Tiêu đề: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười, 2022, 04:03:06 pm Tên sách: Những kỷ niệm về công tác cán bộ
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân Năm xuất bản: 1997 Số hoá: ptlinh, chuongxedap TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ CỤC CÁN BỘ Những kỷ niệm VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN Hà Nội - 1997 Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười, 2022, 04:04:55 pm LỜI NÓI ĐẦU Kể từ ngày cơ quan cán bộ của quân đội ta được chính thức thành lập (28-2-1947) đến nay, vừa tròn nửa thế kỷ đã trôi qua. Mỗi bước đi lên, mỗi thành tích đạt được của cơ quan cán bộ, đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Quân ủy Trung ương (sau này là Đảng ủy Quân sự Trung ương), Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị. Với ý chí và quyết tâm, bằng nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên trong ngành công tác cán bộ, qua nhiều thế hệ kế tiếp nhau, đã cống hiến tâm trí và sức lực góp phần xứng đáng của mình cho sự nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội vững mạnh, làm nòng cốt trong nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Trong nửa thế kỷ qua, đội ngũ những người làm công tác cán bộ, có đồng chí đã về nghỉ hưu theo chế độ, có đồng chí còn đang công tác trong quân đội... đều tích lũy được những kinh nghiệm quý trên từng mặt của công tác cán bộ. Với tinh thần trách nhiệm, còn say sưa, tâm huyết với công tác cán bộ mà mình đã trải qua, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống vẻ vang của ngành công tác cán bộ trong quân đội, Đảng ủy - Chỉ huy Cục Cán bộ, được Tổng cục Chính trị cho phép và được sự giúp đỡ của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn "Những kỷ niệm về công tác cán bộ", nhằm khơi lại, thu thập kinh nghiệm và sự đóng góp của cán bộ trong ngành, góp phần vào việc nghiên cứu, biên soạn, tổng kết kinh nghiệm về công tác cán bộ sau này. Do khuôn khổ cuốn sách và thời gian có hạn cùng nhiều mặt hạn chế khác, nên cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định và chưa đáp ứng được đầy đủ nguyện vọng của cán bộ trong ngành. Chúng tôi rất mong được các đồng chí đóng góp ý kiến và tiếp tục viết bài, gửi về Cục Cán bộ để tập tiếp theo xuất bản được tốt hơn. ĐẢNG ỦY - CHỈ HUY CỤC CÁN BỘ Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười, 2022, 04:15:44 pm TỰ HÀO VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐÃ QUA NHẬN RÕ TRÁCH NHỆM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI1 Trích ghi ý kiến của Thượng tướng SONG HÀO trong buổi họp mặt những đồng chí công tác ở Cục Cán bộ đã về nghỉ hưu ngày 28 tháng 2 năm 1993 Hôm nay tôi rất vui mừng được dự cuộc họp mặt lần đầu tiên của những đồng chí đã từng làm công tác giúp Tổng Quân ủy trước đây, cũng như Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị sau này, về lĩnh vực công tác cán bộ của quân đội ta, nay đã nghỉ hưu hoặc chuyển ngành đi làm nhiệm vụ khác mà Đảng phân công. Thưa các đồng chí! Trong những năm gần đây, việc tổ chức những cuộc họp mặt nhân ngày truyền thống của đơn vị, cơ quan, ngành mỗi ngày một phát triển nhằm: + Gắn bó tình cảm đồng chí, đồng đội. + Ôn lại lịch sử truyền thống tốt đẹp của cơ quan mình, ngành mình. + Động viên nhắc nhở, giúp đỡ lẫn nhau giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang của đơn vị trong điều kiện mới, cương vị mới; đó là một yêu cầu tình cảm cần thiết. Hôm nay Cục Cán bộ tổ chức cuộc họp mặt này, là điều rất phấn khởi. Tôi xin hoan nghênh chủ trương của Tổng cục Chính trị và xin cảm ơn sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo cục cho được dự cuộc họp mặt đầy ý nghĩa và tình cảm này. Tôi xin chúc sức khỏe tất cả các đồng chí có mặt ở đây và xin gửi lời thăm hỏi chúc sức khỏe gia đình các đồng chí. Tôi là người bạn, người đồng chí được gắn bó nhiều năm công tác ở Tổng cục, có phần đóng góp vào việc chỉ đạo và thực hiện đường lối, chính sách công tác cán bộ của Đảng trong quân đội với các đồng chí. Cuộc họp mặt đầy tình nghĩa này cũng là dịp để chúng ta ôn lại những phần việc mà chúng ta đóng góp vào sự trưởng thành và chiến thắng của lực lượng vũ trang, vào thắng lợi vẻ vang của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thưa các đồng chí! Trải qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng, Đảng đã giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo chúng ta từ những người dân mất nước, làm nô lệ, trở thành những đảng viên, những cán bộ, những sĩ quan, tướng lĩnh có năng lực đạo đức để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của Đảng, của nhân dân giao cho; đặc biệt kể từ ngày thành lập cơ quan cán bộ quân đội để giúp Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo thực hiện đường lối công tác cán bộ của Đảng trong quân đội, có lúc là Phòng Cán bộ hay Cục Cán bộ rồi Tổng cục Cán bộ và Cục Cán bộ ngày nay. Đối với công tác cán bộ trong quân đội, Đảng ta ngay từ đầu đã định ra phương hướng nhiệm vụ, mục đích yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ của lực lượng vũ trang nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm nghĩa vụ quốc tế... Đây là chặng đường dài. Nhiều đồng chí của chúng ta đã có đóng góp to lớn vào sự nghiệp đó. Các đồng chí đều đã biết, đã làm, đã thấy, đã chứng minh: Trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội, xây dựng tổ chức đơn vị... thì công tác cán bộ là vấn đề lớn và rất quan trọng, nó quyết định vị trí, nhiệm vụ, sức mạnh để lãnh đạo chỉ huy thực hiện nhiệm vụ, quyết định sức mạnh và sự tồn tại của tổ chức đó. Bác Hồ đã nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc... Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém, đó là một chân lý". Nhận rõ ý nghĩa đó, Đảng ta sau khi định ra đường lối cách mạng, đã quan tâm xây dựng tổ chức, xây dựng lực lượng cách mạng, đặc biệt là xây dựng một đội ngũ cán bộ chung, đồng thời cũng đặt yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai đoạn cách mạng, từng lĩnh vực hoạt động để thực hiện nhiệm vụ của Đảng sát với tình hình thực tế nhiệm vụ cách mạng đó. Cho nên muốn xây dựng một đội ngũ cán bộ mạnh thì sau khi có đường lối, chủ trương, chính sách, mục đích nhiệm vụ, tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể rồi, phải làm tốt tất cả các khâu từ lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến phân công giao nhiệm vụ, quản lý, đề bạt, sử dụng, đãi ngộ... Nó là nội dung cơ bản trong quy hoạch, kế hoạch công tác cán bộ của Đảng ta. Nhìn lại nửa thế kỷ qua, đất nước ta, Đảng ta, quân đội ta đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử. Nhiệm vụ yêu cầu chiến đấu xây dựng của từng giai đoạn có những đặc điểm khác nhau, công tác cán bộ của chúng ta đều gắn với thực tiễn những giai đoạn lịch sử đó, phải bám sát tình hình nhiệm vụ và phải vận dụng linh hoạt sáng tạo để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ giai đoạn đó. Giờ đây ôn lại, chúng ta thấy ngành cán bộ có sự trưởng thành vững chắc, đã có những đóng góp tích cực vào công tác đảng - công tác chính trị của quân đội nói chung và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói riêng. Chúng ta đã sớm nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn công tác cán bộ trong kháng chiến chống Pháp, công tác cán bộ trong thời kỳ đầu xây dựng quân đội chính quy ở miền Bắc để khẳng định những thành công của việc xây dựng đội ngũ cán bộ để có cơ sở rút ra những bài học kinh nghiệm, phát huy mặt tốt đã thành công, khắc phục những thiếu sót lệch lạc để xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới tạo điều kiện xây dựng quân đội mạnh, chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Thực tế ấy đã cho chúng ta thấy Đảng ta, quân đội ta đã thành công trong việc xây dựng được đội ngũ cán bộ hùng hậu để chiến thắng và tiếp tục xây dựng quân đội ta hùng mạnh để bảo vệ Tổ quốc. Ngành cán bộ ta đã giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị chỉ đạo hướng dẫn thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng quản lý và phân công sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ hùng hậu, tương đối đầy đủ các quân binh chủng hiện đại đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ của quân đội, chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, đồng thời cũng đáp ứng được yêu cầu của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể... khi cần. _______________________________________________ 1. Đầu đề do Ban biên soạn đặt. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 09 Tháng Mười, 2022, 04:16:49 pm Ví dụ: Khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp cả nước có khoảng hai chục vạn quân, trong đó có 3 vạn cán bộ (tỷ lệ 15 - 16%) chủ yếu là bộ binh. Thực hiện nhiệm vụ chiến lược của Đảng cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chủ trương giảm 8 vạn quân. Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, quân đội đã cho chuyển ngành một số cán bộ và đơn vị ra các cơ quan dân chính đảng, công nông trường... một số phục viên về địa phương. Đảm bảo giữ lại lực lượng nòng cốt đồng thời tuyển lựa đưa đi đào tạo ở các hệ thống nhà trường cả trong và ngoài nước, cho nên khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược, ta phải tổng động viên... Do có sự tính toán chuẩn bị, chỉ sau vài năm đã phát triển quân số lên một triệu, đồng thời đội ngũ cán bộ đã phát triển lên trên 20 vạn bao gồm cán bộ lãnh đạo, cán bộ chỉ huy, cán bộ kỹ thuật, cán bộ hậu cần... của các quân binh chủng hiện đại. Công tác cán bộ của chúng ta đã đáp ứng sự phát triển mau lẹ, có một đội ngũ cán bộ tin cậy có năng lực đảm nhận nhiệm vụ. Những lúc sóng gió quyết liệt nhất, ở những nơi gian khổ ác liệt nhất, những cán bộ của chúng ta vẫn vững vàng và hoàn thành nhiệm vụ (trừ một số cá biệt đảo ngũ, bỏ nhiệm vụ, đầu hàng giặc). Nhưng qua thực tiễn công tác, chúng ta cũng thấy có biểu hiện không xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và tình hình thực tế cùa cách mạng, không nắm vững đường lối công tác cán bộ của Đảng, không nắm vững nguyên tắc tổ chức và lãnh đạo công tác cán bộ, do đó đã có nhận thức và phát biểu không đúng, đã làm không đúng nghị quyết, chỉ thị, đường lối, chính sách cán bộ của Đảng, thậm chí còn xuyên tạc sự thật, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và phủ nhận cả thành tích trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ của chúng ta. Họ kích động oán trách đường lối công tác cán bộ, oán trách cơ quan, oán trách cá nhân này, cá nhân khác. Không hiểu họ vô tình hay cố ý nhằm xóa bỏ nguyên tắc tổ chức, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng của tập thể cấp ủy. Ví dụ: Thực hiện chủ trương của Quân ủy đào tạo cấp tốc để đáp ứng việc phát triển xây dựng lực lượng nhanh, đảm bảo nhiệm vụ chiển đấu trên các mặt trận, thì cho rằng đào tạo không cơ bản, chắp vá... Việc đề bạt thì hiểu không đầy đủ về tiêu chuẩn đức, tài, nhu cầu, không chấp nhận trong thực tế chiến đấu có người một năm lên 2-3 cấp và ngược lại có người không đủ tiêu chuẩn, không có nhu cầu phải kéo dài 5-7 năm mới lên một cấp... Từ những nghị quyết, chỉ thị, quyết định của cấp ủy và thực tế chiến đấu yêu cầu như vậy, họ cho rằng cơ quan cán bộ làm không đúng Luật sĩ quan, phê phán chụp mũ cá nhân những đồng chí phụ trách công tác cán bộ... Chúng ta đều nhớ nguyên tắc tổ chức lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ. Đảng định ra đường lối, chính sách, mục đích, nội dung tiêu chuẩn, yêu cầu số lượng, tỷ lệ số lượng từng cấp, từng ngành và cho từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng, từng lĩnh vực hoạt động, v.v... Việc đề bạt bổ nhiệm chức vụ, thăng cấp quân hàm là xuất phát từ đức, tài của cán bộ và nhu cầu của tổ chức để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng. Đồng thời định rõ trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ quan trọng này là do tập thể cấp ủy quyết định về công tác cán bộ, chính quyền thể chế hóa thực hiện, có phân công phân cấp quản lý cán bộ rất cụ thể. Sau khi đã có nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nghị quyết của các cấp ủy, để thể chế hóa về chính quyền thì Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Quốc phòng, thủ trưởng quân khu, quân đoàn, quân binh chủng, mặt trận... Thủ trưởng Tổng cục thuộc Bộ Quốc phòng ra quyết định thi hành. Đó không phải là do cá nhân quyết định hay cơ quan giúp việc quyết định, hoặc do đồng chí phụ trách Tổng cục Chính trị quyết định mọi vấn đề về công tác cán bộ. Tổng cục Chính trị không phải là cấp ủy và lại càng không phải là cấp ủy cao nhất của Đảng trong quân đội, chỉ là cơ quan giúp việc Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, không phải là cơ quan chỉ huy, lãnh đạo công tác cán bộ thay cho Đảng và Nhà nước được. Cơ quan cán bộ chỉ là cơ quan chuẩn bị giúp cấp ủy, thủ trưởng xét quyết định rồi phổ biến thực hiện. Tuyệt nhiên không có một cá nhân hay cơ quan nào có quyền quyết định về công tác cán bộ cả. Trong công tác cán bộ nếu không nắm vững phương hướng nhiệm vụ, yêu cầu mục đích xây dựng đội ngũ cán bộ, không nắm vững nguyên tắc quản lý cán bộ, không quán triệt tiêu chuẩn đức, tài và nhu cầu mà chỉ lấy căn cứ duy nhất là quân hàm, tiền lương làm nội dung chính mà cứ "đến hẹn lại lên" thì đó là sai lầm. Tất cả chúng ta ai cũng biết, cũng nhớ, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp gần 10 năm, lúc đó ta không có chế độ tiền lương, cũng gần như không có quân hàm, chúng ta chỉ hưởng sinh hoạt phí và chỉ có một số rất ít được phong quân hàm để làm công tác đối ngoại. Thực tế ta vẫn chiến thắng giặc Pháp được mệnh danh đạo quân mạnh nhất của đế quốc. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước kéo dài từ năm 1954 đến năm 1975 ta chỉ mới có một nửa nước được giải phóng, đất nước tạm chia cắt làm hai miền, do đó đặc điểm của hai miền có khác nhau, có hai chế độ xã hội khác nhau, hai chính quyền, hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau. Ở miền Bắc có điều kiện xây dựng quân đội chính quy, có Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan, có chế độ quân hàm (từ cuối năm 1958), có chế độ tiền lương (năm 1960). Trong Luật sĩ quan có quy định niên hạn tối thiểu để xét việc thăng quân hàm cho mỗi cấp, khi đã đủ niên hạn để xét nhưng chưa đủ tiêu chuẩn và điều kiện để được thăng cấp thì có thể được kéo dài niên hạn, từ 1-3 năm, sau đó vẫn không đủ thì sẽ chuyển sang ngạch dự bị. Thực tế chế độ đó cũng chỉ thực hiện được 5-6 năm thì giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước, chúng ta phải tổng động viên thực hiện chính sách thời chiến, động viên tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tạm thời ngừng không thực hiện theo Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan trong một thời gian và ngay trong luật họ hiểu cũng không đầy đủ - đến niên hạn nhưng còn phải xét tiêu chuẩn - không phải cứ đến niên hạn thì lên ngay. Chúng ta đã chấp hành đúng nghị quyết và đúng luật trong điều kiện đó. Đảng ta yêu cầu cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc vào hoạt động ở miền Nam thì phải cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu, cùng hưởng chế độ sinh hoạt phí như chiến sĩ quân giải phóng không có quân hàm, không có lương. Nhưng để bảo đảm cho gia đình ở miền Bắc ổn định đời sống và động viên anh em yên tâm đi chiến đấu, Đảng và Nhà nước có chính sách ưu tiên sắp xếp công ăn việc làm cho vợ con, trợ cấp tiền đi B cho gia đình, những đồng chí là sĩ quan, có lương đi vào miền Nam chiến đấu lúc đó cũng hưởng chế độ thống nhất như vậy. Số tiền lương được hưởng trích một phần cho cá nhân, còn lại Nhà nước cấp phát cả cho gia đình. Các đồng chí là người miền Nam ra tập kết nay được điều động trở về chiến đấu, hoạt động ở miền Nam, nếu không có cha mẹ, vợ con ở miền Bắc thì vào miền Nam chiến đấu cũng hưởng chế độ sinh hoạt phí. Không có nghị quyết, chỉ thị nào xác định số anh em đó là diện "B trọc", nói "B trọc" như vậy là không hiểu về chính sách, về tình cảm, về ý nghĩa chính trị và trong thực tế có hàng chục vạn cán bộ chiến sĩ miền Nam tình nguyện tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chiến đấu, có nhiều đồng chí được bố trí ở lại không đi ra Bắc tập kết, hoạt động bí mật liên tục đến ngày giải phóng không có tiền lương, không có quân hàm, gia đình cũng không có điều kiện để được hưởng chính sách trợ cấp B như ở miền Bắc nhưng anh chị em vẫn kiên cường bám trụ, anh dũng chiến đấu và đã lập những chiến công tuyệt vời, cùng quân dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng quê hương, thống nhất Tổ quốc, coi thắng lợi đó là quyền lợi, là động lực cao nhất đối với anh chị em sẵn sàng xả thân cứu nước. Thực tế là như vậy, mục đích, nội dung, đối tượng về chính sách đi B rất rõ ràng như vậy. Thưa các đồng chí! Hôm nay có điều kiện ôn lại lịch sử, chúng ta điểm lại sơ lược những vấn đề rất cơ bản về nguyên tắc tổ chức lãnh đạo xây dựng và phân công phân cấp quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội. Từ khi là Phòng Cán bộ, hay Cục Cán bộ hoặc Tổng cục Cán bộ trước đây và Cục Cán bộ hiện nay, Đảng ta vẫn thực hiện nhất quán nguyên tắc ấy. Tình hình thực tế là như vậy, nếu ai nghĩ và cho công tác cán bộ là do một cơ quan hay một cá nhân nào đó quyết định là sai lầm, là phủ nhân sự lãnh đạo của Đảng. Với chức năng là cơ quan chuyên trách giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, chúng ta thấy cần có sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các thời kỳ, các giai đoạn, các chiến trường khác nhau, vì mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi chiến trường có yêu cầu về chính trị khác nhau, có tính lịch sử riêng của nó. Vì vậy mà công tác cán bộ, chính sách cán bộ của từng thời kỳ, giai đoạn đó không hoàn toàn giống nhau, không có điều kiện để thực hiện như nhau, đó là vấn đề lịch sử ta phải khẳng định. Các đồng chí chúng ta có mặt ở đây cũng có đủ các thế hệ của các thời kỳ là những nhân chứng, những tài liệu sống hiểu khá sâu sắc các vấn đề, không thể quên hết được, chúng ta có trách nhiệm phải nói lại để thế hệ sau hiểu rõ. Tôi đề nghị có tổ chức chỉ đạo tập hợp tất cả các văn bản nghị quyết, chỉ thị… nói về vấn đề cán bộ và chủ trương chính sách đối với cán bộ trong các thời kỳ để cùng nhau nghiên cứu xác định những vấn đề thành công, thắng lợi của công tác cán bộ, đồng thời cũng xem xét kỹ những chủ trương chính sách không đúng, không còn phù hợp, cần thay đổi bổ sung, trên cơ sở đó thống nhất báo cáo với Đảng, với Nhà nước xem xét giải quyết và giải thích cho rõ ràng. Nếu để chậm trễ sẽ ảnh hưởng đến công tác cán bộ sau này, chúng ta không để lại được kinh nghiệm cho thế hệ sau. Tôi tin rằng chúng ta làm được, bây giờ làm vẫn không muộn, chắc chắn các đồng chí chỉ huy Cục Cán bộ đứng ra làm, chúng ta làm được. Hôm nay là ngày vui gặp mặt rất có ý nghĩa. Ôn lại truyền thống, chúng ta tự hào về những cống hiến của chúng ta, đồng thời cũng thấy rõ trách nhiệm phải đóng góp cho thế hệ tiếp theo làm tốt hơn. Đó là vài suy nghĩ tâm sự của tôi với các đồng chí. Cuối cùng, một lần nữa xin chúc sức khỏe tất cả các đồng chí và cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Cục Cán bộ. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 01:46:24 pm NHỮNG KỶ NIỆM ĐÁNG GHI NHỚ Ở CỤC CÁN BỘ Thiếu tướng TRẦN ĐÌNH CỬU Nguyên Cục trưởng Cục Cán bộ Tôi được điều động về làm trưởng phòng cán bộ Binh chủng Hậu cần Cục Điều động Đề bạt - Tổng cục Cán bộ ngày 10 tháng 5 năm 1957, đến ngày 1 tháng 7 năm 1963 được bổ nhiệm cục phó, ngày 1 tháng 6 năm 1977 được bổ nhiệm cục trưởng và ngày 28 tháng 8 năm 1980 tôi rời khỏi cục về công tác ở Quân khu 7. Thế là tôi đã công tác ở Cục Cán bộ thời gian 23 năm, gần 1/4 thế kỷ công tác tại một đơn vị, gần một nửa thời gian tôi phục vụ quân đội. Tôi bồi hồi xúc động nhớ lại đại gia đình Cục Cán bộ đã giáo dục, bồi dưỡng và giúp đỡ tôi trưởng thành, để phục vụ Đảng, phục vụ quân đội. Biết bao nhiêu kỷ niệm đã thấm sâu trong tim óc tôi trong thời công tác ở Cục Cán bộ. Nay tôi đã nghỉ hưu, nhưng có đêm còn nằm mơ đến những ngày làm công tác cán bộ ở cục, 23 năm ấy biết bao nhiêu tình, biết bao nhiêu kỷ niệm ấm áp. Vì thời gian có hạn, tôi chỉ xin ghi lại một số kỷ niệm lớn sau đây: Kỷ niệm thứ nhất NHÌN XA TRÔNG RỘNG Viết về kỷ niệm này, tôi muốn nêu rõ sự lãnh đạo sáng suốt, tầm chiến lược nhìn xa trông rộng của Tổng Quân ủy trước đây, sau này là Quân ủy Trung ương của Tổng cục Chính trị đối với việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ Binh chủng, Hậu cần - Kỹ thuật nói riêng. Tháng 10 năm 1954 sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấp hành Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị, quân đội ta ở miền Nam tập kết ra miền Bắc. Tổng Quân ủy, sau này là Quân ủy Trung ương chủ trương xây dựng quân đội từng bước chính quy hiện đại, trước tiên là xây dựng đội ngũ cán bộ. Trình độ cán bộ hai miền lúc đó chênh lệch. Cán bộ ở miền Bắc đã có một trình độ nhất định về chính quy hiện đại. Phần lớn cán bộ từ tiểu đoàn trở lên đều đã qua các chiến dịch, nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ. Cán bộ miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, Bình Trị Thiên, Huế, Khu 5, Nam Bộ trình độ có thấp hơn. Nhưng nhìn chung đội ngũ cán bộ quân đội ta đều được rèn luyện thử thách trong chiến đấu, xây dựng. Tổng Quân ủy chủ trương lấy công tác bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ làm trung tâm trong một thời gian tương đối dài để chuẩn bị kế hoạch xây dựng quân đội ta tiến lên chính quy hiện đại. Về biện pháp, Tổng Quân ủy chủ trương ở trong nước củng cố hệ thống nhà trường từ sơ cấp đến trung cao cấp, từ binh chủng hợp thành đến binh chủng và cán bộ kỹ thuật là chủ yếu. Song song với việc bồi dưỡng đào tạo trong nước là chủ yếu, Tổng Quân ủy chủ trương gửi đi học ở các nước anh em xã hội chủ nghĩa như: Liên Xô, Trung Quốc và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, để đào tạo bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ cao cấp về binh chủng hợp thành, về quân binh chủng, về cán bộ hậu cần, về cán bộ khoa học kỹ thuật. Thực hiện chủ trương trên, Tổng cục Cán bộ và Tổng cục Chính trị, từ năm 1955 đã tập trung một số lớn cán bộ từ đại đội, tiểu đoàn đến trung cao cấp (trung đoàn và sư đoàn) đã qua thử thách chiến đấu ở các đơn vị trong toàn quân về trường văn hóa quân đội ở Kiến An (sau này ở Lạng Sơn) để bồi dưỡng thêm về văn hóa và ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng Trung Hoa, từ năm 1956 - 1957 đến năm 1960. Cục Cán bộ chỉ định người cụ thể đi học, giúp tổng cục lựa chọn, chuẩn bị về tổ chức và gửi cán bộ đi học. Cụ thể là: trước hết cử các cán bộ chủ trì cao cấp, trung cấp, binh chủng hợp thành, quân binh chủng, hậu cần kỹ thuật. Tôi nhớ là lúc đó các đồng chí cao cấp, từ thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu như đồng chí Trần Quý Hai, Vương Thừa Vũ, Trần Văn Trà, Trần Văn Quang đến các cán bộ cấp tướng như các đồng chí Hoàng Sâm, Hoàng Minh Thảo, Vũ Lăng, Vũ Yên, Vũ Lập, Phạm Hồng Sơn, Hoàng Phương, Thái Dũng, v.v... lần lượt đi học các học viện cao cấp của Liên Xô như Vô-lô-xi-lốp và Trung Quốc như học viện cao cấp Bắc Kinh, Nam Kinh. Rồi đến cán bộ chủ trì cao cấp các quân binh chủng đi đào tạo ở các học viện Liên Xô, Trung Quốc. Quân chủng Không quân có các đồng chí Đặng Tính, Hoàng Thế Thiện, Nguyễn Văn Tiên. Quân chủng Phòng không có các đồng chí Lê Văn Tri, Đoàn Huyên, Nguyễn Quang Bích, Vũ Xuân Vinh, Nguyễn Quang Tuyến, Trần Nhẫn. Quân chủng Hải quân có các đồng chí Nguyễn Bá Phát, Tạ Xuân Thu, Hoàng Trà, Văn Giang, Đoàn Bá Khánh, Hoàng Hữu Thái, Nguyễn Dưỡng, v.v... Binh chủng Pháo binh có các đồng chí Phùng Thế Tài, Doãn Tuế, Trần Thanh Từ và nhiều đồng chí khác. Binh chủng Công binh có các đồng chí Trần Bá Đặng, Vũ Trọng Hà, Lương Soạn, Nguyễn Thuận, Nguyễn Từ Xê. Binh chủng Thông tin có các đồng chí Hoàng Niệm, Phạm Niên và nhiều đồng chí khác. Binh chủng Tăng thiết giáp có các đồng chí Đào Huy Vũ, Đào Văn Xuân, Dương Đằng Giang. Binh chủng Hóa học có đồng chí Đặng Quân Thụy và một số đồng chí khác. Riêng các quân chủng Không quân, Hải quân và Binh chủng Tăng thiết giáp cần gửi đi đồng bộ. Về không quân, ngoài các đồng chí đã học ở các học viện, không quân còn cử các đồng chí chỉ huy bay, trung đoàn bay, người lái và các kỹ thuật viên, như các đồng chí Đào Đình Luyện, Trần Văn Mạnh, Nguyễn Phúc Trạch, v.v... để đồng bộ, thành một khung, nhiều khung đến khi cần và có trang bị là ta sử dụng được ngay. Binh chủng Hải quân cũng cử đi đồng bộ chỉ huy, các ngành kỹ thuật, học về các loại tàu tuần tra, săn ngầm... Binh chủng Tăng cử các đồng chí chỉ huy, từ chỉ huy đến lái, thợ sửa chữa, các khung trung đoàn, khi cần chúng ta có thể sử dụng được ngay. Cơ quan Bộ Tổng Tham mưu, cử đi các đồng chí thủ trưởng Cục Tác chiến, Cục Quân huấn, Cục Tình báo, Cục Dân quân, Cục Quân lực đi học để về giúp Bộ nắm và chỉ đạo các binh chủng hợp thành, các binh chủng kỹ thuật. Về cán bộ chính trị, ta chỉ cử một số để rút kinh nghiệm như các đồng chí Lê Hiến Mai, Nguyễn Xuân Mậu đi học. Đồng chí Lê Hai đi học ở Học viện cao cấp Bắc Kinh, đồng chí Đặng Vũ Hiệp đi học ở Học viện Quân chính Lê-nin và đồng chí Lê Khanh học ở trường Đảng cao cấp để rút kinh nghiệm. Về cán bộ hậu cần, đã gửi đi các cán bộ chủ trì các cấp của Tổng cục Hậu cần như các đồng chí Trần Thọ, Hoàng Điền, Trần Chí Cường và các đồng chí cục trưởng, cục phó trong Tổng cục Hậu cần (vận tải, xăng dầu, quân nhu, quân giới...) như các đồng chí Phan Tử Quang, Đinh Trọng Nữu... Về cán bộ quân y, đã gửi đi Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa để bồi dưỡng trên đại học, làm luận án tiến sĩ, để bồi dưỡng thành cán bộ chủ trì đầu ngành nội ngoại khoa và các chuyên khoa ở trong quân đội, trong ngành quân y và làm chủ nhiệm các khoa của Viện Quân y 108 và Trường đại học Quân y. Sau này, nhiều đồng chí đi bồi dưỡng các lớp này đã trở thành các giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ nổi tiếng ở trong nước và trên thế giới như các đồng chí Nguyễn Thế Khánh, Võ Văn Vinh, Đặng Đình Huấn, Nguyễn Huy Phan, Nguyễn Trọng Nhân, Bùi Đại, Phan Tử Dương... Về cán bộ khoa học kỹ thuật, ta cử đi đào tạo các kỹ sư đồng bộ, các phó tiến sĩ, tiến sĩ ở các ngành khoa học kỹ thuật. Tôi nhớ trong số này có đồng chí Trương Khánh Châu đi làm phó tiến sĩ ở Học viện Không quân Liên Xô. Ta còn cử cán bộ đi các nước xã hội chủ nghĩa khác như Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Tiệp Khắc. Đến năm 1963, ta đã gửi đi đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều cách, đào tạo dài, bồi dưỡng ngắn, thời gian dài ngắn khác nhau nên ta đã có được một đội ngũ cán bộ tương đối hoàn chỉnh, từ binh chủng hợp thành đến quân binh chủng, hậu cần, quân y và khoa học kỹ thuật. Từ năm 1961 đến năm 1963, một số được đào tạo ở nước ngoài đã trở về và được Quân ủy gửi vào miền Nam theo kế hoạch xây dựng quân đội ở miền Nam. Ở miền Bắc, ta đã hình thành xây dựng các quân binh chủng. Cán bộ chủ trì các quân binh chủng được gửi đi bồi dưỡng ở các nước anh em. Đến năm 1964, khi đế quốc Mỹ gây chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, ta đã sẵn sàng có đội ngũ cán bộ để tổ chức các quân binh chủng như Phòng không, Không quân, Hải quân, v.v... các binh chủng và đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật từ thủ trưởng Bộ và cơ quan Bộ đến Tổng cục Hậu cần đã sẵn sàng tiếp nhận trang bị, khí tài, vũ khí của Liên Xô, Trung Quốc viện trợ cho ta. Ta có đủ trình độ để làm việc với đội ngũ chuyên gia bạn xây dựng quân đội ta hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lúc bấy giờ. Kết quả là từ năm 1964 đến những năm 1968, 1972 ta đã đánh thắng Mỹ trong chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và đã gửi vào miền Nam nhiều cán bộ có trình độ để xây dựng quân đội trưởng thành. Từ năm 1972 đến nằm 1975, ta đã chuẩn bị hoàn chỉnh cán bộ các quân đoàn, các quân binh chủng kỹ thuật để đi đến Tổng tiến công mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bây giờ suy ngẫm lại, tôi mới thấm thìa sự sáng suốt của Bộ Chính trị, của Tổng Quân ủy đã có tầm lãnh đạo, nhìn xa trông rộng và sự chỉ đạo chặt chẽ của Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu và tinh thần chấp hành triệt để của Cục Cán bộ. Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị đã nhìn trước 10 năm, 15 năm, 20 năm sau, từ khi quân đội ta tập kết đến khi chúng ta giành thắng lợi hoàn toàn. Tóm lại có thể nói từ năm 1960 đến năm 1975 công tác cán bộ đã góp một phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam cũng như ở miền Bắc để đi đến thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 01:47:53 pm Kỷ niệm thứ hai NHANH HAY CHẬM Năm 1958, chấp hành nghị quyết của Bộ Chính trị về xây dựng quân đội chính quy hiện đại, Tổng Quân ủy chủ trương trao quân hàm lần đầu tiên cho đội ngũ cán bộ. Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Cán bộ, Tổng cục Chính trị chỉ đạo việc thực hiện. Mùa hè năm 1958 đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Phó bí thư Tổng Quân ủy - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cùng đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Cục trưởng Cục Điều động - Đề bạt, đồng chí Trần Hoài Ân, Cục phó và các trưởng phó phòng trong Cục Điều động - Đề bạt; Phòng Quân sự có đồng chí Võ Văn Thạnh, Lương Hữu Dụ; Phòng Chính trị có đồng chí Đặng Hòa, Nguyễn Ích; Phòng Quân chủng - Hậu cần có đồng chí Trần Đình Cửu, đồng chí Nguyễn Đức Phương. Tất cả ra Đồ Sơn, nhà nghỉ của Tổng Quân ủy, để họp thông qua cụ thể nhân sự. Cuộc họp 10 ngày do đồng chí Nguyễn Chí Thanh chủ trì. Kế hoạch làm việc rất kỹ, các trưởng phó phòng phải chuẩn bị rất chu đáo, nhận xét, đánh giá, đề nghị từng cán bộ trung đoàn trở lên để báo cáo với đồng chí chủ nhiệm. Mỗi cán bộ chỉ được báo cáo từ 5 phút đến 10 phút vì trước đó thủ trưởng Cục Điều động - Đề bạt, anh Mậu, anh Ân đã làm việc với các đồng chí trưởng phó phòng để chuẩn bị báo cáo Tổng cục. Sau khi báo cáo, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục hỏi các phòng trả lời rồi đi đến quyết định. Tôi nhớ một kỷ niệm. Hôm đó, đến phần đề bạt quân hàm cán bộ hậu cần, đồng chí Nguyễn Đức Phương phó phòng báo cáo một đồng chí cán bộ chủ nhiệm hậu cần sư đoàn và đề nghị trao quân hàm trung tá, sau đó đồng chí có thêm một câu "đồng chí này đề bạt hơi nhanh". Đồng chí Nguyễn Chí Thanh liền hỏi: đồng chí nói cái gì? Một đồng chí cán bộ thành phần cơ bản, đã qua thử thách chiến đấu, đã qua các chiến dịch và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đạo đức tốt nay được trao quân hàm trung tá, không phải là nhanh. Nhanh hay chậm là do quan điểm đánh giá, nhận xét cán bộ của ta, phải quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng, quan điểm phát triển để đánh giá cán bộ. Phải căn cứ vào đức tài và nhu cầu để giao nhiệm vụ và đề bạt, không lệ thuộc đơn thuần vào thời gian giữ cấp, chức. Do thế ta mới sớm có được đội ngũ cán bộ chủ trì tốt. Đồng chí có biết không, trong cách mạng, ngày hôm trước một đồng chí là công nhân, hôm sau cách mạng thắng lợi, đồng chí ấy đã trở thành là chủ tịch nước, là tổng thống của một nước. Chúng tôi, các cán bộ trưởng phó phòng lúc đó được một bài học sâu sắc về nhận xét, đánh giá, bồi dưỡng đề bạt cán bộ theo quan điểm cách mạng, quan điểm phát triển và đó là một kỷ niệm mà chúng tôi nhớ mãi trong đời làm công tác cán bộ. Kỷ niệm thứ ba BÁM SÁT CHIẾN TRƯỜNG Dưới sự chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của thủ trưởng Tổng cục Chính trị, Cục Cán bộ luôn đi sát các chiến trường để tìm hiểu cán bộ. Ngay từ khi mới về cục, chúng tôi đã được giáo dục: muốn hiểu cán bộ, đánh giá đúng cán bộ phải biết mặt, biết người, biết công việc, biết kết quả thực hiện nhiệm vụ và phải sâu sát cán bộ. Quán triệt tư tưởng đó, Cục Cán bộ từ năm 1961 đến năm 1975 đã nhiều lần cử cán bộ đi chiến trường miền Nam, có lần có cả thủ trưởng Tổng cục Chính trị cùng đi, rồi đến thủ trưởng cục, các đồng chí trưởng phó phòng và các cán bộ trong cục. Năm 1961, Tổng cục Chính trị đã đưa một số cán bộ ở Cục Cán bộ vào miền Nam theo đoàn cán bộ bổ sung cho miền Nam. Đó là đoàn Phương Đông, do anh Trần Văn Quang dẫn đầu, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Quảng phó phòng cán bộ quân sự, sau này là phó chủ nhiệm chính trị Miền, đồng chí Phan Văn Mỹ sau này là trưởng phòng cán bộ B2. Năm 1963 - 1964 Tổng cục Chính trị đã cử một đoàn cán bộ gồm các cục vào Khu 5. Đoàn gồm các đồng chí Trần Đình Cửu - Cục phó Cục Cán bộ làm trưởng đoàn, Nguyễn Mạnh Ái, Cục phó Cục Bảo vệ, Nguyễn Như Ngà, Cục phổ Cục Tổ chức, Nguyễn Quang Minh - phó phòng Cục Tuyên huấn, có cả Bùi Tín bấy giờ là phó phòng tuyên huấn cùng đi, đồng chí Cục phó Cục Dân quân và một số đồng chí khác. Đoàn đã đi vào tiếp xúc với cán bộ ở Quân khu 5, từ cán bộ các công trường, lúc đó là bí danh các trung đoàn chủ lực của khu, đến các tỉnh như Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, xuống tận huyện Đức Phổ để nắm chắc các cán bộ. Gần một năm sâu sát cán bộ, đoàn đã tìm hiểu được cán bộ chủ lực, địa phương, dân quân và tâm tư nguyện vọng của cán bộ. Đoàn đã khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, không ngại gian nguy, có lần trong trận càn Đỗ Xá, là trận càn lớn nhất của địch vào căn cứ địa Khu 5 năm 1964, đoàn cũng vượt qua. Đoàn đã làm việc với các đồng chí Nguyễn Đôn - Tư lệnh quân khu, Đoàn Khuê - Phó chính ủy quân khu, Đặng Hòa (tức Vân) - Chủ nhiệm chính trị quân khu, Mai Tân - Phó chủ nhiệm chính trị quân khu. Chuyến đi vào Khu 5 gần một năm đã tích lũy cho cán bộ của Cục Cán bộ sự hiểu biết về cán bộ và đặc điểm chiến trường Khu 5, khi về đoàn đã báo cáo trực tiếp với đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Năm 1972, đồng chí Nguyễn Ngọc Diệp - Cục phó Cục Cán bộ và một số cán bộ trong cục đã đi theo đồng chí Song Hào - Chủ nhiệm tổng cục, đồng chí Lê Quang Đạo - Phó chủ nhiệm tổng cục vào chiến dịch Quảng Trị để bám sát chiến trường tìm hiểu cán bộ trong chiến dịch Quảng Trị. Năm 1973 - 1974, đồng chí Phó chủ nhiệm Tổng cục Phạm Ngọc Mậu và đồng chí Cục phó Nguyễn Ngọc Diệp đã đi vào Tây Nguyên, Khu 5 và Nam Bộ để tìm hiểu sâu sát đội ngũ cán bộ. Ngoài thủ trưởng tổng cục và cục ra, các đồng chí trưởng phó phòng như Hồ Xuân Lựu, Trần Khôi và một số đồng chí khác cũng vào đến Nam Bộ để nắm đội ngũ cán bộ và bồi dưỡng nghiệp vụ cho ngành cán bộ của Miền. Đến năm 1974 - 1975, Tổng cục Chính trị lại cử một đoàn cán bộ do đồng chí Nguyễn Văn Lân - Cục trưởng Cục Tổ chức làm trưởng đoàn, đồng chí Cửu - Cục phó Cục Cán bộ làm phó đoàn và đồng chí Trần Hữu Nghĩa cán bộ của cục đi vào Miền để tìm hiểu tình hình cán bộ, chuẩn bị cho quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Có thể nói Tổng cục Chính trị đã bám sát chiến trường để hiểu cán bộ, để có thể làm tham mưu cho Quân ủy Trung ương về công tác cán bộ. Ngoài số cán bộ của cục đi công tác ở chiến trường, tổng cục còn cử một số cán bộ trước đây là trưởng phòng cán bộ các sư đoàn, quân khu tăng cường cho các "bê" (B): B4, B1, B3, B2. Ở B4, có đồng chí Võ Phi Trắng (tức Vũ Thắng) trước là trưởng phòng cán bộ sư đoàn 325, vào B4 làm chủ nhiệm chính trị và sau này đồng chí làm bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên. Ở B1, đồng chí Đặng Hòa vào làm chủ nhiệm chính trị Khu 5, đồng chí Mai Tân nguyên là phó phòng cán bộ Quân khu 4 làm phó chủ nhiệm chính trị quân khu. Ở B3, có đồng chí Trần Xuân Lư làm chủ nhiệm chính trị B3. Đồng chí Nguyễn Văn Quảng vào làm phó chủ nhiệm chính trị ở chiến trường Miền, đồng chí Phan Văn Mỹ làm trưởng phòng cán bộ B2. Nhờ vậy nên công tác cán bộ được các đồng chí chú ý và liên lạc chặt chẽ với Cục Cán bộ, công tác cán bộ bám sát được chiến trường, phục vụ cho Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị bổ nhiệm, sắp xếp, đề bạt tương đối kịp thời và chính xác. Ngay sau khi thắng lợi của đại thắng mùa xuân, tháng 12 năm 1975 Tổng cục lại cử đồng chí Trần Đình Cửu - Cục phó Cục Cán bộ tham gia đoàn của Bộ do đồng chí Lê Ngọc Hiền - Tổng tham mưu phó làm trưởng đoàn. Trong đoàn, có Cục Cán bộ, Cục Chính sách Tư lệnh Binh chủng Hóa học Đặng Quân Thụy, Quân chủng Không quân có đồng chí Nguyễn Hồng Nhị và một số cán bộ của các cục khác. Đoàn đã đi 18 ngày liền trên biển ra các đảo trong cụm quần đảo Trường Sa để chuyển lẵng hoa và Thư chúc tết của Bác Tôn đến cán bộ, chiến sĩ ở quần đảo Trường Sa và tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, đời sống của cán bộ, chiến sĩ của quần đảo khi mới giải phóng. Tóm lại, trong chiến tranh, Cục Cán bộ đã đến với các nơi khó khăn ác liệt để tìm hiểu cán bộ để biết cán bộ, do đó đã góp phần làm tốt công tác tham mưu cho Tổng cục Chính trị và Quân ủy Trung ương về công tác cán bộ. Kỷ niệm thứ tư SÂU ĐẬM TÌNH NGHĨA QUỐC TẾ "Việt - Lào hai nước chúng ta, Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long" Quý IV năm 1974, theo yêu cầu của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào, Tổng cục Chính trị ta cử các đoàn cán bộ sang báo cáo kinh nghiệm về công tác đảng - công tác chính trị với lãnh đạo tổng cục bạn. Đoàn Cục Tuyên huấn, do đồng chí Cục trưởng Nguyễn Trọng Yên làm trưởng đoàn. Đoàn Cục Tổ chức, do Cục phó Đặng Hữu Lộc (tức Lộc Bi) làm trưởng đoàn. Đoàn Cục Cán bộ do đồng chí Trần Đình Cửu - Cục phó Cục Cán bộ làm trưởng đoàn, có đồng chí Nghiêm Kỷ phòng kế hoạch cùng đi. Trong một tuần lễ, đoàn cán bộ đã báo cáo kinh nghiệm công tác cán bộ trực tiếp với đồng chí Sa-mán Vi-nha-khẹt; đồng chí Chăn-co, Cục phó Cục Cán bộ; đồng chí Mết, Cục phó Cục Tổ chức và một số đồng chí khác. Nội dung báo cáo kinh nghiêm tương đối toàn diện, từ đường lối cán bộ, phương hướng giai cấp, tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ, nguồn cán bộ, công tác quản lý cán bộ, công tác bổ nhiệm, sắp xếp đề bạt cán bộ, công tác trao quân hàm, công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ, công tác chính sách bảo dưỡng cán bộ, công tác hồ sơ cán bộ, v.v... Các đồng chí lãnh đạo tổng cục bạn và các đồng chí thủ trưởng các cục thuộc Tổng cục Chính trị quân đội của bạn rất hoan nghênh những kinh nghiêm ta đã báo cáo. Bạn rất trọng thị đoàn cán bộ, tiếp đoàn ở nhà khách đặc biệt, nơi mà trước đây đã đón tiếp đồng chí Lê Duẩn. Hàng ngày đồng chí Sa-mán Vi-nha-khẹt ăn cơm với đoàn rất thân tình. Sau khi làm việc, đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Khăm-tày Xi-phăn-đon đã tiếp đồng chí đoàn trưởng, nghe báo cáo một số ý kiến, hứa sẽ trực tiếp nghe ghi âm lại kinh nghiệm công tác cán bộ của quân đội ta. Trong buổi tiễn đưa đoàn, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon, đồng chí Sa-mán Vi-nha-khẹt đã chủ trì tổ chức một cuộc tiễn đưa đoàn rất thân tình theo kiểu dân tộc Lào, tổ chức một buổi tiệc ăn thịt dê và ăn theo lối dân tộc tức là dùng tay trực tiếp, chứ không dùng đũa, tình cảm quốc tế rất sâu đậm. Sau này, đồng chí Ô-xa-căn, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lào có lần vào thăm Quân khu 7, gặp lại tôi, đồng chí nhắc lại tình cảm quốc tế và đánh giá cao những kinh nghiệm về công tác tuyên huấn, công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác cán bộ mà Tổng cục Chính trị của ta đã cử cán bộ sang báo cáo. Trên đây là một số kỷ niệm đáng ghi nhớ. Mong rằng những kỷ niệm này đóng góp được một phần nhỏ vào tập sưu tầm tư liệu để nêu ra được những kinh nghiệm của Cục Cán bộ ta. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 13 Tháng Mười, 2022, 01:49:59 pm MẤY ĐIỂM RÚT RA TỪ CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA CƠ QUAN CÁN BỘ Thiếu tướng ĐOÀN QUANG THÌN Nguyên quyền Cục trưởng Cục Cán bộ 1. Chuẩn bị chiến tranh, hay chiến tranh đang phát triển, việc xây dựng lực lượng là cấp bách, xây dựng lực lượng trong hòa bình là để chuẩn bị cho chiến tranh xảy ra. Cơ quan cán bộ phải kịp thời tổ chức và kiện toàn tổ chức, vì khi nhiệm vụ chính trị đã thay đổi thì tổ chức phải thay đổi kịp thời. Về quy mô và hình thức tổ chức số lượng - chất lượng cần bảo đảm nhiệm vụ chính trị. Số lượng cơ quan cán bộ tăng hay giảm là tùy thuộc vào năng lực trình độ cán bộ quyết định. 2. Về nguyên tắc, tổ chức cán bộ của Đảng ta là cấp ủy trực tiếp lãnh đạo công tác cán bộ. Cấp trên chỉ đạo cấp dưới trở thành một hệ thống về nghiệp vụ từ trung ương đến cơ sở. Ngành nghiệp vụ cán bộ phải chuyên môn hóa. Càng hiện đại thì càng phải chuyên môn sâu. Bất cứ giai đoạn nào, quân đội nào cũng phải có cơ quan quản lý nhân sự, cơ quan cán bộ là một bộ phận quan trọng nhất về quản lý nhân sự cán bộ. 3. Cơ quan cán bộ là cơ quan tham mưu cho cấp ủy "về chiến lược con người". Nếu tuyển chọn và sắp xếp không đúng, cán bộ càng cao, trọng trách càng lớn thì nguy hại càng to. Ví dụ: một cán bộ có đạo đức năng lực chỉ đương nhiệm ở cấp tiểu đoàn nay mạnh dạn đề bạt lên cấp trung đoàn, do tuyển chọn và sắp xếp không đúng thì hậu quả ra chiến trường chỉ huy sẽ gây ra thương vong lớn, hoặc thất bại là lẽ thường. 4. Đặc trưng nghiệp vụ của cơ quan cán bộ là "vừa thiết kế, vừa thi công". Sau khi tổ chức biên chế đã được duyệt thì cùng với các cơ quan chức năng phải sắp xếp tổ chức và sắp xếp cán bộ. Bất cứ giai đoạn nào lực lượng quân đội cũng có tăng, có giảm, trong hòa bình cũng như lúc chiến tranh. Về mặt chiến lược phải dự toán cho chính xác để chủ động đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu về cán bộ. Ở nước ta khi tình hình chiến sự xảy ra ở A, B, C, K phải nghiên cứu đối tượng tác chiến Pháp - Mỹ - ngụy đang sử dụng vũ khí gì, chiến lược, chiến thuật gì trên 4 chiến trường ra sao? Bộ Tổng Tham mưu báo cáo lên Trung ương và Quân ủy Trung ương ra nghị quyết tổ chức và sắp xếp cán bộ. Nếu không quán triệt được nghị quyết để hiểu tình hình địch, tình hình ta cho chính xác thì làm sao tính toán được để lập kế hoạch 5 năm? Ở các nước hiện đại như Liên Xô, Đức, ngoài kế hoạch 5 năm, họ còn dự tính kế hoạch phát triển từ 10 đến 20 năm. Ở Liên Xô, Lê-nin đã phác họa kế hoạch xây dựng quân đội 20 năm: 1. Từ Bạch quân thành Hồng quân hóa. 2. Hồng quân cơ giới hóa. 3. Hồng quân hạm đội hóa - không quân hóa. 4. Hồng quân tên lửa hóa. 5. Hồng quân nguyên tử hóa. Những kế hoạch 5 năm đều nằm trong kế hoạch của nền kinh tế quốc dân tăng trưởng, ngân sách chi phí về an ninh và quốc phòng. Trong chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, Đảng chủ trương tranh thủ viện trợ bên ngoài để trang bị vũ khí. Nhưng điều quan trọng bậc nhất là vấn đề ta phải đào tạo cán bộ. Tức là đào tạo con người nắm vũ khí hiện đại. Ta đã chuẩn bị 10 năm mới có cán bộ đánh Mỹ - ngụy trên 4 chiến trường, đặc biệt chiến thắng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và chiến tranh cục bộ ở miền Nam, ở Lào và Cam-pu-chia. Muốn đào tạo và sử dụng đúng cán bộ, phải nắm chắc tình hình, dự đoán được nhu cầu phát triển trước mắt và lâu dài, trên cơ sở nền kinh tế - xã hội của đất nước. Ta đã có kinh nghiệm: do không nghiên cứu kỹ nên có thời kỳ ta gửi cán bộ sang Liên Xô học để về thành lập trung đoàn đường sắt, song phải giải thể vì đường sắt ta phá hoại rồi còn đâu! Hoặc cử cán bộ đi học để về thành lập lữ đoàn nhảy dù, nhưng lại không dùng, phải chuyển sang thành lập Binh chủng Đặc công, v.v... Đó là một bài học kinh nghiệm. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười, 2022, 04:39:17 pm NIỀM TỰ HÀO ĐƯỢC SỐNG VÀ LÀM VIỆC Ở CỤC CÁN BỘ Thiếu tướng LÊ ĐÌNH SỐ Nguyên Cục trưởng Cục Cán bộ Năm 1961 tôi nhận quyết định về Cục Cán bộ, nhưng thực ra tôi đã làm việc của Cục Cán bộ từ năm 1956 khi tôi được trên điều từ trưởng ban tổ chức cán bộ (lúc ấy tổ chức và cán bộ là một) sư đoàn pháo binh sang Bắc Kinh (Trung Quốc) làm nhiệm vụ quản lý học sinh quân sự Việt Nam tại Trung Quốc. Chủ trương của trên lúc này là khẩn trương tranh thủ thời gian sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ đưa cán bộ quân đội sang học tập ở nước bạn để nâng cao trình độ mà trong thời gian kháng chiến ta chưa có điều kiện và khi hòa bình mới lập lại ta chưa đủ giáo viên, trường sở để tổ chức học tập. Trong thời gian từ năm 1956 đến năm 1960, thường xuyên ta có ở Trung Quốc hơn 30 đoàn với trên dưới 800 học sinh từ cao cấp đến sơ cấp, từ tướng lĩnh đến binh nhì, từ đào tạo bổ túc đến nghiên cứu ngắn hạn, đủ các quân binh chủng, các ngành nghề chuyên môn, kỹ thuật ở hầu khắp các địa phương của Trung Quốc. Thời gian này Trung Quốc gặp nhiều khó khăn về lương thực, đói kém, nhất là quãng từ năm 1958 đến năm 1960. Anh em ta vừa mới kết thúc chiến tranh, chưa kịp ổn định hậu phương gia đình, sức khỏe, văn hóa, ngoại ngữ lại hạn chế... nhưng quán triệt được chủ trương, ý định của trên nên tinh thần quyết tâm khắc phục khó khăn để học tập rất cao. Tuy vậy, không phải không có chuyện gay cấn nội bộ, ở nơi này, nơi khác có đồng chí cán bộ cao cấp phát ngôn vô tổ chức. Quân ủy phải gọi về nước thi hành kỷ luật và không cho sang học nữa. Nhưng đó đều là vấn đề nội bộ, mà vấn đề nội bộ thì do Việt Nam giải quyết chứ bạn không can thiệp. Còn đối với bạn thì anh em quan hệ, giữ gìn rất tốt, không xảy ra trường hợp nào va chạm với lãnh đạo và học sinh các trường của bạn. Thực phẩm khó khăn tới mức ở một học viện có học sinh Việt Nam học, đồng chí chính ủy học viện báo cáo tổng kết đã nêu một kinh nghiệm nuôi quân "xào rau không cần dầu mỡ!" (thực ra là không có chứ không phải không cần). Những cán bộ đã qua học tập ở Trung Quốc, sau này rất nhiều anh em đều phát huy tốt vai trò của mình. Cơ bản là do Đảng ta lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện nhưng cũng có sự giúp đỡ của Trung Quốc lúc bấy giờ. Quân ủy Trung ương mạnh dạn đưa cán bộ đi học, đồng thời luôn luôn nhắc nhở: tiếp thu kiến thức của bạn nhưng phải vận dụng đúng với kinh nghiệm và thực tiễn của ta. Tôi nhớ mãi như một kỷ niệm về hành trang "xuất ngoại" của mình: được Bộ Quốc phòng cấp cho một bộ quần áo ka ki màu vàng (màu của công an lúc bấy giờ) và một bộ vải sợi nhuộm tím, với một mảnh vải trắng để gói và một cuộn dây để buộc thay va-li. Sang đến Bắc Kinh, đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc nói "ở đây không ai mặc của này, bỏ đi thôi!". Có lần tôi từ Bắc Kinh xuống Nam Kinh nắm tình hình học sinh Việt Nam tại trường Tổng cao Trung Quốc, Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Trung Quốc điện báo cho trường đón tiếp đồng chí "Vũ quan" Việt Nam xuống làm việc. Thượng tướng hiệu trưởng Tống Thời Luân trịnh trọng cử một thượng tá cán bộ nhà trường đi đón tôi trên đường từ Bắc Kinh xuống (đi tàu hỏa). Đồng chí thượng tá lên tàu hỏa tìm khắp các toa không thấy tôi. Về đến ga Nam Kinh, đồng chí xuống tàu đã thấy tôi đang gặp gỡ các đồng chí thủ trưởng của trường ra đón. Sau đó tôi được biết là đồng chí thượng tá bị hiệu trưởng thi hành kỷ luật vì không làm tròn nhiệm vụ! Vì sao đồng chí ấy không tìm thấy tôi? Vì đồng chí ấy chỉ tìm ở các toa ghế mềm, chứ không ngờ rằng đồng chí "Vũ quan" Việt Nam lại nằm ở toa ghế cứng! Tôi viết thư kể chuyện này về Cục Cán bộ, từ đó Bộ Quốc phòng cho phép tôi đi công tác trên đất Trung Quốc bằng tàu hỏa thì được vé ghế mềm. Thời gian công tác ở Trung Quốc từ năm 1956 đến năm 1959 vẫn không có lương, chỉ được cung cấp ăn và mỗi tháng được 5 đồng nhân dân tệ tiêu vặt. Những năm Trung Quốc đói kém, để đồng cam cộng khổ, cán bộ, nhân viên sứ quán (trong đó có tôi) mỗi tuần ăn một bữa cháo để tiết kiệm gạo (cháo thật sự chứ không phải cháo gà như người ta thường nói). 1961 - 1964: Năm 1961 từ Bắc Kinh tôi được điều về Hà Nội làm phó phòng quản lý cán bộ chính trị, thuộc Cục Cán bộ. Quãng thời gian này, về công tác cán bộ nổi lên mấy vấn đề: - Tiếp tục cao trào bổ túc văn hóa cho cán bộ. Đội ngũ cán bộ trong kháng chiến chống Pháp của chúng ta hầu hết xuất thân từ công nông dưới chế độ thực dân phong kiến, trình độ văn hóa rất thấp, trong kháng chiến bận chiến đấu ít được học hành. Nay xây dựng quân đội chính quy, từng bước hiện đại, yêu cầu phải có trình độ văn hóa thích ứng, nên Bộ chủ trương phát động cao trào học tập văn hóa cho cán bộ là chính xác và cấp bách. Kỷ luật học văn hóa rất nghiêm, từ thủ trưởng tổng cục cho đến trợ lý, ai thuộc diện phải bồi dưỡng văn hóa thì đều phải học, vô cớ bỏ học là thi hành kỷ luật. Cục trưởng Trần Hoài Ân ban ngày lên lớp nghe giảng, tối về nhờ công vụ làm bài giúp để sáng mai nộp cho giáo viên. Đồng chí Nguyễn Văn Hãnh gọi đi kiểm tra bài, phần bận việc, phần học kém, bực bội trả lời: "ông đi học cho là phúc rồi còn kiểm tra gì nữa"! Nói vậy nhưng vẫn phải đi, sợ bị kỷ luật. - Thời kỳ này vừa phải có đủ cán bộ cho lực lượng hiện có vừa phải chuẩn bị sẵn sàng cho yêu cầu mở rộng lực lượng đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam. Đường lối cán bộ là "lấy công nông làm cốt cán", mạnh dạn bồi dưỡng đề bạt cán bộ công nông. Tuy nhiên vẫn bị cản trở bởi tư tưởng hẹp hòi, bảo thủ... nên mới có phương châm chỉ đạo "chọn cột cờ trong bó đũa", "thà yếu còn hơn thiếu", "thà thiếu còn hơn ẩu". Nhờ có chủ trương này đã phát triển được đội ngũ cán bộ, từ năm 1960 đến năm 1965 đã tăng lên hàng chục vạn cán bộ. Chủ trương mạnh dạn bồi dưỡng đề bạt công nông là chính xác, đội ngũ phát triển vững vàng, tuy nhiên cũng không tránh khỏi có những trường hợp khi cất nhắc nặng về thành phần xuất thân mà nhẹ về tiêu chuẩn, cán bộ cứ nói mãi về một số trường hợp cụ thể... xem đó như là thành phần chủ nghĩa. Đội ngũ cán bộ chính trị lúc này chiếm tỷ lệ khoảng 20% tổng số cán bộ. Phòng quản lý cán bộ chính trị lúc này có các đồng chí: Nguyễn Ích trưởng phòng, Lê Đình Số phó phòng, các trợ lý Hữu Hùng, Đức Quang, Lê Tâm, Cù Văn Mọc, Phạm Bời, Lê Tiến, Trần Đức Long... anh em làm việc đều tay, cần cù, tận tụy. Thuộc lòng cả lý lịch, cả nhận xét ưu khuyết điểm, biết mặt, biết người từ thiếu tá trở lên. Phạm Bời khi đã có kèn tắt đèn đi ngủ vẫn trùm chăn bật đèn nghiên cứu hồ sơ cán bộ. Tôi nhớ về Phạm Bời, một cán bộ Nam Bộ tập kết, không rượu, không trà, không thuốc. Ngoài giờ làm việc chỉ cái xẻng cái cuốc trong tay trồng rau, trồng sắn cho anh em cải thiện. Vào một buổi tối, trăng sáng, trời đẹp, tôi và Cù Văn Mọc rủ nhau đi dạo công viên Thống Nhất. Mua một quả dưa hấu, hai anh em ngồi dưới lùm cây, vừa ăn vừa trao đổi tìm một trưởng phòng cho Báo Quân đội nhân dân (đây là một vị trí khó tìm). Sau một hồi bàn bạc nhiều phương án, đi đến quyết tâm điều đồng chí Đào Toán thuộc sư đoàn 308. Hôm sau báo cáo Tổng cục, được Tổng cục chấp thuận. Vậy là cả lúc ngủ, lúc chơi vẫn không rời công việc. Nhiệt tình lúc ấy sao mà cao đến thế! Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười, 2022, 04:40:10 pm Năm 1965: Ở thời điểm này việc vận chuyển cán bộ, chiến sĩ, vũ khí đạn dược, lương thực thực phẩm từ Bắc vào chi viện cho miền Nam chiến đấu ngày càng nhiều. Đoàn 559 do đồng chí Võ Bẩm làm đoàn trưởng đảm đương nhiệm vụ này. Tổng cục Chính trị cử một đoàn cán bộ có nhiệm vụ kiểm tra tình hình và hướng dẫn tiến hành công tác đảng - công tác chính trị, công tác cán bộ cho các đơn vị toàn tuyến đường dây 559. Đoàn gồm đồng chí Nguyễn Chỉ, Cục phó Cục Bảo vệ làm trưởng đoàn, Lê Đình Số phó đoàn và các đồng chí Hoàng Kim (tuyên huấn), Nhật Quang (tổ chức), Ngô Ry (dân vận). Gần một năm trời đi suốt đường dây, gian lao vất vả, ăn đói mặc rét; bom đạn địch từ máy bay bắn phá đường dây ngày nào cũng gặp. Một hôm hành quân đến bờ sông Bạc, trời đã tối, đoàn ngủ lại một trạm giao liên để sáng sớm mai vượt sông. Khoảng 4 giờ sáng vẫn đang ngủ mệt, nghe tiếng dao thớt lắc cắc, tỉnh giấc nghĩ bụng mừng thầm chắc có món cá thịt gì đây. Khi ăn cơm, trạm trưởng bưng ra một đĩa nói: "chẳng mấy khi các thủ trưởng qua đây, nhưng nơi này khó khăn quá, anh em kiếm được mấy quả sung xanh mời các thủ trưởng ăn tạm". Thì ra tiếng lắc cắc ban nãy là tiếng thái sung xanh! Buồn cười và thất vọng! Lại một hôm trên đường đi thấy có nhiều lá lốt, bảo nhau hái mỗi người một nắm, trưa dừng lại nấu cơm và canh lá lốt (nấu với mắm kem có tí mì chính). Vừa đói vừa mệt, mọi người chờ đợi món canh, nào ngờ Ngô Ry bưng nồi canh trượt tay đánh đổ, ai nấy chưng hửng. Lúc ấy sao mà ghét Ngô Ry đến thế. Bực mình nhưng kiềm chế giỏi, chẳng ai nói gì, còn Ngô Ry thì tỏ ra hối hận. Tuy vậy, thỉnh thoảng vận may cũng được bữa "ấm chân răng". Hôm đến ban chỉ huy tuyến ba (đồng chí Nguyễn An tuyến trưởng, đồng chí Phạm Hương chính ủy), đêm trước anh em ở đây bắn được con nai, bọn tôi được một bữa ăn thỏa thích, lại còn dúi cho một gói đi đường. Những ngày tháng ở đường Trường Sơn này càng thấy rõ lòng yêu nước, quyết tâm đánh Mỹ giải phóng miền Nam của Đảng đã được thấm sâu vào lòng quân dân ta như thế nào. Những cô gái thanh niên xung phong tuổi mười tám, đôi mươi làm đường, tải đạn... tóc rụng, da xanh, đầy mình những sẹo ve châm, ong đốt. Trên đường hành quân, nườm nượp ngày đêm từng đoàn cán bộ quân, dân, chính, đảng... có người đầu tóc bạc phơ, vai mang nặng, tay chống gậy lội suối leo đèo đi vào miền Nam đánh Mỹ. So với mọi người mình cũng chưa thấm vào đâu. Và cũng ở nơi này, thấy tự hào rằng công tác cán bộ đã góp phần xây dựng thành công một đội ngũ những con người sẵn sàng xả thân như vậy. Nhiều cán bộ trên đường hành quân đã nói rằng "không sợ hy sinh ở chiến trường mà chỉ sợ hành quân trên đường Trường Sơn". Đường hành quân gian nan là vậy, nên công việc chuẩn bị cho cán bộ vào chiến trường cũng rất công phu. 1966 - 1969: Năm 1966 giặc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra toàn miền Bắc, mức độ ngày càng ác liệt. Lực lượng phòng không yêu cầu phát triển nhiều, nhanh, gấp. Tôi được trên điều động từ Cục Cán bộ ra làm chủ nhiệm chính trị sư đoàn phòng không 367 thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân. Sư đoàn 367 là sư đoàn cơ động của quân chủng gồm pháo phòng không và tên lửa hỗn hợp, có lúc biên chế đến 4, 5 trung đoàn. Nơi nào là trọng điểm đánh phá của địch thì sư đoàn cơ động đến để đối phó. Năm 1968 Quân chủng Phòng không - Không quân mở hội nghị tổng kết phong trào "cán bộ rèn luyện 4 tốt" toàn quân chủng. Tôi lúc đó là phó chính ủy sư đoàn 367 và đồng chí Phạm Bời chính ủy trung đoàn là hai cán bộ của Cục Cán bộ ra đơn vị được quân chủng chọn để báo cáo về thành tích rèn luyện của bản thân mình. Đồng chí Phạm Ngọc Mậu xuống dự đã biểu dương gương phấn đấu của chúng tôi. Tự hào rằng những cán bộ thuộc Cục Cán bộ dù ở cơ quan hay ra đơn vị đều hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, chúng tôi càng cảm thấy rất hạnh phúc được sống và làm việc ở môi trường Cục Cán bộ. Tháng 8 năm 1969 tôi lại được điều động từ sư đoàn 367 về làm Phó cục trưởng Cục Cán bộ, phụ trách nhân sự trung, sơ cấp và tham gia quản lý cán bộ cao cấp giúp đồng chí Cục trưởng Trần Hoài Ân. Về Cục Cán bộ được ít ngày thì một đau thương lớn đến với toàn dân tộc - Bác Hồ từ trần! Tôi được giao nhiệm vụ trực tiếp phục vụ lễ tang Bác tại hội trường Ba Đình, trong phạm vi thuộc Cục Cán bộ phụ trách; bao gồm việc điều động và điều hành hàng nghìn cán bộ từ cấp tướng đến cấp tá và anh hùng quân đội túc trực bên thi hài Bác, điều hành 24 đoàn đại biểu quân đội đủ các cấp, các thành phần vào viếng Bác, huy động trên hai trăm cán bộ phục vụ các nhu cầu khác cho lễ tang. Lo lắng nhất là việc túc trực bên thi hài Bác, phải chọn người có tư thế đẹp, không có bệnh tim, bệnh cao huyết áp, người dễ xúc động... Lo khi nhìn thấy Bác là khóc (phải hé màn cho anh em nhìn Bác trước rồi mới vào đứng trực), lo nhân dân đi viếng qua thi hài Bác, dân khóc, cán bộ túc trực cũng khóc theo, v.v... Tất cả những tác động ấy khiến cho cán bộ túc trực không đứng vững, ở sau màn phải thường xuyên quan sát, thấy triệu chứng sắp ngã là phải thay thế ngay. Lúc đầu quy định đứng 15 phút, sau rút xuống 10 phút, rồi 7 phút. Khi các đoàn thiếu nhi vào viếng Bác, các cháu khóc thảm thiết gọi Bác Hồ, cán bộ túc trực chỉ còn đứng nổi 5 phút, trong khi đứng nghiêm, nhìn thẳng mà nước mắt giàn giụa. Trong những ngày lễ tang Bác, tất cả anh em trong Cục Cán bộ từ đồng chí cục trưởng đến trợ lý hầu như không làm được gì về công tác thường xuyên mà đều được huy động vào phục vụ lễ tang Bác. Đến hàng tháng sau, lúc nào cũng thấy văng vẳng trong tai tiếng nhạc buồn! Tình cảm đối với Bác Hồ thật mênh mông sâu đậm. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười, 2022, 04:41:05 pm 1969 - 1975: Quãng thời gian 1969 - 1975 là thời kỳ cao điểm của kháng chiến chống Mỹ. Công tác cán bộ lúc này rộng lớn, khẩn trương phức tạp quá sức tưởng tượng. Từ 1965 đến 1975 tăng 20 vạn cán bộ, tập trung chủ yếu trong thời gian từ 1969 đến 1975. Trong thời gian này, ngoài nhu cầu đáp ứng cho miền Nam, dự trữ cho mở rộng lực lượng ở miền Bắc thì ở ngoài Bắc có hàng chục đoàn an dưỡng thương bệnh binh, thường xuyên có từ 5.000 đến 7.000 cán bộ điều dưỡng tại đây. Cục Cán bộ phải tổ chức thành các tổ cán bộ xuống từng đoàn an dưỡng, ở tại đó để giải quyết chính sách cho anh em. Sắp xếp công tác, nghỉ hưu, mất sức, phục viên, chuyển ngành và chuyển sang các đoàn thương binh nặng... Việc giải quyết này cũng rất khó khăn phức tạp về tư tưởng, về chính sách đối với anh em. Những cán bộ được cử đi làm nhiệm vụ này phải chuẩn bị tinh thần chịu đựng, phải hết sức kiên nhẫn, phải có kinh nghiệm công tác tư tưởng, tổ chức và chính sách. Việc giải quyết được tiến hành thường xuyên như vậy mà đến tháng 3 năm 1975 ở các đoàn vẫn còn hơn 7.000 cán bộ thương bệnh binh điều dưỡng. Đặc biệt sôi động từ ngày 10 tháng 3 năm 1975 khi ta giải phóng Buôn Ma Thuột cho đến 30 tháng 4 năm 1975 ta giải phóng Sài Gòn. Bừng bừng phấn khởi nhưng công việc cán bộ thì xoay như chong chóng, rối như canh hẹ (!). Tuy nhiên chẳng thấy ai kêu mệt và cũng chẳng còn thì giờ để mà mệt nữa. Đáp ứng cho các nhu cầu cán bộ lúc này bao gồm: - Bổ sung cho số thương vong trong chiến đấu. - Tiếp quản các địa bàn mới giải quyết (chưa điều kịp cán bộ cho nơi này thì nơi khác đã giải phóng tiếp). - Tiếp quản và sử dụng ngay các trang bị, kỹ thuật thu được của địch (khó nhất là không quân, hải quân). - Quản giáo tù hàng binh. - Đồng thời vẫn phải dự trữ cán bộ cho mở rộng lực lượng đề phòng tình huống phức tạp. Trong tháng 3 nám 1975 đã đáp ứng được cho chiến trường 11.350 cán bộ. Riêng nhu cầu cán bộ cho tiếp quản Sài Gòn gần 9.434 cán bộ (không kể các đơn vị chiến đấu) bao gồm: quân quản, trật tự an ninh, quản giáo tù binh (65.000 tù binh, trong đó có 1.393 sĩ quan ngụy); đăng ký sĩ quan ngụy trình diện, thu dọn chiến trường, tiếp quản các cơ quan của ngụy quyền Sài Gòn, v.v... Khó nhất vẫn là cán bộ và nhân viên kỹ thuật để tiếp quản và sử dụng trang bị không quân, hải quân của địch. Cục Cán bộ đã nghĩ đến việc sử dụng một số sĩ quan kỹ thuật của ngụy, nhưng về vấn đề này, Quân ủy Trung ương có chỉ thị riêng: Từ chuẩn úy ngụy trở lên đều phải cải tạo. Sĩ quan tâm lý chiến, bọn ác ôn phải tập trung giam giữ. Riêng binh lính ngụy cho về quê, nơi nào chưa giải phóng thì tổ chức cho lao động. Về vật chất cho ăn uống đủ, đối xử tử tế. Không đặt vấn đề lấy binh lính ngụy bổ sung quân số cho ta. Nhu cầu lớn và gấp gáp như vậy giải quyết thế nào? - Mạnh dạn đề bạt anh em ở các đơn vị chiến đấu và những anh em chuyên môn kỹ thuật đã qua đào tạo, bồi dưỡng. - Cán bộ trung đội thiếu thì đưa cán bộ tiểu đội lên phụ trách. - Lấy ở các đoàn an dưỡng thương binh ra. - Xin kỹ sư, bác sĩ ngoài các cơ quan nhà nước vào quân đội (riêng đợt tháng 3, tháng 4 năm 1975 huy động 300 bác sĩ, có cả một số sinh viên năm thứ 6 chưa thi tốt nghiệp và 470 kỹ sư). - Động viên sĩ quan dự bị vào, v.v... Ngày 11 tháng 4 năm 1975, trước khi bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp nói chuyện với cán bộ cơ quan Bộ Quốc phòng. Tôi xin trích lại đây những lời động viên cổ vũ náo nức lòng người của đồng chí: "... Chúng ta đang đứng trước những giờ phút lịch sử của dân tộc. Thời cơ chiến lược giải phóng Tổ quốc đã đến! Quân đội ta đang trên đường tiến công địch, cả nước đang ra trận để giải phóng Tổ quốc thân yêu của chúng ta! Cuộc tiến công Tây Nguyên đã phát triển thành Tổng tiến công. Bộ Chính trị ta là người tổ chức và lãnh đạo, đã chớp được thời cơ và triệt để lợi dụng thời cơ. Chưa bao giờ trong một thời gian ngắn như vậy mà ta giành được thắng lợi to lớn như vậy, địch trở tay không kịp, chúng bất ngờ đến choáng váng. Báo chí phương Tây bình luận: "Các nhà lãnh đạo Bắc Việt là bậc thầy về chớp thời cơ". Quyết tâm của Bộ Chính trị là tiếp tục tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Phải thần tốc, thần tốc, thần tốc - toàn thắng, toàn thắng, toàn thắng! Cách mạng miền Nam đang phát triển như triều dâng thác đổ, như gió giục mây vần. Thành phố Sài Gòn đang kêu gọi chúng ta". Công tác cán bộ trong những ngày này khẩn trương và phức tạp, nhưng được các thủ trưởng Tổng cục, trực tiếp là anh Song Hào, anh Phạm Ngọc Mậu chỉ đạo sát sao. Mọi cán bộ kể cả thương bệnh binh, sĩ quan dự bị, cán bộ nhà nước động viên vào bộ đội đều sẵn sàng, mong có lệnh là lên đường. Trong khí thế ấy anh em trong Cục Cán bộ làm việc chẳng kể ngày đêm, quên ăn quên ngủ với tinh thần thần tốc, toàn thắng. Ngày 30 tháng 4 lịch sử đã đến! Hồi hộp mà thanh thản, lo âu mà trên môi luôn nở nụ cười. Không ai còn làm được việc gì nữa, tất cả đều xúm quanh máy thu thanh, theo dõi từng cử động của quân đội ta ở Sài Gòn. 11 giờ 30 phút cờ Tổ quốc cắm trên dinh Độc Lập, tổng thống ngụy tuyên bố đầu hàng! Cả Hà Nội ầm ầm pháo nổ, hò reo vang dậy! Vui sao nước mắt lại trào! Phút vui mừng nhất cũng là phút thấy mình thấm mệt. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười, 2022, 04:41:41 pm * * * Công tác cán bộ sau giải phóng miền Nam vẫn còn nhiều việc phải làm. Như đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói trong bài nói ngày 11 tháng 4: "Dù thế nào chúng ta vẫn phải luôn luôn cảnh giác, không được chủ quan. Cho dù có giải quyết xong vấn đề quân sự cũng còn rất nhiều vấn đề khác của xã hội miền Nam phải giải quyết. Phải cải tạo làm sao cái xã hội tiêu phí, phục vụ chiến tranh? Tiếp quản một cái "thủ đô" của ngụy 3 triệu dân không đơn giản chút nào". Và từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho đến lúc tôi nghỉ hưu vẫn còn nhiều sự kiện về công tác cán bộ đáng nói và cần nói, nhưng hãy tạm dừng ở đây, xin chờ dịp khác. Bây giờ, với tất cả ý nghĩ chân thành và lòng trung thực, tôi xin nói lên một vài suy nghĩ của mình đối với các đồng chí thủ trưởng Tổng cục Chính trị đã trực tiếp chỉ đạo công tác cán bộ trong những năm tháng tôi ở Cục Cán bộ (tính đến năm 1975). Anh Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị là một người nghiêm túc, nghiêm túc trong công việc và nghiêm túc trong tư cách cá nhân. Anh rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, quan tâm việc chỉ đạo, hướng dẫn tổng kết, biên soạn các tài liệu nghiệp vụ công tác đảng - công tác chính trị, công tác cán bộ. Làm công tác nhân sự đã nhiều năm tôi chưa thấy một biểu hiện nào anh thành kiến, trù dập cá nhân cán bộ. Bề ngoài có vẻ khô khan nhưng lại hay hài hước. Một lần tôi báo cáo với anh tình hình tổng hợp phương án đề bạt quân hàm cấp thiếu tá, trung tá. Biết tính anh ưa cụ thể, chính xác, nên tôi chuẩn bị khá kỹ. Về mục sức khỏe, tôi phân tỷ lệ phần trăm loại A, loại B, loại sức khỏe kém lại phân số người mắc một bệnh, số người hai, ba bệnh... Anh cười và hỏi lại: Một bệnh như bệnh nhồi máu cơ tim thì sao! Tôi hiểu là anh có ý nhắc không nên máy móc, một bệnh không hẳn là nhẹ, hai ba bệnh không hẳn là nặng. Một chuyện khác. Khi mới giải phóng Sài Gòn, một cán bộ cấp cục thuộc cơ quan Tổng cục Chính trị đi chiếc ô tô du lịch vào cơ quan làm việc. Anh Song Hào đứng trên tầng hai nhà làm việc nhìn thấy, liền gọi đồng chí ấy lên hỏi xe nào? Đồng chí ấy nói xe của một đơn vị ở miền Nam tặng. Anh Song Hào chỉ thị phải đem trả lại ngay, không được nhận xe chiến lợi phẩm làm xe riêng của mình. Vài hôm sau anh Hào được biết chiếc xe đó đã được đưa gửi sang bên Tổng cục Hậu cần. Anh cho gọi đồng chí cán bộ đó đến và bất bình nói: "Tôi đã yêu cầu anh trả lại chiếc xe đó, chẳng những không trả, lại đem gửi sang cơ quan khác, anh đã bêu xấu Tổng cục Chính trị. Tôi lệnh cho anh phải trả ngay chiếc xe đó cho nơi nào đã tặng anh". Thái độ đó của đồng chí lãnh đạo đã làm cho cơ quan Tổng cục Chính trị giữ nghiêm được kỷ luật chiến lợi phẩm, tránh được tiếng xấu "đi bê" ("đi bê" tức là bê chiến lợi phẩm, chứ không phải đi B chiến đấu). Anh Phạm Ngọc Mậu, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị trực tiếp phụ trách công tác cán bộ. Tính tình thẳng thắn, ưa nói thẳng, nói rõ, không vòng vo, xa xôi. Yêu cầu đánh giá nhận xét cán bộ phải cụ thể, ưu khuyết phận minh, không được dùng từ ngữ mơ hồ, nước đôi. Sinh hoạt cá nhân mẫu mực. Tôi không thấy một biểu hiện nào thành kiến hoặc thiên vị cá nhân với cán bộ. Anh cũng có mấy người con trai ở quân đội, làm cán bộ, nhưng chưa bao giờ thấy anh nêu một yêu cầu nào với Cục Cán bộ về con cái của mình. Anh em thường kêu anh khó tính. Quả là có nóng nảy, nhưng cái chính là do anh nghiêm khắc trong công việc. Anh Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, không chuyên trách công tác cán bộ, nhưng khi anh Mậu vắng thì anh phụ trách thay. Tính tình anh thật dễ chịu. Nhìn anh lúc nào cũng thấy vui vẻ, thoải mái. Chưa bao giờ thấy anh cau có, gắt gỏng với cấp dưới. Trong công việc, anh ưa lý giải rõ ràng, không bao giờ anh quyết định một việc mà chưa được lý giải xác đáng. Anh có đặc tính là khi chất vấn cấp dưới điều gì, mà cấp dưới bí chưa trả lời được thì anh chủ động chuyển sang vấn đề khác chứ không dồn cho cấp dưới phải nói liều. Làm việc với anh Đạo, anh em cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái, nhưng không có nghĩa là được phép giản đơn trong chuẩn bị. Những năm sau này và hình như cả đến bây giờ nữa vẫn có một số cán bộ có ý oán trách anh Hào, anh Mậu là khắt khe, hẹp hòi, chậm đề bạt cán bộ, làm mai một tài năng cán bộ và thiệt thòi quyền lợi của anh em... Nếu điều đó có và xảy ra với một số ít người thì cũng là điều khó tránh khỏi đối với cả đội ngũ hàng chục vạn người, nhưng nếu nói đó là một vấn đề chung của công tác cán bộ thì cho đến nay cũng chưa có cấp nào, văn kiện nào tổng kết, nhận xét như vậy. Vả lại, nếu đã thành vấn đề chung thì một anh Song Hào, một anh Mậu làm sao có quyền quyết định được. Trên Tổng cục Chính trị còn có Bộ Quốc phòng, có Quân ủy Trung ương, có Ban Bí thư, Bộ Chính trị. Chiến tranh liên miên, chiến trường chia cắt. Ở miền Nam có Trung ương Cục, có Quân ủy Miền, được Trung ương và Quân ủy Trung ương giao quyền chỉ đạo trực tiếp. Đổ lỗi (nếu quả thật có lỗi) cho anh Hào, anh Mậu là không có cơ sở, không đúng nguyên tắc tổ chức và cũng thiếu cả lương tâm nữa. Có một số người cứ vin vào câu nói "một năm cũng không phải nhanh, mười năm cũng không phải chậm" của anh Mậu để phê phán. Đúng là anh Mậu có nói câu này, nhưng không phải nói để tự do tùy tiện mà nói có ý thế này: Trong chiến đấu những cán bộ chiến đấu dũng cảm, năng lực phát triển nhanh, quần chúng tín nhiệm, có nhu cầu thì một năm lên chức, lên cấp cũng xứng đáng. Còn những cán bộ thành tích, năng lực bình thường, cứ mỗi đợt xem xét đề bạt thì lại phạm sai lầm, khuyết điểm, thế thì đề bạt sao được, đưa lên quần chúng không đồng tình, phản tác dụng chính sách đề bạt. Đối với những trường hợp như vậy, có sai lầm chăng là ở chỗ không nên để những cán bộ như vậy ở lâu trong quân đội. Cũng có thời kỳ chậm đề bạt như sau khi làm quân hàm năm 1958, nhưng đó là tình hình chung chứ không riêng ai. Nếu hiểu sai câu nói của anh Mậu thì xin hiểu lại, còn nếu đã hiểu đúng mà vẫn cố tình phê phán thì là không thiện ý. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 23 Tháng Mười, 2022, 01:50:44 pm NHỮNG KỶ NIỆM KHÔNG THỂ NÀO QUÊN Thiếu tướng NGUYỄN NGỌC DIỆP Nguyên Phó cục trưởng Cục Cán bộ Tôi được điều về Cục Cán hộ Tổng cục Chính trị từ năm 1955. Đến năm 1977 được điều sang Cục Nhà trường. Tháng 2 năm 1979, theo nguyện vọng, tôi được điều ra một đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, chiến đấu ở biên giới phía Bắc. Như vậy, trong cả cuộc đời, gần nửa thế kỷ ở trong quân ngũ, tôi vinh dự đã có gần 25 năm làm công tác cán bộ (kể cả công tác nhà trường). Đó là không kể từ năm 1950 - 1953 làm trưởng tiểu ban tổ chức trung đoàn Ký Con (e66, f304) và từ năm 1980 đến năm 1991 làm bí thư Đảng ủy Học viện Quân y cũng có làm công tác cán bộ. Như vậy là trong gần 50 năm ở trong quân đội, thời gian công tác ở Cục Cán bộ (c85) là dài nhất và cũng có nhiều kỷ niệm sâu sắc nhất. Đảng bộ Cục Cán bộ, cấp trên trực tiếp và gián tiếp, toàn thể anh em các thế hệ kế tiếp nhau đã giúp đỡ tôi, giáo dục tôi, chỉ vẽ cho tôi từng hành động, cử chỉ, từng lời nói, việc làm. Mới vào ngành thấy cái gì cũng mới, cái gì cũng lạ. Lâu nay ở đơn vị chiến đấu cấp chiến thuật chỉ biết nắm quân, luyện quân, đánh giặc. Trên chỉ đâu đánh đó. Trước khi đánh, đã được cấp trên hướng dẫn, diễn tập cách đánh kỹ càng. Nào có ai dạy cho mình biết công tác cán bộ là công tác con người, có liên quan đến thành bại của cách mạng. Câu đầu tiên khi mới về Cục Cán bộ được học là "cán bộ quyết định tất cả" (Xta-lin). Thế rồi từng bước, từng bước được sự dìu dắt của tập thể và thủ trưởng, tôi lớn dần lên. Tôi được làm việc với nhiều đồng chí cấp trên, trong đó có đồng chí cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Có thể nói đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc nhất. Tôi được giao viết tổng kết công tác cán bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Đồng chí nói: "Cậu viết công tác cán bộ, tức là một mặt của công tác tổ chức. Viết văn tổ chức là phải ngắn gọn, cô đọng, không thừa, thiếu một chữ, càng ngắn càng tốt. Người viết văn tổ chức, gọn mà đủ ý nhất trong quân đội ta lúc này là đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh (Cục trưởng Cục Tổ chức), cậu tìm những tài liệu đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh viết mà đọc...". Tôi bèn tìm đến anh Vĩnh, người mà tôi đã vinh dự được quen biết trong hội nghị tổng kết chiến dịch Trần Hưng Đạo và qua những lần anh Vĩnh trực tiếp xuống kiểm tra công tác tổ chức ở trung đoàn 66, mà tôi làm trưởng tiểu ban. Qua nhiều lần làm việc với anh Vĩnh, tôi đã thầm phục anh luôn luôn là một con người nghiêm túc, làm việc gì cũng nghiêm túc kể từ việc nhỏ. Ví dụ: Có lần tôi đến nhà anh, tôi chú ý cách pha trà của anh. Anh dùng nước sôi tráng ấm, chén rồi mới cho trà. Nước sôi kỹ mới đổ vào ấm. Đổ ra ngoài một nước đầu rồi mới pha trà chính thức, đợi một lúc mới rót ra chén, rót đều mỗi chén một ít, làm cho chén nào cũng có độ đậm đặc giống nhau, tất cả đều xanh nước, đượm hương. Anh pha trà cũng như anh nói, anh viết không thừa, không thiếu một chữ, thật là chặt chẽ. Đó là "văn tổ chức". Đồng chí Nguyễn Chí Thanh nói tiếp "còn khi cậu viết văn tuyên huấn thì cậu nên học văn anh Năm (tức anh Trường Chinh)" như những bài văn động viên quần chúng xuống đường thời kỳ khởi nghĩa: "dậy mà đi, dậy mà đi, đồng bào ơi?", v.v... văn tuyên huấn có thể viết dài hơn, hùng biện, cổ vũ, giục giã lòng người xông lên phía trước, không nề lửa đạn, không sợ chông gai, cổ vũ giục giã lòng người mà không sáo rỗng". Hai lời dạy trên đối với tôi, ăn sâu vào tiềm thức của tôi trong suốt cuộc đời làm công tác cán bộ, viết về công tác cán bộ. Tôi ở liền với anh Thanh ba tháng ròng ở Bàu Tró (Quảng Bình), viết suốt ngày rồi tọa đàm với anh về công tác cán bộ. Cho đến nay tôi vẫn còn nhớ như in những lời anh nói: "Với một cán bộ chuyên môn nào đó, Đảng có thể giao cho cán bộ đó làm bộ trưởng, nhưng không thể giao cho cán bộ đó làm đại đội trưởng. Bởi vì đại đội trưởng là "capitaine" (đại úy) nắm 1 compagni (đại đội) tức là nắm 150 khẩu súng, vào giữa lúc đêm khuya, không ai chú ý, người đó có thể làm đảo chính được. Cậu có biết đại úy Coong-le làm đảo chính ở Lào không? Cậu có biết trung úy Ni-ê-me-ri làm đảo chính ở Xu-đăng không? Vấn đề bố trí cán bộ trong lực lượng vũ trang là quan trọng lắm. Nói như vậy không có nghĩa là bộ trưởng không quan trọng. Nhưng ờ đây tôi muốn nói đến việc nắm lực lượng có quan hệ đến súng, đến thành bại của cách mạng". Một hôm khi bàn về vấn đề phong tướng. Anh Thanh nói "Cậu có biết các thống chế của Pháp thường sortie ở écolle, académi (tốt nghiệp trường, học viện) nào ra không? (trong quá trình làm việc thỉnh thoảng anh Thanh thường nói chêm vào vài tiếng Pháp cho rõ ý hơn). Anh nói thế để tôi dễ hiểu. Tôi trả lời: "Thưa anh, hầu hết, hay là đại đa số thống chế và tướng lĩnh của Pháp là dòng giống quý tộc, tốt nghiệp écollesaincyr ra?". Anh Thanh nói: "Đúng! Nhưng tướng tài của ta đều trưởng thành từ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, từ nhà tù của đế quốc ra như anh Văn, anh Văn Tiến Dũng, anh Hoàng Sâm, v.v... Còn trong quân đội Pháp, người nghèo khổ và hạ sĩ quan không bao giờ được đề bạt làm sĩ quan chứ đừng nói làm genéral". Tôi ngẫm lại, thấy anh nói đúng và thấm thía quá. Ở đây cũng toát ra một ý là tầng lớp cai, bếp, đội trong quân đội Pháp trước kia là tầng lớp bị áp bức, bóc lột, ta có thể lựa chọn để bồi dưỡng giác ngộ họ phục vụ cho ta được. Một hôm khác, làm với anh về quân hàm. Tư tưởng của tôi lúc này chưa được giải phóng khỏi quan điểm phong kiến, cho nên với một số cán bộ ưu tú, đánh dư trăm trận, trên người đầy thương tích, trên ngực đầy huân chương, nhưng trong tôi vẫn ngài ngại, liền được anh Thanh giải thích: "Đối với cách mạng, anh này hôm qua có thể là công nhân, hôm nay là chủ tịch nước, tổng thống. Đó mới là bình thường, là cách mạng", nghe lời như cởi tấm lòng, tôi sáng mắt ra. Cho đến hôm nay, sau gần 40 năm tôi vẫn nghe văng vẳng bên tai "Đối với cách mạng có người hôm qua còn là công nhân, hôm nay có thể là chủ tịch nước". Qua một thời gian chuẩn bị, đầu năm 1958, Bộ Chính trị quyết định phong quân hàm cho sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Để phong quân hàm cần có Luật phục vụ sĩ quan. Đồng chí Cục trưởng giao cho tôi cùng một số đồng chí khác dự thảo Luật phục vụ sĩ quan để thông qua Tổng cục Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị, Hội đồng Chính phủ, rồi thông qua Bác đưa ra Quốc hội phê chuẩn. Trong quá trình dự thảo Luật phục vụ sĩ quan, chúng tôi đã nghiên cứu Luật của hồng quân Liên Xô, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc và nghiên cứu Luật tổ chức Quân đội quốc gia Việt Nam 1946 do đồng chí Phan Tử Lăng dự thảo. Trong Luật tổ chức Quân đội quốc gia Việt Nam năm 1946 có hai điều quy định làm cho chúng tôi suy nghĩ mãi. Một là quy định "Chính trị viên là cấp phó của người đội trưởng về chính trị". Hai là quy định "cấp hiệu quân hàm của cán bộ quân sự, hậu cần nền đỏ, cấp hiệu quân hàm của chính trị viên nền đen". Quả thật, suy nghĩ mãi tôi vẫn không hiểu tại sao tác giả lại viết như vậy? Tôi bèn đến gặp đồng chí Phan Tử Lãng lúc đó là Phó cục trưởng Cục Quân khí Tổng cục Hậu cần. Tôi hỏi đồng chí Lăng "Vì sao đồng chí lại viết quy định như vậy?". Đồng chí Phan Tử Lăng trả lời: "Chẳng có vấn đề lập trường giai cấp gì ở đây cả đâu. Chẳng qua là lúc đó Bác sắp sang Pháp dự Hội nghị Phông-ten-blô. Bác gọi anh Văn đến nói: Khi sang Pháp ta cần phải nói cho nước Pháp và thế giới biết rằng quân đội ta đã là một quân đội chính quy, không còn là một đội quân du kích với gậy tầm vông, bởi vậy cần có luật tổ chức quân đội quốc gia chính quy để công bố với thế giới. Chú Văn về cần viết ngay Luật tổ chức quân đội quốc gia sang đưa Bác ký. Thế là về nhà anh Văn giao cho tôi (Phan Tử Lăng, lúc đó là Cục trưởng Cục Quân chính) chỉ trong ba ngày phải viết cho xong Luật tổ chức Quân đội quốc gia Việt Nam. Tôi bí quá, bèn lấy Luật tổ chức quân đội bản xứ của Pháp vừa dịch vừa biến báo ra. Cái gì không có thì tôi tự thêm vào. Quân đội liên hiệp Pháp không có chính trị viên nên tôi ghi chính trị viên là cấp phó của người đội trưởng, và quân hàm của chính trị viên là nền đen". Từ đó tôi dự thảo cấp hiệu quân hàm của sĩ quan là nhất loạt nền vàng viền đỏ (như hiện nay). Riêng cấp tướng thì nền vàng thêu kim tuyến. Dự thảo đó đã được cấp trên và Quốc hội phê chuẩn. Những lần làm lễ phong tướng và cấp đại tá đợt đầu tiên, tôi đều được tham dự tới tư cách là nhân viên phục vụ. Tôi còn nhớ lễ phong cấp đại tướng cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh, hầu như có mặt đầy đủ các đồng chí trong Bộ Chính trị, Hội đồng Chính phủ và các tướng lĩnh. Bác Hồ nói: "nhất tướng công thành vạn cốt khô" (đại ý: để có một vị tướng, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ đã phải nằm xuống). Bởi vậy các cháu từ người tướng đến người hạ sĩ quan phải chăm sóc người chiến sĩ chu đáo. Khi chiến sĩ chưa ăn, người cán bộ không được kêu đói. Khi người chiến sĩ chưa có chỗ ngủ, người cán bộ chưa được đi ngủ, v.v... Sau đó Bác Tôn đã ôm hôn thắm thiết đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Nguyễn Chí Thanh. Nghẹn ngào, Bác Tôn nói: "Khi tôi còn bị tù ở hầm xay lúa ở nhà tù Côn Đảo, tôi không ngờ lại có ngày hôm nay". Sau đó tất cả các tướng lĩnh (mới được phong) chụp chung với Bác Hồ, Bác Tôn một tấm ảnh ở thềm sau Phủ Chủ tịch. Khi ra về anh Thanh nói với tôi: "Bác và Trung ương quyết định, trước mắt Đảng và Nhà nước phong hai đại tướng, một người phụ trách quân đội, một người phụ trách nông dân - đội quân chủ lực. Bây giờ mình chuẩn bị chuyển ra bên ngoài. Trước khi ra ngoài mình sẽ làm cho xong ba việc để lại quân đội làm kỷ niệm: Một là phát động phong trào "ba nhất", hai là xây dựng nhà Bảo tàng Quân đội, ba là tổng kết công tác chính trị quân đội trong kháng chiến chống Pháp, trong đó có công tác cán bộ. Cậu giúp mình viết phần tổng kết công tác cán bộ". Lời nói mới ngày nào còn vang đâu đây, mà nay người nói đã đi vào cõi vĩnh hằng ở lứa tuổi còn đầy sức sống (anh Thanh mất khi vừa đến tuổi 53). Khi thông qua Luật phục vụ sĩ quan tại Quốc hội, tuyệt đại đa số đại biểu quốc hội đề nghị "trong Luật phục vụ sĩ quan, quân hàm biên chế cao nhất phải là nguyên soái". Các đại biểu nêu lên: Quân đội ta đã đánh thắng nhiều danh tướng của quân đội nhà nghề của thực dân Pháp, trong đó có cả thống chế Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi, đề nghị Quốc hội phong đồng chí Võ Nguyên Giáp là nguyên soái. Hơn nữa, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã được Bác và Chính phủ ta phong đại tướng từ 1948, đến năm đó (1958) đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng đã là một trong những người giữ một cấp với thời gian lâu nhất. Người tích cực nhất trong việc đề đạt này là đồng chí Dương Bạch Mai. Trước khi đưa ra Quốc hội biểu quyết, Ban Thường trực Quốc hội cử chúng tôi với tư cách là nhóm chuyên viên dự thảo Luật phục vụ sĩ quan, lên Phủ Chủ tịch để xin ý kiến Bác. Sau khi nghe báo cáo, Bác từ tốn bảo chúng tôi: "Các chú về báo cáo với Quốc hội: Nước ta mới độc lập một nửa. Ta còn phải tiếp tục chiến đấu để giải phóng miền Nam. Ta đã phong đại tướng để thắng Pháp. Tại sao đối với Mỹ, ta lại không để đại tướng để đánh thắng Mỹ? Nếu phong chú Văn là nguyên soái, thì khi thắng Mỹ, Mỹ và thế giới lại nói phải có nguyên soái mới thắng Mỹ được". Chúng tôi mang theo ý kiến của Bác về báo cáo lại với Quốc hội và đồng chí Dương Bạch Mai. Tất cả đều đồng tình, cũng giống như việc Quốc hội định tặng thưởng Bác huân chương Sao vàng, huân chương cao quý nhất của nước ta, Bác nói: "Hiện nay nước nhà chưa thống nhất, khi nào giải phóng được miền Nam, Quốc hội tặng thưởng huân chương, Bác xin nhận ngay". Chỉ tiếc rằng đến khi miền Nam giải phóng thì Bác của chúng ta đã không còn nữa. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:11:03 am NHỚ LẠI VÀ SUY NGẪM 34 NĂM LÀM CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG QUÂN ĐỘI Đại tá HỒ XUÂN LỰU Nguyên Phó cục trưởng Cục Cán bộ Để thực hiện nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó, hơn nửa thế kỷ qua, quân đội ta đã có nhiều mốc son chói lọi. Mốc son lớn nhất là quân đội cùng nhân dân ta đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và ngày nay đang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa... Các đại hội đại biểu Đảng toàn quốc đều tuyên dương và đánh giá mạnh yếu của lực lượng vũ trang, đề ra nhiệm vụ, yêu cầu trong tình hình mới... trong đó có nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng thích hợp, chất lượng cao để làm nòng cốt xây dựng quân đội vững mạnh, tiến lên chính quy, từng bước hiện đại theo yêu cầu nhiệm vụ. Trong khi chưa tổng kết công tác cán bộ, tôi mạnh dạn nói lên những suy nghĩ, những việc đã làm của các cấp lãnh đạo, của cơ quan cán bộ các cấp trong toàn quân, trong đó có bản thân tôi đã làm trong 34 năm, từ cương vị trợ lý phòng, cục phó phụ trách nhân sự, đã trực tiếp làm cùng anh em trong phòng, trong cục, đã làm phái viên xuống các đơn vị, vào các chiến trường B2, B3, C, K. Năm 1970 trực tiếp làm trưởng phòng cán bộ Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Năm 1980 làm trưởng phòng cán bộ Quân khu 2 tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc... nên cũng thu lượm được một số thực tế. Với bài viết này, như tên gọi của nó "Nhớ lại và suy ngẫm..." tôi không đi vào nghiệp vụ cụ thể, không đi vào tất cả các mặt của công tác cán bộ... mà chỉ nói lên dưới dạng kinh nghiệm về nhận thức quan điểm, về biện pháp cách làm trên ba nội dung chủ yếu là số lượng, chất lượng và xây dựng Cục Cán bộ. I- Mấy kinh nghiệm về lãnh đạo chỉ đạo công tác cán bộ 1. Cơ sở để lãnh đạo, chỉ đạo công tác cán bộ thành công và vượt qua khó khăn, có lúc tưởng như rất khó vượt qua, đó là thường xuyên quán triệt sâu sắc đường lối chủ trương, chính sách của Đảng thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị qua các thời kỳ cách mạng, trong các nhiệm vụ lớn của quân đội. Nhớ lại hồi những năm 1953 - 1955, thời điểm có bước ngoặt của cách mạng, nhu cầu cán bộ rất lớn, rất gấp; đang lúng túng, thì có chỉ thị 50/CT, 45/CT của Tổng cục Chính trị, mở ra một hướng mới, đã tạo ra một khối lượng cán bộ rất lớn, đáp ứng được nhu cầu lúc đó. Hay như hồi những năm 1964 - 1965, 1970 - 1975 cả nước sôi động chi viện miền Nam, chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, thì Nghị quyết Trung ương và Quân ủy Trung ương về phát triển lực lượng đã chỉ ra: "Mạnh dạn đề bạt cán bộ từ dưới lên, đề bạt sắp xếp đi đôi với bồi dưỡng sử dụng, phát huy cán bộ cũ, tin tưởng mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ đã qua rèn luyện thử thách, sắp xếp xen kẽ cũ mới, già trẻ để bồi dưỡng kèm cặp lẫn nhau..." nên đã tạo ra bước nhảy vọt cả số lượng và chất lượng, nhờ đó quân đội và nhân dân ta đã đánh thắng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, thắng địch ở miền Nam giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc. 2. Kinh nghiệm thứ hai là trong quá trình làm nhiệm vụ xây dựng quân đội, đã đặt đúng vị trí công tác cán bộ là một trong những công tác trung tâm thường xuyên của đơn vị, do thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "...Sau khi có chủ trương đúng, cán bộ là khâu quyết định thành bại chủ trương đó"... nên các cấp, các cơ quan đã thường xuyên chăm lo công tác cán bộ và cơ quan cán bộ, dành nhiều thời gian tập trung trí lực cho công tác này. 3. Kinh nghiệm thứ ba: Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng trong công tác cán bộ, là trách nhiệm của tập thể cấp ủy đảng xem xét và quyết định. Trong những năm chiến đấu nguyên tắc này được giữ vững; cũng có từng lúc, từng chỗ vận dụng chưa đúng, nhưng được uốn nắn nên cũng chưa gây tác hại gì lớn. Hội đồng quân sự cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. 4. Kinh nghiệm thứ tư về lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện: Các cấp đã coi trọng ba nội dung cơ bản của công tác cán bộ là: đáp ứng số lượng, nâng cao chất lượng, thực hiện kịp thời đúng đắn các chính sách; lấy nội dung nâng cao chất lượng làm then chốt và quán triệt vào tất cả các khâu: đề bạt, sắp xếp bổ nhiệm, v.v... đồng thời lấy đào tạo bồi dưỡng làm trung tâm, coi trọng cả bồi dưỡng tại chức và tại trường. Vừa phát huy mọi cấp, mọi ngành, mọi tập thể làm công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, vừa động viên, giáo dục khêu gợi tính tự giác của từng cán bộ tự rèn luyện bồi dưỡng mình, biết gắn công tác rèn luyện cán bộ với cuộc vận động xây dựng Đảng và phát động các cuộc vận động khác... Phải thường xuyên kết hợp chặt chẽ việc kiện toàn sắp xếp cán bộ chủ trì các cấp, với việc kiện toàn cấp ủy đảng. 5. Coi trọng công tác quản lý đội ngũ và từng người cán bộ, trong đó trước hết là nhận xét đánh giá đúng cán bộ để làm cơ sở cho phân công giao nhiệm vụ, phát huy được vai trò cán bộ. Muốn vậy phải thực sự cầu thị, toàn diện, khách quan, căn cứ vào tiêu chuẩn thể hiện ra hiệu quả, chất lượng công tác, mức độ hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo... Quá trình thực hiện công tác này thường phải đấu tranh chống chủ quan, hẹp hòi, thành kiến, cục bộ địa phương, đơn giản cảm tình, xen cá nhân để nhận xét cán bộ... Coi trọng phát huy các tổ chức đảng, chính quyền các cấp và các tổ chức quần chúng trong công tác quản lý cán bộ. Trên đây là những kinh nghiệm mà những người làm công tác cán bộ thường hay cho là "muôn thủa". Theo tôi nó vẫn đang rất thời sự, rất có ý nghĩa thực tiễn cho hiện nay và rất quý cho những năm sau. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:12:15 am II- Chủ trương và biện pháp giải quyết số lượng cán bộ a) Đánh giá kết quả: Nhu cầu cán bộ rất lớn, có lúc yêu cầu rất khẩn trương, rất gấp, chất lượng có mặt yêu cầu cao. Nhờ sự phấn đấu, nỗ lực thực hiện của các cấp trong toàn quân, nên đã đáp ứng được số lượng cán bộ theo yêu cầu từng thời kỳ, bổ sung và thay thế tiêu hao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, xây dựng và phát triển lực lượng. Nhớ lại thời điểm những năm 1951 - 1955, tổng quân số lúc đó có 15 - 20 vạn quân, phát triển lên hơn một triệu quân sau chống Mỹ phải đáp ứng hàng chục vạn cán bộ cho các nhu cầu của chiến tranh... Thời kỳ từ năm 1964 đến năm 1967 chi viện cán bộ để các chiến trường miền Nam thành lập hàng chục sư đoàn và hàng trăm trung đoàn, tiểu đoàn, các binh chủng và tỉnh đội, huyện đội, v.v... Ở miền Bắc đánh chiến tranh phá hoại thành lập hàng chục sư đoàn phòng không, hàng trăm trung đoàn, tiểu đoàn pháo phòng không, tên lửa, ra đa; công binh tăng gấp 5 lần, thông tin tăng gấp 3 lần. Thời điểm những năm từ 1978 đến 1980 - chiến tranh bảo vệ Tổ quốc diễn ra ở biên giới phía Bắc, phải thành lập thêm một số quân khu, quân đoàn, hàng chục sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc quân khu, tỉnh, huyện; biên phòng thành lập hệ thống cơ quan chỉ huy từ quân khu xuống huyện và củng cố hàng nghìn đồn trên biên giới từ Đông Bắc sang Tây Bắc. Theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, để giúp bạn đánh quân Pôn-pốt - Iêng Xa-ri, các quân khu 5, 7, 9 thành lập các đoàn tình nguyện tương đương quân đoàn, xếp hệ thống chuyên gia từ quân khu xuống đội cơ sở tốn hàng nghìn cán bộ, Bộ thành lập Mặt trận 719, xếp chuyên gia cơ quan Bộ Quốc phòng bạn, thành lập trường đào tạo bồi dưỡng chuyên gia. Giúp bạn Lào, đội ngũ chuyên gia chọn cán bộ đã được học tập, tuổi trẻ hơn, thay chuyên gia cũ về nước, tổ chức một số tỉnh ở Việt Nam kết nghĩa với một số tỉnh của bạn Lào, cử cán bộ quân sự địa phương Việt Nam sang giúp. b) Để giải quyết một số lượng lớn cán bộ, trong những thời điểm rất khẩn trương... kinh nghiệm cho thấy là phải xây dựng và giáo dục quán triệt các quan điểm tư tưởng chỉ đạo của trên làm cơ sở triển khai công tác số lượng. Trong giải quyết số lượng cán bộ phải có quan điểm toàn cục vì lợi ích yêu cầu chung, quan điểm chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân làm cơ sở tìm chọn nguồn. Coi trọng chất lượng không chạy theo số lượng và có quan điểm quốc tế đúng để chọn cán bộ giúp bạn có hiệu quả. - Phải nắm vững chủ trương và tư tưởng chỉ đạo như: nguồn cán bộ từ quần chúng mà ra, trong rèn luyện chiến đấu mà lên, thật mạnh dạn đề bạt từ dưới lên theo chỉ thị 50/CT, 45/CT, giữ gìn và phát huy cán bộ cũ, tin tưởng mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ đã qua rèn luyện. - Đề bạt đi đôi với bồi dưỡng sử dụng, bồi dưỡng rồi sắp xếp, vừa sắp xếp vừa bồi dưỡng, sắp xếp xen kẽ giữa cũ mới, già trẻ kèm cặp bồi dưỡng cho nhau... c) Những chủ trương, biện pháp tổ chức thực hiện đáp ứng số lượng cán bộ có hiệu quả nhanh và tốt. Đó là: + Tách một đơn vị ra thành hai, ba, tùy theo chất lượng, lấy khung cũ làm nòng cốt, dần dần bổ sung cho đủ (cả phía Nam và Bắc). + Chuyển binh chủng từ pháo mặt đất sang pháo phòng không, từ bộ binh sang binh chủng, từ vận tải sang công binh, v.v... + Chuyển địa phương sang chủ lực, từ tỉnh lên quân khu, quân khu lên chủ lực Bộ, v.v... + Thành lập các khung dẫn quân bổ sung vào chiến trường, rồi để khung đó lại cho chiến trường thành lập đơn vị mới. + Điều động gọn từng đơn vị thực binh vào bổ sung, hoặc luân lưu chiến đấu. + Lấy học viên tốt nghiệp các trường ra bổ sung, học viên đi thực tập, rút thời gian học, cho bế mạc sớm một số lớp, rút bớt chương trình để học thời gian ngắn ra nhanh hơn, sau chiến đấu về học bổ sung đủ chương trình. + Làm tốt khâu thu dung, nuôi dưỡng thương bệnh binh để nhanh chóng ra bổ sung. + Rút lẻ một số cán bộ trong biên chế các cơ quan, nhà trường ra bổ sung hoặc luân lưu 6 tháng, 1 năm trả về đơn vị cũ. + Trung ương điều hàng nghìn cán bộ ngoài cơ quan nhà nước vào quân đội. + Đề bạt cấp chức cho cán bộ cũng là biện pháp để giải quyết số lượng, làm đúng chỉ thị 50/CT, 45/CT và các chỉ thị khác. Bộ mở rộng quyền hạn cho quân khu được đề bạt vào đội ngũ sĩ quan, Bộ quản lý số hiệu sĩ quan, quân khu được bổ nhiệm chức trung đoàn trưởng, trưởng phòng, đề bạt từ cấp thiếu tá trở xuống, được tạm giao chức sư đoàn phó. + Bộ và quân khu phát lệnh động viên sĩ quan dự bị, theo từng mức; có trọng điểm hoặc từng khu vực, hay động viên cục bộ là tùy theo tình hình... cũng đã giải quyết một số lớn cán bộ. d) Những khuyết điểm và tồn tại: + Cũng có lúc chạy theo yêu cầu số lượng, có người để xếp đủ biên chế, coi nhẹ hoặc lơi lỏng khâu bồi dưỡng, khâu công tác tư tưởng, nên có một số không ít cán bộ hoàn thành nhiệm vụ thấp, một số ít không hoàn thành nhiệm vụ như cán bộ xếp các khung dẫn quân, một số cán bộ và sĩ quan dự bị bổ sung lên biên giới phía Bắc (thời kỳ đầu). + Đối với sĩ quan dự bị động viên vào chất lượng thấp (cả tư tưởng, ý chí và năng lực), cần chú ý khâu lựa chọn, quản lý, đào tạo bồi dưỡng cách sử dụng khi mới vào... để hiệu quả sử dụng tốt hơn. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:16:00 am III- Chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Các nghị quyết của Trung ương, của Quân ủy Trung ương và Tổng cục Chính trị luôn chỉ rõ: "...Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong quân đội là một công tác rất quan trọng và cấp bách... Trách nhiệm của các cấp phải tập trung xây dựng một đội ngũ cán bộ vững mạnh toàn diện, có số lượng hợp lý, có chất lượng cao, đáp ứng tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới...". Năm mươi năm qua, toàn quân đã quán triệt chấp hành, ra sức tổ chức thực hiện, tìm mọi biện pháp, mọi hình thức phong phú, sáng tạo... để nâng cao chất lượng cán bộ có hiệu quả. 1. Quá trình thực hiện phải nắm vững quan điểm và tư tưởng chỉ đạo như: + Việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ là việc làm thường xuyên, quán triệt vào mọi mặt, mọi khâu công tác. Cần đặc biệt chú trọng những thời điểm cách mạng chuyển giai đoạn mới, quân đội thực hiện nhiệm vụ nặng nề hơn thì công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ cũng phải chuyển mạnh để kịp với yêu cầu nhiệm vụ. + Trong công tác nâng cao chất lượng cán bộ có nhiều hình thức, biện pháp, nhưng phải luôn nắm vững khâu đào tạo bồi dưỡng làm trung tâm, coi trọng cả tại trường và tại chức thời bình chuẩn bị cho thời chiến, huấn luyện xây dựng sát với chiến đấu, lý luận đi đôi thực hành. + Công tác bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ yêu cầu phải toàn diện: quân sự, chính trị, chuyên môn, kỹ thuật, lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, v.v... Trong đó phải coi trọng nâng cao chất lượng chính trị, tư tưởng làm gốc. Coi trọng khâu nâng cao trình độ văn hóa làm cơ sở tiếp thu khoa học quân sự, lý luận chính trị, kỹ thuật, v.v... Coi trọng khâu kinh nghiệm và truyền thống để bổ trợ. + Giáo dục cán bộ nâng cao tinh thần tự giác tự bồi dưỡng rèn luyện mình là chính, gắn chặt với rèn luyện đảng viên, gắn chặt với các cuộc vận động, nhất là cuộc vận động xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh, gắn với các phong trào của quần chúng, của đơn vị... Nhờ đó chất lượng cán bộ được chuyển biến toàn diện, từng bước từ thấp lên cao, theo chuyển biến của cách mạng. 2. Chứng minh một số thời điểm nổi bật như sau: Thời kỳ từ năm 1953 đến năm 1956: Chỉnh huấn cho cán bộ về nhiệm vụ cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, chính sách sửa sai, thực hiện cuộc vận động rèn cán chỉnh quân... nhờ đó nâng cao giác ngộ chính trị, xác định lý tưởng cách mạng, nâng cao lập trường quan điểm giai cấp, phân rõ bóc lột và bị bóc lột, củng cố thêm ý chí cách mạng, ý chí chiến đấu. Trình độ chỉ huy lãnh đạo đơn vị có nhiều chuyển biến, nhiều cán bộ được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam, và đề bạt hàng vạn cán bộ công nông. Nhưng cũng có một số cán bộ trung sơ cấp phải xử lý và sa thải vì lý do chống lại đường lối, bao che, bóc lột, hận thù cách mạng. Thời kỳ từ năm 1959 đến năm 1965: Miền Nam đẩy mạnh đấu tranh quân sự, phong trào đồng khởi lên cao, miền Bắc chuẩn bị chi viện miền Nam, chuẩn bị đánh chiến tranh phá hoại. Quân đội tập trung chỉnh huấn nghị quyết Trung ương về nhiệm vụ cách mạng hai miền, học tập đường lối ngoại giao và quan điểm quốc tế của Đảng, học tại chức một số nội dung lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phê phán phân biệt đúng sai những quan điểm, khuynh hướng phản động của bọn chống Đảng trong nước, đòi xét lại đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, đường lối lấy công nông làm cốt cán; nhân văn giai phẩm trong văn học nghệ thuật, v.v... nhờ đó giúp cán bộ kiên định lý tưởng cộng sản, tinh thần triệt để cách mạng, đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chân lý; nâng cao ý chí chiến đấu, sẵn sàng chi viện cho miền Nam. Thời kỳ này cũng có một đợt kết nạp Đảng, trong đó cán bộ chiếm đại đa số, nhiều cán bộ được chọn đi học đào tạo trong nước, ngoài nước, chuyển một số cán bộ quân sự sang học chính trị và làm cán bộ chính trị, kết hợp với đợt điều động của Trung ương đưa cán bộ là đảng viên ở cơ quan dân chính, đoàn thể vào quân đội, đa số xếp cán bộ chính trị. Nhiều đại đội thành lập được chi bộ, tiểu đoàn có liên chi ủy. Đây là một thời điểm rộ lên về học tập tại trường cho cán bộ (từ năm 1963 đến năm 1965 có 3 khóa đào tạo trung cấp quân sự, trung cấp chính trị, hàng nghìn cán bộ đi học binh chủng, kỹ thuật nước ngoài, chuyển binh chủng và tập huấn ở đơn vị rất sôi nổi, nhất là cán bộ từ pháo mặt đất sang pháo phòng không, công binh). Thời kỳ này cũng sa thải một số cán bộ, có cán bộ cao cấp chạy ra nước ngoài cư trú chính trị, một số cán bộ trung cao cấp phải xử lý điều công tác khác, do ảnh hưởng bọn chống Đảng và bọn cơ hội xét lại. Thời kỳ từ năm 1965 đến năm 1967 Chỉnh huấn nghị quyết Trung ương về nhiệm vụ cách mạng: miền Bắc là hậu phương lớn, sẵn sàng chi viện miền Nam, miền Nam tạo bước ngoặt cách mạng... Từ năm 1967 đến năm 1975 toàn quân rộ lên hai nhiệm vụ: Đánh thắng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, chi viện mức cao nhất cho cách mạng miền Nam, các quân đoàn được thành lập (Quân đoàn 1 tháng 10 năm 1973, Quân đoàn 2 tháng 12 năm 1973, Quân đoàn 4 cuối năm 1974, Quân đoàn 3 tháng 3 năm 1975). - Chuyển binh chủng cho một số sư đoàn chủ lực từ bộ binh sang bộ binh cơ giới. Chuyển binh chủng một số trung đoàn pháo phòng không sang tên lửa, chuyển binh chủng hàng trăm cán bộ pháo mặt đất sang pháo xe tăng thiết giáp, để thành lập 4 trung đoàn tăng thiết giáp. - Tổ chức tập huấn nghiên cứu kinh nghiệm đánh Mỹ, các chiến lệ đánh Mỹ, nhiều cuộc diễn tập thực binh cấp trung đoàn, sư đoàn, cơ quan chiến dịch - chiến lược diễn ra liên tiếp. - Phát động cuộc vận động cán bộ rèn luyện 4 tốt rất sôi nổi, nhiều điển hình tốt. - Thực hiện chế độ nhận xét cán bộ hàng năm. Thời kỳ từ năm 1976 đến năm 1980 trở đi Học tập nghị quyết Trung ương - chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp, học tập Nghị quyết đại hội Đảng IV, kịp thời củng cố lập trường quan điểm sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thời kỳ này, có một đợt kết nạp Đảng lớn, nhưng cũng có một số cán bộ lạc quan tếu, sa sút phẩm chất phải cho nghỉ, một số di tản với gia đình (chủ yếu là cán bộ sơ cấp). Thời kỳ này rộ lên công tác tổng kết kinh nghiệm sau chiến tranh, tập huấn cán bộ, rộ lên phong trào học văn hóa, chuẩn bị nguồn đào tạo trong, ngoài nước, các quân khu thành lập trường văn hóa, quân khu biên giới và miền Nam thành lập trường thiếu sinh quân dân tộc, đưa một số trường sĩ quan lên đại học, học viện. Đặc biệt, nổi lên nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Nam và phía Bắc. Các quân khu phía Bắc thành lập khung tập huấn, huấn luyện sĩ quan dự bị, các trường quân khu đào tạo ngắn hạn 6 tháng, một số sư đoàn cũng đào tạo ngắn hạn 6 tháng (anh em đùa là khung "cứu đói"). Quân khu 5, 7, 9 tập huấn, huấn luyện cán bộ giúp bạn, đào tạo huấn luyện chuyên gia về quân sự, chính trị, tiếng Cam-pu-chia. Trong quá trình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc đều tổ chức rút kinh nghiệm, tập huấn, hội nghị công tác chính trị các đơn vị phía Bắc. Quy hoạch phân loại cán bộ, định hướng, bồi dưỡng đào tạo, sử dụng trước mắt, lâu dài, đi đôi quy hoạch, đã tiến hành xác định chức danh biên chế cán bộ, quy định tiêu chuẩn cụ thể đức tài, về học hàm, học vị cho từng chức. Kết quả của những việc làm ở trên, đã tạọ ra sự chuyển biến cơ cấu chất lượng đội ngũ cán bộ một cách toàn diện, tương đối cơ bản, vững chắc, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:21:09 am IV. Xây dựng kiện toàn Cục Cán bộ 1. Cục Cán bộ là cơ quan đầu ngành công tác cán bộ toàn quân, chức trách nhiệm vụ đã được xác định, từng lúc có bổ sung, nhưng chức trách nhiệm vụ cơ bản không thay đổi. Về mặt tổ chức biên chế luôn biến động, có tác động đến con người. Năm mươi năm qua đã hàng chục lần thay đổi, nhất là từ năm 1958 trở về trước. Cho đến dầu năm 1959 giải thể Tổng cục Cán bộ đưa về Tổng cục Chính trị, từ đó cơ quan cán bộ tương đối ổn định. Xem xét lại, việc biến động về tổ chức biên chế để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là tất nhiên, quá trình biến động là quá trình nhận thức thực tiễn, nên cơ quan cán bộ có lúc ở văn phòng, sau lại ghép với huấn luyện, ghép với thanh tra, phòng sự vụ, v.v... Ưu điểm của thời kỳ này là giữ lại số đông cán bộ đã làm lâu năm như các anh Vĩnh, Ân, Hồng Long, Đặng Hòa, Thanh Tùng (đã mất), Trụ, Dụ, Lương, Thao, Quế... nhưng cũng điều chỉnh một số như các anh Lộc, Bảo, Song, v.v... Những năm sau này, lúc thì phòng quân sự, chính trị... lúc thì phòng điều động đề bạt, lúc thì sơ tán hai, ba bộ phận phải kiêm nhiệm cho nhau, nên cũng ảnh hưởng đến tích lũy nghiệp vụ của anh em. Từ sau khi đánh thắng chiến tranh phá hoại, cơ quan cục tương đối ổn định, nên cán bộ cũng ổn định, có điều kiện tích lũy luân phiên, có điều kiện đổi mới, điều một số cán bộ trẻ, học cơ bản, một số cán bộ chuyên môn kỹ thuật (quân sự, binh chủng, bác sĩ, kỹ sư, quê miền Nam). Trước đây cán bộ chính trị quản lý các loại nên không sâu, đưa một số ra đơn vị một thời gian rồi rút về, như các anh Số, Lựu, Tuấn, Thiện, Quế, Long... tạo nên đội ngũ cán bộ của cục có đổi mới, nhưng vẫn giữ có cũ có mới, có già có trẻ, chất lượng tốt, chưa có ai cho ra khỏi ngành do vi phạm tiêu chuẩn. 2. Quá trình thực hiện chức trách nhiệm vụ của cục ngày càng toàn diện, có hiệu quả, chất lượng ngày càng cao. Kinh nghiệm cho thấy là: a) Muốn xây dựng cục mạnh, phải luôn luôn nắm vững khâu then chốt là xây dựng Đảng bộ cục vững mạnh trong sạch. Nếu chuyên môn đơn thuần, tách rời chuyên môn nghiệp vụ với xây dựng chi bộ, xây dựng Đảng bộ, thì chuyên môn nghiệp vụ không thể phát triển được. Đối với từng cán bộ, phải gắn tự giác tự rèn luyện đảng viên với tự rèn luyện bồi dưỡng quan điểm tư tưởng trong công tác chuyên môn nghiệp vụ. Ngược lại chi bộ, Đảng ủy, Đảng bộ lãnh đạo gắn với chức trách nhiệm vụ chuyên môn nghiệp vụ thì lãnh đạo mới có nội dung sát đúng thực tiễn; phải thường xuyên kiểm tra công tác chuyên môn biểu hiện ra quan điểm, tư tưởng hiệu quả chất lượng của phòng, cục, từng trợ lý, để có chủ trương nghị quyết lãnh đạo sát đúng. b) Một vấn đề cũng tương đối cơ bản, đó là bồi dưỡng nâng cao trình độ cho mọi cán bộ trong cục, công việc này phải tiến hành một cách kiên trì, chịu suy nghĩ, tìm mọi hình thức, mọi biện pháp. Thời kỳ đầu trình độ còn non thì nêu khẩu hiệu, phát động thi đua: "Lấy cần cù bù thông minh, lấy thời gian, cường độ để nâng hiệu quả chất lượng". Thời kỳ từ sau năm 1975 đến nay trình độ, kinh nghiệm được nâng cao, nghiệp vụ tích lũy tương đối sâu, thì nêu khẩu hiệu và phát động thi đua nâng cao hiệu quả chất lượng công tác đi đôi cải tiến lề lối làm việc từ cục xuống, từ trợ lý lên, để có thời gian học tập và đi xuống đơn vị. c) Quá trình thực hiện chức trách nhiệm vụ, có một chức trách mà cục phấn đấu rất chật vật, chuyển biến chậm, đó là chức trách tham mưu cho Tổng cục Chính trị, Quân ủy Trung ương những vấn đề thuộc đường lối, chủ trương, nguyên tắc. Không phải không biết. Vậy thì do đâu? Qua mấy chục năm công tác, tôi thấy đặc điểm công tác của Cục Cán bộ là: nhiều việc đột xuất, khối lượng công việc lớn, diện quản lý rộng "có phần tham", đòi hỏi độ chính xác, độ tin cậy cao, thời gian lại rất khẩn trương, trình độ cán bộ trong cục có hạn, không đồng đều, làm cụ thể thì cần cù ngày không giờ, tuần không thứ, không chê vào đâu được, nhưng đến việc kế hoạch, việc nghiên cứu đề xuất lớn thì còn hạn chế? Qua một số việc đã làm được như tham gia Luật sĩ quan, tham gia tiêu chuẩn quy hoạch, kế hoạch thì thấy phải giải quyết 4 khâu: Một là, mở rộng kiến thức chung cho anh em như quán triệt nghị quyết, chỉ thị của trên một cách kỹ càng, gắn với nhiệm vụ của cục. Tránh làm sơ sài, phổ biến qua loa, cần tránh phòng nào chỉ lo nắm phần trực tiếp của phòng ấy, không chú trọng đến nội dung cơ bản toàn diện của chỉ thị, nghị quyết. Hai là, nghe tình hình đơn vị, cũng như khi xuống đơn vị phải nghe, phải nắm kết quả toàn diện các mặt: huấn luyện, xây dựng, tư tưởng, v.v... chứ không phải chỉ nghe, chỉ nắm phần cán bộ (tất nhiên phần cán bộ nghe sâu hơn, kỹ hơn), có như vậy mới nâng được kiến thức. Ba là, phải kiên trì làm sơ kết, tổng kết từng mặt, hàng quý, hàng năm. Cục đưa mục tiêu yêu cầu trong tổng kết phải làm sâu hơn vấn đề gì? Phát hiện được vấn đề gì? Bốn là, thảo luận dân chủ, lấy ý kiến từng chuyên đề theo ba mức: mức rộng rãi, đưa về từng phòng thảo luận góp ý; mức cao hơn, các trưởng phó phòng và một số trợ lý chủ chốt; mức ba là cử cán bộ xuống đơn vị lấy ý kiến cơ quan cán bộ và lãnh đạo chỉ huy đơn vị. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:23:53 am MỘT VÀI Ý KIẾN NHỎ VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ Đại tá TRƯƠNG CHÍ CÔNG Nguyên trưởng phòng cán bộ chính trị - Cục Cán bộ Tôi là một cán bộ thuộc Bộ tư lệnh Pháo binh được điều về Cục Cán bộ (lúc đó là Phòng Cán bộ - Cục Tổ chức do đồng chí Trần Hoài Ân làm trưởng phòng), chưa có hiểu biết gì về nghiệp vụ công tác cán bộ. Nhờ được thủ trưởng phòng và các đồng chí xung quanh giúp đỡ tận tình, bản thân luôn say sưa nhiệt tình công tác, nên tôi đã trưởng thành từ một trợ lý theo dõi cán bộ chính trị giữ chức trung đoàn các quân binh chủng kỹ thuật, tôi đã dần dần nắm được cán bộ chính trị các nhà trường, các quân khu và các sư đoàn chủ lực cơ động. Khi làm phó phòng binh chủng hậu cần, tôi lại dần dần nắm được cán bộ chỉ huy, chuyên môn kỹ thuật và thời gian làm trưởng phòng điều động đề bạt đã nắm được hầu hết cán bộ từ trung đoàn trở lên trong toàn quân. Tôi đã nhớ được tên, gặp mặt được gần hết cán bộ do mình chịu trách nhiệm theo dõi trong thời gian đó. Đạt được kết quả như trên là do được Đảng bộ cục lãnh đạo chặt chẽ thường xuyên, thủ trưởng cục luôn đoàn kết, phát huy dân chủ, mạnh dạn giao việc, có kế hoạch từng thời kỳ cho cán bộ nghiên cứu học tập đường lối chính sách cán bộ, hướng dẫn cách nghiên cứu hồ sơ, cách làm trích yếu tóm tắt, cách trích ngang và cách nhận xét một người cán bộ... Điều quan trọng nhất là cho trợ lý đi cơ sở để gặp gỡ trực tiếp cán bộ, nghe dư luận về người cán bộ và nghe ý kiến cấp ủy về người cán bộ đó. - Cục Cán bộ đã lựa chọn được một đội ngũ cán bộ đủ tiêu chuẩn làm công tác cán bộ, có lập trường quan điểm vững vàng, có nhiệt tình cách mạng, có tác phong sâu sát, có quyết tâm vượt mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. - Đảng bộ luôn lãnh đạo đoàn kết chặt chẽ, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình trong công tác và sinh hoạt, luôn quan tâm đời sống cán bộ làm cho mọi người yên tâm phục vụ sự nghiệp. Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội, đường lối công tác cán bộ của Đảng trong quân đội đúng đắn sáng tạo, nên quân đội ta mới có một đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành và lớn mạnh để đánh thắng quân thù hùng mạnh nhất của thời đại. Nhưng điều mà tôi băn khoăn, day dứt nhiều nhất trong thời gian này là việc đề bạt quân hàm theo Luật phục vụ của sĩ quan còn nhiều lúng túng trong vận dụng giữa nhu cầu và tiêu chuẩn, giữa trước mắt và lâu dài, giữa số lượng và chất lượng. Có trường hợp anh em chiến đấu rất tốt, nhưng lại chưa được học hành, trình độ văn hóa thấp, chưa được đề bạt... đã ảnh hưởng không tốt đến tư tưởng của cán bộ. Đến khi về nghỉ hoặc chuyển ngành, nhiều cán bộ vẫn còn thắc mắc, anh em cho rằng đó là do Cục Cán bộ chứ họ không biết là do cấp trên quyết định. Tuy vậy Cục Cán bộ chúng ta cũng cần nghiên cứu rút kinh nghiệm. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 31 Tháng Mười, 2022, 08:25:57 am NHỚ LẠI NHỮNG LẦN ĐƯỢC LÀM VIỆC VỚI ĐỒNG CHÍ NGUYỄN CHÍ THANH Thiếu tướng NGUYỄN ÍCH Nguyên trưởng phòng cán bộ Chính trị - Cục Cán bộ Những năm công tác ở Cục Cán bộ, có nhiều lần tôi được làm việc trực tiếp với các đồng chí lãnh đạo trong Quân ủy Trung ương. Những điều chỉ bảo, những sự phân tích của các đồng chí lãnh đạo và cả những lần bị phê phán gay gắt cũng đã giúp cho tôi những bài học sâu sắc, có thêm nhận thức mới và thấy rõ những thiếu sót của mình trong công tác cán bộ. Nhưng điều in đậm vào trí nhớ tôi nhất là một số lần được làm việc với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, khi đồng chí còn làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và những năm tiếp sau. Vào khoảng đầu năm 1964, đồng chí Trần Hoài Ân gọi tôi và một số đồng chí trưởng phòng đến thông báo: "Quân ủy giao cho Cục Cán bộ lên phương án sắp xếp cán bộ cấp quân khu từ Khu 6 trở vào và xếp cán bộ cho cơ quan Quân ủy Miền. Đây là kế hoạch tuyệt mật, ký hiệu là "Phương án B2". Đồng chí yêu cầu chúng tôi phải khẩn trương, tuyệt đối giữ bí mật và sắp xếp phải có chất lượng cao theo yêu cầu của Quân ủy. Sau khi được phân công, chúng tôi làm ngày làm đêm, chuẩn bị tài liệu, tìm hiểu thực tế, xem xét lại hoàn cảnh gia đình hậu phương của cán bộ, v.v... Qua nhiều lần bàn bạc, tranh cãi, phân tích từng vị trí bố trí, phương án sắp xếp đã được hoàn thành. Đồng chí Ân giao cho tôi chấp bút và chỉ viết tay thành hai bản để giữ bí mật. Một buổi chiều đồng chí Ân cho tôi biết: "Sáng mai anh Thao (tên bí danh của đồng chí Nguyễn Chí Thanh) thông qua phương án B2 ở nhà riêng. Tối nay ta chuẩn bị thêm cho chắc chắn". Đồng chí Trần Hoài Ân vốn tính cẩn thận, nhất là khi làm việc với cấp trên thì đồng chí chuẩn bị rất khu đáo, gần như đọc thuộc lý lịch từng người, sẵn sàng hỏi đâu biết đấy. Hôm sau tôi cắp cặp theo đồng chí Ân đến nhà riêng của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Đồng chí đã chờ sẵn chúng tôi ở trong phòng làm việc. Theo sự phân công từ trước, tôi trải bản sơ đồ bố trí cán bộ lên bàn và đứng dậy báo cáo. Tôi báo cáo từng quân khu: Quân khu 6, Quân khu 7 rồi sang đến Quân khu 8, Quân khu 9. Vừa báo cáo tôi vừa theo dõi thái độ của thủ trưởng xem chỗ nào đồng tình, chỗ nào phản đối, nhưng vẫn thấy thủ trưởng ngồi yên, không biểu thị một thái độ nào rõ rệt. Khi tôi báo cáo hết, đồng chí Trần Hoài Ân bổ sung thêm một vài ý kiến ngắn và chờ đợi ý kiến của thủ trưởng. Nghe xong, Đại tướng đứng dậy, rút thuốc lá hút rồi đẩy gói thuốc sang phía chúng tôi: Các cậu hút đi! Đồng chí đi đi lại lại một chút rồi vòng sang phía tồi, bất ngờ vỗ vai tôi, nói: - Ích này, nếu mai này cậu có làm tướng thì cũng chỉ làm tướng phòng ngự được mà thôi! Tôi chưa kịp hiểu được ý kiến của thủ trưởng thì đồng chí đã xoa tay lên bản đề án và nói tiếp: - Quân ủy yêu cầu Cục Cán bộ lập phương án bố trí cán bộ, các cậu bày mâm bày bát đủ cả. Nơi cần sáu có sáu, nơi cần tám có tám. Nhưng thử hỏi: điểm là đâu, trọng điểm là đâu, cần tập trung sức mạnh vào đâu thì chẳng rõ gì cả. Bố trí cán bộ theo cái kiểu dàn quân bịt kín cổng thành thế này thì chỉ phòng ngự được thôi, làm sao mà đánh thắng được Tay-lo? Tôi yên lặng ngồi nghe, còn đồng chí Trần Hoài Ân thì dạ dạ liên tục. Cuối cùng, Đại tướng nói: - Việc bố trí cán bộ là hệ trọng lắm, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chiến trường. Làm công tác cán bộ mà chỉ hiểu cán bộ là chưa đủ. Phải có tầm nhìn. Cơ quan phục vụ chiến lược thì phải có tầm nhìn chiến lược, có thế mới phục vụ được đắc lực cho lãnh đạo. Đồng chí an ủi chúng tôi. - Thôi! Dù sao đây cũng là phương án bước đầu. Các cậu để lại cho mình một bản để mình nghiên cứu thêm, có gì sẽ phát biểu sau. Thế là phương án chúng tôi chuẩn bị khá công phu đã sớm bị phá sản. Nhưng cái được với chúng tôi đó là một bài học lớn: bài học về tầm nhìn. Một lần khác, mấy anh em chúng tôi lên làm đề bạt cán bộ với đồng chí, lúc đó đồng chí còn làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Khi nghe đến phần đề bạt cán bộ quân y, kỹ thuật, đồng chí chợt hỏi: - Này, cậu T. bác sĩ sao không thấy trong danh sách đề bạt? Đồng chí phụ trách về phần này chỉ dạ một tiếng rồi lúng túng chưa biết trả lời ra sao. Chúng tôi ngồi nhìn nhau. Thực ra đồng chí T. là một bác sĩ giỏi, nhưng xuất thân trong một gia đình quan lại địa chủ, có dính líu với nhiều người ở trong vùng địch tạm chiếm. Đồng chí này nhiều năm vẫn chưa được kết nạp vào Đảng. Đề bạt lên nghe chừng khó ổn với phương hướng lúc này là mạnh dạn đề bạt cán bộ công, nông... Hình như đọc được tâm trạng của chúng tôi, đồng chí Chủ nhiệm vỗ tay xuống bàn, cười: - Các cậu sợ tớ mất lập trường giai cấp chứ gì? Không đâu. Đây là một bác sĩ có tài, đã cứu được nhiều cán bộ mình thập tử nhất sinh từ chiến trường gửi về. Con người như thế đề bạt là xứng đáng. Khi đưa cậu ta lên, cậu ta thấy được Đảng tin cậy, tạo thêm sự phấn khởi mới để chữa chạy cho cán bộ ta tốt hơn nữa. Như thế có nên không? Sau đó đồng chí giải thích thêm: - Lập trường giai cấp là gì? Trước hết là vì lợi ích giai cấp mà xem xét, cân nhắc. Làm công tác cán bộ mà chỉ đi "sờ" vào thành phần của nhau thì dễ bị thiển cận lắm. Qua ý kiến của đồng chí chủ nhiệm, anh em chúng tôi đều thông suốt và nhất trí. Sự nhất trí đó không phải là do "cấp dưới phục tùng cấp trên” mà chúng tôi đã thấy rõ sự sơ cứng, hẹp hòi của mình trong việc vận dụng đường lối giai cấp của Đảng. Công tác cán bộ vô cùng phong phú. Những kinh nghiệm, những bài học chẳng bao giờ lặp lại nguyên xi. Có lần chúng tôi dự kiến sắp xếp một đồng chí cán bộ cũ nguyên là công nhân, hoạt động chiến đấu rất kiên cường, đã nhiều lần vào tù ra tội trong nhà tù đế quốc lên giữ một cương vị chủ trì ở cấp quân khu. Phương án đó khi báo cáo với cục được các đồng chí phụ trách coi đó là một phương án hay. Buổi làm việc với Tổng cục, tôi có báo cáo dự kiến đó. Khác với nhiều trường hợp, sau khi báo cáo, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục thường có ý kiến ngay, đồng ý, chưa đồng ý hoặc phải bổ sung thêm, v.v... nhưng ở trường hợp này đồng chí chỉ nói: - Cứ báo cáo với Thường vụ Quân ủy để các anh ấy có ý kiến. Như thế có nghĩa là thủ trưởng còn có điều gì do dự. Buổi chiều hôm ấy, sau giờ làm việc trời đổ mưa nên mọi người còn ngồi nán lại. Nhân lúc ngồi chờ, đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục nói thêm với chúng tôi: - Cậu ấy cùng bị tù với mình ở nhà lao Thừa Thiên. Phải nói đó là một con người kiên trung bất khuất. Những lần địch khủng bố cậu ấy lăn lưng ra để che đòn cho mình, che cho các đồng chí yếu. Một lần ta tổ chức đấu tranh tuyệt thực, địch thẳng tay đàn áp, đồng chí đó bị đánh ngất đi, khi tỉnh dậy lại đấu tranh. Con người như thế quý lắm. Những việc ấy đến bây giờ nhiều đồng chí vẫn còn nhớ. Tôi ngồi nghe và thầm nghĩ: Có lẽ mình nghiên cứu sắp xếp trường hợp này còn chưa thỏa đáng, chưa phù hợp với ý định của thủ trưởng chăng? Ngừng một lát đồng chí nói tiếp: - Về phẩm chất cách mạng con người như thế là một tấm gương, nhưng về người lãnh đạo, lăn lưng ra để chịu đòn thù thì chỉ mới là anh xung kích dũng cảm mà thôi, thiếu hẳn phần mưu lược, nên khi đảm đương công việc lớn sẽ không ít khó khăn. Ta cần phải hiểu đúng cán bộ và sử dụng cũng phải thật đúng mới phát huy được tác dụng. Vâng! Như thế là chúng tôi đã hiểu. Phẩm chất phải đi đôi với năng lực, đức và tài. Điều mà ta thường nói đến hàng ngày, nhưng khi vận dụng vào thực tế để đánh giá đúng người, sử dụng đúng chỗ thì không đơn giản một chút nào, nó đòi hỏi một sự nhận thức và sự phân tích thật tinh tế mới thấy rõ được. Đó là một bài học thực tế mà đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục đã giúp cho chúng tôi. Những ngày được làm việc với đồng chí Nguyễn Chí Thanh, có những lúc rỗi rãi ngồi vui, đồng chí hỏi chúng tôi: "Các cậu làm việc với Nguyễn Chí Thanh "hóc" lắm phải không?". Kể ra cái "hóc" ở đây không phải là đồng chí khó khăn mà còn thường xuyên phân tích chỉ bảo cho chúng tôi. Cái chính là tầm với của chúng tôi chưa bắt nhịp được với những đòi hỏi suy nghĩ của đồng chí. Nhưng mỗi lần như vậy lại giúp cho chúng tôi những bước trưởng thành và là những bài học không thể nào quên trong đời làm công tác cán bộ của mình. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2022, 10:53:06 pm MỘT SỐ HỒI TƯỞNG NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY THÀNH LẬP CƠ QUAN CÁN BỘ Đại tá PHẠM HỮU TRÍ Nguyên trưởng phòng B-C - Cục Cán bộ Hồi tưởng và suy nghĩ lại những thời điểm còn đọng lại trong tâm trí, tôi không có điều kiện và khả năng đi sâu vào một mặt nào đó mà chỉ hồi tưởng, ghi lại những việc mà công tác cán bộ đã làm trong một thời điểm nhất định và cũng có thể là một số kinh nghiệm nào đó. Tôi về công tác cán bộ vào thời điểm những năm 1960 - 1968. Về công tác lại được phân công phụ trách (phòng B-C) trong khi cách mạng nước ta đang ở thời điểm chuyển biến mang tính giai đoạn quan trọng. Miền Nam đã qua thời kỳ đấu tranh chính trị - hợp pháp, do tính chất vô cùng tàn bạo của kẻ thù và phong trào cách mạng thúc bách chuyển sang đấu tranh vũ trang theo phương châm chính trị - vũ trang. Miền Bắc sau ngót chục năm giải phóng đang ở thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương lớn cho cách mạng miền Nam. Từ tình hình đó, nhiệm vụ được xác định qua Nghị quyết 15 của Trung ương: - Miền Nam chuyển sang đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và kết hợp đấu tranh chính trị - đấu tranh vũ trang xây dựng lực lượng, từng bước đưa cách mạng tiến lên. - Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược bảo vệ miền Bắc, làm hậu phương chi viện cho cách mạng miền Nam, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế. Từ những nghị quyết đúng đắn đó, trên lĩnh vực quân sự, những nhiệm vụ chiến lược được đặt ra và đi vào thực hiện. Những nhiệm vụ đó đều được triển khai từng bước rất khẩn trương. Có nhiều yếu tố, nhưng yếu tố công tác cán bộ là một trong những vấn đề có tính quyết định cho việc thực hiện những nhiệm vụ chiến lược đó. A- Điều quan trọng đầu tiên là lập lại đường dây Bắc - Nam: - Đoàn 559 được chuẩn bị hình thành. Những cán bộ quen thuộc thông thạo được giao nhiệm vụ trong điều kiện phải bảo đảm hết sức bí mật để từng bước vươn tới phía Nam và liên lạc với cách mạng các nước bạn Lào, Cam-pu-chia. Đường dây ngày càng vươn rộng vươn xa, trong tình hình chiến tranh ngày càng ác liệt và gian khổ. - Đoàn 125 vận chuyển trên biển cũng được hình thành dựa vào tổ chức cán bộ của Quân chủng Hải quân và các đơn vị tại chỗ, gồm những cán bộ chiến sĩ vô cùng anh dũng đã thực hiện tốt chức năng vận chuyển vũ khí và cả một số cán bộ quan trọng tạo thêm nguồn cung cấp từ phía Bắc, nhất là vũ khí trang bị cho miền Nam. - Lữ đoàn 338 cũng được giao nhiệm vụ quản lý bồi dưỡng giáo dục và tổ chức vận chuyển, đưa cán bộ nhân viên đi theo yêu cầu của các chiến trường. Lúc đầu lữ đoàn ở Xuân Mai, sau chuyển vào Thanh Hóa. - Trạm 83 đón tiếp cán bộ ra vào tại Lý Nam Đế. Những tổ chức đó được hình thành và công tác cán bộ đã đáp ứng đủ số lượng và chất lượng, từng bước được kiện toàn. B- Công tác cán bộ đã quán triệt các nghị quyết và sự chỉ đạo của trên triển khai thực hiện theo sự phát triển của cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, kết hợp chặt chẽ cán bộ tại chỗ với cán bộ được bổ sung từ miền Bắc; đồng thời chuẩn bị cán bộ cho các nhu cầu phát triển lực lượng chiến đấu của miền Nam. + Do sự phát triển của đấu tranh quân sự mang tính chất địa phương, phát triển chiến tranh du kích, xây dựng phong trào, vì thế cần kiện toàn về mặt tổ chức cán bộ đối với quân sự địa phương. Do đặc điểm nguồn cán bộ được bổ sung từ miền Bắc, cơ quan cán bộ đã chọn lọc những cán bộ tập kết còn đủ điều kiện, tích cực bồi dưỡng theo yêu cầu mới; thực hiện chế độ chính sách và cử về công tác chiến đấu tại các địa phương để kết hợp với cán bộ trưởng thành tại chỗ, nên đã tạo được sự chuyển biến mới của phong trào đấu tranh ở miền Nam. + Từng bước kiện toàn các lực lượng quân sự địa phương hình thành sự chỉ huy chỉ đạo của quân khu và của Miền (sau này gọi là R), công tác cán bộ đã chọn lựa các đồng chí đã chiến đấu ở miền Nam còn đủ điều kiện tích cực bồi dưỡng rèn luyện nên cũng đã được bổ sung từng bước. + Khi tình hình phát triển rộng khắp, nhân sự cũng có những khó khăn về quân số của một số chiến trường vì còn bị tạm chiếm đóng của kẻ địch. Vì vậy miền Bắc đã chọn lựa huấn luyện rất chu đáo và hình thành các tiểu đoàn. Cán bộ sắp xếp tại các đơn vị này cũng được chọn lựa huấn luyện chu đáo. Đã hình thành các tiểu đoàn có quân chi viện cho một số nơi, các đơn vị phía Bắc vào làm nhân cốt cho sự phát triển lực lượng ở một số địa phương. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2022, 10:54:22 pm C- Do phong trào cách mạng ở miền Nam ngày càng phát triển, kẻ địch liên tiếp bị thất bại nên chúng chuyển hướng chiến lược, từ "chiến tranh đặc biệt" sang "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. + Với trách nhiệm của hậu phương chiến lược, nhiệm vụ công tác cán bộ thời điểm này đòi hỏi rất cao. Việc củng cố mở rộng lực lượng, có nhiều binh quân chủng phát triển, đáp ứng cho nhu cầu phát triển của miền Nam hình thành các đơn vị địa phương, chủ lực của nhiều cấp đòi hỏi việc bảo đảm chiến đấu cũng khác trước, trong đó có vấn đề chuẩn bị và mở rộng đào tạo huấn luyện tại chỗ về quân sự, chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng cho chiến đấu. Quán triệt sự chỉ đạo đó, công tác cán bộ cũng đã triển khai đối với cả hai miền nhiều biện pháp vững chắc sáng tạo. + Đối với lực lượng vũ trang miền Bắc, tích cực chuyển hướng bồi dưỡng, đào tạo, bằng nhiều biện pháp chuyển binh chủng, đi học ngoài đồng bộ, v.v... + Khi kẻ địch gây sự kiện "vịnh Bắc Bộ" ngày 5 tháng 8 năm 1964, được sự chỉ đạo sáng suốt của trên, công tác cán bộ đã kịp thời đáp ứng ngay để lựa chọn những cán bộ cốt cán chỉ huy, lãnh đạo cho một số binh chủng (thông tin, phòng không...) và một số ngành nhất là chỉ huy hậu cần, quân y. Sau năm 1965 đã hình thành các tổ chức chỉ huy của cơ quan quân khu và Miền. Sau đó bổ sung dần những cán bộ giáo viên của một số ngành chuẩn bị cho việc mở rộng đào tạo, đặc biệt cán bộ bác sĩ quân y đã được bổ sung hàng loạt để đảm bảo sức chiến đấu của bộ đội và hình thành các tổ chức quân y bảo đảm chiến đấu. + Đặc biệt với đường dây dài ngày càng vươn sâu, vươn xa và rộng khắp, việc đảm bảo cán bộ phải đáp ứng các nhiệm vụ vận chuyển, chiến đấu (pháo phòng không, tên lửa) và bảo đảm chất lượng hành quân ngày càng lớn và vận chuyển thương binh sau này. D- Miền Nam đòi hỏi chiến đấu ngày càng quy mô lớn, miền Bắc đòi hỏi chiến đấu đánh bại "chiến tranh phá hoại", yêu cầu chuẩn bị lực lượng khi thời cơ đến, nên đã hình thành các đơn vị lớn và binh quân chủng hợp thành. + Miền Nam hình thành các đơn vị chủ lực cấp trung đoàn và một số sư đoàn. Để tiếp tục bổ sung cho cách mạng miền Nam, miền Bắc bắt đầu nhân một số đơn vị chủ lực thành nhiều trung đoàn, sư đoàn đủ cả quân số và cán bộ để chi viện. Hình thành các khung bổ sung nhân cốt quan trọng của trung đoàn và sư đoàn để bổ sung kiện toàn các trung đoàn, các sư đoàn đã thành lập, chiến đấu ở miền Nam. Chính các yếu tố đó đã nâng nhanh chóng chất lượng chiến đấu ở các đơn vị và hiệu quả ngày càng cao. + Khi mở rộng chiến tranh cũng là lúc miền Bắc hình thành các đoàn an dưỡng, các đơn vị quân y thu dung (mở rộng các tuyến bệnh viện)... để đáp ứng nhu cầu an dưỡng, điều dưỡng thương bệnh binh cho toàn quân. Đ- Từ những nhiệm vụ và biện pháp đó, công tác cán bộ đã góp phần quan trọng bảo đảm xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh đủ sức cùng toàn dân cả nước giành chiến thắng. Riêng nhiệm vụ quốc tế, với quan điểm "giúp bạn là tự giúp mình" và theo yêu cầu của bạn, được sự đồng ý của trên, công tác cán bộ đã làm được một số việc đáng kể: + Với Lào: chủ yếu là đội ngũ chuyên gia vừa mang tính thường xuyên lâu dài, vừa mang tính chuyên sâu về nhiều mặt. Mặt khác đảm bảo các lực lượng hoạt động thường xuyên, đột xuất giúp bạn. Có cả cán bộ hoạt động vận động quần chúng. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ giúp bạn từ văn hóa đến chuyên môn... + Với Cam-pu-chia: đã tích cực bồi dưỡng đào tạo số cán bộ tập kết ra Bắc thành những cán bộ cần thiết. Sau đó bố trí ở các bộ chỉ huy quân sự địa phương của bạn và tiếp tục bồi dưỡng một số nghiệp vụ cần thiết giúp bạn. Khoảng những năm 1966 - 1967, do nhu cầu phát triển của bạn ta đã tiếp tục bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức đưa về nước hoạt động (khoảng 300-350 cán bộ) và tiếp tục chuẩn bị cho những năm sau. + Khi cách mạng miền Nam đã trưởng thành, công tác cán bộ lúc đó có chủ trương: - Tiếp tục đưa cán bộ ở một số cơ quan của Bộ Tổng tư lệnh và quân binh chủng đi thực tế ở miền Nam có thời hạn để tích lũy kinh nghiệm chiến đấu. - Rút một số cán bộ đã qua quá trình chiến đấu ở miền Nam ra miền Bắc để bồi dưỡng đào tạo lâu dài. Trên đây là những suy nghĩ ôn lại những thời điểm sôi nổi nhất, không phải là những kinh nghiệm cụ thể. Công tác cán bộ trước hết phải là của cấp ủy, của chỉ huy. Cơ quan là nơi quản lý và tham mưu, được sự thực hiện của các ngành các cấp, nhất là hệ thống nhà trường trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Nhưng dù sao đối với bản thân, cũng xin đề cập một số kinh nghiệm theo quan niệm của tôi trong quá trình hoạt động. Một số điểm nổi lên là: 1. Khẳng định sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, nhất là các nghị quyết của Trung ương trong những thời điểm chuyển hướng quan trọng, coi các nghị quyết như kim chỉ nam và tạo được sự nhận thức mới đối với tình hình. Mặt khác, sự chỉ đạo và thực hiện trong quân đội đã thực sự dự kiến tình hình hiện tại cũng như sự phát triển trong tương lai. 2. Những cơ quan mang tính chất quan trọng của Bộ Quốc phòng như Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Hậu cần và vai trò của Cục Cán bộ có vị trí đặc biệt trong việc phối hợp, kết hợp tổ chức thực hiện, đồng thời phải tổ chức các đơn vị chuyên trách đi sâu tạo sự đồng bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ. 3. Cơ quan chiến lược đầu ngành đòi hỏi không những về phẩm chất, tư cách mà còn đòi hỏi sự hiểu biết nắm vững những chủ trương quan trọng của trên; phải tích cực chủ động đề xuất, bám sát các cơ quan chức năng về tác chiến, tổ chức, quân lực, v.v... Đặc biệt trong giai đoạn đó tôi được tham dự những cuộc họp có liên quan và khi cần được gặp xin ý kiến của lãnh đạo cấp trên - những ý kiến làm tôi phải suy nghĩ không chỉ trước mắt mà cả lâu dài. Tôi nhớ nhất là các anh Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Văn Trà, v.v... Quá trình được tiếp xúc và làm việc với các anh, tôi thấy các anh đều có những gợi ý một cách cụ thể và toàn diện cho sự phát triển của cách mạng miền Nam. Theo tôi, đó là những đòi hỏi đối với cán bộ ở cơ quan Cục Cán bộ - cơ quan mang tính chiến lược, cơ quan đầu ngành giúp cho chỉ đạo. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2022, 11:00:26 pm CHĂM LO CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ Đại tá NGUYỄN HOÀNG Nguyên trưởng phòng Hậu phương - Bảo dưỡng cán bộ Tôi trở về Cục Cán bộ đầu năm 1960 và công tác ở cục cho đến năm 1978 thì về Phòng Quản lý Tổng cục Chính trị. A. Trong gần 18 năm làm công tác bảo dưỡng tôi nhận thức sâu sắc về công tác Bảo dưỡng là: 1. Tình thương của Đảng và quân đội đối với cán bộ là trọn nghĩa, vẹn tình. Nó không những thể hiện trong việc chăm lo cho cán bộ về tinh thần, tư tưởng, năng lực hoạt động, mà còn chăm lo sức khỏe và gia đình cán bộ, chăm sóc lúc khỏe mạnh cũng như khi ốm đau và cho đến lúc chẳng may qua đời, khiến cho cán bộ luôn thấy sự nghiệp và hạnh phúc gia đình mình gắn liền với Đảng và quân đội, yên tâm phấn đấu cho sự nghiệp của Đảng và quân đội. 2. Trong tổ chức thực hiện công tác bảo dưỡng phải nắm vững: - Đặc điểm tình hình nhiệm vụ cách mạng. - Yêu cầu nhiệm vụ của quân đội trong thời bình cũng như thời chiến. - Khả năng kinh tế của nhà nước và nhân dân. - Khả năng tổ chức thực hiện của các đơn vị. - Phải tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các cấp, các ngành trong và ngoài quân đội. - Phải kết hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan trong quân đội để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong tổ chức thực hiện. 3. Người làm công tác bảo dưỡng phải có lòng nhân ái, vị tha, coi khó khăn của đồng đội như khó khăn của bản thân mình mà tận tình giúp đỡ giải quyết. - Phải quý trọng cán bộ và gia đình cán bộ, chống tư tưởng ban ơn, làm phúc. - Phải liêm khiết, chí công vô tư, không được lấy mình làm trung tâm để so sánh khi thực hiện chính sách. - Không được lợi dụng tình cảm của mọi người để làm những việc có lợi cho bản thân mình. - Phải cụ thể, tỉ mỉ, chu đáo, kiên nhẫn lắng nghe hết ý kiến của người mà mình tiếp xúc, dù rằng việc ấy mình đã nghe nhiều lần, để mọi người khi đến với tổ chức dù được giải quyết hay không được giải quyết đều vui vẻ thấy rằng tổ chức đã hết lòng vì mình. B. Thập kỷ sáu mươi là thập kỷ phấn đấu xây dựng các chế độ, chính sách phúc lợi xã hội cho cán bộ quân đội, đồng thời tích cực tổ chức thực hiện các chế độ chính sách đã được ban hành. Thời kỳ đầu của những năm sáu mươi quân đội đang xây dựng chính quy và sẵn sàng chiến đấu cao, nên công việc bề bộn, phải làm ngày làm đêm vẫn không hết việc. Cán bộ chủ trì từ cấp trung đoàn trở lên hầu hết sức khỏe loại 3 nhưng không thể bỏ việc đi điều trị, an dưỡng được. Cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở xuống sức khỏe có khá hơn, nhưng nếu cứ kéo dài tình trạng làm việc triền miên thì cũng không đảm bảo công tác được lâu dài. Toàn quân lúc này chỉ có một đoàn an dưỡng 400 giường ở Đồ Sơn, không đủ để thu dung cán bộ, chiến sĩ sau khi điều trị ở bệnh viện ra điều dưỡng. Đoàn an dưỡng này do Cục Quân y quản lý nên chỉ có nhiệm vụ tiếp nhận quân nhân vào điều dưỡng khi có giấy của bệnh viện gửi về. Chế độ ăn ở bệnh viện và điều dưỡng nhất loạt theo chế độ bệnh lý, do đó khi mới nhập viện và điều dưỡng, cán bộ, chiến sĩ ăn như nhau, không phù hợp với tình hình tuổi tác, sức khỏe và công lao cống hiến của từng cấp cán bộ và chiến sĩ. Sau nhiều năm chiến đấu xa nhà, nguyện vọng thiết tha của cán bộ là được gần gũi gia đình, do đó tư tưởng muốn chuyển vùng, muốn đưa vợ con từ nông thôn ra gần nơi đóng quân là tâm tư day dứt, thầm kín trong nhiều cán bộ các cấp. Lúc này cơ quan chính sách của Bộ Quốc phòng chưa hình thành mà từng cục theo chức trách nhiệm vụ của mình dự thảo các chính sách có liên quan đến ngành mình, thông qua tổng cục mà mình trực thuộc, rồi chuyển sang Phòng Chính sách Cục Tổ chức để hợp đồng, phân công viết thành những văn bản chính thức do Bộ hoặc Tổng cục Chính trị ban hành. Cục Cán bộ dự thảo chế độ ăn ban đầu cho cán bộ các cấp khi mới vào bệnh viện và đề nghị vận dụng chế độ ăn này cho cán bộ đi an dưỡng, nghỉ dưỡng sức, đồng thời đối với cán bộ ốm, yếu vì điều kiện công tác không đi điều trị an dưỡng được cũng được hưởng chế độ ăn bồi dưỡng này (gọi là bồi dưỡng tại chức). Sau khi báo cáo với Tổng cục, Tổng cục chỉ thị sang báo cáo với Ban Tổ chức Trung ương. Ít lâu sau Ban Tổ chức Trung ương triệu tập một cuộc họp gồm các bộ: Y tế, Tài chính, Lao động, Nội thương... và Tổng cục Chính trị bàn về bảo vệ sức khỏe cán bộ. Anh Trần Hiếu lúc ấy là trưởng phòng chính sách Cục Tổ chức và tôi được Tổng cục gọi lên giao nhiệm vụ đi họp. Anh Mậu dặn: "Các cậu được báo cáo những gì đã báo cáo với tổng cục nhưng không được làm cho các cơ quan ngoài quân đội hiểu lầm mình là công thần". Trong hội nghị này anh Trần Hiếu báo cáo tình hình sức khỏe bộ đội không đáp ứng được yêu cầu huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu cao và đề nghị cho bộ đội được ăn theo chế độ định lượng. Tôi báo cáo về tình hình sức khỏe cán bộ và đề nghị chế độ bồi dưỡng cho cán bộ khi đi điều trị, an dưỡng sẽ được vận dụng cho cán bộ ốm yếu nhưng vì điều kiện công tác không đi điều trị, an dưỡng được. Trong hội nghị này, các bộ tập trung nhiều ý kiến cho rằng tiêu chuẩn thịt 1,2kg của chiến sĩ và cán bộ sơ cấp trong quân đội so với cán bộ công nhân viên nhà nước là 300g, 600g, cấp vụ 1kg là cao. Sau đó anh Lê Đức Thọ kết luận: Sức khỏe là yêu cầu đặc biệt đối với quân đội, các chất dinh dưỡng cho cơ thể anh em chỉ gói tròn trong 1,2kg thịt. Chúng ta còn được vợ, con bổ sung thêm bằng canh cua, ốc hến, chứ bếp đại đội, tiểu đoàn thì làm sao làm được. Trước mắt để quân đội thực hiện trước chế độ ăn bồi dưỡng cho cán bộ ở bệnh viện, an dưỡng và những đồng chí ốm yếu nhưng vì điều kiện công tác không đi điều trị an dưỡng được. Sau khi báo cáo tình hình cuộc họp và kết luận của anh Lê Đức Thọ, Tổng cục Chính trị cho phép được triển khai. Cục Tài vụ, Cục Quân y, Cục Quân nhu chuẩn bị văn bản để Tổng cục Hậu cần ban hành quy định về tiêu chuẩn ăn, uống, thuốc men cho cán bộ các cấp khi đi điều trị và an dưỡng. Cục Cán bộ hướng dẫn chế độ bồi dưỡng tại chức cho cán bộ. Cũng thời gian này Cục Cán bộ được Tổng cục giao nhiệm vụ sang làm việc với Bộ Nội thương, đề nghị cho cán bộ quân đội đóng trên khu vực Hà Nội được hưởng chế độ tem, phiếu như cán bộ, nhân viên nhà nước cư trú tại Hà Nội, thế là phiếu C cho cán bộ cấp tá công tác trên khu vực Hà Nội có từ đây; sau này vận dụng, gia đình cán bộ đi chiến đấu ở chiến trường B, C cư trú tại Hà Nội cũng được hưởng. Đi đôi với việc thực hiện chế độ bồi dưỡng tại chức, Cục Cán bộ đã dự thảo chế độ nghỉ dưỡng sức cho cán bộ trong quân đội, Tổng cục cho phép được báo cáo với Bộ Quốc phòng và sau đó Bộ Quốc phòng đã ban hành thông tư về chế độ nghỉ dưỡng sức trong quân đội (thông tư này do anh Nguyễn Văn Vịnh - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ký), thông tư ghi rõ: Chế độ nghỉ dưỡng sức được áp dụng cho tất cả sĩ quan trong quân đội. Thời gian nghỉ 10 ngày không tính vào phép năm. Do điều kiện cơ sở có hạn nên quy định tỷ lệ cán bộ đi nghỉ hàng năm như sau:
Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2022, 11:01:05 pm Bộ giao trách nhiệm cho các quân khu xây dựng cơ sở nghỉ dưỡng sức cho cán bộ của đơn vị mình và một phần để nhận cán bộ của các đơn vị khác trong toàn quân. Bộ định hướng địa điểm xây dựng cho các quân khu nhằm hình thành một hệ thống nhà nghỉ có miền biển, trung du, vùng cao thích hợp với tình hình sức khỏe, bệnh tật, tuổi tác của cán bộ các cấp trong quân đội. Quân khu Tây Bắc xây dựng ở Mộc Châu. Quân khu Việt Bắc xây dựng ở Tam Đảo. Mẫu Sơn. Quân khu Tả Ngạn xây dựng ở Đồ Sơn. Quân khu Hữu Ngạn xây dựng ở Sầm Sơn. Quân khu Đông Bắc xây dựng ở Bãi Cháy. Quân khu 4 xây dựng ở Cửa Lò. Bộ phân công: Tổng cục Hậu cần đảm bảo vật chất cho xây dựng cơ sở, trang thiết bị cho nhà nghỉ, chế độ ăn uống thuốc men cho cán bộ đi nghỉ để các quân khu tổ chức thực hiện. Tổng cục Chính trị lập kế hoạch xây dựng cơ sở và kế hoạch đi nghỉ cho cán bộ hàng năm. Trong tổ chức thực hiện cụ thể, nhiều quân khu đã tận dụng doanh trại sẵn có tu sửa lại để cho cán bộ nghỉ, chỉ xây mới được ở Sầm Sơn, Cửa Lò, Đầm Vạc. Sau khi hình thành hệ thống nghỉ dưỡng sức, Cục Quân y bàn giao đoàn an dưỡng Đồ Sơn cho Cục Cán bộ quản lý. Cũng trong thời gian này, Tổng cục chỉ thị cho Cục Cán bộ kết hợp với Cục Quân y hướng dẫn cho cơ quan cán bộ và quân y các cấp quản lý sức khỏe và thời gian công tác của cán bộ nhằm hạn chế sự làm việc quá sức của cán bộ. Đối với hậu phương gia đình cán bộ, Cục Cán bộ đã làm dự thảo báo cáo về phương hướng và kế hoạch giải quyết, được Tổng cục cho phép báo cáo với Quân ủy, Bộ Quốc phòng và được chấp thuận như sau: - Các tổng cục, các quân khu, quân chủng, nhà trường, thành đội, tỉnh đội được xây dựng khu gia đình để giải quyết khó khăn cho cán bộ thuộc đơn vị mình và tiếp nhận một số trường hợp do Tổng cục Chính trị gửi tới. - Các sư đoàn, binh chủng được sử dụng nhà chiêu đãi sở để giải quyết những trường hợp khó khăn nhất của cán bộ thuộc đơn vị mình. - Khuyến khích cán bộ ổn định hậu phương gia đình, đừng vội chuyển vợ con ở nông thôn ra thành thị, ở thị xã thị trấn về các thành phố lớn vì khó khăn về nhà ở và công ăn việc làm chưa giải quyết ngay được. Các đơn vị đã tận dụng nhà sẵn có sửa chữa lại để thành lập khu gia đình. Lúc bấy giờ chỉ có Quân khu 4 xây khu gia đình cao tầng ở Vinh. Hà Nội mới xây dựng được ba nơi Phúc Xá, Hoàng Diệu, Nam Đồng. Nam Đồng lúc bấy giờ là nơi xa thành nhất nên khi phân nhà không ai muốn nhận. Tổng cục chỉ thị cho Cục Cán bộ xin ý kiến anh Văn Tiến Dũng. Anh Dũng cho ý kiến: - Chia đều cả ba khu cho các đơn vị theo tỷ lệ 30% khó khăn của từng đơn vị. - Giao cho Tổng cục Chính trị quản lý khu Nam Đồng, Bộ Tổng Tham mưu quản lý khu Hoàng Diệu, Tổng cục Hậu cần quản lý khu Phúc Xá. Những ý kiến chỉ đạo cụ thể đó chứng tỏ sự quan tâm của Quân ủy đối với cán bộ. Cục Cán bộ cũng đã dự thảo nghi thức tang lễ trong quân đội. Tổng cục chỉ thị sang báo cáo xin ý kiến Ban Tổ chức Trung ương, rồi giao tài liệu cho Cục Quân lực biên soạn thành quy định nghi thức tang lễ trong quân đội do Bộ Tổng Tham mưu ban hành. Cục Cán bộ đã cùng với Cục Tài vụ báo cáo đề nghị với Quân ủy và được Quân ủy cho phép được trích 11,5% tổng số quỹ tiền lương làm quỹ phúc lợi như các bộ trong Chính phủ đã làm. Theo hướng dẫn của Tổng Công đoàn thì trong số 11,5% làm quỹ phúc lợi sẽ trích ra 1% cho an dưỡng, 2% cho bồi dưỡng ăn uống, thuốc men khi ốm đau phải nằm bệnh xá hay bệnh viện. Do nhiệm vụ bệnh viện trong quân đội khác với bệnh viện của nhân dân, là nơi không chỉ đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ mà còn phải đáp ứng yêu cầu chiến đấu của quân đội, do đó kinh phí về y tế của quân đội do ngân sách quốc phòng đảm bảo. Quân ủy cho phép được dùng 1% cho an dưỡng, 2% cho y tế vào việc bồi dưỡng sức khỏe cho cán bộ khi đi an dưỡng, nghỉ dưỡng và bồi dưỡng tại chức, Cục Cán bộ còn phải trực tiếp mua các loại thuốc bổ để phân phối cho các đơn vị và chi viện cho các chiến trường B, C. Một cơ sở nấu cao được thành lập ở đoàn an dưỡng Thanh Miện (Hải Dương) do Bộ tư lệnh Pháo binh đăng cai tổ chức sản xuất để cấp phát cho cán bộ. Cũng trong thời gian này Cục Cán bộ đã được giao nhiệm vụ quản lý gia đình cán bộ, chiến sĩ đi công tác B. Sau này số lượng đi ngày càng đông hơn, việc quản lý gia đình đi công tác B được chuyển giao sang Ban Thống nhất Trung ương, sau sang Bộ Lao động (nay là Bộ Lao động - Thương binh Xã hội). Sau "sự kiện vịnh Bắc Bộ", miền Bắc chuyển sang sinh hoạt thời chiến. Các đơn vị bước vào chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu cao, các cơ quan Bộ, quân khu, quân chủng, binh chủng, thành đội, tỉnh đội, nhà trường phải sơ tán ra ngoài doanh trại. Các đoàn an dưỡng, các khu gia đình cũng phải sơ tán để bảo đảm an toàn cho cán bộ và hậu phương gia đình cán bộ, lưu lượng các đoàn an dưỡng giảm xuống mức tối thiểu và tổ chức gọn nhẹ, sơ tán ở những vùng tương đối an toàn. Giảm bớt việc đi lại của cán bộ, chế độ bồi dưỡng tại chức được mở rộng đến cán bộ sơ cấp đang chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu cao. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2022, 11:01:35 pm Đi đôi với việc sơ tán các khu gia đình, Cục Cán bộ còn chỉ đạo các đơn vị tổ chức sơ tán trại trẻ để bảo đảm an toàn cho các cháu. Riêng Cục Cán bộ phải trực tiếp tổ chức ba trại trẻ (hai cho gia đình cán bộ đi B - C và một cho nội bộ cục). Do sơ tán kịp thời nên một số lần bị máy bay Mỹ ném bom, bắn phá, nhưng các khu gia đình và trại trẻ sơ tán đều bảo đảm an toàn. Khi giải phóng miền Nam, Cục được giao nhiệm vụ giúp các "bê" (B) tổ chức thực hiện các chế độ phúc lợi cho cán bộ, vận dụng các tiêu chuẩn đãi ngộ về phúc lợi thích hợp, tạo điều kiện cho sau này thống nhất quản lý chế độ, tiêu chuẩn phúc lợi của toàn quân. Từ năm 1967 trở đi số lượng cán bộ đi công tác B ngày càng nhiều, không phải chỉ đi lẻ mà đi gọn cả đơn vị trong thời gian ngắn, vì vậy việc bàn giao hậu phương gia đình cho Bộ Thương binh Xã hội không được đầy đủ, Bộ chỉ đạo các tỉnh thực hiện chính sách không kịp thời, gây khó khăn cho nhiều gia đình cán bộ, ảnh hưởng lớn đến tư tưởng cán bộ khi nhận nhiệm vụ chiến đấu ở các chiến trường. Trước tình hình ấy Tổng cục quyết định tổ chức Phòng Hậu phương cán bộ, để tiếp nhận quản lý gia đình cán bộ đi công tác B - C. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, được sự đồng ý của Tổng cục Chính trị và Bộ Quốc phòng, trong thời gian ngắn Cục Cán bộ đã chỉ đạo tổ chức hình thành một hệ thống quản lý gia đình B - C từ tổng cục đến quân khu, thành đội, tỉnh đội bao gồm: quản lý nhân sự, cấp phát tài chính, thực hiện chính sách và thống nhất với Ban Tổ chức Trung ương. Nhiệm vụ được phân công: - Quân đội quản lý danh sách và cấp phát tài chính cho gia đình cán bộ chiến sĩ đi B - C. - Các địa phương chăm lo giải quyết chính sách bao gồm cấp tem phiếu (ở thành thị), tính công điểm (ở nông thôn); chăm sóc y tế, học hành cho con cái do địa phương thực hiện. Cùng một lúc Cục Cán bộ phải nhận bàn giao danh sách gia đình B - C từ Bộ Thương binh Xã hội, mời các đơn vị về đối chiếu, bổ sung, xác nhận danh sách, mời các quân khu về nhận bàn giao danh sách gia đình B - C thuộc quân khu mình quản lý, giao cho cơ quan các tổng cục, quân binh chủng, nhà trường quản lý số gia đình B - C công tác tại đơn vị mình, phát hiện những gia đình B - C cư trú trong khu gia đình của đơn vị cho cơ quan quân sự địa phương quản lý. Cục Cán bộ cùng với Cục Tài vụ, Cục Quân y lập sổ cấp phát tài chính, cấp phiếu khám bệnh và điều trị cho gia đình B - C ở các bệnh viện quân đội. Sau ngày miền Nam giải phóng Cục Cán bộ đã giúp Khu 5 và B2 tổ chức các cơ sở an dưỡng Mỹ Khê, Nha Trang, Vũng Tàu, Vĩnh Long, Đà Lạt. Phân công Tổng cục Kỹ thuật tổ chức cơ sở an dưỡng cho công nhân quốc phòng các tổng cục ở Bãi Sau - Vũng Tàu, Vĩnh Long, sau này chuyển về Long Hải; Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân quản lý đoàn an dưỡng Đà Lạt, sau này bàn giao lại cho Học viện Lục quân và về Nha Trang tổ chức cơ sở khác. Năm 1976 tổ chức hội nghị an dưỡng tại Huế để thống nhất tiêu chuẩn, chế độ nghỉ an dưỡng, dưỡng sức trong toàn quân. Cục Cán bộ đã cùng với Bộ tham mưu Tổng cục Hậu cần và Cục Vận tải đề nghị với Bộ Quốc phòng và được Bộ đồng ý cho Cục Vận tải tổ chức một tiểu đoàn xe ca và xe con để cán bộ chiến đấu ở B được về phép thăm gia đình ở miền Bắc, đồng thời chở cán bộ ở miền Bắc đi an dưỡng và dưỡng sức ở các cơ sở phía Nam kết hợp tham quan đất nước. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 02 Tháng Mười Một, 2022, 11:05:40 pm BÀI HỌC NHẬP MÔN KHI TÔI BƯỚC VÀO NGÀNH CÁN BỘ Đại tá NGUYỄN LY SƠN Nguyên trưởng phòng cán bộ CMKT - Cục Cán bộ Cuối năm 1954 tôi được điều động từ sư đoàn 308 về Phòng Cán bộ, Cục Tổ chức Tổng cục Chính trị, nằm trong loạt cán bộ có hồ sơ đã qua chiến đấu ở các đơn vị về cơ quan Bộ. Tôi bước vào ngưỡng cửa của ngành cán bộ và sau đó ở ngành này mười lăm năm, tức khoảng một phần ba tổng số năm công tác trong quân đội. Có hai việc làm tôi nhớ mãi, vì chính nó đã giúp tôi những hiểu biết cơ bản về công tác tổ chức cán bộ, ngay từ những ngày đầu tiên vào ngành, sau đó đã có tác dụng hướng dẫn suy nghĩ hành động đúng trên các cương vị lãnh đạo và chỉ huy mấy chục năm sau. Sau khi gặp trưởng phòng cán bộ, việc đầu tiên tôi được giao là nghiên cứu các tài liệu về công tác, trong đó có chỉ thị 50/CT-4 chỉ đạo về đề bạt cán bộ. Lời lẽ trong chỉ thị không văn hoa mà súc tích rõ ràng. Chỉ thị có phần đánh giá tình hình thiếu cán bộ, nhận xét phê phán hiện tượng hẹp hòi, không dám mạnh dạn đề bạt cán bộ từ dưới lên, không tin cán bộ nhất là đối với cán bộ xuất thân công nông, sau đó nêu lên một phương châm mới trong công tác cán bộ: "bó đũa cột cờ", có nghĩa là trong bó đũa nhất định có chiếc dài hơn một chút, phải tìm được và coi như đây là cột cờ, phải chọn được cột cờ trong bó đũa; trong quần chúng phải biết phát hiện được người nhỉnh hơn về đức, về tài để bồi dưỡng thành cán bộ. Không sợ thiếu cán bộ - Nhớ lại Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo cũng đã nêu lên ý này: "Nước Nam ta, trải qua Đinh - Lê - Lý - Trần, hào kiệt khắp nơi, đời nào chẳng có!". Nay nêu hình ảnh cột cờ trong bó đũa là dựa vào tư tưởng người trước cho rằng cán bộ là từ trong quần chúng mà ra, biết cách tìm kiếm, lựa chọn thì không bao giờ thiếu nhân tài. Phương pháp xem xét, cất nhắc cán bộ trên đã có tác dụng giải tỏa những vướng mắc của các cấp lúc bấy giờ kêu thiếu cán bộ, giải quyết được những quan điểm hẹp hòi trong sử dụng đề bạt cán bộ. Chỉ thị 50/CT-4 như một luồng gió mới thổi vào, làm lay động công tác tổ chức của Đảng bộ Quân đội lúc đó. Gần một vạn cán bộ mới được đề bạt từ dưới lên, đáp ứng kịp nhu cầu chiến đấu của quân đội. Đây là một cách nhìn mới trong công tác tổ chức, có tính biện chứng, thực tiễn, vừa có tính quần chúng. Nói cột cờ trong bó đũa cũng phải hiểu cách chọn cột cờ phải bao gồm cả hai mặt đức và tài, mà tất nhiên muốn chọn được đúng thì phải có lòng tin vào quần chúng, lại phải có cái tâm trong sáng, luôn vì lợi ích chung, không thành kiến, không chịu một sức ép từ phía nào cả. Nếu hẹp hòi đố kỵ, tâm không trong, lòng không sáng thì chẳng bao giờ nhìn thấy cột cờ trong bó đũa mà cũng không chọn được cột cờ đích thực. Chỉ thị 50/CT-4 chính là bài học nhập môn đầu tiên đối với tôi khi bước vào ngành tổ chức cán bộ. Bài học nhập môn thứ hai đối với tôi là vào năm 1957, trong dịp thành lập cơ quan Tổng cục Cán bộ, anh Nguyễn Chánh có buổi gặp gỡ, nói chuyện với cán bộ trong cơ quan. Trong bài nói đó có một số ý kiến cứ ám ảnh tôi mãi suốt những năm công tác ở Cục Cán bộ cũng như sau này khi chuyển ra các đơn vị chiến đấu. Đó là những điều anh Chánh nêu những yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, phong cách của người làm công tác cán bộ cũng như tác phong làm việc của cơ quan cán bộ. Anh nói: "Người làm công tác cán bộ phải biết thương yêu cán bộ. Đừng nghĩ rằng làm việc sắp xếp, đề bạt cán bộ là tự cho mình có quyền đối với cán bộ, đây là quyền của tập thể cấp ủy. Được phân công quản lý nhận xét cán bộ này, cán bộ khác, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt mặt xấu, đừng nghĩ rằng mình cao hơn người ta, hoặc so sánh người ấy kém mình... khi làm công tác chọn lựa, đề bạt, sắp xếp cán bộ phải trung thực, không nói sai, hoặc nói những điều mình không biết, hoặc chưa biết rõ đầy đủ, phải nói hết những điều mình biết về người cán bộ đó một cách chân thực". "Về cơ quan cán bộ phải luôn có thái độ ân cần, chăm lo săn sóc cán bộ. Cơ quan cán bộ phải là nơi để cán bộ tin tưởng gửi gắm tâm tư tình cảm của mình. Khi gặp khó khăn, vướng mắc cán bộ tìm về cơ quan trình bày, yêu cầu giúp đỡ, coi cơ quan cán bộ như nhà mình, coi người làm công tác cán bộ như anh em có thể tin cậy được". Nói tóm lại, trong buổi nói chuyện đó, anh Chánh nhấn mạnh việc xây dựng cái tâm của người làm công tác cán bộ, xây dựng tính chất trong sáng, chặt chẽ, cởi mở, không vụ lợi của cơ quan cán bộ để cơ quan gây được tín nhiệm đối với toàn quân, và chỉ có như vậy mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Mấy chục năm qua, khi còn ở cơ quan Cục Cán bộ, cũng như lúc đi các đơn vị khác làm công tác lãnh đạo, chỉ huy tôi thường nhớ lại những bài học nhập môn đầu tiên khi bước vào ngành cán bộ, nhờ đó mà có ý thức giữ gìn cái tâm trong con người mình, cảnh giác trước những cám dỗ vật chất khi có chức, có quyền. Nghiệm lại trong các cơ quan tổ chức cán bộ qua các giai đoạn trưởng thành, thời kỳ nào mà cơ quan đoàn kết được tín nhiệm với trên, với dưới là thời kỳ cán bộ trong cơ quan, mà trước hết là người đứng đầu cơ quan giữ được cái đức trong khi làm việc. * * * SÁNG KIẾN NHỎ NHƯNG CÓ GIÁ TRỊ SỬ DỤNG LÂU DÀI Đến nay ai đã làm công tác cán bộ đều quen với các ký hiệu 0/, 1/, 2//... dùng để chỉ các cấp sĩ quan trong quân đội ta, nhưng có lẽ nhiều người không biết tác giả của sáng kiến này. Tác giả của sáng kiến này chính là anh Nguyễn Xuân Tuấn, trưởng phòng kế hoạch Cục Cán bộ trong những năm cuối thập kỷ tám mươi. Anh Tuấn nghĩ ra ký hiệu này từ những năm 1959 - 1960. Thời đó, tôi đang làm công tác kế hoạch nên thường quan hệ làm việc với anh, lúc đó anh là trợ lý thống kê kế hoạch. Năm 1958, sau khi thực hiện việc phong quân hàm cho sĩ quan quân đội, mỗi khi làm các bảng thống kê số lượng, chất lượng cán bộ, chúng tôi rất lúng túng về bố trí cột dọc, cột ngang. Khổ giấy có hạn, nội dung thống kê lại nhiều, làm sao thể hiện được các cột cấp bậc để đưa vào thống kê? Thế rồi, một hôm anh Tuấn đưa tôi một bảng thống kê, thể hiện các cấp bậc bằng các ký hiệu kết hợp chữ số với các gạch dưới. Chữ số nói số sao của từng cấp: thiếu úy, thiếu tá là 1 sao, trung úy, trung tá là 2 sao, đến đại úy, đại tá 4 sao... chuẩn úy chưa có sao thì ký hiệu bằng số 0; gạch dưới phân biệt cấp úy với cấp tá, cấp úy 1 gạch, cấp tá 2 gạch, các cấp hạ sĩ quan cũng theo cách này mà ghi h1, h2, h3 là hạ sĩ, trung sĩ, thượng sĩ. Ai làm công tác thống kê cán bộ mới thấy cách viết ký hiệu này đơn giản mà sáng sủa, rõ ràng, lại đáp ứng được yêu cầu ghi trong các cột hẹp của các thống kê. Anh Tuấn đưa tôi bảng thống kê và trình bày cách sử dụng ký hiệu. Tôi ngạc nhiên và bị thuyết phục ngay trước sáng kiến của anh. Từ đó đến nay, trải qua trên một phần ba thế kỷ, không những trong ngành cán bộ mà gần như hầu hết các cơ quan, các ngành trong quân đội khi viết cấp bậc của các sĩ quan kể cả trên các giấy tờ hành chính giao dịch bình thường đều sử dụng ký hiệu tiện lợi này. Và thật bất ngờ, một lần vào một cơ quan bên ngoài cũng thấy cô thư ký dùng ký hiệu này để ghi cấp bậc của tôi khi khai với cô để làm giấy tờ. Có những sáng kiến nhỏ mà hiệu quả lớn. Trong ngành cán bộ chúng ta anh Nguyễn Xuân Tuấn, một cán bộ gắn bó gần như suốt đời với ngành cán bộ, với công tác kế hoạch, thống kê, xứng đáng được ghi công về sáng kiến này. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Một, 2022, 08:36:02 am MỘT SỐ THÀNH CÔNG CỦA CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ Đại tá TRƯƠNG MINH TIÊU Nguyên cán bộ nghiên cứu tổng kết - Cục Cán bộ I- Giải quyết số lượng và chất lượng trong thời gian ngắn Trong giai đoạn cao điểm (1967 - 1972) làm thế nào để có đủ số lượng cán bộ các loại để đáp ứng cho yêu cầu nhiệm vụ: - Cán bộ lãnh đạo chỉ huy. - Cán bộ chuyên môn kỹ thuật. - Cán bộ cơ sở (chủ yếu là cán bộ trung đội và cán bộ chính trị). + Trong một thời gian ngắn phải thành lập thêm hàng chục sư đoàn, tăng thêm hàng chục vạn cán bộ, đặc biệt khó khăn là cán bộ chuyên môn kỹ thuật cho các binh chủng kỹ thuật, cán bộ quân y, chủ yếu là bác sĩ, cán bộ chính trị cho cơ sở. + Biện pháp giải quyết chung: Để đủ cán bộ cho các sư đoàn, trung đoàn, đã tiến hành bằng cách tách đơn vị thành hai, rút cán bộ ở đơn vị thứ nhất thành lập đơn vị thứ hai, rút cấp trưởng thành lập đơn vị mới, đưa cấp phó lên cấp trưởng, bảo đảm giữ được truyền thống đơn vị, đơn vị cũ và mới đều được phát huy truyền thống (304A - 304B, 312A - 312B, 320A - 320B, v.v...). Xếp hai thê đội, khi thương vong, khi phát triển thì thê đội 2 kịp thời bổ sung thay thế thê đội 1. Xếp ba thê đội, nhưng thê đội 3 không công khai cho cán bộ biết (phương án này chỉ có cơ quan tổ chức biết). + Củng cố hệ thống nhà trường quân sự, chiêu sinh tăng số lượng, rút ngắn thời gian đào tạo, biên soạn lại nội dung bồi dưỡng đào tạo. - Tập huấn ngắn hạn cán bộ trung cao cấp ở hai trường trung cao quân sự và Học viện Chính trị. - Trung cao quân sự chủ yếu cán bộ trung đoàn, sư đoàn - là cán bộ chỉ huy. - Học viện Chính trị chủ yếu cho cán bộ lãnh đạo (chính ủy các cấp trung đoàn, sư đoàn, chủ nhiệm chính trị sư đoàn trở lên, chính ủy sư đoàn, mặt trận...). Với chuyên môn kỹ thuật (bác sĩ, kỹ sư) và cán bộ chuyên ngành pháo phòng không, tên lửa, không quân, hải quân), mở rộng các trường đại học quân y, đại học kỹ thuật quân sự, đưa cán bộ chuyên môn về tập huấn... quân y sĩ sau hai năm ra làm bác sĩ, v.v... Đề nghị điều động một số cán bộ chuyên môn kỹ thuật mới ra trường vào quân đội theo yêu cầu chiến tranh, điều vào được tập huấn theo yêu cầu quân đội, bố trí về các đơn vị để làm quen với hoạt động của quân đội (kể cả bác sĩ và kỹ sư). Với cán bộ chính trị cơ sở (chủ yếu là chính trị viên đại đội đề bạt tại chỗ và chuyển một số cán bộ quân sự sang, tập trung bồi dưỡng ở các trường quân chính, trường chính trị sơ cấp (Lạng Sơn). - Điều động cán bộ tái ngũ: điều và tập huấn ngắn hạn, về sắp xếp vào đơn vị (chủ yếu là cán bộ sơ cấp). - Điều động một số cán bộ dân - chính - đảng vào tập huấn theo chương trình quân sự về công tác đảng - công tác chính trị (tối thiểu 3 tháng) rồi xếp vào các đơn vị cơ sở. Mở thêm các trường quân binh chủng, mở trường quân chính tỉnh. - Giải quyết vấn đề chuyển binh chủng. Những cán bộ binh chủng gần giống, một phần có thể bồi dưỡng chuyển binh chủng sang công tác được ngay. Pháo tầm thấp có thể chuyển sang pháo binh cơ động, chỉ cần tập huấn ngắn ngày (12,7 ly - 14,5 ly chuyển thành pháo 105 - 100). Bộ đội trinh sát chuyển sang đặc công. Cán bộ pháo binh chuyển sang tăng - thiết giáp. Pháo bờ biển hải quân chuyển sang pháo bộ binh cơ động, v.v... + Có hai mảng cán bộ yêu cầu lớn nhất và khó khăn cần được quan tâm nhiều, đó là: - Đội ngũ cán bộ quân y: bác sĩ, y sĩ cho bệnh viện hậu phương và cho bệnh viện dã chiến các mặt trận. Bác sĩ theo biên chế chính thức cho trung đoàn, sư đoàn tập trung tác chiến cơ động cả số lượng và chất lượng đều gặp khó khăn, hàng trăm trưởng ban quân y trung đoàn, sư đoàn, trưởng phòng quân y quân khu, quân đoàn, mặt trận, lữ đoàn, quân binh chủng. - Đội ngũ cán bộ dẫn quân tăng cường vào chiến trường có hai loại: Các khung huấn luyện ở các trung tâm huấn luyện tân binh, hầu hết không biến động, ổn định để có kinh nghiệm tổ chức, quản lý và huấn luyện (tùy theo yêu cầu của chiến trường, có khi huấn luyện 3 tháng, có khi 6 tháng và dài nhất là 9 tháng...). Trực tiếp huấn luyện và cùng đưa quân: Đưa quân vào cũng có lúc đưa gần, như vào B4, B5; nhưng cũng có lúc đưa vào sâu hơn như B1, B3, B2. Đội ngũ cán bộ này đòi hỏi sức khỏe dẻo dai, hăng hái nhiệt tình, kiên trì dũng cảm. Trình độ chiến thuật kỹ thuật cấp đại đội, cấp tiểu đoàn và trung đoàn, trình độ quản lý và giáo dục tân binh rất quan trọng. Hành quân xa, khó khăn nhiều, phải có trình độ xử lý những tình huống bất trắc xảy ra, lại mang tính chất độc lập (như trên đường hành quân bị ném bom, bị địch tập kích, v.v...). + Cán bộ tăng quân cho chiến trường nhiều đợt và liên tục, số lượng lớn và thời gian ngắn. Có lúc các quân khu phải chịu trách nhiệm đưa quân rất lớn. Một thời gian ngắn Quân khu Tả Ngạn phải đưa vào mặt trận 10 tiểu đoàn, không tính các sư đoàn thực binh của Quân khu Hữu Ngạn, Quân khu Tả Ngạn đã đưa vào chiến trường từ trước. Muốn đủ cán bộ bằng cách đề bạt tại chức, ở nhà trường và cơ quan bổ sung ra, dùng bổ nhiệm chức là chính, chưa đề bạt quân hàm vì khi đó trung úy vẫn phải giao cấp tiểu đoàn bậc phó... + Rút một phần cán bộ cơ quan Bộ Quốc phòng, chủ yếu là cán bộ Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị ra giữ cương vị cán bộ trung đoàn, một số cấp sư đoàn và một số cấp tiểu đoàn. + Giải quyết chế độ luân lưu: Luân lưu cán bộ cơ quan ra đơn vị, hoặc vào chiến trường một thời gian rồi trở lại cơ quan (chủ yếu là cán bộ cơ quan Bộ và các học viện, nhà trường quân sự). + Lựa chọn cán bộ ở các đoàn an dưỡng thương bệnh binh. Thời điểm này các quân khu đều có đoàn an dưỡng thương bệnh binh ở chiến trường ra, nhiều đồng chí đã hồi phục sức khỏe; lựa chọn ở đây đưa về các nhà trường tập huấn rồi trở lại chiến trường, được hàng nghìn cán bộ chủ yếu là cán bộ sơ cấp. + Những biện pháp và nội dung nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo và chỉ huy. Trình độ lãnh đạo của cán bộ chính trị và chủ yếu cán bộ chính ủy các cấp. Công tác tham mưu các cấp (chủ yếu là tham mưu chiến dịch, cán bộ chỉ huy cấp trung đoàn). Công tác tổ chức lãnh đạo chỉ huy hành quân đường dài (từ miền Bắc vào miền Nam). Công tác chỉ huy lãnh đạo vận tải chiến lược (Đoàn 559 ra đời thu hút hàng nghìn cán bộ). Để nâng cao trình độ lãnh đạo, những vấn đề cơ bản được tập huấn: - Công tác đảng - công tác chính trị trong huấn luyện và chiến đấu - Tài liệu "Phấn đấu trở thành chính ủy xuất sắc" ra đời. - Công tác đảng chủ yếu là công tác đảng ủy. Các lớp bồi dưỡng chi ủy, bí thư trong toàn quân đều được triển khai. - Nâng cao trình độ công tác chỉ huy và công tác tham mưu. Tập trung vào nội dung: Tổ chức lực lượng. Công tác quản lý bộ đội. Công tác giáo dục và huấn luyện. Các loại hình tác chiến các cấp. + Công tác lãnh đạo và chỉ huy bộ đội hành quân chiến đấu đường dài là một đặc điểm của chiến trường Việt Nam. Hành quân từ phân đội đến trung đoàn, sư đoàn, quân đoàn ở địa hình rừng núi, vượt sông lớn, nhỏ, khe suối, địch có thể tập kích đường bộ và đường không, ta sẵn sàng đổi hướng hành quân, sẵn sàng tác chiến, khẩn trương, an toàn. Nội dung trên được tập huấn ở các nhà trường, các trung tâm huấn luyện, các trung đoàn, sư đoàn thực hành. + Công tác lãnh đạo chỉ huy của vận tải chiến lược. Đoàn 559 ra đời trên một tuyến dài gần 2000km qua rừng núi, sông ngòi, an toàn, bí mật, sẵn sàng đối phó với các tình huống xảy ra, đặc điểm đủ các loại hình vận tải, đi bộ, xe thồ, cơ giới, thuyền bè, vượt sông suối... hàng ngàn, hàng vạn ô tô và các phương tiện khác, với "khối lượng lớn, an toàn đến chiến trường, kịp thời cho tác chiến, và mở các chiến dịch lớn". + Xây dựng được nguồn cán bộ: Có xây dựng được nguồn cán bộ mới giải quyết được các yêu cầu lớn. Gồm nguồn cơ bản và nguồn kế tiếp (còn gọi là xây dựng nguồn dự bị). - Đối tượng: Các cấp đều có thể xây dựng được nguồn và xây dựng các hệ trong nguồn (quân sự, chính trị, hậu cần, chuyên môn kỹ thuật). - Hai nguồn này đối với cán bộ ở các trung đoàn, sư đoàn, thực binh ổn định đều triển khai có hiệu quả cao, nhất là khi còn ở phía sau, giải quyết được theo các kế hoạch đề ra, từng thê đội, từng thời kỳ, lên kế hoạch bồi dưỡng từng đối tượng chu đáo. Đây là một nguồn dự trữ cán bộ khá đông đảo, tránh được những bị động khi nhu cầu xảy ra. Nhưng những nguồn này bị đảo lộn, gần như 100% các đơn vị khi bước vào tác chiến, nhất là cán bộ cơ sở (chiến dịch Quảng Trị phải bổ nhiệm đến đồng chí chuẩn úy đảng viên dự bị làm chính trị viên). + Hệ thống nhà trường quân sự được củng cố. Ngoài các trường quân sự đã có như Học viện Chính trị, Trung cao quân sự, Lục quân... và các trường quân binh chủng, ở các mặt trận, các chiến trường đều mở các trường quân chính, các lớp tập huấn (B2, B3...). Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Một, 2022, 08:36:55 am II- Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ, có lý luận nghiệp vụ và tinh thông công tác tổ chức, tổ chức thực hiện có hiệu quả Các đơn vị phát triển, tất nhiên cơ quan tổ chức phải phát triển theo, đội ngũ người làm công tác cán bộ không những có những nhu cầu lớn về số lượng và chất lượng cũng đòi hỏi cao, mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác tổ chức. Cục Cán bộ từ 50 - 70 người cũng tăng lên 100 người, cao nhất có lúc 140 người. Các ban cán bộ trung đoàn, sư đoàn, phòng cán bộ quân khu, quân đoàn, các mặt trận ra đời, có số lượng toàn quân lúc đó trên 3.000 người. Về số lượng có thể chuyển cán bộ tổ chức đảng, cán bộ chính trị đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn sang và chuyển một số cán bộ quân sự, quân binh chủng sang. Nhưng chất lượng rõ ràng là bất cập, về lý luận nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm tổ chức thực hiện. Vì vậy công tác bồi dưỡng nghiệp vụ trở nên cấp bách, với những nội dung yêu cầu sau: + Quán triệt quan điểm đường lối của Đảng. + Có trình độ nghiệp vụ làm công tác tổ chức cán bộ trong lực lượng vũ trang. + Quán triệt quan điểm đường lối chính sách cán bộ vận dụng đúng đắn trong các tình huống. + Tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác cán bộ có hiệu quả. a) Trường bồi dưỡng nghiệp vụ công tác cán bộ Tổng cục Chính trị ra đời. Bồi dưỡng nhằm mục tiêu: + Nâng cao lập trường quan điểm của người làm công tác cán bộ trong quân đội. + Nắm vững nghiệp vụ tổ chức công tác cán bộ. + Những biện pháp cơ bản của công tác cán bộ. + Những bài học kinh nghiệm. Vì vậy cần có một nội dung thiết thực để bồi dưỡng trong một thời gian ngắn (khoảng 3 tháng). - Đối tượng bồi dưỡng là người đang công tác, mới vào ngành, hoặc ngành khác chuyển sang, cho nên cần biên soạn một tài liệu thống nhất toàn ngành. Tài liệu "Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ trong lực lượng vũ trang" ra đời. Gồm những nội dung: + Nắm vững đường lối quan điểm chính sách của Đảng về công tác cán bộ trong lực lượng vũ trang. + Công tác đào tạo bồi dưỡng. + Công tác quản lý cán bộ. + Công tác tìm hiểu, lựa chọn, phân công giao nhiệm vụ. + Công tác bổ nhiệm chức vụ, công tác đề bạt quân hàm. + Công tác tạo nguồn, xây dựng nguồn cơ bản và nguồn kế tiếp. + Công tác chăm sóc sức khỏe cán bộ. + Công tác hậu phương cán bộ. + Công tác chuyển cán bộ ra ngoài quân đội. Và những chuyên đề được biên soạn: + Đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chỉ huy. + Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. + Xây dựng đội ngũ cán bộ quân binh chủng. + Xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự địa phương. + Xây dựng cơ quan công tác cán bộ. + Xây dựng đội ngũ cán bộ công tác nhà trường quân sự. + Xây dựng đội ngũ giáo viên quân sự. Đồng thời các tổ chức quản lý hệ thống nhà trường ra đời (Cục Nhà trường, các phòng nhà trường ra đời và được củng cố). Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Một, 2022, 08:37:27 am * * * Sự cần thiết và để nâng cao trình độ hiệu quả người làm công tác cán bộ, ngoài trường nghiệp vụ của Tổng cục Chính trị chiêu sinh toàn quân về học (từ B2 trở ra đều có cán bộ về học). Các lớp tập huấn nghiệp vụ ở các quân khu, các mặt trận đều được tổ chức trong toàn quân. b) Vấn đề giáo viên của các lớp tập huấn và trường nghiệp vụ của Cục Cán bộ được giải quyết như sau: Giáo viên ở trường nghiệp vụ do các phòng nghiệp vụ chịu trách nhiệm, nội dung có bộ phận biên soạn, các phòng cử cán bộ chịu trách nhiệm giảng dạy, kết hợp với kinh nghiệm thực tế. - Những vấn đề cơ bản do Tổng cục Chính trị hoặc Cục Cán bộ chịu trách nhiệm trình bày. - Báo cáo kinh nghiệm mời các đồng chí lãnh đạo đơn vị, mời các cục báo cáo các mặt công tác đảng - công tác chính trị trong quân đội. - Những vấn đề kinh nghiệm công tác cán bộ được tổng kết rút kinh nghiệm, cũng báo cáo thành những chuyên đề. - Vấn đề nổi cộm là nội dung nhiều, thời gian ngắn, lại yêu cầu lớn phục vụ nhiệm vụ chiến lược toàn quân, nên học viên học rất căng thẳng. - Những vấn đề thực tiễn do cán bộ của Cục Cán bộ đi các chiến trường về báo cáo. * Quá trình thực hiện nổi lên những vấn đề cần chú ý: + Mối quan hệ trước mắt và lâu dài: Phải có một tầm nhìn chiến lược để giải quyết khâu này cho tốt, phải coi trọng lực lượng sử dụng và lực lượng dự bị, để kịp đối phó với mọi tình huống, giữa xây dựng và tác chiến, thế nào cho hài hòa, thấy được hết sự phát triển của chiến tranh. + Mối quan hệ phía trước và phía sau, chiến trường và hậu phương. Cấp bách là có đủ cán bộ cho các chiến trường, cho các chiến dịch, nhưng ta có một hậu phương lớn, tất cả lực lượng dự bị đều ở phía sau, cán bộ đều ở các đơn vị thực binh, và ở tất cả các loại trường quân sự, cho nên tỷ lệ đưa ra chiến trường là bao nhiêu thì đáp ứng được yêu cầu, ở phía sau là bao nhiêu và tỷ lệ cán bộ các loại là bao nhiêu thì phù hợp. Ngay trong chiến trường, khi mở các chiến dịch lớn đều phải có lực lượng dự bị phía sau ở căn cứ (lực lượng này tỷ lệ các loại cán bộ là bao nhiêu), thường hay gặp trong sử dụng ở chiến trường, thường coi trọng đề bạt tại chỗ lên; cán bộ nhà trường ra, hậu phương đưa vào, có chỗ có nơi chưa thật mạnh dạn sử dụng. + Mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng: Lực lượng này nằm trong kế hoạch đào tạo các loại cán bộ trong các loại trường quân sự. Phải coi trọng xây dựng kế hoạch đào tạo, phải khảo sát và có dự báo đúng, cơ quan chiến lược phải có tầm nhìn. Một kế hoạch hài hòa giữa đào tạo và sử dụng, không thể bị động, không để rơi vào thừa mà thiếu, thiếu mà thừa, mà thường là lực lượng cán bộ cơ sở. + Mối quan hệ giữa bổ nhiệm chức vụ và đề bạt quân hàm: Do yêu cầu tác chiến khẩn trương và phát triển của chiến tranh, nên việc bổ nhiệm chức bao giờ cũng đi trước, giao cương vị phụ trách một thời gian mới đề bạt quân hàm, có đợt phải 2 - 3 chiến dịch mới phiên quân hàm. Cho nên ở chiến trường từ chức vụ mà phiên ra quân hàm được đặt ra. + Mối quan hệ giữa ý kiến lãnh đạo chỉ huy và cơ quan nghiên cứu nghiệp vụ: Toàn bộ công tác cán bộ là của cấp ủy. Khi có quyết định của tập thể đảng ủy, thì cơ quan nghiệp vụ phải chấp hành, phải nghiên cứu một cách khách quan, vô tư, trung thực... giúp cấp ủy tổ chức thực hiện, thống nhất cao, với kết quả tối ưu. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 04 Tháng Mười Một, 2022, 08:39:48 am NHỮNG ĐIỀU ĐÁNG NHỚ NHẤT Đại tá LÊ TRỌNG KHÁNH Nguyên cán bộ nghiến cứu tổng kết - Cục Cán bộ Tôi bước vào ngành công tác cán bộ từ những năm sáu mươi, cũng là một thời kỳ đánh dấu công tác cán bộ đã có những mặt lý luận nghiệp vụ cơ bản được đúc kết qua những năm kháng chiến chống Pháp, những năm đầu chống Mỹ và đi vào xây dựng quân đội trong thời bình, rồi có Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng soi sáng những vấn đề về đường lối chủ trương, nhiệm vụ công tác cán bộ của Đảng được khẳng định và có những định hướng phát triển trong thời kỳ mới. Đây là những thời điểm hết sức thuận lợi của công tác cán bộ chúng ta. Nhờ vậy giai đoạn này, với chức năng là cơ quan tham mưu của Bộ về ngành nghiệp vụ cán bộ theo chỉ đạo của trên, Cục Cán bộ thời gian này đã có sự tập trung đầu tư đáng kể vào những vấn đề rất cơ bản. Sơ kết, tổng kết, kế hoạch dài hạn, ngắn hạn được in thành nhiều sách, nhiều tài liệu chuyên đề và đã có hàng loạt những tài liệu giảng dạy bồi dưỡng tập huấn về nghiệp vụ. Ngành cán bộ cũng là một trong những ngành có nội dung thành hệ thống các bài giảng ở các nhà trường, trong các hệ đào tạo, bổ túc cho các loại cán bộ hiểu biết thêm về đường lối, nhiệm vụ nguyên tắc công tác cán bộ thời kỳ này đã được phổ thông hóa; được các tầng lớp cán bộ đồng tình, không còn sự vương vấn, mơ hồ và đặt rõ trách nhiệm cho các cấp, các ngành chăm lo việc giữ gìn phát triển bổ sung; tạo nguồn cán bộ trở thành việc làm với ý thức chung của toàn quân, đồng thời cũng quán triệt sâu rộng cuộc vận động xây dựng tiêu chuẩn hóa đến mỗi người cán bộ, tự phấn đấu rèn luyện, điều chỉnh để có đủ điều kiện phù hợp, theo cương vị phụ trách. Thời gian này nằm trong xu thế của hướng phấn đấu chung, tôi cũng được chọn cử đi học lớp đào tạo I ba năm ở trường chính trị. Ra trường tôi lại được đơn vị xin về, xếp làm công tác cán bộ. Vốn liếng cơ bản cả ba năm học sát hạch quốc gia tôi đạt loại giỏi và đây cũng là hành trang để tôi bước vào làm công tác cán bộ. Sau này, ngoài những vốn liếng cơ bản, tôi lại được rèn luyện qua những thử thách trực tiếp, được tham gia các chiến dịch lịch sử: Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, chiến dịch Hồ Chí Minh và làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia; rồi được cử tham gia nhiều đoàn của Bộ, của cục, đi khảo sát chiến trường dài ngày ở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ; được vài lần đi tham gia tổng kết công tác cán bộ và làm trưởng ban tổng kết ở cục theo quyết định của anh Hoàng Văn Thái ký. Những năm tháng ít ỏi đó, Cục Cán bộ đã mở mang thêm cho tôi vốn liếng trí tuệ về công tác cán bộ ở một cơ quan tham mưu cấp bộ. Tôi xin ghi lại một số việc tai nghe và trực tiếp được thấy, để tự rút ra cho mình những điều đáng nhớ nhất. Ngồi trên ghế giảng đường, tôi đã được nghe giảng về phương pháp tư tưởng, về cách nhìn nhận, xem xét đánh giá một cán bộ, một con người phải qua nhiều mặt, nhiều bước, nhiều khâu, có những suy xét và nghiên cứu kỹ lưỡng, nếu hời hợt, chủ quan, là dễ bị hiện tượng đánh lừa. Một buổi sáng ở miền Tây Trường Sơn, trong một khu rừng già, sương mù bao phủ trắng xóa, từ sở chỉ huy, tôi và anh Mai Quang Sĩ cùng hai chiến sĩ bảo vệ nhanh chóng lên đường. Chúng tôi đi trong hai tiếng đồng hồ để kịp dự buổi lễ xuất kích của một đơn vị. Đến nơi thì cũng vừa bắt đầu. Khí thế cả đơn vị rộn ràng, háo hức giao ước lập công. Đến giờ phút cuối, một đồng chí chủ nhiệm chính trị đơn vị ra kết thúc với khẩu hiệu trong bài kêu gọi cả nước của Bác Hồ "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Đồng chí nói: Tôi hô "Không có gì quý hơn độc lập tự do" thì các đồng chí cứ hô "không có gì" ba lần. Khi giải tán chuẩn bị lên đường, chúng tôi cùng nói chuyện với anh em, thì cái khẩu hiệu vừa hô, lại thành trò cười của lính, họ kháo nhau về cái điệp khúc ba chữ "không có gì". Anh Sĩ cười và nói với chúng tôi: "Chúng mình lại tìm thấy một răng, một rắc rồi" (cách gọi I-răng, I-rắc). Tôi tìm xuống gặp và trao đổi với đồng chí chính ủy của đơn vị để tìm hiểu, thì được biết đồng chí chủ nhiệm chính trị là cán bộ miệng nói tay làm, chiến đấu dũng cảm, được cán bộ chiến sĩ yêu mến. Qua câu chuyện này, tôi và anh Mai Quang Sĩ tâm đắc với nhau về bài học cách đánh giá một con người. Trong trận đột phá ngoại vi, đồng chí chủ nhiệm chính trị này được thưởng huân chương và làm nguồn trực tiếp của cấp trung đoàn. Ở dưới các đơn vị, mặt tốt của cán bộ được sự lãnh đạo giáo dục của Đảng là sẵn sàng tuân theo sự phân công của tổ chức, cá biệt có người có lúc cũng phải tự đấu tranh quyết liệt để thực hiện nhiệm vụ, nhưng cái chung vẫn thắng cái riêng. Tuy nhiên vẫn có hiện tượng, cán bộ sợ rơi vào ngõ cụt. Trong nguyên tắc sắp xếp cán bộ có tiến có thoái theo các thế hệ nối tiếp, cả trước mắt cả lâu dài, nhưng cán bộ thường sợ những vị trí tạm thời. Cán bộ đã có câu "về làm tổng kết, thanh tra rồi biệt phái tăng cường" thường được mặt sử dụng, mà chính sách lại ít được quan tâm, đơn vị chủ quản mình cũng lơi lỏng. Thực tế ở đơn vị có cán bộ làm nhiệm vụ biệt phái sang cơ quan hoặc đơn vị khác. Đơn vị chủ quản thì không đề nghị đề bạt vì không có nhu cầu. Đơn vị đang sử dụng, lại còn cần công tác cứ giữ kéo dài, cán bộ băn khoăn và không an tâm, có những cán bộ suốt đời gắn bó với một đơn vị, lúc khó khăn gian khổ trưởng thành, mặn nhạt cùng có nhau đang ở vị trí ổn định, đã tính vài ba năm nữa, đến tuổi nghỉ hưu luôn lại yêu cầu sang đơn vị mới, thế là anh cán bộ mất chân, mất gốc. Khi sang đơn vị mới phát huy vai trò lại khó khăn, tình cảm kém sự gắn bó. Cán bộ xin không đi thì không muốn một lần từ chối nhiệm vụ, mà ra đi thì để lại biết bao điều băn khoăn day dứt, nào tình cảm, nào phát triển sử dụng, nào truyền thống đơn vị. Cũng có cán bộ phát phiền, suy tư nặng nề trong cuộc sống, cuộc đời sẽ thuộc vào ai chủ quản... Tuy nhiên theo luật hiện hành của chúng ta, theo quy định của Bộ là quyết định điều động về đơn vị nào, thì đơn vị đó chịu trách nhiệm, còn biệt phái hay tăng cường, không có quyết định chính thức, thì cơ quan cũ vẫn có trách nhiệm quản lý. Ấy thế mà rồi cũng phát sinh những người con riêng, con chung, con nuôi, con đẻ, ai chăm lo cho mọi mặt chính sách của người cán bộ đó? Vì trong khâu quản lý của chúng ta, cũng còn có những quy định chưa chặt chẽ, thấu đáo đến mọi đơn vị, có trường hợp đã để thiệt thòi đến quyền lợi, lợi ích của cán bộ. Vấn đề này, có lần anh Hoàng Văn Thái đã cho ý kiến "đừng để thiệt thòi đến cán bộ, nếu sử dụng là phải có chính sách". Thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ phát triển ở đỉnh cao, cả nước lên đường, Cục Cán bộ cũng có nhiều đoàn, nhiều tổ chức, nhiều cán bộ ở cương vị cấp cục, phòng, ban, trợ lý, được cử xuống đơn vị hay đi thâm nhập chiến trường, cũng là một thời cơ tốt để nắm được cán bộ, biết được tình hình, khảo nghiệm được chức trách, vị trí và tiêu chuẩn hóa, được qua thực tế một bước, "trăm nghe không bằng một thấy”. Chủ trương của cục được Bộ chấp thuận. Đây cũng là một thời kỳ ghi nhận sự chuyển đổi quan trọng của cục đi xuống thực tế, và cũng dần dần thay thế người ở đơn vị lên, tạo thêm những sự hiểu biết về cán bộ và công tác cán bộ. Việc đi đơn vị cơ sở được các đồng chí ở đơn vị rất hoan nghênh và có thêm sự tin cậy. Trong ngày tết nguyên đán ở đất nước bạn, tiếng súng vẫn chưa êm, anh Trần Khôi và tôi được Quân đoàn 4 mời sang đón tết. Anh Thế Bôn và anh Nam Phong khen Cục Cán bộ, kỳ này xuất quân mạnh, theo sát chiến trường đơn vị, thế này mới giúp được kịp thời cho nhiệm vụ, gửi lời chúc tết và hoan nghênh Cục Cán bộ. Nhiều đồng chí trong cục thời kỳ này xuống tham gia lãnh đạo và cầm quân, thực sự đã góp phần tăng cường cho đơn vị phát huy được vị trí của mình, cũng đã để lại những ấn tượng tốt đẹp "tiếng lành đồn xa". Nhưng lại cũng có những vị trí cá biệt, phát sinh những việc làm chưa tốt, để lại những dị nghị không hay về cán bộ. Điều đó chứng tỏ anh em cán bộ trong toàn quân gửi gắm niềm tin vào đội ngũ của những người làm công tác cán bộ với sự mẫu mực hoàn chỉnh nhất. Qua những đợt được đi thực tế, cũng thấy rất rõ một vấn đề như nội dung đã học là: xem xét cán bộ phải qua thực tế công tác, nhiệm vụ, trình độ năng lực; ý thức trách nhiệm, đạo đức phẩm chất cũng luôn phát triển biến động, mà thước đo phải lấy thực tế để khảo nghiêm là chính xác nhất; vì trong khó khăn, vấp váp, trong sống chết thử thách, giữa lợi ích cuộc sống, đụng chạm đến tình cảm riêng tư mới là thước đo để so sánh con người. Đây cũng là bài học thật thấm thía của tôi. Đó cũng là phương pháp xem xét của những người làm công tác cán bộ: không theo khuôn mẫu, không xơ cứng, mà phải xem xét đánh giá trong sự vận động của sự vật mới đúng bản chất. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2022, 10:58:35 pm MẤY SUY NGHĨ NGẮN NGỦI Đại tá NGUYỄN QUANG KIỆM Nguyên trưởng phòng Chính sách - Cục Cán bộ Đời tôi gắn bó với công tác cán bộ gần 30 năm từ cấp trung đoàn trở lên, hầu hết là làm nhân sự, trong đó có 18 năm ở Cục Cán bộ, cũng chủ yếu là nhân sự, có hai năm rưỡi làm trưởng phòng chính sách. Tôi đề cập ba vấn đề, nhưng mới chỉ nêu tiêu đề. 1. Phê phán và quét sạch ảnh hưởng tư tưởng định kiến, hẹp hòi trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Những năm 1979 - 1980 đưa ra cục thảo luận các anh cũng dự. Trong hội nghị này, tôi có nói trong công tác cán bộ quân đội ta không có tư tưởng định kiến, hẹp hòi, chỉ có những thành công và thiếu sót, vì Đảng ta có cương lĩnh chính trị từ khi chưa có quân đội, mà công tác tổ chức phục tùng nhiệm vụ chính trị của Đảng từng giai đoạn cách mạng. Phát biểu vấn đề này chỉ mong những người làm công tác tổ chức "trong một điều kiện nào đó" không nên lấy những thiếu sót cụ thể quy thành bản chất, không nên lấy cái hôm nay để phê phán những cái của giai đoạn cách mạng trước. 2. Vấn đề chính sách cán bộ sau một cuộc chiến tranh dài. Lúc chưa có điều kiện, cán bộ ta luôn đặt lên hàng đầu hai chữ "hy sinh" hoặc xả thân vì cách mạng, nhưng khi đã kết thúc chiến tranh hoặc điều kiện đã cho phép phải tìm mọi cách để chăm lo đời sống cán bộ, không thể chỉ trông chờ vào nhà nước có chính sách gì thì quân đội chỉ cụ thể hóa ra để tổ chức thực hiện, sẽ không phù hợp với đặc thù của quân đội. Anh em thường nói chính sách của ta nó như cái áo vá, bổ sung từng tý. Vì vậy về phòng chính sách được hai năm rưỡi tôi được phân công cùng một số đồng chí khác tập trung vào xây dựng đề án giải quyết nhà ở cho cán bộ. Phải đi nghiên cứu ở 15 đơn vị, trưng dụng 12 cán bộ đi điều tra nghiên cứu, tổng hợp tình hình trong vòng 2 tháng, tôi viết từ đầu, lần lượt thông qua từng cấp rồi viết lại, đến lần thứ 11 mới được cho in để phổ biến trong hội nghị quân chính toàn quân tháng 12 năm 1986. Đầu năm 1987 tôi chuyển sang làm đề án giải quyết đời sống sĩ quan, mới làm dự thảo và mới thông qua anh Lê Đình Số, thì đến ngày 15 tháng 7 năm 1987 tôi có thông báo cho nghỉ chuẩn bị hưu nên đành bàn giao lại. 3. Quy hoạch cán bộ. Tôi cũng đã tham gia làm quy hoạch cán bộ chủ trì cấp quân khu, quân đoàn, cơ quan Bộ đến năm 2000. Quy hoạch ấy giờ thấy ít trúng quá. Sơ bộ thấy nguyên nhân: - Hiểu biết cán bộ hiện tại không hết, dự kiến tương lai còn chưa rõ. - Có quy hoạch nhưng không đi song song với công tác đào tạo bồi dưỡng bằng nhiều cách, nên lúc bổ nhiệm, đề bạt lên khó khăn, vướng trên, vướng dưới, vướng cho cán bộ, v.v... Kỷ niệm sâu sắc trong công tác thì có nhiều, nhưng chỉ xin nêu ba vấn đề trên, mong rằng có thể giúp ích phần nào cho công tác cán bộ hôm nay. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2022, 11:03:06 pm MỘT VÀI KINH NGHIỆM NHỎ VỀ VIỆC TỔ CHỨC BỒI DƯỠNG SẮP XẾP SỬ DỤNG CÁN BỘ NGOÀI NHÀ NƯỚC CÓ TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC ĐỘNG VIÊN VÀO QUÂN ĐỘI LÀM NGHĨA VỤ QUÂN SỰ THỜI CHIẾN Đại tá NGUYỄN XUÂN NGUYỆT Nguyên quyền trưởng phòng Nhân sự - Cục Cán bộ I- Vài nét sơ bộ về đặc điểm tình hình Từ năm 1971 đến đầu năm 1974, Nhà nước ta có chủ trương thực hiện chính sách công bằng hợp lý trong nghĩa vụ đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thực hiện chủ trương đó, các cơ quan nhà nước đã bổ sung một số lượng khá đông cán bộ có trình độ đại học trở lên vào phục vụ quân đội theo đường động viên nghĩa vụ quân sự thời chiến, làm chiến sĩ tại các đơn vị. Số cán bộ này được đào tạo tương đối cơ bản tại nhiều trường đại học trong nước và ngoài nước. Có hơn hai chục nhóm ngành và hàng trăm chuyên ngành. Phần lớn đã có công tác với các chức danh chuyên môn khoa học và công nghệ trong các cơ quan nhà nước. Trước tình hình đặc điểm đó, thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị đã thống nhất chủ trương nghiên cứu để bố trí sử dụng số chiến sĩ nghĩa vụ quân sự này sao cho hợp lý nhất về khả năng và chuyên môn. Vừa để anh em làm tốt nghĩa vụ quân sự, vừa phát huy được khả năng ngành nghề anh em được đào tạo, bố trí vào những nơi mà quân đội có nhu cầu. Sau đó từng bước bồi dưỡng tuyển chọn làm nguồn bồi dưỡng bổ sung cho đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật của quân đội trước mắt cũng như lâu dài. Phòng cán bộ Chuyên môn kỹ thuật Cục Cán bộ được giao nhiệm vụ nghiên cứu đề xuất phương án sử dụng, làm kế hoạch tập trung huấn luyện và cử ra một nhóm cán bộ chuyên trách công việc này. Trong thời gian hơn hai năm bộ phận này đã cùng Cục Quân lực phối hợp với đơn vị tiến hành huấn luyện và bồi dưỡng một số nội dung cần thiết với trên 10 đợt. Số lượng tập trung được khoảng 2.500 người, trong đó có 5 phó tiến sĩ, hơn 300 giáo viên các trường đại học, hơn 200 cán bộ nghiên cứu ở các trung tâm khoa học và cơ quan nghiên cứu của nhà nước, số còn lại làm cán bộ ở cơ quan và cơ sở kinh tế kỹ thuật của nhà nước, có một số mới tốt nghiệp... (số lượng có thể nhiều hơn nhưng mới tập trung được 2.500 vì một số vào các chiến trường B và một số các đơn vị chưa báo cáo). Số này, sau khi kết thúc chương trình huấn luyện tân binh được chọn ra và tập trung về một đơn vị có điều kiện bồi dưỡng tiếp từ 1 đến 2 tháng một số nội dung cần thiết, sau đó Cục Cán bộ đề xuất sắp xếp về công tác tại các cơ quan nhà trường, cơ sở sản xuất, điều trị và xếp bậc lương cho anh em (gọi là diện chiến sĩ có lương như cán bộ, do cơ quan cán bộ quản lý). Sau khi bố trí công tác cho hưởng lương từ 5 tháng đến 1 năm, các đơn vị làm các thủ tục báo cáo tình hình về Cục Cán bộ để xét phong quân hàm sĩ quan. Do vậy, với số lượng đã xét phong 50 - 60% số này có quân hàm từ thiếu úy đến thượng úy. Số không đủ điều kiện trao quân hàm sĩ quan thì vẫn tiếp tục cho hưởng lương, số không đủ điều kiện và không bố trí được thì cơ quan quân lực xếp làm chiến sĩ do cơ quan quân lực quản lý. Qua nghiên cứu sắp xếp sử dụng số này, chúng tôi rút ra một vài nhận xét sơ bộ: 1. Điều kiện và hoàn cảnh vào quân đội: Số chiến sĩ này vào quân đội làm nghĩa vụ là do đặc điểm tình hình và nhiệm vụ chuyên môn, để thực hiện chính sách công bằng hợp lý của Đảng và Chính phủ về nghĩa vụ đóng góp sức người, sức của của mỗi công dân và gia đình cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mặc dù vào thời điểm chiến tranh lúc này, ở các cơ quan nhà nước đều có phong trào 100% làm đơn tình nguyện ghi tên xin gia nhập quân đội đánh Mỹ; song đi sâu tìm hiểu, thấy rằng về nhận thức tư tưởng, động cơ lại không giống nhau. Số giác ngộ, thiết tha thực sự thấy được trách nhiệm chính trị của bản thân, hăng hái tự nguyện tham gia lực lượng vũ trang để đánh Mỹ không nhiều (khoảng 20%), còn lại chiếm một số lớn khoảng 75% vào quân đội là do thực hiện chính sách công bằng hợp lý, về nghĩa vụ đóng góp với nhà nước, gia đình chưa có ai tham gia quân đội, hoặc đông anh em mà mới có một vài người tham gia. Đối với đối tượng này, nếu không có pháp lệnh, không có chính sách về nghĩa vụ đóng góp thì chưa thật thiết tha vào quân đội, bởi vì số này có việc làm, có biên chế, có lương, gần vợ con, tự do thoải mái... Một số ít, do năng lực trình độ nghiệp vụ chuyên môn yếu, rèn luyện phấn đấu chưa tốt, hoặc có vướng mắc về vấn đề chính trị, quan hệ xã hội phức tạp, khó bố trí lâu dài trong cơ quan. Nhân cơ hội này các cơ quan nhà nước cử vào quân đội làm nghĩa vụ quân sự (số này khoảng 5%). Do vậy, dù số lượng đông, ngành nghề nhiều chủng loại và có ở hầu hết các lĩnh vực chuyên môn và phạm vi công tác, nhưng về động cơ tư tưởng, thực sự tự nguyện chưa cao, vì thế chất lượng chưa đáp ứng, làm cho việc nghiên cứu bồi dưỡng để sử dụng, thực hiện chính sách đối với số anh em này phải nghiên cứu kỹ, chặt chẽ và giải quyết dần từng bước trong quá trình huấn luyện, bố trí, xếp lương, xét tiếp quân hàm sĩ quan... 2. Đặc điểm đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật động viên vào phục vụ quân đội: Mặt tốt: Trong một thời gian ngắn mà bổ sung được một số lượng tương đối đông, có nhiều ngành nghề chuyên môn, nghiệp vụ hoạt động trong các lĩnh vực công tác ở các cơ quan, cơ sở của nhà nước, đào tạo tại nhiều nhà trường trong ngoài nước, nhiều anh em ra công tác lâu (cao đến 15 năm) có tích lũy kinh nghiệm về công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, quản lý chỉ đạo sản xuất, điều trị... Một số công tác rất tốt, có nhiều công trình đóng góp có ý nghĩa thiết thực được nhà nước khen... Đây là cơ sở để nghiên cứu khai thác sử dụng hợp lý kiến thức khoa học - công nghệ, chuyên môn sâu của anh em. Đánh giá tổng quát thực trạng có mấy nét sau: - Về số lượng, tuy đông, ngành nghề chuyên môn có nhiều (hàng trăm ngành), song những ngành nghề quý hiếm cần thiết sử dụng phù hợp ngay cho quân đội ở những ngành đang thiếu thì không nhiều, nhanh chóng làm tăng số lượng, nhưng chất lượng thì chưa đáp ứng. Một số ngành quân đội có nhu cầu ít thì lại nhập ngũ đông, như sư phạm, nông - lâm - ngư nghiệp, thương mại, sinh vật, ngữ văn... chiếm khoảng 50 - 60%. Tuy đông, trên các lĩnh vực chuyên môn, nhưng ít am hiểu môi trường quân đội. Sau khi bồi dưỡng 1 - 2 tháng phân công về các đơn vị số thích nghi ngay, độc lập công tác được chưa nhiều, phải kinh qua một thời gian dài làm quen và có hướng dẫn từng bước mới thích nghi công việc. Cũng có một số do từ trước đã có mối quan hệ làm việc nên nhanh hơn như giáo viên ở một số môn, cộng tác viên một số đề tài, chỉ đạo sản xuất cơ sở... 3. Về yêu cầu và khả năng phát triển: a) Theo đặc điểm yêu cầu sử dụng, phải nhanh chóng đáp ứng các ngành chuyên môn kỹ thuật phục vụ ngay cho nhiệm vụ chiến đấu và huấn luyện trước mắt. Phải chọn những anh em có ngành nghề gần giống, trình độ khá, nhận thức nhanh cho chuyển loại vào những vị trí ta quá thiếu, số còn lại phải tuyển chọn từng bước. Không thể nôn nóng yêu cầu bổ sung số này là đáp ứng nhu cầu tăng chất lượng của đội ngũ cán bộ nhân viên kỹ thuật lực lượng vũ trang (thời điểm 1970 - 1974). b) Về năng lực trình độ: - Trong thời gian tập trung bồi dưỡng huấn luyện quân sự, số đạt trình độ từ trung bình khá trở lên có khoảng 60%, số trung bình 30%, số yếu 10%. - Song đi sâu từng bước tìm hiểu ở số anh em tốt, và xác minh ở cơ quan cũ và bạn bè quen biết cùng trường, cùng cơ quan thì thấy số thực sự xuất sắc không nhiều, số khá vừa phải, đa số thuộc diện trung bình. Từ tình hình trên, vấn đề nghiên cứu bồi dưỡng để sử dụng đúng và sắp xếp công tác cho tất cả số anh em này là vấn đề không đơn giản. Nhiệm vụ của cơ quan cán bộ là phải phối hợp với các ngành chức năng và đơn vị để nghiên cứu xem xét trên nhiều mặt mà tận dụng chuyên môn hợp lý của anh em. Đây là một nguồn quý, nhưng không phải là tất cả số này để bổ sung vào đội ngũ cán bộ, nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật, mà chọn ra số có trình độ khá, tự nguyện, phẩm chất tốt để bồi dưỡng sử dụng lâu dài. Tóm lại: Muốn tăng nhanh lực lượng cán bộ khoa học - công nghệ, hoàn chỉnh các ngành nghề phù hợp bổ sung cho đội ngũ cán bộ quân đội, từng bước đáp ứng nhu cầu phục vụ cho chiến đấu và xây dựng trước mắt cũng như lâu dài phải bằng nhiều biện pháp; quân đội đào tạo là chính; cần động viên lực lượng cán bộ khoa học - công nghệ của nhà nước vào quân đội, tốt nhất là có kế hoạch tuyển chọn theo hình thức trực tiếp nhân sự mới điều động bổ sung có chất lượng vào ngành nghề chuyên môn phù hợp. Đối với số vào quân đội theo đường động viên làm nghĩa vụ quân sự cũng là một nguồn bổ sung quý, song phải từng bước, trước mắt bố trí vào làm nhân viên, chiến sĩ chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật để hưởng lương, cơ quan cán bộ phải quản lý và tiếp tục thử thách xem xét để chọn ra những anh em tốt, đủ điều kiện phong hàm sĩ quan bổ sung vào đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ của quân đội trong các lĩnh vực công tác. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2022, 11:03:54 pm II- Những chủ trương và biện pháp 1. Về chủ trương: Chấp hành chỉ thị của thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị, Cục Cán bộ và Cục Quân lực được giao nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị có số chiến sĩ này và điều động tập trung theo từng đợt về một đơn vị, và giao cho đơn vị quản lý sau khi xong chương trình huấn luyện tân binh, cần tổ chức bồi dưỡng tiếp một số nội dung cần thiết trước khi điều động bổ sung cho các đơn vị. Chủ trương trên tạo điều kiện và làm cơ sở cho anh em tiếp xúc với thực tế chiến đấu, huấn luyện và xây dựng của quân đội, có điều kiện rèn luyện ở cơ sở, quen với sinh hoạt người chiến sĩ, nhằm sau này phục vụ tốt hơn. Trong sử dụng cần tiến hành mấy bước sau: - Bước 1: Để tận dụng được kiến thức chuyên môn của số anh em này, cần sắp xếp bố trí gần sát với ngành nghề ở các đơn vị, trước hết là ở phía trước trực tiếp làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu, làm chiến sĩ ở các đơn vị cơ sở như các trạm xưởng sửa chữa, bảo quản, kho tàng, bệnh viện, đội điều trị, đội cơ động công tác, giáo viên chuyên môn các nhà trường, không xếp ngay ở cơ quan chỉ đạo. Thời gian rèn luyện ở đơn vị hưởng chế độ như chiến sĩ. - Bước 2: Thời gian bố trí rèn luyện khoảng 5-6 tháng ở cơ sở, đơn vị phải làm công tác thẩm tra ở địa phương, tìm hiểu ở cơ quan cũ, nhận xét trong thời gian rèn luyện ở đơn vị cơ sở. Số nào tốt, đủ điều kiện sẽ bố trí đúng vị trí cán bộ bậc đại học và đề nghị thủ trưởng Tổng cục Chính trị xét duyệt cho hưởng lại lương mà các cơ quan ngoài nhà nước đã xếp. Cụ thể là số nào xếp ở nhà máy, trạm xưởng hoặc có nhu cầu xếp công nhân viên quốc phòng, số có nhu cầu xếp quân nhân chuyên nghiệp. Còn về bậc lương, trừ số mới ra trường, với số đã công tác xếp lương theo giấy báo thôi trả lương của cơ quan cũ. Với số anh em đã bố trí gần đúng nhưng rèn luyện chưa tốt, chưa yên tâm, hoặc quá trình thẩm tra phát hiện có vấn đề chưa rõ cần có thời gian nghiên cứu xem xét, chưa đủ điều kiện tiêu chuẩn để đưa vào đội ngũ cán bộ thì vẫn bố trí như các chiến sĩ bình thường khác, khi xét thấy đủ điều kiện và tiến bộ, bố trí đúng cương vị thì mới được xét để hưởng lương. - Bước 3: Sau 6 tháng đến 1 năm bố trí công tác và cho hưởng lương, cơ quan cán bộ hoàn thiện hồ sơ quản lý. Với số anh em tốt, đủ điều kiện tự nguyện phục vụ lâu dài trong quân đội, căn cứ vào tiêu chuẩn và nhu cầu sẽ đề nghị Bộ Quốc phòng xét trao quân hàm sĩ quan. Những bước trên đây là quy định hướng dẫn chung, nhưng để khích lệ động viên đối với số anh em rèn luyện tốt, có thành tích phục vụ chiến đấu, đảm đương công việc nhanh, có sáng kiến cải tiến kỹ thuật hoặc có công tác nghiên cứu thiết thực thì thời gian xét để hưởng lương, trao quân hàm có thể sớm hơn thời gian quy định. 2. Về biện pháp: a) Nhóm chuyên trách Cục Cán bộ cử cán bộ xuống các cơ sở, đơn vị có số anh em này, nghiên cứu, tìm hiểu phát hiện lập danh sách, kết hợp với báo cáo của các đơn vị, nắm số lượng, chất lượng ngành nghề báo cáo thủ trưởng Tổng cục Chính trị xin chủ trương và kế hoạch bồi dưỡng, sắp xếp, sử dụng theo nhu cầu chuyên môn trong quân đội. b) Cục Cán bộ phải chủ động hợp đồng với Cục Quân lực cùng các đơn vị nắm tình hình số lượng, tập trung số chiến sĩ này về một đơn vị đã được Bộ giao trách nhiệm quản lý tiếp. Trong thời gian bồi dưỡng nâng cao một số nội dung cần thiết về đường lối chính trị, quân sự, chế độ công tác hậu cần, cơ sở kỹ thuật, trang bị vũ khí khí tài và chí độ công tác khoa học kỹ thuật của lực lượng vũ trang. c) Đồng thời với thời gian tập trung bồi dưỡng học tập, Cục Cán bộ cử cán bộ cùng tham gia quản lý lớp học để nắm chắc tình hình mọi mặt làm cơ sở cho công tác nhân sự khi phân công, quan hệ mời cán bộ, giáo viên các cơ quan, nhà trường đến nói chuyện và lên lớp. Đồng thời chuẩn bị mọi mặt để Cục Cán bộ xin chủ trương Tổng cục Chính trị phân công công tác về các đơn vị khi lớp học kết thúc. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2022, 11:04:32 pm III- Đánh giá kết quả Theo dõi kết quả học tập rèn luyện của một số lớp thấy rằng: Số anh em này có một số mặt nào đó có nhược điểm nhất định về lập trường quan điểm, về kinh nghiệm cuộc sống chưa quen môi trường quân đội, có kiến thức khoa học tự nhiên, song kiến thức về xã hội còn hạn chế, nhìn chung trẻ tuổi đời, tuổi nghề, vấp váp khó khăn trong cuộc sống chưa nhiều; nên lúc gặp khó khăn thường dễ bộc lộ nhược điểm; nhưng nhìn chung anh em này là những con người tốt, tuy sống trong thời bao cấp, nhưng đã trưởng thành dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, được sắp xếp công tác trong các cơ quan nhà nước, là con em nhân dân lao động, con em cán bộ đảng viên, con em liệt sĩ; một số ít tuy có quan hệ xã hội phức tạp, thành phần lớp trên nhưng đã cải tạo tốt, các cơ quan đã sử dụng, sắp xếp công việc. Số này từ nhỏ đến lớn, từ đi học đến khi ra công tác được giáo dục, giác ngộ của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giáo dục của gia đình, nhà trường, đoàn thể; nên ít nhiều có nhận thức giác ngộ nhất định về quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân. Khi nhà nước thực hiện chính sách công bằng hợp lý, mặc dầu có nhiều băn khoăn về tiền đồ, hưởng thụ, hậu phương gia đình, song bước đầu anh em đều xác định được trách nhiệm. Khi vào quân đội, được các đơn vị quan tâm động viên trong quá trình mấy tháng huấn luyện tân binh, lại được tuyển chọn tập trung bồi dưỡng thêm về nội dung đường lối, kiến thức khoa học kỹ thuật quân sự, phổ biến chính sách đãi ngộ của quân đội, sử dụng ngành nghề chuyên môn và bố trí vào các cơ sở kỹ thuật, nghiệp vụ mà không xếp làm chiến đấu viên, nên đã tạo ra không khí phấn khởi, quyết tâm rèn luyện tốt. 100% số anh em này học xong hạ quyết tâm xin đi phục vụ chiến đấu, về các đơn vị phía trước, nhiều đồng chí xin vào B. Một số trước đây có nhận thức vào quân đội chưa tốt như ngại gian khổ, lấn cấn tư tưởng hưởng thụ, gia đình, tiền đồ khoa học... sau khi học tập bồi dưỡng đã có quyết tâm, sẵn sàng nhận nhiệm vụ đi phục vụ chiến đấu và rèn luyện ở phía trước, ở đơn vị cơ sở của quân đội. Qua nắm tình hình kết quả rèn luyện, phục vụ ở các cơ sở và nhất là số vào các đơn vị từ Hà Tĩnh trở vào, như Binh chủng Thông tin 40 đồng chí, Binh chủng Công binh 32 đồng chí, Tổng cục Hậu cần 142 đồng chí, và một số ít vào các mặt trận (B); sơ bộ đánh giá số anh em này có quyết tâm và ý thức thái độ rèn luyện tốt, hoàn thành tốt nhiệm vụ đơn vị giao, nhiều đồng chí được khen. Mặc dù có nhiều khó khăn ác liệt, gian khổ, hụt hẫng về sinh hoạt, song chưa có biểu hiện gì xấu. Nhiều anh em phục vụ chiến đấu, công tác tỏ ra dũng cảm bám nhiệm vụ, bám đơn vị. Khi địch đánh vào đơn vị có đồng chí như kỹ sư An Văn Nhân hy sinh (Binh chủng Công binh) và nhiều anh em bị thương nhưng vẫn bình tĩnh. Sau một thời gian rèn luyện 3 - 4 tháng cũng nổi lên một số vấn đề như: - Về tổ chức và nhân sự: khi anh em này vào quân đội, nhận thức của các cơ quan quản lý anh em trước khi đi cho rằng hoàn thành nghĩa vụ số anh em này sẽ về lại, nên việc bàn giao những tài liệu liên quan đến nhân sự không đầy đủ (hồ sơ gốc, văn bằng, nhận xét năng lực, xác minh chính trị...), đặc biệt số có chất lượng chính trị thấp, có quan hệ xã hội phức tạp, tư tưởng đang có vấn đề này, vấn đề khác, v.v... Do vậy, khi bàn giao anh em cho các đơn vị thì thời gian quá gấp, chưa có đủ điều kiện thẩm tra, nghiên cứu kỹ, lúc đầu làm phân phối bố trí cho đúng gặp khó khăn, để sắp xếp hợp lý, thực hiện chế độ hưởng lương còn phải giải quyết tiếp một số vấn đề nữa. Ví dụ: do các cơ quan cấp giấy trả lương, văn bằng không nghiêm, không đầy đủ, nên một số anh em lợi dụng khai man, chẳng hạn có đồng chí ở Binh chủng Thông tin là trung cấp cơ khí nhưng khai là kỹ sư cơ khí để được hưởng tiêu chuẩn lương cán bộ, và nhiều đồng chí tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng nhưng đều xin cơ quan chứng nhận lương kỹ sư để được bố trí sử dụng ở phía sau. - Về phía anh em: nói chung tư tưởng bước đầu làm quen với sinh hoạt người chiến sĩ, nhưng tư tưởng tạm yên tâm chờ đợi và thăm dò tổ chức quân đội sẽ đối với mình ra sao? Sử dụng mình như thế nào? Hưởng chế độ gì?... Còn một số không ít chưa thấy hết trách nhiệm chính trị của bản thân có nghĩa vụ tham gia lực lượng vũ trang, mà còn cho rằng: vào quân đội sẽ phí công đào tạo, quân đội không có khả năng sử dụng hết, chuyên môn sẽ cùn mòn, ở lại không phát huy được, mà về lại cơ quan sau một thời gian sẽ lạc hậu với anh em khác... có khía cạnh đòi hỏi đãi ngộ, đánh giá mình hơn anh em tân binh khác. - Về hoàn cảnh rèn luyện: Do anh em trước đây học ở nhiều trường đại học, sinh hoạt, công tác ở nhiều cơ quan, điều kiện cuộc sống, địa vị xã hội, hoàn cảnh công tác có khác nhau việc tu dưỡng rèn luyện có mức độ, nên khi vào môi trường quân đội bộc lộ một số nhược điểm: thích tự do thoải mái, ngại kỷ luật gò bó nên thường ít chú ý rèn luyện từ động tác nhỏ, còn chủ quan là có trình độ, cái gì cũng sẽ hiểu biết, nên hay lơ là đại khái, tùy tiện. + Một số lớn (khoảng 50%) còn tư tưởng tạm bợ, có chiến tranh ở quân đội, hết nghĩa vụ về cơ quan nhà trường, phòng nghiên cứu, nên chưa xác định tốt tư tưởng, chưa đưa khả năng, kiến thức khoa học - kỹ thuật phục vụ quân đội lâu dài, cá biệt giao nhiệm vụ đúng chuyên môn không nhận (sợ phải ở lại), có hiện tượng giả ốm, nằm ỳ, không nhận quân hàm. + Một số băn khoăn, do hoàn cảnh gia đình, chưa yên tâm, đi nghĩa vụ quân sự không có lương, gia đình vợ con, bố mẹ vất vả, khổ sở, ở lâu trong quân đội ngành nghề cùn mòn, không có chỗ phát huy, dăm ba năm nữa thôi phục vụ quân đội, về lại cơ quan cũ sẽ ra sao? + Một số khía cạnh tư tưởng cũng cần giáo dục để khắc phục dần như: ngành này, ngành nọ, vị trí công tác, người được sử dụng trước, người được sắp xếp sử dụng sau, thậm chí không được sử dụng. Nếu công tác lãnh đạo không tốt sẽ gây thành vấn đề khó khăn cho tổ chức, cơ quan, đơn vị. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 11 Tháng Mười Một, 2022, 11:05:13 pm IV- Mấy kinh nghiệm rút ra về lãnh đạo và tổ chức quản lý: 1. Về lãnh đạo: - Đây là những anh em đã tốt nghiệp các trường đại học, ít nhiều có kiến thức nhất định, khả năng tiếp thu nhanh, có tính tự trọng, có ý thức tổ chức kỷ luật. Trong công tác giáo dục lãnh đạo cần chú trọng đặc điểm này để phát huy mặt tốt của anh em, làm chỗ dựa tin cậy trong đơn vị. - Cán bộ lãnh đạo, quản lý số anh em này, nên chọn số cán bộ có trình độ và phong thái làm việc tốt, kế hoạch công tác sắp xếp khoa học, biện pháp tổ chức điều hành dứt khoát, động viên tâm lý, khêu gợi hướng dẫn anh em tự giác hoàn thành nhiệm vụ, không phải động viên nhắc nhở nhiều. - Mỗi khi cần phê bình, nhận xét mặt thiếu sót của anh em, phải nắm chắc hiện tượng suy xét kỹ, phân tích có tình, có lý, chặt chẽ, động viên khích lệ kịp thời thì anh em thành tâm tự giác sửa chữa, khắc phục tốt. Cần tránh tác phong nôn nóng vội vàng, thành kiến, nói nhiều nhưng không đúng lúc, đúng chỗ. - Số anh em này rất có khả năng về thể thao, văn nghệ, báo chí, thích nghiên cứu tình hình trong và ngoài nước, hay suy luận, tranh luận và hiểu biết rộng. Do vậy cần chú ý khai thác và tổ chức vận động anh em hăng hái hoạt động nòng cốt trong các phong trào của đơn vị. 2. Về tổ chức quản lý: - Để tổ chức lớp học, Cục Cán bộ và đơn vị quản lý nên chọn nơi có kinh nghiệm, điều kiện, cơ sở vật chất kỹ thuật thiết bị tốt, chọn bộ khung cán bộ quản lý từ trung đội trưởng trở lên là người của đơn vị có am hiểu và có khả năng quản lý tốt. - Thủ tục phân phối và bàn giao nên làm đúng tinh thần chỉ thị của Tổng cục Chính trị và hướng dẫn của Cục Cán bộ đối với đơn vị, thực hiện: nhanh, gọn, đúng hướng, hợp lý, sát nhu cầu, không gượng ép, tránh đảo lộn kế hoạch làm mất khí thế của anh em. - Quá trình tập trung giáo dục phải luôn luôn quán triệt tư tưởng cho anh em là: quyết đi, quyết đánh, quyết thắng, sẵn sàng đưa kiến thức khoa học kỹ thuật, cùng với cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự phục vụ nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng của lực lượng vũ trang đánh thắng giặc Mỹ, yên tâm ở lại phục vụ quân đội lâu dài (nhất là số giỏi, có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu còn thiếu của quân đội). - Về chính sách khuyến khích: theo chủ trương của Bộ, sau khi phân phối cho đi rèn luyện khoảng 3 - 4 tháng, nếu hoàn thành nhiệm vụ tốt, thì nghiên cứu xếp cho anh em hưởng lương, song không phải làm đồng loạt, ồ ạt mà cần khích lệ động viên những anh em có khả năng phù hợp, đối chiếu với chính sách chung của nhà nước thì việc xét cho hưởng lại lương cần xét kỹ và nên trả lương cho anh em đã xếp đúng ngành nghề, có năng lực hoàn thành công việc khó, yên tâm phục vụ quân đội. Còn những anh em chưa xếp đúng hoặc đã sắp xếp nhưng chưa yên tâm, năng lực yếu thì cần kéo dài thời gian rèn luyện. - Thời gian cho anh em xuống đơn vị, đi rèn luyện, nên có chế độ thông báo thường xuyên giữa Cục Cán bộ, đơn vị quản lý và đơn vị rèn luyện công tác của anh em để có cơ sở nắm chắc tình hình nhân sự cho công tác bồi dưỡng tiếp, cho công tác xét chuyển hưởng lương cũng như nguồn bổ sung lâu dài cho quân đội. - Cần nghiên cứu chuẩn bị các thủ tục và nhân sự số chuyên môn giỏi, yên tâm phục vụ quân đội, phẩm chất chính trị tốt, ngành nghề phù hợp, nên quản lý và theo dõi nhận xét động viên để khi xét phong, trao quân hàm thuận lợi và nhanh hơn. (Viết theo sổ tay công tác cá nhân năm 1975). * * * Trên đây là những ý kiến nhỏ xin nêu lên để các đồng chí tham khảo. Lịch sử hình thành phát triển của ngành công tác cán bộ trong lực lượng vũ trang, có một mảng nhỏ công việc này, mà trong ngành có một số người không quan tâm hoặc không biết tới. Là người được Phòng cán bộ Chuyên môn kỹ thuật Cục Cán bộ trong giai đoạn này giao cho lập kế hoạch từ A đến Z về việc hợp đồng, lập kế hoạch nội dung và tổ chức tập trung bồi dưỡng, nắm nhân sự, làm phân phối và theo dõi xếp lương, trao quân hàm cho số anh em cán bộ khoa học kỹ thuật nhà nước vào quân đội theo đường động viên nghĩa vụ quân sự thời chiến, và việc tuyển chọn sử dụng lâu dài trong quân đội, tôi thấy: vấn đề này chúng ta làm tốt sẽ có ý nghĩa rất lớn, ít tốn công đào tạo mà trong một thời gian ngắn có hàng nghìn cán bộ bậc đại học trở lên của các cơ quan nhà nước điều động bổ sung vào quân đội. Từ nguồn này ta có điều kiện lựa chọn những anh em tốt, đủ điều kiện bổ sung vào những nhu cầu mà quân đội đang cần; đồng thời sử dụng tốt số anh em này phục vụ cho quân đội trong thời gian anh em tại ngũ. Dù rằng anh em này chỉ đi làm nghĩa vụ quân sự sau một thời gian, có người tâm huyết, chuyên môn thích hợp tự nguyện ở lại phục vụ lâu dài; một số có thể phù hợp hoặc không phù hợp, nhưng sau vài ba năm sống trong môi trường công tác quân đội, được rèn luyện thực tiễn, am hiểu môi trường quân đội, thì dù họ không ở lại quân đội nhưng vẫn có cảm tình với quân đội và lòng tự hào vì có những năm tháng phục vụ trong lực lượng vũ trang của Đảng. Ngày nay, trong số hơn 2.500 người này, phần lớn đã chuyển ra ngoài quân đội. Một số ít (khoảng một phần ba) còn ở lại phục vụ quân đội. Số anh em này đều đã trưởng thành và có cống hiến, nhiều đồng chí được giao trọng trách chủ trì và đảm đương những mảng công việc quan trọng. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 04:00:11 pm VÀI ĐIỀU TÂM HUYẾT Đại tá NGUYẾN PHÚC TRẠCH Nguyên là cán bộ nghiên cứu Cục Quân hàm - Tổng cục Cán bộ Tôi về làm công tác cán bộ cũng rất bất ngờ. Tháng 9 năm 1954 tôi đang là tiểu đoàn trưởng bộ binh trung đoàn 66 sư đoàn 304. Đơn vị tôi chuyển quân từ Trung Lào về tập kết ở Sơn Tây gần một tháng, chuẩn bị tiếp quản Hà Nội, tôi được điện của Bộ Tổng Tham mưu điều về Cục Quân lực công tác. Từ khi vào bộ đội đến thời điểm ấy tôi công tác và chiến đấu ở đơn vị cơ sở, từ cán bộ tiểu đội đến tiểu đoàn. Nay được điều về cơ quan Bộ, nhất là khi được giao nhiệm vụ làm công tác tổ chức cán bộ, tôi lại càng bỡ ngỡ với công việc mới... Công tác, sinh hoạt ở cơ quan đến một tháng mới quen dần. Đến tháng 10 năm 1954 Bộ tổ chức một bộ phận cán bộ tổ chức gồm hai lực lượng: - Phòng cán bộ Chính trị của Cục Tổ chức Tổng cục Chính trị. - Phòng cán bộ Quân sự nghiệp vụ của Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu. Thời gian này, Cục Quân lực cử một đoàn cán bộ do đồng chí Trần Hoài Ân làm trưởng đoàn xuống sư đoàn 316 ở Thanh Hóa chỉ đạo công tác chỉnh biên. Tôi đại diện cho Phòng cán bộ Quân sự tham gia đoàn, chuyên nghiên cứu về công tác cán bộ quân sự chuyên môn kỹ thuật. Đồng chí Hồ Biểu nghiên cứu về công tác biên chế tổ chức lực lượng. Gần một tháng cùng với đoàn tiếp xúc với đơn vị, tổ chức các cuộc họp, nghiên cứu các chỉ thị nghị quyết của cấp trên và của cơ quan, dần dà tôi cũng vỡ vạc ra: công tác tổ chức cán bộ là đi sâu vào nghiên cứu con người cán bộ để bồi dưỡng, sử dụng cho đúng... Bài học đầu tiên và cũng là bài học suốt đời tôi khi làm công tác tổ chức cũng như khi phụ trách những công tác được giao là câu nói của Bác Hồ: "Dùng người như dùng gỗ...". Hiểu đúng ý của Bác và bản thân mình phải tu dưỡng, trước hết phải có tấm lòng nhân hậu, khoan dung, rộng lượng, vị tha, ý thức tổ chức kỷ luật tốt, quan điểm đúng đắn, chắc chắn công tác sẽ ít phạm sai lầm... Sự suy nghĩ ban dầu của tôi khi bước vào sự nghiệp công tác tổ chức cán bộ là như vậy. Sau đây tôi xin tóm tắt một số cảm nhận, hay gọi là sự hồi tưởng lại những công việc mình đã làm vào thời ấy... Tôi đã đọc một số hồi ký của các đồng chí cấp trên và tiếp xúc trực tiếp, trao đổi tâm tình với các đồng chí ấy. Có thể nói nhiều đồng chí cho đến nay vẫn giữ được trong tôi những tấm gương đẹp, bởi các anh có tấm lòng đẹp, sống đẹp... Nhưng không ít người cách nhìn chưa khách quan, lấy cái ngày nay mà chê cái đã qua. Ví như: Trong kháng chiến chống Pháp, nhất là những năm từ 1950 đến 1970, đường lối cán bộ lấy công nông làm cốt cán cho là sai. Cách đánh giá đó không đúng, vì thời đó cần như vậy và làm như vậy là đúng, có làm đúng thì đại bộ phận cán bộ ta mới vững vàng, tiến hành hai cuộc chiến tranh thần thánh giành toàn thắng. Tôi nghĩ - thời thế đổi thay, cơ chế thay đổi, đó cũng là biện chứng và hợp quy luật, không nên lấy lăng kính thời mở cửa mà phê phán thời bao cấp để phủ nhận lịch sử, như vậy cũng là quan điểm duy tâm phi lịch sử... Trên cơ sở đó, tôi xin trình bày một số công việc cụ thể tôi được phụ trách trong những năm từ 1954 - 1959. Sau hòa bình lập lại, lực lượng vũ trang nhân dân phải nhanh chóng xây dựng một quân đội nhân dân chính quy từng bước tiến lên hiện đại, đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng miền Bắc, cải tạo nền kinh tế, củng cố chính quyền nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; đấu tranh thống nhất nước nhà. Xây dựng quân đội nhân dân chính quy hiện đại bao gồm nhiều nội dung như: quy mô biên chế tổ chức, trang bị kỹ thuật, chế độ chính sách, nền nếp tác phong. Một trong những nội dung quan trọng về công tác tổ chức là công tác cán bộ. Giai đoạn này chủ trương của Đảng, của Bộ Quốc phòng là phải tăng cường phát triển số lượng đủ sức xây dựng lực lượng mới, đặc biệt là các lực lượng binh quân chủng như: Không quân, Hải quân, Xe tăng, Pháo binh, Tên lửa, Công binh, Phòng hóa, v.v... Trong 9 năm chống Pháp ta mới đào tạo cấp tốc cho cán bộ lục quân, chủ yếu là bộ binh mà thành phần chính là bộ binh đánh bộ. Cán bộ cơ sở được về học tại các trường quân chính quân khu, trường lục quân các khóa 1, 2, 3, 4, 5... và một bộ phận trường tập huấn trung cao. Thời kỳ này công tác tổ chức cán bộ rất mạnh dạn và khẩn trương, mạnh dạn đề bạt từ dưới lên (bó đũa cột cờ), thậm chí đề bạt vượt cấp; mặt khác tranh thủ bồi dưỡng tại chức, cán bộ cũ kèm cặp cán bộ mới, trên kèm dưới, tranh thủ bổ túc cán bộ ngắn ngày từng mặt công tác: quân sự, chính trị, văn hóa... Bộ Quốc phòng xây dựng kế hoạch dài hạn, có kế hoạch xây dựng cán bộ rất cơ bản (gọi là kế hoạch A) nhằm đưa một số lượng cán bộ tương đối lớn gồm các cấp chủ yếu là cán bộ trung cao cấp và những đơn vị binh quân chủng kỹ thuật, cán bộ đầu ngành khoa học kỹ thuật, quân sự ra nước ngoài để đào tạo. Kế hoạch dài hạn được Quân ủy Trung ương và Bộ Chính trị chuẩn y, đề nghị với các nước bạn Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri... giúp ta đào tạo, cơ bản dài hạn. Các lực lượng không quân, hải quân, xe tăng, tên lửa, pháo binh, công binh, hóa học, thông tin được đưa sang các nước kể trên, nhất là Liên Xô, Trung Quốc học tập. Về không quân đi Trung Quốc đào tạo từng trung đoàn hoàn chỉnh, cả phi công và đơn vị bảo đảm. Xe tăng, pháo binh, tên lửa cũng vậy. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 04:00:47 pm Để chuẩn bị cho cán bộ có đủ trình độ văn hóa đi nước ngoài học tập, Bộ phải mở trường văn hóa quân đội, lúc đầu ở Kiến An, sau lên Lạng Sơn. Nhà trường dạy văn hoá chung và ngoại ngữ Nga và Trung, thời gian khẩn trương. Trình độ văn hóa ngoại ngữ nói chung là thấp, nhưng với chủ trương mạnh dạn đó, công tác cán bộ đã động viên được cán bộ toàn quân hăng say học tập. Chỉ trong thời gian từ năm 1956 đến năm 1960 ta đã đưa sang Liên Xô, Trung Quốc và các nước bạn khác được hàng chục nghìn cán bộ các cấp đi đào tạo, đáp ứng được yêu cầu xây dựng quân đội lâu dài. Trong thời gian này tôi và anh Đặng Quang Thịnh phụ trách kế hoạch A (anh Thịnh phụ trách số lượng, phân phối lực lượng đi học, tôi phụ trách nhân sự, tìm người cho các lực lượng quân binh chủng), tổ chức chiêu sinh vào trường văn hóa và cử các đoàn đi học nước ngoài. Căn cứ vào kế hoạch bạn đã nhận cơ quan sắp xếp cán bộ cụ thể, báo cáo với Quân ủy duyệt, làm thủ tục đi theo kế hoạch (lúc đó đồng chí Hoàng Văn Thái và Trần Quý Hai phụ trách duyệt cụ thể cán bộ từ cấp úy và cấp tá, gồm cấp tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn phó, còn cấp sư đoàn bậc trưởng và cấp tướng do Cục trưởng báo cáo với Bộ trưởng và các đồng chí trong Quân ủy). Muôn vàn khó khăn, phức tạp. Lúc đó công tác tổ chức nói chung đã là khó khăn rồi, huống chi lại là việc chọn cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài với những lực lượng quân binh chủng kỹ thuật hoàn toàn mới. Ngay tên gọi ngành nghề cũng chưa hiểu, vậy thì vận dụng tiêu chuẩn, đức tài vào cho các ngành như thế nào để cán bộ đi học tiếp thu được mà bạn không trả về. Đó là bài toán khó. Nhưng do quyết tâm và chủ trương đúng đắn của trên, được cán bộ nhất trí cao nên mọi người lăn vào học văn hóa và ngoại ngữ. Khoảng một năm, giải quyết được 3-4 lớp ngoại ngữ Hoa, Nga sử dụng tạm được. Kết quả, các kế hoạch đều thực hiện tốt. Nhìn chung các đoàn đông người cũng như ít người học đều đạt yêu cầu, tỷ lệ bị loại về chính trị, tư tưởng, năng lực tiếp thu rất ít (riêng các đoàn lái máy bay chiến đấu bị loại về sức khỏe gần hết, về năng lực tiếp thu khoảng 30 - 35%). Với đội ngũ cán bộ mới qua cuộc chiến tranh khốc liệt 9 năm, trình độ kiến thức văn hóa khoa học kỹ thuật rất hạn chế, thời gian chưa nhiều mà học được như vậy là một sự cố gắng của ngành tổ chức cán bộ, các trường đào tạo trong nước và đặc biệt là sự cố gắng của bản thân từng cán bộ được lựa chọn đi học. Khoảng thời gian 1957 - 1958 Quân ủy Trung ương chủ trương thành lập Tổng cục Cán bộ, trực thuộc Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng. Chúng tôi được điều về Cục Điều động - Đề bạt phụ trách khối quân binh chủng do đồng chí Trần Đình Cửu phụ trách. Tôi được phân công theo dõi khối quân binh chủng Không quân, Hải quân, Xe tăng, Công binh. Sau một thời gian ngắn Cục Quân hàm thành lập do đồng chí Đoàn Quang Thìn làm cục trưởng, tôi được điều về phòng xét quân hàm cán bộ trung cao cấp do đồng chí Đặng Hòa làm trưởng phòng. Tôi được giao phụ trách khối cá nhân cấp úy và trung tá trở xuống (cấp tiểu đoàn trung đoàn). Nhóm này gồm các đồng chí Trạch, Quảng, Mỹ, Trung, Chấn, Trụ, Hiểu. Chúng tôi nghiên cứu hồ sơ cá nhân, làm báo cáo (dựa theo chính sách, tiêu chuẩn, quy tắc đệ trình với hội đồng xét duyệt trực thuộc Quân ủy Trung ương do đồng chí Nguyễn Chí Thanh phụ trách chung). Thời gian khẩn trương, khối lượng công tác nhiều, tình hình cán bộ biến động nhiều, nhất là cán bộ ở các chiến trường miền Bắc, miền Nam, Lào mới tập kết ra, lãnh đạo cũng như cơ quan nắm chưa thật hệ thống (vì ngành mới) nên quản lý cá nhân cán bộ chưa thật chắc; mặt khác vấn đề quân hàm lại hoàn toàn mới mẻ (các đồng chí Hòa, Vịnh đi tham quan Trung Quốc cũng chỉ tiếp thu được kinh nghiệm của bạn những nét đại cương về thủ tục, hình thức, luật về phục vụ sĩ quan..., còn về cá nhân xét thế nào, vận dụng ra sao là do ta quyết định), khá phức tạp. Nhưng do sự chỉ đạo sát sao của Quân ủy, sự lãnh đạo chặt chẽ của các tổng cục nhất là tổng cục chức năng, Cục Quân hàm Tổng cục Cán bộ làm công tác cụ thể triển khai thực hiện chỉ thị của cấp trên khá tốt, đồng thời giúp Quân ủy, Bộ Quốc phòng chỉ đạo đảng ủy các sư đoàn, quân khu làm khẩn trương, nghiêm túc nên đợt xét phê chuẩn phong quân hàm toàn quân năm 1958 làm nhanh, gọn, nghiêm túc, cả nội dung và hình thức đạt kết quả tốt, tạo được không khí phấn khởi, tự hào trong toàn quân. Nhân dân thấy quân đội ta từ đội quân du kích nay từng bước tiến lên chính quy hiện đại, không chỉ có bản chất cao đẹp mà còn thấy Quân đội nhân dân Việt Nam, "bộ đội Cụ Hồ" có quân phong, quân kỷ, quân dung chỉnh tề, đẹp đẽ. Đây là bước tiến nhanh trong việc xây dựng quân đội. Gần sáu năm công tác trong ngành công tác tổ chức cán bộ, bản thân học hỏi chưa được nhiều, đóng góp còn ít ỏi nhưng qua rèn luyện trong công tác thực tế, tôi thấy mình cũng trưởng thành thêm một bước về trình độ hiểu biết và công tác. Trong quá trình công tác, không qua trường lớp nào cả, là một cán bộ cơ sở trưởng thành lên và được làm công tác ở bộ phận quan trọng ở cơ quan có tầm chiến lược, mọi thứ đều mới mẻ bỡ ngỡ nhưng do được trên kèm cặp, bạn bè đồng nghiệp tương trợ giúp đỡ, cuối cùng tôi cũng vượt qua và làm công tác có kết quả. Tuy nhiên, trong công tác có ưu điểm khuyết điểm, thậm chí còn vấp váp, sai lầm, trong công tác cụ thể và có thể có chỗ này chỗ kia chưa được hoàn hảo hoặc khuyết điểm nhưng điều khẳng định là: quan điểm chính trị kiên định vững vàng, trên cơ sở đó tiếp thu đường lối chính sách, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên nghiêm túc, vận dụng vào công tác cụ thể khá nhuần nhuyễn, có những vấn đề đề xuất được cấp trên chấp thuận. Thời kỳ đó công tác tổ chức, công tác đảng rất nhấn mạnh về quan điểm giai cấp. Tôi nghĩ rằng lúc đó làm như vậy là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn. Bây giờ thời kỳ đổi mới, chúng ta vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới về biện pháp, phương thức cách làm, nhưng vẫn phải bám chắc đường lối tổ chức của giai cấp công nhân, của Đảng. Ngày nay thực hiện đường lối đổi mới, nhưng những cái cũ - bản chất cao đẹp của "bộ đội Cụ Hồ" chẳng những không thay đổi mà cần được phát huy ngày càng cao đẹp hơn... Chúng tôi, tầng lớp cán bộ của một thời đánh Mỹ, được Đảng, quân đội chắp cánh cho bay được cao, được xa và đã hoàn thành nhiệm vụ. Điều sâu sắc nhất của cuộc đời chiến đấu là thà chết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, có thể còn đói cơm lạt mắm, nhưng không cam tâm làm nô lệ. Vì lẽ đó nên các tầng lớp cán bộ kế tiếp nhau đều chiến đấu ngoan cường, hy sinh vì sự nghiệp cao cả, đất nước ta mới có ngày nay. Tôi nghĩ đó là ưu điểm lớn nhất của đường lối tổ chức của Đảng - cũng là ưu điểm lớn nhất của công tác cán bộ quân đội ta 50 năm qua. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 04:04:17 pm MẤY SUY NGHĨ VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ QUÂN ĐỘI TRONG THỜI KỲ ĐÁNH MỸ Đại tá NGUYỄN ĐÌNH MẠI Nguyên phó phòng cán bộ Hậu bị - Cục Cán bộ Sau ngày hòa bình lập lại vào tiếp quản Thủ đô (10-10-1954), tôi nhận được điện của đại đoàn 308 báo cho biết, tôi có quyết định của cấp trên điều về cơ quan của Bộ. Tôi hoàn toàn bất ngờ và lo lắng, không hiểu mình về cơ quan trên Bộ thì làm được việc gì? Nhưng trên đã có quyết định, tôi phải bàn giao công việc cho các đồng chí ở lại làm tiếp. Tôi chuẩn bị các giấy tờ cá nhân và mang ba lô về trạm khách 70 của Bộ ở nhà thờ Liễu Giai (nay là khách sạn La Thành) vào khoảng tháng 4 năm 1955. Sau mấy ngày nằm chờ, tôi được gọi vào gặp cơ quan, đến nơi thì đây là nhà ngủ của cán bộ Cục Quân lực và Cục Trực công. Người tôi gặp đầu tiên là đồng chí Đỗ Thi và sau đó gặp đồng chí Hồng Long, Cục phó Cục Quân lực kiêm trưởng phòng cán bộ. Các đồng chí giao cho tôi về Phòng Cán bộ làm việc. Tôi về Phòng Cán bộ Cục Quân lực khoảng tháng 5 năm 1955. Lúc này Phòng Cán bộ Cục Quân lực có khoảng 10 người gồm: đồng chí Hồng Long Cục phó kiêm trưởng phòng, đồng chí Đỗ Thi phó phòng, và một số đồng chí khác: Võ Văn Thạnh cán bộ trung đoàn phụ trách tổ nhân sự, đồng chí Đặng Quang Thịnh cán bộ trung đoàn phụ trách kế hoạch, v.v... Tôi công tác ở Phòng Cán bộ thuộc Cục Quân lực vừa tròn một năm (5-1955 - 5-1956) thì trên có quyết định thành lập Cục Cán bộ Bộ Tổng Tham mưu, thế là toàn bộ Phòng Cán bộ Cục Quân lực được chuyển sang thành Cục Cán bộ Bộ Tổng Tham mưu (khoảng tháng 6 năm 1956). Cục Cán bộ Bộ Tổng Tham mưu thành lập và hoạt động vừa đúng một năm thì trên có quyết định thành lập Tổng cục Cán bộ, Cục Cán bộ Bộ Tổng Tham mưu và Cục Cán bộ Tổng cục Chính trị được chuyển về thành lập Tổng cục Cán bộ vào tháng 4 năm 1957. Tổng cục Cán bộ thành lập và hoạt động được hơn một năm, vừa làm xong nhiệm vụ phong quân hàm cho sĩ quan thì được lệnh giải thể để thành lập Cục Cán bộ và chuyển về Tổng cục Chính trị vào cuối tháng 1 năm 1959. Cục Cán bộ thuộc Tổng cục Chính trị lúc này do đồng chí Đoàn Quang Thìn phụ trách cục trưởng, các đồng chí Trần Hoài Ân, Hồ Bá Phúc làm cục phó. Trong thời gian công tác ở cơ quan cán bộ, lúc đầu tôi được phân công làm công tác đào tạo bồi dưỡng, nhưng phần lớn thời gian là làm công tác chuyển cán bộ ra ngoài và đăng ký động viên sĩ quan dự bị trở lại quân đội. 1. Chuyển cán bộ ra ngoài quân đội: Trong quá trình làm công tác chuyển cán bộ ra, đăng ký, động viên cán bộ trở lại phục vụ quân đội, gần một phần tư thế kỷ ở cơ quan cán bộ quân đội, tôi nhận thấy công tác này có không ít khó khăn phức tạp. Đặc biệt sau Tết Mậu Thân (1968) và chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, số cán bộ là thương bệnh binh ở chiến trường chuyển ra điều trị an dưỡng để giải quyết chính sách rất đông. Lúc đầu chỉ có đoàn an dưỡng 200 của Quân khu 4, đoàn 581 của Quân khu 3 nuôi dưỡng cả cán bộ và chiến sĩ. Nhưng về sau các đoàn này không đảm đương nổi vì số lượng người quá lớn, phải tách riêng các đoàn cán bộ ra. Riêng cán bộ có lúc phải tổ chức tới gần 10 đoàn như Quân khu 4 có đoàn 200; Quân khu Hữu Ngạn có các đoàn 582, 584, 583; Quân khu Tả Ngạn có các đoàn 251, 253, 564; Quân khu Việt Bắc có đoàn 235. Thương bệnh binh là chiến sĩ quê ở tỉnh nào giao về tỉnh đó tổ chức đoàn nuôi dưỡng, các quân khu chỉ tổ chức nuôi dưỡng cán bộ. Lưu lượng các đoàn an dưỡng cán bộ nhiều lúc rất cao, có đoàn 4-5 nghìn, trung bình 2-3 nghìn. Số anh em này ra điều trị an dưỡng hầu hết không có giấy tờ vì có nhiều nguyên nhân: có đồng chí bị thương đưa ra theo tuyến bệnh viện; có đồng chí trên đường đi ra đánh mất, có đồng chí giấy tờ trưởng đoàn cầm bị lạc, có đồng chí trên đường bị máy bay đánh phá mất hết cả đồ đạc, giấy tờ, v.v... nhưng khi về đến đoàn an dưỡng, đều phải tìm mọi cách để giải quyết đầy đủ các quyền lợi cho anh em như: cấp, chức, đảng, đoàn, thương tật... để anh em được sinh hoạt và hưởng lương. Do đó năm 1969 Cục Cán bộ đã phải thành lập Phòng Quản lý cán bộ thương bệnh binh, điều đồng chí Lê Nguyên Tham, nguyên trưởng phòng cán bộ hải quân về làm trưởng phòng. Phòng này có lúc tăng cường tới 27 cán bộ mà vẫn cảm thấy thiếu người đi làm phái viên vì các đoàn phát triển đông, ở rất rộng, cán bộ thương bệnh binh nhiều; anh em thường phải đạp xe thường xuyên xuống các đoàn để nắm tình hình và hướng dẫn các đoàn giải quyết. Tôi còn nhớ có lần đồng chí Tham đạp xe từ đoàn 582 ở Lý Nhân về nói với tôi: "Công tác đầu ra nhày nhụa chày trật". Câu nói ấy phần nào nói lên công tác này có nhiều khó khăn và phức tạp (đồng chí cũng chỉ làm có một thời gian ngắn rồi về lại hải quân). Sau đó Cục lại điều đồng chí Lương Đình Chơn trung tá về làm trưởng phòng, nhưng cũng không được bao lâu đồng chí lại về làm chính ủy tỉnh đội Nghệ An. Còn lại tôi kĩu kịt công việc mãi đến sau này. Có lúc cán bộ thương bệnh binh ở các đoàn quá đông, Tổng cục phải tổ chức nhiều đoàn đi giải quyết. Đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Phó chủ nhiệm Tổng cục đã trực tiếp phụ trách một đoàn, xuống đoàn 582 giải quyết để rút kinh nghiệm. Đồng chí Trần Hoài Ân và tôi cùng đi trong đoàn này. Anh Ân và tôi được anh Mậu giao cho nằm thường trực ở đoàn để giải quyết. Thời gian này Tổng cục đã điều đồng chí Phạm Thái cán bộ phòng quân sự xuống làm chính ủy đoàn 582 để cùng phối hợp với Cục giải quyết. Cũng trong thời gian này đoàn 871 được thành lâp trực thuộc Tổng cục Chính trị để làm nhiệm vụ bồi dưỡng cho cán bộ thương binh, bệnh binh trước khi chuyển sang các ngành. Đoàn thành lập trên cơ sở của một trung đoàn thuộc Bộ tư lệnh 300 (làm kinh tế) có xếp tăng cường đồng chí Lê Hoàn phó chủ nhiệm chính trị Bộ tư lệnh 300 làm chính ủy và đồng chí Luân ở Cục Quân lực làm đoàn trưởng. Công tác giải quyết cán bộ thương binh, bệnh binh ở chiến trường ra thời kỳ này có tới hàng vạn, không phải hàng nghìn; không chỉ giải quyết điều trị an dưỡng, mà phải giải quyết các giấy tờ cấp, chức, đảng, đoàn, thương tật và các quyền lợi vật chất tinh thần cho anh em; còn phải sắp xếp công tác sau khi sức khỏe bình phục. Riêng việc giải quyết các giấy tờ cho anh em cũng đã khá vất vả. Chúng tôi phải động viên tinh thần tự giác kê khai, kết hợp với xác nhận của cán bộ cùng đơn vị, với việc điều tra xác minh thêm ở chiến trường. Bàn bạc kỹ với các cục có liên quan để cùng nhau giải quyết như Cục Tổ chức giải quyết về sinh hoạt đảng, đoàn; Cục Chính sách giải quyết về thương tật; Cục Tài vụ về cấp phát lương trên cơ sở xác nhận cấp chức của Cục Cán bộ và các đơn vị. Đến nay đã hơn 20 năm qua, nhưng chưa phát hiện những sai sót gì lớn. Như vậy việc giải quyết của Cục Cán bộ cũng rất thận trọng và chu đáo. Trong khi giải quyết cho số cán bộ thương binh, bệnh binh chưa xong thì quân ta đã chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam (30-4-1975), thống nhất đất nước. Quân đội lại được kiện toàn, tăng cường chất lượng, giảm số lượng. Số cán bộ dư biên chế lúc này rất lớn (hơn 3 vạn, theo tính toán của Phòng Kế hoạch). Số cán bộ này không phải là thương binh, bệnh binh mà hầu hết đã qua chiến đấu, được rèn luyện ở các chiến trường, là vốn rất quý của quân đội. Để vừa đảm bảo được kiện toàn tổ chức, giảm được tỷ lệ cán bộ, chúng ta đã tìm nhiều cách để sắp xếp cho anh em, nhưng do số lượng quá lớn, không có cách gì xếp chuyển ngành một lúc, sang các Bộ được. Vì vậy, đã đề nghị với Ban Tổ chức Trung ương trước mắt cho biệt phái tăng cường cho các huyện, nhất là các huyện phía Nam mới giải phóng, cán bộ còn thiếu và yếu. Dần dần số anh em nào công tác phù hợp, phát huy được trên lĩnh vực công tác mới thì mới giải quyết cho chuyển ngành. Ban Tổ chức Trung ương nhất trí và ra quyết định điều động 2 vạn cán bộ quân đội biệt phái tăng cường cho cấp huyện (mỗi huyện cũng chỉ được 40 - 50 người). Đúng là để thì giàu, chia nhau thì khó! Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 04:05:43 pm Việc giải quyết cho số cán bộ đi tăng cường cấp huyện vừa xong thì hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc diễn ra, lực lượng quân đội được phát triển mở rộng, thêm nhiều trung đoàn, sư đoàn và quân đoàn, nên hầu hết số cán bộ đi tăng cường cấp huyện và số cán bộ dự bị còn lại được động viên trở lại phục vụ quân đội tiếp. Việc giải quyết cho cán bộ ra khi có số lượng lớn phải công phu nghiên cứu, đề xuất được chủ trương biện pháp phù hợp thì mới có khả năng giải quyết được kịp thời chính xác. Như sau hòa bình lập lại (7-1954) chỉ có chủ trương chung giải quyết cho 8 vạn quân chuyển ra (có thành lập Hội đồng phục viên Trung ương do Phó thủ tướng làm chủ tịch và đồng chí Phạm Thiệu, Cục phó Cục Quân lực làm chánh văn phòng). Nhưng chủ trương giải quyết cán bộ ra lúc đó không rõ, do đó các đơn vị cho về phục viên ồ ạt. Sau khi về, nhiều anh em gặp khó khăn viết thư kêu lên Bộ, kêu ca rất nhiều, cho là quân đội "vắt chanh bỏ vỏ", đã có mấy chục anh em phục viên về địa phương vác ba lô trở lại đơn vị, đòi được ở lại quân đội (vụ này Bộ đã phải xuống giải quyết). Đầu năm 1960 sau khi phân loại cán bộ phong cấp quân hàm, kiện toàn đơn vị, có một số cán bộ dư biên chế, nhất là cán bộ sơ cấp. Chúng ta đã có chủ trương cho anh em đi tăng cường cho các hợp tác xã (khi đó đồng chí Nguyễn Chí Thanh chuyển ra làm trưởng ban công tác nông thôn), được Ban công tác nông thôn Trung ương nhất trí và đã tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho anh em trước khi về hợp tác xã (ở doanh trại trung đoàn Thủ đô ở Nhổn và ở trường hợp tác xã trung ương ở Văn Điển). Bác Hồ cũng đã đến thăm động viên anh em trước khi về xã công tác. Tôi nhớ mãi câu Bác dặn "anh khôn cũng ở trong bồ, tôi dại cũng ở thủ đô tôi về". Hoặc sau này số cán bộ thương binh, bệnh binh ở chiến trường ra Cục Cán bộ cũng tìm nhiều cách để giải quyết cho anh em chuyển ra được ổn định, trước khi chuyển ra đã bồi dưỡng thêm văn hóa, bồi dưỡng nghiệp vụ để tạo điều kiện cho anh em chuyển ngành, với số có văn hóa khá (tốt nghiệp lớp 10) cho đi học các trường đại học. Do đó hàng năm đã chuyển được hàng nghìn cán bộ sang các ngành và các trường. 2. Công tác đăng ký động viên cán bộ dự bị: Công tác đăng ký cán bộ dự bị bắt đầu làm từ tháng 5 năm 1956 (từ khi có Phòng cán bộ Dự bị thuộc Cục Cán bộ Bộ Tổng Tham mưu). - Phòng cán bộ Dự bị thuộc Cục Cán bộ Bộ Tổng Tham mưu đã kết hợp với Cục Động viên Dân quân nghiên cứu đề nghị Chính phủ ban hành điều lệ đăng ký quân nhân dự bị (bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ dự bị). Những cán bộ chuyển ra còn đủ sức khỏe đều được đăng ký và cấp chứng minh thư sĩ quan dự bị; hàng năm tùy theo yêu cầu xây dựng lực lượng dự bị được gọi đi huấn luyện, hoặc được động viên thực tập. Do có đăng ký cán bộ dự bị, mà năm 1959 khi Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, không thực hiện sau hai năm tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, chúng ta đã tuyển chọn gần 600 cán bộ quê miền Nam ra tập kết chuyển ngành trở lại quân đội để bổ sung cho chiến trường miền Nam. Đến năm 1965 chiến tranh mở rộng ra miền Bắc, lực lượng quân đội được phát triển và mở rộng để tập trung đánh Mỹ ở cả hai miền, chúng ta đã tiến hành động viên hàng nghìn cán bộ dự bị trở lại quân đội để bổ sung cho các quân khu, tỉnh đội, huyện đội, các quân binh chủng (Công binh, Pháo binh, Phòng không, Hải quân) và các sư đoàn (312, 325, 304B...); hoặc đầu năm 1979, chiến tranh xảy ra ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, lực lượng quân đội lại được phát triển. Để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, chúng ta lại động viên tiếp hàng nghìn cán bộ dự bị trở lại quân đội để bổ sung cho các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Tỉnh Hải Hưng đã động viên gọn cả một trung đoàn (e183) bổ sung lên mặt trận Cao Bằng, có đồng chí cán bộ dự bị được động viên vào quân đội nói "hôm qua còn đi cày, hôm nay đã cầm súng đánh giặc". Ngoài việc đăng ký cán bộ quân đội chuyển ra làm sĩ quan dự bị, còn tổ chức huấn luyện hàng nghìn sinh viên ở các trường đại học có các ngành nghề phù hợp với quốc phòng để đào tạo thành sĩ quan dự bị. Việc làm này vừa đỡ tốn kém, vừa có nhiều sĩ quan dự bị chuyên môn kỹ thuật để sử dụng khi quân đội có yêu cầu. Không ai nghĩ rằng, cho cán bộ quân đội chuyển ra và đăng ký lại làm cán bộ dự bị năm 1956 để đến năm 1965 phải động viên họ vào lại quân đội; cho cán bộ chuyển đi tăng cường cho cấp huyện sau năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất cũng không nghĩ rằng đến năm 1979 lại phải động viên họ trở lại phục vụ quân đội chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Việc chuyển cán bộ ra và động viên cán bộ dự bị trở lại quân đội, qua hai thời điểm lịch sử sau năm 1955 và năm 1975 cho chuyển cán bộ ra; và năm 1965, năm 1979 động viên cán bộ đã chuyển ra trở lại quân đội chiến đấu là một bài học quý giá. Công tác cán bộ luôn luôn phải chuẩn xác, biết nhìn xa, thấy trước, nếu không lúc cần không biết bấu víu vào đâu. Chúng ta còn nhớ, sau năm 1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất có ý kiến cho rằng chúng ta đã đánh thắng Pháp, Mỹ thì chẳng ai dám động đến nước ta. Thực tế chỉ 2 đến 3 năm sau khi giải phóng miền Nam thì đã xảy ra chiến tranh biên giới phía Tây Nam và 4 đến 5 năm sau thì chiến tranh biên giới phía Bắc, lực lượng quân đội lúc này được phát triển mở rộng chưa từng có trong lịch sử (hàng chục quân đoàn, binh đoàn). Nếu đội ngũ cán bộ thường trực không mạnh thì không thể nhân ra được, và cán bộ dự bị không đông đảo thì không thể đáp ứng được yêu cầu của quân đội phát triển mở rộng. Trong công tác cán bộ có khi xếp "yếu" còn hơn "thiếu", có còn hơn không, "chọn cột cờ trong bó đũa" là như vậy. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 17 Tháng Mười Một, 2022, 04:07:57 pm VÀI Ý KIẾN NHỎ Đại tá TRẦN ĐÌNH CHU Nguyên cán bộ nghiên cứu kế hoạch - Cục Cán bộ Là một trợ lý về Cục Cán bộ sau thời kỳ chống Pháp phụ trách một vài việc như trợ lý kế hoạch, đào tạo bồi dưỡng, theo dõi cán bộ học nước ngoài... tôi có một vài ý kiến. 1. Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước chuyển sang một thời kỳ mới: xây dựng và bảo vệ miền Bắc, chuẩn bị cho việc giải phóng miền Nam, quân đội ta cũng chuyển sang một thời kỳ mới, từng bước xây dựng quân đội chính quy hiện đại, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam. Với yêu cầu xây dựng quân đội như vậy, đội ngũ cán bộ của ta cũng có những yêu cầu mới, đòi hỏi công tác cán bộ phải đáp ứng kịp thời. Nét nổi bật của đội ngũ cán bộ sau chống Pháp thắng lợi là lòng trung thành, tận tụy, dũng cảm thì có, nhưng trình độ văn hóa nói chung thấp, sức khỏe giảm sút. Muốn xây dựng quân đội chính quy hiện đại, xây dựng các quân binh chủng, ngoài lòng trung thành, dũng cảm, vấn đề văn hóa, sức khỏe không thể thiếu. Vì vậy cơ quan cán bộ đã tham mưu cho Quân ủy, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị và biện pháp để bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ (các nghị quyết, các chỉ thị có lưu ở bảo mật bây giờ). Tổ chức lại hệ thống nhà trường quân sự, chính trị và các quân khu, sư đoàn để mở các lớp bổ túc văn hóa; trường văn hóa Lạng Sơn mở thêm lớp ngoại ngữ, chiêu sinh cán bộ về học văn hóa, đồng thời bồi dưỡng sức khỏe. Nhiều cán bộ chiến đấu dũng cảm chiêu sinh về học, trình độ văn hóa lúc đầu cũng chỉ lớp 2, lớp 3. Do có chủ trương tích cực đúng đắn, trong một thời gian cơ quan cán bộ đã nắm được một đội ngũ cán bộ để cho đi đào tạo bồi dưỡng, đặc biệt là các binh, quân chủng như: không quân, hải quân, xe tăng, pháo binh... đã góp phần xây dựng quân đội hoàn thành nhiệrn vụ bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam. Đây là một bài học kinh nghiệm trong việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khi đất nước, quân đội chuyển sang một nhiệm vụ mới. 2. Sau chống Pháp thắng lợi, khi về cục, trong một số mặt công tác, tôi thấy nổi lên một vấn đề là chính sách cán bộ. Chính sách cán bộ đối với cán bộ ở lại quân dội, tiếp tục xây dựng quân đội thời kỳ này cũng có nhiều vấn đề lớn như đào tạo bồi dưỡng, quân hàm, tiền lương, chính sách hậu phương cán bộ... Ở đây tôi nói tới vấn đề giải quyết cán bộ chuyển ra ngoài quân đội. Đặc điểm đội ngũ cán bộ quân đội ta lúc này là số lượng cán bộ sơ cấp đông, đa số sức khỏe yếu, trình độ văn hóa thấp, có nhiều nguyện vọng tâm tư khác nhau. Một chủ trương lúc đó là tổ chức nhiều đoàn an dưỡng như ở Thanh Hóa, Quảng Yên... làm nhiệm vụ bồi dưỡng sức khỏe, vừa bồi dưỡng văn hóa, phân loại số để lại trong quân đội, số chuyển sang sản xuất, nông trường, số chuyển ngành, số phục viên. Điều kiện lúc đó không được như bây giờ, nhiều lúc cũng phức tạp khó khăn, có lúc anh em mang ba lô về Bộ thắc mắc; nhưng do tận tình giải quyết về tư tưởng cũng như vật chất cho anh em, dần dần cơ bản công tác chính sách cán bộ cũng giải quyết được. Do có chính sách đúng đắn đối với cán bộ tại ngũ và cả số cán bộ chuyển ra ngoài, nên khi cao trào đánh Mỹ, ta mới có đội ngũ cán bộ đưa vào miền Nam, quân đội ta mới đánh thắng chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ, xây dựng được đội ngũ cán bộ dự bị đông, đủ điều kiện khi cần động viên vào. Năm 1965 khi thành lập sư đoàn 304B, tôi được ra xây dựng trung đoàn 66. Toàn bộ chiến sĩ lấy ở Hưng Yên. Lúc đó số cán bộ chủ lực chỉ có mấy cán bộ trung đoàn, hầu hết cán bộ từ tiểu đoàn trở xuống và cơ quan trung đoàn đều động viên vào. Xây dựng huấn luyện khoảng ba năm, năm 1968 ra quân đánh ở Khe Sanh, đường 9 rất tốt. Sư đoàn 304B trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là một sư đoàn chiến đấu có nhiều thành tích. Nếu sau chống Pháp ta không làm tốt chính sách cán bộ, thì khi cao trào đánh Mỹ cũng sẽ khó khăn. Đây là một kinh nghiệm. Ngày nay, sau kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước chuyển sang một thời kỳ mới, xây dựng quân đội để bảo đảm yêu cầu nhiệm vụ cũng có nhiều điểm mới. Vấn đề chính sách cán bộ, cả cán bộ tại ngũ và cán bộ chuyển ra ngoài, cũng vô cùng quan trọng. Về chính sách đối với cán bộ về hưu, mất sức, phục viên chuyển ngành, đây không chỉ là đãi ngộ, mà là tình nghĩa, công bằng xã hội và xây dựng lực lượng hậu bị. 3. Về kinh nghiệm từng mặt công tác thì có nhiều, nhưng tổng quát, tôi nghĩ rằng công tác cán bộ cần phải nắm đường lối, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội, để tham mưu cho Bộ, Tổng cục xây dựng một đội ngũ cán bộ như thế nào cho phù hợp. Việc này công tác tham mưu của cơ quan cán bộ đã có nhiều kết quả, hoàn thành được nhiệm vụ. Tham mưu để xây dựng đội ngũ cán bộ từ trước đến nay cho thấy rằng: công tác đào tạo bồi dưỡng vẫn là trọng tâm, bố trí sắp xếp, đề bạt, sử dụng là then chốt, công tác chính sách (cả cán bộ tại ngũ và cán bộ xuất ngũ) cũng vô cùng quan trọng. - Về truyền thống, tôi nghĩ rằng Cục Cán bộ từ trước đến nay trung thành với Đảng, với quân đội, thể hiện đã nắm vững đường lối chủ trương chính sách, cần cù chịu khó, khi cần ra làm nhiệm vụ đều sẵn sàng và đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tôi còn nhớ năm 1965 khi cao trào chống Mỹ, rất nhiều cán bộ ở Cục Cán bộ ra đơn vị, chúng tôi gặp nhau ở chiến trường. Chúng tôi thường tự hào: làm công tác cơ quan cũng được, khi ra đơn vị trong hoàn cảnh khó khăn cũng được. Những người điều về công tác ở cục trước đây, tuy không ai nói ra, nhưng đều cảm thấy quân đội, tổ chức tin cậy, nên lúc nào cũng phải phấn đấu. Một truyền thống nữa là sự đoàn kết thương yêu nhau trong cục và trong ngành. Đến nay anh em trong ban liên lạc nghỉ hưu, mỗi lần gặp nhau đều thân mật yêu quý nhau. Điểm này cũng nên nghiên cứu, xây dựng thành truyền thống của Cục Cán bộ. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2022, 11:05:32 am NHỮNG Ý KIẾN CHÂN THÀNH Đại tá PHẠM THĂNG Nguyên cán bộ nghiên cứu - Cục Cán bộ Công tác cán bộ trong quân đội là sự quản lý, bồi dưỡng, sử dụng, thực hiện chính sách... đối với đội ngũ và từng người cán bộ. Trong đó công tác kế hoạch là một mặt của công tác cán bộ, là sự chủ động đi trước những bước dài, ngắn phù hợp với sự phát triển khách quan của nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu đúng với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng đáp ứng cho yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt và lâu đài. Công tác kế hoạch cán bộ cũng có nhiều mặt, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn, kế hoạch tổng thể và chi tiết, kế hoạch trước mắt và lâu dài, kế hoạch bồi dưỡng và sử dụng, v.v... nhưng chung quy kế hoạch đầu vào và đầu ra là hai yêu cầu thường xuyên trong quá trình xây dựng lực lượng đảm bảo sẵn sàng chiến đấu, kể cả thời bình và thời chiến, nhất là thời chiến. Dù thời bình hay thời chiến, muốn xây dựng được kế hoạch công tác cán bộ có hiệu quả đảm bảo tính chính xác cao thì việc nắm các yếu tố, các dữ kiện là điều trước tiên, sau đó là những điều kiện khác như trình độ nghiệp vụ, phương tiện hoạt động, cơ sở vật chất, v.v... (bây giở những điều kiện ấy hẳn là tiến bộ khác trước rất nhiều). Đầu vào là cửa ngõ đi vào đội ngũ cán bộ. Có hai nguồn chính: học sinh được đào tạo ở các trường sĩ quan ra; bồi dưỡng đề bạt những hạ sĩ quan, chiến sĩ đã qua chiến đấu rèn luyện có phẩm chất, năng lực tại đơn vị lên. Ngoài ra còn có những nguồn khác như cán bộ các cơ quan dân, chính, đảng và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ngoài cơ quan nhà nước được điều động vào; những sĩ quan dự bị được động viên tái ngũ. Bình thường trong xây dựng thì lấy ở trường ra là chính, nhưng đôi khi cũng bất cập khi thừa khi thiếu. Sau hòa bình năm 1954 ta giảm 8 vạn quân, số cán bộ cũng giảm theo. Các đơn vị xây dựng theo hướng tinh nhuệ thiện chiến, cán bộ miền Nam tập kết ra... cán bộ dư nhiều, mặc dầu được sử dụng vào xây dựng kinh tế, các nông trường, cải cách ruộng đất và sửa sai, cải tạo công thương nghiệp, v.v... Nhưng số lượng cán bộ vẫn dư, nhất là thời kỳ 1960 - 1963. Học sinh đào tạo ở Trường sĩ quan Hậu cần 4 năm ra, Bộ chỉ thị phong quân hàm thượng sĩ, về đơn vị xếp được thì đề bạt sau. Đến năm 1965 đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, các lực lượng phát triển, nhất là lực lượng phòng không, cán bộ binh chủng này rất thiếu lại phải xin khắp nơi, kể cả những hạ sĩ quan chiến sĩ cũ đang làm cảnh vệ, anh nuôi bồi dưỡng để bổ sung cho Quân chủng Phòng không - Không quân. Trong chiến đấu sự thiếu hụt do tiêu hao có khi vượt xa cả những dự kiến thông thường, nhất là bộ binh, vì vậy có lúc không thể không đề bạt tại chỗ lên, vì sĩ quan đào tạo ở trường ra không kịp. Chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972, là cuộc chiến ác liệt nhất phục vụ cho hòa đàm Pa-ri, có tân binh chiến đấu sau một tuần đã "phải làm" trung đội trưởng; có binh chủng, đại đội qua nửa năm chiến đấu đã phải thay thế bảy lần, có đồng chí sư đoàn phó vừa nhận nhiệm vụ được hai ngày đã hy sinh. Vì vậy bổ nhiệm ở trường ra và tại chỗ lên là hai hình thức cơ bản của đầu vào, có mặt mạnh, mặt yếu của nó. Số học sinh ở trường ra bước vào chiến đấu ngay thường có bỡ ngỡ ban đầu, đôi khi máy móc với bài bản, sách vở, nhưng nói chung đều có quyết tâm lập công để khẳng định mình, đứng vững được thì trưởng thành có cơ sở vững chắc, là vốn quý để xây dựng quân đội lâu dài. Số được đề bạt tại chỗ lên, đảm bảo đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chiến đấu trước mắt, có kinh nghiệm thực tế, nhưng về lâu dài muốn đáp ứng yêu cầu xây dựng chính quy hiện đại thì sau chiến đấu cần được lựa chọn cho đi học bồi dưỡng để giữ gìn vốn quý. Đầu ra cũng có hai hướng chính, phục viên và chuyển ngành (xuất ngũ bao gồm cả về hưu, mất sức, phục viên), được giải quyết thường xuyên. Dân tộc ta trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ là đánh Pháp và đánh Mỹ, công tác đầu ra thường nổi lên từ giữa hoặc sau cuộc chiến (đánh Pháp là sau năm 1954, đánh Mỹ là từ sau tổng tiến công năm 1968). Việc giải quyết đầu ra những năm trước đây không ít khó khăn, cục phải thành lập hẳn một bộ phận riêng chuyên vấn đề này. Không giải quyết được thì tỷ lệ cán bộ cho phép trở nên quá tải, ảnh hưởng đến việc sắp xếp đề bạt cán bộ. Nhưng nếu có biện pháp chính sách giải quyết tốt sẽ là một hình thức xây dựng quân đội theo hướng lâu dài, bởi lẽ số cán bộ này hầu hết được rèn luyện thử thách qua chiến đấu, sức khỏe đến lúc nào đó sẽ hồi phục, có thể là những sĩ quan dự bị sẵn sàng động viên khi cần thiết. Ngoài ra tôi thấy cần phát biểu một vài suy nghĩ khác. + Quân đội cần xây dựng một đội ngũ cán bộ khoa học riêng đạt tới mức siêu đẳng kể cả so với nhà nước và quốc tế. Đây không phải là cán bộ chỉ huy binh chủng hợp thành thuần túy, nên không cần mang quân phục, quân hàm mà chủ yếu là chính sách đãi ngộ và điều kiện làm việc. Còn với những cán bộ chuyên môn kỹ thuật thông thường thì có thể điều động từ nguồn đào tạo của các trường đại học do nhà nước có kế hoạch. + Yêu cầu công tác cán bộ phải nhất quán về nguyên tắc, linh hoạt về chính sách và thủy chung về tình nghĩa, bởi vì: quân đội ta đã có Luật phục vụ của sĩ quan thì cần thực hiện theo luật kể cả việc bổ nhiệm đề bạt, không nên lấy những trường hợp đặc thù, coi như một chân lý phổ biến để làm tư tưởng chỉ đạo. Sắp xếp cán bộ cũng trên cơ sở phẩm chất và năng lực là điều cốt lõi tạo ra được "ê-kíp" làm việc ăn ý có hiệu suất chất lượng cao, cái ê-kíp này đừng hiểu là "cùng địa phương", "cùng cánh hẩu". Phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và các chính sách khác đối với cán bộ suốt quá trình công tác cũng như khi cán bộ đã nghỉ hưu. Các cơ quan chính sách địa phương tránh xu hướng lo được sao hay vậy, nhất là với những cán bộ, những gia đình liệt sĩ có nhiều khó khăn. + Chính sách với cán bộ cũng cần nghiên cứu hoàn thiện hơn. Qua hai cuộc kháng chiến số cán bộ do cao tuổi, sức khỏe, thương tật cần được nghỉ có nhiều, cấp nào cũng có. Chính sách chế độ cần kịp thời, tận tình chu đáo, thực hiện công bằng trong chính sách đãi ngộ đối với cán bộ. + Người cán bộ quân đội cũng là con người bình thường, được Đảng, quân đội bồi dưỡng dìu dắt mà nên. Dù người có ưu điểm thành tích đến mấy, cũng khó tránh khỏi lúc nào đó có khuyết điểm. Vì thế nhận xét đánh giá một cán bộ cần khách quan, công khai, không vì thành kiến, yêu nên tốt ghét nên xấu, người cán bộ được thừa nhận ưu điểm để phát huy, khuyết điểm để khắc phục và phát triển đi lên. Tôi còn nhớ trong giai đoạn quyết liệt nhất của chiến dịch Quảng Trị, một sư trưởng cũ của sư đoàn X được điều động trở lại chỉ huy đơn vị. Trước khi xuống lại sư đoàn, đồng chí gửi cho phái viên của cục tại mặt trận một bản kê 14 bệnh của mình để tổ chức xem xét. Tôi được đồng chí phái viên kể lại là: Đảng ủy mặt trận vẫn đánh giá tốt đồng chí cán bộ đó, trong lúc khó khăn biết nói với ai ngoài tổ chức, vậy tổ chức biết để tạo điều kiện cho đồng chí đó hoàn thành nhiệm vụ. Đảng ủy mặt trận còn chỉ thị phải tăng thuốc men, người giúp việc và những điều kiện sinh hoạt cho phép (chứ không chụp mũ là cán bộ dao động, kiếm cớ thoái thác nhiệm vụ). Quả thật sự đánh giá sáng suốt ấy đã làm cho đồng chí cán bộ nói trên hoàn thành tốt nhiệm vụ và phát triển, đến nay vẫn là một cán bộ ưu tú của quân đội. Hết sức chống tình trạng nhận xét chủ quan, bí mật thì thụt, làm cho cán bộ không biết đường nào mà lần. + Người làm công tác cán bộ cũng là con người bình đẳng với các cán bộ khác về quyền lợi chính trị, cái khác là được tổ chức phân công làm việc này. Tôi đã sống với nhiều đồng chí rất khiêm tốn, biết tự đánh giá mình trước khi đánh giá người khác; nhiều đồng chí rất nhân hậu cưu mang đồng đội, đồng nghiệp, giúp anh em hoàn thành nhiệm vụ, không vì lợi lộc; nhiều đồng chí sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì không tính toán chạy chọt, v.v... Đó là những biểu hiện nhân cách tốt đẹp. Người làm công tác cán bộ phải có "cái tâm" thì mới được "cái tín" và mới có cơ sở để làm tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2022, 11:08:15 am HỒ SƠ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC HỒ SƠ TRONG THỜI KỲ SƠ TÁN (5-1964 — 10-1973 và 1979 — 12-1990) Đại tá VÕ VĂN TƯƠNG Nguyên phó trưởng phòng Hồ sơ -Cục Cán bộ Tôi được điều về công tác ở Tổng cục Cán bộ rồi Cục Cán bộ từ tháng 5 năm 1958 được cấp trên giao nhiệm vụ làm công tác hồ sơ cán bộ từ đó đến nay. 39 năm làm công tác hồ sơ ở Cục Cán bộ đã để lại trong tôi biết bao điều sâu lắng, bao nhiêu kỷ niệm về đồng chí, đồng đội và công việc của mình. Nhân kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống ngành công tác cán bộ (28-2-1947 - 28-2-1997) tôi viết bài này theo dạng nhật ký về "Hồ sơ cán bộ và công tác hồ sơ trong thời kỳ sơ tán". Năm 1964, nắm được dã tâm đế quốc Mỹ sẽ đưa máy bay đánh phá miền Bắc nước ta, đầu tháng 5 năm 1964, thủ trưởng Tổng cục Chính trị chỉ thị cho các cơ quan trong tổng cục phải sơ tán hồ sơ tài liệu đến những nơi an toàn. Chấp hành chỉ thị của thủ trưởng Tổng cục, thủ trưởng Cục Cán bộ chỉ đạo cơ quan cục triển khai thực hiện việc sơ tán kho hồ sơ cán bộ một cách khẩn trương, nghiêm túc. Thủ trưởng cục cử một tổ cán bộ do anh Lương Hữu Dụ, trung tá, trưởng phòng cán bộ quân sự dẫn đầu đoàn lên Vĩnh Phú tìm địa điểm; anh Lê Văn Quế trưởng ban hồ sơ làm kế hoạch di chuyển cụ thể báo cáo cục và báo cáo lên Tổng cục; trong lúc đó anh em chúng tôi khẩn trương chuẩn bị: Người kiểm kê đánh số thứ tự số lượng hòm đựng hồ sơ theo ký hiệu "mã số", người đi mua đinh, dây dợ về đóng lại các hòm bị hỏng khóa, người gói buộc số hồ sơ còn để ngoài (vì thiếu hòm đựng) để bỏ vào các bao tải, người xuống ban xe làm kế hoạch dự trù xe, người sang Trung đoàn (nay là Lữ đoàn 144) xin anh em cảnh vệ đi áp tải và làm nhiệm vụ bảo vệ kho hồ sơ. Công việc bộn bề, nhưng do có chỉ thị cấp trên nên đến đâu liên hệ cũng đều thuận lợi. Hơn nữa việc tổ chức quản lý hồ sơ cán bộ của ta đã có nền nếp từ trước nên chỉ sau một ngày công việc chuẩn bị hoàn tất. Khoảng 14 giờ ngày 10 tháng 5 năm 1964, đoàn gồm 5 xe tải đựng đầy hồ sơ được che chắn, ngụy trang kín đáo chuyển bánh ra cổng thành. Mỗi xe có một cán bộ và hai chiến sĩ cảnh vệ đi áp tải. Đến 17 giờ 30 phút đoàn xe tới địa điểm thuộc khu vực Tam Đảo. Nhưng đây là khu vực "ATK" của Trung ương. Vậy là tối hôm đó đoàn xe lại phải quay về Hà Nội, vào thành tập kết trước nhà làm việc của Tổng cục. Hôm đó anh em chúng tôi và cảnh vệ 144 thay nhau canh gác suốt đêm. 15 giờ ngày 12 tháng 5, đoàn xe lại tiếp tục lên đường. Lần này đi sơ tán, ngoài hồ sơ Cục Cán bộ còn có khối hồ sơ tài liệu của Văn phòng, của Cục Bảo vệ và tài liệu các cục khác. Theo kế hoạch, đoàn xe đi theo hướng thị xã Sơn Tây rồi rẽ vào Tông, đến khu vực trại tăng gia của Tổng cục Chính trị ở Mỏ Chén. Tất cả hồ sơ đều được đưa vào để ở các lô cốt rải rác ở các đồi. Khối tài liệu của Văn phòng và các cục để ở lô cốt số 1 do đồng chí Quảng cán bộ phòng hành chính Văn phòng phụ trách. Hồ sơ tài liệu Cục Bảo vệ để ở lô cốt số 2, do đồng chí Thân, đồng chí Thiện phụ trách; khối hồ sơ Cục Cán bộ để vào 3 lô cốt từ số 3 đến số 5 do đồng chí Tương phụ trách, có lúc đồng chí Ngọc lên thay. Sau khi sắp xếp ổn định, chúng tôi họp "Liên tịch", có cả tiểu đội cảnh vệ dự, bàn kế hoạch bảo vệ, canh gác, lên phương án tác chiến (nếu xảy ra), tổ chức nơi ăn ở, sinh hoạt, xác định tư tưởng lâu dài. Nhưng ở đây khoảng ba tháng lại chuyển đi nơi khác. Cũng may. Nếu ở đây lâu dài không biết có tránh được bom đạn Mỹ hay không, nhưng khó tránh khỏi giặc chuột phá hoại... Tháng 8 năm 1964, máy bay Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc; đầu năm 1965, một số cơ quan thuộc Tổng cục Chính trị, trong đó có Cục Cán bộ do anh Hồ Bá Phúc, Cục phó dẫn đầu sơ tán lên khu vực Ba Vì. Tại đây có khu gia đình hàng binh người Âu - Phi và cơ quan làm việc của Ban quản lý trại thuộc Cục Địch vận. Ngày 15 tháng 2 năm 1965 kho hồ sơ của Tổng cục Chính trị lại được lệnh di chuyển. Theo kế hoạch, khối hồ sơ Cục Cán bộ chuyển lên khu Ba Vì (địa điểm nói trên), số còn lại chuyển lên Phú Thọ để ở nhà đồng chí Hợi (đồng chí Hợi hồi đó là cán bộ thuộc Văn phòng Tổng cục Chính trị). Khối hồ sơ cán bộ chuyển về Ba Vì, được để vào hai nhà rộng rãi, thoáng mát, xung quanh có hầm hào giao thông, có hầm trú ẩn tương đối kiên cố, nhưng có nhược điểm là nhà lợp bằng lá cọ nên cũng không an toàn. Dạo đó Mỹ lại đưa máy bay ném bom ác liệt ở Suối Hai, nhiều lần máy bay lướt qua khu vực để hồ sơ tài liệu cán bộ làm chúng tôi nhiều lúc lo lắng, sợ nó thả bom cháy kho Hồ sơ thì hết "vốn". Ở đây một thời gian ngắn, các cơ quan lại được lệnh sơ tán lên huyện K.B tỉnh Hòa Bình. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2022, 11:08:53 am Ngày 10 tháng 9 năm 1965 kho hồ sơ cán bộ lại được di chuyển lên huyện K.B - gần cơ quan làm việc. Di chuyển lần này khá vất vả. Vì đường xa, máy bay đánh phá ác liệt đêm ngày, nên công tác chuẩn bị khá chu đáo, mỗi xe có hai cán bộ, hai đến bốn cảnh vệ đi áp tải, bảo vệ, có đầy đủ đèn bão, đèn pin. Xe được ngụy trang kín đáo không khác gì ra mặt trận. Đợt vận chuyển lần này mất bốn ngày, mỗi ngày một chuyến hai xe tải. Anh Lê Văn Quế đi chuyến đầu và chuyến cuối, còn tôi được tham gia từ đầu đến cuối. Tuy vất vả, mệt nhọc nhưng cũng vui, vì hồi đó cơ quan Cục Cán bộ do Cục phó Trần Đình Cửu dẫn đầu đã sơ tán lên đây nên mỗi chuyến xe về tới nơi đã có sẵn lực lượng cán bộ ra đón và khiêng vác vận chuyển vào địa điểm mới. Lần này hồ sơ di chuyển về đây, ngoài hồ sơ của Cục Cán bộ còn có khối tài liệu của Văn phòng và các Cục từ Phú Thọ chuyển về. Theo kế hoạch, hồ sơ của cán bộ, hồ sơ tài liệu của Văn phòng, các Cục và hồ sơ của Đoàn 559 (gửi nhờ) để chung vào một cái hang rộng rãi thông thoáng từ cửa trước ra cửa sau sát bờ sông; còn hồ sơ Cục Bảo vệ để ở các lán trại cách chúng tôi 500 mét. Công tác hồ sơ thời kỳ này chủ yếu là củng cố, sắp xếp, giữ gìn bảo quản, đồng thời cử cán bộ xuống các trung đoàn phòng không - không quân xin số hòm đựng đạn tên lửa (sau khi đã lấy hết đạn) và nhờ đơn vị đóng giúp. Sau ba đợt, chúng tôi có được gần 100 hòm đựng hồ sơ khi sơ tán. Dạo đó, ngoài anh em chúng tôi làm nhiệm vụ bảo vệ giữ gìn hồ sơ còn có một tổ cán bộ. Số cán bộ này ở chiến trường miền Nam ra điều trị, an dưỡng, sau khi phục hồi sức khỏe, được Tổng cục tạm điều về tăng cường cho Cục Cán bộ. Tổ này gồm có: anh Đính, thiếu tá, anh Châu, thiếu úy, anh Anh, thiếu úy (thương binh), sau đó có thêm anh Quơn. Tổ này có nhiệm vụ chủ yếu là trích lý lịch và lập danh sách các đoàn cán bộ đi B. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Cục giữ lại ba đồng chí Quơn, Châu, Anh. Như vậy bộ phận hồ sơ lúc này có bốn người do đồng chí Tương, tổ trưởng kiêm bí thư chi bộ ở nơi sơ tán. Ngày 18 tháng 7 năm 1967 chúng tôi lại được lệnh di chuyển về huyện Lương Sơn, Hòa Bình. Khi chuyển về đây, hồ sơ Cục Cán bộ để ở một cái hang cũng rộng rãi, nhưng ẩm ướt, dột, không thông thoáng bằng ở hang cũ. Khối tài liệu của Văn phòng để ở hai hang nhỏ khu vực ngoài, khối hồ sơ Cục Bảo vệ để trong cùng, lần này nhiều cơ quan của Tổng cục cũng sơ tán lên đây nên điều kiện ăn uống, sinh hoạt của chúng tôi đỡ vất vả, hàng tuần được nghe tình hình giao ban, thỉnh thoảng được nghe thời sự nên không đến nỗi lạc hậu với tình hình... Dạo đó đại tướng Nguyễn Chí Thanh ở miền Nam ra có lên đây nghỉ và làm việc một thời gian nên tuy sơ tán nhưng không khí vẫn vui không kém gì ở nhà. Sang năm 1968, cơ quan Tổng cục rút về Hà Nội. Tháng 2 năm 1968 chúng tôi lại được lệnh chuyển kho hồ sơ lên K7 huyện LT thuộc tỉnh Hòa Bình. Theo kế hoạch khối hồ sơ Cục Cán bộ để ở H1 phía ngoài, khối hồ sơ Cục Bảo vệ để ở H2 (khu vực giữa), còn khối hồ sơ Văn phòng và các cục còn lại để ở H3 trong cùng, mỗi nơi cách nhau gần một ki-lô-mét nhưng đường dã chiến, đi lại nhiều khó khăn. Hồ sơ Cục Cán bộ để vào một cái hang rộng, đẹp. Cảm ơn các đồng chí công binh đã lao động ngày đêm, vất vả, thậm chí đổ cả xương máu để có những hang, hầm rộng, đẹp cho chúng tôi làm kho để tài liệu. Cuối năm đó có một trận mưa lớn ở khu vực Hòa Bình, nước tràn ngập vào hang để hồ sơ, anh em chúng tôi phải một ngày vất vả lao động khiêng gánh kê kích mới giữ được hồ sơ tài liệu không bị ngập nước; hôm đó chúng tôi thức suốt đêm, đề phòng nước ngập sâu hơn. Tháng 4 năm 1969 chúng tôi lại được lệnh di chuyển kho hồ sơ về Hà Nội. Theo kế hoạch, khối tài liệu của văn phòng, khối hồ sơ Cục Bảo vệ được chuyển thẳng về cơ quan. Riêng khối hồ sơ Cục Cán bộ chuyển về nhà số 2 phố Lý Thường Kiệt (nhà này là nhà khách của Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng, trước lúc chúng tôi chuyển về các thủ trưởng Tổng cục Chính trị đã sơ tán ra đây làm việc một thời gian. Hồ sơ cán bộ chuyển về đây, để ở gác hai, trong một tòa nhà khá đẹp, rộng rãi. Tuy vậy, chúng tôi cũng thầm nghĩ là để tạm thời chứ hồ sơ không thể để ở nhà sang trọng thế này, hơn nữa cũng không phải kiểu nhà kho đựng hồ sơ, nên việc bố trí sắp xếp cũng ở tư thế sẵn sàng di chuyển. Cuối năm đó, có trận lũ rất lớn, sợ không an toàn, anh Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, đã chỉ thị Cục Cán bộ phải chuyển toàn bộ hồ sơ ở đây vào thành và được bố trí vào hai phòng rộng ở gác hai thuộc nhà làm việc của Tổng cục. Tháng 10 năm 1970, theo quyết định tổ chức mới của Văn phòng Tổng cục Chính trị, Ban hồ sơ Cục Cán bộ chia làm hai bộ phận. Một bộ phận do anh Lê Văn Quế trưởng ban hồ sơ Cục Cán bộ, làm nhiệm vụ tổ chức xây dựng, hướng dẫn và chỉ đạo nghiệp vụ công tác hồ sơ và trực tiếp quản lý khối sơ yếu lý lịch để phục vụ cơ quan làm việc hàng ngày. Một bộ phận do đồng chí Tương làm tổ trưởng chuyển sang Phòng Nghiên cứu tư liệu hồ sơ thuộc Văn phòng Tổng cục Chính trị, có chức năng nhiệm vụ: cùng với Ban hồ sơ Cục Cán bộ tổ chức xây dựng hồ sơ lý lịch cán bộ, trực tiếp quản lý khối hồ sơ gốc cán bộ và sổ lưu niệm của cán bộ quê ở miền Nam, không có gia đình ở miền Bắc đi B gửi lại. Tuy sang Phòng Nghiên cứu tư liệu thuộc Văn phòng Tổng cục nhưng thực chất và chủ yếu vẫn làm nhiệm vụ công tác hồ sơ cán bộ và phục vụ cho Cục Cán bộ là chính. Do đó, tuy tách ra làm hai nhưng thực chất vẫn là một. Ngày 16 tháng 4 năm 1972 chúng tôi lại được lệnh sơ tán kho hồ sơ lên K7 lần thứ hai. Làn này, cùng với hồ sơ cán bộ vẫn có khối tài liệu của Văn phòng và hồ sơ Cục Bảo vệ như trước đây, và theo kế hoạch khối hồ sơ cán bộ và tài liệu của Văn phòng đưa vào địa điểm H3. Đây là một hang nằm sâu trong dãy núi đá có cửa rộng thông từ bên này sang bên kia, nền lát gạch hoa khá đẹp. Chúng tôi đoán: "Địa điểm này chắc là của cấp trên, khi cần sơ tán lên làm việc". Tưởng rằng hồ sư tài liệu để đây là lý tưởng, ai ngờ đến mùa nắng thì mồ hôi đã nhỏ xuống ròng ròng, những hôm tiết trời ẩm thấp thì các hòm đựng hồ sơ bị phủ đầy như tuyết thành từng chùm như là một hang nấm, bật đèn điện lên thì giống như một hang đầy sao lóng lánh. Vì vậy công tác bảo quản rất vất vả. Phía trên hòm thì phủ kín ni lông, và cứ hai ngày anh em chúng tôi phải dùng bao tải, giẻ lau chùi phía ngoài hòm, ngày nào cũng phải rang hạt chống ẩm để vào các hòm sưởi ấm hồ sơ lý lịch cán bộ. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2022, 11:09:40 am Một hôm, chúng tôi nhận điện của anh Chu Tử Dy từ Hà Nội gọi lên: "Tối nay các đồng chí phải di chuyển toàn bộ hồ sơ vào ba nhà nhỏ ở phía trong, để sáng ngày mai thủ trưởng lên làm việc". Điện ngắn, nhưng là mệnh lệnh phải nghiêm chỉnh chấp hành. Khó khăn nhất là lực lượng ít, hơn nữa tối trời, tuy có máy phát điện nhưng chỉ để bốn bóng trong hang. Một cuộc hội ý chớp nhoáng, phân công anh em đi làm công tác "quân vận". Đồng chí lên tổ trực đài thông tin, đồng chí ra bộ phận doanh trại C16, đồng chí gọi điện nhờ tổ công binh đang làm nhiệm vụ báo vệ ở H2... Khoảng 30 phút sau, đã có lực lượng khoảng 20 người. Sau khi thông báo chỉ thị của cấp trên, mọi người đều ủng hộ giúp đỡ chúng tôi. Tối hôm đó máy bay vẫn đánh phá ác liệt nên không dám dùng đèn. Chúng tôi phân công nhau làm hai tổ, tổ 1 bốc vác từ H3 vào địa điểm mới, tổ 2 tiếp nhận vác lên xếp vào trong nhà. Sau khi phân công anh em triển khai bốc vác, tôi cử đồng chí Điềm quản lý kiêm cấp dưỡng giết 14 con gà đem luộc và nấu cháo rồi đưa đến hai địa điểm để anh em ăn bồi dưỡng. Suốt đêm đó chúng tôi phải vận chuyển một khối lượng hồ sơ tài liệu rất lớn, nhưng nhờ có lực lượng khá đông, có sức khỏe nên công việc cứ chạy đều. Tối trời nhưng không xảy ra tai nạn. Đến 5 giờ sáng thì mọi việc xong xuôi. Sáng hôm sau, đoàn cán bộ Văn phòng do anh Chu Tử Dy dẫn đầu lên kiểm tra có nhận xét: Các đồng chí đã hoàn thành việc di chuyển rất tốt và tặng anh em chúng tôi 5 tút thuốc lá Thăng Long, 10 ki-lô-gam kẹo ngon, hai két bia. Hai ngày sau Phòng Quản lý lại cho chúng tôi 5 ki-lô-gam thịt bò để liên hoan bồi dưỡng sức khỏe. Hồ sơ tài liệu đưa vào đây được để trong nhà rất cao ráo, đảm bảo an toàn, nhưng lại phải chống giặc "mối" cũng không kém phần vất vả. Năm 1973, kho hồ sơ tài liệu được lệnh chuyển về Hà Nội. Lần này trở về xe chúng tôi đi giữa ban ngày, không phải che chắn ngụy trang như các lần trước. Về tới Hà Nội, theo quy định: khối hồ sơ tài liệu của Văn phòng và tài liệu của các cục được đưa vào cơ quan. Riêng khối hồ sơ cán bộ vẫn để hai nơi: hồ sơ cấp úy đưa về để ở khu lăng Hoàng Cao Khải, số hồ sơ cấp tá đưa vào để ở nhà làm việc của Tổng cục. Tuy về Hà Nội nhưng vẫn một chốn đôi nơi. Thời kỳ ở khu lăng Hoàng Cao Khải, có một chuyện rặt "mê tín" làm chúng tôi khó quên. Theo kế hoạch, vào một buổi sáng chủ nhật, chúng tôi tổ chức ba xe đạp chở giấy loại lên nhà máy giấy Trúc Bạch để xay. Đội hình bố trí, xe đồng chí Đạt đi đầu, xe đồng chí Thuần đi thứ hai, xe đồng chí Trong đi sau, đồng chí Vượng (nay là thượng tá ở xưởng phim quân đội) trực ở nhà. 8 giờ 30 phút sáng chủ nhật xe đồng chí Đạt xuất phát, nhưng ra khỏi cổng một quãng, xe trượt bánh cả người lẫn xe lăn kềnh xuống ao. Phần bị ướt, phần xe nặng nên đồng chí Đạt cứ loay hoay mãi chưa gỡ ra được. Một lúc sau xe đồng chí Thuần đi ra, nhưng khi đồng chí Thuần thấy đồng chí Đạt đang cựa quậy thì đồng chí ấy cho là "điềm xấu" nên không đến giúp, liền quay xe lại và đẩy vào nhà kho rồi lên gác hai ngủ đến chiều mới dậy. Tiếp đến xe đồng chí Trong. Khi ra bờ ao, thấy đồng chí Đạt bị đổ xe, đồng chí Trong dựng xe của mình vào tường rồi nhảy xuống ao cùng đồng chí Đạt, đẩy mãi mới đưa xe và hàng lên được. Tối hôm đó ngồi rút kinh nghiêm, đồng chí Thuần tự kiểm điểm: "Khi tôi đẩy xe ra, thấy xe đồng chí Đạt đổ xuống ao. Cảnh đó là một điềm xấu nên tôi không tới, và quay về. Đúng, tôi có thiếu sót là khi về không báo đồng chí Trong lại đi ngủ làm phiền lòng các đồng chí. Tôi xin nhận thiếu sót". Đúng là, mê tín có lúc cũng tai hại thật! Ngày... tháng... năm 1976, được phép của thủ trưởng Tổng cục, khối hồ sơ tài liệu ở khu lăng Hoàng Cao Khải được chuyển vào thành. Lúc đầu hồ sơ để ở khu nhà làm việc của cơ quan Ủy ban kiểm tra Đảng ngày nay, sau gần một năm lại được chuyển sang khu nhà Con Nhạn. Hồ sơ tài liệu để ở khu nhà này thật là lý tưởng, cao ráo, thông thoáng. Tháng 10 năm 1978, theo quyết định tổ chức mới của Văn phòng, Phòng Nghiên cứu tư liệu hồ sơ giải thể, bộ phận hồ sơ cán bộ lại sáp nhập về Phòng Hồ sơ thống kê của Cục Cán bộ do anh Lê Tiến làm trưởng phòng, anh Nguyễn Khiên làm phó phòng. Số cán bộ Ban hồ sơ trước đó phần lớn được điều ra các đơn vị, còn lại ba đồng chí Tương, Dực, Tĩnh về Phòng Hồ sơ thống kê Cục Cán bộ. Sau chín năm sơ tán, di chuyển nhiều địa điểm, nên sau khi về Hà Nội, công việc hồ sơ lúc này chủ yếu là kiện toàn, củng cố, sắp xếp lại, đóng thêm hòm tủ đựng hồ sơ. Năm 1979, khi xảy ra chiến tranh ở biên giới phía Bắc, theo chỉ thị của Bộ, hồ sơ tài liệu các cơ quan thuộc Bộ đều phải đưa đi sơ tán vào phía nam. Lại làm kế hoạch, lại dự trù xe và phương tiện vận chuyển. Khác với những lần trước, lần này sơ tán hồ sơ tài liệu đều được chở bằng máy bay AN12 do các phi công Liên Xô (cũ) lái. Theo kế hoạch, bộ phận hồ sơ chia làm hai tổ. Một tổ do đồng chí Nguyễn Danh Bông đại úy, phó phòng hành chính - Văn phòng Tổng cục Chính trị phụ trách ở Tân Sơn Nhất, đón nhận hồ sơ tài liệu chuyển vào; một tổ do đồng chí Tương phụ trách, phối hợp với các đồng chí của các cục tổ chức vận chuyển tài liệu sang sân bay Gia Lâm, rồi chuyển lên máy bay bay vào phía nam. Khối hồ sơ tài liệu của Văn phòng và các cục đi trước, khối hồ sơ Cục Cán bộ đi các chuyến sau. Phải đến 4 chuyến AN12 mới chở hết số hồ sơ của Cục Cán bộ (tất nhiên mỗi chuyến bay đều có hàng của bạn). Khi chuyển vào phía nam, khối hồ sơ cán bộ phải di chuyển từ khu này qua khu khác 4 - 5 lần, cuối cùng được chuyển về để chung với khối hồ sơ tài liệu của Phòng Bảo mật thuộc Văn phòng Bộ Quốc phòng. Công tác hồ sơ thời gian này chủ yếu vẫn là củng cố sắp xếp và tiếp nhận hồ sơ các đơn vị gửi vào, trong đó có hồ sơ bộ đội biên phòng chuyển sang. Cùng với việc củng cố, kiện toàn, cũng bắt đầu triển khai đưa hồ sơ cán bộ vào máy tính để quản lý. Ban đầu có anh Quế, Tương và đồng chí Đức, sau khi thống nhất kế hoạch, mẫu biểu... anh Quế và Tương ra Hà Nội, đồng chí Đức ở lại chủ trì cùng với một số anh em cán bộ và sau đó là số chiến sĩ nghĩa vụ vào làm công tác lập phiếu, tiếp đến đồng chí Ngô Văn Nhường vào thay đồng chí Đức phụ trách số anh em trong đó vừa làm nhiệm vụ bảo vệ kho tài liệu, vừa tiếp tục công việc lập phiếu đưa vào máy tính. Thời gian này quân số đông, được tổ chức quản lý chật chẽ và được mang phiên hiệu C85B để thuận tiện cho việc gửi hồ sơ tài liệu đi vào, đi ra có địa chỉ rõ rệt. Và những năm sau đó do yêu cầu công việc nên được thủ trưởng cục tăng cường cán bộ vào làm việc như các đồng chí Nguyên, Đồng, Tường, Vang, Định (đồng chí Vang, Định là cán bộ bên trung tâm máy tính B40 chuyển sang) chuyên trách làm công tác máy tính; còn cán bộ thay nhau vào trực lần lượt có các đồng chí: Đà, Hồng, Thi. Lúc đầu trực sáu tháng, sau phải trực một năm. Đến năm 1989, đồng chí Vương Đạo, trung tá phó phòng hồ sơ vào trực, đồng thời cũng là người trực tiếp tổ chức vận chuyển hồ sơ từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội vào năm 1990. Như vậy là gần 20 năm, khối hồ sơ cán bộ được đưa đi sơ tán và thay đổi 19 lần di chuyển địa điểm. Anh Lê Văn Quế kể lại: Hồi ở Việt Bắc, số lượng hồ sơ cán bộ còn ít, mỗi lần sơ tán chỉ cần ba đến bốn người quang gánh trên vai là chuyển hết. Đến thời kỳ chống Mỹ cứu nước, số lượng hồ sơ đi sơ tán đã có hàng chục vạn, vận chuyển bằng phương tiện cơ giới. Khi chiến tranh biên giới xảy ra ở phía bắc hồ sơ cán bộ đi sơ tán vào miền Nam đã tăng thêm, được vận chuyển bằng phương tiện hiện đại (AN12 của Liên Xô), và khi trở về với số lượng hồ sơ đã tăng hơn nữa, được vận chuyển bằng tàu hỏa mang tên tàu "thống nhất". Thật là những thay đổi tuyệt đẹp đầy ý nghĩa. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2022, 11:10:06 am Từ buổi ban đầu cùng với hồ sơ mang đi sơ tán, lúc đó chỉ có các quyển sổ đăng ký to nhỏ khác nhau, gồm nhiều loại giấy và chữ viết khác nhau. Đến khi trở về thì toàn bộ hồ sơ cán bộ đã được đưa vào máy tính quản lý ở các "băng" và được khai thác ra bằng các tập danh sách theo khuôn khổ, và nội dung thống nhất tương đối chính quy và có những phần bước vào hiện đại. 20 năm sơ tán không ít khó khăn, nhưng với tinh thần trách nhiệm những cán bộ, đảng viên từng trực tiếp làm công tác thầm lặng này đã cố gắng hết mình để giữ gìn những tập lai lịch "linh hồn" của cán bộ chiến sĩ ở chiến trường và mặt trận. Từ buổi đầu sơ tán cho đến lúc chuyển về cơ quan, hồ sơ các anh được chúng tôi bảo vệ giữ gìn trọn vẹn, góp phần đáng kể vào việc phục vụ cho công tác quản lý, sử dụng và giải quyết chính sách, chế độ cho cán bộ vừa qua, hiện nay và cả sau này. Người viết lại những dòng nhật ký này không có ý định khoe thành tích. Công tác hồ sơ cán bộ có được thành quả nói trên là nhờ sự quan tâm của các thủ trưởng Tổng cục Chính trị, các đồng chí thủ trưởng Cục Cán bộ và toàn thể cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên Cục Cán bộ qua các thời kỳ; các đồng chí chỉ huy lãnh đạo trung đoàn (nay là lữ đoàn 144); các đồng chí trưởng phó phòng quản lý (nay là Cục Hậu cần) Tổng cục Chính trị, anh em ban doanh trại, anh em ban xe, v.v... Anh Song Hào, anh Phạm Ngọc Mậu, tuy không trực tiếp chỉ đạo công tác hồ sơ, nhưng các anh đã dành cho hồ sơ cán bộ sự quan tâm đặc biệt. Năm 1969, dạo đó có trận lũ lớn, hồ sơ cán bộ để ở gác hai nhà số 2 phố Lý Thường Kiệt, nhưng các anh vẫn chưa an tâm, tuy nửa đêm, các anh vẫn gọi điện cho anh Trần Hoài Ân, Cục trưởng Cục Cán bộ (hồi đó) phải bằng mọi cách di chuyển vào thành và được để vào hai phòng rộng rãi ở khu nhà làm việc của thủ trưởng tổng cục. Trong thời gian hồ sơ sơ tán, mỗi lúc gặp khó khăn, hễ có báo cáo của Cục Cán bộ, anh Phạm Ngọc Mậu lập tức chỉ thị cho các cơ quan, chủ yếu là các đồng chí trưởng, phó phòng quản lý - Tổng cục Chính trị kịp thời giải quyết cho Cục Cán bộ. Anh Trần Đức Tiêu, về giữ chức cục phó thứ nhất Cục Cán bộ có một năm nhưng đã ba lần đến kiểm tra kho hồ sơ, trong đó có một lần anh lên tận Hòa Bình kiểm tra và nhắc nhở động viên anh em chúng tôi phải thường xuyên cố gắng giữ gìn khối hồ sơ tài liệu quý giá này. Anh Vũ Văn Ngạch, anh Đỗ Đức Hải thủ trưởng trung đoàn 144 hồi đó cũng dành cho hồ sơ cán bộ sự quan tâm. Các anh luôn luôn đảm bảo đủ số cảnh vệ đi làm nhiệm vụ bảo vệ kho hồ sơ trong suốt thời kỳ sơ tán ở Hòa Bình cũng như khi vào miền Nam, và mỗi lần đi kiểm tra đơn vị, bao giờ các anh cũng đến với chúng tôi để nắm tình hình đơn vị, vừa động viên nhắc nhở anh em chúng tôi. Anh Lê Văn Quế, người trực tiếp nhiều năm làm trưởng ban rồi trưởng phòng hồ sơ đã thường xuyên gắn bó tâm huyết với hồ sơ cán bộ. Anh luôn chịu khó tìm tòi, suy nghĩ cải tiến công tác, nhạy bén với cái mới, là người đầu tiên nghiên cứu và chỉ đạo đưa công tác quản lý hồ sơ vào máy tính. Anh cũng là trung tâm đoàn kết, cùng với anh em trong ban, trong phòng xây dựng một tập thể luôn luôn đoàn kết, thương yêu nhau lúc làm việc cũng như khi về với đời thường. Điều đó đã trở thành truyền thống trong tổ chức đại gia đình Cục Cán bộ. Kết thúc bài viết này, tôi xin ghi lại đôi điều tâm sự của bản thân. Tôi vào bộ đội đến nay tròn 43 năm, trong đó có 39 năm làm công tác hồ sơ ở Cục Cán bộ, từ lúc còn là thượng sĩ, nay được mang cấp hàm đại tá - 39 năm ở Cục Cán bộ, tôi luôn được sự giáo dục, rèn luyện của Đảng, sự chỉ bảo của các đồng chí thủ trưởng và sự giúp đỡ chân tình của toàn thể cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên của Cục Cán bộ qua các khời kỳ. Nay chuẩn bị về nghỉ, sống những năm tháng còn lại của cuộc đời, tôi xin hứa sẽ giữ gìn trọn vẹn bản chất anh "Bộ đội Cụ Hồ”, và xứng đáng là một cán bộ của Cục Cán bộ. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2022, 11:13:37 am NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG THỂ QUÊN Ở CỤC CÁN BỘ Thiếu tướng TRẦN ĐỨC LONG Phó cục trưởng-Cục Cán bộ Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập cơ quan Cán bộ, cũng là 50 năm sống trong quân ngũ của tôi. Trong cuộc đời quân ngũ, tôi có trên 30 năm làm công tác tổ chức - cán bộ từ cấp trung đoàn trở lên (từ 1957 đến nay, trừ 4 năm 1961 - 1964 học ở Liên Xô). Hôm nay nghĩ lại, suốt cả quá trình hoạt động của mình, mới cảm thấy thời gian được công tác ở Cục Cán bộ là một trong những thời gian đẹp nhất suốt cuộc đời phục vụ quân đội. Những kỷ niệm như cuốn phim lần lượt lướt nhanh, không kịp dừng lại. Xin được kể một vài kỷ niệm khó quên đó. Về Cục Cán bộ Tôi học ở Học viện Quân chính Lê-nin (Liên Xô) trở về nước đúng vào thời điểm đế quốc Mỹ gây căng thẳng, kiếm cớ để mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Tôi đinh ninh, hết một tháng nghỉ phép, mình sẽ được ra đơn vị để rèn luyện và ứng dụng những điều đã học vào thực tế công tác. Thế rồi ngày 5 tháng 8 năm 1964 đế quốc Mỹ tạo cớ gây ra "sự kiện vịnh Bắc Bộ". Nghe theo lời kêu gọi của Đảng, cả nước sôi sục khí thế chiến đấu, sẵn sàng đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ leo thang ra miền Bắc. Chưa nghỉ hết phép, vốn là cán bộ của Quân chủng Phòng không, tôi sốt ruột, chia tay vợ con, lên Hà Nội gặp Cục Cán bộ để xin nhận công tác. Tạm trú ở trạm 66 một ngày, anh Hồ Xuân Lựu ra thông báo quyết định của trên điều động tôi về nhận công tác ở Cục Cán bộ. Vừa mới đi học về, đã từng làm công tác tổ chức cán bộ, nên tôi chỉ dám đề đạt nguyện vọng muốn được ra đơn vị. Nhưng trên đã quyết định, thì tôi chấp hành. Thế là đến sáng hôm sau tôi được gọi vào Cục Cán bộ, gặp anh Nguyễn Ích (lúc này là phó phòng cán bộ chính trị). Với thái độ cởi mở, chân tình, anh hỏi thăm tình hình học tập và hoàn cảnh gia đình, rồi phổ biến nhiệm vụ. Liền sau đó, tôi được gặp anh Trần Hoài Ân. Với giọng nói thân mật, anh động viên tôi và xác định trách nhiệm. Điều tôi nhớ mãi đến bây giờ là: "Điều cậu về đây là để trồng mít". Thoáng nghe tôi ngớ người ra, chưa hiểu anh định nói gì, thì anh giải thích: "trồng mít không thể ăn ngay, phải vài ba năm sau mới có quả, nhưng phải nỗ lực và cố gắng". Tôi hiểu mình phải làm gì, để sớm thích nghi với nhiệm vụ, và phải yên tâm đi sâu vào nghề nghiệp. Tôi được phân công về Phòng cán bộ Chính trị. Vốn là trợ lý cán bộ của Bộ tư lệnh Phòng không, theo dõi cán bộ trong phạm vi hẹp, nay về Cục Cán bộ, tôi cảm thấy mênh mông quá! Không biết đến bao giờ thì "cây mít" mới đâm chồi nẩy lộc! Thế nhưng chính ở cơ quan này (Cục Cán bộ chúng ta) lúc đó có đội ngũ cán bộ, đến bây giờ tôi vẫn không quên như các anh: Lê Đình Số, Nguyễn Ích, Đức Quang, Thái Liên, Hồ Xuân Lựu, Trương Chí Công, Phạm Thái, Phạm Bời, Lê Tâm, Nguyễn Văn Tạo (còn gọi là Tạo ngáy), v.v... đều là những người nhiệt tình, sẵn sàng bồi dưỡng, giúp đỡ trao đổi kinh nghiệm, tạo điều kiện cho anh em mới về, nhanh chóng thích nghi với nhiệm vụ (dịp đó cả anh Lê Tiến cũng về trước tôi vài ba ngày). Hồi đó hầu hết đều sống xa vợ con, ăn cơm tập thể, nằm giường cá nhân, coi tổ chức là nhà, đồng chí là anh em, chung sống với nhau tình cảm và gắn bó lắm. Công tác ở Phòng cán bộ Chính trị được một thời gian, thấy tôi vốn là cán bộ ở Quân chủng Phòng không, lại đi học ở Liên Xô về, nên cơ quan phân công tôi sang Phòng cán bộ Binh chủng do anh Trần Đình Cửu trưởng phòng và anh Trương Chí Công phó phòng. Được sự bồi dưỡng của tập thể và sự trực tiếp hướng dẫn của anh Cửu, anh Công, tôi dần dần quen biết công việc và đáp ứng được nhiệm vụ. Lúc này tôi mới cảm thấy yên tâm hơn, bớt lo lắng hơn. Hướng ra phía trước Khẩu hiệu "tất cả vì miền Nam ruột thịt" được thấm sâu vào cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. Cục Cán bộ phát động phong trào rèn luyện thể lực, sẵn sàng đi chiến trường, mỗi tuần có hai tối tổ chức hành quân ban đêm. Từ đồng chí cục trưởng đến cán bộ cấp phòng và trợ lý, mỗi người một ba lô, lúc đầu đeo 5 viên gạch, dần dần nâng lên tùy theo sức khỏe. Tối thì hành quân vòng quanh hồ Hoàn Kiếm, tối thì vòng quanh vườn Bách Thảo. Lúc đầu đi gần, dần dần đi xa, mệt nhưng rất vui, khí thế sôi nổi lắm. Ngoài ra mỗi tháng còn tổ chức báo động một lần vào ban đêm. Những đồng chí ngủ ở gia đình, thì phân công gọi nhau theo kiểu dây chuyền, và quy định thời gian có mặt tập trung ở cơ quan, mọi người đều phải mang theo ba lô, chăn màn và quần áo đủ bộ, để sẵn sàng chuyển quân sơ tán cơ quan (đề phòng địch ném bom đánh phá Hà Nội). Có một chuyện cười vỡ bụng, đó là khi tập trung đầy đủ ở sân cơ quan, đồng chí cục trưởng ra lệnh kiểm tra ba lô của từng người, thì phát hiện ra có đồng chí (xin miễn nói tên) vơ cả quần của vợ nhét vào ba lô của mình! Kết quả của việc rèn luyện thể lực quả là không uổng công. Trong thời gian từ năm 1965 đến năm 1970, chiến tranh ở miền Nam mở rộng và ngày càng ác liệt, công tác cán bộ ở chiến trường đòi hỏi nhiều vấn đề phải giải quyết kịp thời hơn, sát thực tế hơn... Thế là kế tiếp nhau từ các anh thủ trưởng cục, đến các trưởng phó phòng và trợ lý, lần lượt phân công nhau đi các chiến trường từ B5, B4, B1, B3 và B2. Ở "bê" nào cũng có cán bộ của Cục Cán bộ theo sát đơn vị, đồng cam cộng khổ với anh em để nắm cán bộ. Có thể nói các cuộc hành trình từ "bê" ngắn đến "bê" dài, anh em đều đi đến nơi, về đến chốn, hoàn thành nhiệm vụ, được các đơn vị hoan nghênh, khen ngợi. Ở miền Bắc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt. Cục Cán bộ chỉ để lại một bộ phận nhỏ ở trong thành (gọi là khu A), mỗi phòng có một người do đồng chí Trần Hoài Ân, Cục trưởng trực tiếp phụ trách để phục vụ cho lãnh đạo và chỉ huy, số còn lại sơ tán lên Mỏ Chén rồi lên Hòa Bình (gọi là khu B). Từ đây anh em đi công tác xuống các đơn vị, rồi lại về làm việc ở đây, hàng tuần thay nhau về trực ở khu A. Dạo ấy đi xuống các đơn vị chủ yếu bằng phương tiện xe đạp, mỗi người được trang bị 1 súng ngắn, 1 đèn pin, 1 mũ sắt, 1 bình toong và 1 bao đựng gạo (đến đơn vị ăn, khi ra về phải nộp gạo và thanh toán tiền theo tiêu chuẩn). Thông thường chỉ có một phần ba quân số làm việc ở cơ quan, còn hai phần ba đi công tác ở chiến trường và xuống các đơn vị. Mỗi người đều có chỉ tiêu, ít nhất mỗi quý một lần phải đi được một đơn vị mà mình theo dõi để biết người, hiểu việc của cán bộ làm. Chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, không thể phân biệt đâu là tiền tuyến, đâu là hậu phương, sơ tán đến đâu cũng phải đào hầm, đi đến đâu cũng thấy dân mình đầu đội mũ rơm, vai mang súng trường, sắn sàng chiến đấu, đánh trả quân xâm lược. Đi công tác thường phải đi đêm, đạp xe hàng trăm cây số là chuyện bình thường, và cũng không kém phần nguy hiểm khi vượt qua các trọng điểm đánh phá của quân thù. Một hôm vào giữa trưa, lúc trời quang mây tạnh, tôi và Nguyễn Quang Lượng, Nguyễn Bá Trụ và một vài anh em nữa (trong tổ trực ở khu A) đang ngủ ở nhà làm việc cũ của Cục Cán bộ (nay là nhà làm việc của Cục Văn hóa Tư tưởng). Mọi người đang say sưa ngủ sau một đêm làm việc căng thẳng của hôm trước, bỗng nghe tiếng còi báo động của thành phố. Tôi gọi anh em dậy, Nguyễn Bá Trụ còn quát lên: "mặc mẹ nó, cứ ngủ đi, nó không dám vào đâu". Thế rồi nghe tiếng xoẹt xoẹt và một tiếng nổ chói tai, mọi người chồm dậy, còn khét lẹt mùi thuốc đạn... Thì ra một quả tên lửa nổ ngay trên nóc nhà chỗ chúng tôi nằm, không ai việc gì cả. Nguyễn Bá Trụ còn nói "chúng mình là sĩ quan có số, chết làm sao được". Mấy anh em cười ran, dù sao cũng là hiện tượng chủ quan coi thường địch. Nhưng đến hôm nay thì anh Nguyễn Bá Trụ - một con người dũng cảm trong chiến đấu, say sưa tận tụy trong công tác, mẫu mực trong sinh hoạt, thủy chung tình nghĩa với bạn bè, đã vĩnh biệt chúng ta sau một thời gian ốm nặng. Điều tâm đắc Công tác ở Cục Cán bộ, tôi được tiếp xúc và làm việc với các đồng chí thủ trưởng cấp trên, trực tiếp là các đồng chí thủ trưởng Tổng cục Chính trị qua các thời kỳ (từ thời anh Song Hào trở lại đây). Mỗi đồng chí đã trực tiếp hoặc gián tiếp bồi dưỡng giúp cho tôi từng bước trưởng thành. Nhưng điều mà tôi tâm đắc, đó là một hôm được nghe anh Song Hào nói chuyện trong hội nghị tập huấn công tác cán bộ toàn quân. Anh nói "Điều kiêng kỵ nhất đối với người làm công tác tổ chức - cán bộ là cá nhân, tham vọng, luôn luôn lấy mình làm thước đo cho mọi trường hợp"... Và "trong công tác cán bộ thì thường có nhiều ý kiến khen, chê, nhưng đúng sai mới là điều quan trọng, có trường hợp khen nhiều chưa chắc đã đúng, chê nhiều chưa hẳn đã sai". Anh nói với giọng chân thành, mộc mạc và ngắn ngủi, nhưng chứa đựng nội dung sâu sắc về phẩm chất đạo đức và bản lĩnh của người làm công tác cán bộ; phải biết lắng nghe ý kiến nhiều chiều, phân tích cụ thể, thực chất mạnh yếu của cán bộ. Viết đến đây tôi nhớ đến anh Đào Duyên, nguyên là trưởng phòng sĩ quan dự bị, sau chuyển sang làm trưởng phòng nghiên cứu kế hoạch, một con người say sưa với nghiệp vụ, tận tụy với công việc được giao, sắc sảo nhạy bén, có kiến thức và năng lực, có trình độ nghiên cứu và tổng hợp, nhưng rất khiêm nhường. Đang độ phát triển đi lên, tuy tuổi chưa cao, nhưng xét thấy sức khỏe có phần hạn chế, và trong cơ quan đã có người thay thế đảm đương, nên anh tự nguyện xin chuyển sang làm công tác nghiên cứu, trên cương vị này, anh vẫn làm tốt cho đến hơi thở cuối cùng, anh đã từ biệt chúng ta về cõi vĩnh hằng. Đọc điếu văn trong buổi lễ truy điệu anh, tôi vô cùng xúc động, không sao cầm được nước mắt, và nhiều đồng chí trong cơ quan cũng ứa lệ tiếc thương. Tiêu đề: Re: Những kỷ niệm về công tác cán bộ Gửi bởi: chuongxedap trong 19 Tháng Mười Một, 2022, 11:15:00 am Sang công tác chính sách Cuối năm 1989, anh Lê Đình Số được cấp trên thông báo để anh nghỉ hưu theo chế độ. Tôi được phân công thay thế đảm nhiệm mảng công tác chính sách đối với cán bộ. Cũng giống như anh Số, tôi vốn gốc làm công tác nhân sự, chuyển sang làm chính sách, có thuận lợi là đã tích lũy được sự hiểu biết về cán bộ, nhất là cán bộ cao cấp, các đồng chí có nhiều cống hiến, cả về tình hình sức khỏe cũng như hậu phương gia đình, v.v... song cũng không phải không có khó khăn phức tạp. Do hậu quả của chiến tranh, công tác chính sách còn đọng lại nhiều vấn đề, trong khi chế độ chính sách xả hội chưa chuyển đổi kịp thời yêu cầu của cơ chế quản lý mới, mà kinh phí ngân sách quốc phòng về mặt này cũng còn hạn chế. Tôi băn khoăn lo lắng với nhiệm vụ mới mẻ này. Yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của cán bộ thì lớn, nhưng khả năng để giải quyết lại chỉ có hạn. Được anh Số động viên: "ai làm mà chẳng khó, miễn là mình có cái tâm, tổ chức đã phân công thì cứ làm, biết dựa vào tập thể và có tập thể, thì rồi cái khó sẽ ló cái khôn". Nhớ lại lời anh Song Hào nói ở hội nghị tập huấn công tác cán bộ khi tôi còn làm công tác nhân sự: "... Làm công tác chính sách phải có tình thương và trách nhiệm, được việc nhưng phải được người", nghĩa là phải đảm bảo đúng nguyên tắc chế độ, đồng thời làm cho cán bộ thông cảm với khó khăn chung, không được ban ơn, không được cửa quyền. Thế là từ cuối năm 1989 đến nay, tôi đi sâu vào công tác chính sách, kế tiếp công việc của anh Lê Đình Số, học tập kinh nghiệm của anh - một cán bộ từng trải, dày dạn kinh nghiệm, chín chắn, điềm đạm, khá chặt chẽ về nguyên tắc, tác phong cởi mở, dễ gần, thể hiện được tình thương và trách nhiệm đối với cán bộ. Trong 5 năm trực tiếp làm công tác này, tôi nghiệm thấy không đơn giản; điều khen cũng nhiều, tiếng chê cũng không ít. Nhưng điều mà tôi yên tâm và đáng tự hào là giữ được nguyên tắc chặt chẽ, khách quan vô tư trong khi giải quyết công việc, thực hiện được yêu cầu đối với người làm công tác chính sách. Quá trình làm việc có nhiều chuyện cụ thể xảy ra, nhiều việc đáng nhớ, dễ và khó, khó và dễ, đan xen nhau diễn ra, đã giúp tôi - người làm công tác chính sách thêm kinh nghiệm xử lý trong công tác: Có lần đồng chí Nguyễn Văn T quân hàm đại tá, có nhiều đơn và nhiều lần trực tiếp gặp, xin được giải quyết cho một căn hộ ở Hà Nội, với lý do về hưu chưa được phân nhà, đơn vị trực tiếp quản lý đã giải thể, nay phải ở nhờ nhà của gia đình vợ ở quê, bị anh em nhà vợ đuổi... Trong hoàn cảnh lúc đó, ta chỉ có rất ít căn hộ để giải quyết cho những trường hợp khó khăn đặc biệt, nên tôi giải thích: "Anh cố chờ để cơ quan nghiên cứu, cân đối chung, nếu quả thực quá khó khăn, mà khả năng có thể được, thì sẽ giải quyết sau". Thế rồi vào một buổi tối thứ bảy của mùa đông năm 1994, cả Hà Nội đã lên đèn, ngoài đường phố mưa lã tã... bỗng nhiên anh vác ba lô, chăn màn đến nhà tôi "xin ngủ nhờ, chờ đến khi nào Bộ Quôc phòng phân nhà cho thì về, kẻo hiện nay bị anh em nhà vợ đuổi không cho ở, nhục quá!". Tôi vui vẻ nói: "Được thôi, đồng chí đồng đội với nhau, tôi sẵn sàng, nhưng anh để tôi đả thông với bà "tiểu đội trưởng" của tôi một chút". Nhưng rồi bà vợ tôi ở trong nhà bước ra với giọng từ tốn: "Dạ thưa với bác, nhà em chỉ có một mình anh Long là nam giới, còn toàn là đàn bà con gái, anh Long lại đi công tác luôn, bác nghỉ ở gia đình em quả là không tiện, mong bác thông cảm cho. Em thiết nghĩ bác là cán bộ quân đội, bác nên ra trạm 66, ở đó họ bảo đảm phục vụ chu đáo hơn". Uống nước, suy nghĩ, trầm tư một lát, vừa lúc trời ngớt mưa, đồng chí chào tạm biệt tôi, vác ba lô ra về, chỉ dặn với lại: "ông cố giúp tôi càng sớm càng tốt". Suốt đêm hôm ấy tôi không ngủ được, cứ bung lung mãi về hiện tượng vừa mới diễn ra, sáng hôm sau vào cơ quan trao đổi với đồng chí Hoàng Hải trưởng phòng chính sách. Hai anh em bàn với nhau, nên cử người về tận quê của đồng chí T xem thực hư thế nào? Sau khi đồng chí Hải và đồng chí Thanh về gặp cấp ủy và hội cựu chiến binh ở địa phương thì được biết rằng: Đồng chí T khi còn công tác, đã có nhà xây lợp ngói do đơn vị giúp đỡ cho nguyên vật liệu và phương tiện chuyên chở, lại cho người của đơn vị về làm giúp hàng tháng trời. Nay nếu lại cấp nhà cho đồng chí T thì ở địa phương này còn nhiều cán bộ quân đội đã về hưu còn khó khăn hơn, cần được giúp đỡ. Sau khi biết Cục Cán bộ đã cho người về gặp địa phương thì đồng chí T cũng thôi, không đề đạt nữa. Lần khác, một đồng chí trung tá, trung đoàn trưởng thuộc Quân khu 9. Ở đơn vị đồng chí chiến đấu có thành tích, bản thân đồng chí được 2-3 huân chương Chiến công, có nhiều năm công tác ở chiến trường. Trong thời gian đồng chí đi B, người vợ công tác ở Hà Nội. Thực hiện chính sách hậu phương quân đội, Ủy ban nhân dân thành phố đã cấp cho vợ một căn hộ trong nội thành, chiếu cố chồng là cán bộ đi B, nên diện tích cũng đã tương xứng. Khi về hưu, đồng chí này lại làm đơn và trực tiếp nhiều lần xin được giải quyết nhà ở, với lý do "Hà Nội giải quyết cho vợ, chứ quân đội chưa giải quyết cho tôi" (nhưng trong thực tế thì không có gì khó khăn cả). Tôi giải thích: mỗi gia đình cán bộ ở thành phố chỉ được giải quyết cho một căn hộ theo tiêu chuẩn của vợ hoặc chồng và kinh phí, ngân sách về nhà ở của Hà Nội hay của Bộ Quốc phòng cũng chỉ là một nguồn của Nhà nước. Nếu được phân nhà mới thì phải trả lại nhà cũ để phân cho cán bộ khác còn khó khăn... Thế là đồng chí này không chịu, thái độ bực dọc, phát khùng lên: "Tôi đi chiến đấu, sẵn sàng hy sinh không tiếc tính mạng, nay về hưu chỉ xin một căn hộ theo tiêu chuẩn mà các anh cũng tính toán chi ly"... Tôi lại ồn tồn giải thích, nhưng đồng chí vẫn không thông, trước lúc ra về đồng chí tuyên bố: "Để chứng tỏ lòng trung thành với Đảng và quân đội, tôi sắn sàng hy sinh tính mạng, không tiếc đời mình. Nếu quân đội không giải quyết được nhà cho tôi, thì tuần sau tôi xin phép được đến tự thiêu ở trước cửa nhà anh". Tôi hơi buồn cười, vui vẻ nói: "cái đó tùy anh, nhưng anh đã bàn với chị ấy chưa? Nếu anh tự thiêu, trước hết là khổ vợ con anh, sau thiệt thân anh, rồi mới đến cháy nhà tôi - anh nên suy nghĩ kỹ!". Thế rồi từ hôm đó vợ con tôi cứ lo ngay ngáy, mỗi khi có khách đến gõ cửa, lại giật mình. Nhưng rồi qua một tuần, lại một tuần... đồng chí này cũng không quay trở lại. Sau đó chừng ba, bốn tháng tôi tình cờ có dịp gặp lại đồng chí trong một đám cưới. Chúng tôi bắt tay nhau vui vẻ, hỏi chuyện gia đình, nhưng không nhắc gì đến chuyện nhà cửa nữa. Ra về Quyết định số 897-TTg của Thủ tướng Chính phủ để tôi được nghỉ hưu theo chế độ kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1997. Tôi vô cùng phấn khởi, thoải mái và tự hào. Thế là vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống của ngành công tác cán bộ, tôi kết thúc trọn vẹn nửa thế kỷ phục vụ quân đội của mình. Thấm thoát mới ngày nào từ một chiến sĩ liên lạc Vệ quốc đoàn (Quân đội quốc gia Việt Nam), mới ngày nào còn là một đại úy non trẻ, bước chân vào công tác ở Cục Cán bộ, không bao giờ nghĩ đến mình sẽ là cấp nọ, chức kia... thế mà đến hôm nay đã trở thành một sĩ quan của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, bách chiến bách thắng! Ôn lại lịch sử ngành, trong tâm trí mình, không thể không nhớ đến tất cả những gì đã trở thành bài học quý giá, không thể không nhớ đến các đồng chí thủ trưởng cấp trên qua các thời kỳ và cũng không thể quên các đồng chí đồng nghiệp trong Cục Cán bộ đã đi trước và hiện nay đã bồi dưỡng, xây dựng, giúp đỡ tôi trưởng thành và làm tròn nhiệm vụ trên cương vị chức trách được giao. Quy luật tự nhiên "tre già măng mọc". Tôi rất phấn khởi được về nghỉ khi mình hoàn thành nhiệm vụ, nhưng đồng thời cũng pha trộn những bịn rịn, lưu luyến với một tập thể, nơi đã gắn bó mấy chục năm qua, đó là Cục Cán bộ. Tuy số lượng không đông lắm, nhưng cục thường là một trong những tập thể vững mạnh trong cơ quan Tổng cục Chính trị; một tập thể đoàn kết, gắn bó, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, sống với nhau thủy chung tình nghĩa. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi người mỗi nết, từ nhân viên hành chính, phục vụ, đến cán bộ nghiên cứu ở các lứa tuổi khác nhau, mỗi người một cá tính, nhưng đều thống nhất một mục tiêu "Rèn luyện phấn đấu giữ gìn phẩm chất và phong cách của người làm công tác cán bộ", thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Dân gian ta có câu "một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen" huống chi mấy chục năm gắn bó, khó khăn vất vả, vui buồn có nhau. Hình ảnh của từng đồng chí sẽ lắng đọng mãi mãi trong tôi. Hết! |