tôi đẩy nhẹ ra một bên, thấy ớn lạnh cả người. Tôi quát vào tai Hợi: - Lên chứ! Cùng lúc vẳng lại tiếng báo cáo “hàng rào 6 xong”. Tôi chạy vụt lên đồi, loáng loáng đất đỏ xỉn quạch, nhiều xác chết không kịp nhớ mặt. Chạy vụt qua khẩu đại liên, tôi nhận ra Quyết đại đội phó dựa vào đại liên chỉ còn một chân, tay đang ôm lấy đầu gối còn lại. Trong ánh chớp pháo đạn, Quyết còn nhận ra tôi. Anh thì thào: "Báo cáo ban chỉ huy, tôi đã làm tròn nhiệm vụ". Có ai đó níu lấy tay rồi kéo tôi trượt vào lô cốt đầu cầu: - Hoan hô tiểu đoàn trưởng! - Thì ra là Hồng Tân đại đội trưởng 671. - Báo cáo vừa diệt lô cốt xong... Phát triển hai mũi nhé... - Được, tớ đi mũi trước tới hầm thông tin, cậu mũi dưới. Ta gặp nhau tại đó, nhớ nhảy cóc nhanh lên. Chúng tôi, hai mũi thọc sâu hướng về phía nam đúng kế hoạch. Bắn, ném lựu đạn, nhẩy lên quan sát lại tụt xuống giao thông hào, cứ thế tôi đã lọt vào hầm thông tin. Giờ chỉ còn tiếng súng tiểu liên, đại liên của địch. Trợ chiến tiểu đoàn theo truyền thống đã rút sau khi đại đội 674 thuộc thê đội hai vào đột phá khẩu. Sao im ắng lạ thường... một nỗi sợ hãi ùa vào tôi. Tôi chạy vụt ra khỏi hầm thông tin địch, mắt nhìn phía trước đen ngòm, sặc sụa hơi cối còn lại. Chẳng lẽ không còn ai xung quanh. Căng mắt nhìn kỹ, chỉ còn chính trị viên đại đội Đỗ Thân với hai, ba liên lạc, cùng trung đội trưởng Di và vài chiến sỹ nữa. Tôi hỏi: - Hồng Tân đâu? Còn ai không? Thương vong cả rồi!... Tôi bối rối thật sự. Không biết đã hạ được A1 chưa? Chẳng có ai chỉ huy, mất hẳn liên lạc với trên. Liên lạc viên 2 oát thì vẫn bám sát tôi. - Cậu hỏi trung đoàn đi. - Sóc Trăng đâu? Sóc Trăng đâu trả lời? Vẫn im lặng hoàn toàn. Tôi không có tài như tác giả của Cây Bạch dương để đặc tả nỗi lo sợ rùng rợn của Ozerov giữa cái im lặng của chiến trường. Chỉ nhớ lúc đó, tôi loay hoay không biết làm gì với cái A1 này khi chỉ còn mươi, mười lăm người. Không biết tiểu đoàn 9 của cậu Hoè bên phải tiến đến đâu? Nếu tiểu đoàn 9 đã vòng xuống phía nam diệt hết A1, thì nay mai mặt mũi mình sẽ ra sao? Đánh nhau mà thua bạn thì đáng xấu hổ. Phải tiếp tục đánh thôi. Tôi thét: "Tất cả lên!", rồi tay súng lục, tay K50 lấy từ chiến sỹ đã hy sinh dưới chân, tôi mò mẫm chẳng ai yểm hộ, vừa tiến vừa ngần ngại, lại đâm sầm vào một hầm khác. Bấm đèn pin, tôi vọt lùi ra ngoài... có một đôi chân mang giầy săng đá thò ra dưới đống ba lô, điện đài. Tôi bắn đại một tràng tiểu liên rồi nhảy vào. Một tên lính lê dương da trắng cựa quậy thò đầu ra, nó nộp ngay một tiểu liên Mát hay Tuyn gì đó. Thật hoàn hồn sau giây phút bất ngờ. Tôi tự ra lệnh giữ lô cốt này vì biết rằng có còn ai nữa đâu để thực hiện; nhìn quanh vẫn chỉ có chính trị viên Đỗ Thân và số anh em sống sót theo tôi. Dù sao cũng an tâm thấy sau lưng mình vẫn còn đồng đội. Trong đời lính, ấm lưng là chuyện tối quan trọng. Con người dù sắt đá đến đâu, cũng cần hơi thở của người khác, huống chi lúc nguy nan, một hơi thở của đồng đội còn đáng giá nghìn lần các khẩu hiệu kêu nhất. Tôi gần như kiệt sức. Không biết đã lấy được A1 chưa? Có nên tiến nữa hay không?... Còn phía tiểu đoàn 9 sao im bặt vậy! Một loạt lựu đạn nổ tới tấp điếc hết tai. Có vật gì rơi xuống chân, tôi chống tay vọt lên giao thông hào theo bản năng rồi lại tụt xuống giao thông hào, biết mình đã bị mảnh lựu đạn dính vào mông, vào bẹn. Mặc. Có tiếng Tây hô “à la contre-attaque”1 lẫn tiếng lựu đạn nổ, tự nhiên tôi bật ra “Merde, cochon”2 rồi trả lời chúng bằng vài loạt tiểu liên trên miệng giao thông hào, bắn để doạ địch nhưng cũng để tự trấn an. Một mình giữ một lô cốt, trước mặt không rõ là cái gì, tối mịt mùng, chỉ có tiếng lựu đạn tiểu liên chát chúa. Rồi tiếng súng im bặt, sự căng thẳng đến tột độ; có cái gì đó như cái chết, như mối đe doạ lơ lửng sắp đến. Thà có tiếng súng và lựu đạn nổ, nguy hiểm đấy, nhưng còn hơn, nghĩa là còn có sự sống xung quanh. Bỗng đánh huỵch một cái, trước mặt tôi đại đội trưởng Hồng Tân xuất hiện, tiếng nói quen thân ấm lòng, tiếng nói thật là cứu cánh. - Ban chỉ huy à, hai thùng lựu đạn Tây mở sẵn rồi đấy. Ban chỉ huy giữ bên này, tôi bên kia. Nói xong Hồng Tân lại biến đi. Chính trị viên Đỗ Thân chẳng biết đến sau lưng tôi từ lúc nào: - Tôi cũng ở bên kia nhé. _________________________________________________________________ 1. Tiến lên phản kích! 2. Đồ con lợn. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 08:44:41 am Hoá ra tôi đang giữ lô cốt phía trước, hai bên là đồng đội. Cái sống và cái chết kéo người ta lại gần nhau một cách tự nhiên nhưng đầy ý nghĩa. Còn đâu những việc đố kỵ tranh chấp địa vị uy tín thường ngày. Tay tôi sờ từng loại lựu đạn, tai lắng nghe phía trước, ngực đập thình thịch trong ức chế mà nghĩ đến câu: “vanitas vanitatum, omna vanitas”1 của Fenelon trong Điếu tang và “le moi est haϊsable”2 của Descartes. Chà! "Mẫu quốc" dạy sao mà giỏi vậy! Tiếng lựu đạn, cả đạn bazooka 90 và cối 81 nổ ù cả tai, hoa cả mắt. Giận điên người, tôi ném hết quả lựu đạn này đến quả lựu đạn khác, thầm nghĩ: Hồng Tân, nhất định phải đề nghị thưởng huân chương cho cậu. Một loạt cối lại nổ tung toé, tiếng đanh và đặc, cổ họng đắng ngắt, mắt tôi giương lên đón một cuộc phản kích mới của bọn tây. Tôi cố hét to tiếp tục đánh, nhưng tiếng nói đã bị cối có hoá chất làm mất hẳn, nói không thành lời. Đồng hồ chỉ bốn rưỡi sáng. Đã qua hơn mười tiếng chiến đấu, người rã rời không còn ý nghĩ gì rõ rệt. Chỉ còn biết chịu trận cho tới cùng. Lúc này thì tôi biết rõ một điều: Đã thất bại không lấy được A1. A1 không phải “ngon ăn”, giỏi lắm thì cũng chỉ lấy lại được hai phần ba đồn. Rồi sẽ ăn nói sao đây? Hết quân rồi, rút hay không? Mình có quyền rút chứ, chẳng có ai chỉ huy cả, với lại đã chiếm hầm thông tin theo mục tiêu quy định rồi, mình không có lỗi. Nhưng, biết đâu đã có lệnh giữ, mà lệnh đó không đến được thì sao. Đầu óc tôi quay cuồng trong khi mắt vẫn xoáy vào phía trước xám xịt. Tôi quyết định đi tìm tiểu đoàn 9 bên phía phải. Giao nhiệm vụ giữ các lô cốt vừa chiếm được cho Hồng Tân và Đỗ Thân, tôi men theo giao thông hào về phía đông, vấp ngã dúi dụi, lại đi, đầu óc tôi lộn xộn. Có tiếng người khá ồn ào trong một lô cốt rộng. May quá, gặp đúng anh Hoè tiểu đoặn trưởng tiểu đoàn 9. Tôi hỏi: - Ở đâu thế này? - Đột phá khẩu. Tôi ngẩn người hỏi lại: - Đột phá khẩu hả, sao lại ở đây? Không một lời đáp, có lẽ anh em tiểu đoàn 9 cũng đang ở tâm trạng như tôi. Tôi bước ra ngoài đã mờ sáng, tự nhiên tôi trở lên tỉnh táo hẳn. Thế là nguyên nhân thất trận tôi đã tìm ra: Hai đột phá khẩu của hai tiểu đoàn cách nhau vẻn vẹn có hơn năm mươi mét. Nhìn ngược lại phía đông nam, tôi càng hiểu rõ hơn: chỉ tại cái đồi Cháy, dưới hai bên chân nó hai tiểu đoàn đã định hướng mở đợt phá khẩu sai; đáng lẽ theo hai hướng song song, tiểu đoàn tôi đã mở hàng rào quá về phía nam thì sẽ cắt được A1 làm đôi ngay từ đầu. Quay lại phía đông bắc chếch trước mặt tôi, cách lô cốt không xa một bãi trống hẹp, là một bóng hầm dựng đứng, nơi đó xuất hiện từng luồng đạn đại liên đứt quãng. Chả trách tiểu đoàn 9 không thể phát triển được. Trời sáng hẳn. Nhìn xuống giao thông hào nối liền tiểu đoàn anh Hoè xuống suối Pom Loi, thi thể anh em nằm đó, có lẽ do dốc núi trơn nên tự sắp xếp theo hình cá hộp. Không biết trong đó có thi thể anh em tiểu đoàn tôi không? Cảnh tượng thật bi đát! Cối địch lúc này bắn dữ dội, đất, đá, bụi mịt mù. Quay về, tôi chạy dọc theo giao thông hào trở lại lô cốt cũ của tôi. Hồng Tân, Đỗ Thân và một số anh em còn đó, họ nhìn tôi. Không suy nghĩ, tôi buột miệng: "Ai còn đánh được ở lại, không nổi thì về". Trời đã sáng bạch, có ai về không tôi không biết, chỉ biết: Phải giữ đến cùng, địch có thể đẩy ta ra khỏi A1. Xung quanh đạn pháo và cối vẫn nổ chát chúa. Tôi bảo liên lạc viên 2 oát điện về đại đoàn vì không thể liên lạc với trung đoàn được: “Tiểu đoàn trưởng 251 bị thương nhẹ ở giao thông hào, vẫn ở lại.” ... Lại một ngày qua đi (1-4-1954), đạn pháo vẫn không ngớt, có lẽ địch không biết ta còn bao nhiêu nên chưa dám phản kích mạnh. Tôi, Hồng Tân và Đỗ Thân cùng số anh em sống hết ngày nhờ cá hộp “tiêu chuẩn năm” của lính lê dương vứt lại. Ngày 2 và 3 tháng 4, trung đoàn 102 tiến vào theo giao thông hào của tiểu đoàn anh Hoè để giải quyết nốt phần còn lại. Đã xảy ra trường hợp “kinh thiên động địa’’ nói đúng ra là “không tiền khoáng hậu”. Tiểu đoàn trưởng Vũ Văn Kha không hiểu do nhầm lẫn ở ngã ba giao thông hào dẫn lên trung tâm A1 rồi quay vòng lại đột phá khẩu hay sao đã bị trung đoàn trưởng Hùng Sinh cách chức đuổi về sau với tội dao động. Lúc này, khi thế trận đã mất thì trung đoàn Thủ đô cũng đành chịu. Hai ngày ba đêm tiến công không kết quả, ta dùng bộc phá đánh sập những công sự đã chiếm được, rồi rút khỏi A1. Đồi Cháy trở thành trận địa phòng ngự đầu tiên trực tiếp tiếp xúc với A1. Địch cũng không dám ló ra khỏi công sự còn lại. Những tay súng bắn tỉa của đồi Cháy đã đè đầu chúng xuống duới sự chi viện của pháo 75 thuộc anh Doãn Tuế và đại đội cối 120 của anh Ba Giai - một đại đội trưởng giỏi. Cuộc đào hầm ngầm vào sâu trong lòng A1 của đại đội công binh của anh Xuyên Khung bắt đầu, ta sẽ đưa vào đó 1000 kilôgam thuốc nổ. A1 hãy coi chừng! ____________________________________________ 1. Hư danh, hư danh, tất cả chỉ là hư danh (D.C). 2. Cái "tôi" đáng nguyền rủa (D.C). Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 08:45:42 am ... Tiểu đoàn chuẩn bị ráo riết. Đại đội 671 của Hồng Tân “sẹo” và Đỗ Thân được về phía sau “bọc giấy bóng lại” nghĩa là không phải đào giao thông hào và phòng ngự giữ đầu giao thông hào. Theo chỉ thị Đại đoàn và anh An, tôi tập trung suy nghĩ về hướng “ụ thằng người”, trong khi vẫn phải chỉ huy phòng ngự đồi Cháy, yểm trợ cho việc đào hầm ngầm. Anh Phạm Điệng về làm chính trị viên, thay anh Lê Hợi. Trông ông này có thể tin được. Tôi có thói quen đánh giá con người qua cách đi đứng hoạt động bình thường: tay này có vẻ chịu đánh. Chính trị viên phó là anh Quốc Tường thì rất yên tâm. Một con người nhanh nhẹn, tuy nói hơi nhiều, nhưng giải quyết chính sách tận tâm. Chỉ còn một việc quan trọng bậc nhất là phải giữ cho được đầu mối giao thông hào đến tận suối Pom Loi cách “ụ thằng người” hơn một trăm mét. Vài hôm sau, khi đại đoàn 312 cắt được sân bay Mường Thanh, một chiến sỹ bị thương bị địch bắt thuộc đại đoàn 312 được thả ra chạy giao thông hào của tiểu đoàn tôi phía Bản Ten đã trao bức thư của tướng Castries bằng tiếng Pháp cho tôi. Nhìn địa chỉ gửi: “Au General Vo Nguyen Giap, Commandant de Place de Điên Biên Phủ" - "Gửi tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy quân tại chỗ Điện Biên Phủ”, tôi bật lên khá tục: Tiên sư mày! Dám gọi ông Giáp bằng chỉ huy tại chỗ. Tôi vội gọi điện về đại đoàn, vì bức thư quan trọng nên đại đoàn đã nối thẳng cho tôi về Mường Phăng. Đầu dây bên kia là anh Lê Liêm. Tôi hỏi: - Anh có biết tiếng Pháp không? - Cậu cứ đọc đi. - Vì lâu ngày quá tôi không còn nhớ được từng câu, cũng không rõ Bảo tàng Quân Đội ta còn giữ được không? Đại để thư viết: như ngài cũng biết, trong điều kiện chiến đấu ác liệt (combat acharné) các thương binh của chúng tôi đã không được sự chăm sóc cần thiết (soins nécessaires) và cần được chuyển đi (évacués). Tôi mong ngài cho máy bay Đakota hạ cánh xuống Điện Biên...”. Thế là rõ rồi, chúng nó bắt đầu bí. Tôi không biết có thư trả lời từ Mường Phăng không, nhưng độ năm ngày sau, lại một cậu lính bó bột ở tay của trung đoàn 57 đại đoàn 304 ở Hồng Cúm chạy ra gặp đúng tôi trao bức thư thứ hai của De Castries. Lần này nội dung cụ thể hơn, Castries nêu lên tinh thần nhân đạo chung (humanité commune) và đề nghị với ta ngày 21-4-1957 Pháp trả 12 hay 15 tù binh Việt Nam bị thương - tôi không nhớ thật chính xác - tại khu vực Bản Ten cáng bằng băng ca do một linh mục tuyên uý dẫn đầu; đổi lại, chúng xin để Dakota hạ cánh xuống Mường Thanh lúc 15 giờ, cất cánh một chuyến và xin ngừng bắn cả hai bên từ 14 giờ đến 17 giờ... Tôi nhận lệnh theo dõi và báo cáo, bụng mừng thầm: thế là chúng nó sắp chết rồi. Hai hôm sau, xế Bản Ten, đúng giờ tiếng súng im bặt. Trên bầu trời một vài chiếc Dakota lởn vởn, có chiếc thả dù tiếp tế, cũng có dù rơi vào trận địa tiểu đoàn tôi. Mấy chục lính Pháp mang hơn chục cáng thương đặt xuống gần Bản Ten. Viên linh mục đứng đợi. Bao trùm Điện Biên Phủ chỉ còn tiếng ì ì của máy bay. Đã quá 17 giờ, lính Pháp và linh mục quay về phía trung tâm. Chúng không quên mang cáng theo. Mấy phút sau, bản Noọng Nhai bùng lửa dữ dội. Thật là nhân đạo đúng kiểu lê dương! Và trên toàn mặt trận, cả phần còn lại của A1 trên đồi Cháy, đạn pháo cối nổ ầm ầm. Cũng lúc ấy, công binh ta đang đào sâu vào lòng A1 những mét đất cuối cùng theo từng kíp ba người một; từng khối bộc phá đã được tập kết dưới giao thông hào. Ở đầu giao thông hào sát Pom Loi trên hướng nam đuôi A1, nơi một tiểu đội của đại đội 674 đang trấn giữ đã xảy ra chiến đấu gần như giáp mặt giữa tiểu đội với lính Pháp. Chúng muốn đẩy lùi con rết đang tiến dần về phía chúng với hai cái càng quặp đầy nọc độc. Ba, bốn ngày trước trận cuối cùng, anh An trung đoàn trưởng khi kiểm tra trận địa, buộc lòng cách chức đại đội trưởng Hướng về tội để lính Pháp chiếm mất đầu giao thông hào mà đội trưởng không dám dẫn tiểu đội phản kích chiếm lại. Chính trị viên đại đội được chuyển qua làm đại đội trưởng. Lúc này, cái cần là sự kiên trì và lòng dũng cảm. Quân Pháp như chuột chũi, còn ta đã quá mệt nhưng sạch sẽ và được ăn no cơm nếp với thịt trâu bò lạc của đồng bào Tây Bắc. Trung đoàn trưởng An, tôi và Hoè lại trinh sát lần cuối, cắt rào bảy lớp dọc đường 41 đến tận “ụ thằng người”. Tất cả như kì nhông lết vào bên trong. Tôi đo áng chừng lỗ châu mai, nhìn quanh quẩn, xác định các vật chuẩn ban đêm rồi cùng các anh bò lùi đầu vẫn hướng về “ụ thằng người”. Mọi việc tưởng trót lọt. Chúng tôi đã bò đến hàng rào thứ hai, còn khoảng mười mét nữa là có thể chạy một mạch về Bản Ten thì một loại đại liên vãi ra từ các lỗ châu mai khá rộng. Tôi quay một vòng chạm một vật gì to cứng. Bản năng thúc tôi chúi đầu vào vật đó. Té ra là một thùng đồ hộp được thả từ máy bay xuống. Không bỏ lõ thời cơ, tôi ra hiệu cho anh An nằm im không cựa quậy rồi rút cây dao găm đâm thủng các hộp ở góc, thò cả tay vào, lấy khuỷu tay ngoáy mạnh cho thùng các tông toác rộng, dùng khăn dù nguỵ trang bó tất cả để mang về rồi cứ lùi dần khỏi rào. Hơn chục con người nhẹ nhàng chạy về Bản Ten. Trinh sát thành công mỹ mãn. Trưa hôm đó, trong cuộc họp quyết định cuối cùng cho trận A1 lần hai, không hiểu sao chính uỷ Huy biết được chuyện chiến lợi phẩm đã phê phán kịch liệt. Dẫu sao số đồ hộp trong khăn dù của tôi đã kịp giao cho liên lạc về tiểu đoàn chia cho Điệng, Tiên tiểu đoàn phó cùng các đại đội trưởng và trinh sát rồi! Trong trận A1 lần thứ nhất, tôi đặt hầm ếch chỉ huy cách hàng rào khoảng một trăm mét, chạy vào đột phá khẩu mất đến năm - bảy phút giữa hoả lực địch. Lần A1 thứ hai này, cần làm sao thấy được từng quả bộc quá nổ tung, và phải kịp vào tung thâm thật nhanh hơn để quyết định phân phối các mũi đột kích. Nhiệm vụ tiểu đoàn phải chiếm bằng được đuôi phía nam A1, phải tìm ra và chặn ngay đường tiếp viện của De Castries lên A1, vì lần thứ nhất đã không ngờ đến con đường này. Sau đó đánh chiếm hầm ngầm khu C (A1 còn lại chia ra ba khu A, B, C có hầm ngầm theo báo cáo của trinh sát mà cũng có thể do tưởng tượng). Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 11:04:58 pm Đêm 4-5-1954, tôi quyết định phải trinh sát lại hướng đột phá - hướng phòng ngự chặn viện từ trung tâm địch lên A1 và hướng phát triển tung thâm, xem nên đặt vị trí chỉ hay đột phá ban đầu ở đâu. Con suối Pom Loi ngập nước, thỉnh thoảng đã có những trận mưa ngắn ở lòng chảo. Vượt suối ướt đến tận vai, quặt tay trái tôi bò ngắm thẳng vào lỗ châu mai “ụ thằng người”. Đất khô cứng có đá dăm, tôi giương mắt định hướng lại, thì ra đây là con đường Điện Biên - Tây Trang chạy sát dưới chân đồi A1... Ngay dưới chỗ đang nằm là một miệng cống đen ngòm khá rộng, dày chừng bốn đến năm phân, từ cống đến “ụ thằng người” chỉ có khoảng 70 đến 80 mét. Tôi quyết định sẽ nằm ở đó để chỉ huy bộc phá, còn chính trị viên phó đại đội Lữ Lô - người Tày (cậu này rất dũng cảm, nhưng uống rượu thì gấp mấy Lưu Linh) sẽ trực tiếp mang bộc phá đầu tiên. Lần này bộc phá phải thật nhanh, đánh sập “ụ thằng người” chỉ trong vòng vài phút, cho C671 chọc vào hầm ngầm khu C. Đại đội 674 phải tìm ra con đường tiếp viện của Castries và chuyển vào phòng ngự ngay cùng với hai đại liên và súng cối. Không cần dự bị nữa, với lại còn quân đâu để làm dự bị. Gần sáng mùng 6-5-1954 tôi mới trở về nơi tập kết, chỉ kịp nói với anh Điệng một câu: “Xong rồi!”, thế là lăn ra ngủ trong bộ quần áo ướt bùn lầy. Tôi đang mơ màng, bỗng nghe anh Chu Huy Mân hỏi: - Commandant đâu? - Báo cáo, đang ngủ, vừa đi trinh sát đột phá khẩu về. - Giọng anh Điệng. - Có cái gì ăn sáng không, các cậu ăn sáng chưa? Biết Điệng đang bí, tôi vùng dậy lồm cồm bò qua miệng hầm nói vào: - Có đủ, miễn là ăn xong, chính uỷ không được phê bình. - Đồng ý, anh cười, tay này xỏ lá thật. Tôi đề nghị anh Mân và Điệng ngồi xổm lên, rồi quờ tay dưới cái chăn dù trải thay chiếu, lôi vài hộp thịt gà và gạo hấp sẵn của Pháp. Chỉ mười lăm phút sau, chính uỷ Mân vừa xì xụp bát cháo gà vừa hỏi: - Ở đâu ra đấy? - Lấy đêm hôm kia khi đi trinh sát Cụ ạ... Tôi lẩm bẩm "Không biết ông An có giữ được hộp nào không?” Nhìn anh Mân và Điệng không vui vì tiểu đoàn làm nhiệm vụ quan trọng, quyết định nhất, mà tình hình lại đang vô cùng gay go. Trừ đại đội 671 chủ công được “bọc giấy bóng” đầy khí thế, còn hai đại đội thiếu hụt là 674 và 673, một số lớn bần thần... Cũng dễ hiểu thôi bởi hơn một tháng nay từ trận A1 lần trước, họ đã phải tự tay dồn ba lô di vật của đồng đội vào mấy hầm, họ đã phòng ngự trong lòng đất trên đồi Cháy, đã đào giao thông hào ngày đêm và đã không ít lần chôn cất qua loa đồng đội bị mìn Tây gài lại ở Bản Ten... Anh Điệng năng nổ dẻo mồm là thế mà xem ra sắp thúc thủ. Các chính trị viên trưởng, phó của đại đội chạy ngược xuôi vào từng hầm ếch để động viên, nhưng hai đại đội còn lại đó không ăn cơm, họ ăn cháo. Ăn cháo thì đánh giặc thế nào được, mà trận này chắc kéo dài. Tôi nghĩ thà “chết vinh còn hơn sống nhục”. Phen này mình thử làm công tác chính trị xem sao. Đã 14 giờ 30 mà 15 giờ 30 phải xuất phát rồi. Đại đội 671 dàn dọc bờ giao thông hào, lao xao dưới các lùm nứa non chen vào nhau. Trời nắng ráo. Tuyệt biết bao nếu lần xuất quân này được như lần đầu; hai dãy hầm ếch lục tục anh em C673 và 674 đầy ngần ngại. Các khẩu đội trợ chiến và súng cối 82 cũng đã dàn phía sau đại đội chủ công. Không khí vô cùng nghiêm trọng, Tôi nhìn chính uỷ Mân và Điệng. Họ nhìn tôi. Tôi lắc đầu ngán ngẩm rồi chui vào hầm riêng mặc bộ kaki Mỹ vàng ánh - loại sang nhất bấy giờ - đội bêrê lấy ở Phát Diệm từ năm 1950, rắc nước hoa Pháp của Hồng Tân cho đầy quần áo thơm lừng! Tôi bước lên mép giao thông hào, tung lá cờ tiểu đoàn Bông Lau - Lũng Phầy ra trước mọi người: - Này anh em, nhìn lá cờ này phải nhớ chứ, phải đi đánh chứ, tiến lên chứ! Đồng ý không, lần này nhất định thắng thôi. Nào 674, 673 ra đi! ... Im lặng không biết bao lâu, lác đác được hơn một trung đội, bước lên giao thông hào... Đã hơn 15 giờ. Không chịu được nữa, tôi bắt tay chính ủy Mân: - Ra đi là không trở về chính ủy ạ. - Không được, ông sửa lại, ra đi là phải chiến thắng mà về. - Khiếp thật! Đúng là chính uỷ có khác. - À mà này, sao cậu thơm thế, tiểu tư sản đặc! Ngoái lại đằng sau đã thấy thêm một hai tiểu đội nữa. Tôi hô: - Nào, xuất phát... Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 11:07:22 pm ... Tôi muốn viết về A1 lần hai cho chính xác hơn, với lại cũng có ai biết đó là trận cuối cùng của trận Điện Biên Phủ. Tôi nhận nhiệm vụ chiếm xong A1 phải đập tan phản kích của Castries, có điều kiện thì sẽ diệt A3 tiến lên bờ sông Nậm Rốm. Vậy còn dài, cứ gọi là A1 lần hai đã. Trước khi xuất phát, tôi còn nhận lệnh bố trí xong phải trực tiếp quan sát hiệu quả của B26 - tức DKZ 75 của Trung Quốc. Lần đầu tiên xuất hiện ở chiến trường sẽ có H6, đó là hoả tiễn sáu nòng của Trung Quốc chi viện. Thì ra cấp trên quyết tập trung chi viện cho A1 lần này. Tôi thấy nóng người, phải liều chết đánh thắng thôi. ... Cuộc xuất phát không có thương vong, đi giữa ban ngày trong lòng giao thông hào, sâu phải đến 1m6, 1m7 để tiếp cận địch, chỉ hơi buồn vì quân số tiểu đoàn quá ít, đâu có hơn 250, mà xung lực giỏi lắm cũng chỉ hơn 100, nhiệm vụ lại quá nặng: đánh vu hồi, cắt viện. Chẳng bằng lần thứ nhất, tiểu đoàn ra đi với 607 người mà đến hơn 90% đảng viên. Được, chỉ cần đột phá thật nhanh, thọc sâu nhanh là ăn đứt. Nào biết còn có ai trên đời này để nghĩ tới. Gia đình nội ngoại ở tuốt miền Nam, ai còn ai mất không biết; còn người yêu thì bội bạc, mỗi lần mình bị thương báo tin về là dao động. Mặc tuốt. Chỉ tâm niệm một điều: bằng mọi giá phải đánh thắng... Phải thắng thật nhanh thì mới đủ quân để tiếp tục đánh. Tôi liếc nhìn anh Tiến tiểu đoàn phó, con người già dặn ấy sẽ cùng đại đội chủ công “vồ” cho được cái “ụ thằng người”. Anh Tiến cao, gầy hút thuốc lào thuộc loại siêu, nguyên là ủy viên quân sự Khởi nghĩa Yên Bái. Chỉ có trình độ văn hoá còn yếu nên chậm phát triển. Còn Điệng chính trị viên, ông này chắc dám vào đột phá khẩu đây, không như lần trước có mỗi một mình mình. Tối mịt lội qua suối Pom Loi, dừng lại thúc chủ công tiến vào vị trí, dặn lại Thuỷ đại đội trưởng 674 (anh nguyên là chính trị viên thay đại đội trưởng bị cách chức), tôi, Điệng và tốp liên lạc lom khom chui xuống cống trên đường 41 rồi nằm sấp để quan sát hướng đột phá lỗ châu mai “ụ thằng người”, chỉ mong Tây đừng “khạc” trước khi ta đánh bộc phá. B26 đã bắn trúng mục tiêu, chỉ nghe rít và nổ đanh hơn sơn pháo 75, còn H6 thì nghe vun vút trên đầu. Hai mười giờ, điện thoại tạch tạch vì chuông đã bị bó lại. Lệnh của anh An khi bộc phá tấn nổ phải quay lưng há mồm ra, xong thì xung phong. Kì cục thật, đánh đồn mà quay lưng lại với đồn thì còn quan sát cái gì, lại còn há mồm bao lâu. Vô lý! Thôi kệ đến hẵng hay. Chờ đợi, tưởng tượng những gì có thể xảy ra: Nào bộc phá tấn nổ có to không? Anh em đang nằm bên ngoài hàng rào có sao không? Làm sao lệnh cho 671 quay lưng được, ai lại quay lưng về phía địch! Cứ cho bộc phá xong thật ngon, nhưng 671 có vào được nhanh để cho 674 vượt qua đột phá khẩu và chặn đường viện từ A3 lên không! Đó là mấu chốt của trận đánh. Hầm ngầm thực ra không quan trọng, có giỏi thì Tây cứ ngồi lì bên trong, đói rồi cũng phải ra, miễn là phải “chịt” cái thằng viện. Nghĩ lan man, nhưng A1 lần hai này thảnh thơi hơn nhiều. Ông Giáp thế mà khôn, cho làm cái giao thông hào đến tận nơi nên tiến thoái không sợ. 20 giờ 25 phút: “Dũng Chi đâu? Há mồm chưa, sắp nổ đấy!” - giọng anh An trong điện thoại. Tôi trả lời bừa: "Há rồi". Vậy mà anh An còn hỏi: "Anh em đã há mồm chưa?" Trong chiến đấu, đôi khi cũng cần nói dối, miễn là không có hại. Tôi đợi tiếng nổ dài như cả ngày cả tháng, ruột nóng như lửa đốt. Đồng hồ đã chỉ 20 giờ 30 phút, mà chẳng có tiếng nổ nào cả. Tôi nhoài người ra ngoài cống, nhìn xung quanh, bỗng có tiếng rung rung dưới bụng như động đất nhẹ. Tôi bảo liên lạc hỏi: “Bộc phá đã nổ chưa?” Bên tác chiến trung đoàn trả lời “không biết”. Chết thật, đánh với chác! Tôi quyết định anh Tiến cho bộc phá đi. Một loại tiếng nổ đanh liên tục cách nhau rất ngắn rồi tiếng nổ trời giáng của quả bộc phá 20 cân. Một bóng người cao gầy vụt qua... - Tiến đấy à? - Báo cáo mất kính rồi. - Có bị thương không? Cậu về đi. Thì ra anh Tiến bị văng mất kính cận lúc bộc phá nổ mạnh. Tôi lên khỏi cống chạy một mạch không kịp thở, nhảy đại vào “ụ thằng người”, ngắm hướng bắc theo giao thông hào chọc về phía hầm ngầm. Tôi nói nhanh với Điệng: - Cho 674 vào mau, tìm đường viện ngầm, chặn chúng ngay. Nói rồi, tôi lao đi một mình. Có cái gì đó trước mặt, theo thói quen tôi quát: “Haut les mains”1. Lúc này theo hướng bắc ngược lên đồi chỉ có địch, một chiến sỹ dẫn tù binh đẩy tôi lùi lại chen lên trước. Tôi vụt qua một hầm lớn quạt một băng tiểu liên. Chà mát rượi, thì ra đã ở quãng giao thông hào trống, gió từ lòng chảo thổi ngược lên đồi. Chỉ còn vài tiếng tiểu liên lẻ tẻ. Trước mặt tôi chừng năm mươi mét, một lô cốt khá cao đen xịt. Hầm ngầm khu A chăng? Tôi quay lại, nấp phía sau một đống bao cát. Giao thông hào Pháp đào nông choèn, chỉ quá bụng. Về hướng Nậm Rốm, tiểu đoàn tôi đã tiến công bất ngờ từ sườn phía sau lên. Chúng không tin là ta có thể tiến công. Vu hồi quả là đúng. Tôi men theo giao thông hào tiến lên cùng với gần một trung đội, có người nhảy xuống: - Báo cáo đã xong hầm ngầm khu A. Ban chỉ huy nhớ ghi công tôi nhé! Đó là Hải Bằng đại đội trưởng chủ công của anh Hoè tiểu đoàn 9, là trợ lý tác huấn xuống thay đại đội trưởng 317 cũ đánh không tốt trận trước. Tôi nhìn đồng hồ đúng 4 giờ sáng. Thế là cơ bản xong. ____________________________________________ 1. Giơ tay lên. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 30 Tháng Mười Hai, 2022, 11:14:34 pm Trời sáng hẳn, trong “ụ thằng người” đông nghịt, trung liên đang đặt vào lỗ châu mai hướng về A3. Dưới chân đồi phía tây và nam, C674 đang phòng ngự chặn viện. Tôi nhìn xuống đường 41, thì ra quân tiếp viện Castries trước đây qua A3 vượt ngầm dưới cống chạy qua đường 41 để lên A1. Chẳng có đường ngầm nào như trinh sát của Bộ và đại đoàn cho biết. Thế là thắng trận rồi! Hai chiếc xe tăng hạng nhẹ bảy tấn của địch lù lù bò dọc đường, nòng súng quay ngang bắn từng phát vào A1: đại liên, trung liên 674 bắn xuống chúng, đạn cối 120 của anh Ba Giai từ phía sau điểm xạ, vài cột khói vàng nâu bùng lên, nhưng không trúng, ấy thế mà xe tăng địch đã vội rú máy chạy lùi. Hết phản kích. Phải chăng chúng đã ngán và suy sụp sau khi thấy Việt Minh đã ở trên đồi A1. Phía A3 yên ắng, xe tăng địch đã lùi thì bộ binh chúng cũng không dám mạo hiểm tiến lên. Địch có biết đâu ở A1 này quân số tiểu đoàn tôi chỉ còn vẻn vẹn chừng năm, sáu mươi người. Tôi không cho nổ súng từ A1 xuống A3 hoặc A2 vì sợ địch phản kích lại bằng hoả lực sẽ gây thêm thương vong. Mất một người lúc này là mất đi sức mạnh cần thiết cho sự phát triển. Tôi định quay về “ụ thằng người” để báo cáo với trung đoàn, thì rộ lên tiếng đạn nhỏ, đạn pháo cối nhỏ chát chúa chân đồi A1 về phía nam và đông bắc. Nhìn phía đông bắc, tôi hiểu quân của trung đoàn 98 phải chống đỡ với hàng trăm lính Pháp đang thúc lên C2 từ 205, chúng cũng đã lên gần đỉnh đồi. Tôi vội điều tất cả trung liên và đại liên của tiểu đoàn lên phía hầm ngầm khu A, trừ một khẩu chĩa về A3 để chi viện cho anh em trung đoàn 98. Trong ụ, ta và tù binh lẫn lộn. Anh Điệng và trung đội trưởng Di vẫn ngồi đó. Lâm Viết Hữu, đại đội trưởng chủ công thay Hồng Tân (vì Hồng Tân đã lên chức tiểu đoàn phó) đứng cạnh khẩu trung liên nhìn về A3. Hữu là đại đội phó trong trận Mường Pồn, người dẫn tôi trực tiếp tiêu diệt bọn lính Thái, sau nửa ngày chặn địch tại đấy. Chúng tôi, tất cả đều nhem nhuốc. Hữu lại gần tôi nói nhỏ: “Anh nhìn xuống ụ kìa, tổ bộc phá khối chính thức chết cả ba!”. Nhìn ba anh em đều ở tư thế dựa vào ụ, hai người thì úp mặt xuống rào kẽm gai trùm lên ụ, một người quay về phía Nam - anh em đã thực hiện đúng động tác đặt bộc phá khối, có lẽ chưa kịp rút thì đã bị trúng đạn hoặc mảnh pháo. Thương tiếc vô cùng! Tên họ anh em giờ đây tôi đã quên mất, chỉ biết họ là những người được tin cậy nhất, được chọn trong số xuất thân nghèo khổ và dũng cảm. Hình như có một cậu người Thái Bình từng ngang bướng đã có lần đào ngũ về quê tận hậu địch tả ngạn sông Hồng rồi lại quay lên với tiểu đoàn. Tôi nhận lệnh anh An: tiến xuống A3. Tôi không hội ý với Điệng theo nguyên tắc, vì đã hiểu anh ấy qua mấy giờ chiến đấu rồi. Vì vậy không để Lâm Viết Hữu xuống A3 nữa, sợ Hữu bị thương hoặc hi sinh, lúc này cần tiết kiệm cán bộ. Tôi đề nghị Điệng đi cho đảm bảo, rồi yểm hộ cho anh. Điệng đồng ý, xăng xái mượn khẩu tiểu liên K50 nhảy xuống giao thông hào cùng với Thuỷ đại đội trưởng và mấy chục anh em chiến sỹ. Tôi nạp băng đạn đầy vào khẩu kolynos, đeo kính râm và mở màn trận A3 bằng một băng dài chiu chít xuống ngã ba giao thông hào. Không thấy phản ứng dữ dội từ phía địch. Khát cháy cổ, tôi tu một hơi hết nửa lọ “eau de vie” - rượu mạnh trong khẩu phần năm (ration cinq) của Pháp - đỡ khát hẳn. Tôi tiếp tục bắn từng loại dài. Bỗng tai ù đặc, kính râm rơi mất. Tôi ngã lùi vào trong ụ khói đất mù mịt. Tiếng tù binh la to hơn tiếng rên của trung đội trưởng Di bị thương đang bê bết máu ở đầu và tay. Y tá, y sĩ không còn nữa, nhìn bạn bị thương sắp chết mà chịu. Loạt đạn cối 106 của Pháp đã giết bốn, năm đồng đội của tôi. Mohamed1 bò lại gần tôi nói: “Trop soif! Ramenez - nous aux arrières!”2. Bực mình, tôi bảo: “Pisse et bois!”3. Không biết Mohamed bên kia trời Angiêri giờ đây còn nhớ không? Đó là loạt đạn cuối cùng của Pháp vào A1, sự đáp lại của quân Tây trong cơn quằn quại mà tức tối, nhục nhã phải thua trận trước quân ta. Tất cả chúng tôi phờ phạc. A3 giải quyết xong, Điệng đã quay về. Chúng tôi uể oải ra khỏi ụ lên khu A xem hầm ngầm thì thấy rõ ràng khu C hay khu A cũng chẳng có hầm ngầm nào cả. Hải Bằng dẫn tôi vào cái gọi là “hầm ngầm”. Hoá ra là một hầm bưu điện của Pháp thời còn châu Điện Biên. Hầm dùng để chứa máy nổ, máy điện thoại và lương thực, bên trong lắp gạch chỉ, âm xuống đất chừng 1m cao khoảng 3m gì đó ở vách còn treo khẩu K50 Liên Xô. Tôi hỏi Hải Bằng: - Thế chỗ nổ bộc phá hầm ngầm đâu? Hải Bằng cùng tôi ra khỏi hầm bưu điện. Anh chỉ tay về phía cái hố cách đó chừng vài chục mét: - Kia kìa. Nhìn cái hố sâu, rộng như cái ao nhỏ ở nông thôn ta, kết quả của một tấn bộc phá. Tôi hiểu thì ra kim chỉ bắc nam - châm đã lệch khi vào sâu trong lòng đất nên quả bộc phá dự định nổ dưới hầm ngầm bị chệch đi, bê gọn đến bốn, năm hầm địch. Chính tiếng nổ đã làm cho tên chỉ huy hoảng hồn nên chống cự kém hẳn, quân Tây sợ quá lên rã đám. Hơn 15 giờ chiều. Tôi và Hải Bằng nhìn xuống sông Nậm Rốm, thấp thoáng vài mảnh vải trắng, cờ trắng đuôi nheo ở phía tây và đầu sân bay. Nhìn xuống phía nam, mấy cứ điểm 205, 311 gần trung tâm chỉ huy cũng lại vải trắng đủ kiểu, một số lính Pháp lố nhố ở phía tây bờ sông. Tôi báo cáo cho Trung đoàn và Đại đoàn có lẽ địch đầu hàng. Chỉ nhận được lệnh ngắn: “Phải cảnh giác!”. Nhưng tôi hiểu, không cần phải đứng trong hào nữa. Tôi nhảy lên khỏi hào nhìn xuống trung tâm, cả một rừng cờ trắng. Từng đoàn lính Pháp lốc nhốc toả ra các phía để hàng. Đồng hồ lúc này là 16 giờ chứ không phải như một số báo chí đăng. Thế là xong trận A1, xong chiến dịch Điện Biên Phủ. Tôi đứng lưng chừng đồi A1 dốc về phía trung tâm Điện Biên. Lâm Viết Hữu chạy ngược lên: - Báo cáo ban chỉ huy, có quan tư Tây đầu hàng muốn gặp. - Cho nó lên. Trước mặt tôi, một tên Tây cao lớn đeo bốn vạch vàng, mặt sạm, đầu đội bê rê màu xanh lục, ngực đeo Bắc đẩu bội tinh đồng (croix d’honneur Bronze) đánh gót đưa tay chào: “Le commandant Bigeard se rend à vos dispositions. Son effectif compte seulement 150 hommes. J'attend vos ordres”4. Hãnh diện biết chừng nào khi lần đầu tiên trong đời binh nghiệp, một tiểu đoàn trưởng Việt Nam tay chắp sau lưng ngắm nghía tên quan tư nổi tiếng của quân đội Pháp, viên chỉ huy quân cơ động của De Castries đang chào và đợi lệnh theo đúng lễ nghi lục quân Pháp. Bigeard xin phép tôi hút thuốc lá và xin cho y tá của nó bó gót chân bị sái gân. Y cùng đám tàn quân cõng tù binh ta bị thương trên cổ lầm lũi leo lên đồi A1 - Eliane 2 rồi tụt dần về phía sau. Thật thảm hại quân bại trận! Người tôi nhẹ hẫng, lảo đảo như đang đi trên thuyền. Thắng trận rồi, sung sướng tột độ, mà điều kì lạ là mình vẫn còn sống. Tôi bất giác sờ xuống đầu gối và háng, các vết thương dính lựu đạn trận A1 lần đầu đã đóng vẩy tự bao giờ không biết nữa. Bước thấp bước cao, tôi lại nhớ chính uỷ Mân sửa gáy tôi trước lúc vào trận “Ra đi phải thắng để trở về”. Trận A1 kéo dài và kết thúc như vậy đó. Những bạn chiến đấu của tôi ai còn sống đến nay sẽ thấy tôi nói đúng sự thật một trăm phần trăm, chẳng có gì để giấu giếm hay khoe khoang khi nhớ đến biết bao anh em đã ngã xuống dưới chân A1 và tổ bộc phá khối ba người nằm úp vào hàng rào. 1994-2003 __________________________________________ 1. Tù binh Pháp, sau này là ủy viên Hội Hữu nghị - hòa bình Angiêri - Việt Nam. 2. Khát quá ông ơi! Ông đưa chúng tôi về phía sau đi! 3. Đái ra mà uống! 4. Thiếu tá Bi-gia thuộc quyền Ngài. Quân số chỉ còn 150. Đợi lệnh Ngài. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 09:58:12 am 33 NGÀY ĐÊM PHÒNG NGỰ TRÊN ĐỒI A1 NGUYỄN ĐÔN TỰ1 Sau hai đợt tấn công không thành công của trung đoàn 174 và trung đoàn 102, tiểu đoàn 255 (gọi tắt là tiểu đoàn 5) của trung đoàn 174 được lệnh thay thế trung đoàn 102 và tổ chức phòng ngự một phần ba quả đồi A1 mà quân ta đã chiếm được để giữ vững và cải thiện bàn đạp tiến công, tích cực chuẩn bị cho lần đánh thứ ba (từ 4/4 đến 6/5). Địch có một tiểu đoàn vẫn giữ được 2/3 quả đồi, địa thế cao hơn, quân mới được thay thế; bọn chỉ huy có kinh nghiệm đánh phản kích và dùng hoả lực pháo cối đánh chặn đường tiến của quân ta, nhưng cũng khiếp đảm trước các đợt xung phong mãnh liệt của bộ đội ta. Tiểu đoàn 5 được bổ sung quân số, vũ khí đầy đủ; 80% là tân binh (đa số với tân binh địch hậu đã quen với chiến trận), 50% cán bộ trung đội, đại đội mới được đề bạt lên nhưng đều trưởng thành trong chiến đấu. Mỗi đại đội đều có một chi bộ. Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An phổ biến kinh nghiệm trận đánh đợt đầu, nhấn mạnh địch sẽ giành giật quyết liệt phần đất đã mất nên phải đào hầm hào thật tốt, tổ chức các trận địa liên hoàn giữa đồi A1, đồi Cháy, đồi F, kết hợp chặt chẽ giữa hoả lực và lực lượng cơ động. Trung đoàn sẽ cung cấp gỗ làm nắp hầm hào, hỗ trợ hoả lực của trung đoàn, đại đoàn, đảm bảo thông tin giữa các trận địa. Theo kế hoạch của tiểu đoàn, C925 được bố trí trên đồi A1. C924 trên đồi Cháy có một trung đội cơ động sẵn sàng tăng cường cho A1. C653 bố trí một trung đội trên đồi F, còn lại làm lực lượng cơ động cho tiểu đoàn. C926 trợ chiến, bố trí ở đồi Cháy, nhiệm vụ đào công sự rất nặng nề: đường giao thông hào nối giữa các trận địa, hai đường hào từ suối cạn lên đồi A1, trên mỗi trận địa phải có hệ thống hầm chiến đấu ngang dọc, hầm hào phải có nắp chịu được pháo 155 ly và cối 120 ly. Giao thông hào phải đủ rộng để cơ động bộ đội, tiếp tế, tải thương. Phải có hầm cho các loại vũ khí, hầm ở chân đồi để bộ đội luân phiên nghỉ ngơi. Chỉ huy sở của tiểu đoàn do công binh đào. Tôi bị ngợp trước khối lượng đào hầm hào, chưa kể đến việc phải đối phó hàng ngày, hằng giờ với hoạt động của địch. Tôi nghĩ đến vấn đề quyết định để hoàn thành nhiệm vụ lúc này là khả năng tổ chức của cán bộ và công tác động viên cán bộ, chiến sĩ hết lòng vì nhiệm vụ. Thực tế sau này đã chứng minh trong chiến tranh, người cán bộ, chiến sĩ được động viên tốt có thể làm nên những điều kỳ diệu, có khi không tưởng tượng là con người có thể làm được. Khi trung đoàn 102 bắt đầu rút, tiểu đoàn chia ngay 2 tiểu đội của C925 vào cắm hai chốt sát địch. Ngay trong đêm phải đào được hầm chiến đấu, hầm ẩn nấp và hầm trung liên. Lực lượng này được hoả lực của tiểu đoàn, trung đoàn sẵn sàng yểm trợ. Ngay ngày hôm sau địch dùng pháo cối yểm trợ cho một mũi thọc sang để hòng đẩy lực lượng của ta ra khỏi A1 nhưng ta đã kịp thời dùng pháo cối, đại liên bắn chặn rất quyết liệt, buộc địch phải co lại. Việc đào công sự do đó rất khó khăn và không bảo đảm được an toàn. Cán bộ tiểu đội và chiến sỹ đề xuất ý kiến phải làm con lăn bằng rơm thì mới tránh được đạn bắn thẳng từ đỉnh đồi. Việc đào hầm hào trên đồi A1 rất khó khăn và phức tạp nhất. Hào giao thông của địch sâu 1m70 đã bị pháo của ta, của địch bắn sập hết, chôn vùi nhiều xác chết. Cuộc tấn công từ đêm 30-3 đến lúc này đã 5-6 ngày, thỉnh thoảng lại có trận mưa rào ngắn, nên xác chết bắt đầu thối rữa, ruồi nhặng từng đàn, mùi hôi thối nồng nặc. Căn cứ vào thực tế địa hình, có đoạn hào chúng tôi đào mới, có đoạn phải khơi lại hào cũ của địch, cũng có chỗ phải dùng lại lô cốt cũ. Nghĩa là không thể tránh được việc mà cán bộ, chiến sĩ ngại nhất là giải quyết xác chết. Chúng tôi dồn xác địch vào mấy ngách hào đất lấp còn nông và đổ đầy đất lên. Đặc biệt còn một số tử sĩ của ta còn sót lại (nhận dạng bằng đôi giày vải hoặc đôi dép cao su), chúng tôi lấy vải dù bọc lại và chuyển về sau. Không thể tưởng tượng nổi sự chịu đựng gian khổ của cán bộ, chiến sỹ. Công tác chính trị đã thành công trong việc động viên tinh thần tự giác vì nhiệm vụ của bộ đội. Lấy một ví dụ: Yêu cầu của tiểu đoàn là mài xẻng thật sắc để đào công sự được nhanh, được chiến sĩ biến thành khẩu hiệu “Mài xẻng sắc cạo râu được”. Sự phản ứng của địch rất ác liệt: Cối 120 ly bắn thường xuyên, pháo Hồng Cúm nhằm vào đỉnh đồi Cháy, đồi F và đường tiến quân từ phía sau lên. Ngày nào cũng có thương vong. Chân tay dầm bùn ngâm xác chết mà không có nước rửa. Phải dùng vải dù để lau tay, bọc tay để cầm cơm nắm hoặc dùng đũa, dùng bát. Trung đoàn phải tiếp tế nước để mỗi ngày chiến sĩ trên đồi A1 được rửa tay chân một lần, ba ngày được tắm một lần (thực ra được một chậu nước đủ để lau người). Đồi F thấp hơn đồi A1, trực tiếp bị hoả lực bắn thẳng của địch trên đỉnh đồi A1 nên việc đào trận địa ở đây cũng rất khó khăn, bị thương vong nhiều. Ngay khi trận địa đã được hoàn thành, việc đi lại cũng rất nguy hiểm, cán bộ, chiến sĩ gọi đồi F là “tử địa”. Đồi Cháy có trận địa hoả lực của tiểu đoàn trực tiếp uy hiếp đỉnh đồi A1, là cái gai trước mắt địch, nên ngoài pháo, chúng còn dùng máy bay ném bom để huỷ diệt. Một lần ném bom không trúng, bom rơi xuống sườn đồi trúng hầm chỉ huy của C924 lúc chi uỷ đang họp, tất cả hy sinh. Đây là thiệt hại đau đớn nhất của tiểu đoàn trong thời gian phòng ngự. Hai đường hào song song tiến gần vào các lô cốt của địch. Việc bám sát địch ngày đêm giúp ta đẩy lùi nhiều lần địch đánh lấn sang ta. Trong chiến đầu phòng ngự hai bên tiếp cận nhau thì sẵn sàng chiến đấu rất cao mới đảm bảo thắng lợi. Vũ khí sử dụng là lựu đạn và tiểu liên của lực lượng phía trước, và muốn giữ vững và cải thiện thế phòng ngự, phải kết hợp với tấn công. Việc tổ chức bắn tỉa những tên địch ló đầu ra hoặc di chuyển ngoài công sự đạt hiệu quả lớn. Giữa tháng 4, chúng tôi nhận được kế hoạch đánh hầm ngầm trên đỉnh đồi A1: Công binh sẽ đào bí mật một đường hầm tới hầm ngầm của địch và dùng một tấn thuốc nổ để đánh sập hầm đó. Tiểu đoàn 5 có nhiệm vụ bảo đảm an toàn trong suốt quá trình đào cho đến khi bộc phá nổ, đồng thời giúp đỡ công binh làm nhiệm vụ (chuyển gần 60m3 đất ra phía sau). Ngày 20/4/1954 khởi công đào, lúc đầu định kích thước có thể đi khom được, nhưng thực tế càng sâu vào càng khó đào nên kích thước càng hẹp lại. Địch dùng súng phóng lựu AT bắn tới tấp về phía cửa hầm. Ngay đêm đầu, bộ phận của d5 làm nhiệm vụ canh gác bảo vệ cho công binh đào đã có tổn thất. Đồng chí trung đội trưởng bộ binh bị địch bắn trúng đã hi sinh. Tôi bố trí một tiểu đội toàn cựu binh do một trung đội trưởng chỉ huy được trang bị đầy đủ tiểu liên và lựu đạn, sẽ chiến đấu sống chết với địch, không để địch lọt xuống phá cửa hầm. Để đánh lạc hướng chú ý của địch, chúng tôi nghi binh ở hướng hào cụt phía bắc, thường tập kích bằng hoả lực các lô cốt của địch. Đặc biệt trận tấn công đánh chiếm hai ụ súng số 7 và số 8 của địch đêm 1/5/1954, tổ ba người chiếm được 2 ụ đó thì 2 bị hy sinh, chỉ còn 1 người bị thương nhưng vẫn chiến đấu giữ cho được đến khi được tổ thứ hai lên tăng viện. ____________________________________________ 1. Nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 255 Trung đoàn 174 Sư đoàn 316. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 09:58:51 am Trong 33 ngày đêm phòng ngự căng thẳng trên đồi A1, d5 đã phải đánh lại 4 lần phản kích lớn của địch. Chính trị viên tiểu đoàn Đỗ Long đã nắm vững nhiệm vụ và những chỉ thị của trung đoàn, là khéo léo đưa ra những khẩu hiệu thiết thực, kịp thời phát động được tinh thần tự giác dũng cảm, không sợ hy sinh gian khổ của cán bộ, chiến sĩ. Không thể quên được chính trị phó tiểu đoàn Trần Quế, thường trực ở phía sau lo cơm nước, vận chuyển được áo quần, giầy dép, tân binh bổ sung, thương binh tử sĩ (hàng trăm người, nên khá phức tạp). Đóng góp phần quan trọng vào thắng lợi, nhưng thường ít được nhắc đến: tiểu đoàn phó Dương Bắc Bình mới được bổ sung nhưng phải lăn ngay vào cuộc chiến đấu, cùng với đại đội trưởng Lương Văn Tài (sau Nguyễn Khắc Huy thay) và đại đội phó Lê Quyên tham gia vào mọi hoạt động của đơn vị, khi địch tấn công sang cũng chiến đấu như các chiến sĩ. Ở trên đồi A1, sống chết chỉ gang tấc, không thể chỉ tay năm ngón, mà mọi cấp cán bộ phải hoà vào cuộc sống và chiến đấu của chiến sĩ thì mới có thể chỉ huy được. Rồi biết bao người dũng cảm khác như y tá Hiểu, chiến sĩ liên lạc Thà, tiểu đội trưởng Si dân tộc Tày đã nhiều lần cứu tôi thoát chết, được đề bạt lên trung đội phó nhưng không nhận vì làm tiểu đội trưởng vừa với khả năng hơn. Để phát huy thêm hiệu quả tiêu diệt địch, ta đã tổ chức các chiến sĩ bắn giỏi thành các tổ bắn tỉa tiêu hao địch khá nhiều, làm cho địch căng thẳng khiếp sợ. Một hôm thiếu tá Bigia lên đồi A1, được trung uý Buốc-gioa đưa đến quan sát một lỗ châu mai. Tên trung uý vừa ló mặt ra đã bị một viên đạn trúng đầu. Bigia cũng suýt chết vì viên đạn thứ hai. Cho nên trước khi vào trận đánh thứ ba, tiểu đoàn 5 phòng ngự đã cải thiện được và củng cố thêm địa bàn tấn công: lấn chiếm thêm được 2 ụ súng của đich, chiếm thêm được một đoạn giao thông hào ngang về phía địch làm chỗ triển khai xung phong cho d9. Đến ngày 5/5/1954 thì đào xong đường hầm dài khoảng 50 mét. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định lấy tiếng nổ của quả bộc phá 1.000kg vào 20 giờ 30 ngày 6/5/1954 làm hiệu lệnh tấn công của cả mặt trận. Bộ phận cuối cùng của tiểu đoàn tôi phụ trách bảo vệ cửa hầm rút trước giờ “G” 5 phút. Mọi người chờ đợi một tiếng nổ long trời, nhưng thực tế chỉ có một tiếng “ục” trong lòng đất, đá tung lên trời và rơi xuống ào ào. Đại uý Pu-giê người chỉ huy cứ điểm đồi A1 viết hồi ký: “Lúc 20 giờ 30 mìn nổ. Trước tiên một sự rung chuyển chạy suốt mỏm đồi và một tiếng nổi át các tiếng động khác, tiếng động kéo dài vài giây với âm lượng trầm. Đỉnh đồi bị vẹt, vị trí của đại đội 2 mất tăm. Quân Việt Nam vào mở cửa chiếm miệng phễu trên đỉnh bên trên chúng tôi. Một lúc sau tôi mới hiểu rõ tình thế”. Đến 4 giờ 30 sáng 7/5/1954, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 9 trung đoàn 174 hoàn toàn làm chủ đồi A1. Địch thú nhận từ 30/3/1954 đến 7/5/1954 đã mất 4 tiểu đoàn trên đồi A1. Đại đoàn 316 đánh giá tiểu đoàn 255 “đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phòng thủ”. Tiểu đoàn đã góp phần vào chiến thắng oanh liệt trên đồi A1, quả đồi mãi mãi đi vào lịch sử của chiến dịch Điện Biên Phủ. * 33 ngày đêm phòng ngự của d255 trên đồi A1 đã để lại trong tôi biết bao kỉ niệm về các trận đánh vô cùng ác liệt, về các đồng đội của tôi ở tiểu đoàn, về các đơn vị bạn. Những kỉ niệm tản mạn nhưng không thể nào quên. Công binh đào cho chúng tôi một hầm sâu 6-7m vào sườn đồi phía sau. Có khó khăn là ngay cửa hầm có xác một thằng Pháp. Nếu đào tắt để lấy được xác nó đưa đi chôn nơi khác thì cửa hầm sẽ quá to, không an toàn (cửa hầm hướng về phía Hồng Cúm, có thể bị pháo). Tôi quyết định cứ để xác nó lại, chỉ phiền là ống chân của nó vẫn thò ra ở ngay cửa hầm, ống chân đã khô lại chứ không thối. Tôi nói lấy vải dù bọc chân đó lại làm chỗ vịn lên xuống cửa hầm. Trong hầm căng vải dù trắng đỏ rất sạch sẽ, đẹp mắt. Chúng tôi vẫn ngủ ngon lành và mọi người đến sở chỉ huy d5 cũng quen vịn vào cái chân ấy để vào hầm. Địch ở vị trí cao hơn ta, cách nhau chừng 20m, chẳng có rào ngăn cách, nghe rõ tiếng ho, tiếng nói của chúng. Việc chúng ào sang tấn công ta rất dễ dàng, ta đề phòng cũng khó. Làm sao không để bị bất ngờ, còn đủ thì giờ gọi pháo của Trung đoàn, Đại đoàn chi viện. Tôi còn nhớ, có một trận phản kích cỡ đại đội của địch, có pháo Hồng Cúm chi viện, đặc biệt có cối 120 ly bắn rất hiệu quả. Ta có sơ hở nên địch lọt được vào trận địa của ta, phá được một đoạn giao thông hào có nắp, nhưng pháo 75 của ta bắn thẳng vào sườn địch đã chặn được lực lượng tiếp viện, gây bất ngờ cho địch, khiến cuộc phản kích bị dừng lại. Trong khi đó, tôi khẩn thiết yêu cầu cối 120 ly của Trung đoàn yểm trợ. Đại đội trưởng Giai kêu trời, vì đội hình ta và địch xen nhau, bắn chính xác mấy cũng dễ “đấm lưng” quân ta. Tôi đề nghị anh Giai bắn lùi về phía đồn định, cách trận địa ta khoảng vài chục mét. Anh Giai kêu là vẫn không đảm bảo vì đạn tản mát lớn (cự li bắn 2000m). Đồng thời tôi ra lệnh cho C925 cho lực lượng cơ động xuất kích, đánh phản xung phong, không cho địch tiến thêm dù một bước, kiên quyết giữ vững trận địa. Hôm đó thật may mắn, cối 120 ly của ta bắn cực kì chính xác, trúng giữa đội hình tấn công của địch, khiến chúng khiếp vía không dám tiến, dù đi khom hay bò. Cuối cùng, chúng phải rút chạy, lại bị trung liên, đại liên của ta diệt phần lớn. Trận đánh diễn ra rất ác liệt, phạm vi hẹp, thời gian nhanh, y như một cuộc diễn tập. Ta thương vong rất ít (không đến 10 người). Nếu có người thương vong vì đạn của Trung đoàn thì rõ ràng đó là lỗi của tôi. Bài học rút ra là chiến sĩ cảnh giới lơ là một chút dễ gây tai hoạ; sự phối hợp cối, pháo với đánh phản kích kịp thời là rất hiệu quả, tuy có hơi mạo hiểm. Chỉ huy của đại đội và tiểu đoàn rất bị hạn chế khi địch cỡ tiểu đội, tổ đột nhập sang trận địa ta. Vì vậy, việc tổ chức chiến đấu là do tiểu đội, trung đội phụ trách. Cán bộ tiểu đoàn, đại đội đến tại chỗ bàn kế hoạch tác chiến với chiến sĩ và các cán bộ cấp dưới rồi giao hẳn cho tiểu đội, trung đội tự lực đánh địch đột nhập sang. Nếu địch sang cỡ trung đội sẽ có pháo cối của tiểu đoàn, trung đoàn chi viện, thậm chí có lực lượng cơ động của đại đội, tiểu đoàn phản kích vào bên sườn. Tôi rất khoái và tin tưởng các cán bộ tiểu đội mới đề bạt, thường đã chiến đấu ở địch hậu, rất tinh nhanh linh lợi, bình tĩnh gan dạ, thà hi sinh chứ không bao giờ lùi bước. Trong hơn một tháng phòng ngự đã diễn ra rất nhiều trận đánh phản kích tại chỗ, đều dành thắng lợi, đều do các cán bộ tiểu đội, trung đội và chiến sĩ tự lực tác chiến, không đòi hỏi chi viện của trên (mà trên cũng chẳng chỉ huy nổi!). Khi các giao thông hào tiến sát đến hàng rào dây thép gai, khi xuất hiện pháo cao xạ 37 ly thì máy bay địch thả dù phải bay cao hơn, nên dù rơi xuống không chính xác. Càng về sau dù càng rơi nhiều xuống khu vực của ta. Địch cần lấy dù, ta cũng cần lấy dù. Ta cần đạn cối, pháo. Địch cần lương thực, thực phẩm, thuốc men. Địch chủ yếu lấy vào ban ngày, ta lấy ban đêm. Địch ưu tiên lấy dù gần trận địa ta ban ngày, ta lấy ban đêm. Để hạn chế địch lấy dù, tôi cho mấy tay thiện xạ bắn dọa, nhưng bọn Pháp vẫn bắt những người lao công đi nhặt, vì chúng biết rằng ta không bắn chết người Việt. Sau cùng tôi cho bắn vào chân thì Pháp mới không bắt lao công đi lấy dù nữa. Có lần ta nhặt được một dù toàn sách báo trong đó có một gói vợ De Castries gửi cho chồng. Tôi mở ra xem thì thấy có một thư và hai quyển tiểu thuyết. Nhân có một phái viên của Bộ tư lệnh chiến dịch, tôi nhờ báo cáo với trên về cách xử lý. Trên trả lời là ta nên liên lạc với Pháp để trả cho De Castries. Tôi bảo thông tin gọi điện cho Pháp nói De Castries có thư của vợ, cho người cầm cờ trắng ra chân đồi (toạ độ X) sẽ nhận được. Chỉ hơn một giờ sau thì có một lính Pháp vác cờ trắng ra địa điểm quy định, ta đã chuyển cho nó gói quà này. Một lần khác, anh em nhặt được toàn cây nước đá. Bộ đội đập đá ra tắm rửa, cho vào nước uống thoải mái. Một dù nữa rất có giá trị là toàn rau tươi của Láng: cà chua, cải xanh, kinh giới, tía tô, rau riếp, mướp... Tôi quê ở Nhân Chính gần Láng nên được mấy bữa rau tươi của Láng thật là hạnh phúc, thấy còn ngon hơn tiệc sang trọng... Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 10:01:06 am VÀO TRẬN ĐIỆN BIÊN NGỌC BÍCH Đơn vị chúng tôi bám sát địch ở phía bắc Điện Biên Phủ. Quả là một cứ điểm mà trong suổt chín năm qua chưa có một vị trí nào lớn như thế. Ban ngày thì xe pháo quần đảo rầm rập, đêm thì điện sáng khắp các đồn bốt, trông xa tưởng như một thành phố. Hàng ngày, thỉnh thoảng trận địa pháo Hồng Cúm lại bắn lên các vùng rừng núi mà chúng nghi ngờ, máy bay Dacota lên xuống sân bay cả ngày lẫn đêm. Thế rồi một buổi chiều, chúng tôi được lệnh chuẩn bị tiến công. Trời vừa tối thì xuất kích. Đi độ một cây số thì xuống đến cánh đồng. Ruộng cạn, đất khô nẻ nhưng còn ẩm, đào công sự dễ dàng. Dàn trận địa xong, tất cả đã đào xong hố nằm thì lại có lệnh rút quân, cả đơn vị lại trở về nơi trú quân trước khi xuất phát. Từ đánh nhanh thắng nhanh ta đã chuyển sang hướng lâu dài. Thế là bắt đầu phá đá mở đường để đưa pháo vào các trận địa trên sườn núi cao. Đơn vị tôi vừa làm xong một hầm pháo đầu tiên thì tôi được lệnh trở về tiểu đội cối 60. Tôi vừa ra khỏi chỗ làm việc độ bốn chục mét thì một chùm pháo rơi trúng vào chỗ trung đội đang tập hợp. 19 đồng chí đã hy sinh tại chỗ. Một hòn đá lăn vào lưng làm tôi đau ê ẩm mấy hôm mới khỏi. Khi tất cả pháo của ta đã chiếm lĩnh xong trận địa thì bộ binh mới đào hào từ ven rừng ra cánh đồng, hướng vào các vị trí địch. Ban đêm ta đào, ngày địch ra lấp. Chúng còn gài mìn các loại vào chỗ ta đã đào. Đại đội trưởng Trứ đã hy sinh vì một quả mìn cóc địch gài. Một hôm khác máy bay địch phóng bom đúng vào sườn đồi nơi đơn vị đóng quân. Bốn hầm trú ẩn bị vùi lấp. Trung đội 2 bị hy sinh mất tám người. Địch thường xuyên bắn phá vào khu vực ta đào và tấn công ra cản phá. Bây giờ đào đến đâu phải bố trí giữ đến đó. Ta bắt đầu đánh Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo. Rồi tiểu đoàn 251 của tôi được lệnh đánh A1. A1 là một chốt quan trọng của Điện Biên nên chúng tôi cảm thấy tự hào lắm. Song đêm đánh A1 đến tận sáng hôm sau vẫn không giải quyết được. Tiểu đội trưởng của tôi chẳng biết làm sao lại đút tay vào bàn đế khẩu cối 60 để toác cả tay, không thể chiến đấu tiếp được. Không thể không đánh thắng A1. Bộ chỉ huy chiến dịch cho đơn vị chủ công của Đại đoàn 308 vào công kích. Chúng tôi mừng lắm vì có lực lượng của đơn vị bạn về phối hợp. Suốt cả đêm hôm ấy vật lộn mà cũng không chiếm được A1. Sau mới phát hiện A1 có hầm ngần kiên cố. Công binh ta đào một đường hầm xuyên trong lòng đất vào phía dưới hầm ngầm. Tiểu đội tôi được lệnh đưa hai khẩu cối 60 lên Đồi Cháy để bắn vào A1 và chặn địch lấn ra. Tiểu đội phó Trần Quý dẫn anh em lên chiếm lĩnh trận địa. Chúng tôi nhận mấy nắm cơm nguội ngơ nguội ngắt, ăn với muối vừng. Tranh thủ ăn, vừa xong thì địch đã bắn cối và đại bác khắp khu vực quanh trận địa. Ăn uống xong chúng tôi trả lời bọn chúng bằng một loạt đạn cối 60. Tôi nghĩ bụng thế nào chúng mày cũng giã tao, tao phải giã chúng mày trước. Quả là như vậy. Một tốp máy bay bỗng ào đến trút bom xối xả xuống đồi Cháy, đất cát bụi mù. Ngồi trong hầm chúng tôi cứ lắc đi lắc lại, như ngồi xe tải đi đường ổ gà, tai ù dặc. Đợt đánh bom thứ hai trong ngày có vẻ dữ dội hơn. Tuy nhiên trận địa vẫn an toàn, chỉ có một người khóc hu hu, anh đã ta dao động trong chốc lát. Đêm hôm ấy, tôi được đề bạt tiểu đội phó rồi rút về bổ sung cho xung kích để chống địch lấn ra phía bản Cò Mỵ. Thời gian này dưới hào lõng bõng bùn nước. Cứ mỗi lần đi làm nhiệm vụ về phải ngồi một lúc cho bùn se lại, nứt ra mà bẻ từng miếng một cho hết. Làm gì có nước mà rửa. Trong một trận đánh, anh Lý Văn Con - chiến sỹ thi đua, đem cơm cho anh em. Anh không may bị mảnh đại bác, chỉ còn dính tí thịt sau gáy, bị hy sinh. Tôi được lệnh dẫn tiểu đội đi chôn một số tử sĩ đã để ven rừng mấy hôm rồi. Gặp một cán bộ cấp trên đón và nói: - Số đồng chí hy sinh phủ bạt đó, các đồng chí tiến hành đi. Gói mỗi người vào một bạt và chôn tại chỗ cho cẩn thận. Tôi cố nén cảm giác chờn chợn, dõng dạc nói với anh em: - Thôi làm đi, đừng sợ. Đồng chí mình chứ ai. Vì thi thể để lâu đã nặng mùi, nhưng với nghĩa cử với đồng đội đã khuất, mọi người lặng lẽ làm xong phận sự. Không khí nặng nề bao trùm. Chúng tôi đào hố chôn chặt, đắp thành mộ rồi ra về. Lúc bấy giờ cũng chẳng biết sợ nữa vì công việc đã xong rồi. Bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy thương đồng đội, không biết trong số thi hài ấy có ai tìm thấy mà quy tụ về nghĩa trang không. Mấy ngày sau tôi lại được đi tăng cường cho tổ bắn bia sống. Tôi là một chiến sĩ, khi bắn tập thường cũng chỉ được 24 - 25 điểm là cùng, nhưng trên đã giao nhiệm vụ thì phải chấp hành. Suốt thời gian ở tổ này chỉ nằm trong hầm bên cạnh đường hào trục, ngày vài lần thay nhau bò ra con hào cách hàng rào ở chân đồi chừng năm chục mét. Nếu thấy thằng địch nào lên khỏi công sự là bắn. Tôi có bắn vài lần, mở hai mắt nhìn cũng thấy có tên ngã lăn xuống hào nhưng không tin chắc là chúng bị chết. Vì vậy cũng chẳng báo cáo làm gì. Đến chiều tối ngày 6 tháng 5 năm 1954, chúng tôi được lệnh rút ra xa. Anh em theo hào rút về phía bản Cò Mỵ và dừng lại ăn tối. Không khí có vẻ tấp nập khẩn trương. Người tập trung đông dần lên. Khoảng 8 giờ tối nghe có lệnh truyền xuống - chẳng biết lệnh từ đâu và của cấp nào: - Tất cả quay lưng về A1, há mồm ra, bịt tai lại. Tôi đoán là khối bộc phá tấn sắp nổ. Tôi bịt tai nhưng không quay lưng lại. Nhìn về A1 thấy một cột khói to như cây đa cổ thụ bốc lên. Rồi một tiếng nổ ục, mặt đất rung chuyển. Sau đó là các cỡ súng nổ ran. Tối khoảng hơn 1 giờ sáng ngày 7 tháng 5, tổ bắn tỉa được lệnh trở về đơn vị cũ. Về tới ven rừng thì thấy anh nuôi vẫn chuẩn bị nấu cơm. Vừa buồn ngủ, vừa quá mệt, chúng tôi nằm trong hầm của anh nuôi rồi thiếp đi. Có mấy anh em trong đơn vị về nhưng chẳng ai nỡ gọi chúng tôi dậy làm gì. A1 đã được giải quyết xong. Địch đã đầu hàng thế mà súng vẫn nổ. Hoá ra lính ta chiếm được súng của địch, hứng lên, bắn xả láng. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 10:01:36 am * Đơn vị đang sắp xếp lại đội ngũ thì có lệnh áp giải tù binh về xuôi. Chừng năm trăm tên Âu Phi tập hợp tại một bãi bằng phẳng. Chúng nó đang hát và vỗ nhịp vào mũ sắt, đều và hay ra phết. Nhận bàn giao xong, ta giải đi luôn. Tính bình quân, cứ mỗi người phải trông nom mười tên. Ba bốn giờ đầu tiên, lính ta khá vất vả vì phải chạy gằn mới theo kịp chúng đi. Sau rồi chúng mệt rã rời, uể oải. Bấy giờ lính ta vốn đã quen hành quân nên vẫn khoẻ mạnh hiên ngang. Từ ngày thứ hai trở đi, bọn chúng không còn tư cách gì nữa, một lũ tàn quân lê lết, luôn phải quát tháo thúc giục. Từ đêm thứ năm, thứ sáu trở đi, khi gần tới trạm nghỉ, sáng nào cũng phải đón mấy chục thằng lệt bệt đi sau. Về tới Chiềng Pàn, bọn tù binh định tổ chức cướp và đánh tháo cho một số trốn chạy. Nó cho máy bay trực thăng sơn ký hiệu chữ thập đỏ bay thấp sát sườn đồi chỗ có tù binh nghỉ. Thằng tây con đầm ôm nhau trông rõ mồn một. Trời ơi, muốn bắn quá. Nó là trực thăng cứu thương, lại không có lệnh nên không ai dám bắn. Nghe đâu nó thả vũ khí và điện đài xuống nhưng ta bắt được cả. Có một thằng quyết tâm lội suối trốn chạy đã bị ta bắn chết. Lại nói đến lũ tù binh, dẫn đi đã khó, lại phải lo cho nó ăn nữa chứ. Trung đội tù binh ngụy đi theo để nấu nướng phục vụ cho bọn Tây. Nếu đi cùng thì dềnh dàng đến trưa hôm sau Tây tù cũng không có cơm ăn. Ta phải cho bọn ngụy đi từ chiều để đến địa điểm sớm lo làm sao 10 giờ hôm sau là đã có ăn rồi. Vì vậy tôi phải dẫn hơn ba chục tên tù binh ngụy đi trước, ít người, nếu có máy bay cũng dễ tránh và tổ chức ăn uống thuận lợi hơn. Một hôm, vì chưa có kinh nghiệm, khi đi qua một đoàn dân công người dưới xuôi lên làm đường ở Sơn La, họ ném đá và chửi bọn tù binh ngụy một trận nên thân. Rút kinh nghiệm, mỗi lần gần chỗ có dân công làm đường là tôi phải đến trước, nói rõ tầm quan trọng và yêu cầu phụ trách phải chịu trách nhiệm cùng chúng tôi làm tốt việc dẫn giải tù binh. Vì vậy, từ hôm ấy đi đường được yên ổn, chỉ đôi lúc có câu chửi mỉa mai thôi. Để giữ được an toàn, tôi phải khai thác hết chuyện tiếu lâm, lúc nghỉ ngơi kể cho chúng nghe rồi cùng cười bò ra. Tôi cho chúng cùng hút thuốc lào với mình nên tự nhiên chúng thấy quý tôi. Đến đâu tôi cũng phải ngủ riêng, cách chúng khoảng 5 mét. Một đêm, có cái lán tốc hết mái nhưng cao ráo, tôi thấy thích ngủ ở đó. Nửa đêm trời đổ mưa, có một thằng cũng tên là Bích, quê Thái Bình, cùng một thằng nữa nhổm dậy kéo nhau ra chỗ tôi. Tôi nhìn thấy, vội nhón tay vào cò khẩu tiểu liên rồi nâng lên bụng, sẵn sàng. Hai thằng giơ cái áo mưa bạt ra, khe khẽ bước đến che nóc lán cho tôi. Xong việc, chúng quay vào lán, tôi mới nói theo: - Cảm ơn các cậu. - Ô, thế anh không ngủ à? Tôi trả lời: - Ngủ sao được. Từ đó bọn tù binh ngụy vui vẻ với tôi, nhưng tôi vẫn phải cảnh giác. Về đến Thanh Hoá thì đơn vị bàn giao tù binh cho đơn vị khác. Bọn tù binh ngụy tỏ ra lưu luyến. Riêng cậu Bích lại sụt sịt khóc, vẻ lo sợ: - Không biết chúng em đến chỗ mới có được đối xử như các anh không? Tôi động viên chúng: - Cứ yên tâm. Bộ đội cụ Hồ ai cũng thế cả mà. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 10:06:17 am TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG VÀO ĐỒI A1 TRẦN DUY Đêm ngày 6 tháng 5 năm 1954, sau một thời gian chỉnh đốn lại tổ chức bổ sung và học tập, đơn vị lại được lệnh công kích vào đồi A1. Tiểu đoàn 249 vẫn là đơn vị chủ công của e174 - đại dội 317 đánh chính diện và bên phải, đại đội 316 đánh bên trái đồi A1 mũi diện, đại đội 315 dự bị. Đại đội tôi là 316 lần này thay đổi tập kết về phía trái đồi Cháy (về phía Hồng Cúm) xung phong sẽ tiến sát đồi Cháy qua suối lên đồi A1. Trên phổ biến trận này có tiếng nổ lớn (đề phòng sức ép tất cả đều phải quay mặt về phía sau) sau tiếng nổ là lệnh xung phong. Khi xuất kích chiếm lĩnh trận địa sau đồi Cháy được hơn một giờ thì đồng chí Mùi A trưởng kêu đau bụng không đi chiến đấu được. Anh Trương Duyên đại đội trưởng và anh Hồng Giang chính trị viên đại đội gọi tôi lên và giao cho tôi chỉ huy tiểu đội, đồng chí Ngải là A phó. Thú thực là tôi rất lo, sau các anh động viên và tin tưởng, kèm theo tôi cũng có một số kinh nghiệm của các trận đánh trước nên tôi cũng yên tâm. Khoảng 21 giờ, một tiếng nổ trầm làm rung chuyển cả hầm, tôi ra ngoài nhìn về phía đồi A1, khói bộc phá đã trùm kín đồi A1 và lan sang đồi Cháy. Mãi tới 10 phút sau mới có lệnh xung phong. Lúc này địch ở một số nơi đã bắt đầu chống cự. Đơn vị tôi phải vòng qua phía trái đồi Cháy, lội qua suối nước tiến lên đồi A1. Hào dốc, trơn, ướt, đồng chí Điển y tá đại đội không lên được. Đơn vị lùi lại, cối 120 ly của địch bắn ở Hồng Cúm lên trúng giao thông hào làm tiểu đội tôi hy sinh mất 5 ngươi phía sau. Tôi đành phải kéo đồng chí Điển sang một bên, tôi cùng anh em vượt tiến lên được một đoạn đến hàng rào thì gặp anh Trương Duyên đại đội trưởng bị thương nặng nằm tại đó, tôi lấy băng băng cho anh, thì anh em bảo vượt lên đi, ở đây nguy hiểm lắm. Thế là tôi vẫy anh em lao lên, một đồng chí chạy trước tôi bị trúng đạn hy sinh. Tôi vượt qua nhanh chóng chiếm được đầu giao thông hào, tôi bắn và ném lựu đạn về phía trước. Địch chạy tán loạn, tôi nhảy xuống hào thì bị một quả mìn lân tinh nổ tung lên, cháy và khói bắt vào quần áo. Tôi lúng túng vì không có nước dội nên tôi nhanh chóng cởi bỏ quần áo ngoài và tiếp tục tiến. Địch bị dồn từ hai phía, ngay lúc đó có khoảng 5-7 tên xin hàng. Tôi cho anh em cảnh giới và nói "Hô lê manh" (giơ tay lên) và nói "đề dác mê vu" (bỏ súng xuống). Chúng vội vàng bỏ súng xuống và tháo nhanh thắt lưng. Tôi vẫy tay, chúng ngoan ngoãn đi về phía sau. Tôi và hai đồng chí nữa phát triển được độ 15-20m dọc hào thì chiếm được một lô cốt có khẩu trọng liên 12 ly 7 hướng bắn về phía đồi Cháy. Xong tiếp tục phát triển thì gặp giao thông hào có nắp lại có một đoạn trống. Hôm ấy tôi được trang bị đèn pin, tôi cứ bấm đèn loé lên dọc hào và bắn về phía trước và tiến chiếm từng đoạn. Lúc này địch chống cự mạnh hơn. Tôi vừa đánh vừa cho anh em nhặt thêm lựu đạn và đạn, mỗi người có túi lựu đạn và hàng chục băng đạn tuyn rồi cho một đồng chí bò lên cứ chỗ nào không có nắp thì ném lựu đạn xuống. Tôi thấy tiếng nổ phía trước là dọi đèn pin bắn và tiến theo dọc hào từng đoạn, địch bị thương vong nhiều. Tôi cùng hai đồng chí đánh hết đường hào phía trái đồi A1 thì đồng chí Hồng Giang chính trị viên đại đội và đồng chí trung đội phó Lương Văn Thể cùng 3 đồng chí nữa có một khẩu trung liên tắc vì đất nhét vào, bổ sung cho tôi. Lúc đó tôi ở dưới đường xe tăng nhìn chéo sang thì thấy một lô cốt ở gốc cây đa cụt, địch đang bắn mạnh về phía chúng tôi. Tôi đề nghị anh Hồng Giang cho đánh. Anh động viên chúng tôi cẩn thận. Tôi tổ chức đánh ngay, để hai đồng chí ném lựu đạn khói và yểm trợ. Khi lựu đạn khói nổ, tôi và hai đồng chí nữa lợi dụng khói mù nhanh chóng vượt lên qua đường xe tăng tiếp cận lô cốt, tiến sát đường chắn. Không để địch kịp trở tay, tôi và anh em nhanh chóng ném lựu đạn và tiến sát cửa hầm. Tôi ném thêm một quả lựu đạn và bắn luôn một băng đạn vào trong, địch chết ngổn ngang, có tên còn đeo tai nghe nằm chết trên giường bạt. Tôi soi đèn pin và lấy được một bản đồ Điện Biên Phủ và một máy ảnh. Vừa ra tới cửa hầm định quan sát tìm đường tiến, thì nghe có tiếng động trong hầm, tôi soi đèn pin thì ở góc hầm có miếng vải dù che có người. Tôi lấy khẩu súng trường lao báng về phía đó, thì có tiếng kêu: "Con xin hàng". Tôi hướng súng về phía đó và quát: "Ra ngay không tao bắn". Một tên vén miếng vải dù giơ tay ngoan ngoãn đi ra. Nó nói "Con là thông ngôn của tên quan Ba". Tôi hỏi ngay tên quan Ba ở đâu và còn hầm nào nữa không? Lúc này tên thông ngôn nhanh chóng dẫn tôi đi ra cửa hầm có lối thông ra A3. Nó lật mấy cái ghế và vài bao cát thì cửa hầm lộ ra. Tôi cho hai đồng chí cảnh giới và bắt tên thông ngôn gọi hàng. Tôi bảo nó gọi bằng tiếng Pháp, là Việt Minh đã chiếm hết đồi A1, không hàng Việt Minh sẽ cho bộc phá xuống chết hết. Tên thông ngôn ấp úng, tôi cho một báng súng vào lưng và ném một quả thủ pháo xuống. Chúng ho xặc xụa, tên thông ngôn sợ quá gọi ngay. Lúc đầu chúng lên được 2-3 tên. Tên thông ngôn lại gọi, tôi ném lựu đạn xuống. Lúc này chúng kêu xin hàng, lại lên được 2 tên. Đến tên thứ 3, nó chạng tay ra cửa hầm và kêu bị thương nhờ kéo lên. Ngay lúc đó máy bay địch thả đèn dù sáng rực, tôi nhìn thấy ở nách tên bị thương có một nòng súng đang đưa lên chưa kịp bắn, tôi nhanh chóng bắn ngay tên ngăn cửa hầm chết, đè luôn nòng súng xuống. Tôi lại ném tiếp lựu đạn xuống và thủ pháo. Chúng ho nhiều và kêu xin hàng. Lần này chúng lên rất nhanh, độ 4-5 tên. Tên đi sau đội mũ đỏ, tôi cho là tên quan Ba, tôi để riêng nó ra và cho đồng chí Điệp giữ nó. Sau đó còn 2-3 tên nữa lên hàng nốt. Tôi bảo tên thông ngôn hỏi xem còn nữa không? Nó hỏi tên sau cùng rồi nói ở dưới chết một số, đến đó là hết. Tôi cho cảnh giới, lệnh cho đồng chí Điệp dẫn tên quan Ba và tên thông ngôn về chỗ anh Hồng Giang ở dưới hầm qua đường xe tăng gần đó, báo cáo chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và chờ lệnh. Lúc đó khoảng 4 giờ sáng, sau đó trung đội đồng chí Ba Sào thuộc đại đội 315 cũng tới, khoảng 4 giờ 30 đến 5 giờ thì anh Hồng Giang gọi tôi và đồng chí Lương Văn Thể về hầm chỉ huy. Đồng chí Hồng Giang chính trị viên đại đội 316 thay mặt chi bộ tuyên bố kết nạp Đảng cho anh Lương Văn Thể và tôi ngay mặt trận. Tuyên bố đề bạt tôi chính thức là tiểu đội trưởng và đề nghị lên trên tặng thưởng huân chương chiến sỹ hạng nhất cho tôi. Quyết định được liên lạc mang ngay về tiểu đoàn. Khi đồng chí liên lạc về, nói là được trên khen ngợi đơn vị chúng tôi. Tôi lại về vị trí chiến đấu thì gặp anh Lê Sơn tiểu đoàn phó cũng đã đến. Chúng tôi đang chờ lệnh xuống A3 và Mường Thanh. Đến 6 giờ sáng ngày 7/5/1954 tôi được lệnh bàn giao trận địa cho C315 về phía sau tắm rửa rồi lên gặp tiểu đoàn và trung đoàn. Khi tôi lên đến tiểu đoàn thì đã có anh Châu C trưởng C317 và anh Thạch là B phó đại đội chủ công, còn tôi thuộc C316 tiểu đội trưởng đánh giao thông hào có nắp và lô cốt cuối cùng gốc cây đa cụt. Sau trên căn dặn anh Châu dẫn chúng tôi lên trung đoàn và đại đoàn. Lên đến đại đoàn gặp anh Chu Huy Mân và anh Lê Quảng Ba thì có anh Hồ Hải Nam tiểu đoàn trưởng và anh Thưởng của E98 đơn vị đánh đồi Mâm Xôi và đồi Châu Ún cũng có mặt. Sau đó các đồng chí động viên chúng tôi và giao cho đồng chí Hồ Hải Nam dẫn chúng tôi lên Bộ tham mưu và sở chỉ huy chiến dịch tại Mường Phăng. Khi gặp có: anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), anh Lê Liêm, anh Hoàng Văn Thái, anh Lê Quang Đạo. Chiều hôm gặp các đồng chí trên còn chiêu đãi chúng tôi một bữa. Hôm sau từng người báo cáo trên sa bàn, Đại tướng và các đồng chí nghe xong, khen ngợi đơn vị chúng tôi và rút kinh nghiệm. Khoảng trưa ngày 8/5/1954 thì Đại đoàn 312 dẫn tướng Đờ Cát và ban tham mưu của chúng vào Mường Phăng. Ngày 9/5/1954 chúng tôi dự lễ mít tinh mừng chiến thắng rồi ra về. Về tới đơn vị, tôi lại được lệnh ở lại Điện Biên Phủ phối hợp với đơn vị bạn quay phim diễn lại trận đánh vào đồi A1 và tiến xuống Mường Thanh rồi cắm cờ tại hầm Đờ Cát. Hai mươi ngày sau tôi mới rời Điện Biên Phủ về đơn vị tại Sánh Lược thuộc huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa. Lúc này đơn vị đã mừng công xong đang học tập. Ngày 20/7/1954 chúng tôi được phổ biến lệnh đình chiến lập lại hòa bình ở Đông Dương. Thế là chiến tranh chống Pháp đã chấm dứt. Đơn vị tôi được điều về thị xã Thanh Hóa trao trả tù binh, mấy tháng sau về Đò Lèn giúp dân chống lũ lụt. Tôi lại được giao phụ trách một tiểu đội phối hợp với đơn vị do anh Hải Bằng chỉ huy về duyệt binh tại Hà Nội mừng Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về thủ đô vào ngày 1/10/1955. Những ngày gian nan và đáng ghi nhớ ấy tôi không thể nào quên. Hà Nội, ngày 20 tháng 9 năm 2002 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 10:09:08 am TRẬN ĐÁNH “Ụ THẰNG NGƯỜI” TRÊN ĐỒI A1 ĐIỆN BIÊN PHỦ (Đêm 6-5-1954) LÂM VIẾT HỮU1 Đồi A1, một vị trí quan trọng ở phía Đông tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ cách Sở chỉ huy của tướng Đờ Cát khoảng 300m đã diễn ra trận đánh rất quyết liệt suốt 38 ngày đêm (từ 30/3/1954 đến 7/5/1954). Ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, ụ súng, ngách hào, căn hầm. Xác địch chết rải rác trên khắp các chiến hào, mặt đồi. Xe tăng địch lên phản kích bị bắn cháy còn nằm trên đồi A1. Quân địch dựa vào hầm ngầm, không quân, pháo binh chi viện. Chúng đào giao thông hào dài gần 300m nối từ A3 lên đồi A1 để cơ động lực lượng phản kích. Khi bị quân ta tấn công, trận đánh lần thứ nhất suốt 3 ngày đêm, từ 30/3 đến 2/4/54 ta vẫn chưa chiếm được đồi A1. Tôi nhận được lệnh của Trung đoàn trưởng, đại đội 674 chuyển sang phòng ngự, chuẩn bị cho đợt tấn công mới. Theo lệnh Trung đoàn trưởng, tôi về sở chỉ huy đại đoàn để báo cáo tình hình chiến đấu của đại đội trên đồi A1. Dọc theo giao thông hào lên sở chỉ huy đại đoàn, tôi vẫn nghe rõ tiếng lựu đạn, tiểu liên đánh trả quân địch trên đồi A1. Đi chừng 1km tới Sở chỉ huy, tôi thấy Đại đoàn trưởng Lê Quảng Ba, chính ủy Chu Huy Mân và các đồng chí cơ quan Bộ Tư lệnh đang nghiên cứu tấm bản đồ đồi A1. Bỗng có tiếng chuông điện thoại reo vang. Đại đoàn trưởng ra hiệu cho tôi ngừng lại. Một lát sau, ông đặt ống nói, vẻ mặt nghiêm nghị bảo tôi lên báo cáo tình hình trận đánh đồi A1 với Bộ Chỉ huy Mặt trận. Trên đường từ sở chỉ huy đại đoàn lên sở chỉ huy mặt trận ở Mường Phăng, hai bên đường cảnh vật xơ xác những vạt rừng cháy trụi, cây cối đổ nghiêng ngả. Đường rừng vắng vẻ càng thêm vắng vẻ. Nhiều ý nghĩ trong tôi buồn vui lẫn lộn. Tôi đi tới Mường Phăng lúc nào không biết. Một bất ngờ đối với tôi là được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bất giác tôi nhớ lại năm 1950, tôi được gặp Đại tướng trước khi trung đoàn 174 tiêu diệt đồn cao Đông Khê. Chiến thắng Đông Khê đã góp phần giải phóng Cao Bắc Lạng. Thấy Đại tướng rất khoẻ mạnh, thăm hỏi tình hình ăn ở, sinh hoạt của bộ đội ngoài mặt trận, nỗi lo trong tôi dần dần biến mất. Tôi báo cáo với Đại tướng và Bộ chỉ huy Mặt trận về tình hình địch, về trận đánh của đại đội 674 trên đồi A1, những gương chiến đấu dũng cảm của cán bộ chiến sĩ lao lên phá huỷ xe tăng địch. Anh em chiến đấu quần nhau với địch, giữ vững từng ụ súng, ngách hào, căn hầm. Nghe tôi báo cáo, các đồng chí khen ngợi cán bộ chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu, diệt được nhiều địch, phá huỷ xe tăng địch, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các đồng chí hỏi kỹ về tình hình địch trong cứ điểm, đường địch lên phản kích chi viện cho A1. Đại tướng hỏi: “Có cắt được quân tiếp viện của địch không?”. Tôi báo cáo: “Đại đội tôi làm được!”. Rất vinh dự đối với tôi được Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao tặng tôi 1 huy hiệu Điện Biên Phủ và chiếc ca “Quyết chiến Quyết thắng” của Bác Hồ tại sở chỉ huy Mường Phăng. Đồng chí còn gửi 10 chiếc huy hiệu và 10 chiếc ca tặng thưởng cho cán bộ, chiến sỹ của đại đội đã lập công đợt chiến đấu 3 ngày đêm trên đồi A1. Đây là kỷ niệm sâu sắc nhất đời tôi. Để chuẩn bị cho đợt tấn công thứ ba vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tôi được điều từ đại đội 674 về làm đại đội trưởng đại đội 671, đại đội chủ công của tiểu đoàn 251, trung đoàn 174, đại đoàn 316. Nhiệm vụ đại đội 671 là cắt đường hào từ A3 lên A1, chặn đứng quân tiếp viện của địch, không để địch tiếp viện được cho A1. 10 ngày đêm đại đội vừa chiến đấu vừa làm trận địa dưới tầm hoả lực của địch thật gian khổ, quyết liệt. Có hôm địch đưa cả xe tăng và bộ binh ra phản kích tràn qua đội hình của đại đội, san lấp cả đường hào của ta, làm một số anh em hy sinh và bị thương. Nhưng với quyết tâm cắt đường giao thông hào tiếp viện của địch, trận địa tấn công của đại đội hướng thẳng vào “ụ thằng người” mỗi lúc một gần, chỉ còn cách chừng 30m. Ngày 6/5/1954, một ngày khác thường, mọi người trong đại đội 671 đều tấp nập làm công tác chuẩn bị. Chẳng ai bảo ai, họ đều mặc những bộ quần áo mới nhất, nai nịt gọn gàng để được tham gia trận đánh quyết định “đánh chiếm ụ thằng người”, cắt con đường tiếp viện lên đồi A1 của địch. Khoảng 21 giờ, một ánh chớp loé sáng, một tiếng nổ không to lắm của quả bộc phá 1000kg từ trong lòng đồi A1 nổ tung làm cho đất đá, khói bụi tung lên rơi xuống, cả trận địa trở nên im lặng. Chỉ ít phút sau, hoả lực của địch từ đồi A1, A3, “ụ thằng người” bắn ra rất mãnh liệt. Trên hướng chủ yếu của Trung đoàn, tôi nghe thấy tiếng lựu đạn, tiểu liên của quân ta nổ giòn giã. Pháo binh địch từ Hồng Cúm, Mường Thanh bắn vào đội hình của đại đội rất mạnh. Trung đội trưởng bộc phá và 3 chiến sĩ của đại đội hy sinh, 9 bộc phá viên bị thương. Hoả lực của địch từ A1 và “ụ thằng người” bắn rất mạnh, anh em bộc phá không tiến lên được. Tiểu đội trưởng Trần Quý để nghị đại đội chi viện để tiểu đội lên đánh bộc phá vào “Ụ thằng người". Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An gọi điện thoại thông báo cho biết, trên hướng chủ yếu của Trung đoàn gặp khó khăn, bị địch chặn lại trước hầm ngầm. Trung đoàn trưởng lệnh cho đại đội 671 nhanh chóng đánh chiếm “ụ thằng người”, cắt đường tiếp viện của địch, chi viện cho hướng chủ yếu. Tôi vừa bị thương vào sống mũi, máu trào qua miệng, mắt bị hoa, mọi vật xung quanh như quay cuồng. Nhưng nghĩ tới đồng đội đã hy sinh còn nằm trên đồi A1, nhớ lời hứa với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi lau nhanh máu trên mặt, đặt ống nói, lao qua hoả lực của địch, tổ chức lại lực lượng, dùng hoả lực bắn chi viện cho tiểu đội bộc phá của Trần Quý, tiến lên đánh “ụ thằng người”. Tiểu đội trưởng Trần Quý vẫn báo cáo: “ụ thằng người” bắn mạnh, anh em không lên đánh bộc phá được. Tôi lệnh cho súng cối 60 ly bắn đạn phóng lôi chùm lên “ụ thằng người”, dùng hoả lực chi viện cho bộc phá. Những tiếng nổ nối tiếp nhau rung chuyển cả không gian. Hoả lực của địch ở “ụ thằng người” bỗng im bặt. 0 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, đại đội 671 đã xung phong đánh chiếm được “ụ thằng người”, cắt được con đường hào tiếp viện của địch từ A3 lên A1, diệt gọn 1 trung đội địch, phá huỷ 3 trung liên, 1 đại liên. Chính trị viên đại đội bị thương nặng, đại đội phó và 5 anh em hy sinh. Đại đội 671 lúc này chia thành hai bộ phận. Một trung đội được tăng cường hoả lực chặn đường hào từ A3 lên A1. Lực lượng chủ yếu còn lại do tôi chỉ huy đánh chiếm các ụ súng 13, 14, 16 chi viện cho hướng chủ yếu của Trung đoàn, nhưng quân địch rất ngoan cố đánh trả quyết liệt. Đến 3 giờ 20 phút sáng ngày 7/5/1954, đại đội 671 đã tiến đến khu xe tăng địch trên đỉnh đồi A1, bắt liên lạc được với hướng chủ yếu của Trung đoàn. Đại đội diệt thêm được 20 tên địch, và bắt sống 45 tên. Cuộc chiến đấu 38 ngày đêm liên tục trên đồi A1 của trung đoàn 174 kết thúc thắng lợi, tiêu diệt và bắt sống hàng ngàn tên địch, phá huỷ xe tăng địch, thu toàn bộ vũ khí trang bị của địch trên đồi A1, góp phần vào thắng lợi chung của chiến dịch Điện Biên Phủ, đập tan kế hoạch phòng thủ Tập đoàn cứ điểm của địch. ____________________________________________ 1. Nguyên đại đội trưởng 674 và 671 Tiểu đoàn 251 Trung đoàn 174. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 10:13:21 am TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG (trích Hồi kí) TRẦN QUÝ Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã được năm chục năm. Thời gian qua đi gần hết cuộc đời. Nhiều trận chiến đấu tiếp theo, mỗi trận đều để lại trong tôi những kỷ niệm. Nhưng sâu sắc nhất không bao giờ quên được là trận đánh cuối cùng vào đồi A1 đêm 6 tháng 5 năm 1954. Sau trận mưa rào xối xả, bùn nước ngập ngụa giao thông hào. Cái nắng tháng 5 như đổ lửa lại ập xuống hun nóng cả lòng chảo Điện Biên. Nóng hầm hập, nóng như thiêu như đốt. Cái nóng đặc biệt kèm theo gió Lào của miền Tây càng làm cho con người chán ngán mùa hè Tây Bắc. Trên trời vẫn ầm ì tiếng máy bay vận tải. Tiếng trọng pháo của ta trên đỉnh Pú Hồng Mèo lẻ tẻ bắn vào khu trung tâm Mường Thanh. Trên khoảng trống sườn đồi, bên con suối cạn gần Khe Chít, đại đội trưởng Lâm Viết Hữu hạ đạt mệnh lệnh chiến đấu trên sa bàn. Ngoài số cán bộ trong đơn vị, còn có đồng chí chủ nhiệm chính trị đại đoàn Nguyễn Kiện tham dự. Từ truy kích tiêu diệt địch ở Mường Pồn, làm đường kéo pháo, làm trận địa bao vây đến cuộc tiến công đêm 30 tháng 3 năm 1954 vào A1, đại đội 671 là đơn vị chủ công của tiểu đoàn 251 - trung đoàn 174. Quân số đại đội thương vong nhiều, đại đội trưởng Hồng Tân bị thương, đại đội phó Quyết hy sinh... lực lượng chẳng còn được là bao. Để chuẩn bị cho trận đánh mới, tiểu đoàn đã điều một số cán bộ chiến sĩ ở các đại đội 672, 673 và 674 sang bổ sung. Các anh đại đội trưởng Hữu, đại đội phó Dy và tôi cũng nằm trong số đó. Mọi vấn đề 671 đều được ưu tiên vì lẽ đại đội này vẫn là con chim đầu đàn của tiểu đoàn 251. Mệt vì chiến đấu liên tục, ác liệt, thiếu thốn, mất ngủ, thời tiết... vì chi phối khách quan của chiến tranh, chúng tôi ai nấy mặt mày hốc hác, mắt thâm quầng. Nhưng hôm nay nhận nhiệm vụ đánh vào A1 từ hướng tây nam, giữa A3 và A1, đánh thẳng vào “ụ thằng người”, chặt đứt con đường cơ động của bộ binh và xe tăng lên A1, ai nấy đều phấn khởi và tin tưởng, nhất là được thông báo lấy tiếng nổ của khối bộc phá một tấn làm hiệu lệnh nổ súng cho toàn chiến trường. Chúng tôi theo dõi mệnh lệnh chiến đấu thật nghiêm túc nhưng cũng rất say sưa hồ hởi. Các chiến sĩ bộc phá chúng tôi ai cũng muốn được trực tiếp tiêu diệt “ụ thằng người”. Tiểu đội tôi còn được phân công đánh các ụ 13, 14. Thật nặng nề, nhưng lúc ấy tôi tin tưởng và vui vẻ nhận nhiệm vụ. Tôi hứa quyết tâm với đại đội trưởng, thật tự nhiên, không vướng mắc, không một lời đề nghị. Tôi tin với một niềm tin sắt đá ở anh em trong tiểu đội, tin vào cách đánh, hướng đánh và quyết tâm của đại đội trưởng trong trận này. Sau khi nhận lệnh, tôi về hầm cùng anh em bàn bạc quán triệt nhiệm vụ và hạ quyết tâm. Tôi còn nhớ đầy đủ những người trong tiểu đội trước đó: tiểu đội phó Hòa, các chiến sĩ Việt, Phùng, Văn, Chỉ, Luận, Phấn, Tậu, Sâm. Hai ngày trước, tiểu đội còn đầy đủ chục người. Thế mà chỉ có một đêm mới đây thôi đã có hai người - Tậu và Sâm - không trở về nữa. Phấn trước ở đơn vị nào tôi không rõ, chỉ biết trong trận đánh A1 lần trước bị lạc đơn vị, gặp chúng tôi trong đồn, anh xin phối hợp rồi về ở luôn 671. Trong khi tiểu đội bàn bạc có một đồng chí già, dáng hom hem gầy yếu cùng dự. Tôi không biết anh là ai, anh cũng chẳng nói gì nên tôi không giới thiệu. Sau này, tôi mới biết anh là Nguyễn Kiện - Chủ nhiệm chính trị đại đoàn, đến giúp đỡ đại đội chủ công. Khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, anh được đề bạt chính ủy đại đoàn. Tôi tự hào về tiểu đội của tôi. Hầu hết anh em đã lặn lội với A1 lần trước và đều là những người dũng cảm chiến đấu, được điều về đại đội chủ công. Chúng tôi ý thức được nhiệm vụ nặng nề ác liệt của trận đánh đêm nay nhưng ai nấy đều nhận nhiệm vụ với tinh thần quyết chiến và quyết thắng. Trao đổi xong, không ai bảo ai, chúng tôi đều mặc bộ quần áo mới nhất. Âu cũng là lẽ thường tình của người chiến sĩ cách mạng, chiến đấu với tinh thần lạc quan tin tưởng, nhưng cũng sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Tôi được đại đội phó Dy gọi ra ngoài trao cho bức thư của anh họ tôi ở quê gửi lên, báo tin bác tôi mới bị Tây bắn chết. Tôi bằng hoàng, nước mắt trào ra. Anh Dy vỗ vai an ủi tôi rồi nói: - Đêm nay cậu định thế nào? - Tôi có thêm một mối thù đem vào trận này. Ta thi đua ông nhé! Hai người chìa tay nắm chặt. Tôi không ngờ rằng đó là cái bắt tay cuối cùng với Dy. Dy đã hy sinh do loạt cối 120 ly cuối cùng của địch bắn vào A1, và cũng là người lính cuối cùng của tiểu đoàn ngã xuống trước giờ chiến thắng. Tôi vào trận đánh hôm nay mang thêm một mối thù. Nhiều anh em tranh thủ biên thư về nhà, tôi thì không. Quê tôi ở địch hậu, vả lại còn bao nhiêu việc phải lo, phải làm của người tiểu đội trưởng bộc phá. Trong cuộc mới thấy hết phẩm chất cao quý của anh em ta bấy giờ. Gian khổ thiếu thốn là thế, ác liệt đến kinh hoàng, trận trước chưa giành thắng lợi mà thương vong quá nửa. Hai đêm liền, tiểu đội tôi hy sinh hai đồng chí. Vậy mà hôm nay bước vào trận chiến đấu mới, vào nơi sinh tử, các đồng đội của tôi thanh thản, háo hức đến lạ lùng. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 10:14:29 am Làm công tác chuẩn bị thật tấp nập vui vẻ, anh em cười nói râm ran. Tôi kiểm tra lại vũ khí của từng người: Mỗi người sáu quả thủ pháo và một khối bộc phá từ 10 đến 15 cân trên lưng. Riêng Luận mang theo một bộc phá ống. Tất cả đều phải mang hai cơ số đạn, đề phòng phải làm công sự lâu dài. Rút kinh nghiệm của lần trước, giao thông hào trong đồn nông choèn, pháo địch san bằng không còn chỗ ẩn nấp. Vừa lúc đó Phấn và Việt nhận cơm nắm về, tiêu chuẩn mỗi người hai, cho bữa chiều và sáng hôm sau. Với một giọng Nghệ An nhỏ nhẹ, Văn nói: - Đề nghị tiểu đội trưởng cho anh em làm tất một bữa. Vừa no lại vừa nhẹ - anh giải thích - ở cửa mở bùn đến đầu gối, ăn chi được, đêm bận đánh nhau, à mà chết thì... Cả tiểu đội cười ồ. - Còn sống, vào đồn thiếu gì đồ hộp. Mà mai chiến thắng chẳng cần ăn cũng no. Trong bụng tôi thoáng nghĩ như Văn nên tôi lờ đi kệ anh em xử sự. Mọi việc vừa xong thì được lệnh tập hợp ở một bãi đất bằng phẳng đầu giao thông hào. Tiểu đoàn tổ chức gắn huân chương cho số anh em lập nhiều chiến công trong trận đánh A1 lần trước như: các anh Hữu, Thêm, Phấn, Ẩm, Cầu, Viêm và cả tôi. Người tôi nóng ran xen lẫn tự hào. Tôi đứng cạnh Viêm, huých nhẹ vào tay anh và liếc nhìn từng khuôn mặt. Đồng đội chúng tôi đây, mỗi người từ một làng quê Khu 3, Khu 4, Việt Bắc, nhiều anh em trong vùng địch hậu, đã nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc cùng về đây chiến đấu. Tất cả bắt nguồn từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tạo nên tình đồng chí gắn bó chúng tôi suốt những năm kháng chiến trường kỳ và đêm nay chúng tôi lại cùng nhau bước vào trận đánh mới. Tiểu đoàn trưởng Dũng Chi ra lệnh ngắn gọn: - Đại đội 671 đêm nay phải kiên quyết làm tròn nhiệm vụ. Phải cùng toàn đơn vị xử tử đồi A1 để trả thù cho các đồng chí đã hy sinh. Lòng tôi bồi hồi xúc động nhớ đến bao đồng chí đã ngã xuống. Từ làm đường kéo pháo: chính trị viên Lê Hương, trung đội trưởng Minh, Đàn, Vỹ, Phùng...Rồi trận bom rải thảm vào khu vực trú quân của 673 làm mất đi tám người vì sập hầm... Tiểu đội trưởng Ý hy sinh ở bản Nà Ten... Đại đội trưởng Trứ bị mìn khi chỉ huy làm trận địa, chiến sĩ thi đua trung đoàn Lý Văn Con ngã xuống khi tiếp tế cho đồng đội, rồi trận bom ác liệt đánh vào Đồi Cháy... Đại đội 673 bị nhiều cơn sốc nặng, quân số chẳng còn được là bao. Tôi và Viêm nằm trong số còn lại được điều sang 671. Lúc ấy chúng tôi thấy vinh dự vì được sang đại đội chủ công. Rất tiếc đêm ấy Viêm đã hy sinh sau khi vượt qua cửa mở. Chúng tôi được lệnh dàn đội hình dưới những bụi nứa non lúp xúp. Trời đã về chiều nhưng còn nắng gắt. Anh em trợ chiến phía sau, tôi thoáng thấy Bân xách đại liên. Cậu ấy đã nhiều lần chi viện cho chúng tôi chiến đấu. Khoảng 15 giờ 30, chúng tôi được lệnh xuất phát. Phút mong chờ nóng ruột đã đến. Chúng tôi sải những bước dài nhanh gần như chạy. Anh Hữu đi trước tiểu đội. Tôi đi sau tổ 1, quan sát anh em thấy còn tất cả, rất mừng, yên tâm không có gì đáng ngại. Đi được một quãng thì gặp Ngọc Tân. Anh đứng bên đường nắm tay tôi nói: - Chúc cậu lập chiến công. Tôi chỉ kịp ngoắc tay anh rồi chạy theo tiểu đội. Ngọc Tân với tôi cùng nhập ngũ một ngày. Chúng tôi có những nét tương đồng nên tâm đầu ý hợp. Hôm truy kích chặn địch chạy từ Lai Châu về Mường Pồn, gặp nhau trên đỉnh 2012 (Pa Thống) trưa ngày 10 tháng 12 năm 1953. Từ đỉnh cao ngất trời này chúng tôi nhìn ra xung quanh: Trời xung quanh vẫn nắng mà chỗ chúng tôi mưa rả rích, rét thấu xương. Xa xa nhiều đỉnh núi xanh lơ lô nhô lên giữa những tầng mây bạc bồng bềnh trắng xốp. Với tâm hồn lãng mạn của tuổi thanh niên học sinh, đứng trước quang cảnh hùng vĩ ấy, lại gặp bạn tri kỷ, tôi chợt nhớ đến bốn câu thơ mình đã làm khi hành quân qua bến Phương Lâm (thị xã Hòa Bình) mà Tân biết. Lúc đó, tôi nắm tay anh và đọc: Đây những khu rừng xanh cỏ biếc Những con đò, những quán tranh xưa Tân mỉm cười đọc tiếp: Đêm nay u uất hồn cô quạnh Đường vẫn còn vương mộng hải hồ. - Hai câu này của Quý, tớ vẫn nhớ đấy chứ. - Tân nói. Chúng tôi lại ngoắc tay nhau rồi đi tiếp. Sau lần ấy, bẵng đi một thời gian dài không gặp, tình cờ đêm 3 tháng 5 năm 1954 tôi đào trận địa gần Đồi Cháy, gần sáng bỗng nghe tiếng gọi. Tôi quay lại thấy Tân ngồi ở cửa hầm liên lạc tiểu đoàn. Lâu ngày gặp lại nên mừng quá, tôi vào hầm tầm sự với anh vài phút cho đỡ nhớ. Bất ngờ và cũng rất may, vào chưa kịp ngồi xuống thì một quả đạn cối từ A1 bắn xuống đúng chỗ tôi vừa đứng. Anh Tậu - người tiểu đội phó của tôi hy sinh ngay tại chỗ ấy... Tậu hơn tôi vài tuổi, quê ở huyện Thanh Hà - Hải Dương nhập ngũ đầu năm 1952 khi trung đoàn 174 vào chiến đấu trong vùng sau lưng địch. Anh làm anh nuôi, là đảng viên. Đơn vị thiếu người nên được điều sang chiến đấu. Trong hàng ngàn đồng đội nằm lại Điện Biên, mộ anh ở đâu tôi không rõ, nhưng gần 50 năm rồi, mỗi lần gặp Ngọc Tân, chúng tôi vẫn nhắc đến tên anh với lòng tiếc thương vô hạn... Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Giêng, 2023, 10:15:06 am Chúng tôi vận động dưới hào giao thông, thỉnh thoảng gặp chỗ kín đáo lại nhảy lên mặt đất chạy cho nhanh vì nắng chiều gần tắt, tranh thủ ra bìa rừng trước khi trời tối. Ra đến cánh đồng mọi việc đều thuận lợi. Giao thông hào sâu ngập đầu người, rộng tránh được nhau nên mặc dù có bùn vẫn đi nhanh được. Trời vừa tối, chúng tôi tới con suối cạn cạnh bản Pom Loi. Tôi nhận ra tiếng tiểu đoàn trưởng Dũng Chi đang điều chỉnh đội hình: - 671 khẩn trương vào cho kịp giờ! Lúc này có tiếng pháo bắn thẳng của ta nã vào cửa mở, tôi đoán được là DKZ 75 trên mới tăng cường. Phía A1 địch cũng bắn cối ra cửa mở và sau đồi Cháy. Sương đêm đã thành những màng mỏng bay là là mặt đất. Một cơn gió nhẹ thoảng qua mang theo mùi tử khí làm cho cả không gian mênh mông như chứa đựng một cái gì rờn rợn. Tôi nhìn lên sườn nam Đồi Cháy, sương che còn hở chỏm, thấp thoáng có bóng người. Tôi biết trên đó có trận địa hỏa lực của ta chốt giữ từ sau ngày 30 tháng 3. Chợt thấy lập lòe bật lửa, tôi thầm nghĩ lại thuốc lào, đúng là bạn nghiền của tiểu đoàn phó Trương Kim Tiến. Chúng tôi tiếp tục lội dưới giao thông hào, bùn ngập đến đầu gối. Đến một chỗ nơi khô, tôi biết là đã gần cửa mở. Đến miệng cái cống gạch xuyên qua đường cái 41 tôi gặp chiến sĩ thông tin đường dây đang ngồi cạnh máy vô cùng bình thản. Tiểu đoàn phó Trương Kim Tiến đợi ở đấy và cùng đi vào chiến đấu với đại đội chủ công. Dưới ánh pháo sáng tôi nhận ra “ụ thằng người”. Tiểu đội tôi dừng lại trước cửa mở cách nó chừng bốn chục mét. Lúc này, một chiếc máy bay đến thả liền tám cái đèn dù làm cho cả không gian mênh mông mờ mờ ảo ảo. Cối địch từ A1 lại bắn cầm canh xuống cửa mở. Nhờ hào sâu nên chúng tôi vẫn an toàn và bí mật. Súng đạn đầy người, mang vác nặng, anh em chúng tôi bỏ lại hầu hết cơm nắm. Hào đầy bùn, chúng tôi dùng xẻng đánh bậc vào thành hào để ngồi cho đỡ mỏi. Phút chờ đợi thật căng thẳng. Tôi cố căng mắt ra nhìn cho rõ đường lên “ụ thằng người”. Sương đêm bắt đầu dày, ánh đèn dù leo lét, cái còn cái tắt, "ụ thằng người" như một cái bóng, lúc xa xa gần gần, hư hư thật thật, khó phán đoán những gì bí mật trong đó. Qua ánh đèn dù tôi nhìn lên A1. Sao nó to và dài thế, khác hẳn từ bên Đồi Cháy nhìn sang. Trong sự chờ đợi kéo dài, tôi bỗng nhớ đến quê nhà, đến ông bà và mẹ. Nơi ấy có bao nhiêu người thân của tôi đang ngóng chờ và hy vọng. Tôi thầm gọi mẹ và như muốn nói với mẹ tôi: Mẹ ơi đốt mớ lửa hồng Biết đâu một buổi chiều đông con về. Mẹ ơi! Con biết mẹ không buồn sao được vì cả nhà chỉ có mình con là trai. Thầy con hy sinh đã bảy năm. Trong bao năm, mẹ đành lòng kéo dài những ngày đau thương, hy vọng độc nhất là thấy con trở về. Mẹ ơi! Nếu trận chiến đấu này con có hy sinh thì mẹ cũng hiểu cho là: Vì nghĩa vụ thiêng liêng và lòng yêu đất nước, con đã làm đúng... Bỗng có lệnh truyền lên: "Tất cả quay lưng về A1, há mồm ra, bịt tai lại chờ bộc phá nổ". Lệnh đó làm tôi trở lại với “ụ thằng người” và ụ 13 với 14. Tôi không tin là khối bộc phá tấn đặt phía dưới hầm ngầm lại có tiếng nổ to đến như vậy. Là mệnh lệnh thì tôi phải chấp hành nhưng vẫn tò mò ngoái cổ nhìn lên A1. Ngay bấy giờ một tiếng nổ âm rền ục ục. Đất dưới chân tôi rung chuyển, bùn nước trong chiến hào sóng sánh, đất lửa thành một khối kèm theo những khúc gỗ nắp công sự và cọc dây thép gai bốc lên cao rồi ào ào rơi xuống. Sau đó các cỡ pháo của ta từ khắp các trận địa trong lòng chảo, từ dãy Pú Hồng Mèo ầm ầm bắn vào A1 và C1. Pháo của địch từ Hồng Cúm và Mường Thanh thi nhau bắn vào cửa mở và khu vực nam đồi Cháy. Đạn nổ dưới đất, đạn nổ trên không nghe chát chúa, cả không gian Điện Biên rực sáng, bụi đất khói đạn mù mịt. Tất cả tạo nên những đợt sấm rền, những tia chớp khét lẹt, cả khu đông rung lên bần bật. Chờ mãi chẳng thấy lệnh xung phong, tôi nhắc Việt - tổ trưởng tổ 1 - chú ý phía trên. Bỗng hàng loạt tiếng bộc phá ống nổ ròn đều đặn, Việt quay lại báo cáo đằng trước có lệnh lên. Tôi thúc tiểu đội xung phong. Thật sung sướng là anh em còn nguyên vẹn cả. Chúng tôi chạy một mạch qua cửa mở. Một vài đồng chí hy sinh. Khi gần đến “ụ thằng người”, tôi thấy hầu hết bộ phận trước nhảy cả xuống một hố vuông rộng và sâu gần đến ngực. Có tiếng Viên gọi: anh Quý xuống đây! Thấy hố quá đông, tôi cho cả tiểu đội nằm dàn một hàng dọc, hướng "ụ thằng người”. Bỗng có tiếng gọi bộc phá khối. Tôi lăn sang lấy khối bộc phá 15 cân của Chỉ, lao lên và phát hiện một miệng hầm. Tôi nhanh chóng giật nụ xòe. Vừa kịp ném xuống thì như có một mũi khoan từ dưới vọt lên đâm thẳng vào giữa mặt. Tối tăm mặt mũi, mắt tóe lên những hạt sao sa, tôi gục xuống. Ngay sau đó, một tiếng nổ ầm. Người tôi tung lên rồi rơi xuống, máu mồm máu mũi ộc ra. Từ đó tôi không còn biết gì hơn nữa. Năm mươi năm đã trôi qua. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tôi tham gia nhiều trận đánh ác liệt, đánh công sự vững chắc, nhưng A1 vẫn là một trận đánh tiêu biểu về nhiều mặt, cách đánh độc đáo, dài ngày nhất và có lẽ cũng là trận mà đồng đội của chúng tôi ra đi nhiều nhất. ... Nhân dịp kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ - 7 tháng 5 năm 1994 - tôi may mắn được cùng đoàn Cựu chiến binh Đại đoàn 316 thăm lại chiến trường xưa. Cùng đi có cả anh Lâm Viết Hữu - người đội trưởng 671 năm xưa, liên lạc Ngọc Tân - bạn thân của tôi. Qua hai ngày đi đường vất vả, qua bao địa danh quen thuộc: Mộc Châu, Chiềng Pàn, Chiềng Đông, Cò Nòi, Hát Lót, Nà Sản... trưa ngày 2 tháng 4 năm 1994 chúng tôi dừng xe trên đỉnh Pha Đin. Từ đây nghe gió ngàn vi vút mà như âm hưởng xa xăm của khúc quân hành chúng tôi hát 40 năm về trước còn đọng lại hôm nay. Ôi biết bao nhiêu đồng bào, đồng chí đã ngã xuống, bao bà mẹ chờ con mỏi mắt, bao nhiêu người con gái đã phải mang trên đầu những chiếc khăn tang bởi những người ra đi không bao giờ trở lại. Có được hạnh phúc hôm nay, chúng ta đã phải trải qua bao nhiêu là cay đắng, bùi ngùi, xúc động. ... Lần theo trí nhớ, chúng tôi lên “ụ thằng người” không một chút ngỡ ngàng. Dừng lại đó, nhìn bao quát xung quanh, nhìn hướng cửa mở, cố tìm dấu vết một ngách chiến hào xưa nhưng chẳng còn. Ôi! Bao nhiêu kỷ niệm thời trai trẻ lại ào ạt quay về. Chúng tôi lặng người, buồn vui lẫn lộn. Những giọt nước mắt trào ra. Tôi nhớ như in từng khuôn mặt, từng tên những đồng chí đã ngã xuống nơi này. Tôi xin kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ đến các đồng chí đã hy sinh trên đồi A1. Tôi xin gửi lời chào đến tất cả các đồng chí đã từng một lần qua cửa mở tiến công vào A1, nay ở mọi miền đất nước. Chúng tôi lặng lẽ cùng nhau xuống Nghĩa trang A1, thắp bó hương trên khu tưởng niệm. Lòng tôi xao xuyến bồi hồi nhìn về Đồi Cháy, Khe Chít, dãy Pú Hồng Mèo, ... nơi trung đoàn tôi tập kết đánh Điện Biên Phủ. Nhìn ra cánh đồng Mường Thanh, nhìn phố Điện Biên đang dự báo một viễn cảnh vươn lên cùng cả nước. Anh Hữu, Tân và tôi đi vào Điện Biên mới ở tuổi 20, nay đã trên thất tuần, thay đổi nhiều, tóc đã bạc, không còn nhanh nhẹn nữa, nhưng tình đồng đội của chúng tôi vẫn mặn nồng như những ngày Điện Biên rực lửa. Toàn bộ cuộc đời chiến đấu đã để lại trong tôi bao kỷ niệm sâu sắc về những trận đánh, những nẻo đường, tên núi, tên sông, tên những con người, những bản làng heo hút tôi đã đi qua, bao kỷ niệm về tình đồng đội, nghĩa quân dân. Tất cả quá khứ hào hùng, đẹp đẽ ấy không bao giờ quên được. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:03:23 am CON HÀO ĐẪM MÁU NGUYỄN NGỌC TÂN Đã quá trưa ngày 7 tháng 5 năm 1954. Tiếng súng giao tranh trên đồi A1 tắt từ lâu. Bấy giờ mọi người chỉ còn biết chờ lệnh tổng công kích. Mệt mỏi. Chắng ai bảo ai, tất cả cùng chui vào căn hầm hoặc ngách hào, nơi có bóng râm để tránh nắng. Chờ đợi mãi đến phát ngán, không chủ định, tôi bước ra khỏi hầm. Ngoài trời nắng gắt. Ngồi trong hầm khá lâu nên khi bước ra ngoài tôi hoa cả mắt. Sau mấy cái vươn vai, vặn mình cho đỡ mỏi, tôi nheo mắt nhìn xuống cánh đồng Mường Thanh. Trong lớp hơi mù mù đang tốc lên ngùn ngụt, trước mắt mình, không xa mấy, là sở chỉ huy của tướng Đờ Cát. Nó khác với các loại công sự vì có những cái vòm bằng sắt úp bên trên. Tôi liên tưởng đến những cái tùm hum làm bằng chiếu mà hồi còn nhỏ mình vẫn chui ra chui vào với bạn. Chỉ có điều căn hầm của tên chỉ huy cao nhất tập đoàn cứ điểm này to hơn nhiều. Thấy rõ cả những bao đất cát xếp xung quanh cái tùm hum ấy. Nằm giữa những khoảnh đất màu đỏ quạch, gần bờ phải sông Nậm Rốm, nóc tùm hum màu xám xịt, khác biệt với mọi thứ. Dòng sông Nậm Rốm nước lờ lờ đục, uốn nhiều khúc hẹp trên cánh đồng. Từ trên "ụ thằng người" nhìn về hướng nam, con hào tiến công từ phía bản Nà Ten lên hiện ra rất rõ. Đoạn này tách ra từ đường giao thông hào trục, cắt qua sân bóng đá tới giáp đường 41. Nó uốn lượn như mình một con trăn lớn. Đoạn men theo mép đường 41 hẹp hơn và thẳng tắp, đó là cái cổ trăn không có đầu. Cái đầu trăn đã nát bét vì pháo đạn rồi. Tất cả chỉ dài khoảng chừng hơn hai trăm mét thôi. Tôi bỗng nhớ lại cái hôm đầu tiên mình làm công việc chuẩn bị đào con hào này. ...Sau cái đêm tiểu đoàn trưởng Dũng Chi cùng với trung đoàn trưởng Hữu An đi trinh sát "Ụ thằng người" về, tôi cùng hai trinh sát viên nhảy lên khỏi giao thông hào, bắt đầu làm nhiệm vụ. Sương giăng mờ mờ trên cánh đồng phía nam đồi A1. Mặt ruộng mất mô, đôi chỗ còn sót lại nhũng gốc rạ. Đất vẫn khô cứng, đầy những vết nứt nẻ mặc dù đã thấm đôi chút nước mưa. Hai người trinh sát thận trọng, từng bước. Những ngón tay nhanh nhạy và thành thạo khẽ lướt trên mặt đất để tìm những cái râu nguy hiểm của mìn. Mỗi khi anh nào đó dừng tay là có chuyện. Tôi và người kia phải nấp để anh ta lấy mìn đi. Tôi đã chuẩn bị sẵn một bó cọc và mấy cuộn dây dù. Chiếu thẳng hướng "Ụ thằng người", cứ năm mét tôi đóng một cái cọc và căng dây dù nối tiếp nhau. Đêm nay anh em 674 sẽ lần theo dây dù vào đào hào. Đêm hạ tuần tháng ba âm lịch không trăng, tối mịt mù. Tôi mải miết làm việc. Tưởng là khó khăn đấy nhưng may mắn sao lại có ánh sáng của đèn dù. Hồi này, đêm nào cũng vậy, từ chập tối có một chiếc máy bay B29 bốn động cơ từ Hà Nội lên. Loại máy bay của Mỹ mới viện trợ. Con cú vọ bằng kim loại này dai dẳng bay vòng quanh lòng chảo Điện Biên. Nó cứ ì ì lượn suốt đêm như vậy cho tới sáng để rình mò soi mói. Mỗi vòng lượn nó thả một vài cái, chẳng giúp được việc gì to tát ngoài cái ý nghĩa lên dây cót tinh thần cho lũ quân đang khốn đốn ở dưới. Sau khi tôi xong việc trở về, đại đội trưởng 674 dẫn đầu anh em tiến vào. Lần theo dây dù căng sẵn, tất cả triển khai đội hình hàng dọc rải quân. Mỗi chiến sĩ phụ trách một cọc. Họ nhanh chóng đào cho bằng được công sự nằm để ẩn mình xuống dưới mặt đất. Anh em âm thầm làm việc. Sau khi hoàn thảnh những cái hố nằm chuyển sang làm thành hố quỳ rồi tiến tới hố đứng. Qua một đêm các hố cá nhân đã được nối với nhau. Trời vừa sáng bọn địch đã nhận ra con hào giao thông ngoằn nghèo rắn lượn được hình thành trong đêm. Nó như một mũi lao chiếu thẳng vào cái lô cốt có thân cây cụt. Quả thật vô cùng nguy hiểm. Chúng nó lập tức tổ chức san lấp ngay mũi hào này. Đại đội trưởng 674 vừa đặt mình nằm xuống thì bỗng giật mình: - Báo cáo Ban chỉ huy, địch cho xe tăng ra lấp hào rồi. Chiếc xe tăng từ trung tâm Mường Thanh đến, đang từ từ bò chỗ đầu con hào. Nó tiến lên và lùi lại mấy lần. Một đoạn hào ở trên đầu bị chà xát. Khẩu đại liên trên xe bắn như vãi đạn ra xung quanh. Một lũ bộ binh đang rải dây thép gai và gài mìn xuống đáy. - A! Chúng nó định ngăn cản không cho ta đào lại. Đạn cối 60 và đại liên trên Đồi Cháy bắt đầu nã xuống lũ bộ binh địch. Tiếp đó là cối 82 của trận địa Hoàng Luận tham gia. Cuộc chiến tranh giành giật đoạn hào bắt đầu từ lúc ấy. Nghe tin địch ra lấp hào, Trung đoàn trưởng Hữu An trực tiếp xuống tận nơi xem xét. Anh hỏi đại đội trưởng 674: - Tại sao không tổ chức lực lượng phản kích đánh trả bọn lấp hào? Anh ta lúng túng: - Báo cáo, anh em về trong rừng nghỉ cả, không tập hợp kịp. Trung đoàn trưởng hỏi lại: - Thế có tổ chức bảo vệ hào không? Đại đội trưởng 674 lại càng cuống lên: - Báo cáo, không. Cứ tưởng như mọi khi, đào đến sáng là rút hết về nghỉ. Hữu An kết luận: - Thế đấy. Thứ nhất là chủ quan khinh địch. Thứ hai là chậm phản ứng đánh trả. Đây là bài học xương máu. Tôi quyết định cách chức đại đội trưởng của đồng chí. Rồi quay sang các cán bộ cùng đi: - Mũi hào tiến công này đặc biệt quan trọng. Phải đào và bảo vệ bằng mọi giá. Ngay hôm nay, tiểu đoàn phải tổ chức một bộ phận xây dựng công sự cắm chốt bảo vệ suốt ngày đêm. Phải có lực lượng cơ động phản kích nếu chúng nó ra phá phách. Phải tổ chức cho hỏa lực sẵn sàng chi viện. Từ hôm ấy, ngày ngày, bộ phận chốt giữ luôn phải chiến đấu với lính địch ra lấp hào. Súng bộ binh lúc lúc lại nổ ran, có khi kéo theo những trận đấu pháo. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:04:06 am Đêm đêm, lúc lúc pháo địch lại bắn dọc hào. Đạn cối 60 ly mảnh phạt ngang mặt đất, nhằm sát thương những người nằm. Đạn pháo nổ trên không chụp xuống những người dưới hào. Cối 120 ly bắn sập các hầm ếch trú quân của ta ở hai bên. Những con người lặng lẽ cắn răng chịu đựng mệt mỏi và đau thương. Họ lầm lì đào thâu đêm suốt sáng, lầm lì băng bó cho đồng đội bị thương, lầm lì cáng thi hài các tử sĩ về phía sau mà không có một lời ta thán. Đêm khuya, gần địch, âm thầm đào bới. Trong cái im ắng đó nhiều người ngủ thiếp đi. Cán bộ chỉ huy rất vất vả. Họ phải luôn luôn phơi mình trên cánh đồng, đi từng hố để đôn đốc nhắc nhở anh em. Cũng vì vậy nhiều người đã thương vong. Một chiếc cáng thương đi qua. Có tiếng thì thầm hỏi người liên lạc viên theo sau: - Này cậu! Ai đấy? - Anh Trứ, Ban chỉ huy Xê 3. Khổ thân anh ấy, dính mìn cóc. Quả mìn nhảy lên ngang bụng rồi nổ, ruột gan lòi hết ra hy sinh ngay. Có tiếng một người nào đó: - Cán bộ bị nhiều quá. Ông Hồng Tân mới bị hôm trước, nay lại đến ông Trứ. - Ông Hồng Tân à? Thế mà tớ không biết. - Ông ấy giẫm phải mìn gíp1, vỡ gót chân. Chính tớ cáng ông ấy về. Một đêm khác, anh Thế Dũng - cán bộ tác chiến của tiểu đoàn - gọi tôi: - Cậu đi với tôi. Chúng mình phải kiểm tra lại kích thước của hào. Nhiều quãng không đạt yêu cầu. Thấy thời gian còn sớm, anh Thế Dũng bảo tôi: - Cậu vào hầm tranh thủ nghỉ một chút đi, khi nào cần tớ sẽ gọi. Tôi dặn: - Anh nhớ tôi ở cái hầm ếch có hòm đạn này nhé. Vừa ngồi xuống cái hòm đạn ở cửa hầm thì ngẫu nhiên, trong ánh đèn dù lờ mờ tôi nhận ra Trần Quý và Tậu đang đào hào ngay cạnh đấy. Từ sau mấy ngày cùng nhau phòng ngự trên Đồi Cháy đến giờ tôi mới lại gặp Quý. Mừng quá tôi vội gọi: - Trần Quý à? Lại đây một lát đi. Cả hai chúng tôi vừa chui vào hầm thì bỗng một ánh chớp loé sáng. Trái cối 120 rót xuống ngay cạnh đấy. Tậu ngã vật ra, không dậy nữa. Một mảnh cối ném thủng cái hòm đạn ở cửa hầm mà tôi vừa ngồi trên đó. Tôi bàng hoàng và cảm thấy mình có một sự may mắn không ngờ. - Quý ơi, nếu không gặp cậu thì mình đã toi đời với cái mảnh đạn này. Trần Quý không nghĩ như thế: - Chính vì cậu gọi tớ vào hầm mà mình thoát chết mới đúng. Chia tay với Quý, tôi quay lại tìm Thế Dũng. Hỏi mãi không thấy Dũng đâu. Cuối cùng gặp đại đội trưởng 674, anh ta nghẹn ngào: - Thế Dũng à? Pháo... nó quật nát rồi. Tôi cảm thấy thật đau xót. Chỉ một thoáng thôi mà đã có mấy người ngã xuống. Anh em thương vong nhiều quá. Mặc dù như vậy, mỗi đêm con hào vẫn nhích dần lên một ít. Và cho đến một hôm, nó bắt đầu chui xuống dưới hàng rào cũi lợn của địch, phía trước cái "Ụ thằng người". Tôi là người đầu tiên làm cái việc đóng cọc và căng dây để khai sinh ra con hào. Thế nhưng khi làm cái công việc ấy, tôi không thể ngờ được rằng để có được nó như bây giờ, đồng đội tôi đã bị thương và hy sinh nặng nề đến như vậy. Đêm nào mà chẳng có những cáng thương âm thầm trở về phía sau. Ôi mỗi mét hào đều đẫm máu các cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn 251. Rồi bỗng tôi có một sự so sánh hơi kỳ lạ: nếu tất cả những cái cáng thương đồng đội được đặt thành một hàng dọc song song con hào ấy thì chiều dài có thế xấp xỉ với cái mình con trăn, chẳng ngắn hơn là mấy. Trên toàn mặt trận Điện Biên này có đoạn hào nào mà cuộc chiến lại ác liệt hơn ở đây không? Tôi thoáng nghĩ đến hai đại đội trưởng Hồng Tân và Trứ, rồi Thế Dũng, Tậu... cùng bao nhiêu người tôi biết cũng như chưa biết. Trong lòng tôi bỗng xúc động. Các đồng chí ơi! Chúng tôi đã tiêu diệt "Ụ thằng người" rồi. Trung đoàn đã diệt xong A1. Chúng nó đã phải trả món nợ máu xương mà anh em hy sinh để tạo điều kiện cho chúng tôi tiêu diệt cái cụm đề kháng đó... Cho đến bây giờ, những hy sinh mất mát đó vẫn quanh quẩn trong đầu tôi, dù thời gian đã qua đi một nửa thế kỷ rồi. ____________________________________________ 1. Loại mìn nhỏ như hộp xà phòng đánh răng Gibbs. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:07:22 am TÌNH ĐỒNG ĐỘI TRẦN ĐẠI QUỲNH Sau nhiều năm xa cách, sáng nay sắp đến ngày 7 tháng 5 kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi mới có dịp quay về tìm người bạn vừa là bạn chiến đấu cùng chiến hào, vừa là đồng hương thành phố Nam Định từ những năm 1949 ở Trung đoàn 174 đại đoàn 316. Qua khỏi dốc nhà máy bia Nađa tôi hỏi thăm số nhà. Phải 5 phút sau mới tìm đúng số nhà, nhưng lạ thay, đúng tên, đúng số nhà mà thấy trong nhà có nhiều câu đối treo trước bàn thờ, như nhà vừa có tang. Một cô gái chừng 30 tuổi hỏi: "Bác tìm ai?" Sau khi tôi nói rõ họ tên, cô gái ngậm ngùi nói: đây đúng là nhà bố mẹ cháu, nhưng bố cháu mới qua đời được nửa tháng: "Mời bác vào nhà!". Bước vào nhà thì mẹ cháu và các em cùng ra chào tôi. Tôi cảm ơn và xin lỗi gia đình. Không nhận được tin ông Phái, xin cho tôi được phép thắp nén hương cáo lỗi với người đồng chí, đồng đội đã cùng chiến đấu sống chết với nhau từ lúc chiến sỹ tới cùng lên cán bộ đại đội. Thắp hương xong, tôi ngồi xuống trước vòng vây của mẹ con bà Phái thay nhau dồn hỏi mối quan hệ bạn giữa tôi và ông Phái. Cô gái lớn lại hỏi: Thưa bác, người bạn mà bố cháu thỉnh thoảng lại nói đến luôn, hôm nay gia đình mới biết bác. Bố cháu cùng chiến đấu ở Điện Biên Phủ với bác nhưng bố cháu chẳng kể câu chuyện gì để con cháu biết bố cháu đã làm gì. Sắp đến ngày 7 tháng 5 kỷ niệm chiến thắng vĩ đại, xin bác bớt thời gian kể chuyện chiến đấu Điện Biên Phủ, vừa là tình cảm với mẹ con cháu, với bố cháu để tưởng nhớ những người đã khuất. Theo yêu cầu tha thiết của mẹ con bà Phái, tôi xin kể tóm tắt về chiến đấu ở đồi A1 mà anh em chúng tôi đã sống chết ở đây: "Tôi và anh Phái sống chiến đấu cùng nhau từ năm 1949 tới sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, cùng trung đoàn đi khắp các chiến trường. Trung đoàn 174 của chúng tôi là đơn vị chủ công của Đại đoàn 316 đã lừng danh chiến công trận Đông Khê có anh hùng quân đội đầu tiên La Văn Cầu, rồi chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, đường 18, Trung du Hòa Bình, luồn sâu vào địch hậu có cứ điểm boong ke, Larive, vào chiến dịch Tây Bắc có Ba Khe, Ca Vịnh, Mộc Châu, Nà Sản, chiến dịch Thượng Lào. Trước khi chuẩn bị chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung đoàn chúng tôi đánh địch rút từ Lai Châu về bảo vệ Điện Biên Phủ, có trận Mường Pồn xuất hiện anh hùng Bế Văn Đàn. Sau đó trung đoàn chúng tôi quay vào chuẩn bị công sự đánh địch tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Theo kế hoạch ban đầu: Đại đoàn 316 đã giao nhiệm vụ cho Trung đoàn bạn 98 đánh A1 rồi A2, Trung đoàn 174 chúng tôi đánh đồi C1, và C2. Đúng giờ quy định trung đoàn 98 và 174 chờ lệnh tiến công, giữa lúc đó Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh hoãn để rút về vị trí tập kết. Được Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Đại đoàn phổ biến: Ta chủ trương đánh nhanh giải quyết nhanh, nay do tình hình địch có thay đổi nhiều, nên Bộ chỉ huy chiến dịch chuyển sang đánh chắc, tiến chắc đảm bảo chủ động chắc thắng. Để đảm bảo phương châm tiến chắc, Bộ Tư lệnh Đại đoàn phân công lại, giao nhiệm vụ đánh A1 cho trung đoàn 174 chúng tôi, vì đã có nhiều kinh nghiệm đánh công sự vững chắc. Cứ điểm A1 cao nhất khu trung tâm có tầm quan trọng bậc nhất trong 49 cứ điểm của tập đoàn Điện Biên Phủ. A1 nằm phía Đông có thể uy hiếp khống chế và phong tỏa khu trung tâm chỉ huy Mường Thanh thu hẹp vùng trời máy bay tiếp tế của địch. Chiếm A1 quân ta vượt cầu Mường Thanh tiến vào khu sào huyệt chỉ huy của tướng Đờ Cát tổng chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Cứ điểm A1 là đồn cũ của Pháp xây dựng trước năm 1940; đến năm 1945 Nhật chiếm tu sửa thêm, nay bọn Pháp cải tạo củng cố thành vị trí công sự vững chắc, ở đây chúng bố trí một tiểu đoàn Marôc và một trung đội Lê Dương thiện chiến, có hỏa lực bản thân rất mạnh, dựa vào hầm ngầm, lô cốt, hàng rào dây thép gai, mìn, nhiều lớp, có chi viện các trận địa pháo và xe tăng Mường Thanh và Hồng Cúm chặt chẽ. 17h30 ngày 30 tháng 3 năm 1954 Trung đoàn 174 đánh lần thứ nhất chiếm gần hết, còn lại hầm ngầm cố thủ, địch cụm lại, ban ngày chúng dùng xe tăng pháo binh và bộ binh từ Mường Thanh đánh chiếm lại. Theo lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch điều Trung đoàn 102, Đại đoàn 308 cùng Trung đoàn 174 tiếp tục chiến đấu nhiều đợt nhưng không chiếm được hầm ngầm của địch. Từ đêm 1 đến sáng 3/4/1954 trên đồi A1 diễn ra nhiều đợt tiến công và pháo kích quyết liệt không còn một ngọn cỏ. Cán bộ chiến sĩ hai trung đoàn 102 và 174 sát cánh bên nhau chiến đấu dũng cảm tiêu diệt nhiều địch. Đêm ngày 4 tháng 4 Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh ngừng tiến công A1, giao lại cho trung đoàn 174 kiên quyết giữ phần cứ điểm đã chiếm được, chuẩn bị chu đáo để tiếp tục tấn công. Ta bắt được trên 30 tù binh địch. Theo lời khai của tù binh, địch đã sửa tầng chìm nhà ăn cũ, chìm sâu xuống thành hầm ngầm, cấu trúc các lỗ châu mai, ụ súng, đào thêm chiến hào, giao thông hào thành các khu ngăn cách khu A, B, C, mỗi khu chứa hàng trung đội có các ổ đề kháng. Ban chỉ huy Trung đoàn sau khi nghiên cứu, báo cáo với Bộ Tư lệnh Đại đoàn 316, được Bộ Tư lệnh chiến dịch phê chuẩn để Trung đoàn 174 đào một đường hầm ngầm luồn sát hầm ngầm địch dài 49m để chứa được 1 tấn thuốc nổ. Trên tăng cường cho 1 tổ công binh có kinh nghiệm và kỹ thuật. Từ ngày 20 tháng 4 quân ta bắt đầu đào, những đêm đầu đào rất gian khổ, đất đào bỏ từng túi mang ra ngoài, càng vào trong càng thiếu không khí, không triển khai nhiều người mà phải thay nhau chuyển đất, và dùng quạt nan quạt không khí vào hầm, dùng đèn ắc quy để rọi sáng, dùng la bàn để đảm bảo đúng hướng ngầm địch. Trong khi đó bộ phận trên mặt đất đồi A1 vẫn chiến đấu, hàng ngày 3 đến 4 lần địch tấn công, nhưng quân ta chiến đấu bảo vệ được bí mật đào hầm. Sau 16 ngày đêm đã đào được 49m và đào thêm ngách chữ T để chứa thuốc nổ 1 tấn. Trưa ngày 6 tháng 5, trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An trực tiếp xuống kiểm tra toàn bộ công việc của bộ phận phụ trách khối bộc phá. Theo lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch do Bộ Tư lệnh Đại đoàn truyền xuống cho Trung đoàn 174 khống chế thời gian, lấy tiếng nổ của khối bộc phá hầm ngầm đồi A1 làm hiệu lệnh chung cho toàn bộ chiến dịch đợt tấn công quyết định. Toàn bộ các đơn vị chiến dịch đều hướng về đồi A1 để chờ lệnh. Đúng 20h30 ngày 6 tháng 5 năm 1954, một tia chớp xanh loé lên và một tiếng ục nặng nề om dưới lòng đất như một quả bom nổ chậm giữa lúc trời tranh tối tranh sáng, qua màn đêm quan sát thấy đồi A1 có nhiều cột khói bụi đất bốc lên. Tiếng nổ om trong lòng đất đã làm nhiều tên địch bị chết ngất vì sức ép. Đại bộ phận địch choáng vì ù tai. Quân ta áp sát hầm ngầm ập vào nên địch không kịp đối phó; quân ta xung phong thuận lợi. Sau 15 phút trung đội đầu cầu chiếm được phía bắc đồi A1, các mũi đại đội khác chiếm các phân khu A, B, C. Xung phong vào hầm ngầm rồi nhanh chóng chia nhiều hướng truy quét đã bắt sống 122 tù binh do quan ba Pugiê chỉ huy. Đúng 4 giờ 30 ngày 7 tháng 5, trung đoàn 174 đập tan sức kháng cự của địch làm chủ hoàn toàn đồi A1, các đơn vị bạn khác ào ạt tấn công địch toàn mặt trận. Tiêu diệt A1 là một trong những trận đánh ác liệt nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong 38 ngày đêm lúc tấn công khi phòng ngự, giành giật với địch từng tấc đất, cán bộ chiến sỹ trung đoàn 174 đã vượt muôn vàn gian khổ, hy sinh trong bom đạn người này ngã, người khác xông lên để giành thắng lợi cuối cùng. Tiếng nổ của khối bộc phá một ngàn cân trong lòng đồi A1 không lớn, nhưng nó đã góp phần làm nên tiếng nổ Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Đấy, anh em chúng tôi lúc bắt đầu vào trận đánh từ cơ quan tham mưu và chính trị trung đoàn 174 được xuống trực tiếp thay thế làm đại đội trưởng và chính trị viên đại đội để chiến đấu tại đồi A1. Anh em chúng tôi cũng may mắn chỉ bị thương nhẹ, tiếp tục chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ đến cùng. Sau chiến dịch, anh em chúng tôi được điều đi công tác mỗi người một nơi, hôm nay mới có dịp tìm lại nhau để ôn lại những ngày gian khổ chiến đấu, nhưng lại không gặp nhau. Tôi đã làm nhiệm vụ kể lại để cho chị và các cháu nghe, nhớ lại công sức và tự hào về anh Phái đã góp cho cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc oanh liệt". Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:10:04 am CÂU CHUYỆN ĐỊCH VẬN Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ TRẦN ĐỖ NHƯỢNG1 ... Một đêm cuối tháng giêng Giáp Ngọ (không nhớ ngày dương) tối trời, sương mù nhiều nên thưa sao. Tôi cùng tổ quân báo và mấy chiến sĩ bộ binh lỉnh kỉnh, nhưng bí mật tiến vào cánh đồng Him Lam cắm 12 chữ RAPATRIEMENT (hồi hương). Dưới chân mỗi cọc rải ít truyền đơn. Từ khâu chuẩn bị làm 12 mặt bia dán chữ trắng cao 1m2, rộng 60cm nét chữ 20cm đến việc phân công thứ tự người vác chữ trong đêm cho đúng từ ngữ phải rất chu đáo. Từ cánh đồng nhìn lên khoảng trời phía nam thấy rõ hình thù đồn Him Lam cao to. Sáng mai binh lính trên đồi Him Lam sẽ được đọc chữ “Hồi hương” còn bị tác động mạnh mẽ và nhanh nhạy hơn những tờ truyền đơn. Cái đêm này đã để lại trong tôi một kỉ niệm sâu sắc. Quân ta đánh quân ta mà bình an vô sự. Sự thể là vừa xuống đến cánh đồng, trời còn nhá nhem thì gặp tổ quân báo của đại đoàn 312, đã cho bạn biết sẽ vào cánh đồng Him Lam chôn khẩu hiệu địch vận trong vòng một tiếng trở lại - Thế là yên tâm! Trên đường thỉnh thoảng phát hiện mùi thối. Đến gần, lại một chú trâu vô tội bị địch giết đang thối rữa phơi xương. Xong việc, rút quân về đến vạt ruộng gần bìa rừng, chợt có tia chớp lựu đạn mỏ vịt. Tổ triển khai chiến đấu rất nhanh trước khi lựu đạn nổ. Chỉ nghe tổ trưởng chỉ huy rất gọn mà bí mật, rồi sự yên tĩnh trở lại ngay. Hình như biết nhầm, đôi bên rút nhanh không một tiếng động nhỏ. Khoảng 10 phút sau, cối địch từ Him Lam nã một hồi vào nơi phát nổ - Hú vía! Tháng 4/1954, khi đã vây hãm chặt phía đông A1, quân ta chiếm giữ một phần đồn đối mặt với địch, đã có cách giải truyền đơn vào đồn địch. Từ những quả pháo sáng (cối 60 ly) thu của địch thả dù, tôi làm đạn bắn truyền đơn. Đem bắn thử quả đầu, truyền đơn cuộn tròn rơi cả cục. Tôi đã kịp cải tiến, gấp nhỏ từng tờ, dùng phấn rôm xếp vòng tròn rất hiệu quả. Thế là được quả đạn nào tôi lại thay cục pháo sáng thành truyền đơn chuyển cho trận địa cối. Tuy số đạn không nhiều, nhưng tù binh A1 ra hàng cứ chìa truyền đơn ra coi như bùa hộ mệnh. Tổng kết chiến dịch, quân ta bắt 6000 tên địch. Ta trao trả thương binh địch tại sân bay Mương Thanh, cấm không quân địch hoạt động quanh khu vực Điện Biên xuôi theo đường 41. Lợi dụng thời cơ, ta chuyển lương thực đạn được ra (dự trữ tác chiến đến tháng 7 hết mùa mưa). Trung đoàn 174 lãnh nhiệm vụ áp giải tù binh Âu Phi về xuôi. Sáng 8/5 tôi vừa lên đĩnh A1 thì có lệnh Cục Địch vận điều ra Mường Phăng giải quyết tù binh Âu. Rồi tôi hành quân theo đại đội 925 dẫn giải toán tù binh cuối cùng, hầu hết là lính quân y và công binh giữ lại phục vụ trong lòng chảo. Có điều rất hiếm thấy là số tù binh này lại được lên phim “Chiến thắng Điện Biên Phủ”. Một đêm hành quân, có tên lính Tây nằm lăn ra đường không chịu đi, mồm kêu: - “Capitaine! À boire! Trop soif! à boire! Capitaine!” (Đại uý, cho tôi uống nước, khát quá, nước, đại uý) - “Là! Encore ti ti l’eau là!” (Kia, còn tí nước kia) Vì vô tình lắc bi đông nên buộc phải thể hiện chính sách nhân đạo trao bi đông cho nó. Hậu quả hôm sau lấy nước uống không xúc rửa bi đông, tôi bị lây “kiết lỵ tù binh” kéo dài vài năm sau. Rõ là dốt hoá dại! Về công tác ở Ban Chỉ đạo trao trả tù binh của Bộ ở Bến Cốc thị xã Thanh Hoá, một lần xuống kiểm tra đoàn tù binh sắp trao trả. Bất ngờ một lính Pháp trẻ, cao lớn từ xa chạy lại miệng gọi: “Capitaine! Capitaine!”, rồi bế xốc tôi lên, cám ơn rối rít chính sách nhân đạo của quân đội Việt Nam, hứa về nước sẽ đấu tranh không đi lính, đấu tranh cho hoà bình... Quá bất ngờ và hồi hộp, tôi không kịp trấn tĩnh lấy ngay tên tuổi quê quán của tên lính đó làm minh chứng. Nào ngờ thời cơ đó chỉ có một. Công tác địch vận trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ có nhiều sáng tạo và hiệu quả. Năm 1999, kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, trong nhà Bảo tàng Điện Biên thiếu một mảng đề tài khai thác và trưng bày. Đó là: địch vận trong chiến địch Điện Biên Phủ. Nếu liên hệ Cục Dân vận và tuyên truyền đặc biệt sưu tầm đủ chủng loại truyền đơn thời ấy, xin được một quả đạn cối pháo sáng 60 ly, tôi có thể tham gia vào việc trưng bày mảng đề tài địch vận để khách tham quan trong và ngoài nước hiểu chi tiết thêm về chiến dịch lịch sử này. Viết ngày 20-7-2003 _____________________________________________1. Nguyên cán bộ địch vận Ban chính trị Trung đoàn 174. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:18:00 am CÂY SỐ 42 (Truyện ký) DŨNG HÀ (PHẠM ĐIỆNG) Chiếc máy bay TU.134A lăn những vòng bánh cuối cùng rồi dừng lại ở vị trí quy định. Mấy phút sau chiếc cầu thang đã được đặt xong và cửa máy bay mở rộng. Các vị khách quốc tế xuất hiện trên khung cửa giơ tay vẫy chào đáp lại những cánh tay và những lời reo vui nồng nhiệt của chúng tôi, những người đón khách. Đó là những vị khách đến dự một cuộc họp quốc tế quan trọng được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với các bạn trong đoàn ra đón, tôi lần lượt bắt tay các vị khách quý, những nhân vật có tên tuổi, nam và nữ của hai lục địa. Tôi xiết chặt tay một người mặc âu phục xám, dáng cao và mảnh khảnh, có hàng ria đen khá đậm để theo kiểu người Ả Rập và chào anh bằng tiếng Pháp: - Chúc mừng đồng chí đã đến thăm đất nước chúng tôi. Người khách nắm chặt tay tôi và thật bất ngờ, anh đáp lại bằng tiếng Việt khá sõi: - Chào đồng chí! Rất cảm ơn đồng chí đã ra đón chúng tôi. Đồng chí có khỏe mạnh không? Ngạc nhiên, tôi ôm lấy người bạn quốc tế mà ngay từ câu nói đầu tiên đã tỏ ra am hiểu phong tục Việt Nam. - Anh nói được tiếng Việt? Hay quá! Anh nói được nhiều không? - Tàm tạm - Anh bạn nhã nhặn gật đầu, miệng tủm tỉm lộ vẻ hóm hỉnh - Tôi nói còn xoàng hơn mấy cha kia! Anh hất hàm về phía những người bạn quốc tế đang tíu tít bên những cô phiên dịch và những bạn bè quen thuộc ra đón. "Chà! Vớ được anh Tây mắm tôm". Tôi hết sức hứng thú trước sự bất ngờ này. Anh bạn mà tôi vừa quen đi trước cùng các đồng chí trong ban chấp hành ra đón. Tôi nhìn anh từ phía sau lưng. Lưng anh hơi còng và lệch vai bên phải. Nhìn kỹ thấy bước chân anh hơi tập tễnh dường như chân trái có tật. Mái tóc đen dài và xoăn của anh đã bạc trắng ở hai bên thái dương. Tôi bỗng mơ hồ như đã gặp anh ở đâu. Nhưng nhớ mãi không ra. Đêm hôm ấy, trong căn phòng nhỏ trên tầng lầu ba của một khách sạn bên sông Sài Gòn, tôi cứ trăn trở mãi không ngủ được, bâng khuâng nhớ lại cảnh tượng ban chiều. Đêm về khuya, từng cơn gió mát lạnh từ sông Sài Gòn thổi vào như vuốt ve khiến tôi thấy tỉnh táo hẳn lên. Bỗng như tia chớp vụt qua, tôi bàng hoàng kêu lên: "Đúng rồi!". Nhưng ngay sau đó tôi lại tự nhủ: "Không làm gì có chuyện như thế! Ở đời thiếu gì người giống nhau!" Hôm sau, cuộc họp được tiến hành trong một hội trường tráng lệ của thành phố. Tôi ngồi ở chỗ dành cho các nhà báo trong nước được mời. Cả buổi sáng, cả buổi chiều, tôi nhìn lên phía đoàn chủ tịch, mắt lại luôn nhìn anh bạn chiều qua. Rõ ràng anh là một nhân vật quan trọng trong cái tổ chức quốc tế Á - Phi này. Người ta gọi anh một cách trọng vọng là Apđun Môhamét. Tôi cũng nhận thấy một điều khác lạ. Apđun ngồi trên ghế đoàn chủ tịch, thường đưa mắt nhìn về phía chúng tôi. Cặp mắt nâu hơi sâu và trầm tĩnh của anh như tìm kiếm và khi anh phát hiện ra tôi, dường như cặp mắt ấy ánh lên một nét mừng vui bất ngờ. Khi anh bước lên diễn đàn, giọng nói của anh trầm, ấm và kiên nghị. ... Đoàn kết với Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc, giữ gìn độc lập dân tộc và bảo vệ hòa bình là nghĩa vụ, là tình cảm thiêng liêng... Phiên họp cuối cùng chấm dứt, tôi đến ngồi trên chiếc sôpha, cạnh một chiếc bồn lớn bằng sứ tráng men xanh, trồng một cây bông sứ. - Xin lỗi! Tôi muốn nói chuyện với anh, được chứ? Tôi vội đứng dậy, nắm lấy tay anh, không giấu được vẻ mừng vui: - Mấy ngày qua anh bận quá. Tôi có một băn khoăn muốn hỏi anh... Apđun ôm lấy vai tôi nồng nhiệt nói: - Trời ơi! Chính tôi cũng đang muốn được gặp anh. Tôi cảm thấy rất quen anh, như là đã được gặp anh ở đâu rồi. Tôi khẽ nắm tay anh: - Anh cho phép tôi hỏi, trước đây anh đã sang Việt Nam lần nào chưa? Anh học tiếng Việt từ bao giờ mà nói khá thế? - Tôi sang đây lần này là thứ ba. - Lần thứ nhất là bao giờ? Hồi chiến tranh chống Pháp, anh có ở đây không? Apđun nhìn chằm chằm vào tôi, mặt đỏ lên vì xúc động: - Cuộc chiến tranh Pháp - Việt tôi là lính trong quân đội Liên hiệp Pháp. Tôi hồi hộp hỏi dồn: - Anh có dự trận Điện Biên Phủ không? - Tôi là lính của tiểu đoàn lê dương đóng trên đồi Elian. - Anh có ở trong đoàn tù binh về Thanh Hóa? - Có. - Và, vụ trực thăng ở cây số 42? Apđun Môhamét bỗng run lên. Ánh mắt nóng bỏng của anh như cắm sâu vào mắt tôi. Trong một thoáng, hình như anh đang cố hình dung ra một bóng dáng xa vời của dĩ vãng. Cặp môi anh mấp máy, rồi anh ôm chầm lấy tôi, kêu lên: - Mon commandant!1 - Bella! Bỗng chốc, tôi bật nhớ ra tên anh. ___________________________________________ 1. Ngài thiếu tá! Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:21:14 am * Lúc ấy, vào khoảng ba giờ chiều ngày mồng 7 tháng 5. Tiểu đoàn chúng tôi đã đánh chiếm hoàn toàn cứ điểm A1 mà tướng Đờ Cát gọi bằng cái tên mĩ miều là Êlian, sau một tháng giằng co ác liệt. Khắp đồi, vang động những tiếng reo hò. Các chiến sĩ nhảy cả lên nóc lô cốt. Giờ cáo chung của tập đoàn cứ điểm đã đến rồi! Đúng lúc đó hàng loạt tiếng đề-pa của súng cối 120 ly từ Hồng Cúm vèo vèo rít gió, hướng về phía chúng tôi. Tôi chỉ kịp thét: - Nó bắn đấy! Nằm xuống! Hàng chục quả đạn cối 120 ly đã ầm ầm quật xuống đồi A1. Tiếng nổ chát chúa như xé tai. Khói đen đặc trùm kín nơi chúng tôi đang đứng. Tiếng kêu thét "Mon Dieu!"1 của mấy tên tù binh lẫn trong tiếng kêu thất thanh của đại đội trưởng Thụy. Chúng tôi lao vào lô-cốt giam tù binh giữa làn khói bay sặc sụa khét lẹt. Chiếc lô-cốt đã vỡ tung. Một quả đạn rơi giữa căn hầm lộ thiên, giết chết tươi ba tên tù binh. Tên còn lại máu me đầy mặt đang run bắn, nép vào góc tường, giương cặp mắt nâu đỏ dại nhìn chúng tôi, miệng lắp bắp: "Mon Dieu! Mon Dieu!" Tôi ôm đại đội trưởng Thụy trên tay. Một mảnh đạn đã làm đùi trái anh bị gãy nát và trên bụng anh, máu trào ướt đẫm bàn tay tôi. Đưa Thụy sang cản hầm khác cấp cứu và tổ chức cáng thương đưa anh về phía sau xong, y tá tiểu đoàn băng bó cho tên tù binh còn sống sót. Nó có vẻ chịu đựng, tự tay xé rộng ống quần để lộ vết thương đỏ lòm. Cặp môi dày của nó mấp máy: - Merci! Merci bien mon caporal2 Đang cay đắng vì tổn thất bất ngờ xảy ra trước giờ toàn thắng, tôi dằn giọng bảo nó: - Chúng mày phải chết. Nhìn nòng súng chĩa vào ngực mình mỗi lúc một gần, tên tù binh bật dậy: - Mon commandant! Tôi không có tội! - Không có tội! Mày! Một tên lê dương? - Thưa ông, tôi đã phản chiến! Tôi đã chạy sang hàng ngũ các ông. Tôi cười gằn: - Chúng tao bắt mày tại trận mà mày lại là hàng binh? Tên tù binh vẫn đứng theo tư thế nghiêm: - Xin phép ngài thiếu tá được báo cáo! - Nói đi! - Thưa ngài thiếu tá! Cách đây ba ngày tôi đã rời khỏi căn cứ này chạy ra rừng để tìm đến hàng quân đội Việt Nam. Hắn lóng ngóng lần túi trong chiếc áo "bắt gà" rộng lùng thùng rút ra một tờ giấy trắng gấp cẩn thận: - Thưa ngài thiếu tá! Tôi nhặt được tờ truyền đơn của các ngài cách đây một tuần. Tôi liền đào ngũ chạy ra rừng. Nhưng loanh quanh ba ngày không gặp bộ đội Việt Nam. Tôi lại bị quân tuần tiễu bắt gặp, trả về đại đội. Tôi bị phạt giam ba ngày. Khi các ngài đánh vào, capiten3 buộc tôi cầm súng chống cự. Đúng lúc ấy các ông tràn vào... Tôi để ý nhìn kỹ tên tù binh: mái tóc đen xoăn tít rối bù, gương mặt đen sạm gầy guộc, cặp mắt nâu trũng sâu, một hàng ria mép đen và chiếc lưng hơi còng. Trông hắn có vẻ thành thật bên trong nỗi mệt mỏi cực độ về thể xác. Tôi hỏi: - Tên anh là gì? Cấp bậc? Lập tức, tên tù binh rập gót giày: - Benla. Binh nhất, thưa ngài thiếu tá! - Bao nhiêu tuổi? - Thưa ngài thiếu tá, hai mươi tám. Tôi ngạc nhiên nhìn hắn. Tưởng hắn phải đến bốn mươi nhăm. - Không thể tin anh được. Anh bị bắt tại trận với vũ khí trong tay. Anh là tù binh chiến tranh. Ra chỗ kia tập trung. Tên tù binh chớp cặp mắt mệt mỏi, cúi đầu bước theo một chiến sỹ, dáng đi lộ vẻ nhẫn nhục. Ba ngày sau, tiểu đoàn chúng tôi nhận được một lệnh khá đặc biệt "áp tải hai nghìn tù binh Pháp về hậu phương Thanh Hóa". Với yêu cầu phải bảo đảm đầy đủ số tù binh không được để hao hụt, đào ngũ dọc đường. Một buổi chiều, từ chỗ trú quân ven đường gần ngã ba Tuần Giáo chúng tôi dẫn tù binh vượt đèo Pha Đin. Đó là một cái đèo nổi tiếng vì độ cao, độ dài và khó đi, là nỗi gờm sợ của những chàng lái xe kéo pháo. Vượt qua mấy đoạn đèo, đoàn tù binh đuổi kịp một đơn vị nữ thanh niên xung phong cũng trên đường trở ra. Các cô đều mặc quần đen, áo sơ mi xanh màu lá, dép lốp, mũ nan, gài lá nguỵ trang. Nhiều cô khoác tấm vải dù hoa, một kỷ niệm kiêu hãnh của người ở chiến trường trở về. Cô nào cũng gồng gánh nhưng xem ra chẳng có gì là nặng. Khác hẳn những ngày trước đây, các cô nhìn toán tù binh dài dặc vượt qua bằng ánh mắt thản nhiên, tò mò, thích thú và khinh thị. Những tiếng nói lao xao trong trẻo cất lên giữa lưng đèo lạnh ngắt: - Khiếp, trông chúng nó kinh kinh là! Bây giờ em mới nhìn thấy tận mắt đấy. - Eo ơi! Chúng nó hôi quá! - Các anh ơi! Cho chúng em mỗi đứa một thằng về kéo cầy nhé. Trâu nhà em tàu bay nó bắn chết rồi. - Ơ hò... Bộ đội mà gặp dân công... Ai đi hò lơ Như anh gặp chị... ai đi hò lờ Như ông gặp bà... Hò lơ ới lơ, lắng tai nghe chúng tôi hò lờ. Tiếng ồm ồm của một cậu nào bỗng cất lên nghịch ngợm khiến quang cảnh trở nên nhộn nhạo. Khắp hàng quân ran ran tiếng cười nói, tiếng đùa cợt, tán tỉnh của các chàng lính trẻ. Các cô gái cười như nắc nẻ, dúi đẩy nhau, đấm vai nhau thùm thụp. Một cô gái đi sau, sát vệ đường lấy sức bước lên một hòn đá. Bất ngờ cô trượt chân ngã quỵ xuống. Chiếc ba lô mắc ở phía sau đòn gánh bật ra, lăn xuống dốc núi dựng đứng. Cô gái kêu lên một tiếng hoảng hốt, đứng ngẩn nhìn theo chiếc ba lô chưa biết xử trí ra sao... Giữa lúc mọi người đi trước chưa biết làm gì thì trong đoàn tù binh, một người đã tự động tách khỏi hàng và lao theo chiếc ba lô. Chỉ một phút sau anh ta đã leo lên và đặt chiếc ba lô trước mặt cô gái miệng lúng búng. - Của cô... xin chào! Cám ơn... Trước vẻ bỡ ngỡ và có chiều ngượng ngập của cô gái, anh ta chạy vội về hàng của mình. Việc nhỏ đó cũng đủ là đề tài câu chuyện kéo dài trong chặng đường vượt đèo. Khi cậu liên lạc láu táu kể cho tôi nghe, tôi nảy ra ý tò mò muốn biết mặt người tù binh đó. Tuy trời đã nhá nhem tối nhưng tôi cũng còn nhận ra một dáng hơi quen. Vừa đi bên cạnh anh ta, tôi hỏi: - Anh đã giúp đỡ một người của chúng tôi. Thế là tốt. Người tù binh ưỡn ngực nhưng vẫn bước: - Xin cám ơn ngài thiếu tá! - Tôi trông anh hơi quen. - Thưa ngài thiếu tá! Tôi đã được hân hạnh gặp ngài trên đồi Êlian sau khi pháo của quân đội liên hiệp Pháp đã giết hại mấy đồng đội của tôi. - A! Tôi nhớ. Benla, đúng tên anh vậy không? Mấy tên tù binh đi bên cạnh Benla nhìn anh ta bằng cặp mắt ghen tị. Benla lộ vẻ vui sướng nhưng giọng vẫn điềm đạm: - Rất cảm ơn ngài thiếu tá. ____________________________________________ 1. Lạy chúa! 2. Cám ơn! Rất cám ơn thầy cai. 3. Ông đại úy. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:23:35 am * Rồi một đêm đã khuya, bọn tù binh được lệnh nghỉ chân tại ven đường. Trăng rừng hắt ánh sáng xanh xao lên mọi người khiến mỗi khuôn mặt đều trở nên gầy võ. Tôi ngồi bên cạnh một thân cây đổ, tình cờ lại ở ngay cạnh người tù binh có tên là Benla. Đến nay, anh ta vẫn nhận mình là hàng binh. Khi tôi châm một điếu thuốc Cẩm Thủy và rít một hơi, qua ánh lửa, tôi nhìn thấy vẻ thèm thuồng trên ánh mắt Benla đang nhìn chằm chặp vào điếu thuốc. Nhưng Benla không xin. Tôi biết anh ta đang phải chịu đựng sự dày vò ghê gớm. Tôi chỉ còn điếu ấy là cuối cùng, liền đưa cho anh ta: - Anh cầm lấy mà hút. Người tù binh gần như vồ lấy điếu thuốc, miệng nói: - Rất cám ơn ngài thiếu tá! Im lìm độ vài phút, bỗng người tù binh lên tiếng, giọng rụt rè: - Xin phép ngài thiếu tá - Anh muốn hỏi gì? Giọng anh ta đắn đo: - Tôi xin được ngài thiếu tá giải thích cho về hội nghị Giơnevơ hiện nay đến đâu rồi? Liệu có thể chấm dứt chiến tranh được không? Tôi ngạc nhiên về những câu hỏi của người tù binh và bỗng thấy có cảm tình với anh ta. Tôi nói vắn tắt diễn biến mới nhất của hội nghị mà tôi nghe được qua bản tin của sư đoàn, nói rõ lập trường của phái đoàn ta và quan điểm phản động của Bidault, ngoại trưởng Pháp. Nghe xong, người tù binh thở dài: - Bidault là một con lừa! Ông ta muốn tiếp tục chiến tranh bằng máu của chúng tôi, những binh lính thuộc địa. - Anh là người nước nào? - Thưa, tôi là người Angiêri. - Trước kia, anh làm nghề gì? - Thưa, tôi dạy học. Tôi dạy văn tại một trường trung học ở Orăng. - Tại sao anh lại vào lính lê dương? - Đó là bi kịch lớn nhất của đời tôi, thưa ngài. Tôi là con cả trong một gia đình đông con. Cha tôi có nợ nần, quá hạn không trả được, bị người ta đưa ra tòa. Nước Pháp mộ lính lê dương, hứa hẹn rất nhiều quyền lợi hấp dẫn: "Đấy chỉ là một cuộc du lịch sang xứ nhiệt đới châu Á không mất tiền". Và điều quan trọng là họ ứng trước một khoản tiền. Tôi lại bị sa thải vì bị coi là có những quan điểm quốc gia quá khích. Vì thế, tôi đánh canh bạc liều, kết quả thật là bi đát. Chúa đã trừng phạt tôi. Tôi còn giải thích thêm cho anh ta về hoàn cảnh của Tổ quốc anh và nói về chỗ đứng của anh đáng lẽ phải có ở chỗ nào. Anh ta chỉ im lặng ngồi nghe. Một lát, anh đứng nghiêm trước mặt tôi: - Thưa ngài thiếu tá! Cho phép tôi được hân hạnh biết tên tuổi của ngài. - Ồ! Anh hỏi để làm gì? - Thưa ngài, tôi đã có sự ngộ nhận về những sĩ quan Việt Nam. Bộ chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp tuyên truyền rằng, cán bộ Việt Minh là những người nhà quê, không biết chữ và hoàn toàn dốt nát về tri thức quân sự. Tôi phì cười, châm biếm: - Như đã được chứng minh ở Điện Biên Phủ phải không? Người tù binh không cười: - Thưa ngài thiếu tá, Coócnây đã viết "La valeur n'attend point le nombre des années"1. Các ngài đã chứng minh hùng hồn như vậy. - Anh thuộc Le Cid2 đấy nhỉ? Benla lại rập gót giày: - Rất cảm ơn ngài thiếu tá về lời khen. Tôi là giáo viên dạy văn học cổ điển Pháp. - Thế mà anh lại đi cầm súng đánh thuê. Tôi mong rằng lần này thoát được về quê hương, anh lại có chỗ đứng trên bục giảng. Người tù binh cúi đầu: - Rất cám ơn ngài thiếu tá. Cuộc hành quân của chúng tôi mỗi ngày một trở nên khó khăn. Đêm nào, tù binh cũng đào ngũ hàng chục đứa, mặc dù chúng tôi đã nát óc tìm mọi biện pháp ngăn ngừa. Cứ khoảng mười, mười một giờ đêm bọn tù binh giở trò. Chúng lén đổ gạo đi để khỏi phải mang, chui vào rừng đánh một giấc, để rồi sáng mai, leo lên những ngọn núi phía tây, tìm đường chạy sang Lào. Chúng mò vào nhà dân, bắt gà lợn, hiếp phụ nữ, đã có tên bị dân quân trong bản bắn chết. Tôi đã quan sát, phát hiện ra có một trung đội toàn người Bắc Phi là tỏ ra khá nhất. Sau mười lăm ngày hành quân số quân của trung đội này vẫn đầy đủ. Họ ít nói, có ý thức giúp đỡ nhau, ở mỗi nơi trú quân thường đóng riêng ra một chỗ. Tôi biết ý chí hồi hương của học rất mãnh liệt. Trong trung đội đó có người tù binh Benla. ____________________________________________ 1. Tài năng chẳng cần chờ đến tuổi trưởng thành. 2. Bi kịch cổ điển của Coócnây (1606-1684). Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:25:29 am Một đêm đi qua Mộc Châu. Trời cuối tháng đã tối, lại càng tối thêm bởi những vách đá sừng sững hai bên đổ bóng xuống mặt đường, về sáng sương mù lạnh ngắt rắc đầy như mưa bụi, nhỏ lộp độp xuống những tàu lá chuối rừng. Tôi có việc bận họp ở trung đoàn nên phải đuổi theo đơn vị. Trên khúc đường quạnh quẽ thấp thoáng trong sương lạnh một bóng người cao lênh khênh hai tay chống hai chiếc gậy dài, đang tập tễnh lê từng bước chân nặng nề với dáng vẻ hết sức nhẫn nại. Trong cái vắng vẻ đến rợn người, tôi nhận ra một tù binh liền bước lên ngang anh ta hỏi: - Anh ở "công voa" nào? Sao lại tách ra khỏi hàng? Giọng người tù binh bỗng có vẻ mừng rỡ: - Thưa ngài thiếu tá, tôi bị ốm quá nên không theo kịp công-voa. Tôi đã được ông đại uý cho phép đi chậm suốt đêm. Hóa ra là Benla. Chạnh lòng, tôi hỏi: - Sao anh không nhờ đồng đội dìu đi hay nằm cáng trên một đoàn đường. Tôi đã ra lệnh cho tù binh phải mang theo băng ca cơ mà? Benla lắc đầu quầy quậy, giọng đầy bi thảm: - Thưa ngài thiếu tá, tôi ốm đã ba ngày nay nhưng tôi quyết không bỏ công-voa, bởi vì tôi phải sống, phải về được Tổ quổc tôi dù có phải bò đi nữa. Đồng đội cũng có giúp đỡ tôi, nhưng họ cũng đã quá mệt nên tôi quyết định tự mình phải cố gắng là chính. Đêm qua, thấy tôi đi tụt lại sau, một ông đại úy thương tình chỉ định mấy đứa dìu đi. Nhưng khi vắng mặt săngtinen1, mấy thằng người Ý này chửi rủa đấm đá tôi thậm tệ. Tôi đã phải van lậy chúng nó để cho tôi đi một mình. Vâng, thưa ngài thiếu tá, tôi thấy khổ quá, nhiều lúc muốn chết cho đỡ cực nhưng rồi tôi lại cố đến kiệt sức. Tôi phải sống bằng mọi giá. Dù có què quặt về được đến quê nhà gặp lại những người thân, và nếu có thể thì đem hết sức còn lại làm được một việc gì có lợi cho sự giải phóng của Tổ quốc tôi. Sáng nay, tôi lại đi vượt qua cả công-voa vì không tìm thấy biển cắm. Những thằng nằm lại đêm qua, sáng dậy đã đi trước tôi. Chúng lột hết biển cắm, cuốn hút thuốc lá, thành ra tôi cứ lê từng bước đi suốt ngày, mãi chiều nay mới gặp lại công-voa. Rồi Benla kể lại cảnh mấy thằng tù binh người Tây Ban Nha và Anh khiêng cáng anh ta hồi đêm. Khi thấy Benla quá ốm, hai chân sưng vù, quấn đầy giẻ rách mà vẫn tập tễnh cố bám theo đoàn, đại đội trưởng Lâm liền giữ hai tên tù binh cao lớn còn khá khỏe mạnh, đang vác chung một chiếc băng ca đan bằng nứa, do bộ đội ta làm cho: - Các anh hãy khiêng người này! Hai thằng làu bàu trong cổ họng, tỏ ý không muốn làm. Một thằng gân cổ lý sự: - Nhưng thưa ông đại úy! Tôi phải khiêng nó thì tôi ốm có đứa nào khiêng tôi không? Đã biết đặc tính chúng, đại đội trưởng Lâm sẵng giọng: - Chấp hành mệnh lệnh! Miễn cưỡng, hai thằng đặt chiếc băng ca xuống. Benla lập cập nằm vào cáng, miệng lẩm bẩm: "Merci! Merci bien, camarades"2. Đại đội trưởng Lâm đi kèm theo chúng một quãng rồi vượt lên đầu hàng quân. Hai tên tù binh khiêng cáng cố ý chùng chình đi chậm rồi tụt lại sau cùng. Khi đường đã vắng không còn bóng người, hai thằng bắt đầu xỉ vả người nằm trong cáng. - Thằng chó đẻ! Mày là mọi đen mà dám bắt chúng tao phải hầu hạ à? - Chết mẹ mày đi! Đồ dòi bọ! Mày không đáng sống Chúng trao đổi với nhau bằng thứ tiếng lóng mà Benla không hiểu được. Đến một lùm cây rậm bên đường, hai thằng dừng lại cùng hô: hai, ba! Rồi thẳng tay, quăng luôn cả cáng lẫn người xuống khe núi. Xong việc, chúng thản nhiên cười hềnh hệch, xoa tay đi thẳng. Phúc cho Benla! Chiếc cáng rơi trúng bụi cây sim mua rậm rạp nên vướng lại. Benla bị hất văng xuống đất. Choáng váng, anh cố hết sức thu tàn lực bò dậy, quờ quạng tìm hai cái gậy của mình và bò lên đường, người ướt đẫm nước khe và nước mắt. Anh lại tập tễnh bước đi với đôi chân sưng phù quấn giẻ rách, rát bỏng như kim châm. - ...Thưa ngài thiếu tá, tôi căm thù chúng nó. Chúng nó là lũ lang sói không có một chút tình người. - Tôi sẽ tìm ra hai tên ấy và sẽ trừng phạt chúng. Tôi sẽ ra lệnh cho chúng phải khiêng anh. - Xin đa tạ ngài thiếu tá. Nhưng xin ngài đừng ra lệnh cho chúng. Nhất định chúng sẽ giết tôi. Người tù hàng binh đã bình tĩnh trở lại, nói với tôi bằng một giọng van lơn và cả quyết. Tôi bảo anh ta dừng lại, tìm chỗ ngủ đêm nay, rồi bấm đèn pin, xé một tờ giấy trong quyển sổ tay, viết nhanh: "Ban chỉ huy tiểu đoàn... cho phép tù binh này được đi riêng ban ngày trên đường 41. Đề nghị đơn vị không bắt giữ anh ta". Tôi ghi họ tên, chức vụ của mình, ký tên rồi đưa cho anh ta: - Cầm giấy này mà đi. Mệt quá thì cứ nghỉ. Buổi sáng thì cố tìm về đơn vị còn có cái mà ăn. Hôm nay, anh nhịn cả ngày à? Tôi bảo cậu liên lạc đưa cho anh ta gói xôi lạc, suất ăn của cả hai người. ___________________________________________ 1. Lính gác. 2. Rất cám ơn các bạn! Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:29:27 am * Từ mấy ngày nay, một chiếc Michel bay dọc đường cái 41. Chúng đã đánh hơi thấy bọn tù binh, do những tên đào ngũ lên núi, đốt lửa, vẫy khăn làm hiệu. Bộ Tư lệnh sư đoàn lệnh xuống: "Phải đặc biệt đề phòng khả năng địch ném bom vào đội hình quân ta và đổ trực thăng đánh cướp tù binh, nhất là bọn sĩ quan. Nghiêm trị bọn phá rối!" Sự phiền phức xảy ra ở cây số 42 trên đường từ Mộc Châu về Suối Rút. Trưa hôm ấy, đoàn tù binh trú quân trong một cánh rừng rậm bằng phẳng phía tây đường. Tù binh đã nấu nướng, cơm nước xong. Nhiều tên đã lăn ra ngáy khò khò. Nhiều đứa đi tắm dưới con suối trong vắt. Trên mặt đường, ở khu vực các đại đội đều có cắm những tấm giấy nhỏ ghi địa chỉ: "1er convoi" - "2ème convoi"... Lác đác vẫn còn những tên tù binh đến chậm. Đã quen lệ, chúng nhòm vào từng tờ giấy nhận ra đơn vị của mình liền phởn phơ tìm đến nơi. Đại đội nữ thanh niên xung phong cũng trú quân gần đấy, phía đầu dòng suối. Khoảng 1 giờ trưa, có tiếng máy bay từ hướng đông nam vẳng lại, nghe mỗi lúc một gần. Trong nháy mắt, chiếc Michel bay sạt ngọn cây, to như một chiếc phà, phơi cái bụng xám mốc. Một phút sau, nó bay quành trở lại và lượn những vòng rất thấp gần chạm ngọn cây quanh khu vực trú quân. Tiếng rít rú của động cơ dội vào vách núi gây nên một không khí hết sức căng thẳng. Thật không thể tưởng tượng được! Hàng trăm tên tù binh, như có ma lực hấp dẫn, bỗng chồm dậy, la hét, reo hò loạn xạ. Chúng leo lên cây cao, chạy lên mặt đường cái, tung khăn, vẫy mũ. Những đám khói từ đâu ùn bốc lên cao. Bọn tù binh có nguy cơ nổi loạn! Chiếc Michel như đã phát hiện ra mục tiêu, lượn những vòng rất hẹp chung quanh nơi trú quân. Bỗng từ bụng nó, tung ra hai chiếc dù trắng, treo lủng lảng mấy chiếc hòm nhỏ. Rồi nó cất lên cao, bay mất hút về phía đông nam. Tôi cùng một tổ trung liên chạy lên mặt đường 41 và vận động lên một quả núi trọc cao nhất gần đấy ở phía đông đường. Giữa lúc ấy, lại thấy một chiếc trực thăng từ đâu phành phạch bay tới. Nó lượn quanh ngọn núi mà chúng tôi đang vận động lên, gần như treo tại chỗ rồi hạ thấp dần. Một chiếc thang dây tung ra, lủng lẳng. Trong khoang chiếc trực thăng, mấy cái đầu thò ra ngoài nhìn xuống. Gần tới đỉnh đồi, tôi đã nhìn thấy một cảnh tượng gay cấn đang diễn ra: bốn tên tù binh đang lao vào một chiến sĩ ta đang cầm một con dao trong tay. Tôi nhận ra chiến sĩ nuôi quân ở tiểu đoàn bộ. Hai tên xông vào giằng được con dao và thẳng cánh đâm vào bụng anh chiến sĩ. Cậu này tránh được mấy đòn ác hiểm, nhưng nhát đâm cuối cùng làm anh ngã xuống. Đúng lúc tên tù binh giơ con dao định đâm bổ xuống thì khẩu trung liên đã rít lên. Chiếc trực thăng chòng chành rồi hốt hoảng vụt lên cao, kéo theo chiếc thang dây đung đưa, bỏ lại dưới bụng nó mấy tên tù binh với khoảng cách chừng vài ba thước. Ba tên tù binh thấy nguy, liền lao đầu chạy tuột xuống sườn núi phía tây, thoát khỏi tầm đạn và nhanh chóng mất hút trong rừng rậm bạt ngàn. Cùng lúc ấy, từ sườn núi, có hai người nữa chạy lên, tay xách súng các bin. Đó là hai cô ở đội thanh niên xung phong. Tôi nhận ra, một trong hai người con gái ấy là người đã bị ngã ở đèo Pha Đin và được người tù binh nhặt giúp chiếc ba lô đưa trả với vẻ lịch thiệp. Từ xa, các cô gái hỏi gấp: - Các anh ơi! Cho chúng em chiến đấu với! Ngẫu nhiên, hai tốp chúng tôi cùng lao tới tên tù binh còn lại đang đứng đờ ra như một xác chết. Cô gái có mái tóc cắt ngắn vội chạy tới đỡ người chiến sĩ dậy. Máu loang ra thấm đỏ tay cô. Bừng bừng nổi giận, tôi chạy tới sau lưng tên tù binh túm cổ áo nó lắc mạnh rồi xoay mặt nó quay lại. Tôi sững sờ: - Benla! Té ra lại là mày à? Mày trả ơn chúng tao như thế này phải không? Thằng chó chết! Tên tù binh Benla rũ ra như con gà bị cắt tiết, chân tay run lẩy bẩy, hai chiếc gậy rơi xuống đất. - Thưa ngài thiếu tá! Xin tha tội cho tôi. Chúng nó rủ rê, cưỡng ép tôi. Nếu không, chúng giết... Tôi cười gằn: - Rốt cuộc, mày là một thằng lê dương mạt hạng! Tao phải bắn mày vì tội phá rối cuộc hành quân và hành hung chiến sĩ của chúng tao. Tên tù binh ngã quỵ xuống, oà lên khóc: - Thưa ngài thiếu tá! Ngài cứ bắn tôi đi! Vâng! Vâng! Tôi là kẻ đào ngũ! Tôi đã theo chúng nó. Trời ơi! Tôi chỉ muốn sống được trở về quê hương sớm ngày nào hay ngày ấy. Tôi đã nghe chúng nó. Tôi có tội với các ngài. Vâng! Xin ngài cứ bắn tôi đi! Những giọt nước mắt đùng đục chảy trên khuôn mặt hốc hác của hắn lúc này không làm tôi động tâm. Tôi nhìn cậu chiến sĩ nuôi quân. Cô gái đã băng bó cho anh xong và đặt anh nằm nghiêng trên vạt cỏ. Cảm giác vừa phẫn uất, vừa cay đắng nghẹn ứ trong lòng tôi. Tôi đã bị tên tù binh phản bội. Tôi thật quá ngây thơ khi tin rằng ở trong trái tim một tên lê dương, lại có một ngọn lửa khao khát chính nghĩa đang bùng cháy. Chung quy chó sói vẫn là chó sói. Tôi rút khẩu súng ngắn ra, lạnh lùng: - Cầu Chúa đi! Tên tù binh ngước nhìn tôi với vẻ tuyệt vọng, nhưng không khóc nữa. Nó quỳ xuống, tay làm dấu thánh giá: Hồng - cô gái có mái tóc ngắn - rụt rè lên tiếng: - Em có ý kiến! Xử nó thế nào thì tuỳ các anh. Nhưng thằng này, em thấy nó ốm quá, mà suốt tuần qua, ngày nào chúng em cũng thấy nó chống gậy lần đi. Cái thằng đâm anh bộ đội là thằng có râu quai nón màu râu ngô kia! Nó chạy thoát rồi. - Làm sao cô biết? Không chạy trốn mà nó ở đây à? - Cách đây một giờ, em trông thấy mấy đứa dưới đường. Thấy chúng nó đông, em vội nấp vào bụi. Em thấy ba thằng kia xì xồ gì với thằng này như chúng nó cãi nhau, rồi chúng kéo thằng này lên núi. Khi nghe có tiếng trực thăng, em gọi được cái Soan chạy lên, chính mắt em nhìn thấy thằng râu xồm xông vào đâm anh bộ đội. Trong lòng tôi lúc này có sự giằng co dữ dội. Một mặt là những tên tù binh cực kỳ ngoan cố đã cố tình phá hoại cuộc hành quân, chỉ điểm cho máy bay địch, và nghiêm trọng hơn là chúng dám hành hung cả chiến sĩ ta. Tội ấy đáng phải xử bắn để răn đe những đứa khác. Tên tù binh này phải đền tội. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:30:17 am Tôi bỗng nhớ lại tất cả những gì nó đã nói với tôi trong suốt chặng đường. Tôi hình dung vẻ mừng rỡ của bố mẹ nó khi thấy nó đột nhiên bước vào nhà, thấy sự hoan hỉ của những đứa học trò trong một lớp học nào đó ở trường trung học Orăng xa xôi khi thấy nó xuất hiện trên bục giảng. Biết đâu, nó chẳng có thể trở thành người cầm súng trong vùng chiến khu nào đấy của Tổ quốc nó. Nó có thể trở thành người có ích cho đất nước đang còn nô vong của nó chăng? Bắn hay tha? Y tá tiểu đoàn đã chạy lên và cùng mấy chiến sĩ dìu cậu anh nuôi lần xuống núi. Thở dài, tôi nhét khẩu súng vào bao: - Tạm tha cho mày! Tội trạng sẽ xét sau, về ngay công-voa. Tên tù binh đứng nghiêm chào tôi, rồi tần ngần một giây hắn bước đến trước mặt Hồng, cô gái vừa lên tiếng xin tha cho nó, cúi rạp đầu, cung kính nói bằng tiếng Việt: - Merci bien!... cám ơn cô... cám ơn lắm lắm! Khi tên tù binh ngước nhìn cô gái, tôi cảm thấy ánh mắt anh ta trở nên hiền dịu, ấm áp khác thường, khiến cô gái, bắt gặp cái nhìn ấy, củng phải ngượng ngập, quay mặt đi... Ít ngày sau, đoàn tù binh về đến Thanh Hóa. Đại đội nữ thanh niên xung phong cũng cùng về nơi tập kết tù binh và tổ chức lại thành những tiểu đội cấp dưỡng, với nhiệm vụ nuôi bọn tù binh, chờ ngày trao trả cho đối phương. Tiểu đội nữ do Hồng, cô thanh niên xung phong làm tiểu đội trưởng được phân công nấu ăn cho hai trăm tù binh. Nhà ở, nhà ăn đều là nhà dân. Vì thế, nỗi vất vả của chúng tôi và ban quản lý tù binh tăng lên gấp bội. Tù binh được cắt phiên nhau xuống giúp nhà bếp. Chúng vui sướng như điên với công việc này vì được nhìn các cô gái, được ăn vụng thực phẩm các cô mua về như cá, đậu và nhất là thịt trâu, thịt bò. Chúng rút dao găm lén cắt từng miếng thịt sống đút vào túi quần "bắt gà" rồi lỉnh ra một chỗ xẻ thành từng miếng nhai ngấu nghiên. Một buổi sáng, tôi xuống kiểm tra nhà bếp của đại đội Hai. Mấy tên tù binh đang huỳnh huỵch bổ củi bên cái giếng to giữa sân đình, Benla đang thả gàu múc nước. Anh ta không múc bằng cái khau làm bằng mo cau mà bằng cả chiếc thùng gánh nước, kéo lên một cách nhẹ nhàng. Bên cạnh anh ta, Hồng tay áo xắn đến khuỷu, đang vùi hai cánh tay vào chiếc chậu gỗ cực lớn vo gạo. Dáng điệu anh tù - hàng binh từ tốn và rõ ràng tỏ ra ngoan ngoãn khi cô gái lắc đầu, hất mái tóc xoã che lấp khuôn mặt rám nắng. Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng nói của mỗi người, bằng những cử chỉ và cả bằng mắt. Thỉnh thoảng, cô gái lại cười như nắc nẻ. Tôi bước tới, lên tiếng: - Chào cô Hồng! Thế nào? Benla, anh khỏe chứ? Benla buông thùng, ưỡn ngực đứng nghiêm: - Xin chào thiếu tá! Rất cảm ơn ngài. - Cô nói chuyện gì với anh ta thế? Cô gái bỗng đỏ mặt, ngượng nghịu bê thùng gạo ướt sũng đứng lên: - Em đang tranh thủ dậy anh ta học nói đấy! Cô gái đi rồi, Benla vẫn đứng nghiêm bên giếng nước nhưng ánh mắt đuổi theo cô gái. Mỉm cười, tôi hỏi: - Benla, nghỉ! Cho phép anh ngồi xuống đây. Anh thấy cô gái Việt Nam của chúng tôi thế nào? Benla xin phép ngồi bệt xuống sân gạch. Giọng anh ta trầm trồ: - Tuyệt vời! Thưa ngài thiếu tá! Cô gái này đã cứu tôi thoát khỏi tử hình - anh ta cười ngượng ngập - tôi suốt đời biết ơn cô ấy. - Anh thấy cô ấy thế nào? - Một cô gái vị tha, hiền dịu và xinh đẹp, thưa ngài thiếu tá. Phụ nữ Việt Nam rất đẹp. Cô ấy giống như những cô gái đẹp nhất xứ tôi. Hơn một tháng sau, thực hiện hiệp định Giơnevơ, chúng tôi đưa đoàn tù binh lúc này đã lại sức ra bãi biển Sầm Sơn. Hải Thôn là địa điểm được hai bên thỏa thuận để nhận người của mình. Một chiếc cầu phao dài được bắc từ bờ cát ra biển, dùng làm cầu tàu. Hàng chục cổng chào kết lá dừa được dựng lên. Những lá cờ màu cùng những cờ Tổ quốc bay phần phật trong gió lộng như vẫy chào những người con ưu tú trở về. Nhân dân địa phương, đông đến mấy ngàn người, mặc quần áo ngày hội, tay cầm cờ, xếp thành hàng dọc lối đi. Những giây phút cực kỳ xúc động. Giữa những tiếng hò reo của trẻ em, tiếng hô khẩu hiệu của thanh niên, là tiếng nức nở của mẹ già. Nhân dân ôm lấy những con em mình áo nâu, đầu trọc, vừa cười vừa khóc. Những cảnh tượng thiêng liêng ấy đập vào mắt những tù binh đang tập trung gần đấy, chờ đến lượt xuống thuyền ra tàu. Nhiều tên thẫn thờ, mắt đỏ hoe. Họ ăn mặc giống nhau: chiếc mũ lá rộng vành, bộ quần áo màu xanh lá cây, đôi dép cao su và một cái túi xách nhỏ đựng những vật dùng thường ngày. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Giêng, 2023, 08:34:36 am Tôi đi dọc hàng tù binh, nói chuyện, khích lệ và tiễn biệt họ. Bỗng thấy Benla chạy tới, giọng hồi hộp trong hơi thở gấp: - Kính chào thiếu tá! - Thưa ngài, tôi có thể nhờ ngài giúp cho một việc được không? - Sẵn sàng lắm! Anh có việc gì cần? Benla rút trong túi ngực ra một phong thư, vuốt ngay ngắn rồi trân trọng đưa cho tôi bằng cả hai tay: - Xin ngài làm ơn đưa giúp bức thư này cho cô Hồng. Sáng nay vì đi vội nên tôi chưa kịp gửi. - Tôi rất vui lòng chuyển giúp anh bức thư này đến tận tay cô ấy. - Thưa thiếu tá, bức thư để ngỏ, xin ngài xem cho, và nếu ngài không cho là xấu, xin ngài chuyển giúp. - Anh cứ yên tâm. Tiếng còi tàu rít lên. Đoàn tù binh xếp hàng lần lượt bước xuống cầu phao. Tôi xắn quần đứng dưới mép nước, vẫy chào họ. Tù binh reo lên: - Fini la guerre1. - Rapatriement!2 Tiếng của Benla chìm trong những đợt sóng ập vào bờ: - Mong có ngày được gặp lại ngài thiếu tá! Trên đường về, tôi mở bức thư của Benla ra xem, theo yêu cầu của anh. Nét chữ đẹp, cứng cáp, viết bằng chữ Pháp: Thưa cô Hồng Tôi là người chịu ơn cô cứu sống. Suốt đời, tôi biết ơn và thờ phụng cô. Rồi đây, tôi sẽ trở về chiến đấu cho Tổ quốc tôi, cũng giống như cô đang chiến đấu cho Tổ quốc Việt Nam. Hình ảnh cô mãi mãi ngự trị trong trái tim tôi. Sau này tôi sẽ nên người một khi đất nước tôi được hoàn toàn giải phóng. Tôi nhất quyết xin trở lại đây để được gặp cô và xin với Chính phủ Việt Nam được đón cô về. Tôi tha thiết hy vọng ngày ấy cũng không quá lâu và cô cũng chưa quên kẻ bất hạnh nhưng hết sức trung thành với cô. Môhamét Benla. Cuộc gặp gỡ quốc tế của chúng tôi tại thành phố Hồ Chí Minh đã kết thúc. Chúng tôi bay ra Hà Nội, trái tim đất nước. Sau mấy ngày hoạt động thăm viếng, hôm nay, tôi lại được cùng các bạn đồng nghiệp đi tiễn những người bạn quốc tế về nước. Vì cương vị giao thiệp, tôi không được ngồi cùng xe với Apđun Môhamét. Mãi đến sân bay Nội Bài, tôi mới lại được gặp anh. Môhamét thân thiết ôm lấy vai tôi. Một nụ cười hóm hỉnh hiện trên gương mặt cương nghị của anh: - Bây giờ đã đến lúc tôi giới thiệu với anh về vợ con tôi. Hôm nọ anh có hỏi, nhưng vì chuyện cũng dài, và thú thật tôi định để đến lúc này mới nói với anh. Môhamét rút ví lấy ra một tấm ảnh màu cỡ 9x13 đưa cho tôi. Nhìn qua cũng thấy ngay ảnh của gia đình anh: anh mặc bộ âu phục đứng giữa, bên một thiếu phụ và hai bên cậu con trai và cô con gái cũng đã lớn. Tôi khen xã giao: - Đẹp lắm. Nhưng Môhamét theo đuổi một ý nghĩ khác: - Anh nhìn kỹ nhà tôi xem. Tôi nhìn lại tấm ảnh. Người thiếu phụ uốn tóc cao, mặc áo xanh, váy trắng, nét mặt đầy đặn, xinh đẹp và thùy mị. Tôi mơ hồ thấy một gương mặt hơi quen. Bỗng tôi reo lên: - Cô Hồng phải không? Vẻ mặt Môhamét rạng rỡ hẳn lên: - Trí nhớ anh thật tuyệt vời! Chính cô ấy đấy! Tôi hết sức cảm động, nhìn kỹ tấm ảnh và thầm liên tưởng lại quãng ngày gian khổ hành quân trên đường 41 và cảnh tượng xảy ra tại cây số 42. Thấm thoát mà đã ba chục năm trời. Môhamét rút bút bi ghi mấy chữ nắn nót ở mặt sau tấm ảnh rồi đưa cho tôi: - Xin tặng anh tấm ảnh này với tất cả ý nghĩa của nó. Tôi tiễn anh đến tận chân cầu thang máy bay. Anh ôm hôn tôi nhiều lần, rồi trước con mắt ngạc nhiên của các bạn quốc tế và trong nước, anh bỗng đứng nghiêm, giơ tay lên vành mũ, giọng trang nghiêm: - Merci bien mon commandant! 1984 ___________________________________________1. Chấm dứt chiến tranh. 2. Hồi hương! Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 03:13:41 pm TRUNG ĐOÀN TRỞ LẠI ĐIỆN BIÊN (1958) BÁC HỒ ĐẾN THĂM VÀ ĐỘNG VIÊN (trích Hồi ký) ĐẶNG NGỌC LÂM1 ... Tháng 3 năm 1958, chúng tôi được phổ biến Nghị quyết của Tổng quân ủy về nhiệm vụ của quân đội. Trong Nghị quyết, Tổng quân ủy quyết định điều chỉnh kế hoạch, giảm bớt tổng số quân đồng thời tận dụng khả năng của quân đội trong việc xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất. Kế hoạch đề ra biện pháp cụ thể nhằm tăng cường phòng thủ miền Bắc, chuẩn bị sẵn sàng đối phó khi chiến tranh xảy ra. Chúng tôi được biết, trong Hội nghị cấp cao toàn quân ngày 20 tháng 3 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiệm vụ của quân đội là: "Một là xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hòa bình bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ đó bao gồm xây dựng quân đội thường trực và xây dựng lực lượng hậu bị. Hai là tích cực tham gia sản xuất để góp phần xây dựng kinh tế, xây dựng và củng cố quốc phòng". Hai nhiệm vụ đó đều rất quan trọng, nhất trí và kết hợp chặt chẽ với nhau vì đều làm cho quân đội ta ngày càng hùng mạnh và miền Bắc ngày càng vững chắc. Trong tình hình đó, chúng tôi nghĩ rằng là một trung đoàn nằm trong đội hình của sư đoàn được ra đời và trưởng thành trên núi rừng Việt Bắc, là một đơn vị đánh giỏi trên chiến trường miền núi, đã có truyền thống trong chiến dịch Đông Khê và đường 4 anh hùng, là một đơn vị chiến đấu anh dũng ở chiến dịch Điện Biên Phủ, là đơn vị chủ yếu chiến thắng ở đồi A1 góp phần giải phóng Điện Biên "chấn động địa cầu", cán bộ, chiến sỹ rất thuộc địa hình Tây Bắc, gắn bó với đồng bào các dân tộc Tây Bắc, nay trở lại Điện Biên, mảnh đất còn nóng bỏng chiến công, và thấm máu bao đồng đội, cán bộ và chiến sỹ của trung đoàn nên đã nhận rõ vinh dự và trách nhiệm lớn lao trước nhiệm vụ của Đảng và quân đội giao. Giữa lúc trung đoàn đang khẩn trương triển khai nhiệm vụ thì chúng tôi nhận được điện triệu tập về sư đoàn nghe Bộ về giao nhiệm vụ và động viên. Chúng tôi dự đoán chuyến này thế nào cũng được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nghe Đại tướng nói chuyện. Khi về đến nơi, tập trung tất cả ở hội trường lớn của sư đoàn thì mới được nghe phổ biến chuyến này Bác Hồ cùng về với Đại tướng, chúng tôi rất phấn khởi, náo nức chờ đón Bác; mọi người đều quay ra cửa lớn của hội trường để nhìn Bác rõ hơn. Chúng tôi nghe tiếng xe của đoàn ô tô, đoán là Bác sắp đến, mọi con mắt đều nhìn ra cửa lớn chờ. Trong khi mọi người đang thấp thỏm thì nghe thấy một số người ở phía sau reo ồ lên, chúng tôi quay mặt lại thì đã thấy Bác bước từ cửa sau hội trường lên sân khấu, chúng tôi ngớ ra, đồng thời lúc đó đoàn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Chu Huy Mân cùng đoàn cán bộ của Bộ mới xuất hiện ở cửa lớn vào hội trường. Về sau, chúng tôi nghe các đồng chí ban tiếp đón kể chuyện lại xe ô tô chở Bác đi ở đầu đoàn xe, không đi ở giữa đoàn xe, khi gần đến nơi xe Bác tách ra đi trước vào chỗ của Bộ Tư lệnh sư đoàn và đi thăm chỗ ăn, ở của đơn vị, sau đó Bác mới đến hội trường. Ở trên sân khấu của hội trường lúc đó đã bầy sẵn bàn, rải khăn trắng và 3 chiếc ghế. Bác ngồi giữa, Đại tướng ngồi bên phải, đồng chí Chu Huy Mân - Chính ủy quân khu Tây Bắc ngồi bên trái. Sau khi Đại tướng nói ngắn gọn nhiệm vụ của sư đoàn, Bác mới từ tốn nói với tất cả cán bộ: "Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ theo dõi sự cố gắng và mỗi thắng lợi của đơn vị, sẵn sàng khen thưởng các đơn vị và cá nhân xuất sắc. Bác trao cho đơn vị 100 cái huy hiệu làm giải thưởng trong bước đầu và mong tất cả các chú sẽ làm tròn nhiệm vụ thi đua cùng với toàn dân thực hiện kế hoạch dài hạn của Nhà nước". Cuối cùng Bác hỏi: "Nhiệm vụ lên Điện Biên Phủ khó khăn, phức tạp lắm, sư đoàn đã thắng Tây ở đây, nay có thắng được nghèo nàn lạc hậu ở Điện Biên Phủ không?". Cả hội trường đứng dậy đồng thanh hô lớn: "Quyết tâm hoàn thành được ạ". Trước khi ra về, Bác tặng sư đoàn bài thơ: "Đá rắn, quyết tâm ta rắn hơn đá2 Núi cao chí khí ta còn cao hơn. Khó khăn ta quyết vượt cho kỳ được Gian khổ không làm lòng ta sờn. Đảng phái ta làm mặt trận sản xuất. Nhiệm vụ ấy ta quyết tâm làm cho tròn. Đội ơn đào tạo người, quân đội. Quyết chí đền bù nghĩa nước non!". Thực hiện quyết tâm và lời hứa với Bác, đầu tháng 4 năm 1958, trung đoàn bắt đầu hành quân theo đường 6 lên Tây Bắc, tiến quân vào Điện Biên, ngày đi đêm nghỉ hàng tháng trời, trên con đường mà chúng tôi đã hành quân vào giải phóng Điện Biên. Khi đội hình của sư đoàn đến Điện Biên, thực hiện Nghị quyết của Tổng quân ủy và chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, ngày 14 tháng 4 năm 1958 Đảng ủy sư đoàn ra Nghị quyết tổ chức lại lực lượng theo phương hướng rút bớt lực lượng thường trực như sau: - Giải thể trung đoàn 174, lấy trung đoàn 174 làm nòng cốt tổ chức thành các tiểu đoàn bộ binh và các tiểu đoàn thông, công, pháo trực thuộc, tổ chức thành Lữ đoàn 316 để làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. - Tổ chức trung đoàn 98 thành công trường làm đường, có nhiệm vụ làm đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên. - Tổ chức trung đoàn 176, tổ chức thành từng đội sản xuất, trang bị công cụ sản xuất, tổ chức thành nông trường Điện Biên. Như vậy, sư đoàn thành 2 khối rõ rệt, khối sẵn sàng chiến đấu và khối sản xuất. Trong không khí đơn vị bắt tay vào nhiệm vụ huấn luyện và sản xuất thì chúng tôi, một số chính trị viên tiểu đoàn gồm các anh: Trần Quế, Đoàn Độ, Đoàn Khoát, Tuấn Phi, Bùi Tố Tọa và tôi được lệnh đi học khóa 2 trường Trung học chính trị (nay là Học viện chính trị) lúc đó trường đang ở trường "An-be Sa-rô" trước dinh Hồ Chủ tich. Khóa đó trường chúng tôi chuyển khắp Hà Nội, từ "An-be Sa-rô" đến Đồn Thủy, Bạch Mai, Quần Ngựa để sau này trở lại xây dựng Tây Bắc. ____________________________________________ 1. Nguyên chính trị viên Tiểu đoàn 251. 2. Bài thơ trích ở cuốn Lịch sử quân khu 2 xuất bản năm 1996. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 03:19:58 pm TRÍCH NHẬT KÝ CỦA LIỆT SĨ NGUYỄN XUÂN DƯƠNG (Hy sinh trên đất Lào) Ngày 02/01/1965 Chúng tôi đã bước chân vào đất Lào 15 ngày đêm rồi. Một cảm giác miên man: đất nước Triệu Voi ngày đêm chiến đấu với nắng mưa, sông suối, ngày đêm chiến đấu với quân Mỹ ăn cướp, tụi Phu-mi dại dột1. Chúng tôi bước đi 15 ngày, 15 ngày liệu đã được một phần nhỏ tỉnh SN2 này chưa nhỉ? Sông suối, con người, một cảm giác quen quen. Thái độ niềm nở ân cần của người dân lao động. Tôi muốn yêu con suối, ngọn đồi như quê hương mẹ đẻ của tôi. Tôi thấy mến mến thương thương từ miếng nương phát dở tới bản nhỏ ven rừng. Mến thương con người cùng khổ đã cùng dân Việt Nam chiến đấu hơn 80 năm trời nay vẫn sống trong bom đạn của chiến tranh. Những sự xúc động đến chảy nước mắt, người dân ấy tôi thấy vẫn là cả một mùa xuân. Đúng, chiến đấu, phải chiến đấu, vui lên mà chiến đấu – chiến đấu – đem lại hạnh phúc cho dân Lào, cho những người cùng đinh khốn khổ. Chiến đấu đề rừng ban kia mãi mãi nở hoa, cho toàn nước Lào sẽ tới tương lai. Ngày 13/01/1965 … - Báo cáo, no thì chưa no, nhưng nếu chỉ được 1/2 bát, chúng tôi cũng sẵn sàng vui vẻ. Tôi im lặng rồi nói: - Đúng chúng ta là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dân no thì ta no, dân đói ta cũng chịu đói. Chúng ta còn phải chịu đựng gian khổ hơn thế này nữa, có khi hàng tuần không có một hột gạo. Lúc bấy giờ, chúng ta sẵn sàng chịu đựng, vả lại nếu như có địch, chúng ta vẫn có một sức mạnh phi thường làm cho chúng thất điên bát đảo vì mấy thằng nhịn đói hàng tuần này. Ngày 14/01 Nằm xuống, tôi vẫn nghĩ đến những người dân chiều nay tản cư ngoài rừng. Từng đàn quạ đen của địch đến bất chợt ném bom. Các mẹ, các em nhìn chúng tôi chứa chan tin tưởng: “Các anh sẽ giải phóng bản mường!” ... Hôm nay tôi, Lai, Hưng và đồng chí bt đi nghiên cứu trận địa phục kích bọn F3. Chúng tôi phải luồn qua bao rừng rậm, suối sâu đến mấy bản địch đốt phá tan hoang, dân ở đây phải lang bạt vào rừng... Lúc về dọc đường lại bàn đi lấy hoa chuối rừng về cho chiến sĩ. Chả là hơn nửa tháng nay chỉ cơm với mắm và muối thôi mà. Bước đầu gian khổ tôi cảm thấy cuộc sống chứa chan ý nghĩa. Thế là bt với ba thằng chúng tôi lại trốn vào rừng đi tìm hoa chuối. Chiều nay tiểu đội tôi được bữa tươi. Ngày 15/01 Sáng nay đi trinh sát trận địa với bt, lòng dạ lâng lâng khi nhận những nhiệm vụ khó khăn. Rừng gỗ sum suê, đây mà giấu quân thì tuyệt. Lấy thuốc ra hút, bt Khiêm nói với tôi: - at4 Dương có lẽ nóng ruột lắm nhỉ? Tôi không trả lời ngay, mỉm cười rồi thưa: - Cũng không nóng ruột lắm đâu! Nhưng cũng muốn quật luôn một trận xem sức ra sao, bt ạ. Đồng chí ấy cười nhìn tôi: - Cứ bình tĩnh, rồi sẽ được liên tục đó! Tôi đã mừng thầm. Tưởng tượng lại những phút ác liệt và những chiến công tôi cũng như chiến sĩ của tôi sắp lập được sẽ như thế nào? ____________________________________________ 1. Chính quyền tay sai của Mỹ. 2. Sầm Nưa. 3. Bọn lính ngụy Phu-mi. 4. Tiểu đội trưởng. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 03:22:33 pm Ngày 17/01/1965 Tôi đào xong công sự cá nhân, đi kiểm tra công sự của chiến sĩ. Đá nhiều, rễ cây cũng nhiều, qua một ngày, một đêm hành quân rừng, suối. Mệt chứ sao không mệt, nhưng anh em rất hăng say. Hăng lắm. Trời rét thế nhưng người nào cũng như từ trong bếp mùa hè mới ra... Trời sẩm tối. Chuẩn bị xuất quân tiếp cận! Ngày 21/01 Vào lúc 3 giờ sáng, súng của ta tấn công dữ dội. Không ngủ được, tôi đang ước mơ một điều gì sung sướng nhất, một điều mà quân ta sẽ đại thắng! Lẽ dĩ nhiên chúng tôi đánh là phải thắng. Hôm nay, chúng tôi ngóng đợi lệnh mà chẳng thấy gì. Được, cứ sẵn sàng. Sẽ đánh chứ sao! Ngày 22/01 Thật là vinh dự cho cả tiểu đội tôi được đi làm nhiệm vụ bảo vệ chính ủy đoàn1. Tiểu đội tôi chỉ còn đúng năm thằng (ba ốm). Đồng chí tiểu đội phó đi công tác. Uyển và Chuẩn đi đầu, chúng nó cũng tài thật, mò đúng đường... Trời đã tối rồi, chẳng hiểu ngày âm lịch là bao nhiêu nữa, nhưng lâu lắm trăng mới mọc. Trời tối như mực, cái đoạn đường từ Phù Việt tới chỉ huy sở2 sao mà khó đi thế! Đêm càng rét, nhưng bình toong nước đã vơi đi 2/3 rồi. Giả sử cứ thả cửa thì quẳng cho tôi ba bình toong cũng sẽ kiệt cả ba. Qua bản Na Kha được lệnh dừng lại ăn, giở chiếc bánh chưng gói từ hôm 18 ra vẫn còn ngon. Đời bộ đội thế này có gì là lạ nhỉ? Ngày 23/01 Ăn cơm sáng xong, chừng 10 phút đồng hồ, đồng chí cần vụ chính ủy xuống báo cho tôi lên gặp chính ủy. Tôi vội đeo trang bị và gọi Chuẩn cùng đi. - Báo cáo, tiểu đội trưởng Xuân Dương có mặt! Chính ủy cười và nói: - Thế này đồng chí nhé. Tình hình thay đổi, hiện nay trung đội 20 nó bảo vệ tuyến đường trục và phòng ngự ở mỏm 1790 không làm nhiệm vụ ấy nữa. Phân đội đồng chí tới đó thay thế. Tình hình thế nào trao đổi với đồng chí trung đội trưởng chuẩn bị cho đi. - Rõ, báo cáo, chúng tôi đi. Thế là không được đi bảo vệ chính ủy nữa rồi. Phổ biến cho tiểu đội xong, vẻ mặt mọi chiến sĩ thấy một điều gì khang khác. Xuất phát lúc 10 giờ, tới vị trí lúc 12 giờ. Vừa đến xong thì một loạt máy bay đã vè vè trên đầu, rốc-két chúng bắn như mưa. Một quả bom làm công sự tôi rụng xuống bao nhiêu là đất. Rồi hai quả, ba quả, nhiều quả, mảnh bom như xé không khí, như phạt hết cả khu rừng tiểu đội tôi chiếm đóng... Ngày 24/01 ... Lúc 3 giờ sáng hôm nay, chúng tôi được lệnh chuyển quân. Trên dọc đường đi sặc nồng khói lửa của bom đạn quân thù trút xuống chiều qua. Tụt khỏi một con dốc, tôi thấy mấy đồng chí Phathét (Lào) đang ngồi nghỉ. Chiếc đài thu thanh Phathét ấm ấm đều đều... Thấy chúng tôi ngồi nghỉ, các đồng chí mời thuốc và vặn luôn đài Hà Nội. Đúng giờ ca nhạc. Chà ruột gan sao bồn chồn thế hở? Xa tổ quốc mới ít bữa thôi mà cứ như là xa hàng bốn năm năm gì gì rồi ấy. Nghe đài Hà Nội, tôi lại càng nghĩ tới cái Tết sắp đến rồi. Hôm nay 22 tháng Chạp rồi à? Thế là còn tám ngày nữa là Tết Nguyên Đán ư? Bây giờ, quê hương, gia đình, người yêu thế nào nhỉ? Chắc nhớ hơn là tôi nhớ. Chẳng sao, Tết này là ba Tết xa gia đình rồi. Có lẽ Tết này đặc biệt nhất, một cái Tết ý nghĩa quốc tế cao cả. Tôi đang từng giờ, từng phút sôi máu chiến đấu cho Tổ quốc mãi mãi hưởng Tết yên vui. Ước gì đúng mồng 1 Tết cấp trên cho đi diệt đồn nhỉ! Ngày 25/01 Giở ảnh Hoa ra nhìn. Chà, cô ấy cười làm cho lòng dạ tôi càng bồi hồi. Sao mà xinh thế hở “cô bé Việt Nam”! Chỉ nhìn thấy nụ cười khá xinh trong ảnh thôi mà đã hồi tưởng lại muôn vàn ngày thơ ấu. Lý trí và tình cảm đã quyện thành sức mạnh bất tận của tuổi trẻ. Hoa - cô bạn gái thôi - nhưng thật đậm đà thắm thiết làm sao! Tôi ân hận mãi một sự lãng trí đáng trách của tôi. Để cho sự mong ngóng mãi mãi chẳng đáp lời, hay là vì lý trí quá mà tôi dạo ấy đã quá quên tình cảm. Bây giờ thì dù tôi có muốn cũng muộn rồi. Tôi phục cô ấy lắm vì tình cảm của cô ấy là cả một sự chân chính xuất phát từ đáy lòng tốt của cha mẹ và tình cảm đậm đà, chân thật của cả hai. Thú thật với nhật ký là tôi nhớ cô ấy lắm. Ước gì có một đôi cánh để bay nhỉ! Xa Tổ quốc hơn một tháng rồi, nhưng với cô ấy thì xa gần ba năm rồi kia. Chà, chắc là cô ấy thương tôi lắm nhỉ? Chiều rừng núi Thượng Lào hôm nay đẹp quá! Nhìn rừng ban, rừng mận, rừng đào đang đua nở là nhớ tới mùa xuân của quê hương, con sông Nhuệ. Nói lại một tí về xuân nhé. Tôi cứ nhớ mãi Tết 1961 tôi với Hoa giận nhau cả ba ngày. Thật là buồn cười cho cái giận của hai “đứa nhãi” hồi xưa. Trời tối rồi, ghi không rõ nữa, hẹn nhật kí buổi sau em nhé. ______________________________________________ 1. Đồng chí Hoàng Danh Trà. 2. Chỉ huy sở trung đoàn. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:52:13 pm Ngày 30/01 Thật là đột ngột vô cùng, nhận được thư của Hoa. Thế là họ đã cưới nhau vào ngày hôm nay. Cái ngày mà tôi tập trung tinh thần và sống chết với quân thù. Về thế nào được mà năn nỉ? Không về được mà cũng không nói: Tôi đang chiến đấu ở đất Lào. Chúc các bạn hạnh phúc nhé! Khi xuân về hoa nở khắp đó đây, tôi chiến đấu xây cho các bạn ấm tổ uyên ương... Ngày 31/01 Thật là xấu số, mình lại ốm à? Thấy anh em vui, cũng cố dậy vui, nhưng được một lúc lại chóng mặt, hoa mắt, lại nằm. Thú thực là cứ lo ngay ngáy. Ngày 01/02 Cả đêm hôm qua không ngủ được. Bụng cứ òng ọc suốt đêm, hai thái dương dật dật như chiếc máy chạy ấy. Sáng hôm nay cũng cố dậy sớm gọi chiến sĩ thức dậy. Tôi cố sức làm với trạng thái bình thường. Nhưng sự khó chịu của cơ thể lại đưa về nhăn nhó. Giục anh em đi làm mà tôi không đi thật là xấu hổ. Đi ngoài cả ngày nay 8, 9 lần, nhọc lắm rồi. Tôi mà buồn thì hỏng hết. Sống ở rừng núi đất nước bạn, ăn Tết rất nghèo nàn. Không khéo có cậu trẻ sẽ khóc. Thật là phức tạp ở công tác tư tưởng đối với một tiểu đội trưởng. ...Hôm nay mới 30 Tết thôi, còn ngày mai? Tôi phải suy nghĩ rất nhiều về ngày mai, mình phải làm gì về công việc này? Ngày 02/02 (Mồng 1 Tết 1965)1 cái Tết mà chúng tôi hưởng một số vật chất ít thôi. Nhưng vui lắm. Chúng tôi vui lắm đón xuân của dân tộc ở khu rừng vắng Sầm Nưa này. Mai đây sẽ đón xuân bằng những tràng tiểu liên, sau đó là hàng loạt quân thù gục ngã. Ngày 06/02 Được lệnh xuất quân đi Xiêng Khoảng, phen này Dương sẽ nghĩ sao? Sẽ lập công chứ? Ừ, nhất định sẽ lập công. Phải chiến đấu dũng cảm Phải chỉ huy tiểu đội thật linh hoạt. Nguyễn Xuân Dương phải thực hiện: 1. Bảo đảm quân số 100% tới đích, hoàn thành nhiệm vụ xuất kích ngay. 2. Chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, cơ trí, linh hoạt, bình tĩnh trong mọi tình huống. 3. Tiêu diệt sinh lực địch 4. Nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách dân vận, tù hàng binh, chính sách thương binh tử sĩ, chính sách chiến lợi phẩm. 5. Chấp hành mọi chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên. Ngày 08/02 Đơn vị trú quân khi còn chưa rõ mặt người. Đồng chí tiền trạm dẫn tới chỗ trú quân của tiểu đội tôi. Tôi nghiên cứu địa hình xong rồi phân công cho từng tổ. Tiếng cuốc xẻng lịch kịch chỉ trong loáng mắt công sự đã xong rồi. Trời sáng dần, đã nhìn được xa khỏi khu rừng. Đẹp quá, những hàng cây mắc cọt nở hoa trắng xóa khắp nơi. Gió nhẹ của mùa xuân thổi từ trên đỉnh núi xuống rừng hoa. Hoa rung rinh tung ra những cánh rơi xuống phủ trên miệng công sự, phủ trên chiếc chăn đã bạc màu của chúng tôi. Nằm xuống mà còn nghe gió nhẹ vi vu, nước dạt dào của con suối đâu đây. Mệt nhọc của một đêm hành quân đã làm cho "thằng ngủ" quyến rũ tôi vào mộng... Ngày 10/02 Toàn đơn vị được ở đây 1, 2 ngày thì tôi được lên gặp thủ trưởng liên đội. Thế là chi đội tôi lại rút, sáng hôm nay ra đi trước, trang bị nặng hơn trước nhiều. Tôi phải đeo thêm tám bánh chưng, mỗi chiếc một cân, hai ngày lương khô. Hai nắm cơm to như hai bát điếu để ngày nay "kin" chứ! Mang thêm cho trung liên 150 viên đạn, 2 quả B40. Chà nặng thật! ...Tối nay lại phải đi luôn vì phải nhanh chóng vượt qua đồn giặc. Đi khoảng 6 km, mấy ông tướng đi đầu để lộ, thế là 5 quả cối 81 liền xoạch xoạch oành oành ngay trong thung lũng, trên đỉnh đồi. Toàn tiểu đội tôi giữ đội hình tốt, ai cũng nằm dạt xuống để tránh những quả cối của địch. Mẹ kiếp! Vài hôm nữa thôi con ạ, chúng ông sẽ sửa cho bọn khốn nạn này! Ngày 19/02 ... Đóng ở một mỏm cách địch chừng 300m. Chúng đi lại, chỉ trỏ ra vẻ "bọ xít" tợn. Từ lúc đến đây tôi đã phải chịu đựng 35 quả đạn 106,7 ly của địch. Cứ phải nằm hầm. Chà cái hầm không duỗi được (chân), khổ quá! Tiểu đội tôi còn vẻn vẹn có 3. Ai mà không đau lòng? Hơn lúc nào hết, tôi muốn phanh thây mấy thằng giặc ở đồn kia ra ngay bây giờ. Thôi cứ yên chí. Tối nay hoặc tối mai thôi mà! Ngày 20/02 Đã 13 hôm nay rồi Dương không được tắm, không được rửa mặt. Chà, khó chịu thật! Chiều hôm nay cùng với cán bộ toàn C đi trinh sát trận địa. Vinh dự quá, tiểu đội trưởng Nguyễn Xuân Dương được chỉ huy một mũi thọc sâu. "Thọc sâu à?" Dương thở dài một cái thật là dễ chịu. Chẳng bao giờ tôi nghĩ sướng như bây giờ. Tôi nhớ lại hồi năm 62 đã có lần được gặp Giáp Văn Khương kể thời gian anh làm tiểu đội trưởng thọc sâu. Nhớ lại và cố tìm ra những điều vận dụng vào ngay trận đánh này. Ngày 21/02 ... Mãi chẳng đánh, nằm đây buồn quá! Không hiểu sao sáng nay nằm mơ thấy Dương lại ở quê. Mẹ Dương, các em Dương, bạn gái và bạn trai Dương thấy Dương về đều sung sướng! Dương đi lại khắp xóm làng, đi sang cả Hoàng Dương, đi cả Viên Ngoại, Vân Đình. Gặp cô Lê Hoa thấy cô ấy bụng đã khá to, gặp cả những cô Hoài, Tuất. Mê gì mà mê khỉ thế! Ngày 22/02 Ngày hôm nay Dương chuẩn bị cho Dương, chuẩn bị và kiểm tra trong tiểu đội. Tối hôm nay đi giọt nhau. Tiểu đội thọc sâu, nhiệm vụ nặng nề, nhưng vô cùng vẻ vang khi hoàn thành. Hồi hộp như khi ở nhà đi học, đến ngày vào buồng thi, không hiểu đỗ hay trượt. Nhưng, đây là nhiệm vụ chiến đấu bằng vũ lực, có thể nói được chết hay sống không? Không, nhất thiết là không. Trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường, hai giai cấp, người trực tiếp cầm súng chiến đấu cho một mục tiêu của mình, lẽ dĩ nhiên sẽ có hi sinh. Nhưng Dương không thể nói được là "đỗ" hay không, sống hay chết, mà chỉ nói được Dương liệu có hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc hay không? Trả lời đi Dương! Chẳng phải giục như thế. Hoàn thành xuất sắc chứ sao! Vì có Đảng cạnh mình, có cấp trên sáng suốt, có chiến sĩ của Dương vững vàng. Hẹn nhật kí mai Dương sẽ kể chuyện chiến đấu nhé. Hôn em! VÀI LỜI CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP ĐỖ CA SƠN Đồng chí Nguyễn Xuân Dương, tiểu đội trưởng thọc sâu của C10/D3/trung đoàn 174 của chúng ta, đã ngã xuống trong trận đánh sau đó một ngày (ngày 23/02/1965). Tôi xin kể vắn tắt bằng cách nào chúng ta lại có được di vật thiêng liêng này của liệt sĩ Nguyễn Xuân Dương. Một ngày đầu tháng 8/2003, trong buổi gặp anh Hoàng Thúy Toàn (nguyên Phó giám đốc NXB Văn học, hiện là Giám đốc Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây) để bàn về việc biên tập và in ấn tập Hồi kí của Trung đoàn ta, anh Thúy Toàn cho biết là anh đang giữ một cuốn nhật ký của một chiến sĩ Trung đoàn 174 đã hi sinh trên đất Lào. Cuốn nhật ký này được trao cho Chính ủy trung đoàn, lúc đó là đồng chí Hoàng Danh Trà. Trước khi chỉ huy Trung đoàn 174 đi B, anh Trà đã trao lại cho em trai mình chính là nhà văn - dịch giả Thúy Toàn, và anh Toàn đã gìn giữ cuốn nhật ký này suốt 37 năm nay. Đó là một cuốn số nhỏ vừa bằng lòng bàn tay, viết bằng chữ nhỏ li ti mà thời gian đã làm phai nhòa nét mực. Đọc những dòng viết của anh Nguyễn Xuân Dương, tôi thực sự xúc động, như anh Thúy Toàn đã xúc động khi đọc trước đó. Anh Toàn và tôi quyết định đi tìm thân nhân liệt sĩ Dương để trao lại cuốn nhật ký, trong đó thể hiện rất nhiều phẩm chất cao đẹp, trong sáng của một chiến sĩ Trung đoàn 174 qua chiến đấu cũng như trong tình cảm riêng tư. Chúng tôi đã tìm đến sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Tây và được các đồng chí ở Phòng Chính sách, đặc biệt là đồng chí Đinh Duy Phúc tận tình giúp đỡ. Sau khoảng một tuần tìm kiếm trong kho lưu trữ hàng vạn hồ sơ liệt sĩ của tỉnh (vì chúng tôi không có một cứ liệu nào về quê quán của liệt sĩ Dương, chỉ phỏng đoán là ở vùng Hà Đông, nơi có con sông Nhuệ chảy qua), chúng tôi đã xác định được nơi sinh ra của anh Dương: xã Cao Thành, huyện Ứng Hòa, Hà Tây. Vài hôm nữa chúng tôi sẽ đi gặp những người thân của liệt sĩ Nguvễn Xuân Dương để bày tỏ những tình cảm sâu sắc nhất của mình đối với liệt sĩ và gia đình liệt sĩ... 10/9/2003 _____________________________________________1. Tết Ất Tỵ Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:56:51 pm KỂ CHO NHAU: MỘT "TAO NGỘ" CÓ MỘT KHÔNG HAI CHU QUANG Vào dịp hè năm 1987 đã diễn ra cuộc "chạm trán" của bốn chiến binh trưởng thành từ Trung đoàn 174, binh đoàn con em của nhân dân các tỉnh Biên giới Đông Bắc Việt Nam, có một thời làm quân đội viễn chinh Pháp trên đường số 4 khiếp đảm. Họ là bốn đảng viên ưu tú, là bốn anh bộ đội cụ Hồ "chính gốc", cả bốn đã là chiến sỹ Điện Biên Phủ năm xưa, từng sống chết 55 ngày đêm với quân thù trên đồi A1, C1, C2, phía Đông Mường Thanh góp phần làm nên Điện Biên Phủ vang dội địa cầu, tiếp nối là những chiến dịch thời kỳ chống Mỹ ngụy cho đến ngày thống nhất đất nước. Ba vị là tướng quân, còn một là "tiểu tướng" của một ngành cũng xuất ngoại để thực hiện phương châm: "đi một đàng, học một sàng khôn". Cuộc hội ngộ đầy bất ngờ và thú vị vì nó được diễn ra ở ngay tại thủ đô Matxcơva, nơi không hề xa lạ với họ, bởi ba trong số họ đã từng có dịp học tập tại đây và người còn lại cũng từng qua lại công tác. Sự kiện diễn ra. Sau khi hoàn thành chuyến công tác tại thủ đô Lahabana và một số địa phương khác của đất nước Phidel - Cuba anh hùng, tôi trở về nước, phải quá cảnh ở Matxcơva. Cơn mệt của 18h bay, từ châu Mỹ Latinh sang châu Âu đầu óc còn rối bời bao vấn đề đặt ra sau chuyến đi. Nhưng rồi niềm phấn khởi nhớ lại những kỷ niệm cũ ở nơi đây đã làm tôi giảm bớt sự mệt mỏi. Tại nhà khách Sứ quán, trong lúc chờ làm thủ tục, tôi gặp ngay trung tướng Nguyễn Hữu An vừa từ Hà Nội bay sang, để đi an dưỡng tại biển hồ Baratông nổi danh của Hunggari. Tiếp nối, xuất hiện thiếu tướng Lê Sơn, sau khi điều trị an dưỡng cũng tại Hunggari trên đường về nước. Tướng An gợi ý cùng nhau đến thăm thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự, khi đó là tuỳ viên quân sự của Sứ quán ta, lại đang rất khó khăn, bận bịu, phải chăm sóc con gái bị bệnh nan y. Quỹ thời gian cho phép họ xả láng trong tâm sự, động viên thăm hỏi hoàn cảnh gia đình con cháu của nhau, cho phép được ngồi ăn cùng bàn, cùng tranh thủ đi dạo bước trên đường phố Matxcơva nắng đẹp. Chuyện trò của họ không hề đề cập đến chiến tranh mà lại là văn học Xô Viết, về những điều tai nghe mắt thấy trước đây họ biết. Thiếu tướng Đôn Tự đã "chiêu đãi" phở do ông tự làm, bát phở đầy thịt, nước dùng ngọt lịm với đầy đủ gia vị. Trong không khí "vui mừng khôn xiết", vẫn bao quanh kèm theo những mẩu chuyện đầy tình nghĩa, tôi không cảm nhận được nghệ thuật làm phở của ông Tự đến đâu. Chị Thanh Thủy, vợ liệt sĩ Hồ Hải Nam (E98) vốn là văn công đại đoàn 316, lúc đó là tuỳ viên thương mại, tìm đến thăm hỏi và đã giúp đỡ anh em rất nhiều trong việc mua sắm quà cáp trong những ngày chúng tôi ở Mat. Những dịp đi bộ trên đường Goócky, ăn kem Matxcơva nổi tiếng châu Âu, chiêm ngưỡng lại khu vực điện Cremli, tượng Puskin, hưởng lại cái thú đi tàu điện ngầm... đều là tác phẩm của cô em văn công xưa kia. Hợp rồi phải tan. Tôi xin được nhìn nhận là cuộc tao ngộ có một không hai. Vì rằng khó có thể ở một trung đoàn khác của quân đội ta lại có sự kiện diễn ra như vậy. Nói một cách khác, các vị được hưởng một cái lộc do chính sách của Đảng và Nhà nước đền đáp để có cuộc "tao ngộ" kể trên. Một "tao ngộ" mang nhiều ý nghĩa nhân văn - con người mà tôi ghi nhớ sâu đậm nhất. Khi tôi viết những dòng này thì thượng tướng, phó giáo sư Nguyễn Hữu An đã vĩnh viễn ra đi, khi chưa ở độ "thất thập cổ lai hy" trong lúc đang sung sức công hiến những tác phẩm quân sự rút từ kinh nghiệm chiến trường đã tuân theo tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông an nghỉ cạnh nhiều vị lão thành, nhân sỹ tri thức cách mạng tại nghĩa trang Mai Dịch. Thượng tướng phó giáo sư là vị tướng được Hội khoa học lịch sử Việt Nam đúc tượng. Hà Nội tháng 8 năm 2003 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 07:58:09 pm CHÚC MỪNG ĐẠI THỌ 90 TUỔI ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN Ban liên lạc bạn chiến đấu Trung đoàn 174 trong phiên họp đầu năm 2002 (Nhâm Ngọ) nhớ ngay một sự kiện với tình cảm sâu sắc: năm nay anh Mân, người anh cả của Trung đoàn chúng ta, đã vào tuổi Đại thọ 90. Anh em nhất trí bàn với Ban liên lạc sư đoàn 316 tổ chức mừng Đại thọ Đại tướng. Nhưng không biết nên mừng vào năm âm lịch (17/3/2002) hay dương lịch (17/3/2003). Hơn nữa, biết anh Mân sống rất bình dị, tính rất khiêm tốn, không thích ai ca ngợi mình, viết về mình. Bàn đi tính lại và cho rằng anh Mân vào tuổi Đại thọ là hạnh phúc cho gia đình, cho đất nước, nên tổ chức mừng ngay từ năm Nhâm Ngọ, cả năm 2003 và hằng năm để tổ chức mừng anh trường thọ. Sáng 13 tháng 7 năm 2002 (Nhâm Ngọ), trong nắng ấm tiết xuân, Ban liên lạc sư đoàn 316 cùng đại diện Ban liên lạc trung đoàn 174, 98, 148 đã đến nhà 36B Lý Nam Đế. Trong không khí gia đình, trong phòng khách ấm cúng, khác mọi ngày là có nhiều lẵng hoa, trên bàn có hoa quả, kẹo bánh, cả anh cả chị đã vui vẻ niềm nở đón tiếp anh em rất cảm động. Anh Mân đã bắt tay, nhận mặt, nhắc tên từng người, Anh Hoàng Tiêu Sơn - trưởng Ban liên lạc Sư đoàn đã thay mặt anh em nói lên tình cảm đối với Đại tướng Chu Huy Mân là người lãnh đạo, chỉ huy, là người thầy, nhưng cũng là người anh cả thân thương, người bạn chiến đấu kiên cường, đã dìu dắt trung đoàn 174 và sư đoàn 316 trong xây dựng và chiến đấu, lập nên những chiến công oanh liệt. Anh Mân đã thay mặt Đảng dạy bảo, bồi dưỡng nhiều anh em trong tuổi thanh xuân từ chiến sỹ trở thành những cán bộ chỉ huy, những tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hôm nay, anh đã vào tuổi 90, nhưng vẫn mạnh khỏe, minh mẫn, nhanh nhẹn. Đó là niềm hạnh phúc của gia đình, của anh em chúng ta và của đất nước, anh em chúc mừng Anh trường thọ, tuổi cao chí khí càng cao, thể lực tráng kiện, trí tuệ minh mẫn. Tuy anh đã nghỉ hưu, nhưng mong anh tiếp tục đóng góp với Đảng, Nhà nước trong đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng quân đội trong thời kỳ mới. Anh em kính chúc anh chị trường thọ, mạnh khỏe, chúc toàn thể gia đình an khang, hạnh phúc. Anh em đã trao tặng anh chị lẵng hoa Trường thọ, bức trướng đỏ thêu đậm chữ vàng: "Mừng thọ Đại tướng Chu Huy Mân 90 tuổi" và khung ảnh lớn nhà bia lưu niệm di tích lịch sử, nơi thành lập Đại đoàn 316 ngày 1/5/1951. Anh chị rất vui mừng và cảm động, cùng anh em nâng li rượu đầu xuân. Anh Mân chúc tất cả theo gương anh sống khỏe, sống vui. Mọi người ngồi xuống cùng hàn huyên chuyện trò thật đầm ấm. Vẫn phong cách điềm đạm, chậm rãi, Anh nhắc lại nhiều sự kiện, nhiều kỉ niệm về Trung đoàn 174, về Sư đoàn 316, về chiến trường Cao Bắc Lạng, về chiến trường Tây Bắc. Một giờ đồng hồ qua nhanh, có tiếng ồn ào ngoài hành lang: Anh Đặng Vũ Hiệp, anh Nguyễn Nam Khánh và đoàn ban liên lạc các chuyên gia quân sự ở Lào tiến vào. Anh em ta tình cảm còn lưu luyến, nhưng vội vàng đứng lên chào tạm biệt Anh Chị để các đoàn bạn vào chúc mừng Đại tướng. Ra về anh em trao đổi với nhau và đều cảm nhận: anh Mân đã 90 tuổi, suốt cuộc đời chinh chiến đi qua nhiều đơn vị, nhiều chiến trường, trên nhiều cương vị. Nhưng phải chăng anh Mân vẫn hoài niệm đầy ấn tượng với tình cảm sâu sắc về chiến trường Cao Bắc Lạng, về Trung đoàn 174, về Đại đoàn 316 trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, về những đơn vị chủ lực trong bước khởi đầu xây dựng Quân đội. Và anh, với tuổi tráng niên, đã cùng chia ngọt sẻ bùi, chia sẻ gừng cay muối mặn trong những tháng năm gian khổ với những cán bộ chiến sỹ nhiều thế hệ đầu tiên đang tuổi thanh xuân. Ngày nay, anh Mân đang là cây đại thụ, bạn chiến đấu chúng ta cũng đã vào tuổi cổ lai hy, nhưng tình nghĩa đồng chí, đồng đội thật là sắt son, sâu nặng, kiên trung. Nhân dịp họp mặt truyền thống kỷ niệm 53 ngày thành lập Trung đoàn 174 (19/8/2002) và ngày 17/3/2003, chúng ta lại trân trọng mừng Đại thọ anh Mân, người anh cả của Trung đoàn, kính chúc Anh trường thọ, tiếp tục tỏa bóng mát cho đời, cho chúng ta. THƯỜNG TRỰC BAN LIÊN LẠC Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 08:06:58 pm TRÊN ĐỒI A1 - ĐIỆN BIÊN PHỦ NGUYỄN BÌNH Sáng tháng năm Ba mươi tám ngày đêm Đối mặt giữ từng tấc đất Đào hào đánh lấn Đứng lên đuổi địch xuống đồi Cao điểm cuối cùng khu Đông sụp đổ1. Chúng tôi tới đây từ đường số Bốn Bước chân mòn lối chiến trường Người Việt Bắc, khu Tư, đồng bằng sông nước Sống chung đất tổ vua Hùng Biên giới mở thông, tiến sang đông bắc Với núi cao, rừng rậm, sông dài Đất mỏ nhiều than, biển vàng lắm cá Còn trong tay quân xâm lược tham tàn. Vào địch hậu đồng bằng sông Hồng trù phú Giặc vừa càn qua cháy đỏ nếp nhà hoang Cùng nhân dân giữ làng chống càn diệt giặc Góp sức người sức của kháng chiến thành công. Vượt sông Đà lên Tây Bắc xa xôi Trận Mộc Châu mở đường thắng lợi Giải phóng rồi mường bản mừng vui. Chiến dịch vừa xong, bước vào trận mới Người đến công trường Người đi đánh Mỹ Chúng tôi trở lại Điện Biên2 Luyện tập, đắp đường, làm hồ chứa nước Xây dựng sân bay còn vướng phải mìn. Cuộc sống đang lên thổi luồng gió mát Chiến trường vẫy gọi Trung đoàn lại đi3 Miền bắc, miền trung, miền nam thương nhớ Còn xa hơn nữa, nước bạn anh em... Tây Nguyên giải phóng, miền nam giải phóng! Chúng tôi trở về bảo vệ Điện Biên4 Ba thế hệ đồng lòng chung sức Lớn lên cùng đất nước vững bền. Nửa thế kỷ trôi qua Sáng nay trên đồi A1 Có nén hương thơm Mấy cành hoa nhỏ Nghĩa tình đồng đội tháng năm xưa. Tháng 8 năm 2003 ____________________________________________1. Ngày 30/4/1954. trung đoàn 174 (đại đoàn 316) đánh đồi A1 - Điện Biên Phủ không thành công, sau 38 ngày đêm giữ phần trận địa đã lấy được, đến đêm 6 rạng sáng ngày 7/5/1954 đánh đồi A1 thắng lợi. 2. Tháng 4/1958, trung đoàn 174 trở lại huyện Điện Biên, tỉnh Lai Châu. 3. Trung đoàn 174 (Cao - Bắc - Lạng) thành lập ngày 19/8/1949 tại xã Đức Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ có hai trung đoàn 174. 4. Tháng 2/1979, trung đoàn 174 (sư đoàn 316) hoạt động ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 08:11:26 pm TIỂU ĐOÀN 215 (D1) THẾ LONG1 Anh em D1 E174 Ngày đầu thành lập ở từ trên non, Núi Đông Bắc cao chon von Một màu xanh biếc bạn còn nhớ không? Tập hợp dưới lá cờ hồng Sư 316 chiến công lẫy lừng Diệt đồn Đông Khê trên đường số 4, Mở màn chiến dịch giải phóng vùng Biên Chiến dịch, chiến dịch tiếp liền "Diệt viện" cùng với "công kiên" tưng bừng Chiến dịch Điện Biên lẫy lừng, D251 đã từng xông pha. Mở màn chiến dịch cũng là D251 xông ra Mường Pồn, Nổ súng quân giặc kinh hồn, Anh em D1 đồng lòng xung phong. D1 thêm một chiến công! _____________________________________________ 1. Nguyên chính trị viên 673 tiểu đoàn 251. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 08:15:15 pm ĐÁNH MƯỜNG PỒN (13-12-1953) THẾ LONG Sau kỳ chỉnh huấn ở tỉnh Thanh, Toàn đoàn được lệnh hành quân nhanh, Cắt rừng, vượt núi lên Tây Bắc Ào ào khí thế khúc quân hành Chiều nay gặp địch ở Mường Pồn, D251 ra một đòn Địch quân hoảng loạn chạy tan tác, Quân mình xông tới, giặc kinh hồn. Quân địch rút chạy theo lối mòn, "Xê ba" bám sát vượt núi non Anh nuôi bị lạc, quân ta đói, Ăn cá luộc vã, muối không còn! Địch chạy tháo thân đến cùng đường, Ngựa chúng bỏ lại dạt tứ phương, Quân ta tung hoành thu ngựa chiến, Con để thồ hàng, con chở thương. Con mã đẹp nhất sẵn dây cương, Nhảy phốc lên yên, đỡ cung đường, Về tới trung đoàn đem giao nộp, Tất cả chiến lợi phẩm chiến trường. Đoàn trưởng lúc đó là anh An, Khen thưởng A1 trước trung đoàn, Mở màn chiến dịch thu thắng lợi! Ta còn nhắc mãi trong liên hoan. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 05 Tháng Giêng, 2023, 08:17:41 pm Kính tặng trung đoàn 174 ĐOÀN QUÂN CAO BẮC LẠNG (1950) Nhạc và lời: Nguyễn Đình Phúc (Hành khúc) Cao Bắc Lạng! Đây đoàn quân biên thùy, trầm hùng tiến. Thổ, Nùng, Kinh, Mán sát vai. Trong gian lao, reo hát cười. Vui hy sinh, giết hết thù, chúng sức đấu tranh. Đi lên! Đi lên! Ta giữ đất ta, nương rừng, đồi núi xanh lam hình dáng mến yêu. Đi lên! Đi lên! Binh đoàn ta đi, xây chiến thắng vang biên thùy, reo hát mừng. Vang danh! Vang danh! Gương sáng chiến công, công đồn, phục kích, tiên phong nhịp bước viễn chinh. Vang danh! Vang danh! Binh đoàn ta đi, xây chiến thắng vang biên thùy, reo hát mừng. Vang danh! Vang danh! Gương sáng chiến công, công đồn, phục kích, tiên phong nhịp bước viễn chinh. Vang danh! Vang danh! Binh đoàn ta đi, xây chiến thắng. Tiến lên, giết hết thù Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2023, 01:39:04 pm NHỚ ANH, MỘT CON NGƯỜI BÌNH DỊ! Kính tặng các bạn chiến đấu của anh Nguyễn Hữu An ở Trung đoàn 174 BÙI THỤC CHI1 Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc ta từ cách đầy nửa thế kỷ. Tiếng vang ấy vẫn còn dư âm trong trái tim những ai yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Trong chiến công đó, những người tham dự cho biết có sự đóng góp không nhỏ của cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 174 (thuộc Đại đoàn 316) với cặp chỉ huy mưu trí, linh hoạt của đơn vị là trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An và Chính ủy Trần Huy. Thực tế đã khẳng định rằng "Trận quyết chiến trên đồi A1" năm xưa của e174 để giành thắng lợi, chiếm lĩnh hoàn toàn quả đồi án ngữ phía Đông - Điện Biên này, là tiếng súng báo hiệu sự thắng lợi cuối cùng của toàn chiến dịch. Năm 2004 sắp đến! Nhà nước ta, nhân dân ta lại có dịp ôn lại kỷ niệm rất đáng ghi nhớ "Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên" chấn động địa cầu. Nhiều cán bộ, chiến sĩ của e174 vẫn còn đó. Các anh đã ở tuổi thất thập cổ lai hy trở lên, nhưng vẫn may mắn còn sống trên cõi đời, để nhìn sự phát triển của xã hội ngày càng đi lên. Con cháu mình thoát khỏi cảnh chiến tranh, được vui chơi học hành mặc dù đất nước ta còn rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các anh không quên và không bao giờ quên những người đồng chí đã cùng các anh kề vai sát cánh trong chiến đấu chống quân thù, nay đã khuất núi. Một buổi trưa hè tháng sáu của năm 2003 nắng chói chang, một cựu chiến binh trung đoàn 174 - anh Ca Sơn - đến thăm gia đình tôi, thắp nén hương tưởng niệm người Trung đoàn trưởng năm xưa. Người cựu chiến binh Ca Sơn bồi hồi xúc động nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với người mà anh gọi là "Thủ trưởng kính mến" và muốn tôi viết bài về "Cuộc sống đời thường" của anh Nguyễn Hữu An, để đưa vào cuốn sách cùng với bài viết của những người đồng chí khác của e174 vào dịp kỷ niệm trọng thể này. Tôi vừa lo vì không biết mình có đủ khả năng thể hiện được điều đó không, lại vừa cảm động về tấm thịnh tình của anh Ca Sơn, nhất là được nghe nói đại diện cho Ban liên lạc của e174, một tập thể mà tôi đã được dự sinh hoạt từ sau khi anh An mất. Họ vẫn gắn bó với nhau, hòa cùng nhịp điệu trong bản trường ca bất diệt về chiến tích của e174. Trước bàn thờ anh, tôi thổ lộ tâm sự trên đây và mong anh cùng tôi chấp bút. Tuy anh đi xa đã tám năm, nhưng tôi vẫn cảm nhận được tâm linh anh luôn ở bên tôi. Phải nói rằng thường xuyên tôi nhớ đến anh, như thể anh vẫn còn sống. Chiếc đồng hồ đã cũ kỹ nhưng tiếng nhạc hiệu của nó báo 6 giờ sáng anh thức dậy chuẩn bị đi làm và 5 giờ chiều anh trở về nhà, vào những năm tháng cuối cùng trước lúc anh rời xa thế giới này tôi vẫn còn lưu giữ để đánh thức và đón anh như lệ thường, cùng với nhiều kỷ vật khác. Tôi và anh quen biết nhau do tác động của một số bạn chiến đấu của anh là các anh Vũ Lăng, Vũ Lập... động viên anh Bùi Nam Hà (anh trai tôi) xe duyên cho tôi với anh. Lúc đầu tôi do dự vì tôi đang học lớp chín (nay là lớp 12) và là con út, lớn lên trong vòng tay yêu thương, chiều chuộng của cha mẹ và các anh chị tôi, nên ở tuổi 22 mà tôi không có cảm giác đã lớn lắm. Tôi rất ham học với lòng mong muốn học xong đại học để có một địa vị trong xã hội, lúc đó mới xây dựng gia đình. Nhưng, anh đã đến với tôi bằng sự chân thành, kiên trì và với tác phong giản dị, khiêm nhường. Anh tôn trọng sự học hành của tôi. Mỗi khi có dịp về Hà Nội, anh lại đến thăm tôi. Hồi đó tôi ở nhờ gia đình một người bạn thân của chị gái tôi tại ngõ Hàng Bột vì sau chín năm kháng chiến chống Pháp gia đình tôi phải về Hưng Yên quê tôi, còn nhà ở Hà Nội đã tiêu thổ kháng chiến từ năm 1946. Tôi vốn có cảm tình với bộ đội, có lẽ vì hai anh trai lớn của tôi đều là lính của Cụ Hồ. Tôi sinh trưởng trong một gia đình viên chức nhỏ ở Hà Nội, cha mẹ tôi theo đạo Phật, là gia đình cách mạng, có "Bảng Vàng danh dự". Còn gia đình anh, cha hoạt động cách mạng từ năm 1927; năm 1929 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và là Bí thư chi bộ đầu tiên của xã Trường Yên, huyện Gia Khánh (nay là huyện Hoa Lư), tỉnh Ninh Bình. Mẹ và anh trai anh cũng tham gia cách mạng từ thời Pháp còn cai trị. Do vậy gia đình được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Anh bị mất mẹ từ thuở ấu thơ, sống với mẹ kế và bầy em nhỏ. Năm 16 tuổi, anh thoát ly gia đình, tự lập thân từ hai bàn tay trắng, rồi đi theo cách mạng và trưởng thành lên. Trong một bức thư gửi cho tôi, anh viết: "...Cuộc đời anh đầy chông gai và nước mắt. Cho đến khi bước chân vào hàng ngũ cách mạng, anh mới cảm thấy có nhựa sống...". Tôi xúc động, cảm phục anh và yêu anh. Ngày cưới (28/9/1956) anh ở tuổi ba mươi - Tham mưu phó Quân khu Tây Bắc - quân hàm trung tá (phong năm 1958); và tôi hai mươi ba tuổi - sinh viên khoa Hóa trường Đại học Sư phạm. Anh Hoàng Minh Thảo (nay là Thượng tướng Hoàng Minh Thảo) làm chủ hôn. Hưởng tuần trăng mật bốn ngày tại "Chiêu đãi sở" của quân đội, anh đã phải về đơn vị. Ngày ấy chúng tôi còn nghèo vì anh hưởng chế độ phụ cấp hai mươi đồng một tháng (giá trị bằng năm mươi kilôgam gạo), còn tôi hưởng học bổng hai mươi hai đồng. Mãi đến tháng 8/1958 thì được lĩnh lương mới. Hiểu được bối cảnh của gia đình tôi, lại là bạn chiến đấu với anh trai thứ hai của tôi nên anh rất chu đáo trong cuộc sống thường ngày. Anh nhường tất cả những thuận lợi cho tôi, nhất là khi Thu Hương, đứa con gái đầu lòng của chúng tôi ra đời (1958). Anh sung sướng vì bắt đầu được làm cha, đến mức độ chị gái tôi phải thốt lên: "Chú An mê con chú ấy quá!". Song thời gian anh ở bên mẹ con tôi không được bao nhiêu, chỉ vài ngày mỗi khi được đi Hà Nội họp, lại phải về đơn vị ngay. ____________________________________________ 1. Nhà giáo, vợ đồng chí Thượng tướng Nguyễn Hữu An. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2023, 01:40:10 pm Năm tháng qua đi, chúng tôi sinh thêm hai con trai: Tuấn Anh (1960), Tuấn Hùng (1962). Một mình nuôi ba con nhỏ trong khi chồng cứ biền biệt nơi địa đầu của Tổ quốc, tủi thân lắm chứ! Đặc biệt là vào thời kỳ sơ tán chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ cũng là lúc anh được cử đi công tác B (chiến trường miền Nam) vào tháng 4/1964. Trước lúc lên đường (tại Quân khu 4 - anh làm Sư đoàn trưởng sư đoàn 325), anh biên thư tạm biệt tôi: "... Chia tay em đã nhiều, tạm biệt em cũng lắm nhưng lần này anh thấy bịn rịn hơn lúc nào hết. Mới ngày nào em còn mặc chiếc áo trắng, cổ lá sen đợi anh ở một chiếc ghế đá tại vườn Bách Thảo, mà nay chúng ta đã có ba đứa con. Đứa nào cũng kháu cả. Em hãy cố gắng nuôi con, chờ ngày chiến thắng anh sẽ trở về...". Nhận được thư anh, đọc thư mà nước mắt tuôn trào. Thương anh, lo cho anh sắp bước vào cuộc chiến đấu đầy gian khổ, đầy thử thách rồi lại lo cho mình! Cả nước có chiến tranh, trông lên thì chẳng bằng ai, nhìn xuống thì cũng đỡ hơn nhiều người (dù sao tôi cũng có lương của một cô giáo dạy cấp ba, lại còn thêm lương của chồng để lại) song cũng thật vất vả. Cứ cái cảnh cô đơn với chiếc xe đạp, đằng trước thì tương cà mắm muối, đằng sau thì gạo và con, đôi khi phải gửi bớt hai đứa trên xe khách cho một người không quen biết rồi phóng xe đạp đuổi theo đến bến đỗ, lòng xiết bao nỗi lo âu, nhìn bóng trời chiều dần sẫm lại, khi trông thấy các con, nước mắt rưng rưng cùng ôm nhau khóc. Rồi mấy mẹ con phải băng qua vài cánh đồng mới về đến nơi cư trú. Lúc đó, Thu Hương lên tám, Tuấn Anh sáu tuổi và Tuấn Hùng bốn tuổi. Khó khăn quá thì gửi bớt hai đứa về Hưng Yên quê tôi, để mẹ và chị gái tôi chăm sóc giúp, rồi hàng tháng lại đạp xe hàng bảy chục cây số về thăm, vì ô tô khó lấy vé lại sợ máy bay địch bắn phá. Đi đâu tôi cũng mang theo con gái để kèm cặp vì muốn cháu sẽ là con chim đầu đàn để giúp đỡ các em. Bốn năm chiến đấu ở Tây Nguyên với bao nhiêu gian nan vất vả, thiếu thốn cả thức ăn và giấc ngủ, vật lộn với bệnh tật (trĩ và sốt rét) anh vẫn tranh thủ thời gian biên thư cho tôi và các con, nội dung rất tình cảm, pha chút lãng mạn cách mạng. Có lần vào dịp Tết, anh viết thư từ Tây Nguyên về: "... Tiếng pháo giao thừa đã điểm và tiếng nói ấm cúng của Bác Hồ vừa chúc Tết xong (chắc là anh nghe qua Đài tiếng nói Việt Nam). Anh đang thức để viết thư cho em vào cái giờ thiêng liêng của dân tộc. Cái giờ mà năm cũ qua, năm mới đến chỉ cách nhau vài ba phút. Anh đang ở trong một căn nhà toàn bằng nứa giữa một khu rừng trùng điệp. Trên bàn không có bàn thờ, mâm quả và khói hương, mà chỉ có sách vở đồ dùng và cây nến. Cảnh vật ở đây cũng biến đổi theo ngày, tháng, năm như ở Bắc nên đêm nay mưa xuân đã lất phất. Bầu trời chẳng có trăng sao, và cái rét ngọt một cách dễ chịu (tôi hiểu anh thích trời rét hơn mùa hè) cũng đến lúc nào không hay nữa. Chỉ có núi rừng là yên lặng, cái yên lặng mà êm ả lạ thường. Xung quanh anh mấy chú công vụ đã yên giấc và có lẽ đang mơ về nơi cố hương xa xăm nào đó. Chỉ còn một mình anh của em vẫn thức, vẫn hướng về em và các con thân yêu với tất cả niềm thương nhớ dào dạt! ...". Anh sống bằng nội tâm nhiều hơn. Tôi biết anh là người giàu tình cảm, song đôi khi trong cách thể hiện lại hơi vụng về, thiếu tâm lý. Có một lần khi mới yêu nhau, anh tặng tôi một ít tiền nói rằng: "Anh không biết mua gì cho hợp ý thích của em, em mua giúp anh nhé!". Tôi không nhận, anh cuộn lại, cài vào tai, tôi vội lấy tay hẩy và nó rơi xuống đất. Anh cười nói đùa: "Vứt tiền của nhà nước đi, là tù đấy". Một lần khác, anh tặng tôi chiếc khăn quàng mỏng, màu sắc lòe loẹt. Tuy không thích nhưng tôi vẫn nhận v.v... Anh thổ lộ tâm tình với tôi "Anh rất muốn chiều em, làm em vừa ý nhưng không hiểu sao anh lại không biết làm! Anh vụng về lắm phải không em?" Tôi cũng không giải thích nổi vì như đã nói ở trên, tôi luôn được cả nhà yêu mến chiều chuộng, tuy tôi rất ngoan nhưng hay hờn mát (theo nhận xét của mọi người), cả nhà gọi tôi là "cô bé" cho đến khi tôi lấy chồng. Trước khi yêu tôi, anh tôi dặn dò anh nên chiều tôi như khi tôi còn ở nhà. Anh tự nguyện nhận lời về làm đúng như vậy cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay! Trong tôi nảy sinh những tình cảm dường như mâu thuẫn: giận anh, thương anh, bực bội với anh nhưng lại rất cảm phục anh. Chúng tôi sống với nhau bằng thư từ vì luôn ở cách xa nhau. Đọc thư anh, tôi rất xúc động. Mỗi khi đọc đến đoạn anh viết: "... Anh của em nhất định sẽ trở về trong ngày vui chiến thắng của toàn dân tộc..." hoặc "... Em cứ yên tâm, đừng lo gì cho anh. Anh nhất định sẽ trở về với em và các con nhưng phải là ngày toàn thắng...". Một nỗi buồn thoáng hiện trong tôi, vì không đáp ứng hy vọng anh được về họp như một số đồng chí khác. Nhưng rồi lại như có thêm nghị lực, vì anh truyền thêm cho tôi niềm tin vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhiều anh em bạn bè chiến đấu cho tôi biết anh Nguyễn Hữu An thường được cử đến những nơi khó khăn, chiến trường ác liệt, và anh luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Đôi khi tôi băn khoăn về chế độ chính sách, anh thường gạt đi một cách nhẹ nhàng "Đặt vấn đề ra làm gì, anh còn sống để được trở về với em và các con là may mắn rồi còn gì". Tôi tạm yên tâm với cách lý giải đó nhưng sự đời đâu lúc nào cũng giản đơn như vậy! - Hai vợ chồng và ba đứa con nhỏ núp dưới căn phòng mái bằng, trên gác xép với diện tích mười hai mét vuông ở phố Lê Đại Hành mà vẫn bị "đuổi", vì ở nhờ một đơn vị khác. Trước đó tôi ở ký túc xá của sinh viên. Khi có con phải ở nhờ nơi khác. Lúc này anh đã ở cấp thượng tá, tham mưu phó Quân khu Tây Bắc. Còn tôi, cô giáo dạy cấp ba trường Trung cấp kỹ thuật hai. Cho đến khi anh đi công tác B (Tây Nguyên năm 1964) mới được cấp trên cho đến ở tầng thứ tư, ngôi nhà tập thể bốn tầng thuộc khu Nam Đồng với diện tích hai tám mét vuông, chung công trình phụ. Ở đó mười bẩy năm, từ cấp thượng tá đến khi anh được phong trung tướng. Mỗi khi ở chiến trường về, người ta thấy đêm đã khuya, anh một mình với hai thùng nước xách từ máy công cộng dưới tầng một lên tầng tư nhà mình, vì lúc đó vắng người dễ lấy nước hơn. Thương các con còn bé, vợ lại yếu, mặc dù vậy, anh vẫn giúp người khác. Anh có thể dừng tay xách nước để mang hộ chiếc xe đạp của chị hàng xóm lên trước (chị ấy đi làm ca đêm về và cũng yếu như vợ mình) hoặc giải quyết khó khăn của một gia đình như gia đình anh Điềm - Tư lệnh Đặc công. Anh Điềm đã mất, con trai lớn đang ở trên biên giới. Con trai bé mười hai tuổi, còn thằng giữa vừa học xong cấp ba lại gọi nhập ngũ trong lúc chị Ngọ (vợ anh Điềm) đang đau tim nặng. Mười hai giờ đêm, chị Ngọ gõ cửa cầu cứu, anh vội vàng dậy đi gặp anh Lư Giang, Tư lệnh Quân khu Thủ đô để giải quyết mặc dù sáng sớm hôm sau anh đã phải đi công tác. Vắng anh, đôi khi những hình ảnh trên đây lại hiện lên trong trí nhớ của tôi, nhiều lần anh ra đứng trước hiên vào giờ tôi sắp ở trường về. Trông thấy tôi từ xa, anh chạy như bay từ trên gác xuống, đỡ xe đạp mang lên cho tôi và vui vẻ hỏi "Em có mệt không, đã đói chưa? Anh nấu xong cơm rồi đây". Đi bên anh tôi thấy ấm lòng và thầm mong anh ở nhà dài ngày một chút. Nhiều khi không dám hỏi anh về họp bao lâu, vì tôi rất sợ nghe câu trả lời mà tôi như đã biết trước. Gặp được anh tôi rất mừng xong lại lo ngay đến ngày anh ra đi. Để một phần lấp đi nỗi trống trải trong lòng, tôi lao vào công tác, cố gắng phấn đấu để trở thành đảng viên như anh hằng mong muốn và cũng để được tự hào với mình. Rồi niềm vinh dự ấy đã đến, tôi được đứng trong hàng ngũ của Đảng vào giữa lúc bom đạn còn ngút trời của thời kỳ giặc Mỹ leo thang ra miền Bắc gây tội ác. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2023, 01:41:38 pm Mùa thu năm 1968, anh ở chiến trường Tây Nguyên trở về Hà Nội họp. Khi xe qua huyện Thường Tín nơi tôi sơ tán theo trường, anh đã ghé thăm ông bà chủ nhà, một gia đình nông dân công giáo, có nghề thủ công khắc gỗ. Bà chủ nhà ngạc nhiên nói "Cô giáo và các em đã về Hà Nội rồi ông ạ". Anh lễ phép đáp "Thưa ông bà, tôi đã biết tin đó nhưng tôi vào đây để thăm sức khỏe và cám ơn ông bà đã cho nhà tôi và các cháu ở nhờ. Ông bà đối xử rất tình nghĩa, chúng tôi rất biết ơn". Ông bà chủ nhà cảm kích lắm, định giữ anh ở lại dùng cơm gia đình, song anh xin lỗi từ chối vì đã bốn năm chưa được gặp vợ con. Và ông bà chủ nhà tiễn anh ra tận cổng làng. Học trò và các bạn đồng nghiệp của tôi rất quý mến anh. Anh đã từng kể chuyện chiến đấu cho giáo viên nghe và họ rất thích được nghe chuyện người thật, việc thật. Anh say sưa thuyết trình hàng giờ về các trận đánh "Đường 9 Nam Lào" tại trường cấp 3 Trưng Vương (nay là trường PTTH Đống Đa), về chiến thắng Điện Biên tại trường PTTH Hoàn Kiếm (nay là trường PTTH Trần Phú) vào dịp kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ... Một lần vào buổi tối khuya, thấy ô tô anh đến thăm tôi tại nơi sơ tán, học sinh đã khiêng bàn ghế chặn ngang đường, rồi chúng núp xung quanh. Khi anh và chú lái xe bước xuống để dọn lấy lối đi, lúc đó chúng ùa ra trêu chọc "chú Chi, chú Chi" (vì tôi tên là Chi) rồi chúng dọn đường cho xe anh đi. Anh xoa đầu và phát nhẹ vào vai chúng cười hiền hòa. Anh đứng lại chuyện vui một lát rồi mới đi vào nhà tôi ở nhờ, mặc dù đã khuya và sáng hôm sau anh lại phải lên đường sớm. Với anh, việc thay đổi đơn vị công tác, thay đổi chức vụ là bình thường. Anh cũng đã quen rồi. Chả thế mà có tới năm lần xách va li chuẩn bị lên tàu đi du học nước ngoài, lại có lệnh hoãn để đi chiến đấu, vì chiến trường cần hơn. Cuối cùng cũng được nhận "bằng đỏ" tốt nghiệp sau khóa học tại Học viện Vôrôxilôp (Liên Xô) vào năm 1974. Và may quá, khi về đến ga Hàng Cỏ thì được lệnh tham gia chiến dịch Trị Thiên và chiến dịch Đà Nẵng với cương vị Tư lệnh Quân đoàn 2. Rồi dọc theo trục đường 1 đánh trong hành tiến, Quân đoàn 2 tiến thẳng vào Sài Gòn đánh chiếm Dinh Độc lập - sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng! Lịch sử đã sang trang, kết thúc ba mươi năm đấu tranh toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam. Tháng 9/1978, anh được cử đi học Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc. Sau khi tốt nghiệp, anh về Quân khu Hữu Ngạn, rồi lại về làm Phó Tổng thanh tra Quân đội, phụ trách thanh tra sẵn sàng chiến đấu. Tháng 4/1987, sau khi anh Vũ Lập qua đời, anh An được nhận nhiệm vụ Quyền Tư lệnh Quân khu 2 (trước đó anh là Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng), năm sau lại có quyết định về Học viện Lục quân Đà Lạt giữ chức Viện trưởng. Thời gian này tôi đã nghỉ dạy học nên cùng đi với anh để làm cấp dưỡng cho anh. Lúc này các con chúng tôi đã trưởng thành và đều có gia đình riêng. Anh ngần ngại vì sợ mang vợ theo sẽ khó khăn cho tổ chức về chỗ ở. Tôi động viên anh: "Xưa kia, khi quốc gia hữu sự, tuổi thanh xuân đi qua một cách âm thầm, chúng ta đành hy sinh. Nhưng bây giờ là thời bình, anh đi đâu, em đi cùng chăm sóc, chắc chắn sẽ không làm điều gì phiền cho tổ chức. Em tin rằng có vợ hay không có vợ thì Học viện vẫn bố trí cho Viện trưởng một chỗ ở riêng". Sau ba năm ở đó, tôi được mọi người khen là chu đáo nghĩa tình. Trong buổi chia tay, khi tôi đọc lời tạm biệt xong, tôi được Học viện tặng hoa và mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Tôi kết thúc bằng mấy vần thơ như sau: Ba năm một tháng ở đây, Kỷ niệm nhân lên với tháng ngày Tình người, tình bạn, tình cây cỏ. Cảnh thiên nhiên khéo quyện vào đây Học viện Lục quân thành tổ ấm Ra đi lưu luyến khó quên thay! Kính chào Học viện, niềm thương mến. Hẹn ngày hội ngộ trong tương lai! Thời gian ở Học viện, những ngày nghỉ và ngày lễ tết, anh rủ tôi cùng đi thăm gia đình cán bộ, giáo viên. Hàng ngày, ngoài việc cơm nước (có cháu công vụ phụ thêm), tôi giúp anh đọc những thư từ thắc mắc, khiếu kiện và tóm tắt cho anh nghe vì anh rất bận. Anh mở cửa tiếp mọi người. Lúc anh đi vắng, tôi tiếp giúp và báo cáo lại để anh biết. Những tưởng đây là nơi dừng chân cuối cùng, sau chặng đường anh đi qua hai mươi sáu đơn vị, bất thần anh lại nhận quyết định về làm Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao vào tháng 8 năm 1991. Rồi anh lại là người thay mặt Học viện để nhận Nghị Định 188/CP về việc thành lập Học viện Quốc phòng trên cơ sở Học viện Quân sự cấp cao do Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt ký ngày 20/12/1994. Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh cũng đã trao Nghị định này trong buổi mít tinh kỷ niệm 50 năm thành lập lực lượng vũ trang nhân dân tổ chức tại Học viện ngày 21/12/1994. Do đó anh trở thành vị Giám đốc của một Học viện tầm cỡ quốc gia này: "Học viện Quốc phòng". Đoạn đường đời chúng tôi đi với nhau được 39 năm, kể từ ngày cưới (1956-1995). Mới nghe thì tưởng là nhiều nhưng thực tế lại quá ngắn ngủi so với hạnh phúc bình thường mà đời người có thể được hưởng. Vì hoàn cảnh như vậy nên tôi hiểu rằng những lúc được về với vợ con, anh đã cố gắng hết sức đem lại hạnh phúc cho gia đình và cho chính anh. Nhưng thật là trớ trêu, đôi khi lại xảy ra bất bình mặc dù cả hai chúng tôi chẳng ai muốn như thế. Bởi lẽ nhiều khi phải xa nhau quá, tất cả nỗi nhớ nhung, mong đợi, ước mơ dồn nén lại để rồi chỉ ở với nhau khoảng thời gian như "gió thoảng". Lỗi tại ai đây? Bực với ai cơ chứ? Song tổ chức không có tại đấy nên tự trút nỗi bực dọc vô căn cứ lên đầu nhau. Điều này có lẽ đa phần do tôi gây nên. Mỗi khi chuyện xảy ra, anh rất buồn nhưng khi về đến đơn vị anh lại biên thư động viên tôi "... Anh biết vắng anh, em thật vất vả, vừa nuôi con vừa phải công tác trọn vẹn. Anh rất thương em nhưng biết làm sao được, vì anh cũng như em phải hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho. Thôi, có ghét thì ghét thằng giặc Mỹ chứ đừng ghét anh mà tội nghiệp. Chúng mình càng xa nhau, càng phải biết quý những khoảnh khắc ít ỏi được ở cạnh nhau phải không em? Từ nay đừng lãng phí thời gian quý giá ấy nữa nhé! Cô giáo của anh có đồng ý không? Nếu đồng ý thì cười lên nào! ..." Lời lẽ như vậy thì ai mà không động lòng trắc ẩn. Thật kỳ lạ, sau mỗi lần "cãi nhau", tôi lại càng cảm thấy gắn bó với anh hơn. Thương yêu anh hơn bao giờ hết! Nghĩ lại cũng nghiệm được rằng "Trời quả là có mắt!" Phần thưởng cao quý nhất, thiêng liêng nhất đối với anh mà anh tâm niệm cho đến hơi thở cuối cùng là tình cảm mến mộ của đồng chí, đồng đội đã dành cho anh. Anh đã mang theo tình cảm đó bay bổng lên không trung, vào đúng ngày giỗ Tổ Hùng Vương 10/3 Ất Hợi trước nỗi niềm thương nhớ vô hạn của gia đình, họ hàng, bạn bè, đồng chí khắp nơi nơi! Hà Nội ngày 27-7-2003 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2023, 01:43:47 pm KOSHIRO IWAI- ĐỒNG CHÍ SÁU NHẬT CỦA TRUNG ĐOÀN 174 (1924-1998) ĐỖ VĂN ĐẮC Sau cách mạng tháng 8/1945 thành công, có một trung úy Quân đội Nhật Bản xin tự nguyện đứng trong hàng ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam chiến đấu chống giặc Pháp xâm lược. Tên anh là Koshiro Iwai, anh em trong đơn vị thường gọi là anh Sáu Nhật. Cuộc sống chiến đấu và công tác của anh Sáu Nhật lúc đầu đã gắn bó với Trung đoàn 28 địa phương tỉnh Lạng Sơn, sau đổi thành Trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng. Trận phục kích Bông Lau đầu tiên của D386 (30/10/1047) sau này là D249, anh Sáu Nhật là trung đội trưởng xung kích đã dẫn đầu đơn vị xung phong xuống mặt đường số 4 tiêu diệt địch, anh đã chỉ huy một tổ chiến đấu vòng về phía sau lưng địch, dùng lựu đạn diệt gọn ổ đề kháng, kết thúc trận đánh thắng lợi. Năm 1948, trong trận phục kích Nguồn Kim, Chọc Ngà, anh bị tên quan ba Rivônanh nấp trong khe núi bắn một viên đạn súng ngắn sượt một bên má. Cũng lúc ấy, đại đội trưởng Lê Hoàn quan sát thấy lao tới, rút kiếm định chém tên quan Ba nhưng anh Sáu Nhật đã ngăn lại và xin tha cho nó. Anh nói: Người chiến thắng không thèm giết kẻ đã ra hàng. Sau này nhắc lại chuyện cũ với vết sẹo dài trên má, anh Sáu Nhật chỉ cười và nói: Đây là kỷ niệm chiến đấu của tôi với Đường số 4. Thành tích chiến đấu của anh Sáu Nhật phải kể đến khi anh làm cán bộ đại đội trinh sát Trung đoàn 174. Năm 1948, các trận đánh phục kích thắng lợi lớn như: Lũng Phầy, Bản Lầm, Bố Củng, Lũng Vài... trên đường số 4 đều có công lao của anh Sáu Nhật vì đã thiết kế một đường dây nắm địch rất hiệu quả từ Tiên Yên qua Lạng Sơn, Thất Khê, Đông Khê, từ việc bố trí các đài quan sát trên các điểm cao kết hợp với thông tin vô tuyến điện, hữu tuyến điện, các trạm truyền tin chạy bộ, quân báo nhân dân v.v... nên các động thái hoạt động và vận chuyển của địch đều được anh Sáu Nhật kịp thời báo cáo về Sở Chỉ huy, giúp cho quân ta đánh thắng địch. - Năm 1950, anh Sáu Nhật đã trực tiếp tổ chức trinh sát tiềm nhập điều tra cứ điểm Đông Khê, những tin tức thu lượm được trình bày bằng sơ đồ, cảnh đồ về Ban Tham mưu Trung đoàn giúp cho việc đặt kế hoạch tấn công tiêu diệt cứ điểm trên, mở đầu cho chiến dịch giải phóng Biên giới lịch sử thành công sau này. Và vinh dự đến với anh Sáu Nhật là được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. - Trong trận đánh đồn Bình Liêu (Quảng Ninh) đêm 24/12/1950, khi quân ta gặp khó khăn chưa đánh chiếm được lô cốt mẹ, quân địch lại đối phó rất ác liệt, anh Sáu Nhật đã đề nghị đưa sơn pháo 75mm vào khu trại con gái (gia đình vợ lính) đục 1 lỗ ở tường đặt nòng pháo chĩa thẳng vào lô cốt mẹ, bắn diệt chiếc lô cốt cuối cùng này và đánh chiếm toàn bộ vị trí Bình Liêu. Sau trận đánh thắng này, anh Sáu Nhật được bổ nhiệm làm Trưởng tiểu ban trinh sát Trung đoàn 174 với cấp bậc tiểu đoàn phó. - Năm 1952, tôi và anh Sáu Nhật cùng đội trinh sát bí mật vượt đường số 13 và 18 vào vùng du kích địch hậu Bắc Giang - Bắc Ninh. Có lần đi điều tra địch phải vượt sông, chúng tôi phải bỏ quần áo, vũ khí vào túi ni lông túm lại rồi bơi qua trong đêm mưa gió rét. Chiến dịch Địch Hậu kết thúc, nhiều đồn, bốt địch bị san bằng, nhiều khu du kích trong lòng địch được mở rộng có một phần đóng góp công lao của đại đội trinh sát Trung đoàn, trong đó có anh Sáu Nhật. - Nhớ lại có một buổi chiều, đoàn cán bộ Ban Tham mưu Trung đoàn có hơn 10 người hành quân đến tạm nghỉ ở một làng trong vung Địch hậu thì đột nhiên có một đội du kích địa phương đến bao vây chĩa nòng súng trung liên và đòi tước vũ khí. Vì anh em du kích tưởng lầm chúng tôi là biệt kích giả danh cán bộ Quân đội. Tình hình rất căng thẳng, hai bên chuẩn bị nổ súng nhưng nhờ có anh Sáu Nhật bình tĩnh, khôn khéo dàn xếp, chứng minh chúng tôi là bộ đội quân chủ lực thực sự vừa tiêu diệt đồn Vân Độ nên anh em du kích mới tin, hai bên lại tay bắt mặt mừng, thật hú vía! Năm 1953, anh Sáu Nhật cùng anh em trinh sát tiềm nhập tận hàng rào cứ điểm Mộc Châu trên đường số 6. Do công tác điều tra địch chu đáo nên quân ta đã đánh thắng, xóa sổ vị trí này, mở đường cho đoàn quân chủ lực tiến vào giải phóng Tây Bắc và chiến thắng vẻ vang, tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau này. Đầu năm 1954, trong khi đang làm nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường Điện Biên Phủ, anh Sáu Nhật được lệnh về nước theo yêu cầu của Đảng Cộng sản Nhật Bản. Cuộc chia tay thật lưu luyến, đậm đà tình đồng chí, đồng đội. Thời gian đi qua rất nhanh. Sau gần 46 năm, qua Hội Hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản, tôi nhận được thư anh Sáu Nhật, đọc những lời anh viết thật xúc động, xin giới thiệu một đoạn thư của anh: "Sau khi nhận được thư Anh, bắt tôi phải nhớ đến những ngày cùng chiến đấu, gian khổ và thực tình giúp đỡ lẫn nhau. Tôi vẫn còn nhớ những ngày tham gia các chiến dịch. Các chiến trường như: Đường số 4, Hoàng Hoa Thám, Trung du, Bắc Ninh, Tây Bắc, Điện Biên Phủ bước đầu v.v... Xong, tôi muốn gặp ngay Anh và các anh em bạn cũ mà cùng ăn ở, cùng chiến đấu và cùng chia nhau gian khổ, để kể chuyện với nhau cho vui vẻ và tăng cường tình bạn, tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết giữa nhân dân hai nước chúng ta". - Tháng 8/1990, tôi và đại tá Lưu Quang Hùng có một cuộc hội ngộ thật bất ngờ, thú vị với anh Sáu Nhật tại Khách sạn Dân Chủ phố Tràng Tiền - Hà Nội. Thật sung sướng và cảm động sau bao năm xa cách mới được gặp lại nhau. Vẫn cái dáng cao cao, đôi mắt một mí, vết sẹo dài trên má... Xiết chặt tay nhau với giọng nói ấm áp bằng tiếng Việt Nam, anh hỏi chúng tôi rất nhiều chuyện về bạn bè chiến đấu cũ, ai mất, ai còn, những người đầu tiên mà anh nhắc tới là Đại tướng Chu Huy Mân, ông Đặng Văn Việt nguyên là Chính ủy và Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 Sư đoàn 316... - Nhắc lại những chuyện từ thời còn trai trẻ, anh Sáu Nhật chỉ cười vì đã để lại ở Việt Nam những ngày tháng không bao giờ quên. Chúng tôi được biết, anh Sáu Nhật khi về nước đã gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản, làm Ủy viên Hội Hữu nghị Nhật Bản - Việt Nam, là người sáng lập Hội Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản - Việt Nam, đồng thời là Chủ tịch của Hội này. Những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, việc buôn bán của Việt Nam với nước ngoài còn hạn chế, nhất là các mặt hàng phục vụ cho chiến tranh, anh Sáu Nhật đã qua con đường xúc tiến mậu dịch môi giới để Việt Nam mua được các linh kiện bóng đèn điện tử lắp ráp một số đài phát thanh ở miền Nam Việt Nam rất công dụng, góp một phần nhỏ bé cho công cuộc giải phóng miền Nam Việt Nam năm 1975. Tháng 12/1990, Hội Xúc tiến Mậu dịch Nhật - Việt có sáng kiến tổ chức cuộc triển lãm hàng hóa và máy móc của Nhật Bản tại Trung tâm Giảng Võ với trên 50 công ty, hãng sản xuất kinh doanh Nhật cùng tham gia với mục đích giao lưu kinh tế phục vụ thiết thực cho ba chương trình kinh tế lớn của Việt Nam, phục vụ cho các công ty, xí nghiệp vừa và nhỏ của ta. Do công lao đóng góp của anh Sáu Nhật cho công cuộc kháng chiến và giải phóng dân tộc của Việt Nam thành công, Nhà nước và Quân đội ta đã tặng thưởng Anh 2 Huân chương cao quý: Chiến công Hạng Nhất và Chiến thắng Hạng Hai. Tôi viết bài này khi anh Sáu Nhật không còn nữa. Anh đã ra đi ngày 20/11/1998 tại Tokyo - Nhật Bản - đất nước của hoa Anh Đào. Anh Sáu Nhật đã đi xa nhưng những kỷ niệm chiến đấu và công tác của anh vẫn còn đọng lại trong tâm trí của bạn bè, đồng chí, đồng đội cũ Trung đoàn 174 không bao giờ phai nhạt. Mong cho hương hồn Anh thanh thản ở cõi vĩnh hằng. Ngày 10 tháng 8 năm 2003 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 174 anh hùng Gửi bởi: chuongxedap trong 06 Tháng Giêng, 2023, 01:45:50 pm HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ TRAO TẶNG TƯỢNG ĐỒNG BÁN THÂN CHO GIA ĐÌNH VÀ QUÊ HƯƠNG THƯỢNG TƯỚNG NGUYỄN HỮU AN Hội khoa học lịch sử sau cuộc họp mặt tưởng niệm 5 năm ngày mất của Thượng tướng Nguyễn Hữu An (5/2000), thực hiện chương trình cuộc vận động "Mỗi người một giọt đồng đúc tượng danh nhân", ngày 23 tháng 8 năm 2003 đã làm lễ trao tặng một tượng đồng bán thân cho gia đình và một tượng đồng bán thân cho quê hương Ninh Bình của Thượng tướng. Buổi lễ trao tặng do Hội Khoa học lịch sử tổ chức tại hội trường Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Khách mời tham dự có các thành viên của Hội do Chủ tịch Hội giáo sư Phan Huy Lê và Tổng thư ký Hội Dương Trung Quốc dẫn đầu. Về phía Quân đội có Đại tướng Chu Huy Mân, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Thượng tướng Lê Văn Dũng - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, đại diện Ban liên lạc Bạn chiến đấu Trung đoàn 174 do Trung tướng Trịnh Trân làm trưởng đoàn; về phía địa phương có đại diện lãnh đạo Đảng, chính quyền, Hội cựu chiến binh tỉnh Ninh Bình; cùng đông đảo bạn chiến đấu và người thân trong gia đình Thượng tướng Nguyễn Văn An. Giáo sư Phan Huy Lê đã tóm tắt tiểu sử, những chiến công và thành tích của Thượng tướng nêu rõ ý nghĩa chính trị - tinh thần của việc đúc và trao tặng tượng đồng Thượng tướng Nguyễn Hữu An cho gia đình và quê hương là việc làm hợp ý Đảng, lòng dân, hợp với chủ trương của Nhà nước phát huy truyền thống của dân tộc Việt Nam "Uống nước, nhớ nguồn", tôn vinh những danh nhân có công với nước. Đại diện Ban lãnh đạo tỉnh Ninh Bình, bà quả phụ Bùi Thục Chi phát biểu cảm ơn Hội Khoa học lịch sử, xem đó là vinh dự cho gia đình, cho quê hương, góp phần giáo dục, động viên các thế hệ nay và mai sau. Sau buổi lễ ngắn gọn nhưng trang trọng, hai bức tượng được rước về gia đình tại 34A Trần Phú Hà Nội và về Bảo tàng Cách mạng Ninh Bình. 17h00 ngày 23/8/2003, đồng chí Phạm Minh Tuyên, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy Ninh Bình cùng các đại diện Đảng, chính quyền, Mặt trận, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Hội Cựu chiến binh tỉnh, các đại diện huyện Hoa Lư và xã Trường Yên, các ban, ngành cùng đội tiêu binh danh dự đã long trọng tiếp đón tượng Thượng tướng tại Bảo tàng Cách mạng tỉnh Ninh Bình. Đồng chí bí thư Tỉnh ủy, đồng chí thiếu tướng Phó giám đốc Học viện Quốc phòng đã đọc diễn văn nói lên cống hiến của Thượng tướng Nguyễn Hữu An đối với đất nước và quân đội, nói lên tự hào của quê hương. Toàn thể thường trực Ban liên lạc Bạn chiến đấu Trung đoàn 174 đã dự lễ trao tặng tượng tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đồng chí Trung tướng Trịnh Trân, các đồng chí Đỗ Ca Sơn, Nguyễn Văn Vượng, Chu Quang đã về dự lễ tiếp nhận tượng tại Ninh Bình. Đồng chí Trịnh Trân đã thay mặt toàn thể Bạn chiến đấu Trung đoàn 174 nói lên tình cảm sâu sắc và niềm tự hào về đồng chí Nguyễn Hữu An, nói về Trung đoàn 174 anh hùng, sinh ra trên quê hương cách mạng Cao Bắc Lạng, có bề dày lịch sử 55 năm, là cái nôi trưởng thành của đồng chí Nguyễn Hữu An, qua chiến đấu đã trở thành người chỉ huy Trung đoàn và đã đóng góp xuất sắc vào những chiến công của Trung đoàn. Anh em Bạn chiến đấu Trung đoàn 174 chúng tôi rất tự hào về Anh, biết ơn quê hương Ninh Bình đã sinh ra người con ưu tú Nguyễn Hữu An, người chiến sỹ cách mạng kiên trung, một vị tướng đức độ tài năng của QĐNDVN anh hùng, suốt đời gắn bó với Quân đội. Anh đã chiến đấu trên khắp các chiến trường vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam trao tặng tượng Thượng tướng Nguyễn Hữu An là nguồn cổ vũ, động viên đối với gia đình và những người bạn chiến đấu của Thượng tướng, đồng thời còn giáo dục, động viên các thế hệ mai sau. Dưới chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh khói hương nghi ngút, tượng Thượng tướng Nguyễn Hữu An an tọa uy nghiêm. Các bạn chiến đấu thắp hương kỷ niệm Anh, ra về với niềm tự hào và thương nhớ Anh. THƯỜNG TRỰC BAN LIÊN LẠC Hết! |