Tiêu đề: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười, 2022, 07:59:04 am Tên sách: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Nhà xuất bản: Hà Nội Năm xuất bản: 2002 Số hoá: ptlinh, chuongxedap BAN LIÊN LẠC BẠN CHIẾN ĐẤU TRUNG ĐOÀN 66 KHU VỰC HÀ NỘI TRUNG ĐOÀN 66 55 NĂM MỘT CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG (Hồi ký thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp) NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI - 2002 Ban liên lạc bạn chiến đấu Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 khu vực Hà Nội xin chân thành cảm ơn: - Lãnh đạo Thành phố Hà Nội - Lãnh đạo tỉnh Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam - Văn phòng Liên hiệp Đường sắt Việt Nam - Các cựu chiến binh Trung đoàn 66 khu vực Thành phố Hồ Chí Minh - Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 và Trung đoàn 66, Sư đoàn 10 - Nhà xuất bản Hà Nội đã động viên và giúp đỡ chúng tôi hoàn thành cuốn sách này. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười, 2022, 08:03:01 am LỜI GIỚI THIỆU Truyền thống là hun đúc từ mồ hôi xương máu của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược. Nó nói lên tinh thần đoàn kết keo sơn, chiến đấu dũng cảm, quật cường bất khuất của dân tộc ta, là dòng máu truyền lại từ đời này sang đời khác; là mạch nguồn vô tận, thấm vào máu thịt của mọi người. Nói lại những điều hay đẹp đó là rất cần thiết, để mọi người rút kinh nghiệm, học tập và động viên tinh thần trong cuộc sống và chiến đấu. Các thế hệ kế tiếp cần noi theo gương sáng của các thế hệ đi trước, để kế tục cha anh bồi đắp, làm giàu thêm truyền thống quý báu của dân tộc. Phẩm giá Việt Nam, bản sắc Việt Nam, văn hỏa Việt Nam thể hiện bằng những hành động cao đẹp của con người được lưu truyền mãi, chính là do các cuốn hồi ký, các cuốn tiểu thuyết, các sách lý luận xây dựng nên. Tôi rất hoan nghênh các đồng chí cựu chiến binh Trung đoàn 66 đã viết cuốn hồi ký này. Các đồng chí đã kể lại một cách sinh động cuộc sống chiến đấu, công tác đẩy gian khổ ác liệt với tinh thần sáng tạo, khắc phục khó khăn, quyết chiến quyết thắng để chiến thắng kẻ thù. Cảm ơn các đồng chí và chúc cuốn sách này sẽ được bạn đọc hoan nghênh. Thượng tướng, Giáo sư Nhà giáo Nhân dân HOÀNG MINH THẢO (Nguyên đại đoàn trưởng Đại đoàn 304) LỜI NÓI ĐẦU Trung đoàn 66 - Sư đoàn 304, trải qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, đã lập nên bao chiến công oanh liệt. Trung đoàn đã được tặng thưởng danh hiệu cao quý "Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân". Lớp cán bộ, chiến sĩ thời kỳ kháng chiến chống Pháp người trẻ nhất giờ cũng đã ở tuổi "cổ lai hi". Mặc dù tuổi cao, sức khỏe giảm sút, nhưng với tình cảm sâu đậm với trung đoàn và đồng đội, nhiều đồng chí đã ghi lại những gì còn nhớ được trong những năm tháng gian khổ và hào hùng này. Nhiều đồng chí hết sức nhiệt tình, viết 4-5 bài. Nhiều bài được viết từ 3 - 4 năm trước, có bài được viết từ hồi kháng chiến ngay khi sự việc vừa diễn ra. Nhiều trận chiến đấu, nhiều kỷ niệm trên nhiều lĩnh vực đã được kể lại. Đây là những hồi ức và cảm nhận của những người trong cuộc cho nên có thể nói là sinh động và chân thực. Tuy nhiên số đồng chí viết bài chưa nhiều. Số bài viết cũng còn ít nên chưa phản ảnh được bao nhiêu các hoạt động, thành tích và chiến công của trung đoàn. Trân trọng với những bài viết đã nhận được, đồng thời thể theo nguyện vọng của nhiều lão chiến sĩ của trung đoàn, nhân dịp kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống của trung đoàn (20/3/1947 - 20/3/2002) Ban liên lạc bạn chiến đấu Trung đoàn 66 khu vực Hà Nội cho xuất bản cuốn hồi ký "Trung đoàn 66, 55 năm một chặng đường vẻ vang" (thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp). Bên cạnh cuốn "Lịch sử Trung đoàn 66" của trung đoàn, hy vọng cuốn sách này đáp ứng phần nào tình cảm và mong đợi của bạn đọc. Cũng mong rằng các đồng chí chưa có bài viết, các đồng chí thuộc Trung đoàn 66 chiến đấu trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước gửi bài viết cho chúng tôi để cuốn hồi ký tập II có thể ra mắt bạn đọc. Nhân dịp này, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí đã gửi bài, cung cấp tài liệu, cổ vũ và giúp đỡ để cuốn sách này được xuất bản. Mặc dù đã cố gắng nhưng trong quá trình biên soạn không tránh khỏi sai sót, rất mong được bạn đọc, nhất là các lão chiến sĩ Trung đoàn 66 cho những ý kiến bổ khuyết. Ban biên soạn VŨ CHẤN - NGUYỄN HIỂN THANH TÙNG - PHÚC TRẠCH Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 16 Tháng Mười, 2022, 08:05:18 am TRUNG ĐOÀN CHÚNG TA TRUNG ĐOÀN 66 ANH HÙNG Nói đến Trung đoàn 66, không thể không nhắc đến 2 đơn vị tiền thân của trung đoàn là Trung đoàn 35 và Trung đoàn 37, những trung đoàn với tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", đã anh dũng chiến đấu trong lòng Hà Nội, với những trận đánh ác liệt ở Ô Cầu Dền, Nhà thương Vọng, Việt Nam học xá, Vĩnh Tuy, Yên Phụ, Cầu Giấy... Sau khi rút khỏi Thủ đô, ngày 20-3-1947, Trung đoàn 37 tiến công địch giữa ban ngày tại thị xã Hà Đông, sau đó cùng với Trung đoàn 35 hợp thành Trung đoàn 66, trung đoàn chủ lực của Liên khu 3. Trung đoàn trưởng đầu tiên là đồng chí Phùng Thế Tài, chính ủy là đồng chí Trương Công Cẩn. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp gian khổ nhưng vô cùng anh dũng, Trung đoàn 66, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước được sự chăm sóc, nuôi dưỡng, thương yêu đùm bọc của nhân dân các dân tộc, đã ngày một trưởng thành và góp phần vào những chiến công vang dội của Quân đội nhân dân Việt Nam bách chiến, bách thắng. Trung đoàn đã chiến đấu từ đồng bằng cho đến rừng núi, chủ yếu là ở các tỉnh Hà Tây, Hòa bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và hai lần sang chiến đấu cùng với bộ đội Pathet Lào tại đất nước bạn. Trung đoàn đã chiến đấu từ độc lập từng tiểu đoàn đến chiến đấu toàn trung đoàn rồi chiến đấu trong đội hình Đại đoàn 304 với nhiệm vụ là trung đoàn chủ công, phối hợp chiến đấu với các đơn vị bạn và lực lượng vũ trang nhân dân các địa phương. Trong kháng chiến chống Pháp, trung đoàn đã tham gia tất cả 9 chiến dịch lớn của quân đội ta, khi ở hướng chính, khi ở hướng phối hợp. Trung đoàn đã vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo tất cả các hình thức chiến thuật từ tập kích, phục kích, kỳ tập, cường tập đến vận động tiến công, đánh công kiên, từ đánh đêm đến đánh ngày dưới phi pháo địch, từ chiến đấu bằng vũ khí thuộc trang bị trung đoàn đến chiến đấu phối hợp với pháo, cối của cấp trên. Qua các chiến dịch, trung đoàn đã lập nên nhiều chiến công, có chiến công mang ý nghĩa lớn về mặt chiến thuật hoặc chiến dịch. Trong thời kỳ trung đoàn chiến đấu độc lập, phần lớn là sử dụng lực lượng từng tiểu đoàn trong một trận, có thể kể đến một số trận tiêu biểu như: Trận đánh địch lấn chiếm, bảo vệ vùng căn cứ tại Đồi Hà, Vài, Sải (Mỹ Đức - Hà Tây); trận tiêu diệt đồn Mường Riệc (Hòa Bình), là trận chiến thắng đầu tiên bằng chiến thuật kỳ tập trên chiến trường rừng núi của Liên khu 3 và cũng là trận mở đầu truyền thống tiêu diệt gọn của trung đoàn, trận tiêu diệt đồn Đồng Bến (Kỳ Sơn - Hòa Bình), là trận đánh đấu tiên bằng chiến thuật cường tập, dùng hỏa công, tiêu diệt gọn một đại đội địch trong công sự vững chắc; trận Gò Bùi (Lương Sơn - Hòa Bình); trận Lê Xá, là trận cường tập tiêu diệt một đại đội địch ngay rìa thị xã Nam Định; trận Hoàng Dương - Tử Dương (Ứng Hòa - Hà Tây) là một trận vận động tiến công giữa ban ngày ở đồng bằng dưới phi pháo địch, tiêu diệt gọn một đại đội Âu Phi mạnh, bắt tù binh thu toàn bộ vũ khí. Trong đợt hành quân lên Việt Bắc tiếp nhận vũ khí mới, ngày 28-2-1951, một vinh dự lớn đến với Trung đoàn và Đại đoàn 304 là được Bác Hồ kính yêu, vị cha già dân tộc, người khai sinh ra QĐND Việt Nam anh hùng, đến thăm và nói chuyện tại một khu rừng cách đường số 2 (Tuyên Quang) 5 km. Câu nói mở đầu của Bác làm mọi người rơm rớm nước mắt. Bác nói: "Hôm nay, không phải chỉ là Chủ tịch nước đến thăm bộ đội mà là cha đến thăm con, bác đến thăm cháu..." Câu nói đầy ân tình của Bác đã động viên trung đoàn ta vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, anh dũng kiên cường, chiến đấu lập công, không phụ lòng tin yêu của Bác. Trong thời kỳ chiến đấu trong đội hình đại đoàn, có thể kể đến các trận như: Tiêu diệt 2 đồn Chùa Dầu, Yên Vệ trong một đêm, hôm sau đánh một trận vận động ban ngày ở Đò Lá và phục kích đánh đắm nhiều ca nô chở quân của địch tại ngã ba Thông sông Đáy (Ninh Bình) trận phục kích tiêu diệt 34 xe tại Cầu Mè trên đường số 6, mở đầu cho chiến dịch Hòa Bình, các trận Hói Đào, Hồi Trung, Giang Nại, vừa đánh điểm vừa diệt viện, trận thọc sâu vào thị trấn Phát Diệm tấn công tiêu diệt một bộ phận tiểu đoàn Âu Phi đang đi càn quét tại Yên Bình, trận đầu tiên đánh địch không có chuẩn bị trước; trận tiêu diệt đồn Chùa Cao (Ninh Bình) bằng chiến thuật công kiên, xóa sổ một đại đội lê dương tinh nhuệ và một trung đội ngụy trong công sự boong ke mà kẻ địch đã tuyên bố là "bất khả xâm phạm"... Trong 2 lần sang chiến đấu tại Lào, có các trận: tiêu diệt đồn Noọng Hét sau đó phát triển tấn công giải phóng hoàn toàn tỉnh Xiêng Khoảng (Thượng Lào), trận truy kích địch từ Banaphào rút chạy sau đó tấn công ngay đồn Pà Cuội, với lực lượng ít hơn địch, tiêu diệt và bắt sống 1 tiểu đoàn mạnh cả lính Âu Phi và ngụy, một trận đánh táo bạo, gan dạ, mưu trí, lấy ít thắng nhiều; trận Hìn Sìu (Trung Lào) diệt gần hết 1 tiểu đoàn dù ngụy người Việt do sĩ quan Pháp chỉ huy; trận phục kích trên đường số 9 tiêu diệt 2 đại đội, phá hủy 48 xe, bắt sống tù binh thuộc binh đoàn cơ động ngụy Khơme do sĩ quan Pháp chỉ huy; tiêu diệt cứ điểm Mường Phin, sau đó tiến xuống Hạ Lào, tiêu diệt cứ điểm Lào Ngăm. Chiến dịch phát triển thắng lợi, giải phóng hàng vạn ki-lô-mét vuông, chỉ với ba trung đoàn (e66, e101 và e18) cùng bộ đội tình nguyện và bộ đội Pathet Lào, đã buộc địch phải điều một bộ phận lực lượng cơ động chiến lược ở Việt Nam sang ứng cứu, góp phần quan trọng vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Kết thúc chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 trung đoàn vinh dự nhận cờ "Quyết chiến Quyết thắng" của Hồ Chủ tịch. Qua 9 năm kháng chiến, trung đoàn đã xây dựng nên truyền thống tốt đẹp: chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, trên dưới một lòng sáng tạo linh hoạt, dũng cảm chiến đấu, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, hoàn thành nhiệm vụ. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, hòa bình được lập lại trên miền Bắc nước ta. Trong 10 năm củng cố lực lượng, xây dựng đơn vị, Trung đoàn 66 đã có những bước trưởng thành, sẵn sàng lên đường chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung đoàn 66 đã phát triển thành 2 trung đoàn: 66A và 66B. Ngày 20-8-1965, Trung đoàn 66A vào Nam chiến đấu lập chiến công đầu tiên lẫy lừng ở Tây Nguyên, về sau nằm trong đội hình Sư đoàn 10, Quân đoàn 3. Năm 1967, Trung đoàn 66B trong đội hình Sư đoàn 304 lên đường vào Mặt trận Khe Sanh, sau sáp nhập vào Quân đoàn 2. Trước một kẻ địch đông hơn về số lượng, mạnh gấp nhiều lần về vũ khí, trang bị kỹ thuật, truyền thống trung đoàn được giữ vững và phát triển lên một trình độ cao hơn, lập nên những chiến công oanh liệt hơn, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Có thể kể một số chiến công tiêu biểu của 2 Trung đoàn 66 như sau. Đó là một loạt trận tấn công vào Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn kỵ binh bay Mỹ đổ bộ xuống la đrăng - Chư Pông (Plâyme) diệt gọn 1 tiểu đoàn và đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn khác, trở thành một trong những lá cờ đầu tiên diệt tiểu đoàn quân Mỹ. Là các trận tập kích Động Cô Tiên tiêu diệt hơn 1 tiểu đoàn địch, trận Bản Đông cùng với một trung đoàn bạn và một đại đội xe tăng diệt một tiểu đoàn và lữ đoàn bộ dù ngụy, trận Động Toàn, một trận chiến đấu quyết liệt diễn ra hai ngày, hai đêm, cuối cùng làm chủ điểm cao mà địch mệnh danh là "con mắt thần" của chúng; trận Mai Lộc diệt 300 tên bắt sống 96 tên trong chiến dịch Quảng Trị; trận tấn công tiêu diệt chi khu quân sự Thượng Đức mà kẻ địch coi là "cánh cửa thép của Quảng Nam - Đà Nẵng" là một đòn mạnh mẽ giáng vào kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" của ngụy quyền Sài Gòn sau hiệp định Paris. Trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, với tinh thần "thần tốc, táo bạo, quyết chiến, quyết thắng" trung đoàn trong đội hình sư đoàn và quân đoàn đã tham gia giải phóng các thành phố Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết, sau đó được lệnh tách khỏi đội hình đánh chiếm thị xã Hàm Tân, tiêu diệt và làm tan rã 5.000 quân địch co cụm tại đây. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Trung đoàn 66A từ Tây Nguyên đánh xuống chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu ngụy; Trung đoàn 66B là lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2 cùng với Lữ đoàn xe tăng thiết giáp 203 đã tấn công vào "Dinh Độc Lập" ngụy buộc chính phủ bù nhìn Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Qua hai cuộc kháng chiến, 2 Trung đoàn 66 được trao tặng nhiều huân chương quân công và ba lần phong danh hiệu "Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân". Vinh dự đó, mỗi chúng ta đều cảm thấy tự hào đã đóng góp một phần nhỏ nhưng cũng nhận thức rằng vinh quang đó trước hết thuộc về Đảng tiền phong lãnh đạo, về nhân dân ta anh hùng, thuộc về các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. BAN LIÊN LẠC Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười, 2022, 08:16:00 am TIỂU ĐOÀN 64 SƠN TÂY Tiểu đoàn 64 (sau này đổi tên là Tiểu đoàn 171) thuộc Trung đoàn 37 của tỉnh Sơn Tây được thành lập ngày 15-1-1946 ở trong thành Sơn Tây. Đây là một trong những đơn vị vũ trang đầu tiên của Khu 2. Cán bộ và chiến sĩ của tiểu đoàn lúc đầu là những thanh niên ở Hà Đông và Sơn Tây, sau này được bổ sung thêm nhiều chiến sĩ người Hà Nội. Ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có: tiểu đoàn trưởng Quốc Linh, chính trị viên Nguyễn Văn Dụ, tiểu đoàn phó Mạnh Quân. Nhiệm vụ chính của tiểu đoàn là luyện tập quân sự, bảo vệ chính quyền tỉnh và xây dựng lực lượng dân quân. Tháng 4 năm 1946, theo lệnh trên, tiểu đoàn hành quân về đóng tại huyện Phúc Thọ, đề phòng bọn Quốc dân Đảng từ Vĩnh Yên tràn sang. Lúc này, tiểu đoàn gồm có 2 đại đội: - Đại đội 55 đóng quân từ Kiều Trung, Kỳ Úc về đến Cầu Phùng. Ban chỉ huy đại đội gồm có: đại đội trưởng Nguyễn Trọng Quỳnh, chính trị viên Nguyễn Đức Phương. - Đại đội 68 đóng quân ở ven đê sông Hồng về đến Hát Môn. Ban chỉ huy đại đội gồm có: đại đội trưởng Lê Bính, chính trị viên Mạnh Lân, đại đội phó Chu Hữu Cần. - Ngoài ra, còn có bộ phận chuyên làm công tác huấn luyện tân binh do các đồng chí Hồng Quân và Quốc Cường (nguyên là 2 cán bộ tác chiến của tiểu đoàn) phụ trách. Sau Tạm ước 14/9/1946, tiểu đoàn được lệnh chuyển dịch về gần Hà Nội, đóng dọc theo đường Sơn Tây - Hà Nội. Nhiệm vụ của tiểu đoàn lúc này rất khẩn trương: tuyển mộ thêm tân binh, huấn luyện gấp rút về quân sự, mặt khác phối hợp với dân quân phá đường, đào công sự hình chữ Z trên chặng đường dài 20 km suốt từ cầu Phùng về thị xã Sơn Tây, đề phòng địch từ Hà Nội đánh lên. Trung đội cảm tử của tiểu đoàn do đồng chí Mai Hiền và Mạnh Chung (người Nhật) phụ trách. Đêm 25/12 trung đoàn được lệnh diệt xe tăng địch đang chốt giữ tại khu vực Cây Si (ngã ba Kim Liên - đường số 1). Cảm tử quân Lý Đàm Nghiêm đã diệt tại chỗ 1 xe tăng. Để thống nhất việc chỉ huy các lực lượng đang tham gia chiến đấu trên địa bàn Hà Nội, các đơn vị tự vệ của các khu phố được chuyển thành các đơn vị Vệ quốc quân. Tiểu đoàn 64 được tiếp nhận 4 trung đội tự vệ của Liên khu 2 Hà Nội, hợp thành một đại đội Vệ quốc quân mang số hiệu là Đại đội 4. Ban chỉ huy đại đội lúc này gồm có: đại đội trưởng Hồng Quân (tên thật là Đỗ Viết Hưởng), chính trị viên Mạnh Lân. Ngoài ra, tiểu đoàn còn có một trung đội hậu cần gồm hơn hai chục nữ tự vệ và một số em thiếu niên xung phong làm nhiệm vụ tiếp tế, cứu thương, liên lạc... Ngày 09-01-1947, Đại đội 4 và trung đội hậu cần bắt đầu hành quân về đóng tập trung trong khu vực Nhà thương Vọng. Ngày 15-01-1947, một trận chiến đấu ác liệt giữa Tiểu đoàn 64 có sự phối hợp của đại Đội 157, Tiểu đoàn 56 Hà Đông và quân Pháp đã diễn ra ở phía tây nam Hà Nội, mà trọng điểm là Nhà thương Vọng. 5 giờ sáng ngày 15/01/1947, súng nổ dữ dội ở hướng đông bắc. Đạn pháo và hỏa lực bắn thẳng của địch (đại liên, trọng liên 12 ly 7) bắn mạnh về phía Nhà thương Vọng. 6 giờ, một đoàn cơ giới của địch từ nhà Ga, nhà Dầu Sen theo đường số 1 tiến xuống, dẫn đầu là 2 xe tăng, theo sau là xe bọc thép và cơ giới chở bộ binh. Hai khẩu đại liên của ta (Hốt kít và Mắc xim) nhả đạn xối xả vào đội hình địch làm cho nhiều xe cơ giới phải dừng lại. Đạn pháo các cỡ của địch lại dồn dập rót vào trận địa của tiểu đoàn. Khoảng 9 giờ sáng, địch cho một cánh quân gồm bộ binh và cơ giới có xe tăng yểm hộ, từ Phà Đen Vĩnh Tuy tiến qua Ngã tư Trung Hiền vào đường Đại La. Tổ bom ba càng của trung đội cảm tử đã phá được 1 xe tăng. Cùng lúc này, máy bay địch quần đảo trên khu vực Nhà thương Vọng, thả lựu đạn và bom 25 kg xuống trận địa của ta. Từ hướng bắc, quân địch vẫn tiến xuống, nhưng tiến rất chậm, vừa đi vừa dò mìn. Khoảng 10 giờ sáng, khẩu đại liên của ta ở phía bắc bị trúng đạn pháo, cong nòng gãy chân, khẩu đội trưởng Nguyễn Văn Đa bị thương, phải rút về phía sau. Lợi dụng lúc này, xe tăng địch áp sát, húc đổ tường góc phía bắc nhưng bị trúng lựu đạn, đứt xích, nằm chắn luôn lối vào. Quân địch còn mở tiếp nhiều đợt tấn công nhưng đều bị đánh bật ra, thương vong khá nhiều, bỏ lại nhiều xe bị bắn hỏng. Bên ta cũng có nhiều thương vong. Tổ tiền tiêu phía bắc (ở lò gạch) bị trúng đạn pháo của địch, toàn tổ hy sinh, trong đó có chính trị viên trung đội Hoàng Tường Chi. Vào khoảng 13 giờ, địch lại mở đợt tấn công mới từ cả hai hướng bắc và đông. Cánh quân địch từ Ngã tư Trung Hiền tiến vào đường Đại La từ buổi sáng đã chiếm được ga Vọng vào hồi 15 giờ và khống chế đường Tàu Bay. Một cánh quân khác của địch từ Kim Liên - Trung Tự tiến về phía Sân bay Bạch Mai và chiếm được sân bay lúc 18 giờ. Cánh quân địch ở phía đường 1 có 3 xe tăng cùng lính bộ binh Âu Phi và bọn Việt gian thổ phỉ mặc toàn đồ đen. Một xe tăng húc đổ cổng chính, một xe tăng khác húc đổ tường góc phía nam. Lính địch vào được trong sân trước nhà tiền sảnh nhưng bị quân ta từ trong bắn ra và bị lựu đạn từ trên gác cao thả xuống. Địch cố tiến vào, ta cố đánh bật chúng ra. Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Dụ bị thương, chính trị viên đại đội Mạnh Lân, 2 trung đội trưởng Vũ Bạch Liên và Nguyễn Duy Ứng cùng một số chiến sĩ hy sinh. Đến 16 giờ, địch đã hình thành thế bao vây cả 3 mặt, chỉ còn mặt tây nam là trống. Trước tình hình đó, tiểu đoàn trưởng Quốc Linh ra lệnh cho bộ đội rút về tuyến sau. Quân ta trong tầng hầm và trên tầng cao tòa nhà chính-được lệnh đồng loạt tiến công địch. Bị bất ngờ, lính địch hoảng loạn nấp vào hào giao thông và sau xe bọc thép. Quân ta tranh thủ rút ra ngoài theo hướng đã định. Một số người còn bị kẹt trong tầng hầm của bệnh viện, mãi đến đêm mới rút ra được. Nơi tập kết của tiểu đoàn là làng Huỳnh Cung (huyện Thanh Trì). Trong lúc này, Đại đội 55 đóng ở Việt Nam học xá vẫn bị bao vây. Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng, ngày hôm sau địch bắt đầu tấn công vào Việt Nam học xá từ hai phía: Đê La Thành xuống và từ Chợ Mơ sang. Nhưng lính địch chỉ vào đến cách nhà A và nhà B chừng 100 m thì phải dừng lại vì khoảng cách này là bãi trống, hỏa lực của ta bắn mạnh. Đại đội 55 được trang bị một đại liên Nhật, 2 trung liên, 1 cối 60 ly và một số tạc đạn 56 ly. 3 khẩu súng máy của ta đặt ở tầng hầm sát với bãi trống bắn liên tục làm cho lính địch không dám tiến lên. Xe tăng địch tiến vào thì bị tạc đạn 56 ly từ trên nóc nhà ném xuống. Địch tấn công trong 2 ngày đều bị ta đánh trả mãnh liệt. Không tiến vào được, địch dùng pháo bắn vào các nhà có quân ta đóng, làm sập các cầu thang. Đến 4 giờ chiều ngày thứ hai thì địch rút. Trong mấy ngày trước đó, dân quân du kích và một số bà con dân phố chưa đi tản cư ở phía Phố Huế và khu Bạch Mai đều dồn vào khu Việt Nam học xá, tổng cộng hơn 1.000 người. Đại đội 55 phải sử dụng số gạo dự trữ của đại đội để nấu cơm cho mọi người ăn trong 2 ngày và tổ chức cho họ rút khỏi khu vực Việt Nam học xá. Sau đó, Đại đội 55 cũng nhận được lệnh rút ra ngoài theo hướng Đầm Sét – Thế là sau 4 ngày trụ ở khu Việt Nam học xá, có 4 đồng chí hy sinh và 3 người bị thương, Đại đội 55 về tập kết ở làng Đại Từ. Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng, địch cho quân tiến sang đánh chiếm trận địa của Đại đội 157 ở Ngã Tư Sở. Đại đội 157 được lệnh rút về Huỳnh Cung, bắt đầu chính thức thuộc biên chế của Tiểu đoàn 64. Toàn tiểu đoàn đóng quân ở Huỳnh Cung để nghỉ ngơi, chấn chỉnh đội ngũ, bổ sung quân số và đón Tết âm lịch. Chiều mồng 2 tết (23-01-1947), toàn tiểu đoàn hành quân lên phía bắc Hà Nội (vùng Bồng Lai, Bá Dương, Tây Tựu). Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng và Ngã Tư Sở, địch đánh chiếm thị xã Hà Đông rồi tiến về Mai Lĩnh để bảo vệ cho thị xã Hà Đông. Không để cho địch tự do tiến quân, các đơn vị thuộc Tiểu đoàn 64 đã quấy rối, tiêu hao quân địch: Đại đội 157 ở vùng tây nam ngoại thành Hà Nội, Đại đội 68 ở vùng Sấu Giá, Đại Đồng, Đại đội 55 tấn công đột kích vào làng cổ Nhuế. Sau khi quân Pháp chiếm được thị xã Hà Đông và Mai Lĩnh, tướng Bô-la-éc (Cao ủy Đông Dương) ra lệnh tổ chức một cuộc gặp mặt dân chúng ở sân vận động Hà Đông, với ý đồ phô trương thanh thế và tuyên truyền kết quả công cuộc bình định của quân đội Pháp. Để phá ý đồ nham hiểm đó, mờ sáng 20-03-1947 quân ta tổ chức một cuộc tập kích vào thị xã Hà Đông. Tiểu đoàn 64 được giao nhiệm vụ tổ chức 2 mũi tấn công: một mũi do Đại đội 157 phụ trách đánh vào khu vực đầu cầu trên đường số 6 từ Hà Nội vào, một mũi do Đại đội 68 phụ trách từ Tây Mỗ đánh vào thị xã. Còn Đại đội 55 thì án ngữ tại Ba La Bông Đỏ, và có tác chiến tại vùng Thạch Bích (Thanh Oai). Kết quả trận đánh vào thị xã Hà Đông: quân ta không tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, nhưng đã thắng lợi lớn về mặt chính trị. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười, 2022, 08:16:59 am * * * Theo yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ, lực lượng chiến đấu của Khu 2 được chấn chỉnh lại. Trung đoàn 37 và Trung đoàn 35 được sáp nhập thành một trung đoàn chủ lực mới, mang số hiệu Trung đoàn 37 do đồng chí Phùng Thế Tài làm trung đoàn trưởng. Ngày 16-05-1947, theo mệnh lệnh của Tổng chỉ huy, Trung đoàn 37 được đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 66. Tiểu đoàn 64 là một tiểu đoàn mạnh nằm trong đội hình Trung đoàn 66. Đầu tháng 4-1947, Tiểu đoàn 64 được giao nhiệm vụ bảo vệ tuyến tả ngạn Sông Đà đánh quân địch nhảy dù ở Ba Vành, gần thị xã Hòa Bình. Sau khi nhảy dù xuống Ba Vành, địch đánh lấn ra vùng lân cận. Đại đội 68 đã vượt sông Đà, chặn đánh địch ở Xóm Máy, đầu làng Thịnh Lang, quân địch phải rút, Đại đội 68 lấy được một khẩu súng máy đầu bạc. Bị tấn công liên tục, địch phải rút quân theo đường thủy qua Đồng Luận, Núi Chẹ, co về khu vực chiếm đóng của chúng ở đông nam Sơn Tây. Đại đội 68 lại có một trận đánh địch bất ngờ tại vùng Dốc Lễ. Bắt đầu đóng quân và chiến đấu ở vùng rừng núi, những người lính con em thủ đô và Hà Đông, Sơn Tây cũng bắt đầu làm quen với "nước suối, nhà sàn", với cảnh "trâu gõ mõ, chó leo thang" và biết được thế nào là bệnh sốt rét. Ăn uống kham khổ thuốc men thiếu thốn, nhiều chiến sĩ đã chết sau những cơn sốt rét ác tính. Những anh em bị sốt rét phải chia nhau từng viên ki-na-krin. Về sau, nhờ kinh nghiệm của nhân dân, đồng chí Cư y tá trưởng phụ trách quân y của tiểu đoàn đã dẫn anh em bộ đội vào rừng lấy cây canh-ki-na về giã ra lấy bột hòa với nước cho người ốm uống để chữa bệnh sốt rét. Từ ngày 11-07-1947 theo điện của Bộ Tổng chỉ huy, Tiểu đoàn 64 được đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 171. Cuối tháng 8-1947, địch mở cuộc tấn công lên Trung Hà và theo đường thủy lên đánh chiếm Tu Vũ. Tiểu đoàn 171 cùng các đơn vị bạn đánh địch ở Hưng Hóa, buộc địch phải rút khỏi Trung Hà. Sau đó, tiểu đoàn về đóng quân ở vùng Bất Bạt (Sơn Tây). Tháng 10-1947, địch mở cuộc tấn công đại quy mô lên chiến khu Việt Bắc nhằm tiêu diệt tận gốc lực lượng đầu não kháng chiến của quân và dân ta. Địch mở một mũi tiến công nghi binh để kìm giữ lực lượng ta ở Sơn Tây. Lúc này, toàn tiểu đoàn đang luyện quân ở vùng Bất Bạt, được lệnh hỏa tốc hành quân về vùng Lễ Khê để ngăn chặn địch. Bị quân ta đánh mạnh ở Lễ Khê, quân địch phải quay sang phía Mía (Quảng Oai) rồi tiến lên chiếm Trung Hà để bảo vệ cho cánh quân đường thủy đánh lên sông Lô. Theo yêu cầu của chính quyền ta ở địa phương Trung Hà, tiểu đoàn đã chặn địch không cho đổ bộ lên bờ, và yểm hộ cho dân kịp thời chuyển được hết một kho vải lớn của ta. Cuộc tấn công Thu Đông 1947 của địch lên Việt Bắc thất bại. Cuộc kháng chiến của ta chuyển sang giai đoạn cầm cự. Trung đoàn 66 được lệnh chuyển về vùng Mỹ Đức (Hà Đông) làm chủ lực của Khu 2, vừa xây dựng lực lượng vừa bảo vệ khu căn cứ, và được bổ sung thêm Tiểu đoàn 101 từ Nam Định lên. Cũng trong thời gian này, các đơn vị thuộc Tiểu đoàn 171 đã được thay đổi phiên hiệu: Đại đội 55 đổi là Đại đội 176, Đại đội 68 đổi là Đại đội 178, Đại đội 157 đổi là Đại đội 180. Đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp được bổ sung, củng cố: - Ban chỉ huy tiểu đoàn: tiểu đoàn trưởng Nguyễn Nhị, tiểu đoàn phó Nguyễn Huy Thọ, chính trị viên Phạm Ngọc Kình, chính trị phái viên Nguyễn Văn Nghĩa (sau này đồng chí Vũ Hoán về thay đồng chí Nguyễn Văn Nghĩa về d101). - Đại đội 176: đại đội trưởng Lê Bính, đại đội phó Hoàng Quang Thanh Huệ, chính trị viên Nguyễn Sĩ Tín. - Đại đội 178: đại đội trưởng Lê Thanh, đại đội phó Trần Chí, chính trị viên Nùng Phi (Đặng Trần Cư). - Đại đội 180: đại đội trưởng Nguyễn Đức Phương, đại đội phó Trịnh Duy Hậu, chính trị viên Vũ Chấn. Tiểu đoàn 171 đóng quân tại vùng hữu ngạn sông Đáy (Phù Lưu Tế, Thanh Áng, Phùng Xá, Hà Xá) và nô nức thực hiện cuộc vận động luyện quân lập công. Lúc này, tiểu đoàn được bổ sung một đại đội phá xe tăng gọi tắt là FAX. Một thời gian sau, đại đội này được chuyển về đơn vị pháo của trung đoàn. Tiểu đoàn thành lập một trung đội vũ trang tuyên truyền do đồng chí Nguyễn Vĩnh Thụy phụ trách và đồng chí Ngô Sơn Nga làm chính trị viên. Được một thời gian lại có thay đổi: đồng chí Mạnh Chung (người Nhật) phụ trách và đồng chí Đặng Thái làm chính trị viên. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười, 2022, 08:17:45 am * * * Đầu tháng 2 - 1948, mỗi người trong tiểu đoàn được phát một bộ quần áo mới, may bằng số vải chính quyền vùng Trung Hà tặng. Giữa lúc đang chuẩn bị ăn tết với nhân dân huyện Mỹ Đức Hà Đông thì tiểu đoàn nhận lệnh hành quân đi làm nhiệm vụ mới. Ngày 07-02-1948, toàn tiểu đoàn dự thi "Luyện quân lập công" của trung đoàn ở làng Sào (Lương Sơn - Hòa Bình). Kết quả là Tiểu đoàn 171 được xếp hạng nhất và được thưởng một con bò. Sau đó, tiểu đoàn chuyển quân lên vùng Cao Phong - Vĩnh Đồng (Hòa Bình) và chuẩn bị chiến đấu. Lúc này địch đã chiếm được thị xã Hòa Bình và không ngừng đánh nống ra để mở rộng vùng kiểm soát. Tiểu đoàn được lệnh áp sát địch, và ngày 19-02-1948 đã chạm trán với địch trên đồi 377 ở Tú Sơn (Rành) thuộc huyện Kỳ Sơn. Địch bị đánh bất ngờ, lính Âu Phi và bọn ngụy Mường chạy tán loạn, ta diệt được nhiều tên và thu chiến lợi phẩm. Đại đội trưởng Lê Bính bị thương trong trận này. Hôm sau địch cho một đại đội lính Âu Phi bí mật lên chiếm điểm cao 483 vào ban đêm. Cũng trong đêm đó, Đại đội 178 được lệnh chiếm điểm cao 483 để khống chế khu vực Cao Phong. Quân ta theo bản đồ và la bàn rẽ rừng tiến lên đỉnh đồi 483 trong lúc sương mù đang bao phủ núi rừng. Một trung đội tiến xuống mỏm đồi bên cạnh để yểm trợ thì bất ngờ gặp địch. Cuộc tao ngộ chiến giữa ta và địch kéo dài tới sáng bạch và địch phải rút lui, bỏ lại hơn chục xác chết và nhiều vũ khí quân trang quân dụng. Bên ta cũng hy sinh 13 người, trong đó có trung đội trưởng Nguyễn Việt Tĩnh, trung đội pho Sửu, tiểu đội trưởng Đức. Sau hai trận này, tiểu đoàn trở về vùng Mỹ Đức và tổ chức lễ mừng chiến thắng. Đại đội 178 được trung đoàn tặng cờ "Danh dự lập công". Từ tháng 3 đến tháng 6-1948, tiểu đoàn tiếp tục cuộc vận động luyện quân lập công, đồng thời đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng địa phương, xây dựng làng chiến đấu. Tháng 5-1948, tiểu đoàn tham gia đánh địch ở Chùa Thông và Bằng Sở (Thường Tín). Trong thời gian này do khó khăn về kinh tế tài chính của Nhà nước nên việc nuôi dưỡng bộ đội cũng bị ảnh hưởng. Tiểu đoàn 171 đã phát huy tinh thần khắc phục khó khăn, tổ chức cho bộ đội đóng quân bên bờ sông Đáy (vùng Thang Áng, Tế Tiêu, Hà Xá) tự mò ốc mò hến để đảm bảo bữa ăn, tổ chức nuôi 800 con vịt ở Đồi Hà để lấy trứng bồi dưỡng cho những anh em ốm. Để góp phần khắc phục khó khăn cho bộ đội, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Hà Đông vận động một phong trào "đỡ đầu chiến sĩ". Ở huyện Mỹ Đức, mỗi gia đình nhận đỡ đầu một chiến sĩ, tình cảm giữa bố mẹ nuôi và con nuôi rất đằm thắm, cảm động (tháng 6-1948). Vào thời điểm này, tình hình chiến trường ở Bắc Bộ có nhiều thay đổi. Địch đã chiếm được hầu hết các thị xã, thị trấn và đường giao thông, ta chỉ còn những khu căn cứ nằm trong lòng địch theo thế cài răng lược. Theo lệnh của Bộ, Khu 2, Khu 3 và Khu 11 đã được sáp nhập thành Liên khu 3. Trung đoàn 66 trở thành trung đoàn chủ lực cơ động của Liên khu và được bổ sung thêm một số đơn vị, trong đó có Đại đội Ký Con ở Khu 3 cũ sang làm nòng cốt để thành lập một tiểu đoàn mới lấy tên là Tiểu đoàn Ký Con. Lễ thành lập Tiểu đoàn Ký Con được tổ chức ngày 29-06-1948 tại làng Kim Giang (huyện Ứng Hòa - Hà Đông) Đại đội 178 được tách khỏi Tiểu đoàn 171 để chuyển sang Tiểu đoàn Ký Con. Từ nay, Tiểu đoàn 171 chỉ còn 2 đại đội (Đại đội 176, Đại đội 180), được bổ sung thêm Đại đội 124 và được đổi phiên hiệu là Tiểu đoàn 626. Sau khi dự lễ phát động "luyện quân lập công" đợt 2 của trung đoàn và lễ thành lập Liên khu 3 tại vùng Quang Thừa (Kim Bảng - Hà Nam), Tiểu đoàn 626 về đóng quân tại phía bắc huyện Mỹ Đức (vùng Ba Thá - Phúc Lâm - Thanh Áng). Ngày 20-09-1948 địch cho quân nhảy dù xuống thị trấn Vân Đình (Ứng Hòa - Hà Đông) với âm mưu bắt sống phái đoàn của đồng chí Trần Văn Trà vừa từ miền Nam ra. Tiểu đoàn 626 được lệnh qua sông Đáy, từ Tử Dương đánh vào Vân Đình ở phía bắc, phối hợp với Tiểu đoàn Ký Con đánh ở phía nam. Ngay sáng hôm sau, quân địch phải rút khỏi Vân Đình. Ngày 28-11-1948, Tiểu đoàn 626 lại tham gia đánh địch ở Gò Cáo (xã Thủy Xuân Tiên - huyện Chương Mỹ). Đồng chí đại đội phó Chu Hữu Cần đã anh dũng hy sinh trong trận này. Cuối tháng 12-1948, địch lại mở chiến dịch càn quét quy mô vào Mỹ Đức, nhằm đánh vào cơ quan kháng chiến của Liên khu, phá hoại các công binh xưởng, lấn đất chiếm dân. Tiểu đoàn 626 tuy biên chế không đầy đủ nhưng vẫn là chủ lực tiến đánh địch. Nhiệm vụ của tiểu đoàn là chốt giữ ở Hà Xá, ngăn chặn địch từ Trinh Tiết tiến lên, không cho địch qua Hà Xá tiến về Tế Tiểu để theo đường 21 về hợp điểm tại Cầu Dậm. Phối hợp với các đơn vị bạn trong trung đoàn, tiểu đoàn đã kìm chân địch ở Đồi Hà, không cho chúng thực hiện đúng kế hoạch hành quân, tạo điều kiện cho nhân dân sơ tán và các cơ quan kháng chiến di chuyển an toàn. Trong chiến đấu, đại đội trưởng Nguyễn Đức Phương đã bị đạn địch bắn thẳng từ gò má ra sau gáy nhưng không chết. Trước sức ép của quân và dân ta, địch buộc phải rút về nơi xuất phát. Tiểu đoàn 626 nhanh chóng chuyển sang truy kích, buộc địch phải rút về Vân Đình. Sau đó, tiểu đoàn lại về trú quân ở vùng Ba Thá và tổ chức nhiều trận đánh quấy rối tiêu hao địch trên đường số 6, góp phần cùng các đơn vị bạn và quân dân địa phương buộc địch phải rút khỏi đường số 6. Cuối năm 1948, lực lượng quân sự của địch gặp rất nhiều khó khăn, trong khi lực lượng kháng chiến của ta ngày càng lớn mạnh. Để chớp thời cơ, sẵn sàng chuyển giai đoạn, quân đội ta cần xây dựng những đơn vị tập trung mạnh. Đại đoàn đầu tiên mang phiên hiệu Đại đoàn 308, còn gọi là Đại đoàn Quân Tiên Phong. Tiểu đoàn 626 là một đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu ở đồng bằng sáp nhập cùng Tiểu đoàn 101 thành một tiểu đoàn mới vẫn mang phiên hiệu 626 được tách khỏi Trung đoàn 66 và do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Nhị dẫn lên Việt Bắc để tham gia thành lập Đại đoàn 308 theo mệnh lệnh số 42-CTM-P1 ngay 19-02-1949 của Bộ Tổng chỉ huy. Thế là Tiểu đoàn 64, sau hai lần đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 171 rồi thành Tiểu đoàn 626, từ nay sẽ xa Trung đoàn 66 và xa vùng đồng bằng Liên khu 3 để hòa vào đội hình của Đại đoàn 308 và gắn với địa bàn Việt Bắc. Những người chấp bút: ĐẶNG TRẦN CƯ (NÙNG PHI) NGUYỄN NGỌC NINH – NGUYỄN HỢP Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 20 Tháng Mười, 2022, 08:20:36 am TIỂU ĐOÀN 56 HÀ ĐÔNG Tiểu đoàn 56 (còn được gọi là Tiểu đoàn Hà Đông), là đơn vị quân đội cách mạng chính quy đầu tiên của tỉnh Hà Đông. Tiểu đoàn được thành lập vào ngày 23/8/1945 (ngày khởi nghĩa ở tỉnh lỵ Hà Đông). Lực lượng nòng cốt của tiểu đoàn lấy từ các đội tự vệ cứu quốc đã từng có thành tích trong phong trào chống Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa cướp chính quyền... từ xã, huyện đến tỉnh, dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Trọng Tấn ủy viên quân sự trong ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh, dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của tỉnh ủy Hà Đông. Thời gian đầu đặt tên là Giải phóng quân Hà Đông, sau đó đổi thành Vệ quốc đoàn... Trải qua hơn một năm rèn luyện quân sự, học tập chính trị và thường trực bảo vệ chính quyền cách mạng trong tỉnh, Tiểu đoàn 56 đã dần lớn mạnh, phát triển lên (cho đến trước ngày toàn quốc kháng chiến) thành 6 đại đội, mang số hiệu 1, 2, 3, 4, 5, và 134 (trong đó có đại đội lính hải ngoại, khố đỏ "từ Pháp được hồi hương, tình nguyện xin gia nhập quân đội cách mạng"). Ban chỉ huy tiểu đoàn lúc này gồm có: đồng chí Nguyễn Anh Đệ tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Thanh chính trị viên. Ban chỉ huy các đại đội: Đại đội 1 do đồng chí Thế Môn làm đại đội trưởng, đồng chí Tế Độ làm chính trị viên, đồng chí Trần Dương Oai làm đại đội phó. Đại đội 2 do Vũ Công Định làm đại đội trưởng, Lê Chí Trực làm chính trị viên. Đại đội 3 do Lê Công Tâm làm đại đội trưởng, Lê Lập là chính trị viên, Đại đội 4 do Lâm Văn Do làm đại đội trưởng, Trần Quân Lập làm chính trị viên. Đại đội 5 do Nguyễn Mẫn làm đại đội trưởng, Thế Sinh làm chính trị viên. Đại đội 134 do Nguyễn Hảo Đăng là đại đội trưởng, Văn Dung làm chính trị viên. Được lệnh chi viện cho Hà Nội, Tiểu đoàn 56 triển khai đội hình như sau: Đại đội 1 trú quân tại Cổ Nhuế; Đại đội 2 trú quân tại Quang Tó; Đại đội 3 trú quân tại Đại Mỗ; Đại đội 4 tại trại Vệ quốc đoàn thị xã Hà Đông; Đại đội 5 trú tại Phùng Khoang; Đại đội 134 trú tại Ngọc Trục... Ngày 19/12/1946, tiểu đoàn xuất phát tiến vào Hà Nội. - Đại đội 1 chiếm lĩnh khu vực Ngọc Hà, Đội Cấn (phối thuộc Tiểu đoàn 145 Liên khu 1 tại Hà Nội). - Đại đội 3 chiếm lĩnh khu vực Khâm Thiên (phối thuộc Tiểu đoàn 523 Liên khu 3 Hà Nội). - Đại đội 5 chiếm lĩnh Ô Cầu Dền (phối thuộc Tiểu đoàn 77 Liên khu 2 Hà Nội). - Tối ngày 21/12/1946, tiểu đoàn trưởng Anh Đệ cùng chính trị viên Lê Thanh chỉ huy Đại đội 2 và Đại đội 4 theo hướng Hà Đông - Văn Điển tiến vào Hà Nội, tăng cường cho 2 khu vực Ô Cầu Dền và Ô Đống Mác. (Đại đội 134 ở lại Hà Đông làm lực lượng dự bị đồng thời bảo vệ Hà Đông). Như vậy là: Riêng mặt trận Liên khu 2 Hà Nội, Tiểu đoàn 56 có tới 3 đại đội tham chiến. Cụ thể: Đại đội 5 tác chiến ở khu vực Ô Cầu Dền (là chính); Đại đội 4 tác chiến ở khu vực Hai Bà Trưng, Nhà Rượu, Ô Cầu Dền (là chính); Đại đội 2 tác chiến tại khu vực Đống Mác, Thanh Lương (là chính). ... Sở dĩ nói “là chính" bởi vì thời bấy giờ trận đánh diễn ra với quy mô thường là không lớn, và lại tác chiến trong thành phố (rất thích hợp với đơn vị nhỏ - cỡ trung, tiểu đội), một đại đội có khi phải chia ra làm 2 hoặc làm 3 điểm đánh địch (Ví dụ như Đại đội 2 chiếm lĩnh trận địa và tác chiến ở khu vực Ô Đống Mác, nhưng đã cử một trung đội do đội trưởng Nguyễn Viết Nhâm chỉ huy, thọc tận vào phố Xăng-xôm (nay là phố Triệu Việt Vương) chiến đấu liền 3 ngày đêm (từ 21 đến 24/12/1946) diệt 10 tên địch và rút về an toàn. Tại Liên khu 2 Hà Nội, 3 đại đội của Tiểu đoàn 56 đã đánh liên tục, bắt đầu từ ngày 24/12/1946 (khi địch nống ra) được tiểu đoàn bố trí chiến đấu ở Đồng Nhân (Đền Hai Bà, Nhà Rượu, Ô Đống Mác, Thanh Lương, Ô Cầu Dền) cho đến ngày 31/12/1946 thì 2 Đại đội 2 và 4 chuyển sang mặt trận Liên khu 3 bố trí tại Ô Chợ Dừa và Giảng Võ. Đại đội 5 tiếp tục ở lại Ô Cầu Dền chiến đấu. Đơn vị nào cũng được đánh địch hàng chục trận. Có những trận rất tiêu biểu như: 1/ Trận phòng ngự Ô Cầu Dền ngày 28/12/1946, Đại đội 5 cùng tự vệ Bạch Mai đã đội bom và đại bác của địch kiên cường chống trả xe tăng, thiết giáp cùng bộ binh địch liên tục xung phong đánh chiếm ụ Ô Cầu Dền. Ta trụ vững tới cùng. Bắn cháy một xe tăng, bắn đổ một xe thiết giáp và dũng cảm vượt ụ Ô Cầu Dền xung phong lên đuổi địch tới tận nhà nước mắm Phan Thiết (sâu trong khu vực chiếm đóng của địch chừng 300 m) diệt hơn 80 tên phá hủy 2 ô tô vận tải một xe jeep và một trận địa súng cối... 2/ Trận Đồng Nhân, Nhà Rượu ngày 24/12/1946 Đại đội 4 cùng một số anh em tự vệ Lò Đúc và Phố Huế đã chặn đánh mũi tiến công của địch từ hai hướng: Đồn Thủy qua Viện Pax-tơ tiến vào, và từ Chợ Hôm phố Jắc-canh chọc xuống. Trận đánh diễn ra ác liệt suốt từ sáng tới chiều, quân địch bị ta chặn đánh không sao tiến lên được. Chúng thương vong rất nặng nề nhưng ta không nắm được số liệu cụ thể là bao nhiêu, chỉ biết khi rút lui chúng phải dùng tới 3 xe ô tô tải chở đầy xác chết và lính bị thương đi theo... 3/ Trận Ba Hàng, Thanh Lương ngày 28/12/1946, đại đội cùng anh chị em dân quân của hai làng Thanh Lương, Ba Hàng với đội tự vệ Lò Đúc... đã chiếm lĩnh trận địa từ trước, và quần nhau với Pháp vài ba keo rồi, đang sẵn sàng chờ chúng mò đến. Bọn chúng mở đầu cuộc tiến công theo hai hướng: một mũi tiến theo ven đê sông Hồng (đường Trần Khánh Dư bây giờ), chọc xuống; một mũi tiến theo dốc Thọ Lão qua Ô Đống Mác đánh sang. Nhưng lần này ở phía bờ sông Hồng chúng có thêm xe tăng hỗ trợ. Và cách thức tấn công của chúng vẫn y nguyên theo bài bản cũ; máy bay dội bom, đại bác nã đạn chán chê rồi mới tới xe tăng bộ binh vừa bắn vừa hùng hổ tiến đến. Tại khu vực Ba Hàng, hỏa lực đại liên và lựu đạn kèm ét-xăng-crếp của ta chặn đứng từng đợt xung phong của quân Pháp, không cho chúng xông vào trận địa của ta. Tại khu vực Thanh Lương, ta bố trí lại đội hình; cho quân rút khỏi tuyến chiến đấu ở cổng làng, chỉ để lại vài tổ đánh nhử cho địch vào sâu trong làng, rồi dùng hỏa lực từ hai bên sườn đánh thốc vào một cách dữ dội. Bị bất ngờ quân Pháp hốt hoảng quay đầu tháo chạy thục mạng, bỏ lại hàng chục xác chết. Quân ta phấn khởi hăng hái hò reo rượt đuổi tới tận dốc Thọ Lão diệt thêm được gần 10 tên địch nữa mới chịu dừng... Trước tết Đinh Hợi, theo lệnh của Ban chỉ huy mặt trận, Tiểu đoàn 56 trở về tổ chức tuyến phòng ngự tại thị xã Hà Đông. Lúc này lực lượng của tiểu đoàn chỉ giữ lại đủ 3 đại đội. - Đại đội 134 vẫn giữ nguyên vẹn như cũ (kể cả quân số lẫn ban chỉ huy và phiên hiệu đơn vị), có nhiệm vụ: phối hợp cùng lực lượng dân quân tại chỗ, lập tuyến phòng ngự Tây Mỗ, Đại Mỗ, Ngọc Trục bảo vệ cánh trái của thị xã. - Đại đội 4 (nay đổi thành phiên hiệu 262 do Lâm Văn Do làm đại đội trưởng, Trọng Khang làm chính trị viên), phối hợp với dân quân tại chỗ, lập tuyến phòng ngự tại Đa Sĩ, Mậu Lương, Tó, tổ chức bảo vệ cánh phải của thị xã. - Đại đội 1 (nay đổi thành phiên hiệu 225) do Trần Quang Liên làm đại đội trưởng, Nguyễn Tính làm chính trị viên, phối hợp với dân quân tại chỗ lập tuyến phòng ngự Mỗ Lao, Phùng Khoang, Triều Khúc, chặn địch từ Cầu Mới theo quốc lộ 6 tiến vào. - Ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có: tiểu đoàn trưởng Anh Đệ, chính trị viên tiểu đoàn Trần Quân Lập, tiểu đoàn phó Đỗ Hẹ... Tiểu đoàn bộ đóng tại Cầu Đơ. - Từ mặt trận Hà Nội rút về, Tiểu đoàn 56 đã sẵn sàng chờ lệnh, để đi tiếp cuộc trường chinh cùng đất nước với tư thế của những người chiến sĩ nguyện một lòng trung dũng theo Bác Hồ tiến hành cuộc Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi. TRẦN QUÂN LẬP Bài viết lấy từ tư liệu ban liên lạc CCB d56 và tập K2 những ngày đầu Thủ đô K.C. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:19:50 pm TlỂU ĐOÀN KÝ CON - CÔ TÔ Sau Cách mạng tháng 8/1945, song song với việc xây dựng củng cố chính quyền các địa phương, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang ở các Khu. Ở địa bàn Khu 2 có Trung đoàn 37 của tỉnh Sơn Tây và Trung đoàn 35 của tỉnh Hà Đông. Sau trận tập kích vào thị xã Hà Đông rạng sáng 20-3-1947, hai trung đoàn này được sáp nhập thành một trung đoàn chủ lực mới mang số hiệu Trung đoàn 37 do đồng chí Phùng Thế Tài làm trung đoàn trưởng. Ngày 16-5-1947, theo mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, Trung đoàn 37 được đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 66. Lúc này, Trung đoàn 66 gồm có 4 tiểu đoàn và trung đoàn bộ. Cuối năm 1947, ba tiểu đoàn được điều động đi nơi khác, chỉ còn lại trung đoàn bộ và một tiểu đoàn là Tiểu đoàn 64 với phiên hiệu mới là Tiểu đoàn 171. Đồng thời, trung đoàn được bổ sung thêm Tiểu đoàn 101 ở Nam Định, một số đại đội độc lập: Đại đội 96 ở Thái Bình và và Đại đội Ký Con ở Hải Phòng lên. Đầu năm 1948, Khu 2, Khu 3 và Khu 11 sáp nhập thành Liên khu 3. Trung đoàn 66 lúc này đang chiến đấu trong phạm vi Hà Nội - Hà Đông - Sơn Tây - Hòa Bình được chọn làm đơn vị chủ lực của Liên khu 3 và được phép thành lập thêm một tiểu đoàn mới gồm các đại đội mạnh đã từng có thành tích chiến đấu. Tiểu đoàn mới này được đặt tên là Tiểu đoàn Ký Con và gồm 3 đại đội chiến đấu là: Đại đội 1 (Đại đội Ký Con cũ, từ Hải Phòng lên) + Đại đội 29 (tách từ Tiểu đoàn 101 ra) + Đại đội 178 (tách từ Tiểu đoàn 171 ra). Lễ thành lập Tiểu đoàn Ký Con được tổ chức ngày 29-6-1948 tại làng Kim Giang (huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông). Ban Chỉ huy tiểu đoàn lúc này gồm có: - Tiểu đoàn phó, Q. tiểu đoàn trưởng: Bùi Sinh - Chính trị viên tiểu đoàn: Mạc Ninh. Ngày 10-7-1948, tiểu đoàn dự lễ phát động “Luyện quân lập công" đợt 2 của trung đoàn. Sau đợt này, một số chiến sĩ giỏi được chọn về để thành lập đại đội bộ binh mới mang số hiệu Đại đội 462. Ngày 20-9-1948, tiểu đoàn vừa đi bảo vệ Hội nghị Quân chính toàn Liên khu 3 ở Tiên Hưng về, đang đóng quân vùng Chợ Dầu, Đục Khê, thì địch cho quân nhảy dù xuống thị trấn Vân Đình (Ứng Hòa - Hà Đông). Toàn tiểu đoàn được lệnh cấp tốc hành quân lên sát Vân Đình. Các cán bộ đại đội cùng ban chỉ huy tiểu đoàn và đồng chí chính ủy trung đoàn đi chuẩn bị chiến trường. Ngay đêm đó, tiểu đoàn chia làm hai mũi tiến công vào Vân Đình (1 mũi vào phủ cũ Ứng Hòa, 1 mũi vào làng Dương Xá). Quân địch phải rút chạy, bỏ lại cả một thuyền dù dưới gầm cầu Thanh Am mà chiến sĩ ta không biết, sau đó trinh sát của Tiểu đoàn Đống Đa (Trung đoàn 48) lấy được, còn trinh sát của Tiểu đoàn Ký Con thì bị phê bình. Trước đây để phát động chiến tranh du kích, Bộ Tổng chỉ huy có chủ trương phân tán chủ lực; mỗi huyện có một đại đội độc lập, mỗi tỉnh chỉ giữ lại 1 tiểu đoàn tập trung. Từ giữa năm 1948 có sự chuyển hướng: dần dần tăng cường chủ lực, tác chiến quy mô lớn hơn nên tổ chức tập thao diễn cả tiểu đoàn tác chiến phối hợp. Ngày 16-10-1948, Tiểu đoàn Ký Con tổ chức diễn tập toàn tiểu đoàn ở khu vực Chợ Bến - Miếu Môn (đường 21) dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Mạnh Hà, tiểu đoàn trưởng mới bổ sung về. Tối 17-10-1948, đồng chí Trần Tử Bình (thiếu tướng, Tổng thanh tra Quân Đội) đã đến thăm bộ đội diễn tập. Trưa ngày 19-10-1948, đồng chí Hoàng Sâm (thiếu tướng, Liên khu trưởng) va Ban chỉ huy Trung đoàn 66 cũng tới thăm tiểu đoàn. Cuộc diễn tập kéo dài khoảng một tuần lễ. Sau đợt diễn tập, đồng chí Nguyễn Mạnh Hà thuyên chuyển đi, đồng chí Bùi Sinh làm tiểu đoàn trưởng. Đồng chí Mạc Ninh cũng đi nhận chức mới ở Trung đoàn Sông Lô, đồng chí Nguyễn Văn Mẫn ở Tiểu đoàn Đống Đa về làm chính trị viên Tiểu đoàn Ký Con. Ngày 17-11-1948, toàn tiểu đoàn hành quân lên Sơn Tây, tham gia chiến đấu ở vùng Yên Khoái, Lễ Khê. Lúc này, Sơn Tây đã bị địch chiếm đóng, quân ta ở đó chỉ có một đại đội độc lập. Tiểu đoàn Ký Con lên có đánh phục kích ở Bến Mải, tập kích ở đồn điền Le Meure, chống càn ở Vật Lại. Ngày 7-12-1948, toàn tiểu đoàn tập hợp để phiên chế lại các đơn vị. Đại đội 29 giải tán để bổ sung cho các đại đội bạn. Lúc này, ở Liên khu 3, ta mở một đợt đánh vào nam Hà Nội. Được lệnh, Tiểu đoàn Ký Con hành quân trở về phía nam Hà Nội, vừa làm nhiệm vụ tấn công quân sự, vừa làm nhiệm vụ bao vây kinh tế địch, phong tỏa đường 73, ngăn chặn việc tiếp tế lương thực, thực phẩm của địch và rút hàng công nghệ phẩm (thuốc men, văn phòng phẩm, hàng tiêu dùng) ra ngoài vùng tự do. Tiểu đoàn được bổ sung 1 đại đội mới (Đại đội 240) và hành quân qua Cầu Chiếc, qua làng Quỳnh Đô, Lạc Thị, tiến đánh Chùa Thông, Văn Điển, phá hủy nhà thông tin Văn Điển. Cuối tháng 12-1948, địch mở rộng mặt trận, tấn công ra vùng Mỹ Đức (Hà Đông) để phá các cơ sở quốc phòng của ta. Tiểu đoàn tham gia đánh địch, trực tiếp ngăn chặn địch từ nhà thờ Đồng chíếm, Ái Nàng đánh ra. Các đơn vị thuộc tiểu đoàn đã đánh địch ở Vài Sải, cản địch từ Cầu Dậm tiến vào Chợ Bến. Sau đó, khi địch bắt đầu rút quân, ta lại truy kích, và tiếp tục đánh khi chúng rút chạy khỏi Vân Đình ngày 14-01-1949. Sau đợt chiến đấu này, đồng chí Bùi Sinh thuyên chuyển đi, đồng chí Nguyễn Nhị về làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Nhật Tiến làm tiểu đoàn phó. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:20:50 pm Tháng 2-1949, Tiểu đoàn Ký Con được lệnh vượt sông Hồng sang chiến đấu ở khu vực đường số 5, đánh các vị trí địch ở Từ Hồ, Nho Lâm. Nhưng các trận đánh chỉ có tác dụng tiêu hao, quây rối. Sau đó, một số cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn được điều động lên Việt Bắc và đi các đơn vị bạn. Vào thời điểm này, Trung đoàn 66 có sự điều chỉnh về biên chế, tổ chức. Tiểu đoàn 101 giải tán bổ sung quân cho các đơn vị bạn, Tiểu đoàn 171 (đã đổi phiên hiệu là Tiểu đoàn 626) do đồng chí Nguyễn Nhị làm tiểu đoàn trưởng, được điều lên Việt Bắc tham gia thành lập Sư đoàn 308, trung đoàn chỉ còn lại Tiểu đoàn Ký Con do đồng chí Nhật Tiến làm Q.tiểu đoàn trưởng và được bổ sung thêm 2 tiểu đoàn mới. Tiểu đoàn 150 ở Tây Tiến về, được đặt tên là Tiểu đoàn Nguyễn Huệ (số hiệu d.235). Tiểu đoàn 87 ở Nam Định lên được đặt tên là Tiểu đoàn Lê Lợi (số hiệu d.347). Tiểu đoàn Ký Con được đổi tên là Tiểu đoàn Cô Tô (để ghi nhớ trận chiến đấu của Đại đội Ký Con năm xưa ở đảo Cô Tô), nhường tên Ký Con cho Trung đoàn 66 từ đây được gọi là Trung đoàn Ký Con. Nhưng không biết vì lý do gì mà cái tên Cô Tô bị đọc chệch sang là Gô Tô và cái tên Gô Tô được các cán bộ chiến sĩ toàn tiểu đoàn dùng suốt từ năm 1949 cho mãi đến ngày nay, kể cả trong lời nói và trong văn bản giấy tờ. Tiểu đoàn Cô Tô có số hiệu là d.459. Tháng 4-1949, Đại đội 1 của tiểu đoàn nhận nhiệm vụ đột phá về mở rộng dân chủ của Liên khu (với 3 nội dung: dân chủ về chính trị, dân chủ về quân sự, dân chủ về kinh tế) và tiến hành bầu cử Hội đồng binh sĩ. Sáng tháng 6-1949, Đại đội 178 giải tán để bổ sung quân số cho Đại đội 462 và Đại đội 240. Các đại đội trong Tiểu đoàn Cô Tô cũng bắt đầu có số hiệu mới. Đại đội 1 đổi là Đại đội 15, Đại đội 462 đổi là Đại đội 30, Đại đội 240 đổi là Đại đội 45. Cuối tháng 6-1949, tiểu đoàn hành quân đi chiến đấu và ngày 29-6-1949 đã dùng chiến thuật kỳ tập diệt đồn Mường Riệc trên đường 12 thuộc tỉnh Hòa Bình, sau đó, lại trở về vùng Mỹ Đức và Ứng Hòa (Hà Đông). Ban chỉ huy tiểu đoàn lúc này gồm có: tiểu đoàn trưởng Nguyễn Tiệp, tiểu đoàn phó Nhật Tiến, chính trị viên Nguyễn Văn Mẫn. Cuối tháng 11-1949, Liên khu 3 mở chiến dịch Lê Lợi, còn gọi là chiến dịch 12-21-6 vì phạm vi tác chiến được giới hạn bởi đường 12, đường 21 và đuờng số 6. Tiểu đoàn Cô Tô được phân công đánh phân khu Vụ Bản là một cứ điểm lớn đóng trên 3 quả đồi liên tiếp, lực lượng địch gồm cả lính Âu - Phi và lính Thái. Phía ta được tăng cường một đại bác 75 ly, súng cối 120 và súng phóng bom (vũ khí mới, do quân giới của ta chế tạo và đem thử nghiệm). Lính ta phấn khởi vì được "làm chủ đường 12", thênh thang đi lại giữa ban ngày. Qua mấy ngày đêm, do tính năng của vũ khí có hạn, hỏa lực không phát huy được, tác chiến chỉ có tính chất kiềm chế, so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch thấy khả năng của ta chưa thể tiêu diệt được các cứ điểm lớn, nên cấp trên hạ lệnh cho rút. Ngày 01-12-1949, Tiểu đoàn Cô Tô lại hành quân đi chiến đấu. Qua Phố Trám, Phố Hồi, Lao Ráy, tấn công vị trí Gò Bùi trên đường số 6. Sau đó, chuyển về vùng Nho Quan và tấn công vị trí YA (đồn Vụ Bản) trên đường 12 vào đêm 28-01-1950. Sang tháng 2-1950, Tiểu đoàn Cô Tô về đóng quân ở vùng Lam Cầu (Duy Tiên - Hà Nam). Ngày 04-02-1950, đồng chí Tiệp (tiểu đoàn trưởng) thuyên chuyển đi đơn vị mới, đồng chí Nhật Tiến lên làm tiểu đoàn trưởng và đồng chí Hồng Quý mới về làm tiểu đoàn phó. Chính trị viên tiểu đoàn là đồng chí Đào Huy Vũ. Toàn tiểu đoàn chuẩn bị đón Tết âm lịch, cái Tết kháng chiến thứ tư, một cái Tết long đong lật đật: đêm 30 Tết còn đi chạy "gạo khao quân", ngày mồng 1 tuy có vui chơi nhưng không khí vẫn đượm màu tẻ nhạt. Ngày 25-02-1950, tiểu đoàn hành quân lên phía đường số 6 và đánh Gò Bùi lần thứ 2 vào đêm 8-3-1950. Đồng chí Nguyễn Tuấn Tĩnh, đại đội trưởng Đại đội 15 hy sinh trong trận này. Sau khi chiến dịch Lê Lợi kết thúc, tiểu đoàn hành quân trở về địa phận Hà Nam. Các tiểu đoàn lại thay đổi số hiệu: Tiểu đoàn Nguyễn Huệ là d.456, Tiểu đoàn Lê Lợi là d.567, Tiểu đoàn Cô Tô là d.678. Tối 10-5-1950, các đơn vị trong tiểu đoàn bắt đầu hành quân đi chiến đấu: Ngày 18-5-1950 qua Chợ Cháy. Ngày 19-5-1950, giao chiến với địch ở Cầu Guột. Ngày 21-5-1950, đánh địch ở vùng Chợ Dầu. Sau đó quân ta kéo về Cốc Thôn. Chiều 15-8-1950, tiểu đoàn bắt đầu một chuyến đi xa, rời khu Ba vào khu Bốn, vì Trung đoàn 66 bắt đầu đứng trong đội hình của Đại đoàn 304 mới thành lập. Sau mấy ngày hành quân vất vả, tiểu đoàn tới phố Ga Đò Lèn bên sông Mã. Mới đặt chân lên khu Bốn, người lính khu Ba chưa quen với những tiếng gọi "mẹ" và việc chào hỏi nhân dân ở ngoài đường. Nhưng rồi thời gian trôi qua, mọi việc quen dần, tình quân dân ngày thêm thắm thiết. Đầu tháng 9-1950, Đại đoàn 304 mở chiến dịch Trần Hưng Đạo. Tiểu đoàn Cô Tô tham gia chiến đấu, đánh đồn Hói Đào và Hồ Vương ở Nga Sơn (Thanh Hóa) và Hồi Trung, Quế Quyển ở Kim Bảng (Hà Nam). Tháng 12-1950, tiểu đoàn hành quân lên Việt Bắc lĩnh vũ khí mới cùng các đơn vị trong đại đoàn, và vinh dự được đón Bác Hồ đến thăm Đại đoàn 304 ở khu rừng cà phê Đà Nẵng (Tuyên Quang). Tháng 3-1951, tiểu đoàn tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám. Địa bàn chiến đấu của Đại đoàn 304 là vùng Tam Đảo (Vĩnh Phúc) ngày 31-3-1951, tiểu đoàn bố trí chiến đấu ở chân núi Tam Đảo nhưng không gặp địch. Tháng 4-1951, tiểu đoàn hành quân về đóng ở vùng Quảng Xương (Thanh Hóa) và chuẩn bị tham gia chiến dịch Quang Trung (Hà-Nam-Ninh). Chiều ngày 24-5-1951, bộ đội hành quân ra Nho Quan (Ninh Bình), bắt đầu đi chiến dịch. Các cán bộ tiểu đoàn và đại đội đi chuẩn bị chiến trường về phổ biến cho chiến sĩ trên sa bàn rồi đi đánh luôn: Cố vấn Trung Quốc cấp tiểu đoàn cũng cùng đi chuẩn bị chiến trường. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:21:56 pm Tiểu đoàn Cô Tô được phân công đánh Chùa Dầu đêm 28-5-1951. Đường lớn dành cho đơn vị bạn và pháo binh (trợ chiến của tiểu đoàn và mấy khẩu phóng bom của Tiểu đoàn Hoàng Diệu phối hợp). Ta đánh Chùa Dầu, diệt đồn nhanh gọn. Trong trận này đồng chí Nguyễn Như Phương (đại đội trưởng Đại đội 30) hy sinh. Ngày 31-5-1951, lính địch ở đồn Yên Thịnh rút chạy qua sông tình cờ xộc vào chỗ ta đóng quân. Quân ta lúc đầu bị bất ngờ, nhưng nhờ bình tĩnh gan dạ nên nhanh chóng nổ súng và xung phong dồn địch ra cánh đồng. Ta vừa bắn vừa gọi hàng, cuối cùng bắt được 92 tù binh, đa số là lính Bảo hoàng. Sau trận này, các cố vấn Trung Quốc khen Tiểu đoàn Cô Tô đánh giỏi. Nhưng cũng sau trận này, khu vực trú quân của trung đoàn bị máy bay B26 của địch quần cho một trận ráo riết. Nhờ chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của đại đoàn, quân ta trước đó đã bỏ làng ra đào công sự ở ngoài ruộng nên không có thương vong. Kết thúc chiến dịch Quang Trung, tháng 6-1951, bộ đội rời trận địa lên đường hành quân vào Nghệ An để chỉnh huấn. Bước vào Thu - Đông 1951, địch nhảy dù chiếm đóng thị xã Hòa Bình, đường số 6 và vùng Chợ Bến, với ý đồ: lập hành lang đông - tây, cắt con đường chở muối gạo từ Khu 3 lên Việt Bắc, xúc tiến lập xứ Mường tự trị. Toàn đại đoàn được lệnh hành quân ban ngày ra tham gia chiến dịch giải phóng Hòa Bình, với sinh lực dồi dào sau một đợt dưỡng quân, học tập chính trị và rèn luyện quân sự. Qua Phố Cát, Trại Ngọc, Kim Tân, trung đoàn hành quân đi xuyên rừng lên Xóm Hổ, rồi trú quân bên dòng suối Bu, suối Đất phía nam đường số 6, cách xa đường mấy ki-lô-met để tránh lộ. Lúc này, các đơn vị bộ đội lại được đổi số hiệu: Tiểu đoàn Nguyễn Huệ d.766, Tiểu đoàn Lê Lợi là d.782, Tiểu đoàn Cô Tô là d.798. Đại đội 15 là C.115, Đại đội 30 là C.117, Đại đội 45 là C.119, Đại đội trợ chiến là C.69. Đầu tháng 12-1951, trung đoàn tổ chức phục kích trên đường số 6, diệt 34 xe vận tải tiếp tế của địch ở Đồi Mè, Cầu Dụ, phá hủy 11 xe ở Cầu Cụt Tai. Ngày 17-12-1951, toàn Trung đoàn bắt đầu vượt đường số 6 sang phía bắc, làm nhiệm vụ chặn viện cho đơn vị bạn (Đại đoàn 312) đánh đồn 400 và đồn 600. Ngày 9-01-1952, toàn trung đoàn lại vượt qua đường số 6 trở về phía nam, làm nhiệm vụ chặn đánh địch đang chuẩn bị rút chạy khỏi thị xã Hòa Bình theo đường số 6. Tiểu đoàn Cô Tô nhận nhiệm vụ án ngữ ở khu vực Đồi Mè, Đồi Dụ, Đại đội 115 bố trí tại Đồi Mè. Ngày 18-01-1952, địch nã đại bác và dội bom na-pan xuống Đồi Mè để đánh bật quân ta, mở đường cho việc rút chạy. Đại đội 115 quyết "tử thủ Đồi Mè", kiên quyết không rút khỏi nơi này. Trong trận này, mặc dù bị thương vong nhiều, ta cũng đã gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề. Ngày 24-01-1952, tiểu đoàn lại chiến đấu ác liệt với địch ở khu vực Đồi Dụ khi chúng rút chạy qua đây. Sang đầu tháng 2-1952, địch rục rịch rút chạy khỏi Hòa Bình. Tiểu đoàn được lệnh cùng trung đoàn quay về hoạt động ở hậu địch. Ngày 31-03-1952, trung đoàn tổ chức mít tinh gắn huân chương chiến công hạng 2 cho Đại đội 115, và phát động học tập gương dũng cảm chiến đấu của cán bộ và chiến sĩ Đại đội 115 trong trận Đồi Mè, Đồi Dụ. Ngày 17-4-1952, tiểu đoàn bất đầu vào đợt chỉnh huấn mới trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, chuẩn bị cho chiến dịch Thu - Đông 1952. Giữa tháng 10-1952, tiểu đoàn hành quân đi chiến dịch: Ngày 28-10-1952, đánh trận Bích Đào, tiểu đoàn trưởng Nhật Tiến hy sinh. Ngày 6-12-1952, đánh trận độn thổ ở Yên Ninh (đường số 10) tiêu diệt một số địch, bên ta nhiều đồng chí hy sinh. Ngày 7-10-1953, tiểu đoàn hành quân vào Nghệ An và bắt đầu tham gia chiến dịch Thượng Lào. Ngày 14-4-1953, bộ đội rời đất Nghệ An, vượt qua biên giới trên chiếc cầu tre mới bắc để sang đất Lào. Tối 16-4-1953, tiểu đoàn đánh vào vị trí Noọng Hét. Tối 22-4-1953, đại đội 115 hành quân đi Khang Khay. Đầu tháng 5-1953, quân ta hành quân trở về Việt Nam. Từ ngày 06-6-1953, tiểu đoàn dừng lại trú quân trên địa phận các huyện: Quảng Xương, Nông Cống, Thiệu Hóa (Thanh Hóa). Đầu tháng 8-1953, tiểu đoàn tiến hành đợt chỉnh quân chính trị. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:22:40 pm Cuối tháng 11-1953, toàn trung đoàn hành quân vào Nghệ An, Hà Tĩnh, rồi vượt qua dãy Trường Sơn sang đất Lào, tham gia chiến dịch Trung Lào, một hướng phối hợp chiến lược quan trọng của chiến trường Điện Biên Phủ. Bước vào chiến dịch Trung Lào, chiều 23-12-1953, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ (bí danh Xã Quảng) được phân công đánh đồn Mụ Giạ, còn Tiểu đoàn Cô Tô (bí danh Xã Hiệp) và Tiểu đoàn Lê Lợi (bí danh Xã Nhân) hành quân tiến đánh vị trí Ba-na-phào. Quân địch đã rút chạy từ trước, quân ta liền truy kích. Tiểu đoàn Lê Lợi truy đúng hướng, gặp địch liền nổ súng, địch chạy vào đồn Pà Cuội, Tiểu đoàn Lê Lợi tiến công tiêu diệt cả đồn. Còn Tiểu đoàn Cô Tô và Tiểu đoàn Nguyễn Huệ truy theo hướng Thà Khẹt nên không gặp địch, nhưng sáng 26-12 lại tham gia cùng đơn vị bạn giải phóng Thà Khẹt. Ngày 5-01-1954, trong khi Tiểu đoàn Lê Lợi bao vây đồn Hìn Sìu thì Tiểu đoàn Cô Tô nhận nhiệm vụ đánh quân cơ động của địch đến ứng cứu cho đồn Hìn Sìu. Một trận chiến đấu đã diễn ra ở xóm Hồng, khi Đại đội 117 gặp một tiểu đoàn địch gồm cả Pháp và ngụy Lào, quân địch phải rút chạy. Ngày 9-01-1954, hai Tiểu đoàn Cô Tô và Lê Lợi nhận nhiệm vụ đánh đồn Hìn Sìu do một tiểu đoàn dù ngụy (có sĩ quan Pháp chỉ huy) đóng giữ. Kết quả: địch chết hơn 300 tên, ta bắt sống 88 tên, trong đó có 3 sĩ quan Pháp (1 quan ba, 1 quan hai, 1 bác sĩ). Đêm 24-01-1954, toàn trung đoàn tiến công vào hệ thống cứ điểm của địch trên đường số 9: Tiểu đoàn Cô Tô diệt cứ điểm Hu-xa-lai, Tiểu đoàn Lê Lợi diệt đồn Phalan, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ diệt Xê-ta-mốc. Ngày 26-01-1954, Tiểu đoàn Cô Tô và Tiểu đoàn Lê Lợi chặn đánh binh đoàn cơ động ngụy (do sĩ quan Pháp chỉ huy) từ Đồng Hến tiến đến Phalan, tiêu diệt 2 đại đội địch, bắt sống 80 tên, phá hủy 48 xe cơ giới, thu nhiều vũ khí đạn dược. Đêm 26-01-1954, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ tiêu diệt đồn Mường Phìn. Sau Tết âm lịch, trung đoàn chia thành hai bộ phận: Tiểu đoàn Nguyễn Huệ tiến xuống Hạ Lào, còn 2 Tiểu đoàn Cô Tô và Lê Lợi tiếp tục chiến đấu ở phía bắc đường số 9. Đêm 15 rạng sáng 16-02-1954, hai Tiểu đoàn Cô Tô và Lê Lợi nhận nhiệm vụ đánh đồn Tà Khống. Đây là một đồn lớn, có hơn một tiểu đoàn lính địch với công sự vững chắc. Ta bị tổn thất khá lớn mà vẫn không tiêu diệt được. Đồng chí Tích (đại đội trưởng Đại đội 115) hy sinh trong trận này. Sau đó, 2 tiểu đoàn lại chuyển lên đánh chặn quân địch tiến theo đường 12 xuống Ba-na-phào. Đồng chí Hoàng Lâm (đại đội trưởng Đại đội 117) đã hy sinh. Ngày 18-4-1954, Tiểu đoàn Cô Tô phục kích ở bản Hát Nhang, diệt gọn một đại đội Âu - Phi của địch. Cuối tháng 5-1954, chiến dịch Trung Lào kết thúc, toàn trung đoàn được lệnh hành quân trở về Việt Nam. Trong khi trú quân ở Quảng Bình, cuối tháng 7-1954, bộ đội được học tập về Hiệp định Đình chiến. Sau đó lại tiếp tục hành quân ra Khu Ba. Ngày 19-8-1954, cán bộ chiến sĩ Tiểu đoàn Cô Tô dự mít tinh với nhân dân huyện Quảng Oai (Sơn Tây) trong quân phục "Đại quân" mới được phát, sau đó hành quân về Chương Mỹ (Hà Đông). Đầu tháng 10-1954, tiểu đoàn về đóng quân ở khu vực Xuân Mai. Bộ đội bắt đầu lên rừng lấy nguyên vật liệu về làm doanh trại trên đồi Xuân Mai. Sau ba tháng lên Sơn Tây tham gia học tập quân sự và diễn tập chiến đấu toàn tiểu đoàn (có cán bộ cấp trên và cố vấn Trung Quốc dự), ngày 31-3-1955, toàn tiểu đoàn hành quân trở về Xuân Mai, trong doanh trại mới làm xong. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã kết thúc với việc giải phóng miền Bắc (7-1954). Tiểu đoàn Ký Con cũng kết thúc giai đoạn tác chiến lưu động ở rừng núi và đồng bằng, sống phân tán trong nhà dân, để bắt đầu giai đoạn sống tập trung trong doanh trại, học tập xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại trong khung cảnh hòa bình. Kể từ ngày thành lập (6-1948), 7 năm trôi qua, Tiểu đoàn Ký Con, với tên mới là Tiểu đoàn Cô Tô, bí danh là Xã Hiệp, và 3 lần đổi số hiệu (d.459, d.678, d.798), đã lập nhiều chiến công xuất sắc góp phần vào thắng lợi giải phóng miền Bắc và củng cố mối quan hệ Việt - Lào anh em. Các cán bộ và chiến sĩ của tiểu đoàn đã luyện tập chuyên cần, chiến đấu anh dũng, không ngại gian khổ hy sinh, đã trưởng thành nhanh chóng và luôn luôn sẵn sàng tiếp tục chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Người biên soạn NGUYỄN HỢP Nguyên Quản trị trưởng tiểu đoàn (1951-1953) Với sự cộng tác của: NGUYỄN NGỌC NINH NGUYỄN ĐỨC ĐOÀI TRẦN QUỐC HANH Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 12:48:36 pm TIỂU ĐOÀN LÊ LỢI Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tiểu đoàn 62 được thành lập tại tỉnh Ninh Bình trên cơ sở nòng cốt là trung đội Giải phóng quân của chiến khu Hòa-Ninh-Thanh (Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa), lần lượt do các đồng chí Trần Kiên, Lương Nhân, Lê Ngọc Hiền, Quang Xuân, Trần Văn Hiền chỉ huy. Tháng 5-1946, đồng chí Trần Quang Thường từ Sơn La về thay đồng chí Trần Văn Hiền, làm tiểu đoàn trưởng. Chính trị viên tiểu đoàn là đồng chí Khung (thường gọi là Cố Khung). Ngày 22-12-1946, khi kháng chiến toàn quốc đã bắt đầu, đồng chí Trần Quang Thường ra Nam Định, và đồng chí Mai Cánh về thay. Khi trở thành tiểu đoàn tập trung của Trung đoàn 34 (Tất Thắng), tiểu đoàn được đổi phiên hiệu là Tiểu đoàn 87 và làm lễ thành lập tại Chợ Già, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định (tiểu đoàn trưởng: Trần Quang Thường, chính trị viên: Thanh Phong). Địa bàn cơ động hoạt động chiến đấu trên phạm vi 3 tỉnh Hà - Nam - Ninh. Thu Đông năm 1947 tiểu đoàn đã đánh một số trận như trận kỳ tập diệt đồn Trung Phu (Vụ Bản, Nam Định), chống phá cuộc càn quét của địch, bảo vệ nhân dân ở đường 55, làng Giao Cù, huyện Nam Trực, Nam Định. Năm 1949 theo chủ trương trên, Liên khu 3 thành lập 2 trung đoàn chủ lực (64 và 66). Cùng với các Tiểu đoàn Nguyễn Huệ, Cô Tô, Hoàng Diệu, Tiểu đoàn 87 được điều về thành lập Trung đoàn 66 và được đặt thêm danh hiệu Tiểu đoàn Lê Lợi, đồng thời được chọn là tiểu đoàn chủ công của trung đoàn. Đầu năm 1949, tham gia đánh địch ở khu Cao Phong, Hòa Bình (vùng Chòm San) nhưng không đánh được trận nào. Giữa năm 1949, các đồng chí Lê Ngọc Hiền, Đào Huy Vũ được điều về phụ trách tiểu đoàn trưởng, chính trị viên. Tiểu đoàn tham gia trong đội hình đánh tập trung toàn trung đoàn tiến công đồn Vụ Bản, Hòa Bình cũng không thành công. Thu Đông 1949, ở chiến trường Liên khu 3, Bộ quyết định mở chiến dịch Lê Lợi tại tỉnh Hòa Bình, nhằm: phá thế uy hiếp của địch sau lưng Liên khu 3; tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch; phá khối ngụy binh Mường. Lực lượng tham gia gồm các Trung đoàn 9, 66 và 209. Tiểu đoàn Lê Lợi được giao nhiệm vụ tiêu diệt đồn Đồng Bến thuộc huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình, nằm cạnh đường số 6, cách thị xã Hòa Bình về phía đông khoảng 10 km. Sau khi đoàn cán bộ tiểu đoàn đi trinh sát về, được rõ Đồng Bến của địch được bố trí trên một đồi tuy không cao nhưng hỏa lực có thể khống chế các đồi thấp hơn và khu ruộng xung quanh. Đồn được xây dựng gỗ đất, nhà ở của lính lợp cỏ gianh, hàng rào bằng tre nứa kiểu lông nhím. Lực lượng phòng giữ một đại đội ngụy Mường do sĩ quan Pháp chỉ huy. Trung tuần tháng 11-1949, từ Hà Nam hành quân ra Cầu Đường (đường 21), rẽ vào Suối Bu, tiểu đoàn tới vị trí tập kết cuối cùng tại Suối Đất. Tại đây, chiều tối ngày 25-11-1949 trước giờ xuất quân vào chiếm lĩnh trận địa thì tổ trinh sát bám địch về báo cáo: "Đồn Đồng Bến ngay buổi chiều hôm đó có thêm một trung đội có cả lừa ngựa tải hàng tiếp tế vào đồn, có thể đêm nay số này vẫn còn nghỉ tại đồn". Tiểu đoản nhận định, tuy số quân địch tăng nhưng không phải là quân chiến đấu, bố phòng địch vẫn như trước, càng thêm quân có thể càng khó cho chỉ huy của chúng. Tiểu đoàn vẫn giữ quyết tâm, thông báo cho các đại đội và ra lệnh xuất quân, vượt đường số 6 vào chiếm lĩnh trận địa, đánh địch theo kế hoạch. Khi bí mật tiếp cận đồn, bọn lính gác cũng nghi ngờ bắn ra một vài loạt trung liên ở hướng chủ yếu là sở chỉ huy tiểu đoàn, một chiến sĩ liên lạc ở tiểu đoàn bộ (đồng chí Trần Văn Túy) bị thương nhẹ vào bàn tay. Sau đó tình hình im ắng trở lại. Qua dây nói kiểm tra nắm được các đơn vị đã hoàn thành chiếm lĩnh trận địa, tiểu đoàn cho bắn pháo hiệu phát lệnh nổ súng. Ngay loạt đạn đầu, đạn súng phóng bom, súng cối đã bắn trúng đồn giặc, xung kích phá rào, ném bùi nhùi lửa. Đồn địch phút chốc bị cháy rực sáng, chúng hoảng loạn chống đỡ được một lúc rồi yếu ớt dần. Trong vòng chưa đến một tiếng đồng hồ, quân ta đã làm chủ đồn giặc, bắt sống tù binh, thu chiến lợi phẩm, giải quyết thương binh tử sỹ và nhanh chóng rút quân trước khi trời sáng tới Suối Đất. Sau đó hành quân về vùng Rịa (Ninh Bình) tổng kết rút kinh nghiệm. Có thể nói, diệt đồn Đồng Bến là trận đánh thắng lớn nhất của tiểu đoàn từ ngày thành lập đến lúc bấy giờ. Một trận đánh cường tập công đồn tập trung lực lượng toàn tiểu đoàn có hỏa lực tăng cường của cấp trên, diệt gọn toàn bộ quân địch, bắt sống tù binh, thu gọn vũ khí, chiến lợi phẩm. Ngày nay các cựu chiến binh cũ của tiểu đoàn ở khu vực Hà Nội vẫn lấy ngày 25-11 hàng năm làm ngày họp mặt truyền thống. Bước sang năm 1950, quân Pháp đã ngày càng khó khăn, buộc phải rút quân khỏi Bắc Cạn, một số đồn lẻ ở Cao Bằng, dồn lực lượng về giữ Đông Khê, Thất Khê; tập trung lực lượng đẩy mạnh càn quét mở rộng chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Về phía ta, cuộc kháng chiến đã có những bước phát triển. Thời gian này, Tiểu đoàn Lê Lợi tấn công đồn Vũ Điện (Lý Nhân, Hà Nam) nhưng không thành công. Sau đó được lệnh chuyển lên Hà Đông tổ chức đánh địch càn quét lấn chiếm ra 2 huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức. Trưa ngày 12-5-1950, tiểu đoàn đã đánh một trận vận động chiến tiêu diệt một đại đội thuộc tiểu đoàn cơ động của phân khu (Secteur) Quán Tròn - Ba Thá tại khu vực đê làng Hoàng Dương - Tử Dương, huyện Ứng Hòa. Nếu như trận Đồng Bến là trận công đồn ban đêm ở địa hình rừng núi thì trận Hoàng Dương - Tử Dương lại là trận vận động chiến ban ngày địa hình đồng bằng giành thắng lợi lớn của tiểu đoàn. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 12:49:31 pm Sau chiến thắng Hoàng Dương - Tử Dương, tiểu đoàn còn đánh tiếp hai trận nữa tại khu vực Phù Lưu Chanh khi quân Pháp nống chiếm xuống huyện Kim Bảng, Hà Nam và tại khu vực làng Viêm Khê khi địch nống chiếm ra Chợ Bến, huyện Kim Bôi, Hòa Bình. Khoảng cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 1950, tiểu đoàn được lệnh về Thanh Hóa tham gia chiến dịch Trần Hưng Đạo tại vùng Nga Sơn trong đội hình của Đại đoàn 304 và được đại đoàn lựa chọn là tiểu đoàn chủ công. Ban chỉ huy tiểu đoàn cũng có thay đổi, đồng chí Trần Minh Vân được đề bạt chức vụ tiểu đoàn trưởng, đồng chí Mai Quang Ca, Đặng Bá Niên được trên điều về làm chính trị viên và tiểu đoàn phó. Cuối tháng 8-1950 chiến dịch Trần Hưng Đạo bắt đầu. Đợt 1, tiểu đoàn được giao nhiệm vụ đánh đồn Hói Đào, nhưng địch rút không kịp đánh. Đợt 2, tiểu đoàn chuyển về hoạt động ở Hà Nam. Sau thời gian chuẩn bị, ngày 07 tháng 10-1950, tiểu đoàn đã diệt đồn Hồi Trung kết hợp diệt viện binh tại huyện Kim Bảng, Hà Nam. Cuối năm 1950 đầu năm 1951 Đại đoàn 304 hành quân lên Việt Bắc tiếp nhận vũ khí mới. Ngày 28-2-1951 Tiểu đoàn Lê Lợi trong đội hình đại đoàn vinh dự được Bác Hồ đến thăm ở Tuyên Quang tại một khu đồn điền cà phê ngả ba KM5 rẽ vào. Sau khi tiếp nhận trang bị vũ khí mới (tuy gọi là mới, trang bị đủ, thống nhất, nhưng phần lớn vũ khí chiến lợi phẩm thu từ quân Tưởng nên có thể nói chất lượng một số không tốt bằng vũ khí của tiểu đoàn thu được của quân Pháp), tiểu đoàn bước vào tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám. Ngày 25-3-1951 tới tập kết tại vùng Tam Dương chân núi Tam Đảo. Nhưng trong chiến dịch này cả trung đoàn, đại đoàn không đánh được trận tiêu diệt nào, không thực hiện được lời hứa khi Bác đến thăm. Tháng 4-1951, tiểu đoàn hành quân về Thanh Hóa chuẩn bị tham gia chiến dịch Quang Trung tại tỉnh Ninh Bình. Lúc này có tiểu đoàn trưởng Trần Minh Vân, chính trị viên Vũ Chấn, tiểu đoàn phó Đặng Bá Niên, chính trị viên phó Bùi Xuân Vinh. Đêm ngày 28-5-1951, chiến dịch Quang Trung bất đầu. Các đơn vị của Đại đoàn 308 và các Tiểu đoàn Nguyễn Huệ, Cô Tô của Trung đoàn 66 diệt các đồn Non Nước, Đại Phong, Yên Vệ, Chùa Dầu. Theo kế hoạch đêm 29-5-1951 tiểu đoàn đánh đồn Chùa Cao nhưng không tiêu diệt được (sau đó ngày 4-6-1951, Bộ sử dụng Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 đánh tiếp cũng không thành công). Thu Đông 1951, tiểu đoàn đang chuẩn bị tham gia chiến dịch tại Hà Nam Ninh, thì đầu tháng 11-1951, địch đánh chiếm Ba Thá, Miếu Môn (Hà Đông) và Chợ Bến (Hòa Bình) và ngày 14-11-1951 chúng nhảy dù tái chiếm thị xã Hòa Bình - Như vậy là tạo thời cơ cho ta đánh tiêu diệt ở địa bàn rừng núi, nên Bộ quyết định mở chiến dịch Hòa Bình - tiểu đoàn được tăng cường 2 đại đội 107, 109 thuộc Tiểu đoàn Nguyễn Huệ, đại đội trợ chiến 95, đại đội vệ binh 159 của Trung đoàn, được giao nhiệm vụ tổ chức một trận phục kích đánh quân địch trên đường số 6, đoạn từ Cầu Trôi, cầu Dụ, Cầu Mè đến Hang Nước dài khoảng 2 cây số. Sau khi chuẩn bị chiến trường, giao nhiệm vụ, đêm 1-12-1951, tiểu đoàn tập kết tại Suối Đất bắt đầu hành quân chiếm lĩnh trận địa. Chỉ huy tiểu đoàn đặt tại Đồi Mè. Khoảng 9 giờ sáng ngày 2-12-1951, từ đài quan sát, đồng chí An Quyết Thắng, tham mưu tiểu đoàn báo cáo có 6 xe ô tô chở một đại đội địch từ hướng Hà Nội lên đang vào trận địa phục kích. Do thông báo chậm nên tiểu đoàn không kịp đánh. Rút kinh nghiệm, tiểu đoàn chỉ thị cho tăng cường quan sát và báo cáo cho kịp thời. Đến trưa lại xuất hiện một đoàn 30 xe vận tải từ hướng Hà Nội lên, đồng thời có 4 xe nữa từ hướng Hòa Bình tới. Do phải tránh nhau nên tốc độ khi địch lọt vào trận địa bị chậm lại. Tiểu đoàn lệnh cho các đơn vị nổ súng xuất kích. Trung đội chặn đầu thuộc Đại đội 136 bắn cháy ngay mấy xe đi đầu ở Cầu Trôi, cả đoàn xe ùn tắc lại, các Đại đội 132, 134, 107 từ các khe núi phía nam đường kịp thời xung phong ra diệt địch, một số địch phải dựa vào mép đường phía bắc chống cự (phía bắc đường là ruộng trống trải). Sau 30 phút, ta làm chủ chiến trường, đốt toàn bộ số xe, thu dọn chiến lợi phẩm, giải quyết thương binh tử sỹ và rút lui. Cũng trong lúc đó địch cho máy bay oanh tạc chặn đường rút của ta, đồng thời cho 2 trung đội Âu Phi và 3 xe tăng từ Hòa Bình (cách hơn chục kilômét) tới chi viện, nhưng ta đã phá Cầu Trôi và bắn ngăn chặn nên chúng phải dừng lại đó. Ngày hôm sau, địch mới ra thu dọn chiến trường và dùng xăng đốt cháy trụi hai bên đường. Trận phục kích diệt 34 xe này cũng là một trận thắng lớn, lại xảy ra cách Đồng Bến có vài kilômét nên càng in dấu ấn của nhân dân địa phương với cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 66. Vì vậy ngày nay Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Hòa Bình có xây một tượng đài nơi diễn ra trận đánh để nói lên tình đoàn kết giữa quân dân Hòa Bình và Trung đoàn 66 cũng như để ghi nhớ chiến tích xưa. Đặc biệt trên báo Nhân dân xuất bản thời đó, ở mục "nói và nghe", dưới bút danh CB Bác Hồ có viết biểu dương trận đánh này. Giữa tháng 12-1951, tiểu đoàn được lệnh vượt đường số 6 sang Ba Vì phối thuộc cho Đại đoàn 312 với nhiệm vụ chặn viện từ Sơn Tây lên, bảo đảm cho Trung đoàn 141, Đại đoàn 312 đánh đồn địch ở điểm cao 600. Song quân địch chỉ tiến đến điểm cao 218 rồi dừng lại ở đó. Tiểu đoàn định chuẩn bị tập kích nhưng được lệnh trở về đội hình Trung đoàn 66, chuẩn bị đánh đồn Đầm Huống. Đêm 7-11-1952, cùng lúc với Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) đánh đồn Pheo, thì tiểu đoàn đánh đồn Đầm Huống, nhưng cả hai đều không dứt điểm. Tuy vậy cũng đã góp phần vào việc quân địch phải chuẩn bị rút lui khỏi Hòa Bình. Tiếp đó chuyển sang đánh quân địch ở đoạn đường số 6 từ Đầm Huống đến Hang Nước. Vào lúc quân địch đang rục rịch rút khỏi Hòa Bình, thì trung đoàn được lệnh bàn giao nhiệm vụ cho đơn vị bạn, để hành quân vào hoạt động địch hậu ở cùng căn cứ du kích Chợ Cháy, huyện ứng Hòa, Hà Đông vào ngày 13-2-1952. Từ Hòa Bình hành quân qua Chùa Hương, vượt sông Đáy, Tiểu đoàn vào đóng quân tại làng Mãn Xoan, Cung Thuế và làm nhiệm vụ phục kích đánh địch trên đường số 1 đoạn từ Đồng Văn đến Văn Điển cùng với Tiểu đoàn Nguyễn Huệ, còn Tiểu đoàn Cô Tô đánh địch từ Hà Đông đi Vân Đình. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 12:50:53 pm Thu Đông năm 1952, để phối hợp với chiến dịch Tây Bắc, Đại đoàn 304 mở đợt hoạt động ở Ninh Binh cùng với Đại đoàn 320. Tiểu đoàn Lê Lợi được giao nhiệm vụ chuẩn bị đánh Chùa Cao (lần thứ 2). Cuối tháng 10-1952, Tiểu đoàn Cô Tô diệt đồn Bích Đào, ngày 8-11 Tiểu đoàn Nguyễn Huệ diệt đồn Giang Nại. Địch vội vã cho Tiểu đoàn 26 lính da đen cộng Tiểu đoàn dù 5 xuống Phát Diệm càn quét để phòng ta tiến công vào đây. Tiểu đoàn Lê Lợi tạm hoãn đánh Chùa Cao, được điều sang phối hợp với Trung đoàn 48 đánh địch ở Phát Diệm. Rạng sáng ngày 13-11-1952, tiểu đoàn nổ súng tiến công Yên Bình Phố nơi địch đang càn quét tạm dừng trú đêm tại nhà Chánh Tiếp, Hai Vợi. Quân địch mới tạm dừng trú quân, ta đánh trong điều kiện chuẩn bị gấp, địa hình ruộng nước, mương rãnh nhiều. Quá trình vào chiếm lĩnh trận địa, các đơn vị phải tiến theo dọc mương, địch phát hiện dùng đại bác đã gây cho ta thương vong một số, nhưng các hướng vẫn bí mật tiếp cận theo kế hoạch. Sau khi chiếm lĩnh xong, bộc phá đã đặt được vào một số nhà ở của địch, đúng 3 giờ 30 nổ súng, nổ bộc phá. Riêng quả bộc phá của đồng chí Xoang (Đại đội 134) đặt tại nhà ngói 5 gian đã diệt gọn một trung đội địch. Địch tiếp tục dùng pháo chi viện, bọn trong phố chống cự và co dần vào nhà hai tầng cố thủ. Tiểu đoàn trưởng Trần Minh Vân rời vị trí chỉ huy tiểu đoàn, lên gặp Đại đội trưởng 134 Mai Hiền, bàn kế hoạch tiếp tục phát triển tấn công. Sau đó đồng chí Mai Hiền tổ chức hỏa lực chi viện cho tổ bộc phá lao lên đánh nhà hai tầng. Nhưng không may bazoka và kíp bộc phá, dây cháy chậm đều bị thấm nước nên không nổ. Trời đã sáng, máy bay địch đã đến quan sát, tiểu đoàn phải cho lệnh lui quân. Trong trận này tiểu đoàn cùng Trung đoàn 48 đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 26 địch (sau này bị xóa sổ). Về phía chúng ta bị tổn thất (trong đó có đồng chí tiểu đoàn phó Đặng Bá Niên bị thương), chủ yếu bị thương vong khi vào chiếm lĩnh trận địa. Sau trận Yên Bình Phố (Phát Diệm), tiểu đoàn tiếp tục nhận nhiệm vụ đánh đồn Chùa Cao. Theo kế hoạch, đêm ngày 05-12-1952, tiểu đoàn đã nổ súng tấn công tiêu diệt gọn đồn Chùa Cao, diệt bắt sống toàn bộ đại đội 5 lê dương địch trong đồn, thu toàn bộ vũ khí. Sau trận Chùa Cao, đồng chí Trần Minh Vân được đề bạt lên trung đoàn phó, các đồng chí Mai Hiền, Lê Toàn (đại đội 134) được đề bạt lên tiểu đoàn phó và chính trị viên phó tiểu đoàn và trên điều động đồng chí Hoàng Đan ở Trung đoàn 57 về làm tiểu đoàn trưởng. Tiểu đoàn rời chiến trường, hành quân về Thanh Hóa củng cố, huấn luyện. Đặc biệt trong chỉnh huấn chính trị lần này là tham gia cùng nhân dân địa phương thực hiện chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng, Chính phủ. Mua xuân năm 1953, tiểu đoàn chuyển vào đóng quân ở vùng Anh Sơn tỉnh Nghệ An chuẩn bị tham gia vào chiến dịch Võ Đông (mật danh chiến dịch Thượng Lào). Theo lệnh trên, tiểu đoàn hành quân theo đường 7, tới bản Ban (huyện Mường Khăm, tỉnh Xiêng Khoảng) thì gặp cánh quân của Đại đoàn 308 cũng truy địch từ hướng Sầm Nưa về. Đến khu vực đồn điền Nọng Pết, Khăng Khay thì được lệnh dừng lại chuẩn bị tham gia đánh Cánh đồng Chum. Lúc này địch đã tăng quân lập thành tập đoàn cứ điểm ở đó và thời tiết ở đây đã chuyển sang mùa mưa nên cấp trên quyết định kết thúc chiến dịch. Trung tuần tháng 5-1953, tiểu đoàn hành quân về Nghệ An, Thanh Hóa chuẩn bị chiến dịch Thu Đông 1953-1954. Tại đây tiểu đoàn tiến hành xây dựng củng cố. Các đồng chí Mai Hiền, Lại Văn Kháo được đề bạt tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó. Chủ trương của ta trong Thu Đông 1953-1954 là giải phóng Lai Châu, sau đó tập trung lực lượng tiêu diệt Điện Biên Phủ. Hướng phụ là Trung Hạ Lào, hướng phối hợp là đồng bằng Bắc Bộ. Trung đoàn 66 được lệnh tách khỏi đội hình Đại đoàn 304, cùng với Trung đoàn 101 và một Tiểu đoàn, Trung đoàn 18 thuộc Đại đoàn 325 là lực lượng của mặt trận D (mật danh của chiến trường Trung Hạ Lào). Bộ tư lệnh Mặt trận là đồng chí Hoàng Sâm và đồng chí Trần Quý Hai (chính ủy Đại đoàn 325). Nhiệm vụ của mặt trận D là: " - Phối hợp với chiến trường chính (Điện Biên Phủ) bằng cách tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, buộc chúng phải đưa quân cơ động từ chiến trường Bắc Bộ sang đối phó, đồng thời phá âm mưu địch đánh hậu phương ta bảo vệ vùng tự do Thanh, Nghệ, Tĩnh. - Phối hợp với quân hai nước bạn (Lào, Miên), giúp bạn phát triển chiến tranh du kích, mở rộng vùng giải phóng và xây dựng lực lượng vũ trang, các cơ sở kháng chiến của bạn". Ngày 18-11-1953, tiểu đoàn hành quân từ Thanh Hóa, qua Nam Đàn (Nghệ An), Hương Khê (Hà Tĩnh), Tân Ấp và tập kết tại khu vực bãi Dinh (Quảng Bình). Phát hiện ta đưa quân về hướng Trung Lào, tháng 11-1953 Nava phải điều 2 GM 2,3 ở Bắc Bộ lên bố trí bịt đường 8, 12 ở các khu vực Napê Khăm Kợt, Lắc Sao (đường 8 ), Banaphào, Nhommalạt (đường 12) và lực lượng cơ động ở Nhommalạt. Ngày 20-12-1953, tại khu rừng trúc ở Bãi Dinh (gần biên giới Việt Lào) Tiểu đoàn Lê Lợi nhận lệnh cuối cùng của trung đoàn trưởng 66 Trần Minh Vân cùng Tiểu đoàn Cô Tô công đồn Banaphào, còn Tiểu đoàn Nguyễn Huệ công đồn Mụ Giạ (2 vị trí án ngữ đầu đường nơi cửa ngỏ biên giới). Trưa ngày 22-12-1953, tiểu đoàn bắt đầu hành quân. Đêm 23-12 tiếp cận đồn thì phát hiện quân địch đã rút. Mụ Giạ trở nên cô lập ở biên giới nên chúng cũng rút chạy. Trung đoàn chuyển sang truy kích. Tiểu đoàn Cô Tô đi đầu, tiếp đó là Tiểu đoàn Nguyễn Huệ và cả Đại đội 132, Tiểu đoàn Lê Lợi đều truy theo đường 12 về hướng Thakhek. Tiểu đoàn Lê Lợi đi sau cùng, tới ngã ba Lằng Khằng thì đồng chí Đàm Thế Viêm (tác huấn trung đoàn) phát hiện thấy nhiều dấu vết giầy địch ở đường rẽ về Phanôp. Trung đoàn trưởng Minh Vân và chính ủy Trương Công Cẩn đồng ý với ý kiến đề nghị của tiểu đoàn trưởng Mai Hiền cho tiểu đoàn tạm dừng, phái trinh sát và 2 cán bộ tình nguyện được trên tăng cường vào bản hỏi dân thì được biết địch chạy theo đường này từ ngày hôm qua. Khoảng 30 phút sau tiểu đoàn tiếp tục truy kích. Qua Phanốp, bản Sa Áng tới Pakphanăng thì trời bắt đầu sáng. Dọc đường thấy ba lô đồ hộp địch trút bớt hai bên đường, nhất là tại bờ sông Pakphanăng, có 2 xe ô tô địch vừa đốt cháy và chúng cắt dây cáp ở sông, càng rõ là địch đã chạy theo hướng này. Các đồng chí Lê Trung Cơ, Hoàng Minh Côn (đại đội trưởng, chính trị viên 134), Lê Tiến Hòa,... Ngô (đại đội trưởng, chính trị viên 136) theo lệnh tiểu đoàn cho nối lại dây cáp và tổ chức cho đơn vị vượt sông. Qua sông theo hướng về Pà Cuội thì gặp một số P.M (Prison militaire: dân bị bắt đi làm phu cho địch) quá trình rút chạy lợi dụng địch sơ hở đã bỏ trốn sang hai bên rừng. Qua khai thác được biết rõ thêm hướng chạy của địch. Khoảng gần trưa 24-12-1953, Đại đội 134 đi đầu đã phát hiện thấy địch đang tạm dừng tại ngã ba Nakachăn. Mặc dù địch đông, song tiểu đoàn đã quyết định tổ chức tập kích luôn. Dưới sự chi viện của súng cối 81 mm trợ chiến của tiểu đoàn các Đại đội 134, 136 xung phong vào đội hình địch. Bị bất ngờ địch bị tiêu diệt một số, còn lại chạy tán loạn về đồn Pà Cuội (cách đó khoảng hơn 1 km). Đồn Pà Cuội vốn chỉ chứa đựng một đại đội ngụy Lào, nay chúng chạy cả về đấy nên là thời cơ tốt nhất cho ta tiêu diệt. Tiểu đoàn quyết định chỉ sử dụng một bộ phận nhỏ truy lùng bọn tàn quân ngoài rừng, còn lại tổ chức trinh sát bám địch ở Pà Cuội, xốc lại đội hình để chuẩn bị đánh. Đúng 18 giờ ngày 24-12-1953 tiểu đoàn nổ súng và chưa đến 1 tiếng đồng hồ ta đã làm chủ đồn. Kết quả quá trình truy kích, diệt đồn Pà Cuội, Tiểu đoàn Lê Lợi diệt gọn cả Tiểu đoàn 2 Marốc thuộc trung đoàn bộ binh số 4 (2/4 RTM) của địch, bắt sống 500 tù binh (có một số ngụy Lào), thu toàn bộ vũ khí, chiến lợi phẩm (chủ yếu là khi diệt đồn Pà Cuội). Về phía ta tuy thương vong rất nhỏ song có đồng chí Lê Trung Cơ (đại đội trưởng 134) và đồng chí Trí (cán sự tham mưu tiểu đoàn) hy sinh. Tiểu đoàn được Bộ điện khen và tặng huân chương quân công hạng 3. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 12:51:31 pm Sau trận Khăm Hè và Pà Cuội, địch hoang mang rút chạy khỏi thị xã Thakhek và Nhommalạt. Trung đoàn 101 vào tiếp quản thị xã ngày 26-12-1953. Ngày 25-12-1953, Nava đến Xênô (Savẳnnàkhẹt), vội vã điều lên đây 7 tiểu đoàn (GM 1,5 và GM Para) đặt tên là GM tác chiến Trung Lào do tướng Franxi chỉ huy. Như vậy ta chỉ có hai trung đoàn hoạt động mà đã kéo địch lên Trung Lào tới lúc này là 24 tiểu đoàn bộ binh + 3 tiểu đoàn pháo binh. Đầu tháng 1-1954 chiến dịch chuyển sang đợt 2. Tiểu đoàn nhận lệnh chuyển xuống hoạt động ở đường 9. Ngày 6-1-1954, tiểu đoàn diệt đồn Hìn Sìu (do một trung đội ngụy Lào chiếm giữ), sau đó về trú quân tại bờ sông Sêbăngphai (cách Hìn Sìu 8 km). Rạng sáng 9-1-1954, tiểu đoàn lại đánh quân địch mới trở lại đóng ở Hìn Sìu của địch lần thứ hai, diệt hơn 300 tên. Trung tuần tháng 1-1954, tiểu đoàn chuyển xuống hoạt động trên trục đường số 9 tư Xênô đến Tà Khống (Xêpôn). Ngày 24-1-1954, tiểu đoàn diệt đồn Phalan. Ngay sau đó lên phục kích tại khu vực Đông Lao Luông (Tây Phalan 2 km) chuẩn bị đánh quân địch tăng viện từ hướng Xênô tới. Sáng 26-1-1954, Tiểu đoàn Lê Lợi và Tiểu đoàn Cô Tô đã phục kích trên đường số 9 diệt gần một tiểu đoàn địch, phá hủy 48 xe cơ giới. Đêm 15-2-1954 trong đội hình trung đoàn, Tiểu đoàn Lê Lợi cùng Tiểu đoàn Cô Tô tiến công đồn Tà Khống trên đường 9 cách biên giới Việt Lào khoảng 40 km. Là một đồn lớn bố trí trên quả đồi khống chế rộng xung quanh. Quá trình chiến đấu, lần đầu địch dùng máy bay ném bom na-pan ban đêm vào đội hình trận địa hỏa lực của ta. Do vậy ta bị thương vong và trận đánh không thành công. Tiếp đó tiểu đoàn tiến xuống hoạt động nam đường 9. Ngày 28-2-1954, tiểu đoàn diệt đồn Mường Noòng (bên bờ sông Sêlanọng) do một trung đội ngụy Lào chiếm giữ. Tháng 3-1954, địch phải điều quân xuống đối phó ở Trung Hạ Lào, đông bắc Miên. Đồng thời tăng lực lượng lên giải tỏa Thakhek. Tiểu đoàn Lê Lợi được điều động về lại khu vực Lằng Khằng, Phanốp để đánh địch. Trung tuần tháng 3-1954, tiểu đoàn tổ chức phục kích tại Khôn Kèn đoạn từ bản Sa Áng đến Phanốp để chuẩn bị đánh địch từ hướng Pakphanăng đi Lằng Khằng, Banaphào. Sau 3 ngày nằm phục chờ địch, ngày 22-3-1954, GM1 xuất hiện, tiểu đoàn lê dương đi đầu lọt vào trận địa phục kích. Ta nổ súng, địch bị thiệt hại nặng ngay từ đầu, một số bị bắt sống, số còn lại dạt về phía bên kia đường đối phó. Chúng phải thúc Tiểu đoàn Marốc (của GM1) tiến lên ứng cứu nhưng bị bộ phận chia cắt của ta chặn lại. Đây cũng là một thắng lớn, phối hợp kịp thời với chiến dịch Điện Biên Phủ vừa mới bắt đầu được 10 ngày. Bộ Tổng tư lệnh đã điện khen thưởng ngay và thông báo cho tiểu đoàn biết: "Theo tin Bộ nắm được trận này GM1 bị chết, bị thương và bị bắt sống gần 300 tên". GM1 phải ngừng tiến công và tạm trú tại khu vực Sa Áng. Tiểu đoàn đã tiến hành trinh sát để tập kích tiếp, nhưng địch canh phòng cẩn mật nên không thực hiện được. Tiểu đoàn chuyển về đóng quân tại biên giới Việt-Lào tiến hành hoạt động nhỏ tiêu hao địch. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, tiểu đoàn trở về nước củng cố huấn luyện tại vùng Tân Ấp (Quảng Bình). Tại đây, được thường xuyên thông báo tin tức chiến thắng ở đồng bằng Bắc Bộ, các thị xã Ninh Bình, Sơn Tây, thành phố Nam Định lần lượt được giải phóng nên cán bộ chiến sĩ rất nóng lòng được về tham gia chiến đấu. Do vậy, trung tuần tháng 7, được lệnh hành quân về Liên khu 3, mọi người đều nô nức phân khởi, đến Phủ Quỳ thì hiệp định Giơnevơ 1954 đã ký kết. Tiểu đoàn tiếp tục hành quân về đóng quân tại vùng Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây. Như vậy chiến dịch Trung Hạ Lào nằm trong chiến cuộc Đông Xuân 53-54 là chiến dịch cuối cùng mà tiểu đoàn được tham gia trong kháng chiến chống Pháp và cũng là chiến dịch mà tiểu đoàn giành được thắng lợi lớn nhất từ ngày thành lập tới thời điểm bấy giờ. Suốt trong 6 tháng chiến dịch, cả Trung đoàn 66 đã đánh 40 trận lớn nhỏ, diệt bắt sống hơn 2.000 tên địch, vũ khí thu được đủ trang bị cho cả một trung đoàn mạnh. Hơn thế nửa đã buộc địch phải phân tán lực lượng chủ lực ra đối phó góp phần vào thắng lợi chung của chiến cuộc Đông Xuân 53-54. Trong hội nghị cán bộ tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí Tổng tư lệnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã biểu dương "Một mình Trung đoàn 66 ở Trung Lào đã hoạt động như một đại đoàn". Là đơn vị chủ công của trung đoàn, Tiểu đoàn Lê Lợi đã góp phần xứng đáng của mình vào thành tích chung nói trên. Cuối năm 1954, tiểu đoàn được cử một đại đội (134) đi tham gia lễ duyệt binh chào mừng Đảng, Chính phủ, Bác Hồ về Thủ đô Hà Nội. Còn lại về vùng Gốt, xây dựng doanh trại ở Xuân Mai (Chương Mỹ, Hà Đông) và chuẩn bị cho xây dựng, huấn luyện chính quy. Cán bộ chỉ huy tiểu đoàn lúc này đã có nhiều thay đổi. Nhiều đồng chí đã được đề bạt lên cấp trên hoặc đã được đi học chuyển binh chủng phục vụ cho phát triển quân đội. Còn lại trong ban chỉ huy tiểu đoàn từ năm 1955-1963 các đồng chí Đặng Văn Liệu, Phạm Công Cửu, Xuân Sâm, Nguyễn Ngọc Nhĩ tiếp nữa là các đồng chí Nguyễn Duy Thương, Vũ Đình Bào, Trần Đình Bảng, Trần Bình Dân, Lê Khả Phiêu... Năm 1957, tiểu đoàn đi tham gia sửa sai cải cách ruộng đất tại vùng Sở Kiện, Phô Tâng (Thanh Liêm, Hà Nội) 3 tháng. Sau đó chuyển về xây dựng doanh trại đóng quân ở Rịa. Năm 1961 chuyển về Bỉm Sơn Thanh Hóa. Năm 1965 trong đội hình cả Trung đoàn 66, tiểu đoàn hành quân vào miền Nam chiến đấu. NGUYỄN TỰ LẠC Chiến sĩ cũ của tiểu đoàn từ 1948 đến 1958 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 12:54:22 pm TỪ TIỂU ĐOÀN 212 HÀ NỘI ĐẾN TIỂU ĐOÀN NGUYỄN HUỆ Năm lần đi làm nhiệm vụ quốc tế. Tham gia mở đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Hà Nội năm 1946 và giải phóng Sài Gòn ngày 30-4-1975. Ngay sau ngày 19-8-1945 tại Hà Nội, Tiểu đoàn 212 từng bước được hình thành. Nòng cốt của tiểu đoàn là những phân đội Giải phóng quân từ Việt Bắc về, những đoàn viên Thanh niên cứu quốc và Tự vệ thành Hoàng Diệu tham gia Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội. Nhiều học sinh, sinh viên, thanh niên có tinh thần hăng hái cách mạng và binh sĩ của chế độ cũ giác ngộ cách mạng được Mặt trận Việt Minh giới thiệu vào tiểu đoàn. Các chỉ huy trung đội, đại đội của tiểu đoàn phần đông là các thanh niên của các Hội cứu quốc được cử đi học một lớp quân chính ngắn hạn, nhìn chung còn rất trẻ. Ban đầu tiểu đoàn còn chưa có số hiệu nên lấy tên người chỉ huy để gọi, là Tiểu đoàn Anh Đệ - Tuấn Sơn. Vinh dự đầu tiên của tiểu đoàn là được làm nhiệm vụ đội quân danh dự dự lễ Độc lập ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình. Ngay sau đó tiểu đoàn được lệnh cấp tốc sang chiến đấu ở Sầm Nưa. Có thể nói đây là một cuộc hành quân sang nước bạn đầy hiểm nghèo, gian khổ, kinh nghiệm chiến đấu chưa có, ngôn ngữ bất đồng, vật chất thiếu thốn, có lúc đi gần ngày đường không thấy bóng người, nhưng được sự đùm bọc của nhân dân Lào, tháng 10-1945, tiểu đoàn đã đánh thắng trận đầu ở Mường Láp, giáng một đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp. Sau nửa năm phối hợp chiến đấu và giúp bạn xây dựng lực lượng, xây dựng chính quyền cách mạng, tháng 5-1946 tiểu đoàn được lệnh trở về Hà Nội với phiên hiệu Tiểu đoàn 2, rồi Tiểu đoàn 212. Lúc bấy giờ, tiểu đoàn bộ đóng ở sân bay Bạch Mai. Lúc này, Tiểu đoàn 212 có 3 đại đội: Đại đội 14 đóng tại Đài phát thanh Vọng, Đại đội 15 đóng ở sân bay Bạch Mai, Đại đội 16 đóng tại trại Hàn Lân. Anh Quang Tuần làm tiểu đoàn trưởng kiêm chỉ huy trưởng Liên khu 2 (tức quận Hai Bà Trưng ngày nay), anh Bùi Cúc là tiểu đoàn phó và anh Văn Tân là chính trị viên tiểu đoàn. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu không sớm thì muộn sẽ phải xảy ra, nhiều cán bộ của tiểu đoàn đã được cử đi học lớp bổ túc quân sự ở Tông (Sơn Tây) do Quân ủy Trung ương mở. Ngày 19-12-1946, sau khi họp với Bộ tư lệnh Mặt trận Hà Nội nắm vững chủ trương mở đầu kháng chiến toàn quốc, tiểu đoàn trưởng Quang Tuần lệnh cho các đơn vị cấp tốc hành quân vào nội đô và triển khai đội hình chuẩn bị tấn công. Đại đội 16 của đồng chí Nguyễn Như Trang chiếm lĩnh trụ sở cũ của Bộ chỉ huy Hà Nội tại Lò Lợn (lúc này Bộ tư lệnh đã rút vào Hà Đông), Đại đội 15 của Triệu Minh, Đặng Quý lên đóng tại Nhà thương Chó (nay là Tổng cục Lâm nghiệp), Đại đội 14 của Lê Ty, Lê Ngọc Chữ đóng tại khu vực dãy nhà 24 gian phố Duy Tân. Lúc 8 giờ 03 phút đèn điện tắt và tiếng nổ lớn ở Nhà máy điện báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Hai trung đội của Đại đội 16 tấn công vào cảng Phà Đen, 1 trung đội còn lại tấn công vào nhà 3 sĩ quan cao cấp Pháp trên đường Trần Khánh Dư. Đại đội 14 chia nhỏ các tiểu đội đi phối hợp với các tự vệ tiêu diệt các ổ đề kháng của địch tại phố Lê Văn Hưu, Nguyễn Du, Bà Triệu, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm, Thi Sách... Tại cảng Phà Đen địch có 1 đại đội cơ động bộ binh trên sông và một số thuyền chiến đấu, LCT và canô. Đêm 19-12 quân địch đóng tại đây chỉ có 1 trung đội nên khi 2 trung đội của Đại đội 16 tiến đánh thì bọn chúng hốt hoảng bỏ chạy về nhà thương Đồn Thủy ngay từ những loạt lựu đạn đầu tiên, quân ta truy kích tiêu diệt một số và chiếm lĩnh cảng. Đơn vị tấn công vào nhà 3 sĩ quan cao cấp của Pháp không tiến vào được vì bọn lính bảo vệ dựa vào công sự kiên cố bắn chặn quyết liệt. Phía Đại đội 15, đại đội phó Đặng Quý dẫn 1 trung đội tấn công Viện Pasteur. Sau nhiều lần xung phong không vào được, đơn vị đã lợi dụng đường cống ngầm chui vào trong Viện bất ngờ tập kích tiêu diệt hai ổ súng máy ở cổng để quân ta xung phong vào chiếm lĩnh trận địa một cách thắng lợi. Một trung đội khác đóng tại trường Đại học Y đường Lê Thánh Tông đã chặn đánh một đoàn xe cơ giới của địch từ Đồn Thủy kéo ra chi viện cho quân của chúng đóng tại khu vực Nha khí tượng và khách sạn Metropol cạnh Nhà hát lớn. Bên Đại đội 14 từ 21h ngày 19-12 đến 06h ngày 20-12 các tổ chiến đấu của đại đội cùng với tự vệ chiến đấu khu Lò Đúc, khu Chợ Hôm, khu Bảy Mẫu, tiêu diệt 18 ổ đề kháng. Ngày 20-12 địch tấn công vào cảng Phà Đen, Viện Pasteur với lực lượng lớn có xe tăng, thiết giáp yểm trợ. Để bảo toàn lực lượng, quân ta đã rút về phía sau. Tại nhà thờ Hàm Long, địch cho xe bọc thép xuống đón một số kiều dân Pháp và một số tay sai người Việt chạy trốn vào nhà thờ đêm 19-12 đã vấp phải 2 trung đội của Đại đội 15 đóng tại trường Hàm Long và đường Trần Hưng Đạo. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, mặc dầu có lợi thế về vũ khí địch vẫn không thể nào tiến vào trong trường, bị thương và chết khá nhiều trước mũi súng của quân ta cố thủ trong các lớp học. Đến 12h trưa địch buộc phải rút, bỏ lại một số xác chết không mang đi được. Đêm 20-12, 1 trung đội của Đại đội 14 phối hợp với 1 đơn vị của Tiểu đoàn 77 tiêu diệt nốt ổ đề kháng cuối cùng của địch tại rạp Majestic. Ngày 21-12 địch huy động lực lượng tấn công từ nhiều phía trong phạm vi trận địa của Tiểu đoàn 212, có các trận ngã năm Lò Đúc, ngã tư Lò Đúc, Nguyễn Công Trứ và một trận lớn tại Nhà Rượu. Tại ngả năm Lò Đúc mặc dầu địch dùng pháo 75 ly bắn phá vào ụ chiến đấu nhưng bộ binh của chúng không làm sao tiến lên được vì lực lượng tự vệ Chợ Hôm đánh chặn rất quyết liệt. Tại ngã tư Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ địch cũng vấp phải sự kháng cự rất quyết liệt của quân ta, đặc biệt là bị các chiến sĩ của Đại đội 15 đánh ngang sườn từ trong Nhà thương Chó. Địch phải vòng qua Phạm Đình Hổ vào Hòa Mã phá đổ tường vào trong Nhà Rượu. Tại đây quân địch lại vấp phải lực lượng chiến đấu của Đại đội 1 Tiểu đoàn 56 và 1 trung đội của Đại đội 14 cùng với 1 tiểu đội tự vệ của tiểu khu Chùa Vua. Cuộc chiến đấu trong nhà máy Rượu diễn ra hết sức ác liệt suốt từ 10h sáng đến 18h chiều địch không sao chiếm được nhà máy Rượu đành phải rút lui. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 12:55:09 pm Đêm 21-12 quân ta tấn công chiếm lại cảng Phà Đen và Viện Pasteur và giữ vững đến đêm 24-12 thì được lệnh rút về phía sau. Ngày 22-12 địch tiếp tục tấn công vào ụ chiến đấu ngã tư Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ. Tại ụ chiến đấu địch dùng súng phóng lựu đạn bắn vào sau lưng các chiến sĩ của ta và sau đó dùng súng phun lửa quét vào cây lớn, bàn ghế xếp trên ụ nên các chiến sĩ của ta phải rút vào trong nhà Rượu và khu Chùa Vua. Sau khi phá vỡ chướng ngại vật địch cho một mũi tấn công xuống Ô Đống Mác và 1 mũi tiến vào Nhà Rượu. Tại đây Đại đội 1, Tiểu đoàn 56 đã được lệnh rút về giữ chốt Ô Cầu Dền, chỉ còn lại 1 trung đội của Đại đội 14 và 2 tiểu đội tự vệ khu Chợ Hôm nên sức chiến đấu giảm hơn trước rất nhiều. Quân ta chỉ cầm cự được hơn 3 tiếng là phải rút về khu Chợ Hôm. Ngày 23-12-1946 địch cho xe tăng và thiết giáp tiến về Ô Đống Mác và cho 150 lính bộ binh tiến theo đê Trần Khát Chân xuống dốc Vĩnh Tuy. Tại đây ta có một trung đội thuộc Đại đội Quang Biền của Tiểu đoàn 77 và 2 trung đội của Đại đội Triệu Minh của Tiểu đoàn 212. Trước hỏa lực dày đặc của địch, 3 trung đội này dạt vào 2 phía Lương Yên và Thanh Nhàn. Địch tiến đến đầu dốc Vĩnh Tuy, gặp ụ chiến đấu lớn của ta và bị hỏa lực của Đại đội 16 bắn chặn, chúng phải rút về trú quân tại đình Lương Yên (một bộ phận về đóng ở Ô Đống Mác). Tại đình Lương Yên chúng mổ bò và tổ chức ăn uống, bất ngờ các đơn vị của ta áp sát và tấn công: hàng chục quả lựu đạn được tung vào giữa đám quân của địch đang sửa soạn ăn uống. Hàng chục tên bị trúng lựu đạn ngay từ loạt đầu, bọn còn lại hốt hoảng la hét tháo chạy về phía Ô Đống Mác. Có tên còn không kịp xách theo vũ khí, bộ đội ta hò reo đuổi theo, có cả lực lượng của Đại đội 14 ở Thanh Nhàn tham gia. Quân Pháp ở Ô Đống Mác thấy đồng bọn hốt hoảng chạy về cũng vội vàng tháo chạy, quân ta truy kích địch đến gần Nhà thương Chó mới thôi. Trận đánh này ta tiêu diệt gần 40 tên địch. Đồng thời với trận đánh này tại khu vực Chợ Hôm địch vây ta trong một khu vực gần các phố Duy Tân, Lê Văn Hưu, Ngô Thì Nhậm và Nhà Rượu, Nguyễn Công Trứ. Chúng bố trí xe tăng ở các ngã tư cho quân phá cửa các nhà dồn lực lượng chiến đấu của chúng ta từ nhà nọ sang nhà kia để tiêu diệt. Tại khu vực Trần Xuân Soạn, Hòa Mã, kế hoạch này chúng không thực hiện được vì các nhà ở đây thông nhau, lực lượng chiến đấu của Đại đội 3, Tiểu đoàn 77 và tự vệ khu Chợ Hôm chẹn cửa rất an toàn nơi nào địch vào được đều bị chặn lại. Riêng tại khu vực Ngõ Huế, Duy Tân, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Công Trứ, phía sau là nghĩa địa Sài Gòn và vườn rau trống trải (nay là khu vực Công ty xe khách 14), trung đội Việt Tử của Đại đội 15 đóng tại đây bị địch bao vây 4 phía đã chiến đấu anh dũng suốt cả ngày và hy sinh tới người cuối cùng. Tin trung đội Việt Tử hy sinh đã khơi dậy lòng căm thù của tất cả các chiến sĩ trong Tiểu đoàn 212, nên đêm 23-12 khi ban chỉ huy Liên khu 2 ra lệnh tất cả đơn vị tấn công vào các mục tiêu của địch thì các chiến sĩ tiểu đoàn nhất tề xuất kích. Đại đội 16 tấn công khu vực Đồn Thủy và trụ sở công binh của địch, Đại đội 15 tấn công trường Đại học và Nha khí tượng, Đại đội 14 tấn công vào cơ sở của địch bên hồ Thiền Quang gây cho địch nhiều thiệt hại. Đặc biệt Đại đội 15 đã tiêu diệt 2 tiểu đội Pháp và giải thoát cho hơn 20 đồng bào bị giam cầm tại đây. Ngày 24-12 địch tổ chức càn quét khu vực Vân Hồ và khu vực Chùa Vua cũng vấp phải sự kháng cự của Đại đội 15 và Đại đội 14, đến 16 giờ chiều cả hai đại đội được lệnh rút sang phía kia đê Bành Lao và đê Đại Cồ Việt. Từ ngày 25-12 kết thúc giai đoạn 1 của cuộc chiến đấu tại Liên khu 2 Hà Nội, giai đoạn chiến đấu trên đường, bắt đầu giai đoạn 2 và giai đoạn phòng ngự trên các chốt Ô Đống Mác, Ô Cầu Dền, ngã tư Kim Liên chống địch tấn công ra ngoại thành. Đại đội 14 được bố trí từ Ô Cầu Dền vào làng Quỳnh Lôi ngăn địch tấn công qua đê Bành Lao. Đại đội 15 bố trí trong làng Thanh Nhàn và chiếm cứ Ô Đống Mác. Đại đội 16 đóng trong khu vực Lương Yên và Vĩnh Tuy chốt giữ đầu dốc Vĩnh Tuy và ngã ba Vĩnh Tuy - Minh Khai. Ngày 27-12 tiểu đoàn trưởng Quang Tuần lên làm tham mưu đốc chiến tại ban chỉ huy mặt trận Liên khu 2 Hà Nội, đồng chí Tuấn Sơn về làm tiểu đoàn trưởng. Từ ngày 26-12-1946 đến ngày 14-1-1947, ngày nào địch cũng cho quân đánh vào tuyến phòng ngự của ta nhưng đều vấp phải sự đánh trả quyết liệt nên không sao tiến được. Đặc biệt có trận đánh ngày 13-1-1947, địch huy động hai tuyến quân đồng thời tiến đánh Ô Đống Mác theo đường Lò Đúc và chốt Ba Hàng đầu dốc Vĩnh Tuy theo đường đê từ Lương Yên xuống. Mũi tấn công Ô Đống Mác bị Đại đội 15 chặn đánh quyết liệt nên địch không thể qua được. Mũi đánh Ba Hàng địch cho xe tăng, xe thiết giáp, pháo 37 ly và trọng liên 12 ly 7 bắn xối xả vào chốt. Tại khu vực Đại đội 16 có lần chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội là đồng chí Vương Thừa Vũ đến thăm. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí chỉ huy trưởng đại đội trưởng Như Trang cho ém quân dưới các bãi ngô dọc theo chân đê và dùng súng cối 60 và 81 ly bắn vào xe của địch. Lần đầu tiên bị đánh bất ngờ bằng súng cối, tăng thiết giáp của địch rút chạy bỏ mặc bộ binh chơ vơ trên đê, bộ đội ta nhất tề xung phong, quân địch hốt hoảng bỏ chạy. Quân ta truy kích tới gần Lò Lợn mới thôi. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 03 Tháng Mười Một, 2022, 12:55:45 pm Ngày 18-1-1947 địch tổ chức tấn công dọc theo bờ đê xuống Thúy Lĩnh và Nam Dư nhưng bị lực lượng của tiểu đoàn chặn đánh dữ dội. Tại Nam Dư Đại đội 16 được chi viện của 2 khẩu pháo 75 ly (bí mật đưa từ Thủ Khối - Gia Lâm sang) chặn đánh bắn hỏng hai xe tăng và tiêu diệt một số sĩ quan binh linh địch. Ngày 1-2-1947 địch tổ chức càn quét khu vực Hoàng Mai, Mai Động và các khu Giáp Nhị, Giáp Tứ, Giáp Lục cũng bị Đại đội 14 và dân quân du kích Hoàng Mai chặn đánh khiến cho cuộc càn quét của chúng thất bại phải rút về nội thành. Ngày 7-2-1947 toàn bộ tiểu đoàn được lệnh rút khỏi Hà Nội để đi làm nhiệm vụ khác, trong 50 ngày đêm chiến đấu tại Mặt trận Hà Nội tiểu đoàn đã tiêu diệt khoảng 180 tên địch, phá hỏng 4 xe tăng và thiết giáp, thu 50 vũ khí bộ binh các loại. Tiểu đoàn đã hy sinh 56 cán bộ chiến sĩ nhưng đồng thời cũng thu nhận 2 trung đội tự vệ của khu Lò Đúc và Thanh Nhàn vào biên chế của tiểu đoàn. Vào khoảng 20-2-1947, sau tết Nguyên đán Đinh Hợi, tiểu đoàn được lệnh chuyển quân lên Xuân Mai (Hà Tây) để chấn chỉnh đội ngũ và chuẩn bị lên đường đi Sơn La, Lai Châu với mục tiêu là đánh phá địch phía Thượng Lào, giữ sườn phía tây của quân ta và phối hợp với quân cách mạng của nước Lào. Đến thời điểm này Tiểu đoàn 212 được đổi tên thành Tiểu đoàn 150 do anh Tuấn Sơn làm tiểu đoàn trưởng, anh Bình Kim làm tiểu đoàn phó, anh Lê Tư làm chính trị viên. Sau khi ổn định tổ chức, tiểu đoàn hành quân về hướng tây, theo đường số 6 qua Lương Sơn, Phương Lâm, Chợ Bờ, Suốt Rút rồi tiếp theo ngược dòng sông Mã đánh chiếm Mường Lát, sau đó tiến đánh Sốp Hào, Sốp Bao (Lào). Đây là lần thứ hai tiểu đoàn hành quân đường dài lên miền Tây và trở lại Sầm Nưa. Tiểu đoàn đã cùng các đơn vị bạn đánh nhanh, đánh mạnh làm cho địch tháo chạy tán loạn, giải phóng một vùng dọc hữu ngạn sông Mã tới Sầm Tớ, giúp bạn Lào xây dựng căn cứ kháng chiến. Một giai đoạn mới của cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt nhưng hết sức vẻ vang của tiểu đoàn đã bắt đầu từ đó. Năm 1948, tiểu đoàn trong đội hình Trung đoàn 52 trở lại Hòa Bình với nhiệm vụ là tiểu đoàn tập trung, hỗ trợ cho các đại đội độc lập hoạt động vũ trang diệt địch và xây dựng căn cứ kháng chiến trên địa bàn tỉnh Hòa Bình và hai huyện Nho Quan, Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chủ lực cơ động bao vệ vùng giải phóng. Năm 1949, tiểu đoàn được điều động tăng cường cho Trung đoàn 66 là đơn vị chủ lực cơ động của Liên khu 3 với phiên hiệu mới: Tiểu đoàn 766 mang bí danh tên người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Thi đua lập công cùng với các đơn vị bạn, tiểu đoàn đã góp phần tạo nên sức chiến đấu cao của trung đoàn, được Bộ Tổng tư lệnh tin cậy, đồng bào mến mộ và làm cho quân thù khiếp sợ. Như có duyên với nước bạn, đầu thập kỷ 50, trong đội hình của Trung đoàn 66, tiểu đoàn đã hành quân làm nghĩa vụ quốc tế lần thứ ba ở Thượng Lào vùng Xiêng Khoảng và lần thứ tư ở Trung Lào. Ở hai địa bàn này, tiểu đoàn đã góp phần vào thẳng lợi của chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thẳng lịch sử Điện Biên Phủ. Thời ấy tiểu đoàn mang mật danh Xã Quảng, được phép thừa thắng vận động xuống Hạ Lào chiến đấu. Nơi đây bên cạnh các chiến công, tiểu đoàn còn ghi thêm một dấu ấn nghĩa tình "vừa là đồng chí, vừa là anh em", đào một con mương qua núi đá giúp dân lấy nước canh tác, được bà con Lào đặt tên là "mương Xã Quảng". Trải qua nhiều năm tháng chiến đấu, nhiều cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn đã anh dũng hy sinh, nhiều cán bộ chỉ huy của tiểu đoàn được điều động đi các đơn vị khác và nhiều cán bộ đã được bổ sung. Nhưng truyền thống tốt đẹp của tiểu đoàn như bản lĩnh chiến đấu, tinh thần khắc phục khó khăn, tình đoàn kết quân dân luôn được giữ vững và phát huy. Đến thời kỳ chống Mỹ xâm lược, tiểu đoàn được đổi phiên hiệu là Tiểu đoàn 9, vẫn là một đơn vị hợp thành của Trung đoàn 66, trong đội hình sư đoàn Vinh Quang lừng danh thiện chiến. Tiểu đoàn đã cùng các đơn vị bạn đánh bại các sắc lính sừng sỏ và tàn ác của Mỹ ngụy, từ sông Bến Hải tới Sài Gòn và ngày 30-4-1975 đánh chiếm dinh Độc Lập, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trước khi trở ra Bắc, tiểu đoàn đã tham gia giúp nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt. Trải qua hai cuộc kháng chiến với 5 lần làm nghĩa vụ quốc tế, từ tiểu đoàn Vệ quốc quân 212 của Hà Nội, đến Tiểu đoàn 150 Tây Tiến, Tiểu đoàn 766 Nguyễn Huệ rồi Tiểu đoàn 9, tiểu đoàn đã may mắn có được vinh dự quý hiếm là vừa là tác giả, vừa là nhân chứng của những mốc son trong lịch sử như: có nhiều thành viên tham gia khởi nghĩa tháng 8-1945 tại Hà Nội, lực lượng đầu tiên làm nghĩa vụ quốc tế, đánh thắng trận đầu ở miền Tây, một lực lượng hỗ trợ đắc lực cho chiến thắng Điện Biên Phủ, một bộ phận trong lực lượng mũi nhọn chiếm dinh Độc Lập giải phóng Sài Gòn. Hành trình của Tiểu đoàn 212 Hà Nội trải qua suốt chiều dài của đất nước và hai nước bạn thật đáng tự hào. THANH TÙNG – NGUYỄN HIỀN Nguyên trưởng Tiểu ban Tuyên huấn trung đoàn Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Một, 2022, 04:21:32 pm KHÚC CA NGƯỜI LÍNH
Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Một, 2022, 04:22:38 pm
Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Một, 2022, 04:29:04 pm
Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Một, 2022, 04:38:39 pm
PHẠM DUY NGHĨA ____________________________________________________1. Tiếng Lào. Xa-ma-khi = đoàn kết 2. Tiếng Lào. Tín Pha-lăng = đánh giặc Pháp 3. Tiếng Lào. Sầm-bai = lời chào 4. Tiếng Lào. Phà, Ma, Ai, Noọng = Bố, mẹ, chị, em. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Một, 2022, 04:41:17 pm TRẬN KỲ TẬP DIỆT ĐỊCH Ở BỐT TRUNG PHU, NAM ĐỊNH (1948) Năm 1947, sau khi chiếm được thành phố Nam Định, quân địch một mặt dựng lên chính quyền tay sai để kiểm soát kìm kẹp nhân dân trong thành phố, đồng thời mở các cuộc hành quân càn quét ra vùng nông thôn dựng tề, lập đồn bốt trên các trục đường 10 Nam Định đi Ninh Bình, đường 12 từ Nam Định đi Gián Khẩu, thực hiện chính sách bình định phục vụ cho mục đích chiếm đóng của chúng. Quân ta đã thực hiện nhiều trận đánh vào các mục tiêu quan trọng trong thành phố gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, sau đó đã chủ động rút ra chiếm lĩnh vùng nông thôn để xây dựng củng cố lực lượng và cùng với nhân dân vừa sản xuất vừa chống càn bảo vệ xóm làng đẩy mạnh chiến tranh du kích. Đại đội 69 thuộc Trung đoàn 34 bộ đội chủ lực Nam Định do đồng chí Đinh Văn Mẫn - là đại đội trưởng và đồng chí Nguyễn Huân là chính trị viên chỉ huy đóng quân ở các làng thuộc xã Bảo Ngũ, huyện Vụ Bản làm nhiệm vụ có tính chất độc lập, chống càn và chủ động đánh địch trên hai trục đường 10 và 12 để bảo vệ nhân dân sản xuất và giữ làng. Đầu năm 1948, quân địch ở các bốt Trung Phu, Trình Xuyên, Quả Linh thường xuyên càn quét vào các làng mạc để cướp bóc đốt phá, bắt lính và hãm hiếp phụ nữ. Dân các làng ven đường 10, 12 ban ngày đã phải tản cư, ban đêm về gặt hái lương thực, thường bị chúng quây bắt. Có người bị bắt, chúng đã chặt đầu đưa ra chợ bêu để uy hiếp nhân dân. Để bảo vệ nhân dân về thu hoạch lúa chiêm đang chín và tiến lên xây dựng vùng chiến tranh du kích, bộ đội chủ lực chủ động bố trí lực lượng phá càn, đồng thời tìm cách đánh thẳng vào các bốt nhằm tiêu diệt một bộ phận quân địch làm cho chúng hoang mang lo sợ không dám hung hăng càn quét. Để thực hiện ý đồ trên, Ban chỉ huy đại đội đã giao nhiệm vụ cho tổ trinh sát khẩn trương điều tra nắm chắc lực lượng địch ở các bốt và qui luật tuần tiễu ngày đêm của chúng, lựa chọn mục tiêu và cách đánh thích hợp. Là một trinh sát viên, tôi cùng tổ trinh sát của đại đội đã cải trang trà trộn với dân quê đi lại chợ búa nhiều lần để điều tra nắm địch. Chúng tôi đã bắt được tổng Huân, một tên tay sai gian ác đưa về khai thác tài liệu. Sau nhiều ngày đêm tiếp cận địch, tổ trinh sát về bán cáo tình hình và đề nghị với Ban chỉ huy đại đội kế hoạch lựa chọn mục tiêu và hình thức tác chiến. Đó là đánh vào bốt Trung Phu bằng hình thức cải trang kỳ tập. Bốt Trung Phu đứng sau bốt Trình Xuyên và Quả Linh trên đường 10, lực lượng có một trung đội lính dõng do tên Việt gian Đãi và tên tổng Huân chỉ huy, còn bốt Trình Xuyên có lực lượng và hỏa lực mạnh do viên quan ba Pháp chỉ huy. Trung Phu ở phía sau Trình Xuyên có tổ chức bảo vệ sơ sài hơn, lại cách Nam Định 7 km. Về qui luật hoạt động, chúng thường tuần tiễu vào ban đêm theo các trục đường để chặn bắt cán bộ và du kích qua đường 10, nhưng lại đi lùng sục ráo riết từ tối đến quá nửa đêm. Ta có thể lợi dụng sơ hở quãng gần sáng bọn tuần tiễu cũng như bọn canh gác trong đồn bốt đã mệt nhọc. Ban chỉ huy đại đội đã nhất trí và quyết định đánh bốt Trung Phu bằng kỳ tập. Tổ chức một tiểu đội đặc nhiệm, cải trang và trang bị như một đội tuần tiễu của địch do một viên đội Tây chỉ huy và đánh vào thời điểm trời vừa sáng trước khi quân địch trong bốt phát lệnh báo thức. Ban chỉ huy đại đội quyết định cử Bi-a-li, một hàng binh người Pháp đã sớm ra hàng và xin gia nhập đơn vị, làm người lính kháng chiến qua thử thách có thể tin cậy làm viên đội Tây chỉ huy tiểu đội đặc nhiệm. Tôi là trinh sát viên đóng vai Việt gian kiêm thông ngôn dẫn đường và chọn 8 chiến sĩ dũng cảm lập đội cả thảy 10 người, tách khỏi đơn vị, tới một điểm đóng quân riêng biệt để tập luyện. Đồng thời khẩn trương tìm kiếm cho đủ vũ khí và trang phục đúng như của địch, kể cả cầu vai ve áo cho đội tây Bi-a-li. Việc tập luyện, từ cách ăn mặc quân phục, sử dụng vũ khí, nói năng giao tiếp với nhau phải đúng như tác phong của địch, sau đó mới tập trung vào phương án hành động đánh địch. Thời gian tập chủ yếu vào ban đêm, ngoài cánh đồng để bảo đảm bí mật tuyệt đối. Những ngày đêm tập luyện, chúng tôi luôn được anh Mẫn, anh Huân chỉ huy lãnh đạo sâu sát động viên tạo cho chúng tôi lòng tin và sự gan dạ, táo bạo để quyết giành chiến thắng. Tôi nhớ mãi câu nói của các anh: "Trận này có ý nghĩa rất lớn, cần quyết tâm hoàn thành thắng lợi, là trận đánh hiếm có; đây là trận đánh có nhiều ảnh hưởng về chính trị". Tôi còn nhớ hình ảnh Bi-a-li là người tây to cao đã từng là lính Pháp nên nhập vai đội tây rất đạt; còn anh Kây, anh Cao chiến sĩ ta người to lớn, ăn mặc quân phục của địch vào, súng tiểu liên si-ten khoác ngang ngực trong cũng oai vệ lắm. Riêng tôi đóng vai Việt gian thông ngôn nhưng lại không biết tiếng Tây, kể cũng liều thật, nhưng chỉ cần tập điệu bộ nghe tiếng Tây và quát tiếng ta cho khớp với tình huống đã bàn định sẵn, dĩ nhiên là Bi-a-li phải nói và ra lệnh bằng tiếng Tây đúng như kế hoạch. Sau nhiều ngày đêm tập luyện, chúng tôi đã diễn tập hành động như thật để báo cáo với Ban chỉ huy đại đội lần cuối cùng vào tối ngày 11-5, đêm cuối cùng trước giờ xuất kích. Cả đội hầu như không ai ngủ được, dù chỉ một vài giờ đồng hồ, tất cả chỉ còn chờ lệnh. Đúng 2 giờ sáng ngày 12-5-1948, cả đội nhận lệnh lên đường. Trong tình cảm tin yêu, các anh trong Ban chỉ huy đại đội chia tay từng người một. Chúng tôi xuất phát từ làng Giáp Ba, xã Bảo Ngũ, toàn đội bám sát nhau lội qua ba cánh đồng, qua làng Ngói, làng Đại Đê trong im lặng không một tiếng động bởi dân làng đã bỏ nhà cửa đi tản cư. Đêm tháng 5 gió thổi mát dịu và sóng lúa rì rào, quấn quýt lấy chân như thúc giục chúng tôi nhanh chân tới đích và chiến thắng trở về. Hơn bốn giờ sáng, đường số 10 đã chắn ngang trước mắt, toàn đội dừng lại mai phục, tổ trinh sát lên trước nắm địch. Lúc này quân tuần tiễu của địch đã rút hết, xa xa về hướng Ninh Bình đã nhìn thấy ánh đèn le lói từ bốt Trung Phu hắt ra. Bi-a-li cho đội hành tiến theo đội hình tuần tiễu, vừa đi vừa lùng sục hai bên đường. 5 giờ 30 phút, chúng tôi đã áp sát bốt Trung Phu và dừng lại lần cuối để nghe ngóng và kiểm tra. 5 giờ 50 phút trời đã sáng rõ, Bi-a-li đi trước dẫn cả đội tiến thẳng vào cổng bốt, lính tráng vừa đi vừa nói năng tục tĩu tỏ ra mệt mỏi, áo quần lấm láp sau chặng đường dài tuần tiễu lùng sục. Tôi vượt lên trước tới trạm gác quát to gọi tên lính gác đang ngủ gật: "Ê! Gác xách gì mà ngủ hả!" Tên lính gác giật mình hốt hoảng: "Việt Minh hả?" Bi-a-li quát to bằng tiếng Pháp, đại ý chửi bới bọn lính dõng canh gác gì mà ngủ gà ngủ gật. Tôi tiếp luôn: "Việt Minh cái con mẹ mày, bọn ông đi tuần suốt đêm để cho mày ngủ à, mở cửa ra cho quan Tây vào có lệnh gấp". Tên lính vội vàng mở cổng và bồng súng chào Bi-a-li. Toàn đội theo Bi-a-li tiến thẳng vào sân, bọn lính dõng vừa ngủ gật chả hiểu chuyện gì đều tỏ ra lấm lét sợ hãi. Tên Đãi, chỉ huy bốt chưa kịp ra chào đã bị Bi-a-li quát mắng ầm ĩ. Tôi lợi dụng khi tên Đãi chưa kịp trấn tĩnh đã tiếp cận ngay và lệnh cho hắn: "Đội Tây ra lệnh cho quân lính mang đủ trang bị tập hợp trước sân bốt để đi ngay sang Trình Xuyên theo lệnh của quan ba, tấn công ra Cầu Chuối - Hậu Kiệt". Cùng lúc này Bi-a-li quát tháo đốc thúc, còn anh em trong đội đã nhanh chân tiến vào các vị trí. Chẳng cần chờ cho Đãi chấn chỉnh đội hình vì chính lúc gần mọt trung đội lính dõng vừa ngủ dậy chưa kịp ăn sáng, đội ngu xộc xệch là cơ hội tốt nhất, Bi-a-li đang tỏ ra có thái độ chờ đợi sốt ruột bỗng bất ngờ rê một loạt si-ten vào quân địch làm chúng đổ rạp, anh em ta xông vào đâm lê, bắn gần diệt hơn 20 tên, thu vũ khí rút lui thật nhanh chóng. Một số tên sống sót rút chạy vào nhà thờ leo lên gác chuông. Quân ta có anh Đỡi là một chiến sĩ rất nhanh nhẹn gan dạ đã leo theo vào nhà thờ để truy cản giặc, bảo đảm cho anh em ta rút lui an toàn. Trận đánh diễn ra chớp nhoáng đến nỗi quân địch không kịp đối phó và liên lạc với nhau. Quân ta diệt hơn 20 tên địch, thu hơn chục khẩu súng, ta có anh Đỡi đã chiến đấu giữ chân địch đến cùng và hy sinh anh dũng. Trận đánh không lớn, song rất táo bạo bất ngờ làm cho địch nhất là bọn tề dõng hoang mang lo sợ không dám hung hãn càn quét cướp bóc giết hại nhân dân như trước. Đã qua hơn 50 năm, đã tham gia chiến đấu trên các chiến trường trong hai cuộc kháng chiến, nhớ lại trận đánh nay, nhớ lại những người bạn anh dũng quả cảm ngày ấy, giờ đây ai còn ai mất và hiện họ ở nơi đâu không biết được, song hình ảnh và hành động quên mình của họ vẫn còn mãi trong tôi và tôi coi đó là một kỷ niệm sâu sắc khó quên của người lính trẻ những ngày đầu cầm súng đánh giặc. VŨ DUY HÀN Chiến sĩ trinh sát Đại đội 69, Tiểu đoàn 87, Trung đoàn 34, QK3. Đầu 1949 cùng tiểu đoàn chuyển thuộc Trung đoàn 66 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Một, 2022, 04:42:57 pm TRẬN CHẶN ĐÁNH ĐỊCH Ở ĐỒNG CHIÊM - ÁI NÀNG (12-1948) Đó là một vùng đồng nước khá sâu nằm xen giữa vùng núi đá thuộc dãy Hương Tích và vùng núi đá Quèn Chồn ở bên đường 21. Đường tiến, đường lui cũng như điều kiện địa hình để triển khai đội hình chiến đấu, làm công sự phòng ngự, hầu như chỉ dựa vào các bờ ruộng, bờ đầm. Địch lại chiếm được một số điểm cao trên dãy núi Hương Tích, có thể quan sát và khống chế một vùng rộng lớn bằng hỏa lực pháo, cối và cả súng bắn thẳng. Pháo địch từ Chợ Bến, Vài, Sải và khu vực nhà thờ Đồng Chiêm - Ái Nàng đều có thể tập trung bắn tới yểm trợ cho bộ binh địch. Về phía ta, tiểu đoàn trưởng Bùi Sinh đã triển khai 2 đại đội ở phía trước, rải ra trên các tuyến bờ ruộng. Nhiều nơi bộ đội phải ngâm mình dưới nước, đắp đất thêm vào bờ ruộng để làm hố bắn, bệ tỳ, tập trung hỏa lực có trong tay để kiểm soát chặt mấy đường tiến quân ít ỏi và trống trải của địch. Trận đánh diễn ra suốt từ sáng đến chiều. Pháo địch từ các nơi liên tục dồn dập bắn vào đội hình của ta. Có thể nói từ đầu cuộc kháng chiến đến đây, trung đoàn chưa bao giờ phải chịu đựng những trận bắn pháo của địch nhiều và kéo dài gần hết một ngày như vậy. Tuy nhiên 2 đại đội của ta vẫn bám chặt trận địa. Mỗi lần địch rời khỏi lũy tre làng tiến ra hòng vượt qua cánh đồng sang khu vực đường 21, quân ta đều bình tĩnh đợi chúng đến đúng tầm bắn mới nổ súng đánh bật chúng trở lại. Các đồng chí y tá, cứu thương hết sức vất vả trong việc cấp cứu và vận chuyển thương binh về phía sau. Tất cả đều phải lội dưới nước men theo các bờ ruộng, bờ đường, có chỗ phải lội nước sâu đến ngực. Những nắm cơm do cấp dưỡng mang ra cho chiến sĩ cũng dính đầy bùn đất, nhưng anh em vẫn tranh thủ lúc địch tháo lui dùng răng tước bỏ lớp bùn đất bên ngoài mà ăn rất ngon lành. Đánh suốt một ngày dưới làn pháo địch nhưng đơn vị thương vong rất ít. Tiến không được, địch buộc phải rút về nhà thờ Đồng Chiêm lúc 5 giờ chiều và ngày hôm sau chúng phải từ bỏ ý định tiến ra chiếm đường 21 theo hướng Cầu Chồm. TRẦN QUỐC HẠNH Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 15 Tháng Mười Một, 2022, 04:46:06 pm MƯỜNG RIỆC BỐC CHÁY I LÍNH KÝ CON Tôi sinh trưởng ở xứ Nghệ, từ nhỏ đến tuổi trưởng thành chưa được đi xa qua địa giới tỉnh nhà. Sau Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, hoạt động trong tổ chức Thanh niên Cứu quốc Việt Minh. Tháng 2-1946 vào Vệ quốc đoàn ở Vinh. Sau 9-3-1946 tôi được chuyển sang lính tiếp phòng tỉnh Nghệ An, huấn luyện cơ bản xong được chỉ định làm trung đội phó và chuyển toàn đại đội tăng cường cho Tiểu đoàn 2 tiếp phòng quân Thanh Hóa. Tháng 11-1946 quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng. Tiểu đoàn 2 được Bộ điều động ra chi viện cho mặt trận Hải - Kiến (Hải Phòng - Kiến An) một đại đội. Thế là toàn đại đội chúng tôi lên đường ra mặt trận. Đến thị xã Kiến An, đại đội nhập vào Tiểu đoàn 56, Trung đoàn 41, Khu 3 (nay là Trung đoàn 42). Trung đội tôi được đại đội giao cho chiếm lĩnh, phòng ngự đoạn đường từ Cầu Rào ngã ba Tạm Xá đến đèo Đồn Riêng (Đồ Sơn). Từ 31-11-1946 đến hết năm 1946 tác chiến cầm cự với quân Pháp tại sân bay Cát Bi, Cầu Rào, ngã ba Tạm Xá, làng Trà Khê, Phấn Dũng và dọc đường về thị xã Kiến An. Đầu năm 1947, trung đoàn điều đại đội về mặt trận Thái Bình thuộc Tiểu đoàn 53. Lúc này địch đang tăng cường quân dù, hải quân để giải vây cho Nam Định. Tháng 4-1947 địch tiến công thị xã Thái Bình, trung đội tôi tác chiến trên đường 10, Tân Đệ - Thái Bình. Tôi được đề bạt làm trung đội trưởng. Đơn vị cơ động chiến đấu trên địa bàn mấy tỉnh: Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên. Đầu năm 1948 đại đội tôi tách ra, chuyển sang địa bàn Khu 2 sáp nhập vào Tiểu đoàn 101 Nam Định, hoạt động ở Hà Đông tiếp đó chuyển về Trung đoàn 66 và đến năm 1949 Tiểu đoàn 101 lại chuyển lên Đại đoàn 308. Sau này các đơn vị mạnh của Khu 3, 2 cũ gồm: Tiểu đoàn 87, Tiểu đoàn Ký Con, Tiểu đoàn 150 Tây Tiến, tổ chức thành trung đoàn chủ lực của Liên khu 3, tăng cường một tiểu đoàn hỏa lực. Như vậy là sau những trận chống càn trong chiến dịch Thu Đông 1948 địch đánh vào Mỹ Đức - Hà Đông, năm 1949 Trung đoàn chủ lực 66 biên chế 4 tiểu đoàn hoàn chỉnh: - Tiểu đoàn 87 (Lê Lợi) - Tiểu đoàn Ký Con (Cô Tô) - Tiểu đoàn 150 (Nguyễn Huệ) - Tiểu đoàn trợ chiến (Hoàng Diệu) Và trung đoàn mang danh hiệu Ký Con. Từ đây tôi là người lính Ký Con. Thực ra lính Ký Con vẫn là anh lính Cụ Hồ, quân đội nhân dân. Nhưng quá trình trưởng thành và hoạt động nhiều ở các thành phố lớn như Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, cán bộ chiến sĩ có nhiều anh em là học sinh, tiểu tư sản thành thị, dân nghèo nên tính cách, tác phong có những nét độc đáo. Thời đó có một khẩu hiệu nghe ra rất "tếu" của bộ đội Ký Con là: "Vui nổ trời, chơi lở đất, đánh chết thôi". Vậy đó, tiếng lành đồn xa, khi bộ đội Ký Con được tổ chức vào đội hình Đại đoàn 304 vẫn được người dân khu 4, các đơn vị bạn trong đại đoàn e nể và dè chừng! Khởi đầu cuộc binh nghiệp tôi được rèn luyện cứng cáp trưởng thành lên cũng từ cái nôi này. Đã tròn nửa thế kỷ, từ cái tuổi mười chín - đôi mươi nay đã qua cái tuổi cổ lai hy - ngần ấy năm tháng làm việc và chiến đấu, bạn bè, chiến hữu gần xa, kẻ còn người mất, ngẫm lại sự đời, cái chung và cái riêng, vinh dự, tự hào... qua sự biến thiên của lịch sử - thăng có trầm có - mình vẫn giữ trọn vẹn cái bản chất anh bộ đội Cụ Hồ, đã một thời làm lính bộ đội Ký Con. II MƯỜNG RIỆC BỐC CHÁY (1949) Sau đợt rèn cán chỉnh quân mùa hè 1949, Tiểu đoàn Cô Tô nhận nhiệm vụ đi chiến đấu. Trung đoàn 66 giao cho tiểu đoàn tiêu diệt đồn Mường Riệc. Đồn Mường Riệc là đơn vị tiền tiêu cho đồn chính Vụ Bản phía đông nam đường 12. Lực lượng có khoảng 60 tên ngụy Mường và 3 hạ sĩ quan, sĩ quan Âu Phi chỉ huy, đóng trên đồi cỏ gianh lúp xúp, vũ khí có 2 cối 60, phóng lựu, 4 khẩu trung liên, chủ yếu là tiểu liên và súng trường, xung quanh rào tre lông nhím. Lực lượng địch có như vậy cho nên Tiểu đoàn Cô Tô giao cho Đại đội 1 (Ký Con cũ) trực tiếp tiêu diệt đồn này. Nhận nhiệm vụ làm công tác chuẩn bị trực tiếp khoảng 10 ngày, nào lên phương án tác chiến, đắp sa bàn diễn tập, chuẩn bị trang bị vũ khí như mìn phá rào, thang vượt rào v.v... Hoàn tất công tác chuẩn bị về mọi mặt xong xuôi, đại đội báo cáo với cấp trên cho thực hiện nhiệm vụ. Ngày 29-6-1949 trung đoàn phát lệnh cho tiểu đoàn đánh Mường Riệc. Từ địa điểm tập kết vùng đồn điền Phạm Lê Bổng cách Mường Riệc khoảng 15-20 km, toàn tiểu đoàn hành quân chiến đấu từ chiều, các đại đội chặn viện, dự bị đi sau. Riêng Đại đội 1 trực tiếp diệt đồn đi trước phải ém quân bao quanh đồn trước 12 giờ đêm. Đêm cuối tháng không trăng sao, trời tối như bưng, toàn đại đội giăng đội hình bao vây, ém quân đúng kế hoạch, tuyệt đối bí mật, mọi sự diễn ra thuận lợi. 12 giờ đêm đúng giờ G, tiểu đoàn trưởng Nhật Tiến phát lệnh công kích. Trung đội 1 do đồng chí Trần Bá Đặng, trung đội trưởng phá cửa mở hướng cổng chính. Trung đội 2 do đồng chí Nguyễn Phúc Trạch, trung đội trưởng đột phá phía sau. 6 quả mìn đĩa đồng thời phát nổ tung hàng rào, hỏa lực ta bắn yểm hộ, 4 tiểu đội xung kích (b1 có 2; b2 có 2) ào ạt xung phong vào đồn. Vì bị bất ngờ, địch không kịp đối phó, quân ta làm chủ chiến trường ngay từ đầu, chúng bị tiêu diệt gần hết, số bị chết, bị thương, số bị bắt sống. Khoảng 5-6 tên lợi dụng khe hở phía sau không có quân ta bố trí chạy thoát về Chiềng Vang. Trận đánh nhanh gọn chỉ diễn ra khoảng 20-30 phút, đại đội chưa cần sử dụng Trung đội 3 dự bị tung vào chiến đấu. Ta bị thương 5. Đánh xong thiêu hủy đồn, dọn chiến lợi phẩm, giải quyết thương binh tử sỹ, rút lui an toàn. Đại đội 1 mở màn chiến dịch Xuân Hè 1949 thắng lợi - Trận kỳ tập đồn Mường Riệc thắng lợi không lớn lắm nhưng rất quan trọng vì nó mang ý nghĩa thí điểm một phương thức tác chiến mới: Đánh kỳ tập có tổ chức, có chuẩn bị một cách toàn diện, từ tinh thần đến cách đánh cụ thể, được chi bộ lãnh đạo bàn bạc kỹ lưỡng, thông suốt mọi vướng mắc cho cán bộ và chiến sĩ trong việc chấp hành nhiệm vụ chiến đấu. Qua trận đánh này, trung đoàn chỉ đạo các đơn vị nghiên cứu rút kinh nghiệm. Cung cách đánh đồn nhỏ và vừa thời đó cũng đã sơ bộ hình thành và từng bước được hoàn thiện. Vinh dự và tự hào đã có một thời được chiến đấu cùng các đồng chí, đồng đội trong một đơn vị có bề dày truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. NGUYỄN PHÚC TRẠCH Nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Cô Tô Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 02:54:33 pm CHIẾN THẮNG HOÀNG DƯƠNG, TỬ DƯƠNG HUYỆN ỨNG HÒA Sau chiến thắng Đồng Bến, tinh thần cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Lê Lợi rất hồ hởi phấn khởi, hăng hái thi đua lập công. Tiểu đoàn tiếp tục xây dựng đánh tập trung, thay cho cách đánh phân tán từng đại đội trước đây, trên cơ sở đề cao ý thức chủ động hiệp đồng của các đại đội theo kế hoạch, theo tiếng súng nổ và trình độ thuần thục chiến đấu của tổ 3 người, của tiểu đội... Tháng 4-1950, tiểu đoàn được lệnh chuyển về Hà Đông tổ chức đánh địch càn quét lấn chiếm ra 2 huyện Mỹ Đức, Ứng Hòa. Vào thời điểm này, địch đã lập các đồn bốt ở Vân Đình, Ngã Tư Vác, Viên Nội, Làng Miêng. Ngoài lực lượng đồn trú, chúng thường có một lực lượng cơ động nống ra lùng sục, càn quét vùng giáp ranh nhằm hoàn chỉnh vùng chiếm đóng của chúng từ Vân Đình, qua Mỹ Đức (tỉnh Hà Đông) và phát triển xuống Kim Bảng, Phủ Lý (tỉnh Hà Nam). Nắm được quy luật hoạt động của địch, tiểu đoàn đã chủ động về trú quân tại khu vực làng Đức Thụ, Lai Thụ, Lê Xá để tiếp cận địch hơn, tạo điều kiện thuận lợi tiến công tiêu diệt địch. Rạng sáng ngày 12-5-1950, địch sử dụng một đại đội thuộc tiểu đoàn cơ động phân khu quán Tròn (khoảng hơn 80 tên trong đó gần một nửa là lính Âu Phi do tên trung úy Benzert chỉ huy từ Ba Thá nống ra hướng Kênh Đào, Đoan Nữ huyện Mỹ Đức. Khi địch từ Ba Thá hành quân về hướng Tuy Lai, tổ trinh sát ta do đồng chí Thư và đồng chí Thái đã bám sát địch báo cáo với Ban chỉ huy tiểu đoàn. Khoảng giữa trưa thì địch tiến đến làng Đoan Nữ (hữu ngạn sông Đáy). Chúng dừng lại đó, vì cho rằng nếu tiến sâu hơn nữa dễ bị ta đánh. Chúng tìm cách lội qua sông, theo dọc đê tả ngạn sông Đáy rút về căn cứ. Như vậy, du kích, bộ đội sẽ bị bất ngờ, không dễ gì phục kích đánh chúng được! Được nguồn tin báo cáo của trinh sát tiểu đoàn và cảnh giới của địa phương thông báo qua điện thoại, tiểu đoàn trưởng Lê Ngọc Hiền sơ bộ nhận định về địch, hạ quyết tâm ban đầu, và lệnh cho các đơn vị cấp tốc hành quân lên phía trước đánh địch. Khi ra lệnh cho các đại đội hành quân, tiểu đoàn trưởng đã cùng đội trinh sát và thông tin chạy lên trước đội hình, lội qua sông Đáy tại bến lội thuộc làng Áng Hạ (mức nước ở đây nơi sâu nhất từ 0,80 - 1m). Trên đường tiến lên phía trước tìm đánh địch, cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn đã liên tục gặp những đoàn dân tản cư về phía sau tránh giặc, phần đông là người già, phụ nữ, trẻ em, người gánh, người bồng bế cháu nhỏ, vừa đi vừa nhìn bộ đội ta tiến lên phía trước một cách trìu mến, vừa dặn dò đơn vị: "Địch đã tiến đến làng này... làng nọ... Các con, các anh nhanh lên mà đánh! Nếu không, chúng sẽ đốt sạch, giết sạch...!". Những lời căn dặn trên, vừa là một thông báo về địch mới nhất cho bộ đội, vừa là lời cổ vũ mạnh mẽ nhất đối với cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn, càng tăng thêm quyết tâm bội phần giết giặc bảo vệ dân! Sau khi qua sông, tiểu đoàn trưởng tạm dừng lại tại đê cao đông nam làng Vĩnh Hạ thuộc huyện Ứng Hòa. Đây là vị trí chỉ huy ban đầu của tiểu đoàn trưởng, đồng thời cũng được coi như vị trí tập kết mà các đại đội đều phải qua đây để tiến lên phía trước sau khi nhận lệnh cụ thể cuối cùng của tiểu đoàn trưởng triển khai đội hình tiến công địch. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 12-5-1950, sau khi ra lệnh cho các đơn vị, tiểu đoàn trưởng quan sát các đại đội vận động tiếp cận địch và trực tiếp ra lệnh cho trung đội trưởng cối 81mm bắn yểm hộ. Khoảng 40-50 phút sau, các đại đội đã nổ súng tiến công địch, chiếm lĩnh đê cao, hình thành thế bao vây 3 mặt, ép địch ra bờ sông để tiêu diệt. Lúc này một trung đội của Đại đội 28 đã bám lên đê đầu làng Nghị Lộc, địch phát hiện nổ súng, đồng chí trung đội trưởng Khá hy sinh. Đại đội trưởng Thi điều ngay khẩu đội đại liên Browning 30M-2 lên và cho bắn quét dọc theo đê về phía Hoàng Dương, buộc quân địch phải dạt hết về bên đê phía bờ sông. Đồng thời cối 81 mm của tiểu đoàn đã bắn trúng khu bến lội của địch. Tiếp đó Đại đội 28 (thiếu một trung đội) sau khi vận động qua làng Hoàng Dương đã đánh bật một toán nhỏ ở đầu làng và tiến lên đê. Được sự yểm hộ đắc lực của hỏa lực đại liên, toàn Đại đội 28 tiếp tục tiến công địch khi chúng cụm lại ở vườn chuối. Tại đây, Đại đội 28 đã diệt và bắt sống được hơn một trung đội địch, số còn lại chúng lui về phía Tử Dương. Có tên lính da đen sợ quá chạy trốn vào hầm ếch cùng với dân. Khi nghe tiếng bộ đội ta đến, dân ra hiệu cho nó nấp vào trong để dân ngồi bên ngoài che kín cho. Khi được ngồi phía ngoài, người dân vội thoát ra khỏi hầm và tri hô cho bộ đội ta đến bắt địch. Khi nghe tiếng súng nổ ở hướng Đại đội 28, thì Đại đội 14 mới đến làng Cao Lãm, Ban chỉ huy đại đội động viên anh em vận động nhanh hơn để kịp hiệp đồng. Đại đội phó Đàm Thế Viêm đi cùng với trung đội đi đầu. Lên đến đê phát hiện một tốp lính da đen đang tìm chỗ đặt khẩu trung liên ở trên đê khu đền chợ Tía, đồng chí Viêm đã dùng các bin bắn chết tên xạ thủ địch. Chúng phát hiện bộ đội ta nên đã bắn trả chi viện cho quân của chúng tràn sang chiếm khu lò gạch đầu làng Tử Dương, hòng co cụm cố thủ tại đó để chờ quân cứu viện ở Ba Thá xuống. Ngụy quân ở Miêng Thượng đã bắn súng sang phía Tử Dương để yểm trợ. Địch bắn trả quyết liệt, đồng chí Minh Trung đội trưởng và đồng chí Giao liên lạc hy sinh. Lúc đó lực lượng đại đội đã lên đủ, đồng chí đại đội trưởng Tống Trần Thuật tổ chức hỏa lực chi viện cho bộ đội tiến công địch cố thủ ở khu lò gạch. Mấy khẩu súng phóng lựu đạn của ta đã bắn rất trúng, ghìm đầu địch xuống. Nắm thời cơ này, trung đội trưởng Lê Trung Cơ đã dần đầu bộ đội xung phong lên nhanh chóng chiếm được khu lò gạch, diệt và bắt 2 trung đội cùng tên chỉ huy Benzert giơ tay đầu hàng. Đại đội 42, tuy phải vận động qua cánh đồng trống trải giữa hai làng Hoàng Dương - Tử Dương, song nhờ có yểm trợ hỏa lực của Đại đội 14 và Đại đội 28, cối 81 mm của tiểu đoàn bắn trên đê, nên đại đội chiếm được đê cao mà ít thương vong. Khi chiếm lĩnh được mặt đê cao, Đại đội 42 đã phát huy hỏa lực bắn mạnh vào khu lò gạch và khu vườn chuối (nơi địch đang cố thủ), khép chặt địch trong vòng vây, kêu gọi địch vận, buộc địch phải ra đầu hàng. Trận đánh kết thúc lúc 14 giờ 30 phút. Vừa lúc đó một cơn mưa rào ập xuống nên máy bay địch khó có thể chi viện; chỉ có một chiếc Dakota bay qua khu trận địa, song máy bay địch không bắt liên lạc được với quân ở mặt đất nên đã bay đi. Cùng lúc này, tiểu đoàn trưởng đã có mặt trên đê, nơi xảy ra trận đánh, lệnh cho các đơn vị thu dọn chiến trường, kiểm tra trận địa, giải quyết các đồng chí hy sinh, bị thương, thu hồi chiến lợi phẩm và giải tù binh về phía sau. Một đoàn tù binh, giày đeo trên cổ lếch thếch, được bộ đội ta giải qua làng Đức Thụ lúc trời còn sáng, nhân dân hai bên đường hoan hô úy lạo bộ đội. Một số đồng bào vùng địch tạm chiếm tản cư ra đây còn nhận mặt được một số tên giặc trong đám tù binh đã từng gây tai họa cho gia đình làng xóm mình. Trận này, ta đã tiêu diệt gọn đại đội địch, 7 tên chết (có 1 da đen) bắt sống 81 tên (8 da trắng trong đó có tên chỉ huy đại đội; 21 da đen và 52 tên ngụy, có nhiều tên bôi da đen. Thu được: 1 đại liên, 6 trung liên, 7 tiểu liên, 1 súng ngắn, hơn 50 súng trường (hầu hết súng đều bị đất bịt nòng do khi vận động bị sục vào bãi sông, chân đê), nhiều đạn dược, một số máy vô tuyến điện. Về phía ta: Hy sinh 3 đồng chí, bị thương nhẹ một số đồng chí. 45 năm sau chiến thắng Hoàng Dương - Tử Dương (1950-1995) Đại tướng Võ Nguyên Giáp nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh quân đội, trong cuốn hồi ký "Chiến đấu trong vòng vây" đã ghi lời nhận xét như sau:"... Đây là trận vận động chiến xuất sắc ở huyện Ứng Hòa, thuộc tỉnh Hà Đông". Đại tướng Văn Tiến Dũng, trong cuộc nói chuyện với cán bộ cũng đã nhắc, đại ý: "Trận Hoàng Dương, Tử Dương, là một trận vận động chiến tiêu biểu ở đồng bằng. Các Học viện, Nhà trường cần lấy trận này là chiến lệ để cán bộ học tập". Trận này thật sự là một trận vận động chiến mẫu mực của một tiểu đoàn, ta đã diệt, bắt gọn một đại đội cơ động Âu Phi của địch, thu toàn bộ vũ khí, làm chủ hoàn toàn trận địa. Trận đánh lại diễn ra ở vùng đồng bằng, địa hình trống trải, nhiều sông ngòi, không mấy thuận lợi cho bộ đội ta tác chiến; vũ khí trang bị của tiểu đoàn lại chỉ mới được cải thiện từng phần nhờ lấy được của địch trong trận Đồng Bến. Chiến thắng đã để lại những cảm xúc sâu sắc về tình nghĩa quân dân luôn gắn bó, đoàn kết. LÊ NGỌC HIỀN Nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lê Lợi Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 02:56:58 pm MỘT CÁI TẾT KHÔNG THỂ NÀO QUÊN Đó là Tết Canh Dần (1950) cách đây vừa tròn 50 năm. Lúc ấy, tôi là đại đội trưởng Đại đội 11, Tiểu đoàn Hoàng Diệu, Trung đoàn 66, chủ lực của Liên khu 3 củng với đồng chí Hoàng Lương làm chính trị viên. Sau khi tham gia chiến dịch Lê Lợi (tháng 11-1949) trên đường số 6 giành thắng lợi, phá được thế địch chia cắt chiến lược giữa vùng đồng bằng với căn cứ địa Việt Bắc, trung đoàn chúng tôi lui về tổ chức mừng công ở thị trấn Hồng Phú, Hà Nam, chỉnh đốn đội ngũ và nghỉ ngơi dưỡng sức. Đến mùa xuân Canh Dần, trung đoàn lại được nhận nhiệm vụ công đồn, diệt viện, phá thế chiếm đóng kìm kẹp của địch ở vùng ven đô phía bắc và tây bắc thành phố Nam Định để đẩy mạnh chiến tranh du kích và mở rộng vùng giải phóng trong khu vực các huyện Thanh Liêm, Bình Lục. Đại đội tôi đóng quân ở một thôn phía nam bến đò Quyển Sơn cách khoảng 5 km. Chúng tôi đang tích cực chuẩn bị cho một trận công đồn "Tất niên" vào ngày 29 Tết, đồng chí Ninh, quản lý đại đội cầm tiền đi chợ Duyên Sơn đong gạo. Ấy, cái tên Ninh xem ra có vẻ phù hợp với chức danh của đại đội này vì trong thời buổi bộ đội còn có nhiều thiếu thốn, đồng chí quản lý lại ưa cho bộ đội chúng tôi ăn món "bí ngô ninh nhừ" thay cho những bữa thiếu gạo, vừa có chất, vừa dễ ăn lại vừa đỡ đói lòng... Chúng tôi chờ đồng chí Ninh quá trưa mới thấy về, chắc có chuyện gì đây? Trông rõ ràng thấy đồng chí đang khoác lòng thòng mấy bao gạo lép kẹp trên vai, thất thểu bước vào cổng, vẻ mặt buồn thiu. Tôi và đồng chí Lương ôn tồn hỏi han đầu đuôi đã xảy ra chuyện gì? Với giọng nói chân tình mộc mạc, đồng chí Ninh kể tỉ mỉ: "Thế là em không làm tròn nhiệm vụ đong gạo cho anh em rồi. Khi đến chợ, em đã đảo một vòng và đong được hai yến gạo của một chị nhà quê. Sau khi đã đổ gạo vào đầy các bao, em lấy tiền ra trả, chị ta xem tiền rồi ngồi tần ngần một lúc, giơ tay ra nhận tiền xong rồi ngồi ôm mặt thút thít... Em thật sự ngạc nhiên bèn hỏi han cặn kẽ. Chị ta vừa thổn thức vừa nói: "Em rất mong được bán gạo cho anh em bộ đội. Em cũng không dám chê tiền này. Nhưng thật là khó nghĩ cho em cầm nắm bạc này lúc này thì em chả mua được gì, các cháu bé nhà em sẽ không có gì để ăn Tết...". Em rất ái ngại cho chị ta... Thôi thì bộ đội thà chịu nhịn đói chứ không thể để các cháu bé không có Tết, như vậy sao đành? Thế là em trút gạo trả chị ta và lấy lại tiền. Em đành nhận lỗi với các thủ trưởng là chưa hoàn thành nhiệm vụ". Nhìn vẻ mặt tiu nghỉu của Ninh, hai chúng tôi cùng bật cười. Hoàng Lương vỗ vai quản lý Ninh pha trò luôn: "Ô tưởng gì? Như thế là cậu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ rồi đấy! Cậu đã xử lý đúng với bản chất của Quân đội ta, đúng lời Bác Hồ dạy. Bọn mình không trách mà còn biểu dương hành động đúng đắn của cậu". Câu chuyện được kín đáo phổ biến tới từng chiến sĩ, lấy đó làm bài học thiết thực về quan điểm nhân dân, và được anh em thật sự đồng tình. Thế là Tết năm ấy chúng tôi vui vẻ ăn một cái Tết thanh đạm với 3 củ khoai lang cho mỗi người ăn trừ bữa, bụng tuy đói nhưng trong lòng lại cảm thấy thanh thản... Đêm mồng 2 Tết, chúng tôi ra quân đánh đồn Lê Xá (26-1-1950), một đồn khá kiên cố của địch nằm án ngữ ngay trên đường 21 (Hà Nam đi Nam Định). Đánh trận này chúng tôi có 2 điều thú vị. Một là đội ngũ cán bộ đại đội trực tiếp tham gia chỉ huy các phân đội đều khá quen thân nhau, đã từng chiến đấu và hiệp đồng ăn ý nhau trong nhiều trận: đó là đại đội trưởng xung kích chủ công Nguyễn Văn Được, đại đội phó xung kích hướng bổ trợ Nguyễn Phúc Trạch, đại đội trưởng chặn viện Đàm Thế Viêm, còn tôi đại đội trưởng hỏa lực. Điều thú vị thứ hai là lần đầu tiên trong toàn Khu 3, Đại đội 11 được thử nghiệm súng cối 120 ly của quân giới, hạ nòng nằm ngang để diệt lô cốt địch. Đồn Lê Xá nằm giữa cánh đồng khô, cách đường 21 khoảng 70 m, chung quanh có rào dây thép gai. Bộ đội ta đã lợi dụng "ta-luy" nền đường 21 cao hơn mặt ruộng trên 1 m xén thành mặt thẳng đứng, vừa kích thước đặt dựng bệ súng cối tì vào đó và đặt chân súng đỡ cho nòng súng cối nằm ngang, về xạ kích, dùng kính ngắm của súng cối để chỉnh hướng vào đúng giữa lô cốt. Còn về tầm thì lấy góc bắn bằng "bọt nước" theo bảng tính sẵn của Cục Quân giới gửi kèm theo súng. Thế là ta đã có một nòng súng "Cối" nhằm thẳng vào lô cốt địch. Phương tiện xạ kích chỉ thô sơ như vậy, nhưng với 3 quả đạn súng cối 120 ly bắn thẳng, ta đã bắn trung mục tiêu cách xa 70 m, diệt được hỏa lực trong lô cốt địch... Phát súng cối 120 ly đầu tiên bắn ra cũng là lệnh phát hỏa cho trận đánh. Lập tức 6 khẩu "Phóng bom" của đại đội tôi đồng loạt "câu" đạn chính giữa đồn địch, gây ra những đám cháy lớn làm lô cốt địch càng hiện rõ trong đêm tối. Xung kích nắm đúng thời cơ hỏa lực địch bị tê liệt đã kịp thời xông lên phá rào và xung phong đánh vào bên trong... Chỉ trong 45 phút, đồn Lê Xá bị tiêu diệt và tổng Phán, tên tề hung ác nhất vùng bị bắt sống! Đầu xuân năm mới, chúng tôi đã có một trận công đồn thật gọn. Du kích kết hợp với trận diệt đồn đã tiến công diệt tề ở các thôn xóm trong vùng. Cả một vùng tạm chiếm bắc Nam Định được giải phóng và phong trào du kích tại chỗ phát triển lên một bước mới... Đồng bào ở các thôn xóm trong vùng được tin chiến thắng vô cùng phấn khởi. Trên đường rút quân của đại đội, đồng bào nô nức đem hoa quả, bánh chưng, xôi, gà, giò... ra ủng hộ, úy lạo bộ đội. Thế là trong đêm chiến thắng, bộ đội ta đã được hưởng một cái Tết no nê và thắm đượm tình quân dân cá nước. Tết Canh Dần ấy qua đi trong tình quân dân đầm ấm và trong không khí chiến thắng đã ghi một dấu ấn sâu đậm trong ký ức tôi, "Không thể nào quên". HỨA MẠNH TÀI "Sự kiện và Nhân chứng" Số Xuân Canh Thìn - 2000 (Số 74/2-2000) Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 02:59:55 pm NHỚ VỀ CÁC CÁN BỘ ĐẢNG TĂNG CƯỜNG CHO TRUNG ĐOÀN Ngày 10-3-1950 Đại đoàn 304 - Đại đoàn chủ lực thứ hai (sau Đại đoàn 308) của quân đội ta được thành lập sau hội nghị Quân chính họp tại đình Tam Lạc, huyện Thọ Xuân - tỉnh Thanh Hóa. Lực lượng về xây dựng đại đoàn là Trung đoàn 66 chủ lực của Liên khu III, Trung đoàn 9 và Trung đoàn 57 của Liên khu IV. Đồng chí Hoàng Minh Thảo (LK III) là đại đoàn trưởng, đồng chí Trần Văn Quang (LK IV) là chính ủy. Theo chỉ thị của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ta, Liên khu ủy III và Liên khu ủy IV đã điều một số tỉnh ủy viên, huyện ủy viên, chi ủy viên tăng cường cho đại đoàn. Đây là một bước quan trọng tăng cường chất lượng chính trị, bản chất giai cấp công nhân cho các đơn vị trong đại đoàn. Đầu tháng 4-1950, Ban chính trị trung đoàn đã được đón tiếp các anh từ nhiều tỉnh lần lượt về trung đoàn nhận công tác. Vì thời gian đã hơn 50 năm, trí nhớ đã giảm sút, tôi chỉ còn nhớ tên các anh Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn Hữu Toại (Hải Dương), Cao Văn (Kiến An - Hải Phòng), Đào Thế Dũng (Hưng Yên), Nguyễn Đình Hường (Nghệ An), Hoàng Minh Côn (Thanh Hóa), anh Lê Minh Kính, anh Trần Kiên Quyết (tôi không nhớ địa phương) và một người mà 47 năm sau trở thành Tổng Bí thư của Đảng: anh Lê Khả Phiêu. Một số được giữ lại làm công tác tại trung đoàn bộ là anh Nguyễn Văn Tạo, anh Nguyễn Hữu Toại, anh Trần Kiên Quyết, anh Lê Minh Kính. Các anh khác về các đơn vị làm chính trị viên phó đại đội, cán sự chính trị tiểu đoàn hoặc giáo viên văn hóa đại đội (tức cán sự chính trị đại đội). Có anh đã trên 30 tuổi, mang dáng dấp người chủ gia đình như "cụ Tạo, cụ Toại" (sau này anh em ở Ban chính trị hay gọi đùa, thân mật như vậy). Có anh rất giỏi kể tiếu lâm như anh Đào Thế Dũng, có anh tác phong nhanh nhẹn khẩn trương như anh Cao Văn, có anh còn quá trẻ như anh Lê Khả Phiêu lúc bấy giờ mới 19 tuổi. Anh Lại Nguyên Từ và tôi là thư ký tiểu ban cán bộ được Trưởng tiểu ban là anh Sỹ Tín trao nhiệm vụ tiếp đón, chăm lo chỗ ở (nhà dân) báo cơm và tiếp xúc hàng ngày với các anh trong thời gian chờ Trung đoàn ủy họp bàn phân công nhiệm vụ cho các anh. Khoảng 3-4 ngày sau các anh đã cầm quyết định điều động về các đơn vị, chính thức trở thành anh bộ đội Cụ Hồ và là cán bộ của Trung đoàn 66 ta. Từ chiến dịch đầu tiên các anh được tham dự là chiến dịch Trần Hưng Đạo (8-1950) cho đến chiến dịch cuối cùng thời kỳ chống Pháp là chiến dịch Trung Lào (12-1953 đến 05-1954) các anh đã phân đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ trên mọi vị trí chiến đấu trong đội hình trung đoàn. NGUYỄN HÙNG CƯỜNG Nguyên thư ký Tiểu ban cán bộ Ban chính trị Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 03:01:30 pm BÁC HỒ TỚI THĂM ĐẠI ĐOÀN 304 Tháng 2-1951, Trung đoàn 66, Đại đoàn 304 được lệnh lên Việt Bắc lĩnh vũ khí mới. Những vũ khí của trung đoàn trao lại để trang bị cho bộ đội địa phương. Lên Việt Bắc! Anh em trong đơn vị đều phấn khởi được lên cái nôi của cách mạng Việt Nam, vai gánh nặng mỗi bên một sọt cá khô và muối chi viện cho đồng bào Việt Bắc đang rất khó khăn về muối. Đơn vị được lệnh đóng quân tại khu rừng đồn điền cà phê, gần cây số 5 trên quốc lộ 2. Vào buổi sáng ngày 27-2, Ban chính trị trung đoàn thông báo: chiều nay có phái đoàn Chính phủ đến thăm đại đoàn. Đại đội tôi đóng quân ngay cửa rừng, vừa là đơn vị bảo vệ lại vừa là đơn vị tiền tiêu của trung đoàn. Khoảng chiều tối, anh em vừa thay gác xong thì phái đoàn Chính phủ cũng vừa đến; trong phái đoàn có một ông cụ cầm buộc khăn mùi xoa, đầu đội mũ lá, tôi nhìn kỹ, bụng bảo dạ: "Bác Hồ". Khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhiều lần ở Hà Nội tôi đã được trông thấy Bác. Tôi tự hô đủ để phái đoàn nghe thấy: "Hồ Chủ tịch muôn năm". Một vài đồng chí trong đơn vị cũng hô theo: "Hồ Chủ tịch muôn năm". Bác từ từ đi lại gần chỗ chúng tôi. Bác cũng hô "Bác Hồ muốn nằm", không phải một lần, mà 2-3 lần để mọi người nghe rõ! Chúng tôi biết Bác đi đường xa tới cần nghỉ nên tản ra, ai nấy về vị trí công tác của mình. Chiều hôm sau đại đoàn được lệnh tập trung tại một khu rừng để nghe phái đoàn Chính phủ nói chuyện. Cả đội hình của đại đoàn cứ nhích dần lên, quây chặt lấy cái khán đài nhỏ bé làm bằng tre nứa kết hợp với lá rừng, vì ai cũng muốn được gần Bác hơn để nhìn cho tường tận và nghe lời Bác cho rõ ràng. Bác nhìn hàng quân rồi Người khoan thai nói: "Hôm nay không chỉ là Chủ tịch nước tới thăm bộ đội, mà là cha tới thăm con, bác tới thăm cháu". Anh em nghe xong đều cảm động, sung sướng trước tấm lòng nhân hậu của Bác đối với bộ đội. Sau đó Bác hỏi: Các chú có khỏe không? Mọi người đồng thanh: Thưa Bác có ạ! - Bây giờ Bác cho phép các cháu hỏi Bác. Một đồng chí giơ tay hỏi Bác: - Thưa Bác, kháng chiến ở Triều Tiên thế nào rồi ạ? Bác nói: Đang kháng chiến như Việt Nam - Thưa Bác bao giờ nước nhà độc lập ạ? Bác nói: Các chú cứ tiêu diệt được nhiều địch thì chóng độc lập. Mạnh dạn hơn có một đồng chí ở đại đội tôi hỏi: - Thưa Bác bao giờ Bác lấy vợ ạ? Bác gọi đồng chí này lại gần và nói nửa kín nửa hở: "Chú làm mối cho Bác nhé"... Sau khi nói chuyện Bác động viên cán bộ, chiến sĩ đại đoàn và ân cần hỏi: Chiến dịch này các chú sẽ tiêu diệt bao nhiêu địch? - Thưa Bác! Một trung đoàn ạ. Bác nhân hậu nói: Bác chỉ yêu cầu các cháu tiêu diệt một tiểu đoàn. Nhiều đơn vị như các chú thế là tốt. Rất tiếc! Trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, trung đoàn giao cho Tiểu đoàn Nguyễn Huệ tiêu diệt một tháp canh khoảng một trung đội mà không diệt được. Tới nay số cán bộ cũ vẫn ân hận với lời hứa năm xưa đối với Bác. NGUYỄN ĐƯỚC Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 03:02:53 pm TRẬN CẦU GUỘT (19-5-1950) Để lập thành tích mừng ngày sinh lần thứ 60 của Hồ Chủ tịch, Tiểu đoàn Cô Tô tổ chức một trận phục kích tiêu diệt địch ở khu vực Cầu Guột trên đường số 1 (từ nhà thờ Phú Mỹ qua ga Phú Xuyên đến Cầu Guột). Việc chuẩn bị chiến trường đã được tiến hành nhiều lần từ tháng 4-1950. Ta đã nắm được khá kỹ về địa hình, về quy luật hoạt động của địch. Để bảo vệ giao thông trên con đường huyết mạch này, quân địch thường xuyên tổ chức tuần tiễu dọc đường số 1 vào buổi sáng bằng lực lượng Âu - Phi từ một trung đội trở lên. Sau khi tuần tiễu không thay có dấu hiệu gì khả nghi chúng mới mở đường cho xe chạy. Đội tuần tiễu đoạn Cầu Guột là lực lượng được trang bị mạnh của đồn Phú Mỹ (một làng công giáo có nhà thờ và tháp chuông khá cao, địch sử dụng làm đài quan sát rất tốt). Hàng ngày vào khoảng 6 giờ sáng chúng xuất phát đi từ Phú Mỹ qua ga Phú Xuyên đến Cầu Giẽ thì quay lại. Đường đi hai bên là cánh đồng trống trải, chỉ có đoạn ga Phú Xuyên (cách Cầu Guột khoảng 500 m) có một thôn cũ không còn dân ở, chỉ còn cây cối và một ít nhà cửa, hàng quán của dân bỏ lại, chủ yếu là nhà tranh. Chỗ đó cũng là nơi nền đường sắt tách ra khỏi đường số 1 ở phía nam Cầu Guột. Khoảng trống giữa hai đoạn đường ấy không lớn và cũng chỉ còn một số cây cối và quán hàng rải rác. Đêm 18-5, được du kích và cán bộ địa phương dẫn đường, tiểu đoàn hành quân từ Chợ Cháy, khoảng 3 giờ sáng ngày 19-5 đến Cầu Guột và triển khai trận địa phục kích. Lực lượng phục kích chính gồm 2 Đại đội 15 và 30 được bố trí ở hai bên đường số 1, đoạn phía nam ga Phú Xuyên (nơi đường sắt và đường số 1 tách thành hai nhưng vẫn gần nhau), lợi dụng các nhà dân và quán hàng bỏ trống làm nơi giấu quân. Đại đội 45 cùng một bộ phận du kích chia làm đôi: một phần được tăng cường súng cối 60 ly làm nhiệm vụ chặn địch từ Phú Mỹ tăng viện xuống, một phần làm nhiệm vụ dự bị. Chỉ huy sở tiểu đoàn đặt ngay gầm Cầu Guột. Đúng 6 giờ sáng 19-5-1950, một Trung đội Âu Phi từ nhà thờ Phú Mỹ tiến ra, đi về hướng Cầu Guột. Do từ lâu không có trận đánh nào diễn ra trên đường số 1 nên chúng rất chủ quan, chỉ sục sạo sơ sài hai bên đường, kể cả khi đến chỗ đường sắt tách khỏi đường số 1 chúng cũng chỉ sục sạo một đoạn trên nền đường sắt rồi lại quay cả về đi theo đường số 1. Khoảng 6 giờ 30 phút, gần như toàn bộ trung đội địch lọt vào trận địa. Bộ đội ta lập tức nổ súng chặn đầu, khóa đuôi, rồi nhất tề xung phong đánh giáp lá cà với địch. Trận đánh diễn ra rất nhanh nhưng cũng rất ác liệt. Quân địch bị bất ngờ, gục ngã một loạt, nhưng số còn lại, sau cơn choáng váng cũng phản ứng khá quyết liệt. Nhiều trận đấu lê tay đôi đã diễn ra. Tiểu đội trưởng Mai Đại Úy của Đại đội 30 dùng kiếm chém chết 2 tên Âu Phi cao lớn trước khi hy sinh vì một loạt tiểu liên của địch. Một chiến sĩ ta người thấp nhỏ đã dùng lê lao thẳng vào một tên lính Âu cao lớn cũng đang dùng lê để đối phó. Cả hai mũi lê đều đâm vào địch và người chiến sĩ anh hùng của ta đã hy sinh trong tư thế tay vẫn nắm chắc súng đẩy mũi lê xiên thẳng vào giữa bụng tên địch, giết chết nó trong khi mũi lê của nó đã xuyên vào giữa ngực mình. Cả hai đều ngã xuống, với hai khẩu súng mang lưỡi lê vẫn mắc trong thân thể đối phương. Sau 30 phút, trận đánh kết thúc, cả trung đội Âu Phi tuần tiễu của địch bị tiêu diệt giữa ban ngày trên đường số 1. Quân địch ở Phú Mỹ cũng như ở Cầu Giẽ không kịp phản ứng. Quân ta thu dọn chiến trường, mang hết thương binh tử sĩ và thu hết súng đạn của địch cùng các chiến lợi phẩm khác, rút theo đường cánh đồng về khu vực Chợ Đại, Cống Thần an toàn. Bên ta có 2 đồng chí hy sinh và 3 đồng chí bị thương. TRẦN QUỐC HANH Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 03:04:38 pm TIÊU DIỆT VỊ TRÍ CHÙA DẦU (28-5-1951) Chùa Dầu là một vị trí nằm cạnh đường số 10, bên bờ sông Đáy, cùng với các vị trí Chùa Hựu, Yên Vệ, Bích Đào, trấn giữ con đường giao thông huyết mạch từ Ninh Bình đi Phát Diệm. Quân số của địch ở vị trí Chùa Dầu là một đại đội, vũ khí ngoài súng trường còn có 2 đại liên, 8 trung liên. Bao bọc quanh chùa là tường xây bằng gạch, cứ cách 10 m có một lỗ châu mai dọc, cách 20 m là một ụ súng trung liên hoặc đại liên. Lực lượng quân ta Tiểu đoàn Cô Tô gồm có 3 đại đội: Đại đội 15 và Đại đội 30 là 2 mũi đột phá chính diện; Đại đội 45 phục kích chặn quân tiếp viện của địch từ Chùa Hựu lên (nếu có). Trung đoàn trưởng Hoàng Kiện có mặt tại Chỉ huy sở tiểu đoàn cùng với tiểu đoàn trưởng Nguyễn Nhật Tiến. Đúng 23 giờ 30 phút, tiểu đoàn phát lệnh chiến đấu. Bộc phá nổ tung 2 lớp hàng rào ngoại vi, bộ đội dùng thang gấp vượt qua tường vào đột phá tung thâm. Địch lợi dụng từng khe tường, từng tượng Phật, chống cự rất ngoan cố. Bốn mươi phút sau, tiếng súng im bặt. Quân ta tiêu diệt hoàn toàn vị trí Chùa Dầu, thu toàn bộ vũ khí. Bên ta có một số đồng chí hy sinh, trong đó có đồng chí Nguyễn Như Phương (đại đội trưởng Đại đội 30). Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Long Minh vì tuổi còn nhỏ được ở lại với bộ phận hậu cần nhưng đã tha thiết xin đi chiến đấu và được đi cùng đại đội trưởng Phương để truyền đạt mệnh lệnh cho các trung đội, và đã chứng kiến lúc hy sinh của đại đội trưởng. 8 giờ sáng ngày 29-5, tiểu đoàn trưởng Nhật Tiến giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Ngọc Ninh (cán bộ tác chiến của tiểu đoàn) vào vị trí Chùa Dâu vẽ lại sơ đồ công sự bố phòng của địch để làm tư liệu dùng sau này. So sánh với sơ đồ do trinh sát của ta báo cáo trước trận đánh thì có 2 chi tiết đến lúc này mới biết: Một là: Trong chùa còn có một gác chuông 2 tầng. Lúc đó có xác một tên địch 2 tay bị trói treo lủng lẳng trên tầng 2 gác chuông. Hai là: Sau chùa, phía cánh đồng, có một dãy nhà xí mái thấp ngang mặt tường. Có lẽ qua lối này mà một số tên địch đã chạy thoát ra cánh đồng rồi vào ẩn nấp ở nhà dân nên sáng 29-5 ta đã bắt được một số tù binh. NGUYỄN NGỌC NINH Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 25 Tháng Mười Một, 2022, 03:06:19 pm HAI LẦN CƯỜNG TẬP CỨ ĐIỂM CHÙA CAO Đồn Chùa Cao là một cứ điểm kiên cố, lợi hại nhất của quân địch nằm trên đường số 10, giữa Phúc Nhạc và Ninh Bình, nhằm chắn giữ con đường của ta vào sau lưng địch. Đầu chiến dịch Quang Trung (1951), để phối hợp với chiến trường Tây Bắc, Đại đoàn 304 được giao nhiệm vụ cùng với Đại đoàn 320 mở các cuộc tiến công địch tại phía nam đồng bằng Bắc Bộ và vùng sau lưng địch. Tiểu đoàn Lê Lợi được lệnh chuẩn bị tiến công đồn Chùa Cao. Tuy thời gian gấp rút, tiểu đoàn đã chuẩn bị về mọi mặt và rạng sáng ngày 29-5-1951, tổ chức công đồn. Trận đánh diễn ra ác liệt. Trên hướng phụ, Đại đội 132 do đại đội trưởng Lại Văn Kháo chỉ huy đã dùng bộc phá mở được cửa hàng rào, xung phong lên đánh vào lô cốt địch. Trong khi đó, trên hướng chính, Đại đội 134 bị hỏa lực địch bắn ra như mưa chặn lại, chưa mở được cửa. Khẩu đại liên bị tắc, không chế áp được hỏa lực địch, đại đội trưởng Mai Hiền báo cáo lên Sở chỉ huy tiểu đoàn, ở đó có tiểu đoàn trưởng Minh Vân và tôi, chính trị viên tiểu đoàn và trung đoàn phó Trần Quang Thường trực tiếp chỉ huy trận đánh. Dinh trưởng, cố vấn Trung Quốc của tiểu đoàn cùng ở Sở chỉ huy, thấy vậy chạy xuống đại đội để xem tại sao khẩu đại liên bị tắc. Trung đoàn phó lo cho sự an toàn của cố vấn vội bảo cậu phiên dịch: “Ngăn ông ấy lại, ông ấy mà làm sao thì chết cả nút", nhưng cậu phiên dịch đã bị đồng chí cố vấn đạp cho ngã dúi và ông ta vẫn chạy xuống đại đội giúp sửa lại khẩu đại liên. Súng đã hoạt động nhưng quân địch trong đồn vẫn chống cự quyết liệt. Các mũi bộc phá mở hàng rào vẫn không tiến lên được. Trước tình thế trận đánh kéo dài quân ta bị thương vong, giảm sút sức chiến đấu, trung đoàn phó lệnh cho tiểu đoàn lui quân. Trận tấn công bị thất bại để lại trong lòng cán bộ và chiến sĩ một nỗi uất hận không nguôi. Sau trận đánh đó của tiểu đoàn, Đại đoàn 308 được lệnh giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 88 trực tiếp là 1 tiểu đoàn tăng cường tổ chức tiếp một trận tấn công đồn Chùa Cao nhưng cũng không thành công. Sau 2 lần bị đánh, địch xây lại cứ điểm thành hình tam giác, lô cốt, hầm ngầm kiên cố, ba hướng đều có thể bắn chéo cánh sẻ tạo thành mạng lưới đạn dày đặc. Một đại đội lê-dương gồm toàn lính Âu Phi, trang bị mạnh chiếm giữ đồn. Bọn chỉ huy huênh hoang tuyên bố "Chùa Cao là bất khả xâm phạm" và thách thức bộ đội ta đánh. Bước vào chiến dịch năm 1952. Mở đầu cho đợt hoạt động mới, Bộ Tư lệnh Đại đoàn 304 chủ trương tiến công 2 cứ điểm quan trọng trên đường 10, Chùa Cao và Vân Lai để phối hợp với chiến trường chính. Sau khi tham gia chiến đấu, cùng với một số đơn vị bạn, tiêu diệt tiểu đoàn da đen số 6 tại Phát Diệm, Tiểu đoàn Lê Lợi, tiểu đoàn chủ công của trung đoàn là đơn vị có kinh nghiệm trong chiến đấu công kiên, lại đã đánh đồn Chùa Cao năm trước nhưng chưa thành công, được giao nhiệm vụ tổ chức trận đánh Chùa Cao lần này, có pháo của trung đoàn và đại đoàn chi viện hỏa lực. Suốt mấy đêm liền, trung đoàn trưởng Hoàng Kiện, tiểu đoàn trưởng Minh Vân và các đại đội trưởng đi chuẩn bị chiến trường, bò sát hàng rào, nghiên cứu cách bố phòng của địch và lên phương án tác chiến. Phương án được tiểu đoàn ủy thông qua, hạ quyết tâm chiến đấu. Về quân sự, đi đôi với công tác chuẩn bị chiến đấu, những cuộc thảo luận quân sự dân chủ trên bàn cát từ tiểu đoàn đến các đại đội diễn ra sôi nổi. Cán bộ và chiến sĩ thống nhất với phương án tác chiến của tiểu đoàn, bổ sung thêm một số chi tiết. Anh em đề nghị bện rơm thành những con lăn lớn, những chiếc mộc để che đạn bắn thẳng và đạn nổ trên không khi tiếp cận tấn công vào đồn địch. Sáng kiến đó được tiểu đoàn chấp nhận và cho thực hiện ngay. Về công tác Đảng và công tác chính trị, tôi cùng các chính trị viên đại đội, qua các cuộc họp chi bộ và hội đồng quân nhân, nêu rõ quyết tâm của tiểu đoàn quán triệt kế hoạch tác chiến. Phân tích những mặt mạnh của ta, chỗ yếu của địch, củng cố lòng tin, nâng cao khí thế của bộ đội, toàn thể cán bộ và chiến sĩ đều hạ quyết tâm: Trận này quyết thắng, diệt gọn để "rửa hận" cho trận đánh năm trước, "trả thù" cho đồng bào Yên Cư bao năm bị địch kìm kẹp, giết chóc. Những khẩu hiệu đó được viết vào những tờ giấy nhỏ dán trên mũ, gắn trên tay bộ đội. Đêm mùng 5-12-1952, tiểu đoàn xuất kích, vượt sông Vạc và khi trăng vừa mọc thì chiếm lĩnh xong trận địa. Đúng 23 giờ, trung đoàn hạ lệnh công kích. Các cỡ hỏa lực dồn dập trút xuống căn cứ địch. Pháo địch ở Phúc Nhạc bắn về chi viện nhưng bị pháo của đại đoàn nã trúng đã câm họng. Các cỡ súng của địch trong đồn bắn ra xối xả. Pháo cối, đại liên ta chế áp, các chiến sĩ xung kích lao lên đặt bộc phá phá hàng rào. Cửa đã mở, 2 mũi tiến công 2 bên sườn xung phong lên đặt thuốc nổ đánh chiếm lô cốt. Đại đội 134, đại đội chủ công, do đại đội trưởng Mai Hiền chỉ huy đánh lô cốt A, phát triển vào tung thâm, diệt các ổ hỏa lực và những tên địch từ các ngách hào bắn ra. Cùng lúc, Đại đội 132 dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Lại Văn Kháo đánh chiếm lô cốt B và Đại đội 136 đánh thốc vào lô cốt C. Các mũi tiến công lần lượt tiêu diệt các ổ đề kháng, thọc sâu đánh chiếm hầm ngầm cũng là Sở chỉ huy của địch. Tên quan hai đồn trưởng bị bắt sống, giơ tay hàng và kêu gọi binh lính chúng ra hàng. Từ các lô cốt, hầm hào, bọn lính lê-dương còn sống sót lốc nhốc chui ra xin hàng. Bắt được đài vô tuyến của địch, tiểu đoàn trưởng Minh Vân nhanh trí bắt tên cầm máy gọi pháo các nơi bắn "truy kích Việt Minh" nên toàn rơi vào chỗ không người, để bộ đội ta thu dọn chiến trường một cách an toàn. Sau 40 phút chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, Tiểu đoàn Lê Lợi đã diệt gọn căn cứ Chùa Cao, bắt sống 64 tên sĩ quan và lính Âu Phi cùng tên quan hai đồn trưởng, thu toàn bộ vũ khí, trang bị. Đại đội 8, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lê-dương số 5, một đơn vị sừng sỏ của địch bị xóa sổ. Chiến thắng Chùa Cao ghi thêm một nét son vào truyền thống của tiểu đoàn và trung đoàn. Tiểu đoàn Lê Lợi được mang thêm danh hiệu "Tiểu đoàn Chùa Cao". Sau trận đánh, tôi đã viết một cuốn sách nhỏ với đầu đề "Diệt gọn Chùa Cao", được đại đoàn cho in, phổ biến cho các đơn vị trong đại đoàn. Nhiều đơn vị ở các chiến trường gửi thư về chúc mừng. Tiếc rằng cho đến nay cuốn sách đó, qua nhiều năm chiến đấu, đã bị thất lạc. Nhưng kỷ niệm về trận đánh không bao giờ phai mờ trong trí nhớ chúng tôi và nhân dân vùng Yên Cư. Nhiều bà con còn nhắc lại chiến công đó với tấm lòng trìu mến khi đoàn cán bộ Ban liên lạc Bạn chiến đấu của trung đoàn ta đi thăm lại chiến trường xưa vào tháng 7-2001. VŨ CHẤN Nguyên chính trị viên Tiểu đoàn Lê Lợi Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2022, 02:22:19 pm MỘT GÓC TRẬN ĐỊA CHỐNG CÀN CỦA TIỂU ĐOÀN NGUYỄN HUỆ Vài ngày sau trận diệt đồn Giang Nại (Chiến dịch Hà Nam Ninh-Thu Đông 1952-1953), Tiểu đoàn Nguyễn Huệ do tiểu đoàn trưởng Đào Huy Vũ và chính trị viên Mai Quang Ca chỉ huy tiến vào khu du kích Tiên Yên - Tiên Tiến - Phùng Thiện. 3 giờ sáng 21-12-1952, Đại đội 107 đến làng Phùng Thiện. Đại đội trưởng phân công vị trí cho các trung đội, không quên dặn dò làm công sự cho vững chắc. Tiểu đội cấp dưỡng do Nguyễn Xiển, tiểu đội trưởng, và Nguyễn Quý Đôn, tiểu đội phó phụ trách, cũng khẩn trương "nổi lửa lên em" để bảo đảm toàn đại đội mỗi người hai nắm cơm cho cả ngày. Lúc này Ban chỉ huy đại đội có đủ 4 người: Đại đội trưởng Nguyễn Thế Bôn, chính trị viên Nguyễn Đức Dũng (mới về thay chính trị viên Đỗ Quang Diệm bị thương vào chân phải đi bệnh viện), đại đội phó Lê Trung Cơ và tôi là chính trị viên phó. Vừa chợp mắt mọi người đã choàng dậy. Tiếng tàu chiến và ca nô địch trên sông Đáy ngày càng rõ dần từ phía Bến Xanh vọng lại. Thỉnh thoảng có tiếng đại bác 37 ly hoặc vài loạt trung liên từ tàu địch bắn lên bờ. Anh Thế Bôn ra lệnh chuẩn bị chiến đấu. Tin tức từ tiểu đoàn thông báo xuống, từ các tổ cảnh giới báo về là một đoàn tàu chiến ca nô địch đang ngược dòng sông Đáy với tốc độ chậm, bộ binh địch từ Bến Xanh nống ra, từ đường số 10 tiến đến. Từ xa tiếng súng đã nổ ran. Đại bác từ Phúc Nhạc, từ Cầu Cổ rót về từng loạt. Dấu hiệu một trận càn sắp xảy ra. Nhân dân vội vã tản cư. Một số xuống hầm tránh pháo. Các tiểu đội dân quân, du kích xã được phân về phối hợp với các trung đội. Máy bay bà già vè vè trên trận địa. Anh Thế Bôn, anh Đức Dũng phân công đại đội phó Lê Trung Cơ xuống với Trung đội 4 ở phía bắc làng Phùng Thiện, tôi xuống Trung đội 5 ở tây nam Phùng Thiện, còn hai anh vừa nắm Trung đội 6 ở phía đê sông Đáy vừa nắm đại đội bộ bảo đảm liên lạc với tiểu đoàn. CUỘC CHIẾN BẮT ĐẦU Cho đến 9 giờ sáng, địch vẫn rập rờn trên sông. Đoàn tàu chiến và ca nô đã tới thị xã Ninh Bình và đang từ từ quay lui. Các mũi tiến quân khác chậm chạp có tính chất thăm dò. Liên lạc của đại đội xuống Trung đội 5 báo tin địch ở Bến Xanh tiến theo đê về Phùng Thiện. Toàn trung đội căng mắt chờ địch. 10 giờ... rồi 11 giờ qua đi. Thời gian càng trôi càng lợi cho ta. Đây là trận chống càn đầu tiên của Trung đoàn 66 và đơn vị đầu tiên thử sức là Tiểu đoàn Nguyễn Huệ. Lúc đó, tôi vẫn nhớ rõ một tư tưởng chiến thuật được học ở lớp bồi dưỡng cán bộ của Đại đoàn 304 mở tại Quán Giắt, tháng 1-1951, trong thời gian bộ đội lên Việt Bắc lĩnh vũ khí. Đại ý như sau: "Khi đánh càn phải tổ chức động viên bộ đội dũng cảm chiến đấu, kiên quyết giữ vững trận địa suốt ban ngày. Công sự phải vững chắc và luôn luôn củng cố. Ban đêm phải tìm mọi cách rút ra khỏi vòng vây của địch về nơi an toàn. Có khi phải đánh mở đường máu mà đi". Tư tưởng chiến thuật đó đã được phổ biến giáo dục cho đại đội nên bộ đội ta rất bình tĩnh, tự tin, không hề có một biểu hiện dao động. Cánh quân địch ở Bến Xanh đến thôn Tiên Tiến, Đại đội 103 đã nổ súng. Trận địa Trung đội 5 im lặng vì còn cách 103 một cánh đồng. Tiếng súng bỗng rộ lên ở phía bắc. Trung đội 4 do trung đội trưởng Vũ Văn Tư chỉ huy có sự giúp đỡ của đại đội phó Lê Trung Cơ đã chống trả quyết liệt. Địch đổ bộ từ tàu chiến lên bờ 2 đại đội Âu Phi của GM7. Chúng chiếm Phương Bằng và từ Phương Bằng theo đê sông Đáy xuống bắc Phùng Thiện thì vấp Trung đội 4. Trung liên của ta bắn rất tốt, ngay phút đầu tiên đã tiêu diệt một ổ trung liên địch đang loay hoay tìm chỗ đặt súng. Các cỡ đạn nổ inh tai: tiểu liên, trung liên, súng trường, đạn 12 ly 7, cối 60 ly, cối 81 ly, đại bác 37 ly nã tới tấp vào trận địa B4, vào nhà dân trong xóm. Máy bay bà già ném lựu đạn khói gọi đại bác câu về hàng loạt. Địch hô "A-la-xô!" và xông lên. Những tên chạy đầu trúng đạn của ta loạng choạng đổ xuống. Những tên đi sau vội nằm rạp xuống. Có một đợt địch xung phong chiếm một góc làng. Một tiểu đội của ta phải lùi vào các nhà dân. Trung đội 4 đã cùng lực lượng du kích phối thuộc khéo léo phản công chiếm lại được trận địa, đẩy địch lùi ra xa. Đến lượt B5 tiếp địch. Các tiểu đội của Hưng, của Ngào, của Chuyện bố trí trận địa sau bờ tre, kéo dài hơn 100 mét ở phía tây nam Phùng Thiện. Chúng tôi cử liên lạc về báo cáo địch tình với Ban chỉ huy đại đội. Anh Thế Bôn và anh Đức Dũng vừa ở trận địa B6 về cho biết tàu chiến địch vẫn rập rờn trên sông, nhưng không đổ quân lên bờ nên B6 vẫn ẩn mình sau công sự và chưa phải nổ súng. Anh Đức Dũng còn dặn B5 phải thật bình tĩnh, vững vàng chờ địch đến gần mới đồng loạt nổ súng. Địch đặt một trung liên ở cầu đá, cách trận địa ta không xa. Khẩu trung liên của tiểu đội Ngào đã “căn" sẵn cây cầu từ sớm. Trung đội trưởng thấy một toán địch túm tụm gần cầu đá liền hạ lệnh phát hỏa. Trung liên ta nổ giòn giã. Địch hò hét xông lên. Chúng bắn như vãi đạn, nhưng rặng tre và công sự của ta đã vô hiệu hóa hỏa lực của chúng. Một số tên hung hăng chạy đầu đều đồng loạt gục ngã bởi các tay súng trường, tiểu liên của hai tiểu đội Ngào và Hưng. Sau 3 đợt địch xung phong và 3 lần tháo lui, trời đã về chiều. Trong công sự vững chắc, sau rặng tre làng lâu năm, một chướng ngại vật thiên nhiên lợi hại, quân ta tăng thêm lòng tự tin, bình tĩnh chống trả. Khẩu hiệu chiến đấu truyền lan ra toàn trận địa B5: "Tiết kiệm đạn nhằm địch bắn trúng, bình tĩnh chiến đấu...". BỐN QUẢ NAPAN TRÙM LÊN HAI TIỂU ĐỘI Máy bay bà già rà sát ngọn tre. Một quả lựu đạn từ máy bay ném xuống, phụt lên làn khói trắng. Hai chiếc Hen Cat đến ngay. Chiếc đi đầu lao xuống. Bụp... Bụp... Hai quả napan nổ, ét-xăng crếp bắn lửa tung tóe, tỏa khói đen mù mịt. Lửa cháy trùm trận địa, cháy trên ngọn tre, trên cành cây, trên mặt đất, dưới ao bèo. Khói và sức nóng phả ra xa đến công sự của trung đội trưởng Mãi, tôi và tiểu đội của anh Chuyện. Mọi người ho sặc sụa. Trong giây lát súng địch như ngừng lại. Bên ta, hai tiểu đội Ngào và Hưng cũng im ắng. Chiếc Hen Cat thứ hai lại lao xuống: Bụp... Bụp... lại lửa lại khói, lại sức nóng rát mặt. Lần này ngôi nhà tranh sau lưng tiểu đội Hưng cũng bắt cháy. Trung đội trưởng Nguyễn Văn Mãi và tôi vọt khỏi công sự lao đến gần hai tiểu đội. Không thấy một ai cả. Chỉ có lửa cháy, tre pheo nổ đôm đốp, khói bụi mù. Còn đang bối rối nhìn ngang nhìn dọc thì thấy trung đội phó Sang tung chăn lửa lên, nhảy khỏi hố. Sang nói với Mãi: - Mãi ơi, quân ta "phèo" cả rồi ! Mãi hốt hoảng: - Chết cả à? - Có lẽ, để xem lại xem. Bỗng thấy nhảy lên khỏi công sự một người mặt mũi đen bẩn, áo quần lấm láp, tay xách hòm đạn trung liên. Đó là Tuệ, chiến sĩ tổ trung liên. Tôi hỏi Tuệ có việc gì không? Tuệ trả lời: Không. Tôi hỏi tiếp: Ngào đâu? - Anh Ngào còn ở trong đó. Mải, Sang và tôi không ai bảo ai cùng hét gọi tên từng chiến sĩ: Ngào ơi! Miêng ơi! Tiệm ơi! Vạng ơi! Chậm ơi... ra đi. Còn ai nữa ra đi... Ngào xách khẩu tiểu liên chạy ra, mặt mũi đen nhẻm. Miêng vác khẩu trung liên vọt theo, rồi Vạng, rồi Chậm, rồi Tiệm xách súng chạy ra. Cả hai đồng chí du kích xã phối họp cùng tiểu đội cũng nhảy lên khỏi hố. Lần lượt các chiến sĩ tiểu đội Hưng cũng xuất hiện, một số vẫn bám bụi tre chĩa súng ra ngoài. Tất cả trông thật buồn cười, áo quần vướng đất bụi, tro, mặt mủi nhọ nhem. Có anh nhe răng cười, cũng có anh có dấu hiệu mệt mỏi bơ phờ. May quá, cả 2 tiểu đội không một ai bị thương. Không mất một khẩu súng. Chỉ bị cháy một số chăn trấn thủ và vài bao gạo. Kinh nghiệm dùng chăn trùm lên hố cá nhân chống bom napan - được trên phổ biến từ trước - tỏ ra rất hiệu quả. Chúng tôi mừng quá, ôm lấy nhau, mắt đỏ hoe. Trung đội trưởng Mãi phân công một số đi cứu nhà dân bị cháy và một số vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Trời tối hẳn. Trận địa im tiếng súng. Tôi trở về đại đội bộ báo cáo nhanh tình hình B5 và nghe tình hình B4. Đại đội trưởng Thế Bôn cho biết: hôm nay GM7 đánh vào C.103, C.107 và tiểu đoàn bộ, nhưng tất cả đều giữ vững trận địa, thương vong của ta rất ít. Ước lượng địch khoảng 5 trung đội bị diệt và một số khác bị thương. Hiện Ban chỉ huy tiểu đoàn đang cùng xã đội lo tập trung thuyền cho quân ta vượt sông. Nửa đêm hôm ấy Đại đội 107 xuống thuyền lặng lẽ vượt sông Đáy, cập bến Liễu Đề thuộc đất Nghĩa Hưng, Nam Định. Đại đội chỉ có một chiến sĩ của B4 hy sinh và 2 chiến sĩ bị thương nhẹ. Tinh thần của anh em rất vững. Trận chống càn đánh dấu bước trưởng thành trong chiến đấu của đại đội và toàn tiểu đoàn. NGUYỄN HÙNG CƯỜNG Nguyên chính trị viên phó Đại đội 107 Tiểu đoàn Nguyễn Huệ Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2022, 02:25:07 pm VƯỢT ĐƯỜNG SỐ 6 (CHIẾN DỊCH HÒA BÌNH - THU ĐÔNG 1951) Từ lâu được tin đơn vị sắp vượt qua đường số 6 sang làm nhiệm vụ ở phía bắc, mãi đến ngày 17-12-1951 chúng tôi mới thực sự bước vào cuộc hành quân gian nan ấy. 17 giờ. Cơm chiều xong, chúng tôi xuất quân, hy vọng là sẽ vượt qua đường số 5 một cách dể dàng như một đơn vị bạn vừa đi đêm hôm qua. Suối. Chỉ toàn lội suối hoặc đi men vách đá theo dòng suối. Lòng suối, đá cuội khá êm chân. Vách đá, nhiều chỗ lởm chởm như bàn chông. Trời tối. Trong bóng đêm, chúng tôi lần mò nối đuôi nhau, cố bám sát cho khỏi lạc. Lệnh "thắp đuốc" truyền xuống, một vài bó đuốc rực sáng, đoàn quân vừa đi, vừa tìm thêm nứa, tạo ra những bó đuốc mới. Nhờ có ánh sáng đuốc, cuộc hành quân đỡ vất vả. Chẳng mấy chốc chúng tôi tới chân dốc Động. Trăng đã lên. Chúng tôi bỏ đuốc lại, bắt đầu trèo dốc dưới ánh trăng. Đoàn quân biến thành một con rắn khổng lồ chậm chạp bò từ chân dốc lên tới đỉnh. Rừng cây yên lặng. Đôi chỗ lá cây loang loáng phản chiếu ánh trăng. Bên kia con suối mà chúng tôi vừa lội bì bõm là mấy quả đồi trọc nối liền nhau. Dưới ánh trăng, cỏ ở sườn đồi trông như một tấm thảm nhung rộng. Đoàn quân từ từ chuyển động, lên đỉnh dốc rồi xuống dốc. Bỗng có lệnh truyền từ đầu hàng quân xuống: "Đằng sau quay, đi thật nhanh!". Mọi người ngơ ngác, vội vàng thi hành. Thì ra: bộ phận dẫn đường đã phát hiện thấy địch phục kích. Muốn giữ bí mật, cuộc hành quân phải hoãn lại. Chúng tôi lặng lẽ trở về địa điểm xuất phát lúc ban chiều. * Sau 3 ngày nghỉ ngơi, chiều 20-12, chúng tôi lại được lệnh hành quân. 16 giờ, cơm chiều xong, ẩn mình dưới lá ngụy trang, đoàn quân vui vẻ tiến bước, băng qua rừng, qua suối, có vẻ như đã quen đường. Lại trèo lên dốc Động. Trăng chưa lên, đoàn quân im lặng tiến trong bóng đêm. Lên dốc rồi xuống dốc. Đường đi giữa rừng cây um tùm, không ai trông thấy ai. Trong khoảng không đen kịt, những chấm sáng nhấp nhô theo nhau. Đấy là nhưng con đom đóm, những cành cây mục có lân tinh đã được cài lên mũ để nhận nhau trong đêm tối cho khỏi lạc. Đoàn người âm thầm dò dẫm cất bước. Nhìn kỹ chỉ thấy lờ mờ có những bóng đen nhấp nhô, mỗi bóng có một chấm sáng trên đầu, giống như một đoàn âm binh đang tiến vào khoảng tối âm u. Xuống khỏi dốc, chúng tôi đi tới một khoảng suối rộng. Đoàn quân dừng lại chờ những người đi chậm còn đang dò dẫm phía sau. Một tiếng đồng hồ trôi qua, mọi người đã theo kịp. Bỗng từ đầu hàng quân truyền xuống: "Lệnh ông Cáo, tất cả quay lại, đi thật nhanh!". Thế là lại chạm địch. Mọi người buồn bã quay về. * 9 giờ sáng ngày 25-12-1951, chúng tôi được lệnh vượt đường số 6 theo một lối khác, khó đi hơn nhưng bí mật hơn. Mọi người nai nịt gọn gàng. Đặc biệt là bộ phận cấp dưỡng: quang gánh bỏ hết, nồi và chảo đeo lên lưng như ba lô, rổ rá và thức ăn sống chia cho anh em mỗi người mang hộ một ít. Lại suối, chỉ toàn lội suối. Vì đi ban ngày nên những chỗ khó đều được vượt qua nhanh chóng. Khi trời gần tối, chúng tôi xuống khỏi dốc, đến một quãng rừng rậm tối om. Lệnh trên truyền xuống "Bám vào nhau mà đi!". Một tay chống gậy, một tay bám vào người đi trước, chúng tôi lần bước trong bóng đêm dày đặc. Hôm nay không cài đom đóm và lân tinh vào mũ nên khó đi hơn. Đang thất thểu lần mò giữa rừng sâu, khi lên cao, khi xuống thấp, bỗng nghe tiếng gọi nhau í ới. Thì ra: mấy người đi trước tôi bị tuột tay không bám được toán đi đầu, đang lo lắng gọi nhau và cố đuổi theo tiếng người thưa xa xa phía trước. Tôi vội bám chặt vào bao gạo ở thắt lưng người đi trước và rảo bước để theo cho kịp. Khốn khổ mấy người đi sau tôi chậm chân chưa theo kịp, thành ra tôi cứ bị kéo trở lại. Có lúc chui cả vào bụi gai, toạc chân, toạc mặt. Có lúc đang đi bình thường phải ngồi thụp xuống để bước xuống một khe suối thấp nước chảy ào ào, nếu không vững chân thì bị ướt đũng quần. Có lúc tay tôi bị tuột khỏi bao gạo của người đi trước, tôi lại vội vàng dùng gậy khua khua trước mặt và mồm se sẽ gọi... Cứ như thế, một lát sau, chúng tôi bám sát được đơn vị đi đầu. Đi thêm một lúc nửa, trèo lên một chỗ cao, nhìn thấy con đường mòn hiện ra dưới chân, chúng tôi đã mừng thì được biết: còn 3 cây số nữa mới ra đến đường số 6. Lúc này đã là 3 giờ sáng, đơn vị đi cuối cùng chưa đến kịp, chúng tôi được lệnh dừng lại tìm chỗ trú quân để đêm mai vượt. * 17 giờ ngày 26-12-1951, chúng tôi xếp hàng ven suối chuẩn bị hành quân. Rút kinh nghiệm đêm qua, chúng tôi buộc dây vào thắt lưng của nhau để khỏi đứt liên lạc trong đêm tối. Chuyến đi đêm nay đỡ vất vả hơn. Lệnh truyền xuống: "Trên đường đã bố trí xong, tất cả chuẩn bị vượt!". Chúng tôi thấy phấn khởi: phen này chắc ăn rồi, nước cũng lội, bùn cũng lội, cố đi cho nhanh. Qua rừng đến ruộng, qua ruộng lại vào rừng. Đường số 6 bỗng hiện ra mờ mờ thành một vệt dài vắt ngang trước mặt. Chúng tôi thở phào khoan khoái. Trên đường, mấy chiến sĩ hiên ngang đứng gác, lưỡi lê cắm đầu súng. Mọi người nhanh chóng băng qua đường, không một tiếng động mạnh. Có tiếng thì thào: chỉ băng qua có 5 thước đường nhựa mà phải vất vả bấy lâu! Qua đường, chúng tôi tụt xuống một cánh đồng cỏ mênh mông. Lội qua một con suối, leo lên một gò đất cao, chật vật mãi mới lên được, nhìn ra thì người trước đã đi xa, thế là lại cắm cổ đuổi theo. Đường không ra đường, người sau cứ bám theo người trước, nhiều lúc phải lội bì bõm. Đoàn quân dần dần đi vào một khu vực mà trước mặt và hai bên đều là rừng cây um tùm. Ngoảnh lại sau lưng thì một ngọn núi cao vút như muốn chặn nốt lối ra. Bì bõm một lúc đến sát chân đồi thì được lệnh trèo lên đồi và nghỉ lại. Trong đêm tối, người mệt nhoài, chúng tôi để nguyên đôi chân đầy bùn, ngả lưng trên sườn đồi dốc và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ ngon lành. NGUYỄN HỢP Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 28 Tháng Mười Một, 2022, 02:26:56 pm HAI LẦN ĐƯỢC GẦN BÁC Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 88 ngày sinh của Bác, chúng tôi, những cán bộ học tại Học viện Quân sự cao cấp, được tổ chức đi thăm nơi ở và làm việc của Bác. Ngồi dưới nhà sàn, được nghe đồng chí Vũ Kỳ kể lại nhiều mẩu chuyện về Bác, nhất là những lời căn dặn, khuyên bảo, những tình cảm yêu thương của Bác đối với cán bộ và chiến sĩ ta, tôi rất xúc động. Nỗi xúc động ấy càng tăng lên khi tôi đi lên cầu thang ngoài nhà sàn nhìn vào buồng làm việc và nơi nghỉ của Bác, thăm buồng Bác thường họp với Bộ Chính trị, ngắm cây vú sữa chính tay Bác trồng nay đã xum xuê đầy quả, đàn cá Bác hằng chăm sóc đang bơi lượn trong ao. Cảnh vật ở đây sao yên tĩnh, giản dị mà rất thiêng liêng. Bác đã đi xa nhưng vẫn rất gần gũi với đàn con, từ khắp mọi miền đất nước về đây thăm Bác. Hai kỷ niệm không thể nào quên lại trở lại trong tôi: đó là hai lần may mắn tôi được gần Bác trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp gian khổ và vô cùng vẻ vang của dân tộc. Năm ấy là năm 1949 - cách đây ba chục năm trời - tôi đang làm trưởng Tiểu ban Tuyên huấn của Trung đoàn 66 thì được cử đi học lớp huấn luyện về Cách mạng Việt Nam ở Trường Nguyễn Ái Quốc tại Căn cứ địa Việt Bắc. Hôm đó, Bác đến thật đột ngột. Mới sáng tinh mơ, chúng tôi đang ngồi trên lán thì thấy vài ba người dưới chân đồi đi lên. Có người kêu to "Bác đến! Bác đến!". Chúng tôi chạy ùa ra vây quanh đón Bác. Bác cười, gật đầu chào chúng tôi rồi Bác đi thăm nhà bếp, nhà vệ sinh, một vài chiếc lán. Chúng tôi tập trung lên hội trường. Bác bước vào giữa tiếng vỗ tay chào đón Bác. Bác vẫy tay bảo mọi người ngồi xuống. Bác nói với chúng tôi về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, về công cuộc kháng chiến. Sau đó Bác đặt một câu hỏi: "Chú nào trả lời Bác xem trong công tác cách mạng công tác nào là quan trọng nhất?". Tôi giơ tay và đứng lên. Bác hỏi: "Cháu làm gì trong lớp?". Tôi trả lời: "Thưa Bác, cháu làm trực nhật ạ". Bác cười, bảo: "Trực nhật chứ không phải trực khẩu". Cả lớp cười ầm lên, vui vẻ. Bác nói: "Cháu trả lời đi". Tôi thưa: "Thưa Bác, trong công tác cách mạng, quan trọng nhất là công tác giáo dục, tổ chức quần chúng ạ". Bác hỏi: "Thế trong công tác giáo dục quần chúng, cái gì quan trọng nhất?". Tôi suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Thưa Bác, quan trọng nhất là giáo dục tinh thần kháng chiến lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng lợi ạ". Tôi đang nghĩ rằng trả lời như vậy chắc đúng ý Bác thì Bác lại hỏi: "Thế trong giáo dục tinh thần kháng chiến thì điều gì là quan trọng nhất?". Tôi lúng túng quá, không biết trả lời ra sao đành thưa: "Thưa Bác, cháu xin chịu ạ". Bác cười rồi nói với mọi người: "Trong công tác cách mạng, quan trọng nhất là công tác bí mật". Hai năm sau, năm 1951, tôi lại có một dịp nữa được gần Bác. Hồi đó, đại đoàn chúng tôi, Đại đoàn 304, được điều từ trong Khu 4 ra sau khi tiếp nhận vũ khí mới tạm dừng chân ở Tuyên Quang, chuẩn bị bước vào chiến dịch Trung du. Một hôm, tôi khi đó là phó ban Chính trị e.66 cùng một số anh em được Bộ Tư lệnh Đại đoàn giao cho một nhiệm vụ đặc biệt: tìm và chuẩn bị địa điểm để Bác gặp và nói chuyện với bộ đội. Tôi rất mừng mà cũng rất lo. Điều Bác dạy lần trước thật sinh động: làm sao bảo đảm được tuyệt đối bí mật. Chúng tôi đã tìm được một địa điểm rất đẹp. Đó là một khoảng trống khá rộng đủ để tập hợp cả đại đoàn giữa một khu rừng rậm rạp lại xa đường cái, cách đường số 2 khoảng 5 km. Bữa cơm tối để Bác dùng đã được dọn ra. Anh Hải mà chúng tôi thường gọi đùa là Hải xồm đã có công đi tìm kiếm làm một bữa khá thịnh soạn (tất nhiên là đối với thời kỳ đó). Bác hỏi anh Hải: "Có phải trước đây cháu là chủ hiệu cao lâu không?". Chúng tôi cùng cười vì quả như vậy thật. Bác ngồi vào bàn và bảo chúng tôi cùng ngồi ăn. Bác ăn rất ít, gắp thức ăn cho chúng tôi và tươi cười nhìn chúng tôi ăn. Dạo đó trời lạnh, đêm sương muối xuống dày và buốt. Chúng tôi dựng ở bìa rừng một gian nhà gianh nhỏ. Đúng là nhà gianh vì từ tường đến mái đếu lợp bằng cỏ gianh. Chúng tôi chặt cây, đẽo cành làm một chiếc giường con và một cái bàn. Làm xong tôi cứ băn khoăn mãi, tường gianh làm sao chống được lạnh, dát giường ghép bằng lá cây gồ ghề làm sao Bác ngủ yên. Chúng tôi bàn nhau dành bớt chăn lấy cái che tường và làm nệm. Ngoài căn nhà gianh, chúng tôi dựng ngoài bãi một cái bục cao cũng bằng cây rừng để Bác đứng nói chuyện với bộ đội. Tối hôm đó, trong khi đồng chí Trần Văn Quang, chính ủy đại đoàn, và một số anh em chúng tôi đi ra bờ sông đón Bác thì bộ đội cũng được lệnh tập trung về trú quân tại các dải rừng xung quanh bãi trống. Trong anh trăng mờ, một chiếc thuyền gỗ nhỏ đang xuôi dòng và dừng lại bên bờ. Bác ở dưới thuyền bước lên, một chiếc khăn mặt nâu che gọn bộ râu. Đồng chí Quang mời Bác lên ngựa và dẫn đường đưa Bác về nơi nghỉ. Vào nhà, Bác lại bên vách, chiếc giường con, Bác không bằng lòng, bảo chúng tôi: "Các chú dỡ chăn ra, đem cho bộ đội đắp". Chúng tôi chấp hành mà không dám nói gì thêm. Đêm, trời mưa to. Bên nhà gianh chợt có tiếng gọi: "Chú Quang đâu?". Đồng chí Quang dạ một tiếng và từ bên lán chạy vội sang, Bác bảo: "Chú đi xem bộ đội có bị ướt không?" 4 giờ chiều hôm sau, ngày 28-2-1951, đại đoàn được lệnh tập hợp tại khu bãi trống, bộ đội ngụy trang kín đáo. Sau khi mưa ngớt, các đồng chí trong Bộ Tư lệnh mời Bác ra nói chuyện với bộ đội. Bác vừa ở trong rừng ra, cả đại đoàn đều không ngờ được điều sung sướng vô vàn đó, đã nhảy lên, vỗ tay reo mừng: "Bác! Bác! Bác ạ!". Bác vẫy tay cho bộ đội ngồi xuống và bước lên "diễn đàn". Trong không gian lặng như tờ, giọng Bác vang lên ấm áp: "Hôm nay, không phải chỉ là Chủ tịch nước đến thăm bộ đội mà là cha đến thăm con, bác đến thăm cháu...". Câu nói đượm tình thương yêu của Bác làm cho bộ đội lặng đi, nước mắt ứa ra vì cảm động. Anh em lại một lần nữa nhảy lên, vỗ tay, reo mừng. Bác đã nói chuyện với chúng tôi về tình hình kháng chiến và nhiệm vụ của quân đội. Để kết thúc, Bác hỏi: "Các cháu có hứa với Bác quyết lập chiến công trong chiến dịch này không?". Cả đại đoàn vang lên câu trả lời: "Có ạ!" Với mệnh lệnh của Bác trong tim, đại đoàn chúng tôi hành quân bước vào chiến dịch. VŨ CHẤN Nguyên phó trưởng Ban chính trị Trung đoàn Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:33:11 pm KÝ CON ƠI! Thao trường dâng ngùn ngụt Trăm ánh đuốc bập bùng Ánh sao cờ phất gió réo từng không Các anh về mang tên mùa gió mới Sinh trong thời đại Tô đẫm nét vàng son Phải không Anh, người chiến sĩ Ký Con Đất mẹ hiền muôn thuở tiếng danh thơm! Tôi nhớ mãi: Lửa Cô Tô xác giặc thù quằn quại Vượt trùng dương mê mải bắt con tàu Vòng vây thành Nam càng xiết càng sâu Hồn sông Mã về đây hợp lại Muôn mắt trừng trừng hồn nhiên đợi Tiếng reo hò hòa ánh lửa đêm nay Sức vô biên súc tích đã bao ngày Đem về nhịp sống Chinh chiến men say Bước anh đi, thế hệ trẻ ngày mai! Tôi chưa quên: Văn Điển tường dày thắm máu son Đồi Tranh thây giặc đè cỏ non Hang Na tiếng vọng vang rừng núi. Quang Sán - Đục Khê sử vẫn còn! Tôi đang chép: Lửa Đồng Bến máu thù ngời ánh thép Gươm cao vung đêm kiêu hùng Mường Riệc Lê Xá tan tành rung động thành Nam Ký Con ơi! Muôn đời tiếng Anh vang! CHU MAI NIỆM (Đăng báo Quân Ký Con số đầu năm 1950) Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:35:31 pm CHIẾN DỊCH HÒA BÌNH (1951-1952) Khí thiêng hun đúc lộ Đà Giang! Quét sạch quân thù, lũ sói lang Giặc Pháp ngông cuồng, gieo tội ác! Để xem lũ quỉ, mấy buồng gan? Đồi Mè ta chặn lại Máng nước ta khuýp đuôi Quân thù đâm hoảng loạn Khỏi lửa cháy ngút trời Tỉnh lại, địch đối phó Gò É, ta tung hỏa Chớp thời cơ thuận lợi Lê - Nguyễn liền xông ra. Múa lê, tung thủ pháo Giặc Pháp bị tan thây Âm thanh tựa sâm chớp Trận đánh thật là hay! Ba tư xe tan xác Hòa Bình, địch ngơ ngác Điện tín xin rút quân Đờ-lát buộc lên gân. Phải giữ nguyên tại chỗ Tình thế không thể dừng Để cho quân thoát chết Chúng đánh bài luồn rừng. Hoan hô 66, thật anh hùng! Xe giặc, 34 chiếc nổ tung Đường 6 Đồi Mè, tan xác giặc Hoàng Dương, Lê Lợi lập kỳ công! Lính chủ lực xứng danh chủ lực Chư Pông tao ngộ, lại anh hùng. Bám lưng dù Mỹ, kêu bò rống Trọn niềm tin, con cháu Lạc Hồng. Viếng tượng đài Đồi Mè (Mông Hóa), 27-7-1999 TRẦN QUANG THƯỜNG Nguyên trung đoàn phó Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:41:56 pm TẶNG THỤC Người liên lạc mũi chủ công bị thương trong trận Đồng Bến (25-11-1949)
TRẦN VIẾT HIỂN Thư ký Tiểu đoàn Lê Lợi Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:44:13 pm TÌM BẠN Kính dâng hương hồn đồng chí Toa Tháng năm chinh chiến xa rồi. Nghĩa tình sâu nặng, trọn đời chưa quên Thương nhớ anh, phải đi tìm Đường vào Suối Đất đường lên đỉnh ngàn. Đến đây lòng những lan man. Anh nằm đây giữa bạt ngàn rừng xanh Nhớ khi tìm chỗ gửi anh Một vùng bom đạn mênh mông đỏ trời Gốc cây mộ chí ghi rồi Mà nay bát ngát núi đồi non tơ Ngậm ngùi giữa cảnh bơ vơ Rừng xanh như cũng ngẩn ngơ lòng người. Tôi tìm đồng đội hỡi ơi. Có nghe tiếng vọng ngân dài thinh không Đường số 6 xác xe tăng Sắt còn hoen gỉ nữa mong chi người Nắng mưa, vật đổi sao dời Lãng quên chịu nỗi đau đời còn ghi Chẳng vô tình cũng vô tri Tiếc thương nhau có được gì nữa đâu Anh vì tổ quốc cao sâu Nay về với đất thành màu non xanh Đồng đội mãi mãi nhớ anh Ở vùng Hang Nước rừng xanh Hòa Bình. NGUYỄN ĐỨC GIÁ Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:48:58 pm BÊN DÒNG SUỐI Hôm ấy cùng đi với bạn đường. Tôi bỗng thấy lòng gợn vấn vương: Có nàng thiếu nữ bên dòng suối, Tóc búi, đầu bồng, dáng yêu thương. Nhìn đoàn Vệ quốc đang trèo leo, Chắc nàng thầm nghĩ tới người yêu: Đang ở nơi xa, cùng cảnh ấy, Hẳn nàng thương nhớ biết bao nhiêu. Giơ tay, nàng vớt nước trong veo, Nhưng mắt vẫn không quên nhìn theo: Bóng người Vệ quốc dần xa khuất, Để lại bên nàng tiếng suối reo. Nhìn cảnh nên thơ, bạn tôi cười: "Rừng xanh, má phấn", viết đi thôi. Đôi dòng nhật ký đầy thơ mộng, Gọi là kỷ niệm tháng ngày trôi. NGUYỄN HỢP 25-11-1949, tại làng Hồi (Lương Sơn, Hòa Bình) Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:49:27 pm THĂM LẠI CHIẾN TRƯỜNG XƯA (Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ) Trở lại Mông Hóa Kỳ Sơn Non xanh nước biếc mây vờn ngang vai Gò Bùi Suốt Đất nơi đây Âm vang còn vọng bề dày chiến công Suối Mè nước chảy xanh trong Nước reo vui khắp cánh đồng định cư Rõ ràng mà vẫn như mơ Nơi xưa đồn giặc, bây giờ vườn hoa Xóm làng ngói đỏ trăm nhà Trâu đàn khua mõ chiều tà bình yên Mía xanh xanh tận ngút ngàn Công trường như dạo khúc đàn tương lai Đường số Sáu đã một thời Chiến công vang dội đất trời tự do Vui này, nhớ chuyện ngày xưa Gian nan vững dạ đói no ấm lòng Cọng rau hạt muối mặn nồng Tình dân lũy thép thành đồng khó quên Vui mừng gặp lại Mông Sơn Đang đà đổi mới vươn lên mạnh giầu. 25-7-1997 NGUYỄN ĐỬC GIÁ Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:51:04 pm CHIẾN THẮNG CỦA TÌNH ĐỒNG ĐỘI Trên chiến trường Trung Lào (1953-1954), sau những thất bại liên tiếp ở các trận Ba-na-phào, Pà Cuội, Khăm Hẹ, Tha Khet và trên đường số 9, quân Pháp cho tiểu đoàn dù ngụy số 6 (6è BPVN) đổ quân xuống Hìn Sìu hòng cùng với căn cứ Sê Nô cứu nguy cho các căn cứ còn lại của chúng. Tiểu đoàn Lê Lợi (782) chủ công của trung đoàn đã nhanh chóng đến bao vây Hìn Sìu và tấn công tiêu diệt phần lớn quân địch, bắt một số tù binh và hàng binh dẫn ngay về phía sau. Trận đánh coi như kết thúc thắng lợi. Tiểu đoàn được lệnh lui quân dưới tiếng gầm rít của máy bay chiến đấu và trực thăng địch tiếp tục tìm kiếm tàn quân của chúng. Làm nhiệm vụ thu dọn chiến trường, đưa được hết thương binh liệt sĩ của ta về phía sau, tôi cùng với liên lạc viên Đoàn Bá Ân ở lại sau cùng để rà soát lần cuối. Không ngờ, còn 5 tên lính dù ngụy đang tìm cách tiếp cận với trực thăng của chúng đi về phía chúng tôi. Phát hiện thấy chúng tôi chỉ có 2 người, chúng vừa chạy vừa bắn vừa hô nhau bắt sống. Trong người tôi chẳng có thứ vũ khí nào, chỉ có Ân là có trong tay một khẩu các bin. Ân vừa lấy thân che cho tôi vừa bắn trả từng viên một. Nấp hết mô đất này sang mô đất khác Ân bắn bị thương 2 tên buộc địch phải bỏ chạy thoát thân. Thế là sau trận thắng to, chúng tôi lại thắng tiếp một trận nhỏ, nhờ lòng dũng cảm và tình đồng đội mà tôi được giải nguy trong trận đó. Kỷ niệm này tôi không bao giờ quên. Ngày nay Đoàn Bá Ân bạn đang ở đâu, có còn nhớ không? HỒ NHẬT LƯƠNG Nguyên chính trị viên phó Tiểu đoàn Lê Lợi Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:52:34 pm NHỚ MÃI ĐI-Ê-GÔ! Đi-ê-gô vốn là một nông dân nghèo ở Tây Ban Nha bị bắt đi lính và trở thành tù binh của Pháp trong chiến tranh thế giới thứ 2 rồi bị sung vào đội quân lê dương của Pháp và được đưa sang Việt Nam tham chiến vào khoảng đầu năm 1947. Chỉ sau một thời gian ngắn, Đi-ê-gô đã cảm thấy cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam là không thế chấp nhận được. Anh chỉ thấy quân Pháp đi bắn giết nông dân, đốt phá làng xóm, mùa màng. Là nông dân, Đi-ê-gô khá nhạy cảm với điều này nên không đồng tình, càng không muốn mình phải đi làm những điều tàn ác đó. Mặt khác, Đi-ê-gô cũng thấy rằng những người kháng chiến Việt Nam có nhiều nét giống những người kháng chiến Tây Ban Nha trong cuộc chiến đấu giữa Mặt trận bình dân với chính quyền phát xít Phơ-ran-cô. Vì vậy, Đi-ê-gô sớm nảy ra ý định tìm cách rời khỏi hàng ngũ quân đội Pháp về với những người kháng chiến Việt Nam. Khi đơn vị lê dương của Đi-ê-gô được điều về đồn Đông Tảo (còn gọi là Đông Cảo) thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên để chuẩn bị càn quét, Đi-ê-gô lợi dụng lúc làm nhiệm vụ cảnh giới ban đêm ngoài hàng rào để trốn đi tìm bộ đội ta. Đúng lúc đó, trinh sát của Đại đội Ký Con (sau này là Đại đội 1 Tiểu đoàn Cô Tô) cũng đang bí mật tìm cách đột nhập vào đồn để chuẩn bị đưa đơn vị vào đánh. Gặp nhau bên ngoài hàng rào, Đi-ê-gô xin hàng và chỉ dẫn ngay cho anh em bộ đội tránh những vọng gác mới tăng cường của quân đội Pháp. Trận tập kích vào đồn Đông Tảo diễn ra thuận lợi, gây cho địch nhiều thiệt hại. Đi-ê-gô rất vui và xin ở lại Đại đội Ký Con để tham gia chiến đấu. Được cấp trên đồng ý, Đi-ê-gô chính thức trở thành chiến sĩ của Đại đội Ký Con với cái tên Nguyễn Văn Tảo để kỷ niệm nơi Đi-ê-gơ đã ra hàng bộ đội Việt Nam: Đông Tảo. Thời gian đầu, Tảo được bố trí vào tiểu đoàn súng máy, làm chiến sĩ chuyên mang đạn cho khẩu trung liên Bờ-ren đầu bạc cũ kỹ. Là một nông dân, Tảo hòa nhập rất nhanh và khá dễ dàng với anh em trong đơn vị và bà con nông dân những nơi trú quân. Là người Âu, song Tảo không khó khăn lắm trong việc hòa nhập vào thói quen sinh hoạt của người Việt Nam. Rau muống, mắm tôm, cà pháo... Tảo đều ăn rất ngon lành. Được mấy đồng tiền phụ cấp, Tảo cất rất cẩn thận và tiêu pha hết sức tiết kiệm. Anh em có trêu chọc thì Tảo chỉ cười và nói: "Tảo để dành tiền cưới vợ đấy!". Cuối năm 1948, Tảo được đề bạt tiểu đội phó, rất phấn khởi, càng tích cực gương mẫu hơn. Mặc dầu vốn tiếng Việt còn ít ỏi nhưng Tảo sống rất chan hòa với anh em và bà con nơi đóng quân. Cuộc liên hoan quân dân nào cũng có tiết mục của Tảo. Khi đóng kịch, Tảo chuyên được phân vai Tây và luôn bị quân ta đánh cho thua liểng xiểng. Tiết mục đặc sắc nhất của Tảo là sử dụng chiếc đàn ghi ta và hát những bài hát Tây Ban Nha, nhảy những vũ điệu Tây Ban Nha. Cho đến trận Tế Tiểu đầu năm 1949. Lúc đó cả Trung đoàn 66 đang truy kích quân Pháp rút chạy khỏi vùng Mỹ Đức. Hôm đó, tiểu đội của Tảo được giao nhiệm vụ bảo vệ khẩu "Vanh" cụt đi truy kích địch. (Đó là khẩu tiểu pháo 20 mm trên chiếc máy bay Hen Cát của Pháp bị ta bắn rơi, nòng súng bị gãy, quân giới ta đã cưa bớt chỗ gãy và làm thêm giá súng để sử dụng). Đến bến đò Tế Tiêu, khẩu "Vanh" cụt triển khai sát bờ sông, bắn thẳng vào những chiếc thuyền chở quân Pháp đang vội vã vượt qua sông Đáy sang bên Ứng Hòa. Nấp sau những rặng tre bên bờ sông, Tảo nhìn rất rõ cảnh rút chạy hoảng loạn của quân địch. Khi khẩu "Vanh" cụt xả một loạt đạn bắn chìm một chiếc và bắn cháy một chiếc thuyền khác chở đầy quân Pháp, Tảo phấn khởi quá đứng bật dậy vỗ tay hô lớn "Hoan hô! Vi va!...". Vừa lúc đó một chùm đạn đại bác của địch dập xuống đội hình đơn vị. Một mảnh đạn văng vào ngang bụng khiến Tảo gục ngay xuống. Anh em nhào đến đỡ Tảo dậy. Cố nén đau, Tảo gắng sức thều thào "đánh tốt lắm... Tiếc quá...". Vết thương quá lớn, anh em dồn hết bông băng để băng cho Tảo và đưa gấp về phía sau cấp cứu. Sức khỏe của Tảo đuối dần. Đển quân y tiểu đoàn, Tảo được cầm máu, sơ cứu một lần nữa rồi được đưa ngay xuống thuyền về trạm cấp cứu của bệnh viện cấp trên. Sau này, đồng chí y tá đưa Tảo đến bệnh viện Đồng Quan kể lại: Nằm trên thuyền, Tảo không kêu rên, không giãy giụa, chỉ nằm yên chảy nước mất và hỏi: "Y tá ơi! Tảo có chết không? Tảo có được về với anh em không?". Đồng chí y tá cố cầm nước mắt động viên Tảo, "Tảo không chết đâu, có một tý nữa, đến quân y mấy ngày là Tảo khỏi thôi, rồi Tảo sẽ được về với đại đội". Nhưng điều đó đã không xảy ra. Do vết thương quá nặng, chưa đến được bệnh viện thì Đi-ê-gô Nguyễn Văn Tảo đã trút hơi thở cuối cùng. Nửa thế kỷ đã trôi qua mà chúng tôi vẫn không quên được Đi-ê-gô. Cho đến nay, chúng tôi không còn nhớ đầy đủ tên họ Tây Ban Nha của Tảo, không biết Tảo sinh ra và lớn lên ở vùng quê nào trên xứ sở Tây Ban Nha xa xôi, nhưng hình ảnh một Đi-ê-gô nồng nhiệt, trung thực, dũng cảm, một nông dân Tây Ban Nha cần cù, chất phác, một chiến sĩ quốc tế giản dị với những phẩm chất thật đáng quý trọng... vẫn in sâu trong ký ức và trái tim chúng tôi. Đi-ê-gô Nguyễn Văn Tảo, chúng tôi mãi mải không quên anh. TRẦN QUỐC HANH Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:53:56 pm CHUYỆN VỀ MỘT MŨI TRINH SÁT Để thực hiện kế hoạch đánh đồn Noọng Hét (Lào) trong chiến dịch Xuân 1953, Ban chỉ huy Trung đoàn 66 cử 3 mũi trinh sát đi nắm tình hình địch. Một mũi gồm 13 cán bộ chiến sĩ do đồng chí Bùi Trâm bí thư chi bộ, chính trị viên Đại đội 40 trinh sát phụ trách. Khoảng 5-6 ngày trước Tết Nguyên đán Quý Tỵ, đội đã vượt sông sang đất Lào. Đi tiếp 3 ngày đêm nữa, xem bản đồ thấy gần bản Nậm Mèn. Trời sắp sáng và mọi người đã thấm mệt nên chỉ huy cho anh em phân tán tạm nghỉ. Đang thiu thiu ngủ bỗng có tiếng bọn phỉ gọi nhau bảo có Việt Nam. Bọn chúng kéo đến mỗi lúc một nhiều. Biết bị lộ và phán đoán đây là bọn phỉ cơ động án ngữ cho Noọng Hét từ xa, anh em ta tìm vị trí chuẩn bị chiến đấu. Khoảng 6 giờ địch nã các cỡ súng, đặc biệt là cối 60 ly và AT vào đội hình ta. Ý đồ của chúng là bắt sống hoặc tiêu diệt toàn bộ anh em mình. Khoảng 7 giờ địch xung phong bị chết nhiều nên phải lùi ra. Chúng lại dùng hỏa lực bắn dồn dập, tiếp đó xung phong lại bị ta đánh trả quyết liệt, cứ như thế cho đến 12 giờ trưa, địch tổ chức đến 6 lần xung phong nhưng không vào được trận địa của ta. Từ đó địch chỉ bắn cầm chừng và không thấy tổ chức xung phong như buổi sáng. Có thể do chúng bị thiệt hại nhiều, hao hụt quân số nên không còn đủ sức để tấn công, về phía ta đã có 8 người hy sinh, còn lại 5 đều bị thương, trong đó anh Bùi Trâm bị thương 2 lần, lần thứ hai bị thương vào bụng lòi ruột là nặng nhất. Trước tình hình đó, anh Bùi Trâm quyết định anh Vũ Duy Hàn cùng 3 anh còn lại bằng giá nào cũng phải vượt vòng vây về báo cáo trung đoàn. Còn anh không thể đi được ở lại làm một mũi thu hút địch. Anh nói: "Các đồng chí vững tâm vượt vây, còn bao nhiêu súng lựu đạn tập trung quanh tôi, nếu còn sống tôi sẽ chiến đấu". Đúng 9 giờ đêm, 5 người cùng nổ súng và ném lựu đạn vào phòng tuyến địch, phát hiện chỗ thưa tiếng súng, 4 người vọt qua. Ra khỏi vòng vây 500 mét, anh Hàn và anh Sàng dừng lại chờ đồng đội. Khoảng một tiếng đồng hồ không thấy ai, đoán là anh Căn và đồng chí vệ binh hy sinh rồi, hai anh động viên nhau đi tiếp. Đến trưa, hai anh còn nghe tiếng súng, chắc của anh Trâm đánh trả địch. Cả hai người lúc này hết sức mệt mỏi, cổ họng khô đắng vì không có nước uống. Đi tiếp 2 ngày 2 đêm nữa, đói thì nhấm gạo rang, khát thì ăn nõn chuối rừng và mút sương đọng trên lá cây. Về gần đến biên giới, anh Sàng kiệt sức, vết thương đã có dòi. Thấy không thể dìu anh Sàng đi tiếp được nữa, anh Hàn đặt anh nằm dưới một lùm cây, đun một ít cháo gạo rang dặn cố gắng ăn để anh còn tranh thủ về đơn vị báo cáo. Đi được khoảng 2 tiếng, lúc ấy trời đã nhá nhem tối, thấy có người mình, anh Hàn gọi nhưng mấy anh em này tưởng là phỉ lùi lại phía sau. Mãi đến lúc anh Quang Cư nhận ra anh Hàn mới tổ chức mang anh về. 5 giờ sáng hôm sau, theo chỉ dẫn của anh Hàn, anh Quang Cư cùng 6 anh em nữa đi tìm anh Sàng, đưa được anh về trạm cấp cứu của trung đoàn. Do vết thương quá nặng, dù anh em quân y hết sức cứu chữa, nhưng anh Sàng vẫn không qua khỏi. Qua trận này: Anh Bùi Trâm và anh Hoàng Khắc Thân được truy tặng huân chương Chiến sĩ hạng nhất; anh Vũ Duy Hàn được tặng thưởng huân chương Chiến sĩ hạng nhất. Gương chiến đấu dũng cảm và hết lòng thương yêu đồng đội của anh Hàn đã được Đại đoàn 304 cho xây dựng thành một vở kịch để giáo dục động viên bộ đội. PHẠM HUY TẤN Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 01 Tháng Mười Hai, 2022, 02:55:46 pm CÓ MỘT NGƯỜI ĐỒNG ĐỘI TÁNG Ở AN LĂNG - HUẾ Cách thành phố Huế không xa về phia tây nam có một khu lăng mộ các vua nhà Nguyễn tên là AN LĂNG được xây dựng giản dị và nhỏ bé so với các lăng mộ khác. Đầu năm 1991, tôi đã tìm đến An Lăng vì nơi đó có ngôi mộ của một người lính Trung đoàn 66. Anh tên là Nguyễn Bảo Luân. Theo sơ yếu lý lịch mà tôi còn nhớ, Bảo Luân là con ông Vĩnh Lưu và là cháu nội ông Thành Thái một vị vua yêu nước. Anh gọi vua Duy Tân (hoàng tử Vĩnh San cũng là một vị vua yêu nước) là bác ruột. Ngày toàn quốc kháng chiến, Bảo Luân đi thiếu sinh quân Khu 4, sau đó về Trung đoàn 18 rồi sau đi học trường sĩ quan Lê Lợi (đào tạo chính trị viên trung đội của Liên khu 3). Đầu năm 1950, Trung đoàn 66 được bổ sung một số tốt nghiệp sĩ quan Lê Lợi. Đó là anh Đỗ Quang Diệm, Vũ Văn Thông, Trần Văn Chi, Phạm Quế Dương, Nguyễn Văn Thân, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Bảo Luân v.v... các anh Thông, Thân, Bích và Luân ở lại làm cán bộ Ban chính trị trung đoàn. Bảo Luân là tổ trưởng Văn nghệ thuộc tiểu ban tuyên huấn do anh Vũ Chân và anh Nguyễn Hiền phụ trách. Trong chiến dịch Quang Trung năm 1951, Bảo Luân được cử đi làm phái viên xuống các đơn vị sau khi hai tiểu đoàn Cô Tô và Nguyễn Huệ đã diệt gọn các đồn Chùa Dầu và đồn Yên Vệ. Sáng sớm hôm đó Bảo Luân đi ra mặt trận. Đến buổi chiều có tin về Ban chính trị anh Bảo Luân đã hy sinh khi đang đi trên đường số 10 bị trúng đạn 20 ly của máy bay Pháp. Tôi sửng sốt và thấy buồn vô hạn vì tôi đã mất một đồng đội, mất một người bạn tôi rất quý mến, một cán bộ trẻ nhiều triển vọng, nhiệt tình công tác, rất lạc quan yêu đời. Do hoàn cảnh đất nước, hết chống Pháp lại tạm chia hai miền nên gia đình anh sống ở Huế - còn mẹ già là cụ Phan Thị Cầm con dâu vua Thành Thái - không nhận được giấy báo tử. Mấy chục năm gia đình sống trong khắc khoải, chờ mong, bán tin bán nghi vì có kẻ xấu tung tin "tay này con vua cháu chúa, chắc gì cộng sản tin dùng, chả thấy tăm hơi gì cả, thư từ cũng không, chắc bị cộng sản thủ tiêu rồi!!!". Sau năm 1975 gia đình có gặp các anh ở Trung đoàn 18 cũ, các anh cũng không biết Bảo Luân về sau này ở đơn vị nào. Lần mò mãi đến 1987 thì biết đơn vị cuối cùng của Bảo Luân là Trung đoàn 66, Sư đoàn 304. Các anh Vũ Chấn, Nguyễn Văn Thụ, Nguyễn Văn Thân đã làm giấy chứng nhận để gia đình xin hưởng chế độ chính sách. Cùng năm, gia đình nhận được giấy báo tử, bằng Tổ quốc ghi công và Ủy ban nhân dân xã Hương Sơ thành phố Huế đã tổ chức lễ truy điệu liệt sĩ Bảo Luân. Nguyễn Phúc Khôi, anh ruột của Bảo Luân, là bác sĩ quân y của bộ đội Liên khu V (đã về hưu; đưa tôi đến An Lăng. Tôi thật sự ngỡ ngàng khi thấy 3 ngôi mộ của 3 vị vua Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân lại giản dị, khiêm tốn đến thế. Đằng sau 3 ngôi mộ xếp hàng dọc này là một dãy mộ xếp hàng ngang của các hoàng tử, hoàng tôn, công chúa, quận chúa. Mộ anh Bảo Luân nằm giữa và chỉ riêng bia ngôi mộ này có hình ngôi sao vàng năm cánh. Anh Phúc Khôi đã ra tận Ninh Bình đưa hài cốt Bảo Luân về khu lăng của Đệ tứ chánh hệ (Hoàng tộc). Kể từ ngày xa anh đến nay, thấm thoát đã 40 năm (1951-1991) tôi mới thắp được nén hương cho anh, nén hương của tình bạn chiến đấu. Tôi thầm mong có ai đó, người của Trung đoàn 66 đi du lịch qua Huế, hãy đến An Lăng thắp cho anh nén hương để nói rằng "Anh vẫn còn sống mãi trong lòng những người lính 66 chúng ta". NGUYỄN HÙNG CƯỜNG Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 08:55:30 pm TẢN MẠN MỘT THỜI LÍNH HÀ NỘI, TÂY TIẾN VÀ 66 Năm 1944, tôi đậu bằng thành chung (tương đương cấp hai bây giờ), ước mơ ngày nào đó là một "gô-đốt-tơ-rơ” (một từ lớp trẻ chúng tôi ngày đó hay dùng) tức làm nghề gõ đầu trẻ, một thầy giáo. Nhưng sõ phận có phải lúc nào cũng chiều lòng người. Lúc bấy giờ uy tín và ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh tác động rất sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, nhiều thanh niên náo nức tìm đường đến với cách mạng. Đầu năm 1945, tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc, và mùa Thu lịch sử năm đó, vinh dự được tham gia Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Ngay sau đó, tôi được đoàn thể Việt Minh cử đi học lớp Quân chính một tháng ở Việt Nam học xá (Đại học Bách Khoa bây giờ), được giao chức vụ trung đội trưởng, công tác ở Ban Tham mưu Đặc khu Hà Nội. Anh sĩ quan 18 tuổi lúc đó được đồng đội gọi là "Hiền sữa”, chỉ mong có một tí ria mép cho có vẻ người lớn, nhưng không sao có được. Tháng 8 năm 1946, tôi được cử đi học lớp bổ túc quân sự Tông ở Sơn Tây do Quân ủy Trung ương mở, sau đó về làm trung đội trưởng Trung đội 1, Đại đội 15, Tiểu đoàn 212, Liên khu II Hà Nội, đóng quân ở trại Hàn Lân, có một vọng gác ở Ngã tư Trung Hiền. Tình hình Hà Nội lúc này cực kỳ căng thẳng. Bọn Pháp liên tiếp có những hành động khiêu khích trắng trợn. Mỗi lần qua Ngã tư Trung Hiền để xuống Trường bắn Tương Mai, ngồi trên xe bọc thép, chúng chĩa súng vào anh em mình đứng gác và làm đủ những cử chỉ bẩn thỉu. Đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tôi được lệnh đưa trung đội chốt giữ Ô Cầu Dền, đưa hai tiểu đội lên tham gia đánh địch ở khu vực Hàm Long. Suốt đêm đó, chúng tôi mò mẫm quanh rạp chiếu bóng Majestic (rạp Tháng Tám ngày nay). Ngày hôm sau, được sự phối hợp của anh em tự vệ, đơn vị tôi đã phải chiến đấu rất quyết liệt với bọn Pháp, cả da trắng, da đen, quần nhau với bọn chúng từ căn nhà này sang căn nhà khác. Trận thử lửa đầu tiên, tuy đơn vị có 3 chiến sĩ hy sinh, 5 bị thương nhưng đã cho tôi một nhận xét: "Bọn lính Pháp rất đông, vũ khí hiện đại và nhiều hơn hẳn ta nhưng trong chiến đấu thì chúng lại nhút nhát la hét om sòm, gọi nhau í ới". Còn chiến sĩ ta, trang bị vũ khí thô sơ, kinh nghiệm chiến đấu chưa có nhưng thật anh dũng, chẳng ngại hy sinh, đặc biệt các anh em tự vệ, chỉ có một mã tấu hoặc lưỡi lê và mấy quả lựu đạn nhưng rất lạc quan, xông xáo. Tháng 1-1947, trong một trận đánh ở Vĩnh Tuy, tôi bị một mảnh đạn đại bác địch găm vào sau gáy, cách cột sống khoảng 1 cen-ti-mét. Tôi bị xỉu đi, khi tỉnh dậy là lúc các thầy thuốc đã hội chẩn và quyết định dùng một cái kẹp ngoáy để tìm gắp mảnh đạn. Không có thuốc tê, cũng chẳng có phương tiện gây mê. Tôi đau điếng người vẫn phải cắn răng chịu đựng, không hề một tiếng kêu rên. Vì mảnh đạn vào khá sâu nên cuộc tìm kiếm không thành công, chỉ rắc ít thuốc đề phòng nhiễm trùng (hiện nay mảnh đạn vẫn nằm trong lồng ngực, được mỡ bọc kín như một thớ thịt, mỗi lần chụp X-quang lại nhìn thấy, chỉ khi thời tiết thay đổi mới hơi tê tê). Sau khi hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ tham gia 60 ngày đêm bảo vệ Thủ đô, Tiểu đoàn 212 được lệnh chuyển quân lên Hòa Bình, ổn định tổ chức và sáp nhập vào Trung đoàn 52 Tây Tiến. Lúc này tiểu đoàn được đổi tên thành Tiểu đoàn 150 có 3 đại đội 121, 131, 151 và một đại đội trợ chiến do anh Tuấn Sơn làm tiểu đoàn trưởng. Lần đầu ra vùng núi rừng bao la hùng vĩ, các "lính cậu" Hà Nội hết sức thích thú, thấy nước suối chảy trong vắt là ghé mồm uống ngay, khi biết phía trên có cả đàn trâu đang đầm mới giật mình; thấy lợn của dân chạy rông bìa rừng lại khoe nhìn thấy lợn rừng... Các chiến sĩ ta rất tự hào với tên gọi mới "lính Tây Tiến", nhiều cậu còn giữ được chiếc mũ nồi đen và chiếc lắc bạc đeo cổ tay mang theo từ Hà Nội. Một lần mấy cậu trung đội tôi đi trinh sát đồn Sốp Bao thuộc đất Lào, mò mẫm trong đêm tối bỗng kháo nhau "Sao ở đây lắm vựa thóc thế!". Chẳng may đó là một cái lô cốt, địch đổ trấu ra ngoài. Nghe động, chúng chĩa súng ra lỗ châu mai bắn ra làm mấy lính nhà ta chạy hút chết. Chỉ hơn hai tháng lên miền Tây, nhiều anh em đã bị sốt rét ác tính không sao chạy chữa được. Do khí hậu khắc nghiệt, đời sống quá gian khổ, thiếu thốn, nhiều anh mạnh khỏe thế mà giờ da vàng, rụng hết tóc. Bản thân tôi, có lần anh em đã khiêng ra bờ tre vì sốt rét quá nặng, để nếu có chết không ảnh hưởng đến công tác dân vận. Ai đã qua Tây Tiến không sao quên được thơ Quang Dũng: ... Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy Hồn về Sâm Nứa chẳng về xuôi. Tháng 7 năm 1947, tôi được điều về làm quản trị trưởng tiểu đoàn bộ. Tháng 9 năm đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương do các anh Tuấn Sơn và Trịnh Xuân giới thiệu, được đề bạt đại đội phó và điều lên trung đoàn để nhận nhiệm vụ mới. Một hôm anh Lê Hùng Thanh, chính trị viên trung đoàn bảo tôi: "Trung đoàn ủy đã quyết định chuyển cậu sang làm chính trị viên, tạm thời giúp các anh ở Ban chính trị, thời gian nữa sẽ đi nhận công tác". Tôi báo cáo anh là tôi quen làm quân sự chứ có biết làm công tác chính trị thế nào đâu. Anh cười nói: "Làm rồi quen đi, cán bộ chính trị giờ đang thiếu, vả lại cậu đẹp trai thế làm chính trị viên là được rồi". Tôi thật sự lo ngại, còn đang là đảng viên dự bị, chưa bao giờ chủ trì một cuộc họp, khi còn ở trung đội, mọi việc đều do anh Thiện chính trị viên lo cả. Cuối năm 1947, tôi cầm quyết định về Đại đội 151. Anh Tú Hào giới thiệu tôi với anh Phúc Thảo đại đội trưởng và anh Nghị đại đội phó, tiếp đó triệu tập chi bộ công bố quyết định của trên cử tôi thay anh làm chính trị viên và bí thư chi bộ. Công việc bàn giao chỉ có thế và anh sang nhận nhiệm vụ bên Đại đội 121. Rất may là anh Hoàng Khải Tiến bấy giờ đã thay anh Tuấn Sơn làm tiểu đoàn trưởng lại hướng dẫn tôi nhiều điều rất cụ thể. Anh dặn phải nắm chi bộ, sâu sát cán bộ trung đội, còn họp chi bộ cứ để anh em phát biểu ý kiến, mình lắng nghe rồi kết luận. Anh động viên tôi, bảo có gì khó khăn cứ lên gặp anh và anh Quốc Tuyển chính trị viên tiểu đoàn. Ngày 6-1-1948, tôi được công nhận đảng viên chính thức và đại đội được lệnh đi hoạt động độc lập ở huyện Nho Quan. Đây là thời kỳ đại đội có nhiều bước trưởng thành. Chúng tôi đã cho các trung đội thay nhau đi tiếp cận các đồn địch, có điều kiện thì quấy rối hoặc phục kích chặn đánh những tốp địch đi càn quét. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 08:56:14 pm Tháng 8-1948, quân Pháp nống ra Ninh Bình, một cánh quân của chúng thọc vào thị trấn Nho Quan. Đại đội phải kiên cường lắm và nhờ nhân dân hết lòng giúp đỡ mới chống đỡ nổi các đòn của địch. Sau mấy ngày quần nhau với chúng ở làng Bông, làng Liêu, đồi Lạo, chúng tôi vừa rút sang Châu Sơn thì địch ập tới. Trung đội trưởng trợ chiến Thanh Tùng (Tùng cóc) đã rất gan dạ và mưu trí dùng cối 60 và trung liên kìm chân địch để cả đại đội rút quân an toàn. Một ấn tượng nữa thời Tây Tiến tôi không bao giờ quên, đó là trận Hang Na. Sau những ngày chiến đấu ác liệt ở Nho Quan, Đại đội 151 được lệnh chuyển về Gia Viễn, đóng quân ở xóm Bích Sơn. Vừa đặt ba lô xuống, trinh sát đã báo tin, một tiểu đoàn Âu Phi đang tiến đến, có thể chúng sẽ đánh vào nơi trú quân của đại đội. Khoảng quá trưa, địch đã dồn đại đội về chân núi Y Na, phía Hang Na. Nắm được lực lượng ta mỏng, địch nã hỏa lực cấp tập rồi truy theo, mưu đồ "cất vó" cả đại đội. Tình hình cực kỳ căng thẳng. Bám được chân núi, bọn lính da đen bị chỉ huy thúc liều mạng leo lên. Nhiều chiến sĩ ta bật dậy, dùng lưỡi lê xọc thẳng vào quân giặc. Trận chiến đấu giáp lá cà diễn ra ác liệt nhất ở trung đội anh Khương Văn Dạ. Anh tuốt kiếm đánh bổ vào địch và anh đã anh dũng hy sinh. Hình ảnh đó làm tôi rất xúc động. Tôi nhỏm dậy hô lớn "các đảng viên anh dũng tiến lên". Hàng loạt tiếng hô "xung phong" hòa lẫn tiếng lựu đạn vang vọng vào các vách đá. Ta đã chiến thắng. Địch bị đánh bật xuống chân núi, tháo chạy. Đầu năm 1949, tôi được cử đi dự Hội nghị Bí thư chi bộ toàn quân lần thứ nhất ở Việt Bắc. Trong báo cáo về kinh nghiệm công tác lãnh đạo trong chiến đấu, tôi có kể về trận đánh ở Y Na, nêu lên những tấm gương hy sinh cao cả của anh Dạ và các đồng chí khác. Thật bất ngờ và cảm động, cả hội trường im phăng phắc. Tôi vừa nói vừa cố giữ để khỏi khóc, nhưng cổ cứ nghẹn lại và nước mắt cứ trào ra. Anh Lý Ban, phó cục trưởng Cục Chính trị, lúc bấy giờ trực tiếp chỉ đạo hội nghị, đề nghị mọi người đứng dậy để một phút mặc niệm các chiến sĩ đã ngã xuống trong trận Y Na. Trên đường đi dự hội nghị nói trên, tôi được gặp các anh ở Liên khu 3 cũng đi dự là anh Sĩ Tín, Mai Quang Ca, Lương Tuấn Khang, Lê Phương... Đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với các anh. Tuy mỗi người một cá tính, nhưng do tuổi trẻ, lại đã ít nhiều kinh qua công tác quần chúng và chiến đấu nên chúng tôi dễ hòa hợp. Qua trò chuyện, tôi biết anh Tín và anh Ca ở Trung đoàn 66, anh Tín là trưởng Tiểu ban Cán bộ. Anh Tín hơn tôi hai tuổi, tính trầm và chín chắn, là thanh niên Hoàng Diệu cũng tham gia Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội. Tôi đi cùng anh Tín từ phố Nỉ lên Việt Bắc, sau hội nghị lại cùng nhau trở về Liên khu 3. Bấy giờ chúng tôi chưa biết Tiểu đoàn 150 sẽ về Trung đoàn 66 nên hẹn nhau có điều kiện thì giữ quan hệ. Khi về đến Liên khu 3, anh Tín được thông tin là Tiểu đoàn 150 đã là thành viên của Trung đoàn 66 với phiên hiệu mới, Tiểu đoàn 766, Nguyễn Huệ. Anh rất vui, động viên tôi nên lên công tác trên trung đoàn và anh sẽ đề nghị. Tháng 5-1949, tôi được bổ nhiệm làm phó trưởng Tiểu ban Tuyên huấn, Ban chính trị Trung đoàn 66. Thế là tôi có dịp được biết làm việc với những người đồng đội mới: Lê Hưng, Vũ Chấn, Hữu Hùng, Đăng Đào, Hùng Cường, Xuân Đài, Lại Nguyên Từ... Chỉ thời gian ngắn, anh Vũ Chấn lên phó trưởng Ban chính trị, tôi thay anh làm trưởng Tiểu ban Tuyên huấn. Bấy giờ tuyên huấn có hai công việc khá bận rộn là tờ tin "Quân Ký Con" và đội văn công. Để nuôi sống được tờ tin tháng ra hai kỳ, mấy anh em ở Tiểu ban Tuyên huấn như anh Chu Mai Niệm, Hữu Vinh luôn phải xuống các đơn vị để "săn" bài vở. Lúc đầu tờ tin in bằng thạch rất vất vả, chữ nhiều chỗ không rõ, số lượng bản ít. Sau này khi đóng quân ở Phủ Quảng (Thanh Hóa), gặp anh Doanh có một xưởng in ti-pô nhỏ. Anh Chấn bàn với tôi xem có thể đề nghị trung đoàn mua lại xưởng in đó. Chúng tôi đã mấy lần gặp anh Doanh để thăm dò. Nhưng sự việc lại vô cùng thuận lợi. Anh Doanh tình nguyện xin nhập ngũ, trở thành lính 66 và tặng trung đoàn toàn bộ xưởng in. Năm 1954, anh xuất ngũ về sinh sống với gia đình tại Hải Phòng, mất năm 1966. Điều đáng quí ở anh là không bao giờ kể công về món quà anh tặng trung đoàn. Các đồng chí tích cực ủng hộ và làm thủ tục để anh Doanh cùng mấy công nhân xưởng in vào trung đoàn là anh Hoàng Tài Long và Nguyễn Tất Lập bên Ban Tham mưu. Một cán bộ do Ban Chính trị cử xuống xưởng in nay tôi vẫn thường gặp là anh Đặng Đình Vượng. Từ đó tờ tin "Quân Ký Con" có bộ mặt sáng sủa hẳn lên. Mỗi lần các đơn vị của trung đoàn lập chiến công, tờ tin có nội dung khá rôm rả, đủ thể loại: bình luận, phóng sự, thơ, ca dao... in 2, 3 màu như trận Hoàng Dương - Tử Dương, Chùa Cao, Lê Xá, Hồi Trung, diệt 34 xe ở Đồi Mè... Xưởng in còn phục vụ các hoạt động khác như in truyền đơn địch vận, in biểu mẫu cho Ban Hậu cần, Ban Tham mưu... Vào thời điểm đó, một trung đoàn có một xưởng in ti-pô, một đội văn công với những nhạc sĩ như Mạnh Thường, Nguyễn Văn Thưởng với một tổ kịch nói chuyên nghiệp tiêu biểu là Hồng Kỳ quả là hiếm có. Do yêu cầu công tác, nhất là việc nắm tình hình tư tưởng bộ đội, tôi có điều kiện thâm nhập cả 4 tiểu đoàn và nhiều lần theo các đơn vị đi chiến dịch. Các cán bộ và chiến sĩ của trung đoàn hầu hết đã kinh qua trận mạc, nên rất tự tin và đã góp phần xây dựng cho trung đoàn một truyền thống chiến đấu anh dũng và sáng tạo khiến kẻ địch nhiều lúc nghe danh cũng phải kiêng nể. Tuy nhiên phần lớn cán bộ xuất thân thành phần tiểu tư sản thành thị nên có lúc có nơi không tránh khỏi tính "tếu" nếu không muốn nói là kiêu binh. Tôi nhớ năm 1950, khi cùng với các Trung đoàn 9 và Trung đoàn 57 thành lập Đại đoàn 304, trung đoàn lần đầu vào Thanh Hóa, đóng quân ở vùng Quí Hương. Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, các đơn vị của trung đoàn đến đâu cũng được chính quyền địa phương và nhân dân đón tiếp rất chu đáo và nồng nhiệt. Hội Phụ nữ Quí Hương tổ chức cả một ngày để bà con đến thăm và úy lạo các đơn vị. Tình đoàn kết quân dân rất đậm đà. Buổi tối, cuộc mít tinh chào mừng trung đoàn, có ca múa và bán căng tin đủ các loại nhu yếu phẩm từ bánh kẹo, hoa quả đến xà phòng, khăn mặt. Cán bộ chiến sĩ vào mua hàng rất đông. Bỗng mấy ngọn đèn ở quầy căng tin phụt tắt, một số anh nhảy qua bàn bầy hàng vào trong. Các chị em được phân công bán hàng sợ quá chạy vội ra ngoài. Mấy cậu vừa cười vừa quát tướng lên: "Không sao đâu, lính 66 lấy bao nhiêu trả tiền hết". Tôi đang ở chỗ mít tinh được tin báo, sợ hết hồn. Tôi ở Trung đoàn 66 chỉ ít thời gian. Năm 1952 lên công tác ở Ban Tuyên huấn Đại đoàn 304, làm bạn với bản tin "Lập công” và đoàn văn công của đại đoàn lại có dịp thỉnh thoảng về trung đoàn. Nhân kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống Trung đoàn 66, tôi xin ghi lại những tình cảm bạn bè, đồng chí của các anh ở Ban chính trị, cũng như ở các tiểu đoàn như Thanh Tùng, Xuân Sâm, Nguyễn Thế Trinh, Nguyễn Văn Tuyển, Hoàng Giáp, Nguyễn Phúc Trạch, Trần Bá Đặng... và mãi mãi tự hào là lính của trung đoàn. NGUYỄN HIỀN Nguyên trưởng Tiểu ban Tuyên huấn trung đoàn Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 09:01:31 pm CHÚNG TÔI - NHỮNG CHIẾN SĨ ĐỊCH VẬN Tôi đang là thư ký tác chiến Đại đội 121, Tiểu đoàn 150 (Nguyễn Huệ) thì đại đội trưởng Thái Phận giao cho tôi quyết định đi học. Địa điểm lớp học - Hà Xá, Mỹ Đức, Hà Đông. Thấy tôi ngần ngại không muốn đi, anh ôm tôi vào vòng tay cứng như thép nói: - Thanh niên dân chủ (tên anh em trong đơn vị đặt) lên đường đi kẻo muộn, có điều kiện trở về với đại đội. Đại đội 121 đối với tôi như một gia đình lớn. Đã bao phen tôi lặn lội chiến đấu cùng đơn vị: Mường Bi, Dốc Cun, Hang Na... Đại đội trưởng Như Trang, Văn Dương, Việt Hổ, Phan Quang Cung, Thái Phận coi tôi như người em nhỏ. Từ biệt đơn vị với nỗi buồn sâu sắc. Lóc cóc một thân một mình cùng chiếc ba lô lép kẹp lần mò từ Vô Hốt - Nho Quan, qua Xích Thổ, Chi Nê, Đầm Đa, Chợ Bến tới Hà Xá nơi Ban chính trị Trung đoàn 66 đóng quân. Tới lúc này tôi mới biết mình đi học lớp địch vận. Lớp học trong căn nhà khá rộng, mái ngói rêu phong, hàng cột lim đen bóng. Bàn học là mấy cánh cửa lim nặng trịch kê trên mấy hòn gạch. Căn nhà bên sườn đồi thoai thoải. Từ bậc cửa nhìn xuống phong cảnh như bức tranh thủy mặc. Dòng sông Đáy, một dải lụa uốn lượn dưới chân đồi. Lớp học mở chưa đầy tháng thì bế mạc. Tôi cùng các anh Chu Mai Niệm, Doãn Mẫn, Tiêu Văn Huyên, Nguyễn Khắc Khảm, Nguyễn Văn Định, Cao Đức Thuận... và mấy anh nữa được giữ lại làm chiến sĩ địch vận. Mấy tháng sau, đơn vị được bổ sung thêm Nguyễn Công Lạp làm liên lạc, Lê Trung Hán làm văn thư đánh máy. Ba trưởng lão phụ trách tiểu ban địch vận là Q. chính trị viên đại đội Hà Đình Lệ, trung đội trưởng Nguyễn Văn Đông và chính trị viên trung đội Nguyễn Phú Cư. Mấy tháng sau anh Cư chuyển sang bộ phận quân báo trung đoàn. Đây là một tiểu ban nằm trong Ban chính trị trung đoàn được củng cố sau sự kiện trưởng tiểu ban địch vận trung đoàn Đỗ Lệnh Khang bị hàng binh Ma-hô-mét bắn chết ở Suối Đất đường số 6. Về tiểu ban nhận công tác, lần đầu tiên chúng tôi tiếp xúc với một bán tiểu đội hàng binh Âu Phi với đủ mọi sắc tộc: Anton Vaise, (tên Việt là An) dân tộc Đức; Jean Chapuis (tên Việt là Giang) người Pháp; Grant Watch (tên Việt là Cao) dân tộc An-giê-ri và mấy người anh em Hungari... Trong số anh em giữ lại tiểu ban có ba người biết tiếng Pháp, Chu Mai Niệm, Nguyễn Văn Định và tôi. Chu Mai Niệm được phân công phụ trách Giang, Nguyễn Văn Định - hàng binh người Hung, tôi - Anton Vaise, Grant Watch - khi đi với tôi, khi đi với Chu Mai Niệm hoặc Nguyễn Văn Định. Lần đầu tiếp xúc với các anh em hàng binh Âu Phi chúng tôi cũng cảnh giác. Nhưng càng sống lâu, chúng tôi càng thấy họ chân thành, hòa đồng như chính đồng đội của mình. Anh em chúng tôi ăn cùng mâm ngủ cùng giường, chén được cả mắm tôm, thịt chó... Không như chuyện kể, loạt hàng binh Âu Phi ngày trước cũng ở tiểu ban địch vận này, một số theo đạo Hồi, sáu tháng chỉ ăn lúc mặt trời chưa mọc, lúc mặt trời lặn, sáng quì gối đọc kinh Coran gây nên sự phiền toái trong sinh hoạt. Ngày đó đói triền miên, hai bát cơm, mỗi bát và ba cái đã hết làm sao đủ no với thân hình Âu Phi cao to cân nặng bảy tám mươi kí. Mùa nước cạn, chúng tôi hò nhau xuống sông mò hến, bắt cua về nấu cháo. Các bạn Âu Phi thường bắt được nhiều hơn chúng tôi. Bà con thương các anh "Việt Nam mới" chiều nào cũng đem cho, khi rổ khoai khi nồi sắn. Anh em không quên phần cho chúng tôi. An bị hắc lào ngứa ngáy khó chịu, tôi lấy mủ xương rồng bôi cho anh, vết bôi sưng rất to. An phát sốt run bần bật. Tôi lo quá, nhưng rồi vết hắc lào cũng khỏi. Anh ôm lấy tôi - prend peur medicament Việt Nam (phát sợ thuốc Việt Nam). Dọc đường thấy An đeo ba lô, vai đeo loa địch vận bà con chỉ trỏ: - Tây Tây... An cười đôn hậu gõ chiếc loa địch vận giọng lơ lớ: - Khong khong... toi Viet Nam moi, Viet Nam moi. Đuc Đuc! Các bà các cô cười rũ rượi, đấm nhau thùm thụp: - Con bé này nó yêu anh đấy, anh Việt Nam mới ơi! Anh nhún vai xòe hai bàn tay: - Sợ lắm, khong duoc, Độc lập về Đuc, về Đuc! Tôi có người chú ở Nho Quan, khi đi, khi về chúng tôi thường trú chân tại đó. Ông bà chăm sóc anh em hàng binh như con. Các em tôi ngồi quây lấy các anh nhặt cỏ may dưới gấu quần, dạy các anh các bài hát tiếng Việt. Trên chặng đường Chùa Hang - Nho Quan, trong những đêm trăng sáng hành quân, Giăng và An thường gõ nhịp trên loa địch vận, vừa song ca hai bè các bài Lời Du Tử, Đoàn quân đi... Mênh mông là ơi! Người về xa tắp không lời! Khoan khoan hò ơi! Lệ sầu rung xuống hồn tôi... Tiếng hát của các anh vang xa trong đêm làm ấm những tâm hồn xa nhà, làm dẻo bước quân hành. Sau này khi hồi cư về quê, chú thím tôi còn hỏi: Thằng An, thằng Cao... Mấy đứa bây giờ ở đâu? Sinh sống thế nào? Làm sao mà tôi biết được. Tôi trả lời cho ông bà vui lòng: - Các anh ấy, người đã hồi hương, người còn ở nông trường Ba Vì. Chú thím tôi còn dặn: - Rủ chúng nó về chơi. Nhớ chúng nó lắm! Cũng thời gian này tôi nhớ đến một sự kiện: Tôi và các anh em hàng binh ở bên cạnh nhà ban chỉ huy trung đoàn. Một buổi trưa thấy quân đi rầm rập ngoài đường. Một đoàn khá đông tù binh Âu Phi lũ lượt kéo đi trong hàng lưỡi lê của bộ đội ta. Lần đầu tiên tôi được thấy đoàn tù binh Âu Phi đông đến thế, được thấy mấy khẩu súng Mat báng gập, những chiếc máy bộ đàm mà bộ đội áp giải đeo trên lưng, cần ăng-ten cong vút, trên nở ngôi sao năm cánh lấp lánh dưới ánh nắng. Trung đoàn trưởng Hoàng Kiện cũng bước ra cổng hỏi: - Tù binh ở đâu mà đông thế? - Lê Lợi vừa tiêu diệt một đại đội Âu Phi ở Hoàng Dương - Tử Dương. Ngày đó thông tin liên lạc còn thô sơ. Liên lạc chân chưa chạy kịp với chiến thắng. Vì vậy, trận vận động chiến tiêu diệt gọn một đại đội Âu Phi đầu tiên của toàn quốc xảy ra quá nhanh. Ban chỉ huy trung đoàn cũng bị bất ngờ. Cũng thời gian đó, Chu Mai Niệm hoàn thành xong bài thơ: "Hai tâm hồn đau khổ". Bài thơ hoàn thành xong trong căn nhà nhỏ ven sông Đáy. Tôi là người được nghe đầu tiên. Bên chiếc đèn Hoa Kỳ và chiếc bàn nhỏ mốc meo, anh gật gù đọc cho tôi nghe. Bóng anh in trên bức tường bằng đất nham nhở. Nghe anh đọc tôi nhập tâm ngay. Và tôi nhớ bài thơ đó tới tận bây giờ. Bài thơ "Hai tâm hồn đau khổ" được Jean Chapuis dịch ra tiếng Pháp - "Les deux cœurs souffrances" được báo Liên khu 3 đăng tải ngay, in thành những truyền đơn phân tán trong những cứ điểm địch. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 09:03:23 pm Để chào mừng ngày thành lập trung đoàn chủ lực của Liên khu, Bộ Tư lệnh Liên khu mở chiến dịch YA do chính ủy Tư lệnh Liên khu Văn Tiến Dũng trực tiếp chỉ huy. Mục tiêu chính của chiến dịch là cứ điểm mạnh - Vụ Bản (Hòa Bình). Hướng đường số 6 và bắc Vụ Bản, Trung đoàn 52 làm nhiệm vụ quấy rối, tiêu hao sinh lực địch. Hướng Ngọc Lạc, Bá Thước một trung đoàn của Liên khu 4 cũng ra quân tạo thời cơ cho Trung đoàn 66 hoàn thành nhiệm vụ. Phải chăng đây là "bào thai" của việc phát triển lực lượng hình thành Đại đoàn 304 sau này? Dọc đường 12, cả ngày lẫn đêm quân đi như trẩy hội. Pháo 75 mm dã chiến nòng dài với 6 con ngựa kéo, bánh xe bọc sắt kêu rầm rầm. Đại đội trưởng Tân Việt (người Nhật) đi đôi gệt nặng trịch, tay cầm za-lông nét mặt rạng rỡ. Các tiểu đoàn chia thành ba mũi tiến quân. Tôi cùng Anton Vaise đi trong đội hình Đại đội 1 Ký Con do đại đội trưởng Lê Ngọc Phô và chính trị viên Mai Quang Ca chỉ huy. Phát pháo 75 mm (trực tiếp ngắm qua nòng bằng hai sợi chỉ chữ thập) nổ vừa dứt thì An cất tiếng kêu gọi binh lính trong hàng ngũ địch bằng chiếc loa địch vận hình chữ S. Một loạt đại liên tia trúng miệng loa. Tiếng nói của An vẫn vang vang trong tiếng súng công đồn. Nhìn miệng loa chằng chịt vết đạn, trưởng tiểu ban Hà Đình Lệ ngần ngừ rồi chợt ra lệnh: - Hôm nay An ở lại căn cứ! Tôi vác loa lên đường. Tiếng loa vang chen lẫn tiếng súng nổ ầm ầm một lúc rồi im. Không gian im ắng lạ thường. Tôi thiếp đi lúc nào không biết. Một bàn tay khua khua trên đầu: - Cậu nào còn ở đây! Ngáy to thế, Tây nó đến kia kìa! Tôi choàng tỉnh. Trời đã sáng lơ mơ, tôi vọt theo bóng người phía trước. Một loạt tiểu liên veo véo bên tai. Đuổi kịp người đánh thức tôi dậy hóa ra đại đội trưởng Mai Hiền. Hôm sau tôi gặp anh: - Vậy là một đều, anh Mai Hiền nhé! Câu chuyện một đều là như thế này. Cách đây không lâu, trung đoàn triển khai chiến đấu trên cánh đồng Mỹ Đức, Hà Xá, Đặng Giang... Một khoảng địa hình khá rộng. Phi pháo địch mạnh, quân ta rút về phía Chợ Bến. Tiểu đội trưởng Trường Vân được lệnh giữ đoạn hậu cho một bộ phận cuối cùng rời địa bàn. Đi sau đơn vị cuối một khoảng cách là một người cao to đen trùi trũi. Hắn ta mặc bộ ka-ki ăng-lê vàng óng chạy sầm sầm trước mũi súng trung liên. Ta hay địch? Tiểu đội trưởng Trường Vân ra lệnh trung liên lên đạn. Tiếng đạn tống lên nòng vang lên thì đúng lúc tiểu đội trưởng Trường Vân hô lớn: - Quân ta! Khóa bảo hiểm! Tôi cũng la lên: - Anh Mai Hiền! Tôi biết anh Mai Hiền khi xuống công tác ở đại đội anh Thi (người Nhật), Tiểu đoàn Lê Lợi, anh Mai Hiền khi đó là đại đội phó. Tôi thấy anh đang dùng bàn chải đánh răng chấm xà phòng mài vết mực oa-téc-man trên bộ ka-ki ăng-lê bóng nhoáng. Bộ ka-ki suýt nữa đã đưa anh về chầu tổ. Về tới đơn vị gặp mấy thằng bạn thân: Họa, Phước, Trọng mù, tôi quát: - Mấy thằng đểu! Rút không gọi, suýt nữa Tây nó tóm được ông! Chúng mày sướng lắm hả! Quản trị Bình cười: - Chúng nó tìm nhưng không thấy tưởng cậu rút rồi. Đêm thứ 3. Đêm cuối cùng, cũng là đêm quyết liệt nhất. Súng nổ ran nhiều đợt, nhưng không thấy tiếng hô xung phong. Tôi vừa phát một bài kêu gọi binh lính Âu Phi, lính ngụy đầu hàng thì tiếng ô-buy nổ ở đầu nòng. Một bóng người vọt qua cạnh công sự. Tôi cầm chân kéo xuống. Anh cưỡi lên cổ tôi thì quả đạn 105 nổ ngay cách công sự tôi khoảng 5-6 mét. Hút chết, nhìn lại hóa ra Chu Mai Niệm. Cú nhảy của anh làm cổ tôi đau cả năm, tới bây giờ mỗi khi trở trời vẫn còn ê ẩm. Sau trận đánh, trở về đơn vị tôi không còn thấy các anh em hàng binh Âu Phi. Nghe nói anh em tập trung về Liên khu thành lập đội Com-man-đô. Từ đó tôi không còn biết tin tức của các anh em nữa. Sau YA, trung đoàn dồn ra đường 6, Ban chính trị đóng quân ở các bản Mớ Đồi, Mớ Đá, Kim Bôi rồi chuyển dần ra con suối cạn sát đường số 6. Đây là con đường huyết mạch nối giữa Khu 3 và Việt Bắc. Trung đoàn sử dụng các tiểu đoàn nhổ các bốt Gò Bùi, Đồng Bến... Các văn nghệ sĩ Huyền Kiêu, Lê Đại Thanh, Sao Mai, Trần Huyền Trân... đi sát các đơn vị động viên bộ đội. Tôi còn nhớ mấy câu địch vận được in trong truyền đơn tán phát của trung đoàn: Lửng lơ đầu núi trăng non ngậm cười Đừng theo giặc Pháp, ai ơi! Thân binh mang tiếng muôn đời nhuốc nhơ. Và một bài của thi sĩ Huyền Kiêu tặng Ban Chính trị dán trên tờ báo tường: Trưởng ban chính trị Lê Hưng Tổ trưởng tuyên huấn tên xưng Nguyễn Hiền Sao tổ địch vận không tên? Lính gì lính ấy nói lên nghe cùng! Lính gì, lính Lệ (Hà Đình Lệ) Cũng trong thời gian này, anh Vũ Chấn gợi ý: - Sắp tới ngày Nôen và Tết dương lịch, ta có ít truyền đơn phát tán thì tinh thần bọn lính Âu Phi chắc chắn sẽ sa sút. Cậu viết được không? Rừng xanh, núi đỏ lấy đâu ra bút, vớ được mấy chiếc bút xanh, đỏ ở đồn tiền tiêu Vụ Bản tôi ngoáy mấy chữ: Joyeux Noel pour tous (Nôen vui vẻ với tất cả), và Rapatriement pour la fête du nouvel an à votre famille (Hồi hương vì cái Tết năm mới cho gia đình anh) vào mảnh giấy báo đưa anh xem. Anh gật đầu cười: - Được đấy, làm đi! Tôi thu nhặt công văn giấy tờ ở sọt rác, xé sổ tay viết được khoảng hai chục tờ truyền đơn. Vớ khẩu súng ca-bin của phòng, đêm hôm đó tôi lần ra đường số 6. Đêm trăng mờ, núp dưới chiếc cầu nhỏ sát đồn Đồng Bến, tôi đang chuẩn bị nhảy lên đường thì bọn ba-tui đi tuần tới. Mấy tên vừa hút thuốc vừa giậm chân hát ông ổng. Một tên cởi khuy quần đái tồ tồ. Bãi nước đái trút gọn vào lưng tôi, ngứa ngáy khó chịu vô cùng. Không vì giữ bí mật cho trận đánh, với khẩu súng trên tay chắc chắn tôi đã phạt gọn cả cụm của tên lính địch. Lần theo suối cạn trở về đơn vị, quần áo ướt sũng nước đái, mệt quá tôi lăn ra suối ngủ. Tỉnh dậy mặt trời lên khoảng con sào. Chung quanh không còn ai. Bộ đội đã hành quân ra sát đường số 6. Tôi vùng dậy chạy theo. Đi được một đoạn tôi lại được thấy những chiến sĩ "đánh vật" với nòng pháo 75 mm. Những bước chân của các pháo thủ chập choạng dưới suối cạn. Đại đội trưởng pháo binh Tân Việt đi bên. Lần này anh không đi gệt mà quần sắn móng lợn, tay cầm za-lông miệng thúc bộ đội nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa. Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 09:04:52 pm Theo sự phân công, tôi tìm tới Đại đội 1 Ký Con. Cả tiểu đoàn Cô Tô ra sát đường số 6. Tiểu đoàn Cô Tô hôm đó đánh Gò Bùi không thành công. Đại đội trưởng Tuấn Tĩnh hy sinh ngay trong lần xung phong đầu tiên. Thi hài anh nằm vắt trên hàng dây thép gai. Công phu lắm anh em mới đem được xác anh về. Trời sáng rõ, đánh không thắng, cả đêm vất vả mỏi mệt, phờ phạc; về tới cửa rừng thì tôi gặp trưởng tiểu ban Hà Đình Lệ. Anh nhăn mặt hỏi: - Cậu làm gì mà người bốc mùi ghê vậy? - Nước đái Tây đấy! Tôi kể cho anh nghe, anh cười khanh khách: - Về thay quần áo đi, đồ quỉ! Những trận công đồn của trung đoàn đợt này thành công không mĩ mãn, riêng Tiểu đoàn Lê Lợi tiêu diệt gọn Đồng Bến nhưng cũng thương vong một số. Sau này khi khai thác tù binh, tên pa-ti-dăng khai, những tên Âu Phi sau khi xem xong truyền đơn chúng rất buồn. Có đứa ngồi nhìn về phía dẫy núi xa. Có đứa bỏ cả cơm. Có đứa ôm mặc khóc. Tên chỉ huy ra lệnh thu gom những tờ truyền đơn đó lại đốt. Nhưng đốt làm sao được những dòng chữ in đậm trong lòng chúng. Ban chính trị lại hành quân về Thanh Hóa. Trong các chiến dịch, các thành viên trong Ban chính trị thường phân tán xuống các đơn vị. Cuộc hành quân lần này có lẽ đông đủ nhất. Dẫn đầu là quản trị trưởng Nguyễn Đăng Đào một cán bộ trẻ, trắng trẻo, xinh trai, có giọng nói dễ nghe làm xiêu lòng nhiều cô gái. Văn phòng theo sau lỉnh kỉnh những cặp công văn, máy chữ nặng chịch dưới sự chỉ huy của trung đội phó Cường với cặp kính dày cộp trên mũi. Đội Tuyên văn với Đoàn Thiều nhỏ bé chạy lăng xăng níu tay Kiều út. Anh Trọng, đội trưởng đồng thời là nhạc trưởng đi ngật ngưỡng như khi cầm que chỉ huy dàn nhạc. Mỗi khi anh giơ que lên trước giàn nhạc, tôi có cảm giác như đang xem người chỉ huy dàn nhạc thời Bêt-tô-ven. Có cái khác, gấu quần anh bó lại bằng hai chiếc khuy như măng-sét áo sơ-mi. Có lẽ anh gấp rưỡi tuổi chúng tôi. Anh lử thử lừ thừ như ông tiên chỉ giữa đình làng, kể cả khi anh lên sân khấu giơ chiếc roi nhạc trưởng hoặc giới thiệu tiết mục. Anh đi cuối đội hình trang trọng như người cha nghiêm khắc chăn dắt một đoàn con trai chưa vợ. Mỗi khi nghỉ chân trong đêm trăng, tiếng hát Đoàn Thiều cất lên trong vắt... "Bên kia là phía sầu u... Có người lính Việt gục đầu trên đất thù. Bên đây là thú tự do có nhiều cô nàng... Trở về làng xưa gặp nhau dưới bóng cờ". Anh Anh Tuấn bộ phận tổ chức kiểm tra thì cười hớn hở. Anh mới được qua nhà thăm vợ. Anh kể: "Nhân đi học chính trị, nghe tin vợ có mang, về thăm, xoa bụng chị, anh tưởng chỉ bằng quả bòng, nhưng lại to bằng quả mít". Chúng tôi khi ấy mới mười chín, đôi mươi nghe không hiểu. Anh quát: - Lấy vợ, chúng mày sẽ biết! Anh cười đôi mắt như hai sợi chỉ, chiếc mũi khoằm như dài thêm ra. Nguyễn Mạnh Thường thì chậm chạp với đôi mắt lúc nào cũng ươn ướt cắp cái cặp đứt quai. Không ngờ sau này anh ta trở thành nhạc sĩ tên tuổi. Đội hình bộ phận địch vận kéo hơi dài. Dẫn đầu đội hình là trưởng tiểu ban Hà Đình Lệ với chiếc quần soóc vàng. Bên phải anh đeo chiếc túi đựng quyển từ điển dày cộp cùng tài liệu địch vận và chiếc đèn bão. Bên trái anh là chiếc túi dết khố đỏ lép kẹp. Theo sau là một đoàn lính đủ mọi sắc áo quần, vác trên vai những chiếc loa hình chữ S. Bà con ngơ ngác không hiểu đây là binh chủng gì? Mang vũ khí gì mà lạ thế? Hỏa đầu quân Nguyễn Văn Lở gánh trên vai nồi niêu xoong chảo có dễ gần một tạ. Anh chạy từ đầu hàng quân tới cuối hàng quân, miệng tươi rói, thỉnh thoảng anh ta lại ca mấy điệu chèo, rồi lại nói: Không đi đến đâu! Chiếc đòn gánh trên vai anh ta oằn xuống theo nhịp chạy, có cảm giác như anh đang múa, chiếc xà-cột dày cộp sau mông anh ta nảy tanh tách theo nhịp bước, cơm áo gạo tiền của Ban chính trị nằm cả trong đó. Nhìn những nồi niêu xoong chảo trên vai anh Lở tôi chợt nhận ra rằng những chiến công dù to, dù nhỏ đều từ những thứ vô danh này tạo nên. Tôi chưa hề thấy anh cấp dưỡng nào kêu ca vất vả. Dù ở hậu phương hay nơi tiền tuyến, họ chỉ một lòng lo cho bộ đội những bát cơm dẻo, canh ngọt. Nhiều anh em vượt qua lửa đạn đem cơm với tấm lòng của mình tới từng hố cá nhân, từng chiến hào cho bộ đội. Họ chẳng biết khen thưởng là gì, công trạng là gì. Họ đúng là những người mẹ, người chị của bộ đội, từ các vị tướng tới những người chiến sĩ. Một lần, trung đoàn về đóng quân ở khu vực Đông Sơn, Thọ Xuân. Trung đoàn bộ ở khu vực Quán Giắt, Cầu Thiều. Ban chính trị ở ấp Phú Mỹ. Tiếng súng, tiếng bộc phá tập công đồn do cố vấn Trung Quốc huấn luyện nổ ran ở đồi Sim, Quán Giắt. Bước chuẩn bị cho chiến dịch mới. Đơn vị ăn Tết xong, trung đoàn bộ được biên chế gọn nhẹ phù họp với tình hình tác chiến mới. Cơ quan địch vận hầu như giải thể. Một bộ phận về đại đoàn bộ. Tôi, anh Doãn Mẫn, anh Tiêu Văn Huyên vượt Thập vạn Đại Sơn sang Trung Quốc thụ giáo. Quân đội đào tạo cán bộ chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Cuộc chia tay ở ngả ba Cầu Thiều thật bịn rịn. Trưởng tiểu ban Hà Đình Lệ vẫn chiếc quần soóc vàng, chiếc đèn bão nằm một bên và chiếc túi khoác nằm một bên. Chu Mai Niệm có bàn chân to, hai ngón chân cái tõe ra. Mỗi khi bước, chân anh lại xoay một cái, đám bụi nhỏ dưới chân bốc lên như vó ngựa phi. Đội Tuyên văn về đại đoàn thành lập Đoàn Văn công Đại đoàn 304. Anh Ngô vác trên vai chiếc đàn an-tô, anh Thưởng xách chiếc vi-ô-lông đen bóng, nhạc trưởng Trọng dáng đi liêu xiêu như khi anh cầm đũa chỉ huy dàn nhạc. Đoàn Thiều lon ton chạy theo, tay giữ chiếc túi dết bên hông. Kiều út nắm tay tôi bẻ kêu canh cách nhỏ nhẻ "Mình đi nhé!". Anh vẫn giữ dáng vẻ vai thiếu phụ Hà Nội trong vở: "Những người ở lại" của Nguyễn Huy Tưởng. Để rồi hơn hai chục năm sau tôi gặp lại anh trong hội nghị quân chủng Phòng không - Không quân. Anh đã đổi tên là Kiều Kiên, chính trị viên của một đơn vị tên lửa. Theo đại quân đi giải phóng Sài Gòn, tôi lại gặp anh. Kiều Kiên là Chủ tịch Ủy ban Quân quản thị trấn Tam Kỳ. Nắm tay tôi anh bẻ canh cách. - Ở đây chơi với mình vài ngày! - Ở lại sao được, tôi đang trên đường làm nhiệm vụ. * * * Cuộc đời chiến đấu của người chiến sĩ trong những tháng năm sôi bỏng đó như đám mây trôi không thể lường trước mình đi đâu, về đâu. Chiến sĩ địch vận trong Ban chính trị Trung đoàn 66 ngày đó mỗi người một con đường, một số phận. Đồng chí trưởng tiểu ban của chúng tôi sau hòa bình chuyển về Bộ Thương binh - Xã hội. Những năm thập kỷ 60, tôi thường đến chơi với anh ở khu tập thể Thương binh Hàng Vôi, Hà Nội. Anh là một trong những người chỉ huy mà tôi cảm phục. Một cán bộ mẫu mực, liêm khiết, hiểu biết rộng, tôn trọng cấp trên, yêu quí cấp dưới, nghiêm khắc khi làm việc. Anh ít tiếp xúc với anh em hàng binh Âu Phi. Mỗi khi anh em hàng binh có sai sót về đoàn kết, về dân vận, về cách sống... Anh gọi lên, anh em hàng binh Âu Phi đứng trước mặt anh run như dế. Anh chỉnh đốn không khoan nhượng. Tiếng Pháp anh nói như gió. Thấy anh em vất vả thiếu ăn, đôi khi anh tổ chức bữa cháo chân giò, bữa "bốc mả" ở hàng phở. Anh chống đũa nhìn anh em ăn như người anh chăm sóc bầy em nhỏ. Được tin gia đình anh có biến cố, tôi và anh Chu Mai Niệm định tới Tả Thanh Oai thăm anh. Chưa kịp đi thì nghe tin anh mất trong một tai nạn giao thông, anh Chu Mai Niệm và tôi nhắc tới anh với tấm lòng tiếc thương, thành kính. Anh Nguyễn Văn Đông ở cuối giai đoạn lao phổi. Tôi lấy dân công cáng anh từ Bát Cô (Nho Quan) vượt đò Kiểu tới bệnh viện Lê Xá (Thanh Hóa). Trước khi chia tay, anh dúi vào tay tôi 5 đồng "Để cậu lấy tiền ăn về đơn vị". Ít lâu sau chúng tôi nghe tin anh mất sau một trận thổ huyết. Chúng tôi những người chiến sĩ địch vận ngày đó hầu như còn nguyên vẹn. Anh em đã đi suốt chặng đường gian khổ, quyết liệt, vinh quang của dân tộc. Nói là hầu như vì có người đã ngả xuống vì sự tồn vong của đất nước. Những anh em còn lại có người vẫn công tác trong Quân đội, có người trở thành kỹ sư, nhà thơ, nhà báo, giám đốc công ty. Số anh em hàng binh Âu Phi mò hến, bắt cua cùng chúng tôi ngày ấy hầu như không có tin. Song, đôi khi có những thông tin đáng lưu ý như - Anh An (Anton Vaise) thập kỷ 60 nghe nói là giám đốc một sân bay địa phương ở Cộng hòa Dân chủ Đức. Anh Cao (Grand Watch) là Tổng giám đốc một nhà máy cán thép ở An-giê-ri. Những ngày lễ tết ở Việt Nam, anh đưa vợ con đến Đại sứ quán tham gia kỷ niệm. Đã có lần anh lang thang ở Hà Nội tìm đồng đội mà không gặp. Nghe nói các anh đều được tặng thưởng huân, huy chương Kháng chiến. Biết đâu những dòng chữ này có cánh bay tới những người bạn chiến đấu năm xưa, bay tới trời Âu, đất Phi để rồi các chiến sĩ địch vận Ban chính trị Trung đoàn 66 tìm đến với nhau, trở về với những kỷ niệm, với những tháng năm đầy ý nghĩa ngày trước. TRẦN KỲ Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:04:05 pm HAI TÂM HỒN ĐAU KHỔ
CHU MAI NIỆM Trần Kỳ (ghi theo trí nhớ) Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:05:44 pm TÌNH NGHĨA VIỆT - LÀO Sau ngày làm lễ truy điệu Đại nguyên soái Stalin, người lãnh đạo vĩ đại của nhân dân Liên bang Xô Viết từ trần (5-3-1953) từ Nghệ An, trung đoàn được lệnh đi Thượng Lào để giải phóng Xiêng Khoảng, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, củng cố lực lượng cách mạng Lào, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu Việt - Lào. Trời đất Việt vẫn còn mưa xuân, thỉnh thoảng lại có trận mưa rào... Lần đầu tiên trung đoàn tham gia chiến đấu trên đất bạn, bỡ ngỡ, khó khăn, tình hình địch không rõ, ngay cả đến địa hình, phong tục tập quán, ngôn ngữ không biết... chỉ học được câu "xăm bai", chào hỏi thân mật thông thường. Đi khỏi đất Nghệ An cũng là đi khỏi đất Việt thân yêu. Bước chân sang đất bạn, cuộc hành quân leo đèo lội suối thật là gian truân, vất vả. Ôi! Cái núi Phắc Lắc trên đất bạn Lào sao mà cao thế, có lẽ đến hàng nghìn mét thì phải. Trèo đến lưng chừng núi, thôi thì mồm, mũi thi nhau thở. Có những đồng chí đi được một đoạn lại "tự động” nghỉ dọc đường, cả đại đội hành quân kéo dài đến 1 - 2 km vẫn chưa hết quân... Qua bao nhiêu núi, bao nhiêu đèo, đoàn quân đã trông thấy đường số 7 đất bạn Lào. Nó uốn lượn theo núi, theo sông suối, mờ mờ ảo ảo sau những làn mây trắng bạc, thật là một cảnh sơn thủy hữu tình, chỉ có quân tình nguyện Việt Nam mới cảm thấy yêu quý đất bạn Lào như yêu quý đất nước mình. Ôi! Con đường rải đá đất bạn nơi này nào có được phẳng như những con đường đá Việt Nam! Có lẽ lâu lắm không có khách bộ hành, xe cộ đi lại, chỉ có vết của xích sắt xe tăng, xe bọc thép hằn lên lởm chởm. Trận đầu tiên, Tiểu đoàn Cô Tô có nhiệm vụ tấn công đồn Noọng Hét, một đồn án ngữ biên giới Việt Lào trên đường số 7, nhưng lúc này chỉ còn là một vị trí không người mặc dù trong đồn, đèn vẫn thắp sáng. Quân địch đã lặng lẽ rút chạy từ lúc nào... Trung đoàn hạ lệnh cho các đơn vị cấp tốc hành quân tiến nhanh về hướng Bản Ban, Khang Khay. Máy bay địch! Máy bay địch! Nó rà sát trên đường số 7. Được lệnh tạt vào núi đá cạnh đường, toàn đơn vị đã chạy được vào tới chân núi, chỉ còn sót lại một tiểu đội bị máy bay địch chặn lại. Tiểu đội trưởng Phạm Văn Chiêu bị thương, anh cố bò lết vào chân một tảng đá, sau đó được đưa về phía sau. Lúc anh em chiến đấu trở về đất Việt, được tin anh đã hi sinh. Cuộc chạy việt dã trên 20 km đã tới thị trấn Bản Ban với những nhà sàn thẳng hàng nằm ngay ngắn cạnh đường số 7. Không gặp địch, nhưng lại gặp quân ta, một bộ phận của Đại đoàn 308, sau khi giải phóng Sầm Nưa cũng truy kích địch về hướng Cánh đồng Chum, bị lạc đơn vị, anh em xin sáp nhập cùng chiến đấu. Đơn vị được lệnh tạm dừng củng cố và chờ lệnh. Vào tới bản, chỉ thấy nhà không, vườn trống, nhưng lợn gà vẫn đầy sân, đầy chuồng. Chắc bà con Lào chưa hiểu quân tình nguyện Việt Nam sang giải phóng cho họ nên họ sơ tán vào rừng cả. Được lệnh ở lại bản làm công tác dân vận, đơn vị cử một số anh em đi tìm dân, đi, đi mãi 5 - 10 km nào có gặp dân, còn anh em ở lại trong bản, bớt khẩu phần của mình, nấu nướng cho lợn, gà ăn. Sau gần một tuần, lẻ tẻ có dân về bản, phần nhiều là người già. Họ trông thấy: trâu, bò, lợn no nê, chuồng trại sạch sẽ, gà, vịt ăn no căng diều. Lên trên nhà sàn thấy gọn gàng, ngăn nắp, bát đũa sạch trắng bong, các tip xôi vẫn còn nhưng phải cái nó đã lên men, bị mốc! Vì không biết tiếng Lào, anh em chỉ ra hiệu mời họ về bản sinh hoạt bình thường vì khu này đã được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của bọn Pháp và tay sai. Rất may đến ngày thứ 9, dân bản kéo về đủ cả các thành phần: nam, phụ, lão, ấu, và có cả người biết tiếng Việt. Anh em bám lấy tíu ta tíu tít trò chuyện. Ngày hôm sau, đại diện các gia đình Lào, người mang trứng, mang gà, vịt và cả những túi xôi nóng hổi. Anh em chỉ nhận những túi xôi còn trứng, gà, vịt trả lại dân. Biết dân Lào thiếu muối, anh em mang một sọt muối trắng biếu dân. Già bản lấy ra một bát, đánh trống, chiêng tập hợp dân lại, giải thích cho dân hiểu bộ đội Việt Nam sang đây là để giúp dân tộc Lào đánh giặc, giải phóng quê hương. Sau cuộc nói chuyện, mỗi người một ít muối cho vào mồm, còn sọt muối sẽ chia cho từng gia đình sau. Quanh quẩn ở trong bản cũng được gần 15 ngày. Cái ngày bộ đội về nước đã tới, cuộc chia tay thật là bịn rịn. Cả bản khóc sướt mướt, có những ông bà già cứ níu lấy anh em tình nguyện không muốn xa. NGUYỄN ĐƯỚC Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:08:54 pm TRẬN HÌN SÌU VÀ TRẬN TIÊU DIỆT 48 XE TRONG CHIẾN DỊCH TRUNG LÀO (1953-1954) I Đồn Hìn Sìu ở giữa làng Hìn Sìu, do tiểu đoàn dù ngụy số 3 đóng giữ. Tiểu đoàn này gồm 4 đại đội, do sĩ quan Pháp chỉ huy. Lính địch phần lớn là bọn công giáo phản động, Quốc dân Đảng phản động, với ý thức phục thù giai cấp, tử vì đạo, sống không cần ngày mai... Chúng được trang bị mạnh, huấn luyện kỹ về nhảy dù và đánh ở rừng núi, được kích động rất lớn về hưởng thụ vật chất. Do vậy, bọn này là một lũ kiêu binh, cực kỳ hiếu chiến và tàn bạo. Tại Hìn Sìu, địch tổ chức phòng ngự hình tròn, có công sự dã chiến quanh đồn chính, lính căng bạt trú quân ngoài trời. Các đại đội địch thay phiên nhau đi tuần tra xung quanh nơi đóng quân để phòng ta tập kích. 4 giờ sáng ngày 9-1-1954, 2 Tiểu đoàn Lê Lợi và Cô Tô đồng loạt nổ súng đánh vào làng Hìn Sìu và đồn Hìn Sìu. Ngay từ đợt đầu, địch đã bị thiệt hại rất nặng, chỉ còn khoảng một trung đội co về trong đồn cũ ở giữa làng để cố thủ, cầm cự chờ trời sáng. Khi trời sáng rõ, phi pháo địch ra sức hoạt động, hỗ trợ cho bọn địch còn lại trong đồn cầm cự. Sau đó, bọn này bí mật phá vòng vây trốn thoát. Máy bay địch liền ào ạt ném bom nổ, bom cháy vào làng và đồn, giết chết bọn lính địch bị thương còn nằm lại trong đồn. Trong trận này, ta tiêu diệt hơn 300 tên địch, bắt sống 88 tên trong đó có 3 tên Pháp là: Tên quan ba Mô-lê (tiểu đoàn trưởng), tên quan hai Đuy-căm-clốt (tiểu đoàn phó) và một tên quan hai là bác sĩ. Bên ta cũng có một số thương vong, đồng chí Lại Văn Kháo, tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Lê Lợi, hy sinh. Đây là một trận vận động tập kích quân địch có hiệu suất chiến đấu cao, một trận chiến thắng oanh liệt, tiêu diệt một đơn vị quân địch rất hung hãn và thiện chiến được phi pháo yểm trợ đắc lực. Ta đã phá được ý đồ của địch là ngăn chặn quân ta phát triển xuống đường số 9. II Đêm 24-1-1954, cả 3 tiểu đoàn của Trung đoàn 66 đồng loạt tấn công tiêu diệt 3 đồn địch án ngữ trên đường số 9: đồn Phalan, cứ điểm Hu-xa-lay, cứ điểm Xê-ta-mốc. Đường số 9 là con đường huyết mạch của địch đã bị ta cắt đứt một đoạn dài gần 50 km ở quãng giữa. Căn cứ Thà Khống bị cô lập, căn cứ Sê Nô bị uy hiếp. Địch không thể không phái một lực lượng lớn đến chiếm lại các đồn đã mất. Lúc này Tiểu đoàn Nguyễn Huệ đang chuẩn bị đánh đồn Mường Phin. Tiểu đoàn Lê Lợi và Tiểu đoàn Cô Tô được điều đến bố trí 2 bên đường số 9, quãng giữa đồn Phalan và Đồng Hến, để tổ chức trận địa phục kích đón đánh địch từ Đồng Hến xuống. Tiểu đoàn Lê Lợi làm nhiệm vụ chặn đầu, Tiểu đoàn Cô Tô làm nhiệm vụ khóa đuôi, và cả hai cũng đánh vào đội hình chính của địch. Anh em bộ đội ra sức làm công sự để tránh phi pháo, hết sức chú trọng ngụy trang để giữ bí mật trận địa. Đúng như dự đoán của ta, ngày 26-1-1954, địch cho một binh đoàn cơ động (GM ngụy Cămpuchia số 51) theo đường số 9 từ Đồng Hến tiến xuống. Dưới đất là đoàn xe cơ giới chở nặng lặc lè, trên trời có máy bay trinh sát, liên lạc với nhau qua điện đài. Địch tổ chức sục sạo vào cánh rừng hai bên đường nhưng chủ quan nên chỉ làm sơ sài. Đài quan sát của ta đặt bí mật trên núi cao báo tin về Chỉ huy sở đều đặn. Anh em có lúc phải nín thở căng mắt ra mà theo dõi mọi động tĩnh của địch. Không gặp cản trở gì, đoàn xe cơ giới của địch ầm ầm tiến lên và đại bộ phận đã lọt vào trận địa phục kích của ta. Không may một chiến sĩ của ta đã để súng cướp cò. Quân địch dừng ngay lại. Không chần chừ, trung đoàn trưởng lập tức hạ lệnh cho hỏa lực ta bắn cấp tập vào đội hình địch và lệnh cho Tiểu đoàn Cô Tô nhanh chóng khóa đuôi và chặn không cho chúng chạy thoát về phía tây. Trong khi pháo ta vẫn chế áp địch, hơn 10 mũi xuất kích của bộ binh ta lao vào đội hình địch. Pháo ta vừa chuyển làn, các mũi xung phong của ta cũng chuyển thành hàng ngang, như các đợt sóng biển liên tiếp đổ ập vào quân địch. Không gian chát chúa tiếng pháo, tiếng súng, tiếng xe cộ nổ rầm rầm, tiếng la hét xung phong. Máy bay địch gầm rú điên loạn trên bầu trời mà không dám làm gì vì bị rừng khộp che khuất, lại cũng vì ta và địch đã xen lẫn vào nhau. Hơn 10 phút sau trận đánh kết thúc, tiếng súng và tiếng pháo im dần rồi tắt hẳn. Còn chăng chỉ là tiếng nổ từ các xe bị bốc cháy, tiếng kêu la của lính địch bị thương. Xác địch nằm la liệt trên đường cái, trên xe, trên cây, với đủ mọi tư thế. Ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Trừ một số ít địch luồn rừng chạy thoát, ta diệt hơn 2 đại đội, bắt sống 80 tên ngụy Cămpuchia và sỹ quan Pháp, bắn cháy 48 xe cơ giới, thu nhiều vũ khí, đạn dược, lương thực. NGUYỄN ĐỨC ĐOÀI Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:11:07 pm TIỂU ĐOÀN NGUYỄN HUỆ Ở CHIẾN TRƯỜNG HẠ LÀO Đầu tháng 2-1954 để khuyếch trương chiến thắng đường số 9 và gây cho địch thêm bị động, phân tán, Trung đoàn 66 đã giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn Nguyễn Huệ nhanh chóng thọc sâu xuống Hạ Lào. Tiểu đoàn Nguyễn Huệ lúc đó do anh Nguyễn Thế Bôn là tiểu đoàn trưởng, anh Nguyễn Thế Trinh là chính trị viên tiểu đoàn, anh Hồ Thu là tiểu đoàn phó, anh Cao Văn là chính trị viên phó tiểu đoàn. Anh Mai Hiền sau khi được đề bạt lên trung đoàn phó cùng với một số cán bộ cơ quan Trung đoàn và Đại đoàn 304 cùng đi với tiểu đoàn. Tiểu đoàn Nguyễn Huệ (bí danh là "Xã Quảng") được tăng cường đủ mạnh để hoạt động độc lập, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh mặt trận và Bộ Tổng tư lệnh. Lực lượng gồm: 3 đại đội bộ binh, 1 đại đội trợ chiến, tăng cường 1 đại đội công binh, 1 trung đội ĐKB, 1 đại đội dân công, 1 tiểu đội điện đài, cơ yếu. Quân số của tiểu đoàn trên 1.000 người. Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta đã bàn bạc với bạn Lào cử 3 đồng chí lãnh đạo Lào cùng đi với tiểu đoàn. Đồng chí Phu-ma đại diện về Đảng, đồng chí Khăm-phệt đại diện về chính quyền, đồng chí Châm-niên đại diện về lực lượng vũ trang. Chính sự phối hợp đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho tiểu đoàn hoạt động độc lập để thực hiện cả 3 nhiệm vụ: chiến đấu, chính trị và quốc tế của cấp trên giao. Sau mấy ngày hành quân, tiểu đoàn đã đến được căn cứ cách mạng Lào Ngăm của bạn Lào. Đây là một vùng đồng bằng, có ruộng, có rừng, có một số ít ngọn đồi nhấp nhô, không có núi cao. Khi tiếp xúc với bà con địa phương, tình hữu nghị Việt - Lào lâu ngày gặp nhau, mừng mừng, tủi tủi, tay hát mặt mừng, như anh em một nhà được đoàn tụ sau bao lâu cách trở... Sau một thời gian ngắn nghiên cứu tìm hiểu tình hình, lãnh đạo và chỉ huy tiểu đoàn cùng với bạn xây dựng chủ trương, kế hoạch hoạt động. Trước hết phải tổ chức đánh địch, diệt đồn, giải phóng nhân dân khỏi ách kìm kẹp của địch, có vậy mới hạ được uy thế của địch gây thanh thế cho cách mạng Lào và gây niềm tin tưởng tạo đà phát triển công cuộc cách mạng ở Hạ Lào. Đêm ngày 7-3-1954 ta và bạn quyết tâm tiêu diệt đồn địch Khi Li do một đại đội ngụy Lào ác ôn chiếm giữ khống chế đường số 13 từ Khôn-xê-đôn đi Pắc-xế. Trước đây bạn chưa đủ sức diệt đồn này nên địch càng ngạo mạn đàn áp kìm kẹp nhân dân. Chúng còn khiêu khích: "Đánh vào Khi Li là tự húc đầu vào rọ đấy". Để trận chiến mở màn ở Hạ Lào chắc thắng và làm cho địch khiếp sợ, ta phải co cách đánh hiểm và phù hợp. Đêm vừa xuống, đồng chí Vũ Thiện Cơ - cán bộ tham mưu của tiểu đoàn - dẫn đầu một mũi xung kích, phối hợp với một tổ du kích của bạn, bí mật vượt sông vào bố trí sẵn ở sau lưng địch, nơi mà chúng cho rằng ta khó vào được. Theo hiệu lệnh nổ súng thống nhất của Sở chỉ huy, ở hướng chính và phụ, đều nhất loạt phá hàng rào mở cửa xung phong vào đồn, tung thủ pháo, ném lựu đạn. Hướng chính phát triển nhanh vào sở chỉ huy địch, khẩn trương, táo bạo, dũng mãnh tiêu diệt trong vòng 15 phút. Địch hốt hoảng không kịp trở tay đối phó. Tên đồn trưởng bị bắt ngay từ đầu đã vừa giơ tay hàng vừa run rẩy than vãn: "Kinh hoàng quá, vừa dứt tiếng nổ của bộc phá, các ông đã xông vào tận sở chỉ huy rồi, thật kinh hoàng!". Sau 50 phút chiến đấu, ta đã tiêu diệt gọn đồn địch là một điều hiếm có ở chiến trường Hạ Lào thời kỳ đó. Tiếng đồn lan xa làm cho trận chiến thắng được nhân lên nhiều lần. Địch thì hoang mang, dao động, nhân dân thì phấn khởi tin tưởng vào cách mạng, vào bộ đội, hăng hái tham gia dẫn đường cho bộ đội lùng sục bọn địch đang lẩn trốn xung quanh đồn, hăng hái theo bộ đội hướng dẫn rào làng, đào hào xây dựng làng chiến đấu, mọi người đều nô nức như ngày hội... Một luồng gió mới đang thổi và lan tỏa khắp làng bản một vùng Hạ Lào. Cũng từ đó, mạng lưới chiến tranh nhân dân từng bước được hình thành, đã tổ chức được các đội du kích và dân quân suốt dọc đường 13 từ Khôn- xe-đôn đi Xa-ra-van. Vùng bị địch tạm chiếm ở Chăm-bát-xắc và dọc sông Mê-kông bị uy hiếp và lung lay. Cùng với việc diệt đồn, phục kích diệt địch, tiểu đoàn còn phối hợp cùng bạn tiến hành hoạt động trên đường số 13 suốt từ Hạ Lào tới biên giới Cămpuchia. Trong một thời gian đã phá hỏng trên 70 cây cầu và các đoạn đường hiểm làm tê liệt và đứt tuyến giao thông quan trọng của địch gây cho chúng nhiều khó khăn. Với thành tích trên, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ được Bộ Tổng tư lệnh kịp thời tặng huân chương Quân công hạng 3. Hoạt động mạnh của Trung đoàn 66 ở Trung Lào và Hạ Lào đã hiệp đồng chặt chẽ với chiến trường chính Điện Biên Phủ nổ súng ngày 13-3-1954. Cuối tháng 3-1954, tiểu đoàn được lệnh rời khỏi khu du kích Lào Ngăm, tiến xuống hoạt động ở vùng Cao nguyên Bô-lô-ven... Gần một tuần hành quân băng qua những khu rừng "Khôộp” nắng nóng oi bức, khô cằn, lác đác mới có những vũng nước trâu đầm đã gần cạn, tiểu đoàn đã đến vùng Cao nguyên Bô-lô-ven bao la, bát ngát, thoáng đãng, mát mẻ... với màu xanh ngút ngàn của đồng cỏ, rừng cây mênh mông, sông suối trong xanh, núi non kỳ vĩ... sơn thủy thật là hữu tình thơ mộng. Nhưng tình hữu nghị của nhân dân cao nguyên đối với bộ đội Việt Nam còn thắm thiết hơn gấp nhiều lần. Đoàn quân vào đến cửa ngõ cao nguyên, nườm nượp các mẹ, các chị, các cô gái Hạ Lào ăn mặc đẹp đứng dọc hai bên đường niềm nở đón tiếp bộ đội, hầu như tay người nào cũng cầm chiếc giỏ tre đựng đầy chỉ trắng và thuốc lá "rê". Chỉ trắng để buộc cổ tay tất cả các anh bộ đội, đó là sợi tình, sợi nghĩa đối với người thân. Lãnh đạo và chỉ huy tiểu đoàn cùng địa phương đã thống nhất kế hoạch mở một đợt hoạt động trên đường số 13. Ngày 1-4-1954, tiểu đoàn tiêu diệt gọn đồn địch ở cao điểm không tên (cây số 66 đường 13) và bắt sống 2 tiểu đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Ngày 2-4-1954, phối hợp với Tiểu đoàn 436 Trung đoàn 101 đánh địch ở Vơn-xai và tiến vào hoạt động ở Đông Bắc Cămpuchia. Thời gian này thế và lực của ta được phát triển, chiến trường Hạ Lào và Đông Bắc Cămpuchia của địch đã bị ta uy hiếp thực sự. Bộ chỉ huy quân Pháp dù đã dốc toàn lực cho mặt trận "Điện Biên Phủ" nhưng để đối phó với những thất bại vừa qua, chúng buộc phải điều GM7 một đơn vị lê-dương thiện chiến, một trong những con chủ bài của chúng từ Viêng-chăn xuống Hạ Lào để giải nguy. Đối với Tiểu đoàn Nguyễn Huệ, đây là thời cơ tốt đánh vào lực lượng tinh nhuệ của địch. Quyết tâm của ta là tổ chức một trận phục kích trên đường 13, chọn địa hình tốt nhất, bất ngờ nhất, chuẩn bị chu đáo đánh một trận chắc thắng vào GM7 của địch. Ngày 4-4-1954, một đoàn xe và pháo của GM7 hùng hổ kéo xuống Hạ Lào. Theo đúng kế hoạch đã định, đợi cho địch lọt vào trận địa phục kích, toàn tiểu đoàn bất ngờ nổ súng và xung phong vào đội hình địch làm chúng hoàn toàn bị bất ngờ, không kịp đối phó. Chỉ trong vòng 30 phút, ta đã hoàn toàn làm chủ trận địa, ta tiêu diệt gọn 1 đại đội Âu Phi, 1 đại đội pháo 105 ly, phá hỏng 4 khẩu pháo và 26 xe cơ giới, bắt sống 43 tên tù binh Âu Phi (trong số đó có một tên quan ba, hai tên quan hai và bảy tên quan một Pháp) thu nhiều vũ khí nhẹ và chiến lợi phẩm. Tiểu đoàn nhanh chóng rút khỏi trận địa và triển khai kế hoạch đề phòng địch đến giải vây cho số tù binh bị ta bắt. Thật là vất vả khi áp tải số tù binh Âu Phi. Ta bắt chúng tháo giầy và trói thành từng tốp 5 tên. Trong số tù binh có 5 tên bị thương, ta bắt chúng khiêng nhau đi theo. Vì không quen đi chân đất nên tốc độ lui về hậu phương ta rất chậm. Sau một tiếng đồng hồ, Bộ chỉ huy mặt trận lệnh cho đơn vị nhanh chóng đưa số tù binh Âu Phi rời xa khu vực chiến đấu, vì địch dùng máy bay thả quân để giải vây cho bọn chúng. Để thực hiện rút nhanh, ta cho phép tù nhân được đi giầy. Số tù binh bị thương ta dùng voi nhà chở, nhưng lạ thay, khi ta đưa thương binh địch lên lưng, voi đều từ chối hất xuống đường, còn thương binh của ta thì voi gượng nhẹ và di chuyển rất mau lẹ. Trận đánh giành được thắng lợi lớn. Lực lượng của GM7 rất hoang mang, sau này khi nghe đến gặp lính "Xã Quảng" Ký Con là chúng khiếp sợ. Sau những chiến thắng liên tiếp, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ trực tiếp nhận lệnh của Bộ Tổng tư lệnh: "Đi đôi với việc thực hiện nhiệm vụ quân sự, cần hết sức coi trọng và thực hiện tốt hơn nhiêm vụ chính trị và nhiệm vụ quốc tế, phải ra sức cùng bạn xây dựng khu căn cứ Lào Ngăm thành chỗ đứng chân vững chắc, để tiếp tục phát triển xuống phía nam vùng biên giới của 3 nước Việt Nam, Lào và Cămpuchia". Thực hiện chỉ thị trên, đầu tháng 5-1954 toàn tiểu đoàn rời khỏi Nam Hạ Lào, vượt cao nguyên Bô-lô-ven trở lại Lào Ngăm. Ta cùng với bạn ra sức xây dựng khu căn cứ về mọi mặt và tiếp tục tiêu diệt địch xung quanh Lào Ngăm. Trước hết là gấp rút tổ chức xây dựng cơ sở Đảng, phát triển đảng viên, tổ chức tập huấn để các chi bộ Đảng lãnh đạo mọi mặt hoạt động của khu căn cứ. Đồng thời chú trọng bồi dưỡng đào tạo cán bộ chính quyền, mặt trận, lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng. Nhiều cán bộ trưởng thành từ đây đã trở thành những nhà lãnh đạo của bạn Lào sau này. Đẩy rất mạnh việc xây dựng lực lượng vũ trang, từ chỗ chỉ có một trung đội du kích, sau một thời gian ngắn đã phát triển thành một tiểu đoàn hoàn chỉnh được huãn luyện và trang bị tương đối mạnh, phối hợp với Tiểu đoàn Nguyễn Huệ hoạt động tác chiến. Tiểu đoàn của bạn không những trở thành nòng cốt để đẩy mạnh chiến tranh du kích mà còn là lực lượng vũ trang, là quả đấm chủ lực đáng tin cậy, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân. Từ đó nhân dân nô nức tham gia làm đường, đào mương, đào hồ chống hạn, đắp đê chống lụt. Bộ đội vừa làm vừa hướng dẫn, phổ biến cho nhân dân cách làm ăn tập thể, cách sản xuất thâm canh để tăng năng suất. Tình quân dân trong lao động, xây dựng bản làng, trở thành keo sơn gắn bó rất thắm thiết. Nửa năm hoạt động, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ từ Thanh Hóa vượt gần 500 cây số xuống Hạ Lào, phần lớn thời gian phải tập trung vào nhiệm vụ đánh địch giải phóng nhân dân. Thời gian còn lại, vâng theo lời dạy của Bác Hồ "giúp bạn là tự giúp mình", tiểu đoàn mới chỉ làm được một số việc cùng bạn Lào xây dựng khu căn cứ Lào Ngăm và Cao nguyên Bô-lô-ven, theo ý đồ chiến lược lâu dài của Đảng ta và Đảng bạn. Đây là những viên gạch xây đắp tình hữu nghị đặc biệt Việt - Lào. Như Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã viết: "Đòn thọc sâu... xuống Hạ Lào là sự khai phá cho đường mòn Hồ Chí Minh sau này". Lúc Tiểu đoàn Nguyễn Huệ và Tiểu đoàn 436 đi xuống tới cực Nam Hạ Lào và Đông Bắc Cămpuchia cũng là lúc hành lang Bắc - Nam Đông Dương đã được thông suốt, bắt liên lạc được với đồng chí Phạm Hùng và đồng chí Trần Văn Trà ở Nam Bộ. Đầu tháng 6-1954, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ được lệnh rời khu du kích Lào Ngăm bàn giao mọi mặt cho bạn Lào, hành quân trở về Quảng Bình để chuẩn bị rút quân về nước. NGUYỄN THẾ TRINH Nguyên chính trị viên Tiểu đoàn Nguyễn Huệ Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:14:16 pm NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ PHAI MỜ Hồi đó tôi ở Đại đội 111 pháo binh 120 ly, Tiểu đoàn 83 Đại đoàn 351 được phối thuộc Trung đoàn 66 chiến đấu ở Trung Lào. Thời tiết lúc bấy giờ ở đây rất đẹp, những cánh rừng khô ráo, lá rụng từng lớp tạo thành những tấm thảm rất thuận tiện cho lính ta đóng quân, cứ việc trải chăn lên là ngủ, không còn phải làm lán chặt lá làm giường như ở rừng Việt Bắc. Được ngủ một đêm ở cánh rừng già này, trên tấm thảm lá xào xạc tỏa hương thơm là một ấn tượng khó quên. Sau những ngày gian nan vượt Trường Sơn là những ngày hành quân cấp tốc vì chiến thắng quá nhanh. Mở đầu chiến dịch, đại đội đã phải khiêng pháo, có bộ phận nặng gần 100 ký chạy "ma-ra-tông" hàng chục ki-lô-mét để đuổi theo các tiểu đoàn của trung đoàn truy kích địch rút chạy khỏi Mụ Giạ và Ba-na-phào, tiếp đó phát triển xuống đường 9. Trận đầu tiên đại đội được tham gia là trận Tà Khống. Đây là một đồn lớn bố trí trên một ngọn đồi khống chế rộng xung quanh, có hơn một tiểu đoàn địch với công sự vững chắc. Tôi nhớ hôm phổ biến kế hoạch trận đánh, đại đội 120 ly và pháo của trung đoàn được giao nhiệm vụ bắn áp đảo 15 phút sau đó bộ binh tiến công. Còn lại là phổ biến cách chiếm đồn, thu dọn chiến trường, chiến lợi phẩm. Có một thực tế là hơn tháng qua, trung đoàn đánh đến đâu là địch tan rã, bỏ chạy hoặc bị tiêu diệt. Chính vì vậy đến trận Tà Khống này chúng ta cũng dự đoán là sẽ như vậy nên rất chủ quan. Đêm 15 rạng 16 tháng 2 năm 1954, đại đội pháo của chúng tôi được lệnh khai hỏa. Pháo 120 ly nổ giòn vang trong 15 phút cấp tập, ánh lửa lòe sáng, tiếng nổ rất đanh và sau đó bộ binh tràn lên mở đột phá khẩu. Thật không ngờ, bọn địch lại không bỏ đồn chạy như ta tưởng, mà chúng bắn lại với nhiều làn hỏa lực rất mạnh làm bộ binh ta không thể tiến lên được và bị thương vong nhiều. Trung đoàn trưởng hạ lệnh pháo binh bắn cấp tập lần thứ 2, nhưng thật tiếc vì cơ số đạn đã hết, mà dân công lại chưa tải đạn lên kịp (đại đội có 2 trung đội vác đạn và 1 đại đội dân công vận chuyển đạn phía sau. Đạn 120 ly nặng 13 ký rưỡi, mỗi người chỉ vác được 1 viên). Đúng lúc ấy, pháo binh địch bắt đầu phản pháo, chúng bắn dồn dập vào trận địa hỏa lực của ta. Và bất ngờ một quả pháo 75 ly rơi đúng khẩu đội 1 nơi tôi đang cùng với các pháo thủ chiến đấu. Thế là cả khẩu đội của tôi lặng người đi và chắc rằng sẽ hy sinh tất thảy. Nhưng thật may mắn, những giây phút hiểm nghèo đã qua, quả đạn đó bị liệt không nổ. Ngay sau đó máy bay địch lại đến oanh tạc, ném cả bom cháy (na-pan) cùng với pháo binh của chúng làm cho bộ đội ta bị thêm thương vong. Chúng ta đã phải tiếp tục vây đồn để lấy thương binh, tử sĩ dưới hỏa lực không ngớt của phi pháo địch. Về sau tôi được biết, trong quá trình thảo luận hạ quyết tâm trận đánh, có nhiều ý kiến cho là địch có lực lượng mạnh, ta nắm chưa chắc, nên để chuẩn bị thêm. Nếu những ý kiến này được chấp nhận, với khí thế chiến thắng đang dâng cao, chắc chắn tình hình đã khác hẳn. Khi trở lại Việt Nam, về gần đến chợ Chuông thì Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ 1954 có hiệu lực. Cái lệnh ấy sao mà thiêng liêng và vui sướng đến thế. Tôi nhớ nhất là được hành quân ban ngày, không phải ngụy trang và đêm đến không phải đào hầm trú ẩn nữa. Một niềm vui nữa đến với đại đội pháo binh 120 ly, là chỉ ít lâu sau thời điểm đó, chúng tôi được chuyển hẳn về Trung đoàn 66. ĐẶNG KIM NGUYÊN Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:15:42 pm TRẬN XÓM HỒNG Trong chiến dịch Trung - Lào (1953-1954), sau khi quân địch rút chạy khỏi Mụ Giạ, Ba-na-phào và bị tiêu diệt ở đồn Pà Cuội, Trung đoàn 66 được lệnh tiến xuống phía nam và hoạt động ở khu vực đường số 9. Đêm 4-01-1954, Tiểu đoàn Lê Lợi nhận nhiệm vụ bao vây đồn Hìn Sìu và Tiểu đoàn Cô Tô thì sẵn sàng đánh quân cơ động của địch đến ứng cứu giải vây cho Hìn Sìu. Mờ sáng ngày 5-01-1954, tin từ trung đoàn báo về: quân cơ động của địch đã xuất hiện ở khu rừng Pô Xây. Tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 117 xuất quân. Trung đội 7 do tôi là trung đội trưởng đi đầu. Tôi ra lệnh cho anh em: - Đạn lên nòng, sẵn sàng chiến đấu! Đi trước tôi là một người dân địa phương dẫn đường và một đồng chí quân báo của tiểu đoàn. Đơn vị đi qua một bản có tên gọi là Xóm Hồng, không thấy bóng dáng một người dân nào. Vừa ra khỏi bản 30 m thì gặp địch ở ngay bìa rừng. Địch chủ động nổ súng trước. Đồng chí quân báo trúng đạn, gục ngay dưới chân tôi, còn người dân dẫn đường chạy mất. Tôi hô anh em bắn, đồng thời tôi cũng lia cả một băng đạn tiểu liên về phía địch, 2 tên địch ngã gục ngay, bọn còn lại nằm rạp xuống, dùng tiểu liên bắn ào ào về phía ta. Tôi điều một trung liên lên áp đảo địch và cho trung đội dàn hàng ngang không cho địch chọc ngang sườn đại đội. Bọn địch quay đầu tháo chạy, vừa chạy vừa bắn xối xả về phía quân ta. Quyết tiêu diệt toán lính này, tôi lệnh cho trung đội truy kích. Đến một khoảng ruộng trống, thấy địch bắn rát quá, tiểu đội của đồng chí Bàn đi đầu phải nằm lại. Tôi điều cả 2 trung liên lên cùng với tiểu đội này bắn yểm trợ, còn tôi dẫn tiểu đội của đồng chí Giá vượt qua khu ruộng trống thì gặp một con suối cạn sâu khoảng 5 m, bờ dốc thẳng đứng, có cây cối rậm rạp. Tôi cho anh em dừng lại bố trí bên bờ suối để sẵn sàng chiến đấu tiếp. Một chiến sĩ phát hiện là tôi đã bị thương và lúc này tôi cũng mới biết là mình bị thương ở đùi bên trái, máu chảy dọc theo từ đùi xuống chân, nhưng vết thương không nặng lắm. Sau khi được anh em băng bó tôi tìm cách leo lên những mô đất cao để quan sát địch, nhưng mỗi khi vừa nhô lên, chưa kịp nhìn thấy địch thì chúng đã bắn như vãi đạn về phía ta. Phán đoán là địch đã bố trí ở bên kia bờ suối và có hỏa lực mạnh, tôi cử người về phía sau báo cáo với ban chỉ huy đại đội. Đồng chí Khánh, đại đội phó, gửi lời biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm của Trung đội 7 và lệnh cho tôi "giữ vững trận địa". 20 phút sau, trận địa đang im ắng bỗng vang lên tiếng hô bằng tiếng Pháp ở bên phía quân địch. Tiếng hô cứ to dần, có vẻ như địch đang tiến về phía chúng tôi. Khi phán đoán là địch đã đến cách chúng tôi khoảng 25 - 30 m, tôi cho anh em tung một loạt lựu đạn về phía địch. Tiếng hô im bặt nhưng sau đó địch lại bắn xối xả về phía ta trong khoảng 5-10 phút. Tình hình tiếp diễn như vậy 4 lần nữa, bốn lần địch hô quân tiến lên, bị ta phản kích, địch lại bắn trả lại dồn dập. Bên ta, đạn và lựu đạn đã gần hết. Tôi cử người về báo cáo tình hình với ban chỉ huy đại đội và được lệnh: Cho Trung đội 7 rút về tuyến sau, bàn giao trận địa cho đơn vị bạn. Lúc này đã là 2 giờ chiều. Theo lệnh của tiểu đoàn, Đại đội 115 và Đại đội 119 đã lên tiếp nhận trận địa, dùng hỏa lực cối 81 yểm trợ, vượt qua suối cạn tiến đánh địch. Quân địch bị tiêu diệt một số, số còn lại tháo chạy. Trời đã về chiều, quân ta dừng lại không truy kích. Trận Xóm Hồng kết thúc. Tuy không bắt được tù binh nhưng ta đã tiêu diệt được nhiều địch, tạo điều kiện cho thắng lợi của ta trong trận tấn công vị trí Hìn Sìu ngày 9-01-1954 và thực hiện được nhiệm vụ kìm chân địch ở đây để quân ta giành thắng lợi ở chiến trường chính Điện Biên Phủ. NGUYỄN NGỌC NINH Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:17:31 pm CAO NGUYÊN BÔ-LÔ-VEN NHỮNG ĐlỀU CÒN ĐỌNG LẠI SAU GẦN NỬA THẾ KỶ Sau khi diệt gọn đồn Xê-ta-mốc và đồn Mường Phin, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ vẫn trú quân tại khu vực đường số 9. Sau Tết Nguyên đán - khoảng 6-2-1954, tiểu đoàn nhận lệnh vượt đường số 9, vượt sông Xê-băng-hiêng phát triển xuống Hạ Lào. Tách khỏi đội hình trung đoàn, nhận nhiệm vụ hoạt động độc lập ở một hướng là một vinh dự và cũng là một thử thách đối với tiểu đoàn. Tâm lý chung là không muốn xa trung đoàn. Các cấp ủy Đảng đã tăng cường công tác tư tưởng, xây dựng ý chí "đâu có giặc là ta cứ đi". Chúng tôi đến khu du kích Lào Ngăm rộng lớn sau vài đêm hành quân. Ở đây có ba hoạt động chiến đấu mà tôi còn nhớ. Đó là cắt đường chiến lược số 13 nối liền Bắc Lào, Trung Lào, Hạ Lào và Cămpuchia. Đêm đêm các đơn vị thay nhau đi phá cầu, đào đường, làm gián đoạn sự vận chuyển của địch hơn nửa tháng. Bộ Tổng tư lệnh đã tặng thưởng một huân chương Quân công hạng 3 cho tiểu đoàn về thành tích này. Hoạt động thứ hai là đánh một đoàn xe chở bản đồ quân sự của địch. Hoạt động thứ ba là tiêu diệt gọn đồn Khi Li nằm trên đường số 13. Cuối tháng 3-1954 nhận lệnh tiếp tục phát triển xuống Nam Hạ Lào. Tư tưởng quân ta lại phát sinh và công tác tư tưởng lại được tiểu đoàn ủy cùng Ban chỉ huy tiểu đoàn coi trọng và chỉ đạo chặt chẽ hàng ngày. Có chiến sĩ bảo cứ đà này thì ta xuống tới Nam Bộ, dù bàn ra tán vào thế nào thì cũng phải tạm biệt Lào Ngăm giàu đẹp, nhân dân thuần hậu, chất phác để vượt cao nguyên Bô-lô-ven. Mất hai ngày hành quân qua những khu rừng "Khôộp" nóng, nắng, oi, khô cằn, những khu rừng đất rộng nhưng thiếu sức sống, chỉ thấy đất bạc màu khô cứng, rừng lại thưa, xe ô tô có thể xuyên ngang, xuyên chéo một cách dễ dàng. Cành cây khẳng khiu như không có nhựa, lá khô rụng đầy và xào xạc dưới gót chân. Không thấy màu xanh dù chỉ là một mầm non nhú trên cành, chỉ một màu nâu xám. Không có suối nước, chỉ có suối cạn và rất hiếm mới gặp được vũng nước trâu đầm. Có đêm hành quân tạm nghỉ bên vũng nước, anh nuôi lấy nước nấu cơm, sáng hôm sau mới biết là vũng nước trâu đầm. Đi miết rồi cũng thoát khỏi khu rừng "Khôộp" tiếp giáp với rừng xanh. Một con đường cái vừa đủ hai xe bò tránh nhau dẫn chúng tôi tới "cửa ngõ" cao nguyên. Các bà mẹ, các chị, các cô gái Lào không hiểu tại sao lại biết là có bộ đội Việt Nam tới, đã ra đón bộ đội dọc hai bên đường. Hầu như người nào cũng cầm một giỏ trên tay, hoặc đầy thuốc lá hoặc đầy chỉ trắng. Không anh bộ đội nào thoát khỏi "cuộc" buộc chỉ cổ tay và mời thuốc. Vòng chỉ sau trùm lên vòng chỉ trước, trông xa cứ như buộc băng trắng nơi cổ tay. Điếu thuốc lá ở đây khác điếu thuốc lá cuốn bằng lá chuối khô của vùng Lào Ngăm, ở vùng Bô-lô-ven này thuốc lá được cuốn bằng lá chuối tươi luộc chín có màu xanh "lụa nõn chuối" gợi cảm giác tươi mát. Mỗi điếu lại buộc một sợi chỉ trắng hoặc đỏ để làm duyên. Thế là chúng tôi đã bước trên đường xuyên cao nguyên xa xôi, đã xa Trung Lào trên dưới hai trăm ki-lô-mét. Trước cảnh cao nguyên bao la, lộng gió với rừng cây xanh mát, bộ đội rất hào hứng khác hẳn những ngày qua rừng "Khôộp”. Có đêm hành quân tới một bản vùng du kích Bô-lô-ven, thấy có ánh đuốc và một toán người đứng chờ sẵn. Một ông già được một người Kinh giới thiệu là Phò bản (Trưởng bản) ra đón tiếp bộ đội Việt Nam. Ông Trưởng bản tiến đến bắt tay Ban chỉ huy tiểu đoàn, bắt tay một số cán bộ với thái độ mừng vui ra mặt. Điểm đập vào mắt tôi là ông Trưởng bản người đen trũi, không mặc quần dài mà chỉ đóng khố nhưng lại mặc một chiếc áo veston, đúng là một chiếc veston như ta mặc hiện nay. Hình như đây là vùng người dân tộc Khạ, một dân tộc thiểu số của Lào. Nhìn sang người nói tiếng Kinh tôi xúc động quá. Trong lúc bộ đội tạm nghỉ, tôi bắt chuyện với anh. Anh tự giới thiệu mình là người Việt thuộc quân tình nguyện từ Khu 5 cử sang Hạ Lào. Anh phải "ba cùng" với dân, lại phải mặc theo dân (đóng khố), cà răng, căng tai, để tóc dài, để da đen sạm như người bản địa. Sự hy sinh của anh to lớn quá. Sự gian khổ của tôi đối với anh không là gì cả. Và tôi đã nói với Đại đội 107 của tôi cảm nghĩ của mình. Hình ảnh của anh còn theo tôi mãi trong suốt cuộc hành quân chiến đấu ở Hạ Lào. Có một con suối lớn xuyên qua vùng cao nguyên nắng gió, xuyên qua những đồi, núi và bạt ngàn là rừng đại ngàn, hoang sơ rất hiếm dấu tích con người. Con suối đó là Na-kà-lả. Có chỗ chảy êm ả trong xanh, có chỗ chảy qua những tảng đá to réo ầm ầm, bọt tung trắng xóa. Chúng tôi ước ao được nghỉ dưới tán lá rừng, mắc võng nằm bên suối và đầm mình trong dòng suối trong xanh để xóa đi nỗi nóng bức mệt nhọc dọc đường. Và tiểu đoàn đã hạ lệnh trú quân tại đây, thật đúng với mong ước của chúng tôi. Từ cánh rừng co con suối Na-kà-lả trong xanh này, tiểu đoàn đã nhiều lần tiến ra đường 13 tổ chức các trận đánh lớn như diệt 1 đồn ở cây số 66, diệt toàn bộ đại đội Âu Phi với 4 khẩu pháo 105 ly và 26 xe quân sự GM7. Trận diệt gọn đại đội pháo binh phái đi trước của GM7 là trận phối hợp rất đẹp để một đơn vị của Đại đoàn 325 tiêu diệt vị trí Vơn-xai ở Đông Bắc Miên. Do đó tiểu đoàn lại nhận được điện khen thưởng một huân chương Quân công hạng 3 nữa. Riêng Đại đội 107 của tôi cũng có một trận đánh lẻ trên đường 13, đánh hụt 3 chiếc AM tuần tiễu của địch do lộ bí mật. Một lần tôi đứng ngay cột cây số trên đường 13. Tôi thấy đề chữ "Khong” 50 km. Khong là một thị trấn của Lào ở gần biên giới Cămpuchia. Vậy là tôi ở cách Cămpuchia có hơn 50 km. Đầu tháng 5-1954 tiểu đoàn lại nhận lệnh vượt cao nguyên trở về khu du kích Lào Ngăm. Hơn một tháng ở Nam Hạ Lào, đại đội dân công Nghệ An đã dũng cảm, đồng cam cộng khổ với tiểu đoàn. Sự hiện diện của đại đội dân công này có tác dụng động viên lớn đối với cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn. Viết lại chút kỷ niệm này, tôi xin bày tỏ sự cảm phục và lòng biết ơn đối với các anh, những người lính trong đoàn quân vận tải của chiến trường. Viết những dòng này sau gần nửa thế kỷ, tôi tự coi là những nén tâm hương để tưởng nhớ đến các liệt sĩ của tiểu đoàn đang nằm rải rác trên đất Hạ Lào xa xôi. Mãi mãi chúng tôi không quên các anh... NGUYỄN HÙNG CƯỜNG Nguyên chính trị viên Đại đội 107 Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:19:29 pm ĐẠI ĐỘI QUÂN Y TRUNG ĐOÀN ĐI CHIẾN DỊCH TRUNG LÀO Vừa ở chiến trường Thượng Lào về, chưa kịp bước vào chỉnh huấn, và còn 2 ngày nữa cưới vợ thì đồng chí chủ nhiệm quân y trung đoàn Phan Ngọc Ngoạn nhận được quyết định của trên chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Chỉ được biết đặc trưng chiến dịch lần này là trung đoàn phải cơ động rất khẩn trương và độc lập tác chiến, còn ở hướng nào thì không được biết. Đồng chí Ngoạn đã triệu tập hội nghị quán triệt tinh thần đó cho anh em quân y sĩ dưới quyền ở các tiểu đoàn, yêu cầu các đơn vị khẩn trương dự trù cơ số thuốc men, dụng cụ. Đồng chí chủ nhiệm quân y cũng mang vác như mọi anh em quân y khác, cơ số thuốc men, bông băng, bao ruột tượng gạo, chỉ kém một cái xẻng nhưng lại thêm dụng cụ mổ xẻ, và một khẩu các-bin do trung đoàn trang bị. Tất cả đều gọn nhẹ trên đôi vai và ba lô trên lưng. Được sự động viên của cán bộ quân chính các cấp, chúng tôi rất phấn khởi, hồ hởi bước vào chiến dịch. Những ngày trú quân tại các xóm làng xanh tươi ven sông Lam sao mà đầm ấm tình đoàn kết quân dân. Các chiến sĩ quân y của trung đoàn phần đông là dân "tạch tạch sè" Hà Nội, học sinh, sinh viên... trắng trẻo, đẹp trai lại bẻm mép, làm sao không làm xao xuyến các cô thôn nữ dệt lụa nõn nà, khỏe mạnh. Chúng tôi còn nhớ nội dung một bài hát mà anh em hay nghêu ngao: “Hà Nội ơi, ta xa Hà Nội lúc 18 tuổi, khi vừa biết yêu"... Từ cuối tháng 12-1953, khi các tiểu đoàn của trung đoàn mở nhiều mũi tiến công trên đường số 9 ở Trung Lào, vượt qua Mụ Giạ, Banaphào, diệt đồn Pà Cuội, Mường Phin, Phalan, có tiểu đoàn tiến sâu xuống tận Hạ Lào giáp Đông Bắc Cămpuchia thì đội quân y tiền phương của chúng tôi phải hết sức vất vả để bám theo. Để kịp thời cứu chữa thương binh, chúng tôi đã phải hành quân cấp tốc, bất kể ngày đêm, nhiều khi vấp ngã vào cả xác địch ở dọc đường và kết hợp chặt chẽ với quân y các tiểu đoàn. Một vấn đề rất cần thiết đối với quân y lúc bấy giờ là nước, nước để rửa vết thương, nước để rửa dụng cụ phẫu thuật. Vì vậy muốn trú quân ở đâu là chúng tôi phải tìm nơi có nguồn nước. Nhưng cũng rất vất vả, vì đóng quân gần suối dễ bị máy bay địch nã súng vu vơ xuống, vì chúng rất ma mãnh cho là những nơi đó bộ đội ta thường dừng chân - Hoặc có khi tìm được vùng có nước thì đã đục ngầu vì anh em ta hành quân trước đã sử dụng, hoặc một vài trường hợp lính địch đã gục xuống chết. Có trận đánh, từ rất sớm đội đã phải tiếp nhận nhiều thương binh hầu hết là thương binh bị bỏng nặng do bom cháy (na-pan). Thương binh rất đau đớn, rên la. Chữa bỏng tức thời phải được băng bó nhưng cơ số băng đã dùng hết. Đồng chí chủ nhiệm đã phải lệnh lấy tất cả màn của đội tải thương để băng bó vết bỏng cho thương binh và liệm cho tử sĩ. Còn bao nhiêu màn của nhân viên quân y đều dành cho thương binh vừa được phẫu thuật xong để chống ruồi vàng và muỗi a-nô-phen. Do thời gian chiến dịch kéo dài, xa hậu phương nên trung đoàn còn giao cho đại đội quân y tổ chức 1 trạm an dưỡng cho thương bệnh binh nhằm kịp thời phục hồi sức khỏe để bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Một buổi sáng trong cánh rừng xăng lẻ, đồng chí Ngoạn và đồng chí Tạ Giả sau nhiều ca mổ ra khỏi lều dựng tạm làm phòng phẫu thuật hít khí trời, xả hơi chốc lát. Gió thổi hiu hiu, lá rơi xào xạc, quang cảnh thật dễ chịu. Bỗng đồng chí Tạ Giả thấy thấp thoáng ở bìa rừng một số người. Anh hô to: "Bọn nào mà ra sớm thế". Trả lời anh là một loạt đạn nổ ran, may không có ai bị thương vong. Đồng chí Phan Ngọc Ngoạn và đồng chí Tạ Giả lui vội vào lán lấy súng tìm mô đất nấp nổ đạn về phía địch. Một số anh em khinh thương với phản xạ chiến đấu nhổm dậy lấy vũ khí của mình đánh địch. Bọn địch không ngờ gặp một đơn vị toàn bồ và quang gánh (bộ đội hậu cần của ta) lại đủ vũ khí có cả tiểu liên và trung liên, nên vội vã tháo chạy. Có tên hốt hoảng chạy ngay vào nơi quân y đóng quân và bị bắt sống. Khai thác tên tù binh, được biết chúng là một số tàn binh địch lang thang đi tìm đơn vị. Qua trận chiến này, anh em quân y rất khâm phục tinh thần dũng cảm của các thương binh không có gì che chắn thân mình, đã đánh địch rất hiên ngang. Ở đây cũng nhắc lại hình ảnh anh Phan Tuệ, là một phái viên của trung đoàn về công tác ở đội điều trị, đã năng nổ đốc chiến. Khiêm tốn mà nói lúc đó chúng tôi tự hào, dù chiến đấu không nhiều, nhưng đã chủ động và nêu cao trách nhiệm bảo vệ thương binh và đơn vị của mình. Sau trận này, một số anh em được khen thưởng và đồng chí Ngoạn được tặng thưởng huân chương chiến công hạng ba. Quân y chúng tôi chỉ đóng góp phần nhỏ bé vào chiến công to lớn của trung đoàn trong chiến dịch Trung Lào. Cái thắng lợi của chúng tôi là đã phục vụ thương bệnh binh vô điều kiện. Hôm nay nhớ lại vẫn vô cùng cảm động trước tinh thần chiến đấu cực kỳ anh dũng và sáng tạo của cán bộ và chiến sĩ của trung đoàn. PHAN NGỌC NGOẠN NGUYỄN VĂN TUYỂN Nguyên chủ nhiệm và chính trị viên đại đội quân y trung đoàn Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:20:54 pm NGÀY ẤY STUNG-TRENG BỪNG SÁNG Tháng 5 năm 1954, để thực hiện ý đồ chiến lược của trên, Tiểu đoàn Nguyễn Huệ tổ chức một đội công tác đặc biệt, tiếp tục phát triển xuống vùng 3 Biên giới, lực lượng khá mạnh do chính trị viên Tiểu đoàn Nguyễn Thế Trinh trực tiếp chỉ huy, có các bạn Lào và một bộ phận tình nguyện quân Việt Nam đã từng hoạt động lâu năm ở Hạ Lào và Đông Bắc Căm-pu-chia cùng tham gia. Đội tiến quân xuống phía nam vùng Stung-treng Đông Bắc Căm-pu-chia. Hành quân đến đâu, dừng ở đâu, Đội đều tiến hành công tác điều tra, tổ chức tuyên truyền, làm mọi công tác có thể để giúp dân. Trường hợp gặp địch, thì tổ chức chiến đấu diệt địch bảo vệ dân, nhưng lấy công tác chính trị làm trọng. Khi đến vùng Stung-treng, Đội công tác đã tận mắt nhìn thấy một cảnh tượng rất đau lòng và thương tâm. Nhà cửa ở đây san sát, vườn cây xum xuê, sông suối trong lành, chứng tỏ trước đây là một vùng dân cư đông đúc trù phú. Nhưng do bị địch tàn phá kìm kẹp nay rất vắng vẻ, tiêu điều. Cả vùng chỉ còn lại 74 người, đặc biệt là không có trẻ em, người nào cũng ốm yếu, xanh xao, tiều tụy, vì thiếu ăn, thiếu mặc, vì ốm đau, nghiện hút, vì bao nỗi ám ảnh của Thần linh thâm hiểm. Đây lại là vùng xa xôi hẻo lánh, không ai để tâm quản lý, chăm sóc lo toan cho dân... Nếu không có sự xử lý thích đáng, thì nguy cơ tiệt diệt là rõ ràng. Tổng quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh, khi được báo cáo tình hình đã điện gấp cho đơn vị và chỉ thị cho đội công tác: "Bất kể do nguyên nhân gì? bất kể nhân dân Stung-treng do ai quản lý, đội công tác phải tìm mọi cách và làm hết sức mình, để cứu vãn tình trạng thương tâm cấp bách đó. Thường xuyên báo cáo tình hình về Bộ". Đội công tác đã tập trung toàn bộ lực lượng có hạn của mình, ngày đêm đồng cam cộng khổ với nhân dân, điều tra nghiên cứu kỹ mọi nguyên nhân tìm cách gỡ dần từng đầu mối. Trước hết chữa trị cho dân qua khỏi bệnh tật hiểm nghèo, hồi phục sức khỏe. Tuyên truyền giải thích để nhân dân từ bỏ dần những mê tín, hủ tục lạc hậu, gây niềm tin trụ lại làm ăn sinh sống tại nơi quê cha đất tổ đã tốn bao công phu và bao đời mới xây dựng được như ngày nay. Một thời gian sau, đời sống của nhân dân Stung-treng bước đầu đã được cải thiện. Trong bản đã có tiếng cười, tiếng hát, đã có những đêm lửa trại, múa hát thâu đêm thật ấm áp tình người. Ngày ấy Stung-treng đã bừng sáng về mọi mặt. NGUYỄN THẾ TRINH Tiêu đề: Re: Trung đoàn 66 - 55 năm một chặng đường vẻ vang Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Hai, 2022, 10:23:16 pm LỜI KẾT 55 năm nhìn lại chặng đường chiến đấu và trưởng thành của trung đoàn, những người lính đầu bạc đã kể chuyện thời "nguyên phong" qua các bài viết của mình. Hơn nửa thế kỷ đã qua, mặc dù tuổi cao và chỉ riêng khu vực Hà Nội, những cựu chiến binh Trung đoàn 66 vượt qua sự lão hóa đã ghi lại những sự kiện sâu sắc thấm đẫm tinh thần yêu nước, tình đồng đội, tình quân dân, tinh thần quốc tế trong sáng, những sự kiện khó phai mờ trong tâm khảm của bản thân mỗi người. Với số lượng hạn chế nên các bài viết chỉ là những nét chấm phá của bức tranh toàn cảnh. Tuy nhiên cũng giúp cho chúng ta nhớ lại một quá khứ hào hùng, một thời oanh liệt của dân tộc ta đã đánh bại "hai đế quốc to" ghi một chiến công chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm ở thế kỷ 20 của nhân loại và sự đóng góp đáng tự hào của trung đoàn vào sự nghiệp vinh quang đó. Các đơn vị hợp thành trung đoàn gồm các đại đội, tiểu đoàn đã lập chiến công đánh Pháp từ buổi đầu chúng quay lại âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa như Đại đội Ký Con, Tiểu đoàn Tây Tiến 150 hoặc các đơn vị lừng danh đánh Pháp ngày đầu toàn quốc kháng chiến ở Thủ đô, Hải Phòng, Nam Định và các thị xã, thị trấn khác. Càng tự hào về những chiến công của trung đoàn, chúng ta càng ghi nhớ công ơn to lớn của các anh hùng liệt sĩ của trung đoàn đã vĩnh viễn nằm lại trên các nẻo đường của Tổ quốc và đất nước bạn. Chúng ta cũng xin gửi tới các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí thương binh, các gia đình liệt sĩ, các gia đình cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn qua các thời kỳ lời chào kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc. Tôi hy vọng rằng cuốn sách này là bước đầu gợi mở để các chiến sĩ Trung đoàn 66 anh hùng chúng ta nhất là tiểu đoàn trợ chiến Hoàng Diệu cả hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ viết tiếp để truyền thống của trung đoàn được đầy đặn bổ sung cơ sở thực tiễn cho quyển sử bằng người thật việc thật - những người trong cuộc, những nhân chứng. Tôi mong muốn chúng ta ghi lại không phải chỉ để tự hào về quá khứ mà để ôn cố tri tân, tạo cho lớp kế tiếp phát huy được truyền thống của trung đoàn bằng những gương sáng rèn luyện và chiến đấu vì hòa bình, độc lập tự do và giàu mạnh của đất nước. Chúng ta không được quên rằng: "Còn đế quốc là còn chiến tranh" nên phải cảnh giác. Hiện nay Đảng ta vẫn khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy cần coi trọng công tác giáo dục truyền thống quân sự bằng những kỷ niệm chiến đấu sâu sắc của những chiến sĩ lớp trước. Những hồi ký ấy thể hiện sự quán triệt, thấm nhuần tư tưởng quân sự của cha ông "lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh" và những tư tưởng tác chiến cụ thể "không sợ địch, không khinh địch", "dám đánh và bám thắt lưng địch mà đánh" v.v..., quán triệt, thấm nhuần quan điểm chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân, quan điểm quân đội nhân dân để vận dụng vào điều kiện hiện nay. Thượng tướng PHÙNG THẾ TÀI Nguyên trung đoàn trưởng đầu tiên Hết! |